BA GIAI ĐOẠN TU TẬP - NƯƠNG VÀO THÂN HÀNH ĐỂ XẢ TÂM
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời lượng: [25:28]
Tên cũ: Chánh niệm tỉnh giác-Định niệm hơi thở-Ptử TrảngBàng
https://thuvienchonnhu.net/audios/ba-giai-doan-tu-tap-nuong-vao-than-hanh-de-xa-tam.mp3
https://thuvienchonnhu.net/phap-am/ba-giai-doan-tu-tap-nuong-vao-than-hanh-de-xa-tam
(00:00) Trưởng lão: Để trả lời cái phần mà của con hỏi về vấn đề đi kinh hành, mà lại cái tâm nó lại tập trung ở trong bước đi và cái hơi thở. Bởi vì từ lâu tới giờ chắc có lẽ là con đã tập nó quen rồi, cho nên khi đó nó theo cái hơi thở chậm của con mà nó bước đi chậm.
Con tập như bình thường, con đừng có chú ý ở trong hơi thở của con, mà con cũng đừng có chú ý ở bước chân của con. Con nói đi là con cứ đi, đi bình thường thôi. Con đi như là con quét sân, cũng như là con đi cái công việc gì vậy, chứ con đừng có nghĩ rằng con đi là con tập trung nữa. Bởi vì bây giờ hễ con đi là con gom lại, tức là nó gom lại bước chân thì nó gom lại hơi thở, cho nên con xả, cái đó thành thói quen rồi.
Với mục đích cái sự tu tập là để cái tâm của mình nó phóng khởi những cái niệm, rồi từ đó mình mới triển khai cái sự hiểu biết của mình trên cái niệm đó, để mình biết nó cái Dục Lậu, Hữu Lậu, Vô Minh Lậu hay hoặc là nó niệm nhân quả, hoặc là nó nằm ở trong cái thức, kiết sử hay là Ngũ triền cái, để cho mình rõ được tất cả cái niệm đó, mình hiểu được những cái niệm đó, mình không có dính mắc vào ở trong cái niệm đó.
Như vậy, hàng ngày mình mới tu tập để theo cái niệm khởi ra mà mình tu tập, chứ không phải là mình chỉ biết có tỉnh thức không. Cho nên cái tỉnh thức không nó chỉ là vấn đề phụ, mà chính cái niệm để triển khai cái trí tuệ của mình, mà gọi là tri kiến giải thoát đó. Nó là cái vấn đề quan trọng cho cuộc đời tu hành của mình.
Bởi vì, đạo Phật mang cái danh là đạo trí tuệ, mà mình không chịu triển khai trí tuệ, mà mình cứ ức chế để hoàn toàn mình chỉ biết có đi hoặc thở không, thì nó không có nghĩa lý.
Cho nên ở đây người ta, vốn người ta sống độc cư là để làm gì? Là để người ta quá cô đơn. Mà khi mà quá cô đơn, thì tâm chúng ta mới tuôn trào. Mà khi mỗi một tâm niệm tuôn trào, thì chúng ta có sự tư duy, quán sét cái tâm niệm đó, để chúng ta làm chủ được từng cái tâm niệm đó, và từ cái sự tư duy quán xét đó, nó tạo cho chúng ta có cái trí tuệ, và cái trí tuệ đó nó giúp cho chúng ta tâm nó được an ổn, ly dục, ly ác pháp.
Nếu mà chúng ta không có trí tuệ, thì chúng ta không có ly dục, ly ác pháp được. Mà bây giờ chúng ta nghĩ rằng chúng ta ức chế lại tâm mình không có cái niệm khởi thì mình sẽ thanh tịnh, sự thật nó không thanh tịnh mà nó bị ức chế tâm. Cho nên cái sự tu tập, như con về đây con tu tập, thì Thầy mới thấy đây là cái hành động mà đi chậm như vậy đó là sai, không có đúng. Con hiểu không?
(02:35) Vì vậy mà con lại bị kẹt ở trong cái hơi thở, vừa đi lại vừa thở, rồi biết thở nữa. Cái tâm mà nó tập trung trong hai cái phần của cơ thể của mình, một hành động nội, một hành động ngoại, nó làm cho cái ức chế tâm mình rất nhiều.
Vì vậy, cho nên, nếu phần nhiều ấy mà cái người dạy chúng ta đi kinh hành, mà đi rất chậm, để cố gắng tập trung từng cái bước đi, từng cái hành động của mình, thì nhiều khi mình quá ức chế.
Cho nên, trong kinh mà đức Phật dạy chúng ta định niệm hơi thở, tức là xuất tức - nhập tức, thì đức Phật dạy chúng ta “Thở ra tôi biết tôi thở ra, thở vô tôi biết tôi thở vô”. Nhưng trong lúc đó, chỉ khi nó vừa biết thở ra, thở vô thì quán ly tham, quán ly sân, quán ly si. Chứ ông Phật ông ấy đâu có dạy chúng ta hoàn toàn chỉ biết có hơi thở không đâu, mà ông kèm theo cho chúng ta ly tham, sân, si.
Khi mà đọc đến cái lời kinh như thế này, chúng ta mới hiểu rõ ràng là đức Phật muốn dạy chúng ta triển khai cái trí tuệ, để cái trí tuệ đó nó hiểu biết, để mà nó xả được cái tâm của nó.
Cho nên, khi mà chúng ta ngồi mà lại chúng ta nhiếp trong hơi thở, thì chúng ta sẽ có những cái niệm khởi lên. Những cái niệm khởi lên đó, nó giúp cho chúng ta có cái sự tư duy, suy nghĩ về cái niệm đó. Do đó chúng ta có những cái tri kiến, cái sự hiểu biết. Cái sự hiểu biết đó nó giúp chúng ta xả cái tâm, ly cái tâm của chúng ta. Cho nên vì vậy mà chúng ta tu đúng, thì chúng ta thấy cuộc sống của mình nó an ổn, không có một cái ác pháp, một cái gì nó làm cho tâm mình động. Còn mình tu không đúng thì cái tâm của mình nó sẽ dễ bị động và dễ bị ức chế và nó rơi vào trạng thái tu sai.
Cho nên, nhiều khi chúng ta không hiểu Phật pháp, mà chúng ta hiểu lầm lạc, thì chúng ta rất là nguy hiểm.
Trong cái bài kinh “Thân hành niệm” thì đức Phật dạy chúng ta theo cái hành động nội và ngoại mà chúng ta tu tập.
Thì cái hành động nội và cái hành động ngoại đó nó giúp cho chúng ta tỉnh thức mà thôi, để rồi chúng ta mới quan sát được từng cái niệm của chúng ta, chứ không phải chúng ta bắt buộc ức chế các niệm của chúng ta, không cho nó khởi niệm nào hết, thì như vậy là chúng ta sai.
(05:00) Hôm nay, thì con cố gắng con sửa lại, ngày mai thì Thầy cũng chịu khó Thầy kiểm lại. Con đi nhanh hơn một chút, đừng có đi chậm.
Và vì vậy mà khi đi nhanh hơn một chút đó, Thầy không bảo là quá nhanh, mà đi nhanh hơn cái độ đi kinh hành của con hiện giờ, để cho cái tâm con nó rất tự nhiên. Và nó có khởi những cái niệm thì con mới tư duy quán xét cái niệm đó, nó giúp cho cái tri kiến. Tức là cái trí tuệ của con nó phát triển, Nó phát triển thì con sẽ xả được tâm. Con ly dục, ly ác pháp.
Đó là cách thức tu tập, như vậy nó mới có kết quả và nó mới có những cái hiệu quả tốt. Còn đi chậm quá thì nó không tốt đâu.
Cho nên nghe lời Thầy tập, thì một ngày nào đó con sẽ thấy cái trí tuệ của con rất nhẹ nhàng. Và đồng thời cho nên chúng ta tu tập, chúng ta rất sợ, là khi cứ lặng lẽ biết có một đối tượng, một hành động của nó, chúng ta rất sợ là vì lầm lạc ở trong cái định tưởng. Cho nên phần nhiều là đức Phật dạy chúng ta phải tác ý ra, tác ý theo cái hơi thở ra.
Thí dụ: Mình nương hơi thở, mình tác ý “Tôi biết hơi thở, tôi đang biết hơi thở”, để cho mình không có lặng lẽ mà biết cái hơi thở, mà còn có cái ý trí của mình trên hơi thở. Cho nên vì vậy mà luôn luôn nó có sự tác ý ra, để giúp cho cái ý thức của chúng ta luôn luôn ở trong cái sự chủ động, ý thức không bị mất ý thức.
Do như vậy mà chúng ta thấy cái sự tu tập của chúng ta nó mới có kết quả, nó có cái tốt được.
Hôm nay thực hành thì mấy con ngồi tốt rồi, nhưng mà có cái điều kiện là về vấn đề mà tập trung trong cái hơi thở của mấy con thì mấy con nhớ kỹ, thì Thầy nhắc lại một lần nữa, là khi chúng ta thở 5 hơi thở, đứng dậy đi kinh hành, rồi chúng ta đi kinh hành một vòng, chúng ta ngồi lại. Nhưng đến khi chúng ta tu đến 30 phút, vừa đi vừa ngồi, thì chúng ta thấy cái thời gian mà 30 phút vừa đi vừa ngồi mà chúng ta thấy không có một cái tạp niệm nào xen vô, tức là không có cái niệm nào xen vô trong khi đi, khi ngồi. Như vậy là chúng ta thôi không tu pháp này nữa.
Nghĩa là chúng ta tu khoảng 1 tuần hay là 2 tuần. Cao lắm là 1 tháng, chúng ta đã thực hiện được ở trong cái pháp mà 5 hơi thở, đi kinh hành 1 vòng. Do đó sau khi chúng ta thấy không có niệm vọng tưởng xen vào ở trong cái khoảng thời gian 30 phút mà chúng ta vừa 5 hơi thở, vừa đi kinh hành không có vọng tưởng, thì chúng ta xả nó, chúng ta không tu. Nhưng mà khi nào mà có bị hôn trầm thì chúng ta dùng nó, chúng ta phá hôn trầm, mà không có thì thôi.
(07:30) Trưởng lão: Bây giờ, chúng ta tiếp tục chúng ta tu về định niệm hơi thở, là *chúng ta ngồi suốt thời gian 30 phút đó đó, là chúng ta chỉ duy nhất có một cái hơi thở chúng ta mà thôi*. Nhưng mà không phải trong đó chúng ta chỉ biết thở không, mà chúng ta còn tác ý.
Đây là tới cái giai đoạn thứ hai của Định Niệm hơi thở. Cái giai đoạn thứ hai là chúng ta ngồi, chúng ta thở 5 hơi thở, chúng ta tác ý 1 lần. Ví dụ như chúng ta tác ý, lấy một cái câu đó mà chúng ta tác ý. Ví dụ như “Tâm như đất, không có tham, sân si nữa, thì các con dùng cái hơi thở mà nhắc tâm như đất hay hoặc là các con nhắc “Tâm ly dục, ly ác pháp đi, nhập sơ thiền, phải biết hơi thở ra, hơi thở vô”.
Đó là cách thức các con dùng cái hơi thở mà suốt cái thời gian ngồi 30 phút, ngồi hoàn toàn 30 phút. Nếu mà bây giờ mấy con ngồi chỉ có 10 phút, các con lưu ý là khi ngồi có 10 phút mà bị tê chân, nhức chân, thì ngay đó 30 phút các con ngồi không suốt được thì các con sẽ ngồi 10p hay là 5p tùy theo cái tư thế ngồi mà các con ngồi nó an được bao lâu, thì các con sẽ ngồi tới đó. Mà có chướng ngại pháp thì các con xả ngay liền.
Khi xả ngay liền các con đi kinh hành, nhưng không được tập trung ở trong kinh hành, vì lúc bây giờ các con đang tu ở cái hơi thở. Vì vậy mà vừa đi, nhưng mà biết hơi thở, chứ không biết kinh hành. Coi như là mình đang ngồi để mình thở, chứ không phải đang đi để mà biết kinh hành nữa.
(09:16) Ở đây là mình tu Định Niệm Hơi Thở. Cho nên khi mà cái chân đau không còn ngồi được nữa, thì đứng dậy, vẫn tập trung trong hơi thở, vẫn biết hơi thở, đếm 5 hơi thở hay là 10 hơi thở, rồi tác ý 1 lần tác ý ra “Tâm ly dục, ly ác pháp đi, nhập sơ thiền, tôi biết tôi đang thở”. Rồi bắt đầu thở năm hơi thở, hay là 10 hơi thở lại nhắc một lần nữa “Tâm ly dục, ly ác pháp, nhập sơ thiền, tôi biết tôi đang thở”.
Các con cứ nhắc như vậy, thì tức là các con tu cho đến đúng 30 phút. Nghĩa là thay vì các con ngồi được thì các con ngồi 30 phút. Mà giờ ngồi nó đau chân, nó tê. Do đó các con cũng đi, nhưng mà cũng tập trung trong hơi thở, để nhắc tâm mình, các con hiểu điều đó.
Cho nên tương đối là chúng ta sẽ tu hoàn toàn trên cái hành động ngồi, trên cái oai nghi ngồi hoặc là đi, vẫn là ở trên hơi thở, chứ không phải là ở trên hành động đi. Đó là giai đoạn 2 của Định Niệm hơi thở.
Và đồng thời lúc bấy giờ các con sẽ tuần tự, các con sẽ ngồi tập nhiều ở các tư thế ngồi. Ngồi xếp bằng, kiết già hoặc bán già, hoặc các con ngồi trên ghế cũng vẫn nương vào hơi thở, vẫn tu tập được, vẫn tốt chứ không có sao. Nhưng mà khi bất kỳ, khi buồn ngủ, khi mà có hôn trầm thì ngay đó 5 hơi thở, đứng dậy đi kinh hành liền 5 hơi thở, đi kinh hành 20 bước, ngồi lại 5 hơi thở, đứng dậy đi kinh hành. Đó là cái mục đích, cái pháp mà chúng ta đã luyện tập ban đầu để chúng ta phá hôn trầm. Chứ không phải cái pháp này để dẫn cho chúng ta đi vào cái chỗ mà xả tâm ly dục, ly ác pháp. *Mà chính cái hơi thở mà bây giờ chúng ta tu giai đoạn 2 là chính nương tựa, nương vào hơi thở để triển khai cái tâm của chúng ta hoàn toàn để ly dục, ly ác pháp*. Cho nên thường nhắc tâm ly dục, ly ác pháp.
(11:08) Bây giờ đến cái giai đoạn thứ 3. Đó là cái giai đoạn thứ 2 rồi. Bây giờ đến cái giai đoạn thứ 3 là các con ngồi tu. Ngồi tu mà luôn luôn tâm định trên hơi thở, là giai đoạn thứ 3. Tức là cái giai đoạn mà tu Tứ Niệm Xứ như Thầy đã nói. Ngồi mà quán sát thân, thọ, tâm, pháp của mình, thì lúc bấy giờ đó, thì luôn luôn lúc nào cái thân, thọ, tâm, pháp nó an ôn, thì cái thân nó sẽ định trên hơi thở, nó biết hơi thở. Đó là giai đoạn thứ 3, nó luôn luôn nó biết hơi thở, mà không tập trung, tự nó, nó biết hơi thở, mà không tập trung, tự nó, nó biết hơi thở. Do đó thì lúc bấy giờ chúng ta cứ quan sát thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta, rồi thấy nó an ổn, thì ngay đó cái tâm nó biết hơi thở. Còn nếu mà nó phóng giật, nó hoàn toàn nó lôi ra ngoài, nó nghĩ cái chuyện này, hay hoặc là nó chuyền ở trên pháp khác, nó riêng ra ngoài, nó phóng ra, thì kêu gọi cái tâm trở lại. Tâm định trên hơi thở, không được phóng giật, không được ra ngoài. Đó là cái giai đoạn thứ 3.
Cho nên giai đoạn thứ 3 thì các con ngồi đi, đứng, đều là tu ở trên Tứ Niệm Xứ toàn bộ.
Còn về phần đi kinh hành, ở cái giai đoạn thứ hai, về phần đi kinh hành, thì các con đi suốt 30 phút, đi trong khi đó đi rất là tự nhiên, không có đi quá chậm, mà cũng không có đi quá nhanh, đi vừa với khả năng, đi như người vô sự.
(12:39) Thì trong lúc đó các con bình thường thì thân, tâm các con hoàn toàn, cái tâm các con chú ý vào bước chân đi và đồng thời các con không có cố gắng mà ức chế nó, hoàn toàn tập trung trong bước chân đi, mà đi biết một cách rất nhẹ nhàng. Vì vậy mà niệm vọng tưởng dễ khởi. Cái niệm nó sẽ sinh ra. Và mỗi khi cái niệm sinh ra, thì chúng ta đem cái niệm đó mà mổ xẻ nó, tư duy, quán sát nó, để rồi chúng ta triển khai cái tri kiến của chúng ta.
Trong khi các Con con nhớ, khi mà đi kinh hành mà triển khai được cái tri kiến giải thoát. Đó là một cái điều kiện để mà chúng ta thực hiện và đồng thời khi mà chúng ta tu Định Niệm Hơi Thở, đi kinh hành. Tức là Chánh Niệm Tỉnh Giác định, thì lúc bấy giờ chúng ta có cái thời gian chúng ta ngồi nghỉ.
Ngồi nghỉ thì chúng ta cũng không phải cố gắng để cho đừng có vọng tưởng, mà chúng ta ngồi nghỉ để cho nó có vọng tưởng, nó có những cái niệm nó khởi. Mà khi mà có niệm khởi, thì chúng ta quán xét cái niệm đó, để triển khai thêm cái tri kiến giải thoát của mình. Điều đó là điều tốt, chứ không có sao hết. Cho nên, tu tất cả mọi cái sự tu tập của mình, nó đều giúp cho mình có được những cái tri kiến giải thoát. Nó làm cho mình được giải thoát hoàn toàn.
Như vậy thì trên cái bước đường tu, bây giờ các con nhớ kỹ. Đầu tiên hiện giờ các con đang tập một cái pháp đó là 5 hơi thở, đi kinh hành một vòng, và đồng thời trên bước đi, đi rất bình thường, tự nhiên, đếm đúng 20 bước, thì chúng ta lại ngồi lại. Đó là cái pháp đầu tiên.
Cái pháp thứ hai là tu ở trên cái hơi thở, nhưng luôn luôn không có đi kinh hành, mà ngồi suốt 30 phút hoặc là 10 phút, tùy theo khả năng, hoặc là đi kinh hành, cũng đều ở trên hơi thở. Nhưng cứ khoảng năm hay mười hơi thở phải tác ý một lần, theo mình trạch pháp. Tức là mình chọn lấy một cái câu pháp hướng nào cho phù hợp với mình như “Tâm như đất, không có tham, sân, si”. Hoặc là “Tâm ly dục ly ác pháp”, hoặc là quán ly tham, quán ly sân. Tùy theo cái mình tác ý ra cho phù hợp với cái đặc tướng của mình, thì để cho mình thực hiện cho được kết quả tốt đẹp của nó.
(15:08) Như vậy sự tu tập của mình nó mới có kết quả, chứ nếu mình tu tập nó không đúng, thì nó sẽ không kết quả.
Vậy thì hôm nay mình tu tập cái gì? Trong 1 tuần lễ hay một tháng này mình tu tập cái định niệm hơi thở, 5 hơi thở đi kinh hành một vòng, thì tháng sau mình không có tu tập cái pháp này nữa, mà mình tu tập cái pháp Định Niệm Hơi Thở, suốt 30 phút, dù là đi, dù là ngồi. Ngồi trên ghế, ngồi xếp bằng, ngồi cách thức nào cũng được hết. Nhưng mà vẫn luôn luôn ở trong hơi thở và tác ý ra. Đó nhớ như vậy.
Cái phần thứ ba của cái pháp hơi thở này là cái pháp Tứ Niệm Xứ quan sát trên Tứ Niệm Xứ mà tâm định trên hơi thở, nhớ như vậy thì chúng ta sử dụng được ba cái pháp niệm và luôn luôn lúc nào trong giờ nào, phút nào mà nếu có niệm thì chúng ta dùng Định Vô Lậu để quán xét, để tư duy quán xét để mà xả, để mà ly, để mà diệt các cái pháp ác đang ở trong tâm của chúng ta, đang làm cho tâm chúng ta không có yên ổn, nó đang bất động.
Do cái sự tu tập như vậy thì chắc chắn là sẽ có kết quả nhiều và không bị lạc vào thiền tưởng và nó không bị ức chế tâm chút nào cả. Nhớ kỹ mà tu tập, thì Thầy thấy kết quả rất tốt.
Bây giờ con còn hỏi thêm Thầy gì nữa không? Về tập trở lại kỹ những cái điều Thầy đã dạy.
Phật tử: … đấy là trong lúc ngồi, con đi kinh hành như vậy thì có quan sát được không?
Trưởng lão: Cũng quan sát được. Và vì vậy khi mà tu tập như vậy thì chúng ta thấy cái kết quả rất tốt, là vì chúng ta đã từng quan sát ở trên đó. Cho nên không có một cái pháp, một cái niệm làm ô nhiễm 4 cái chỗ này được. Vì vậy mà bốn cái chỗ này nó rất là thanh tịnh gọi là Tứ Niệm Xứ, chứ không phải ngồi ở trên tứ niệm xứ mà quán cái này, quán cái kia hay quán cái nọ gọi là tu Tứ Niệm Xứ.
Tu Tứ Niệm Xứ chỉ quét những cái chướng ngại ở trên bốn cái chỗ này mà thôi. Cho nên có thì chúng ta mới tư duy quán xét mà đuổi đi, nhưng nó có cái phần thô và phần tế.
Cái phần thô thì nó thuộc về Tứ Chánh Cần, ngăn ác, diệt ác ở trên Tứ Niệm Xứ.
Còn cái phần vi tế chúng ta chỉ cần tác ý thôi, chứ chúng ta không quan sát nữa, để cho cái thân tâm chúng ta nhanh chóng và thanh tịnh, nó không có bị động nhiều.
(17:30) Còn khi mà tu tập theo Tứ Chánh Cần trên Tứ Niệm Xứ thì chúng ta mới quan sát rất nhiều. Và quan sát rất nhiều như vậy thì tư duy quan sát nó để mà thấu suốt được cái niệm, được cái chướng ngại ở trên thân thọ tâm pháp của nó, thì nó làm chúng ta rất động. Nhưng vì cái pháp Tứ Chánh Cần nó giúp chúng ta động để mà chúng ta triển khai được cái tri kiến giải thoát.
Còn đến Tứ Niệm Xứ thì nó không cần triển khai cái tri kiến giải thoát nữa, mà nó chỉ cần quét cho thân, thọ, tâm, pháp của nó rất thanh tịnh, không có bị động nữa, và luôn luôn đi vào cái trạng thái tịnh mà xả tâm chứ không phải tịnh mà ức chế tâm.
Thì lưu ý cái phần tu tập Tứ Niệm Xứ cho nó rõ ràng.
Phật tử: Thì trong cái giai đoạn con tu ấy
Tứ Chánh Cần trên Tứ Niệm Xứ chứ không phải Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ.
Cái giai đoạn tu Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ là khi nào cái tâm chúng ta đã quét sạch hết những cái thô, nó không còn phải quán, không còn phải tu duy nữa. Lúc bấy giờ chúng ta tu Tứ Niệm Xứ nó mới có viên mãn được.
Còn nếu hiện giờ mà tu Tứ Niệm Xứ thì nó còn bị cái niệm thô, buộc lòng chúng ta phải quán tư duy, suy nghĩ thì nó làm động ở trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta. Như vậy nó cũng chưa được tịnh, mặc dù chúng ta quán xét để đẩy lui các chướng ngại pháp trên đó, nhưng vẫn còn thô. Cho nên nó không thanh tịnh.
Còn trái lại, tu Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ thì chúng ta chỉ cần thấy một cái niệm đó, thì ngay đó chúng ta có được cái tri kiến giải thoát. Và mỗi niệm khởi ra chúng ta đều thấy được liền tức khắc, thấy nó dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu hoặc là triền cái, hoặc là thất kiết sử.
Thí dụ thấy một cái niệm đó mà nó thuộc về cái tình cảm, thương nhớ của mình với cha mẹ nhớ lại ông và của mình ngày xưa đã để lại cái công ơn gì đó, bỗng nhiên nó nhớ lại cái niệm như vậy thì chúng ta nói: “Đây là thất kiết sử đi đi”. Do đó chúng ta chỉ tác ý câu “Thất kiết sử đi đi”. Bởi vì chúng ta đã thấy nó, biết nó là thất kiết sử ngay liền. Do đó chúng ta tác ý đuổi liền. Vì vậy mà thân thọ tâm pháp chúng ta mau tránh thanh tịnh và trở lại tâm, trở lại trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự của thân thọ tâm pháp.
(19:50) Đó! Biết cách tu như vậy gọi là tu Tứ Niệm Xứ. Còn mình ngay bây giờ mình chưa có diệt những cái, mình nhìn chưa ra được cái niệm thì mình biết tác ý nó sao cho nhanh được?
Do đó mình phải quán xét, tư duy coi cái niệm đó nó thuộc về dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu hay kiết sử gì? Vậy mình còn đang truy tìm, kiếm cái niệm đó để biết được cái niệm đó, nó thuộc về cái loại nào, thì do cái sự tư duy, suy nghĩ như vậy, thì mình còn tu Tứ Niệm Xứ ở trên Tứ Chánh Cần hay là tu Tứ Chánh Cần trên Tứ Niệm Xứ.
Đó thì con hiểu như vậy thì mới biết rằng cái vai trò và cái giai đoạn mà tu tập của con ở trong cái pháp nào. Nắm được mình biết mình tu cái pháp đó thì nó mới có hiệu quả, chớ không phải trong giai đoạn này mà các con tu Tứ Niệm Xứ được.
Bây giờ các con còn hỏi thêm gì Thầy nữa không?
Bây giờ con ngồi tu Tứ Chánh Cần, mà cái thân của con nó không có an lạc, nó bị đau nhức chỗ này, chỗ kia. Đó là con đã thấy đây là cái nhân quả của đời trước mình đã tạo những pháp ác. Cho nên bây giờ mình mang cái thân của mình, thay vì người ta sao không đau bệnh như thế này, thì do đó con thấy rằng mình là bị cái nhân quả.
Vậy cái tâm bất động, đừng có sợ, mình phải vui vẻ, mình trả nhân quả, đừng có lo lắng. Vậy thì cái thọ có lúc có, lúc không. Cái nhân quả thì khi cái quả đến thì mình phải chịu, mà cái quả đi thì mình lại hết. Từ đây về sau mình không có tạo cái nhân ác nữa, mình không có làm điều ác nữa. Do vì vậy cái quả này đến, mình vui vẻ, mình không có sợ hãi trước cái đau nhức đó, để cho cái tâm mình nó an ổn. Cái thọ nó vẫn còn, chưa thể hết và đồng thời mình dùng cái tâm lực của mình để tác ý “Cái thọ là vô thường, hãy rời khỏi thân ta để cho ta được yên ổn tu tập”. Đó là cái thứ nhất.
Cái thứ hai, con phải tìm những thuốc thang mà uống, đây là cái phước hữu lậu. Do đó bây giờ về cái bệnh mà đau nhức cái tay hay là đau nhức trong thân mình, thì mình tìm các loại thuốc uống, để cho giảm. Vì cái năng lực, tâm lực của mình, mình chưa có định. Cho nên tuy rằng mình hướng tâm mình nhắc, để cho cái tâm mình nó an ổn, nó không có sợ cái thọ đau đớn đó, để cho nó vững vàng, để mình tiến tu mà mình thấy mình không có chùn bước trên con đường tu tập của mình. Vì vậy mình hướng tâm, mình nhắc nhở mình, để cho cái tâm mình an ổn. Đồng thời mình biết năng lực cái tâm mình chưa đủ, thì mình lên tìm thuốc thang mình uống, cho nó giảm cơn đau, để cho nó yên ổn, để cho mình tu tập cho nó dễ.
(22:30) Chừng nào mà cái năng lực của mình đủ cái sức định mình có. Vì vậy mà cho nên khi mà cái thọ nó đến như vậy đó, thì mình sẽ đuổi đi rất dễ và mình cứ nhắc một câu pháp hướng, là nó đã lui liền tức khắc. Mình nhắc: “Cái thọ là vô thường, hãy rời khỏi thân ta đi, ta nguyện rất định sống thiện pháp, để chuyển toàn bộ ác pháp. Và đồng thời những cái nhân quả từ nhiều kiếp ta sẽ chuyển hết. Vậy thì cái thọ phải rời khỏi thân ta, không được ở đây nữa”.
Do như vậy mà lúc bấy giờ chúng ta hướng tâm như vậy, thì tâm chúng ta nó không còn dao động. Do đó chúng ta tập trung vào cái chỗ an tịnh, cái tâm thanh thản, an lạc của chúng ta. Và vì vậy thì cái hơi thở của chúng ta lúc bây giờ tâm sẽ định trên đó.
Do tâm mà bám chặt định trên hơi thở, thì lúc bấy giờ cái cảm thọ của chúng ta không thấy đau nữa. Còn nếu mà tâm chúng ta chưa có bám chặt trên hơi thở, thì tức là chúng ta còn cảm thấy đau, chứ còn khi mà nó bám chặt, thì cái thân chúng ta không thấy đau nhức nữa.
Do vậy, con nên cố gắng tu tập để rồi có gặp trường hợp thân nó già yếu thì nó sẽ đau nhức chỗ này nó đau nhức chỗ kia, nó làm rất là khổ sở.
Nhưng mà điều kiện thứ nhất là hướng tâm để bảo vệ cái tâm nó đừng có sợ trước cái đau. Cái thứ hai là dùng pháp hướng đẩy lui cái thọ. Cái thứ ba là tập trung cái tâm vào một cái nơi khác của cái thọ, thì cái thọ nó sẽ không còn cảm giác đau nữa. Tức là chúng ta sẽ chuyển cái đau khổ đó, chuyển cái quả đó nó sẽ không còn đau.
Cố gắng mà tu tập, có thọ thì luôn luôn lúc nào cũng phải nỗ lực tu tập để mà đuổi cái thọ.
Thí dụ như chẳng hạn là bây giờ con bị nhức đầu, thì lúc nào con ngồi tu, con cũng đều tác ý về cái phần thọ của con là “Cái nhức đầu phải lui, không có được đau nhức cái đầu nữa. Từ nay về sau phải hết”. Mặc dù nó không hết, nhưng tâm con vẫn an ổn rằng cái năng lực của con sẽ đẩy lui được nó. Và đồng thời con yên tâm con tu, thì con mới nhiếp tâm được. Tâm con không có phóng giật ngay chỗ thọ của con thì con sẽ hết đau.
Con còn hỏi Thầy gì thêm nữa không?
Phật tử: Dạ thưa Thầy tỉ dụ như là con đang ngồi thì nó đau?
À trong khi mà con ngồi bị đau, thì con xả, con đứng dậy con đi kinh hành, mà nó hết đau. Còn nếu bây giờ con đang ngồi mà nó đau cái nhức đầu hay đau bụng, thì con cũng xả ra con đi lấy thuốc uống hoặc là, chứ còn con không có đủ sức mà con ngồi con chịu đau để mà vượt qua, không phải đâu, chịu đau để vượt qua là cái vô minh, cái ngu si. Nó không có xả được đâu, mà nó làm cho chúng ta khổ sở thêm.
Vì vậy khi bị đau, thí dụ khi đang ngồi Thiền mà nó bị đau bụng, thì chúng ta xả Thiền ra chúng ta tìm thuốc đau bụng uống đi mặc dù là chúng ta có hướng tâm đẻ mà thực hiện nó nhưng mà khi mà uống thuốc vô rồi ấy thì chúng ta cũng hướng tâm …
HẾT BĂNG
CHƯ ÁC MẠC TÁC - CHÚNG THIỆN PHỤNG HÀNH
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
(00:00) Trưởng lão: Hôm nay Thầy dạy mấy con cách thức thực hành. Bởi vì cái thực hành của con đường mà tu theo đạo Phật thì nó không giống như cái lối từ lâu tới bây giờ mà từ nào tới giờ mình tu. Tại vì mấy con không có lưu ý, như cái bài kệ của Phật dạy, thì đức Phật nói:
Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành.
Tự tịnh kỳ ý.
Các con thấy không? Nghe cái câu nói đó rất rõ: “Các pháp ác không nên làm, nên làm các pháp thiện, tự cái tâm nó thanh tịnh”. “Tự tịnh kỳ ý” là tự nó nó thanh tịnh, tức là mình không làm điều ác thì nó thanh tịnh.
Vậy thì trong lúc mình tu thì mình như thế nào, thường thường mình sai cái lỗi là mình cứ tập trung. Thí dụ mình nói: “tôi đi tôi biết tôi đi” hoặc “tôi ngồi tôi biết tôi ngồi”, nhưng mà mình cứ tập trung trong cái đi - ngồi; mình không có tập trung, nhưng mà tại vì cái tâm mình lúc bây giờ nó khởi cái niệm ác thì mình dừng đi thì nó còn lại toàn cái niệm thiện.
Vậy cái niệm thiện là cái niệm gì? Hiện bây giờ cái tâm của mình nó khởi ra cái niệm gì nó cũng niệm ác hết à. Các con không hiểu. Cho nên khi mình đi nó tự nhiên chứ đừng có tập trung. Nhưng mà khi nó tự nhiên thì nó tự tịnh kỳ ý mà, tự nó thanh tịnh, cho nên khi mình đi mình biết nó đi chứ không có tập trung. Các con thấy không, ngay đó là mình thấy nó giải thoát rồi. Mà cái tư tưởng gì mà nó khởi trong đầu là nó là cái ác pháp. Nó không muốn cái này thì nó cũng cái kia, cũng lo lắng cái nọ thì nó là ác pháp.
Cho nên “chư ác mạc tác” - các pháp ác không nên làm, các con nghe hiểu câu nói đó rồi phải không? Bởi vì nếu các con cứ tập trung, các con cứ ngồi, bây giờ cứ ngồi thi biết hơi thở ra vô, mình ngồi nhưng mà mình lắng, mình ngồi đó một cách tự nhiên, chứ đừng có tập trung trong cái hơi thở. Mà có cái niệm nào mà nó khởi ra, nó ham muốn này kia hoặc là nó suy tư cái này cái nọ cái kia, hoặc là nó khởi lên cái niệm ác. Toàn bộ cái niệm nó đều ác hết, bởi vì cái tâm của mình là cái tâm ác rồi. Nó ở trong cái nhân quả thì tức là nó có, bây giờ mình khởi nghĩ mình nói mình thương, thương thì tại sao mình khổ, khổ là ác chứ. Rồi mình khởi lo, lo nó cũng là ác pháp chứ gì. Phải không? Mình lo. Ví dụ như Minh Tâm con về đây phải không. Bây giờ nó khởi lên cái niệm nó nhớ nhà: không biết mấy đứa nhỏ như thế nào, mình quên cái đó, không biết nó có để ý không hoặc này kia thì cái lo đó nó cũng làm cho cái tâm của mình trở chướng ngại, chướng ngại là ác pháp. Con hiểu chưa?
(02:24) Cho nên vì vậy mình dừng ngay đó thì cái tâm nó thanh thản, nó thanh thản là nó ở trong thiện pháp, mà thiện pháp thì tự tịnh kỳ ý. Thanh tịnh cái ý rồi, thì lúc bây giờ cái tâm của mình nó sẽ ở chỗ nào? Nó sẽ ở trên hơi thở. Bởi vì cái động dụng của cái thân của chúng ta là cái hơi thở. Cho nên vì vậy mình ngồi, cái thân nó ngồi yên lặng ở trên ghế như vậy, nó không có nhúc nhích gì hết. Cái tâm của mình nó thanh tịnh thì tức là nó sẽ ở trong cái hơi thở, ở trong cái động của thân. Các con hiểu chỗ đó chưa? Cho nên ví dụ như bây giờ mình đi, mình làm mà mình không khởi niệm gì hết, thì lúc bấy giờ nó ở đâu, nó ở trong cái hành động mình đang làm nè, phải không? Cho nên ngay đó là mình thấy, mà nếu mà mình sống như vậy đó thì mình có tu tập gì đâu.
Bây giờ Thầy làm, Thầy biết Thầy làm vậy thôi chứ cũng chẳng lưu ý cái chuyện làm, nhưng mà tại cái tâm nó biết cái việc làm. Còn mình mình tập trung mình chú ý, ráng để biết cho mình làm thì tức là bị ức chế rồi. Con hiểu chưa? Cho nên ngay đó là mình thấy nó có sự giải thoát liền. Còn mình cố gắng mình tập trung: ví dụ như mình đi kinh hành, mình tập trung để biết đi kinh hành thì nó sai. Bởi vì do ức chế, ức chế cái tâm của mình, cố gắng mà gom tâm tập trung, đừng để cho nó quên đi, thì lúc bấy giờ mình tu thời gian sao nó mệt nhọc quá, sáng tới chiều mà tập trung như vậy kiểu nó nghe nó lừ đừ, nghe nó bết. Còn trái lại mình kệ nó, mình không có cần tập trung, nhưng mà mình lắng cái tâm của mình, mình coi cái tâm của mình coi có niệm gì không? Nó không niệm thì kệ tự nhiên nó, nó vô sự thì để tự nhiên vậy đó.
Cho nên thấy nó an ổn mà nó thảnh thơi nó giải thoát thật sự, nó rõ ràng lắm. Bởi vì cái đó là cái thực hành của đạo Phật. Cho nên đức Phật nói, đạo của ta đến thì sẽ thấy. Thấy, chứng nghiệm liền cái sự giải thoát liền. Nếu mà tu đúng thì thấy giải thoát, còn không con tu mà con tập trung chừng một buổi tới buổi chiều là thấy bết rồi, rồi nó buồn ngủ. Các con hiểu chưa? Bởi vì mình cố gắng mình dụng công để mình tập trung thì nó phải buồn ngủ. Còn đằng này ta có tập trung gì đâu, người ta cũng sống tự nhiên bình thường. Nhưng mà cái niệm nào ác làm cho người ta (khổ) thì người ta đuổi nó đi. Người ta nói: “Không được, mày là ác pháp, không được, đừng có suy nghĩ gì hết”. Trở về thanh thản đi, thì bắt đầu bây giờ nó về thanh thản. Lúc bây giờ nó tự động nó nó ở trong cái hoạt động của thân. Cho nên gọi là: “Thân hành niệm”. Vì vậy mà Thầy thấy hầu hết là người ta dạy thiền, như ở bên Nam Tông họ dạy: “đi phải biết từ cái nhón gót lên rồi để bàn chân xuống”, đó là cách thức tập trung rồi, sai rồi, không có đúng. Ông Phật ổng nói: “Thân hành niệm”, mình biết thân mình làm cái này, làm cái kia cái nọ mà một cách tự nhiên, chứ không được tập trung, mà tập trung là sai, là ức chế cái tâm của mình. Cho nên mình tu mình thấy nó khoẻ lắm, bởi Thầy nói sao mà Thầy dễ quá còn quý thầy sao khó quá, tại vì quý thầy không hiểu mà cứ tập trung, bởi vì mình tu ở trong cái hành động.
(05:08) Như bây giờ mình ngồi hít thở, đâu có nghĩa là mình tập trung hơi thở? Phật đã dạy rõ ràng mà, Định tư cụ là Tứ Chánh cần: “Các pháp ác không cho sanh, mà hễ sanh thì cố diệt”. Thì ngay mà nó không sanh thì tâm mình nó ở chỗ nào? Không phải ở chỗ hơi thở còn ở chỗ nào nữa. Nó phải ở trong cái hành động của thân thôi chứ nó không có chạy ở đâu được hết. Mà nếu bây giờ mà nó có sanh ra thì phải diệt nó, diệt nó tức là có cái niệm nào nó khởi lên thì mình mới quán tư duy, tức là Định Vô lậu rồi, phải không? Mình xả nó đi, mình xả nó đi rồi thì nó không có niệm nữa, nó không niệm nữa thì ở trong thiện pháp rồi, cái tâm thanh thản của mình là thiện pháp. Các con thấy chưa?
Cho nên hiện giờ Thầy nói thật sự mình cứ xét cái tâm của mình hiện bây giờ cứ mỗi một cái lo lắng suy tư, một cái niệm nào đó thì mình cứ xem nó là ác pháp chứ không phải thiện pháp được. Cho nên nó làm sao tự tịnh kỳ ý được, làm sao cái ý của mình nó thanh tịnh được. Cho nên do đó mình ngăn ác và diệt ác, vì vậy mà cái tâm nó sẽ trở về với vị trí của nó là hơi thở; hoặc là mình đi mình biết mình đi, mình đứng mình biết mình đứng. Hiểu như vậy là Thầy nói tu nó rất nhẹ nhàng, thoải mái, không có tập trung ở trong cái hành động đi đứng nằm ngồi, mà chỉ giữ gìn cái tâm của mình nó khởi niệm. Bây giờ nó khởi niệm này, nó khởi niệm kia. Coi chừng nó khởi niệm mà trong khi mình ức chế nó nó sẽ bung ra, nó khởi niệm này kia nó luận rồi cái bắt đầu nó phá cái độc cư. Còn con tu con thấy ngày nào cũng thấy nó thanh thản nhẹ nhàng, con thích sống một mình lắm. Trời ơi, nó như vậy thôi không có ai làm động, còn có người khác nó làm động cái mình mất niệm, mình mất cái chánh niệm của mình, tức là cái niệm thiện của mình mất, bị người ta nói cái thì chuyện này chuyện kia bắt đầu nó duyên ra rồi. Nó duyên theo cái niệm thành ra nó chạy theo cái niệm đó. Cái niệm của họ nói đâu có phải người ta chửi mắng mình, nhưng mà người ta nói chuyện đời - hễ nói cái chuyện đời là cái ác pháp ở trong đó thôi, nó lôi mình trong cái ham muốn, vui thích chuyện này kia rồi nó làm mình mất tập trung.
Các con thấy cái sự thực hành nó rất dễ chứ nó không phải khó, nhưng mà có điều kiện mình hiểu lầm; mình hiểu lầm rồi mình tu sai; mình tu sai rồi thời gian nó bị ức chế rồi nó bung ra; nó bung ra nó phá độc cư nó làm cho mình không có ép buộc nó ở trong cái độc cư được. Tức là buộc gì cũng không được mà mình khép nó buộc, buộc cho cuối cùng rồi thì tới chừng nó bị ức chế quá thì nó phải hưng phấn, mà nó bung ra nó hưng phấn thì kể như là mình điên, còn mình không điên thì mình nói bậy bạ, mình nói như là mình thánh thần vậy. Bị vì ức chế nó quá. Còn cái này mình không ức chế. Mỗi cái niệm thiện niệm ác mình thấy cái niệm như vậy là không đúng. Mày là ác pháp, mày đem đến tâm ta không thanh tịnh thanh thản. Vì vậy xả mày ra, không được theo nữa, thì nó cứ có niệm nó khởi hoài mình cứ đuổi hoài. Ngồi chơi cũng vậy, đi kinh hành cũng vậy, ngồi hơi thở cũng vậy. Đừng có ngồi mà hít thở một hai ba bốn, tập trung cho dữ tợn đừng có vọng tưởng, mà hết vọng tưởng thì mình mừng, nhưng mà sự thật nó không đi tới đâu được hết.
Con lưu ý, thật sự ra Thầy kiểm tra vợ con tu hành, nó ngồi không vọng tưởng nó ngồi được nhưng mà có cái điều kiện là thật sự ra bây giờ xả tâm thì xả chưa có được. Có xả đâu phải không, nhưng mà cái tâm nó vi tế không có hết, nó còn bận tâm, cho nên coi vậy chứ nó không có tới. Còn bây giờ nó xả rồi, cũng như bây giờ con về đây con tập con xả, luôn trong năm ngày nè. Con tập con tu mà con thấy nó thoải mái không buồn ngủ không có gì hết, nghe nó sướng quá, nghe nó giải thoát thật sự mình không có bận tâm. Bởi vì đức Phật nói cái đời sống của người tu sĩ, các con cứ xét đi, cái đời sống mà tu sĩ như bây giờ con về đây thì coi như đời sống tu sĩ - ngày ăn một bữa rồi, không còn lo cơm nước, không còn lo quần lo áo, tất cả mọi cái không còn lo gì hết, hoàn toàn là mình không lo gì nữa hết. Thì cái thứ nhất là tui thấy không còn lo đời sống là giải thoát rồi. Cho nên đức Phật nói tới giờ ta đi xin ăn, tới đó người ta cho gì mình ăn nấy, không có đòi hỏi gì hết, thì như thế là giải thoát rồi, đâu còn bận tâm cái ăn. Con hiểu chưa? Cho nên đó, cái đời sống người ta giải thoát rồi và đồng thời người ta chấp nhận cái đời sống như vậy là giải thoát. Bởi vì mình suy nghĩ mình giải thoát rõ ràng lắm. Bây giờ con về đây con dẹp hết tất cả mọi cái bỏ hết, cũng như bây giờ Chơn Trí con về đây con bỏ hết không còn cơ sở gì hết hoàn toàn ở đây tu hành, mình cứ nghiệm thấy hằng ngày mình giải thoát cái gì đây, sẽ thấy giải thoát hoàn toàn. Bởi vì cái giải thoát nó rõ ràng và cụ thể lắm, nhưng mà mình cứ mình tiếp duyên ra ngoài thì mình không giải thoát, mà mình không tiếp duyên ra ngoài là giải thoát.
(09:30) Ví dụ bây giờ mình xét, tâm nó khởi niệm thì không có cho nó dính mắc cái niệm lo lắng cái này kia nhớ anh nhớ em, nhớ mẹ, nhớ con nhớ cái, nhớ tất cả mọi cái không có cho nó nhớ nữa, mình đã tu rồi mình không có nhớ ai nữa hết, phải không? Thì bắt đầu từ đó nó có cái niệm gì, tất cả những cái nhớ thương này đều là mình biết nó là pháp ác, nó làm cho tâm mình khổ, nó làm cho tâm mình dính mắc, nó làm cho tâm mình bị thất kiết sử, ngũ triền cái, nó làm cho tâm mình thế này thế kia thì làm sao cho nó thanh tịnh được? Cho nên mình hiểu như vậy rồi thì bắt đầu bây giờ mình cứ ngồi chơi, đi cũng chơi, không tập trung không gom, không gì hết và hoàn toàn đi như người vô sự, nhưng mà tự nhiên nó biết cái đi. Thầy nói tự nhiên nó biết cái đi, các con cứ lưu ý thử coi, nhưng mà các con sống chừng một ngày ba ngày con thấy nó quen rồi tự nhiên nó vậy, rồi bao nhiêu pháp ác nó không có nữa thì lúc bấy giờ cũng là sống trong pháp thiện thì lúc bấy giờ phải thấy được cái trạng thái thanh thản vô sự đàng hoàng.
Mà các con sống như vậy trong vòng ba tháng Thầy nói thật sự các con sẽ có đủ đạo lực đó. Bởi vì “tự tịnh kỳ ý” cái tâm thanh tịnh rồi thì các con nó có cái đạo lực của nó, các con ra lệnh nó làm, còn cái tâm mình không thanh tịnh là tại vì cái lớp bụi đời, cái lớp bụi, cái lớp mà ác pháp nó phủ hết rồi, còn cái thiện pháp nó không có, bởi vì đức Phật lấy thiện pháp mà đi vào cái chỗ tu, chớ không phải dừng cái niệm thiện niệm ác. Bởi vì không có cho cái niệm nào, bởi vì cái niệm nó khởi lên một cái niệm mà bây giờ mình biết cái tâm của mình nó chưa thiện thì cái niệm đó phải ác thôi, các con hiểu không? Còn tâm của mình mà nó toàn thiện thì nó khởi niệm thì niệm đó là niệm thiện chứ làm sao là niệm ác được.
Cũng như bây giờ Thầy hoàn toàn rồi, tâm Thầy khởi niệm gì thì nó không có nằm trong cái ngã của nó. Còn khi mà các con còn, bây giờ các con nói các con không ngã nhưng sự thật ra thì mình đang bị phủ một cái lớp ác pháp nè, cái ngã nó mang theo, hễ cái ác pháp thì nó mang theo với cái ngã của nó. Cho nên cái niệm nào coi vậy chứ, mình nói bây giờ mình nghĩ là bây giờ mình sẽ làm việc từ thiện đi, cái việc từ thiện đó chưa hẳn là thiện, bởi vì nó nuôi cái bản ngã, nó làm đó là “danh”. Hoặc là vì cái chuyện gì ở cuộc sống mà cái ngã của nó mà nó làm cái việc thiện này để bảo vệ cái ngã của nó. Cũng như bây giờ nhà nước kêu gọi cái gì đó mình làm việc từ thiện thì tức là cái việc mà làm từ thiện này trong cái người của mình nó chưa hoàn toàn là thanh tịnh thì nó mang theo cái ngã. Nếu mà mình không làm cái này thì mình làm ăn không được, hay làm cho Nhà nước được lòng đã, còn coi cả mình thì ngay đó nó phải nuôi cái ngã của nó. Thầy đem một cái ví dụ như vậy để các con thấy, trên cái sự tu tập.
(12:08) Cho nên hàng ngày mà chúng ta biết được chúng ta không tập trung, không gom tâm, bởi vì từ xưa giờ Thầy thấy họ tu là tu sai hết rồi, tu cứ tập trung, cho nên tu hoài mà tu không được. Muốn mà tu cho được thì lúc bây giờ (…), cho nên mình tu mà coi như là không có tu, mà tu thật sự, tu ở trong cái tâm niệm, mỗi cái niệm của mình. Ví dụ như trời sáng ra quét sân, quét sân thì mình cũng không có tập trung ở trong cái sự quét sân, nhưng mà tập trung ở trong cái tâm coi nó có nghĩ gì không, nó quét nó cứ quét, nó quét kệ nó, quét nó làm gì nó làm mà hễ nó có một cái niệm gì thì mau mau dừng nó, còn nếu mà nó không niệm thì thôi, còn mình ức chế quá cũng không được. Cho nên thấy nó thoải mái. Rồi sự suy tư, suy tư của mình, mình nói như vậy là rõ ràng có giải thoát, không còn bận tâm, không còn lo lắng, không còn nghĩ ngợi lung tung gì hết. Thật sự ra nếu mà mình quyết tu giải thoát thì coi như là không có vướng bận gì nữa hết thì hoàn toàn thời gian sau mình làm chủ cái sự sống chết của mình liền tức khắc, nó không có lâu. Còn mình cứ ức chế nó thì khi đó nó không vọng tưởng thì thôi chứ xả ra thì có vọng tưởng liền.
Ví dụ con ức chế, con xả ra thì con phải lo lắng cái này cái kia nọ. Còn khi mà con tu như vậy, cái tu trong cái thời gian tu cũng như thời gian không tu nó y như nhau, tự cái tâm nó nó vậy, bởi vì nó thanh tịnh rồi. Còn mình tu, ví dụ như bây giờ hồi giờ mình tu, mình ráng mình tập trung đi kinh hành trong cái giờ mình tu, chừng mình xả ra nó lại nghĩ ngợi bậy bạ. Mình thấy như vậy tu hoài mà sao tâm nó không hết vọng tưởng kỳ vậy. Thật sự ra đó là cái tu sai của mình, cho nên các con lưu ý cái phần tu, bởi vì Thầy nói với Mật Hạnh, mình ăn mà mình ngồi đây mình ăn mình thấy ăn ngon mình cũng biết ngon, cái ngọt cái đắng cái dở cái gì mình cũng biết chứ, nhưng mà có điều kiện là trong niệm của mình coi có còn muốn không? Không còn muốn thì được thôi, chứ cần gì phải đi tìm nó làm chi. Mình cứ ngồi ăn một cách tự nhiên vui vẻ bình thường không có gì hết. Thật sự ra mình thấy giải thoát thật sự, không có bận tâm trong cái vấn đề ăn uống gì hết, không có lo lắng cái gì hết. Đó là cái tu của mình đó, tu ở trong những cái ăn uống, rồi tu trong cái đi kinh hành, tu trong cái quét cái dọn, tu trong cái nhổ cỏ, mình làm mình biết thì tất cả những cái này nó sẽ giúp cho chúng ta thanh thản an lạc. Thầy nói duy nhất làm sao mà giữ được cái tâm của mình là nó thanh thản thôi, lôi nó trở về thanh thản thôi, đừng có trụ cái này, đừng có trụ cái kia, nó cứ thanh thản là được, nó vô sự. Cho nên cái chữ mà “vô sự” của Thầy: Thanh thản, an lạc, vô sự - ba cái danh từ này Thầy thường hay nhắc tới nhắc lui là cái chỗ mà chúng ta tu. Cho nên bây giờ các con về các con thực hiện, đừng có tập trung. Ví dụ như bây giờ mình ngồi để cho mình tu tập trung hơi thở thì mình cũng ngồi với cái dạng thanh thản của nó, chứ không tập trung trong hơi thở, ngồi chơi. Ví dụ như bây giờ Thầy ngồi như thế này thì tâm ý của Thầy nó đang lấn quấn ở đâu kệ nó Thầy không biết, nhưng mà nó đừng nghĩ gì thì được, mà nó nghĩ thì Thầy suy tư, quán xả. Đó là “ngăn ác và diệt ác”. Có hai cái pháp này cứ liên tục mà chúng ta sống thôi, sống cho đến khi mà “tự tịnh kỳ ý”, tâm hoàn toàn nó thanh tịnh, luôn luôn nó ở trong mọi hành động trong thân của chúng ta thì lúc bấy giờ nó là tự tịnh kỳ ý rồi.
(15:25) Cho nên ngay cái bài kệ mà đức Phật nhắc nhở cho mình tu là thực hiện được Tứ Chánh Cần. Bài kệ:
Chư ác mạc tác.
Chúng thiện phụng hành.
Tự tịnh kỳ ý.
Thì đó là ba cái câu kệ này để giúp cho chúng ta biết được cái cách thức cho chúng ta tu tập.
Cho nên có một vị Thiền sư, Thầy nhắc lại có một vị Thiền sư tên là Ô Sào thiền sư, ngài làm trên cái chảng ba của cái cây, ngài làm một cái thất ở trên đó, rồi ngài trèo lên đó ngài ngồi thiền. Thì ở trong đó ở cái khu vực đó có một vị quan huyện ở đó, thì ông ta nghe cái vị tu sĩ trèo trên cây mà làm cái thất ở trên đó mà ngồi thiền vậy đó thì ông ta mới đến thăm. Ông thăm thì ông đứng dưới gốc cây ông nhìn lên thì ông kia ngồi thiền ở trên đó, ông vị quan đó ổng mới nói: “Thầy sao mà ngồi thiền cách ở trên cao như vậy, nguy hiểm quá vậy?”. Thì ông ta nói: “Chỗ của tui chưa nguy hiểm bằng chỗ của ông”. Thì ông quan huyện này ổng giật mình, bởi vì nói rất đúng, dù ông ngồi nó nguy hiểm như vậy, nhưng không nguy hiểm bằng cái quan chức của ông ở trên cái địa vị của ông. Cho nên ông nghe ông giật mình ông mới hỏi: “bạch Thầy vậy chớ mình tu theo Phật pháp thì mình tu cái gì?” Thì vị thiền sư đó mới nói: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý”. Thì ông quan ông nói: “đó là trẻ con người ta cũng biết nữa mà ông còn nói cái chuyện đó làm chi?” Thì ông ta mới nói như thế này: “Trẻ con còn biết, nhưng mà lão già 80 chưa làm được”.
Cái hiểu như vậy thì chúng ta thấy ông này nói hay quá, nhưng mà sự thật không phải hay, ông ta không hiểu chỗ cái câu kệ của Phật. Nghĩa là ông nghĩ rằng “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” là rất khó, cho nên 80 tuổi chưa thực hiện được. Không phải. Thầy nói một giây tâm Thầy thanh thản - an lạc - vô sự là nó đã thực hiện được cái chỗ đó rồi, chứ đâu phải không, chứ đâu phải đợi 80 tuổi đâu. Cho nên vì vậy khi mà chúng ta hiểu biết nó rồi thì trong một giây thì nó đã thiện pháp rồi, tức là ở trong một cái giây Thầy tu hành là ngay đó Thầy đã thực hiện được chứ đâu phải đợi ông già 80 tuổi mà làm chưa được. Ngay đó Thầy làm trong từng phút từng giây được mà. Cho nên vị thiền sư này không hiểu. Thầy nói thật sự đem cái câu chuyện này ra để thấy rằng vị thiền sư này không hiểu được Phật pháp. Còn cái hiểu của Phật pháp, bởi vì đức Phật nói “Pháp của Ta đến để mà thấy”, nghĩa là đến chúng ta tu hành để mà thấy liền, không có thời gian. Con thấy rõ bởi vì đến khi mà mình thực hiện thì thấy giải thoát rồi. Bởi vì trong đầu óc này nó thanh thản vô sự mà an lạc, an lạc tức là hỷ lạc đó, nó làm cho chúng ta an ổn, không có còn bận tâm, không có, thân chúng ta không còn có bận bịu một cái chuyện gì hết. Nó không phải đem cái sức của chúng ta mà làm cái này cái kia cho nặng nề, cho nên cái thân nó vô không bằng thành nó lạc. Còn cái tâm nó vô sự, cho nên nó cũng an ổn, nó không nghĩ cái niệm này cái niệm kia niệm khác, phải làm cái này cái kia, nó thấy còn phải trách nhiệm cho cái này cái kia, không phải đâu. Hoàn toàn nó xả hết rồi.
(18:35) Đó là những cái mà chúng ta tu hành. Vì vậy mà cái người mà không hiểu như vị thiền sư Ô Sào thiền sư đó, ngài không hiểu được cái lời của Phật, ngài tưởng đó là cái câu nói rất khó làm. Nó cô đọng ở trong cái bài kinh Pháp cú như vậy, lời ngắn gọn vậy, nhưng thật sự ra nó làm được chứ không phải không làm được. Nó làm được bằng cách chúng ta thấy đúng và ngay đó chúng ta thấy kết quả có liền. Bởi vì Thầy nói rồi, khi mà các con tu mà các con bị hôn trầm là các con đã tu sai. Các con tu mà nghe nó mệt nhọc bết bát quá là sai. Người ta tu sao người ta thoải mái người ta dễ chịu quá vậy. Bởi vì đời người ta không còn lo lắng một cái gì hết, người ta không còn sợ đói sợ gì, người ta không còn sợ con cái, không còn gì hết. Cho nên vì vậy mà người ta giải thoát rồi. Đó là ngay đó là chúng ta đã thấy. Mà bây giờ cái tâm của mình nó đã là tu rồi thì tức là bao nhiêu cái chuyện đời nó dẹp ra hết rồi thì nó đâu còn là ác pháp, mà không còn ác pháp thì nó là vô sự. Còn bây giờ mình đã tu rồi mà chuyện này lo, chuyện kia lo như vậy là tu thì tu làm sao? Các con hiểu, đã lo là ác pháp chứ sao. Rồi tính cái chuyện này, tính cái chuyện kia, tính cái chuyện nọ. Trời ơi, ở đời mình hết có giao thiệp với mọi người rồi, cắt đứt hết rồi, ly gia cắt ái hết rồi, cắt đứt hết không còn nghĩ cái này kia, không còn đi đám cưới không còn đi đám ma. Còn cái này mình tu rồi mà còn nghĩ đám cưới đám ma này kia hoặc là đi thăm bệnh thăm này kia nữa thì cái chuyện đó là cái chuyện chuyện đời thôi chứ đâu có phải là chuyện tu nữa. Các con thấy không? Cho nên mình không có lo bạn bè này bạn bè kia, không có lo hoàn toàn, tất cả cái đầu óc nó vô sự, nó trống rỗng, cho nên như vậy nó mới thanh tịnh được cái tâm của mình.
Đó, Thầy nói như thế này, bởi vì Thầy nói rất khó là tại vì chúng ta hiện bây giờ mà chúng ta giữ được cái tâm tu hành đúng pháp vậy đó, thời gian nó làm cho cái tâm của chúng ta nó rất sạch. Tại sao? Tại vì từ khi mà chúng ta sanh ra đời thì chúng ta mang theo với một cái nghiệp, cái nghiệp tức là cái thói quen của chúng ta, lớn lên tự nhiên cái nghiệp đó nó phát triển theo cái tâm, cái bản năng, cái khả năng, cái đặc tướng của mình, cái khả năng riêng của mình, mình ham muốn cái gì đó thì nó hướng theo cái đó nó đi theo một hướng của nó. Cho nên nó đã sẵn một cái tờ giấy của chúng ta là cái tờ giấy đã nhuộm đen rồi, người nào cũng vậy, nhưng bây giờ nó đen chứ nó chưa có đen luôn, rồi lúc bấy giờ chúng ta mới tô thêm, cho nên cái tờ giấy đã đen rồi mà cứ tô thêm, tô hoài tô thêm, rồi bây giờ bắt đầu bảo làm sao cho nó sạch.
(20:57) Cũng như Thầy, từ nhỏ tới lớn Thầy tu hành Thầy không nhiễm. Thí dụ Thầy không nhiễm về cái này cái nọ cái kia, Thầy không nhiễm về phụ nữ, Thầy không nhiễm về tất cả hết, bây giờ hỏi Thầy Thầy có biết gì đâu, phải không, các con hiểu không? Như vậy là cái tờ giấy Thầy nó trắng, mặc dù đời trước Thầy có nhuộm nó mờ nó đen rồi, đời nay Thầy không tô thêm nữa, cho nên nó không đen, từ đó Thầy cố gắng Thầy lại xoá đi cái màng đen ở trong này. Cho nên hàng ngày Thầy giữ cái tâm của Thầy, cho nên vì vậy mà cái tâm Thầy càng ngày nó càng trong sạch ra. Nó trong sạch tức là cái tờ giấy mà nó nhuộm đen này nó bắt đầu nó sạch ra. Còn các con thì nhiễm thêm, nhiễm thêm bây giờ cái tờ giấy nó thâm, nó thâm đen rồi, nó thâm đen hơn Thầy. Bởi vì Thầy sanh ra tám chín tuổi Thầy đi tu rồi, cho nên Thầy không có nhiễm, cà phê thuốc lá rượu chè cái gì Thầy cũng không nhiễm, phụ nữ cái gì cũng không nhiễm hết. Cho nên bây giờ từ cái chỗ mà cái nghiệp của Thầy nó là cái tờ giấy, nó có màu lam lam ở trong đó rồi. Bây giờ Thầy cố gắng Thầy cứ ngày ngày Thầy cứ giữ tâm mình thì cái tờ giấy này bắt đầu nó sạch lần lần, trắng lại hết, còn mấy con thì cứ nhiễm thêm, ăn uống cái này cái kia. Bởi vì Thầy nói ăn rồi, bây giờ các con nghĩ như thế này nè, hôm đó tôi có ăn cái gì đó nó ngon quá, bây giờ mặc dù là không ăn, nhưng mà hồi tưởng nhớ lại thì nó cũng có nhớ cái đó. Có không? Mà có nhớ thì tức là nó dính ở trong cái này rồi, nó dính ở trong cái tâm của các con rồi, cho nên bây giờ các con mà nỗ lực thực hiện cho đúng cách thì nó lần lần nó sẽ xoá mờ hết tất cả những cái này hết. Chừng đó, không biết hồi đó không biết mình ăn cái gì. Cũng bây giờ Thầy nói thật sự hồi còn nhỏ mới sanh ra cha mẹ cũng cho mình ăn thịt cá chứ đâu phải không, chứ đâu phải mình thánh thiện liền, nhưng mà cái thời gian mình đi tu cho tới bây giờ ăn chay rồi không biết ăn thịt heo là nó ra sao nữa, phải không? Không biết cái miếng thịt bò và cái miếng thịt heo nó khác làm sao mình cũng không hiểu nữa. Cái đầu nó quên như vậy đó, thì nó quên như vậy tức là nó trắng trong cái đầu mình rồi chứ gì? Cái tâm nó trắng rồi, cho nên nó không biết cái đó là cái gì. Còn bây giờ nói đến miếng thịt bò các con biết miếng thịt bò nó sao không các con biết, mà miếng thịt heo nó sao mà miếng thịt gà nó sao các con biết. Còn như Thầy bây giờ, bởi vì mình không có ăn, thành ra mình chẳng biết nó ra làm sao hết, các con hiểu điều đó không?
Cho nên do cái chỗ tu của chúng ta nó làm thời gian sau nó cứ…, bây giờ nó khởi ra cái miếng thịt heo thì mình nói cái này là ác pháp, cái này là cái đau khổ của chúng sanh mày phải dẹp, chừng đó nó không huân thêm nữa, thì từ đó lần lượt nó cứ mờ mờ dần đến năm năm mười năm sau bắt đầu nó sạch hết. Thầy nói sạch hết là nó thanh tịnh chứ gì, mà nó thanh tịnh thì tức là thành công rồi chứ gì đâu còn cái gì nữa, các con muốn hồi nào thì nó làm hồi nấy chứ gì? Còn bây giờ cái tâm của các con nó đen thui, Thầy nói thực sự nó đen như cái bàn này mà bảo nó bay thì làm sao nó bay được trời ơi. Thầy nói thật sự nó đâu phải đơn giản, nó đâu có dễ, phải không, các con hiểu không? Mà các con cứ huân thêm huân vô, trời ơi cái bàn này nó đã đen mà bây giờ còn tô thêm nữa thì Thầy nói hết chỗ nói rồi còn gì? Biết chừng nào mà cạo cho sạch ra được. Cho nên chúng ta tu hành chúng ta biết là chúng ta, làm sao cho cái bàn này nó trắng trở lại chứ đừng có để cho nó đen nữa. Còn bắt đầu mình cứ sơn lên lớp này, cứ sơn lên lớp kia lớp hoài thì cái bàn này cạo lớp này ra rồi tới lớp khác, bây giờ nó đóng một lớp dày như vậy cạo biết chừng nào cho rồi. Cho nên hằng ngày mà các con nỗ lực các con thực hiện thì các con sẽ cạo cái lớp sơn này, lớp này tới lớp khác, cạo hoài cạo riết cho nó hoàn toàn sạch bóng ra, chừng đó các con hỏi đó, không biết sao mà nói nữa. Bây giờ đâu có biết gì đâu?
(24:20) Đó, Thầy nói ở đây như Chính Trực, như Mật Hạnh, không có biết về phụ nữ cái gì hết, giờ hỏi phụ nữ biết cái gì đâu mà nói. Thầy nói thật sự, đâu có biết gì đâu, cho nên nó còn trắng, đừng có nhiễm nó, mà nhiễm nó rồi thì ông nội trời đất ơi lột cái lớp da này đâu có được dễ đâu, cái màng đen tối này đâu có dễ đâu? Cho nên vì vậy chúng ta tu hành mà được sớm là quý lắm rồi, chúng ta dễ hơn cái người mà mới tu, còn cái người mà nhiễm đời rồi tu (khó). Như bây giờ Minh Tâm khó tu chứ không phải dễ đâu, tu phải nhiều gấp đôi mấy lần mấy con, còn mấy con tu đúng. Còn mấy con tu sai là mấy con tập trung cứ ức chế cái tâm của mình đâu có xả, mà không xả thì không có được. Bởi vì Thầy nói ly dục ly ác pháp xả tâm Tứ Chánh cần ngăn ác diệt ác, có bây nhiêu vậy thôi. Chúng ta ngồi chơi thanh thản, đời mình giải thoát rồi, bỏ hết rồi không còn gì nữa hết rồi, không còn nghĩ gì nữa hết thì đó là giải thoát.
Cách thức chúng ta thấy rất rõ, thấy mình giải thoát rất rõ trong từ cái ăn, từ cái ngủ, từ những cái vật chất, từ cái gì bỏ sạch hết, không có cái gì mà tốt đẹp với mình nữa hết, không có một cái gì đời này mà quý báu nữa hết, chỉ còn một cái chỗ tâm thanh thản, an lạc và vô sự này thôi, chúng ta sẽ chấp nhận nó và chúng ta sẽ thực hiện được nó đến cuối cùng. Không có khó khăn, Thầy nói không có khó khăn, sống ngồi chơi vậy cũng được, đi cũng được, đi tới đi lui hoặc này kia nọ. Mà tu như vậy Thầy nói không bao giờ bị hôn trầm, còn chúng ta ngồi mà ức chế tâm coi thử coi, ngồi mà ghìm cho nó đừng có vọng tưởng nó bị hôn trầm, mà khi nó hết hôn trầm rồi thì nó đứt chừng ở chỗ đó, nó không tiến vô mà nó tiến vô thì nó tiến vào những cái ác pháp. Bằng chứng như Minh Tông, con thấy từ cái chỗ mà nó tiến vô, tới đó nó bị pháp tưởng rồi bắt đầu nó kiến giải nó nói này nói kia nó nói tùm lum hết. Cho nên đến khi mà nó gặp bạn bè nó nói đến khan cổ rồi cũng còn thích nói nữa, nó bị lạc vào pháp rồi.
Cho nên do cái chỗ mà lạc vào pháp đó mà cứ nghĩ tưởng là mình sẽ thực hiện thần thông, cho nên ức chế để cho nó tịnh chỉ hơi thở để mà thực hiện thần thông. Không ngờ ức chế nín thở, nín thở thì trong lúc mình ở cái trạng thái định tưởng thì cảm giác như là mình nín thở, nhưng sự thật ra nó chưa hẳn nín đâu, nhưng mà mình cố gắng mình ức chế nó thì mình nín thở chứ gì, mình thở chậm chứ gì, mình thở cho rất chậm chứ gì, thở cho nhẹ chứ gì, nhưng mà không ngờ ở trong những cái mạch máu trong phổi của mình nó bị đứt đi, do đó vi trùng nó mới tác động vào nó ăn những cái vết thương ở trong phổi của mình thì nó mới thành ra bệnh phổi chứ, chứ làm gì ở đây tu hành mà bệnh phổi, các con thấy rất rõ mà. Đó chỉ trừ ra khi nào mà chúng ta đã bị bệnh phổi sẵn rồi do đó mà chúng ta tu sai thì nó mới đi đến, còn bây giờ chúng ta bị bệnh phổi mà chúng ta tu đúng, tu đúng vẫn hết bệnh phổi, nó vẫn loại trừ ra vi trùng phổi. Vậy tại sao vi trùng phổi mà nó loại ra được?
(27:04) Thầy qua kinh nghiệm Thầy Thầy biết rất rõ ràng. Thầy là con người…, ngày xưa Thầy đi dạy học Thầy bị bệnh phổi, rồi trong khi đó Thầy tu hành, sau khi Thầy tu hành xong rồi Thầy hoàn toàn làm chủ được rồi cho nên Thầy không sợ bệnh phổi nữa rồi. Cho nên đến ngày cuối cùng Thầy thải trừ tất cả các vi trùng, mặc dù người ta tìm cái vi trùng đó không ra là tại vì mình có uống thuốc, con vi trùng nó đề kháng nó khó mà có thể nói rằng người ta tìm ra được, do đó khi mà bệnh của mình nó trở lại nó phát hiện như vậy, thì tức là mình lao động mình làm việc tất cả mọi cái thì cơ thể mình nó phải suy yếu, nó phải phát triển, nó không sức đề kháng rồi con vi trùng bắt đầu nó phản kháng nó phát bệnh mình ra, do cái sức khoẻ của mình không đủ cái sức đề kháng của nó, do đó bệnh mình nó phải tái phát. Vì vậy mà mình sử dụng cái sức tu tập của mình để cho cái sức cơ thể của mình nó đủ cái sức đề kháng lại thì con vi trùng nó không phát triển được, do vì vậy nó bị tiêu diệt. Mình tạo thêm cái nội lực thân của mình, mà trong cái sự thanh tịnh tâm của mình thì cái nội lực nó vẫn có, còn tâm của mình lăng xăng thì cái nội lực thân của mình nó suy yếu, nhất là cái tuổi già thì không có đủ cái sức đề kháng.
Cho nên ở đây các con thấy tu nó rất nhẹ nhàng, rất là dễ dàng qua những cái điều kiện mà Thầy đã thực hiện ở đây trong cái sự thật, trường hợp xảy ra sự thật chứ không tạo bằng cách giả tạo được, bằng cách sự thật nó đưa đến những nhân quả nó như vậy. Sử dụng cái tu hành của mình để làm chủ được cái nhân quả của nó bằng cách rất là chủ động. Do cái sự tu tập đúng cách và nó nhẹ nhàng nó thanh thản nó vô sự thì lúc bấy giờ các con sẽ thấy rất là hạnh phúc. Nghĩa là một ngày qua là các con thấy sung sướng quá, mình giải thoát hoàn toàn, rồi giờ này qua mình thấy như vậy mình giải thoát hoàn toàn. Nhìn lại những người xung quanh sao họ khổ quá vậy. Các con sẽ xét thấy, thí dụ như Minh Tâm con về đây này, trong năm ngày ở đây con tu hành con sẽ nhìn lại gia đình con mọi người quá cực, quá khổ, họ không thấy được cái sự giải thoát, mà mình được giải thoát. Nó không còn nghĩ cái này nghĩ ngợi cái kia cái nọ được, vì tất cả những cái nghĩ đều đã bị mình xả nó ra, đó là những ác pháp.
Đó, như vậy là hôm nay, Thầy nhắc để cho các con thấy được cái chỗ tu hành của mình rồi mình về mình thực hành cho đúng. Chứ còn mình thực hành mà mình tu theo cái kiểu mà như từ lâu tới giờ thì hiểu mà mình tập trung như vậy là rất nguy hiểm. Và nó sẽ không đi đến đâu và nó đưa mình đến bị hôn trầm, lừ đừ, bết, mệt nhọc, hễ càng nổ lực tu chừng nào thì các con lại bị mệt nhọc chừng đấy. Người ta tu càng tu thấy càng khỏe, cơ thể sức khỏe người ta thấy tăng lên chứ.
Nói chung là tại vì Thầy phải làm việc quá nhiều, các con biết Thầy phải soạn thảo, Thầy phải viết lách, đầu óc Thầy làm việc liên tục, nhiều khi trong đầu Thầy làm cái bộ sách này rồi trong khi tắt điện Thầy lại suy nghĩ một cái chuyện khác. Thay vì mình tập trung vào một cái sự việc nào đó mình làm thì cái đó nó dễ, đằng này Thầy làm những cái việc nó nhiều chuyện ở trong đầu. Bây giờ Thầy dạy về những cái giới đức, tức là những cái giới hạnh mà Thầy giảng về cái giới hạnh, rồi bắt đầu bây giờ Thầy phải trả lời cho những người ta hỏi những câu hỏi cách thức tu như thế này, làm như một cái đầu óc của Thầy mà làm hai công việc. Bởi vì khi mà suy nghĩ cái chuyện trả lời người ta hỏi những cái thắc mắc này, người ta đâu hỏi nhằm cái chỗ này, phải chi họ hỏi đúng cái chỗ này mình trả lời thì nó phải xuôn thôi, còn cái này người ta hỏi về cái chuyện gia đình người ta xảy ra, hoặc là chuyện mê tín gì đủ thứ hết, đằng này mình chỉ nói phải cái đức hạnh đó, phải cung kính là cái đức hạnh gì, mà cái vệ sinh là cái đức hạnh như thế nào, hoặc là trên cái con đường lưu thông này kia, cái luật lệ giao thông nó thuộc về đức hạnh gì để dạy người ta thuộc về đức hạnh, bắt đầu đầu óc nó phải suy tư về cái hướng đức hạnh này. Bây giờ phải trả lời về cái chuyện mê tín dị đoan đủ thứ hết, thì một cái đầu nó phải làm hai cái thứ chuyện. Như vậy là Thầy rất nặng nhọc, một cái đầu óc mà làm hai chuyện chứ không phải làm một chuyện.
(31:06) Bây giờ ví dụ Thầy đặt thành Thầy là một nhà tiểu thuyết, Thầy viết một chuyện tiểu thuyết nào đó, xây dựng cái nhân vật rồi do đó Thầy bố cục như thế nào thì bắt đầu Thầy ngồi Thầy viết thì nó đi có một lần vậy thôi, nó không thể đi khác - cái chỗ khác được. Mà bây giờ đang viết một cuốn tiểu thuyết này mà xây dựng cái tiểu thuyết nữa thì xây dựng không có được đâu. Thầy nói không có đầu óc ai mà xây dựng nổi hết. Mà Thầy đang xây dựng được hai cái đầu óc, một cái đầu óc mà làm việc hai hướng, nghĩa là hai cái tác phẩm đó. Nghĩa là một cái tác phẩm thì các con biết: vấn đạo tức là hỏi đạo, một cái tác phẩm thì phải dạy về đạo đức. Rồi bây giờ tới giai đoạn mà viết hết những cái bộ sách giới này rồi thì bắt đầu tới giai đoạn viết đạo đức nhân quả. Thì đồng thời Thầy làm việc này để trả lời những cái chuyện mê tín dị đoan, những cái chuyện mà của Đại Thừa, của Thiền Tông dạy người ta sai nè. Đó là hai cái đầu Thầy phải xây dựng hai cái tác phẩm, nó đi song song với nhau ở trên cái việc làm của Thầy. Cho nên vì vậy mà Thầy rất là mệt nhọc, sức khỏe của Thầy khi mà làm việc như vậy đầu óc Thầy làm chứ Thầy có làm lao động gì đâu, nhưng mà điều kiện coi vậy chứ nó hao rất hao. Nó làm cho Thầy, Thầy thấy cũng như hôm mà Thầy nghỉ ngơi trong một tháng Thầy ra, các con nhìn Thầy, các con thấy khỏe khoắn rõ ràng phải không, mặt hồng hào mà da bóng lên phải không. Còn Thầy làm việc, bây giờ Thầy giữ chặn đứng được nó như thế này là quá mức của Thầy rồi đó, trừ ra Thầy bây giờ có nghỉ ngơi làm việc ít lại thì cơ thể của Thầy mới khỏe hơn chứ còn nếu Thầy nỗ lực Thầy làm như thế này thì càng ngày cơ thể càng suy xuống nhiều chứ không phải nó chặn đứng như thế này được đâu.
Đó, thì hôm nay Thầy nói để cho các con thấy trong cái sự tu tập tức là trong cái chỗ mà Thầy nghỉ ngơi. Thầy nghỉ ngơi thôi, nghĩa là Thầy không có làm gì hết thì lúc bây giờ cái tâm của Thầy sống bình thường mọi cái nhưng mà vô sự nè, thanh thản, an lạc thì trong lúc đó cái cơ thể của Thầy nó sẽ khỏe mạnh vô cùng lận, không bao giờ già nữa, Thầy nói thật sự không già. Nhưng mà Thầy làm việc như thế này cơ thể Thầy nó hoạt động quá nhiều, buộc nó phải hoạt động làm việc rất nhiều cho nên cơ thể càng suy càng già thêm. Còn nếu mà Thầy giữ cái tâm thanh thản vô sự, cơ thể Thầy không già, Thầy sống một trăm tuổi hoặc một ngàn tuổi cũng chưa chắc chết nữa. Bởi vì nó có làm việc gì đâu, mà Thầy còn phục hồi bằng cái tâm thanh tịnh vô cùng của nó cho nên cơ thể nó không bị già.
(33:25) Thì hôm nay Thầy nói để các con thấy nếu mà các con bỏ hết tất cả hết rồi, thì các con tu đúng cách rồi các con sẽ thấy. Ngày ngày các con sẽ nghiệm xét: rõ ràng ngày hôm nay mình có mấy cái niệm này mình đều xả, thấy nó thanh thản vô cùng, nó không có sai được mình. Các con nhớ mỗi cái niệm đó nó có mục đích là nó đến nó sai, bởi vì đức Phật nói Thất kiết sử mà, vừa trói mình mà nó vừa sai mình. Nó sai mình, nó làm cho mình phải lo lắng, phải suy nghĩ phải này kia nọ; còn mình không bị nó sai thì mình xả nó. Trở về thanh thản, vô sự tức là không bị sai nữa, là mình đoạn dứt thất kiết sử rồi đó. Cho nên càng tu mình thích tu, càng tu càng thấy kết quả của mình giải thoát. Mình đừng có nhìn, đừng có nhìn bây giờ tui ra lệnh nó hết bệnh, tui ra lệnh nó tịnh chỉ hơi thở, đừng có nghĩ cái cao đó đâu, đừng có nghĩ cái điều nó đâu, mà các con nghĩ ngay cái chỗ mà giải thoát của con từng chút từng li, từng giây từng phút nó không bị ràng buộc, nó không bị trói buộc thất kiết sử và ngũ triền cái này thì ngay đó các con sẽ thấy kết quả. Và từ đó cái tâm càng ngày càng thanh tịnh, thanh tịnh tới mức độ của nó nó sẽ đi vào thiền định rất dễ dàng.
Các con nhớ chưa? Nhớ như vậy về các con thực hành, nếu mà sai thì thưa hỏi kỹ lại, sao con tu nay bị hôn trầm, sao con tu nay thấy nó bết. Nói với Thầy để Thầy tìm mọi cách để làm cách Thầy gỡ những cái rối ren đó. Bởi vì cái này là cái mình tu sai, còn mà tu mà thấy thanh thản, vô sự, vui vẻ, hân hoan ở trong lòng của mình. Thấy trời ơi sung sướng quá, tại sao đời không có được như mình, người ta sống sao mà sống không có hạnh vậy nè; còn mình tại sao đi tu mà thấy hạnh phúc vậy nè. Cho nên có nhiều người hiểu cách lầm, người ta thấy mình thức khuya dậy sớm người ta nói tu gì khổ quá, không nằm ngủ. Ngủ thì ngu si, mà quý vị thấy dậy sớm mà nó thanh thản, nó khỏe. Chứ không phải thức dậy mà cái kiểu bắt buộc như là mình bắt buộc mình - cái kiểu đó không được. Thầy nói không được là tại sao? Tại vì mình bắt buộc mình phải thức dậy, phải gò bó nó này kia nọ, phải ngồi này kia cực khổ. Mình thức dậy với cái tinh thần thoải mái, dễ chịu. Cũng như bây giờ mà các con ngồi đây mà các con thoải mái vậy đó là khi thức dậy nghe nó thoải mái nó thích thì đúng là chúng ta tu đúng. Còn nếu mà chúng ta dậy bằng cách mà phải chuông reo mà không muốn dậy thì đó là bắt buộc. Nhưng mà nói dù như thế nào đi nữa thì chúng ta cũng phải bắt buộc nó đầu tiên, tức là cũng có phần ức chế nó chứ. Ức chế nó nhưng mà sau thời gian chúng ta tu được, xả được tâm rồi tự nó nó thoải mái, tới giờ đó nó muốn dậy - nó nằm nó nghỉ chút nó dậy, chớ nó cũng chưa có muốn dậy nữa.
Các con thấy trên cái bước đường mà tu tập nó đúng rồi, nó không có buồn ngủ nó không ham ngủ, mà nó không ham gì hết. Mà bây giờ nó còn ham ngủ, như vậy là ác pháp đây. Bây giờ này mày còn muốn ngủ phải không, mày bị ác pháp rồi, mày phải ngóc đầu dậy chứ còn không ác pháp là tiêu mày đó. Đó, thì ngay cái chỗ mà còn tâm tham ngủ thì mình cũng biết rồi. Mày phải ngồi dậy thức dậy, phải sống thanh thản, vô sự; mày còn lừ đừ buồn ngủ là mày bị. Tức là mình dùng pháp hướng: “Cái ngủ này phải đi đi, tỉnh nha, không có ngủ nữa”. Ra lệnh nó hơi cái nó tỉnh. Tại vì mình có pháp hướng mình nhắc đuổi đi.
(36:34) Đây Thầy nói đơn giản nhất là cái buồn ngủ, khuya hai giờ, ba giờ mình dậy bắt đầu nghe nó lừ đừ quá, mệt. “Mày chết với tao, cái tâm này là còn tham nè, tham ngủ thì như vậy mày phải rời đi, mày không được ở đây, cái tâm phải đi mau”, mình ra lệnh một hơi cái nó tỉnh.
Còn mình không ra lệnh lát cái nó bắt đầu thôi nằm ngủ một chút xíu, tức là nó sẽ sai mình, sai mình trong ác pháp, nó đưa mình vào cái ngu si mê muội. Cho nên do đó mình thức dậy mà đừng có kiểu cách mà ráng, mà kiểu cách dùng pháp để mà xả. Các con thấy xả không. Còn bây giờ các con ráng các con đi kinh hành, đi cho dữ tợn để cho nó tỉnh, bắt đầu tỉnh rồi vô ngồi một hơi gục, như vậy rõ ràng là mình chưa có đuổi, mình chưa xả, mà mình ức chế nó thôi.
Cho nên vì vậy, thí dụ như bây giờ con muốn nó tỉnh nè, giờ ra súc miệng, rửa mặt đồ này kia làm cho tỉnh hay là chạy này kia tỉnh đó là mình ức chế nó. Mình ức chế mình cũng làm nó tỉnh được chứ không phải không, mình ức chế nó. Nhưng mà mình muốn xả cái niệm này, cái niệm buồn ngủ này thì bằng cách mình hướng tâm. Mới đầu thì mình cũng rửa mặt, súc miệng hoặc làm cái này cái kia, động tác để cho nó tỉnh táo lại đi, rồi bắt đầu dùng hướng tâm, mình biết cái tâm của mình nó còn ham ngủ đây chứ chưa phải nó tỉnh đâu. Chừng nào mà ngay giờ đó nó thức dậy, nó tỉnh táo đó là nó hết ham ngủ; mà nó còn lừ đừ nó còn muốn ngủ thì tức là nó còn tham ngủ, vậy thì mình phải đuổi nó. Bởi vì cái còn tham ngủ này nó còn nằm ở trong cái ngũ triền cái. Si của ngũ triền cái là hôn trầm thùy miên, hôn trầm thùy miên là ham ngủ - ngủ gục chứ gì. Cho nên cái si của triền cái thì nó là cái hôn trầm thùy miên, còn cái si của thất kiết sử - cái đó gọi là vô mình kiết sử, tức là cái si của thất kiết sử thì nó khác. Một cái điều kiện gì mình không hiểu mà mình cứ chấp chặt cái đó là mình hiểu tức là si - si ở trong cái kiến giải của mình, cái kiến thức của mình, cái hiểu biết của mình, si mình chấp nó.
Cũng như, Thầy nói như Minh Tông nó si ở trong cái kiến kiết sử, nó cho rằng những người nào cũng phải học từ cái trên đại học thì mới tu mới có giải thoát được còn nếu trình độ mà học thấp thì khó tu giải thoát. Sự thật cái đó là cái si, Thầy thường nhắc ông Bàn Đặc - ổng là một cái người rất là tối tăm rất dốt, ổng học có bốn câu kệ không thuộc thì như vậy làm sao ổng thi đại học được, thế mà ổng lại tu chứng quả A La Hán. Thì cái chấp như vậy là cái sai, mà cái sai như vậy nó cứ mang đầu óc nó cứ hiểu cái người là phải học từ đại học, trên đại học à chứ còn dưới thì cái tâm nó ngu si, cái tâm mà nó không có học được trên đại học thì tức là không thể nào mà tu giải thoát được hết. Bởi vì nó nói rằng khi mà mình học trên đại học người ta nói ra cái mình hiểu. Nhưng mà sự thật chính Thầy thấy nó không hiểu, nếu nó hiểu thì nó đâu có ức chế tâm đến nỗi mà nó thành bệnh. Cho nên cái thực sự ra không phải là cái trình độ học thức cao mà cái trình độ chúng ta hiểu được mà chúng ta làm được thì cái chỗ đó là cái chỗ của đạo Phật.
Bởi vì chỗ của đạo Phật, cái trí tuệ không có nghĩa là chỗ hiểu biết cái này cái nọ cái kia gọi là hiểu biết. Mà cái trí tuệ của đạo Phật xác định cho chúng ta biết: “Trí tuệ ở đâu thì đức hạnh ở đó, tức là giới luật ở đó”. Trí tuệ nó làm cho giới luật thanh tịnh mà giới luật nó làm cho trí tuệ thanh tịnh, nghĩa là hai cái này cặp. Nghĩa là bây giờ ví dụ một cách dễ là chúng ta thức dậy mà chúng ta thấy còn buồn ngủ thì ngay cái trí tuệ chúng ta thấy mình còn buồn ngủ là bị hôn trầm, thùy miên tức là bị ngũ triền cái. Và cái hiểu biết ngũ triền cái thì bây giờ dùng Như Lý Tác Ý mình hướng tâm mình nhắc nó, mình xả nó, thì cái đó gọi là trí tuệ. Chớ không phải trí tuệ giải thoát nó kèm theo với cái sự giải thoát của nó, với cái sự hiểu biết của nó thì cái đó gọi là tri kiến giải thoát chứ không phải trí tuệ mà chúng ta học cái hiểu cái này. Từ lâu đến giờ người ta cứ nghe nói trí tuệ của Phật là tưởng là học, hiểu mênh mông, biết những cái chuyện quá khứ vị lai, tất cả những cái gì cũng biết hết thì đó gọi là trí tuệ. Không phải, đó không phải là cái trí tuệ của Phật, mà cái trí tuệ của Phật làm cho cái tâm của mình nó thanh tịnh, nó giải thoát, nó không còn bị dính mắc khổ đau, thì cái đó là cái trí tuệ, cái mục đích trí tuệ của đạo Phật là cái chỗ này Cái hiểu biết như vậy là cái hiểu biết làm cho bản ngã chúng ta càng ngày càng chồng chất lên, do đó cái ngã càng lớn lên. Nó ngầm, cái sự học hiểu của mình nó ngầm ở trong đó nó nuôi bản ngã. Ngoài thì mình nói vô ngã.
Cho nên có người hiểu một cách sai lệch. Khi một người họ nghĩ rằng cái người mà vô ngã đó, là không bao giờ nói người này sai người kia sai hoặc là chê tôn giáo này tôn giáo khác, không phải. Cái người trí tuệ người ta biết được cái pháp này tu đúng, cái pháp này không tu đúng vì cái pháp này có đạo đức, cái pháp này không có đạo đức, cái pháp này có giải thoát hay không giải thoát. Người ta nói tất cả những cái này không phải ở trong cái ngã. Cho nên cái người ta hiểu lầm là khi mình nói như vậy có nghĩa là mình nói để làm cho mình hay hơn người khác, là mình ngã chứ gì? Không phải. Cái sai cái đúng chúng ta phải biết bởi vì cái trí tuệ dạy chúng ta biết cái đó thiện cái đó ác, cái đó đúng cái này sai, cái này tu được cái này không tu được, cho nên chúng ta nói cái này không nghĩa là nói cái ngã. Còn người đời người ta không hiểu, người ta học hỏi người ta nghĩ rằng ngầm ở trong tâm của mình người ta hiểu: bây giờ người ta trên đại học người ta có bằng tiến sĩ nè thì người ta thấy rằng người ta hay hơn người khác. Nhìn chung thì bao nhiêu hàng triệu người mà cái số mà có tiến sỹ này mấy người cho nên họ thấy họ hơn. Từ đó cái bản ngã họ vẫn ngầm ở trong đó. Trái lại cái người tu theo đạo Phật người ta nói cái này đúng, cái này sai để cho mọi người biết để suy ngẫm, biết cái này đúng, cái này sai rõ ràng thì cái người này không phải là cái ngã.
Thường mình bị lầm, thường thường mình chỉ trích người này người nọ người kia để nâng cái ngã của mình lên, để nâng cái sự hiểu biết của mình lên, mình hay chỉ trích người ta thì do đó là cái ngã. Cho nên vì vậy nếu mà nói mà cái sai cái đúng của người khác là cho mình ngã, cái đó là sai. Ở đây ngày xưa đức Phật (trong cuốn kinh Trường Bộ) Ngài bác 62 luận thuyết của ngoại đạo. Tất cả 62 cái luận này đều là sai, làm cho một ngàn thế giới rung chuyển. Lúc bây giờ người ta vẫn tin 62 cái luận này là đúng, khi mà đức Phật ra đời Ngài cho 62 luận thuyết này là sai không đúng. Bây giờ ở trong kinh nói một ngàn thế giới đều rung chuyển khi mà đức Phật thuyết cái lời nói, bác 62 cái luận thuyết này thì làm cho người ta rung chuyển hết, nghĩa là một ngàn thế giới rung chuyển chứ không phải trong một cái thế giới của chúng ta không đâu. Một ngàn cái thế giới rung chuyển bởi vì một ngàn cái thế giới người ta đều chấp nhận những cái luận thuyết đó là đúng mà bây giờ người ta cho sai thì làm cho rung chuyển hết, động hết. Mà đức Phật nói như vậy đức Phật có ngã không? Ngã sao người ta chửi không giận? Các con hiểu không? Người ta nói đúng bởi vì ông Phật ổng nói đúng cho nên vì vậy ổng là người vô ngã thực sự. Vô ngã chỗ nào? Vô ngã chỗ người ta chửi mắng mình, người ta nói xấu mình không giận, mà ổng còn khuyên đệ tử: “người ta chê mình người ta nói xấu mình là tại vì người ta không hiểu mình, người ta khen mình mình cũng không nên mừng tại vì người ta khen mình nhiều khi người ta khen mình không đúng”. Cho nên, chê mình thì đức Phật cũng thấy người ta không hiểu mình người ta mới chê. Người ta hiểu mình ở trong cái góc độ của một cái luận thuyết nào, cho nên người ta kiến chấp ở chỗ đó mà người ta chê mình, người ta chưa có biết mình như thế nào thì cái chê của người ta không đúng thì mình xá gì mình phải giận hờn người ta. Cái lý của đức Phật rất rõ ràng, vững vàng để chúng ta hiểu được, giữ tâm chúng ta hoàn toàn yên lặng và giải thoát. Còn khen mình, khen mình ở chỗ nào. Nói ông thầy đó giữ gìn giới luật này kia nọ, có đức có hạnh, khen mình đúng nhưng vẫn là phàm phu, chưa phải đúng. Bởi vì cái khen nó phải toàn diện như thế nào? Một cái người mà có giới đức, có đức hạnh hẳn hoi mà có thiền định, mà còn phải cả Tam minh thì cái khen đó mới đúng. Cũng như giờ khen Thầy nói Thầy có đức hạnh, Thầy tu giới luật như vậy chưa hẳn là khen Thầy. Cho nên người ta khen Thầy như vậy để làm gì? Người ta tìm cách gì? Thầy tu khổ hạnh vậy ai tu nổi. Đó là người ta khen, khi người ta chê mình mình cũng không buồn, mà khen mình mình cũng không mừng cho nên luôn luôn…, à bây giờ mình thấy họ khen mình. Bây giờ ví dụ họ khen Chơn Trí nè: con tu như vậy, như vậy như vậy tự nhiên cái tâm mình thấy phấn khởi lên thì cái đó là cái sai. Họ khen chưa hẳn là họ khen đúng, bởi vì con đường mình biết mình tu như thế nào, mình làm như thế nào? Bây giờ người ta chê mình: Chơn Trí như thế này thế này, nói như thế này mà không có đúng lời nói, nói rồi không có đúng thì do đó mình đâm ra mình buồn mình này kia thì tức là mình bị cái lời khen chê của người ta sai xử mình mà mình không thấy mình làm chủ. Do đó khi chê người ta chưa hiểu được mình đâu.
Thí dụ như chẳng hạn bây giờ Thầy nói như thế này. Như Chơn Đức hiểu Chơn Trí, bây giờ khi mà nó đến đây nó tu hành, rồi trong cái hoàn cảnh nó trở về ngoài đó thì người ta không hiểu, mọi người không hiểu người ta sẽ chê Chơn Trí. Chơn Trí nói bỏ ngoài đó vô trong này tu mà vô trong này tu rồi lại trở ra ngoài đó người ta không tin Chơn Trí nữa. Do đó lại có một người hiểu Chơn Trí, vì cái duyên của Chơn Trí như thế nào đó mà phải đi ra đi vô như vậy thôi chứ không phải là như mấy người đó hiểu. Cho nên một cái người hiểu này thì trong khi người ta hiểu như vậy thì mình biết rằng còn có người hiểu mình chứ không có phải không có người hiểu mình. Do đó, khi mà trở vào tu hành, phải tu hành đúng cách như thế nào, tâm mình xả ra như thế nào thế nào, cho nên khi bị khen chê mình không buồn không giận gì hết, hoàn toàn sạch hết, làm cho tâm hồn của mình thoải mái, an vui; chính những cái lời của họ khen chê làm cho mình thấy được giải thoát hoàn toàn không bị dính mắc. Đó là Thầy đem một cái ví dụ cụ thể, qua cái cuộc sống từ hơn mấy tháng nay của Chơn Trí để rút tỉa được cái chỗ đó để mà xả cái tâm của mình để cho mình thanh thản an lạc không có gì hết, hoàn toàn buông xả , giải thoát hoàn toàn.
(47:08) Đó là cách thức tu của mình, đừng vì những người Phật tử, đừng có vì những người đó mà mình phải thực hiện cái tâm của mình hoàn toàn thanh tịnh, an lạc, vô sự; hoàn toàn ở trong cái môi trường tốt thực hiện. Sau khi nó vững vàng rồi thì người ta nói gì mình cũng không có dao động hết, đó là cách thức tu.
Cho nên vì vậy, cũng như bây giờ thí dụ như Mật Hạnh nỗ lực tu sau cái thời gian tiếp duyên ra. Bây giờ thấy rõ ràng ngoài đời họ chuyện này đến chuyện kia. Nào là tết nhứt, nào là giỗ quẩy, nào là cưới vợ gả con, nào là đám ma đám cưới, nào là đi chơi này kia đủ thứ, đủ nọ; ham cái này kia cuối cùng quán xét mỗi cái tâm niệm của mình khởi lên cái gì đó quán xét. Giờ nó ham muốn chiếc xe để cưởi xe đi chơi; đi chơi như vậy rủi ro xe đụng hoặc là như thế này thế khác nó hăng hái trong người của mình lái xe chạy như bay thì coi chừng nó bay xuống ruộng luôn hoặc nó bay vô đầu xe hơi. Cho nên do cái sự suy nghĩ như vậy nó đem đến những cái không hay cho mình. Do mình suy nghĩ, mình tư duy, mình quán xét những cái tâm này nó làm cho mình không được giải thoát, tâm này nó làm cho mình không thanh tịnh, tâm này nó sẽ làm trở thành một cái nghiệp lực để cho mình tiếp tục cái lực đó mà đi tái sanh luân hồi. Nó làm cho mình khổ từ đời này đến đời khác, sanh ra làm người, những cái khổ này nó đưa cho mình đi đến. Sanh ra làm người mình làm sao? Thí dụ như nó muốn sanh trong nhà nghèo nó nghèo mà nó muốn sanh trong nhà giàu nó sanh, mình làm sao mình chặn đứng được đâu. Ai cũng muốn sanh ở trong những cái nhà giàu sang, có học thức có đạo đức, ai cũng muốn vậy chớ, ai muốn mà sanh trong cái nhà nghèo khổ thiếu đạo đức đâu, đâu có muốn. Nhưng mà cái nhân quả do cái lòng ham muốn của mình nó trở thành cái nghiệp lực nó chiêu cảm, nó lôi mình đi vào sanh trong cái nhà này nhà kia mình làm sao mình cầm được nó đâu, mình đâu có làm chủ được. Cho nên mình hiểu được như vậy mình phải chặn đứng nó: Mày không được vậy. Mà khi mình còn sống, mình còn đủ cái lực, cái sự hiểu biết mình chặn đứng như vậy thì trong khi đó mình đã chặn đứng thì tức là mình đã chặn đứng cái nghiệp tái sanh luân hồi của mình đó.
Bởi vì cái hành động của chúng ta nó trở thành cái thói quen, cái thói quen đó gọi là nghiệp lực, cái nghiệp lực đó đi tái sanh luân hồi. Mà hằng ngày bây giờ mình cứ chặn ở trong đầu mình cứ chặn lại: “Đây là pháp ác, không được”. Tức là chặn đứng lại không cho tái sanh đó. Bởi vì nó thành cái nghiệp sau đó nó sẽ tái sanh. Cho nên bây giờ mình chặn đứng nó không thành nghiệp thì tức là nó không tái sanh chứ gì? Cách thức chúng ta tu rõ ràng làm chủ sự sanh tử chứ gì, nó không còn đi tái sanh nữa mà làm chủ được cái thân này sống chết nữa. Các con hiểu rất rõ, bởi vì nó không có cái linh hồn đi tái sanh, mà hằng ngày chúng ta khởi muốn, muốn cái xe đó là tạo ra cái nghiệp, muốn cưỡi xe chạy như bay hoặc này kia đó là tạo ra cái nghiệp và cái nghiệp đó nó sẽ dẫn đi về đâu. Nó dẫn đi tái sanh, tức là phải tiếp tục làm thân người hoặc là thân chúng sanh.
Các con nhớ rằng, Thầy xin nhắc lại đức Phật nói: Sự tái sanh luân hồi của chúng ta đó, nó không phải có một cái linh hồn, Phật tánh, cái gì mà trong thân chúng ta, cái thân này khi mà chúng ta hoại diệt rồi thì nó chỉ còn cái nghiệp lực của chúng ta mà đi tái sanh mà thôi. Mà cái nghiệp lực đó hằng ngày chúng ta đã tạo nó đó. Còn hằng ngày mà chúng ta muốn cho nó đừng có đi tái sanh luân hồi thì hằng ngày chúng ta như thế nào? Chúng ta ra lệnh: “Cái tâm này như cục đất không có tham, sân, si” tức là chận đứng cái nghiệp lực đó. Bây giờ nó khởi ra ham muốn cái gì đó thì chúng ta ngăn chặn nó liền, không có cho nó tức là chặn cái nghiệp để không có đi con đường tái sanh của nó. Thầy dạy rất rõ và rất cụ thể.
(50:34) Bởi vì khi mà tu rồi Thầy mới thấy được mình chấm dứt được tái sanh, còn thiên hạ không chấm dứt được tái sanh là tại vì người ta không hiểu, người ta cứ tạo cái lực đó mà làm sao người ta trốn khỏi cái sự tái sanh luân hồi. Và đồng thời các con biết rằng, Thầy nói thực sự được thân người khó lắm, khó vô cùng lận chứ không phải dễ đâu. Bởi vì dù chúng ta có ăn chay đi nữa chúng ta cũng sanh làm con vật này con vật kia thì chúng ta cũng làm trâu bò, những cái loài ăn cỏ rác. Mà ăn cỏ ăn rác thì làm sao mà làm Phật được, làm sao giải thoát được? Nó vẫn còn cái tâm hung hăng, vẫn còn cái tâm giận dữ của nó. Con bò các con thấy nó cũng giận dữ, con trâu cũng giận dữ, chứ đâu phải nói ăn chay mà nó hiền đâu. Chỉ có con người chúng ta mới có cái trí tuệ, mới biết dừng các pháp ác mới có thiện được chứ con vật nó ăn cỏ nó đâu phải hiền. Các con thấy hai con trâu nó chém lộn với nhau, nhất định là chém chết thôi, khi mà nó giận nhau rồi, nó tranh nhau rồi thì nó dễ giết nhau. Hai con bò nó cũng ăn cỏ, tại sao nó ăn rau cải hiền lành, họ nói đó là sai. Thật sự ra chúng ta không có huân cái nhân quả của cái máu xương của chúng sanh thì chúng ta cũng sẽ thành rau cải, thành cỏ rác chứ làm cái gì. Cho nên chúng ta huân đúng cái nghiệp đó nó sẽ trở thành đúng, mà huân không đúng thì cái nghiệp đó nó sẽ trở thành không đúng. Bây giờ chúng ta ăn cỏ ăn rác mà chúng ta vẫn tham chứ không phải không, thấy đám cỏ ngon vẫn tranh nhau ăn chứ không phải không. Các con thấy con bò con trâu chứ. Cho nên đừng nói ăn cỏ, ăn rau rác là thiện, là đủ rồi - không phải đâu, điều đó là điều sai, không phải. Mấy ông ăn thiện, mấy ông ăn chay mà mấy ông còn tranh ăn, còn ăn ngon, còn thấy đồ chay này ngon, còn bày đặt chế ra cái này cái kia ngon thì tức là còn tham ăn trong cái tham đó rồi. Mà cái tham đó nó trở thành cái nghiệp chứ, các con hiểu không? Cho nên cái tham đó nó trở thành nghiệp thì làm sao các con sanh làm người được lần nữa, đâu phải dễ.
Nếu bây giờ, Thầy nói thực sự mình ăn chay, mình ăn rau cải, mình không có ăn thịt bò nè, người ta ăn thịt cá này kia người ta sanh tôm cá chứ gì; còn mình ăn rau cải mình sẽ thành rau cải chứ gì, chứ mình thành cái gì giờ. Bởi vì mình cũng còn tham trong cái ăn đó chứ đâu phải là mình không tham, cho nên mình thành rau cải họ cũng cắt đầu mình họ ăn chứ; nhưng mà có cái cắt của mình mình còn lên được, còn cái con bò con trâu người ta cắt cổ rồi thì nó mất rồi, còn cái kia nó tiếp tục nó ló đầu lên nữa họ cắt nữa, chừng nào mà nó cằn cỗi hết rồi thì cái cây rau cải nó chết họ mới nhổ họ bỏ thôi. Thì coi như vậy chúng ta sẽ thấy rằng trong cái sự mà tái sanh làm người không phải là chuyện đơn giản đâu, cho nên đức Phật nói: “Được thân người là khó”. Trong cái đời chúng ta mà được cái thân này vô cùng khó. Các con một ngày qua rồi mà các con phí các con không tu để rồi tiếp tục các con biết chừng nào các con được thân người, các con cứ nghĩ rằng mình tiếp tục tái sanh là mình sẽ làm người - không phải đâu. Nó cả ngàn triệu năm sau các con mới được làm người chứ không phải một đời nay đâu.
Các con biết bây giờ những đứa trẻ mà bây giờ vừa được sanh làm người thì nó đã trải qua biết bao nhiêu thân cá thịt của nó chưa, nó đã chết biết bao nhiêu kiếp nó mới làm con người trong cái hiện kiếp của chúng ta. Rồi chúng ta chết đi rồi biết bao nhiêu lần mà chúng ta trở về làm con người được, đâu phải chuyện dễ, thế mà: “Được thân người khó mà được Phật pháp còn khó hơn”. Như vậy trong bây giờ các con sẽ hiểu người ta tu sai như vậy, mình thấy sai như vậy mà làm sao bây giờ cứu người ta được. Các con biết bây giờ bao nhiêu người tu không, dậm chân tại chỗ với nhau từ Đông sang Tây tu. Có nhiều người vô trong hang trong núi tu rất vất vả cực khổ mà cuối cùng để có những cái thần thông như vậy để mà gạt người ta sao, cuối cùng cũng không biết cách thức gì hết, chứ đừng nói mấy ông ở trên núi Hy Mã Lạp Sơn mà tu Yoga như vậy mà thành thần thánh đâu. Thầy nói sự thật ở tại thế gian này, ở nơi đây mà giải thoát được là giải thoát, chấm dứt được luân hồi; lên trên đó nó còn ham thần thông thì nó đi tái sanh nữa. Cái ham thích đó nó vẫn đưa chúng ta đến chỗ tái sanh chứ. Vì chúng ta ham thích cái này, còn cái tâm ham thích thì không có được cái gì hết.
Cho nên ở đây chúng ta biết rằng cái sự tu tập của chúng ta là chúng ta rất tiếc cái thân của chúng ta, các con nhớ. Bởi vì các con bây giờ, như Minh Tâm nè, con có làm tiền bạc bao nhiêu mất thân này rồi con không có đem tiền bạc mà mua cái thân khác được mà phải chịu biết bao nhiêu đời để mà trả cái thân này. Nghĩa là cho tới cuối cùng mà được tái sanh làm người không biết bao nhiêu đời nữa, cái thời gian đối với nhân quả nó không có các con. Còn bây giờ chúng ta đối với chúng ta cái thời gian chúng ta nó có tại vì chúng ta trong một kiếp này chúng ta tìm một kiếp khác nữa không có được, cho nên nó có cái thời gian. Con đối với nhân quả nó không có đâu, nó có thể liên tục chúng ta sẽ làm chúng sanh không biết bao nhiêu cái thời gian của nó bởi vì nó không có thời gian mà. Cho nên khi mà chúng ta trở làm con người thì không biết bao đời mà chúng ta, rồi đến để mà gặp được một người mà dạy đúng chánh pháp cũng không phải dễ đâu. Bởi vì cái duyên của con người ta mà gieo tà pháp thì luôn luôn lúc nào chúng ta sanh lên làm người thì chúng ta cũng gặp tà pháp, không bao giờ gặp được.
(55:34) Cho nên ở đây Thầy nói, Thầy nghĩ rất là đau lòng, biết được mà nói không được, làm cái gì cũng không được hết mà người ta còn muốn hãm hại mình một cách rất là đau khổ chớ. Mình thương người ta mình nói sự thật cho người ta nghe mà người ta tìm cách người ta diệt mình để người ta hưởng những cái cặn bã, những cái đau khổ, những cái danh lợi đó làm gì? Bởi vì người ta đang sống, Thầy nói người ta đang sống ở trong những cái chùa to Phật lớn, những cái nơi mà người ta tiện nghi như người thế gian, người ta đang thích cái đó, mà Thầy nói cái này không giải thoát cho nên họ tức, họ tìm cách họ hại Thầy, có như vậy mà thôi. Cho nên họ hại Thầy để làm gì, để mà họ sống, trôi lăn ở trong cái luân hồi của họ như vậy, rất là đau lòng. Cho nên bây giờ muốn làm sao cứu người ta được, thì nó tùy duyên chứ không làm cách nào khác hơn được. Đâu phải chư Phật không thương chúng sanh, thương nhưng mà làm sao mà dạy được, cho nên không phải là nguyện độ hết chúng sanh như Đại thừa. Chúng ta làm sao độ được hết. Cái lời nói của Bồ tát Đại thừa nó nói là nó nói để phỉnh người ta mà thôi chứ sự thật ở đây tùy duyên mà thôi.
Bây giờ mấy con biết Thầy, mà Thầy nói hết lời như vậy mà các con thực hiện có đúng không, nhiều khi các con thực hiện sai, cho nên luôn luôn các con kéo dài cái thời gian rất dài rất đau khổ. Ví dụ như bây giờ Minh Tâm hiểu được rồi thì hàng tháng có thể nói là một ngày hai ngày lên trên này để mà tập luyện khi mà còn Thầy chứ còn nếu mà mất Thầy rồi biết ở đâu? Như hôm nay Thầy nhắc nhở các con, các con mới thấy được cái con đường tu chứ không khéo không có Thầy thì làm sao ai nhắc nhở cái này. Tu sao cho đúng, tu sao mà được giải thoát. Mà đức Phật đã nói rõ ràng, cái câu đức Phật nói: “Pháp của ta đến để mà thấy, không có thời gian” - thế mà câu nói rất rõ ràng vậy ai nghiệm được?
Còn câu nói để chúng ta thực hành các pháp tu thì các con thấy: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý”. Chúng ta muốn cho cái thân tâm chúng ta thanh tịnh thì các pháp ác chúng ta đừng có làm, mà làm các pháp thiện, có bấy nhiêu đó thôi. Vậy thì các pháp thiện như thế nào, các pháp ác như thế nào chắc chắn Thầy đã nói, các con đã hiểu biết. Mỗi cái tư tưởng, mỗi cái tâm niệm của chúng ta hiện giờ với con người chúng ta là các pháp ác chứ không phải thiện được. Cho nên nó có những cái niệm gì thì ngay đó chúng ta phải tư duy xả nó chứ không phải ức chế, ngăn, dừng nó một cách đột ngột như vậy được, mà phải quán xét để mà xả.
Đó, thì như vậy các con sẽ thực hiện được mà không phí uổng một cái đời làm người, nếu để mất cái thân này thì rất khó. Các con nghe cuộn băng của Thầy mà: “được thân người là khó, được Phật pháp còn khó hơn” mà. Thế mà hôm nay được Chánh pháp đúng là lời của Phật dạy sống trong thiện pháp, ngăn các ác pháp đúng là đưa chúng ta đến chỗ cái trạng thái tâm thanh thản, an lạc vô sự. Nỗ lực thực hiện được như vậy thì bảo đảm cái đời sống của các con Thầy nói rằng nay mai hoặc mốt, bữa nào đó thì các con sẽ làm chủ hoàn toàn. Còn bữa nay thì các con tu trong giờ này các con thấy được sự giải thoát trong giờ này, giờ kế các con sẽ thấy được giải thoát trong giờ kế. Các con giải thoát như thế nào? Sự tư duy của chúng ta chúng ta sẽ thấy sự giải thoát rất rõ ràng. Giải thoát như thế nào? Bây giờ nè chúng ta không còn lo cơm ăn áo mặc nè, phải không - ngồi đây hổng nghĩ gì hết thì có lo không. Chúng ta không có làm cái gì nữa hết, đời chúng ta kể như tới đây là chấm dứt rồi, bởi vì cuộc đời phải giải quyết nó chứ không thể nào mà tới đây mà còn phải làm cái này làm cái kia làm cái nọ nữa, mà giải quyết cho nó dứt khoát hoàn toàn, như vậy là chúng ta xét thấy mình giải thoát rồi không còn có cực khổ, không có bận tâm lo lắng gì nữa hết.
(59:14) Nói như vậy các con đừng hiểu lầm rằng chúng ta ngồi không, không phải. Chúng ta quét sân, chúng ta nhổ cỏ, chúng ta làm tất cả mọi cái nhưng mà chúng ta vô sự, làm sao hiểu được cái làm mà vô sự thì cái này mới là cái đúng. Cho nên cái vô sự của cái làm công việc không có nghĩa là chúng ta làm để cho nó giảm bớt cô đơn của chúng ta mà chúng ta làm với cái tính cách của vô sự của nó, làm nhẹ nhàng, không làm nặng nề, không quá sức. Cũng như con Chơn Trí con đập đá, con gánh đá, con đắp đường đó là quá sức, nó làm cho cái sức khỏe của con, mặc dù nó không kém bởi vì cái sức của con nó không kém nhưng mà thay vì con phải đập con phải phí sức con, thay vì con làm cái chuyện nhẹ thì con làm quá mạnh, quá nhiều. Do đó, trong khi đó con dùng cái sức lực của con để con giữ, để con dùng đó để mà con quán xét, con tư duy, con xả cái này nó nghĩ như vậy là làm cái này, làm cái đường này phải đập phải vất vả phải cực khổ như vậy thì tức là mình chưa vô sự, phải đập phải làm phải này kia, mình phải làm cái chuyện nhẹ nhàng hơn, phải làm như thế này thế này thì do đó nó làm cho cái tâm của mình và cái thân của mình nó được thoải mái, nó không có cực khổ thì trong khi đó mình tư duy, cũng ở trong cái chuyện làm đó mà mình tư duy để từ đó mình thấy mình hoàn toàn làm với cái sự an ổn, cái sự nhẹ nhàng. Cái cơ thể của mình, cái sức khỏe này mình sẽ dùng vào cái chỗ nào.
Đó, thì càng tư duy, càng suy tư thì mình mới xả được cái niệm làm công việc nặng nhọc này. Do vì vậy, ví dụ như bây giờ buổi sáng mình làm cái chuyện gì với cái tính cách vô sự của mình. Thì như thầy Mật Hạnh sáng vác cái rựa đi chặt, phát mấy cái nhánh cây, chặt vài cây củi để giúp cho nhà bếp có củi chụm. Mình làm không có nghĩa là làm tới mệt, coi năm, mười nhánh cây nào đó chặt rồi ôm về được rồi cũng như mấy ông tiều phu chặt, ở rừng chặt về bó củi rồi đem xuống bữa đó đổi gạo đủ sống rồi, bữa nay mình chặt như vậy đủ sống rồi không có làm thêm nữa, nghỉ. Trong khi chặt củi đó để xem coi cái tâm của mình coi nó có nghĩ ngợi gì không, có còn ham thích gì không? Mà nó còn ham thích thì quán xét, vừa làm vừa quán xét để mà xả nó. Thì như vậy vừa công việc làm nhẹ nhàng mà cũng vừa là tu hành ở trong cái chỗ đó, gọi là vô sự mà có công việc làm.
Đó thì trên cái vấn đề mà tu hành nó đơn giản chứ không phải là cái người mà luôn luôn ở không. Thực sự ra chúng ta chưa phải là du tăng khất sĩ. Nhưng mà các thầy cứ nghĩ, cứ đặt thành vấn đề như thế này, đâu có nghĩa là trong cái thời đức Phật, Ngài là du tăng khất sĩ, Ngài đến chỗ đó Ngài ở đó nghĩa là rác rưới này kia Ngài không quét sao, các con hiểu điều đó. Bởi vì người ta đến khu vực của đức Phật ở người ta thấy sạch sẽ chứ không phải là dơ. Còn nếu mà chúng ta nói, bây giờ chúng ta nói ông Phật không có làm gì hết thì đến cái nhà mà mình ở, thí dụ bây giờ Thầy đến cái nhà, khu rừng mà Thầy ở như là một cái lán rác ở đó rồi Thầy trải đồ trên đó Thầy nằm trên đó thì đó là dơ, không làm đó. Còn cái này mình đến đó mình ở nửa tháng một tháng thì ít ra cái chỗ đó phải sạch sẽ chứ, chứ đâu có lý nào như mình đi cắm trại, đi chơi đâu, phải không các con hiểu điều đó. Cho nên trong cái thời đức Phật tại sao đức Phật lại dạy chúng ta ở trong cái giới luật rất là vệ sinh. Như vậy chứng tỏ là cái khu vực đức Phật phải làm chớ. Chỗ nào đến ở chỗ đó phải có sự sạch sẽ, mà có sạch sẽ thì phải có lao động chớ. Nhưng mà cái mục đích lao động đó, làm cho cái môi trường sạch sẽ đó không có nghĩa là làm ra tiền ra bạc để mà sống. Còn cái đầu óc mà chúng ta nghĩ ngợi để làm ra tiền ra bạc ra này kia, chúng ta bị tiền bạc nó sai chúng ta, cho nên cái đó là cái sai.
(1:03:10) Cho nên sản xuất mà kinh tế thì sai. Trồng một cái cây có trái là sai, bởi vì những cái cây đó có trái rồi bắt buộc chúng ta phải hái, rồi nó có sâu có rầy nè rồi nó có cái này kia, nó bắt buộc chúng ta phải bảo vệ nó, thì do đó mà chúng ta bị nó sai chúng ta hết, bị trói buộc hết. Cho nên tất cả cái việc làm của chúng ta đừng có để cho những cái gì mà nó sai sử chúng ta được nhưng chúng ta phải sống rất vệ sinh. Sau này các con sẽ đọc trong giới chúng học các con sẽ thấy đức Phật dạy rất kỹ về vấn đề vệ sinh, tức là đức hạnh của một người tu. Cho nên đọc ở trong sách vở chúng ta mới thấy được cái chỗ mà đạo đức của Phật không có nghĩa nói vô sự là không làm, mà vô sự là làm mà làm với cái vô sự của nó là vì không có làm ra tiền ra bạc bằng cách này bằng cách khác mà làm rất là vệ sinh, giữ gìn cái môi trường rất là trong sạch cho những người xung quanh đi theo mình tu hoặc là những người cư sĩ đến nghe pháp rất là thoải mái dễ chịu.
Đó, sau khi đọc những kinh giới mới thấy được cái chỗ mà đức Phật đã nói lên được cái môi trường sống của đức Phật ở trong kinh giới này rất rõ. Còn thường thường mình đọc trong kinh sách, nghe nói đức Phật đến khu rừng đó ở, mình không biết nó có như thế nào, sao chắc có lẽ là ở như là học sinh mà đi cắm trại vậy, thì chắc chắn là không đúng cách rồi.
Đó, thì hôm nay Thầy nói để chúng ta biết được cái sự vô sự tu hành của chúng ta trong khi phải tu như thế nào và quán xét sự giải thoát như thế nào để chúng ta thực hiện cho đúng cách của chúng ta tu. Hằng ngày hằng giờ hằng phút của chúng ta, khi nào mà có mệt mỏi có hôn trầm thì các con sẽ trình bày cho Thầy ngay liền. Thầy sẽ tìm cách Thầy gỡ cái rối này cho để thực hiện cho đúng. Chừng nào đúng các con thấy thích quá, tu như vậy thấy giải thoát; tu như vậy thấy an ổn; tu như vậy thấy ham tu; tu như vậy mình thấy thực sự là đúng giải thoát thật, không còn cái gì mà nghi ngờ Phật pháp nữa hết thì lúc bây giờ các con thấy đó là tu xong rồi. Có một cái sự gì thắc mắc ở trong tâm các con mà chưa hiểu thì các con nên hỏi Thầy, hỏi Thầy ngay liền đừng có để ôm ấp. Bây giờ mình thắc mắc cái đó Thầy nói vậy mà mình thắc mắc câu nói vậy, cứ hỏi ngay liền. Thầy sẽ tìm cách Thầy giải thích cho các con hiểu được cái chỗ đó để các con thực hiện cho đúng cách để mà được cái sự giải thoát hằng phút hằng giây trong sự tu tập của mình đúng theo như lời Phật đã dạy.
(1:05:40) Như lời Thầy nhắc hồi nãy thì các pháp của Phật khi mà chúng ta đến rồi thì chúng ta sẽ thấy sự kết quả của nó không phải còn có thời gian mà phải đợi năm năm, mười năm mà giải thoát, mà ngay đó giải thoát liền, chúng ta thấy tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Đó là cái mục đích mà chúng ta phải đạt được, cái mục đích của chúng ta là luôn luôn lúc nào cái tâm của chúng ta phải thanh thản, an lạc và vô sự. Thì ba cái danh từ này để chỉ cho cái trạng thái mà chúng ta tu tập, còn nếu mà không được như vậy nó cực nhọc, nó mệt nhọc thì đó coi chừng sai thì mau mau trình lại cho Thầy. Bởi vì không khéo các con sẽ ức chế tâm của mình thì nó không thanh thản, vô sự đâu, hãy nhớ kỹ như vậy.
Bây giờ có cái gì thì hỏi Thầy còn nếu mà không có thì cứ về lo tập tu tu tập, rồi chiều hoặc trưa, sáng thì lúc nào, nhất là buổi sáng mấy con cứ ngồi thiền Thầy sẽ kiểm tra. Ngồi thiền hít thở, tu với cái sự tự nhiên của nó chứ không phải ngồi mà tập trung căng thẳng như thế này không được, ngồi với tự nhiên của nó. Nó có niệm gì đến thì mình quán xét cái niệm đó xả.
Trong một thời gian tu tập có ba cái định mà chúng ta tu tập, Thầy xin nhắc lại. Định niệm hơi thở khi mà chúng ta ngồi chúng ta tu, tâm nó vẫn nhẹ nhàng, thư thả, nó vẫn biết hơi thở ra vô không phải ngồi đếm 1, 2, 3, 4 hoặc là tập trung quá mức của nó, không được, mà phải ngồi tự nhiên. Bây giờ nó có một cái niệm nó khởi ra thì ngay đó đem cái niệm đó mà dùng cái Định Vô Lậu mà quán xét. Bởi vì ba cái định chúng ta tu trong một thời gian mà, nó đâu có riêng gì cho cái Định Niệm Hơi Thở cần phải cố gắng, phải giữ nó để xả cái niệm kia để giữ hơi thở cho biết hơi thở hoài đâu, cho nên chúng ta vẫn có ba cái niệm hẳn hòi đàng hoàng. Bây giờ chúng ta đang ngồi mà chúng ta thấy nó buồn ngủ, nó muốn gục tức là nó nghe lặng lặng nó muốn ngủ thì chúng ta đứng dậy đi kinh hành, tức là Chánh Niệm Tỉnh Giác định. Đi để cho động chứ đừng có để mà ngồi, đừng có chấp chặt là chúng ta ngồi ba mươi phút, một giờ, hai giờ trong cái hơi thở thì chúng ta tu như vậy, ba cái định đồng thời một lượt, nghĩa là ở trong cái thời gian đó mà có cái gì thì chúng ta tu cái đó, có cái pháp gì tu cái đó. Thí dụ như bây giờ như bây giờ chúng ta đang đi kinh hành nè, đang đi đang biết bước đi nè mà bây giờ cái hơi thở nó lại biết hơi thở nè thì ngay đó chúng ta đã tu Định Niệm Hơi Thở rồi đó, đồng thời mà vừa đi mà nó vừa biết hơi thở thì tức là Định Niệm Hơi Thở rồi. Mà bây giờ vừa đi vừa có một cái niệm nào thì ngay đó chúng ta đem cái niệm đó chúng ta quán xét để mà xả nó thì tức là Định Vô Lậu rồi. Cho nên ba cái định này chúng ta liên tục sử dụng nó ở trong cái sự tu tập cũng như ba cái định này liên tục ở trong những cái hành động làm của chúng ta chứ không phải rời nó, các con hiểu không? Cho nên vì vậy bây giờ chúng ta làm nè mà nó biết hơi thở thì chúng ta đang ở trong hành động làm mà biết hơi thở, mà bây giờ nó đang có cái niệm gì chúng ta quán xét nó, chúng ta vừa làm vừa chặt củi nè mà chúng ta vừa quán xét cái niệm này nó khởi ham muốn nè, phải xả đi không đúng nè, thì dùng pháp hướng mình đuổi nó đi liền tức khắc, mình quán xét rồi mình dùng pháp hướng đuổi đi. Rồi bắt đầu ở trong này bây giờ nó đang không biết hơi thở mà nó đang biết mình đang chặt củi nè, bây giờ chặt phải vậy vậy vậy, nó đang biết. Thì đây bây giờ mình đang tu ở trong Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trong hành động ngoại của thân rồi. Thì ba cái định này luôn luôn liên tục nó có thay đổi nhau ở trong cái thời gian tu tập. Chớ không phải cố bắt nó bây giờ phải tu ở trong cái định niệm Chánh niệm tỉnh giác phải biết chặt củi biết chặt củi thì cái đó bắt buộc nó cứ như vậy là bị ức chế. Nghĩa là thay vì bây giờ nó có cái niệm khác khởi không tu Định Vô Lậu mà mình bắt buộc nó trở về cái này là mình ức chế nó rồi. Bây giờ nó biết hơi thở bắt buộc nó lại, biểu nó lại bắt buộc nó phải ức chế ở trong cái hành động làm của mình thì như vậy là mình ức chế nó ở trong cái hơi thở của mình rồi, con hiểu chưa?
Cho nên những cái này chúng ta ngồi tu nó biết liên tục được hơi thở tự nó nó biết thì chúng ta không bắt buộc nó đâu hết, tại gì tự nó nó biết. Còn bây giờ nó có cái gì khác mà mình lại không có tu cái khác mà mình lại bắt buộc nó tu trở lại hơi thở, ức chế nó trong hơi thở, lấy hơi thở ức chế nó để nén lấy cái này ra thì như vậy là không đúng. Các con hiểu không? Cho nên vì vậy mà luôn luôn liên tục là ba cái định các con thực hiện trong một cái thời điểm các con tu, nghĩa là tu pháp nào cũng vậy, đi kinh hành cũng vậy, mà ngồi Định Niệm Hơi Thở cũng vậy, mà Quán Vô Lậu cũng vậy. Tất cả ba cái định này nó là trên thân quán thân tức là trên thọ quán thọ, trên pháp quán pháp, trên tâm quán tâm. Luôn luôn lúc nào nó cũng nằm ở trên thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta mà thực hiện ba cái định này. Các con nhớ chưa?
Như vậy là các con sẽ có pháp tu và có cái trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự. Luôn luôn nếu mà nó không có gì thì các con sẽ có cái trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự đó. Rõ ràng và cụ thể và đồng thời mà giữ được cái trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự này cho đến khi cái tâm của các con nó thanh tịnh hoàn toàn thì các con sẽ làm chủ hoàn toàn sự sống chết, không có còn tu tập cái pháp môn nào nữa hết. Chớ không phải bây giờ tâm tôi thanh tịnh rồi tôi phải tu nữa, không có gì nữa hết. Nghĩa là chừng đó các con chỉ ra lệnh thôi chứ các con không tu pháp nào nữa hết. Nghĩa là tâm thanh tịnh rồi “Tự tịnh kỳ ý” - nghĩa là tới đó là cái kết quả của các con, sau đó có cái sự làm chủ của các con, thần thông cũng từ đó mà nó nảy sinh ra, làm chủ sự sống chết cũng từ đó mà làm thôi, từ cái tâm mà thanh tịnh đó, chớ không phải chỗ nào; từ cái chỗ đó là các con đã xong công việc tu hành.
Thầy xác định cho các con thấy nó không có khó đâu, đạo Phật rất dễ. Dễ mà tại vì người ta hiểu sai, người ta làm không đúng cho nên nó không đạt được kết quả mà thôi. Thôi bây giờ thì các con trở về tu hành, tu tập rồi có gì trình Thầy.
HẾT BĂNG
CÁC PHÁP TU TẬP THỌ BÁT QUAN TRAI
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời lượng: [54:10]
(00:00) Trưởng lão: Hôm nay, Thầy tuyên bố truyền lại cho mấy con tám giới. Trong ngày hôm nay, mấy con cố gắng mà tu tập giữ gìn tám giới cho nó trọn vẹn và trước khi mà thọ tám giới, Thầy nhắc lại những cái phương pháp trong cái ngày mà thọ Bát Quan Trai. Thì trước tiên mấy con tập đi kinh hành, chánh niệm tỉnh giác hoặc năm phút, hoặc mười phút, hoặc hai mươi phút tuỳ theo cái khả năng nhiếp tâm của mình. Để cho mình nhiếp cho được ở trong cái thân hành của mình, cái bước đi của mình. Đó là điều kiện, nó có bốn cái giai đoạn mà tu tập về chánh niệm tỉnh giác trong thân hành.
Cái thứ nhất, mình đi mình biết mình đi. Trước khi đi mình nhắc, mình tác ý : “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành” rồi mình bước đi, mình đếm mười bước. Cứ không có niệm khởi thì mình tăng lên hai mươi bước. Mình thấy không niệm khởi thì bắt đầu lấy hai mươi bước đó mình làm cái chuẩn. Để rồi mình bước hai mươi bước thì mình tác ý một lần “tôi đi tôi biết tôi đi”, rồi mình tiếp tục mình lại đi. Rồi mình đếm đúng hai mươi bước thì mình lại tác ý một lần. Cứ tu như vậy cho đến khi… Nếu mình chọn lấy cái thời gian năm phút thì mình tu năm phút. Mà mình chọn lấy thời gian mười phút thì mình tu mười phút. Nếu mình chọn lấy hai mươi phút thì mình tu hai mươi phút.
Tại sao mình chọn? Tại vì cái thời gian mình tu, mình nhiếp tâm được, không có một niệm gì xen vào trong cái khoảng thời gian mình đi kinh hành thì mình chọn: năm phút, mười phút, hai mươi phút. Còn cái thời gian mà mình chọn ví dụ như hai mươi phút mà có niệm, có 1 cái vọng tưởng. Có 1 cái niệm nào xẹt vào thì do đó mình lui trở lại, mình tu hai mươi phút, mình tu lại còn mười lăm phút. Mười lăm phút còn niệm thì mình lui lại mười phút. Mười phút còn niệm thì mình lui lại còn năm phút. Và năm phút còn niệm mình lui lại một phút, mình tu chỉ một phút mà thôi.
Tu như vậy mới có chất lượng tỉnh thức. Còn nếu mình tu nhiều quá, cái tâm mình nó không đủ sức nó gom tâm, cho nên nó không có chất lượng. Và nó không có chất lượng, mình tu cái kết quả của nó không được trọn vẹn. Và như vậy mình tu nhiều vậy chớ sự thật ra cái chất lượng không cao. Thì mình tu mãi như là mình bị dậm chân tại chỗ.
Cho nên cần phải tu làm sao mà mình đạt được chất lượng của cái sự tu tập. Thà là tu ít, tu một bước đi, tu một hơi thở mà chất lượng cao, tập trung kỹ, sức tỉnh giác cao. Đừng có nên tu nhiều, mà tu nhiều chất lượng thấp. Mình tu mà có niệm xẹt ra xẹt vô, khởi tới khởi lui thì đó là mình tu cái chất lượng không cao.
(02:49) Cho nên nhớ những cái lời Thầy dạy mà mình cố gắng, mình tu tập kỹ. Cho nên Đức Phật nói: “ Nhiệt tâm từng bước đi, nhiệt tâm từng hơi thở”. Mà nhiệt tâm là tu thật sự tu, tu có sự chú ý kỹ hẳn hoi, đó là cái sức tập tỉnh thức của mình.
Nếu mình thấy tu được, khi đi kinh hành mười bước hoặc hai mươi bước mà tác ý một lần mà thấy nhiếp tâm được thì đương nhiên mình sẽ tu tập qua một cái pháp khác. Còn hiện giờ mình tu tập như vậy mà mình thấy nhiếp tâm không được, dù là một phút nhưng vẫn thấy có niệm khởi ra khởi vô, tức là mình nhiếp tâm không được.
Về cái phương pháp đi kinh hành giai đoạn thứ nhất thì mình chuyển qua giai đoạn thứ hai: mình đi kinh hành năm bước, rồi mình đứng lại mình tác ý một lần, mình hít thở năm hơi thở, rồi mình mới tác ý bước đi. Nghĩa là như thế này, trước khi mình bước đi kinh hành, mình tác ý: “ Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”, rồi mình đếm bước đi của mình. Mỗi bước đi mình đếm: một, hai, ba, bốn, năm bước đi. Đúng năm bước thì tôi đứng lại tôi tác ý: “ Tôi hít vô tôi biết tôi hít vô, tôi thở ra tôi biết tôi thở ra”, rồi mình hít vô thở ra năm hơi thở. Năm hơi thở xong rồi thì mình lại tác ý: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành” thì mình lại bước đi năm bước đi. Đúng năm bước đi thì mình lại đứng lại, mình lại tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Rồi mình hít vô, thở ra đúng năm hơi thở, rồi mình lại tác ý bước đi. Đó là giai đoạn tỉnh thức thứ hai.
(04:29) Nếu mà giai đoạn này tập, mình thấy không có niệm nào xen vô được trong khi tu tập thì đó là kết quả của sự tu tập và thời gian tu đó bắt đầu tu từ một phút. Nghĩa là mình tu từ một phút rồi mình tăng dần lên hai phút, ba phút, năm phút cho đến mười phút, cho đến ba mươi phút mà vẫn thấy không có niệm nào xen vào thì đó là kết quả của sự tỉnh thức. Mình sẽ tu tập qua pháp khác mà không còn đi kinh hành. Nếu cái pháp thứ hai mà mình tu mà thấy kết quả không đạt được, nó hay có niệm khởi ra khởi vô thì do đó mình tu tập pháp thứ ba: pháp Chánh niệm tỉnh giác đi kinh hành thứ ba.
Bắt đầu tôi cũng tác ý: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành” tôi đếm năm hơi thở rồi tôi lại ngồi xuống, ngồi xuống rồi tôi tác ý. Tôi ngồi thẳng lưng, ngồi bán già hoặc kiết già; ngồi xếp bằng như mấy con hiện giờ đang ngồi, rồi mấy con tác ý: “ Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” rồi hít vô thở ra đếm một, hai, ba, bốn, năm. Đúng năm hơi thở thì các con đứng dậy, rồi tác ý: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”. Rồi bước đi đếm năm bước. đúng năm bước, thì lại ngồi xuống rồi tác ý: “hít vô thở ra” rồi mình theo dõi hơi thở. Tác ý hít vô thở ra 5 hơi thở, rồi đứng dậy tác ý tiếp tục đi kinh hành. Chú ý năm hơi thở, rồi năm bước đi.
(05:52) Mà nếu tu tập được như vậy nó không có một niệm khởi mà suốt ba mươi phút thì chúng ta tu Chánh niệm tỉnh giác đã xong trên cái phương pháp đi kinh hành. Nếu trong thời gian tu mà thấy còn niệm ra vô thì chúng ta kiến qua giai đoạn thứ tư của phương pháp đi kinh hành. Đó là mỗi hành động trên thân của chúng ta đều tác ý, đều tác ý bước đi. Ví dụ như: chân trái bước thì tôi sẽ nói (như 2 bàn chân các con để như thế này), chân trái bước thì các con chú ý cái chân trái của mình, rồi mình bảo: “giở gót lên” thì mình giở cái gót lên; “giở chân lên” thì mình giở chân lên; “đưa chân tới” mình đưa chân tới; “hạ chân xuống” mình hạ chân xuống; “hạ gót xuống” mình hạ gót xuống.
Chân mặt bước là mình lưu ý, mình nghe bảo chân mặt bước là mình lưu ý chân mặt. Mình bảo: “giở gót lên”, thì cái chân mặt giở gót lên. Mình bảo: “giở chân lên” thì mình giở chân lên; “đưa chân tới” thì mình đưa cái chân mình tới; “ hạ chân xuống” thì mình hạ chân xuống; “hạ gót xuống”, hạ gót xuống. Như vậy mình sẽ tác ý từng hành động. Trong khi đó các con sẽ tu trong một phút chỉ tu 1 phút mà thôi, coi thử coi cái chất lượng mình tu coi như thế nào.
Nếu khi mà mình bảo “giở gót lên” thì mình vừa tác ý mà vừa giở gót lên thì không đúng. Mình tác ý xong rồi, tức là mình ra lệnh xong rồi thì mình mới giở gót lên. Thí dụ như “giở gót lên” thì mình mới giỏ gót lên. “Giơ chân lên” mình ra lệnh rồi từ từ giơ chân lên. Chú ý kỹ hành động giơ chân lên. “Đưa chân tới” là mình tác ý rồi, bắt đầu mình đưa cái chân mình tới. “Hạ chân xuống” từ từ mình hạ chân xuống; “Hạ gót xuống” từ từ mình hạ gót xuống. Để cái sự làm nó không chậm quá mà cũng không nhanh quá, để mình làm theo cái lệnh tác ý của mình.
Do đó người mà tu kỹ lưỡng những cái hành động mỗi bước đi như vậy thì nó sẽ không bao giờ có một niệm nào khác xen vào trong đó được. Khi chúng ta đi kinh hành như vậy mà suốt ba mươi phút hoàn toàn (giơ chân lên, đưa chân tới, hạ chân xuống, hạ gót xuống) hoàn toàn không có niệm nào thì mình đã đạt được chất lượng của sự tỉnh thức.
Và như vậy, bốn giai đoạn tu tập này, người nào hợp với pháp nào thì chúng ta hợp với pháp nấy mà tu tập. Ở đây không cần phải căn cứ vào năm hơi thở hoặc là năm bước đi. Mà nhiều khi chúng ta nhiếp tâm tốt thì chúng ta có thể mười bước đi chúng ta tác ý một lần, rồi chúng ta ngồi xuống, chúng ta hít thở năm hơi thở. Mà nếu mà chúng ta đi kinh hành mà hai mươi bước không có một niệm nào xen ra xen vô thì chúng ta lấy hai mươi bước, để cho cái thời gian đứng lên ngồi xuống ít nhọc nhằn hơn.
(08:50) Còn nếu mà chúng ta thấy niệm mình khởi nhiều quá cho nên mình phải… cái bước đi nó còn lại năm bước đi, nó hơi nhọc nhằn. Nhưng mà sự nhọc nhằn đó nó làm chúng ta tỉnh thức hơn, nó dễ phá hôn trầm thùy miên. Các con lưu ý cái cách thức mà chúng ta đi năm bước rồi ngồi xuống nó cực lắm, nó cực. Thật cực bởi vì mình đi chưa có gì hết, mới có năm bước cái phải ngồi xuống. Ngồi xuống thì hít thở mới có năm hơi thở; nó cũng chưa có ngồi yên được, cái nó bắt đầu nó đứng dậy, nó làm cho cái thân chúng ta động lên động xuống, động mãi. Rồi như vậy nó phá cái hôn trầm thùy miên chúng ta rất là tuyệt vời. Khi chúng ta bị hôn trầm thùy miên buồn ngủ thì nhờ cái phương pháp đó phá. Nó gọi là pháp tỉnh thức cuối cùng của bốn phương pháp tu học.
Như vậy nó chưa phải trọn là cái pháp Thân hành niệm như Thầy dạy trong Thọ bát quan trai. Bởi vì pháp Thân hành niệm thì nó có kết hợp cái hành động ngồi. Mà hành động ngồi thì nó phải đưa tay đưa chân rồi nó ngồi xuống, rồi nó đứng dậy nó cũng đưa tay đưa chân nó đứng dậy. Rồi nó còn cộng thêm với hơi thở năm hơi thở nó hít thở nữa, cho nên đó là pháp Thân Hành Niệm. Còn cái này là Chánh Niệm Tỉnh Giác. Các con phân biệt Chánh niệm tỉnh giác. Mình nội cái hành động đi thôi, chứ nó không có kết hợp với ngồi, nó không có kết hợp với hơi thở. Nó chỉ ngồi mà thôi, nó chỉ đi mà thôi, nó không có ngồi.
(10:07) Do cái vấn đề tu tập như vậy, nó giúp cho chúng ta rất tỉnh thức để nó phá đi cái hôn trầm, thùy miên. Mục đích đi kinh hành là phá hôn trầm, thùy miên chứ không có gì khác, cho nên giúp cho chúng ta không có lười biếng. Và cái người mà tu tập, tu tập mà tác ý mà từng hành động thì cái người đó cũng là tập cái siêng năng, xả bỏ cái lười biếng. Và cái người mà tu tập cái pháp môn mà đi kinh hành năm bước, và ngồi xuống hít thở năm hơi thở cũng là cái pháp môn rèn luyện nghị lực, làm chúng ta có cái nghị lực. Bởi vì đi có năm bước rồi ngồi xuống hít thở năm hơi thở, rồi đứng lên ngồi xuống mà tu suốt 30 phút như vậy nó nhọc nhằn vô cùng.
Trong khi nhọc nhằn như vậy, nó làm cho chúng ta, một cái người mà có nghị lực có bền chí thì người ta tu mới nổi. Còn không thì mấy con tu một bữa hai bữa, mấy con tu nổi nữa. Nhưng mà tu mà không nổi bỏ đó thì mấy con là con người không có nghị lực, không có ý chí, không có bền chí. Cho nên muốn rèn luyện được cái nghị lực và cái ý chí thì mấy con phải nỗ lực ráng tu tập những cái pháp này; nó giúp cho mấy con tỉnh thức.
Tỉnh thức để làm gì? Cái sức tỉnh thức của chúng ta là một cái chỗ, cái điểm tựa. Khi mà chúng ta tỉnh thức mà chúng ta nhiếp tâm được trong cái bước đi hoặc là trong cái hơi thở của chúng ta, thì nó làm cái điểm tựa để chúng ta đẩy lui cái bệnh trên thân của chúng ta. Khi mà chúng ta nhiếp tâm được, chúng ta an trú được trên bước đi hoặc trong hơi thở của chúng ta thì chúng ta dễ dàng làm chủ bệnh. Còn nhiếp tâm chưa được và trong cái hành động và an trú chưa được thì chúng ta khó đẩy lui bệnh, mặc dù pháp Như Lý Tác Ý chúng ta có hiệu quả. Có hiệu quả nhưng vẫn đẩy bệnh đi rất chậm, rất chậm. Chỉ bệnh sơ sơ thì chúng ta tác ý mới đi thôi. Còn bệnh ngặt nghèo mà nếu mà chúng ta chưa an trú được trong thân hành thì chúng ta khó đẩy lui được.
Như vậy thì cái phương pháp mà tu tập tỉnh thức rất cần thiết để chúng ta nhiếp tâm mình được trong bước đi, trong hơi thở, giúp chúng ta đẩy lui bệnh rất dễ dàng.
(12:18) Sự tu tập giai đoạn thứ hai để giúp cho tâm chúng ta vô lậu, đó là định Vô Lậu.
Định Vô lậu thì chúng ta cần phải quán xét về nhân quả. Quán xét về thân nhân quả của chúng ta, quán xét về vạn vật, mọi vật, cái sự sống ở trên cái hành tinh của chúng ta do nhân quả. Quán xét về nhân quả của sự sống trên hành tinh. Quán xét nhân quả của thảo mộc là cây cỏ; quán xét nhân quả về con người, về loài động vật, là con người và tất cả chúng sanh như tất cả loài vật. Chúng ta quán xét nhân quả từ đâu, do nhân quả gì nó sanh ra? Và nó đang sống trong nhân quả gì? Và đồng thời khi chết nó trở về nhân quả ở đâu? Cái gì mà đi tái sanh luân hồi? Có phải là linh hồn, có phải là nhân quả? Mà nhân quả gì mà đi tái sanh luân hồi?
Do đó, chúng ta quán xét để chúng ta thấu suốt được lý nhân quả. Để mọi sự kiện xảy ra trong đời sống chúng ta, chúng ta đều thấy nhân quả thì tâm chúng ta không còn phiền não và đau khổ nữa.
Chúng ta quán các pháp đều vô thường. Nghĩa là các pháp hôm nay chúng ta thấy một cái cây, chúng ta trồng về thảo mộc. Một cái cây trồng, nhưng năm ngày, mười ngày sau thì chúng ta thấy cái cây nó thay đổi, nó cao lớn hơn, đó là cái sự vô thường của nó. Rồi đến một ngày nào đó cái cây đó cằn cỗi, nó sẽ bị hoại diệt. Nó sẽ bị chết hoặc là cái duyên tan nó đến, có một cái ông thợ rừng ông đến ông chặt cái cây đó đi. Hay hoặc là cái dây cỏ, hôm nay thấy nó bò trên cái đường như vậy, nó xanh tươi tốt như vậy. Nhưng mà vì nó bò, nó làm cho cái đường của chúng ta đi nó khó đi. Cho nên có một cái ông nông dân hoặc một cái người vác cái cuốc đến dẫy cỏ. Từ cái chỗ mà nhân quả cái cây cỏ nó đương tốt tươi sinh ra, cho đến khi cây cỏ bị hoại diệt. Bị hoại diệt, bị dẫy đi, rồi đem hất nó vào trong một cái đống rác, hoặc cái nơi nào đó thì cái cây cỏ nó bị chết đi, nó không còn sống nữa. Cho nên đó là sự vô thường của thảo mộc.
(14:44) Sự vô thường của thảo mộc thì nhìn lại thân của chúng ta cũng là những sự vô thường. Hôm nay vật chất vô thường: Mọi vật vô thường, cái bàn này vô thường, cuốn sách này vô thường. Bây giờ mới, nhưng ngày mai nó sẽ bị cũ. Rồi củ, rồi ngày mai nó sẽ bị mối mọt ăn và mục nát thành cát bụi, do đó sự vô thường.
Thân chúng ta hôm nay mới sinh ra còn trẻ, khoẻ là một đứa bé. Dần lần chúng ta năm, mười năm sau, chúng ta trở thành một người thanh niên, một người phụ nữ. Đến khi chúng ta già yếu thành một ông già, một bà già. Tất cả những sự diễn biến đó gọi là vô thường.
Nhưng các pháp vô thường đều đem đến sự khổ đau cho chúng ta. Tại sao nói sự vô thường là khổ đau? Một đứa bé bắt đầu sanh ra bắt đầu lớn lên thì cái sự vô thường lớn lên của nó để trở thành một người thanh niên, một thiếu nữ. Thì trong khi nó phát triển lớn lên thì cơ thể nó có sự thay đổi vô thường. Cho nên nó sanh ra nóng đầu, sốt nhẹ hoặc là những bệnh tật xảy ra cho cái tuổi trẻ của nó để nó phát triển. Đó là sự vô thường đem đến sự khổ đau cho chúng ta. Cũng như một người lớn tuổi như Thầy hoặc là các cụ, các bác. Sự vô thường của cái thân nó thay đổi, nó làm chúng ta bị đau nhức chỗ này, đau nhức chỗ kia, cho đến khi cái thân cằn cỗi nó đau nhức mỏi. Đến cuối cùng cằn cỗi nó không chịu được nữa, nó sẽ hoại diệt, rồi nó sẽ chết. Cho nên chúng ta thấy có ai mà sống lâu được vì sự vô thường.
Nhưng mà sự vô thường và sự thay đổi đó, mỗi lần thay đổi là mỗi lần có sự đau khổ trên thân của chúng ta, đó là một sự vô thường của thân chúng ta.
Xét như vậy, cho nên khi chúng ta tu tập, quán xét như vậy, chúng ta thấy tất cả các pháp đều vô thường. Các pháp vô thường đều là khổ. Nó đâu có gì là của mình, nay nó như thế này mai nó như thế khác. Cho nên do đó làm cái tâm chúng ta không còn dính mắc, chấp đắm các pháp nữa, không còn nghĩ rằng thân này là của ta nữa. Vì sự vô thường thay đổi nó không giữ gìn mãi cho chúng ta được, cho nên chúng ta tiếc cũng không được, giữ cũng không được. Nó không thể nào tạo hoặc giữ gìn được, cho nên cuối cùng chúng ta đành bỏ nó mà thôi.
(17:30) Khi chúng ta thông suốt được như vậy, thì có người chửi mắng chúng ta. Do chúng ta hiểu các pháp đều vô thường, cho nên chúng ta không còn giận buồn cái người khác nữa. Cũng như lúc nãy chúng ta quán nhân quả, thân nhân quả của chúng ta, nó do duyên hợp và duyên tan mà có thành chúng ta. Cho nên khi mà chúng ta nghe người khác chửi mình thì ngay đó mình biết rằng nhân quả. Mà biết nhân quả thì cái người đang chửi là tạo cái nhân ác. Còn chúng ta là người đang bị chửi mắng, đó là chúng ta đang thọ quả. Vui vẻ mà trả quả, chứ không buồn giận mà trả quả. Cho nên sự vui vẻ đó làm cho tâm chúng ta bình tĩnh, làm tâm chúng ta an ổn, do đó chúng ta đã chuyển nhân quả.
Thay vì nghe người ta chửi mình thì mình tức giận. Mình tức giận tức là mình bị nhân quả chuyển làm cho mình khổ. Trái lại mình bình tỉnh mà thấy được nhân quả, cho nên mình không buồn giận mà mình lại thấy an ổn. Do đó mình đã chuyển nhân quả, nhân quả không tác động được mình, mình bình yên, làm cho nhân quả bị đình chỉ lại, không còn lôi cuốn chúng ta vào cái cơn buồn giận của chúng ta được nữa. Do muốn làm chủ được vậy thì chúng ta quán nhân quả. Do đó chúng ta thông suốt được, chúng ta mới được tâm bình tỉnh, mới được tâm thanh thản. Còn nếu chúng ta không thông suốt thì chúng ta sẽ dễ giận hờn.
(18:57) Cho nên ngày hôm nay, các con tu tập, thứ nhất là đi kinh hành, thứ hai là tập quán xét. Ngồi lại quán xét: Thân của chúng ta vô thường, cái gì là của ta? Cái gì là không phải của ta? Cái gì là ta? Xem coi cái thân này có cái gì là của các con không? Khi mà xem thấy nó không có gì của chúng ta thì đó là các pháp vô thường do duyên hợp với nhân quả mà tạo thành.
Cho nên Đức Phật nói: “Con người thừa tự nhân quả”, có nghĩa là chúng ta từ nhân quả mà sanh ra, rồi sống trong nhân quả. Hàng ngày chúng ta nói, chúng ta làm, chúng ta suy nghĩ đều tạo thiện hoặc ác ở trong đó.
Ví dụ mình nói một lời nói làm cho người khác buồn thì đó là lời nói ác. Một lời nói làm cho người khác vui, an ủi cho họ không buồn khổ, đó là lời nói thiện. Một sự suy nghĩ chúng ta phải làm thế này để đạt được cái nhà, để lấy được khu đất, đó là ác, cướp giật của kẻ khác. Chúng ta làm như thế này mà đem lại cho người khác, an ủi cho người khác, thì cái hành động, suy nghĩ trong đầu chúng ta đó là thiện. Khi chúng ta tư duy, suy nghĩ biết khi suy nghĩ thiện, biết lúc suy nghĩ ác, đó là nhân quả của chúng ta tạo ra. Vì thiện thì đem lại hạnh phúc cho chúng ta, mà ác thì đem lại cho chúng ta khổ, người khác khổ. Vì vậy Đạo Phật gọi sự suy tư hiểu biết như vậy làm cho tâm hồn của chúng ta được thanh thản an lạc vô sự, đó là ĐẠO ĐỨC KHÔNG LÀM KHỔ MÌNH, KHỔ NGƯỜI.
(20:38) Mình học Định Vô Lậu, mình quán xét tư duy để biến mình trở thành con người có đạo đức - Đạo đức nhân bản nhân quả, không làm khổ mình khổ người. Vậy Thầy mong các con hiểu lời Phật dạy về nhân quả, cố gắng mà tu tập, cố gắng mà rèn luyện như một người học trò. Hàng ngày đọc kinh sách Phật, hàng ngày trau dồi sự hiểu biết của Phật pháp làm chúng ta hiểu rõ nhân quả, thập nhị nhân duyên, các pháp vô thường, thân ngũ uẩn thì chúng ta thông suốt được. Cho nên không có ác pháp nào tác động vào tâm chúng ta được. Vì vậy mà chúng ta sống được giải thoát hoàn toàn. Sống được giải thoát, thì đó là đem lại hạnh phúc cho chúng ta rất nhiều.
Vậy hôm nay thời gian quá ngắn, Thầy đến đây truyền tám giới cho mấy con để giữ gìn tám giới tu tập. Và dạy mấy con cách thức quán định Vô lậu để đem lại cho tâm mình không còn lậu hoặc. Sống một đời sống đem lại hạnh phúc cho bản thân mình không còn khổ và đem lại hạnh phúc cho gia đình mình, không có người nào làm khổ người nào. Và sống chung nhau trong xã hội, chúng ta luôn thương yêu và tha thứ cho nhau làm chúng ta được bình an không ai làm khổ ai. Đó là chúng ta đi vào nếp sống của ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO.
Vậy thì từ đây các con nhớ, khi quán xét tư duy thì nên nhớ rất rõ, rất rõ. Đạo đức của Phật giáo là mỗi con người sống không làm khổ mình khổ người. Các con nhớ bao nhiêu đó, để rồi mỗi khi có chướng ngại thì các con nghĩ rằng đây là mình tự làm khổ mình. Hãy buông xuống đi, đừng ôm ấp những đau khổ đó, tâm hồn phải Thanh thản An lạc và Vô sự. Đó là những điều mấy con cần phải tu tập trong ngày hôm nay khi thọ tám giới.
(23:01) Kế đó là một cái pháp thứ ba mà đó là một trạng thái chân lý. Một cái sự thật của mọi người; là trạng thái không tham, sân, si mà Đức Phật thường dạy chúng ta tu tập Tứ niệm xứ. Gọi là Tứ niệm xứ. Trạng thái đó là trạng thái THANH THẢN, AN LẠC và VÔ SỰ. Nghĩa là trong một buổi mấy con tu tập:
Pháp thứ nhất là đi Kinh hành sẽ chánh niệm tỉnh giác - đẩy lui những hôn trầm, thùy miên.
Pháp thứ hai là quán Vô lậu- đặt những đề tài nhân quả, thân vô thường, thân nhân quả, các pháp vô thường, vạn vật vô thường, vạn vật nhân quả. Các con phải tư duy quán xét, càng tư duy quán xét về Định vô lậu thì các con sẽ xả tâm mình được rốt ráo.
Pháp thứ ba là mấy con tu giữ tâm thanh thản, an lạc, vô sự. Ngồi chơi, nhưng mà có chướng ngại gì trên thân mấy con thì dùng pháp tác ý mà tác ý để cho thân mấy con được bình an và tâm mấy con được thanh thản. Đó là ba pháp mà mấy con cần giữ.
(24:18) Những cụ, những bác lớn tuổi già nên tu tập pháp Tứ niệm xứ, giữ tâm thanh thản bất động. Tất cả các pháp đều vô thường như lúc nãy Thầy nói. Tất cả các pháp đều do nhân quả sanh ra, cho nên có gì của ta, có gì là ta, có gì là bản ngã của ta đâu? Chết rồi không có một vật gì mà chúng ta mang theo, cũng không có gì mà chúng ta giữ trọn giữ được. Cho nên chúng ta hãy buông xuống để cho tâm hồn lúc nào cũng thanh thản, an lạc, vô sự.
Dù là chồng con, dù là vợ con, dù là con cái, những người thân thương của mình trong gia đình cũng đều là do nhân quả, không có gì là của ta. Không có phải con của ta đâu mà là nhân quả, vì vậy mà chúng ta hãy buông xuống. Buông xuống không có nghĩa là chúng ta bỏ mặc chúng hay là để cho chồng hay hoặc là để cho vợ mình làm gì thì làm, không phải vậy. Mà phải làm hết bổn phận trách nhiệm của nhân quả là người chồng phải lo lắng cho người vợ, người vợ phải đảm đương trách nhiệm nội trợ giúp cho chồng. Con cái phải biết vâng lời cha mẹ, đừng làm buồn lòng cha mẹ. Và cha mẹ cũng không nên mắng chửi con cái mà nên nhỏ nhẹ dạy bảo con cái. Đó là bổn phận đạo đức gia đình.
Chứ không phải bỏ là buông sạch ai lo mạng nấy, ai lo thân nấy, không còn lo nhau nữa, không phải. Đạo Phật buông bỏ nghĩa là chúng ta đừng dính mắc chồng con mà sinh ra nhiều điều phiền não đau khổ. Chúng ta làm hết bổn phận của một con người đạo đức nhân bản - nhân quả, chứ không phải chúng ta thiếu đạo đức bỏ mặc cho nhân quả chúng ta ra sao. Cũng như hiện giờ mấy con đến đây tu tập, không có nghĩa là tu cho mình mà cả tu cho gia đình. Tại sao vậy? Tại vì khi chúng ta tu tập, về gia đình chồng con nói gì, chúng ta vui vẻ, không buồn phiền. Và như vậy làm sao mà chồng con buồn phiền được phải không mấy con? Đó là sự tu tập cho mình mà lợi ích cho gia đình. Và khi tu tập được như vậy thì ở ngoài xã hội bao nhiêu người gần gũi mình, mình cũng không bao giờ phiền hà chửi mắng, làm cho xã hội rất là trật tự an ninh, rất là tốt đẹp. Cho nên sự tu tập của chúng ta cho cá nhân mình mà ảnh hưởng đến sự bình an cho gia đình, cho xã hội, đó là lợi ích lớn.
(26:50) Vì vậy mà làm người được gặp Phật pháp tu tập quá quý mấy con. Nhất là giữ được tâm bất động, thanh thản an, lạc, vô sự. Mấy con trước những ác pháp, ác cảnh thì các con im lặng như Thánh. Đừng trả lời, đừng để tâm bận rộn, đừng để tâm đau khổ thì lúc bấy giờ mấy con mới thoát khổ. Nhớ những lời Thầy dạy để mấy các con chuẩn bị tinh thần im lặng như Thánh. Khi nào có điều gì bất an trong tâm của mấy con, chướng ngại pháp thì mấy các con nhắc, mấy con nhớ những lời Thầy dạy: “Im lặng như Thánh. Đừng buồn, đừng giận, đừng đau khổ, tất cả các pháp đều vô thường. Tất cả các pháp đều do nhân quả, duyên hợp duyên tan, mà có đừng nên buồn khổ, đừng nên giận hờn”. Các con nhắc như vậy tâm mấy con sẽ được bình tỉnh và an vui, sẽ được giải thoát. Nhớ khi tu tập mấy con cũng thường khi ngồi lại, mấy con nhắc câu đó cho thấm nhuần. Để khi gặp ác pháp thì mấy con nhớ ngay liền, để các con chuẩn bị tư tưởng tác ý. Làm cho tâm mấy con bất động trước cảnh chướng ngại pháp, trước cảnh ác pháp. Các con nhớ lời Thầy dạy.
Bắt đầu bây giờ mấy con sẽ tu tập và tới khi mà buổi chiều mấy con xả. Bởi vì cái ngày khai giảng ở trong tu viện, cái khoá mà chuyên tu nó ngày một, nó sắp tới rồi. Cho nên hiện giờ một lúc nữa là Thầy sẽ về. Thì trong lúc mà xả Bát quan trai, thì mấy con sẽ tự xả. Đến trước Phật, mấy con sẽ chắp tay lên xin Phật: “Giờ này chúng con xin xả tám giới để chúng con trở về gia đình làm công việc, bổn phận của một con người trong gia đình”. Thì các con sẽ xả tám giới, tự hướng đến Phật mà xin. Nếu mà Thầy không bận rộn, Thầy sẽ ở đây xả giới và hỏi mấy con cách thức tu tập ra sao? Và hôm nay các con, Thầy truyền giới cho mấy con, thì mấy con ở lại tu tập. Rồi có những cái điều gì cần thiết hiện giờ thì mấy con hỏi Thầy, Thầy sẽ trả lời để cho mấy con tu. Nhớ những lời Thầy dạy mà tu tập các pháp.
(29:10) Rồi có cái duyên Thầy sẽ trở ra đây, Thầy sẽ dạy cho mấy con tiếp tục tu những cái phương pháp từ thấp đến cao để cho mấy con có cái duyên để mấy con học tu. Và nếu mà có cái duyên nữa, ở đây có được cái khu an dưỡng, cái nơi an dưỡng, thì mấy con sẽ tập trung đến, Thầy dạy cho các con từng lớp, từng lớp học. Nghĩa là các con đều đăng ký vào trong một cái lớp Đạo đức, cái lớp Chánh kiến. Thầy dạy cho các con nhìn cái cuộc sống, nhìn các pháp xung quanh con bằng cái chánh kiến của các con. Làm cho các con không còn phiền não đau khổ trong lòng của các con. Bằng cái sự hiểu biết của các con để nó giải quyết cho các con không còn bất cứ một ác pháp nào làm cho các con đau khổ nhất thì các con cũng không còn đau khổ nữa. Đó là cái lớp Chánh kiến, Thầy sẽ dạy cho các con.
Các con học, rồi các con tập tu, rồi các con sẽ được bình an. Thầy đem lại cho mấy con có sự bình an cho mấy con. Nếu ở đây có đủ duyên, nơi đây mà có đủ duyên thì nó có được một cái chi nhánh an dưỡng, trung tâm an dưỡng. Thì cái lớp an dưỡng đó, Thầy sẽ dạy giúp cho mấy con tinh thần được an ổn. Do cái sự hiểu biết của mấy con, mấy con không còn khổ đau nữa. Rồi bắt đầu bây giờ mấy con nhớ, có hỏi gì Thầy không mấy con? Rồi hãy tiếp tục tu tập đi! Chỉ có tu tập, chỉ có thực hành mới đem lại sự lợi ích thiết thực. Còn nghe Thầy nói rồi, mấy con về mà không tu tập thì nó không có lợi ích, mà hãy tu tập!
Hôm nay có duyên được gặp Thầy, mấy cụ lớn tuổi rồi, mấy con tuy còn có những người còn trẻ tuổi, nhưng cũng ráng tu tập. Mấy con đừng nghĩ rằng bình còn nhỏ tuổi, mình tu từ từ, tu cho xong đi mấy con. Tu sao mà trước ác pháp người ta chửi mắng mình, người ta nói nặng nhẹ mình, người ta nói xấu mình, mà mình vẫn thản nhiên không giận không hờn gì hết, đó là giải thoát mấy con. Phải tu cho được như vậy để nó an ổn, để cho nó được hạnh phúc, chứ nếu không mấy con đau khổ chịu không nổi trước những cái ác pháp nó tác động. Mình không làm điều đó mà người ta nói oan ức mình làm điều đó thì mình làm sao mình không buồn khổ mấy con?
Nhưng mình có hiểu biết trong đầu óc của mình. Mình hiểu biết nhân quả. Mình hiểu biết các pháp vô thường nên mình không giận không buồn phiền khi họ nói oan ức mình.
(31:32) Thử bây giờ có ai mà nói, mình không có ăn trộm mà người ta nói mình ăn trộm, ăn cắp, lấy cái món đồ đó thì mình có buồn không? Mình có làm đâu. Nhưng mà người ta nói vậy, mình có buồn không? Buồn chớ. Nhưng mà người mà hiểu Phật pháp, người ta không buồn. Người ta không có buồn giận cái người đó. Tức là mình thấy đứng trong nhân quả, mình thấy đây là mình trả cái nhân quả. Còn cái người đó, người ta tạo cái nhân quả, đáng thương. Họ nói không đúng, người nói điều sai, tội cho những người đó, sẽ là tạo cái tội, cái khẩu nghiệp của họ tội. Cho nên chúng ta xét rồi chúng ta xả bỏ.
Đến đây mấy con cố gắng mà tu tập mấy con! Các con cũng có nhiều người lớn tuổi rồi, ráng tu, thời gian không còn bao lâu. Đôi khi, khi mà gặp Thầy, chứ ngày mai, ngày mốt Thầy trở ra, mấy con có nhiều người cũng ra đi rồi, không gặp được Thầy. Nhưng Thầy tin rằng khi mà gặp được Thầy hôm nay, khi mà các con ra đi. Sự vô thường đến với mấy con, mấy con sẽ giữ được tâm của mình bất động thanh thản an lạc vô sự để mấy con ra đi, mấy con sẽ không tái sanh luân hồi nữa đâu mấy con. Chứ tái sanh luân hồi còn khổ lắm. Mấy con nghe lời Thầy, mấy con sẽ giữ được cái tâm bất động. Trước cái cơn đau, trước cái nhân quả gì đó, mấy con giữ gìn đừng để tâm mình động thì mấy con sẽ vào Niết bàn, chấm dứt tái sanh luân hồi. Bởi vì mình giữ được bất động là mình chuyển được nhiều đời nhiều kiếp nghiệp quả của mình, nghiệp ác của mình, chứ không phải trong một đời nay đâu.
Cho nên cái tâm bất động, lúc bấy giờ đó chỉ còn cái pháp tác ý các con nhắc - khi bị đau nhức, bị khổ sở tận cùng - các con nhắc : “Tâm bất động, tất cả các pháp đều vô thường, cái cảm thọ đau này cũng là vô thường, tâm đừng dao động, đừng sợ, hãy bình tỉnh, hãy an lạc”, do đó các con giữ bất động. Mà hễ thấy tâm con hơi dao động, thì các con lại nhắc, tác ý nữa và cứ như vậy giữ tâm bất động. Giữ tâm bất động tận cùng đến khi cái thân các con chết thì mấy con sẽ không tái sanh. Lúc bấy giờ là lúc mấy con chuyển nghiệp nhiều đời của mấy con. Nó dồn dập nó đánh con đó. Nó dồn dập, nó dập mấy con đó, để nó từ đó cái nghiệp ác của mấy con mà từ nhiều đời, bắt đầu nó tiếp tục nó tái sanh luân hồi.
(33:40) Cho nên các con đừng để dao động tâm thì nó không tái sanh nữa. Tất cả những cái nghiệp đó đều tan hoại, đều là nó không còn tác động được nữa. Nó không còn cái duyên để đi tái sanh nữa, khi lúc bấy giờ các con giữ bất động. Còn nếu mà con để động một chút xíu là những cái duyên, những cái nhân mà các con đã tạo thành cái nghiệp đó, nó sẽ trở thành cái điều kiện để mà tiếp tục tái sanh luân hồi, tái sanh luân hồi làm người và làm loài thú vật.
Ví dụ Thầy đặt thành ví dụ cho mấy con thấy: Từ khi các con chưa biết Phật pháp, các con giết hại chúng sanh; giết gà, vịt, heo, dê, cá, tôm để ăn thịt, thì những cái nhân đó là cái nhân ác chứ gì? Mấy con thấy con vật chết, vì nuôi cái thân mình mà con vật chết. Mà mấy con là người phụ nữ vừa làm cho mình ăn mà cũng vừa làm cho chồng con ăn nữa, thì cái tội mấy con nặng lắm. Còn ông chồng ra cuốc đất hay hoặc ông làm công việc gì đó, lấy tiền ổng đưa về cho vợ con. Rồi vợ con đi mua cá mua tôm về làm thực phẩm thì bàn tay mấy con vấy máu nhiều lắm. Con cá, mấy con mua con cá lóc, một con cá lớn vậy, mấy con đập đầu chết, mấy con làm tự nhiên, mấy con không có khởi sự thương yêu.
Từ lúc các con biết Phật pháp, lòng mấy con thương yêu. Thấy sự đau khổ trước một con vật, mấy con không nỡ, mấy con không nỡ cắt; cầm cái cổ con gà mà cắt để cho cái cổ con gà chảy máu, mấy con không làm được. Còn trước kia mấy con chưa biết, các con làm một cách rất là như thường, bình thường. Cái tội đó nó rất lớn, cái nghiệp đó rất lớn! Cho nên vì vậy mà lúc mấy con sắp sửa chết, nó dằn vặt mấy con ghê lắm, cái nghiệp đó nó làm mấy con khổ sở. Nhưng mấy con giữ bất động thì mấy con sẽ chuyển cái nghiệp ác đó đi. Còn mấy con bị động tâm thì mấy con bị cái nghiệp ác đó sẽ tiếp tục nó tái sanh, nó tái sinh làm gà, cá, tôm, heo. Chính cái nghiệp của mấy con mà, mấy con làm ác nó sẽ sinh lên làm cá, tôm. Một khi mấy con chết, nó sanh ra bao nhiêu con vật, mấy con giết bao nhiêu con? Mấy con tính lại cái đời sống của mấy con mà đã nuôi con cho lớn khôn, đã giúp cho chồng mình, nội trợ trong gia đình của mình thì mấy con đã tạo biết bao nhiêu tội ác không?
Mà bây giờ chỉ cần giữ cái tâm bất động thì mấy con chuyển hết cái tội ác, nó không còn tái sanh. Còn nếu để tâm mấy con động thì mấy con sẽ sanh làm cá, tôm, gà, vịt, heo, dê, trong đó có sanh làm người. Bởi vì mấy con biết được Phật pháp thì mấy con có gieo được năm giới chứ gì? Có giữ được năm giới chứ gì? Có tu tập được mười điều thiện chứ gì? Do đó mấy con còn sanh được làm người. Mà sanh làm người trong khi đó mấy con, một cái nghiệp nó đâu có sanh ra một người. Cái nghiệp của mấy con nó sanh ra nhiều con vật và nhiều con người. Nó tương ưng, cái ác nó tương ưng theo ác mà sinh ra loài vật; cái thiện nó tương ưng nó mới làm con người.
(36:30) Cho nên vì vậy mà từ đó mấy con cứ nghĩ rằng một khi mấy con chết thì mấy con sanh đó, nếu mà mấy con làm ác thì mấy con sanh ra làm một con cá, một con tôm. Rồi chờ con cá, con tôm đó chết rồi, mới sanh ra con nữa. Không phải đâu! Một lượt mấy con sanh ra không biết là bao nhiêu con nó tương ưng. Bởi vì trong suốt cái thời gian mấy con giết bao nhiêu con vật không? Một hành động mà con vật chết là mấy con sẽ trả cái mạng nó đó. Luật nhân quả nó tha mấy con sao? Nó công bằng lắm chứ. Cho nên mấy con xét từ ngay bây giờ là mấy con phải tiếp tục mấy con phải ăn chay, mấy con đừng có làm cái tội ác đó nữa. Khi biết Phật pháp, cho nên giới thứ nhất là gì mấy con biết? Cấm sát sanh mấy con. Không có được giết hại chúng sinh, không được ăn thịt chúng sinh nữa.
Thế mà chúng ta còn từ từ để mà tập ăn chay, rồi từ từ bỏ cái nghiệp. Bởi vì cái nghiệp nó làm cho chúng ta thèm thịt cá mấy con. Thèm ăn thịt cá, mà bây giờ ăn chay cái bắt đầu nó thèm, bữa nay sao nó thèm thịt, nó thèm cá quá hay hoặc thèm nước mắm quá. Ăn nước tương riết rồi sao nghe nó ớn quá, bây giờ nó muốn ăn thịt ăn cá. Do đó cái nghiệp nó thèm, chứ đâu phải chính mấy con thèm đâu. Cái nghiệp nó thúc đẩy, cho nên nó lôi mấy con vào cái ác pháp. Mà bây giờ mấy con chặn lại, mấy con ăn chay, mấy con nhất định là không có ăn những cái loài động vật đó nữa. Do đó mấy con cắt đứt cái ác pháp của mấy con đi. Từ đó mấy con phải trả những cái nghiệp đó qua cái cơn đau, cơn bệnh của thân mấy con.
Các con hiểu điều đó, cho nên các con phải cố gắng mà ráng mà tu tập, ráng mà giữ gìn giới thứ nhất - Đức hiếu sinh thương xót chúng sinh - không nỡ ăn thịt chúng sinh nữa. Là tránh sự đau khổ, tránh sự tái sanh làm loài vật, loài chúng sanh không. Chứ mấy con không tránh khỏi đâu, bởi vì cái quy luật nhân quả không có ai lo lót được. Không một ông Thần, ông Thánh, ông Phật nào mà khi mà con đi tái sanh làm loài vật, mà ông đó đến cứu con thoát ra cái loài động vật đó được. Mà cái hành động các con làm các con phải trả: các con giết năm con gà thì các con phải làm năm con gà. Trong khi đó các con một mình các con tạo cái nghiệp đó, tạo nghiệp giết năm con gà. Thì các con chết, các con phải sanh làm năm con gà, chứ đâu phải một con gà. Mà năm con gà đó thì mấy con sẽ bị người ta cắt cổ năm con gà, chứ đâu phải. Cho nên cái khổ đau đó, mấy con không tránh khỏi đâu.
(38:27) Cho nên mấy con cứ ngỡ tưởng là mình chết rồi mình sinh ra, chắc có lẽ là mình sống mình tu vậy. Thực tế không phải đâu! Nếu các con tu mà chưa chứng được Niết bàn, chưa chứng được trạng thái thanh thản an lạc vô sự; tức chứng đạt chân lý. Cái chân lý đó, nó tâm thanh thản, an lạc, vô sự nó không còn nghiệp. Còn hoàn toàn mấy con mà giờ có tu cách gì mà còn giận hờn phiền não là mấy con còn nghiệp thì còn phải làm thân chúng sanh. Vừa thân này chết thì mấy con có những thân chúng sanh, có những cái thân gà, vịt, cá, tôm, heo, dê. Là hồi đó ăn thịt bao nhiêu, giết bao nhiêu thì bây giờ mấy con trả bao nhiêu.
Rồi đồng thời mấy con sinh ra làm người, có làm người. Bởi vì mấy con có thiện mà, chứ đâu phải là toàn ác không. Nếu mà hoàn toàn mấy con toàn ác không, không có thiện, không có biết thập thiện, không có biết năm giới đó, thì hoàn toàn mấy con sẽ sanh làm loài vật không, chứ không có làm người. Bởi vì không có tiêu chuẩn làm người, làm sao mấy con sanh làm người? Các con hiểu không? Có tiêu chuẩn làm người, tương ưng với làm người mới làm người được. Mà bây giờ mấy con biết năm giới là có cái tiêu chuẩn làm người rồi. Cho nên trong cái sự mà hiểu biết Phật pháp nó cụ thể, nó rõ ràng. Nó chỉ có cái tương ưng mà thôi, nghĩa là mình tương ưng với cái gì, loài gì thì mình sinh ra loài ấy.
Cũng như bây giờ con tương ưng với cái loài vật thì cá tôm thì con tương ưng, con giết nó con ăn thịt thì tương ưng với ác pháp đó mà, làm sao mà con tránh khỏi nó? Cho nên các con phải thành tôm, thành cá, chứ làm sao mấy con trật? Mà con biết một khi mà thành một con vật mà người ta bắt, người ta giết, thì con vật đó có đau đớn không? Mấy con thấy, như con cá mấy con đập đầu nó coi nó giãy không? Nó giãy giụa, nó đau đớn, nó lăn lộn, chứ đâu phải nó nằm yên nó chết đâu? Con cứ bắt con gà cắt cổ nó coi, nó giãy giụa ghê gớm lắm. Mà chúng ta vì chúng ta lớn, sức chúng ta mạnh, chúng ta đạp hai cái chân nó, rồi nắm hai cái cánh nó tréo, rồi nắm cái đầu nó ra, rồi cắt cần cổ nó.
(40:12) Đó thì mấy con thấy cái hành động mấy con làm như vậy thì nhớ những cái điều đó, thì chắc chắn là chúng ta sẽ làm những con (vật), cái nghiệp chúng ta sẽ làm con vật. Và làm những con gà đó thì cũng có người trói hai cái chân chúng ta lại, cột hai cái cánh, đạp, kéo cái đầu chúng ta ra, cắt cần cổ cho máu chảy ra. Các con thấy mấy người giết gà họ làm như vậy. Còn con heo, đó họ đâm vô cần cổ vậy. Lấy một cái dao thiệt nhọn vầy, họ đâm vô cần cổ, vầy cái bắt đầu họ lấy một cái chảo vầy, họ hứng máu để rồi họ làm thịt huyết heo để cho mọi chúng ta ăn. Chúng ta nói ngon, chứ sự thật ra có ngon gì mấy con. Khi đâm vào cổ con heo, con heo la như thế nào, các con biết. Tiếng hét của nó đau đớn vô cùng!!!
Các con nghe Thầy nói: Lòng hiếu sinh, chúng ta không nỡ nghe tiếng kêu đau đớn, chúng ta không nỡ. Cho nên từ đây về sau các con cố gắng hướng đến sống hiếu sinh, không ăn thịt chúng sanh nữa. Chúng ta ăn chay, nói ăn chay chứ thực ra ăn thực phẩm thực vật nó nhẹ nhàng hơn, nó không nghe tiếng kêu la rên xiết, đau đớn như loài động vật. Chúng ta cố gắng mấy con!
Cái khổ nỗi biết các con nghe lời Thầy ở đây, mấy con muốn ăn chay lắm, mấy con muốn ăn thực phẩm thực vật lắm, nhưng gia đình chồng con mấy con không chấp nhận, nó rất là khó. Mấy con nội trợ, mà chồng con không hiểu, nó cứ đòi ăn thịt cá thì mấy con cũng phải làm. Nhưng mấy con ước nguyện trong tâm của mình. Ước nguyện sao gia đình, cả gia đình mình đều được ăn chay hết. Con mình cũng được ăn chay, chồng mình cũng được ăn chay để cho mình được nhẹ nhàng. Mình ước nguyện chứ mình dám nói sao? Nó đâu có chịu nghe đâu. Bởi vì cái nghiệp, cái nghiệp là cái thói quen ăn thịt chúng sinh, nó quen đi, nó không có nó thèm, nó làm cho bệnh, nó làm cho khổ sở. Do không ăn thịt, bây giờ nó sanh ra bệnh này bệnh kia, đó là cái nghiệp nó sanh ra.
Cái người mà liều chết người ta không sợ, do đó người ta chuyển hết, người ta không còn bệnh đau. Cũng như Thầy ăn chay hồi nào tới giờ có bệnh đâu? Nhưng mà mấy con ăn mặn rồi mấy con bắt đầu ăn chay là mấy con bệnh. Cũng như bây giờ mấy con thấy, Thầy ăn ngày một bữa đâu có sao đâu. Còn mấy con rớ rớ ăn vô một bữa, cái bắt đầu bệnh đau nó đổ ra, bệnh này bệnh kia đủ thứ. Vậy phải ăn ba bữa, chứ ăn một bữa sao chịu nổi. Đó các con thấy cái nghiệp không? Cái đó là cái nghiệp, chứ đâu phải là cái gì nó mới đổ ra mấy con. Nó bắt mấy con phải ăn, nó làm cho mấy con phải ăn nhiều để mấy con phải làm gần chết. Còn như ăn Thầy có một bữa thì làm sao mà làm nhiều, phải không? Ăn ngày một bữa mấy con làm coi, làm ăn mà trong nhà người nào cũng ăn một bữa coi, làm dư dả chứ đâu có thiếu. Còn các con ăn ba bữa phải tốn hao nhiều chứ, đâu có ít được. Các con thấy không? Cái nào sướng hơn? Cái người ăn ít sướng hay người ăn nhiều sướng? Cái người ăn nhiều mới cực nhiều chứ. Mà nó ngon chỗ miệng mấy con có một chút là vì đó là cái dục. Cái dục nó làm cho mấy con thích, để cho mấy con ăn cho nhiều. Nhưng mà sự thật ra ăn nhiều đâu có khỏe khoắn gì.
(43:01) Đó thì hôm nay mấy con được nghe như vậy, thì Thầy mong rằng ngày nào mà Thầy trở về thăm, mấy con là những người ăn chay hết. Cái thứ nhất để làm gì? Mấy con tránh khỏi sanh làm loài động vật đó, những loài vật mà mấy con đã ăn, thịt mấy con sẽ không còn làm. Và mấy con cũng không, khỏi sợ người ta cắt cổ mình nữa. Bởi vì các con làm con gà thì làm sao cũng bị người ta cắt cổ nhổ lông hà. Mà nếu mà làm con cá thì mình cũng bị người ta đập đầu, cắt đầu mình khứa ra từng khứa nữa, chứ đừng nói chuyện. Nó bỏ vô nồi, nó nấu nữa chứ đừng nói. Có phải không? Các con thấy, vừa là mình đã chết rồi mà nó còn bỏ lên chảo nó chiên. Rồi nó bỏ trong nồi nó nấu, rồi nó hâm lại, nó để ba bốn ngày xúm nhau nó ăn từng chút. Cho đến cái xương nó cũng không bỏ nữa, nó ném cho chó ăn luôn nữa. Không có tha cái thứ gì hết, có phải không? Các con thấy.
Mà chính ai? Cái nghiệp đó là nghiệp của các con sinh ra đó, chứ ai vô đó? Tại vì mấy con làm cái hành động đó, cho nên nó mới có cái nghiệp đó rồi nó sanh ra. Rồi mấy con xét đi, bây giờ cỡ như mình, cỡ như mấy con bây giờ chết đi. Rồi người ta chặt tay, chặt chân này kia, người ta bỏ vô nồi người ta nấu, người ta hầm ra, rồi vợ chồng người ta xúm nhau người ta ăn mình thì các con nghĩ sao? Cái thân tôi như thế này mà giờ nó ăn hết trơn, nó chỉ còn cái xương nó quăng ra thôi. Thì thiệt ra thì mấy con có thấy đâu.
Cho nên vì vậy mấy con suy tư, nghĩ tưởng cố gắng. Cố gắng thực hiện tránh ăn thực phẩm động vật, ác độc lắm mấy con, đau khổ lắm mấy con! Chính thân mấy con đau bệnh, người mà có đau bệnh này, đau bệnh kia, mấy con nhớ đó là cái tà mạng của các con. Cho nên các con huân cái sự đau khổ trong thân của mấy con. Bởi vì mỗi lần một con vật chết mấy con ăn là mấy con đã huân cái sự đau khổ của loài vật đó, cho nên cái thân của con phải chịu đau bệnh. Không có người nào mà nói ăn thịt động vật mà người đó nói tôi không đau bệnh. Nhưng tại sao cái người ăn chay vẫn đau bệnh mấy con? Vẫn đau bệnh mấy con. Tại sao? Tại vì họ ăn chay mà họ còn làm thịt để họ ngồi đó ăn. Tại sao mấy con biết không? Các con thấy đồ chay mà có làm đúng không? Họ làm miếng đùi gà. Bởi vì họ ăn theo cái kiểu mắt của họ, mặc dù trong đó đậu hủ. Nhưng mà sự thật ra họ cũng vẫn còn cái tâm ác họ, chứ chưa phải là thiện thực thiện, cho nên họ còn đau đó.
Cái người mà ăn chay mà còn thèm thịt là cái người đó còn bệnh. Còn ăn chay như Thầy không bệnh là tại vì Thầy hết thèm thịt rồi. Bởi vì hết thèm thịt là hết nghiệp đau chứ gì? Phải không? Còn mấy con ăn chay mà còn thấy thịt thèm thì cái kiểu đó mấy con còn bệnh. Bởi vì còn cái nghiệp ác, mấy con nó còn thèm, đó là cái nghiệp ác đó. Cho nên ở đây Thầy xác định sau một thời gian mấy con ăn rồi, mà tới chừng đó mấy con thấy cái miếng thịt là mấy con ớn, mấy con nhàm, mấy con sợ. Mấy con rất là tội, thì lúc bấy giờ đó cái nghiệp thân của mấy con sẽ hết. Mà cái người mà ăn chay được vậy thì tu pháp Tứ niệm xứ, mấy con có bệnh họ đẩy lui bay mất hết. Còn mấy con tại sao đẩy lui hổng bay? Tại vì cái nghiệp ác mình còn, đẩy không được. Còn người ta ăn chay, cái tâm người ta thanh tịnh rồi. Cho nên có nhiều người, người ta dùng pháp tác ý cái bệnh người ta nó bay đi mất, nó không có đau đớn nữa. Còn có người tác ý không được là cái người đó còn thèm thịt nhiều quá rồi, thích thịt rồi, cho nên tu hoài không được.
(45:52) Đó thì các con nhớ đây là một cái sự thật mấy con. Cho nên muốn thoát khổ, muốn không bệnh thì tránh cái duyên đừng ăn thịt chúng sanh, thì mấy con sẽ thoát khổ. Đó là hôm nay Thầy đem những cái pháp thiện, cái lòng hiếu sinh, cái đạo đức hiếu sinh đến với mấy con mà căn dặn, nhắc nhở mấy con để tự mấy con cứu lấy mình, ăn nó có nhằm nhò gì mấy con. Suốt cuộc đời từ tám tuổi Thầy xuất gia cho tới bây giờ, chưa hề biết miếng thịt trong miệng, thế mà Thầy có bệnh đau chỗ nào đâu? Có khổ sở chỗ nào đâu? Thầy không bao giờ mà đi bệnh viện uống thuốc gì cả hết, cho nên cuộc đời của Thầy quá hạnh phúc. Còn mấy con coi vậy chớ, ngồi trước mặt Thầy chớ có nhiều người ở trong thân Thầy thấy nó rệp ở trỏng rồi, có phải không mấy con? Nó đau nhức chỗ này, đau nhức chỗ kia, mấy con khổ lắm. Còn Thầy tuy rằng bảy mươi chín tuổi rồi, rất khoẻ không đau ốm gì hết.
Thôi bây giờ các con sẽ tu, Thầy sắp sửa Thầy về, mấy con ráng tập tu trong ngày hôm nay. Rồi chiều, tới giờ mà xả giới thì mấy con đến trước Phật mấy con xin xả giới, tự tâm mình xả giới thôi con. Rồi khi nào mà ở ngoài này mấy con thọ bát quan trai không có Thầy thì mấy con đến xin thọ giới. Rồi tới chừng xả giới, xin xả giới mấy con. Rồi các con tiếp tục, đừng có bỏ Bát quan trai con. Bát quan trai là cái pháp gieo duyên với chánh Phật pháp. Thọ Bát quan trai là đời đời kiếp kiếp, đời nay mình tu chưa xong, đời sau mình còn gặp cái duyên thọ Bát quan trai nữa. Nó không mất cái duyên đó đâu mấy con. Nó sẽ gặp những bậc tu chứng quả Alahán, cũng như cái đời của mấy con gặp Thầy để mà dạy các con. Thì đời sau mấy con giữ gìn Bát quan trai đúng cách mà tu như thế này, đời sau mấy con sẽ gặp những bậc người ta tu xong người ta cũng hướng dẫn mấy con như thế này, không mất duyên đó đâu.
(47:34) Cho nên một tháng, mấy con chọn lấy một ngày tu. Dù thế nào mấy con tháng cũng nên chọn một ngày để tu tập, đừng bỏ mấy con. Các con nếu mà ở gần, các con đến chùa các con tập trung lại để chị em sách tấn nhau. Người này tu, người kia thấy người nọ tu, mình cũng ráng tu. Cho nên vì vậy nó sách tấn nhau, nỗ lực nó tu, nó thanh tịnh. Còn một mình ở nhà nhiều khi mình lười biếng, thành ra tu không tốt bằng khi mình họp nhau, mình đến mình tu tập để cho sách tấn nhau mà tu tập.
Đến đây Thầy xin chấm dứt và Thầy gởi lại cho mấy con một số sách. Để khi Thầy về rồi, mấy con nhìn vào cuốn sách mà Thầy gởi cho mấy con những lời Thầy viết trong này, đầy đủ những ý nghĩ cho mấy con. Nhất là “Thọ tam quy ngũ giới”, nhất là “Những cái thời khoá tu tập trong thời Đức Phật”. Nó nhắc nhở những cái điều mà Đức Phật ngày xưa đã tu tập, chúng Thánh tăng đã tu tập để làm cho mấy con thấy rằng mình đang là những người đệ tử của Phật, đang tu tập trong thời khoá của Đức Phật. Trong đó có những bức thư mà Thầy gửi cho mấy con, cái mục đích là Thầy lo cái trung tâm an dưỡng để cho ra đời, được đem cái đạo đức nhân bản nhân quả, sống không làm khổ mình khổ người mà dạy.
Trong đó thì nó có cái trạm xá, cái bệnh viện để mà giúp đỡ cho những người nghèo. Trong khi đó các con có bệnh đau thì cũng giúp đỡ cho mấy con, trong khi an ủi được tinh thần. Chứ sự thật ra đạo đức không làm khổ mình khổ người nó có đủ khả năng để trị bệnh. Cho nên cái bệnh viện chỉ là nêu lên như vậy, để cho an ủi cho mấy con thôi. Chứ sự thật mấy con đến với đạo Phật là mấy con đến với tứ niệm xứ là mấy con đã có phương pháp, có thần dược để trị những cái bệnh trong thân của mấy con, bệnh nghiệp của mấy con. Cho nên nó có phương pháp làm chủ được bệnh, mà làm chủ được sự sống chết của mấy con nữa, chứ không phải là riêng làm chủ được cái bệnh đâu.
(49:26) Vì vậy mấy con nhớ tất cả những cái điều mà Thầy nói, cái ước nguyện của Thầy muốn đem lại sự hạnh phúc cho mọi người, đó là đạo đức Nhân bản - Nhân quả. Còn cái trạm xá, cái bệnh viện, cái khu điều dưỡng chẳng qua là cái để an ủi mấy con thôi, chứ cái đó sau này cũng không sử dụng đâu. Nhưng mà đây là sự an ủi để mấy con lỡ mấy con có bệnh đau mấy con khỏi đi bệnh viện tốn tiền, tốn bạc gì hết. Ở đây tất cả trong chị em chúng ta đã đóng góp nhau để giúp đỡ cho khi mà một người trong chúng ta, một người trong chúng ta có gặp bệnh đau thì lại có cái sự giúp đỡ nhau, trợ giúp nhau trong cái tình thương chan hoà nhau để nói lên cái sự mà chung lưng đấu cật, an ủi nhau trong lúc bất hạnh, trong lúc bệnh tật.
Ví dụ như bây giờ mấy con là những cái thành viên trong cái hội từ thiện. Mấy con trong một năm, nửa năm mấy con góp được năm ngàn, ba ngàn, mấy con gửi vào hội từ thiện, để làm gì? Để làm cái quỹ giúp đỡ cho những người bệnh. Mà không chừng khi mà tâm nguyện mình làm cái điều đó, lại mình mạnh giỏi không có đau ốm gì hết. Rồi cái người nào mà bất hạnh, người ta đau ốm thì người ta được cái số tiền đó chi cho bác sĩ, chi cho thuốc thang mà người ta không có phải là đem đất đai hoặc cầm hoặc bán để lấy tiền để đi trị bệnh. Mình giúp đỡ người ta cái cuộc sống cho mọi người nó được bình an, đó là cái tương trợ nhau. Cái hội từ thiện của chúng ta là tương trợ nhau bằng cái việc hành động làm điều tốt. Cho nên tất cả những cái này chúng ta tập trung vào cái trung tâm an dưỡng để chúng ta có những cái thời gian tu học được ĐẠO ĐỨC LÀM NGƯỜI.
(51:03) Đó là cách thức mà Thầy, ở trong này có cái bức thư mà Thầy đã viết để kêu gọi tất cả mọi người hãy hướng về trung tâm an dưỡng để nó thành hình được. Cái trung tâm an dưỡng, ví dụ như nó đặt ở thành phố Hồ Chí Minh hoặc một nơi nào đó ở thành phố Hồ Chí Minh. Thì ở đây nó sẽ là chi nhánh của trung tâm an dưỡng, bởi vì mình có hợp pháp lý hẳn hòi. Thì cái trung tâm nó được mở mang ra, thì chúng ta có cái thời gian để mà Thầy đến Thầy dạy, thì người ta không có nói gì. Còn khi không mình tập hợp như thế này, bây giờ trong chùa thì mấy con đến, thì đây là cái sinh hoạt của trong chùa thọ Bát quan trai, Thầy dạy thì không ai nói gì. Nhưng mấy con ra ngoài cái nhà dân ngoài kia, mấy con tập hợp là nhà nước người ta đến hỏi mình làm gì đây mà tập họp như thế này? Mình trả lời sao mấy con? Phải không?
Cho nên cái trung tâm an dưỡng nó có được, cái chi nhánh an dưỡng nó có và đồng thời nó có giấy phép đàng hoàng. “Chúng tôi sinh hoạt đúng theo sự an dưỡng của nó. Nghỉ ngơi về tinh thần phải học đạo đức và nghỉ ngơi về cơ thể, về vật chất thì chúng tôi có trạm xá, bệnh viện để chúng tôi đến đó chúng tôi trị bệnh”. Thì nó rõ ràng, nó cụ thể, nó có pháp nhân, pháp lý. Phải không? Chứ không khéo thì nó không có bình yên chúng ta ngồi đây mà nghe pháp được đâu. Đó thì như vậy chúng ta phải làm đâu ra đàng hoàng, pháp luật nó phải rõ chứ. Mình làm mà không có đúng pháp luật thì mình sẽ bị tội. Cho nên ở đây mình làm cái gì nó cũng phải hẳn hòi.
Cho nên Thầy ước mong sao cái sự mà hỗ trợ, để cho các cái hội từ thiện mình hỗ trợ cho cái trung tâm an dưỡng mình được ra đời và nó có những cái chi nhánh, để làm gì? Để cho mấy con được ở gần đó mấy con đến đó, năm chục cây số, một trăm cây số, mấy con đến khu của mình nó vậy đó. Mà đây mà vào tới cái Tu viện Chơn Như, nó đi cả mấy ngày đường hoặc là một ngày một đêm mấy con mới tới, mà vất vả. Đến đó, không lẽ mấy con đến đó, mấy con về liền? Mấy con sẽ ở ít ra cũng phải một tuần lễ. Rồi chuyện gia đình của mình làm sao? Còn mấy con đến đây một lát nữa mấy con về, đâu có sao đâu, phải không mấy con? Tu đây tới chiều mấy con về cũng kịp, đâu có gì đâu. Bởi vì nó ở gần nó tiện lợi cho chúng ta. Thầy mong rằng có sự tiện lợi đó để cái nền đạo đức của Phật giáo được phổ biến rộng, làm cho chúng ta sống không làm khổ mình khổ người, gia đình hạnh phúc, xã hội trật tự an ninh, đó là cái điều tốt nhất đó.
Hôm nay đến đây Thầy xin từ giã mấy con Thầy về và mấy con ở lại ráng nỗ lại tu tập. Đúng giờ là thọ trai, mà chưa đúng giờ thì đừng thọ trai mấy con. Đừng ăn uống phi thời, mình cố gắng một ngày không chết đâu các con. Rồi thỉnh thoảng Thầy về thăm, Thầy sẽ dạy thêm mấy con nữa. Thôi bây giờ Thầy từ giã, sau này thì ở đây mấy con sẽ phát cái sách này cho mấy con mỗi người một cuốn để coi như cái ngày mà Thầy đến đây Thầy truyền Bát quan trai và Thầy trao cho mấy con những cái này để làm quà kỷ niệm cho cái ngày thọ Bát quan trai. Rồi sau này có những sách đạo đức, Thầy sẽ gửi cho mấy con nhiều lắm. Thôi bây giờ Thầy về mấy con.
HẾT BĂNG
CÁCH THỨC TU TẬP TẠI GIA
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian: 2000
Thời lượng: [1:29:40]
(00:00) Phật tử: Hiện giờ, con không biết nên tu pháp nào nữa, nhờ Thầy tìm hộ dùm con một pháp tu. Chứ hiện giờ con không biết đặc tướng của con ra sao nữa. Khi mà con tu 18 đề mục hơi thở không thành, nhưng con sẽ tu 18 đề mục lại sao này?
Trưởng lão: Đây là một cái câu hỏi để cho chúng ta biết ở trong cái bài kinh Bát Thành, và chín cái món ăn này. Thật sự ra những cái bài kinh này đều là những lời dạy này của Phật dạy để chúng ta biết được. Khi nào chúng ta ôm Bát Thành, mà khi nào chúng ta tu chín món ăn này? Các con đã đọc “Những lời Phật Dạy” từ tập một đến tập hai, tập ba thì mấy con đã có đọc những bài kinh này rồi hết rồi. Không có người nào là không đọc. Cho nên vì vậy mà trên cái đạo lộ này thì các con phải biết rằng bất kì tu một cái pháp nào thì các con cũng phải giới luật phải nghiêm chỉnh hết. Cho nên muốn tu là phải thọ Bát Quan Trai chứ không thể nào nói tui muốn ôm một pháp ở trong tám cái phương pháp này, lấy một pháp mà tu. Nhưng mà chúng ta phải biết lúc nào mà chúng ta tu một pháp.
Bây giờ đó, mấy con muốn tu một pháp, thì các con phải thấy giới luật nghiêm chỉnh. Ăn, ngủ, độc cư, nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. Con phải sống được những cái đức hạnh này thì các con sẽ ôm một pháp trong tám cái pháp của Bát Thành. Mà nếu mà các con sống được nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, ăn, ngủ, độc cư trọn vẹn thì các con phải thực hiện chín cái món ăn này. Các con nghe chưa? Nếu mà chưa thực hiện chín cái món ăn này thì các con ôm một cái pháp trong Bát Thành rất là khó khăn. Các con hiểu không? Nó đâu phải dễ.
Cho nên nói chín món ăn để chúng ta thấy từng bậc của sự tu tập cho nó rõ ràng. Muốn nhập thiền thì phải cái món nào mới nhập thiền? Phải không? Cái món ăn nào mới nhập thiền? Muốn tu tập một cái pháp gì thì phải có cái pháp trước đó để nó thực hiện tới cái pháp kế. Chín món ăn này rất là độc đáo mấy con. Nó có thứ lớp rất là rõ ràng đó. Các con hiểu chưa? Cho nên vì vậy mà trong chín món ăn này, bởi vì món ăn là mình phải tập hàng ngày thì mình mới thực hiện cái pháp kế đó. Cũng như bây giờ Thầy muốn nhập định mà Thầy không có thực hiện được Tứ Niệm Xứ cho nó cụ thể, cho nó rõ ràng thì chúng ta làm sao? Tức là nó cũng phải có bảy năng lực của Giác Chi, chúng ta mới nhập được định chứ. Tức là món ăn của Thiền Định nó phải là Giác Chi. Mà bây giờ mình chưa có năng lực Giác Chi mà muốn nhập Thiền Định là làm sao nhập?
Đức Phật đã xác định điều này cụ thể lắm. Cho nên thực hiện, mà muốn có được Bảy Giác Chi thì phải thực hiện pháp nào? Trong mấy món ăn của Bảy Giác Chi là cái gì? Chứ bây giờ mình muốn Bảy Giác Chi, rồi mình cứ Trạch Pháp Giác Chi, rồi mình tu mình gọi là Tinh Tấn Giác Chi, rồi Hỷ Giác Chi, xả Giác Chi. Mình tự đặt ra chứ nó đâu phải có nó. Còn bây giờ các con muốn tu Tứ Niệm Xứ, thì trước khi tu Tứ Niệm Xứ các con phải có pháp gì? Cái món ăn của Tứ Niệm Xứ là ăn cái gì nó mới có Tứ Niệm Xứ chứ. Bộ khi không nó có Tứ Niệm Xứ liền cho mấy con sao? Các con hiểu chín cái món ăn đó, đó là cái phương pháp rất là logic.
Nghĩa là nó nối liền như một then chuyền của nó trong cái phương pháp tu. Mà bây giờ muốn ôm một cái pháp Bát Thành này muốn tu một cái tâm xả. Mà các con muốn thực hiện cái tâm xả thì phải giới luật nghiêm chỉnh. Mà giới luật nghiêm chỉnh được thì các con phải thực hiện những cái món ăn này. Các con hiểu chưa? Nó mới ly dục, ly ác pháp được chứ. Đó thì các con thấy nó cụ thể và rõ ràng. Để thấy cái hướng đi của nó rất là cụ thể. Cho nên ở đây chúng ta tu tập, cho nên bây giờ, bây giờ chúng ta nhìn mình, mình có thể ôm Tâm Từ mình đi vào được không? Mình có thể ôm Tâm Xả mình đi được vào không? Chưa, chưa được đâu.
Cho nên vì vậy mà Thầy dạy các bác ở đây, những người lớn tuổi nên ôm cái pháp Xả mà tu tức là Bát Thành. Nhưng mà lần lượt Thầy sẽ hướng dẫn cho các bác phải giữ gìn từng chút của giới luật. Chứ đâu phải nói suông suông được. Nói thì nó dễ nhưng mà phải ôm từng pháp, phải giữ gìn giới luật thì chúng ta mới thực hiện được. Có phải không? Các con thấy đi phải lần lượt từng bước từng bước, chứ không thể. Nhưng đưa lên cái pháp này để cho các cụ, vì cái cơ thể của các cụ ngày nay nó mạnh chứ ngày mai nó đau ốm. Nó nhức nhối chỗ này không chừng, nhức nhối chỗ kia không chừng, hoặc là nó chết thình lình chưa có xong.
(04:01) Cho nên nó có cái pháp an ổn các cụ để giữ cái tâm mình bất động trước khi mà mình chưa có hoàn thành được cái gì hết. Nó đỡ cho các cụ để khi mà chúng ta trong cái cận tử nghiệp, chúng ta có cái pháp chống đối như một cái thanh gươm hùng kiếm, mà chúng ta nắm trong tay. Thì ác pháp đến, chúng ta có thể mà chặn nó đứng ở ngoài cổng mà nó không vào được, nó không xâm chiếm được. Nhờ đó mà các bác, các cụ lớn tuổi người ta tin tưởng. Lòng tin tưởng người ta, người ta nắm cái pháp Như Lý Tác Ý đó mà người ta chống trả. Chứ không khéo người ta không có pháp nào, thì người ta chịu trong nghiệp lực nó lôi đi.
Các con thấy phương pháp của Phật rất tuyệt vời đó. Nó dám khi mà chúng ta chưa có gì hết, mà nó dám dạy cho chúng ta nắm được cái phương pháp Như Lý Tác Ý, để mà chúng ta đối với cái nghiệp. Nó ghê gớm lắm. Vì vậy mà cái lòng tin của các bác, các chú, Thầy chỉ kêu gọi các bác, các chú là luôn luôn gặp lúc nào mà cái sự đau khổ nó đến với các bác, các chú thì hãy gọi Thầy. Các bác, các chú có nghe chưa? Gọi Thầy để làm gì? Để thêm cái Tín Lực, cái lòng tin đó, để mà Thầy trợ giúp cho cái lòng tin của các bác, các chú. Chứ còn nếu không thì các bác, các chú làm sao chịu nổi, chịu nổi cái nghiệp.
Các con nghe Thầy dặn hồi mai chưa? Đó là như vậy, rõ ràng là Thầy quyết định là có cái niềm tin rất lớn. Và từ đó, khi mà các bác, các chú còn sống, lần lượt Thầy có những bức thơ để Thầy gửi cho các bác, các chú là khuyên họ cố gắng phải giữ gìn những giới luật gì. Thì các con biết đây là nó phải thực hiện từng chút, từng chút của nó. Để khi mà còn sống, mà đến khi chúng ta hoàn thành được cái con đường, mà chúng ta làm chủ bốn sự đau khổ này. Đó là cách thức tu như vậy đó.
Nhưng mà Thầy biết phải là khích lệ người ta như thế nào, giúp đỡ cho mọi người như thế nào? Để cho tình Thần người ta vững mạnh, người ta vững chắc, để người ta đạt được cái mức tu tập làm chủ người ta, ngay từ cái phút đầu vẫn làm chủ được. Do những cái lời hỏi này nó rất là thực tế và cụ thể. Cho nên nghe Bát Thành thì chúng ta mừng quá, có một pháp duy nhất, khỏi cần tu nhiều pháp, thì sướng quá rồi. Tối ngày ngồi, cây chổi mà quét thì ngon quá rồi. Nhưng mà không ngờ cầm cây chổi mà quét, mà để đi đến khi mà mình còn sức khỏe, mà mình như các bác thì phí phí uổng. Mình phải tập những pháp nào cho nó căn bản hơn.
Còn các bác bây giờ chỉ còn có cầm cây chổi mà quét đỡ mà thôi. Nhưng mà nhờ cái Tín Lực, nhờ cái lòng mà tin ở Thầy. Và cái niềm tin đó gặp những cái khó khăn thì cứ gọi Thầy, để cái tưởng của các bác mới bắt gặp cái niềm tin đó, nó bắt gặp được cái từ trường. Từ đó nó hiện ra những cái điều kiện mà các bác mong muốn, nó làm cho cái niềm tin đó tin sâu hơn. Cho nên nó át, tức là nó dẹp đi những cái nghiệp lực của các bác đang dày vò trên thân tâm của các bác, các cụ. Các con hiểu điều đó không? Đó là Thầy đã biết được cái tâm niệm đó, mà Thầy đã cái tình cảm đó mà Thầy đã đem mình để mà làm các điều này cho các bác, các cụ.
(06:47) Cho nên các vị còn tuổi trẻ thì hãy tập tu từ lần lượt từ chín cái món ăn này chúng ta phải tập tuần tự hết. Và đồng thời cho đến khi mà Thầy thấy được, bây giờ cần ôm một cái pháp nào trong tám cái pháp này mà đi, thì Thầy sẽ chỉ đạo cho mấy con sẽ đi trong cái pháp này. Tức là mở cái cuộc chiến đấu tận cùng của trận giặc sinh tử là cái người tuổi trẻ. Còn cái người tuổi già thì bây giờ cầm cây chổi mà quét đỡ cái hột rác nào là đỡ hột rác nấy thôi. Chứ chưa có phải mà mấy bác, mấy chú, mấy cụ mà già mà tu tập được. Các con hiểu điều đó. Đó thì hôm nay được nghe những lời Thầy dạy và những lời tâm huyết để các con hiểu được cái đường lối của đạo Phật. Nó rất thực tế để chiến đấu cái mặt trận sinh tử, để làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp người.
(07:59) Phật tử: Trong câu hỏi thứ bảy: “Kỳ này con đi đến Chơn Như với ý định học thọ Bát Quan Trai tám giới do Thầy điều khiển chỉ dạy. Con y cứ lộ trình này vững trú nơi đây hoặc ở Chơn Như hoặc về trú xứ của mình. Như vậy có được không thưa Thầy?”
Trưởng lão: Trong cái vấn đề mà câu hỏi này thì Thầy xin trả lời cho cá nhân riêng cho con. Thì cái câu hỏi này thì thật sự ra khi về đây thọ Bát Quan Trai chỉ là mới gieo duyên của người cư sĩ trong đạo Phật mà thôi. Còn thực sự ra thì mấy con đã tu tập nhiều rồi chứ chưa phải là mới. Nhưng mà vì cái thọ Bát Quan Trai hôm nay là muốn ghi lại những cái hình ảnh cụ thể bằng cách là cái sự truyền giới, bằng cách là cái sự tụ tập của mấy con. Để nó lưu lại trong những hình ảnh để giúp cho những người từ thuở giờ người ta chưa biết thọ Bát Quan Trai như thế nào người ta sẽ…
Ở đời người ta biết người ta ganh tỵ dữ lắm, nghe người khác tu được là họ ghét lắm. Cho nên người mà tu được, đức Phật nói mình có được công đức nào thì đừng có nói ra, có phải không? Mà mình cần phải giấu. Còn mình có lỗi lầm nào thì phải phát lồ ra, ông Phật dạy như vậy mà. Thì mấy người đó họ có tu chứng, như Thầy Mật Hạnh nè, Thầy Chơn Thành nè. Còn những Thầy khác người ta tu được, người ta có dám nói ra không? Ông Phật đã cấm rồi mà. Mà bây giờ con hỏi tu được hay không, mà Thầy có dám nói không? Thầy nói vậy nó trật ông Phật thì sao? Phải không?
Cho nên bây giờ về cái vấn đề mà niềm tin hay không niềm tin là mình phải thấy ngay cái chỗ này. Không phải, mấy ông đó ông tu cho mấy ông chứ không phải tu cho mình được đâu. Con có hỏi nói nghe nói ông tu chứng quả A La Hán rồi, ông giải thoát rồi, ông có giúp cho được con cái gì đâu không? Ông tu cho ông mà. Mà bây giờ con thấy rằng, Thầy dạy con nè. Ngay người ta chửi con, con biết đó là sân, con không giận. Thì ngay khi mà con không giận, con biết nó là giải thoát cho con, thì đó là con ở bờ bên kia rồi chứ gì. Đức Phật đã xác định điều này rồi chứ gì? Ngay người ta làm gì mà tâm con không động thì đó là con ở bờ bên kia rồi, con không ở bờ bên đây. Thì đây là Niết Bàn, mà đây là chứng quả A La Hán rồi chứ còn đòi gì nữa. Phải không? Con thấy rõ ràng. Đây là cái sự xác định cho con biết con làm được, cái quả A La Hán nắm trong tay.
Vậy thì Thầy Chơn Thành mà tu nay 5 năm, Thầy Mật Hạnh tu nay 4 năm, 5 năm. Thì quý thầy đó có được nắm ở trong tay như vậy không? Có nắm được cái quả này không? Chắc chắn là người ta phải nắm được, người ta mới bền chí người ta tu 5 - 6 năm, người ta không bỏ cuộc chứ. Con hiểu chỗ đó không? Như vậy là tự mình xét thấy cái bờ bên kia với bờ bên đây mình làm được chưa? Mình làm được từng chút từng giây mà mình cứ nhảy qua bờ bên đây mình chịu khổ? Mà mình hỏi quả A La Hán ở đâu? Thật sự ra nó nắm trong tay mấy con. Cái quả của Phật giải thoát là nắm trong tay.
Con đọc trong những cái lời mà Thầy đã dạy ở trong cái “Diễn Đàn Chơn Như”, cái quả A La Hán nó ở chỗ nào thì các con biết rất rõ. Vì bờ bên đây, bờ bên kia các con cũng biết rõ quả A La Hán ở đó rồi. Có phải không? Cho nên con khỏi cần hỏi ở Tu viện nữa. Thầy nói khi một người bước chân vào Tu viện Chơn Như là Thầy đã trao cái quả A La Hán rồi. Mà tự mấy con ở bờ bên đây thì mấy con chịu. Tức là Thầy bảo ăn là đừng phi thời, ngủ là phá cái hôn trầm thùy miên, sống là độc cư trầm lặng. Mà những cái giới này nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng phải chấp nhận hẳn hòi thì như vậy là các con sẽ ở bờ bên kia hết rồi. Như vậy là vào Chơn Như là giải thoát gì, là vào đất Phật rồi. Các con hiểu chỗ này chưa?
(11:12) Mà bây giờ các con vô đây rồi, mà các con ăn phi thời, các con nói chuyện thì bắt đầu các con ở bờ bên kia hết ráo rồi. Thì dù là Chơn Như cũng là ở thế giới thế gian rồi chứ đâu còn là ở Chơn Như được nữa. Phải không? Rồi mai mốt các con xách gói thì các con về cũng như thường vậy thôi, chứ đâu có ở bờ bên kia được. Có đúng không? Mà vô đây, các Thầy bảo mấy con sống như vậy, bây giờ một giờ, hai giờ, một ngày, hai ngày, một tháng, hai tháng. Cho nên đức Phật nói bảy ngày, bảy tháng, bảy năm. Mà nếu bảy năm mà con sống được như vậy thì bảo đảm con là quả A La Hán, bây giờ cái gì mà con không thông. Có đúng không? Con hỏi mấy người kia, mấy người kia họ tu lợi ích cho họ, chứ họ có cho con cái gì đâu? Mà con hỏi làm gì, phải không? Đâu có làm gì. Con nói: “Hỏi cho biết coi có người tu chứng không, đặng mình tin chứ gì?” Tức là chứng tỏ rằng mình còn bán nghi bán tin, chưa đúng là mình tin Phật pháp. Phải không?
Phật tử: Dạ thưa Thầy, con muốn hỏi chỗ này là để đỡ cho Thầy làm việc đỡ quá tải. Con muốn rằng là giúp cho Thầy.
Trưởng lão: Đúng rồi, con có lòng thương thì tốt đó. Nhưng mà Thầy nói như thế này để con thấy nè. Bây giờ chúng ta đứng trước một cái khối quá vĩ đại. Các con biết không? Cái khối Đại thừa con biết, trời đất ơi! Nếu mà nó xông đến đây, nó giậm Thầy chắc nát tan hết, cả cây cỏ này nó cũng sạch nữa. Đông lắm mấy con. Nhưng mà bây giờ Thầy lôi mấy ông này ra, nó biết mặt hết rồi, nó đạp sạch bóng hết rồi, Thầy còn ai. Thôi tốt hơn là mình Thầy chết thôi. Thầy dám nói, phải dám hy sinh, đừng có để người khác người ta không nói mà người ta hy sinh, tội người ta. Các con hiểu điều đó không? Mấy ông đó có nói không? Họ chỉ tu cho giải thoát thôi. Phải không? Mà bây giờ lôi họ ra để họ chịu đựng với Thầy sao? Các con hiểu điều đó chưa? Cho nên mình Thầy thôi chứ. Mặc dù Thầy mệt, nhưng mà Thầy nghĩ rằng còn có người nắm cái ngọn đuốc sau này, chứ không khéo ngọn đuốc này nó sẽ mất.
Bao đời ông A Nan ông tịch rồi thì đạo Phật đã mất rồi mấy con. Cái người đệ tử cuối cùng 120 tuổi trong cái thời đức Phật. Người đệ tử của đức Phật cuối cùng chết là ông A Nan, là người đệ tử cuối cùng chết đó mấy con. Mà từ đó đạo Phật nó mất đi đó. Cái người đệ tử là cái người sống mà đúng hạnh, đúng giới luật là ông A Nan. Mà ông A Nan mất thì đạo Phật mất rồi. Mà chỉ có ông A Nan sống một trăm hai mươi tuổi. Mà cái người đệ tử chết cuối cùng là ông A Nan đó. Còn những người khác không phải đệ tử Phật đâu. Các con nhớ lịch sử nó hẳn hòi như vậy. Mà bây giờ mà Thầy đem hy sinh cho những cái đám đệ tử của Thầy nó chết sạch, thì chắc chắn là chết trước Phật thì thôi rồi. Hết rồi.
Cho nên con thấy những đệ tử của Phật, có một số người chết trước Phật như ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên, là những cái tay thượng thủ mà họ ra đi. Thậm chí như ông La Hầu La là cái chú nhỏ nhất mà ông này ông tu xong ông đi đó. Ông đi trước mẹ ông, ổng đi trước đức Phật, ông đi trước cha ông. Đi trước, ông đi trước hết. Rồi tới các cái vị thượng thủ như Xá Lợi Phất, mục Kiền Liên, la Hầu La cái ông Ưu Ba Ly, ông A Na Luật. Những người này họ lần lượt họ đi. Còn ông A Nan là người cuối cùng, sau cùng ông mới đi. Ông tới 120 tuổi ông đi.
(14:35) Mà trong thời ông A Nan là đã Phật pháp nó đã sai hết rồi. Người ta dạy sai hết. Ông A Nan chỉnh lại những cái sai đó, họ nói ông A Nan già rồi, ông nói tầm bậy tầm bạ mà mấy ông cũng nghe nữa à? Các con thấy không? Phật pháp nó suy từ đó. Cho nên ông A Nan mất là mất gốc hết. Người ta phủ chụp lên hết tất cả các pháp sai trên đó rồi. Ngay ông A Nan còn mà chỉnh, người ta đã nói: “Ổng lẫn lộn rồi, ông nói trật. Tui dạy như vậy là đúng, còn ông dạy như vậy là sai” thì đủ biết rồi. Ông A Nan sáng suốt thông minh lắm nhưng mà cái điều kiện là một mình không có thắng nổi. Thầy gan dạ, chứ Thầy lơ mơ là thắng không nổi đâu mấy con. Mấy con Thầy gan dạ, mấy con còn dám ngồi đây đó, chứ mà Thầy nhát gan thì mấy con không ngồi đây được đâu.
Cho nên con nói thì con biết Thầy thương con, phải có người giúp đỡ Thầy. Nhưng mà muốn chụm hết cả đám hay sao? Người ta làm cỏ, người ta nhổ sạch gốc, chứ người ta không để cái gốc của mình đâu. Không, Thầy nói thật mà, mấy con biết mà. Nó là một cái điều kiện khó, nó làm cho tốt lại Phật giáo là điều kiện khó. Khi nó đã xấu mà làm tốt lại rất khó. Cũng như các con biết cái giáo đoàn của Phật ngày xưa đã chia ra hai phái trong khi đức Phật còn sống.
Các con nhớ Thầy nhắc lại cái lịch sử, khi đức Phật còn sống, thì Đề Bà Đạt Đa đã chia phái với đức Phật rồi, phải không? Đề Bà Đạt Đa đó là một cái người bà con của Phật chứ không phải ai xa lạ. Mà khi thành lập cái giáo đoàn, thì lúc bấy giờ Đề Bà Đạt Đa mới chia cái giáo hội ra. Từ đó chia ra, chứ không phải 200 năm sau mới là chia bộ phái. Mấy con biết người ta chia ngay từ lúc đức Phật còn. Cho nên cái tư tưởng, cái ảnh hưởng đó khi mà Đề Bà Đạt Đa mất đi rồi, nhưng mà cái tư tưởng của chiến tranh nó vẫn còn cái tư tưởng của Đề Bà Đạt Đa chứ chưa phải mất.
Bởi vì một khi có kiến chấp có tư tưởng nào mà xen vô rồi thì nó lệch rồi. Mà từ đó về sau cái tư tưởng này nó đã phá đi những điều kiện của đức Phật. Bởi vì đạo Phật là đạo tự giác, tự lực, còn cái này nó có cái khuôn phép của nó. Cho nên vì vậy mà nó đưa ra giới luật, nó bắt buộc người ta phải sống. Rồi mà sống không đúng thì bằng cách này bằng cách khác. Cho nên ở đây đạo Phật là tự do, cho nên nó khác. Cái sự mà tự do của đạo Phật nó khác, nó không có khuôn khổ. Anh tự nguyện anh sống được anh sống, anh sống không được thì thôi, chứ không ép buộc.
Cho nên lần lượt người ta rút theo cái phe này. Vì cái phe này ăn uống phi thời này nọ kia dễ dàng. Còn anh chấp nhận được anh vô đây. Còn bên đây người ta ăn ba bữa, còn ông ăn có một bữa, tui ăn sao nổi. Tui qua bên đây, tui cũng tu vậy, nhưng mà tui ăn ba bữa, tui sướng hơn. Mà tui đi chơi được, tui ngồi quán được, phải không? Tui ăn mặc đẹp được, còn ông bắt tui lượm ba cái vải mà thây ma này tui mặc thì tui thấy nó tệ quá, rồi làm sao? Ông bắt ba y một bát. Trời mưa ướt hết trơn hết trọi, rồi tui lấy gì tui choàng cái thân. Tôi lạnh lẽo, còn người ta ba bốn bộ đồ, phải không? Có sung sướng không? Cho nên trong cái phạm hạnh của đạo Phật nó quá khó. Cho nên tui tự giác không nổi thì tui rút qua bên đây vì có cái chỗ tui đứng mà.
Cho nên ngay từ nó phân hóa là tại chỗ cái giới luật của Phật và cái tự nguyện của Phật, lần lượt người ta kém cái tự nguyện đi. Cho nên từ đó người ta xuyên qua cái hệ phái bên đây mà người ta ở. Cho nên từ đó khi mà đức Phật mất rồi, ông A Nan mất rồi thì kể như toàn bộ nó thay đổi hết. Ai đi tu mà dại gì ăn ngày một bữa. Cái ông này cũng ăn được mà ông cũng làm Thầy chùa, cũng người ta lạy lễ ông đàng hoàng. Tui cũng làm Thầy chùa mà tui ăn chi cho nó khổ quá. Người nào cũng bắt chước nhau thì bây giờ các con thấy có ông Thầy nào ăn ngày một bữa không? Các con thấy đó là cái ảnh hưởng sai mà, nó phạm tới vậy. Bây giờ mà Thầy làm lại cái này là chuyện đâu phải dễ đâu? Không phải chuyện dễ đâu.
(18:11) Thầy nghĩ rằng nếu mà đời Thầy mà hoàn toàn mà Thầy mất mà không có người thừa kế, nó sẽ chụp hết lại. Ai lại không muốn sống sung sướng? Ăn ngày một bữa! Ai cũng muốn chạy theo dục lạc. Rồi mấy con là cư sĩ, bây giờ mấy con làm sao đây? Muốn theo đạo Phật là theo ai bây giờ đây? Hồi nào tới giờ chưa có Thầy chấn chỉnh lại cái giới luật của Phật chứ gì? Cái phạm hạnh của Phật chứ gì? Mấy con đâu có biết phải không? Bây giờ cứ vô chùa thôi, người ta dạy sao thì cứ tin vậy thôi. Nhưng bây giờ đùng một cái, là bây giờ mấy con đọc lại, mấy con thấy. Bây giờ hôm nay mấy con mới ngồi đây mà nghe Thầy nói về giới luật. Nghe và nói những cái pháp hành nó thực tế cụ thể, đối mặt với tham, sân, si của chúng ta, với ác pháp. Còn ngày xưa có được đâu, các con thấy không có đâu. Người ta nói tu cái này, tu cái kia, tu cái nọ, nhưng mà cuối cùng thì không có gì hết.
Thôi để lần lượt Thầy trả lời. Còn về cái ngày mai, thì có thể nói rằng những cái ngày mốt là bắt đầu vào cái thọ Bát Quan Trai rồi mấy con. Thì có thể ngày mai thì Thầy dành trong một giờ hai giờ, Thầy sẽ tập dợt, mấy con sẽ tập dợt chung. Tức là mấy con lui lại đằng kia đặng cho trống ở trên này. Bắt đầu Thầy kêu từng người lên đây Thầy tập dợt, không có bỏ người nào hết. Do cái này, tập dợt hết bao nhiêu đây là mấy con sẽ thấy là quá đông. Hết mấy ngày.
Nghĩa là người nào cũng được tập dợt hết phải không? Mời mấy con vô đây tập dợt hết. Từ trong ra ngoài này tập dợt hết, phải không? Bây giờ mấy con thụt xuống dưới cho trống ở đây đi. Thầy cho một lần vô ba người. Người đi hàng đó, người hàng bên đây, người hàng bên đây, ba người tập một lượt. Ba người này xong rồi, ba người khác lên. Phải không? Rồi cứ tập lần lượt đi Thân Hành Niệm, hoặc là Chánh Niệm Tỉnh Giác hoặc là ngồi hít thở hơi thở. Tập tu theo kiểu mà Thầy hướng dẫn, thì do đó mấy con cứ tập như vậy hết phải không?
Như vậy là ngày mai bắt đầu mình phải tập. Cái này mình dừng lại để ngày mốt, bữa kia, khi đó Thầy trả lời luôn hết. Chứ bây giờ mấy con hỏi rồi, mà mấy con còn đang ở trong cái sự mà tìm hiểu để hiểu, mà không nói cho mấy con hiểu thì làm sao? Nhưng mà nói thì nó phải lâu chút chứ. Nói phải rải rộng ra, chứ để nếu nói hẹp quá thì nó cũng tội.
(20:28) Đi kinh hành làm sao nó nặng đầu, nó nhức đầu mình được, phải không? Các con thấy không? Mình cứ đi kinh hành. Đi kinh hành cũng là tĩnh giác chứ đâu có gì. Mà hơi thở cũng chỉ là cái chỗ nương tựa tĩnh giác chứ có gì mà quan trọng. Nó không quan trọng.
Đó là cách thức để nhắc nhở mấy con thấy về vấn đề mình cố chấp trong hơi thở. Mình cứ nghĩ là cái hơi thở, là sẽ cái con đường đưa mình đi vào tận cùng con đường của sự giải thoát này. Không phải đâu. Hơi thở nó chỉ giúp lợi ích cho mình trên cái quãng đường. Cho nên đức Phật nói mình tu Định Niệm Hơi Thở nó có lợi ích, nó có quả lớn. Nó có lợi ích, chứ nó không phải là đạt được cái mục đích. Mà nó có lợi ích cho mình trên bước đường.
Ví dụ như bây giờ thân tâm mình, mình ngồi tu Tứ Niệm Xứ. Bây giờ cái tâm mình nó khởi lên một cái niệm gì, nó phiền não gì đó thì mình dùng cái hơi thở. Để mình an trú được cái tâm mình trong hơi thở, thì mình tác ý: “An tịnh tâm hành” để làm cho cái tâm mình nó an ổn lại. Bây giờ cái thân mình đau nhức thì mình trú trong hơi thở mình tác ý, thì mình đuổi cái bệnh đau của mình ra. Đó là cái mục đích nó chỉ dụng như vậy thôi, chứ nó không có làm cái gì khác hơn hết. Nó không có làm gì được hết. Đó cho nên bây giờ cũng còn về hơi thở thì cô này lại gặp cái trường hợp khác hơn nữa.
Bây giờ cô lại đi Thân Hành Niệm, đi chậm. (Thầy đọc câu hỏi tiếp): “Khi Thân Hành Niệm chậm con cũng bị cảm giác cứng ở bụng như khi con tìm cái phồng xẹp lúc thiền. Vậy con phải làm sao?”
Trưởng lão: Bây giờ nó bị, mình cứ tập trung ở đây nè. Khi mà cái tâm của mình, khi mà nó yên ổn thì bắt đầu nó cũng về ngay chỗ cái điểm tập trung, chỗ cái bụng của mình. Do đó bây giờ đi Thân Hành Niệm mà vẫn nó tập trung ở tại bụng, chứ không tập trung ở tại cái thân hành của nó. Thì đó mấy con thấy, bây giờ đưa cánh tay ra mà nó biết cái bụng, chứ nó không có biết cái cánh tay ra. Thì bây giờ mình biết làm sao bây giờ? Do đó đâu có cái gì. Bây giờ nó lỡ như vậy rồi, nó quen cái chỗ điểm tập trung của mình ở phồng xẹp rồi. Thì bắt đầu, thì mình cứ tác ý đưa cánh tay ra để làm cho nó tỉnh, để làm cho nó lớn ra. Rồi mình đưa cánh tay ra như thế này, thì lần lượt mình nhờ tác ý đó để cho nó nhận ra. Còn bây giờ mình thấy mình đưa ra như thế này, mình làm theo cái lệnh sơ sơ của mình, thì làm sao nó không tập trung trong bụng mình được.
Cho nên tiếc vì cô không có ở đây. Phải có ở đây thì Thầy sẽ dạy cách thức để mà phá cái này thì nó mới có cái đường đi. Nhưng mà nói phá vậy chứ nó khó. Nó khó mấy con. Khi mà nó có cái bệnh rồi, mình muốn cho nó hết bệnh, nó không phải dễ. Nó rất khó chứ không phải dễ. Đó là những cái điều mà rất khó khăn. Bởi vì mình tu một cái pháp mà mình cứ ôm cái pháp đó hoài, nó thành một thói quen ở đó. Cho nên ở đây con thấy Thầy dạy mấy con cứ pháp này rồi tới pháp kia, cứ thay đổi chứ không có trụ. Nó trụ, nó thành cái thói quen, lúc đó sẽ khó.
Rồi về cái phần thứ ba, các con thấy đi Thân Hành Niệm thôi, tức là lấy cái hành động ngoại của mình. Không còn ở chỗ hơi thở phình xẹp nữa mà vẫn tập trung ở bụng thì nó là một cái chướng rất lớn cho cái sự tu tập. Uổng hết! Thầy nói nếu mà không thì cái cô này uổng hết một đời tu tập. Ham tu mà rồi tu sai theo cái pháp phồng xẹp của thiền Minh Sát Tuệ. Đến bây giờ nó trở thành một cái bệnh, kêu là cái bệnh ở bụng, nó cứng. Khi mà tập trung nó cảm thấy cái bụng của mình nó cứng lên, cứng ở bụng. Thì các con thấy nó rất là tai hại. Bây giờ nó thành ra một cái bệnh của cơ thể. Bởi vì cái tâm của mình tập trung ở đâu thì ở chỗ đó phải như thế nào? Ví dụ như bây giờ con tập trung vào cái chỗ ly tham, ly sân si thì nó sẽ ly tham, sân, si chứ. Còn bây giờ mình tập trung cái tâm của mình ở bụng mà không ly tham, sân, si thì ở đó nó sẽ thành cái bệnh ở đó. Nó sẽ cứng hoặc là nó có cái cảm giác gì ở đó, bởi vì tập trung nhiều ở đó.
(24:39) Cho nên nó rất nguy hiểm. Nhớ những cái điều này, mà lấy cái kinh nghiệm này để mà sửa sai cho mình. Đừng có để cho mình bị tập trung tâm mình chỗ nào. Mà chỉ nên nhớ rằng luôn luôn tập trung chỗ ly tham, ly sân, si cho Thầy thôi. Nghĩa là “Quán ly tham, quán ly sân, quán ly si” cho Thầy, cái điều đó là điều cần thiết. Bởi vì mình tập trung chỗ ly tham, sân, si mà nó tạo cho chúng ta ly được tham, sân, si thì cái đó là quá quý. Nhưng mà ở đây chúng ta có tập trung cái chỗ tham, sân, si đâu? Tham, sân, si là cái trạng thái của nghiệp lực bao vây mình. Mà nó trụ làm sao được ở chỗ đó? Cho nên mình dùng cái lực không tham, sân, si mà đẩy lui nó ra. Cho nên nó không tác động được trong cái thân tâm của chúng ta, chứ có gì đâu. Cho nên nó không thành bệnh được.
Phật tử: “Tâm Xả con có tiến bộ chút ít thì hôn trầm lại tấn công, con phải làm sao bây giờ? Biết ơn Thầy. Kính thư!”
Trưởng lão: Nghĩa là khi mà tâm Xả mình được yên lặng, nó không có gì hết thì hôn trầm tấn công. Rõ ràng là Thầy đã dạy cho mấy con biết là chỉ có phương pháp đi kinh hành, mà đi Thân Hành Niệm. Mà bây giờ cô đi Thân Hành Niệm để phá hôn trầm thì nó bị cứng bụng. Nó tập trung ở đó thì làm sao đi được nữa? Mà bây giờ hễ mà mình ngồi mình xả tâm, thì nó yên. Hễ nó yên thì nó bị rơi vào hôn trầm thùy miên. Thì chỉ còn có cái pháp duy nhất là mình phải chịu khó, là mình đi Chánh Niệm Tỉnh Giác. Tức là đi kinh hành với một cách bình thường thôi, phải không? Nhưng mà đi cái gót mình nện mạnh, cái chân mình đạp mạnh. Thì mình phải chịu khó, bởi nó chỉ còn có cái phương pháp duy nhất đó mà thôi.
Lẽ ra cái phương pháp Thân Hành Niệm mà không bị cái chướng ngại đó thì cái phương pháp Thân Hành Niệm là phá hôn trầm đệ nhất pháp. Nghĩa là vừa tác ý từng hành động mà vừa đi thì không có hôn trầm thùy miên nào nữa hết. Nhưng mà cô lại bị kẹt rồi, khi mà dùng cái pháp Thân Hành Niệm thì cái bụng nó cứng lên. Nó cứ bắt tập trung ở trên cái bụng mà đi không được nữa, nó cứng quá đi cũng không được nữa. Ai đời đâu mang cái bụng cứng ngắc mà làm sao đi, cho nên đi không được. Cho nên nó cũng là cái chướng ngại của cô. Nhưng mà điều kiện, hiện bây giờ thì cô nên đi cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác. Tức là đi mười bước, hai mươi bước thì đứng lại tác ý một lần. Rồi lại đi mười bước, hai mươi bước rồi tác ý một lần. Thì như vậy nếu mà có cô ở đây thì bắt buộc cô phải tập trở lại cho đúng cách thì để mà xả bỏ cái pháp môn mà từ lâu cô đã tu tập thành một cái chướng, thành một cái bệnh. Đó là phương pháp phồng xẹp của thiền Minh Sát Tuệ.
Đó thì các con thấy rõ ràng người ta đưa ra một pháp môn, cái người tu mà nhiệt tâm tu thì bệnh thì cái người đưa ra họ có chịu trách nhiệm hay không? Đó, như cô Kim Tiên cô bệnh như vậy đó. Ai chịu trách nhiệm cho cô. Hay là cô chịu mang cái bệnh đó suốt đời cô. Thì các con thấy nếu mà đặt thành một cái vấn đề một cái người tu mà lỡ rối loạn thần kinh đi. Tập trung, mình bị rối loạn thần kinh đi, rồi nó phát cái cơn tưởng lên. Tức là nó phát cơn điên lên thì lúc bấy giờ cái người mà đưa ra cái pháp mà tập trung như vậy đó.
Với cái người mà nhiệt tâm tha thiết tu, người ta đem hết sức lực, người ta tu thì người ta mới điên. Chứ còn mình tu thường thường, mà tu chơi chơi, tu mà không nhiệt tâm, tu lấy có. Mình cũng quyết tu, nhưng mà mình tu chưa đúng cách, mình chưa biết cách ức chế tâm mình thì mình không có bệnh. Thì đó, mình thấy như thường, không có gì hết mà tui tu không tới đâu. Còn cái người mà người ta nhiệt tâm tu thì người ta bị dính, người ta bị rối loạn thần kinh. Cho nên khi mà cái ông thầy, ông đưa ra cái pháp, ông không có chịu trách nhiệm. Khi mà người bệnh đó, ông có chịu trách nhiệm không? Nghĩa là ai tu điên thì ráng chịu. Còn riêng ông, ông có tu tới nơi đâu. Cho nên ông cũng đâu có biết cái điên đó nó như thế nào đâu. Nhưng mà rất tội cho những người đệ tử đó.
(28:26) Cho nên ở đây hầu hết các con thấy Thấy dạy các con là xả ly cái tâm của mình. Nghĩa là bây giờ, không lẽ bây giờ, giờ này muốn ăn, con không cho nó ăn rồi con điên sao? Trưa phải cho ăn chứ. Bây giờ, giờ này đâu phải ăn phi thời. Thì không lẽ mình cấm nó như vậy rồi mình điên sao? Mình có tập trung như thế nào mấy con? Các con thấy không? Cho nên cái tu ly dục, ly ác pháp này nó rất là thực tế, cụ thể. Bây giờ cái tâm của mình, người ta chửi mình thì mình tức giận lên. Thì mình biết sân là nó khổ, cho nên mình bảo: “Cái tâm không có sân, như cục đất đi, người ta chửi là nhân quả, người ta chịu”. Như vậy, mấy con tu vậy mấy con có điên được không? Mấy con còn giải thoát nữa chứ điên. Bởi vì mình không giận là mình giải thoát chứ gì? Tui thấy tui thanh thản quá! Vậy có điên không? Cái pháp của Phật nó thực tế tức là ngăn ác, diệt ác. Chứ còn thực sự mà các con đi kinh hành tập tỉnh thức là mục đích để áp dụng vào chỗ này. Chứ đâu phải mấy con tu để tỉnh thức, để không niệm, để cho mấy con đi tới cái chỗ mà giải thoát đâu? Có bao giờ mà Thầy nói tu Chánh Niệm Tỉnh Giác mấy con đi kinh hành vậy, một giờ, hai giờ, một ngày, hai ngày thì mấy con sẽ chứng đạo đâu? Bao giờ có điều đó đâu. Mà chính chứng đạo là cái chỗ mà các con biết xả tâm.
Cho nên khi mà tại sao mình có sự tranh chấp nhau? Là tại vì mình không có sự xả tâm. Chứ mình có sự xả tâm thì không tranh chấp ai hết. Nghĩa là không có tranh hơn tranh thua ai hết, hoàn toàn cứ xả tâm ngày đêm thì mấy con thấy chúng ta đoàn kết như nước với sữa. Nó không có còn cái sự mà cái tư tưởng này và cái tư tưởng khác. Nó không có sự chống trái nhau nữa. Bởi vì đạo Phật nó đưa ra là cái đạo Phật rất là đoàn kết. Nhưng mà chúng ta không hiểu, chúng ta không xả tâm, cho nên nó không đoàn kết. Bởi vì các con thấy tùy thuận mà tùy thuận theo ý của người ta, mình sống theo ý của người ta.
Các con có đọc cái bài kinh Khu rừng Sừng Bò không? Khi mà đức Phật đến thăm cái khu rừng đó là thăm ba vị Tôn giả đang tu trong đó. Ba người đồng tu trong đó. Thì đức Phật hỏi: “Vậy chứ mấy ông tu như thế nào?”, “Con tu, nghĩa là con sống biết ý muốn của người khác”. Cho nên ở đây rất là hòa hợp không có gì hết. Mình sống (theo) cái ý của người ta thì làm sao mà không hòa hợp. Nhưng mà mình sống tùy thuận như vậy, nhưng mình không bị lôi cuốn vào ác pháp. Thiện pháp thì luôn luôn mình sống chung nhau, mà ác pháp thì coi như là mình tùy thuận nhưng mà mình không bị lôi cuốn. Cho nên Thầy nhắc nhở mấy con nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng là ngay cái chỗ này..
Cho nên ở đây chúng ta là anh em, chị em nhau chung trong một cái gia đình của đạo Phật như thế này thì luôn luôn chúng ta không có nên mà có những cái tư tưởng này mà tư tưởng kia. Mà chúng ta tùy thuận nhau mà chúng ta sống, chúng ta biết hòa hợp với nhau. Tùy duyên ai cũng lo cái phận sự của mình. Người mà có cái nhân duyên gì với mình thì mình sẽ cho mượn kinh sách, mình sẽ hướng dẫn. Mà không có nhân duyên thì thôi nhất định là không nói. Cho nên mình gần gũi với mọi người, có nghĩa là người ta thấy cái hành động tu của mình, người ta thấy cái đức hạnh của mình, người ta thấy cái gương hạnh của mình, người ta mới hỏi. Thì chừng đó nó có cái duyên đó mình mới dạy. Chứ người ta chưa có gì hết thì mình không nói gì hết. Và đồng thời thứ nhất là mình đừng chê ai hết. Người nào mình cũng đừng có chê. Người như thế này, thế khác mình đừng có nói gì hết. Thì do như vậy làm sao mình sống không an ổn? Và chính cái sự an ổn đó nó mới là xả được cái tâm. Chứ còn không khéo thì chướng ngại ở trong tâm mình hoài thì mình tu không có được. Do trong cái chỗ mà tu hành như vậy thì mấy con thấy, cố gắng mà lấy những cái kinh nghiệm, lấy những cái sai của những người khác mà sửa lại cho mình tu đúng. Nhớ những cái pháp của Thầy là những cái pháp tu rất là tuyệt vời và đúng. Và nó rất đúng những cái điều mà đức Phật đã dạy chúng ta.
(31:49) Thầy không có dạy ngoài những cái điều mà cái sai pháp Phật, mà Thầy dạy đúng ở trong những cái lời của đức Phật dạy. Những cái điều mà đức Phật đã làm được cho mấy con. Cho nên từ đó những cái bộ mà “Những lời Phật Dạy” nó ra đời, để cho con thấy đây là lời Phật dạy, chứ Thầy không có dạy khác chút nào hết. Cho nên thậm chí như cái pháp Thân Hành Niệm, đi 20 bước, ngồi lại hít thở, tác ý từng hành động đều là của đức Phật đã dạy. Nhưng mà Thầy biết kết hợp lại cho đúng cách để mà chúng ta trở thành cái pháp Thân Hành Niệm kiên cố như cỗ xe. Người ta nói đọc cái pháp Thân Hành Niệm, nhưng mà người ta quên hai chữ kiên cố như cỗ xe, trở thành những căn cứ địa. Người ta quên những cái danh từ đó, cho nên người ta chỉ tu ở trong hành động.
Người ta cho rằng những hành động như đi, đứng, nằm, ngồi, mặc y, mang bát, ăn uống, lặt rau, quét sân tất cả những hành động, tu tập trên những hành động đó gọi là Thân Hành Niệm. Nhưng mà đức Phật bảo phải kiên cố như cỗ xe, chúng ta tu như vậy nó có kiên cố được không? Hay hoặc là chúng ta phải giữ cái tâm mình luôn luôn lúc nào cũng ở trong hành động thì mình bị ức chế nó sao? Các con hiểu không? Cho nên mình kiên cố ở trong cái giai đoạn nào đó mà mình phải biết cái mục đích của cái pháp này là nó như thế nào? Cái mục đích của pháp này thì đức Phật nói cho chúng ta biết nó có mười cái công đức. Mười cái công đức tức là mười cái Thần lực. Như vậy rõ ràng cái pháp này để thực hiện mười cái Thần lực chứ không phải là thực hiện trên con đường ly dục, ly ác pháp. Các con hiểu.
Bởi vì mình đọc cái bài kinh thì mình phải xem cái kết luận của nó chứ. Còn cái này đọc kinh mà không chịu xem kết luận. Đọc kinh mà không biết kết cấu, kết lại cái pháp để mình tu hành cho nó có sự kiên cố của cái pháp. Thì như vậy mình tu láng tu linh thì thử hỏi làm sao mà nó kiên cố được? Làm sao mà nó trở thành căn cứ địa được? Vậy mà người ta giảng dạy cho mình tu pháp Thân Hành Niệm là tu trong tất cả hành động, tu trong công việc làm. Thực sự ra cái hiểu như vậy thành ra làm sao mà trở thành cái pháp mà có đủ Thần lực như vậy? Cho nên đó là một cái hiểu sai của Phật pháp.
Chứ nếu mà cỡ mà hiểu đúng thì từ lâu tới giờ người ta đã giải thoát quá nhiều chứ đâu còn mà Thầy lại cực khổ như đến ngày hôm nay. Đây là những cái tai họa của những cái giáo pháp, những cái kiến giải sai mà đưa lại cho cái con người, không phải riêng một mình cô Kim Tiên sai. Mà có rất nhiều người sai ở trong cái giáo pháp này chứ không phải là riêng có một mình cô Kim Tiên. Cô Kim Tiên chỉ một ở trong những người tu sai. Thì các con thấy đó là cái vấn đề mà đau lòng nhất cho chúng ta là những người ham tu theo Phật giáo.
(34:42) “Hơi thở”. Thầy trả lời nè. Hơi thở chỉ có tu tập an trú được. Khi mà an trú được hơi thở rồi thì không có tu tập nữa. Tới bây giờ mà con chưa bỏ hơi thở tu pháp khác sao? Nghĩa là Thầy đặt trả lời cho cô Kim Tiên là: “Tới giờ này chưa chịu bỏ hơi thở sao mà còn tu tập hơi thở nữa?”. Nghĩa là tu hồi nào tới giờ là mười mấy hai chục năm rồi, mà bây giờ cũng còn ôm hơi thở tu thì tức là tu sai rồi. “Tới giờ này con còn tu Thân Hành Niệm thì con chưa biết áp dụng pháp tu”. Nghĩa là giờ này mà mình còn ôm cái pháp tu Thân Hành Niệm. Như là mấy con đã tu tới bây giờ rồi, mấy con cứ ôm pháp Thân Hành Niệm tu hoài sao? Nghĩa là bây giờ mấy con phải tu tới cái gì nữa chứ. Các con cứ ôm có nhiêu đó tu hoài, tu hoài. Các con thấy có giảm, có xả cái tâm của mình, nhưng mà nó sẽ giậm chân tại chỗ, nó không tiến. Cho nên tại sao mà tui tu hoài nó không tiến, có phải không?
Mình tu một cái thời gian đó, mình thấy mình nhuần nhã cái pháp đó rồi thì mình phải tiến tới. Thậm chí như thế này nữa, mấy con thấy bây giờ Thầy dùng một cái câu tác ý. Thí dụ như bây giờ cái đầu Thầy nhức nè, Thầy dùng câu tác ý: “An tịnh thân hành tui biết tui hít vô, an tịnh thân hành…”. Nhưng mà bây giờ sao lại nó không hết nhức đầu? Mọi lần thì tác ý như vậy nó hết, bữa nay tác ý không hết nhức đầu. Tức là Thầy biết cái này nó đã nhàm với cái chỗ này rồi. Nó nhàm pháp rồi mấy con, Thầy thay đổi câu tác ý liền không có để. Thầy nói: “Thọ là vô thường, cái đầu không có đau nữa”. Rồi Thầy hít. Thầy nói, Thầy hít thở, hít thở, Thầy không tác ý “An tịnh…” nữa. Đó là thay đổi câu tác ý của Thầy để cho nó không bị nhàm và nó sẽ đánh lui cái cảm thọ của mình, cái ác pháp đi. Cho nên các con phải thiện xảo khéo léo chứ đâu phải cố chấp bắt các con phải ôm một cái pháp mà tu. Tu riết nó nhàm nó đâu còn trị nổi nữa. Cho nên nó thành một cái thói quen rồi, trị không được. Cho nên do đó chúng ta phải thay đổi cái câu tác ý.
Vì vậy mà cái Trạch pháp Giác Chi, cái pháp Giác Chi nó có cái Trạch pháp Giác Chi. Còn cái năng lực của Giác Chi nó khác mấy con. Cái năng lực của Giác Chi là do sự tu tập Tứ Niệm Xứ mà nó có bảy cái Giác Chi. Cho nên cái thực phẩm của Thất Giác Chi tức là thực phẩm của năng lực Bảy Giác Chi là nó Tứ Niệm Xứ. Khi Tứ Niệm Xứ sung mãn thì nó mới có bảy cái năng lực Giác Chi. Các con hiểu chỗ đó không? Còn bây giờ cái pháp Giác Chi, Bảy Giác Chi, mà cái pháp Bảy Giác Chi đó, thì do cái Trạch pháp Giác Chi là mình trạch từng câu này, từng câu kia. Mình chọn lấy cái pháp là mình chọn lấy cái câu tác ý. Đó là cái pháp Giác Chi, bảy cái pháp Giác Chi. Cho nên ở đây ta phân biệt bảy pháp Giác Chi nó không phải là bảy năng lực Giác Chi. Các con hiểu chưa?
(37:28) Cho nên do như vậy, chúng ta biết tu hành, đầu tiên thì chúng ta vào tu là người nào cũng phải ở trong bảy pháp Giác Chi mà tu tập. Nghĩa là đầu tiên chúng ta phải chọn lấy cái pháp tức là Trạch pháp Giác Chi. Thì từ chọn lấy được cái pháp đó, rồi chúng ta mới niệm cái pháp đó gọi là Niệm Giác Chi, đó là pháp Giác Chi. Cho nên dù là hơi thở chúng ta nó cũng nằm ở trong cái niệm của Giác Chi chứ không phải cái pháp Niệm Giác Chi chứ không phải ngoài. Nhưng mà khi mà chúng ta tu Tứ Niệm Xứ, nó sung mãn được cái Tứ Niệm Xứ đó thì nó mới thể hiện ra rõ những cái nét của bảy cái năng lực của Giác Chi. Cái năng lực (Giác Chi) nó khác cái pháp Bảy Giác Chi.
Cho nên cái người mà không có tu thì người ta không có hiểu. Người ta nghe nói Bảy Giác Chi là người ta tưởng là có bảy cái pháp Giác Chi. Người ta chỉ hiểu như vậy là người ta hiểu rất là cạn. Do nếu mà không có những cái bài mà đức Phật đã giảng cho chúng ta biết đó là cái thực phẩm của cái pháp này thì cái thực phẩm của cái pháp kia. Nó có một sự nối tiếp với nhau. Cái kết quả của cái pháp này thì là cái món ăn của cái pháp kia. Đó là chúng ta phải hiểu biết như vậy.
Thân Hành Niệm chỉ là một pháp môn tu tập để thành một cái lệnh, chứ không phải là pháp môn gì khác hết. Để cái lệnh đó nó trở thành cái lực để mà giúp chúng ta Thiền Định, làm cái gì đó thì thân tâm chúng ta nó nghe theo. Đó là chúng ta phải hiểu được cái mục đích của pháp Thân Hành Niệm. Chứ không phải là pháp Thân Hành Niệm để tu để mà đi đến cái kết quả cuối cùng rốt ráo, không phải là như vậy. Nó thực hiện những cái Thần lực, đó là cái phương pháp Thân Hành Niệm. Cho nên chúng ta mới thấy nó có mười cái công đức, tức là mười cái Thần lực của nó. Như những cái Thần lực như nó nhiếp phục được thời tiết, nó nhiếp phục được muỗi mòng, nó thực hiện được những cái Thần thông. Như ngồi đây mà rờ mặt trời mặt trăng, như một thân biến ra nhiều thân. Đó là nó thực hiện cái Thần lực của nó. Đó là cái pháp Thân Hành Niệm.
Cho nên cái mục đích của nó đạt cái Thần lực, chứ nó không phải là nó, cái mục đích của pháp Thân Hành Niệm là nó đạt cái mục đích giải thoát. Nó không có đạt cái mục đích giải thoát mà nó thực hiện cái Thần lực của nó. Như vậy con phải xả hết pháp. Tất cả pháp này con phải xả hết mà trở lại pháp tu Tứ Niệm Xứ để ngồi chơi. Đó như bây giờ Kim Tiên mà còn ở đây thì nên tu pháp Tứ Niệm Xứ. Không tu pháp nào hết, ngồi chơi. Mà hễ có chướng ngại thì sử dụng những pháp mình đã tu được thì đẩy lui tất cả những chướng ngại. Chỉ bây nhiêu đó thôi thì Kim Tiên sẽ thành tựu được con đường tu tập của nó mau.
Đó thì Thầy trả lời cái bức thư nó cũng như là trả lời chung cho mấy con. Để khi mấy con tu tập có những cái sai thì mấy con biết mà sửa. Thì khi mà những đệ tử của Thầy, những người mà vào tu đây là cứ theo cái lời Thầy dạy, chưa có một người nào điên hết. Thầy bảo đảm mấy con là chưa có người nào điên. Nhưng mà có những người điên là tại vì họ đã tu theo cái pháp. Cũng như Kim Tiên về đây theo Thầy tu nhưng mà sự thật không bỏ pháp cũ. Cho nên tới hôm nay chưa xả được mà sống ở trong tưởng rất nhiều. Cho nên tưởng mình đã phá âm thanh, tưởng mình như là dừng hơi thở. Nhưng mà cuối cùng không phải là con đường đó đúng cách, mà con đường đó là con đường tưởng, nó sai rất sai. Cô Đoan sẽ gặp Thầy vào lúc một giờ.
Tức là nó ly cái ái dục của cái ác pháp. Các con thấy đức Phật dạy mà chúng ta không biết cách tu thì cái này là cái mà chúng ta dừng như vậy gọi là ly dục ly ác pháp đó. Thì đó là chúng ta đã biết cách tu ngăn và diệt nó. Đó là cách tu về cái sự ăn uống của mình thôi.
(40:59) Phật tử: “Rồi Thầy dạy chúng con nên lưu ý và đảo ngược câu này sẽ có một pháp hành rất cụ thể. Là từ tập khởi của thức ăn có tập khởi của ái, từ đoạn diệt thức ăn có đoạn diệt của ái”.
Trưởng lão: Cho nên hàng ngày Thầy bảo, Thầy dạy mấy con rõ ràng là người Phật tử mà Nguyên Vinh này đã nhận ra được cái ý dạy của Thầy ở trong cái đoạn thuật này chứ không. Đó là qua cái bài pháp của Phật, thì qua cái lời dạy của Thầy thật sự nó ăn khớp vào ở trong những cái bài kinh rất rõ ràng. Thầy bảo khi sáng nay nó muốn ăn, nó đói bụng nó muốn ăn: “Không, tao không cho mày ăn đâu, trưa hãy cho mày ăn, bây giờ mày ăn là mày sinh dục”. Tức là mình đoạn cái ái, cái ái dục về ăn uống đó. Đó thì nhận xét được như vậy mới thấy rằng những cái lời Thầy dạy, là những cái lời của đức Phật dạy chứ không phải tự Thầy đặt ra.
Mà dường như là giống như mới đầu mấy con thấy ông Phật ông đâu có dạy theo kiểu Thầy. Ăn ngăn không có cho nó ăn như vậy. Cho nên Thầy chỉ nói đức Phật nói chế ngự chứ không phải ức chế. Bởi vì trưa mình còn ăn mà, chứ đâu phải mình không cho nó ăn đâu, mình ức chế nó. Mình cho ăn, nhưng mà ăn phải đúng giờ. Cũng như ngủ, mình cũng cho ngủ chứ đâu phải mình bắt nó thức. Nhưng mà phải ngủ đúng giờ, chứ không phải được ngủ phi thời. Ăn ngủ không được phi thời. Cho nên đó là cách thức chúng ta đoạn ái.
Và “Người tu tập theo Bát Chánh Đạo nuôi mạng sống chơn chánh thì chỉ dùng có đoàn thực dù thô dù tế để đủ nuôi thân mạng. Còn xúc thực, tư niệm thực và thức thực thì ngăn chặn và đoạn dứt không nên dùng. Vì ăn uống tập khởi thì sẽ dục tập khởi”. Các con thấy về cái sự mà xúc thực nè, tư niệm thực nè và thức thực nè, toàn bộ thuộc về tưởng là nhiều nhất. Cho nên trong cái vấn đề mà mình có sanh ra dục là do mình tưởng ra. Tư niệm là mình suy nghĩ về cái ăn uống nó ngon nó dở như thế này thế khác. Thành ra những cái tư niệm suy nghĩ đó mà chúng ta sanh ra những cái ham ăn, sinh ra cái dục. Thức thực mình ăn bằng cái thức của mình. Còn xúc thực mình ăn bằng cái cảm xúc của mình.
Tất cả những cái này đều làm mình không thấy. Nhưng mà sự thật ra mình chỉ có nhận ra được là mình bỏ cái miếng ăn ở trong miệng của mình. Chứ sự thật ra đứng trước một cái món ăn nào đó là mình thấy ngon quá, mình thèm mình không ăn. Nhưng mà mình vẫn thấy cái thức của mình thích ăn thì đó là mình thức thực. Rồi mình thấy mình cảm nhận cái sự chảy nước miếng ra, thèm cái đó ra thì đó là xúc thực. Xúc thực nó mới tác động cho mình chảy. Thí dụ như bây giờ mình thấy người ta cầm một cái trái me, người ta ăn thì bắt đầu mình thấy nước miếng mình chảy ra. Đó là mình bị xúc thực. Nó tác động nó làm cho mình ăn cái đó. Nhưng mà sự thật ra mình không ăn, nhưng mà nó vẫn có cái cảm giác đó, cho nên gọi là xúc thực. Tất cả những cái này Thầy đã giảng rồi.
Và vì vậy, tất cả những cái này nó đưa đi đến cái chỗ mà chúng ta sanh dục, sanh ái. Ái dục về ăn uống. Cho nên ăn uống mà tập khởi thì dục sẽ tập khởi. Đó mình ham ăn ham uống thì do đó nó sẽ tập khởi. Do đó, mình biết ăn một ngày một bữa là đúng chánh pháp của Phật. Còn ăn nhiều là chúng ta sẽ tập khởi những cái sự dục của chúng ta, chứ không gì khác hơn hết. Và đồng thời nó dục nhiều hướng chứ không phải là một hướng. Ở đây mình chỉ nói về ăn. Nhưng mà ăn được thì mình sẽ diệt được cái này, thì mình sẽ diệt được cái khác. Như bây giờ các con ăn nhiều thì phải ngủ nhiều chứ sao? Cho nên các con ăn ít, ăn ngày một bữa thì các con sẽ ly được cái ngủ, nó làm cho cái giảm cái thùy miên, hôn trầm.
(44:25) Cho nên trong cái vấn đề mà tu tập chúng ta phải thấy rằng về vấn đề ăn uống rất là quan trọng. Cho nên ở đây có nhiều người hiện giờ mà ăn ngày một bữa thì người ta vẫn ăn không được. Biết rằng nó có lợi ích nhưng mà vẫn (chưa làm được). Bởi vì mấy con chưa phải là một người mà chỉ đến đây để mà nghe học pháp chứ chưa phải là cái người mà vào đây để mà sống mà tu. Các con hiểu chưa? Cho nên những cái sự lỗi lầm đó thì nó chưa phải là lỗi lầm. Mà đây là cái cuộc sống mình mới tiếp xúc cái cuộc sống của Tu viện mà thôi. Cho nên mình thấy như vậy như vậy nhưng mà cái nghiệp của mình, cái thân của mình nó chưa có ăn uống một ngày một bữa được. Thì các cô, các bác và các chú đều có thể ăn thêm một cái gì đó, để cho nó đỡ trong khi mình chưa quen.
Nếu mình ức chế thì trong khi ở đây chưa về tới nhà mà nó bệnh hết rồi làm sao? Cho nên còn nguy hiểm hơn. Tốt hơn là cứ ăn uống một cái gì đó cho nó dễ dàng, nó nhẹ nhàng hơn. Như ở nhà mình ăn bữa ăn quá nhiều để mà nó cực khổ hơn. Cho nên mình tạm như mình uống một ly sữa, hoặc ăn cái bánh hay hoặc cái gì đó thì có thể được hết. Chứ không có sao hết, không có lỗi lầm gì hết. Đó là mình mới tiếp nhận, mình mới tiếp cận với cái môi trường tu tập thôi.
Cho nên nếu mà người nào mà khắc phục được ăn ngày một bữa thì mình vui vẻ, mình chấp nhận. Còn người nào chưa thì mình có thể uống một ly sữa, ăn một cái bánh đều được hết không có gì phạm lỗi gì hết. Còn nói chuyện thì mình cũng hạn chế, mình ít nói. Nhưng mà cái điều kiện cần hỏi, cần nói thì mình cứ nói, còn không cần thì thôi. Chứ không phải là như những người mà chuyên tu ở đây. Đã là vào ở đây quyết tâm tu rồi mà còn đi nói chuyện thì không được. Còn các con về đây để học pháp chứ chưa phải là chuyên tu, chưa phải là chuyên nhất về một cái sự tu tập giải thoát. Mà đây là mình học để rồi sau này mình mới tới chuyên tu đó.
(46:39) Phật tử: “Xin Thầy giảng rõ cho tất cả các cư sĩ chúng con được hiểu về cách thức tu tập của người tại gia”.
Trưởng lão: Đây là cái phần mà quan trọng nhất. Tại gia tức là mình sống tại nhà của mình. Mà mình tu tập sao mà đối với, cũng như con rồi đối với cha mẹ. Thì vợ chồng đối như thế nào? Rồi con cái trong gia đình của mình đối xử như thế nào? Đó là cái sự cụ thể. Nhưng những cái bài vở này, những cái bài mà học về cái bổn phận mà của người tại gia tu tập theo đạo Phật đó, thì thiệt ra nó là những cái giáo trình mà tu học như Thầy đã nói cho mấy con đã nghe rồi đó. Thì đạo Phật nó có những cái lớp để mà tu tập, để mà từng sống ở trong cái gia đình của mình. Đó là cái lớp Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng. Đó là những cái lớp để mà học tu sống ở trong cái chiếc áo của người cư sĩ, sống trong cái tập thể, gia đình, xã hội. Đó là những cái lớp mình đang tập sống cái đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Đó là những cái lớp học như vậy.
Cho nên nó không phải là nói cái bài học mà về đạo đức, đối với một người cư sĩ mà học về đạo đức, nó có từng lớp rõ ràng chứ không phải là nói mình muốn tu là mình phải học những cái đạo đức như vậy như vậy rồi thôi. Không phải. Nó cũng phải có tầng lớp, nó uốn nắn cho mình có cái cuộc sống, có một cái nhìn, có một sự suy tư. Nó không giống như cái nhìn, cái suy tư của mình hiện giờ. Vì vậy, nó có từng cái lớp học của nó để nó rèn luyện mình. Cho nên trong cái vấn đề hôm nay thì đại khái như các con biết rằng Thầy có soạn thảo cái bộ sách đạo đức nhân bản - nhân quả. Tức là đời sống ở trong gia đình của mình là mình sống ở trong cái quy luật của nhân quả. Cho nên mình thoát ra cái quy luật nhân quả. Mà đang sống trong quy luật mà thoát ra nhân quả là phải có những cách thức sống, cách thức suy nghĩ. Cách thức thấy nó như thế nào thì chúng ta mới sống trong cái nhân quả mà không bị nhân quả chi phối.
Trách nhiệm như thế nào? (Phật tử): Ở đây qua những cái điều mà thưa hỏi Trưởng lão: “Xin Thầy giảng rõ cho tất cả cư sĩ chúng con được hiểu về cách thức tu tập của người tại gia. Bổn phận trách nhiệm phải như thế nào để ngày mai sau khi rời khỏi Tu viện, để biết cách thức tu tập mà không phải uổng chờ thời gian công sức. Không phí uổng thời gian công sức để làm sao gieo trồng được nhân duyên thiện cho tốt. Vì con e sợ nếu không biết phương pháp tu tập thì tất cả sẽ rơi vào tình cảnh cư sĩ không xong mà tu sĩ thì cũng dở. Con xin Thầy từ bi hoan hỉ bố thí dạy bảo cho chúng con”.
(49:28) Trưởng lão: Đó thì đây là một cái lời xin Thầy dạy cho các con, phần nhiều là dạy về đạo đức nhân bản - nhân quả. Như bộ sách đạo đức nhân bản - nhân quả mà Thầy đặt cái tên là Đạo Đức Làm Người. Thì các con thấy như tập một thì nói về ba cái đạo đức của xã hội. Và cái tập hai nó đi vào cái đạo đức của con người, cái bản thân của con người. Và tập ba, tập bốn, tập năm thì nó cũng còn nói về đạo đức bản thân của mỗi con người chứ chưa đến gia đình. Vì vậy thì các con biết rằng cái giáo trình mà học về đạo đức nhân quả thì nó là một cái bài vở, một cái phương pháp cho nên nó rất nhiều điều.
Và chúng ta cũng thấy rằng cái hành động từ cái suy nghĩ, từ cái lời nói, từ cái hành động của thân chúng ta nó cũng vô lượng hành động. Vì trước cái cuộc sống chúng ta nó có nhiều chuyện để mà chúng ta có những cái hành động trong những cái chuyện đó. Cho nên nó không phải là có một cái hành động này là đúng hay hoặc là hành động kia là đúng, hay hành động nọ là sai. Nó không phải chỉ có một vài cái hành động, hay năm, mười hành động mà nó vô lượng hành động. Hễ nó tiếp duyên thì nó có những hành động mới khác hơn nữa, cho nên nó là vô lượng. Mà vô lượng như vậy là cái nhìn, cái suy nghĩ của chúng ta, nó cũng phải vô lượng sự nhìn thấy và sự suy nghĩ của chúng ta đúng Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Mạng. Do cái sự suy nghĩ như vậy nó trở thành cái môn học. Nếu mà chúng ta không học thì chúng ta không biết.
Cho nên hiện bây giờ thì chúng ta không có thì giờ để mà chúng ta giảng rộng ra cái đường lối này. Vì ngày mai thì quý Phật tử sẽ biết rằng cái chương trình của Phật giáo, nó sẽ có những cái lớp học này. Mà mỗi lớp học thì nó phải kéo dài một năm một lớp học. Ví dụ như vào học cái lớp Chánh Kiến thì chúng ta phải học có một cái nhìn. Ở trong cái nhìn qua một cái góc độ nhân quả, không còn qua góc độ đúng sai phải trái như xưa nữa. Cho nên chúng ta phải học một năm. Trong cái sự học tập đó thì nó có sự rèn luyện tu tập để làm cho chúng ta sống quen đi cái nếp sống mới. Nó không còn cái nếp sống cũ nữa, không theo cái lối phong tục cũ nữa. Cho nên nó có cái khác.
Và đồng thời thì chúng ta cũng học cái lớp thứ hai thì chúng ta học cái suy nghĩ. Hồi nào chúng ta có sự suy nghĩ, nhưng mà sự suy nghĩ chúng ta hầu hết là đem lại sự đau khổ cho chúng ta. Còn cái sự suy nghĩ hiện giờ gọi là Chánh Tư Duy, nó đem lại chúng ta một niềm sống an vui và hạnh phúc. Do cái chỗ mà chúng ta có học tập, có rèn luyện thì chúng ta mới thông suốt được. Còn bây giờ vì một cái lớp học nó như vậy, nó cả năm như vậy mà cô đọng trong một buổi học thì không thể hết được. Cho nên vì vậy mà Thầy sẽ tóm lược lại để cho chúng ta biết cách, mà chúng ta hôm nay chúng ta tu tập cho rõ ràng.
Bây giờ giả dụ bây giờ chúng ta sống ở trong gia đình mà chúng ta, như Thầy hồi sáng có nói. Như đức Phật tóm lược lại cho dạy cho cái người đệ tử Sa di của mình đầu tiên tức là La Hầu La. Thì ông dạy La Hầu La như thế nào? Mỗi lần muốn nói ra một cái điều gì thì chúng ta suy nghĩ cái lời nói đó. Nếu nó không làm hại mình hại người, không làm hại mình, không làm hại cả hai thì mình mới nói. Và như vậy thì hàng ngày chúng ta muốn làm hành động gì, muốn nói một cái điều gì, muốn suy nghĩ một cái điều gì thì chúng ta xét cái đó nó có hại mình, hại người, hại cả mình và hại người không? Nếu mà không thì đó là mình sẽ nói. Và như vậy rõ ràng nó là nhân quả.
(53:00) Bởi vì cái đạo đức nhân quả nó không làm khổ mình. Mà giờ mình suy nghĩ cái lời nói đó mình nói ra nó không làm cho người ta đau khổ, không làm cho mình khổ, mà không làm cả hai đau khổ thì mình sẽ nói. Thì hiện giờ chúng ta nên tập nghĩ, suy nghĩ cẩn thận thì chúng ta nói. Lỡ mà chúng ta có nói ra mà làm khổ người, khổ mình hoặc là khổ cả hai thì mình nên cố gắng khắc phục mình. Nhắc nhở mình từ đây về sau không được nói lời nói đó nữa. Từ đây về sau phải chừa, không được nói những lời nói như vậy nữa hay hoặc là những hành động như vậy nữa, hay hoặc là những sự suy nghĩ như vậy nữa. Đó là cách thức chúng ta đối xử trong gia đình thì đối xử như vậy trong gia đình. Thì nó biến ra những cái đức hạnh, cái hạnh của nó.
Cái hạnh của nó sống như thế nào? Nhẫn nhục - tùy thuận - bằng lòng. Bởi vì, khi mà mình suy nghĩ như vậy thì ngay mình làm được những cái điều này, thì cái đó là cái hạnh nhẫn nhục. Ví dụ người ta chửi mình, mà mình suy nghĩ để mình nói một cái lời nói gì đó mà làm cho người ta khổ, nhất định là mình không nói. Cũng như bây giờ người ta chửi mình, mình biết là cái tâm mình nó sân lên rồi. Nhưng mà bây giờ mình muốn chửi người ta lại. Nhưng mình suy nghĩ bây giờ mình nói người ta lại, mình chửi người ta chó hay trâu hay là chửi đồ này đồ kia. Thì mình nói, mình suy nghĩ: “Bây giờ nói ra lời nói như vậy thì mình cũng không thua gì họ, và như vậy mình nói như vậy là làm khổ người ta. Tốt hơn là mình không có nói”. Do đó, cho nên vì vậy, mình ngăn cái ác pháp đó đi. Cho nên nó không, cái lời nói nó không hung dữ nữa. Và cuối cùng thì mình thấy mình không có nói ra cái lời nói hung dữ. Do đó, mình không tạo cái nhân ác. Cho nên cái quả người ta chửi mình thì lập tức người ta không có chửi nữa, người ta bỏ người ta đi vào. Không lẽ người ta chửi suốt ngày sao?
Cho nên, cuối cùng thì coi như mình học về cái đạo đức nhân bản - nhân quả. Tức là cái cơ bản của con người chúng ta đi vào đạo Phật thì phải sống như vậy. Cho nên các con nhớ kĩ. Vì vậy, thường Thầy đã viết ở trong cái bảng khắc vào cái bia đá mà Thầy nhắc ở phía trước gần ở bên cái điện Phật. Thì Thầy có nói: “Đừng nhìn mọi vật điều đúng sai, phải trái mà hãy nhìn nó bằng thiện ác”. Mình nhìn nó thiện thì nó sẽ đem lại không có sự khổ đau cho mình cho người, mà ác là nó có sự khổ đau. Cho nên khi mà nó đúng như vậy thì mình dừng lại, mình không có làm những cái điều ác. Đó là cách thức của chúng ta tu tập, mà không ngờ làm những điều đó lại nó có ba cái đức. Đức là nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng. Nó làm tất cả đều vui.
(55:31) Cho nên mấy con nhớ rằng những cái cuốn sách mà Thiền Căn Bản mà Thầy dạy thì nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, nó nằm ở trong cái chỗ tư duy suy nghĩ này. Nó biến ra cái phương pháp mà chúng ta tu tập, làm cho gia đình chúng ta càng ngày càng vui vẻ. Mọi người càng ngày càng thấy hạnh phúc. Trước kia thì mình không dằn được, mình giận dữ, mình nói thế này thế khác, mình bỏ ăn bỏ uống. Hôm nay, mọi chuyện nó có xảy ra, mình thấy vui vẻ, ăn uống cũng vui vẻ. Không có buồn rầu, không có làm cho người khác khổ tâm mà mình cũng không khổ tâm. Và như vậy rõ ràng là cái con đường của đạo Phật nó thực tế ngay trong gia đình chúng ta. Mà chúng ta biết tu căn bản như vậy thì chúng ta sẽ được giải thoát.
Cho nên tóm lược lại là chúng ta nên tu tập bằng đạo đức không làm khổ mình khổ người. Bằng những hành động suy tư, từng hành động, từng lời nói, từng cái suy nghĩ của chúng ta trong tâm của chúng ta. Thì như vậy chúng ta sẽ có kết quả giải thoát hoàn toàn. Chứ đừng nghĩ rằng bây giờ tui vào đây là phải thọ Bát Quan Trai, phải giữ gìn tám giới, phải ăn chay, phải ăn một bữa. Về gia đình ăn ba bữa, mình cũng tự nhiên mình ăn ba bữa có gì đâu? Chưa phải lúc mình ăn một bữa thì mình tu đừng có vội vàng. Mình vội vàng mình tu là làm chướng ngại cho gia đình của mình. Làm cho khổ cả gia đình mình thì không có hay ho gì hết. Cho nên mình phải biết cách vừa tu giải thoát cho mình mà vừa làm cho những người thân của mình được giải thoát nữa. Đó mới chính là cái phương pháp tu của đạo Phật.
Cho nên đạo Phật là một cái nền đạo đức nhân bản - nhân quả. Cho nên đức Phật có nói là cái đoạn kinh, đức Phật nói như thế này: “Nếu mà tu cái mục đích của đạo Phật đến với con người là không làm khổ mình, khổ người. Mà người nào đã không làm khổ mình, khổ người đó là đạt được cái mục đích của đạo Phật rồi, đâu cần tu những gì, pháp gì khác đâu”. Nếu mà chúng ta không làm khổ mình khổ người thì luôn luôn tâm hồn chúng ta thanh thản, an lạc. Nó luôn luôn nó vui, nó hạnh phúc, nó có gì đâu mà khổ nữa đâu. Các con thấy bây giờ mình ngồi đây mình buồn buồn, tức là tự mình đã làm khổ mình rồi. Thì mình đâu có để tự làm khổ mình, tức là đạo đức không làm khổ mình, phải không? Rồi có người chửi mình, mình không giận không gì hết thì tức là đạo đức không làm khổ mình.
(57:38) Thật sự ra nói về đạo đức mà không làm khổ người thì nó dễ, mà không làm khổ mình thì nó phải sáng suốt. Mà sáng suốt thì mới không làm khổ mình, phải không? Cho nên vấn đề mà tu ngay ở trong đạo Phật thì các con tu rất bình thường. Gia đình mình sống như thế nào, con cái sống như thế nào, sao mình cũng tùy thuận, nhẫn nhục được hết, đó là mình tu rồi. Mình không làm khổ một người nào nữa hết. Hồi nào thì mình còn to tiếng, hôm nay mình nói ngọt ngào, nhẹ nhàng làm cho người ta mến phục mình liền. Thì như vậy từ mình mới lôi cuốn họ vào cái nền đạo đức này.
(58:10) Cũng như bây giờ mấy con thấy rằng khi mà nghe Thầy nói như vậy Đại thừa sai, rồi này kia. Mấy con hồi nào tới giờ tập trung chị em đi chùa này kia, bây giờ thì mấy con không đi. “Tui học theo Nguyên Thủy rồi, tui không có đi cúng bái nữa, tui không đến chùa nữa”. Mấy con sai mấy con. Các bạn con còn đang đau khổ chưa hiểu biết, người ta mới lầm lạc, người ta đi chùa, người ta cúng bái, người ta làm những chuyện mê tín. Mình cũng đi nhưng mà mình không làm điều đó nữa. Nhưng mình đi, may đâu cái chị nào đó mới hỏi: “Sao nay chị sao lại không có tụng kinh, không có sám hối nữa mà chị đến đây chị ngồi chị chơi vậy? Chị ngồi ở gốc cây, còn tụi này vô tụng kinh ó ré”. Thì tụng xong rồi ra hỏi mình thì nói: “Ngồi chơi khỏe hơn là tụng kinh mệt”. “Tại sao vậy?” “Tại vì tui có học, Thầy có dạy như thế này thế này. Phật có dạy như thế này thế này. Cho nên tui ngồi nãy giờ, tui khỏe hơn mấy chị, mấy chị tụng kinh mệt quá. Thôi đi uống nước đi”. Ví dụ chẳng hạn. Nhưng mà các con đã đánh thức người ta một cách rất rõ ràng, rồi từ đó người ta dần dần chuyển.
Còn bây giờ mấy con theo Thầy, mấy con không thèm đến chùa nữa. “Thôi mấy ông chùa Đại thừa này tui bỏ tui không đi nữa”. Như vậy là mấy con bỏ ra một cái điều cái dịp tốt để vừa lợi ích cho mình, vừa lợi ích cho người. Lấy tất cả những cái người tu sai đó trở thành những người bạn tốt của mình. Còn bây giờ mấy con chia ra, những người tu theo Đại thừa thôi mình không chơi nữa. Mấy con thấy như vậy là mấy con sai rồi mấy con, không có đúng đâu, cho nên mấy con sửa lại.
Mình cũng đi chùa, mấy Thầy cũng không biết cô Phật tử hồi nào tới giờ cũng đi chùa, bây giờ cũng đi chùa. Nhưng mà cô này lại không tụng niệm, làm cách khác hơn. Cô này cũng không đến mà mua hương đăng, hoa quả hay giấy tiền, vàng mã gì cúng nữa. Cô này không có làm cái chuyện mà cúng bái như hồi xưa nữa. Mà cô này đến thăm quan rồi xem, rồi ngồi chơi ở ngoài cái tảng đá hay hoặc là nơi nào đó bóng cây, bóng mát ở chùa chơi thôi. Chứ không có đến mà lễ Phật, mà lạy ông này đã rồi tới lạy ông kia, không có làm như vậy. Nhưng mà người ta thấy mình có cái lối sống mới, có cách thức sống rất là an ổn. Cho nên có nhiều chị em người ta thấy vậy người ta mới hỏi thăm.
Do cái duyên mình tạo như vậy người ta mới hỏi thăm mình mới hướng dẫn người ta được. Rồi mình dẫn nhẹ nhẹ chứ đừng có nói Đại thừa sai nha, mê tín này kia. Đừng có chửi người ta như vậy, mà mình đừng có nói động người ta. Mà mình nói: “Ờ tui tu, tui thấy tui tu theo cái này nó an ổn lắm”. Chứ đừng có nói cái sai người ta. Từ cái an ổn của mình, người ta mới thấy sao nó hay quá, cho nên người ta theo dần dần. Chứ đừng có chỉ trích gì hết, đừng có nói vậy.
Tại sao mà sách của Thầy lại nói Đại thừa sai? Tại vì từ lâu tới giờ không có ai dám nói. Mà không nói thì ai biết sai, cho nên Thầy phải nói. Còn bây giờ mấy con biết rồi thì đừng có nói, các con không có nói được. Mà Thầy nói để cho những người đó biết và đồng thời bây giờ các con cứ lấy cái đúng mà thôi. Còn những cái sai mấy con không nói. Mấy con nhờ Thầy nói mấy con mới biết sai. Nhưng mà khi người ta theo được cái đúng, lần lượt người ta hướng về mình rồi thì mình mới nói đó sai như vậy như vậy. Còn bây giờ dục không mà, người ta còn cố chấp cái đó mà các con nói là các con có chuyện với họ. Thấy không? Cho nên khéo léo mà giúp đỡ nhau. Trong một xã hội loài người đông đảo đâu phải riêng có một mình mình sống. Còn tu tập theo đạo Phật riết rồi mấy con tu cho con thôi, chứ còn không có nghĩ gì đến ai nữa.
Cho nên sự thật đâu phải là đạo Phật ích kỷ đâu. Nhưng mà tại sao mà Thầy nói như thế này nè: Mình tu chưa xong thì đừng hướng dẫn người khác. Bởi vì cái hướng dẫn người khác là cái bản ngã của mình muốn làm thầy. Chứ không phải là cái gì hết. Mình tránh cái này chứ không phải là không hướng dẫn họ đi theo con đường tốt của mình. Mình sống đạo đức được thì mình hướng dẫn. Cái hành động của mình là hướng dẫn người ta rồi chứ, đâu cần mình phải nói. Cho nên con đến chùa mà con làm theo cái kiểu của con thì người ta sẽ theo con nhiều. Mà chính đó là con đã hướng dẫn người ta bằng cách không tham vọng. Còn con thuyết giảng, con nói cái này cái kia nọ, con khoe khoang con tu được cái này kia, điều đó đều sai pháp hết rồi mấy con. Các con hiểu điều đó không? Cái đó là cái tham vọng, cái bản ngã của mình, nó lộ ra cho cái thấy của mình là mình mới có hiểu biết mà thôi.
(1:02:06) Cho nên trong kinh sách Phật nói mình khi tu chưa xong thì đừng có dạy ai. Miễn chừng mình đến mình chơi chung với họ mà mình tu theo mình thôi. Họ thấy mình hay là họ dựa theo mình, chứ mình không có dạy ai hết. Các con nên nhớ đó là mình sống trong một cái cộng đồng, mình đừng có làm cho mình có cái vẻ riêng rẽ. Mà cái cách riêng rẽ của mình nó cũng mang cái bản ngã nữa. Nghĩa là mình riêng rẽ là mình mang cái bản ngã: “Tui đúng các anh sai”. Chứ ai lại cũng nói của mình đúng, chứ bao giờ có ai nói sai. Thì cái bản ngã của mình là như vậy. Cho nên vì vậy mình lấy cái đúng là mình thực hiện qua cái hành động đúng của mình để ảnh hưởng đến những người khác người ta sẽ làm tốt được.
(1:02:43) Như vậy là cái lời mà viết cái bức thư này xin Thầy để dạy cho mấy con cái đạo đức thì tóm lại thì các con phải hiểu cái đạo đức. Đạo đức nó là mình phải từng cái lời nói, từng cái hành động thân của mình, từng cái suy nghĩ của mình, thì mình phải suy nghĩ chín chắn những cái điều kiện đó trước khi mình nói. Mà không hại mình, hại người và hại cả hai, tức là hại mình, hại người nữa. Thì mình sẽ nói ra, mình sẽ làm ra tất cả những cái này. Cái hành động mà tu tập như vậy gọi là sống đời sống đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình, khổ người. Cái hành động mà suy nghĩ đó là hành động sống đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình, khổ người.
Dù sao một ngày nào đó, các con có đọc sách Đạo Đức Làm Người, Thầy cũng dạy mấy con ở chỗ này để mà suy ra từng cái nhìn cái rộng ra, từng cái hành động nhân quả. Đối xử với nhau nó rộng rãi ra nhưng nó cũng nằm ở trong cái phương pháp từ cái hành động suy nghĩ của chúng ta đúng sai này đó. Ở trong cái chỗ này đó không hại mình hại người, hại cả hai thì chúng ta sẽ thực hiện cái lời nói, cái hành động của chúng ta hoặc là cái suy nghĩ nào đó. Đó thì tóm lại là cái bài pháp đó là đạo đức bằng cách tư duy suy nghĩ trên ba hành động thân, khẩu, ý của chúng ta mà thôi. Các con nhớ chưa?
Nhớ được như vậy thì các con sẽ về sống gia đình. Nghĩa là trong gia đình mình ăn ba bữa mình vẫn ăn ba bữa. Nhưng mình biết cách mình không bị lôi cuốn. Tại vì mình tùy thuận mình ăn. Mình biết là ăn nhiều nó không tốt đâu. Cho nên trưa mình ăn no. Nhưng mà sáng mình ăn cũng vui vẻ. Mình uống một ly sữa hoặc mình ăn cái bánh một chút xíu nào thôi, chứ không ăn như người khác. Đó là mình thay đổi rồi. Như vậy là mình đã vừa tùy thuận làm cho vui lòng mà mình không bị lôi cuốn trong cái ăn uống phè phỡn, ăn uống nhiều, ăn uống cho tức bụng thì mình không có làm điều đó. Cho nên do đó là mấy con đã khéo léo, đã làm cho gia đình vui vẻ. Mặc dù trong gia đình không biết cũng vẫn thấy mình vui vẻ. Mà tu hành theo đạo Phật sao nay coi vui vẻ, luôn luôn lúc nào cũng không thấy có giận hờn, tức giận gì hết rồi ăn uống cũng bình thường.
Còn bây giờ mình làm khác, mình về ăn ngày một bữa. Nhờ ăn một bữa mà giờ không giận thì tức là người ta cũng nói nhờ ăn một bữa, mà ăn một bữa thấy sao ốm quá? Do đó, người ta nói trời ốm quá vậy mà tu tập cái gì? Cho nên vì vậy mình cũng vẫn bình thường, bình thường mình ăn ít thì nó cũng sẽ ốm. Nhưng mà cái ốm người ta cũng vẫn thấy mình ăn một bữa người ta không trách mình. Cho nên, mấy con phải khéo léo. Cho nên đức Phật nói là thiện xảo trong cái sự tu tập của mình. Thì ngay từ cái đầu mà đạo đức mà mình biết tu tập như vậy cũng là rất là giải thoát rồi, đâu cần đòi hỏi gì thêm nữa.
(01:04:52) Tiếp theo cái bức thơ này thì Thầy sẽ trả lời thêm một số vấn đề của câu hỏi. (Phật tử Liễu Thiện): “Con xin đặt ra một số vấn đề nhờ Thầy giảng rõ cho mọi người hiểu. Trước khi tu tập cần phải học cho thông đạo đức nhân bản không làm khổ mình, khổ người. Tất cả mọi người đều sinh ra từ môi trường nhân quả cho nên phải vui vẻ sống trong môi trường đó, không được phép trốn chạy”.
Trưởng lão: Đây là cái ý của Liễu Thiện. Từ lâu khi nó rút tỉa ra những cái bài học đối xử trong gia đình, nó gặp rất nhiều khó khăn, cuối cùng nó biết cách thức xả. Cho nên, nó có ghi nhận lại những cái điều này. Trong cái tập mà Diễn Đàn Chơn Như tập 7 thì có cái kinh nghiệm nó nói ra nó viết. Nó nói ra Thầy thấy rằng cái sự tu tập như thế này là nó đúng cách của đạo Phật. Căn bản của đạo Phật khi vào đạo thì phải là làm con người cho đúng cách của con người. Chứ chưa phải là mình chưa có làm cho đúng cái đạo đức của con người mà vội vào chùa mà tu cái này hoặc tập cái kia ngồi thiền hít thở. Nhiều khi cái sự xả tâm này cái sự tùy thuận, nhẫn nhục này chưa trọn vẹn, mà đi vào cái chỗ mà tu tập cao hơn thì chắc chắn là mình sẽ mất cái cơ bản, mất cái nền tảng vững chắc của con đường tu của đạo Phật.
Cho nên đạo Phật lấy giới luật mà làm cái pháp đầu tiên chúng ta tu Giới - Định - Tuệ. Vậy thì giới luật là gì? Là đạo đức. Mà đạo đức từ ở trong gia đình, trong xã hội cho đến khi mà vào chùa để mà thực hiện những cái đạo đức ở trong chùa. Thì cái đạo đức ở trong chùa đó là những đạo đức của bậc Thánh. Cũng như bây giờ cac con thấy các con ăn ngày ba bữa, sống biết suy nghĩ từng lời nói, từng hành động của mình để không làm khổ mình, khổ người. Thì các con sống Đạo Đức Làm Người. Mà bắt đầu bây giờ mấy con thọ Bát Quan Trai tức là các con sống một đời sống của những bậc Thánh rồi. Cho nên các con vội vàng, bây giờ làm cho gia đình mình buồn phiền, mà ngồi làm Thánh thì ông Thánh này nó trật mất rồi. Có phải không? Thánh gì mà chồng không cho ăn ngày một bữa, mà bây giờ cố gắng tui cãi tui ăn ngày một bữa. Ông tức quá trời à! Có phải không? Như vậy là Thánh sai rồi, có phải không?
Người mà chưa có làm cho mọi người vui lòng mà mình muốn làm Thánh mình ngồi đó mà bao nhiêu người con cái nó tức quá. Bà đi tu sao mà bây giờ bà để cho mấy con ăn, ngồi có một mình như thế này. Các con hiểu điều đó chưa? Cho nên làm người chưa được mà đòi làm Thánh. Cho nên vì vậy thọ Bát Quan Trai là muốn làm Thánh rồi đó chứ gì? Thì như vậy mấy con đã sai mất rồi. Cho nên chúng ta phải thực hiện được cái đời sống để kéo hết cả một cái chùm nhân quả của chúng ta, cả cái gia đình chúng ta đều hiểu biết Phật pháp.
(1:07:56) Khi chúng ta ăn chay là biểu chúng ta làm sao mà chúng ta thực hiện như thế nào để cho gia đình mình ăn chay hết. Cái đó là cái hay, đừng có nghĩ rằng tui sẽ giải thoát còn con cái chồng con kệ nó, nó đọa địa ngục kệ nó. Các con có nghĩ điều đó không? Nếu mà các con nói tui thương con, thương cái, thương chồng mà tui đi tu như vậy thì tui có thương không? Sự thật là tui nói thương. Thiệt ra tui thương trong cái gì Thầy cũng chẳng biết nữa. Thương thì mình phải hòa hợp mình làm sao mình lôi hết cái nhóm này đi. Mình biết cái này hay mà tại sao mình đi một mình? Còn mấy người này xuống địa ngục thôi kệ họ. Thì như vậy là chưa phải hay đâu. Cho nên mình cố gắng mình khắc phục gia đình của mình bằng cách như thế nào để mình làm cho được cái Đạo Đức Làm Người trước đã.
Đó là những cái điều, bởi vì mình còn ở trong cái vòng nhân quả mà mình muốn thoát ra cái vòng nhân quả đâu phải dễ. Cho nên khi mình hở một chút, mình đụng một chút thì bắt đầu nhân quả nó tác động liền. Nó làm cho mình còn khổ đau hơn nữa. Cho nên có nhiều người khi nghe được Phật pháp rồi ham quá, không ngờ đụng tới nhân quả cái bắt đầu: “Trời ơi! Cái gia đình của mình như là cái địa ngục. Nó khổ đau hết sức khổ đau, chỉ còn nước muốn trốn chạy thôi”. Nhưng mà các con trốn chạy khỏi không? Bây giờ mà các con có về Tu viện Chơn Như, các con ngồi tu. Ngồi một mình cô đơn, buồn bã, bắt đầu nó nhớ con, nhớ cái, rồi nó nhớ những hình ảnh này, các con có chịu ngồi đó nổi không? Cuối cùng các con cũng xách gói về à.
Cho nên, mình giải quyết được ổn định hết cái gia đình của mình đều hoàn toàn có một hướng về đạo Phật. Thì bắt đầu bây giờ, các con có đi đến cái chỗ mà các con tu tập để giải thoát, thì các con ngồi trong cái Tu viện, các con ngồi nghe an ổn. Ở gia đình của mình người nào cũng là người ta cũng hướng về cái hướng đó rồi. Mình tu được người ta còn mừng nữa, người ta lo mà người ta theo mình chứ gì? Cho nên hàng ngày nhờ cái hình ảnh mà gia đình của mình sách tấn mình rất lớn trên cái sự tu tập. Cho nên, các con đừng có nghĩ rằng khi mình tu tập mà mình thọ Bát Quan Trai: “Ờ chủ nhật này tui đi thọ Bát Quan Trai, ông ở nhà nấu cơm, làm cái gì làm, tui không biết đâu”. À tu cái kiểu này chắc chắn là cái Địa Ngục nó tới với mấy con, chứ chưa chắc là Thiên Đàng nó mở cửa đâu.
“Tất cả mọi người đều sanh ra từ môi trường nhân quả, cho nên phải vui vẻ sống trong môi trường đó, không được phép trốn chạy”. Nghĩa là chúng ta không được trốn chạy nó. Mà chúng ta trốn chạy là bây giờ các con, thí dụ bây giờ một tháng tui sẽ thọ Bát Quan Trai. Mà trong khi gia đình của mình chưa chấp nhận mà mình vội, mình làm như vậy thì tức là mình trốn chạy nó. Mình trốn chạy nó thì nó sẽ phản ứng lại mình đó. Cho nên cách thức đó nó làm cho mình rối thêm. Rồi trong những cái ngày mình thọ Bát Quan Trai chưa hẳn đã thanh tịnh. Vì gia đình của mình như vậy là nó không bao giờ nó thanh tịnh cho mình được hết. Nó là một cái khó.
“Ví dụ từ trước ta chưa có hữu duyên được gặp chánh pháp, ta vẫn sinh hoạt vui vẻ cùng chị em, bạn bè. Ta vẫn đi chùa cầu kinh, lễ Phật cùng họ trong sự hiểu biết. Nhưng giờ đây được gặp chánh pháp, được hiểu đâu là thiện, đâu là ác, điều gì có lợi ích, điều gì không lợi ích nên ta buông bỏ, không theo nữa. Nhưng không có nghĩa là ta vứt bỏ tất cả mọi quan hệ bà con, bạn bè trước đây”.
Nghĩa là bây giờ mình biết rồi. Nhiều khi các con có cái sai là khi biết rồi thì mình không có quan hệ với bạn bè nữa. Nghe nói độc cư rồi bắt đầu bây giờ mình là Thánh độc cư luôn, không có chơi với ai nữa hết. Đóng cửa lại không có chơi với người nào nữa hết. Cuối cùng mấy con thấy, các con sẽ buông bỏ hết tất cả những sự quan hệ thân tình của mình đối với những cái người bạn bè. Tất cả những người thân của mình, mình cũng bỏ hết. Mình nghĩ rằng mình làm Phật liền sao được? Cho nên vì vậy, các con thấy Liễu Thiện nói rất đúng. Và rất đúng cái chỗ mà từ cái bản thân suy nghĩ, từ cái chỗ nó tu tập, nó đã làm đúng. Cho nên, Thầy thấy rất hay là nó biết đi vào cái nền đạo đức nhân bản- nhân quả, nó không dứt bỏ cái điều này. Nghĩa là chúng ta dứt bỏ cái tâm trạng ham muốn chúng ta. Chứ không phải là chúng ta dứt bỏ những sự quan hệ của xã hội, quan hệ của gia đình, của tất cả những cái người chung quanh của chúng ta. Chúng ta không có dứt bỏ những sự quan hệ đó.
(1:11:49) “Nhưng không có nghĩa là ta dứt bỏ tất cả mọi quan hệ bà con, bạn bè trước đây. Cho rằng ta được gặp chánh pháp, rồi còn tất cả người kia là tà pháp. Từ đó sẽ sanh ra sự chống trái nhau thì thử hỏi như thế có đúng tinh Thần của đạo Phật không?”.
Đó mình tự hỏi mình làm như vậy có đúng không? Đạo Phật là một cái đạo đem đến sự giải thoát cho mình, cho người, tức là không làm khổ mình, khổ người. Thế mà mình bỏ hết những cái sự quan hệ đó thì thử hỏi mình tu tập như vậy, mình có đúng không? Sự thật ra Thầy muốn nói độc cư là chỉ cái người đi vào chuyên sâu để mà người ta thực hiện Thiền Định người ta mới độc cư. Còn mấy con bây giờ nào là chăm con, chăm cái, nào là ôm cháu giúp đỡ cho con cái mình công việc này, công việc kia. Mà bây giờ mình cũng muốn độc cư một cái kiểu này thì nó chưa có thuận, nó làm cho mình trở thành một cái nghịch cảnh. Vì vậy, mình phải thực hiện đúng rồi lần lượt cái duyên nó tới đâu thì mình thực hiện tới đó. Mình đã biết được con đường đi từ thấp đến cao, do đó mình phải tu cái gì trước, tu cái gì sau.
“Ngược lại ta phải suy nghĩ và thương lại bạn bè. Trước đây ta cũng như họ cũng bị vô minh ngăn che nên cũng hao tiền, mất thời gian mà không được ích lợi gì. Nên ta vẫn vui vẻ sống hòa đồng với mọi người. Đừng tự mình tách riêng ra vì chúng ta sinh ra từ nhân quả. Hiện nay đang sống giữa cộng đồng, nên phải hòa mình vào cộng đồng, nhưng ta có trí tuệ hơn. Ta được học đạo đức nhân bản nên ta không bị lôi cuốn theo ác pháp làm những điều vô nghĩa, mất thời gian phí tiền. Ta phải sống làm sao để mọi người nhìn vào bằng con mắt thán phục. Để mọi người hiểu rằng: "Con người này từ ngày không đi lễ chùa, cầu kinh, cúng bái với mình nữa. Mà sao họ sống thanh thản, an lạc quá? Họ sống hiền lành, hiền hòa, có đạo đức quá". Từ đó họ sẽ lân la làm quen với ta để hỏi về kinh sách, hỏi về cách thức tu. Thì từ đó bằng khả năng của mình, ta sẽ nói cho họ biết, đồng thời cho họ mượn sách để họ đọc. Chứ chúng ta đừng coi thường, đừng tranh luận đúng sai với họ. Nếu có dịp đi chùa ta vẫn đi bình thường. Nhưng giờ đây ta đi với trí tuệ chứ không phải bằng sự vô minh. Vì thực ra ngôi chùa hoàn toàn không có lỗi, mà nó là nơi ghi lại công ơn của các bậc tiền bối”.
Đó là cái lời của Liễu Thiện nói. Như vậy, nó đã nghĩ và đã làm được như vậy. Thì ở đây, Thầy thấy qua cái bức thư nó gởi đến Thầy, thì Thầy cũng đem cái này để chúng ta học theo cái cách này là tu đúng cái đạo đức của đạo Phật không làm khổ mình, khổ người mà còn lợi ích. Đừng nghe Đại thừa nói rằng chúng ta tu theo Tiểu thừa là ích kỷ, tu cho mình không có tu cho ai hết, không phải. Qua cái lời này của Liễu Thiện, nó còn hơn là những người Đại thừa nữa mấy con.
Nghĩa là chúng ta tu cho mình mà tu cho mọi người nữa. Vì cái hành động làm đúng thì người ta sẽ thấy được mình tu sao mà bây giờ mình được giải thoát, được thanh thản như vậy. Thì mọi người, mình gần gũi người ta, mình không có bỏ những cái sự cộng đồng chung nhau. Thì cho nên người ta mới nhìn thấy được. Người ta nhìn thấy được, thì người ta sẽ hỏi. Từ đó cái duyên mà người ta hỏi đó thì mình mới có điều kiện mình giúp đỡ họ từ cái lời nói cho đến những kinh sách mình có được, mình cho họ mượn. Từ đó giúp cho họ cũng thoát khổ như mình. Như vậy rõ ràng là người tu Nguyên Thủy đâu có nghĩa là ích kỷ, đâu có không làm hạnh Bồ Tát. Thật sự cái hạnh này nó còn cao quý, rất cao quý mà bên Đại thừa gọi là Bồ Tát hạnh.
(1:16:21) Cho nên ở đây Thầy thiết nghĩ rằng từ cái chỗ mà sơ khởi đầu tiên mà chúng ta tu theo đạo Phật là đạo đức nhân bản - nhân quả. Các con nhớ kỹ chúng ta phải thực hành cho cuộc sống của chúng ta đem lại hạnh phúc cho gia đình chúng ta. Để rồi người trong gia đình chúng ta từ chồng, con cái của mình, từ vợ con của mình thấy được, từ đó họ sẽ hướng với mình một hướng như nhau. Và đồng thời mình sẽ có đủ duyên, mình mới sống một mình độc cư trọn vẹn để mình đi sâu hơn nữa. Và mình là người cầm ngọn đuốc để dẫn cả gia đình mình đi, chứ không phải mình đi có một mình. Các con nhớ đây là cái căn bản nhất mà chúng ta cần phải học và tu. Vì mọi người cư sĩ chúng ta ở đây đều là những người có gia đình tất cả.
(1:17:02) Trừ ra những người còn tuổi nhỏ, chưa có gia đình mà quyết đi tu. Thì chúng ta hãy bước vào chùa để mà chúng ta học hỏi những điều của cái người chưa có gia đình. Còn người có gia đình là đã có nhân quả trói buộc. Thì chúng ta nếu mà muốn xuất gia thì ít ra mình cũng phải sống ở đây, mình tu tập một thời gian. Mà người ta xem thấy được cái phạm hạnh của mình sống ở đây được thì người ta chấp nhận. Bây giờ thí dụ bây giờ Thầy cho các con vào đây, ở đây 4 tháng. Như đức Phật nói là khi vào 4 tháng mà Phật và chúng Tỳ kheo thấy được thì cho xuất gia. Thì bây giờ các con là những người chưa có gia đình, chưa có lập gia đình gì hết. Cái duyên tốt còn trẻ tuổi, nó không có cái ràng buộc của ái kiết sử. Thì những người đó đến đây xin đều được chấp nhận cho ở đây tu.
Nhưng mà xuất gia thì chưa cho là vì còn trắc nghiệm coi thử coi có thích, có cái đời sống phạm hạnh có thích hợp với họ không? Họ đến họ sống ở đây trong 4 tháng mà thấy hoàn toàn họ sống độc cư. Họ ăn ngủ, họ không có còn phi thời nữa. Rồi họ biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trong mọi sự kiện. Bây giờ thí dụ như bữa nay, cô Út cho ăn cơm muối, họ cũng vui vẻ ăn. Ngày mai cho ăn đồ rất ngon, họ cũng bình thường. Là biết được cái người này đã tùy thuận được trên cái sự sống của họ rồi. Do đó, họ được quyền xuất gia hẳn hòi. Và ngay đó Thầy là người đứng ra làm lễ xuất gia cho họ, là truyền cho họ những giới luật cần thiết cho họ. Khi đó mới là chấp nhận họ.
Chứ còn bây giờ họ còn nói chuyện, họ còn sống phi thời, ăn uống phi thời mà xuất gia cho họ, họ thành tu sĩ, rồi tu sĩ này ra sao mấy con? Mấy con thấy tu sĩ này có đúng không? Họ sống không đúng phạm hạnh rồi, không đúng cái giới luật này rồi thì như vậy làm sao mà xuất gia cho họ? Thì xuất gia thì có hình thức mặc cái áo, cạo cái đầu trọc, đi ra họ nói: “Trời ơi! Ông Thầy này sao ông giống đời quá? Ông ăn uống cũng như đời, rồi ông sống ông nói chuyện bu lu ba la”. Như vậy là rõ ràng là người ta phỉ báng Phật pháp, có ích lợi gì? Cho nên khi mà xuất gia thì mấy con phải biết. Muốn xuất gia, không phải là đến đây xin xuất gia là Thầy cho xuất gia.
Vì vậy mà mấy con xuất gia là trở thành vị tu sĩ chứ gì? Dù cái tuổi mấy con lớn hoặc là nhỏ đều hoàn toàn mấy con được ở đây, Thầy trắc nghiệm 4 tháng. Như đức Phật ngày xưa cho một cái người vào tu phải 4 tháng ở đây sống được đúng phạm hạnh. Tức là phạm hạnh ngày xưa đức Phật gọi là phạm hạnh, là giới luật đó. Sống đúng những cái tiêu chuẩn giới luật. Thì chừng đó thấy ờ cái người này sống đúng như vậy là cho họ xuất gia.
Còn mấy con muốn xuất gia mau quá. Mấy con thấy Thầy chưa cho xuất gia, mấy con lật đật cạo cái đầu mình đi, rồi coi cái y áo ai đó xin cái mặc vô. Thôi thiên hạ thấy tưởng ông Thầy thật, chắp tay xá lia lịa, nhưng cuối cùng mình có ra gì mấy con. Thôi thôi học đâu ba mớ gì kinh Đại thừa cũng có, những lời Phật dạy Nguyên Thủy (cũng) có, gặp ai cũng thuyết giảng tùm lum mà còn nói thiền nói đạo nữa. Trời ơi! Cái vấn đề này là vấn đề đau lòng nhất. Giới luật không biết, không hiểu phạm hạnh, cái đức hạnh ra sao hết mà dám coi như là mình là người xuất gia. Thiệt ra thì coi như cái hành động đó là hành động phỉ báng Phật pháp mấy con, chứ không phải là hành động đúng đâu. Bởi vậy, đức Phật mới nói trùng trong lông sư tử là cái hạng người này.
(1:20:00) Cho nên khi mà muốn xuất gia tu mà trở thành tu sĩ, trước khi mặc chiếc áo như Thầy thì được một vị Thầy giới luật nuôi dưỡng mình, trắc nghiệm mình, thử thách mình để xem coi mình sống đúng cái đời sống phạm hạnh đó chưa? Nếu sống được thì người ta sẽ làm một cái lễ. Người ta cũng không làm cái lễ gì mà như bên Đại thừa rườm rà đâu. Người ta đến đó thì người ta nói tuyên bố rằng: “Hôm nay là những cái phạm hạnh mà Phật tử đã sống được như vậy hay hoặc là con đã sống được như vậy. Con xứng đáng là một người đệ tử của Tu viện này, hay là của người đệ tử của Phật, trở thành một vị Tăng, vị Ni xứng đáng”.
Người ta chỉ cần nói như vậy là đủ rồi. Người ta sẽ xuống tóc, người ta trao y bát cho cái người đó. Thì người ta sẽ truyền cho cái cách thức, người ta dạy những cái hành động sống. Đi xin ăn như thế nào, ôm bát như thế nào, ăn uống trong bát như thế nào, cách thức của một người tu sĩ như thế nào? Rồi lần lượt người ta dạy cách thức vấn y, đắp y như thế nào? Để rồi mình trở thành hoàn chỉnh là một người tu sĩ. Chứ còn khơi khơi cái rồi mặc áo, rồi đi vô. Thầy nói nhiều người là một tu sĩ mà chưa có oai nghi tế hạnh gì hết. Đó là ở đây là như vậy. Cho nên ở đây có một vị xin Thầy xuất gia, tức là ham muốn. Nhưng mà cái hoàn cảnh gia đình, có gia đình thì chắc chắn cái điều này thì Thầy sẽ xét lại. Để rồi Thầy sẽ coi, rồi trong khi đó muốn xuất gia thì xem coi cái gia đình, coi trong gia đình coi nó tốt hay là xấu?
Phật tử: “Từ trước đến nay đêm nào con cũng cầu nguyện cho con gặp được vị minh sư và cho con được xuống tóc xuất gia. Con nguyện sẽ cố gắng”.
(1:21:56) Trưởng lão: Do đó thì các con biết khi mà tập trung vào cái hơi thở. Thì vừa biết hơi thở, nhưng mà mình vừa có sự tập trung ở trong những cái xúc giác, cái miệng của mình. Tức là nó có những cái hạch mà tiết ra nước miếng. Mình tập trung ngay những cái điều kiện đó không ngờ là. Thí dụ như mình vừa biết hơi thở ra vô mà mình vừa chú ý ở trong cái miệng của mình. Tức là phải nói rằng mình phải có cái sự nhìn hiểu, nhìn ở trong qua cái miệng của mình thì hơn. Cho nên do đó mà nó tác động ra. Cho nên nếu mà ngồi ngậm miệng lại mà Thầy tu. Mà Thầy cứ chú ý ở chỗ cái lưỡi Thầy ngậm đó thì tức là một hơi nó có nước miếng nó tác động ra. Đó cho nên do cái chỗ mình tu sai như vậy đó là do cái chỗ mà tu tập sai. Là chỗ mình tập trung không có đúng cái nơi vị trí của nó. Cho nên nó bị sai, nó mới ra nước miếng.
Do như vậy thì bắt đầu bây giờ chúng ta tu như thế nào? Thì chúng ta phải nhắc như thế này. Đừng có để mà chúng ta hít thở một cách thường. Mà chúng ta phải nhắc: “Hít” là phải tập trung ngay cái chỗ cái nhân trung, cảm giác hơi thở từ đây mà ra. Thì do đó hít vô thì chúng ta cứ tập trung ngay chỗ này. Chúng ta nghe cái hơi thở ở đây mà xuất phát đi vô. Đừng có để ý tới cái lưỡi của chúng ta nữa thì nó sẽ không có ra nước miếng nữa, nó sẽ hết liền. Do như vậy đừng có để ý trong cái miệng của chúng ta nữa thì nó sẽ không có tác động những cái hạch tiết nước miếng đó. Ở trong miệng của mình có những cái hạch tiết nước miếng. Khi mình bỏ một miếng đồ chua hay hoặc là đồ ăn ngọt gì đó, nó sẽ tiết ra cái nước miếng. Nó làm cho cái nước bọt của mình nó tiết ra.
Còn bây giờ mình tập trung, thì mình lo tập trung ngay chỗ này. Cho nên nó trật là mình, trong khi mình tập trung hơi thở mà cảm nhận nơi những cái hạch tiết nước miếng của trong miệng của chúng ta. Do đó là một cái sai. Cho nên vì vậy mà chúng ta hãy tập lại. Tập lại như thế nào? Bởi vì nó quen cái này rồi. Cho nên vì vậy chúng ta bảo: “Hít” là chúng ta nhớ rằng mình ở nơi cái nhân trung của chúng ta đây. Là mình cảm nhận cái hơi thở của mình, nó từ đây nó hít vô và cũng thấy từ đây nó xuất phát ra cái hơi thở. Cứ nơi cái tập trung nơi chỗ đó thì sau một thời gian sau thì con sẽ không còn có tiết nước miếng nữa. Đó là những cái điều mà tu tập cho nó đừng có sai.
Còn nếu mà thấy nó cứ như vậy hoài mà nó không được thì thôi không tu cái hơi thở này nữa. Coi như là con dẹp cái hơi thở đi không tu nữa. Bây giờ tu dưới bước chân, coi nước miếng nó ra không? Bởi vì, con tập trung dưới chân, làm sao nó ở trên miệng, nó biết đâu nó ra? Đó cho nên vì vậy mà tập trung dưới bàn chân chúng ta. Chúng ta tu thân hành ngoại. Tu thân hành nội không được thì chúng ta tu thân hành ngoại. Sau khi tu những cái pháp khác, rồi chúng ta thấy nó an trú được rồi. Thì chúng ta trở về với pháp hơi thở thì nó không có sao nữa hết, nó hết liền. Bởi vì nó quen rồi thì mình nhiếp vô, thì nó vô hơi thở mà nó không tập trung ở chỗ khác nữa.
Phật tử: “Câu thứ hai, khi ngồi kiết già, mắt hành giả nhắm lại hay mở mắt?”
Trưởng lão: Đó là câu hỏi mình nhắm lại hay là mình mở mắt khi mình ngồi kiết già để mình tu? Như hơi thở hay hoặc là một cái phương pháp Định Vô Lậu. Đặt cái đề mục ra mình tu thì mình nên nhắm mắt hay là mở mắt.
Phật tử: “Nhắm mắt lại thì tâm con nó an, còn mở mắt ra thì tâm nó dao động và nước miếng chảy. Và như vậy phải làm sao thưa Thầy?”
Trưởng lão: Thì ở đây cái câu này Thầy trả lời. Người tu theo Phật thì chúng ta không nên nhắm mắt mà cũng không nên mở mắt to. Mà chỉ nhìn xuống cho đôi mắt mình mở một phần ba mà thôi. Nghĩa là trong ba phần mắt mình, nó mở có một phần, đó là đúng cách. Nhưng vì mà chúng ta không nhiếp phục được tâm, không an trú được tâm. Cho nên tuy rằng mở, còn con mắt mở như thế này mà nhìn xuống như vậy nó vẫn còn có sự dao động. Nó còn có niệm khác nó chen vô, cho nên buộc lòng chúng ta phải nhắm mắt lại. Khi mà tâm nó tỉnh táo hẳn hòi thì chúng ta nhắm mắt lại. Thì nó dễ nhiếp tâm trong hơi thở hoặc là dễ nhiếp tâm trong pháp hơn thì nhắm mắt lại. Mà khi mà đã quen rồi, qua nhiếp tâm rồi thì chúng ta nên tập mở một phần ba mắt. Chứ không được mở to mà cũng không được nhắm mắt vì nhắm mắt nó dễ bị đi vào hôn trầm.
Cho nên ở đây khi mà tỉnh, cho nên nó hay có những niệm. Cho nên buộc lòng chúng ta phải nhắm mắt lại để thu nhiếp cái tâm của mình nó dễ hơn. Thì mới đầu tu là nhắm mắt được. Nhưng mà sau khi mà tu mà thấy nó có trạng thái hôn trầm, thùy miên thì chúng ta không nên nhắm mắt. Phải mở mắt để mà phá đi những cái hôn trầm thùy miên. Đó như vậy thì trong cái vấn đề mà nhắm mắt hay mở mắt thì Thầy đã giải quyết cho. Khi mà bị hôn trầm, thùy miên thì nên mở mắt. Mà khi tu mà bị dao động tức là tâm bị động. Thì tức là nó có niệm khởi xen vô xen ra, thì do đó chúng ta hãy nên nhắm mắt. Nhắm mắt để mà chúng ta lắng, dùng một cái sức tưởng chúng ta như cái hơi thở ra vô cho nó rõ ràng. Và đồng thời thì khi đó mà muốn cho cái hơi thở mình ra vô mà nó không tập trung ở trong cái miệng của mình nữa. Thì do đó mình mới tác ý: “Hít”, thì mình hít vô. “Thở”, mình mới thở ra.
(1:27:21) Do đó nó có cái hướng dẫn trước cũng như có một người dẫn mình trước. Cũng như có một người nhắc tuồng, mình làm theo sau dùng nhắc hít. Đó bây giờ cái đó là người nhắc mình rồi thì bắt đầu đó mình hít vô. Rồi bây giờ thở, mình nhắc thở, thì có người nhắc rồi, mình mới thở ra. Làm như vậy nó rất chính xác cho cái hơi thở của chúng ta. Và đồng thời chúng ta cứ tập như vậy thì tùy theo. Chứ nếu không, nếu mà chúng ta không có xét kỹ thì chúng ta tập 10 phút, 20 phút, 30 phút thì nó sẽ bị nặng đầu. Bởi vì cái đó là cái sức tập trung cao. Chỉ tác ý từng hơi thở của chúng ta.
Cho nên trong khi mà các con tu pháp Thân Hành Niệm. Các con biết khi ngồi xuống, không có nghĩa là hít thở mà con tự hít thở 5 hơi thở rồi im re vậy đâu. Mấy con ngồi từng cái hơi thở, cũng như từng cái hành động đưa cánh tay ra thì mấy con đã nhắc: “Đưa tay ra” thì đưa tay ra, “Đưa tay vào” thì đưa tay vào. Thì như vậy cho nên hít thì mình cũng phải nhắc “Hít” thì mình hít vô, “Thở” thì mình mới thở ra. Hít thở, hít thở. Cứ đúng 5 hơi thở thì mình đứng dậy. Mình xả ra, mình đứng dậy, mình đi kinh hành. Chứ không phải là tới hơi thở, rồi làm thinh hít thở 5 hơi thở như mình tu Định Niệm Hơi Thở thì mấy con đã tu sai.
Còn bây giờ vì cái trường hợp tu Định Niệm Hơi Thở mà nó có những cái tập trung sai, cho nên mình sử dụng hít thở. Có những cái loạn động, có những cái vọng tưởng mà nó hay xen vô. Cho nên mình an trú cái tâm mình trong hơi thở không được, buộc lòng mình phải nhắc, phải dẫn nó từng hơi thở, từng hơi thở. Cho nên cuối cùng thì mình tu không có vọng tưởng đâu. Các con hiểu chỗ đó chưa? Cho nên có nhiều người ngồi tu hơi thở mà sao vọng tưởng quá trời. Rồi sau nó hết vọng tưởng thì nó lại hôn trầm.
Cho nên các con nhớ, các con nhắc như vậy là hôn trầm nó cũng không vô được nữa. Bởi vậy cho nên cái hôn trầm thùy miên là do cái phương pháp tác ý theo cái hành động của nó thì nó sẽ phá đi, nó không còn cái hôn trầm thùy miên. Đó là tất cả những cái kinh nghiệm mà ở đây nói ra để cho mấy con biết cách thức mà con tu tập. Hầu như cái người, người ta an trú, người ta nhiếp tâm được là người ta nhờ người ta dẫn cái tâm người ta vào từng chút từng chút như vậy. Các con nhớ rõ rồi phải không? Nên vì vậy là không bao giờ các con còn tu sai nữa đâu.
Phật tử: Câu hỏi thứ 3: Tu Định Niệm Hơi Thở, trong năm 2003 tháng 2, hai tháng đầu tác ý An tịnh thân hành, an tịnh tâm hành. Căn cứ tu đề mục được 30 phút, đuổi bệnh được 30 phút.
HẾT BĂNG -
DÙNG GƯƠNG HẠNH TU TẬP ĐỂ CHUYỂN NHÂN QUẢ - PHẬT TỬ NGHỆ AN
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Phật tử 1: Kính bạch Thầy, bên nhà con thì hoàn cảnh nó khác hơn, biết con thì chắc có lẽ công đức thì ít mà nghiệp thì nặng dày, cho nên hoàn cảnh gia đình nó không được thuận duyên. Trong anh em thì đông nhưng mà hầu như là họ không ai theo cả, chỉ có một mình con. Kể cả mẹ con cũng rứa, mẹ con năm nay là 91 tuổi, mà coi như là uống rượu từ khi nhỏ cho đến giờ. Sự thật, con cản riết mà con chuyển không được.
(00:41) Trưởng lão: Thôi. Con cứ con giữ con đi, rồi lần lượt trong khi mà con giữ gìn con tu tập nó lần lượt nó sẽ cảm hóa dần, nó chuyển dần, nó làm cho người khác thay đổi, chứ còn mình không đủ khả năng mà mình khuyên người ta nghe đâu. Con cứ giữ cho con cho trọn vẹn, đừng có (dao động Họ lôi cuốn con, họ không giữ chứ họ lôi cuốn con. Nhưng mà họ lôi cuốn con được thì con thua rồi, mà họ lôi cuốn gì cũng không được bắt đầu con lôi cuốn họ đó, họ theo.
Phật tử 1: Con thì con giữ lâu rồi, con không bị ai lôi cuốn cả. Về ăn uống, ngủ nghỉ mà nói.
Trưởng lão: Con làm cho đúng. Thí dụ như là người ta nói bảo mình ăn hai bữa con cứ ăn một bữa, mà rồi rốt cuộc họ đau gần chết mình không đau, cái mình nói: “Đó mấy người ăn nhiều đau đó, tôi không đau”. Cái bắt đầu họ hoảng, cái bắt đầu thấy đúng quá.
Tự nhiên mình sống đúng giới luật của Phật rồi đó mình cảm hóa được họ liền. Để cho họ có những cái chuyện xảy ra, còn mình thì nó không có gì hết thì mình mới lấy mình, mình lấy cái gương của mình mình sẽ xác định cho họ, từ đó họ mới giật mình họ mới theo mình được. Chứ còn bình thường cái nhân quả họ nó còn thuận con dẫn dắt họ không được đâu. Để chờ cho họ có cái khấc nào đó, họ sắp sửa gần chết rồi bắt đầu họ thấy mình khác mà họ khác cái bắt đầu họ thay đổi. Nó chờ cái nhân duyên nhân quả vậy đó con.
Phật tử 1: Ngay vợ con là nấu rượu đến 20 năm nay nấu rượu. Mà cả nhà, con hồi chưa theo đạo là con cũng nấu rượu. Cả gia đình con không trực tiếp làm nhưng mà vợ con nó làm, rồi thuận duyên với nó nên còn làm. Nhưng mà sau khi theo đạo Phật thì cũng vẫn chưa bỏ.
Sau đọc Đường Về Xứ Phật của Thầy, cái tập I nói về sáu nghề mà không nên làm, con mới bàn với vợ con là bỏ. Nhưng mà nó bỏ được một thời gian bây giờ nó đòi hỏi phải làm lại. Con thấy cái đó thì tùy thôi, chỉ vẽ cho rứa mà không nghe, cái đó không nghe thì tùy, con cũng không ngăn cấm được nữa. Nếu không ngăn cấm được nó cứ làm, thì con không tùy thuận theo nó để nó làm thì con có phạm không?
(02:42) Trưởng lão: Không, con không phạm đâu, con nhất định là phần con thì không phạm, nhưng mà cái phần mà của vợ con làm đó, nó không nghe nó làm thì nó sẽ phạm vào cái giới luật, cái lỗi đó. Cho nên con yên tâm, con không có phạm. Con cũng đem hết lời của mình khuyên rồi, chứ mình làm thinh mình đồng ý là mình có phạm đó, còn cái này mình không có đồng ý nhưng mà vì nhân quả của người ta, người ta làm người ta chịu chứ con thấy, con hiểu không?
Con cũng không trách nữa. Bởi vì tôi thì tôi không chấp nhận, nhưng mà bây giờ gia đình muốn làm thì sau này những cái lỗi lầm đó là phải tự mình gánh chịu. Còn nếu mà tôi đồng tình, tôi chấp nhận thì tôi có cái lỗi trong đó. Khi đầu tôi không biết thì thôi, khi mà đã biết thì nhất định là không làm. Bởi vì người ta uống rượu say sưa người ta chửi đánh vợ, đánh con người ta. Hoặc là người ta đau bệnh cũng do mình nấu một phần mà ra. Chứ cỡ mình không nấu thì làm sao người ta có những cái điều đó. Cho nên vì vậy cái này là cái đau khổ.
Ví dụ như bây giờ gia đình mình mà có người chồng say xỉn, đánh vợ đánh con vậy, thì hỏi ai thấy không tức. Có buồn không? Mà bây giờ mình nấu để cho người ta uống rồi để người ta đánh vợ đánh con người ta như vậy là mình có lỗi chứ đâu phải mình không lỗi.
Con phải nhắc cho gia đình của mình cho nó thấy, để rồi nó mới hiểu rằng một cái điều hại, một cái nghề mà làm đau khổ biết bao nhiêu người con. Do đó nó mới thấy được cái điều kiện tác hại. Mình đem lại cái gì cho mọi người cho hạnh phúc chứ sao mình nấu ba cái rượu này cho mọi người say sưa, để họ đánh vợ đánh con, họ la làng la xóm, chửi bới um sùm, vậy thì cái này đâu có tốt.
Phật tử 1: Thưa Thầy coi như là không phải riêng xóm làng mà ngay trong gia đình con có hai người con trai nó cũng lớn rồi, bây giờ mẹ mà nấu rượu, nếu không nấu rượu mà ngăn cản nó không uống thì nó dễ hơn, mẹ nấu rượu thì nó lại uống rượu, nó lại kéo bạn bè về nó uống.
Như vậy con mới chỉ là cái nhân quả, nếu như không uống rượu thì đi nó tỉnh táo, tham gia xe máy nó tỉnh táo, nó không bị tai nạn. Anh uống rượu thì coi như xe máy đi ra đâm thì tai nạn chết người, thì khi đó là lại đổ cho số mệnh, cái này cái khác. Nhưng cái này chính là cái nhân và cái quả nó đi liền với nhau, nhưng mà nó cũng vẫn không nghe.
(04:57) Trưởng lão: Từ đó, bởi vậy cho nên đó, con hết sức con nói mà gia đình họ không nghe, con cái không nghe, thì cái đó là lỗi của họ, họ sẽ phải gánh lấy cái nhân quả đó. Cho nên con yên tâm con không có lỗi đâu. Còn con không nói tức là con đồng tình đúng là con có lỗi rồi. Tại vì mình biết mà mình không nói tức là mình có lỗi, chứ còn mình nói hết rồi nhưng mà họ không nghe thôi, cái đó là nhân quả mình cũng đừng có để tâm mình buồn phiền.
Vì cái nhân quả nó cấu kết với cái kiết sử, mà mình buồn phiền, mình thấy nói không nghe mình buồn phiền là mình đã bị nhân quả chi phối mình rồi. Còn trái lại mình nói hết bổn phận của mình, mình nói cho họ nghe mà họ không nghe là mình đã xong cái nghiệp nhân quả của mình rồi. Tức là mình giữ gìn trọn vẹn. Còn cái phần của họ, là họ muốn giữ thì giữ kệ họ, họ phải chịu lấy. Con làm hết bổn phận con rồi thì con an trí rồi, an ổn rồi không có lo nữa.
Phật tử 2: Bạch Thầy. Là con thấy một điều rất vi diệu, sau khi bắt đầu giống như Thầy dạy cho con là, kinh sách của Thầy thì con thấu hiểu được hết. Chính ra lúc đầu mình nói tất cả là vô lý hết, nói từng mô thì mình càng mang tội từng nấy. Con giữ giới luật thật nghiêm chỉnh, ăn một bữa đúng mình ăn một bữa là cuối cùng là được.
Tại vì bạn mấy đứa cháu là to béo mạnh khỏe cả, ăn uống đủ các kiểu rồi nhưng mà đến cái ngày mà vừa rồi ra tết anh cũng nằm ốm, nằm liệt cái đã. Anh nói: “Cậu Minh ăn một bữa mà cậu vẫn khỏe mạnh, ai ốm cậu vẫn săn sóc vẫn lo được. Mà tại sao ăn một bữa?” Thì từ đó mình thấy người ta chuyển hóa.
(06:27) Trưởng lão: Nó có những cái điều kiện nó sẽ lôi cuốn, và đồng thời mình cũng không làm gì được hơn là mình giữ âm thầm, mình âm thầm thôi. Bởi vì gia đình của mình, con cái, vợ con của mình mình đâu có nỡ bỏ được. Cái đó là cái đạo đức rồi. Cho nên mình âm thầm.
Trong khi một tháng mình giữ gìn thọ Bát Quan Trai ước nguyện cho cả gia đình của mình đều có sự thay đổi. Mình nói không nghe nhưng mà mình thầm ước nguyện cho họ: “Hôm nay tôi giữ gìn tám giới này tôi ước nguyện cho con cái, cho cả gia đình tôi hướng về Phật pháp làm việc thiện, sống điều thiện”. Mình ước nguyện vậy thôi rồi mai mốt đùng cái nó nằm xuống nó đau láng lênh rồi bắt đầu nó lật đật nó lo ăn chay hết, có cái tai nạn gì xảy ra cái nó hoảng sợ.
Chứ còn nói thường thường nó vẫn bình thường không sợ đâu. Nhưng mà thế nào rồi nó cũng có, cái ước nguyện của mình nó có để cho nó thức tỉnh chứ không có gì hết. Rồi gia đình nó kéo về một cái hướng của Phật.
Với cái tâm nguyện của con, con ước nguyện vậy đó, rồi cái gia đình của mình nó sẽ tốt hơn. Chứ còn mình không bao giờ mình có, tại vì bây giờ mình nói không nghe rồi mình tức, mình giận, mình buồn thì nó tạo thêm cái nhân quả. Còn cái này mình nói nhưng mà mình không giận, không buồn gì hết. Rồi còn ước nguyện tốt cho gia đình mình thay đổi nhưng mà nó sẽ thay đổi đó.
Phật tử 2: Con bạch Thầy là Thầy dạy giùm con, thời đại giờ nhiều khi con cũng khó hiểu, bây giờ nó chỉ biết ăn với chơi, ngoài làm việc thì đã đành rồi, nhưng được đồng nào nó ăn nó chơi vậy thôi, chứ còn ngay như ốm đau nó cũng chả lo luôn. Tại vì con nói thật với Thầy là con làm nghề thuốc Bắc, cho nên khi bệnh tật, ốm đau, cảm cúm nó đến là coi như con tự giải quyết hết. Thế là nhiều khi nó ỷ vào hay là thế nào, như bệnh nó nó cũng chả lo nữa.
Trưởng lão: Nó ỷ lại, nó ỷ vào đó.
Phật tử 2: Cho nên là sắc thuốc lên cũng phải này nó, nhắc nó ba bốn lần khi đó nó mới nhớ nó uống. Cuộc đời nhiều thấy…
Trưởng lão: Nó ỷ quá rồi.
(08:14) Phật tử 3: Bạch Thầy, con xuống thăm Thầy và Tu viện, con có mấy vấn đề. Từ khi mà đang còn lõm bõm học xong lớp một, bây giờ đang học lớp một, thì ra ngoài ao nhìn thấy cá, nhìn thấy người ta câu, thì thấy hay cũng ra đi câu con cá. Câu không để về mục đích về để sống, để ăn uống, con nít thì thấy câu thì hay. Ra câu thì thấy con cá thì câu, ban đầu câu thì thấy sau đó mới ngồi, hồi đó đi cái dép cao su bạch Thầy, cuối cùng thì dép cao su nó rớt xuống dưới, con nhỏ không biết tưởng là từ xa con thấy nó nổi con mới thò tay xuống là lấy được, thò tay xuống là coi như ụp xuống dưới luôn là chìm luôn, quẩy một hồi là ra giữa con sông, ra giữa chỗ cái ao đó.
Thì có cái bà đang giặt chiếu (…). Lúc con ngồi trên bờ thì chắc bà cũng thấy, đến khi bà vỗ chiếu bụp bụp một hồi thì bà ra bà thấy cái chỏm tóc, sau bà về kể lại thấy chỏm tóc nổi lên bà mới cầm cổ bà kéo vô. Bà kéo vô thì đưa về ở nhà thì bữa sau con mới thấy tỉnh lại. Sau con mới nhớ lại lúc đó mình suýt chết đuối.
Trưởng lão: Chết một lần.
Phật tử 3: Bà đó bà cứu khỏi chết đuối. Hồi đó còn trẻ thì con không biết luật nhân quả như thế nào, sau con lớn lên con suy nghĩ, đáng ra chết rồi nhưng mà cái người đó cứu mình, về sau không có ai thăm hỏi người ta, nếu như mình còn con nít không biết thì người lớn đến mà cảm tạ người ta chứ, tại sao lại như thế. Con mới có cái suy nghĩ đó luật nhân quả. Sau đó con mới hiểu được cái đôi chút sách vở về của đạo Phật nhưng mà cũng rất là mơ hồ.
Rồi sau đó con cũng có những cái thiên hướng đi về một cái tín ngưỡng nào đó. Ví dụ như là Thiên Chúa Giáo, thì cuối cùng con cũng có một thời con có mấy cái vị đó rủ đi. Nhưng mà con thấy tất cả các cái kinh Tân Ước, rồi tất cả những cái, con cảm thấy không có cái chân lý gì cả, mà phải toàn cầu xin một cách vô vọng như thế. Con có một cái sự suy nghĩ như vậy.
(10:42) Rồi là đến năm trưởng thành thì trở thành một người thanh niên thì con vẫn bị rất là nhiều cái sự đau khổ, kể cả ở gia đình bố mẹ cũng như ra ngoài xã hội, cũng như là học đường rất là vất vả và thiếu thốn. Học lớp bảy thì bạch với Thầy con vẫn bận cái quần đùi đi học và đi chân đất, không được như người ta, đi học thì cũng thiếu đủ thứ từ sách, vở, giấy, bút cho đến này khác. Về nhà thì bố mẹ la rầy như thế này thế nọ. Học hành thì chẳng chịu, chơi bời thế này thế khác.
Đến khi là hết tuổi học thì con vào một cái trường, nhưng mà cái trường đó thì cuối cùng lại do cái duyên như thế nào, cho nên làm sai cuối cùng con không đi được. Bực mình cái duyên phận của mình trở ngại, người nó giận. Con xác định vào môi trường quân đội.
Con vào môi trường quân đội nhưng con suy nghĩ thế này: Trước đây mình ở nhà mình yếu gầy thì thằng này thằng khác nó bắt dọa. Mình thấy học cho giỏi võ, về chơi lại, chứ còn mình hiền … Cho nên là đi vào cái cơ sở của con chỉ có đi dạy đấm đá thôi. Sau đó con đi vào môi trường quân đội và sau đó con ra Trường Sa. Nếu mà không dừng ở nghĩ cái chuyện ác thì con vấy máu, tức là giết chúng sanh. Giết chúng sanh thì con giết rồi nhưng con vẫn có một cái tâm niệm nếu như mà người vô tội là không giết.
Làm gì thì làm nếu mà lấy đạn pháo mà giết người ta thì bắn người như thế này thì con nhất quyết không đó. Nhưng mà các cái loài động vật súc sinh ở trên biển thì con cũng có phạm trong cái vấn đề là giết chúng sinh, nhưng mà con vẫn làm gì thì làm nhưng trong thân tâm không được giết con người, con người là vô tội quá. Nếu như mà họ không có ra lệnh cho mình giết thì mình tìm cách mình ngưng hoặc bắn trật trở lại. Thì khi con đi như vậy thì con nghĩ được điều đó.
(13:01) Còn sau đó thì đi tìm đạo và đi đến tất cả cái nơi chùa chiền, am thất rồi con thấy cuộc sống mình tại sao có cái thời ngu dốt đến như vậy, trí tuệ mình không phát triển và nói trước thì quên sau, nói sau thì quên trước. Cái trạng thái đó thì do một cái gì đó nên tìm ông thầy cho giỏi mình bói xem thử cuộc sống của mình sau này như thế nào. Đó, thì khi con mê tín.
Thì từ cái chỗ mê tín đó mới gặp được trong chùa các chùa Đại Thừa người ta bày ông phải đi theo Phật, thế này thế khác thì con cũng giải trình là đi theo đi hết chùa này chùa khác, thì nghe bảo cứ cầu Phật đi. Cuối cùng con đi tìm. Cuối cùng mấy năm trước ở gần đây là con có vào cái chùa của cái vị đó là nói về phái Khất sĩ, đường lối ngày trước là của ông Tổ sư Minh Đăng Quang. Thì con cầm được cái bộ chân lý đó thì con (…).
Sau đó thì con có đủ duyên gặp được sách của Thầy và tất cả những cái của con tự phô tô về, con mới góp nhặt tất cả những pháp thoại của Thầy, khi mà phô tô ra in đủ 10 tập Đường Về Xứ Phật, và tất cả bộ Giới Đức Làm Người, từ khi đó con vẫn chưa dám hành. Sau đó có duyên lớn là con gặp sư Pháp Ngộ và con chuyển đổi nhân quả của con. Từ đó rượu và thịt là con không làm nữa.
Hôm nay con có nhân duyên rất lớn gặp được Thầy và cô Út chỉ dạy về đường lối. Bây giờ con đã hiểu trong luật nhân quả và tất cả nhân duyên của con, nhưng cái sự hành đạo thì con chưa có. Mong Thầy cho con coi như sám hối để con có sự phát triển về bước đường sau này trong nhân quả. Cảm ơn Thầy và cảm ơn cô chỉ dạy.
(15:35) Trưởng lão: Được rồi, Thầy chấp nhận cho con sám hối. Vì trong cái khoảng thời gian đó mình chưa có biết nên mình mới lầm lạc rất nhiều. Bây giờ gặp được Thầy rồi, sám hối rồi thì bắt đầu từ đây về sau giữ gìn giới luật, ôm pháp mà tu tập để cho nó thoát ra cái nghiệp khổ. Chứ còn đang khổ đó, chết đuối hồi nhỏ, mà chết đuối nhiều lần chết chứ có phải một lần đâu. Rồi bây giờ mình được sống mà được gặp chánh pháp như thế này là may mắn lắm đấy, chứ chết rồi lấy gì mà gặp. Cho nên phải ráng con, ráng mà tập. Có Thầy dạy cho. Tội!
Phật tử 4: Kính bạch Thầy! (…) Như thế là hôm con gặp cái duyên xuống chùa Long Đạm thì đến nơi thọ Bát Quan Trai ở đó, con được quyển sách Đường Về Xứ Phật của Thầy tập 2. Đợt đó là nhờ chú Minh gửi cho mấy cái chùa đó, mấy cái người ở chùa đó cho con mượn, con cũng đưa về.
Kính bạch với Thầy con lấy quyển sách đó về, xong con đọc cho vợ con nghe, gia đình nhà con là đang thờ đức Quan Thế Âm, thì con là tổ trưởng chịu trách nhiệm cho họ khoảng trên 5-7 chục người. Cho nên cứ tháng là mùng 1, 30, rằm và 14 là đều cầu an cầu siêu, tụng kinh, gõ mõ theo các thầy hướng dẫn con thực hiện như thế. Sau con nhận quyển sách đó về là con mừng lắm, con đọc cho, con đọc là con khóc (…) Khi đó cũng gặp duyên là sư Pháp Ngộ về, sau đó sư Pháp Ngộ đi rồi thì con cũng trao đổi với họ. Bản thân con và vợ con đã đi vận động được đôi người thôi chứ chưa được nhiều (…).
Nhờ Thầy cho con thêm minh mẫn để con về hướng dẫn cho đạo hữu theo đường chánh pháp cho đúng đắn hơn.
(19:24) Trưởng lão: Thế nào con cũng sẽ đạt được cái ý nguyện của con, con dẫn những đạo hữu, những pháp hữu mình đang tu tập từ lâu tới giờ đi sai, bây giờ mình đã ngộ được, rồi bắt đầu mình sẽ dẫn dắt những người đó. Đồng thời thì nó có những cái băng, cái đĩa mà Thầy đã giảng cho mấy con thọ Bát Quan Trai đó, họ sẽ thấy và họ đọc những sách của Thầy lần lượt họ sẽ theo hết, họ không còn có người nào sót đâu.
Con yên tâm đi, lần lượt rồi họ cũng phải đi tìm kiếm những cái điều kiện đúng đắn. Bởi vì chánh pháp khi có rồi thì lần lượt nó sẽ lan rộng ra, nó không có đứng lại một chỗ đâu. Thầy nói Thầy không nói ra chứ Thầy nói ra là lần lượt nó lan ra khắp hết à, chỗ nào rồi cũng tới hết.
Cho nên mấy con có cái tâm tha thiết như vậy thì chắc chắn là nó không bao lâu đâu. Tất cả những pháp hữu, đạo hữu của con nó sẽ hướng đến cái chỗ tu tập tốt chứ không có gì đâu.
Với giảng lại cái danh từ mà thường thường người ta gọi là đạo hữu đó, thì theo bây giờ mấy con gọi là pháp hữu. Bởi vì mình tu tập một pháp gọi là pháp hữu. Tức là bạn đồng pháp đồng tu. Còn đạo hữu là cái người đồng đạo. Thành ra đạo thì mình lầm. Vì cái danh từ đó nhiều cái tôn giáo người ta gọi nhau. Còn mình lấy danh từ gọi là pháp hữu, bởi vì pháp của mình là pháp Nguyên thủy. Còn cái người đó họ pháp khác là khác đó. Cho nên pháp hữu là những người huynh đệ của mình kêu là pháp hữu con. Pháp hữu, bạn bè cùng pháp.
Phật tử 5: Kính bạch Thầy, con đi theo bên Đại thừa là từ năm 1994. Hồi con đi xây dựng kinh tế ở Đắk Lắk. Hồi đó là tu theo chùa Long Đạm, chùa Khải Đoan ở Buôn Ma Thuột của sư Thích Châu Quang. Hồi đó quy y thì con viết danh sách lên rồi thầy quy y gửi về chứ cũng không lên trực tiếp làm vì số lượng đông người. Thì từ hồi đó cho đến nay con toàn đi theo bên Đại thừa thì cũng tụng niệm, rồi làm các công việc rất siêng năng, ngày nào cũng nhớ niệm Phật cả. Cũng chính niệm Phật rồi đi theo cả Mật tông cũng làm hết, nhưng thực tế chưa đạt kết quả chi cả.
Sau khi mà gặp Đường Về Xứ Phật con đọc mấy cuốn xong con thấy hay quá con đi theo. Từ đó con ăn chay trường, một tháng sau là con ăn một bữa, thọ Bát Quan Trai cho đến giờ. Như vậy trong quá trình tu tập thì con bạch Thầy là con hiểu và tin tuyệt đối rồi nhưng mà cái việc tu tập của con chưa được kết quá lắm. Trong quá trình tu hơi thở thì nhiều khi nó cũng chưa được thông thoáng thưa Thầy, về Định Niệm Hơi Thở.
(22:25) Trưởng lão: Để Thầy dạy chung cho mấy con thấy, (con ngồi xuống đi con) trong cái vấn đề tu tập là cần phải nhiếp tâm cho được, nhiếp tâm được nó mới an trú. Để Thầy nói cái chỗ mà nhiếp tâm và an trú để cho mấy con lưu ý.
Nhiếp tâm, ví dụ bây giờ mấy con đưa cái bàn tay ra, làm sao mình cố gắng mình tập trung rất cao để cho cái tâm của mình nó biết cái hành động đưa ra đưa vô cho rõ ràng, chú ý cho rất kỹ gọi là nhiếp tâm.
Nhưng mà khi nhiếp tâm một hơi mà nó nhiếp được rồi cái bắt đầu tự động cánh tay đưa ra đưa vô vầy đó là nó an trú rồi, thì các con không có tập trung nữa, các con xả ra, đừng có tập trung gom như hồi nãy nữa.
Bởi vì nhiếp tâm là mình vô mình nhiếp cho được, tức là buộc cho chặt, tập trung cho kỹ, đưa ra nhìn chăm chăm nó để đưa ra đưa vô cho rõ ràng, tác ý để cho nó theo dõi. Mà khi nó nhiếp tâm được rồi cái bắt đầu cánh tay tự động nó đưa ra đưa vô rồi. Cái tâm của mình thấy nó không có cần nhiếp mà nó tự động rồi thì cái tâm nó bám vô cái này, nó an trú trong cái này được gọi là an trú. Có hiểu chỗ đó không?
Cho nên lúc bây giờ nó tự. Hồi đó tới mà nó an trú được mình thấy hơi thở dường như nó tự động đó con, nó không phải là như mình vận dụng mình thở như hồi nãy nữa. Con hiểu không?
Tự động nó thở rồi thì bắt đầu mình xả ra để cho nó an trú ở trên cái hơi thở nó nghe nó khỏe. Rồi cái tay nó cũng tự động nó an trú. Cái tay nó tự động đưa ra đưa vô nó nhịp nhàng lắm, nó không có như hồi mình vận dụng. Còn mình vận dụng tập trung nhiếp cho được, cho nên mình vận dụng dữ lắm rồi nó mới khác. Cho nên cái nhiếp được rồi nó mới an trú được mà nhiếp không được nó an trú không được.
Các con nhớ kỹ, khi mà các con cố gắng nhiếp cho được, thì lúc bấy giờ nhiếp được rồi thì trong vòng chừng một phút, hai phút nó được rồi bắt đầu nó tự động của nó, thấy nó đưa ra đưa vô tự động. Thì để cho nó tự động chứ đừng cố gắng nhiếp nữa thì trật.
Phật tử 5: Nhưng mà thưa Thầy mình có tác ý không Thầy? Có tác ý: “Tôi đưa tay ra tôi biết tôi đưa tay ra, đưa vào tôi đưa thay vào”, có tác ý nữa hay để cho nó tự nhiên?
(24:12) Trưởng lão: Rồi, cái tự động nó tác ý con, tự động nó cũng tác ý theo, mà tác ý rất là êm ái, nó làm cho mình thích lắm, nó cũng tự động tác ý.
Phật tử 5: Bạch Thầy, Thầy giảng cái đoạn này tuyệt vời, chứ con thấy nhìn kỹ nhiếp tâm cứ tập trung nó mệt lắm Thầy ạ. Mình chỉ một hồi là mệt, mình đưa tay thế này mà cảm thấy…
Trưởng lão: Mệt. Hồi đó mình nhiếp tâm là mệt. Mà cứ làm hoài, làm hoài vậy nó mệt con, mà nó căng đầu nữa. Còn như tới chừng nó an trú rồi nó hết rồi, để cho nó tự động đi, rồi nó làm ra làm vô. Mình chỉ cần ngồi đó mình coi nó làm thôi, mình thấy nhẹ nhàng.
Phật tử 5: Thầy dạy thêm cho con về tham, sân, si ạ! Qua tu tập thì hồi bên Đại thừa thì bản chất con là nói không phải là hô với với Thầy nhưng mà lòng tham của con cũng ít, từ xưa đến giờ con vẫn ít. Bên Đại thừa thì theo con hiểu đi theo Phật rồi là con tin Phật, con bỏ những cái tham chẳng hạn như là đất đai, rồi vườn tược, nhà cửa hoặc là các cái quyền chức. Hồi xưa con cũng làm việc bên cách mạng, bên Đảng. Riêng những cái đó là con bỏ hết, con không chạy theo quyền chức, rồi lương thưởng chế độ các thứ mà chạy để mà hưởng chế độ, đáng ra con vẫn được hưởng nhưng vì con không chạy cho nên nó cắt.
Những cái đó là con cũng thấy cũng tự hào về bản thân mình là mình không tham. Nhưng mà từ cái chỗ không tham đó, thì liên quan đến gia đình là trong cuộc sống cũng có những cái nó hơi khó khăn hơn với những gia đình khác, thì vợ con nó lại không vừa lòng. Cho nên cái vấn đề đó thì nó cũng có cái được. Nhưng các vấn đề tham khác cũng chưa biết hết được.
Rồi cái sân hận, nhiều khi tu tập rứa nhưng mà có những lúc con cảm thấy như là mình diệt được sân, Thầy, ai nói gì cũng không sân lên nữa, nhưng mà bộc phát lúc nào đó khi mà sân lên là vẫn lên Thầy.
Trưởng lão: Nó còn thấy chưa.
Phật tử 5: Cho nên là cái đoạn đó là con cũng vẫn chưa ấy được thì Thầy chỉ cho con cái pháp làm sao mà diệt cái sân đi.
(26:22) Trưởng lão: Bởi vậy khi mà các con an trú được rồi, các con mới thấy nó tự do ra vô. Đâu phải để cho nó cứ ngồi nó an trú ở trên hơi thở không đâu. Không, bây giờ mới ly tham này, ly sân của các con. Nếu mà con thấy tâm con nó dễ sân, còn tham thì con cứ dùng cái khi nó đưa ra vô vầy thì con tác ý cái câu ly tham, ly sân đi. Thì trong khi nó an trú nó ly dữ lắm, còn nó chưa an trú con ly nó không ly nhiều. Con hiểu không?
Cho nên vì vậy mình đầu tiên vô là nhiếp kỹ lưỡng đó, mà trong vòng một phút, hai phút thôi mình xả ra; thì lúc bấy giờ nó an trú được rồi mình xả ra, xả ra cái bắt đầu mình ly tham, ly sân, ly si theo cái hành động của nó. Chứ không phải ngồi đó để mà an trú với nó, nó không có nghĩa gì đâu. Mà chính cái mình dùng cái tư tưởng của mình để nương theo ly tham, ly sân, ly si đi. Thì lúc bấy giờ nó mới thật sự nó ly đó.
Cho nên con thấy sáu cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở thì tới cái đề mục thứ bảy: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Tại sao lúc đầu ông Phật không dạy mình ly tham trước, mà đợi cho tới an trú được cả thân tâm rồi mới ly tham? Cái kinh nghiệm người ta có người ta mới viết ra được cái bài kinh vầy chứ. Cho nên mình nhiếp phải nhiếp cho được. Đầu tiên, ba bốn cái đề mục đầu của hơi thở là con nhiếp cho được tâm, rồi mới an trú được thân. Rồi an trú được tâm rồi bắt đầu bây giờ mới ly tham, ly sân; đoạn diệt tâm tham, sân. Các con hiểu không?
Cho nên mình an trú được rồi mình mới lo mình ly tham, ly sân. Đó, mình đưa cánh tay ra cũng vậy, mình ly khi mà an trú được. Hầu hết là mấy con chưa có an trú, còn vận dụng mà mấy con lại ly rồi thì trật. Mà nhiếp tâm cũng chưa được kỹ nữa, nhiếp chưa có chắc, rồi cứ tập, trời ơi mệt mỏi gần chết. Mình phải an trú!
Phật tử 6: Kính bạch Thầy, những người về đây phần nhiều nhiếp tâm chưa được.
Phật tử 5: Chưa được Thầy ạ.
Trưởng lão: Thì bởi vậy Thầy bảo nhiếp tâm cho được.
Phật tử 5: Nhờ buổi này Thầy nói con mới sáng rõ, con tập lung tung cũng chỗ này qua chỗ kia, chứ ở nhà đến thọ Bát Quan Trai Thầy nói ba, sáu pháp xong mới được, tập mấy cái sau nhưng con không biết, con cứ tập. Tập cái trước ra cái sau lộn nhào.
Phật tử 6: Có kiểm tra rồi mà Thầy, chỉ có một người nhiếp tâm một chút thôi còn bao nhiêu người trật hết.
Trưởng lão: Nhiếp tâm chưa được.
Phật tử 6: Chưa được bạch Thầy, chứ đừng nói đến an trú, Thầy.
(28:28) Trưởng lão: Bởi vậy Thầy nói nhiếp tâm được rồi an trú. An trú như thế này nè, mấy con thấy nếu mà cái hơi thở tự động nó ra vô ra vô. Nghe nó nhẹ nhàng lắm, an trú nó tự động nó ra vô. Ở ngoài đó tiếng động nghe mà nó chẳng thèm để ý đâu, tại vì nó an trú rồi. Bởi vì nó an mà nó trú ở trên cái hơi thở con hay trong hành động rồi. Nó an, nó trú rồi, ở ngoài đó nó làm gì làm nó không phóng ra.
Phật tử 6: Chú Minh có nhiếp tâm nhưng mà không hiểu cái nhiếp tâm là sao. Chú Minh này, nhiếp tâm nhưng mà không hiểu nhiếp tâm là sao nữa đó. Bây giờ hỏi nhiếp tâm như thế nào chú cũng không biết đường nữa.
Phật tử 5: Nhiếp tâm, an trú tâm thì con cũng mới biết được mấy cái băng của Thầy về đây, chứ trước con cũng biết sau khi thầy Chính vào thầy cũng có nói là khi nào nhiếp được tâm, an trú tâm thì khi đó mới vận dụng vào đó để ly tham, sân, si ra. Thì con nhớ đến đó con về tập, nhưng mà khó Thầy ạ.
Phật tử 6: Đằng sau nhiếp tâm là gì vậy Thầy? An trú tâm rồi đến gì nữa Thầy?
Trưởng lão: Rồi mới đến xả tâm, mới ly mới xả.
Phật tử 6: Tập Nhiếp tâm, an trú rồi bắt đầu mới xả tâm. Con nghe ba cái này.
Bạch Thầy cô này lỡ là tí nữa cũng điện thoại cho con tới rước rồi, nhưng mà giờ cô nguyện cô muốn con rước, cô về thăm vài ngày xong rồi sẽ quay lại ở thời gian lâu.
Trưởng lão: Cũng được con, ở ráng lo tu.
Phật tử 6: Ở thời gian bao nhiêu thì xin Thầy. Nửa tháng hay gì?
Phật tử 7: Con sám hối Thầy (…).
Trưởng lão: Để chút nữa con.
Phật tử 6: Con nói cô đi ra rồi, chính ra ở đây tu tốt mà bây cô giờ đi ra rồi, chết rồi mà không biết được mà vô tu nữa hay không thôi, giờ nhân tiện xin Thầy cho ở lại tu.
Trưởng lão: Thôi cũng được con, đi ít hôm rồi con trở lại, trở lại ráng tập.
Phật tử 7: Con về trong Nam có hai ngày, con xin về lại. Mà Thầy nhìn xem cái bộ dạng con có tu được không? Con đem ông xã, con cháu có đi theo tu được không ạ?
(30:27) Trưởng lão: Cái đó thật sự ra thì con phải nỗ lực con tu con mới đem hết được, chứ gánh một mình con con gánh chưa nổi con mà con lo gánh cả cái gia đình con gánh không nổi.
Phật tử : (…).
Trưởng lão: Nhưng mà con ráng con tu. Tu nó rất là vất vả cực khổ lắm. Sống cho đúng phạm hạnh, tức là cái giới luật mình phải sống cho đúng. Rồi con sẽ đọc cái bộ Giới Hành Của Sa di đó, mà cái tập II của Mười Giới Đức Thánh Sa di, nó có 25 cái giới hành của nó. Con đọc con giữ gìn 25 cái giới cho nghiêm chỉnh đó thì con sẽ độ được gia đình của mình. Phải không? Cho nên có cái bộ giới.
Phật tử 7: Bạch Thầy, cái tâm con thì muốn ở lại, nhưng mà con thì cũng phải làm ra nhà đã. Các cháu mà yên tâm thì con xin Thầy quay lại. Nếu như các cháu nó chưa ổn thì con xin tu tập tại gia đình.
Trưởng lão: Vậy cho nó tốt. Được con.
Phật tử 6: Đã vô đây …, cô tu có một hai ngày thì tu gì.
Phật tử 5: Cái nhiếp tâm, con nhiếp được khoảng, như đi kinh hành thì Thầy nói, lúc trước Thầy dạy cho con 5 phút mà bao giờ con được 5 phút rồi thì khi đó bắt đầu mới chuyển. Thỉnh thoảng thì có niệm khác vào thế thì bây giờ phải quay lại từ đầu chứ không phải là đi tiếp Thầy ạ.
Trưởng lão: Thì phải rồi, đi lại từ đầu rồi.
Phật tử 5: Từ đầu?
Trưởng lão: Cứ tập nhiếp cho được. Đầu tiên mình tập nhiếp cho được, chứ mình chưa phải an trú đã, nhiếp cho được rồi nó tự động nó an trú. Chứ còn mình nhiếp chưa được nó không an trú đâu. Nghĩa là coi như mấy con chưa thấy được trạng thái an trú đó, nó có cái sự an ổn ở trong hơi thở chứ gì. Nó nhịp nhàng, thấy nó tự động lắm. Do đó mình nhiếp chưa được thì chưa có cái này, mà mình nhiếp được thì nó mới có cái này.
Cho nên bây giờ mình thấy mình nhiếp chưa được thì mình tập nhiếp tâm, cứ tập riết thì nó phải được. Bây giờ mình thấy hơi thở mình nó khó thì các con tập nhiếp tâm ở trong bàn tay của mấy con đi, hoặc là con nhiếp tâm ở trong cái bước đi Chánh Niệm Tỉnh Giác, tập nhiếp.
Thí dụ như bây giờ đó, 20 bước mình nhiếp chưa được thì mình tập 10 bước, 10 bước chưa được thì mình tập 5 bước. Nó vậy đó. Thì mình cứ tập ít lại cho nó chắc, nhiếp một cái hành động nào, cái hơi thở nào cho chắc chất lượng hẳn hỏi, nhiếp cho kỹ thì nó sẽ nhiếp được, mà nhiếp không kỹ thì nó nhiếp không được.
Phật tử 5: Con bạch Thầy, trong 5 phút hay 10 phút thì được rồi, chẳng hạn trong thời khóa 30 phút bây giờ mình muốn nhiếp được 2 phút thì mình cứ nhiếp đi nhiếp lại mãi trong 2 phút, được 2 phút lại quay lên trong khoảng thời gian đó thì vẫn đi lại cái đó hả Thầy?
(33:07) Trưởng lão: Thí dụ như bây giờ con nhiếp, thí dụ theo mỗi người có được cái đặc tướng, có nhiều người họ phải có cái thời gian dài họ mới nhiếp được. Họ ngồi họ thở, ví dụ như 5 phút hay 1 phút họ nhiếp, họ nhiếp rồi họ trở lại 1 phút họ nhiếp, họ nhiếp vô kiểu đó họ thấy không được. Bắt đầu họ phải dài hơn, họ phải 5 phút, 10 phút, 20 phút. Mới đầu vô mình nhiếp không được nhưng mà sau bắt đầu họ nhiếp được. Họ nhiếp được rồi bắt đầu nó mới có an trú được.
Còn cái người mới vô đầu họ nhiếp được tập trung kỹ hẳn hoi từng hơi thở, từng hơi thở chất lượng rất cao trong vòng chừng 1 phút bắt đầu họ nhiếp được cái nó vô được. Thì mấy người đó người ta tu tập ngắn.
Còn mình mà tu tập vô mình nhiếp không có được, cái tâm mình nó lộn xộn, lăng xăng quá. Cứ ngồi ráng tập trung mà nó cứ hơi trật giuộc, trật giuộc, tức là mình nhiếp chưa có được. Vậy thì mình cứ dài thêm, cứ kéo dài thêm một hơi cái nó nhiếp vô được. Nó tùy theo mỗi người đó con, chứ không phải dễ, cái nhiếp coi vậy chứ nó cũng không có dễ đâu.
Có người người ta vô người ta tập kỹ người ta nhiếp nó vô, còn có người tập kỹ, tập kỹ dữ tợn lắm nhưng mà nó không chịu vô, nhiếp không vô được, lôi nó cũng không nhiếp, cái tâm của mình nó như con trâu rừng, kéo hoài nó nó không chịu ghịt vô hơi thở để cột, nó cứ giục giặc hoài, mình thì mình ráng mình ghịt riết.
Phật tử 5: Phương pháp nhiếp của con xin trình Thầy, khi mà đặt thân ngồi kiết già, thân tâm mình tác ý xong an trú trong chánh niệm để tập cái ni con tác ý vô ra, con tác ý một lần mà con đưa vô đưa ra là con thấy cứ đúng 10 giây, là con thấy 6 lần là được vô 1 phút. Có khi con làm được 1 phút rưỡi, có khi được 2 phút là khó, thì được một lượt, các vòng khác thì nó tự vô, con cứ vòng đi vòng lại mãi bao giờ mà mười mấy phút thì được vậy Thầy?
Trưởng lão: Con thí dụ như bây giờ con làm kỹ lưỡng, con biết rằng trong chừng con tu 1 phút thì con không có khởi niệm chứ gì, mà 2 phút trở lên thì có niệm, phải không?
Phật tử 5: Dạ.
Trưởng lão: Thì con sẽ tu chỉ trong vòng 1 phút thôi chứ đừng có 2 phút, rồi từ từ con tập vậy đó, rồi sau đó con mới tăng dần lên. Con tăng dần, con tập nhiếp tâm tăng dần lên. Chứ ngay khi cái chất lượng con nhiếp như vậy nó còn bị niệm nó xẹt vô đó, thì coi như con cố gắng con nhiếp nữa thì nó dậm chân tại chỗ nó không có nhiếp vô được. Bắt đầu bây giờ con nhiếp chừng một phút con thấy nhiếp được cái con xả ra con nghỉ, nghỉ cái con vô nhiếp 1 phút nữa.
Phật tử 5: Nghỉ bao nhiêu ạ?
Trưởng lão: Mình nghỉ 1 phút, mình nghỉ 1 phút rồi mình trở vô mình nhiếp nữa, mình nhiếp nữa rồi mình nghỉ, vô 1 phút nữa mình nhiếp lần nữa. Cứ mình nhiếp lần lần vậy đó, rồi bắt đầu mình thấy 1 phút mình chất lượng, lúc nào 1 phút mình cũng đạt được cái chất lượng. Đó là mình nhiếp chất lượng thôi chứ chưa an trú nha.
Rồi bắt đầu mình tăng lên 2 phút, mà mình tăng lên 2 phút cái bắt đầu mình thấy nó đi suốt 2 phút bắt đầu nghe nó an, cái tâm nó dính trên cái hơi thở được rồi hoặc nó dính trên cái thân hành mình được rồi, thấy nó đưa ra đưa vô nhịp nhàng, thì con không có nhiếp nữa con để cho nó dính, cái bắt đầu đó là nó an trú.
(36:03) Nó hết tới chừng nó an trú là nó vô, mà nó an trú nó không phải là an trú như vậy mà nó chỉ có cái khoảng thời gian nhất định của nó. Thí dụ như an trú 10 phút là 10 phút chứ còn nó không có tăng lên được đâu. Tới đó cái bắt đầu nó sanh vọng tưởng ra nó tác, nó khởi ý ra tầm bậy tầm bạ, nó hết an trú rồi thì mình xả nghỉ.
Rồi bắt đầu mình nhiếp rồi mình an trú, rồi cái khoảng thời gian an trú đó mình mới tác ý mình ly tham, sân, si. Thì cái sự an trú đó mới ly được cái bắt đầu nó dài ra. Nó dài ra từ 10 phút nó dài ra được 20 phút rồi 30 phút, rồi 30 phút nó dài tăng lần lên.
Là khi mình an trú được, cái thời gian mình an trú được. Thí dụ như an trú được 5 phút thì ở trong cái thời gian an trú đó mình lo mình tác ý, mình nương theo cái ý của mình tác ý ly tham, sân, si đi. Rồi nó hết an trú thì thôi nghỉ. Cứ như vậy chứ đừng tiếp tục, con tiếp tục cũng không có được đâu, nó tới đó nó hết, nó an trú được nhiêu đó thôi chứ cái sức nó nhiêu đó thôi, bắt buộc không có được. Do đó mình nghỉ rồi mình nhiếp tâm, rồi mình nghỉ cho nó khỏe rồi mình nhiếp tâm lại nó an trú lại, rồi từ an trú đó mình xả tâm.
Bởi vì nhiếp tâm, an trú rồi xả tâm. Ba cái giai đoạn vậy. Rồi xả tâm thì nó lại tăng cái sự an trú đó thêm. Chứ không phải là mình nhiếp vô rồi mình cố gắng mình tập trung cho nó an trú. Mà nếu nó an trú được theo kiểu mình ức chế nó thì nó bị tưởng. Nó khác, nó trật. Rồi cái tướng tưởng nó hiện ra, mình bám trong cái tướng tưởng thì nó không có niệm khởi nhưng mà bị ức chế nó lọt trong thiền tưởng.
Còn cái này không, khi mình nhiếp mà nó an trú được thì mình lo mình xả tâm. Mình xả tâm thì cái trạng thái an trú nó lại dài ra.
Còn cách thức mình nhiếp là đầu tiên mình nhiếp đó là mình nhiếp để cho nó vô nó an trú, rồi nó an trú được rồi thì xả (tâm). Hễ xả nhiều ra được thì cái an trú nó dài ra, nó dài ra cho đến khi nó đúng cái thời điểm của nó, thì nó đủ những cái lực của nó thì lúc bấy giờ mình sử dụng cái lực đó mình để nhập các Định, thực hiện Tam Minh. Nó chỉ như vậy thôi nó không có gì khác hơn hết.
Phật tử 6: Cái này hay quá đó! Nó bài bản.
Phật tử 5: Cái này là ví dụ như con có cái phương pháp này. Tức là như con xem quyển sách này, 10 giờ con mở ra một bên trang sách này một bên rồi con viết trang này, rồi sang trang này độ khoảng 5 trang chẳng hạn, thì con thấy cái đầu nó nặng nặng không tập trung được nữa, con bỏ cái viết đó con đi kinh hành trong khoảng chừng 15, 20 bước gì đó hoặc là đi khoảng độ 10 phút gì đó, xong quay trở vô con lại viết trang khác. Như thế, cứ thế con viết được hết cả cuốn sách.
Chứ còn nếu như con tập trung mà viết, viết cho cố lên để nửa tập trung toàn bộ cái tâm lực để viết những cái chữ như không được sai thì vô nửa trang hoặc độ khoảng 4-5 tờ là đã mỏi mệt rồi… Con làm bằng cách đó.
(38:43) Trưởng lão: Mỏi mệt, tập trung chịu không nổi, nó không thích nghi nổi. Đúng đó, con làm vậy được đó. Cho nên Thầy mới bảo đầu tiên mình tập nhiếp, thì mình nhiếp vừa với cái sức của mình thôi chứ quá sức mình nhiếp nó cũng không vô đâu. Nó cục cựa cái tâm nó không chịu đâu, nó chống lại mình đó. Cho nên mình nhiếp, ví dụ như con bây giờ cái sức con tập nhiếp con nhiếp tầm 1 phút thôi cái con xả nghỉ, xả nghỉ 1 phút mà mình vô mình nhiếp lần thứ hai mình thấy 1 phút không đạt nữa, nó có niệm khởi nữa, thì mình lại nghỉ 2 phút, mình nghỉ 2 phút để mình nhiếp 1 phút. Con hiểu không?
Bây giờ nhiếp vô 1 phút rồi nghỉ 1 phút, mà bây giờ nhiếp lần thứ hai mà thấy có niệm thì như vậy là nó không chịu đâu, cái sức của nó không được đâu, mình phải nghỉ 2 phút rồi mình nhiếp lại. Mà nếu không thì mình nghỉ 5 phút mình mới nhiếp 1 phút.
Cứ phải hiểu như vậy chứ còn mình lơ mơ thì không được đâu, mình phải biết mình. Kêu là biết mình mình mới tu, cũng như biết giặc mới trăm trận trăm thắng, biết mình biết giặc mới trăm trận trăm thắng. Còn mình không biết nó, nó không biết mình thì coi như mình đang cầu may thì không được. Cái này mình dò mình biết, rồi mình tập nhiếp nó chưa an trú đâu. Cho nên vì vậy mình cứ tập nhiếp thôi chứ mình chưa có tập ly, tập xả gì được đâu.
Phật tử 5: Kính bạch Thầy! Đúng là xa Thầy thì con khó học, sau khi cái thời gian con đọc sách Thầy đến khi mà mê quá, đọc đến 3 giờ sáng, do con thích quá.
Thế nhưng mà sau đó con thấy say mê quá mà con không biết cái Định Sáng Suốt của Thầy dạy, cho nên cuối cùng làm nó luẩn quẩn Thầy ạ, khi đó không nhớ gì hết trơn. Con đọc thấy Thấy nói là ai tu không có cái Định Sáng Suốt này là sẽ bị u mê, u tối hơn, con mới thấy sợ quá. (…) Chú Minh nói đây là cái cách để nghỉ sáng suốt, cách tu Định Sáng Suốt thư giãn.
(40:41) Trưởng lão: Thư giãn, thư giãn để cho nó nghỉ ngơi. Cho nên các con nhớ kỹ nghe không. Do trong cái cái sự tu của mình, mình tùy theo cái đặc tướng, cái khả năng mình để mình tu, mình tu mình nhiếp cho được, tập nhiếp cho được thôi. Chứ còn chưa có an trú đâu, Thầy biết là mấy con chưa có an trú đâu. Bây giờ có người ở đây người ta an trú được 3 tiếng, hay 4 tiếng là người ta tập cả một năm, hai năm người ta mới an trú được, chứ không phải dễ đâu.
Còn bây giờ mình an trú chừng khoảng độ 5 phút, 10 phút hay 30 phút, 1 giờ cũng là tiến bộ khá lắm rồi đấy. Cho nên lần lượt mấy con tập nhiếp cho được rồi mới an trú. Mà có 1 phút an trú hay 2 phút an trú thì lo lấy cái trạng thái an trú đó mà tiếp tục tác ý xả tâm, để cho nó tăng lên sự an trú. Chứ không phải mấy con nhiếp là nó an trú lâu dài được đâu, nó không kéo dài. Do xả tâm mà nó dài ra. Còn mấy con nhiếp tâm mà cho được, để cho nó an trú được mà do ức chế chỗ này (là chịu) thì nó lọt trong tưởng. Nó tưởng ra an trú, xúc tưởng hỷ lạc.
Phật tử 5: Bạch Thầy an trú bao nhiêu phút thì bắt đầu mình xả tâm?
Trưởng lão: Con thấy cái trạng thái mà nó an trú được, mình thấy trong vòng chừng 10 hơi thở, hay 5 hơi thở hay 1 phút vậy đó là bắt đầu mình lo mình xả đi. Chứ không có được để lâu.
Phật tử 5: Bạch Thầy, con có rồi, trường hợp đó thì con có rồi.
Trưởng lão: Nó an trú được rồi thì mình lo mình xả, chứ đừng có để mình ngồi đó mình thấy nó an trú nay sướng quá cứ ngồi đó để mà hít thở hít thở cho nó an trú đó thì không lợi ích gì đâu. Mà nhiều khi nó hiện tướng ra những trạng thái khác.
Phật tử 5: Thưa Thầy cho con hỏi cái pháp ni, tức là hôm qua mà Thầy nói bây giờ mà mình muốn báo hiếu cha mẹ thì cái tâm này ở chỗ thanh tịnh mình mới báo hiếu được. Chẳng hạn như sáng con nhận cái pháp đó con ngồi con thiền, ngồi kiết già con thiền “Thọ là vô thường (…) Có Thầy bên cạnh rồi, tao vững tâm tao thiền”, con ngồi được gần 2 tiếng kiết già mà không thấy đau đớn gì hết trơn. Thì tâm con cứ ở chỗ thanh tịnh này thì nếu mà con thiền được như rứa càng lâu thì có gì không Thầy?
(42:35) Trưởng lão: Nó chỉ cái sức của nó nó kéo dài như vậy đó, thì con sử dụng cái chỗ đó mà an trú, hoặc là khi mà nó an trú rồi, sử dụng cái an trú đó mà ly xả. Còn không khi mà nó an trú được vậy thì trong cái ngày tư ngày giỗ của cha mẹ mình mình muốn đền đáp công ơn sinh thành, thì mình ở trong cái an trú đó mình tác ý cái ước nguyện của mình cho cha mẹ mình gặp được cái chánh pháp, thì nó thiết thực nó lợi ích.
Bởi vì cái chỗ đó là cái chỗ thanh tịnh tâm. Mà chỗ thanh tịnh tâm là chỗ giới luật không vi phạm. Mà không vi phạm thì ước nguyện nó sẽ đạt thành kết quả. Đó là cái lời đức Phật dạy trong kinh Ước Nguyện là như vậy.
Cho nên giới luật nghiêm chỉnh, không có lỗi lầm nhỏ nhặt thì lúc bây giờ mình mới tác ý. Nhưng mà không ngờ đức Phật không có nói trạng thái an trú đó, nhưng mà khi mình giới luật nghiêm chỉnh thì nó có trạng thái an trú. Nó an trú rồi thì bắt đầu mình ước nguyện thì nó sẽ đạt thành.
Phật tử 5: Thế thì hôm nay đến đây nhờ Thầy tiếp thêm năng lượng này cho con, hôm nay con nhận được cái pháp đó con thấy sướng hơn. Hồi xưa con học Tâm năng mà ra ngoài Bộ Khoa học Công nghệ họ cấp bằng, nhờ con hướng dẫn chữa bệnh, con ngồi hai tiếng, xin lỗi nói mà ngồi ức chế đến cái mức mà gồng mà toàn bộ cái người mà nóng kiểu như lửa đốt vẫn cứ ngồi. Nhưng hôm nay nhờ có cái pháp xả tâm rồi tác ý, con luôn luôn ở thanh thản, nhưng con có niệm vô ra là tự nhiên thanh thản ở chỗ đó, con mới hiểu ra được.
Mà sau cái thời gian con quên rồi ạ. Mà đi với sư cô, cô bạn cũng tu với Thầy đây, cô Tâm, cô đi mô cô quên đó. Bạch Thầy, không phải dám nói xấu nhưng mà vì con thấy cô như rứa, lai cô đi ra nhà Phật tử chục lần mà cô cũng không nhớ đường. Cho nên một thời gian con cũng tu lọt tưởng hay sao, cuối cùng đi mô quên đó.
Trưởng lão: Mất ý thức con, ức chế nó, không cho ý thức hoạt động, thành nó quên. Không có gì hết.
Phật tử 5: …Nói xin lỗi Thầy có nhiều khi sân lên là cô đập, đập ghê gớm, chướng ngại cho cả nhà, cả mẹ cô cũng chửi luôn, đến đâu cô đập chỗ đó mà kể cả ông xích lô cô cũng sân luôn. Sau con hiểu là do cái năng lực tưởng làm. (…) Có hôm con vô đây thì Thầy nói là con bị gạt rồi, bữa đó con mới tỉnh, 15 ngày con mới xả lại hơi thở bình thường. Cho nên nếu không gặp được chánh pháp thì có lẽ con cũng điên rồi.
(45:35) Trưởng lão: Bởi vậy cái người mà quyết tâm tu thì nó trật pháp thì nó dễ bị bệnh, còn cái người mà tu chơi chơi thì thấy nó không có gì hết. Cho nên cái người mà quyết tâm tu thế nào cũng bị bệnh, bởi vì cái pháp nó sai, nó sẽ bị điên, bị mát, nó làm cho cái tâm của mình nó không có còn bình thường, bởi vì ức chế nó quá.
Còn cái này không, mình an trú được thì mình lo mình xả nó. Thành ra mình luôn lấy ý dẫn đầu, ý làm chủ, ý tạo tác. Lấy cái ý mà dẫn nó đi vào cái thiện pháp. Cho nên nó rõ ràng là câu kinh Pháp Cú, cái bài kinh Song Yếu đức Phật đã dạy mình biết rồi: “Ý làm chủ, ý tạo tác” đó. Lấy cái đó mà dẫn nó đi, dẫn vào pháp thiện, đừng dẫn vào pháp ác thì được rồi. Cho nên mấy con luôn nhớ bao giờ nó cũng kèm theo cái pháp Như Lý Tác Ý hết, chứ còn không nó ức chế tâm, nó không xả được.
Phật tử 5: Bạch Thầy, sau khi con hiểu được chánh pháp như Ngũ uẩn Thầy giảng rất rõ. (…) Đức Phật dạy Chánh Niệm Tỉnh Giác là để cho ý thức hoạt động nếu không tưởng thức hoạt động. Ba cái biết đó nếu mà tưởng thức hoạt động thì rứa là chết rồi.
Trưởng lão: Bởi vậy Thầy giải thích về thân ngũ uẩn nó rất rõ, con, ba cái thức của nó, rồi cái hành, rồi cái thọ của nó: thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ; rồi cái hành của nó: hành thiện, hành ác. Rồi hành không nữa. Chứ không phải nói hành không (…) Rồi hành ác luôn luôn bao giờ cũng khổ, mà chỉ có hành thiện mà thôi.
Phật tử 5: Bạch Thầy, cho con hỏi về hơi thở. Ngày xưa theo bên Thiền Đông Độ là hít vô thì bụng phình ra mà thở ra thì bụng xẹp vô. Bây giờ không cho hơi thở chỗ bụng nữa, không chú ý vào đó nữa, nhưng mà chú ý vào nhân trung ở mũi. Khi mình chú ý vào nhân trung này thì khi hơi thở vô hơi thở ra thì bụng nó như thế nào Thầy?
(47:43) Trưởng lão: Mình không cần lưu ý cái bụng, không có phình xẹp cái bụng nữa. Đó là Thiền Minh Sát Tuệ. Cho nên mình bỏ cái đó đi, mình đừng có trụ nơi cái bụng mà mình chỉ biết hơi thở ra vô. Khi mà biết hơi thở ra vô chỗ nhân trung này thì sau cái thời gian đó mình lại tập nó mình biết hơi thở dài ngắn chứ mình không có trụ nữa. Đức Phật không có cho mình trụ, trụ nó nguy hiểm lắm.
Là do cái cảm giác toàn thân khi mà hít vô thở ra lại (khi mất) cái chỗ hơi thở dài ngắn mà lúc bấy giờ thấy nó thuần thục cái hơi thở rồi thì mình cảm nhận cái thân của mình từ ở trên đầu tới chân khi mà hít vô, rồi khi thở ra cũng cảm nhận như vậy. Cho nên cái phương pháp của Phật rất là thực.
Mình đọc những cái đề mục đó là những cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở để mà tu tập, thì đó là cái đề mục để mình nhiếp tâm mà không có trụ. Thế mà người ta không có lưu ý được, cho nên cái ông Mahasi đó ông lại nghĩ là nương vào cái chỗ trụ chỗ cái bụng mà phình xẹp.
Bởi vì cái hơi thở mình vô thì cái bụng mình nhúc nhích đó, nó lên xuống lên xuống. Thì ông trụ đó ông thấy nhiếp tâm chỗ này nó không vọng tưởng thì sướng quá rồi, thành ra ông nhiếp luôn. Thành ra do đó những cái định tướng của nó nó hiện ra, tức là cái sắc tưởng nó hiện ra, (thành ra nó như một khối rồi đó). Ôm cái định tướng đó ông vô sâu hơn, thành ra nó đi lọt vô trong định tưởng, nó lệch.
Còn ở đây mình biết đức Phật đã dạy lấy ý thức mà dẫn đầu làm chủ, tạo tác nó đưa nó dẫn đi vào cái pháp thiện. Mình lấy cái bài kinh Pháp Cú đó mình biết được dùng cái pháp Như Lý Tác Ý, kế đó mình nương vào hơi thở để mình dẫn nó đi vào những cái chỗ nào mà đức Phật đã dạy theo cái đề mục. Con thấy chưa?
(49:15) Cho nên tu cái này nó không có giống mấy ông Tổ, mấy ông thầy dạy bậy bạ nó trật Phật rồi. Bởi vì khi mà Thầy triển khai ra thì tất cả những cái thiền hơi thở nó không có giống.
Lục Diệu Pháp Môn không giống nè, nó không có giống đâu. Rồi bây giờ thiền Minh Sát Tuệ cũng trật. Ông kia ông trụ bụng ông thở ra thở vô nhiếp tâm cũng trật rồi. Rồi còn ông không nương theo cái lời của Phật dạy. Còn quán Sổ tức quan thì biết hơi thở ra vô chỗ này, chỉ biết hơi thở thôi mà cái phương pháp tác ý không có. Do đó bị ức chế tâm mình trong hơi thở nữa rồi, nó trật. Rồi Tùy tức thì nương vào cái hơi thở ra vô mà không đếm thì đó cũng là trụ rồi, nó cũng trật rồi.
Cho nên tất cả những cái này đều là của Tổ đặt ra. Do tu tập cũng hơi thở nhưng mà nó không đúng của ông Phật. Ông Phật đưa ra 16 cái đề mục, cộng thêm hai cái đề mục của Thân Hành Niệm thì nó là 18 cái đề mục người ta. Do 18 cái đề mục này mà mình thấy rõ ràng mỗi đề mục đều có cái ý ở trong đó chứ đâu phải là cái nào cũng hơi thở hết sao, chỉ có nương vào hơi thở thôi.
Do từ cái chỗ đó mình mới suy ra được cái bước đi của mình mình cũng nương vào đó mình tác ý ra. Ông Phật đâu có dạy mình đi mình tác ý “Quán ly tham tôi biết tôi bước đi đâu”. Các con thấy đâu có kinh nào nói phải không? Nhưng mà từ cái hơi thở đó, mình biết cái hơi thở là thân hành nội rồi. Mà cái thân hành ngoại là bước đi hay đưa tay, vậy thì mình cũng nương vào cái thân hành này mình cũng ly tham, ly sân, ly si được chứ. Nó cũng y như hơi thở chứ có gì đâu. Cho nên từ đó mình suy ra thì mình thấy tu nó dễ dàng, phải không, mấy con thấy không?
Như vậy là mình đâu có sai Phật đâu. Nhưng mà mình lại thiện xảo, mình lại biết khéo léo mình biết áp dụng, cho nên mình trở thành mình có những cái phương pháp mình tu mà cuối cùng thì mình đạt được cái kết quả rất là thực tế.
Phật tử 5: Bạch Thầy, sau khi có cái băng cho con thì con mới nghiên cứu trong tất cả cái tham vấn của Thầy, các cái bài giảng của Thầy, con biết là 3 cái đề mục đầu tiên, tùy theo cái đặc tướng của từng người con thấy rằng là con phù hợp với cái an tịnh, tức là cảm giác toàn thân. Là vì khi con nghe cái pháp Thầy dạy rồi con lại muốn để cho tất cả toàn thân này là năng lượng đầy đủ để nó hết cái bệnh. Con tập mãi để thông suốt cái đề mục hơi thở thì rất là khó, mà lại ức chế nó nóng người lên, cuối cùng con thấy cảm giác thì dễ (…)
(51:38) Trưởng lão: Nó sẽ tùy theo, mình tự mình nhiếp tâm được bằng cái cảm giác đó, mình nhiếp tâm được bằng hơi thở dài ngắn. Có nhiều người, có cái cô hồi nãy cô nói như thế này: “Con thở, con hít vô thở ra để mà con biết hơi thở vô ra thì con thấy nhức đầu. Mà con thở chậm chậm theo cái đặc tướng hơi thở, thở chậm chậm chừng 12 hơi thở thì nó là một phút, (12 hơi thở một phút là hơi thở chậm đó con). Cho nên thở chậm chậm vậy mà con nhiếp được tâm mà thấy nó không có nhức đầu”.
Con thấy thay vì để tự hít vô thở ra thì nó hơi thở sao mình thở vậy, nhưng mà cố gắng tập trung thì bị nhức đầu. Bây giờ mình lại nương theo cái độ dài của hơi thở, mình thở chậm chậm là nương theo cái độ dài đặng mình biết cái độ dài hơi thở thôi. Tức là hơi thở dài tôi biết hơi thở dài, hơi thở ngắn tôi biết hơi thở ngắn đó con. Theo cái đề mục đức Phật dạy.
Cái đề mục đầu tiên mình nhiếp không được rồi, bây giờ sang qua đề mục thứ hai cái mình nhiếp được, nhiếp được cái này thì thôi. Mà nhiếp lại không được nữa thì bây giờ tập cảm giác toàn thân. Cái cách thức 3 cái đề mục đầu để mình nhiếp tâm. Con hiểu không? Mà nhiếp tâm được rồi bây giờ mới tới an trú được, an tịnh đó.
Phật tử 5: Nếu như biết cái ni trước thì con đã không bị chậm, con lại tập trung hơi thở nó cứ nóng khô, con cứ quán hơi thở cho nó được, chưa được thì chưa sang đề mục khác được. Rứa là cuối cùng vừa rồi con mới nhanh được.
Trưởng lão: Từ từ lần lượt con tu tập nè. Bây giờ “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” thì tập trung cái hơi thở chỗ nhân trung, mà biết ra vô chỗ này chứ không biết chỗ nào khác, rồi bây giờ coi thử được không. Mà bây giờ tập một thời gian sau nó không được chứ nó cũng quen rồi, chuyển qua cái hơi thở dài ngắn. Mà tôi thấy hơi thở dài ngắn nó dễ hơn nữa thì ngon rồi, phải không?
Rồi bây giờ tôi chuyển qua cái cảm giác toàn thân nó đạt được thì nó lại còn hay nữa. Nhưng mà bây giờ tôi thấy cái này không được mà tôi thấy cái hơi thở dài ngắn lại được này. Mà tôi thấy hơi thở dài ngắn nó cũng nghe còn khó khăn quá, do đó tôi chuyển qua cảm giác toàn thân tôi nghe thoải mái quá thì tôi lấy cái đề mục này để tôi làm cái chuẩn tôi đi vào tôi nhiếp tâm.
Phật tử 5: Con bạch Thầy, trường hợp này giờ con quen rồi, thì nói cảm giác toàn thân không phải nhắc gì cả, mình cứ nghĩ trong tâm có được không ạ? Rồi con hít thở vào ra vào ra.
(53:38) Trưởng lão: Được chứ. Được rồi đâu có gì, nghĩ trong tâm tức là tác ý rồi. Đó, thành ra do cái chỗ tu tập kỹ lưỡng như vậy thì mấy con sẽ đạt được kết quá. Tập, ráng cố gắng tập, tập làm sao nhiếp cho được, bất kỳ làm cách nào nhiếp cho được, nhiếp được an trú được thì mới ly tham, ly sân, ly si, ly ác pháp mới được, chứ không làm sao ly được. Đó là cái điều kiện đi vào pháp.
Còn cái điều kiện mà không đi vào pháp xả tâm thanh thản, an lạc, vô sự nhưng mà vẫn luôn luôn thanh thản, an lạc, vô sự. Thì trong khi tâm mình mà nó ở trong trạng thái an lạc, vô sự nó có chướng ngại thì sử dụng các pháp đẩy lui mà không có chướng ngại thì thôi. Cái phần này là phần bất động tâm. Nó lại khác mấy con.
Nghĩa là trong khi mình ôm pháp thì tâm mình nó vẫn ly tham, sân, si mà khi xả ra thì nó cũng vẫn ly tham, sân, si, cho nên nó không bị ức chế. Chứ còn không khéo mình vô mình ngồi ôm pháp thì nó không có tham, sân, si nhưng mà xả ra ai nói gì nó tham, sân, si rần rần thì thôi không được.
Cái xả ra nó quan trọng ghê gớm lắm đó. Xả ra mà luôn luôn nó quay vô, nó không có bao giờ mà nó, nó quay vô chỗ trạng thái thanh thản của nó, nó không bao giờ phóng dật. Đó là cái tâm bất động rồi. Chỗ đó mới chính là cái chỗ chúng ta đạt đó. Chứ còn cái chỗ kia mà ôm pháp vô để mà giúp cho cái này chứ sự thật ra cái này nó không quan trọng lắm đâu.
Chẳng hạn bây giờ con đi Thân Hành Niệm con đưa tay con hít thở mà con thấy con an trú được thì cái này nó chưa quan trọng đâu, con xả ra mà con thấy con an trú được thì cái này nó mới quan trọng đó. Cái phương pháp của người ta.
Phật tử 5: Cái đó là nhờ chi vậy Thầy?
(55:04) Trưởng lão: Bởi vì con bây giờ con nhờ tu, con ở trong cái pháp con tu con xả, con mới xả cái tâm ra bình thường mà tâm con nó vẫn thản nhiên, nó bất động. Thì cái đó là cái quan trọng.
Phật tử 6: Bị công an lên quấy ở trên núi mà đừng có la um là được.
Phật tử 5: Bạch Thầy là con im lặng không nói chi cả, nhưng mà rồi ông Chính ông vẫn bạch với Thầy, con nhờ cái pháp của Phật mà con nhẫn nhục, khi nhẫn nhục rồi họ đến họ nói im lặng không nói chi cả, họ cũng nói rồi họ về.
Phật tử 8: Rứa mà cuối cùng chúng vào vẫn tu được Thầy.
Phật tử 5: Nhờ Thiện Ngộ nói với con bây giờ ta chỉ dùng pháp Phật đối trị, tức là phải dùng lòng từ để đối trị với tâm sân của họ chứ không thể nào.
Phật tử 6: Con nói lòng từ chứ mấy người sân lên dữ lắm .
Phật tử 5: Khi đó con là, vì khi nói đưa Thầy đi, phải trục xuất lúc nửa đêm, con khi đó mới sân lên, mình nói mình là thương binh, khi đó họ không dám nữa ạ. Mình nói rứa mà chính khi đó cũng hay Thầy ạ, họ không dám đưa xuống nữa.
Phật tử 6: Mà họ đưa sư họ cũng không làm gì đâu.
Phật tử 5: Mà văn bản họ cũng không dám ký, bây giờ phải có hai văn bản để đưa nhưng mà họ cũng không cho luôn. Rứa các vị sau quay về.
Phật tử 6: Mà họ cũng không dám làm gì sư được.
Phật tử 8: Đòi kiểm tra giấy tờ…
Phật tử: (…)
Phật tử 6: (…)
Phật tử 5: Chúng tôi thương binh lên đây tu mà không cho tu, mà tu không mê tín, tu theo pháp của Phật.
Phật tử 8: (…)
Phật tử: (…)
Phật tử 5: Sau đóng cửa chùa lại, nhưng con vẫn tu. Pháp tu đúng của Phật là không cần chùa to Phật lớn.
Phật tử 6: Bây giờ nể rồi bạch Thầy.
Trưởng lão: Sợ mấy ông này quá trời.
Phật tử: (…).
Trưởng lão: Mình có làm sai đâu, mình có làm chuyện mê tín gì đâu mà mình sợ.
Phật tử 5: Đang tu một thời nhà con gọi hai lần, nửa đêm gọi xuống chưa hết là gọi xuống, rồi trưa 9-10 giờ lại gọi xuống nữa. Thì con lúc đó con giả đò con cứ nằm, cứ nằm rồi con quán. Thế mà các ông cũng không hỏi han bệnh tật gì, biết mình là một thương binh nặng. Cuối cùng sau đó là đòi trục xuất.
Con nói bây giờ này: Nếu như cửa chùa này đóng lại mà làm cái gì thì bọn tôi chấp nhận, chứ còn cửa chùa này vẫn đang cho người cầu siêu, cầu an, cúng bái thì bọn tôi còn, bắt thì bắt. Sẵn sàng bắt, tụi tôi sẵn sàng để chấp nhận. Cuối cùng nói rứa nhưng mà bữa sau lên chỉ có cái mà Thầy nói đó.
Phật tử: (…).
Phật tử 6: Chẳng làm gì, tôi ngủ ngoài gốc cây chứ tôi đâu có ngủ trong nhà đâu.
Phật tử 5: Con nói chánh pháp của Phật là tu bất cứ chỗ nào chứ đâu phải cứ chỗ chùa là mọi người tu đâu.Bên đây là bởi vì mọi người.
Phật tử 6: Họ hiểu mà Thầy. Họ hiểu mình là tu đúng quá rồi. Bên kia còn cúng bái mà họ còn cho.
Phật tử 5: Cái đợt đó là Thầy Thiện Ngộ về là ai đến cúng bái là Thầy giảng pháp cho hết, thì coi như là ba bốn chục người là họ đều (biết) chánh pháp. Con thì Đường Về Xứ Phật là phô tô ai cần là cứ bộ một đưa cho họ…
Phật tử 6: Làm rầm rầm cả núi động lắm Thầy. Nếu mà nó cứ phát triển thế này có chỗ đàng hoàng thì chắc số lượng đông lắm.
Phật tử 5: Con thấy bây giờ rất nhiều khoảng trăm người. (…)
Trưởng lão: Lần lượt rồi nó cũng (nhận ra).
Phật tử 6: Chỗ này hay cái là toàn đàn ông không, đàn ông nhiều lắm.
(59:13) Phật tử 5: Vì chúng con bị ngoại đạo khổ quá rồi. Bán hết xe hết cộ cúng hết chỗ này chỗ khác. Con mới viết bài kệ là:
“(Một ngày), một giờ được học giáo lý của Thầy bằng bao nhiêu năm tu luyện
Khi thân tâm suốt thông mọi việc được êm trôi
Không còn khắc khoải lo âu các chuyện trên đời
Không còn phải chạy chùa nọ chùa kia để được nghe thuyết pháp
Đúng pháp Phật tu là giải thoát
Vướng đạo tà là trăm mối vò tơ
Thứ thì lo hương hoa cúng bái tụng niệm ở nhà
Thứ thì lo cầu an cầu siêu hết chùa này chùa nọ
Ôi! Ác nghiệp thay bọn ta tìm ngoại đạo
Bày trò dị đoan mê tín hại người thế là cùng
Tám vạn bốn ngàn pháp môn biết tìm pháp môn nào?
Sao các người nỡ nhẫn tâm giết Phật giáo không súng không gươm!”
Trưởng lão: Mấy con mạnh miệng quá trời.
Phật tử 5: Đau khổ quá phải viết bài kệ đó Thầy.
Phật tử 6: Gửi mấy bài thơ cho Thầy để Thầy đưa lên Diễn Đàn Chơn Như.
Phật tử 5: Con đưa một tập trong người cho Thầy…
Phật tử 8: Con làm một bài thơ mà cũng chưa hoàn chỉnh nhưng con cũng đọc ra cho Thầy con nói về ngoại đạo. Ngoại đạo tu hành thì mê tín, Thầy coi cho con.
“Đợt này ở bên Thầy
Chúng con về với pháp
Được Thầy tin cho con
Làm con của Phật đà
Thuộc dòng họ Thích Ca
Thầy là Tăng phạm hạnh
Tu hành chứng đạo màu
Quả vị A La Hán
Làm chủ bốn khổ lớn
Là: sinh, già bệnh, chết
Được đi trong chánh đạo
Không sai lạc đường tà
Khỏi hao tổn thời giờ
Ngồi ê a tụng niệm
Rồi hết ngày khấn nguyện
Xin Trời, Phật đủ điều
Lòng tham đắm ưa nhiều
Nào xin là đủ thứ
Thứ giàu sang phú quý
Thứ hạnh phúc bền lâu
Rồi lại ước nguyện cầu
Con cháu thi đậu đạt
Cuối tháng đi chạy hàng
Đầu tháng về cầu an
Rồi tiền mất tật mang
Nghĩ thấy mình ngu dại.
Phật Thích Ca chẳng nói
Vì Ngài viên tịch rồi.
Để lại pháp nhiệm màu
Mà bị chôn vùi mất
Pháp Ngài rất thành thật
Chẳng lý luận mơ hồ
Làm người tu điên đảo
Ai xem vào cũng rõ
Trắng trong như ban ngày
Kẻ học ít học nhiều
Nghe kinh Ngài đều hiểu
Khi ra đi Phật dạy
Lấy giới luật làm thầy
Đừng vội tin vào ai
Mà rơi vào ngoại đạo
Giới luật là chuẩn mực
Thân tâm được bình yên
Hàng ngày ưa biết đủ
Không ham muốn
Không giả vờ hoại diệt
Vì nó có sinh ra
Tu theo pháp Phật tà
Là xả tâm ham muốn
Thế gian đầy lôi cuốn
Ác pháp tràn ngập trời
Qua kinh nghiệm tuyệt vời
Mà Thầy đã tu được
Thầy muôn vàn kính mến
Chẳng kể tuổi già cao
Làm việc suốt đêm ngày
Lợi ích cho nhân loại
Được Thầy khuyên chỉ dạy
Trực tiếp cho chúng con
Còn hạnh phúc nào hơn.”
Bạch Thầy là con viết chưa hết ạ!
(01:02:29) Trưởng lão: Con viết, tại vì viết ở đây là những ngòi bút của con là những cái súng cao xạ, toàn súng những thứ dữ tợn đó, bắn toàn bộ Đại thừa hết đó.
Phật tử 8: Bạch Thầy là con muốn đi thẳng vào trực tiếp luôn. Con muốn đi thẳng vào sự việc vì thấy cái điều chỉnh sự sống chết của Thầy rõ ràng, cụ thể không có cái mơ hồ trừu tượng chi cả. Mà con muốn nói cái điều khiển sống chết rõ ràng, thì bắt đầu con đi thẳng vào sự việc để nói nguyên nhân tại sao Thầy chứng đạo.
“Muốn làm chủ sinh, già, bệnh, tử phải tin tưởng xứ Phật đường về
Giới thiệu Đường Về Xứ Phật là hiện thân giáo lý Nguyên Thủy của đức Phật Thích Ca
Hòa thượng Minh Châu đã dày công sưu tầm biên dịch
Người tu hành để chứng quả đạo là Thầy Thông Lạc
Bằng máu nước mắt của tất cả nhiệt tâm
Ngay trên đất mẹ Việt Nam đất Thánh Trảng Bàng.
Mấy ngàn năm đạo Phật được cải tử hoàn sinh
Vinh quang này thuộc về Thầy người duy nhất trên hành tinh đã tu hành chứng quả
Đã làm chủ được sinh, già, bệnh, tử
Mấy tháng không ăn không uống Thầy vẫn sống bình thường
(Tức là cái này mãi mãi cũng được. Nhưng con muốn nói nhiều nữa để mọi người biết.)
Tứ Thánh Định và Tam Minh Thầy thực hiện như không
Thầy vẫn một con người bình thường như bao người bình thường khác
Vẫn chiếc áo cũ vá vai, vẫn đôi dép ong bẹt gót
Vẫn người bằng xương bằng thịt như những con người
Ai được gặp Thầy là đại phước, đại duyên
Cho nhân loại biết rằng người hành đạo từ bi là thế
Cho những ai muốn tìm về mùa xuân vĩnh cửu
Cho những ai muốn tìm đến cuộc sống vĩnh hằng
Hoan hô Thầy đã làm sống lại chúng con một giá trị tinh thần
Mà không tôn giáo nào trên năm châu có được
Đạo Phật muôn năm, đạo vàng bất diệt!
Người đã sống lại với chúng con
Ôi, sung sướng đến nghẹn ngào!”
Con đọc lên con cảm động quá!
Người đã bỏ chúng con đi sau một thời gian vô tận dài
Ôi đạo Phật, đạo Phật đạo từ bi không làm khổ mình, khổ người mà tìm về nhân bản
Người đã tái sinh trên năm ngàn trang giáo án.
(Lúc đó Thầy mới viết khoảng 5000 trang…)
Của đấng vĩ nhân, bậc đại A La Hán
Suốt ngày đêm biên soạn miệt mài
Một công trình thiên niên kỷ tưởng chừng như đã vùi chôn vào dĩ vãng xa xôi
Để làm cho muôn triệu người tu mà không một người làm chủ được tử sinh
Biến đạo chánh thành đạo tà thật đau lòng xiết kể!
Mười tập Đường Về Xứ Phật chánh pháp bảo ngọc vàng là kho tàng trí tuệ
Biết con đường siêu việt chỉ thẳng sự thật đâu đúng đâu sai
Để cho những người tu lạc vào mê hồn trận mà không ai biết
Để rồi tẩu hỏa nhập ma, bệnh thần kinh, bệnh điên khùng làm khổ.”
Con viết bài này trường ca này thì dài mà con đọc Thầy thử.
Phật tử: (…)
(01:04:55) Trưởng lão: Nói chung là vũ khí của mấy con đó, đánh vào cái tà đạo tan nát hết. Cho nên Thầy thấy Thầy không cô đơn.
Phật tử 8: Con bực quá con mới viết cái bài này.
Trưởng lão: Thầy nghĩ rằng cái cuộc mà chấn chỉnh lại Phật giáo là do những cây bút của mấy con. Cho nên Diễn Đàn Chơn Như nó ra đời là để là nơi mấy con sử dụng cái ngòi bút của mấy con, những cái loại vũ khí mấy con mà đập tất cả những tà giáo ngoại đạo, không những riêng Đại thừa mà còn những tôn giáo khác nữa, chứ không phải thường đâu. Bởi vì mấy tôn giáo khác mà đọc sách Thầy họ chướng lắm, Thầy nói thế giới siêu hình không có là họ thấy bực rồi.
Phật tử 8: Nói đến tà sư ngoại đạo là con bực quá con nói:
“Ôi, ác nghiệt thay bọn tà sư ngoại đạo
Bày trò dị đoan mê tín hại người thế là cùng
Tám vạn bốn ngàn pháp môn biết tìm pháp môn nào
Sao các vị nỡ nhẫn tâm diệt Phật giáo không súng không gươm.”
Con nói trong đó.
Phật tử 6: Có gửi bài đó rồi hả?
Phật tử 8: Dạ. Gửi rồi. Đầu tiên là tìm ra trong 10 tập của Thầy Thầy nói chỉ có luật nhân quả chứ không có thế giới siêu hình, mà có cái ngũ uẩn, tưởng uẩn, tức là thế giới tưởng uẩn. (…)
Phật tử 6: Cái bài này sao không thấy đăng lên Diễn Đàn Chơn Như vậy Thầy?
Trưởng lão: Chưa con, Bây giờ nó còn tập 8, tập 9, rồi tập 10. Rồi bắt đầu đang đánh tập 10 rồi mấy con biết nó còn nằm ở đó. Bởi vì Thầy công chuyện nhiều quá đâu có in ra được đâu.
Phật tử 8: Sắp tới mời Thầy về quê hương Nghệ Tĩnh.
Phật tử 6: Bạch Thầy bên Xô Viết Nghệ Tĩnh làm thơ dữ lắm.
Trưởng lão: Dường như ở ngoài đó những ngòi bút thơ không đó.
Phật tử 6: Nguyễn Du à Thầy?
Trưởng lão: Nguyễn Du.
Phật tử 8: Bạch Thầy, khi con học Đại học làm thơ giỏi lắm, sau về tham ăn nhiều bữa phi thời quá tự nhiên cái trí tuệ nó kém hơn.
Trưởng lão: Mất đâu hết rồi, bởi ăn nhiều quá nó lú.
Phật tử 8: Sau vô trong ni con mới viết cho Thầy cái bài là mà sau khi con đọc cái bài này lên ai cũng thích. Bài ngắn gọn. Con cũng đọc cho mọi người nghe. Cái bài mà đầu tiên là: Về đây dưới mái cốc này (Hồi đó là cốc con mới gọi cốc này).
“Về đây dưới mái cốc này
Ân tình đời đạo vơi đầy tâm con
Từ nơi xứ Nghệ quê hương
Tìm Thầy học đạo đến miền Chơn Như
Gặp Thầy đúng bậc chân sư
Tỏ lòng mong ước bấy nay kiếm tìm
Duyên lành đến với chúng con
Bên Thầy mà vẫn ngỡ còn trong mơ
Cứu con ra khỏi lầm mê
Bao nhiêu vướng mắc nghi ngờ tan xong
(Bởi vì hồi đó con học đạo Phật là đạo đế, bên đó nói nhân quả thì bên ni nói cầu là được, không biết cái kiểu tức ra sao (răng), thế là vướng mắc đến đây tự nhiên nó tan hết)
Làm sao nói hết nỗi lòng
Con xin đảnh lễ tỏ lòng tri ân
Cô Út đáng bậc mẹ hiền
Lo ăn lo ở chỉ đường con tu
Thế gian còn có nơi đâu
Sánh bằng Tu viện Chơn Như, Trảng Bàng
Đường về xứ Phật xa xăm
(Chúng con tưởng là đức Phật Thích Ca khó về lắm. Đến nơi xứ Phật, đến nơi rồi mà tưởng còn trong mơ)
Đến nơi xứ Phật tưởng còn trong mơ
Quản bao tháng đợi năm chờ
Xả thân cầu đạo tới giờ bỏ công
Pháp tu Thầy dạy rõ ràng
(Không còn úp mở. Úp mở chỗ này con muốn nói úp mở không biết cái chỗ nào mà tìm nữa)
Không còn úp mở như trong Đại Thừa
Tu là an lạc có dư
Tu là biết được thực hư chánh tà
Tu là vô sự tâm ta
Tu là thanh thản
Tu là bình yên
Phát sinh trí tuệ lần lần
Pháp mầu Thầy chứng trăm lần không sai
Cầu xin chánh pháp hoằng khai
Đạo lành cứu độ ai ai thấu cùng
Về đây con xin mấy dòng
Gọi là cảm kích chỗ công ơn này
Ngày mai phải xa cô Thầy
Tri ân con hứa đêm ngày lo tu”
Rồi bắt đầu nguyện cầu cho mọi người, mà hôm nay nguyện cho được. Ngày hôm nay con báo kết quá cho nên con đọc bài này.
“Xin ai chứng ngộ quay đầu
Tìm về chánh pháp về mau bạch Thầy
Đại Thừa giáo lý xưa nay
Tụng kinh chỉ tổ mang dày nghiệp thêm
Xin ai tỉnh ngộ mau lên
Chính đây mới thật là nền đạo chân
Giới luật đức hạnh trang nghiêm
Đạo vàng sống lại tại miền Chơn Như
Bình minh xua hết mây mù
Đường về xứ Phật chân sư kiếm tìm
Biết bao năm tháng gian truân
Bằng máu nước mắt khó khăn quá nhiều
Chánh về tà dẹp lối đi
Hào quan đức Phật từ bi sáng lòa
Hỡi ai trong cõi Ta Bà
Hướng về giáo lý đường về mà tu
Khỏi cần nhọc sức tìm đâu
Đây rồi chánh pháp nhiệm màu sáng soi
Mau lên kẻo trễ ai ơi”.
Rứa xong hồi nữa về là hôm nay con đọc mọi người nghe cái đường tìm chánh pháp là, đọc cái bài kệ đó để biết vất vả như thế nào. Xả thân cầu đạo mà…
Phật tử 6: Nghệ An, Hà Tĩnh chắc là cũng cỡ mười mấy người, mười mấy người gần 20 người đó Thầy.
Phật tử 8: Như mới gặp ở đây đợt hè.
Phật tử 6: Anh Ngọ nè Thầy, anh xuống đây từ trưa. Anh Ngọ đâu mất rồi hè?
Phật tử: Mấy bữa nay vô đây là ăn được rồi.
Trưởng lão: Mấy bữa rày ở đây ăn trưa, thấy họ đâu có sao. Thầy thấy khỏe re. Thầy thấy sống bình thường rồi. Thành ra lần lượt rồi Thầy thấy…
Phật tử: (…)
Phật tử 8: Đúng là nhờ năng lượng từ trường thiện.
(01:10:18) Trưởng lão: Nói chung bây giờ Thầy thấy những cây bút mà của mấy con Thầy thấy nó xuất hiện rất nhiều, khi mà chánh pháp nó đến rồi, người ta đã nhìn thấy được cái Chánh cái tà. Tự nhiên những ngòi bút của mấy con nó trở thành những vũ khí.
Cho nên Thầy thấy bây giờ Đại thừa nó bây giờ nó bắt ghét nó rồi nó tìm mọi cách mà, nếu không tìm mọi cách nó ngăn thì chắc chắn nó sẽ bị tiêu thôi. Cái ngòi bút của mấy con đập quá mà, vũ khí cái loại đặc biệt. Đánh sát ván, nó không có tha.
Phật tử 8: “Dùng cả hết lòng hòng xoay chế độ. Mỗi vần thơ bom đạn phá trường kỳ.”
Bạch Thầy con được nương tựa vào Thầy, được học chánh pháp thì đúng như Thầy nói là ngay cả đối với anh em, họ hàng, đối với những người thân thích của mình cũng vậy thôi. Họ đi theo những con đường mà rất tốn kém, mệt nhọc mà lại sinh ra bệnh tật, nhưng mà họ đâu có thấy được những cái đó. Hiện nay trong đạo là các chùa ở miền Bắc bây giờ về làm lễ quy y là 50 nghìn, 100 nghìn. Rồi quy y cho linh là cũng 50 nghìn, 100 nghìn. Quy y cho linh rồi hàng năm hàng tháng lại (…)
Trưởng lão: Có quy được không mà quy cho linh. Tái sanh mất rồi mà quy y.
Phật tử: (…)
Phật tử 5: Làm lễ cúng hàng năm. Rồi coi như đầu tháng thì đi cầu an, mà cuối tháng thì cầu siêu. Một lần như vậy là khi nào cũng tiền hết. Rồi là đầu năm cuối năm nói chung là tiền rất nhiều. Bây giờ nhà con thì nghèo mà đi vào cúng dường cho Thầy thì có thể là hàng năm, cả đời người mới vào được một lần, có lẽ cúng một ít tiền gì đó thấy nó vất vả. Nhưng mà đối với họ trong một cái đợt một tháng thôi họ cúng một số gom lại một tí là có 7, 8 triệu, 10 triệu liền. Rất nhanh mà nhiều lắm.
Phật tử 8: Bạch Thầy là có những cái đau khổ là có người sắp chết rồi còn mời thầy cúng đến (nhét hương vô, rồi là đến xem thì chết rồi). Con được chứng kiến thấy. Có người thì đi gọi đồng, ông ni ông gọi hai đồng, gọi hai hồn mà cuối cùng ông gọi năm hồn, gọi năm hồn luôn, năm hồn sống. Rứa là cô cũng nói, cũng nói như thật vậy ạ. Cũng nói hồi trước tai nạn như vậy là phải đòi vàng đòi mã, phải đốt phải này khác. Rứa là cuối cùng cô nói sao ông làm vậy.
Trưởng lão: Báo cho người ta sống không tốt.
Phật tử 8: Có lẽ tôi gọi công an đến bắt cô, bây giờ tôi tha cho cô nhưng mà tiền này tôi không để đâu, mấy cái tiền này tôi phải lấy về. Tôi tha không bắt cô được.
Có lần lên thăm cái chùa Phật đà của Bà Rịa Vũng Tàu. Thì con vì ngưỡng mộ đạo Phật cho nên là con thấy cái trụ trì ngay chánh điện của chùa Phật đà, người cao khoảng hơn 1m70 gì đấy, to cao. Thứ hai nữa là (…) con mới vào con bạch thầy: “Con không cần gì cả, con muốn bạch với sư là để hướng dẫn cho con đi theo con đường của Phật”. Thì ông bảo: Ba cái vụ đó tôi không biết, lên trên núi ạ…
Phật tử 5: Đạo Phật mà không biết.
Phật tử 6: (…)
Phật tử 8: (…)
Phật tử 5: Bạch Thầy là từ chỗ con thấy như vậy, mắt thấy tai nghe nhìn thấy sự đau khổ của nhân dân rồi qua được học Thầy như vậy, thì từ chỗ đó là cũng chính ngòi bút nhà con viết cũng từ chỗ đó, mà cảm xúc. Có thể từ cái chỗ không biết viết mà trở thành biết viết, hoặc là viết không hay thì trở thành hay Thầy ạ. Vì thương dân quá.
Phật tử 6: (…)
(01:14:37) Trưởng lão: Bởi vì khi mà mình nhận ra được cái sai cái đúng rồi, mà thấy cái sai nó hại biết bao nhiêu nhân dân, biết bao nhiêu những người thân của mình ở trong quê hương này. Nhất là những người ruột thịt mình trong gia đình thôi, họ còn mê tín này kia. Mình đã biết như vậy là nó đau khổ lắm chứ. Cho nên những ngòi bút của mấy con nó xuất phát từ trong tấm lòng của mình, cho nên nó sắc bén là sắc bén chỗ đó.
Phật tử 8: Bạch Thầy, chính nhờ thế này, chính nhờ con là trước đây thì con cũng không nhận ra được điều đó đâu nhưng mà nhờ cái ăn uống con cũng giữ gìn tất cả mọi cái, thì dần dần con thấy khi con tiếp xúc với một người nào đó, mà hắn giống như con tưởng tượng giống như cốc nước trong và cốc nước đục. Mặc dầu là con chưa có được đọc, nhưng mà con vẫn nhận ra được cái bản chất của người nào đó mà người ta nói ra với cái tâm như thế nào, thì con có thể nhận được rằng cái đó là có thiện nhiều hay là ác nhiều.
Con cũng nhận được rằng trong đó có nhiều thiện thì mình nghe, trong đó có ác nhiều thì mình không nghe cái đấy. Và nhận ra rất rõ mỗi khi họ nói ra một lời nói thì thấy biết được tâm của họ ở chỗ nào. Mặc dù họ nói ra lời thiện nhưng một hồi nữa lại chánh đưa về tà ngay.
Ở trong tâm họ là tà họ xuất phát ra một lời nói là biết, một hồi nữa là quay về cái tâm của họ là cái tâm tà. Nhưng mà mặc dù người ta nói sai như vậy nhưng mà lời nói trong tâm xuất ra cái lời nói thiện thì một hồi nữa cũng quay về cái ác. Như vậy con biết được cái tâm lưỡi họ phát ra là cái tâm chân chánh không.
(01:16:18) Trưởng lão: Đúng là hồi nào tới giờ như một đám mây đen nó phủ kín mấy con không thấy, khi mà đọc sách Thầy cũng như cái đám mây nó bị dẹp ra rồi, bắt đầu mấy con thấy rõ quá rồi. Từ đó mấy con mới biết rằng cái sai cái đúng rất rõ, chứ hồi nào đứng trong góc độ tôn giáo mấy con không thấy. Có phải không? Mấy con thấy.
Vì bây giờ không có người nói ra, cho nên vì vậy mấy con thấy chỗ nào cũng đúng thôi.
Phật tử 8: Nghĩ sợ có tội Thầy ạ! Không dám nói.
Trưởng lão: Thấy nó cũng lạ lạ, cũng nghi nghi nhưng mà chưa dám nói chắc là nó sai. Tôn giáo người ta vậy thôi chứ không có lý, cho nên mình không dám nói sai đâu, phải không? Nhưng mà khi mà có người thẳng thắn nói mạnh mẽ rồi, “trời đất ơi đúng rồi đây Thầy ơi!” Bắt đầu bây giờ nó vạch ra hết, Thầy nói một, tới mấy con nói thẳng nói mạnh hơi nhiều đấy chứ.
Phật tử 5: Con nhờ cái lời cô Diệu Quang trong tập 2, ai Phật tử, tại sao không bảo vệ những cái này mà cứ bảo vệ…, họ không được sáng mắt để thấy cái này. Cho nên chúng con nói thì có tội nhưng mà tội cũng được, dù con có bị nhân quả có chết cũng được, con sẵn sàng nói thẳng.
Phật tử 6: Bạch Thầy con thấy tập 1, tập 2, tập 3 nói về chánh Phật pháp con thấy hay hơn những cuốn sau đó Thầy, rất hay nói thẳng vô vấn đề…
Trưởng lão: Tùy theo, coi như là không có thì giờ chứ có thì giờ mình bỏ bớt những cái điều kiện loanh quanh để cho mình có những cái bài đi thẳng vào vấn đề của Tu viện thôi.
Thì nói chung lần lượt sau này sẽ có những người phụ trách, chứ còn Thầy mà phụ trách hết chắc Thầy không viết lách gì được. Nó còn bao nhiêu thứ mà Thầy làm mấy con, nó còn nhiều.
Phật tử 8: Con vô đây con giúp được không Thầy?
Trưởng lão: Con hả? Nếu mà con vô đây phụ thì được chứ cũng đâu có sao đâu.
Thầy chỉ mong mấy con tu là hơn đấy chứ. Bởi vì mấy con phụ rồi mấy con sẽ mất cái thì giờ rất nhiều.
Phật tử 6: Tu cho được cái đã rồi phụ.
Trưởng lão: Thì khi nào mà tu cho được rồi thì phụ mới thấy an trú, mới được, chứ nếu mà phụ Thầy mai mốt chết rồi không làm gì được.
Phật tử 8: Con phụ bên Thầy khả năng hơn tu vì được truyền cái năng lượng cho con, cái tâm của Thầy.
Trưởng lão: Cái đó là con cầu tha lực nữa.
Phật tử 8: (…)
(01:18:42) Trưởng lão: Cũng như mấy con thấy, khi nào mà nghe Thầy nói cứ về nỗ lực tu, tu bữa hai bữa nghe coi bộ muốn làm biếng, rồi lại nhờ Thầy nói thêm cái bắt đầu năng nỗ tu lên. Sự thật ra dường như Thầy sạc điện vậy.
Phật tử 8: Một lần vô là một lần khác. Tại sao một lần vô là con lại về chuyển hóa. Rồi ngoài đó bị tâm ô nhiễm mạnh quá, vô đây cái là về khác ngay.
Phật tử 6: (…)
Phật tử 8: (…)
Phật tử 6: Cái tà pháp nó mạnh. Những cái năm đầu tiên con ra Hà Tĩnh, bạch Thầy, con mà tiếp xúc với họ một hồi là về con bệnh luôn mà Thầy. Cái môi từ trường ô nhiễm của họ sân hận dữ lắm.
Trưởng lão: Cái quan trọng là mấy con giữ vững được những cái địa điểm, cái nơi chốn của mấy con nó phát triển ra được, đó là quan trọng đó. Cái phụ của mấy con là phụ ở chỗ đó.
Phật tử 6: Bạch Thầy, người ta ở đó có ý mời một vị sư về mà Thầy. Họ có nhã ý mời con mà con không biết, con không dám.
Trưởng lão: Tùy theo mỗi người nó có nhân duyên tại cái địa phương đó con. Một vị sư họ có cái duyên họ về đó họ làm được, còn không có duyên họ đến ít hôm cũng không làm gì được hết.
Phật tử 6: Họ mời con rồi đó, họ mời con hai ba lần mà con vẫn chưa đồng ý.
Phật tử 8: Bạch Thầy con thấy một điều rất rõ ràng là sau khi Thầy nói: Bây giờ tu chưa biết gì thì đừng độ cho ai, đừng giúp một cái gì cả. Nhưng mà sau đó thì con thấy đau thương quá. Mà mình tu thời gian ban đầu con ở trên cốc con tu liên tục thì rất tốt đẹp, nhưng sau vì mọi người mà đi thọ Bát Quan Trai thì thanh tịnh kém Thầy ạ, kém hẳn đi, nó bị chi phối nhiều mà. Nhưng mà bây giờ nói thôi kiếp sau kiếp này phải để mọi người sung sướng, mà để gặp chánh pháp của Thầy. Bây giờ con phát tâm mà in kinh sách của Thầy ai mà cần là chúng con sẵn sàng bỏ ra luôn.
Trưởng lão: Bây giờ chỉ còn hoằng hóa chứ còn hết tu.
(01:20:29) Bây giờ Thầy nói thật sự ra Thầy nói vầy, khi mà thấy phát triển được một số người đông rồi đó, thì những cái người trước mà đầu tiên mình tổ chức mình lãnh đạo đó thì mình đi vào trong sự yên tĩnh mình tu, giao lại cho cái người kế đó người ta lãnh đạo.
Rồi cái người kế đó người ta tổ chức nó rộng ra thì người ta giao lại người kế nữa người ta vô cái phòng chuyên tu lần cho lên cao. Người ta đừng có đắm đuối. Giờ mình cứ tổ chức rồi mình thấy mình làm chuyện này nó lợi ích cho mọi người, rồi mình cứ ham làm lợi ích, cuối cùng lợi ích cho người ta mà không lợi ích cho mình. Nó đi tiêu mình luôn.
Mình không có cầu phước hữu lậu đâu mà cầu phước vô lậu, nhưng mà vì chánh pháp để phát triển thì những người theo sau, những người thừa kế họ làm công việc thay mình, để mình đi vào chỗ yên tĩnh mình nỗ lực mình tu.
Cũng như bây giờ con làm trưởng nhóm, làm phó, phải không? Rồi sau khi mà có người thay thế mình rồi thì xếp bút nghiêng đi mình đi vào cái chỗ yên tu mình đi tới cho xong, như vậy mới được. Còn mình đã giao phó cho người khác rồi.
Còn hồi đầu chưa nhen nhúm thì chưa ai làm được, do đó mình làm. Rồi mình đấu tranh, những cuộc đấu tranh với công an thì mình phải làm. Bây giờ nó yên ổn rồi giao cái người sau nó nhẹ hơn, nhẹ hơn thì bây giờ tui núp vô chỗ yên tôi tu. Chứ bây giờ tôi ngồi đây chắc chắn là tôi cứ làm cái này tới riết chắc cũng tiêu tôi luôn rồi. Con hiểu không? Giao phó lại cho người khác.
(01:21:50) Phật tử 5: Con cũng có cái ý lâu rồi, bây giờ con cũng bạch Thầy thế này, riêng cái phần mà tổ chức cái nhóm thọ Bát Quan Trai ở Nghệ An, Hà Tĩnh, thì ở bên Hà Tĩnh và Bắc Ninh thì lâu rồi, nhưng bên Nghệ An thì con muốn đề xuất. Cái thứ nhất là con đề xuất như vậy. Còn cái thứ hai nữa là con cũng thấy ông Minh cũng kể rất lâu, tâm sự cũng rất nhiều thì giờ có điều kiện vào Thầy mà làm cái ảnh của Thầy…
Phật tử 8: Bạch Thầy, con thì kiếp trước không biết có làm nghệ thuật, con cũng có con mắt nghệ thuật, con đang mở cửa hiệu. Vừa rồi con không định đi làm lại nhưng con thấy bây giờ con còn sống giúp mọi người cái chi thì hay cái đó, mình có cái nghề vẽ. Nhận Thầy là đức Phật tại thế rồi, mà bây giờ nếu như trường hợp cuộc đời thời gian nó sẽ qua đi tất cả, những cái lưu niệm rất quan trọng, để bằng chứng sống mọi người. Thành thử những đệ tử của Thầy, những ai đó …
(01:23:08) Trưởng lão: Thì cũng có nhiều người cũng nghĩ cái điều này, để họ ghi lại những cái hình ảnh lịch sử. Một ngày nào mà Thầy đã tịch rồi, và đồng thời cái con đường mà cái nền Đạo Đức Nhân bản - Nhân quả nó được hình thành mà mọi người đã chấp nhận, đã sống được, đã đem lại hạnh phúc cho con người ở trên hành rồi, thì những hình ảnh này là hình ảnh quý giá của loài người. Chứ không phải là thường.
Con thấy đây là cái nền đạo đức mà, Thầy là người chủ trương cái nền đạo đức đó. Do mà khi mà nó được thành hình được mà tất cả những con người trên hành tinh này không riêng gì đất nước Việt Nam đâu. Thì những hình ảnh mấy con ghi nó trở thành rất là giá trị, chứ nó không phải là không. Bởi vì nó hình ảnh lịch sử rồi, nó không phải là một cái hình ảnh thường. Nhưng mà cái điều kiện đó là do mấy con, là cái nhiệm vụ của mấy con làm, còn riêng Thầy thì Thầy không muốn lưu dấu cái gì hết.
Phật tử 8: Thầy tạo điều kiện để chúng con ghi.
Trưởng lão: Đối với Thầy thì cái nhiệm vụ trọng trách của một người công dân đối với đất nước thì làm xong bổn phận của Thầy. Còn đối với về tôn giáo thì Thầy làm xong bổn phận của một người tu đối với Phật giáo, và chấn chỉnh lại. Đó là cái nhiệm vụ của Thầy. Đem lại cái sự an vui, hạnh phúc là cái nền đạo đức cho con người, đó là cái nhiệm vụ của Thầy. Mà Thầy làm xong là cái ước nguyện của Thầy đã mãn nguyện.
Còn cái vấn đề mà lưu lại lịch sử là do phần mấy con mà lưu, muốn lưu gì lưu, Thầy không nói điều đó đâu. Bởi vậy để lại con cháu mấy con sau này nó không trách mấy con. Chứ còn Thầy thì không muốn lưu gi hết. Nghĩa là không có muốn lưu vết của mình.
Phật tử 8: Thì con biết rồi nhưng mà…
Trưởng lão: Bởi vì mình không muốn ai thọ ơn mà vì đó là cái trách nhiệm bổn phận một hiện hữu của một con người, mà làm được thì cứ làm lợi ích cho mọi người cứ làm thôi, có vậy thôi.
Phật tử 8: Vì lợi ích chung cho mọi người ạ!
Trưởng lão: Còn bổn phận mấy con có ghi lại lịch sử được thì sau này con cháu nó không trách. Còn nếu mấy con không ghi được thì nó trách. Cũng như bây giờ con cháu sau này cũng như mình bây giờ trách hồi đường thời tại sao người ta không ghi lại được cái hình ảnh của đức Phật thật. Mà để cho ông Phật lúc mập, rồi lúc như thế này, lúc như thế khác. Đầu tóc thì lúc vầy lúc khác, rồi có ông thì để râu ria, cũng là ông Phật, chứ biết ông Phật là kiểu nào.
Trách cái người đương thời tại sao một cái người vĩ nhân như vậy mà tại sao mà không ghi được. Đưa ra bốn cái chân lý như vậy, Tứ Diệu Đế là bốn cái chân lý như vậy. Tại sao mấy người biết bốn chân lý đó là bốn chân lý của con người, mà tại sao mấy người không ghi giùm cái hình ảnh của cái ông này giùm tui? Để bây giờ tui tìm không có được. Không biết ông đó làm sao.
Phật tử 8: Vì cái đó mà chúng con phát tâm để, dù gì thì chúng con sẽ làm bằng được.
Phật tử 6: Thầy đồng ý rồi đấy.
(01:25:33) Trưởng lão: Cho nên Thầy chấp nhận là cái nhiệm vụ của mấy con phải làm là ghi lại lịch sử cho con cháu chúng ta sau này. Ngàn năm thế hệ sau này, triệu năm sau này mà mấy con không ghi là mấy con bị sau này người ta trách. Còn riêng Thầy, bổn phận của Thầy, chứ Thầy không muốn lưu dấu Thầy. Phải không mấy con phải hiểu.
Phật tử 6: Thầy nhất trí rồi, bây giờ chú có ghi, chú có bối cảnh chú làm như thế nào là do chú làm.
Trưởng lão: Thầy không có bảo: “À bây giờ phải lại chụp Thầy đi” thế này thế kia, Thầy không có làm điều đó đâu, không có làm.
Phật tử 8: Nhưng Thầy cho phép chúng con như thế.
Trưởng lão: Thì đó là cái nhiệm vụ của mấy con rồi. Thầy không cho thì cũng không được, phải không mấy con hiểu không? Trách nhiệm của mấy con mà bảo không cho mai mốt con cháu trách mấy con, mấy con trả lời sao được.
Bây giờ phương tiện nó đầy đủ nè, ghi lại được âm thanh của Thầy nè, mà ghi lại được hình ảnh mà mấy con không ghi là sau này chúng trách mấy con. Còn ngày xưa cái hồi đó bộ lạc không có cái gì hết. Trời, tui vẽ mà (nhiều khi) tui vẽ nó trật nữa. Mà thấy giấy để vẽ mà không có để vẽ.
Phật tử 8: (…)
Phật tử 5: Bạch Thầy cũng như nhân vật lịch sử như là Chủ Tịch Hồ Chí Minh thì ai cũng biết. Nhưng mà để đưa lên có những cái cái tượng thì không thấy giống. Tại vì con cũng thấy biết được rằng tượng đó không thể đúng chân dung bổn sư. Nhưng mà người ta vẫn cứ đưa ra. Bắt người ta phải phục đây là đó đây là đúng vị đó, đâu phải có đúng.
Trưởng lão: Đúng vậy đó con, làm chưa hẳn đã đúng đâu.
Phật tử 5: Bạch Thầy như kiểu thời thanh niên, lúc mà con chiến đấu thì khác bây giờ họ chiếu trong phim thì cách khác.
Trưởng lão: Bởi vậy họ đóng lại họ làm tầm bậy thì nó không có giống, nó sai.
Phật tử 6: Kính bạch Thầy! Phật tử nêu cái chú này làm cái tổ trưởng ở Vinh.
Trưởng lão: Thầy thấy được đó chứ, chững chạc lắm mấy con.
Phật tử: (…)
(01:27:37) Trưởng lão: Theo Thầy thấy con lãnh cái nhiệm vụ đó để giúp cho Phật tử ở khu vực của con nó có cái nơi nương tựa. Con làm được chứ không phải không làm được.
Phật tử 8: Bây giờ bác phải tinh tấn lên.
Phật tử 6: Còn chú Minh đây nè, chú Minh còn nhóm Phật tử của chú nằm ở Vinh của chú đông lắm.
Phật tử 5: Chưa được Thầy ạ, con cũng cố gắng triển khai…
Phật tử 6: Đông lắm bạch Thầy, theo cái hệ phái ngày xưa mười mấy năm, con ở Nam Tông còn đang bám trụ cái chùa đông lắm.
Phật tử: (…)
Phật tử 6: Chùa Cẩm Sơn. Chùa đó là sư sáng tác ra đó, khổ lắm, nhọc nhằn lắm.
Phật tử 8: Con bạch Thầy con ở hôm qua là có vị sư họ tu bây giờ họ nằm dưới chỗ trời nắng là họ nằm trên gối này, trời rét nằm dưới mương này, họ uống thuốc sâu nè, rồi họ thể hiện những cái điều quái ác, cho nên giờ là đạo Chân Không. Rồi bây giờ họ đến cúng cả ngày, cũng cả cái xe ô tô, cũng cả tiền vàng đổ về, đệ tử đi khắp nơi nằm bờ nằm bụi lung tung, rồi nằm trong bao tải thưa Thầy.
Mô Phật, khi con đi đạo Phật rồi là cảm thấy nó đau đớn nhục nhã, một người đi theo đạo Phật này mà khổ, họ coi thường họ khinh rẻ. Chúng con thấy làm sao để mà cái chánh pháp Phật được ra đời để mà minh oan cho bên Phật không. Một người từ điều kiện sống chết của thế gian này mà đau khổ quá, mà những người họ đi như thế.
Cái đạo Phật triển khai rất khó, chính Thầy về đây là rất khó, thực sự họ về là rất khó. Cho nên họ nói con là cái đệ tử của cái Thầy mà tu bị bắt mà, cho khỏa thân toàn bộ rồi nhảy nhót chạy lung tung trên sân khấu.
Nói chung con mà nói thì rất là đau khổ Thầy ạ. Thành thử ra người ta nhìn con bây giờ với cặp mắt đừng nói là có vẻ khinh thường lắm nhưng mà thôi. Bữa hôm mấy cái tập của Thầy về là ai có duyên đến con mở cho coi đây nè, con đường của chúng tôi đây nè. Không có mê tín.
Trưởng lão: Mạnh miệng nói.
Phật tử 6: Hoàng Giang cũng khoe.
Phật tử 8: Hoàng Giang thì cũng mạnh mồm lắm. Đúng tu là không phải tu như rứa nhưng đôi khi cũng phải (mạnh).
Phật tử: (…)
Giống như con ở khu tập thể.
HẾT BĂNG
GIỚI LUẬT - TU TẬP KHÔNG ỨC CHẾ
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
(00:00) Trưởng lão: Từ hôm đó tới nay, các sư với quý thầy đã về đây tu tập nhưng Thầy rất bận nhiều thì giờ mà không có được giảng về cái giới đức Thánh, giới đức làm Thánh. Nhưng hôm nay, Thầy đã hoàn tất được bộ Đường Về Xứ Phật - 10 tập và tiếp tục soạn thảo bộ sách Đạo Đức Làm Người, không làm khổ mình, khổ người, để giúp cho mọi người sống có đạo đức. Mà đạo đức đó là đạo đức của đạo Phật.
Cho nên hôm nay là vì có nhân duyên, từ khi mà quý sư và quý thầy về đây thì coi như cái giới luật, cho nên hôm nay nhân dịp Thầy xin nhắc nhở là vì một số quý thầy, quý sư về đây hay bị lầm lạc những cái lỗi nhỏ nhặt đó nên không nhắc nhở thì thì quý thầy, quý sư không có lưu ý thành ra mình vẫn bị phạm vào cái giới.
Khi một người tu sĩ mà phạm vào giới luật thì dù có tu ngàn đời chúng ta vẫn không giải thoát được đâu. Bởi vì giới luật là thầy của mình, mà mình không nương theo ông thầy của mình thì chắc mình không có người thầy mà mình nương theo. Mặc dù bây giờ nương theo với Thầy thật sự nhưng mà chính ông thầy giới luật mới chính là thầy của mình, chứ còn Thầy cũng chỉ chẳng qua là cái người tu hành có kinh nghiệm để hướng dẫn lại mà thôi, chứ không phải là người mà được thừa kế lời đức Phật di chúc. Vì đức Phật di chúc cho một cái người thừa kế đó là Giới luật. Mà nếu giới luật mình không nghiêm chỉnh thì coi như là mình không theo ông thầy của mình.
Ngày xưa, khi Phật sắp sửa nhập Niết bàn thì Ngài di chúc lại: “Các thầy Tỳ kheo hãy lấy giới luật ta mà làm thầy, làm chỗ nương tựa tu hành vững chắc”.
(00:02:10) Hôm nay tuy rằng cái bộ Kinh Giới (cái giới bổn), đối với nam thì nó có 250 giới Tỳ kheo, nữ thì có 348 giới. Nhưng mà hầu hết thì toàn bộ kinh sách của Phật đều là dạy chúng ta giới hết.
Bởi vì Giới là cái Đức hạnh, mà Giới là cái pháp thiện nó diệt trừ đi các pháp ác, cho nên Giới rất quan trọng, nó giúp chúng ta ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Mà khi tâm ly dục, ly ác pháp hoàn toàn thì chúng ta mới thấy được thiền định, mới có định. Còn nếu mà tâm không ly dục, ly ác hoàn toàn thì tâm chúng ta không có thiền định.
Vì vậy mà hôm nay, Thầy muốn nhắc nhở một cái điều kiện, cái giới nhỏ nhặt trong một trăm giới chúng học, mà hầu như là các vị Tổ sư Đại thừa đều xem nó là những giới nhỏ nhặt, cần phải bỏ. Nhưng mà hôm nay chúng ta sẽ thấy những cái giới đó rất là quan trọng, mà Thầy đã soạn thảo ra thành bộ giới gọi là Giới Đức Làm Người. Hầu hết là quý sư, quý thầy có người cũng được đọc xong rồi thì biết rằng đó là cái giới không thể nào mà gọi là nhỏ nhặt, mà là một đời sống.
Trong đó đức Phật dạy chúng ta về cái giới vệ sinh chúng ta thấy rất cụ thể, rõ ràng: “Không được tiêu tiểu bậy bạ, không được khạc nhổ bậy bạ.”. Tất cả những cái điều này, ngày xưa trong thời đức Phật như vậy mà còn dạy chúng ta được cái đạo đức vệ sinh rất là tuyệt vời.
Thế mà bây giờ, chúng ta lại nghĩ rằng mình thành cái thói quen, thành ra mình nghĩ rằng: Khi nào có mọi người đông đảo thì chúng ta mới vào phòng vệ sinh mà tiêu tiểu ở đó, còn không thì chúng ta cứ tiêu tiểu bậy bạ ở ngoài. Thì tức là chúng ta có giữ gìn trọn vẹn cái giới luật của Phật không?
(00:04:11) Ngày xưa, đức Phật đâu có cái cầu tiêu dội, đâu có cái sự vệ sinh như chúng ta hôm nay. Hôm nay, chúng ta phát triển được cái sự vệ sinh của chúng ta tối đa. Bởi vì cái con người chúng ta bây giờ đông, còn ngày xưa thời đức Phật con người ít. Nếu mà cái đông người mà không giữ vệ sinh, thì cái môi trường chúng ta sống hiện giờ, người nào cũng tiêu tiểu thì giờ này chắc chắn chúng ta đi đâu, cái mùi mà bốc lên hôi thối chúng ta chịu nổi không?
Cái số lượng người, như cả cái Thành phố Hồ Chí Minh dân chúng như vậy, mà nếu mà cứ tiêu tiểu bậy bạ thì chúng ta sẽ sống như thế nào? Thầy nói rằng chúng ta sẽ chết ngạt, chứ đừng nói. Thầy nghĩ rằng trong một cái chuồng gà, người ta nuôi gà mà người ta có cái nhà, cái trại nuôi, mà người ta phải hằng ngày người ta phải hốt, quét dọn sạch sẽ thì gà nó không bệnh. Còn nếu mà không hốt, quét dọn sạch sẽ thì chỉ trong vòng chừng mười ngày, một tháng là bầy gà sẽ chết sạch không còn con nào cả.
Cho nên vì vậy, khi chỗ nào mà tập trung đông đảo thì người ta có nghĩ ra cách làm những cái phòng vệ sinh để giữ gìn rất kín đáo. Vì vậy, mà dân thành phố còn bệnh đau, huống hồ là nếu mà không giữ vệ sinh thì nó sẽ bệnh đau và chết biết bao nhiêu người!? Còn bây giờ chúng ta thấy chúng ta ở trong đồng quê như thế này, nó sạch sẽ lắm, nhưng mà chúng ta lại bừa bãi không biết giữ vệ sinh.
Mà ngày xưa, đức Phật, với một số lượng người như đức Phật, năm trăm người hay một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo như vậy, thường thường thì tập trung sống với nhau chung. Chắc có lẽ cao lắm là năm trăm người là hết mức chứ tới một ngàn hai trăm năm chục vị Tỳ kheo thì chắc chắn là không có được. Bởi vì ở một chỗ một ngàn mấy chục người như vậy thì cơm gạo đâu mà người ta cúng dường. Cho nên chắc chắn là phải rải rác ở nhiều nơi, theo Thầy thiết nghĩ. Nhưng mà có điều kiện là tập trung đông thì sự vệ sinh phải càng giữ gìn hơn nữa.
Cho nên tuy nói rằng trong thời đức Phật không có cầu vệ sinh, nhưng theo Thầy thiết nghĩ, đức Phật cũng nghĩ ra cách để cho chúng Tỳ kheo sống chung nhau mà phải giữ vệ sinh như thế nào. Vì vậy mà trong giới luật của Phật cấm dạy không được khạc nhổ, không được tiêu tiểu trong nước, ở trên cỏ, tất cả mọi cái, thì chúng ta thấy biết cái giới luật đó đã nói đến sự vệ sinh, đối với một cái số người đông như vậy.
(00:06:50) Còn bây giờ, chúng ta tuy rằng chúng ta ở đây không đông, cái khu Tu viện chúng ta nó cũng rộng rãi, nó không có hẹp, cho nên nhiều khi chúng ta vô ý, chúng ta không có giữ gìn trọn vẹn cái giới luật của Phật. Chúng ta mỗi người đều có cái phòng tắm, phòng vệ sinh riêng. Khi tiêu tiểu, chúng ta sẽ vào trong phòng, rồi chúng ta đóng cửa kín lại, chúng ta ngồi tiểu một cách rất là kín đáo, và đồng thời giữ được vệ sinh, không tiêu tiểu bậy bạ bên ngoài.
Nhiều khi chúng ta, như giới luật của đức Phật dạy: Cấm không cho chúng ta đứng mà tiểu. Vì hành động đứng tiểu như là một con thú vật. Cho nên đức Phật muốn chúng ta trở thành con người, phải có sự kín đáo hơn, để mà đứng tiểu như vậy không đúng. Phần nhiều là nam chúng ta hay bị cái tật đó. Do vì vậy mà có nhiều người lại bịa đặt: Nếu người nam mà ngồi tiểu là giống như người nữ. Thử hỏi nam nữ có khác chút nào đâu!? Cũng là con người. Nhưng mà cái sự kín đáo hay không kín đáo, cái sự mà làm cho chúng ta nó có cái bản chất con người hơn là con thú, thì chúng ta thấy cái giới luật của Phật đã cấm như vậy rồi, đó là cái phần kín đáo của một vị tu sĩ.
Có người lại bào chữa rằng: Tại vì mặc y áo Ấn Độ cho nên phải ngồi chứ đứng sao được? Còn bây giờ chúng ta là người Việt Nam mặc quần như thế này thì chúng ta đứng tiện đâu có gì mà không tiện? Điều đó là không phải đâu. Chúng ta đừng có suy luận trên cái điều đó, chúng ta nhìn thấy cái suy luận như vậy là không đúng. Mà chúng ta suy luận: “Cái con thú vật có bao giờ mà nó ngồi nó tiểu không, phải không?”. Cho nên vì vậy mà chúng ta thấy mình có phải là con thú vật không? Hay là con người? Nếu là con người thì phải ngồi tiểu hẳn hoi, biết giữ gìn kín đáo.
(00:09:00) Người ta thậm chí như người ta còn phải mặc y áo không để hở tay. Trong khi thời đức Phật, có lúc cấm không cho các vị tu sĩ mặc hở tay. Là tại sao? Tại vì ông A Nan là một cái con người, có lẽ là chắc cái thân của ông A Nan rất đẹp trai và da rất trắng, cho nên khi mà mặc hở tay nó làm cho gây một cái sự ham thích của giới nữ cho nên đức Phật cấm ngay liền. Thấy cái tình trạng mà giới nữ cứ đeo đuổi ông A Nan, thì đức Phật đã biết được tình trạng đó cho nên cấm ông A Nan, khi ra thì phải mặc y áo nghiêm chỉnh hẳn hoi.
Đó là chúng ta thấy từng cái giới luật của Phật đã dạy cho chúng ta có đời sống kín đáo. Vậy mà, chúng ta tiêu tiểu lại đứng tiêu tiểu thì nghĩ như thế nào? Là một tu sĩ, là một người cư sĩ sắp sửa để chúng ta bước vào cái vai trò là tu sĩ thì ít ra chúng ta cũng phải biết được cái giới luật. Cái giới luật tuy rằng nó nhỏ nhưng nó nói lên đạo đức của con người, thoát ra cái bản chất của loài thú vật. Thế thì, chúng ta cái giới đó có nhỏ nhặt không? Nó giúp chúng ta thoát khỏi bản chất của loài thú vật. Giới luật đó rất quý chứ!
(00:10:30) Kế đó, tới cái giới luật dạy chúng ta phải giữ vệ sinh. Thì chúng ta thấy cái môi trường sống, muốn sống cho được bình an, cho được mạnh khỏe thì vệ sinh là hàng đầu. Thế mà chúng ta không hiểu, do đó chúng ta bừa bãi trên giới luật của Phật, vi phạm mà chúng ta không thấy. Một cọng rác, đức Phật còn không có cho chúng ta xả, thế mà rồi chúng ta lại tiêu tiểu một cách bẩn thỉu như vậy sao!? Đâu có đúng.
Cho nên chúng ta phải làm đúng, sống đúng trong giới luật để đem lại đời sống có ích lợi cho mình, cho người, không làm khổ mình, khổ người. Chúng ta có phòng vệ sinh, có nơi kín đáo, mặc dù xung quanh ta là khu rừng không ai, chúng ta hay ỷ rằng không người nào hết, cho nên vì vậy mà chúng ta tự nhiên tiêu tiểu một cách bừa bãi.
Thí dụ như bây giờ, chúng ta nghĩ như thế này. Trên mặt đất chúng ta có những loài kiến hoặc những loài côn trùng khác, khi chúng ta tiêu tiểu trên đó thì nước tiểu chúng ta đổ trên đầu chúng. Thì quý vị nghĩ sao, khi chúng ta đang ngồi mà có một người đái trên đầu chúng ta, chúng ta như thế nào? Là một con người chúng ta ý thức được tâm từ bi của chúng ta. Khi chúng ta vô tình đổ một chất bất tịnh trên một cái người khác, trên một loài vật khác thì chúng ta nghĩ sao?
Bây giờ đây là nói về loài động vật. Còn nếu mà Thầy nói đến loài cỏ cây, thử nghĩ chúng ta sẽ tiêu tiểu trên đầu của cỏ cây, thì chúng ta nghĩ như thế nào? Cỏ cây cũng là một loài sống. Trước khi mà con người sinh ra thì cỏ cây là vật sinh ra trước chúng ta. Trong môi trường sống tức là trong môi trường nhân quả, thì vật gì sinh ra trước, rong rêu, rồi mới thảo mộc mới sinh ra, rồi mới tới loài động vật. Thế coi như là cỏ cây mà đứng trong vai vế thì cỏ cây là đàn anh của chúng ta. Nhờ có cỏ cây mà chúng ta mới có sống. Nỡ lòng nào chúng ta lại đổ đồ dơ của chúng ta trên đầu cỏ cây!? Thế mà người ta không học đạo đức cho nên người ta xem thường sự sống của loài vật khác.
(00:13:02) Vì thế đức Phật cấm, giới luật cấm, mà người ta không suy ra đó là đạo đức làm Người, cái đạo đức làm Thánh, không thể nào mà chúng ta vô tình một cách vô tình như vậy được. Chúng ta tưởng cỏ cây là những vật vô tri, đúng, nó là vật vô tri nhưng nó có đời sống, nó có sự sống chết chứ. Nó cũng nảy sinh từ trong môi trường sống, cũng như chúng ta từ trong môi trường sống sinh ra, tức là cha mẹ của chúng ta là môi trường sống. Thế rồi cha mẹ chung nhau như vậy bây giờ chúng ta lại chà đạp lên nhau như vậy hay sao? Vì vậy mà chúng ta thấy, trong gia đình anh em vẫn chà đạp lên nhau vì sự sống. Đó là con người đối xử với con người còn như vậy, huống hồ là đối xử với cỏ cây.
Cho nên chúng ta là những người tu sĩ đạo Phật, nhìn cỏ cây là anh em ruột thịt của chúng ta, nhìn tất cả loài vật là anh em của chúng ta, cho nên lòng từ bi chúng ta mới thể hiện được. Như vậy là người mới sống được, hiểu được cái lý của giới luật của Phật. Chứ đâu phải giới luật của Phật là pháp luật bắt buộc chúng ta, cấm chúng ta làm thế này thế khác. Mà giới luật của Phật là pháp vô lậu, để thực hiện tâm từ bi, để làm chúng ta không còn lậu hoặc.
Thế mà có nhiều người, hiện giờ tới giờ này mà tiêu tiểu một cách rất bừa bãi. Thứ nhất là không vệ sinh. Thử hỏi trời mưa, nó làm rã đi bớt cái bất tịnh, cái mùi hôi thối. Nhưng mà trời nắng, khi mà đi ngang qua một cái thất của quý vị mà tiêu tiểu ở ngoài đất, nó bốc lên cái mùi người ta vẫn biết rằng người đó tiểu ở ngoài hay là tiểu trong phòng vệ sinh.
Đây là cái phần nói những người mạnh. Chứ còn những người bị bệnh như tiểu đường hoặc là những cái bệnh khác hơn nữa thì tiêu tiểu ra, nó bài tiết ra những con vi trùng rất độc, nó sẽ gây ảnh hưởng bệnh đau cho người khác. Chúng ta tiêu tiểu trong một cái phòng vệ sinh, chúng ta dội nước xong thì nó sẽ kín đáo, nó sẽ giữ gìn được vệ sinh chung cho mọi người. Chúng ta không đông, cỡ mà chúng ta đông thì nghĩ như thế nào?
Đó là những cái giới luật của đức Phật đã dạy, Thầy tiếc rằng không có thì giờ để Thầy dạy từng giới luật để thấy chúng ta học. Học để biết được đạo đức làm người, cái đạo đức làm một bậc Thánh tăng, Thánh ni.
(00:15:24) Chúng ta đi tu, chúng ta chỉ biết thiền định để làm Thánh chứ không biết giới luật để làm Thánh. Chúng ta chỉ biết Thiền định vô lậu chứ không biết Giới luật vô lậu. Chúng ta phải thông suốt, hỏi đến đức hạnh Thánh, chúng ta phải biết cái hành động sống như thế nào là Thánh, như thế nào là phàm phu, như thế nào là động vật, là chúng sanh.
Cho nên học tập giáo pháp của đức Phật mà không thông nghĩa lý thì như con chim học nói mà thôi, biết nói tiếng người chứ chẳng biết nghĩa lý trong câu nói đó. Còn chúng ta học Phật pháp là phải thông được nghĩa lý của nó.
Hôm nay, Thầy đơn sơ để mà nói qua cái giới luật vệ sinh và sự kín đáo của thân chúng ta, để giữ gìn. Lỡ một cái người nữ nhìn vào thấy cái thân của chúng ta bày da hở thịt, lại gây một cái lòng dâm dục nơi họ thì thử hỏi chúng ta đã làm khổ họ. Chúng ta cố tránh sự ái dục, dâm dục trong lòng của chúng ta. Chúng ta đi ra chúng ta phòng hộ, không dám ngó thân hình người nữ.
Bởi vậy đức Phật nói: “Đừng có thấy”. Mà để mà chúng ta thấy nó rồi, thì chúng ta muốn đuổi nó đi cũng rất khó, cho nên đức Phật dạy chúng ta quán bất tịnh. Nhưng chúng ta không thấy là tốt nhất, không gặp, không thấy là tốt nhất. Chúng ta cũng phải cố gắng giữ mình để cho giới nữ họ đừng thấy mình, điều đó là điều lợi mình lợi người, không làm khổ mình, khổ người.
Người tu sĩ biết cẩn thận tìm tu giải thoát cho mình, thì cũng biết cẩn thận giữ gìn để cho người ta đừng khổ đau. Chứ đừng nghĩ rằng ai khổ đau mặc kệ, thì không nên. Bởi vì đạo đức của đạo Phật không làm khổ mình, khổ người, mà để cho người ta thương nhớ mình, điều đó cũng không nên đâu.
(00:17:37) Cho nên sự tu tập mà dè dặt, cẩn thận như vậy thì con đường tu tập của quý thầy sẽ trở thành bậc Thánh dễ dàng. Cho nên đức Phật nói: “Chỉ bảy ngày, bảy tháng, bảy năm”. Tại sao đức Phật dám xác định trong một đời người tu hành theo đạo Phật, mà thời gian cao nhất là bảy năm? Thế mà chúng ta tu bao lâu rồi? Mà chúng ta được những gì? Mà sao đức Phật dám xác định thời gian như vậy? Có phải chăng đạo Phật có khó không? Không khó. Có phải chăng đạo Phật tu vô lượng kiếp không hay là trong một kiếp này? Có bảy năm mà, tại sao bảy năm, chúng ta không khép chặt mình trong khuôn khổ?
Giới luật của Phật sống đúng, đừng vi phạm lỗi nào thì tâm chúng ta sẽ ly dục, ly ác pháp. Mà tâm ly dục, ly ác pháp thì đức Phật đã xác định nó là Sơ thiền. Chứ đâu phải Sơ thiền là ngồi đó mà nhiếp tâm cho hết vọng tưởng rồi Sơ thiền được sao? Cho nên Sơ thiền ở đây rõ ràng là chúng ta sống đời sống giới luật.
Cho nên đức Phật nói: “Ta nói ly dục ly ác pháp là nói giới luật”. Vậy thì chúng ta có sống được giới luật không? Xem thường những giới luật nhỏ nhặt vì vậy mà chúng ta phạm giới. Chúng ta đâu có cầm dao giết con vật, đập con vật đâu, nhưng mà mỗi bước chân đi, chúng ta có giẫm đạp trên con vật không? Vô tình tiêu tiểu ở trên thân mình của loài chúng sanh như vậy, chúng ta có xứng đáng làm người tu sĩ của đạo Phật không?
Quý vị có biết đâu, trên mặt đất quý vị, biết bao nhiêu loài côn trùng, loài kiến, loài vật nhỏ nhít nó là anh em của chúng ta. Thậm chí như cây cỏ mà Thầy còn nói là anh em của chúng ta, vì nó cùng một cha mẹ sinh ra, cùng một môi trường sống. Tại sao ở trên cung trăng, ở nơi đất chết tại sao không có cây cỏ, mà tại sao dưới hành tinh chúng ta lại có cây cỏ? Thì không phải từ môi trường sống đó mà chúng ta có sinh ra sao? Như vậy rõ ràng là chúng ta vô tình mà không hiểu biết, từ đó chúng ta phạm phải những lỗi lầm. Vì vậy, đức Phật nói rằng chúng ta vô minh, đúng là vô minh.
(00:19:49) Hôm nay, Thầy nhắc nhở về một số giới luật. Vậy thì từ đây, Thầy xin quý thầy, quý sư vui lòng, chúng ta mỗi nơi chúng ta có phòng tắm, phòng vệ sinh, khi đó chúng ta vệ sinh vào phòng của chúng ta kín đáo. Mặc dù hiện giờ chúng ta ở một cái thất riêng, chúng ta không còn có ai lai vãng hết, nhưng chúng ta vẫn giữ.
Cho nên đức Phật mới nói như thế này: “Trước mặt và sau lưng ta đều y như vậy”. Nghĩa là có người thì ta cũng giữ giới luật như vậy, mà không người thì ta cũng giữ giới luật như vậy. Thì quý thầy là những người quyết đi theo bước chân của đức Phật thì trước mặt cũng vậy mà sau lưng cũng vậy. Chứ không phải trước mặt có mọi người là chúng ta làm bộ giữ giới mà sau lưng phạm giới thì không tốt đâu. Tìm con đường giải thoát mà tìm như vậy là tìm trật, không đúng, chúng ta đi sai con đường rồi.
(00:20:42) Hôm nay Thầy xin nhắc lại về các pháp hành. Các pháp hành thường là quý thầy tu sai vì cứ lo mãi ức chế tâm mình cho hết vọng tưởng. Vọng tưởng có cần gì mà phải ức chế nó? Hằng ngày, thời gian chúng ta chia ra làm thời gian có đi kinh hành, có ngồi kiết già nhiếp tâm trong hơi thở hoặc là ngồi quán xét trên Tứ Niệm Xứ. Nhưng mà quý vị coi chừng, coi chừng không khéo quý vị sẽ bị ức chế tâm.
Trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi. Trong đó, có ngồi kiết già, lưng thẳng, nhưng mà phải tự nhiên chứ không phải khi ngồi phải bắt buộc tâm mình phải như thế này, phải như thế khác. Ngồi cũng như chúng ta ngồi trên một cái ghế, dù là kiết già nhưng vẫn ngồi một cách tự nhiên. Không bao giờ có tập trung vào một điểm nào đối tượng của nó, nếu tập trung vào đối tượng, của một đối tượng thì chúng ta bị ức chế tâm.
Cho nên đức Phật dạy chúng ta tu hành dù là pháp môn hơi thở, tức là Định Niệm Hơi Thở. Cái bài “Xuất tức, nhập tức”, đức Phật dạy chúng ta rất cụ thể và rõ ràng. Tức là Định Niệm Hơi Thở thì chúng ta nương vào hơi thở. Nhưng nương vào hơi thở mà luôn luôn giữ ý tứ của chúng ta, chứ không phải nương vào hơi thở để biết hơi thở ra, hơi thở vô.
Cho nên đức Phật dạy: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô; quán ly tham tôi biết tôi thở ra”, hay hoặc là “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”, hay hoặc là “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”. Có phải chúng ta chú ý trong hơi thở không? Chúng ta hoàn toàn là quan sát cả “An tịnh thân hành”, cái thân chúng ta đang hoạt động này, máu đang chảy, tim đang đập, hơi thở đang thở, đó là thân hành. Bây giờ tôi ngồi đây mà tôi thấy cái hành động của thân tôi nó rất an ổn, chứ không có nghĩa là tôi thấy có hơi thở không. Có phải lời đức Phật dạy như vậy không?
(00:22:48) Bây giờ tôi ngồi đây này, cái thân tôi an ổn, cái hoạt động trong thân tôi nó an ổn hoàn toàn, cái hoạt động trong tâm tôi nó an ổn hoàn toàn, tôi quan sát toàn bộ hết chứ đâu có quan sát có cái hơi thở. Còn bây giờ tôi tập trung biết có hơi thở mà cái thân cũng không biết nữa, thì như vậy rõ ràng là tôi muốn làm gì đây? Có phải đúng theo đạo Phật không?
Nhưng mà trong Tứ Niệm Xứ, đức Phật nói: “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu”, chứ không phải “Trên thân quán thân để biết thân”. Ở đây cái mục đích là chúng ta khắc phục tham ưu, tức là ly tham, ly sân, si, lìa nó ra, khắc phục những tham, sân, si đó.
Cho nên vì vậy mà chúng ta ngồi đây mà chúng ta thấy có tham, sân, si không? Tham, sân, si là gì? Là chướng ngại pháp trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Cho nên chúng ta ngồi thản nhiên, ngồi chơi, nó không có thì nó thanh thản, an lạc, mà nó có thì chúng ta đẩy lui nó, có gì đâu, tức là quán xét đẩy lui nó chứ có gì đâu. Cho nên chúng ta tu như là không tu.
(00:23:47) Còn bây giờ, chúng ta hễ vô tu là chúng ta cố kìm tâm, giữ tâm, kẹp tâm lại, bắt buộc nó phải làm thế này, bắt buộc nó làm thế kia. Cho nên nghe những điều mà Thầy nói, những danh từ Thầy dùng “Tâm thanh thản, an lạc và vô sự”. Vậy thì bây giờ chúng ta tập trung trong cái hơi thở này, tập trung trong cái bước đi này, vậy chúng ta là người vô sự không, hay là người hữu sự? Tu vậy có đúng không, ức chế tâm có đúng không? Tu vậy có sai không? Sai chứ. Bởi vì vô sự là không có sự việc, còn chúng ta hữu sự là có sự việc làm.
Thầy bây giờ Thầy ngồi chơi mà tâm Thầy suy nghĩ tức là nó sinh việc ra, thì tức là dừng lại, vô sự không được làm việc, phải không? Còn bây giờ chúng ta bắt buộc chúng ta phải làm một cái công việc, thì làm công việc có đúng không?
Như vậy ngồi trên Tứ Niệm Xứ mà quan sát Thân, Thọ, Tâm, Pháp của chúng ta, để đẩy lui các chướng ngại pháp trên đó, thì ngay đó là tâm hồn chúng ta có giải thoát không? Chúng ta có làm việc gì đâu, chúng ta có bắt buộc nó tu cái gì đâu? Nó trở về sự thanh tịnh của nó. Nó có chướng ngại thì chúng ta đuổi, mà không có chướng ngại thì để tự nhiên nó thôi. Cái đó là cái giải thoát của chúng ta.
(00:25:00) Cho nên vì vậy mà trên Tứ Niệm Xứ, đức Phật đã xác định: “Bảy ngày, bảy tháng, bảy năm sẽ chứng quả A La Hán”. Nghĩa là chúng ta sẽ đạt được Tam Minh, đầy đủ Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh. Mà chỉ trong vòng một thời gian như vậy, thì đủ biết rằng cái thời gian chúng ta tu, có nghĩa là thời gian nó ngắn như vậy, mà tại sao chúng ta không hết mình, để thực hiện cho đúng giới luật của Phật, để làm cho được việc này. Không thể kéo dài thời gian, từ ngày này qua ngày khác, cho đến bảy năm như vậy để rồi hoàn toàn là bàn tay trắng, không có gì thì uổng công chúng ta.
Vào đây, quý vị có hưởng được dục lạc gì đâu. Ăn ngày một bữa, không nói chuyện, có vui vẻ gì đâu, mà không đạt được những cái này thì uổng cuộc đời chúng ta quá. Người ta ngoài đời, người ta còn hưởng ăn ngày ba bốn bữa, đi chơi, đi này, đi kia đủ thứ. Người ta còn thấy có cái lạc của người ta. Còn mình, hoàn toàn không có cái lạc mà không tìm được cái chỗ hỷ lạc của ly dục này sao. Cho nên chúng ta phải tìm được hỷ lạc chỗ ly dục này chứ. Còn cái kia người ta dục lạc là người ta phải hưởng được trong dục lạc đó. Còn chúng ta là người đi tìm sự giải thoát này, thì phải đi tìm hỷ lạc của sự giải thoát này chứ, cái chỗ ly này chứ.
Bây giờ chúng ta ly cứ lừng chừng, lừng chừng như thế này, ly mà không chịu ly thật sự thì làm sao có hỷ lạc của cái ly được!? Còn dục thì không dục được, thì làm sao hưởng được cái dục. Đời thì chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo. Tu thì ra tu mà không tu thì thôi, nhất định là phải làm chủ tất cả mọi cái này, nhưng không ức chế.
Bởi vì khi có chướng ngại là đuổi, còn không có chướng ngại thì không đuổi gì hết, chúng ta thản nhiên là người trở thành vô sự. Nghĩa là cái tâm chúng ta khởi ra đi làm một cái gì đó tức là hữu sự rồi, tức là mình đi làm là trật rồi. Nhổ cọng cỏ, quét cái sân cũng trật rồi. Ngày xưa ông Phật ở chỗ đó ông có đi quét sân bao giờ đâu, ông ở năm ba bữa, ông dọn dẹp làm gì cho cực ổng.
(00:27:03) Chúng ta là đời sống du tăng khất sĩ, nay đây mai đó. Bây giờ, chúng ta không có đủ cái duyên đó cho nên chúng ta còn ngồi đây mà tu tập để trở thành một người vô sự. Mà luôn luôn lúc nào chúng ta cũng hữu sự. Hữu sự để làm gì đây? Chết rồi cũng hữu sự. Bao nhiêu đời thế gian, người ta chết, biết bao mồ mả trong nghĩa địa. Thế rồi những người đó là những người hữu sự đó. Họ có còn gì không?
Bây giờ họ để lại nhà lầu, xe hơi, họ để lại villa, họ để lại tất cả những vật chất nhưng họ còn cái gì nữa? Khi họ buông tay họ không còn cái gì nữa, hoàn toàn họ còn cái nghiệp ác và thiện. Thử hỏi họ có giàu như vua chúa, họ có giàu như những nhà tỷ phú, họ có hạnh phúc không? Hay họ là những tôi mọi cho những vật chất đó, nô lệ cho những vật chất đó?
Ngày xưa, ông Phật ông chẳng có gì hết, cho nên ông đâu có cái gì mà ông phải nô lệ nó. Hôm nay, Thầy còn có cái tổ đường này, còn có những tấm gạch bông này, còn nô lệ nó, sáng chúng ta còn phải quét. Ngày xưa, ông Phật nếu mà tập trung chúng ngồi trong đám rừng kia kìa, ngồi trên lá cây, hoặc là chúng ta bẻ từng nhánh lá cây, hoặc là ngồi trên đống lá, chúng ta ngồi nghe đức Phật thuyết giảng, chứ đâu bao giờ mà đi quét dọn như thế này, quá vất vả như thế này. Là vô sự mà.
Cho nên Thầy nghĩ rằng cái đời sống của Thầy chưa thực hiện được cái điều này là vì Thầy chưa có… Nếu mà Thầy thực hiện được điều này thì tức Thầy cũng không bao giờ sống được, là vì các nhà Đại Thừa họ sẽ diệt Thầy. Nhưng ước vọng của Thầy là sẽ thực hiện được cái đời sống du tăng khất sĩ, rày đây mai đó. Nghĩa là không có lo nhà cửa gì hết.
Chỗ nào ai cư sĩ cất nhà cửa, mời Thầy đến ở, ở năm ba bữa đi chỗ khác. Thầy không có cái gì của Thầy hết, hoàn toàn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không. Đến đâu, Thầy đâu cần mang chổi theo Thầy quét. Còn đằng này, tới đâu thì chúng ta phải là mang chổi theo quét cho sạch sẽ, để làm kiểu nhà giàu chứ đâu phải là người tu sĩ. Nhưng rất vệ sinh. Thầy nói thật, rất vệ sinh, không khạc nhổ bậy bạ, không tiêu tiểu bậy bạ, không ăn rồi xả rác bậy bạ. Đó là vệ sinh.
Vô một khu rừng, khu rừng như thế nào thì để y như thế nấy, không động chạm đến một cành lá cây của muôn vật, nhưng không xả rác. Đó là cái đời sống rất vệ sinh. Vì vậy giới luật của đức Phật đã chứng minh điều đó, dạy chúng ta rồi mà, chứ đâu phải không sao!?
(00:29:43) Còn bây giờ, chúng ta làm thì bề mặt chúng ta thấy sạch sẽ chứ sau lưng chúng ta, thử hỏi coi, ra sau lưng cái thất của chúng ta rác rến đủ thứ hết, chưa hẳn sạch sẽ. Cho nên chúng ta chưa chắc, trước mặt, sau lưng chúng ta khác nhau chứ không giống nhau đâu. Ở đây đức Phật đã từng dạy, từng nhắc chúng ta: “Trước mặt và sau lưng y như nhau, không có khác”.
Chúng ta tu hành không phải là hình thức. Chúng ta làm người thật sự, làm thật, sống thật. Cho nên ở đây Thầy nói thật sự, quý sư cứ tu đi, quý sư đừng quét dọn gì hết, quý sư cứ nỗ lực tu đi, sống đúng đi! Thì đó là điều mừng nhất của Thầy. Còn quý sư mà đi quét dọn, làm cái này kia nọ, Thầy biết rằng quý sư… Nhưng mà quý sư nên nhớ rằng, khi quý sư quý thầy mà tu thật sự, quý sư quý thầy không làm gì hết, điều đó tốt. Nhưng mà quý sư, quý thầy chưa tu được mà lại làm như người vô sự thì coi chừng quý sư, quý thầy không an tâm. Là tại vì, Thầy nói rằng, khi thấy một đống rác muốn quét dọn nó, mà không quét dọn tức là không xả, ức chế nó đó. Còn mình, thật sự là người xả tâm thì không chướng ngại trên đống rác tức là tâm không phóng dật. Lượng như thế nào để mà tu đúng, để không bị ức chế.
(00:31:05) Bởi vì từ lâu tới giờ, các vị Tổ sư của chúng ta, thầy tổ của chúng ta không phải là các vị không tu. Nhưng vì không có người hướng dẫn, vì tu sai cho nên bị ức chế tâm. Do tu sai bị ức chế tâm mà kiến giải thành ra pháp ức chế tâm. Chứ cũng chính từ gốc pháp đó của Phật, nhưng vì không có người kinh nghiệm dạy, cho nên sơ sót là bị ức chế tâm. Và bị ức chế tâm thì không thể nào giải thoát được. Vì vậy mà thầy tổ chúng ta không giải thoát mà biến dần Phật pháp trở thành tà pháp, thiền định của Phật trở thành thiền định của ngoại đạo, không phải thiền định của đạo Phật.
Bởi vì đức Phật đã xác định con đường đi của đức Phật: Giới, Định, Tuệ. Giới là đạo đức, đức hạnh, là cuộc sống của chúng ta, sống để ly dục ly ác pháp. Từ Giới sinh Định, chứ không phải từ Định mà có Định được. Cho nên ở chỗ này chúng ta phải lấy Giới làm thầy, để chúng ta nương vào chỗ này mà thực hiện thiền định, chứ không phải chỗ thiền định mà tìm thiền định được. Mà chỗ giới luật mới tìm ra thiền định.
Vậy thì giới luật phải sống đúng cách của giới luật. Không có giới luật nào nhỏ nhặt mà phải bỏ hết. Chỉ vì các vị Tổ sư của chúng ta, thầy tổ của chúng ta sống không đúng giới luật cho nên mới đặt chuyện ra là bỏ những giới luật nhỏ nhặt.
Vì vậy mà hôm nay Thầy nói từ cái tu hành cho đến cái giới luật chúng ta phải nghiêm chỉnh và tu hành phải đúng cách. Hầu như dưới đôi mắt của Thầy nhìn, quý sư và quý thầy về đây tu hành có cái sai là giới luật là thứ nhất. Cái sai thứ hai là do tu ức chế tâm mà không biết. Thầy quá bận, không thể dẫn dắt từng người, chỉ từng cách. Ngày xưa, đức Phật không dẫn dắt từng người, nhưng vì những người mà đã tu, đã có tu, khi đức Phật nói người ta hiểu được liền. Còn bây giờ, chúng ta bị tu tập lâu, rồi không nhận ra được cái chỗ tu của mình, cho nên cứ tu mà bị lọt vô ức chế, xả mà cứ lọt vô ức chế.
(00:33:25) Trưởng lão: Ngày xưa, đức Phật đã giảng ra, có một số người như ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên đều là người tu theo ngoại đạo, thế mà người ta nhận ra được cái chỗ xả và cái chỗ ức chế. Còn mình bây giờ, Thầy nói hết sức nhưng mà không nhận ra được. Hễ khi mà nhiếp tâm trong hơi thở thì cứ cố gắng biết hơi thở. Thật sự, chúng ta vừa biết hơi thở mà cũng vừa để mà nhắm vào đích của nó để làm cái gì trong sự biết hơi thở? Vì mỗi hơi thở, chúng ta phải thấy được cái tham từ hơi thở hít vô, và tham từ hơi thở ra.
Cho nên đức Phật nói: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô; quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Có nghĩa là đức Phật nói hơi thở hít vô có tâm tham ở đó, mà hơi thở đi ra có tâm tham ở đó, cho nên phải ly ngay từng cái hơi thở. Nghĩa là như thế nào? Từng phút giây phải tĩnh giác ở trong hơi thở như vậy. Có nghĩa là từng phút giây phải tĩnh giác, tĩnh giác từng chút để khi mà cái tâm tham, sân, si chúng ta không phát hiện ra được, tức là không phát triển ra được.
Người ta vừa nói mà từng hơi thở của mình đã tỉnh thức, thì theo cái hơi thở của mình tỉnh thức, thì người ta vừa mắng mình thì mình không giận. Bởi sức tỉnh thức đó nó sẽ làm chúng ta ly dục ly ác pháp. Chúng ta biết từng cái tham, sân, si ở trong hơi thở chúng ta chứ đâu. Nếu mà không có như vậy thì sao ông Phật nói: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô; quán ly tham tôi biết tôi thở ra”? Vậy thì cái ly tham nó ở chỗ nào?
Bây giờ tâm chúng ta có tham không? Tại sao đức Phật dám nói rằng cái hơi thở ra vô đó nó có tham, bảo nó ly? Vậy thì chúng ta suy ra thử coi có phải không? Nếu mà một người còn sống thì tức là phải còn tham, sân, si. Mà còn sống thì còn thở, mà còn thở không phải trong hơi thở đó nó có tham, sân, si sao? Nhưng bị ngũ triền cái, năm cái màng che nên chúng ta không thấy trong hơi thở có tham, sân, si, phải không? Cho nên vì vậy mà người ta vừa chửi mình thì ngay trong hơi thở phóng ra tham, sân, si chứ đâu.
(00:35:24) Cho nên trong cái bài Định Niệm Hơi Thở, đức Phật dạy chúng ta: Quán ly tham, quán ly sân, quán ly si, quán vô ngã. Phải không? Đó là tất cả những cái điều mà đức Phật dạy chúng ta, từng hơi thở của chúng ta. Mà bây giờ chúng ta theo dõi từng hơi thở, tức là theo dõi từng tâm tham, sân, si của chúng ta, để chúng ta ly nó. Thì như vậy rõ ràng là chúng ta theo từng tâm tham, sân, si chúng ta để mà chúng ta diệt, chúng ta ly nó gọi là ly dục ly ác pháp. Chứ đâu phải là biết hơi thở để biết hơi thở, để vào định gì. Ly tham, sân, si rồi thì từ cái tâm không tham, sân, si đó là định chứ còn đòi cái gì nữa.
Hiểu được như vậy, biết cách tu được như vậy, thì chúng ta ngồi chơi chứ chúng ta cần gì mà phải tu. Nhưng mà mỗi mỗi trong Thân, Thọ, Tâm, Pháp của chúng ta có chướng ngại, có ác pháp thì ngay đó là chúng ta ly nó, chúng ta diệt nó chứ đừng để. Thì như vậy rõ ràng là hằng ngày chúng ta tu tập như vậy thì chúng ta có mau tới không? Hai mươi bốn tiếng đồng hồ là quý vị đã hoàn tất. Đức Phật nói bảy ngày, nhưng chúng ta tu trong vòng chừng một ngày có được không? Nếu quyết tâm tu, chúng ta sẽ tu được.
Đời sống của quý sư, quý thầy đã bỏ hết rồi, không còn gì. Đến đây chỉ còn đi xin ăn thôi, ba y, một bát, thậm chí như y áo của mình không có thì vẫn xin. Mình đi xin rõ ràng mà, đâu có làm ra của cải gì nữa đâu. Chỉ cái sự nghiệp của mình là sự nghiệp giải thoát chứ không phải sự nghiệp của ăn uống, y áo nữa. Đồ mình đi xin rồi đâu làm của cải mình được nữa. Phải không, các sư, các thầy có thấy? Cho nên vì vậy mà sự nghiệp của mình là sự nghiệp phải giải thoát; phải ly tham, sân, si; phải hoàn toàn là thực hiện Tam Minh, tức là Lậu Tận Minh để chấm dứt sự tái sinh luân hồi. Cái đó là quan trọng của chúng ta.
(00:37:13) Cho nên hôm nay ở đây Thầy xin khuyên, thứ nhất là chúng ta tu phải tu cho kĩ. Mỗi tâm niệm của chúng ta là tham, sân, si. Mỗi hơi thở của chúng ta là tham, sân, si. Mỗi bước đi của chúng ta là tham, sân, si. Mỗi hành động của chúng ta là tham, sân, si. Vì có cảnh giác như vậy cho nên người ta chửi tâm bất động; vì cảnh giác như vậy, thân có thọ đau nhức, chúng ta bất động. Nếu không cảnh giác, thì thân thọ chúng ta sẽ làm ta khổ và từ đó chúng ta phá hạnh độc cư. Cho nên chúng ta không chịu nổi cơn đau đó đâu.
Trái lại, chúng ta biết do tham, sân, si; mà do tham, sân, si thì mới có nghiệp; mà nghiệp thì nó có nhân quả. Vì vậy mà thân bệnh đau chỗ này, nhức chỗ kia đều là do nhân quả. Do nhân quả tức là gốc của nó từ tham, sân, si mà ra. Như vậy từ đây chúng ta ly tham, sân, si thì gốc thọ này khổ còn nữa không? Hiện bây giờ, tất cả những quả của quá khứ nó vẫn còn chứ làm sao hết được. Chúng ta chưa phải là người chuyển hết được. Chúng ta là người mới tu, mới chuyển tu, tập tu thôi cho nên nó vẫn còn. Còn nhưng tâm chúng ta bất động.
(00:38:22) Chúng ta đã biết rằng: Thọ khổ là vô thường. Thì cái vô thường của nó, nó làm sao mà làm cho chúng ta sợ? Bởi vì nó là vô thường, lúc có, lúc không cho nên chúng ta chẳng sợ. Chết bỏ, nhất định là sống đúng giới luật, sống không phi phạm hạnh. Nghĩa là không phá giới, sống như con tê ngưu một sừng, hoàn toàn không sợ chết. Nếu sợ chết, thì chúng ta đến đây đi tìm con đường làm chủ sự sống chết thì chúng ta làm được không? Không được.
Vào đây là chúng ta quyết tâm làm chủ sự sống chết. Mà làm chủ sự sống chết, lại khi đó chúng ta đau rồi mới chết. Thế mà đau là chúng ta đã hoảng sợ rồi, thì như vậy rõ ràng là chúng ta có làm chủ sự sống chết không? Không. Cho nên nhất định chết bỏ, đều sống đúng giới luật, không phạm giới, không phá hạnh độc cư, luôn luôn sống giữ đúng giới luật của Phật.
Mà Thầy đã bảo rằng: Giới luật của Phật là Thần hộ pháp giúp chúng ta thoát ra biết bao nhiêu điều đau khổ, chuyển tất cả những quả khổ của chúng ta, nếu chúng ta là người giữ giới. Bởi vì giới luật là thiện pháp, thiện pháp thì bao giờ nó cũng chuyển được ác pháp.
Hiện bây giờ, thân của Thầy là do ác pháp nó mới có cái thọ này. Mà có cái thọ này, tâm Thầy bất động, chẳng sợ, luôn giữ giới luật.
Chẳng hạn bây giờ, Thầy đang sống ngày một bữa, thân Thầy bắt đầu nó đau bụng, à Thầy phải ăn uống thuốc như thế này thế khác, Thầy phạm giới. Như vậy rõ ràng là Thầy chạy theo thế tục, cho nên Thầy không dám chết ở trên giới luật. Nhất định chết bỏ, nhất định là không ăn uống, ngày một bữa mà thôi. Thì như vậy, chỉ trong vòng, Tâm bất động trong vòng chừng một vài giây, một vài tiếng đồng hồ là cái thân bệnh của Thầy hoàn toàn lành. Nếu quả chăng nó chết là do nhân quả nó hết, chứ không phải nó chết bất đắc kỳ tử được. Chúng ta sinh ra đều có cái luật nhân quả, tạo nhân quả của chúng ta đến giờ chết là chết, mà giờ sống là sống.
(00:40:21) Còn bây giờ, chúng ta hở một chút là chúng ta quá sợ. Đau nhức cái tay, đau nhức cái chân, hơi đau một chút là chúng ta phát rên. Đời người ai sinh ra làm người mà không thọ bệnh. Mà bệnh thì mặc nó, đối với một người tu sĩ đạo Phật có xá gì bệnh đau này!? Người ta sợ chết là vì không còn thân này để tu, chứ chết người ta sợ gì nó nữa đâu. Nếu sợ thì đi tu làm gì? Nhất định không sợ chết. Không sợ chết mới làm được chủ cái chết, còn sợ chết thì không bao giờ làm chủ cái chết.
Cho nên đối với Thầy, khi mà quyết tâm tu, bảy ngày, bảy tháng, bảy năm, trong vòng bảy ngày, bảy tháng cho đến bảy năm, nhất định chết trên bồ đoàn chứ không chết dưới bồ đoàn, nhất định chết trong giới chứ không chịu chết dưới giới đâu.
Quý sư, quý thầy về đây chúng ta đã đem hết thân mạng của chúng ta, đem hết cái đời của chúng ta để thực hiện con đường giải thoát chứ không phải còn tha thiết cái sự sống của thế gian này nữa. Cho nên vì vậy mà hôm nay: Quyết chết, nhất định phải làm được con đường mà Phật đã đi, chúng Thánh tăng đã đi.
Và đến ngày nay, Thầy là con người đã đi được, Thầy xác định điều này rất rõ ràng: “Muốn chết hồi nào thì chết, muốn sống hồi nào thì sống”. Thì quý sư quý thầy nghĩ rằng, ngày xưa, chư Phật và chư Thánh tăng làm được, ngày nay còn có người làm được, chắc chắn quý sư, quý thầy làm được. Chứ đâu lý nào Thầy là con người ngoài không giống quý sư, quý thầy sao? Cũng da, cũng thịt, cũng thọ bệnh, cũng đau, cũng này kia, cũng đủ thứ y như quý sư, quý thầy. Thầy cũng sống, ăn cơm mới sống chứ Thầy có nhịn đói ăn mà sống được đâu? Thầy đâu phải vị Thánh ở nơi đâu xuống đây, y như quý sư, quý thầy. Mà Thầy đã làm được, làm chủ được cái này thì chắc chắn quý thầy cũng làm chủ chứ!
Mà bỏ hết cuộc đời đi vào đây thì còn gì nữa mà ham thích nữa? Chúng ta còn gì cuộc đời nữa đâu, đời không còn gì nữa hết. Chỉ còn duy nhất cái sự nghiệp chúng ta là giải thoát, làm chủ sự sanh tử, chấm dứt luân hồi. Đó là cái duy nhất của chúng ta. Mà duy nhất của chúng ta là Thầy đã căn dặn: “Giới luật phải nghiêm chỉnh, trước mặt cũng như sau lưng không hề vi phạm”.
(00:42:32) Cái thứ hai nữa là chúng ta phải tu tập đúng. Bởi vì chúng ta đã biết con đường mà tu tập sai, ức chế tâm, mà bao nhiêu người đang tu ở trong cái giai đoạn của chúng ta, hàng trăm, hàng vạn người tu chứ không phải. Thiền này, thiền nọ, thiền kia tất cả mọi pháp môn đều là tu ức chế tâm. Duy nhất, chỉ có Thầy dạy quý sư hiện giờ là lấy giới luật để ly dục, ly ác pháp là con đường thiền không ức chế tâm.
Cho nên vì vậy mà thời khóa chúng ta tu là giữ gìn giờ giấc để mà sống thanh thản, an lạc và vô sự, chứ không phải giữ gìn giờ giấc đó để ức chế tâm. Mà hầu như quý sư, quý thầy luôn luôn giữ gìn giờ giấc tu tập lại là giờ giấc ức chế tâm, chứ không thực hiện được giờ giấc xả tâm.
Bởi vì hiện giờ, mình sống đời sống giới luật, mình không hề vi phạm. Mình quan sát lại coi mình có vi phạm gì? Thân không vi phạm, tâm không vi phạm, thì đó là thanh tịnh rồi. Bây giờ từng cái nghiệp, từng cái tạp khí quen từ lâu đời, nó vẫn còn vi phạm. Cho nên nó hiện ra niệm này, nó hiện ra niệm kia để nó lý luận, để nó nói lên những điều nó tham muốn, nó chạy theo. Thì chúng ta luôn luôn có pháp để đẩy lui nó ra, còn không có thì chúng ta đã giải thoát chứ gì. Chỉ tu có vậy thôi, có gì đâu.
Ngồi đây hàng ngày, hàng giờ, hàng phút, hàng giây, quan sát ở trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp, gọi là tu Tứ Niệm Xứ; mà có chướng ngại thì đẩy lui, mà không chướng ngại thì mặc nó; có gì đâu mà phải nhiếp trong hơi thở; có gì đâu mà phải đi kinh hành để tập trung trong kinh hành.
Nhưng bây giờ hôn trầm, thùy miên này, nó buồn ngủ này, thì bắt buộc phải đi kinh hành cho nó đừng ngủ, thì có vậy thôi. Mà bây giờ muốn đi kinh hành để đừng ngủ thì phải tập trung ở bước đi. Thì lúc bấy giờ mình phá được cái hôn trầm, thùy miên rồi thì ngồi chơi chứ, có gì đâu mà phải tu tập cho cực khổ như vậy, cứ bắt buộc làm chúng ta phải cực khổ. Nó tỉnh táo thì chúng ta để cho tỉnh táo.
(00:44:30) Cho nên trong cái sự tu tập, chúng ta phải khéo léo. Khi bị hôn trầm, như Thầy đã dạy: Năm hơi thở, đi kinh hành một vòng, cứ như vậy đến khi hết hôn trầm. Còn nếu không thì chúng ta thở một hơi thở chậm rất chậm, rồi thở ra rất chậm, rồi thở lại năm hơi thở bình thường. Rồi hít vô một hơi thở chậm, thở ra. Khi mà thở chậm như vậy, thậm chí như chúng ta còn sử dụng luôn cả cái hơi thở nín nữa. Khi thở ra cái hơi thở chậm, rồi thở lại năm hơi thở bình thường, rồi chúng ta thở ra hết, chúng ta sẽ nín. Đừng có nín hơi thở hít vô mà nín thì bị tồn khí, sẽ sinh ra bệnh, ảnh hưởng cái phổi chúng ta sau này.
Vì vậy mà khi thở ra hết, tất cả trong phổi chúng ta không có khí nữa thì chúng ta nín thở lại, để tất cả lỗ chân lông hở ra, vì vậy làm cho toàn bộ cơ thể chúng ta tỉnh, mà không bị hôn trầm. Cho nên Thầy có dạy cho quý thầy là cái pháp hít vô một hơi thở rất chậm và thở ra rất chậm, rồi thở lại năm hơi thở bình thường, để cho cái tâm gom đây. Nó có hai cái phận sự, tức là hai cái sự lợi ích. Cái lợi ích thứ nhất là cái tâm nó chịu gom vô đây thì cái thọ nó phá đi, nó không còn cảm thấy đau đớn nữa, và trong vòng thời gian ngắn thì cái thân chúng ta không thấy bệnh. (Lợi ích thứ hai là làm) nó toát mồ hôi ra liền, làm chúng ta tỉnh táo ra liền, nó không còn bị buồn ngủ, không còn hôn trầm.
(00:45:52) Cho nên có hai phương pháp mà chúng ta tập luyện để phá hôn trầm. Cái phương pháp thứ nhất là năm hơi thở: Thở năm hơi thở, ngồi xuống năm hơi thở rồi đứng dậy đi kinh hành hai mươi bước rồi ngồi lại năm hơi thở. Và cứ đứng lên, ngồi lại như vậy khoảng thời gian chừng năm, ba phút thì nó cũng sẽ hết hôn trầm. Mà nếu hôn trầm nặng nữa thì chúng ta lại dụng hơi thở chậm nhẹ, một hơi thở chậm nhẹ và năm hơi thở bình thường. Nếu nó bị hôn trầm nặng hơn nữa thì chúng ta mới dùng hơi thở nín khi chúng ta thở ra hết. Đó là cách thức Thầy dạy trước kia.
Nhưng mà vì Thầy thấy sợ cái hơi thở chậm nhẹ và nín nguy hiểm cho quý thầy. Vì quý thầy sơ cơ, chưa có biết sử dụng nó thì nó gây ảnh hưởng, quý thầy bị rối loạn, đứt mạch máu mao quản làm cho quý thầy bị khạc ra máu, làm cho quý thầy trở thành bệnh tật, cho nên Thầy không muốn dạy điều này. Chứ sự thật ra, dạy những cái hơi thở đó giúp cho quý thầy phá hôn trầm và thùy miên rất dễ dàng, rất nhanh.
Cho nên trước kia, Thầy có dạy rằng thở hơi thở rất mạnh khi bị hôn trầm, thùy miên, thì thở phát ra tiếng, thì nó cũng sẽ hết. Tất cả những phương pháp này đều là qua cái kinh nghiệm bản thân của Thầy, Thầy rút tỉa ra mà dạy lại cho quý thầy. Nhưng trong kinh sách của Phật, thì đức Phật không có dạy điều này.
Thầy cũng nói thẳng, nói thật, cái gì của Thầy thì nói ra, cái gì không phải của Thầy, cái gì của Phật thì Thầy nói. Đức Phật chỉ có đi kinh hành. Nghĩa là khi bị hôn trầm, thùy miên có năm điều kiện mà đức Phật dạy, thì cái đi kinh hành đó là một trong những điều kiện mà đức Phật dạy để phá hôn trầm. Khi ông Mục Kiền Liên bị hôn trầm, do đó đức Phật thị hiện đến để chỉ cho ông ta phá hôn trầm, cái đi kinh hành là một điều quan trọng trong thời đức Phật dạy. Còn bây giờ, Thầy có những phương pháp Thầy thấy cụ thể và nhanh chóng để phá hôn trầm.
(00:47:53) Ăn không khó nhưng ngủ khó đó, bị hôn trầm, thùy miên là rất khó chứ không phải dễ. Độc cư thì còn khó hơn. Bởi vì độc cư thì sẽ bị tuôn trào, tuôn trào mà đi nói chuyện thì kể như là chúng ta phóng dật, và phóng dật thì không biết đời nào mà chúng ta tu xong.
Cho nên ở đây đức Phật đã xác định cho chúng ta biết được là khi đức Phật mà sắp sửa Niết bàn, thì đức Phật đã di chúc lại cho chúng ta: “Ta thành chánh giác là nhờ tâm không phóng dật”. Vậy thì cái mục đích tâm không phóng dật mà các nhà Đại Thừa, Thiền Đông Độ nghĩ rằng “Cái tâm không niệm thiện, niệm ác là không phóng dật”. Cho nên do đó mà đẻ ra các pháp ức chế tâm.
Còn trái lại, đức Phật nói “tâm không phóng dật”, có nghĩa làm từ cái chỗ ly dục ly ác pháp, từ cái chỗ giới luật xả tâm thì tâm mới không phóng dật. Vì vậy mà đức Phật xác định cho chúng ta biết rằng tâm không phóng dật thì cái tâm nó ở đâu? Cho nên đức Phật nói: “Tâm định trên thân”. Do đó, chúng ta mới biết được, lúc bấy giờ tâm nó sẽ định vô cái thân của nó, chứ nó không phải định trên ngàn cây, nội cỏ như Tổ sư thiền.
Tổ sư thiền thì thấy như trên đầu ngọn cỏ, là ý tổ sư luôn luôn nó thanh thản, nó an lạc thì bao đời nó cũng ở trên ngàn cây nội cỏ. Cho nên thấy nó bàng bạc như mình là vạn hữu, vạn hữu là mình, cho nên gọi là Phản bổn hoàn nguyên, trở về nguồn gốc của nó thấy nó bàng bạc.
Trái lại, thì Phật không phải vậy. Tâm không phóng dật thì nó phải định vô thân nó chứ nó không phóng ra các pháp như vậy. Cho nên cái hiểu, cái kiến giải nó làm cho chúng ta từ cái sai này nó đi đến cái sai khác. Do đó bây giờ, chúng ta mới hiểu được cái tâm không phóng dật là do cái chỗ giới luật nghiêm chỉnh, ly dục ly ác pháp, cái tâm bây giờ nó không khởi niệm, tự nó không khởi niệm thì nó thanh thản, an lạc. Nó thanh thản, an lạc thì luôn luôn lúc nào ngồi lại thì nó biết hơi thở ra và hơi thở vô. Bởi vì nó định trên thân nó, mà thân nó có cái hành động thì nó định trên hành động. Còn bây giờ, cái thân nó bất động thì nó phải định trên cái thân bất động. Mà cái thân bây giờ còn thở thì nó phải định trên cái hơi thở chứ sao, phải hiểu.
(00:50:06) Cho nên có một cái định mà đức Phật nói: “Thân định trên tâm, mà tâm định trên thân”. Vậy thì rõ ràng là khi mà thân chúng ta bất động, nó không còn thở nữa thì thân nó mới định với tâm định của nó, cho nên thân định trên tâm. Ở trong kinh sách Phật dạy, thì Thầy biết rằng cái Tứ Thiền là tịnh chỉ hơi thở, hơi thở nó ngưng. Hơi thở ngưng tức là nó không còn thở nữa, mà không còn thở nữa thì lúc bấy giờ thân nó mới định, cho nên gọi là thân định trên tâm.
Nghe nói, thân định trên tâm thì chúng ta biết rằng đó là Tứ Thiền, mà nói tâm định trên thân thì chúng biết đó là Sơ Thiền. Bởi vì ly dục ly ác pháp, cho nên tâm bắt đầu thanh tịnh, nó không còn tham, sân, si nữa, nó ly rồi cho nên nó định trong thân của nó; mà khi nó định trong hơi thở như vậy, thì nó có Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Nhất Tâm.
(00:51:05) Đó thì hôm nay quý sư nhận xét cho rõ, vì vậy mà chúng ta tu tự nhiên chứ không được ức chế. Mà tự nhiên thì nó sẽ tự động quay lên nó định trên thân. Còn bây giờ, chúng ta đem cái hơi thở để bắt cái tâm mình quán nó thì như vậy rõ ràng là chúng ta ức chế nó chứ đâu phải nó định. Vậy mà cố gắng mà ức chế để cho nó hoàn toàn không có niệm khởi thì như vậy rõ ràng là chúng ta tu sai rồi, không có đúng. Cho nên do vì vậy, mà chúng ta phải quan sát bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp của chúng ta là Tứ Niệm Xứ, nó có chướng ngại thì chúng ta quán xét mà đẩy lui.
Bởi vì chúng ta đang tu mà, chúng ta đâu có bắt buộc cái tâm chúng ta nó không có niệm. Cho nên nó còn có niệm thì chúng ta tư duy quán xét để triển khai cái tri kiến giải thoát của chúng ta. Có cái tri kiến giải thoát đó thì tất cả ác pháp xâm chiếm đến Thân, Thọ, Tâm, Pháp của chúng ta thì chúng ta sẽ đẩy lui nó, phải không?
Bởi vì cái tri kiến ngay đó nó biết, ngay đó nó thấy: “Đây là hữu lậu, đây là dục lậu, đây là vô minh lậu, đây là kiết sử, là ái kiết sử, đây là hữu tham kiết sử này”, nó thấy mặt nó biết liền, nó là có tri kiến. Còn bây giờ, chúng ta chưa có tri kiến thì chúng ta phải quán xét để tìm coi nó là Dục lậu, Hữu lậu, Vô minh lậu hay Kiết sử gì đây, cho nên chúng ta phải truy tìm nó. Khi truy tìm nó biết được thì cái tâm nó xả.
Cho nên đức Phật nói: “Tâm có tham, tôi biết tôi có tham”, mà biết nó có tham thì nó xả, mà không biết nó tham nó mới không xả. “Tâm có sân, tôi biết tôi có sân”, mà đã biết sân thì nó xả, mà tâm không biết sân cho nên vì vậy mà sân không xả, có vậy thôi chứ đâu có gì đâu.
Cho nên trong bài Song Tầm thì đức Phật nói: Chúng ta quán xét có tầm thiện và tầm ác. Tầm ác thì nó hại mình, hại người, nó làm khổ mình, khổ người. Mà tầm thiện nó đem đến hạnh phúc cho mình, cho người, lợi mình, lợi người. Thì như vậy chúng ta sống trong tầm thiện đừng sống trong tầm ác. Bài An Trú Tầm, đức Phật dạy chúng ta có năm cách an trú trong tầm. An trú trong tầm nghĩa là khi bị một cái chướng ngại pháp thì chúng ta phải tác ý ra, Như Lý Tác Ý ra một tướng khác của một cái tầm ác đó, thì tầm ác đó nó sẽ được đẩy lui.
(00:53:23) Thật sự đức Phật dạy chúng ta cặn kẽ và đầy đủ những cái pháp hành như vậy, thế mà chúng ta không chịu tu tập như vậy. Bây giờ, ngồi đây để ức chế tâm không vọng tưởng làm gì, thở để biết thở làm gì? Thở để mà dạy chúng ta biết từng hơi thở chúng ta; để rồi bây giờ tâm thanh thản thì nó biết hơi thở, thì nó định vô thân nó chứ đâu.
Rồi bây giờ nó có phóng niệm khác thì trên cái niệm đó chúng ta tư duy quán xét coi nó là thiện hay ác hay dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu để mà chúng ta đẩy lui cái niệm đó. Thì đó là con đường chúng ta đang tu. Mà khi đẩy hết tất cả chướng ngại pháp trên đó rồi, thì như vậy là chúng ta định rồi. Đơn giản quá, đơn giản! Ngồi chơi chứ đâu có tu tập gì đâu cho mệt. Đâu có làm thêm một cái chuyện gì nữa đâu. Chúng ta đâu có làm gì đâu, cứ ngồi đây quan sát chơi thôi, coi Thân, Thọ, Tâm, Pháp của mình nó có chướng ngại gì thôi. Thì ngồi, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc nằm đều là quan sát ở trên đó chứ đâu có ở trong một đối tượng nào đâu mà bị ức chế tâm.
Còn bây giờ nếu mà chúng ta không nhớ, cứ một lát nó quên thì Thầy xin nhắc thêm chúng ta nhớ: “Tâm phải quan sát bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp coi nó có chướng ngại không?”. Rồi bắt đầu quan sát thấy nó không có chướng ngại thì thôi, có gì đâu. Rồi một lúc nữa, sợ nó quên mình nhắc nó nữa, cứ nhắc mãi như vậy thì nó sẽ thành tựu. Nếu mà nó đã nhớ được rồi thì mình cần gì phải nhắc nó Tứ Niệm Xứ nữa. Để nó tự nó sáng suốt ở trên đó thì nó thanh thản, nó an lạc nhiều hơn nữa, có gì đâu.
(00:54:56) Đó cho nên trên con đường tu, hôm nay Thầy nhắc nhở kỹ. Bởi vì trong thời gian kế tiếp này, coi như mười tập Đường Về Xứ Phật Thầy đã hoàn tất xong rồi. Đây là cái tập thứ bảy, là tập cuối cùng Thầy đã nhuận lại, coi như mười tập. Lẽ ra thì nó còn những cái bài để mà trả lời nó sẽ đi đến tập mười một nhưng mà Thầy đình chỉ lại liền, Thầy không viết nữa. Bởi vì có viết nữa thì cũng nói tới, nói lui, cũng trả lời bao nhiêu đó, mà nó lại thêm.
Thí dụ như bây giờ người ta nói về cái năng lực của Nhân điện, người ta trị bệnh mà người ta hỏi Thầy thế này, thế khác. Bây giờ Thầy chỉ nói qua năng lực Nhân điện, thì năng lực của Nhân điện là năng lực của tưởng chứ có cái gì đâu. Mà bây giờ Thầy cứ nói loanh quanh, cứ người hỏi cái này cái kia thì cũng chạy lòng vòng ở trên cái tưởng thức của chúng ta, cái tưởng ấm của chúng ta chứ nó đâu có gì hơn. Thì cái năng lực của tưởng thì nó phải như vậy là như vậy rồi, thì bây giờ có nói đi cho mất thì giờ Thầy cũng vô ích. Cho nên Thầy tập trung vào cái bộ sách đạo đức dạy làm người thì nó lợi ích lớn hơn. Cho nên hoàn toàn là Thầy không trả lời những điều này nữa.
Bởi vì khi đọc cái tập 3, thì quý vị đã thấy rằng Thầy đã xác định cái thế giới siêu hình nó không có, hoàn toàn nó ở từ trong cái tưởng của chúng ta mà lưu xuất ra thôi. Cái năng lực của nó là do tưởng ấm của chúng ta, hay là tưởng uẩn của chúng ta mà làm ra chứ không phải có gì khác hơn hết. Chúng ta đã hiểu được như vậy rồi thì những điều mà gọi là thần thông, gọi là những cái năng lực siêu hình, những cái năng lực nào đó thì hoàn toàn là cũng ở trong cái năng lực của tưởng thôi, không có ngoài năng lực của tưởng đâu.
Cho nên ở đây thì Thầy chỉ còn nhắm vào cái sự lợi ích, vì vậy mà cuối cùng hôm nay, Thầy tập hợp chúng lại để nhắc nhở những cái giới luật mà chúng ta giữ vệ sinh, kín đáo thân của chúng ta. Cho đến những cái giới luật khác hơn nữa là chờ dịp khác Thầy sẽ dạy từng giới luật. Còn bây giờ hãy lo tu, giữ gìn những giới luật cho nó, giữ gìn nhất là cái vệ sinh để giữ gìn cái môi trường sống của chúng ta, xung quanh của chúng ta. Để cho nó có cái bầu không khí sạch sẽ mà chúng ta sống, để mà chúng ta thực hiện đến cái ngày rốt ráo.
(00:57:11) Thầy sẽ tập trung soạn thảo cái bộ sách đạo đức, Thầy không còn thời gian mà để tiếp xúc quý thầy nữa. Là tại vì đòi hỏi ở cái tập trung viết bộ sách này, là đi vào những chi tiết đời sống, những hành động đời sống của mọi con người. Bởi vậy, khi mà ngồi đây Thầy phải quan sát những hành động của mỗi con người, mỗi gia đình. Cha mẹ đối xử với con như thế nào mà tại sao gia đình đó bất an, mà tại sao gia đình kia an, đối xử như thế nào? Từ đó, mới có thực tế mà viết ra cái bộ sách, chứ không phải là ngồi đó mà tưởng ra mà viết.
Ở đây phải trực tiếp, phải đi thẳng vào cuộc sống của mọi người, nhưng mà Thầy ngồi đây mà Thầy phải trực tiếp vào cuộc sống mọi người để viết ra bộ sách đạo đức thực tế và cụ thể như vậy, thì nó đòi hỏi Thầy phải có nhiều công lao. Cho nên vì vậy, vì lợi ích cho con người, vì cái nền đạo đức của đạo Phật, Thầy đem hết sức của mình ra để viết bộ sách. Cho nên thời gian sắp tới đây, coi như Thầy sẽ đổ dồn vào công sức đó.
Còn quý thầy, phải cố gắng tu hành, lấy giới luật làm chuẩn, tu tập cho tốt. Đọc lại bộ sách Giới Đức Làm Người. Và nghiên cứu lại 150 giới của vị Tỳ kheo, những giới trọng để mà quan sát, tìm những đức hạnh của nó. Sau này có dịp, Thầy sẽ giảng, Thầy giảng từng giới luật, cái giới nào như thế nào, và đồng thời Thầy sẽ giảng toàn bộ cái Giới kinh. Nghĩa là chúng ta còn học cái bộ Giới kinh. Mỗi bài kinh của Phật đều là cái giới luật nó nằm ở chỗ nào, Thầy sẽ chỉ cái đức hạnh nằm ở chỗ nào của cái bài kinh đó. Còn bây giờ, không có thì giờ.
Bởi vì đưa ra bài kinh mà giảng về giới thì Thầy sẽ chỉ cho chúng ta biết cái lời đức Phật dạy giới này nó nằm ở đâu, và cái này nó sẽ giúp chúng ta như thế nào, đạt được hành động đạo đức như thế nào mà đức Phật nói bài kinh này. Dạy từng bài kinh, chỉ ra cái đức hạnh của cái bài kinh đó, cái giới luật của bài kinh đó, cái thiện pháp của bài kinh ở chỗ đó. Chứ không phải giảng cái bài kinh mà kêu là giảng để hiểu chữ nghĩa thì không nghĩa lý gì.
(00:59:11) Đó là sau này có dịp Thầy giảng, giảng tức là sẽ ghi lại bằng băng. Rồi sau này có người sau theo đó mà có thể biên tập lại, ghi chép lại thành bộ sách Giới Đức Làm Người hoặc là Giới Đức Làm Thánh của bộ Kinh Giới chứ không phải là bộ Giới Bổn. Còn cái bộ Giới Bổn mà Thầy soạn thảo một trăm giới chúng học, đó là Giới Đức Làm Người, thì đó là tại dựa vào bộ Giới Bổn mà viết ra.
Còn Giới Kinh thì nó vô cùng nhiều, cho nên vì vậy sau này thì chỉ còn có thu băng chứ Thầy không có thì giờ có thể ngồi đó mà viết. Còn về Giới Đức Thánh là một trăm bốn mươi mấy giới gần năm chục giới, thì Thầy sẽ giảng những cái hành động của mỗi giới đó là một hạnh Thánh, một cử chỉ Thánh ở chỗ giới đó như thế nào. Nói lên cái tâm niệm của một vị đó, một cái hành động của vị đó muốn làm Thánh phải sống như vậy như vậy, thì đó là mới làm Thánh đúng.
Thì điều này, sau khi giảng xong, chúng ta sẽ kết tập lại thành một bộ Giới Đức Làm Thánh Tăng. Đó là những cái bộ Giới mà sau này, đời sau chúng ta có những cái bộ Đức Giới Làm Thánh để cho người sau có đường hướng đến, người ta tu tập cho nó dễ dàng. Đó là cái trách nhiệm của Thầy phải làm trong cái đời sống của Thầy trong cái hiện tại này.
Sau khi cái bộ Đạo Đức Làm Người mà được, thì tiếp tục Thầy còn thấy cơ thể mình phục hồi được để kéo dài thì Thầy tiếp tục soạn bộ Giới Đức Làm Thánh. Để cuối cùng thì chúng ta hoàn tất được Giới Luật Làm Người, Giới Luật Làm Thánh. Và cái bộ Kinh giới mà làm Người, làm Thánh thì cái bộ đó rất nhiều, cho nên nếu mà Thầy còn đủ sức thì Thầy sẽ giảng, mà Thầy không đủ sức thì Thầy ra đi, chờ một người khác thay Thầy làm công việc đó.
Trong bộ kinh Nikaya của Phật là toàn bộ kinh giới nên gọi là Giới Kinh. Chứ không phải là từ ở trong bộ Giới kinh đó, mà ngày xưa, chế ra Giới bổn cũng rút từ trong Giới kinh ra nhưng mà nó không hết. Vì Giới kinh nó nhiều lắm. Mỗi bài kinh là cái giới nên người ta chỉ rút ra một vài bài nào đó mà người ta làm được cái bộ giới như vậy thôi, chứ còn Giới kinh thì rất nhiều, nó đa dạng. Nó từ sơ thiện, trung thiện, hậu thiện mà.
Cái Giới kinh nó phải nằm trải dài. Bắt đầu, sơ thiện nó như thế nào, là cái đức giới của nó, cái giới luật của nó ở sơ thiện như thế nào, và trung thiện nó ở như thế nào, mà hậu thiện nó ở như thế nào? Cho nên toàn bộ đọc sách của Phật, thì chúng ta phải thấy rằng sơ thiện, hậu thiện và trung thiện nó phân rõ ràng như vậy. Mà nó là cái bộ Giới kinh cho nên nó mới có những điều thiện đó. Sau này có dịp, chúng ta sẽ học thêm những cái điều này.
(01:02:13) Trưởng lão: Còn bây giờ hôm nay, quý thầy và quý sư mà nỗ lực tu tập về đây, theo Thầy thiết nghĩ phải ráng nỗ lực để thực hiện, nói lên được cái sự tu tập của mình. Để cho tất cả các chúng Tỳ kheo ở trong các chùa khác người ta thấy rằng mình tu được chứ không phải mình nói (mà làm) không được. Còn nếu mà quý sư, quý thầy mà tu cầm chừng như thế này thì chẳng nói được gì hết. Người ta còn phỉ báng “Tu chi cho cực khổ, ép xác như vậy mà cuối cùng chẳng được gì hết”, người ta còn cười mình thêm. Thà là mình sống theo Đại Thừa, ăn ngủ còn sung sướng hơn, sống chơi đùa còn sướng hơn. Tuy rằng nó là cái điều lừa đảo người ta, nhưng mà vẫn phè phỡn hơn là chúng ta sống như thế này.
Cho nên vì vậy mà chúng ta không nỡ lòng nào mà chúng ta lại sống trong cái phè phỡn như vậy, sống sung sướng bằng cách lừa đảo người ta như vậy. Tu thì chẳng ra tu, đời thì chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo. Mà chỉ có cái hình thức để lừa đảo người ta phải gánh một gánh nặng cho mình, để nuôi mình sống như thế này, thì không hạnh phúc gì đâu.
Khi mình suy nghĩ lại mình không hạnh phúc, mình có khả năng, mình có sức khỏe mình làm ra của cải tài sản, tại sao mình lại ăn nhờ ở đậu như thế này, mà cuối cùng gọi danh từ là “Tu sĩ” như thế này thì không xứng đáng chút nào hết đâu. Cho nên đối với chúng ta là người thật thì chúng ta không thể nào mà nhẫn tâm để mà thọ hưởng của đàn na thí chủ, bằng mồ hôi nước mắt như vậy.
(01:03:41) Chúng ta cứ nhìn như thế này nè. Một cái, Thầy nói bây giờ, chỉ nhìn vào một cái giới tu sĩ mà hàng ngàn người trong các chiếu của Hòa thượng của Thầy của Thầy đó. Thì mỗi một ngày người ta ăn, cả ngàn người người ta ăn, thì bây giờ quý thầy nghĩ như thế nào, một mình mình làm có nuôi nổi không? Đâu có nổi đâu. Vậy mà, bao nhiêu phật tử người ta gồng gánh, người ta nuôi một số tu sĩ như vậy. Thế rồi họ làm được những gì đây? Họ có giải thoát được không? Ăn một ngày ba bữa, tốn hao biết bao nhiêu. Rồi quần áo này kia, người ta đài thọ cho mình sống hết, người ta nuôi mình đó. Một ngày mà Thầy nói thật sự ra, cả ngàn người như vậy, đem cơm mà chở vô đó thì Thầy nói thật sự là cả xe hơi chở vô nuôi, chứ không ít đâu. Cái số tiền rất lớn chứ không phải ít đâu. Thế mà, người ta đủ sức gồng gánh được mình, nuôi mình như vậy.
Mà mình tu tập, mình có nghĩ mình tu tập như vậy mình có xứng đáng chưa? Nếu mình chưa xứng đáng thì mình hãy lao động, mình đi làm để sống đừng có nhờ vả vào người khác như vậy, tội người ta lắm. Còn mình thấy mình xứng đáng tu hành thì phải tu như Thầy dạy, nghĩa là đời sống giới luật nghiêm chỉnh hẳn hoi.
Nội đời sống giới luật của tôi nghiêm chỉnh thì tôi thừa sức thọ hưởng của mấy vị. Tôi sống đời sống như Phật, tôi đi xin tôi ăn như vậy, tôi không phí phạm mồ hôi nước mắt của quý vị. Từ cái y áo cho đến rách nát tôi mới bỏ, còn không thì nhất định tôi không bỏ. Là vì mồ hôi nước mắt quý vị quá nặng đối với tôi. Chứ không phải là đụng lúc nào cũng mặc y áo đẹp, cũng làm tốt, cũng làm sang. Chúng tôi hay mặc những cái đồ đến nỗi mà mục nát, mà ngày xưa ông Phật đã dạy, khi mà nó mục nát rồi, thì chúng ta chỉ còn trộn đất mà làm vách thôi, nghĩa là không bỏ.
(01:05:27) Trưởng lão: Còn đồ ăn, tại sao chúng ta lại ném bỏ? Ném bỏ là sai. Bởi vì cái lòng hiếu sinh của chúng ta không cho phép chúng ta ném bỏ thực phẩm, mặc dù là rau cải. Tại sao vậy? Rau cải cũng có đời sống chứ, nhưng vì sống, chúng ta phải ăn nó sống cho nên vì vậy mà chúng ta không được bỏ những rau cải. Khi chúng ta ăn cái nào thì chúng ta ăn, cái nào không ăn được thì chúng ta phải bố thí cho người khác, cho con vật khác. Chứ không được bừa bãi mà bỏ, nhất là rau, nó có một đời sống.
Khi chúng ta lượng mình ăn không hết thì chúng ta phải trả nguyên lại cho người khác người ta ăn, người nào bỏ thì người đó có tội, có tội phí phạm vào sự sống của chúng sanh. Một cọng rau, một cọng cỏ mà chết chúng ta còn không nỡ tâm huống hồ là vì sống mà chúng ta phải ăn nó để mà sống. Thì chúng ta phí bỏ là không đúng đạo đức làm người của chúng ta đâu.
Cho nên ở đây, khi mà học đạo, thì chúng ta phải nghĩ đến cái lòng thương yêu sự sống. Nhưng mà vì nếu chúng ta thương yêu sự sống mà chúng ta không ăn thì làm sao chúng ta sống? Cho nên chúng ta phải ăn, nhưng ăn không phí.
Bây giờ một ly nước đó, Thầy không uống thì thôi, nhưng uống phải uống hết. Mà nếu mà Thầy tạt ly nước tức là Thầy phí sự sống. Ở trong ly nước đó có sự sống, Thầy tạt cái sự sống đó sẽ chết. Mà Thầy uống vô trong bụng Thầy là vì sự sống của Thầy mà Thầy phải thọ lãnh cái sự chết của họ. Họ phải chịu chết với sự sống của Thầy. Cho nên Thầy chấp nhận sự chết đó bằng cách Thầy phải nuôi sống. Nuôi sống để làm gì? Để sống trong thiện pháp, để sống làm vị Tăng giải thoát chứ không phải sống để chạy theo dục lạc.
Cho nên đối với một người tu sĩ, chúng ta có lòng hiếu sinh, thương yêu sự sống. Nhưng thương yêu với cái tâm rộng lớn như vậy, mà hành động nhỏ nhặt mà phí phạm, nhất định là không làm. Đó là những cái điều mà chúng ta phải hiểu. Chứ không phải là trong cái sự sống rồi chúng ta vì hiểu biết, rồi cái lòng thương yêu không có phí phạm, không có đụng chạm đến sự sống của người khác, của vật khác thì làm sao chúng ta sống được? Nhưng chúng ta phải tiết kiệm sự sống của muôn loài. Vì vậy sự ăn uống của chúng ta cũng là sự tiết kiệm sự sống của muôn loài. Chứ đâu phải là ăn uống của chúng ta, nhiều khi chúng ta nghĩ rằng đức Phật ăn không hết rồi đem bỏ. Đúng là đức Phật nói bỏ để bố thí, không được để trên cỏ, phải để ngoài đất trắng để con vật gì đó đến nó ăn. Nhưng mà Thầy nghĩ rằng, đó là nhiều quá ăn không hết, cho nên vì vậy mới bỏ mà thôi.
(01:08:07) Còn bây giờ, thay vì mình đến mình khất thực, vừa đủ thì đậy bát lại, ai biểu xin cố nhiều mà đem về ăn không hết. Chắc chắn là khi mà mình đi xin, đâu phải người ta bỏ mà mình không thấy, họ bỏ bao nhiêu mà không được.
Thầy nhắc lại, có một lần Thầy đi khất thực. Một cái bát của Thầy nhỏ, người ta bỏ đã đầy rồi, vừa rồi, thì Thầy vừa đậy thì có một người khác đến đảnh lễ: “Xin Thầy cho con cúng dường”. Thầy nói: “Thầy đã đầy rồi, ngày khác Thầy sẽ đến Thầy xin nữa”. Thì cái người đó nói: “Không được, hôm nay thì ông chủ nhà con có dặn rằng là bữa nay có các sư mà đi ngang qua thì xin cúng dường. Mà bây giờ Thầy đến đây thì nó vừa đầy bát mà bây giờ ông chủ đã dặn như vậy, mà con là người tay sai trong nơi đây thì con làm sao?” Thì Thầy nói: “Thôi, bây giờ thì chỉ có nhờ các sư khác cúng dường thôi”. Thì cái người đó họ đảnh lễ Thầy, họ xin: “Bởi vì ông chủ con dặn là cái người đầu tiên đến đây đi xin thì phải xin làm sao mà cúng dường cho được. Cho nên nhờ Thầy nhận lãnh cái này, Thầy ăn không hết thì Thầy đem về chùa cho các sư, các Thầy khác ăn.”
Thì do đó Thầy thấy trước cái lòng tha thiết của người phật tử này, thì do vậy mà (cái y cũng như Thầy vấn cái y cũng như mấy sư vậy) Thầy mới đưa cái vạt y lên. Người đó mới vô trong đó, họ mới đem ra coi như là hai chục ổ bánh mì lớn, họ bỏ lên cái y của Thầy như vậy. Khi mà Thầy ôm đi rồi, Thầy nghĩ: “Một người tu sĩ mà như thế này không đúng phạm hạnh chút nào hết”. Mà ném thì đâu có được, cho nên đi nó bùng nhùng trong người của mình.
Sai một chút xíu thôi, không gan dạ một chút xíu, cắn răng mà đứt đoạn cái tình cảm thiên hạ thì bây giờ mình gánh cái nỗi khổ của mình. Đi thiên hạ dòm, “ông thầy sao đi xin mà trời đất ơi ôm bánh mì một đống như thế này, xin cái gì lạ lùng vậy!?” Cho nên Thầy nói rằng, có lúc chúng ta phải ức chế thân tâm của mình, dẹp được tình cảm của mình. Chứ còn nếu mà đi xin, thì như vậy không được.
(01:10:17) Có một lần Thầy đi xin ở thành phố, Thầy đi xin chợ Bà Hạt. Mới vào ở đầu đường thôi, mới móc cái bát ra để mà ôm đi thôi, thì có người phật tử nói: “Chúng con xin cúng dường Thầy, Thầy ở đâu?”, Thầy nói: “Thầy ở chùa Giác Ngộ”. Thì cái người phật tử đó họ báo cho hết cả cái chợ, Thầy chưa có bước vô đâu, Thầy mới đứng đó thôi. Thì họ đem tới họ để một đống đủ thứ đồ ăn, nào là nước tương, nào gì đủ thứ hết. Thầy nói: “Thầy không có xin như vậy đâu. Thầy xin vừa đủ trong cái bát Thầy ăn thôi, Thầy không có xin nữa đâu”. Họ nói: “Thôi Thầy cứ về đi, rồi tụi con làm sao kệ tụi con”. Rồi kêu một xe xích lô nó chở cả đồ đó đem về chùa, riêng Thầy thì đi không về. Thì các con thấy đi xin như cái kiểu đó thì đi xin không đúng cách đâu.
Bởi vì Thầy nói thực sự khi mà thực hiện cái hạnh đi xin là chỉ xin vừa đủ ở trong bát thôi, không được thừa. Còn đằng này, mình thừa để mình đem về nuôi cả chùa của mình như vậy. Mai mốt Thầy xin đem về Thầy nuôi gia đình của Thầy. Ngoài chiếc y này, chứ Thầy nuôi cả dòng họ của Thầy cũng không hết nữa.
Thật sự người ta dám lừa đảo, người ta mặc cái chiếc y này, mà phật tử có cái tâm thành như vậy đó, thật sự ra Thầy chỉ lợi dụng chiếc y này Thầy nuôi cả dòng họ Thầy chưa đói đâu. Gì mà cho dữ vậy!? Ngày nào Thầy cũng đi thì chắc chắn cả làng ăn chứ đừng nói một người ăn đâu. Đó là tình trạng mà Thầy đã thấy được khi lúc đó Thầy còn ở thành phố, Thầy còn đi dạy học, mà Thầy ôm bát Thầy đi xin, mà Thầy đã thấy lòng phật tử cúng dường như vậy.
(01:11:47) Cho nên từ đó, Thầy khắc khoải, Thầy nghĩ rằng: “Đức Phật dạy mình xin đủ ăn, thế mà mình đi xin như vậy là không đúng”. Chứ đâu có ai dạy Thầy đâu, không có ai dạy Thầy. Tự suy nghĩ của Thầy. Cho nên vì vậy mà khi đi xin, người ta vừa đủ bát mình đậy bát lại, nhất định không xin nữa, tôi vừa đủ rồi.
Cũng như bây giờ thật sự ra mà phật tử đem y áo đến cúng dường Thầy, “Tôi vừa đủ rồi, cái áo chưa rách, chưa có nát, tôi xin tôi không có nhận. Phật tử hãy đem về đi, những sư những người khác người ta không có. Chứ còn nhận bây giờ tôi để đây, tôi cất tôi giữ nó. Mà của phật tử là mồ hôi nước mắt, nếu mà tôi không giữ tôi để nó mục hư hoặc này kia thì tôi có lỗi. Thà là tôi không nhận, tôi trắng bạch như vỏ ốc, tôi không có vật gì hết thì tôi là giải thoát. Nếu mà tôi cứ giữ như thế này thì tôi giữ của phật tử, như vậy không tốt đâu”.
Cho nên vì vậy Thầy khuyên cô Út là người ta đem đến cúng dường Thầy, y áo đừng có lấy. Nhưng mà vừa rồi, thì có một cô phật tử may sẵn một bộ y áo của Thầy. Cho nên Thầy Trí An về đây không có, cô Út lấy cô cho. Thầy nói: “Đừng có nhận, khi nào không có thì con sẽ may cho Trí An, chứ đừng có nhận như vậy, trả lại cho phật tử họ ớn đi sau này họ không có làm như vậy. Họ làm như vậy tức là họ cúng dường sai Phật pháp”. Thầy đã có rồi mà còn lén may. Ít ra mình muốn may cúng dường cho vị thầy đó thì mình xin: “Bây giờ thưa thầy, bây giờ y áo thầy đã rách hết rồi, con xin cúng dường thầy”. Rồi vị thầy nói: “Y áo thầy chưa, thầy còn xài chừng nào rách thầy xin, bây giờ không thì thôi.” Đó là cái hạnh của người tu.
Còn bây giờ mình cứ ai đút vô cũng lấy, đút vô cũng lấy, cho nên người ta dồn cho mình. Rốt cuộc rồi mình thành cái người giữ kho cho phật tử. Rồi bắt đầu bây giờ mình làm gì biết không? Mặc không hết rồi bây giờ mới đem bố thí cho người này, người kia. Mình có gì đâu mà bố thí, rõ ràng là người ta đem đưa cho mình, bây giờ mình mặc không hết rồi, mình tiếc mình không dám thẳng thắn nói với phật tử, để rồi bắt đầu mình giữ cho nhiều, mình mặc không hết để rồi mình đem cho người ta. Như vậy rõ ràng mình thừa, mình bỏ thì mới cho, chứ sự thật có phải lòng tốt mà mình cho đâu.
Mình có lòng tốt mình cho đó, là mình đi ra ngoài kia cuốc đất kìa, lấy tiền công của mình rồi mua cho người ta, đó là lòng tốt. Chứ người khác cho mình, rồi mình xài không hết, mình đem cho người ta đâu có nghĩa là cái này của mình cho người ta đâu. Mình nói là của mình nhưng sự thật ra có mồ hôi nước mắt của mình trong đó không? Đâu có.
(01:14:16) Cho nên ở đây thật sự ra, Thầy nói thật, ba y một bát, chừng nào rách nát hết tôi mới xin, còn không có nhất định là không xin. Dù một tấm vải tôi cũng không xin, tôi không có nô lệ cho cái thứ này để giữ nó đâu. Đức Phật nói: “Trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không”, tôi phải trắng bạch không thừa một chút nào hết. Giới luật cấm không giữ hai cái y trong mười ngày mà, có phải không? Giới luật đức Phật cấm không có để cho mình thừa hai bộ đồ trong mười ngày. Ngoài mười ngày nếu người nào mà còn giữ là bị phạm giới đó. Cho nên đó là tội Ni Tát Kỳ Ba Dật Đề, là phải xả đi, rồi sám hối thì mới hết tội đọa, chứ không khéo bị tội đọa.
Tất cả giới luật của Phật là như vậy, làm cho chúng ta như thế nào? Ly dục ly ác pháp đó. Thừa hai bộ là chúng ta chưa ly dục ly ác pháp đâu. Cho nên ở đây chúng ta phải thực hiện đời sống chúng ta. Chúng ta đừng nghĩ rằng bây giờ Thầy giao cho cô Út như thế này thế kia, tức là cô Út còn giữ đồ cho Thầy chứ gì. Như vậy là Thầy có đúng không? Ngày mai là Thầy ra Phước Hải Thầy sống, hoàn toàn là không ai giữ hết.
Nghĩa là phật tử cúng dường, thừa thì quý vị đem về. Ở đây, chúng tôi là người tu hành, không có cất giữ cho ai hết, nghĩa là không có cúng dường, năm thước, ba thước, mười thước vải này kia. Chừng nào chúng tôi không có, chúng tôi là người tu sĩ, chúng tôi rách hết, chúng tôi đến xin, quý phật tử hãy cúng dường. Còn bây giờ, không có cúng dường bậy bạ như vậy. Theo ảnh hưởng của Đại thừa, cúng dường như vậy là sai hết.
Mình không dám dạy phật tử, cho nên phật tử bắt đầu biến mình trở thành kho vải, trở thành kho gạo. Quý sư, quý Thầy vô trong cái kho của Thầy coi, gạo chất ăm ắp trong đó. Có phải mình trở thành giữ kho gạo cho phật tử không? Nghĩa là ngày mình ăn có một bữa à, mà mua làm chi chất đống. Thầy nói cô Út là cứ cho họ kéo về đi. Chúng ta không sợ đói đâu. Đói đi xin, chứ còn cất giữ như vậy, chúng ta khổ tâm lắm. Nhà chúng ta không có ở mà trái lại để chất đồ ăn đồ uống như vậy thì có thua gì ngoài đời. Cho nên đối với Thầy, Thầy thấy đó là chướng ngại.
(01:16:24) Nhưng mà ở đây, vì Thầy, Thầy nói rằng Thầy ở đây, Thầy biến cái chùa này từ Đại thừa thành cái nơi tu theo Nguyên Thủy, tu theo Phật Giáo nó chưa có hoàn thành đâu. Ngày mai mà Thầy ra ngoài đó, cư sĩ giao cho Thầy cơ sở, hoàn toàn Thầy sống, không có cất chứa gì hết. Bữa nay ăn ngày nay, ngày mai sẽ xin ăn ngày mai, không biết ngày mai chúng ta đói khát thế nào, không biết gì. Chứ còn bữa nay, thực sự quý sư khỏi lo đói, bởi vì nhà kho kia kìa, nó có một kho kia kìa, thành ra làm sao quý sư đói. Còn Thầy thì không có gì hết. Ngày mai chẳng biết người ta có cho mình ăn không, không biết. Nhưng mà chắc chắn chúng ta sống, người tu hành chúng ta sống.
Cho nên vì vậy mà Thầy ra đó Thầy sẽ thực hiện đúng cái điều kiện mà sống đúng đời sống của một vị tu sĩ. Nghĩa là ăn bữa nay thôi, không có để lại một cái gì khác hơn hết. Nghĩa là ăn xong rồi, còn thừa thì bố thí, chứ còn không có giữ lại một cái gì, hoàn toàn là trắng bạch như vỏ ốc. Đi thì quải cái y bát của mình đi tới chỗ khác, đi như vậy, không có mang theo thực phẩm gì. Đi đến giữa đường, giờ phút sắp sửa ăn, thì đi xin ăn, ăn rồi đi nữa. Còn nếu mà đến nơi đến chốn thì chúng ta đến đó mà xin ăn ở tại chỗ đó. Đó là cái hạnh xin ăn của một người tu sĩ, gọi là giải thoát, gọi ly dục ly ác pháp.
Như vậy người ta mới gọi là nhập Sơ Thiền chứ. Sơ Thiền gì mà cả kho gạo mà sơ cái gì? Cái đó làm sao sơ, phải không các con? Phải nghĩ rằng, chúng ta phải đúng hạnh, trước mặt cũng như sau lưng, chứ không phải nói Sơ Thiền bằng cách nói suông được, mà bằng cách sống đúng là chúng ta ly dục, ly ác pháp. Tất cả những thực phẩm mà chúng ta trữ lại là ác pháp, không phải là thiện pháp. Nó làm chúng ta khổ đau chứ, lỡ có chuột, lỡ có con gì ăn chúng ta cũng tiếc, làm chúng ta có những chướng ngại pháp chứ, nó đủ thứ khổ, nó làm sao chúng ta phóng khoáng được.
(01:18:18) Cho nên ở đây, tất cả những cái đời sống của chúng ta, muốn là một người tu sĩ theo đạo Phật thì hoàn toàn phải trắng bạch như vỏ ốc, không còn có một vật gì ngoài ba y một bát của chúng ta. Ngày nay, chúng ta đến chỗ đó thì xin ăn chỗ đó, ngày mai đến chỗ khác thì xin ăn chỗ khác chứ không cần đói no, có ăn, không có thì về ngồi thiền định, một bữa không chết chóc gì hết.
Nhưng mà Thầy nghĩ rằng, khi mà chúng ta giữ gìn giới luật như vậy thì chúng ta không bao giờ đói. Người ta sẽ cúng dường, và người ta sẽ quỳ mọp sát đất, người ta cúng dường cho mình ăn. Mình sống trước mặt cũng như sau lưng thì người ta quý trọng mình vô cùng. Vì đức hạnh buông xả của mình, vì đức hạnh ly dục, ly ác pháp của mình, người ta sẽ mến phục, người ta không bao giờ để mình rách rưới lang thang, người ta không bao giờ để cho mình thiếu một bữa cơm ăn. Người tu sĩ phải gan dạ, phải thực hiện đúng, không làm sai.
Đó, từ cái chỗ hành động sống mà chúng ta đã ly dục, ly ác pháp, chứ đâu phải cần ngồi thiền nhập định mà ly dục, ly ác pháp đâu. Sống đúng là chúng ta ly, cho nên đức Phật nói: “Ta nói ly dục, ly ác pháp là nói giới luật”. Tức là chúng ta sống đời sống phạm hạnh thì chúng ta đã ly dục, ly ác pháp rồi. Mà chúng ta thấy an vui ở trong ly dục, ly ác pháp là bất động tâm rồi. Thì như vậy rõ ràng nó đâu phải cái chỗ tu gì đâu. Đi vào với ông thầy giới luật là chúng ta thấy được giải thoát hoàn toàn rồi.
(01:19:42) Trưởng lão: Đó cho nên từ khi chín năm trời nhập thất, Thầy nỗ lực tu hành ức chế tâm. Cho đến khi mà ngày cuối cùng mà Thầy nhận ra được chân lý của Phật, Thầy thấy chỉ có sống đúng giới luật, ngồi đây chỉ nhắc ý, nhắc cái tâm mình thôi, kiểm soát lại tất cả những hành động có sai phạm gì trong giới luật không thôi. Mà hoàn toàn không sai phạm giới luật thì từ giới luật sẽ đẻ ra bậc A-la-hán chứ gì, rõ ràng. Cho nên ở đây, đúng là giới luật sinh ra bậc A-la-hán.
Cho nên Thầy kiểm điểm lại, không phạm một giới luật nào hết. Cho nên tất cả những chướng ngại lần lượt do pháp hướng: “Tâm như cục đất ly tham, sân, si”, nói như vậy chứ sự thật ra quan sát hết giới luật, mà quan sát giới luật là quan sát trên Thân, Thọ, Tâm, Pháp của mình có chướng ngại hay không. Nếu chướng ngại thì tức là phạm giới chứ sao. Một ý của mình khởi ra một cái niệm, coi chừng nó là phạm giới. Vậy thì quan sát ở trên giới mà chúng ta biết được cái niệm của nó. Mà niệm của nó như vậy là chúng ta do giới mà ly dục, ly ác pháp.
Vì chúng ta giữ gìn, không cho nó vi phạm thì như vậy rõ ràng là chúng ta sống đúng giới luật phạm hạnh. Bây giờ Thầy nói như thế này, đi ra mà chúng ta ngó qua, ngó lại là chúng ta có phạm hạnh không? Không, như vậy rõ ràng là chúng ta đã phạm giới. Người tu sĩ đi ra, chúng ta nhìn xuống để tập trung làm gì, để tập trung trên cái sự tỉnh táo của mình, trên bước đi để khởi lòng thương yêu, chúng ta khỏi đạp các loại côn trùng dưới chân. Đó là ở ngay từ chỗ đó, giới luật đã giúp chúng ta có cái pháp rồi, phải không? Cho nên vì vậy, trên bước đường tu tập, chúng ta thấy rất cụ thể, rõ ràng, giải thoát từng phút, từng giây cho cái sự tu tập của chúng ta.
Vậy khi chúng ta vào, chúng ta ngồi đến khi chúng ta mặc cái áo, mang cái y, xách cái túi bát, ngồi ăn cơm, tất cả mọi hành động chúng ta để làm gì, để biết hành động suông thôi sao!? Mà chính biết những hành động đó, chúng ta có phạm giới hay không, phải không? Mà không có phạm giới tức là ly dục, ly ác pháp, mà có phạm giới tức là không ly dục, ly ác pháp. Có phải đức Phật nói hay không?
Cho nên vì vậy mà giới luật quá tuyệt vời, quá hay để giúp chúng ta đi vào thiền định. Vì vậy mà đức Phật nói: “Ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện”, không phải Tứ Chánh Cần, cần kiệm để quan sát coi chúng ta có phạm giới hay không. Mà giới luật là thiện pháp, mà không giới luật là ác pháp. Trong sự tu tập như vậy, chúng ta thấy có sự giải thoát không? Quá hạnh phúc!
(01:22:09) Trưởng lão: Đó, như vậy hiện bây giờ, chúng ta ngồi trong thất này, là chúng ta sống độc cư rồi, là chúng ta phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình rồi. Mà khi đi ra mà chúng ta ngó qua, ngó lại là không phòng hộ. Bây giờ ngồi trong thất, mà chúng ta ngó ra ngoài đường, thấy một vị thầy đi ngang qua, thì chúng ta đã không phòng hộ rồi. Thấy là đã không phòng hộ rồi đó, phải không? Bởi vì thấy tức là tâm bị phóng dật. Thì vị thầy đó họ đi nhanh quá, “Trời, ông này đi kinh hành nhanh quá!” Như vậy là tâm chúng ta phóng xa quá rồi, nó trật rồi. Người ta như đi thế nào kệ người ta, miễn mình ở đây là làm sao mình phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, thấy mà như không thấy ai hết. Không phải tôi đui, mà tôi thấy, nhưng không phải để tâm phóng dật đó.
Cho nên nghe Thầy thường nói: “Tâm định trên hơi thở rồi nó không lưu ý gì bên ngoài”, nhưng không có nghĩa là không thấy, nó thấy mà nó không lưu ý ai hết đâu. Ai làm gì, nó chẳng cần biết hết. Cho nên đức Phật nói: “Biết lỗi mình, chứ đừng biết lỗi người”, nghĩa là thấy mình chứ đừng nên thấy người. Mặc dù là mắt mình phải thấy nhưng mà mình luôn thấy mình, kiểm điểm lại mình chứ mình không thấy ai. Thì người tu như vậy có phải bảy ngày, bảy tháng, bảy năm không?
Còn chúng ta ngồi đây, nói tu chứ hết giờ tu rồi ra thì ra tâm phóng dật tùm lum như vậy, thử hỏi còn cái chỗ nào gọi là thanh tịnh nữa. Mỗi cái giờ tu, cố gắng nhiếp tâm cho không vọng tưởng, nhưng mà xả rồi thì phóng tùm lum hết.
Cho nên Thầy nói thí dụ như bây giờ, thí dụ mình bật đèn sáng, thấy người đó đi ngang qua bắt đầu tâm phóng rồi. Trong khi mình lo mình quan sát, luôn luôn mình cứ quan sát lại Thân, Thọ, Tâm, Pháp của mình ở đây này, thì bắt đầu mắt mình cũng thấy chứ. Mình đâu có ngó ra ngoài, nhưng mà dáng bóng đi ngang mình cũng thấy chứ. Nhưng thấy mặc nó, lo quan sát đây thì có lưu ý gì bên ngoài người ta đâu.
Cho nên khi mà ở trong thất của mình thì ít dè dặt hơn, nhưng mà đi ra khỏi thất của mình, đi xa hơn một chút thì coi chừng tất cả ác pháp sẽ làm cho tâm mình phóng dật. Cẩn thận, kỹ lưỡng, điều này nó sẽ làm chúng ta phạm giới đó. Cho nên tất cả những cái sự này phải cẩn thận, kỹ lưỡng, rất kỹ lưỡng. Vì chúng ta cẩn thận, kỹ lưỡng này nó chỉ có bảy ngày, bảy tháng, bảy năm thôi, nó không có lâu đâu.
Sau khi mà tu chứng rồi thì tự nó nó thành thói quen rồi, thì lúc bấy giờ không nhắc nó nó vẫn định. Nghĩa là người ta ngó qua, ngó lại nhưng tâm người ta không bao giờ mà nó không định. Còn trái lại, mình bây giờ ngó qua ngó lại là dính mắc hết. Nhưng mà sự thật ra, cái người mà tâm đã định thì không bao giờ họ ngó qua ngó lại. Chứ không phải nói người tu rồi muốn ngó qua ngó lại đâu. Tại vì cái bản chất của họ tu nó đã quen rồi, thì khi đi ra là họ nhìn xuống, họ ngồi tại chỗ là họ đã quan sát ở thân của họ rồi, họ không bao giờ có lưu ý bên ngoài chút nào đâu.
Thí dụ như bây giờ Thầy đang nói chuyện với các sư, với quý thầy thì cái tâm nó theo tư tưởng của Thầy phóng ra. Nhưng mà khi quý thầy, quý sư về thì tâm của Thầy quay vô nó ở trên Thân, Thọ, Tâm, Pháp của nó, nó định trên hơi thở, biết hơi thở ra vô, nó không nghĩ gì bên ngoài. Con chim kêu, nó nghe nó không lưu ý chim kêu đâu, nó chỉ biết hơi thở thôi, gọi là tâm định. Đó là cái chỗ người ta thuần thục.
(01:25:30) Còn quý thầy bây giờ đang tập luyện là quý thầy chỉ sống được phút nào mà nó yên tịnh, lúc nào nó định trên hơi thở của quý thầy, thì quý thầy cứ để tự nhiên cho nó định, đừng có làm động nó. Nếu nó có cái niệm gì xảy ra thì quán xét đẩy lui nó mà thôi, còn không có thì cứ để tự nhiên nó đi. Nhưng mà phải phòng hộ, tránh mình đi xa khỏi thất mình, tránh mình phải đi tới chỗ này chỗ kia. Vì tới chỗ này chỗ kia, thì mắt với tai mình của mình nó dễ tiếp nhận các pháp, nó làm cho tâm mình phóng theo. Cho nên vì vậy mà phòng hộ nó, cố gắng giữ gìn, luôn luôn lúc nào mình cũng cố giữ gìn như vậy, tức là mình phòng hộ Thân, Thọ, Tâm, Pháp của mình. Giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng của mình, tức là mình tạo duyên cho tâm đừng phóng dật, tức là ly dục, ly ác pháp. Đó là những cái mình tu đúng.
Đó thì hôm nay, Thầy giảng tới đây để rồi chúng ta thấy được những cái gì mà chúng ta còn sơ sót, mà còn sơ sót thì theo Thầy thiết nghĩ, về kiểm điểm lại những sơ sót đó mà chúng ta xả bỏ, mà chúng ta từ đây về sau tu cho đúng. Để càng ngày cái sự kết quả, cái sự giải thoát càng thấy rõ ràng hơn. Thấy rõ ràng hơn thì chúng ta sẽ thấy được những danh từ mà Thầy đã dùng “Thanh thản, an lạc và vô sự”. Thanh thản là tâm chúng ta thanh thản, an lạc là cái thân an lạc, còn vô sự là hoàn toàn thân và tâm đều vô sự. Đó là một cái vấn đề.
Vì vậy mà Thầy xin nhắc lại, chúng ta ít đi kinh hành là khi chúng ta ít hôn trầm. Còn chúng ta bị hôn trầm nhiều là chúng ta nên đi kinh hành nhiều, để cho nó không có hôn trầm. Và đồng thời, nếu mà trong cái sự tu tập của chúng ta thì cố gắng phòng hộ, không nên đi xa thất mình nhiều. Vì đi xa thất mình nhiều, tâm nó sẽ bị phóng dật, cho nên mình đi vòng vòng cái thất mình là tốt nhất. Đó là cách thức mình phòng hộ.
Mình đi cái vòng rộng thì khi mà đi thì luôn luôn lúc nào mình cũng nhìn xuống, đừng ngó qua, ngó lại để phòng hộ mắt, tai của mình. Như vậy thì mình mới có thanh tịnh được tâm của mình. Còn nếu mà mình đi ra để mà cho vui, bởi vì ngồi trong thất của mình nó cô đơn, mình đi ra ngó qua, ngó lại, ngó cây, ngó cỏ, ngó người này, người kia nó cũng bớt cô đơn tức là mình bị phóng dật. Nó làm cho mình giảm bớt cô đơn tức là giảm bớt sự sống lại cho mình.
Người ta nói sống cô đơn, sống độc cư có nghĩa là sống cho mình chứ không phải sống cho cái vật khác, người khác nữa. Còn mình thấy cô đơn quá, mình ra cho vui vẻ một chút. Sự vui vẻ đó tức là làm cho chúng ta phóng dật, nó không còn sống cho mình nữa mà sống cho mọi vật, sống cho sự việc ở bên ngoài. Cho nên ở đây mình tu đúng là mình thấy nó phải cụ thể, rõ ràng. Mình tu sai thì mình cũng thấy nó rõ ràng. Vì vậy khi mà hôm nay Thầy nhắc nhở để mình biết cái sai và cái đúng của mình để sửa lại.
Bây giờ, quý thầy, ai có hỏi gì thêm trên con đường tu tập thì hỏi Thầy thì Thầy sẽ chỉ dạy thêm, còn không có thì thôi, chúng ta sẽ nghỉ.
(01:28:44) Bây giờ Thầy xin nhắc lại một lần nữa. Thứ nhất, là chúng ta phải giữ gìn giới luật, đọc lại bộ Một Trăm Giới Chúng Học. Tuy rằng nó là Giới khinh nhưng mà nó là Giới đức của chúng ta dạy từ đức hạnh vệ sinh, giao thông, từ cái ăn cái mặc của chúng ta. Thì nếu mà ai chưa có Thầy sẽ gửi cho, để rồi mình đọc lại cho kỹ Một Trăm Giới Chúng Học đó. Còn Một Trăm Bốn Mươi Tám Giới Thánh, lần lượt Thầy sẽ soạn thảo, Thầy sẽ in rồi sẽ cho. Còn bây giờ, Thầy chưa có làm công việc này được. Cho nên vì vậy đọc lại những bộ giới để giữ gìn cho đúng cách, đừng có phạm giới mà sự tu tập của chúng ta không đi đến đâu.
Cho nên ở đây chúng ta biết rằng các bậc A-la-hán trong thời đức Phật thì do giới luật mà sinh ra. Từ đó, bây giờ chúng ta muốn đi vào để trở thành những bậc A-la-hán thì chúng ta cũng phải lấy giới mà sống cho đúng. Để rồi từ giới mới nó mới sinh ra chúng ta được, mà từ giới nó đưa đến cho chúng ta có sự giải thoát, tức là ly dục, ly ác pháp, trở thành tâm bất động.
Vậy thì chúng ta biết được mục đích của giới, nó sẽ giúp chúng ta sẽ đi vào con đường thiền định và khai triển được trí tuệ Tam Minh. Vậy thì nó rất quan trọng, và quan trọng như vậy thì ngay từ bây giờ, chúng ta phải học và đọc kỹ tất cả những cái giới luật này. Nếu mà ai chưa có những Giới bổn, Hai Trăm Năm Chục Giới Tỳ Kheo thì Thầy sẽ gửi cho tập một Thầy có. Trong đó có viết một số giới, thì chúng ta đọc Giới bổn đi, để rồi chúng ta hiểu những lời cấm của Phật, còn cái nghĩa lý của nó thì sau này Thầy sẽ giảng. Còn bây giờ, chúng ta chẳng hiểu giới luật gì hết, nhiều khi chúng ta có những vi phạm, chúng ta phải nghiên cứu kỹ những bộ giới luật.
Đó thì hôm nay, người nào không có thì buổi chiều nay hay lúc trưa cần thì đến xin Thầy, Thầy sẽ cho mỗi người một tập để mà nghiên cứu về giới luật của Phật.
(01:31:09) Còn về cái Giới Đức Làm Người, thì Thầy đã có soạn, bây giờ mới in được có tập hai, còn tập một thì chưa có. Cho nên nếu mà cô Út có tiền cô sẽ in được tập một, Thầy sẽ cho mỗi vị một bộ Giới Đức Làm Người, tức là Một Trăm Giới Chúng Học để chúng ta nghiên cứu kỹ.
Và sau này có dịp nhuận lại thì chắc chắn là Thầy nhuận lại thì nó sẽ hoàn toàn hơn, ý nghĩa đầy đủ hơn. Bởi vì trong lúc soạn thảo bộ Giới Đức Làm Người, do đầu tiên Thầy viết ra thôi, đưa người đánh máy, họ đánh trên vi tính rồi in ra nên còn những cái lỗi rất nhiều, chưa được biên tập trở lại.
Khi biên tập trở lại, nó có phần thiếu Thầy sẽ thêm và cái phần thừa Thầy sẽ bỏ lại, cho nên vì vậy mới hoàn chỉnh bộ sách. Nhưng vì giai đoạn đó quá vội vàng cho nên Thầy phải cho ra sớm mà thôi. Cho nên trong bộ sách Đường Về Xứ Phật, như quý sư, quý thầy đã biết rằng, trước kia chúng ta đọc từ tập một, hai, ba hay bảy đã có in ra rồi, nhưng vì nó quá vội vàng mà Thầy chỉ soạn thảo trên bản thảo, rồi do các cháu đánh, in ra cho nên vì vậy mà nó chưa có hoàn chỉnh.
HẾT BĂNG
GIỚI LUẬT ĐỨC HẠNH - ĐƯỜNG ĐI ĐẾN GIẢI THOÁT CỦA ĐẠO PHẬT
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian:
Thời lượng: [01:05:29]
Nghe pháp âm: https://youtu.be/kHYysBDEbhw
https://thuvienchonnhu.net/phap-am/gioi-luat-duc-hanh-duong-di-den-giai-thoat-cua-dao-phat
https://thuvienchonnhu.net/audios/gioi-luat-duc-hanh-duong-di-den-giai-thoat-cua-dao-phat.mp3
Tên cũ: Thầy trả lời những đánh giá của thầy Chân Quang
(00:00) Trưởng lão: …giác đâu. Cho nên mình đừng có sống ảo, mình niệm Phật để cầu vãng sanh, không được đâu! Điều đó chắc chắn là không ai dám rước mình đâu.
Còn nếu mà mình sống đạo đức hẳn hoi thì bây giờ ông Phật Di Đà ông đến thỉnh mình, mình cũng không muốn đi nữa nhưng mà mình vẫn ở trong Cực Lạc rồi. Mình không cần về nước ông, mình vẫn ở trong Cực Lạc rồi. Bởi vì nó là thiện pháp, không làm khổ mình khổ người thì nó là Cực Lạc rồi, nó là an vui rồi chớ còn đi đâu nữa mà đòi?
Thì đó là một cái thực tế cụ thể. Cho nên chúng ta sống đúng, sống đúng tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự thì đó là Cực Lạc, đó là Niết Bàn, đó là thiên đàng rồi.
Cho nên Đức Phật nói tâm ly dục, ly ác pháp thì chúng ta nhập Sơ Thiền do ly dục sinh hỷ lạc, nhưng chúng ta còn ở trong năm chi thiền của nó: Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Nhất Tâm, thì nó còn năm chi, tức là chúng ta sẽ ở Sơ Thiền Thiên. Còn nếu bây giờ chúng ta xả năm chi thiền này ra thì chúng ta ở trong tâm trạng bất động, thì đó là Niết Bàn - Bất Động Tâm Định, phải không?
Lúc bấy giờ chúng ta có cần tu gì nữa đâu, đâu có gì đâu? Nội ly dục, ly ác pháp không là đủ. Mà ly dục, ly ác pháp là đạo đức không làm khổ mình, khổ người, là giới luật của Phật chứ gì? Cho nên hồi nãy Thầy nói, Đức Phật nói: "Ta nói giới luật là nói tâm ly dục, ly ác pháp". Người nào sống đúng giới luật là ly dục, ly ác pháp, mà sống không đúng thì không ly dục, ly ác pháp.
Nhưng mà muốn sống giới luật không có nghĩa là ức chế thân tâm, phải không? Vì vậy mà phải có pháp hành tu, vì vậy mà pháp hành thì chúng ta phải tu như thế nào? Tứ Chánh Cần: ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện, phải không?
Rồi bây giờ chúng ta muốn quét sạch những cái vi tế ở trên thân - thọ - tâm - pháp của chúng ta, là cái thân tứ đại, là cái thân Ngũ Uẩn của chúng ta. Thì thân Ngũ Uẩn của chúng ta nó có bốn chỗ thân, thọ, tâm và pháp. Cho nên vì vậy mà Đức Phật dạy chúng ta Tứ Niệm Xứ, trên bốn cái chỗ này mà chúng ta quan sát để đẩy lui chướng ngại pháp trên đó, thì toàn bộ thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta thanh tịnh. Thì thanh tịnh tức là tâm đã không phóng dật, mà không phóng dật tức là ly dục, ly ác pháp hoàn toàn. Các con thấy!
Giai đoạn đầu chúng ta tu cái gì? Tu Tứ Chánh Cần. Giai đoạn kế, khi mà tới cái giai đoạn mà chúng ta vi tế thì chúng ta không thể nào mà còn cái thô nữa, cho nên pháp Tứ Chánh Cần mà chúng ta dừng lại, mà chuyên qua cái tu Tứ Niệm Xứ để chúng ta quét sạch những cái vi tế ở trên thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta.
Vậy thì Tứ Chánh Cần chúng ta sống như cái cư sĩ đang sống như thế này, đang chung đụng với mọi người này, thì chúng ta luôn luôn lúc nào cũng phải tu Tứ Chánh Cần, ngăn ác, diệt ác pháp, làm cho cái đời sống của chúng ta tràn đầy cái đạo đức không làm khổ mình, khổ người.
(02:33) Còn bây giờ tới cái chiếc áo tu sĩ của Thầy, bây giờ vào thất nè, nó không có ai động mình hết nè, vì vậy cho nên ngồi đây mà quét thân tâm của chúng ta.
Như ông Châu Lợi Bàn Đặc, khi mà ông học bài kệ không thuộc thì ông anh ông mới đuổi ông đi, thì ông mới ngồi ông khóc. Không cho ông tu nữa, nói: "Mày mày ngu quá! Mày dốt quá! Mày học một bài kệ có mấy câu mà đọc hoài không thuộc thì nghỉ đi. Mày đi về đi chớ mày ở đó mày tu cái gì?".
Nhưng mà ông ham tu, ông ngồi ông khóc. Đức Phật đi ngang mới nghe ông khóc, mới hỏi ông. Ông mới trình bày, Đức Phật nói: "Được! Ta sẽ dạy con". Đức Phật dạy như thế nào? Ông chỉ cần ở trong thất, ông sống độc cư thôi, ông ngồi, ông quét cái tâm ông cho sạch thôi, thì ông tu Tứ Niệm Xứ đó mấy con. Sau thời gian tu Tứ Niệm Xứ thì ông thực hiện, ông chứng quả A La Hán, đầy đủ thần thông, đầy đủ Tam Minh. Đâu có cái gì khó khăn đâu?
Cho nên trong cái giai đoạn đầu, chúng ta tu Tứ Chánh Cần ngăn ác, diệt ác pháp. Cuối cùng thì chúng ta vào trong Tu viện, chúng ta ở trong một cái ngôi thất, chúng ta sống độc cư trầm lặng. Rồi chúng ta quét sạch những cái vi tế ở trên thân - thọ - tâm - pháp chúng ta.
Thì lúc bấy giờ tâm hoàn toàn nó sung mãn, nó ly dục, ly ác pháp rồi, thì bắt đầu bây giờ chúng ta còn cái gì nữa? Định! Thì Thiền Định quá dễ, Đức Phật nói không có khó khăn, không có một mệt nhọc, mình chỉ dùng Định Như Ý Túc, mình muốn như thế nào nó sẽ làm như thế nấy.
Khi mà cái tâm thanh tịnh, nó không còn tham, sân, si rồi, thì mình bảo: "Diệt Tầm, Tứ đi, nhập Nhị Thiền đi!" Ngay liền nó diệt Tầm, Tứ liền, nó nhập Nhị Thiền. Ai diệt? Tâm thanh tịnh chúng ta diệt, chớ không thể nào chúng ta ngồi đó mà chúng diệt cái lỗ tai chúng ta được, diệt con mắt chúng ta được, diệt cái ý chúng ta được đâu!
(04:11) Ở đây, chúng ta ngồi đây, chúng ta nghĩ rằng không có khởi niệm, giữ cho nó đừng khởi niệm là diệt nó sao? Đâu có diệt nó được đâu. Cho nên vì vậy mà chúng ta chỉ cần, Dục Như Ý Túc mà, mình muốn chớ gì? Mình muốn tức là cái lệnh của mình chứ gì? À, muốn: “Tầm, Tứ phải diệt đi, nhập Nhị Thiền đi!”, thì ngay đó tự nó nó diệt.
Cái tâm thanh tịnh nó làm, nó có cái năng lực, nó làm cho cái ý thức của chúng ta ngưng hoạt động, cái nhãn thức của chúng ta ngưng hoạt động, cái nhĩ thức của chúng ta ngưng hoạt động. Trời sét không nghe mà!
Các con, các Phật tử có nghe trong kinh Phật nói, khi Đức Phật ngồi nhập định mà trời cách đó hai trăm thước, mà trời sét chết bốn con bò, mà tiếng sét Đức Phật không nghe. Thì bởi vì cái nhĩ căn, là cái phần lỗ tai mà nó không có hoạt động, mà nó không hoạt động thì có giống như người điếc không mấy con? Như vậy làm sao nó nghe được cái âm thanh, dù là âm thanh rất lớn, bởi vì, nó điếc rồi, nó không hoạt động mà!
Còn ở đây chúng ta không phải người điếc nhưng mà vì cái định đó, nó làm cho cái nhĩ căn của chúng ta, cái phần, cái lỗ tai của chúng ta, nó không có hoạt động nữa, cho nên chúng ta không nghe. Nhưng mà không nghe mà chúng ta vẫn tỉnh bơ, chúng ta vẫn biết như thường chớ đâu phải mất đâu! Nhưng mà nguy hiểm lắm các con, cái biết này như là cái biết trong giấc mộng của các con đó!
Cho nên khi mà nhập Tứ Thiền là chúng ta đã rơi vào cái thế giới tưởng. Vì vậy mà Đức Phật, bước vào cái chỗ này thì Đức Phật bảo phải ly hỷ tất cả, tất cả những cái trạng thái hỷ tưởng, mười tám cái loại hỷ tưởng phải xả ra hết. Lúc bấy giờ phải xả cho sạch, mà xả sạch thì mới nhập được Tam Thiền. Cho nên Đức Phật nói: “Ly hỷ, trú xả nhập Tam Thiền”, có đúng không?
Còn chúng ta vô cái Nhị Thiền nghe hỷ lạc, tưởng là nó là định sanh hỷ lạc, không ngờ là cái đó là cái trạng thái của xúc tưởng hỷ lạc, nó sanh ra, nó do các tưởng mà sanh ra cái dục, nó làm cho chúng ta thích thú ở trong cái định đó. Nhưng chúng ta lầm, chúng ta bị lầm rồi, ngay đó là chúng ta cố gắng, chúng ta xả ra cho hết.
(06:00) Và nếu mà chúng ta không có cái pháp Như Lý Tác Ý thì chúng ta biết cái gì chúng ta xả? Mà không biết xả thì tức là chúng ta bị rơi vào trong cái thế giới ma chứ không phải là thế giới của tâm thanh tịnh.
Cho nên khi mà chúng ta muốn nhập Tứ Thiền, thì sau khi mà chúng ta đã dừng hết tất cả những cái trạng thái tưởng, coi như cái người không còn chiêm bao. Mà không còn chiêm bao thì lúc bấy giờ chúng ta nhập Tứ Thiền mới được, chúng ta tịnh chỉ hơi thở, tức chúng ta ra lệnh nó: "Hơi thở phải tịnh chỉ! Ngưng! Nhập Tứ Thiền!". Thì ngay đó nó sẽ ra lệnh, theo cái lệnh truyền của chúng ta thì hơi thở tuần tự nó sẽ dừng lại.
Nhưng mà dừng lại là lúc bấy giờ thân tâm chúng ta sẽ như thế nào? Sống một đời sống quá thanh tịnh của giới luật, cho nên nó dừng lại mà chúng ta không chết. Còn như cái cơ thể của quý vị bây giờ mà nó ngừng ngay lại là quý vị chết liền tức khắc. Bởi vì cái cơ thể của mình nó tiếp xúc những cái ô nhiễm, cái ô trược, cái tâm của mình nó còn tham, sân, si, nó còn nặng chịch ở trong cái đau khổ, cái ác pháp, mà bảo nó dừng là các vị phải chịu chết thôi chớ không gì.
Cho nên nhiều khi các nhà Yoga họ tập luyện, họ chưa có hẳn hoàn toàn là họ ly dục, ly ác pháp, mà họ dừng được hơi thở, tại sao vậy? Họ phải tưởng ra, họ thở trán nè, họ thở chân lông nè. Họ thở được bằng cái sức tưởng của họ, bởi vì cái năng lực của tưởng nó cũng siêu việt vô cùng, nhưng nó tưởng, nó không có thật.
Cho nên chúng ta luyện tập bằng cái tưởng thì nó không có đưa chúng ta đi đến kết quả cuối cùng là chấm dứt sự sanh tử luân hồi đâu. Tại sao vậy? Tại vì trong cái thời Đức Phật, kinh sách có nói, ngoại đạo nó chỉ được Ngũ Thông chớ nó không có được Lục Thông.
Bởi vì cái Lậu Tận Thông nó không có cho nên nó còn phải tiếp tục tái sanh thôi, không thể nào mà. Còn trái lại, một cái người tu ly dục, ly ác pháp hoàn toàn, tâm thanh tịnh, thì nó sẽ diệt hết lậu hoặc của nó. Diệt hết lậu hoặc thì nó phải có Lậu Tận Thông.
Đó là con đường đúng của đạo Phật như vậy. Tự nó nó đi vào định, tự nó nó đưa tâm nó đi đến Tam Minh, chớ không thể nào mà chúng ta dùng cách này cách khác mà chúng ta đưa đi được. Cho nên chúng ta tu đúng thì chúng ta sẽ có giải thoát, mà tu không đúng thì không giải thoát.
(08:01) Cho nên hôm nay từ cái chiếc áo cư sĩ của các Phật tử phải tập thọ Bát Quan Trai, đừng có vội mà xuất gia tu hành. Nhiều khi xuất gia tu hành, chúng ta thọ nào Tỳ Kheo Giới, nào là thọ Thập Giới Sa Di, tất cả những cái giới này đâu phải dễ, đâu có dễ đâu!
Bây giờ thí dụ như thọ giới Sa Di thôi, thì cái giới cấm chúng ta không ăn phi thời, ăn ngày một bữa. Thế mà ông thầy nào cũng ăn ba, bốn bữa thì thử nghĩ như thế nó có đúng không? Đâu có đúng. Như vậy là làm sao gọi là Phật giáo sống được?
Thấy ông thầy đã ăn uống sai, ngủ nghỉ sai, ông thầy thì đi chân trần, đi bộ, mà thấy ông thầy có xe hơi riêng, rồi lại có xe cúp, xe Honda chạy tùm lum ngoài đường, mà chạy lạng nữa chớ, chạy không có kể luật giao thông nữa! Rồi lại có nhiều ông thầy lại đèo thêm một cô Phật tử, lại có nhiều ông thầy đèo thêm một cô Ni ở sau lưng nữa!
Thì thử hỏi còn cái nghĩa lý gì của đạo Phật không? Tu như vậy giới luật cái chỗ nào? Làm sao gọi là ly dục, ly ác pháp? Đó là những cái đau lòng nhất của Phật giáo. Đó những điều kiện mà để chúng ta xác định rằng Phật giáo đang suy đồi, chớ không phải đang hưng thịnh đâu.
Mặc dù bây giờ có hàng vạn tu sĩ tu, có bao nhiêu trường cao đẳng Phật học mở ra để cho tu sĩ đào tạo những cái nhân tài học thức đó, hàng lớp như vậy, nhưng mà đây là đào tạo những cái lớp danh lợi, chớ không phải là đào tạo cái sự giải thoát thật sự.
Cái số tu sĩ này quá đông thì cái gánh nặng này cho ai? Cho các cư sĩ. Các vị phải mần nuôi, các vị phải đem cúng dường, mỗi lần trai tăng thì các vị phải đóng góp từng đồng, từng cắc để cho họ có trai tăng, họ ăn, họ sống. Rồi họ chia cái của cải của quý vị, trên mồ hôi, nước mắt của quý vị, chứ quý vị ăn cướp của người ta được sao?
Cho nên quý vị phải thấy rằng giới luật còn là đạo Phật còn mà giới luật mất là đạo Phật mất. Chúng ta không nên nối giáo cho những người này, họ sống một cách phè phỡn bằng bằng mồ hôi nước mắt của mình.
Quý vị nghĩ rằng cứ người nào làm (là) tội họ, sự thật ra tội họ thì có đó chớ không phải không đâu, họ không tránh được cái nhân quả đó đâu, nhưng quý vị đã làm một cái điều để đưa đi đến bao nhiêu cái sự sai, làm khổ cho bao nhiêu người, làm hư hoại Phật giáo, thì quý vị cũng chịu trách nhiệm chớ?
(10:17) Cũng chịu trách nhiệm ở trong, thí dụ bây giờ có một người ngoại quốc họ vào đất nước Việt Nam, thấy toàn bộ là ăn mày không, thì họ chê đất nước này chứ gì? Nhưng mà quý vị không có đụng đâu mà cho ăn mày giữa đường như vậy, thành ra đâu có ai mà còn đi xin? Cho nên những người ăn mày được tập trung vào vào một cái cơ sở nào đó, chúng ta sẽ bỏ ra đóng góp nuôi những người ăn mày đó có nơi có chỗ chớ không phải đi rải rác như vậy. Rải rác như vậy là sai.
Cũng như quý vị bây giờ, quý vị cứ nuôi mấy ông thầy mà phá giới luật, phạm giới luật như vậy, quý vị tưởng như vậy là Phật pháp còn! Hoặc là quý vị bỏ hàng tỷ bạc, quý vị cất những cái chùa đẹp như vậy, có đúng Phật giáo không? Không đúng đâu. Quý vị làm cái cảnh tham quan cho quý vị, nhưng mà quý vị quên rằng Phật giáo không phải là cái hình ảnh đó!
Cho nên hình ảnh của Phật giáo là phải ba y, một bát, sống không chùa, không nhà cửa mà! Người ta sống du tăng khất sĩ, nay đây mai đó, người ta không dính mắc cái gì hết mà.
Rồi quý vị bây giờ cất chùa cho tốt để rồi ở ông thầy giam mình ở trong đó để mà phục vụ cho quý vị cúng bái, cầu an, cầu siêu, xin xăm, bói quẻ, coi ngày giờ tốt xấu, như vậy quý vị thỏa mãn lắm sao? Quý vị đã làm hư Phật pháp hết rồi.
Cho nên tu phải tu đúng. Chùa là để nơi cho quý vị đến đó Thọ Bát Quan Trai, tập một ngày làm Phật, làm Thánh Tăng, chớ đâu phải là chùa để cho quý vị đến đó mà tham quan. Cho nên tất cả những gì mà Thầy nói là những gì muốn xây dựng lại cái tốt, là cái gì muốn đem lại cho quý vị thực hiện được một ngày làm Phật, một ngày được giải thoát.
Chớ không phải ở đây lý luận nói thế này, nói thế khác để rồi rốt cuộc rồi thầy tu sĩ cũng chẳng ra tu sĩ, mà cư sĩ cũng chẳng ra cư sĩ. Đâu ra đó hẳn hòi, cư sĩ phải hộ trì Phật pháp, hộ trì đúng pháp, chứ không thể hộ trì bằng cách không đúng.
(12:07) Cho nên Thầy nói thật sự, được nghe lời Thầy nói là một điều may mắn cho quý Phật tử.
Nhưng quý Phật tử vì có những cái sự kiến chấp cho Thầy quá cố chấp, quá cố chấp, quá lỗi thời, không hợp thời đại này. Thật sự ra cái gì mà của Đức Phật ngày xưa để lại thì ngày hôm nay mà chúng ta áp dụng, là đem lại hạnh phúc cho con người chớ không phải lỗi thời. Nếu mà chạy theo thời thì con người này sẽ, loài người ở trên hành tinh này sẽ không còn một cái chỗ nào bám để mà giải thoát.
Cho nên thường thường là người ta nghĩ rằng Thầy chấp giới, Thầy chấp cái này, Thầy chấp cái kia, cho nên vì vậy nó lỗi thời, không hợp. Bây giờ, vật chất, tiền của, xe cộ, tất cả mọi cái tiện nghi như vậy mà Thầy còn ôm bát, Thầy đi bộ, Thầy đi xin như vậy thì nó lỗi thời quá! Ăn uống, vật chất bây giờ đầy đủ, ngày xưa thì không đầy đủ, mà bây giờ Thầy còn chấp chặt vào những điều đó!
Ở đây, Thầy tư duy, Thầy suy nghĩ, cái nào giải thoát, cái nào không giải thoát? Cái nào mà đưa đến dục lạc, mà cái nào không đưa đến dục lạc? Cái chỗ này là cái chỗ quan trọng cho mình tư duy, vì vậy mình phải thực hiện đúng cái đời sống của một vị tu sĩ, của một người cư sĩ ủng hộ hay là bảo trì Phật pháp.
Thật sự ra Phật pháp còn là do những bàn tay của người cư sĩ, còn tu sĩ chỉ có nhiệm vụ tu và thực hành đúng những cái Phạm Hạnh để thực hiện được cái gương hạnh để cho người cư sĩ người ta nương theo, đừng có nên sa ngã chạy theo dục lạc, chạy theo ác pháp, chạy theo ham muốn mà làm cho người cư sĩ đau lòng.
(13:43) Hôm nay Thầy nói để cho chúng ta thấy. Nhưng mà bây giờ chúng ta trở lại vị trí, chúng ta hôm nay tu hành, là trước tiên là chúng ta phải học đạo đức của đạo Phật, đạo đức không làm khổ mình, khổ người, đạo đức nhân bản, đạo đức nhân quả. Đó là điều đem lại lợi ích cho quý vị. Sống trong nhà đối xử với nhau, chúng ta hoàn toàn đưa cái gia đình của chúng ta đến sự an vui, hạnh phúc.
(14:09) Cũng như như bây giờ mình muốn tu mà vợ con không cho đi, nhất định là chúng ta không được đi. Tại sao vậy? Tại vì mình đi vợ con mình khổ, cho nên mình không đi, mà mình không đi không có nghĩa là mình không tu.
Bởi vì đạo Phật dạy chúng ta nhẫn nhục mà tùy thuận, nhẫn nhục trước sự không bằng lòng của vợ con. Nhưng chúng ta tùy thuận nhưng không bị lôi cuốn vào con đường của vợ con. Đó là cái khéo léo để mà đưa dẫn cả gia đình.
Cả gia đình chúng ta là một cái cụm nhân quả, con cái, vợ con của chúng ta đều là một cái cụm nhân quả, chúng ta không thể bỏ đi để cho vợ con bơ vơ như thế này được. Cho nên chúng ta phải sống lại trong gia đình, nhưng chúng ta phải làm những cái gương hạnh gì để dẫn dắt vợ con mình đi trên gương hạnh đó. Gương hạnh đạo đức của đạo Phật nó hẳn hòi để giúp cho gia đình mình an vui, vợ con đồng hướng trên một hướng tốt.
Để đồng thời cuối cùng duyên nó đủ, chúng ta ra đi, vợ con rất sung sướng, là vì mong cầu cho người chồng của mình, người cha của mình thực hiện được đạo giải thoát để về dẫn dắt mình đi trên con đường đó thì hạnh phúc biết bao! Vậy thì mình phải sống như thế nào để mà đúng trong cái đạo đức của gia đình!
Rồi không những như vậy mà cả cái xóm riềng xung quanh mình, mình sống như thế nào, để mà mình dẫn dắt những người xung quanh cái xóm riềng của mình?
Thì như vậy bây giờ cái nhà kia họ ở gần trước nhà mình, quét rác rến này kia, hay hoặc họ nuôi con chó, họ cứ dẫn qua ỉa trước nhà mình. Mà mình xách chổi ra mình quét rồi mình chửi mắng hay mình la lối. Thì như vậy có đúng không? Không đúng đạo đức đâu.
Người ta đã vô minh, người ta đã không hiểu, người ta cứ nghĩ đến cá nhân người ta sạch sẽ, còn nhà ai dơ mặc họ thì tốt hơn mình cứ vui vẻ hốt: "À đây là cái nhân quả đời trước của mình, mình có nợ người này, người này mới xả rác cho nhà mình như vậy, mới dẫn chó ỉa trước nhà mình như vậy. Mình cứ hốt đi, vui vẻ làm đi!"
Mình làm đi, làm cho cái người đó họ ngạc nhiên: "Tại sao ông này, bà này, cái nhà ở như vậy mà không tức giận mình? Cỡ mà người ta đùa rác, đùa chất bẩn vô nhà mình, mình có giận không? Tại sao ông… ?"
(16:10) Sớm muộn rồi rồi người ta cũng ý thức được điều đó, chứ không phải không. Nhưng mà bền chí, khi mà cái nhân quả của mình tạo những cái thiện đó, thì tới cái mức mà nó hết cái nhân quả đó rồi thì người ta sẽ hối hận liền tức khắc, người ta đến, người ta xin lỗi mình. Bởi vì nhân quả nó có cái tầm vóc chuyển, chớ không phải nhân quả là cố định.
Thí dụ bây giờ, thấy người ta cứ đổ rác, người ta làm cho dơ bẩn nhà mình mà mình tức giận thì tức là mình bị nhân quả chuyển. Còn mình chuyển nhân quả thì mình không tức giận, do đó mình trả hết cái nhân quả này. Thì cái nhân quả này trả hết thì người ta sẽ không bao giờ người ta làm dơ bẩn trong nhà mình nữa.
Mình phải thấy nhân quả là cái luật chuyển biến để làm cho cái cuộc sống nó trở thành yên ổn, nó trở thành thanh tịnh với nhau, nó không còn cái động với nhau nữa. Đó là cái chỗ tu tập của đạo Phật.
Tu tập của đạo Phật đâu có nghĩa là dạy chúng ta vào chùa tụng kinh, gõ mõ? Lạy sám hối mà chư Phật phù hộ chúng ta được sao? Chúng ta làm lỗi thì chúng ta biết cái đó là ác pháp thì chúng ta ngăn ngừa, chúng ta không làm nữa, thì cái này là tự mình rồi. Cho nên Đức Phật bảo mình tự thắp đuốc lên mà đi!
Bây giờ mình không thắp đuốc, mà mình vô chùa, mình tụng kinh mình cầu chư Phật phù hộ mình được sao? Tại sao mình đi ngược lại cái lời dạy của Đức Phật mà mình bảo rằng mình theo Phật giáo? Cái đó là cái sai.
Cho nên chúng ta phải tự lực, mỗi mỗi ác pháp đến làm cho tâm chúng ta chướng ngại, thì ngay đó chúng ta xả cái tâm chướng ngại và chuyển những cái điều kiện mà chúng ta làm, để rồi chúng ta chuyển được cái nhân quả.
Ví dụ bây giờ người ta đưa rác vào nhà mình, mà mình cứ vui vẻ mình hốt mà mình không gì hết, tức là mình chuyển được cái tâm của mình đầu tiên. Cái thứ hai nữa, mình nhìn thấu suốt được nhân quả: Tôi sẽ hốt rác này cho đến khi mà tôi trả hết cái nghiệp này, thì chắc chắn tôi sẽ cảm hóa được cái người mà làm dơ nhà tôi.
Mà tui cảm hóa được người này, họ đã hiểu biết, họ đã hối hận được cái việc làm họ sai, thì đó là cái hành động tui, tui đã làm cho họ, cảm hóa được họ thì tui đã rất mừng là vì tui đã dẫn họ vào con đường thiện nghiệp tốt.
Tui bền chí tui làm cái này, một tháng chưa xong, hai tháng chưa xong, một năm, hai năm chưa xong, ba năm chắc chắn là tui sẽ cảm hóa được người này bằng cái hành động vui vẻ của tui, bằng cái hành động tui không giận hờn người này. Thì như vậy rõ ràng là chúng ta ngăn ác và diệt ác chớ. Đó là cách thức tu của chúng ta.
(18:07) Cho nên trên cái bước đường tu của chúng ta, chúng ta thấy học được cái pháp Phật là ngay đó là chúng ta có giải thoát.
Thay vì người ta chửi mình, mình giận, tức là mình đã đem lại ác pháp vào trong tâm của mình, mình làm khổ mình, có lợi ích gì đâu? Mà người ta chửi mình, mình không giận, thì mình không giận tức là mình không gieo một cái nhân ác pháp rồi. Mình không chửi lại họ, không giận thì còn làm gì mà chửi? Mình có giận, mình mới chửi người ta được chớ! Nhưng mà mình đã ngăn được cái ác pháp, cái nhân ác của mình rồi.
Rồi bắt đầu mình xả được cái nghiệp của mình rồi, trong khi người ta chửi mà không giận, thì đó là mình đã chuyển được cái quả khổ của mình rồi chớ gì! Từ đời nào mình đã gieo cái quả này, là cái duyên nhân quả thì cuộc đời mình có giải thoát không?
(18:45) Bây giờ cái thân của Thầy nè, bay giờ nó bệnh nè, là nhân quả chứ đâu phải là ngoài nhân quả mà có được cái bệnh này? Mà Thầy đã làm chủ được cái nhân quả nhỏ nhặt kia, mà Thầy đã làm chủ được cái tâm Thầy rồi, thì cái bệnh đau này Thầy làm chủ được không?
Thầy đã làm chủ được cái nhân quả kia rồi, bây giờ người ta chửi Thầy, Thầy không giận nè, phải không? Tức là Thầy làm chủ được nhân quả đó. Bây giờ tới cái thân Thầy đau nè, Thầy làm chủ được không? Chắc chắn Thầy làm chủ được cái tâm không sân nè, thì Thầy làm chủ được cái bệnh của Thầy, phải không?
Nhân quả chứ, ngoài nhân quả làm sao có cái chỗ này! Bởi vì thân Thầy là thân nhân quả cho nên nó phải có sanh có diệt chớ! Vì vậy mà nó phải có cái chết. Mà bây giờ Thầy làm chủ từng cái tâm của Thầy, Thầy làm chủ không sân nè, không tham nè, Thầy làm chủ được nó, nó mới không sân, không tham chớ. Còn nếu không làm chủ thì nó vẫn tham, sân, si như người ta chớ, đâu có làm sao khác được!
Cho nên khi mà Thầy làm chủ thì nó không sân rồi. Bây giờ, Thầy làm chủ không sân, thì tức là Thầy sẽ làm chủ không tham đó. Đó, Thầy sẽ làm chủ không bệnh đó. Bây giờ cái đầu Thầy nhức nè, Thầy nói "Cái thọ này vô thường, rời khỏi cái thân Thầy đi! Không có được đau nữa!", tự nó đi. Có phải cần uống thuốc không các con? Đâu có cần gì.
Cho nên Thầy sống, nay là Thầy bảy mươi mấy tuổi rồi mà Thầy vẫn bình thường, không có đau bệnh, không có gì hết. Tại vì nó có đau, Thầy đuổi nó đi, thành ra cái thân của Thầy đâu…
(20:25) Bây giờ, tới giờ Thầy chết, Thầy bảo "Hơi thở ngừng đi! Chết đi cho rồi, cái thân này sống chi cho già yếu, cực khổ vậy?" thì bắt đầu nó ngưng hơi thở, Thầy chết. Thì tại vì Thầy làm chủ được nhân quả mà.
Cho nên Đức Phật nói: "Thiên thượng thiên hạ - Duy ngã độc tôn - Nhất thiết thế gian - Sanh lão bệnh tử" : Trên trời dưới trời, ta là người duy nhất vượt qua sinh già bệnh chết! Tức là làm chủ được sanh, già, bệnh, chết.
Vậy thì người tu theo đạo Phật, vốn mục đích của chúng ta làm chủ được bốn cái khổ: sanh, già, bệnh, chết. Vậy thì nãy giờ Thầy nói cái chuyện mà chúng ta tu có phải ngồi thiền để làm chủ cái này không? Phải không?
Thầy chỉ dạy cho quý Phật tử là ngăn ác, diệt ác để rồi người ta chửi mình, mình không giận nè, thấy cái vật đó đẹp mà không ham nè, thì như vậy là Thầy đã làm chủ được cái tâm tham, sân, si tức là làm chủ được nhân quả. Có phải không?
Bây giờ làm chủ được nhân quả cho cuộc sống của mình rồi, của tâm mình rồi. Bây giờ làm chủ nhân quả cái thân nè, phải không? Bây giờ cái thân đau nè, nhức cái đầu nè, đau cái chân nè, đau cái bụng nè, phải không? Đã làm chủ được cái tâm rồi.
Còn bây giờ quý vị chưa làm chủ cái (tâm), quý vị làm chủ cái thân được không? Chác chắn không được! Quý vị bây giờ, quý vị nhắc cái đầu: đừng có nhức đầu một ngàn lần, nó cũng nhức nữa.
Còn bây giờ Thầy làm chủ được cái tâm Thầy rồi, người ta chửi Thầy không giận nè, người ta đem tiền bạc cho Thầy, Thầy không ham nè. Cái gì Thầy cũng không ham. Đem tiền cất chùa to cho Thầy, Thầy cũng không nhận nè. Cái gì Thầy cũng không ham hết à. Cho nên cái tâm của Thầy, cái tham, sân, si, nó hết rồi. Cho nên bây giờ Thầy làm chủ được cái bệnh. Tại vì cái tâm nó, Thầy làm chủ được rồi, phải không?
Bây giờ Thầy mới làm chủ được cái bệnh. Mà làm chủ được cái bệnh thì Thầy làm chủ được cái chết của Thầy chớ gì? Mà làm chủ được cái chết thì Thầy phải chấm dứt luân hồi của Thầy chớ. Phải không?
Cho nên vì vậy khi mà chúng ta đã tịnh được hơi thở rồi nhập được Tứ Thiền chứ gì? Cho nên Tứ Thiền thì chúng ta phải thực hiện Tam Minh chứ gì? Mà Tam Minh, Lậu Tận Minh thì cái lậu hoặc cuối cùng để đi tái sanh là nó ở trong Lậu Tận Minh.
Cho nên Thầy quét sạch cái lậu hoặc này thì do đó Thầy làm chủ được sự tái sanh luân hồi, chấm dứt luân hồi. Nó không còn cái nghiệp, cái nghiệp để đi tái sanh nữa.
(22:05) Đâu phải là cái thần thức, đâu phải linh hồn chúng ta đi tái sanh, mà là cái nghiệp, cái nghiệp do hành động thiện ác của chúng ta mà trở thành nghiệp.
Cái nghiệp như thế nào? Chúng ta uống rượu, nó sẽ quen đi với cái rượu, không có rượu thì nó làm cho cơ thể chúng ta khó chịu. Phải không? Chúng ta hút thuốc, nó quen đi, bây giờ không có hút thuốc nghe nó buồn, nghe nó làm sao khó chịu trong người mình, chỉ cần hút thuốc vô là thấy nó khỏe liền.
Đó là cái nghiệp, cái nghiệp nó dẫn dắt mình, nó lôi mình làm cho mình khổ sở. Cái nghiệp, do vì vậy mà khi mà chúng ta nhiễm cái gì, nó thành cái nghiệp đó.
Bây giờ, chúng ta lại làm chủ được cái nghiệp, tức là nó làm sao nó dẫn mình đi tái sanh được? Phải không? Nó còn tham, sân, si thì nó dẫn mình đi tái sanh. Còn bây giờ hàng ngày Thầy tu, tại sao Thầy tu mà Thầy lại làm chủ được cái nghiệp?
Tại vì Thầy, mới đầu Thầy không có cái tâm không tham, không sân si đâu. Nhưng mà hàng ngày Thầy nhắc: "Tâm không tham, sân, si nhen! Ly dục, ly ác pháp đi!". Phải không? Hay hoặc là Thầy nói: "Tâm như cục đất, ly tham, sân, si đi! Đừng có tham, sân, si! Tham, sân, si là ác pháp". Thầy nhắc nó như vậy. Nhưng mà ngày nào Thầy cũng huân, Thầy nhắc vậy, nó thành một cái nghiệp không tham, sân, si.
Còn hồi đó (đến) bây giờ, mỗi chút gì chúng ta cũng tham, sân, si thì nó huân thành cái nghiệp tham, sân, si chứ gì? Còn bây giờ, Thầy huân cái nghiệp không tham, sân, si chứ gì? Mà cái nghiệp không tham, sân, si thì nó có tái sanh không quý vị? Còn bây giờ, chúng ta đi tái sanh là do cái nghiệp tham, sân, si tái sanh chớ đâu phải linh hồn chúng ta đi tái sanh!
Bởi vì Đức Phật xác định mà, thân Ngũ Uẩn chúng ta: Sắc Thọ Tưởng Hành Thức, thì cái Thức của chúng ta nó cũng hoại diệt luôn chớ! Nó rã cái thân này là nó rã hết. Cái Sắc Uẩn này nó rã thì cái Thức Uẩn nó cũng rã. Thì nó đâu còn cái gì đâu, nó đâu còn gì cái Thức đâu?
Nghĩa là nó không còn một chút xíu nào hết. Hễ mà chúng ta còn chấp nó ở trong này nó có cái thần thức, thân này nó có cái linh hồn biết, cho nên vì vậy mà thấy có linh hồn nhập vào đồng cốt, thì đó là điều tưởng của chúng ta thôi, chúng ta sai, không đúng đâu.
Tưởng có nghĩa là chúng ta thấy có những cái trạng thái thật sự có linh hồn. Nhưng mà trạng thái từ đâu mà xuất ra chớ đâu phải có linh hồn người chết thật! Bởi vì Đức Phật đã nói rằng nó không có cái gì, khi mà chúng ta chết rồi, nó không còn có cái gì hết.
Nó chỉ còn có cái hành động thiện ác, tức là nó thành cái nghiệp thiện ác của chúng ta, cái đó nó đi tái sanh. Cho nên chúng ta mãi mãi tái sanh là trong cái hành động thiện ác của chúng ta.
(24:20) Đó thì hôm nay chúng ta đã rõ biết được. Khi bây giờ các vị không tu thì các vị làm sao có một cái có này để mà các vị mãi mãi được?
Cho nên cái bây giờ chúng ta chưa có là chúng ta chưa có cái không tham sân si. Hàng ngày chúng ta huân tập nó trở thành một cái nghiệp, cái lực không tham sân si. Cái nghiệp lực không tham sân si. Phải không? Cái nghiệp kia là cái nghiệp tham sân si. Còn cái nghiệp này là cái nghiệp không tham sân si. Do đó chúng ta huân tập thực hành cái này.
Vì vậy mà Đức Phật ví dụ, cái cây kia nếu chúng ta vạt bỏ vỏ, bỏ giác thì còn cái lõi. Nhưng mà cái lõi này đâu phải từ cây mới mọc lên có lõi được đâu, nó phải có một quá trình thời gian nó mới có. Thì chúng ta là con người, chúng ta phải có quá trình thời gian tu, nhưng mà tu đúng, nó mới có cái lõi.
Mà tu không đúng, bây giờ quý vị không có cái pháp Như Lý Tác Ý đi, quý vị không có hướng tâm, không nhắc đi, mà cứ ngồi thiền vậy nó có cái lõi được không?
Rồi quý vị chấp nó có cái Phật Tánh, vậy thì nó tự ở trong thân này nó có, thì quý vị tu để mà quý vị giữ cái đó, để mà nó thường hằng như vậy, thì cỡ như ông Phật ngu quá vậy? Tại sao có Phật Tánh mà đi đầu thai hoài vậy? Phật sao toàn giác mà tại sao lại ngu vậy mà đi? Để ham đắm cái gì mà đi?
Thì cái đó là một cái tưởng của chúng ta thôi, sự thật ra chúng ta chưa có một cái gì hết. Nghĩa là con người chúng ta chưa có gì, chúng ta sanh ra từ cái trường sống, tức là nhân quả. Nếu chỗ nào không có môi trường sống thì chỗ đó không có nhân quả.
Tại sao vậy? Tại vì nó đâu có hành động đâu. Nó có hành động thì nó mới có mưa, có bão, có gió. Phải không? Nó có cái hành. Mà có mưa, bão, gió thì nó có cái độ ẩm. Độ ẩm nó mới có, cây cỏ nó mới sanh ra. Cây cỏ, nó sanh ra thì nó mới có loài vật sanh ra. Bởi vì cái loài vật sanh ra, nó phải ăn cây cỏ nó mới sống, nó mới sanh, chớ còn không có cây cỏ, nó sanh ra nó lấy cái gì nó sống?
(26:02) Đây Thầy đặt cái vấn đề rõ ràng. Bây giờ con người chúng ta là cái thân tứ đại, Đức Phật nói đất, nước, gió, lửa, mà nó hợp lại, nó thành cái thân của chúng ta. Mà nếu không có đất, nước, gió, lửa bên ngoài mà chúng ta ăn vào thì chắc chắn cái thân chúng ta sẽ bị hoại diệt.
Cho nên thí dụ chẳng hạn bây giờ cái thân của chúng ta nè, bây giờ sanh ra mà trong cái môi trường sống này nó không có cái vật cho cái thân này ăn thì cái thân này có sanh ra được không? Mà sanh ra, nó có sống được không? Cũng đâu có được!
Cho nên nó phải phù hợp. Từ cái cây cỏ, nó sanh ra trước, rồi sau đó lần lượt những cái loài vật, thứ ẩm ướt nó sanh ra trước, rồi kế đó là cái loài vật noãn sanh, rồi thai sanh nó mới sanh ra sau. Còn hóa sanh là những cái bậc siêu việt, người ta mới hóa sanh.
(26:54) Còn chúng ta chưa có nói hóa sanh. Hóa sanh không có nghĩa biến hóa đâu, mà là cái năng lực của tâm lực của người ta, mà Thầy đã viết ở trong cái cuốn tám hay cuốn chín gì đó, Thầy đã nhắc cái năng lực này. ( sách Đường Về Xứ Phật tập 9)
Nghĩa là chúng ta dùng cái năng lực của tâm lực của chúng ta, chúng ta hợp các gen. Ở trong không gian này, nó đủ các cái, tức là duyên hợp nó đủ, chúng ta hợp nó, nó sẽ hóa sanh một con người.
Và Thầy là một người toàn thiện, Thầy mới làm được cái này, cái năng lực mà toàn thiện của Thầy nó mới được cái này. Cho nên khi mà Thầy sanh ra một con người thì con người của Thầy toàn thiện.
Mà bây giờ mà Thầy thảy ra một con người mà toàn thiện như vậy, sống trong cái xã hội này thì con người này sẽ bị diệt. Bởi vì tâm quý vị là tham, mà gặp con người thiện này, con người thiện này họ có đấu tranh với quý vị đâu, cho nên quý vị sẽ diệt họ chết. Cho nên không thể nào được.
Mà khi toàn bộ chúng ta tu hành hết thì chúng ta sẽ là những con người hóa sanh. Con người hóa sanh, hoàn toàn là chúng ta không có bệnh đau, không có khổ gì hết. Bởi vì nó hoàn toàn nó thiện mà, nó làm sao nó có thọ được cái khổ đâu, nó không khổ. Đó là cái hóa sanh, nó đặc biệt vô cùng lận.
Nhưng mà cái hóa sanh nó để cho những người mà người ta thành tựu, người ta tiếp tục một cái giai đoạn nào đó, có thể người ta làm. Còn mình chưa thành tựu thì mình đừng có rớ tới nó, không có được đâu, không có làm sao được. Trong cái năng lực của mình không có.
(28:07) Cho nên ở đây khi mà chúng ta tu đúng thì chúng ta thấy kết quả sự tu tập của chúng ta hàng ngày, giải thoát thật sự, an vui. Nhưng mà vì chúng ta dứt chưa ra khỏi cái đời sống của chúng ta.
Bây giờ còn con, còn cái, còn phải lo ăn lo uống, phải lo làm cái này, cái kia chớ không thể nào mà là con người mình ngồi không, mình có ăn được. Mà không ăn làm sao sống được? Mà bây giờ có vợ, có con là cái nhiệm vụ đạo đức trách nhiệm của mình không thể nào bỏ nó được. Cho nên mình không thể dứt áo ra đi được.
Ngày xưa chưa có đạo Phật cho nên ông Phật ông dứt áo, ông bỏ vợ, bỏ con, bỏ cha, ông đi tu, là một cái điều đau khổ rất lớn chớ không phải không. Vì vậy mà sáu năm ổng chịu khổ hạnh rất là đau khổ. Ông hành hạ cái thân ổng đến cuối cùng nghĩa là đứng dậy không nổi. Bởi vì cái sự tiết thực của ông quá độ. Ăn ít quá cho nên cơ thể quá kiệt quệ.
Đó là những cái hành hạ để mà, nó là cái nhân quả của ông đã làm vợ con khổ, làm cho vua cha khổ, chớ đâu phải là cái tầm thường. Nhưng mà sau đó ông tìm lại cái đường đi để rồi ông chứng ngộ được, ông giải thoát. Ông trở về, ông độ cha, độ mẹ, chớ đâu phải là ông bỏ những người thân ông đâu. Các con thấy rất rõ ràng. Mặc dù là cha mẹ ông không không được thành Phật, nhưng vẫn là được ở trong cái thiện pháp. Đó là những cái điều kiện mà Đức Phật ngày xưa.
Còn bây giờ chúng ta tu hành, chúng ta phải thấy được cái đường đi của chúng ta, cái lối đi của chúng ta đúng hay là sai. Chúng ta phải nhận định được cái đường lối nào của Phật, mà đường lối nào không phải của Phật để chúng ta hướng đến cái tốt.
(29:43) Phật tử Thạch: Mô Phật, kính bạch Thầy cho con hỏi.
Mô Phật, kính bạch Thầy, thưa đại chúng. Đây cũng là một câu hỏi mà của nhiều cư sĩ thắc mắc. Là từ khi Đức Phật nhập diệt và các vị Thánh Tăng nhập diệt rồi đó, thì hơn hai ngàn năm trăm năm nay, có vị Thánh Tăng nào xuất hiện hay không?
Mà nếu có thì sách sử thì không thấy có. Nếu mà như vậy có nghĩa là quý ngài đạt được chứng quả A La Hán và theo như Đại Thừa người ta nói, tức là không có lòng từ bi để mà thương xót chúng sanh, cho nên quý ngài không có thị hiện hoặc quý ngài không xuất hiện nữa để mà cứu độ chúng sanh. Xin Thầy từ bi chỉ dạy.
(30:18) Trưởng Lão: À bây giờ, một vị A La Hán, một vị Phật xuất hiện, là do cái nhân duyên của chúng sanh trong cái thời đó, nó có đủ duyên hay không. Bởi vì nếu mà nó tàn ác quá thì nó phải xuất hiện tà giáo ngoại đạo mà đạo Phật bị dìm đi.
Còn nếu mà cái duyên nó đủ, mặc dù là hiện bây giờ, nó tà giáo ngoại đạo cũng như trong cái thời Đức Phật đó, Đức Phật xuất hiện, là hoàn toàn là tà giáo ngoại đạo, lục sư ngoại đạo mà, nhưng mà cái duyên của chúng sanh, trong cái thời Đức Phật nó có cái duyên giải thoát.
Cho nên khi mà đức Phật dựng lại những cái gì mà của ngoại đạo ném bỏ thì Đức Phật dựng lại. Cho nên khi một bài pháp xong thì các cư sĩ mới ca ngợi Đức Phật bằng cách như thế này: "Sa Môn Gotama đã dựng lại những gì mà người ta đã ném bỏ". Chứ Đức Phật đâu có cái gì mới đâu.
Cũng như bây giờ Thầy dựng lại những cái gì mà Đại Thừa ngoại đạo nó ném bỏ xuống, Thầy dựng lại, chớ đâu phải có cái gì mà Thầy làm mới đâu. Thầy cũng chính là đi nhẩm lại.
Nhưng mà về cái câu hỏi của Thạch đó, thì câu hỏi đó để mà thấy rằng, tại sao từ cái ngày mà Đức Phật tịch rồi cho đến bây giờ không có một bậc nào mà xuất hiện? Đó là cái duyên của chúng sanh không đủ. Mình không đủ tạo cái duyên để cho cái bậc đó xuất hiện. Bậc đó xuất hiện là phải có cái duyên đủ.
Cũng như ngay bây giờ Thầy xuất hiện là tại sao vậy? Cái duyên nó đủ, nó có một số người nào đó. Cũng như Đức Phật mà xuất hiện, nó có một số người nào đủ duyên cho nên Đức Phật xuất hiện để độ số người đó. Cho nên lúc bấy giờ nó có những bậc Thánh Tăng.
Như vậy mà các vị cứ nghĩ rằng trong cái đời của Thầy tu, chắc chắn là có mình Thầy làm được chớ không có người thứ hai đâu. Thật sự nó phải có những cái duyên đó chớ không phải không có, nó phải có những người.
Nhưng mà bây giờ là cái giai đoạn rất khó, nếu mà tuyên bố những người đó, là những người đó sẽ bị Đại Thừa sẽ diệt họ trước, trước Thầy. Cái mầm…
(32:05) Phật tử Thạch: Mô Phật, xin thưa Thầy cho phép con hỏi thêm một câu.
Người ta nói bên Đại Thừa và một số người theo quý vị khác, khi người ta đọc qua sách hay là nghe băng của Thầy thì họ có thắc mắc như thế này. Họ đặt cái vấn nạn, là nếu một vị A La Hán, quý vị đã giác ngộ rồi, thì sẽ có cái tâm từ bi và cái lời nói là lời ái ngữ, còn Thầy nói thì cái lời của Thầy phê phán họ quá nặng, như vậy tức là vị này chưa có đắc đạo.
Và một ông sư đã dẫn chứng cái lời của thầy Chân Thiện cho rằng A La Hán cũng vẫn còn có những cái lậu hoặc tức là vẫn chưa hoàn toàn sạch hết.
Dạ xin Thầy từ bi chỉ dạy.
(32:45) Trưởng Lão: Bởi vì A La Hán, đây trả lời về cái phần vị A La Hán.
A La Hán mà nói không hết lậu hoặc thì làm sao gọi là A La Hán? Phải không? Vì vị A La Hán là phải người hết sạch lậu hoặc mới là A La Hán. Cho nên A La Hán mà nó không hết lậu hoặc, đó là cái tưởng của người ta nói ra thôi.
Còn về một phần tại sao mà Thầy gay gắt với Thiền Đông Độ, gay gắt với Đại Thừa? Là tại vì Thầy nhìn thấy chúng sanh đang khổ vì các pháp này.
Ngày xưa Đức Phật đã nhìn thấy được sự đau khổ của lục sư ngoại đạo, cho nên Ngài hoàn toàn là bác sạch sáu mươi hai luận thuyết của ngoại đạo. Ngài mạnh dạn, Ngài nói thẳng, nói thật sự, thậm chí như cái thế giới siêu hình, Đức Phật cũng xác định rằng không có thế giới siêu hình. Mà trong cái thời đó đâu phải là dễ nói cái chuyện đó đâu, người ta vẫn thấy cái thế giới siêu hình kia mà?
Trong thời chúng ta có khoa học mà Thầy nói ra một cái điều này cũng là một cái điều rất là chướng ngại, nhưng vẫn nói: “Thế giới siêu hình không có!” Và đồng thời Thầy còn dẫn chứng được ngày xưa Đức Phật chỉ nói đó là thế giới tưởng tri mà thôi. Chỉ bấy nhiêu đó thôi, chúng ta không triển khai nổi rồi.
Còn bây giờ Thầy vạch ra hết, cho nên người ta nói sao Thầy là một người không có ái ngữ? Ái ngữ với người thiện chớ không thể ái ngữ với người ác.
Điều này, nếu mà tui ái ngữ với người ác thì tui tùy thuận, tui bị lôi cuốn theo ác pháp, thì tức là ác pháp nó sẽ tràn lan, nó sẽ diệt hết con người trên hành tinh này. Nó không thể nào, nó đang diệt cái nền đạo đức của con người, mà bây giờ tôi ái ngữ với nó để cho nó sống thì tức là cái nền đạo đức đó không có.
(34:15) Cũng như bây giờ Thầy nói, bây giờ Thầy cũng theo tùy thuận họ, nói có thế giới siêu hình, thì cái đạo đức nhân bản này không thể có được. Là tại sao? Tại vì chúng ta còn dựa vào thần thánh, dựa vào Phật, dựa vào Bồ Tát để cầu khẩn, thì như vậy làm sao mà đạo đức, có công lý, công bằng được? Tức là đạo đức không thể đưa ra được.
Vì vậy mà phải quét sạch cái sai này. Vì vậy mà phải thẳng thắn, phải nói mạnh, không thể nào mà ái ngữ với họ được.
Cho nên một cái người mà chứng đạo, người ta biết sử dụng ngôn ngữ. Đối với người nào ái ngữ, mà đối với người nào không ái ngữ. Cái đó là cái biết sử dụng.
Cũng như pháp luật, người ta biết phạt cái người nào, mà người ta biết tha cho cái người nào. Cái người mới phạm thì người ta cảnh giác, người ta giáo dục họ, người ta dạy họ để rồi họ sửa đổi lại. Còn cái người này đã ba lần, năm lần không chịu sửa, bắt buộc người này phải bỏ tù, buộc họ phải cải tạo bằng cách này, bằng cách khác, có thể suốt đời họ không được trả tự do!
Đó như vậy là không thể nào mà chúng ta luôn lúc nào cũng phải dùng ái ngữ đâu, không phải đâu. Nói Đức Phật, nói người tu chứng ái ngữ, như vậy là ái ngữ đó ngu. Một cái người ác, một cái quỷ vương, một cái ác thú mà chúng ta dùng ái ngữ, nó có tha thứ chúng ta không? Không tha thứ đâu.
Cho nên chúng ta phải là người sáng suốt, là người trí tuệ, biết sử dụng ái ngữ lúc nào, mà biết sử dụng những cái ác ngữ đối với những người ác, để chúng ta diệt cho sạch chứ! Đó là cách thức mà của một người trí tuệ, của một người tu chứng.
(35:52) Cho nên ở đây thì Thầy nói thật sự, họ lý luận để mà lý luận, để mà nói, để mà phỉ báng trong những, Thầy nói thật sự như Đức Phật Thích Ca bây giờ mà, hiện tại bây giờ, người ta vẫn chê Đức Phật như thường, người ta vẫn có những cái lý luận, mà trong sách Đại Thừa vẫn lý luận.
Khi mà Đức Phật đã tự xưng mình đã chứng thành chánh giác, thì bây giờ, người bây giờ chúng ta tu mà chứng mà nói chứng A La Hán hoặc chứng thành chánh giác, thì người ta nói: “Còn thấy chứng là chưa chứng”. Họ dám lý luận như vậy mà!
(36:24) Cho nên không lẽ là tui tu, tui hết tham, sân, si tui không biết sao? Không lẽ tui có Tam Minh, tui không biết sao? Không lẽ tui nhập định, tui làm chủ sự sống chết, tui không biết sao? Phải không? Không lẽ bây giờ ngày tui ăn một bữa, tui không biết sao? Tất cả những cái này tui đều biết. Mà biết như vậy là cái gì? Không phải là tui chứng cái chỗ đó sao?
Cho nên nói, mình còn nói ra, nói ra nghĩa là tui nói ra để mà tui lợi dụng người khác để tui làm giàu trên xương máu, trên mồ hôi của người khác, thì cái này tui lừa đảo người ta. Tui chưa chắc đã là chứng.
Còn tui nói ra một sự thật, đem lại một cái nền đạo đức cho họ sống, đem lại sự an vui, mà tôi chỉ còn là một người tu sĩ thiểu dục, tri túc, ba y, một bát, sống trắng bạch như vỏ ốc, không hề tham, sân, si, không hề có những cái vật dụng mà người ta gọi là tham dục. Thì cái người này họ nói một ngàn lần, họ vẫn đúng.
Tại sao? Tại vì họ đời sống giới luật. Đời sống giới luật tức là đời sống thanh tịnh, mà đời sống thanh tịnh chứng minh cho cái điều mà họ nói ra là thật có.
Thí dụ như bây giờ Thầy nói Thầy làm chủ hơi thở, người ta đâu có tin. Người ta bảo Thầy phải tịnh chỉ hơi thở, người ta mới tin chứ gì? Phải không? Nhưng mà nếu mà Thầy thực hiện tịnh chỉ hơi thở, thì người ta theo Thầy, người ta nhắm vào tịnh chỉ hơi thở chứ người ta không nhắm vào đạo đức. Phải không?
Bây giờ Thầy bảo Thầy bây giờ, Thầy bay lên trên trời Thầy phóng hào quang, thì người ta theo Thầy rất nhiều chớ gì? Người ta đem tiền cúng dường Thầy rất nhiều chớ gì? Nhưng mà sự thật đó có đúng không? Người ta sẽ theo Thầy là vì người ta thấy Thầy bay trên trời, ngồi trên trời được, người ta thấy Thầy phóng hào quang được, người ta theo Thầy, chứ người ta không phải theo đạo đức!
Cho nên Thầy sống giới luật, đức hạnh, Thầy sống đứng đắn, đàng hoàng, Thầy dạy người ta đạo đức chứ không phải Thầy dạy thần thông.
Còn thần thông đó, để sau khi quý vị cứ theo cái đạo đức của Thầy đi, rồi thần thông chừng đó quý vị sẽ biết. Phải không? Quý vị sẽ làm được cái này mà. Thầy tin, bảo đảm là cái điều này. Nhưng cái này không phải để dẫn lối cho quý vị vào, mà cái đạo đức để dẫn cho quý vị vào.
(38:27) Cho nên đối với Thầy thì Thầy nghĩ rằng cái đúng là đúng. Nếu mà đem cái giả, cái thần thông giả này mà lừa đảo người ta để người ta vào với cái đạo của mình, người ta vào đông đó, nhưng mà có lợi ích gì cho họ đâu? Cái mục đích tham của họ nó vẫn lớn ở trong cái thần thông đó chớ! Làm sao mất tâm tham họ được!
Chừng nào họ dẹp hết cái tâm tham, không có tham thần thông nữa, không có tham tịnh chỉ hơi thở nữa, mà chỉ còn ham muốn là làm sao đừng có tham, sân, si nữa, thì quý vị dẹp hết tham, sân, si thì quý vị sẽ được cái này chớ! Cái mục đích của Thầy là như vậy.
Đó cho nên những gì mà người ta nói thì quyền người ta nói, nhưng mà điều kiện Thầy sẽ cứu được một người ở trong khi mà người ta bị chết chìm nhau cả đám, Thầy chỉ lôi được một người cũng là cái hạnh phúc của Thầy rồi.
Còn nói về một bậc A La Hán mà tại sao cái thời gian dài mà không người tu chứng? Thì người ta nghĩ rằng, trong đời nay cũng chưa chắc đã có người tu chứng. Thật sự người ta đang nghĩ như vậy mà! Chứ người ta đâu biết rằng cái người mà tu chứng đâu phải là, trong cái giai đoạn này đâu phải dễ. Thời Đức Phật, Người chứng được cái điều này cũng đâu phải dễ, Người phải chết đi, sống lại mà!
Đó là những cái điều kiện, vì cái nhân duyên của chúng sanh có, những người đó có nhân duyên với cái thời điểm đó nó có, cho nên cái vị, bậc đó phải xuất hiện. Nếu mà Thầy không nỗ lực, không tu hành, không nhiệt huyết, không có sự sách tấn của Hòa thượng Thanh Từ, thì chắc chắn bây giờ cũng không được như thế này đâu. Thầy nói thật, bởi vì nó có đủ cái duyên, nó mới có hợp.
Thầy Thanh Từ sách tấn, rồi cái nguyên nhân mà Thầy tu hành, nó cũng có cái nhân duyên đời trước cho nên luôn luôn sống trong giới luật không hề vi phạm. Thấy ai sống phạm giới là Thầy không bằng lòng, không chấp nhận. Đến chùa nào mà ăn ba, bốn bữa là Thầy không chấp nhận.
Tại sao vậy? Tại vì Thầy huân cái đó nó thành một cái nghiệp của Thầy rồi, cho nên cuối cùng Thầy phải rời khỏi tất cả những cái nơi mà phạm giới, phá giới, từ đó mà nỗ lực. Nó cũng có cái duyên may là đi vào được cái hướng Nguyên Thủy, cuối cùng thì thực hiện được cái điều này.
Nhưng mà, những cái người mà được tin Thầy mà nỗ lực đâu phải nhiều. Trong cái thời Đức Phật, đâu phải nói là một ngàn hai trăm năm chục vị Tỳ Kheo là đạt hết, chứng quả A La Hán hết đâu! Nó chỉ có một số người thôi, chớ không phải toàn bộ là chứng hết. Còn bây giờ cũng vậy. Nhưng mà nó còn duy trì được những cái chân pháp của nó.
Chớ bây giờ nếu mà trong cái thời gian hai ngàn năm trăm năm đến bây giờ, không có một người làm sống lại, chúng sanh không có đủ duyên tha thiết theo đạo Phật mà để làm sống lại, thì giờ này cũng chưa có người xuất hiện.
(40:43) Phật tử Thạch: Mô Phật. Dạ xin phép Thầy cho con hỏi câu hỏi như thế này. Tức là trong một cái bài pháp mà thầy Chân Quang nói chuyện cho đại chúng thì thầy nói như thế này, tức là Đại Thừa người ta cũng có những cái hay.
Tức là giống như ngày xưa Đức Phật nói rằng: "Điều ta chứng được như lá trong rừng, mà cái điều mà ta nói cho các con, ta dạy cho các con như lá ta nắm trong tay!" Như vậy phải chăng là những gì mà Đức Phật thuyết chỉ có một phần thôi, mà còn rất nhiều cái mà Đức Phật chưa nói?
Vậy thì có phải là các Tổ đã nói ra những điều mà Đức Phật chưa nói hay không? Xin Thầy chỉ dạy.
(41:24) Trưởng Lão: Bởi vì cái trình độ của các Tổ không thể hơn Phật được mà dám nói cái điều mà Phật đã chứng, thì đó là nói sai hết. Phải không?
Bởi vì mình chưa chứng như Phật mà mình dám nói như Phật, mình nói cái điều mà Phật chưa dám nói ra. Bởi vì cái trình độ của con người lúc bấy giờ chưa có hiểu được cái điều đó mà nói ra thì “như nói láo trong ta”, Đức Phật đã nói trong bài kinh Tương Ưng mà.
Khi mà chúng sanh chưa có hiểu được điều đó mà chúng ta nói, thì như nói láo. Còn chúng sanh hiểu được, như bây giờ chúng sanh hiểu điều đó, ta nói điều đó thì chúng sanh hiểu, ta cũng hiểu thì tức là ta không có nói láo. Còn bây giờ mọi người không hiểu mà ta nói, tức là nói láo.
Như vậy là các nhà Đại Thừa nói láo chớ không phải là nói thật. Bài kinh đó xác định như vậy mà.
Cho nên đối với Thầy, qua trong kinh Nguyên Thủy toàn bộ Thầy đã hiểu biết, Đức Phật đã xác định điều này: Nếu ta nói một cái điều mà chúng sanh không hiểu, trong cái tưởng đó mà ta nói chúng sanh không hiểu, bây giờ không có thế giới siêu hình, ta nói có thế giới siêu hình! Phải không? Thì như vậy chúng sanh cứ mường tượng cái đó, thì tức là ta có nói láo. Mà nói láo mà ta dẫn chúng sanh tới trong đau khổ. Nó không thật!
(42:26) Cho nên ở đây Đức Phật đã xác định rõ ràng. Vì vậy mà thầy Chân Quang chỉ đứng ở trong tưởng Đại Thừa hay là chỉ kiến tưởng giải mà thôi, chớ không hay gì hết. Nếu mà hay thì tức là phải có một sự chứng làm chủ sanh tử hơn Đức Phật chớ? Mới hay chớ! Tại sao hay mà không có người nào làm chủ? Chỉ nói láo mà thôi.
Nghĩa là bây giờ Đại Thừa hay thì phải cái một số người tu hơn đệ tử của Đức Phật ngày xưa, trái lại không bằng đệ tử của Đức Phật chút nào hết. Sống phá giới, phạm giới mà dám nói một cái điều phi đạo đức như vậy, dám nói cái điều mà Đức Phật chứng mà không nói ra, bây giờ các Tổ nói ra, thì không phải là hay sao? Hay sao được? Nói ra mà không làm được thì cái này là không hay đâu. Nói ra phải làm được thì mới hay. Đó là cái…
Cho nên ở đây thật sự ra các Tổ không đủ sức để nói. Thầy dám khẳng định cái điều này mà. Bởi vì các Tổ chưa phải là Phật mà, còn là đệ tử của Phật mà. Làm sao dám nói những điều mà Đức Phật chứng được?
Cho nên những gì bây giờ, thí dụ như những gì mà Thầy nói là đạo đức cho quý vị, mà Thầy nói xa hơn nữa là quý vị không hiểu. Thật sự ra bây giờ những cái mà Thầy hiểu thì phải đợi cái con người của quý vị, phải hiểu đến tầm vóc đó Thầy sẽ nói. Chứ bây giờ Thầy nói là sai.
Mà các Tổ nhìn thấy chúng sanh ngu như thế này mà đi nói cái chuyện ở trên trời, nói lý Bát Nhã với chúng sanh thử coi, bao giờ mà chúng ta tụng Bát Nhã, hàng ngày chúng ta tụng: "Hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không". Có ai giai không không? Có phải là tưởng không?
Đem cái thế giới tưởng mà đặt vào cái thế giới con người của chúng ta, làm sao mà con người chúng ta tu được? Cho nên Long Thọ hay là hay cái miệng chớ đâu có hay cái gì đâu?
Ai bao giờ, chúng ta phải thấy rõ ràng chớ gì, ai cũng nói là Ngũ Uẩn giai không chớ gì? Mà hàng ngày chùa nào, thầy nào cũng tụng hết. Mà bây giờ nó lại không không, mà lại nó thêm Honda, nó cúp rồi đủ thứ hết. Rồi nó lại thêm chùa to nữa, Phật lớn nữa, hồng chung lại nhiều nữa. Thì đó là nó thêm chớ nó đâu có không đâu? Nếu nó không thì nó phải quét sạch hết. Phải không?
(44:16) Cho nên cái luận của tổ Long Thọ hay chớ, nhưng mà hay của thế giới khác chớ không phải hay của thế giới con người.
Cho nên Đức Phật nói: Ta nói vừa đủ cho con người để tu hành, để giải thoát thôi, Ta không nói thừa. Mà Ta nói thừa tức là Ta nói sai. Thừa là khi nào Ta nói được cái điều mà Ta chứng, Ta sẽ nói trong cái cõi khác, không phải nói ở cõi này, vì nói cõi này làm loạn người ta đi, người ta điên mất đi!
Cho nên chúng ta vì cái chỗ mà Chơn không Diệu hữu, cái lý Bát Nhã của Long Thọ mà chúng ta điên lên hết. Nhiều người giữ không riết, nó không ngơ như cây đá, nó không riết, nó không có ra cái gì hết. Tưởng nó không thật.
Cho nên cái chết của Tổ Sư Tử là vì Ngũ Uẩn giai không mà Tổ bị vua giết. Phải không? Vua Kế Tân giết Tổ Sư Tử. Đó là chúng ta nghĩ rất là oan uổng. Nếu bây giờ lỡ mình nói nó giai không mà ông vua xin cái đầu mình không chấp nhận sao? Phải chấp nhận. Nhưng mà chấp nhận trong cái mình mù mờ, mình không biết, không biết cái lối của mình đi. Đó là những cái Tổ mà nói luận.
Cho nên thầy Chân Quang cũng đều luận trên cái luận của thầy để rồi đưa ra một cái, cái coi như là hơn Phật, làm hơn Phật. Phật không dám nói mà mình dám nói là mình hơn chứ sao? Nhưng thử hỏi bây giờ mình sống có đúng đời sống như Phật không? Nhìn lại đời sống giới luật của mình không ra gì hết mà mình dám nói hơn Phật à?
Thầy không dám nói hơn Phật chỗ nào, Thầy nói cái gì Phật nói, Thầy nói ra thôi. Thầy chưa có dám nói cái gì, Thầy chỉ giải thích bấy giờ Đức Phật nói: Cái thế giới siêu hình, ba mươi ba cõi trời, đó là tưởng tri chớ không phải liễu tri. Thầy giải thích chữ “tưởng tri”, do cái năng lực tưởng của chúng ta tạo ra. Do chúng ta hành động thiện đó mà cái năng lực tưởng đó, nó sẽ làm cho chúng ta sống được cái trạng thái đó.
Thầy chỉ giải thích cho chúng ta dễ hiểu thôi. Thầy không dám dạy cái gì mà hơn Đức Phật đã dạy cho chúng ta. Đọc ở trong sách của Thầy, Thầy không bao giờ mà Thầy thêm cái gì mới hết cả.
(46:15) Đức Phật nói “hóa sanh” thì nó cô đọng quá, chúng ta không hiểu hóa sanh như thế nào?
Có người nói hóa sanh như là một con tò vò, nó tha con sâu, nó bỏ trong đó, nó biểu “hóa hóa hóa”, nó kêu, rồi từ đó con sâu đó nó thành ra con tò vò con của nó. Sự thật đâu phải! Trong nhà Đại Thừa giải thích cái kiểu này đó. Thầy đọc cái cuốn sách nào đấy giải thích kiểu đó.
Con tò vò thật sự ra nó làm cái tổ phải không? Nó đẻ cái trứng nó trong đó chớ gì. Rồi bắt đầu bây giờ nó bắt con sâu, nó chích con sâu đi, rồi nó để cho con sâu sống ở trong đó, để rồi nó nhét con sâu trong đó. Rồi con tò vò con, nó nở lên, nó ăn thịt con sâu đó, nó mới mọc cánh, nó mới cắn cái ổ nó mới đi ra. Chớ đâu phải là con sâu mà hóa ra con tò vò. Con hiểu không?
Cái đó là chúng ta không có đúng khoa học rồi sai rồi, không có đúng. Ở đây Thầy giải thích. Vì vậy mà các Thầy dám giảng ở trong kinh sách Đại Thừa là nói đó là hóa sanh! Thì đây đâu có đúng được đâu, phải hiểu nó như vậy, nó sai rồi.
Cho nên chúng ra đừng có tưởng tượng ra mà chúng ta giảng qua cái tưởng của chúng ta. Thành ra chúng ta dẫn dắt một cái người ta hiểu, người ta vô mình, chớ người ta có sáng suốt được đâu, nghe như vậy, người ta tin như vậy, người ta đâu có hiểu được.
Đó là những cái sai.
(47:27) Phật tử Thạch: Bạch Thầy! Cũng trong cái ý hướng đó đó, thì thầy Chân Quang nói rằng khi Thầy viết cái bộ Đường Về Xứ Phật, thầy nói rằng Thầy xiển dương cái Chánh Pháp của Đức Phật. Mà nếu mà Thầy từ chối siêu hình, trong khi những kinh điển Nikaya có nói về siêu hình, như vậy tức là Thầy cũng không có phải là đi đúng cái đường lối của Phật. Đó là thầy nói như vậy.
Đến thứ nhì thì thầy Chân Quang cũng dẫn chứng là, ngài Ca Diếp với lại ngài Phú Lâu Na tranh cãi nhau về cái chuyện mà có những cái giới cần phải bỏ, mà hai vị đó là những vị A La Hán rồi, điều đó chứng tỏ rằng các vị A La Hán vẫn còn chưa có thông suốt.
Trong khi đó mà thầy Chân Quang nói rằng, chư thiên đó, mà quý vị, hàng chư thiên mà người ta còn tâm ý, người ta còn đồng ý với nhau được, huống chi mà bây giờ quý vị A La Hán mà tâm không có nhất trí được với nhau nữa, cho nên là quý vị đó còn sai, còn lậu hoặc, còn đủ hết các thứ.
(48:32) Trưởng Lão: À để Thầy trả lời cho.
Bây giờ các con biết hai vị A La Hán, ông Phú Lâu Na và ông Ca Diếp là hai vị đại đệ tử của Phật, là hai bậc A La Hán đã qua đời. Người ta muốn dìm bậc A La Hán của Phật, người ta đặt ra câu chuyện bỏ những giới nhỏ nhặt.
Bây giờ đặt thành vấn đề này, những giới nhỏ nhặt, bây giờ ông A Nan, hồi đó ông là tu chưa chứng mà, ông khổ đau, cho nên Đức Phật bảo bỏ những giới nhỏ nhặt. Thì hai vị A La Hán này rất dễ, có gì đâu? Họ đủ Tam Minh mà, phải không? Họ trở vào Niết Bàn hỏi Phật vậy chớ Phật bỏ những giới nào?. Tại sao hai vị A La Hán có thần thông mà không làm điều này, lại đi tranh cãi nhau? Bộ phàm phu sao?
Tức là cái lối hạ những đệ tử của Đức Phật một cách quá đáng. Đó phải thấy rõ ràng, bây giờ hai ông lại tranh chấp, một ông thì bảo bỏ, một ông thì lấy chấp! Trời ơi! Hai ông từ giới mà sanh ra các ông mà, các ông không do giới thì làm sao các ông có được thiền định, có được Tam Minh, có được chứng quả A La Hán này? Thế mà các ông bảo bỏ giới à?
Cái ông Phú Lâu Na là ông như thế nào mà dám bảo bỏ những giới nhỏ nhặt? Như hồi nãy Thầy nói những giới nhỏ nhặt của Phật có phải lợi ích không? Có cái giới nào mà dám bỏ đâu? Nó là cái đạo đức mà! Một cái giới dù là nhỏ đi nữa, nó cũng là cái thiện pháp. Mà một cái thiện pháp mà sống được với thiện pháp thì chúng ta đẩy lui được cái ác pháp chớ! Tại sao chúng ta lại bỏ những giới nhỏ nhặt?
Mà các bậc A La Hán đều do giới sanh ra mà. Cho nên Đức Phật nói: Ta nói giới luật là nói tâm ly dục ly ác pháp mà! Nếu không ly dục làm sao chứng quả A La Hán được. Phải không?
Cho nên ở đây là các nhà Đại Thừa đã dìm Phật giáo xuống, mà thầy Chân Quang là người không hiểu, cho nên dựa vào đó mà hạ luôn Phật giáo, hạ luôn đệ tử của Phật giáo. Những bậc Thánh Tăng của người ta, người ta sống giới luật, bây giờ không ai mà sống bằng mấy vị đó mà! Thế mà bây giờ chúng ta dám hạ. Phải không? Đó là những cái sai của mấy vị rồi.
Cho nên bây giờ Thầy nói thật sự, các chứng quả A La Hán, bây giờ có một người chứng quả A La Hán với Thầy đi. Bây giờ cái chuyện này Đức Phật nói, hồi đó Đức Phật còn sống, bây giờ chúng ta không hiểu thì chúng ta trở về để mà gặp Đức Phật hỏi. Đức Phật ở trong Niết Bàn chứ Đức Phật đi đâu? Một người tu chứng đâu có phải hoại diệt mất đâu. Bây giờ, hiện bây giờ đang ở trong Niết Bàn, chúng ta muốn hỏi hồi nào chúng ta cứ vô chớ.
(50:34) Bây giờ Thầy nói như thế này, Thầy đọc một cái bài kinh như thế này, bởi vì khi mà họ nói như vậy là đối với những người mà chưa chứng quả A La Hán họ không biết, chứ chứng quả A La Hán rồi, biết hết rồi. Bây giờ một cái bài kinh này đọc, Thầy nghi ngờ không biết người sau có thêm trong cái bài kinh này không? Phải không?
Thầy bây giờ Thầy mới nhập vào Tam Minh, Thầy vào Túc Mạng Minh, trở về quá khứ ngay khi Đức Phật đang thuyết giảng bài kinh này. Thầy nghe ngay cái bài kinh này thì cái câu kinh này nó không có, mà nó lại có ở trong cái bài kinh này, tức là người sau thêm. Thầy gạt ra sạch hết mà.
Bởi vì khi mà Hòa thượng bảo Thầy, là đọc lại tất cả những kinh sách. Thầy về hai năm, Thầy đọc lại kinh sách, Thầy viết thành cái bộ Đường Về Xứ Phật. Cái bộ đó là coi như là, không phải là những trả lời như quý Phật tử hỏi mà Thầy viết về cái bộ Đường Về Xứ Phật này. Thầy lấy cái tên đó chứ mà cái bộ kia Thầy cũng để Đường Về Xứ Phật. Tất cả những cái lời mà trong cái bài kinh Nguyên Thủy, một cái đoạn mà thêm vào Thầy gạch bỏ ra liền!
Tại sao Thầy dám gạch? Thầy gạch ra là tại vì Thầy trở về quá khứ Thầy nghe cái bài kinh này, Đức Phật không có viết cái câu này, trong cái đoạn này không có mà tại sao có? Thầy gạch ra.
Cho nên cái bộ kinh Đường Về Xứ Phật của Thầy bây giờ nó lưu giữ lại, nó bốn mươi mấy tập. Nghĩa là toàn bộ kinh sách Đại Thừa Thầy đọc hết mà. Cái kinh sách Đại Thừa nó đúng là cái chỗ nào? Nó đi từ cái gốc của Nguyên Thủy, thí dụ như Bát Chánh Đạo nè, Tứ Chánh Cần nè, Tứ Như Ý Túc nè, nó lấy từ đó rồi nó triển khai ra, mà nó triển khai trật, còn cái gốc thì nó đúng.
Cho nên cái đúng của nó là cái gốc, nhưng mà cái triển khai ra thì nó triển khai, nó tưởng ra, nó giải tầm bậy tầm bạ ra hết. Cái sai của nó là cái ngọn, còn cái gốc nó đúng. Cái gốc nó lấy Phật giáo đó, cho nên nó cũng Bát Chánh Đạo, cũng này kia đủ thứ đó, nhưng sự thật ra nó giải nghĩa ra thì trật hết rồi. Không đúng.
(52:18) Cho nên đó là những cái có thể gạch ra hết. Tưởng tượng như Đức Phật mà phóng hào quang rồi mới thuyết pháp, điều đó là điều tưởng của họ ra thôi, Thầy gạch bỏ hết tất cả những cái này. Tưởng ra như cái Chân Không Diệu Hữu, tưởng ra cái pháp Không, như đẻ ra kinh Bát Nhã đó, đó là cũng là của người sau, người ta tưởng ra, Thầy cũng gạch ra hết, bỏ hết.
Cho nên cái bộ sách của Thầy coi như là bây giờ, chờ cho mười vị A La Hán chúng ta sẽ đồng về nghe những bài kinh rồi chúng ta sẽ chỉnh đốn lại cái bộ sách này. Nó trở thành cái bộ kinh của Phật đó. Nhưng mà cái điều này là cái điều sau khi có các bậc A La Hán tu chứng, mười người, chúng ta làm công việc này, mà kết tập lại kinh sách Phật. Còn bây giờ có một mình Thầy, Thầy chưa nói đâu.
Đó thì hôm nay nay thì các con thấy những cái lý luận đó là những cái lý luận của nhà học giả, dám phỉ báng một bậc A La Hán như ngài Ca Diếp và ngài Phú Lâu Na.
Ngài Phú Lâu Na, các con nghe, Ngài Phú Lâu Na khi mà xin Đức Phật để đi độ chúng sanh ở một phương nào đó, thì Đức Phật hỏi ông: Bây giờ người ta đến đó người ta chửi ông, như thế nào? Thì ông nói người ta còn thương ông. Người ta quăng đá, ném đá ông thì ông nói như thế nào? Ông nói còn thương ông, chưa có lấy gậy đập ông. Người ta lấy gậy, người ta đập ông, ông nói còn thương ông. Người ta lấy gươm đao đâm ông, ông nói cũng còn thương ông. Người ta giết ông, ông nói cũng còn thương ông. Thì Đức Phật nói được rồi, ông cứ đi!
Một người như vậy là ly dục, ly ác pháp hoàn toàn rồi mấy con. Mà ly dục, ly ác pháp là do đâu mà ly được? Do giới luật. Thế mà ông Phú Lâu Na lại, mình đọc lại một cái đoạn sử đó, mình thấy rõ ràng mà, ông Phú Lâu Na tu được như vậy mà bây giờ lại bỏ những giới nhỏ nhặt này! Là ai đặt ra?
Những cái giới nhỏ nhặt mà Thầy nói, những cái giới mà các con thấy, những giới nhỏ nhặt hồi nãy. Từ giới vệ sinh nè, từ giới giao thông nè, từ cái trèo cây thang là giới nhỏ nhặt chớ gì? Cho nên các thầy bỏ hết à? Chứ chưa nói đến những cái giới trọng, những cái giới Thánh nữa! Mà những cái giới nhỏ nhặt này thì các con thấy, ông Phú Lâu Na từ những hành động đó, từ những hành động vệ sinh đó mà ông có thể ổng mới thành Thánh đạo được chớ!
Đó cho nên vì vậy mà các con thấy, nhà học giả rất tai hại! Bây giờ mấy con đâu có hiểu được, tưởng là mấy ông này là thâm lắm chứ gì? Nhưng Thầy nói rằng quý vị mà muốn biết một cái vị nào nói đúng, nói sai là quý vị hãy nhìn cái sống của họ có giới luật không?
Nếu mà họ sống đúng giới luật mà họ nói thì họ phải nói đúng, mà họ sống không đúng giới luật là họ là những nhà học giả, chạy theo dục lạc mà họ lý luận để mà họ sống ở trên mồ hôi, nước mắt của quý vị đó! Quý vị phải hiểu được cái điều đó.
(54:38) Phật tử Thạch: Mô Phật! Xin phép Thầy cho con hỏi một câu này cũng rất là quan trọng.
Thật tình thì chúng con rất mến mộ quý thầy Chân Quang, và chính chúng con là những người kêu gọi các bạn bè để mà đóng góp để mà in cái cuốn sách Luận Về Luân Hồi Nhân Quả của thầy Chân Quang. Thậm chí những cái cuộn băng của thầy Chân Quang, chúng con rất quý.
Nhưng mà vì khi nghe được cái cuộn băng mà thầy Chân Quang nói về Thầy Thông Lạc, thì con thấy có những điểm mà trước giờ chúng con nghe qua những cái sách, băng của Thầy giảng, rồi những sách của Thầy viết thì chúng con thấy nó khác.
Mà có cái điểm như thế này, thí dụ như khi thầy Chân Quang nói rằng, thầy không có đồng ý với Sư Ông, bởi vì Thầy Thông Lạc đang nói chuyện với các đệ tử và gọi Thầy là Sư Ông. Nói Sư Ông Thông Lạc có cái điểm này là thầy không đồng ý là: Nếu mà mình ăn uống không đủ, không có đủ chất bổ thì không có thể nhiếp tâm được.
Và thầy nói rằng thậm chí bây giờ ăn no đi, ăn thật no nữa mà chỉ cần đi kinh hành một chút xíu thôi, là bắt chân lên một cái là nhiếp tâm được liền. Còn ăn uống thiếu là nó hại tới não, là nó làm cho mình bệnh hoạn này kia. Và đó là lý do mà Sư Ông ở trên Tu viện Chơn Như mà bị bệnh nặng lắm này kia.
Dạ. Xin Thầy từ bi chỉ dạy cho!
(55:54) Trưởng Lão: Bây giờ các cư sĩ về đây thấy Thầy bệnh nặng không? Không có bệnh nặng! Phải không? Thầy đã làm việc suốt đêm từ tới mười một, mười hai giờ Thầy mới đi nghỉ một chút xíu, rồi khuya Thầy dậy. Coi như là toàn bộ những kinh sách mà Thầy trong cái thời gian ngắn đây, mà rất nhiều kinh sách Thầy đã soạn thảo. Với một cái khả năng mà làm việc như vậy thì đủ biết rằng Thầy làm việc ghê gớm lắm.
Và tiếp tục còn soạn cái bộ Đạo Đức Làm Người, sáu tập của nó chớ không phải ít đâu. Từ một cái hành động chi tiết nhỏ của mẹ con, cha con đối xử với nhau trong gia đình đều là Thầy ghi chép hết, thì mấy con biết.
Mà vừa là Thầy trả lời thơ, không phải mỗi ngày là cô Út phải đem thơ bỏ, Thầy vừa trả lời thơ mà vừa làm việc. Mà ngồi trên máy vi tính làm việc, chớ không phải là đơn giản như quý vị ngồi viết không đâu, hay hoặc là nói để cho người ta ghi chép đâu!
Thầy ngồi trên vi tính, chỉnh đốn lại những cái trang, có mỹ thuật đàng hoàng, có in như thành cuốn sách chớ không phải là in bừa in bãi đâu! Cho nên các quý vị đọc lại cuốn sách Thầy coi, nó giống như cuốn sách của một nhà chuyên môn làm, chớ chưa phải là một cái người mà chưa biết đâu.
Thì hôm nay thì từ cái chỗ mà không biết, mà Thầy biết Thầy sử dụng vi tính mà để in tập sách như vậy, đủ biết rằng Thầy sức khỏe như thế nào. Nếu mà Thầy không sức khỏe, mà tuổi bảy mươi mấy này thì chắc chắn làm việc như vậy chắc tiêu rồi mấy vị!
Đó thì như vậy là cái thứ nhất ăn ngày một bữa, chứng minh rằng không phải do cái chỗ ăn ngày một bữa mà thiếu sức khỏe. Phải không? Ăn thua do cái tâm mà mình bị đau, bị bệnh đó, là cái tâm giận hờn, phiền não, lo lắng, tham dục.
Ăn nhiều sanh dục nhiều, ăn nhiều hôn trầm. Phải không? Ăn nhiều sanh dục, sanh ra tầm bậy, tầm bạ, trai gái bậy bạ, hư hại Phật pháp. Còn ăn ngày một bữa đủ sống rồi, nó không sanh đâu, hôn trầm ít, dễ tu hành.
(57:48) Thì bây giờ một số người mà theo Thầy tu đây, sự thật ra Thầy nói như thế này.
Ở ngoài kia, ở Phước Sơn là cái Tu viện của Nguyên Thủy Nam Tông, là các vị đó ăn thịt. Rồi các vị nghe đọc được kinh sách Thầy, các vị cũng vào đây tu hành theo Thầy. Vô đây ăn ngày một bữa, không ăn uống bậy bạ phải không, mà không ăn thịt, ăn rau cải, ở đây cô Út nấu gì cho ăn nấy.
Thì những cái vị mà ăn thịt, vô đây đau liên miên, bất tận! Phải không? Rồi bây giờ về ngoài đó sống thì ăn thịt lại thì mạnh khỏe!
Bởi vậy Thầy nói, bây giờ mà muốn bỏ nó đi thì tức là chúng ta phải tập từ từ, chớ không thể nhào vô đây mà sống với chúng ở đây, muốn làm Phật sớm được đâu! Cái thân của mình thịt cá không à, mà bây giờ muốn làm Phật thì không có được, phải nó rau cỏ thì nó mới có thể được!
Cho nên vì vậy Thầy khuyên là phải thọ Bát Quan Trai, tập trở lại đi, người nào mà quyết tâm tu để tìm cầu giải thoát. Chớ đừng có nghe mấy sư rằng mình ăn thịt mà quán rau nó thành rau, và đồng thời Đức Phật ngày xưa cũng ăn thịt!
Sự thật là Đức Phật đã cấm các người cư sĩ đệ tử của mình không được cúng dường Phật và chư tăng thực phẩm động vật. Cấm mà! Nghĩa là có năm điều phi công đức khi mình bắt một con vật mình làm cho, cúng dường cho chư tăng, là mình có năm điều phi công đức, ở trong bài kinh Jivaka rất rõ mà.
(59:07) Rồi một vị tu sĩ khi mà thọ thực phải nhìn, phải quan sát coi như là khắp mười phương mà. Nghĩa là Đức Phật nói mười phương chớ không phải đâu, nhìn toàn diện ở trên cái dĩa đồ ăn coi có thực phẩm của mình như thế nào, mà ăn không thấy, không nghe, không nghi. Phải không?
Thấy có miếng chút xíu thịt ở trong đó nhất định, thấy một cái vảy cá trong đó là không ăn rồi. Cái tâm từ bi mà, phải nhìn khắp mười phương mà khởi tâm từ bi nữa chớ đâu phải là nhìn suông không. Cho nên khi mà thấy có một chút đau khổ này thì nhất định là không ăn rồi. Ăn không thấy.
Mà không nghe, nghe người ta nói ở trong này, ông không thấy chớ, ở trong này, họ là mỡ ở trong này, họ chiên cái này là mỡ nè, ba cái đậu hũ này chớ chiên mỡ không, nhất định là nghe nói mỡ là nhất định không ăn. Nghe là không ăn.
Rồi bắt đầu bây giờ không ai nói, mà không thấy, mà nghe cái mùi tanh cá, nghe cái mùi hôi thịt thì nhất định, nghe cái mùi hôi, nghe tanh là nghi rồi, nhất định là không ăn. Đối với đạo Phật là như vậy, tâm từ bi người ta ở chỗ đó chớ gì? Phải không?
Bây giờ đó, thí dụ như bây giờ các nhà sư bên Nam Tông họ lại giải thích cái chỗ này nè: Ăn không thấy, nghĩa là không thấy người ta giết con vật, người ta giết ở đâu á, còn ở đây tui đâu có thấy đâu, người ta đem đến tui ăn. Họ lý luận như vậy để họ ăn mà, chớ họ đâu có nghĩ đến tâm từ bi của họ đâu.
Mà Đức Phật đòi hỏi mình phải ăn phải quan sát mười phương, nghĩa là toàn diện hết mà khởi tâm từ bi. Chứ đâu phải!
(01:00:22) Rồi khởi tâm từ bi, bây giờ toàn bộ nó không có cái thịt cá trong này rồi, thì phải khởi tâm từ bi thương xót những người mà lao động cực khổ để mà mình có miếng ăn hôm nay.
Cho nên lời ông Phật ông dạy mình từ bi thương xót, bởi vậy khi mà ăn như vậy không được phí. Uống cái ly nước như thế này nè, uống ly nước thế này, ở trong này nó có loại vi trùng, loại vật nhỏ ở trong này, mình đâu có thấy, mắt thường đâu có thấy đâu, nhưng mà mình uống là mình uồng gì mình phải uống cho hết, còn mình tạt, mình ném tức là mình phạm vào cái lỗi không hiếu sinh, không thương xót. Mình đổ ra đó nó chết mà nó không có ích lợi. Còn mình uống chớ ích lợi cho mình sống mà.
Cho nên cái sự sống, chứ bây giờ ăn rau cải, thì cái cây rau cải nó phải chết chớ gì! Nhưng mà mình ném bỏ rau cải, mình ăn không hết, mình ném bỏ, đó là mình sai, mình ăn hết, hoàn toàn phải ăn hết. Còn cái nào không ăn thì mình trả lại chứ đừng có ném bỏ.
Cho nên đức Phật ngày xưa nói bảo mình bố thí đó. Khi mình ăn không hết cái mình bố thí cho chúng sanh khác, mình để cho chúng sinh khác ăn, chứ đừng có phí bỏ. Còn đem mình đổ, mình hất bỏ đi tức là mình phí sự sống, mình không có hiếu sanh, mình không hiếu sự sống. Một cây cỏ nó có sự sống chớ? Nhưng nó có sự đau khổ chớ nó có sự sống.
Cho nên tất cả những cái này đều là những cái đạo đức của con người, chúng ta phải học, mà không học thì chúng ta không thấy được. Cho nên vì vậy mà trên cái bước đường tu tập thì các con càng hỏi thì các con càng hiểu.
Mà càng hỏi thì các con nhớ rằng những cái lời Thầy nói ở đây thì không được cho quý thầy nghe. Bởi vì tại sao? Cho quý thầy nghe là làm động quý thầy tội nghiệp. Để chừng nào cái đạo đức mà nó tràn đầy khắp mọi người, người ta biết được đạo đức người ta sống, tự nhiên các thầy cũng chịu ảnh hưởng đạo đức.
Còn bây giờ nói như vậy, các thầy phải tìm cách chống lại. Tìm cách chống lại thì con đường mà đi tới để mà chúng ta xây dựng lại Phật giáo nó có nhiều cái khó khăn. Chúng ta phải thấy được mà.
Bởi vì người ta đang sống ở trong cái chùa tốt, buộc lòng người ta phải lý luận. Người ta lý luận thì phải có một cái số người phải nghe, thì họ dẫn dắt một số người đó theo họ rồi thì chúng ta rất nguy hiểm. Bởi vì tôn giáo mà, các con biết rằng, chiến tranh tôn giáo là người ta thúc đẩy tinh thần người ta là người ta dám chết lắm. Nó nguy hiểm lắm chớ đâu phải dễ đâu.
(01:02:23) Cho nên tất cả những cái điều này là mấy con có duyên mấy con nghe chớ thật sự ra Thầy không nghe.
Nhất là có những cái điều mà thầy Chân Quang nói như vậy mà Thầy nói ở đây để giải thích cho mấy con nghe, thì không nên để cho thầy Chân Quang nghe. Thầy biết rằng mặc dù là thầy Chân Quang có thể phổ biến những cái băng này cho nhiều người nghe rằng mình lý luận như vậy là đúng, nhưng mà sự lý luận đó không đúng đâu.
Bởi vì nói bậc A La Hán như vậy là sai rồi, không đúng. Tức là mình chưa chứng quả A La Hán, mình dám nói quả A La Hán là mình sai. Khi nào mình muốn xác định được quả A La Hán là mình phải là người chứng quả A La Hán. Đó bây giờ thí dụ như Thầy chứng quả A La Hán nè, Thầy xác định quả A La Hán là đúng. Mà cái người đó chưa biết quả A La Hán như thế nào thì đâu có xác định được.
Cũng như con chưa có phải là một người làm nghề kiến trúc sư mà con phê bình vị kiến trúc sư này là con sai. Cũng như bây giờ con chưa phải là một ông bác sĩ mà con phê bình ông bác sĩ như thế này như thế khác là con sai. Khi nào con làm bác sĩ rồi, con mới nói ông bác sĩ này như vậy là tay nghề yếu thì đúng. Còn bây giờ ông bác sĩ này còn phải học những cái lớp gì, nghiên cứu gì nữa là con phải cao hơn ổng.
Còn cái này, con chưa có chứng quả A La Hán mà dám nói quả A La Hán thì tức là mình chỉ tưởng ra mình nói, đó là cái sai, không đúng.
(1:03:47) Phật tử Thạch: Bạch Thầy! Có một câu hỏi cũng rất là quan trọng.
Thì thầy Chân Quang nói rằng con đường của đạo Phật trong tương lai đó, mà theo ý của thầy là phải như thế này, là phải lạy Phật và tôn kính Phật tuyệt đối mới có chứng đạo được. Và thứ nhì là phải có lòng vị tha vô hạn để mà cứu độ đời. Còn nếu mà tu mà ăn ít, ngủ ít rồi như vậy tức là không có chứng đạt được, mà rồi nó có thể còn tác hại nhiều hơn nữa.
Cho nên thầy cuối cùng đã dẫn chứng rằng con đường của thầy đi là con đường được Phật chấp nhận. Và thầy dẫn chứng là thầy có một người đệ tử, họ ngồi thiền, vị sư đó ngồi thiền cảm thấy như mới mười lăm phút mà thật ra ngồi hai tiếng đồng hồ. Thì vị sư được nhập vào cái hội mà thấy được Đức Phật đang thuyết pháp, và Đức Phật thuyết rất hay. Và ông mới thấy rằng: “À Đức Phật thuyết giống y như thầy Chân Quang thuyết!”
Và đó là kết luận của cái cuộn băng mà con nghe.
(01:04:39) Trưởng lão: À như vậy là thật sự ra Thầy nói như thế này. Ông thầy đó đang ở trong vị trí của thầy Chân Quang, thì ông thầy đó khen thầy Chân Quang như vậy.
Thật sự mà nếu ông có thấy, có nghe những cái buổi thuyết pháp đó, ông đều bị thinh tưởng. Bởi vì nó chưa chứng mình được cái đời sống ông Phạm Hạnh thì ông làm sao ông ly dục, ly ác pháp mà ông nhập được cái định để mà thấy được Đức Phật? Tức là ông phải thực hiện được Túc Mạng Minh chớ gì?
Mà ông không thực hiện được Túc Mạng Minh mà ông ngồi thiền như thế này khoảng hai tiếng đồng hồ mà ông thấy thì ông ở trong cảnh giới tưởng chiêm bao ông rồi chứ còn cái gì? Phải không? Thì rõ ràng là ông ở chiêm bao rồi.
Cho nên chiêm bao, vì vậy mà ông phải khen thầy Chân Quang chứ gì! Phải không? Cái đó là giấc mộng ông ta, ông mộng thì ông chỉ tin tưởng thầy Chân Quang, cho nên cái mộng ông nó phải thực hiện qua cái tưởng đó thôi. Chớ làm gì ông biết Đức Phật!
Tại vì thí dụ như bây giờ đưa một cái bài kinh ra. Bây giờ cái bài kinh Jivaka này, Đức Phật dạy vậy có đúng không? Thì ông phải nhập vào cái định đó, ông sẽ nghe được.
HẾT BĂNG
GIỮ GÌN GIỚI LUẬT - NHƯ LÝ TÁC Ý DẪN TÂM VÀO ĐẠO
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời lượng: [01:30:14]
Tên cũ: Thầy nhắc nhở-Dẫn tâm vào đạo-Trả lời thưa hỏi
https://thuvienchonnhu.net/phap-am/giu-gin-gioi-luat-nhu-ly-tac-y-dan-tam-vao-dao
https://thuvienchonnhu.net/audios/giu-gin-gioi-luat-nhu-ly-tac-y-dan-tam-vao-dao.mp3
(00:00) Trưởng lão: Các con thấy, còn Thầy thì ăn, ngủ hoặc là tất cả mọi cái, các con đâu cần lo. Mà rồi không còn Thầy thì các con phải tự lo lấy cái đời sống của mình. Ăn như thế nào, rồi phải làm như thế nào để có mà sống. Còn Thầy, che chở đủ mọi mặt; còn Thầy, tu sai một cái gì thì có Thầy nhắc nhở, trật một cái gì thì có Thầy.
Nếu phỏng chừng như cô Minh Cảnh mà ở Long Thành, mà bây giờ Thầy đã ẩn bóng, Thầy đi mất rồi không còn nữa. Thì thử hỏi bây giờ biết hỏi ai bây giờ? Khi mà gặp những cái lúc như thế này thì còn biết hỏi ai mà để sửa cho đúng. Cho nên đó là những cái điều rất là tai hại, rất là nguy hiểm!
Cho nên tuy rằng, thay vì Thầy sẽ ẩn bóng, nhưng mà vì các con, nếu mà các con bỏ đi hết. Đó thí dụ như cô Minh Cảnh đi rồi, rồi mấy đứa này cũng bỏ đi hết rồi thì trong khi đó là Thầy thấy vừa đúng để cho mình đi. Vì họ đi rồi thì coi như là mình không còn trách nhiệm nữa rồi. Mình dạy theo đó thì họ cứ tu theo đó mà thôi, đủ rồi, thì sự thật ra nó đâu có phải như vậy, đơn giản như vậy đâu.
Cho nên còn lại những đứa, mấy đứa đây thôi, cho nên Thầy ở lại đây để mà cố gắng, để mà giúp đỡ cho mấy đứa, đi đến cuối cùng để đủ kinh nghiệm, để sau khi mà có một người, nhất là Thầy nói Minh Tâm còn bám chặt theo Thầy, làm sao Thầy bỏ nó được!
Cho nên Thầy không thể nào mà bỏ nó được, vì bỏ nó tức là tự nó sẽ đi đến vào cái chỗ chết chứ làm sao mà sống được, cho nên không bỏ nó. Vì vậy mà các con còn cái duyên mà gặp Thầy, chứ còn không khéo thì các con đã rời khỏi đây rồi, thì coi như đương nhiên là đứa nào có chỗ ở thì nấy lo cơm ăn, áo mặc rồi, thì đâu cần, đâu còn gì mà Thầy phải lo.
Thì hôm nay, thì các con thấy đó, có những cái khó khăn mà những cái khó khăn đó là Thầy biết các con đã theo Thầy, tức là Thầy có một cái trách nhiệm, trách nhiệm phải hướng dẫn các con tới nơi, tới chốn, mà các con không ráng thì làm sao Thầy dẫn tới. Con đường nó còn khó chứ đâu phải dễ. Hãy buông xuống đi, các con hãy xa lìa nó đi. Giới luật của Phật đã dạy như vậy rồi, thì chúng ta phải ráng cố gắng mà xa lìa cái tâm chúng ta, giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh.
(02:06) Thầy nhắc đi, nhắc lại sự độc cư các con rất nhiều, các con hỏi một điều gì quan trọng là hỏi, ai hỏi một điều gì không quan trọng thì tìm cách mà lững lờ mà trả lời: “Đó hỏi cô Út hoặc hỏi Thầy, em không biết”, thì từ chối khéo léo. Bởi vì luôn luôn mình phải cảnh giác tất cả mọi mặt, không có nên tiếp duyên, không có nên nói chuyện đời, không có nói nên chuyện này, chuyện kia, không có nói chuyện ở ngoài vì cuộc đời của mình ở ngoài người ta không có cứu mình được đâu, người ta không có nuôi mình được đâu, mà chỉ mình cứu mình.
Các con chưa có thấy cái nỗi khắc khoải, cô Út thì cô cũng lo xa lắm. Cô nói : “Bây giờ nếu một mai mà Thầy đi đâu rồi, Thầy ẩn bóng đâu rồi, thì tụi con phải tự túc sống, phải làm như thế này, phải làm thế khác, chứ không lẽ mà Thầy sống đây hoài. Hoặc là Thầy nói Thầy ẩn bóng mà Thầy cứ ở đây hoài thì cũng không được, mà Thầy đi thì tụi con làm sao sống”. Cho nên do vì vậy nó là cái nỗi khổ, cho nên con mới định cách thức này, cách thức khác, nhưng mà đâu phải giải quyết một ngày, một giờ mà được. Đó là cái nỗi lo của cô Út là như vậy. Thì cô nghĩ rằng bây giờ Thầy còn sống, mai mốt Thầy sống đây rồi Thầy chết, chứ đâu phải Thầy sống hoài được, không lẽ là Thầy lột da Thầy sống hoài.
Cho nên hôm nay, cái bài học kinh Ước Nguyện là để nhắc cho các con cái bước đầu tiên của Đạo Phật, là cái giới luật nghiêm chỉnh, sống đúng trầm lặng, độc cư, sống ăn ngày một bữa, chết bỏ nhất định là không phi thời, chết là chết, chết trong giới luật, không thể là chết phạm giới, mà bài kinh Thừa Tự, “thừa tự pháp chứ không thừa tự thực phẩm”.
Cái bài kinh Thừa Tự Pháp, đức Phật đã vẽ ra cho chúng ta thấy, hai vị Tỳ kheo vượt qua sa mạc để đến thăm Phật, thì một người vì đói khát, mà chịu chết giữ đúng giới luật, một người thì sợ chết, mà để sống để mà tiếp tục tu, thì cuối cùng người này chẳng có ra gì, mà người đã sống đúng giới luật chết để rồi thành tựu được cái sự tu tập của mình, có bấy nhiêu đó mà thôi.
Cho nên ở đây, thí dụ như Thầy trong cái tập của cô Huệ Ân đó, Thầy khuyên là con sắp sửa tuổi đời nó mòn mỏi rồi nó không còn nữa, hãy xả hết đi, đừng nghĩ gì hết, luôn luôn giữ tâm thanh thản, sống trong Định Sáng Suốt, luôn lúc nào cũng vô sự, chẳng biết gì bên ngoài.
(04:41) Coi như là trách nhiệm làm mẹ đối với mấy con cũng đã đủ lắm rồi không còn nữa, đưa cho chúng nó lớn khôn, như con trai thì có vợ, có con rồi; con gái thì đi tu hành rồi, không có còn có lo lắng gì nữa hết. Coi như là gánh nặng mình đã buông xuống hết rồi, chỉ còn hiện giờ là cứu lấy mình mà thôi, cho nên giữ tâm hồn thanh thản, an lạc đừng để tâm bận bịu một cái gì ở bên ngoài nữa hết. Thì tới chừng mà con bỏ thân này thì con rất là an ổn, an nhiên chứ không còn khổ đau nữa.
Còn có những cái thân nó hoại diệt, nó bệnh đau chỗ này, chỗ kia thì chúng ta đã có pháp hướng, thành tâm, tin tưởng, nỗ lực, ra lệnh, triệt để mà cái bài kinh Như Lý Tác Ý mà cô Út đã hỏi. Tại sao Thầy dạy Như Lý Tác Ý, là một phương pháp ám thị, mà Phật thì dạy Như Lý Tác Ý vậy có nghĩa lý gì mà Thầy nhắc đi, nhắc lại cái này rất nhiều? Do đó Thầy sẽ trả lời, sau này thì các con đọc, các con sẽ hiểu được cái pháp Như Lý Tác Ý, nó rất là hiệu nghiệm và rất là ( … ). Cái công năng của nó rất lớn đối với cái sự tu tập của mỗi chúng ta, biết sử dụng nó, thì chúng ta thoát ra cảnh khổ.
Như vừa rồi, Thầy nói như thế này, vì trên chuyến xe đi ra ngoài Phước Hải, ra ngoài Long Hải, thì Minh Tâm hỏi Thầy: “Tại sao cái tay của Thầy lại bó như vậy?” Thầy nói: “Thầy chặt sắt phụ với Mật Hạnh, thì cây sắt nó chĩa vào nó làm gây ra vết thương”. Thì nó nói như thế này, một người mà làm chủ nhân quả, chắc chắn là Thầy sẽ biết cái sự mà kiện nó xảy ra cho cái thân Thầy, thì Thầy tránh chứ Thầy đâu có để cho nó bị thương như vậy, tại sao Thầy để cho nó bị thương?
Đây cũng là một cái câu hỏi mà để cho thấy được, một cái người mà tu chứng làm chủ được nhân quả, các con hiểu làm chủ được nhân quả, nghĩa là nhân quả đến với mình, mình làm chủ được nó chứ không có nghĩa là mình chặn nhân quả, nghĩa là mình biết nhân quả ở cái giờ phút đó.
(06:41) Bởi vì Thầy sinh ra, trong mang cái thân này là cái thân nhân quả, mà nhân quả thì nó có cái ngày đó, giờ đó nó phải xảy ra, nó không phải ngẫu nhiên đâu, nó xảy ra tai nạn, nó xảy ra một vết thương nhỏ, phải đạp một cây gai, phải đạp một chất rắn hay hoặc là đạp phải một cái lông sâu, để nó trở thành những cái bệnh tật, làm cho mình khổ đau phải trả cái nhân quả đó. Thì cái này không ai chạy khỏi hết, nghĩa là, dù là chư Phật thì đối với cái thân này, cũng không thể tránh khỏi, nhưng mà làm chủ được cái nhân quả đó.
Bây giờ cái quả đó nó đến với Thầy, thì một cái người mà không làm chủ nhân quả, thì thấy đau nhức khổ sở, còn trái lại với Thầy, Thầy làm chủ nhân quả và Thầy đã có cái pháp hướng nữa. Cho nên cái vết thương nó làm cho đau nhức, thì thầy ra lệnh: “Cái thọ vô thường phải đi rời khỏi cái thân này, không được đau nhức nữa”. Do đó Thầy giữ cái trạng thái yên lặng, trong tâm của thầy thanh thản thì một lúc sau, cái vết thương không còn nghe đau đớn nữa, gọi là làm chủ nhân quả, chứ không có nghĩa là chặn đứng nhân quả.
Vì cái thân nhân quả là cái thân nó phải thọ lấy những cái bệnh tật, tai nạn, cái gì nó xảy ra cho nó đã nó sắp xếp sẵn rồi, không thể chặn cái nhân quả đó được, mà nó xảy đến, mình có làm chủ nó được hay không? Bây giờ cái thân của Thầy này nè, nó phải tới giờ phút đó nó chết nè, mà bây giờ Thầy làm chủ được cái nhân quả, cho nên tới giờ phút nó chết, Thầy làm chủ được ở trong cái chỗ chết của nó, mà cái giờ phút nó chưa có chết, Thầy muốn chết trước, Thầy cũng làm chủ được nó, đó là cái chỗ làm chủ được cái sự sống chết của nó.
Còn bây giờ vết thương, nó có vết mà bây giờ Thầy chưa có xảy ra tai nạn gì hết, nhưng mà Thầy biết rằng ngày mai này nó sẽ có tai nạn đến Thầy, mà Thầy trốn tránh lại không phải, không đúng, bởi vì cái thân của Thầy thân nhân quả, nó phải trả cái nhân quả đó, mà tránh cái nhân quả sao được? Nhưng mà Thầy phải sống ở trong cái nhân quả đó, tức là nó xảy ra cái tai nạn đó, rồi từ cái tai nạn đó, Thầy mới làm chủ cái tai nạn đó. Cho nên tâm Thầy nó bất động, nó không có còn khổ đau trong cái tai nạn đó. Cho nên gọi là làm chủ nhân quả, chứ không phải trốn nhân quả.
Còn bây giờ Thầy biết, ngày mai này Thầy bị xe đụng nè, nhất định là ngày mai Thầy ở trong chùa, Thầy không đi để cho xe đừng đụng Thầy, tức là Thầy trốn nhân quả, chứ không phải là trả nữa, không phải là làm chủ nhân quả, gọi là trốn tránh, né nhân quả. Các con hiểu.
(8:45) Ở đây, Phật nói, làm chủ nhân quả, làm chủ sự sống chết tức là làm chủ nhân quả, mà làm chủ nhân quả thì trước những cái nhân quả của nó, chúng ta làm chủ chứ không phải trốn nhân quả, còn chúng ta tránh né gọi là tránh né nhân quả.
Cho nên Thầy giải thích như vậy thì nó hiểu rõ ràng. Do đó Thầy mới nói thêm, khi một cái vết thương như vậy, đây là một cái tâm mà. Sự thật ra nó từ cái vết thương này, nó sẽ xảy đến cho một cái tâm niệm, thì trong khi nó xảy ra như vậy rồi, Thầy băng bó cái vết thương rồi, thì đêm đó Thầy nằm ở trên cái tảng đá Thầy ngủ, khuya Thầy thức dậy, Thầy nghe sao cơ thể của mình sao nó mỏi mệt, mọi lần nó không có, mà nay vậy thì nghe nó khó chịu như thế này, mà nghe nó bị sốt.
Thầy mới nghĩ trong đầu, Thầy mới nghĩ như thế này, là như vậy là thanh sắt này nó có vi trùng của phong đòn gánh, cho nên nó bị cái vết thương này mà nó làm cho mình cảm sốt đây, thì như vậy là bị phong đòn gánh rồi. Thầy mới nói: “Phong gì phong, mặc mày, tao có pháp hướng thì tao sẽ đuổi phong đòn gánh đi ra khỏi đây”.
Cho nên Thầy mới ngồi kiết già, Thầy mới hướng tâm, Thầy nhắc: “Cái vết thương này là do giả, do nhân quả mà nó tạo ra, cho nên ở đây mày phải lui ra khỏi đây, phong gì cũng không thể thắng được cái tâm tao, tao không có sợ”. Mà do đó Thầy hướng tâm Thầy nhắc như vậy: “Phải hoàn toàn là cái sốt này, cái cảm nóng lạnh này phải lui ra đi, không được ở đây nữa”. Thầy bắt đầu Thầy ngồi, Thầy nương vào hơi thở, Thầy biết ra nhẹ nhàng ra vô. Bắt đầu cái hơi thở Thầy nó nhẹ nhẹ, nó lặng dần, lặng dần. Một lúc sau Thầy thấy không có còn mà nóng lạnh, không có còn mà đau nhức, không có còn gì hết, hoàn toàn là tự nhiên.
Chứ theo mà các con hoảng hồn, sáng rồi đi chích thuốc rồi, chích thuốc ngừa phong đòn gánh rồi. Còn Thầy thì tự nhiên, do cái pháp hướng của mình đẩy lui hết tất cả những cái gì mà cái tâm nó bị dao động, là đẩy lui lại, nó làm cho chúng ta an ổn trở lại liền tức khắc, tâm hồn thanh thản và bây giờ cái vết thương thì sắp lành, không còn gì nữa, mà chỉ trong mấy hôm, ba, bốn hôm nay chứ không có lâu. Thì các con cái vết thương này sắp lành rồi đâu còn gì nữa. Mà cho nên vì vậy, mà đâu có thể nói rằng bị phong đòn gánh được. Chứ còn nếu mà người khác thì nghĩ rằng đó là cái thanh sắt, thì chắc chắn là nó bị phong đòn gánh.
(11:14) Đó thì ở đây Thầy muốn nhắc cái như vậy để các con thấy là cái pháp hướng của chúng ta có hiệu quả. Cũng như bây giờ, cái thân của cô Huệ Ân nó già, thì nó phải suy yếu, thì nó nay nó phải bệnh tật này, mai bệnh tật kia, nó đau nhức chỗ này, nó đau nhức chỗ kia để nó hoại diệt chứ có gì đâu.
Một cái nhà mà nó sắp sửa nó hoại diệt, thì nó bao giờ nó cũng mục nát, rồi nó mới sập xuống được, chứ còn nó cứng như vậy làm sao mà nó sập được? Thì cái thân của mình nó muốn đổ vỡ, nó muốn sập, thì nó cũng phải mục nát ở bên trong đó rồi nó mới đổ, mà nó mục nát thì tức là nó phải đau nhức chứ. Nó đau nhức thì cái nhân quả của cái thân nó hoại diệt, nó vô thường như vậy thì mình trốn sao khỏi nó.
Cho nên, mình có pháp hướng, mình làm chủ, mình chỉ cần giữ cái tâm mình thanh thản, tự nhiên, không sợ hãi, không lo lắng cái sự chết, sống, không sợ hãi cái sự đau nhức, mà mình dùng pháp hướng nhắc thì tức là cái bệnh của mình sẽ mất đi và mình sống lại với cái trạng thái bình thường, thanh thản, không đau, không nhức, không thọ gì hết.
Mặc dù cái cơ thể này nó đang hoại diệt, chứ không phải là thiếu hoại diệt. Đó, thì các con thấy, cái pháp hướng của chúng ta là cái pháp làm chủ được cái thọ, được cái thân, được cái sự sống chết của chúng ta rất là rõ ràng, cụ thể. Mà nếu mà các con đừng sợ hãi, đừng để tâm dao động, thì pháp hướng rất hiệu quả. Còn các con có sự sợ hãi, có tâm dao động, một chút sợ nó chết, sợ này, kia, lo nó phải uống thuốc, rồi phải phá giới, phải ăn thêm thì các con sẽ không bao giờ mà có hiệu quả ở trên pháp hướng hết. Nó mất thanh tịnh rồi, thì nó không có còn hiệu quả, nó không còn vi diệu nữa được. Còn cái người mà người ta giữ gìn đúng giới hạnh thì nó vi diệu, nó hiệu quả, nó giúp chúng ta thấy an ổn được cái cuộc sống chúng ta, không ai mà động chạm.
Cho nên, các con sẽ đọc tới cái pháp Như Lý Tác Ý, mà khi bị người khác chửi, mà chúng ta dùng nó mà chúng ta… Đến đỗi mà đức Phật dạy như thế này nè, khi mà chúng ta quán xét từng cái hành động nó, mà chúng ta chưa xả ra được, chúng ta quán nó là ác pháp, thiện pháp cũng xả chưa được thì chúng ta hãy đè nó lên nóc vọng, nghĩa là răng cắn chặt lại, lưỡi đè lên nóc vọng, chúng ta dùng pháp hướng ra lệnh nó, thì cái tâm sân, cái tâm phiền não chúng ta sẽ xuống liền tức khắc.
(13:26) Nghĩa là, chúng ta ra lệnh nó bằng cách là chúng ta cắn chặt răng lại, chuyển hết thân cái lực của chúng ta để mà dùng cái pháp hướng Như Lý Tác Ý ra, thì cái tâm sân của mình bắt đầu nó sẽ đoạn dứt liền tức khắc, nó không giận hờn, phiền não nữa, nó không còn kéo dài nữa. Đó là cái lối phương pháp để dùng cho những cái pháp hướng.
Cho nên bây giờ, cái thân chúng ta đang đau nhức nè, mà bây giờ nó nhức quá chúng ta chịu không nổi nữa. Bây giờ cắn chặt răng lại, lưỡi đẩy lên nấc vọng nè, tập trung tâm mình gom lại, dùng pháp hướng: “Cái thọ phải lui đi, không có được ở đây nữa”, hoàn toàn trong khi tâm chúng ta ra lệnh, mà thân của chúng ta thì cắn chặt răng lại, coi như là gom hết cái sức thân của mình lại trong cái lưỡi và cái hàm răng của chúng ta. Do đó chúng ta ra lệnh cái đau đó nó sẽ lui đi, nó không còn đau nữa. Đó là cái lời trong kinh đức Phật dạy, mà của cái bài kinh mà Thầy… Các con sẽ đọc, sau này thì các con biết, cái gì đức Phật cũng căn dặn, dạy chúng ta rất đầy đủ.
Qua bài kinh Ước Nguyện, đối với Đạo Phật, ta ước muốn những gì để đạt được kết quả theo ý muốn của mình, thì đều phải thực hiện tu tập và sống đúng giới luật, đó là một nền tảng vững chắc của Đạo Phật. Nếu ai bỏ nền tảng vững chắc này, tu tập dù tu đúng thiền định của Đạo Phật thì cũng trở thành tà thiền, tà định. Nghĩa là, bây giờ mình có tu, mình cách thức mà Phật dạy đúng như vậy mà mình bỏ giới luật, thì mình cũng sẽ, những cái thiền định đó cũng sẽ là tà thiền, tà định.
Cũng chẳng hạn bây giờ các con thấy, Thầy bảo các con hướng tâm này, nhắc này, phá âm thanh này, tai, nhĩ căn, nhĩ thức quay vô này, không có được nghe này, đó là đúng pháp rồi đó, mà các con sống chưa đúng giới luật, thì các con có thấy phá được không? Không phá được tức là các con tu tà thiền, tà định rồi đó, các con thấy chưa? Tại sao vậy?
Tại vì lìa khỏi pháp môn căn bản của Đạo Phật, mà cái pháp môn mà căn bản đó là cái pháp môn Giới Luật của Phật, mà Phật gọi là pháp môn căn bản. Tức là Giới Luật, một pháp môn đầu tiên của ba pháp môn vô lậu Giới - Định - Tuệ.
Bởi vậy, nhìn tu sĩ Phật Giáo mà biết Phật Giáo suy hay thịnh, mất hay còn không phải ở số đông tu sĩ Phật Giáo, không phải ở chỗ Phật Giáo được chấp nhận là quốc giáo, không phải Giáo hội Phật Giáo được tổ chức như một quốc gia, có các trường học từ sơ, trung và cao đẳng, để tu sĩ học tập có cấp bằng cử nhân, tiến sĩ, v.v… Cũng không phải ở chỗ xây chùa to, tháp lớn, kiến trúc kiên cố, vĩ đại mà ở chỗ tu sĩ phải sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ của giới bổn đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt.
(16:05) Nói tóm lại, vị Tỳ kheo phải giữ gìn giới luật nghiêm túc thì Phật Giáo mới còn và hưng thịnh, còn chúng Tỳ kheo phá giới luật, Phật Giáo mất và không hưng thịnh. Lời di chúc năm xưa của đức Phật còn vang mãi trong tai chúng ta: “Giới luật còn là Phật Giáo còn, giới luật mất là Phật Giáo mất”. Đó là cái lời mà di chúc của Phật khi mà Phật sắp mất đó, đức Phật đã nói.
Hỡi quý vị Tăng, Ni và cư sĩ, quý vị có muốn Phật Giáo trường tồn với loài người trên hành tinh này chăng? Hay để cho Phật Giáo suy tàn, chìm mất trong lớp bụi mù dày đặc của tà pháp ngoại đạo đang phủ trùm che khắp?
Nếu muốn nó được trường tồn và hưng thịnh mãi mãi, đem lại hạnh phúc an vui cho loài người, không làm khổ mình, khổ người, thì người cư sĩ đệ tử Phật tại gia hãy giữ gìn giới luật của người cư sĩ mà đức Phật đã dạy. Phải nghiêm túc khi đã thọ Tam Quy, Ngũ Giới và Thập Thiện, phải lấy nó phòng hộ cuộc sống của mình. Phải gìn giữ đầy đủ oai nghi chánh hạnh, phải thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt thì Phật Giáo sẽ còn với quý vị, với loài người.
Còn Tăng, Ni đệ tử xuất gia của đức Phật, nếu muốn Phật Giáo được trường tồn, làm ngọn đuốc sáng soi đường cho mọi người trên quả địa cầu này, đi tìm chân lý giải thoát, thoát khỏi kiếp khổ đau của loài người và cũng chính bản thân của quý vị. Quý vị có muốn làm chủ bốn sự khổ đau sanh, lão, bệnh, tử đang tấn công quý vị hàng giây, hàng phút, nếu quý vị lơ đễnh thì ôi thôi, uổng một kiếp người. Nếu muốn làm chủ bốn sự đau khổ này thì quý vị đã thọ Cụ túc giới phải nghiêm chỉnh, sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, không bẻ vụn giới luật như các Tổ đã làm, mà quý vị đang chịu ảnh hưởng rất nặng. Quý vị phải sống phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ của giới bổn, phải đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm nhỏ trong những lỗi chân chánh, lãnh thọ và học tu các giới.
(18:22) Thì đó thì các con thấy, trong cái sự tu tập ở đây là cái bài cuối cùng về giới luật, đó là cái lời nhắc và muốn Phật Pháp sống thì phải làm như vậy, không thể nào khác hơn; và muốn cứu mình ra khỏi sự đau khổ của kiếp người, thì không phải ngoài pháp môn giới luật mà làm chủ được mà ở trong pháp môn giới luật. Thì muốn tu tập được như vậy, thì các con phải cố gắng và cố gắng hơn, để mà thực hiện cho được sự làm chủ của kiếp người.
Mà hầu hết là từ khi mà Thầy dạy về giới luật cho đến nay, thì hầu như Thầy thấy các con quá thờ ơ với những cái lời dạy và quá thờ ơ với sự xả tâm. Hãy cố gắng xả đi, đừng có giữ nó làm gì trong tâm của chúng ta để mà khổ. Mọi cái duyên sự gì bên ngoài thì chắc chắn là nhân quả thì của ai thì người ta phải chịu lấy, chúng ta có nghe được mà giúp đỡ họ, thì cứ lấy giới luật mà nhắc nhở họ mà thôi, được hay không được là do ở quyền của họ, còn mình hãy cứu mình, chứ còn nếu mình không cứu mình thì ai cứu mình cho được?
Cho nên, ở đây Thầy khuyên các con, bây giờ còn lại không có mấy người. Thầy cũng không muốn nhận thêm, vì trong một cái số tu sĩ ở ngoài Biên Hòa, mà các cô cũng như là các thầy muốn về đây ở tu. Nhưng mà Thầy không chấp nhận là vì cái người mới quá, biết đâu chừng giới luật người ta không thể nào sống được, mà người ta ham thì như vậy trong một, hai ngày, nhưng mà lâu rồi người ta sẽ chểnh mảng và cũng coi thường giới luật.
Vì chúng ta đã sống ở đây quá nhiều người rồi, chúng ta biết rồi. Bây giờ có muốn nhận họ thêm, thì cũng chẳng qua là làm cho cực thêm mấy con mà thôi, rồi lại cực Thầy thêm chứ cũng không gì hơn. Cho nên khéo léo từ chối không để làm mích lòng thôi. Chứ con đường của Phật Pháp quá khó, khó tại vì giới luật, khó tại vì đức hạnh của chúng ta phải xả tâm ly dục, ly ác pháp. Cho nên cái con đường này rất khó, không phải dễ.
(20:23) Nếu là thiền định của Đông Độ, của Đại thừa, của Tịnh Độ, của Mật Tông thì chắc chắn không khó. Bởi vì đời sống chạy theo những dục lạc thế gian, ăn ngủ phi thời, thì chắc chắn là không khó rồi. Còn đời sống của chúng ta khó quá là vì ăn ngủ không được phi thời, sống trầm lặng một mình. Còn cái kia thì vui chơi, nói chuyện này kia nọ đủ thứ, cho nên làm sao mà họ theo được. Vì vậy mà Thầy chỉ mong, làm sao chúng ta chỉ một, hai người là cũng đủ nói lên được Phật Pháp rồi. Chứ còn trông nhiều người thì không thể nào hy vọng được hết.
Thì hôm nay, ở đây thì các con còn lại mấy người, thì các con hãy ráng mà nỗ lực. Đứa nào có quyết tâm thì giải thoát cho chính bản thân mình và cũng là thắp sáng lại ngọn đèn của Phật Pháp. Còn lại không được mấy đứa nhưng mà còn cố bám theo Thầy, chứ Thầy định khi mà Thầy tuyên bố ẩn bóng rồi, thì chắc chắn lần lượt thì các con sẽ rút lui. Vì đối với cô Út, thì các con biết rằng, cô không từ, không tha một người nào, cô mong rằng đập cho được, xả cho được tâm của mấy con mà thôi. Cho nên, chắc các con là, Thầy nghĩ rằng, sau những cái cuộc mà ẩn bóng của Thầy, thì chắc các con không còn ở đây nữa.
Nhưng mà cuối cùng thì các con cũng còn được năm, ba đứa mà ở lại đây, cho nên vì vậy mà Thầy tiếp tục, Thầy ghi lại những cái điều đúng, sai của Phật Pháp, để mong ngày sau có những cái tài liệu làm cảnh giác cho người sau. Nếu mà người ta tu không được, thì người ta cũng thấy cái đúng của Phật Pháp mà cái sai của Phật Pháp, chứ không khéo người ta cũng cho đó là của Phật Pháp hết thì đau lòng cho đức Phật.
Pháp của Phật đâu có giống như pháp của người ta thế mà bây giờ cái gì cũng là của Phật hết thì rất đau lòng. Lên đồng, nhập cốt cũng hô Phật, rồi bói khoa rồi cũng là Phật, rồi làm thầy trị bệnh cũng hô Phật, cái gì cũng của ông Phật hết, làm những chuyện mê tín cũng Phật, cái gì cũng là Phật, đau lòng như vậy.
(22:45) Cho nên, nhân cái dịp còn ở lại thế gian trong một vài phút, vạch ra cho hết những cái sai lệch của Đạo Phật, giúp cho người sau người ta biết được Phật Giáo cho nó rõ ràng hơn và chính xác hơn, là cái bộ kinh Nguyên Thủy mà Hòa thượng Minh Châu đã dịch.
Thì hôm nay, các con là những người mà có đủ phước duyên, chứ hầu hết là nhìn chung các tu sĩ hiện giờ, các con thấy họ có thể nào mà theo mình tu được không? Mà họ có biết được cái đúng cái sai đâu. Kinh sách của Thầy thì các con thấy, họ đọc chỉ có một cái số hàng triệu người, thì Thầy nói rằng ở trên đầu ngón tay chúng ta đếm mười người, chưa có đọc đủ đến mười người nữa, huống hồ là phải nói rằng cái số đông.
Bởi vì, vừa rồi thì các con biết rằng, kinh sách của Thầy in ra nó đâu có dễ dàng đâu. Nếu mà in ra được thì nó lại còn cái những khó khăn, người ta có quyền người ta tịch thu nó được, cho nên tất cả những cái khó khăn này nó không đơn giản đâu.
Vì vậy mà, cái phước của chúng sanh mà để đọc những cái lời kinh, lời dạy của Thầy thì nó không phải là nhiều đâu. Cho nên nếu mà nói nhiều thì chắc chắn là chúng sanh có phước lớn, còn nó không nhiều thì chúng sanh nó đang thiếu phước, cho nên nó chẳng biết Phật Giáo là gì, nó chẳng biết Phật Giáo là ở góc độ nào. Cho nên nó chưa có thông suốt được Phật Giáo, còn các con là những người có phước, biết được con đường tu đúng và sai, không phải là ở lời nói của Thầy, mà ở sự suy ngẫm của các con, suy ngẫm như thế nào?
Hai mươi mấy năm trời nay, thì Thiền tông từ khi Hòa thượng chấn hưng lại, phải nói rằng người ta tích cực tu thiền rất nhiều. Nhưng mà hiện giờ, thì bàn tay chúng ta đếm lại cái người mà đạt được có cái ngón tay nào không? Hay là chỉ là lý thuyết suông? Nếu mà Thiền tông thì phải nói làm chủ sanh tử chứ, chấm dứt sự luân hồi chứ, mới đúng chứ, chứ đâu phải là Thiền tông mà cái lời nói suông, nói miệng không.
Nhưng có ai mà nhập định bảy, tám ngày, một tháng, hai tháng làm chủ được sự sống chết này chưa? Chưa nè. Quý thầy lớn có nè, quý thầy nhỏ có nè, các vị đệ tử Hòa thượng tu mười năm, hai chục năm, bây giờ có người chết. Các con thấy, như các vị huynh đệ của Thầy, có người bây giờ đã chết rồi nhưng họ có làm chủ được không? Họ cũng theo Hòa thượng tu rất lâu, đến khi chết họ bệnh đau cũng khổ sở rồi họ chết, có người nào làm chủ không?
(25:00) Đây, bắt đầu bây giờ các con hỏi cô Minh Cảnh nè, biết thầy Thiện Pháp không? Thầy làm trụ trì Thường Chiếu trước kia đó, thầy chết đi thầy có làm chủ không? Bây giờ tới giai đoạn của thầy Phước Hảo nè, thầy cũng sắp sửa nè, thầy cũng già yếu rồi đó. Bây giờ ai về đó hỏi thầy, thầy có làm chủ được sự sống chết chưa nè. Thì tất cả những cái này, khắc khoải trong suốt cái thời gian quý thầy nhập thất tu hành, chứ đâu phải quý thầy lơ mơ đâu, nhưng mà cuối cùng bây giờ có được gì không?
Thì sau khi mà Hòa thượng tịch rồi, thì các thầy này phải sống như thế nào đây? Thì các thầy phải trở về Tịnh Độ thôi, chỉ có Tịnh Độ mới sống được thôi. Thì hôm nay, thì bây giờ các con mà không tu được, thì ngày mai này cái chùa này Thầy có dạy các con tụng niệm không? Người ta còn có tụng niệm nè, mặc dù là Hòa thượng dạy thiền, nhưng mà người ta còn tụng niệm, người ta tụng Bát Nhã, người ta đi cầu an, cầu siêu được.
Còn các con có tụng niệm gì đâu được đâu, cuối cùng thì các con đi đến những chùa người ta… Phật tử đến mời các con tụng niệm, như thầy Từ Minh chẳng hạn. Các con thấy, ở ngoài miền bắc người ta đến mời thầy đi tụng niệm, thì thầy cũng làm bướng chứ thầy có dạy tụng niệm đâu. Cho nên thầy cũng xách mõ, gõ mõ thì không đúng cách, phải không? Hồi hướng thì cũng không đúng, cho nên Phật tử mới nói dường như thầy là người mới tụng niệm lần đầu tiên. Đúng vậy, đầu tiên tụng niệm, thuở giờ có tụng niệm bao giờ đâu, chuông chẳng biết đánh sao nữa, chứ đừng nói.
Thầy ở đây Thầy dạy các con đúng theo Phật là không có tụng niệm, không có đi Tịnh Độ. Cho nên ở đây, chuông, mõ này kia Thầy dẹp sạch, không có tụng niệm kiểu đó. Cuối cùng bây giờ các con ra làm sao mà đi đám ma người ta mà sống nè? Phải không? Bây giờ không lẽ đi làm sao bây giờ? Đâu có biết. Mà bây giờ nếu mà muốn vậy thì các con phải đến mấy chùa Tịnh Độ mới học một khóa lại đi, rồi mới về gõ mõ, gõ chuông tụng niệm.
Bây giờ như cô Lan đó biết tụng niệm đó, làm kên kên đi ăn thịt thây ma được đó. Chứ còn các con đi ăn thịt thây ma họ không cho ăn đâu. Họ còn nói thầy bộ mới tụng niệm lần đầu tiên, phải không? Các con hiểu chưa? Đó như Chơn Trí, nó tụng niệm được đó, nhưng mà nó cũng không muốn làm kên kên đi ăn thịt đám ma mà, ăn người chết mà. Cho nên vì vậy đó, mà ráng mà nỗ lực tu, cho nên vì vậy các con thấy xét đi, xét nghĩ kỹ lại, đó là cái thứ nhất.
(27:14) Các con không thể mà biến các con được thành Tịnh Độ đâu, Thầy không chấp nhận điều đó, cho nên không dạy các con tụng niệm. Thầy từ ở trong cái gia đình Tịnh Độ ra, Thầy tức là Thầy phải biết tụng niệm rồi. Nhưng mà chưa hề Thầy dạy ai hết về tụng niệm. Rồi bây giờ, Thầy dạy các con tu mà các con tu không xong thì các con làm cái gì giờ? Rồi đến cái nghề nghiệp sống Thầy cũng chẳng có dạy các con cái nghề nào sống hết.
Thầy nói, nhìn cái đám mà các con trồng hồi đó tới bây giờ, chưa có cây nào mà nên hồn nên vía hết, phải không? Các con thấy có cái trái nào ăn đâu. Mà bây giờ, Thầy giao cho Mật Hạnh, rồi Thầy chỉ cho Mật Hạnh làm, thì các con thấy nữa nè thơm nó ra thơm nè, cái gì nó ra cái nấy nè. Mà nếu mà giao các con thì ba cái đống rác đó đổ riết rồi chắc nó cũng không ra gì hết, thật sự ra nó không ra gì hết, không có cái kết quả.
Cho nên, xét đi, xét lại cô Út cô lo là vậy, không biết là khi Thầy chết hay hoặc là Thầy đi đâu, Thầy ẩn bóng rồi, thì bắt đầu bây giờ mình ở đây sống làm sao đây? Phải không? Các con hiểu điều đó. Cho nên, cái khó khăn là cái chỗ này, phải ráng tu để cứu lấy mình và đồng thời cũng làm ánh sáng cho người khác soi. Và vì vậy mà cái uy tín của các con là tự các con đã thắp sáng lên, thì chừng đó, các con ngồi đó mà các con không phải cần mà người ta đem cúng dường các con đâu.
Các con muốn ăn cái gì nó có cái nấy, cái đạo lực của các con đó, các con còn sống, các con muốn một bữa cơm chay. Thầy nói như thế này này nè, cỡ sức bây giờ Thầy vào trong rừng, trong núi đi, Thầy ở một mình đó, Thầy chẳng cần củ khoai gì hết, Thầy muốn ăn cơm chay, muốn ăn hủ tiếu, muốn ăn đồ xào, đồ gì, Thầy bảo đem dâng đây Thầy một mâm đi, cái nó đem vô, Thầy ngồi đây Thầy ăn đã thôi, phải không các con? Thầy biểu dọn đi thì nó biến mất, không có sướng hay sao, tu hành đến cái mức độ vậy không sướng sao.
Cho nên đâu có cần gì, thí dụ như bây giờ, Thầy muốn đi đâu, đâu cần phải đi xe hơi, xe cộ gì, Thầy bảo bay đi cái chỗ đó đi, cái thân nó bay riết tới cái chỗ đó, nó đáp xuống, ra lệnh nó đi mà. Thì cái chuyện tu hành chúng ta, nói đùa chơi như vậy, nhưng mà sự thật ra nó tự tại như vậy, nếu mà tự tại trong sanh tử thì phải tự tại được cái gì chứ. Chứ đâu phải.
(29:04) Cho nên bây giờ, tu không xong thì cơm không biết làm sao đây mà có cơm ăn. Còn tu xong rồi thì muốn ăn cỗ bàn bây giờ, nhà hàng nó có cái thứ gì mình muốn ăn cái thứ gì cũng có. Đó là cách thức muốn nói như vậy, để biết rằng cái đạo lực của chúng ta tu nó đến mức độ đó, mà tại sao chúng ta biết được như vậy mà chúng ta không thực hiện cho được, mà chỉ có chút xíu.
Thầy nói, bỏ cái tâm tham, sân, si đi, dẹp nó qua bên đi, ai chửi mình như cục đất vậy, thử coi các con được không? Thầy nói, các con mà cái tâm mà nó không có phiền não nữa rồi, các con bảo nó bay trên mây xanh, nó bay cho mà coi, nó đi còn hơn máy bay nữa, phải không? Các con bảo, bây giờ đi ra miền Bắc tức thì bây giờ ở miền Bắc, thì ngay đây cái thân đây mất nó ra ngoài đó, tới ngoài đó rồi, đâu có Chơn Trí mà đi hai, ba bữa mới tới ngoài.
Các con thấy, nó nhanh như vậy đó, nó quyền lực như vậy, các con chưa tin đâu, tới chừng nào mà các con làm được rồi: “Trời ơi! Thầy nói hồi đó mà tôi không tin, cho nên tôi tu quá chậm”. Các con thấy không? Không phải là Thầy gợi cái tâm ham muốn thần thông các con đâu, mà cái đạo lực, cái quyền lực của người tu là như vậy đấy.
Mà có chút xíu, Thầy nói có chút xíu, cái tâm tham, sân, si đừng có, bỏ xuống hết đi, bỏ xuống sạch đi, đừng có ham, đừng có thắc mắc, đừng có rầy rà, đừng có cái chuyện lặt vặt của các con nhỏ, cái chuyện không ra gì hết, mà cứ ôm ấp hoài trong lòng. Sao không bắt chước Thầy bỏ hết đi, ai nói mình như cục đất vậy có được không? Có bấy nhiêu đó thôi, Thầy bảo các con bao nhiêu, có cần gì tu, bỏ xuống cái khỏi cần tu gì hết, nó sướng gần chết, rồi muốn đi đâu nó cũng tự tại hết, thật sự ra thì như vậy đó, các con cứ làm đi.
Bởi vậy Thầy nói, cuối cùng Thầy nói: “Có một chút sao lại tụi nó bỏ không được, kỳ?” Có một chút tham, sân, si có một chút thôi, mà bỏ xuống mà bỏ không được. Mà bỏ xuống nè bệnh đau không có nè, khổ đau không có, bởi vì mình bảo nó bỏ được thì mình bảo cái gì nó cũng bỏ được hết.
Đó bằng chứng như cái tay Thầy này, Thầy bảo nó không nhức, không đau, không nhức đau gì hết. Thì bằng chứng các con thấy cái pháp mà nó có hiệu quả, thì nó có chút chút các con cũng thấy có hiệu quả rồi, nhưng mà nó chưa sâu, nó chưa bằng cái lực như Thầy.
Các con có bệnh đau nè, các con làm cho cái tâm mình vững vàng, đừng dao động nó chút nó hết, thì đó các con thấy nó hiệu quả vậy, đây là cái hiệu quả nhỏ nhỏ thôi. Nếu mà các con bỏ sạch cái tâm của các con rồi, thì cái hiệu quả nó như thế nào các con biết không?
Bây giờ bảo ông trời sụp, nó sụp xuống hết, chứ nó không dám cãi mà nó nằm đó đâu. Bảo đất này tan nát nó phải tan nát hết, nó chết hết cả đám nhau nữa, nó không dám cãi mình nữa. Nhưng mà mình đâu có làm chuyện ác như vậy, làm chuyện vậy nó sụp xuống chết thiên hạ sao.
Cho nên Thầy ví dụ như vậy đó, mình không có làm ác như vậy. Nhưng mà mình bảo sao nó nghe vậy, bảo trái đất này nó tan tành là nó tan tành. Cái lực của mình nó vĩ đại như vậy, nó siêu việt như vậy đó, mà sao các con không có, chấp làm chi mà nhỏ mọn, cái tâm tham, sân, si mà cứ ôm hoài trong bụng.
Thầy mà biết nó nằm chỗ nào, Thầy mổ ra, Thầy lôi nó ra, Thầy ném ở ngoài đồng, Thầy đem Thầy chôn ở ngoài cái đám mả kia kìa, cho nó hết. Bởi vì cái tâm đó nó không biết ở chỗ nào mà móc nó ra, chứ còn Thầy biết, Thầy móc Thầy ném đi cho rồi, để làm chi mà nó chịu cực khổ. Bây giờ thì nó cũng hết giờ rồi.
(32:06) Bây giờ thật sự ra thì, Thầy nhắc lại, trong khi mà tại sao mà các con ngồi đây, mà Thầy kiểm tra, từ ba mươi phút hay hoặc là, thường thường thì ba mươi phút thì các con ngồi thẳng thớm, ngay ngắn? Tại vì các con quá sợ Thầy cho nên mới ngồi ngay ngắn. Còn một mình các con ẹo qua, ẹo lại, là tại vì các con tự tại, tự do quá rồi, không ngán ai hết, cho nên theo thân của mình sao thì mình ngồi vậy.
Cho nên ở đây, các con thấy, lúc nào các con muốn mà ngồi cho ngay ngắn thì các con cứ nói, Thầy đứng sau lưng đó, coi chừng đó, thì như vậy thì may ra cái lưng con nó mới thẳng và tâm nó mới chân chánh và đồng thời thì các con nhớ rằng, trong cái vấn đề Thầy dạy, nó không phải cấp ở chỗ các con ngồi nhiều mà tập tỉnh thức, tỉnh thức trong cái sự tỉnh thức đó, xả tâm trong sự tỉnh thức nó, để mà ly, để mà dụng cái pháp hướng.
Thí dụ như bây giờ các con ngồi hít thở nè, thì chỉ trong vòng mười hơi thở hay năm hơi thở nó yên lặng nó không có một tạp niệm, thất niệm thì các con hướng: “Quán ly tham tôi biết tôi ly tham”, nghe không? “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Các con nhắc như vậy, câu hữu vậy để cho nó ly cái tâm tham, sân, si của mình ra.
Rồi hàng ngày các con quán như vậy, để cho nhắc nhở cái tâm của mình, cho nó định tĩnh ở trên cái sự tham, sân, si cho nó biết, thì nó có cái sự tham, sân, si đó để cho mình nhận ra. Mình thấy tâm này là tâm tham, tâm này là ác pháp, mà khi các con biết nó là tâm tham, ác pháp thì nó xả xuống, các con hiểu chưa? Bây giờ nó không chịu xả xuống thì bắt đầu các con mới sử dụng nó, quán nó nhân quả thì nó xả xuống, mà nó không chịu xả xuống thì các con quán cái hành của cái niệm nhân quả đó, cái hành của cái tâm tham, sân, si đó.
Các con đi từng từng tuần tự những cái hành của nó, thì chẳng hạn cái hành nó như thế nào? Bây giờ các con quán, hồi nãy nó xảy ra, nó phát khởi như thế nào? Rồi bắt đầu cái hành đó nó đi dần dần, nó ngầm ngầm ở trong tâm mình như thế nào? Nó chậm chậm lại dần như thế nào? Bây giờ nó còn ở trong dạng gì? Thì mình hướng tâm từ từ.
Thí dụ như bây giờ Thầy nói nhắc thí dụ, một người đang chạy, họ đang chạy vùn vụt vầy, thì họ biết, họ suy nghĩ trong đầu họ, họ biết họ đang chạy. Cho nên họ ra lệnh, bây giờ đi chậm không có được chạy, thì bắt đầu họ ra lệnh bảo đi chậm thì cái người đó họ đi chậm lại.
(34:24) Rồi bắt đầu bây giờ họ đi chậm, rồi thì họ biết, họ suy nghĩ đi chậm. Họ bảo bây giờ không có đi chậm nữa, mà phải đứng lại thì cái người này họ đứng lại. Bởi vì mình ra lệnh mình bảo, từ từ dùng pháp hướng đứng lại. Rồi bắt đầu bây giờ nó đứng lại rồi, thì bắt đầu cái người này biết mình đã đứng lại rồi.
Do đó bây giờ đó là quán xét các hành, các hành của cái tâm tham của mình, mà cái hình ảnh thì giống như là Thầy nói cái hành của một cái người chạy đi đó. Bây giờ đứng rồi, nó đứng rồi thì mình biết cái tâm mình nó đứng rồi, thì do đó mình mới quán bây giờ ngồi xuống, mình ra lệnh nó ngồi, bây giờ biết đứng rồi thì bảo nó ngồi xuống thì bắt đầu đến bây giờ nó ngồi.
Thì bắt đầu mình ngồi xuống chứ gì, mình ra lệnh cái mình ngồi xuống, mình ngồi xuống rồi thì bây giờ mình biết nó đang ngồi rồi, thì do đó bây giờ mình bảo nằm xuống, thì bắt đầu mình ra lệnh nó nằm xuống thì nằm xuống, tức là nó xả. Các con hiểu không? Đó là quán các hành để mà xả cái tâm tham, sân, si của mình.
Mà bây giờ nó không được nữa, nói vậy mà nó không được nữa, nó không xả cái tâm tham, sân, si nó còn tức ở trong này nè. Mà do đó, mình cắn nóc vọng cho cứng, mình ra lệnh: “Hãy buông xả đi”, thì nó sẽ buông xả. Nó năm cách thức mà, Thầy đã nói là năm cách thức ly dục, ly ác pháp mà, các con nhớ cái bài Thầy chưa? Phải không?
Cho nên khi mà chúng ta cắn chặt hàm răng, để cái lưỡi nóc vọng, hướng tâm ra lệnh: “Như Lý Tác Ý phải xả xuống, không có được giận hờn nữa, không được phiền não nữa, chuyện tầm thường mà không chịu bỏ, mày chết”. Ra lệnh nó vậy cái bắt đầu nó nhẹ xuống, nó hết, nó xả, nó có năm cái phương pháp để mà chúng ta ly dục, ly ác pháp.
Bây giờ nó xả, như vậy là hàng ngày mình tập tỉnh thức như thế nào? Mình ngồi, mình thở, mình nhớ, mình nhắc nó, rồi mình đi kinh hành. Đi kinh hành có hai cách.
Cách thứ nhất là kinh hành tập trung, tập trung là mình để tay mình trước ngực hay hoặc mình khoanh tay hoặc là mình chắp tay sau lưng của mình. Vừa đi vừa nhìn dưới bàn chân mình tỉnh thức. Rồi đi chừng mười bước hay năm bước mình lại nhắc: “Quán ly tham tôi biết tôi đang đi kinh hành, quán ly tham tôi biết tôi đi kinh hành”, thì cứ mình nhắc như vậy, thì mình đi vậy nó tỉnh thức để mà nó ly tham, ly sân, ly si mình ra, đó là cái thứ nhất.
Cái thứ hai, bây giờ nó mệt nhọc, mà thấy nó không được mình thư giãn nó ra. Thì bắt đầu bây giờ mình vừa đi, mình thư giãn: “Tất cả các tâm, cơ này đều kêu thư giãn xuống, buông xuống, buông xuống hết, buông xuống, thanh thản”. Thì mình vừa đi, vừa biết mà vừa buông, mình không có tập trung như vậy nữa, mình không ấy. Mình thì đi chút chừng khoảng độ chừng năm, mười bước thì mình nhắc: “Tinh thần, tư tưởng, cái thân, các cơ đều buông xuống, xả xuống, thư giãn hết, mình nhắc nó vậy, một lát nó thoái mái, nó dễ chịu hết”.
Còn về cái phần mà xả, hồi nãy dùng pháp hướng để xả thư giãn nữa, nếu mà bây giờ nó dụng hết sức của mình mà đuổi nó không được rồi bắt đầu đó mình thư giãn, mình dùng cái pháp hướng mình thư giãn: “Bây giờ, tâm tham, sân, si này nè, các cơ buông xuống, thả xuống, thư giãn”, rồi bắt đầu mình nằm dài ra, mình hướng tâm mình xả xuống, thư giãn, thư giãn. Mình thư giãn lúc, cái sân nó cũng mất hết.
(37:13) Đó là cách thức để mà dùng pháp hướng để mà xả nó bằng cách thư giãn. Cho nên nó có những cái pháp để mà chúng ta thư giãn. Chứ không phải là nói là bây giờ tôi quán cái nhân quả rồi, cái ngay nó xả cái tâm tôi, nó chưa có cái nó chưa chịu xả đâu, nó chưa có hết sân đâu. Bây giờ đó mình tiếp tục những cái pháp lần lượt cái mình xả, xả riết cái tới cái pháp thư giãn là mình thư giãn, buông hết.
Đừng dẫn đạo vào tâm như thế nào? Dẫn đạo vào tâm là nghe nhiều, học nhiều kinh sách mà không có thực hành hoặc có thực hành cũng chỉ là thực hành bằng hình thức, lấy lệ. Càng học nhiều, càng nghe nhiều, bản ngã càng to lớn, thì tâm tham danh, thích lợi càng nhiều, nên làm bít mất đường lối tu tập giải thoát của họ. Cho nên suốt đời họ chẳng có sự giải thoát mà chỉ có sự đam mê.
Bởi vậy, Thầy dạy đừng dẫn đạo vào tâm là vậy. Cô Diệu Quang dạy, không chịu giải thích cho các con, mà phải tự các con tìm cách xả ngã, diệt tâm ham muốn của mình và cũng từ đó phải tự triển khai trí tuệ thông minh, vô sư của tư tuệ. Phần nhiều đời nay, người ta dẫn đạo vào tâm chứ ít ai biết cách dẫn tâm vào đạo.
Trong kinh Nguyên Thủy Phật dạy Như Lý Tác Ý, đó là dẫn tâm vào đạo. Trong kinh Tiểu thừa Phật dạy pháp hướng tâm, tức là pháp dẫn tâm. Xưa đức Phật còn tại thế, không có cho ghi chép kinh sách, chỉ vì sợ các đệ tử của mình dẫn đạo vào tâm, nên đức Phật chỉ nói, để cho tu tập mà không cho ghi chép lại.
(40:15) Đến sau này, kết tập mới có kinh sách, nhưng cũng từ khi có kinh sách thì người ta tu khó chứng đạo, chỉ vì họ đã dẫn đạo vào tâm quá nhiều. Rồi phát triển những kiến giải, tưởng giải, viết rất nhiều kinh sách, làm lệch lạc con đường tu của Đạo Phật. Đạo Phật bây giờ là Đạo Phật triết lý, Đạo Phật mê tín, Đạo Phật khoa học, Đạo Phật siêu việt, không có một tôn giáo nào hơn được Đạo Phật.
Theo Thầy thiết nghĩ, Đạo Phật không có triết lý, không có mê tín, không có khoa học, không có siêu việt, Đạo Phật chỉ thuần là đạo của con người, như bao nhiêu con người khác trong thế gian này. Nhưng người đó, phải biết sống một đời sống an vui, sống không làm khổ mình, khổ người, sống thanh thản trước mọi diễn biến của nhân quả và luôn luôn, lúc nào cũng làm chủ được nhân quả. Khi nghe đến đây, các con hãy cố gắng tu tập, khắc phục tâm mình cho được. Chừng nào khắc phục được, Thầy sẽ giảng tiếp những phần sau này, những giai đoạn sau này.
(42:27) Hôm nay, Thầy tiếp tục cái buổi kiểm tra về cái phần mấy con vừa trả lời cho cô Diệu Thành, tức là cô Minh Cảnh đó các con. Cô có hỏi một số câu hỏi và trước khi trả lời và sau đó kiểm tra, thì Thầy sẽ đọc lại cái lời nói đầu, mà trong cái tập Đường Về Xứ Phật tập 5, mà Thầy soạn và đã viết ra thành một cái lời tựa của cuốn sách. Bắt đầu cái lời nói đầu: “Từ nay về sau trong cái phần vấn đạo, để trả lời mọi câu hỏi, chúng tôi sẽ giải đáp, thành một bài pháp, chỉ thẳng những pháp nào của Đạo Phật và những pháp nào không phải của Đạo Phật, bằng cách chứng minh cụ thể, xác thực qua những bài kinh Nguyên Thủy của Đạo Phật, để quý vị tránh khỏi bị tà giáo, ngoại đạo, mạo danh Phật Giáo”.
Ngoài đời, trên thương trường có biết bao nhiêu mặt hàng giả, mạo danh bằng bao bì nhãn hiệu, nhưng bên trong toàn là đồ dỏm. Trong tôn giáo cũng thế, chắc chắn phải có pháp môn giả. Tại sao chúng ta biết như vậy?
Vì trải qua nhiều thời gian năm, tháng trước kia chúng ta chỉ nghe các bậc Tôn túc thuật lại sự tu chứng đắc của các Tổ, mà không trực tiếp thấy, còn hiện giờ chúng ta thấy biết rất rõ với thời gian hơn thế kỷ nay. Thầy Tổ chúng ta, từ người này đến người khác qua đời (viên tịch), không để lại cho chúng ta một niềm tin sâu với Phật Pháp. Khi còn sống các ngài thuyết pháp rất hay, nào là các pháp như mộng, như huyễn, nào là sáu trần như hoa đốm giữa hư không, nào là chết biết ngày, biết giờ, biết khắc, biết được tánh linh, nào là làm chủ sự sống chết. Nhưng đến giờ phút cuối cùng, chúng ta chỉ thấy, một hình ảnh đau thương nằm trên giường bệnh mệt nhọc khổ sở, đau đớn, trăn trở và có lúc lại mê man, chẳng biết gì cả trước khi viên tịch.
Thầy Tổ chúng ta, họ đều là những bậc chân tu, tinh cần siêng năng, thức khuya, dậy sớm, xâu chuỗi không rời tay, lúc nào cũng thấy ngồi thiền, niệm Phật, công phu, bái sám không thời nào không có mặt trừ khi làm Phật sự và bệnh đau.
(45:31) Từ lúc bé, tám tuổi chúng tôi được vào chùa tu học với các thầy Tổ, đến ở chùa nào cũng mang dòng phái Thiền tông, Lâm Tế, Tào Động, Liễu Quán, Thái Thượng, v.v… Nhưng không thấy thầy Tổ tu thiền mà lại thấy tu Tịnh Độ.
Sau những năm tháng theo thầy tu học, lòng tin tưởng pháp môn Tịnh Độ, noi theo gương hạnh của thầy tu tập, nuôi hy vọng niệm Phật cầu vãng sanh về Cực Lạc Tây Phương. Bỗng dưng, làn gió Thiền tông thổi đến, kinh sách thiền rộ nở như hoa mùa xuân, nào là Pháp Bảo Đàn kinh, Thủ Lăng Nghiêm kinh, Kim Cang kinh, nào là Nguồn Thiền, Luận Tối Thượng Thừa, Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất, Thiền Luận, v.v…
Càng đọc những kinh sách này, chúng tôi càng say mê và tưởng mình như được của báu. Chúng tôi được theo tu học thiền, lớp học đầu tiên tại Tu viện Chơn Không, do Hòa thượng Thích Thanh Từ đảm trách, ba tháng an cư tu học ở đó, chúng tôi liền rời khỏi tu viện về và về Trảng Bàng thuộc tỉnh Tây Ninh, nhập thất tu tập suốt chín năm trời. Chuyên cần tu tập pháp môn Tri Vọng, thấy các pháp như mộng, như huyễn, thấy lục trần như hoa đốm giữa hư không. Gần chín năm mài miệt tu hành, chúng tôi ngộ tất cả công án Thiền tông. Ngồi thiền thì không vọng tưởng, trạng thái tâm hồn yên lặng như hòa mình trong vũ trụ, lúc bấy giờ, chúng tôi tỉnh thức rất rõ. Nhưng xét lại, không biết cách nào làm chủ sự sống chết, tâm mình cũng vẫn còn phiền não, (tham, sân, si). Biết rằng gặp những việc bất toại nguyện thì thấy các pháp như mộng, như huyễn, như hoa đốm giữa hư không. Dù biết vậy, nhưng tâm vẫn còn phiền não, chưa thật sạch, phải đợi có thời gian.
Đối với các pháp Đại thừa, từ Tịnh Độ, Mật tông đến Thiền tông, sự tu tập đối với chúng tôi gần như mất hy vọng. Vì chính ông thân của chúng tôi là một tu sĩ Mật tông, chú thuật của ông có nhiều thần lực lạ kỳ, nhưng lại để trị bệnh, bói toán như một phù thủy, bùa chú tuy linh hiển nhưng tôi không thấy nó làm chủ sự sống chết, tự tại an vui trong cuộc sống mà chỉ làm chuyện lợi danh như các nghề khác trong thế gian.
(47:52) Tôi tư duy, suy nghĩ và khắc khoải trong lòng, nghĩ đến mình tu hành đến giờ này: “Đời chẳng ra đời, Đạo chẳng ra đạo”. Nếu bây giờ tôi trở ra đời thì quá muộn màng, tuổi đã bốn mươi bốn rồi còn gì nữa, ở trong đạo thì biết pháp nào tu cho đến nơi đến chốn: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm, độ hết chúng sanh thì thành Phật”. Những điều kinh sách đã dạy, tôi đều chuyên cần, siêng năng, tinh tấn tu hành không dám biếng trễ, thế mà xét lại tâm mình chưa được làm chủ, cuộc sống còn nhiều bất toại nguyện, tâm vẫn còn ham muốn danh lợi, ăn ngủ còn thích, thấy nữ sắc còn muốn nhìn. Gần suốt chín năm trời, sự tu hành dường như tránh né các pháp thế gian.
“Chẳng niệm thiện, niệm ác, thấy các pháp như mộng, như huyễn, thấy sáu trần như hoa đốm giữa hư không”. Chúng tôi đã thực hiện những câu này đã nằm lòng, hễ có các pháp đến thì những câu này xuất hiện, nhanh chóng đuổi chúng đi, một lúc mới tan biến. Đuổi mãi chúng, thời gian gần chín năm, mà tâm chúng tôi vẫn chưa an. Cảm thấy như tôi là kẻ trốn chạy các pháp, tránh né sáu trần và cuối cùng xét lại các pháp này tu không thể giải thoát được.
Không biết giờ này các bạn đồng tu của tôi, tu hành ra sao? Riêng tôi lúc này (năm 1980), tôi rất ngao ngán với số phận làm thầy tu. Một hình ảnh đen tối đến với tôi, tôi tự nghĩ: “Hay mình tìm một nơi đâu trong rừng hoang vắng, rồi tự tử cho xong đời (kiếp đời tu sĩ)”. Nhưng một hình ảnh hiện lên trong tôi, một người mẹ già yếu đuối, lưng còm, hàng ngày nấu cơm bưng vào thất, giúp tôi sống tu hành. Nhờ hình ảnh ấy, nếu không có mẹ tôi, chắc tôi không thể sống vì con đường giải thoát của Đạo Phật đã trở thành mây khói.
Trong lúc tâm hồn tôi chán nản, trước mặt là bước đường cùng. Bỗng nhiên, tôi nhớ đến lời dạy, lời của Hòa thượng Minh Châu đã nói trong bài tựa kinh Trung Bộ tập 2, Pali - Việt Đối Chiếu: “Càng dịch, chúng tôi càng thấy rõ ác ý của các nhà Bà La Môn, đã dùng danh từ Tiểu thừa để gán vào những lời dạy thực sự Nguyên Thủy của đức Phật và khiến cho các Phật tử không dám đọc, không dám học, không dám tu những pháp môn ấy. Càng dịch, càng thấy rõ dụng tâm hiểm độc của các Bà La Môn đã khôn khéo xuyên tạc Đạo Phật, khiến cho những giáo lý căn bản, tinh hoa cao đẹp nhất của tư tưởng nhân loại, đã bị tư tưởng tà giáo xen lẫn, bị ruồng bỏ, bị che dấu không được biết đến, không được học hỏi, tu hành. Nhưng chân lý bao giờ cũng là chân lý. Mặt trời bao giờ cũng là mặt trời”.
(51:12) Nhớ đến đây, tôi vô tình nhìn bộ kinh Nguyên Thủy Pali - Việt Đối Chiếu để trên tủ sách trong thất, do Hòa thượng Minh Châu dịch lần đầu tiên. Bắt đầu tôi nghiên cứu lại bộ kinh sách này. Sống và tu tập đúng theo lời dạy của đức Phật: “Giới - Định - Tuệ”.
Theo lộ trình Tam Vô Lậu Học, sống đúng giới hạnh, lấy giới luật phòng hộ sáu căn, đời sống thiểu dục ít muốn, biết đủ luôn theo pháp Định Tư Cụ “ngăn ác diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện”. Nhờ đó, kết quả tâm hồn thanh thản, an lạc, tâm thường quay vô, không phóng dật, biết rõ những hoạt động trong nội thân, tâm luôn không để ý sáu trần, nên thấy rõ thân, tâm có một cuộc sống giải thoát, an lạc, vô sự.
Càng giữ gìn giới luật, càng tu tập Tứ Chánh Cần thì kết quả thân tâm giải thoát rất rõ ràng và cụ thể. Càng tu lại càng ham thích, tự tâm siêng năng và tinh tấn, không cần cố gắng. Nhờ sự nghiên cứu và tu tập này, tôi rất am tường, thông hiểu kinh sách Nguyên Thủy và có kinh nghiệm, vì vừa nghiên cứu lý thuyết, vừa thực hành lời dạy của đức Phật, nên từng bài kinh, từng câu, từng chữ trong tạng kinh Pali này.
Riêng về phần kinh sách Đại thừa và Thiền Đông Độ, tôi đã bỏ công tu tập chín năm trời, nên những trạng thái ức chế tâm, tu tập các pháp hành của Thiền Đông Độ và Đại thừa, tôi đều biết rất rõ. Vì vậy, khi được hỏi điều gì đến những trạng thái định có liên quan đến Phật Giáo, dù ở bộ kinh nào Đại thừa, Thiền tông và Nguyên Thủy. Tùy cơ đối đáp để làm sáng tỏ lại Phật Giáo, còn nếu không có ai hỏi thì thôi. Đối với tôi, ai tu sao cũng được, có giải thoát hay không giải thoát là quý vị nhờ và chịu lấy. Chuyện Phật Pháp không phải là chuyện riêng của tôi mà của chung của mọi người.
(53:14) Tôi trả lời đây, vì duyên của quý vị hỏi, chứ không phải tự tôi đặt ra câu hỏi để trả lời nhằm có mục đích chống, báng ngoại đạo, Đại thừa và Thiền tông. Mặc dù, tôi biết Đại thừa đã truyền vào đất nước Việt Nam đầu thế kỷ thứ ba, cuối thế kỷ thứ hai và Thiền tông truyền vào thế kỷ thứ năm, thành một truyền thống dân tộc của đất nước này, muốn xóa nó không phải là một việc dễ làm. Nhưng tôi nghĩ đến số phận của những người tu như tôi, nên tôi nói, ai có tin thì tin, không tin thì thôi, tu hành có được thì quý vị nhờ, không được thì quý vị chịu, giải thoát của quý vị đâu có liên quan gì đến tôi.
Tôi trả lời vì sự bắt buộc ở câu hỏi của quý vị, nếu không trả lời, tôi phụ lòng quý vị, mà trả lời cho quý vị thì phải nói thẳng, nói đúng, nói cái sai, không đúng của Đạo Phật, nói cái sai tu hành sanh bệnh tật, điên khùng, nói cái sai để quý vị không bị lừa đảo bởi những pháp môn mê tín, phi đạo đức, lường gạt để làm tiền, làm danh (kinh doanh tôn giáo).
Do nói cái sai để quý vị không uổng phí một đời tu hành, thì quý vị lại cho rằng tôi bài bác các Tổ, sư, chống trái kinh sách Đại thừa.
Thưa quý vị! Tôi chống trái để làm gì? Khi tôi cũng là một nạn nhân của các pháp môn này, tôi nói ra vì quý vị, quý vị có hiểu thấu chăng? Tôi là chiếc xe đã lọt hố, muốn cho các xe sau đừng lọt hố nữa, nên cảm thông những câu hỏi của quý vị mà tôi trả lời. Biết như thế nào, tôi nói như thế nấy, đúng, sai quý vị còn suy ngẫm.
Khi tôi trả lời, chỉ mong quý vị suy ngẫm kỹ lời tôi nói và lời kinh Nguyên Thủy dạy, có tương ưng, có phù hợp, có đúng nghĩa hay không? Đúng thì quý vị tin tôi, bằng không đúng thì quý vị đừng tin và cũng đừng cười chê vì tôi cũng chỉ là con người như quý vị.
(55:44) Tôi cũng là một con người phàm phu như quý vị, nhờ sống đúng giới hạnh và giới đức, tu tập đúng các pháp Phật đã dạy. Từ đó tôi sống đạo đức nhân quả, không làm khổ mình, khổ người. Hằng tu tập tỉnh thức trong mọi oai nghi tế hạnh, cả niệm hơi thở, tôi đều hướng tâm ly tham, sân, si và ái dục, nhờ thế mà tôi thấy được tâm mình giải thoát, đó cũng là mãn nguyện lắm rồi.
Vì đã không làm khổ mình, khổ người, tôi thấy rất rõ là tâm tôi đã ly dục, ly ác pháp. Ly dục, ly ác pháp tức là tôi đã làm chủ được cuộc sống của tôi. Làm chủ cuộc sống tức là làm chủ được sanh như trong kinh Phật đã dạy. Sanh là một trong bốn cái khổ của kiếp người.
Tôi trở về pháp môn Nguyên Thủy, tu tập chỉ trong vòng sáu tháng, làm chủ được tâm, không còn thấy các pháp như mộng, như huyễn, sáu trần như hoa đốm giữa hư không. Nhờ tu tập có kinh nghiệm và nghiên cứu toàn bộ kinh Nguyên Thủy, nên lập trường trả lời của chúng tôi đều dựa vào đó dựng lại Phật Giáo, trong lúc giáo pháp của Phật đã bị dìm mất, ít có người được biết đến. Vì vậy, chúng tôi trả lời quý vị không ngoài lời Phật dạy. Tin hay không tin đó là quyền của quý vị, tôi thì nói thẳng, nói thật mà thôi chứ không có tâm phỉ báng ai hết.
Xin thưa quý vị! Chúng tôi biết rằng, lời thật mất lòng, nhưng vì bị hỏi, chúng tôi phải nói toạc móng heo để cho một số người không bị tà giáo ngoại đạo lừa đảo và những người đang tu hành không lầm lạc pháp môn của ngoại đạo, tu dở chết dở sống (Đời chẳng ra đời, Đạo chẳng ra đạo) giống như tôi tu hành lúc năm 1980. Tôi cảm thông với những người tu sĩ ấy, có nhiệt tâm quyết tìm đường giải thoát trong Đạo Phật.
(58:12) Chúng tôi chỉ ước mong, những câu trả lời của chúng tôi sẽ làm sáng tỏ những gì của Đạo Phật, đang bị che mờ bởi giáo pháp của Bà La Môn. Với thâm ý của chúng tôi không muốn chống trái ai hết, ai có duyên tu pháp nào cũng được, nhưng có tu được giải thoát thì dạy người, bằng tu chưa có kết quả thì đừng dùng lý thuyết suông lừa đảo, gạt người, gây mê tín, dị đoan khiến cho mọi người khổ sở, phí hết kiếp người và cũng đừng vì quyền lợi ích kỷ, nhỏ mọn mà gán cho các pháp môn đó là của Phật Giáo, thì tôi rất đau lòng.
Vì Phật Giáo không có các pháp môn tưởng đó, mê tín, trừu tượng, mơ hồ. Buộc lòng chúng tôi phải nói thẳng để cho người đời sau đừng lầm lạc, đáng thương.
Chúng tôi tu hành theo Phật Giáo đã bị lầm lạc pháp môn của ngoại đạo, nhiều khi chúng tôi muốn chết hơn là sống, vì sống làm gì? Đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo. Sống bằng ba tấc lưỡi, gạt người, bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ gia đình, vợ, con, bỏ cả thân bằng quyến thuộc, bỏ cả của cải, tài sản, sự nghiệp, nhà cửa để đi tu, mong tìm đường giải thoát thân, tâm mình, chứ đâu phải để thành tên lừa đảo có sách vở.
Vì cảm thông nỗi khổ đau của những người đồng bệnh, nên tôi nói thẳng, chẳng hề sợ hãi trước thế lực quyền uy của kẻ khác, dù tôi có ra sao và như thế nào, tôi cũng vui mừng, vì đã nói một sự thật có lợi ích cho muôn người, không phải vì cá nhân của mình.
Tôi trả lời thẳng vì tín đồ Phật Giáo khắp năm châu, bốn biển đang hướng về Phật Giáo chơn chánh.
Tôi trả lời thẳng vì đạo đức của Đạo Phật đã bị đánh mất, bởi giáo pháp của ngoại đạo (Đại thừa), thay vào một đạo đức mê tín, làm cho nhân loại mất đi một nền đạo đức sống thật, một nguồn hạnh phúc, an vui của mọi người.
Tôi trả lời thẳng chỉ vì con người trên hành tinh này, đang cần một nền đạo đức nhân bản, không làm khổ mình, khổ người. Trên cuộc đời này duy chỉ Đạo Phật mới có nền đạo đức công lý và công bằng mà thôi.
(01:00:28) Tôi nói thẳng vì lợi ích chung cho con người trên hành tinh này, dù ai có nghĩ sao về tôi, cho tôi là điên khùng, dốt nát, không thông suốt kinh sách Phật Giáo, không hiểu giới luật Phật là gì, nói bậy bạ không trúng vào đâu, tôi vui lòng chấp nhận cả. Nhưng xin mọi người hãy theo đúng giáo pháp Nguyên Thủy của đức Phật mà tu tập và sửa những gì sai, để xây dựng cho mình một tâm hồn thấm nhuần nhân quả của Đạo Phật “không làm khổ mình, khổ người” thì tôi đã mãn nguyện lắm rồi.
Trải qua thời gian tu tập, tôi biết rất rõ con đường nào tu tập đi đến kết quả làm chủ sanh, già, bệnh, chết của Đạo Phật. Con đường ấy không phải để cho những người tu hành phạm giới, bẻ vụn giới, phá giới như các vị Tỳ kheo của Phật Giáo Đại thừa, Thiền Đông Độ và Phật Giáo Nam tông. Phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, sống không đúng giới đức, giới hạnh, đời sống không thiểu dục, tri túc, không lấy giới bổn phòng hộ sáu căn, ăn, uống, ngủ, nghỉ phi thời, không sống độc cư, thì dù họ có tu trăm ngàn kiếp vẫn không đến đâu, chỉ uổng cho một đời tu mà thôi.
Trả lời những câu hỏi của quý vị, nói thẳng sẽ đụng chạm rất nhiều, mong quý vị vui lòng tha thứ cho và quý vị hãy suy ngẫm những lời chúng tôi nói, nếu sai xin quý vị bỏ qua cho, còn đúng xin cầu chúc quý vị may mắn, gặp thiện hữu tri thức có kinh nghiệm, hướng dẫn tu tập đến nơi, đến chốn.
Tu hành giải thoát làm chủ thân tâm không phải việc dễ làm, nếu tu tập một mình, giống như người đi biển không có la bàn, vào rừng không có người hướng đạo.
Nếu chúng tôi có trả lời điều chi sai sót, xin những bậc cao minh, chân tu, thạc đức chỉ giáo, chúng tôi thành kính tri ân.
Kính ghi.
Đây là cái lời tựa của cái tập 5, của Đường Về Xứ Phật, Thầy đã ghi và đánh vi tính, in ra, rồi sau này sẽ thu nhỏ lại thành trang sách.
(1:02:50) Đây là cái phần hôm nay mà Thầy nói để các con biết rằng, trong cái cuộc đời mà tu tập của Thầy, rất là vất vả vì pháp môn không nắm vững. Còn hôm nay, có Thầy dạy, có kinh nghiệm của Thầy, mỗi sai, cái gì sai có Thầy sửa, mà nhắc đi, nhắc lại nhiều lần, các con không giữ đúng.
Nhất là, Thầy đã từng tuyên bố với các con, bí quyết thành công của thiền định là độc cư, nhưng mà các con không có giữ được trọn vẹn, cho nên trên cái con đường tu hành nó còn bấp bênh, nó còn xa, rồi cuối cùng chỉ còn mình Thầy. Thậm chí, như các con nhớ rằng năm 1991, cái hạ năm đó xong thì Thầy vào thất, lúc bấy giờ, thì một số người đã tu, Thầy quyết định là khép chặt giới luật, không có cho sống ba bữa, ngày một bữa và độc cư, thì chỉ còn lại một số rất ít, còn bao nhiêu đều rút lui hết.
Do đó, trong những ngày đó thì Thầy cố gắng Thầy hướng dẫn cho Mật Hạnh độc cư trọn vẹn, trong cái suốt ba năm mà Thầy nhập thất. Cái kết quả rất tốt là vì giữ gìn cái độc cư trọn vẹn như vậy, cho nên tâm quay vào, không cần phải ngồi thiền, nhập định nhiều, không cần phải nhiếp hơi thở cho hết vọng tưởng, mà tới chừng tâm quay vào thì nó không còn có vọng tưởng nữa.
Đó là cái kết quả thực sự, mà Thầy đã biết được con đường đi theo kinh Nguyên Thủy, trong sáu tháng cuối cùng của năm chín mươi, thì Thầy đã thấy kết quả như vậy. Và Thầy cố gắng chỉ tập trung hướng dẫn cho mình Mật Hạnh, thì cuối cùng thì Mật Hạnh cũng đạt được cái kết quả như vậy và rất tốt.
Đầu tiên thì khắc phục cho nó phá được hôn trầm, sống độc cư phá hôn trầm. Phá hôn trầm thì Thầy bắt nó ngồi với Thầy, rồi Thầy điều khiển cho nó suốt đêm để cho nó phá cho được cái hôn trầm. Từ đó giờ giấc nghiêm chỉnh, giờ nào ra giờ nấy, không có bê trễ nữa. Rồi bắt buộc sống độc cư không được tiếp duyên, cho nên tâm tuôn trào, từ tuôn trào chuyện này đến chuyện khác, cuối cùng thì không còn tuôn trào nữa, cho nên tâm quay vào, không phóng dật ra ngoài, do đó lúc bấy giờ nó thấy rất là thiền định rất tốt.
(1:05:50) Thì các con thấy rằng, cái kinh nghiệm tu hành của Thầy và cố gắng hướng dẫn cho Mật Hạnh, Mật Hạnh là một cái người u tối nhất, khó khăn nhất không có như cái người khác có học thức giỏi, hiểu biết nhiều. Nó chỉ dốt nát như ông Bàn Đặc, do đó chỉ cái sự cố gắng sống cho đúng thật đúng là có kết quả, mà chẳng có một cái bệnh đau nào mà xảy ra cho nó hết, chỉ có một cái bệnh tưởng của nó mà thôi.
Nhưng vì nó không nghe lời Thầy, cho nên nó phá độc cư mà đi ra, cho nên vì vậy mà cái thời gian nó còn phải kéo dài, chứ còn nếu mà nó đừng phá độc cư, đừng có sợ hãi của cái bệnh tưởng, thì chắc chắn nó thành tựu lâu lắm rồi, nghĩa là làm chủ được sự sống chết lâu lắm rồi, chứ không phải mới bây giờ.
Thì hôm nay, thì các con thấy rằng, trên bước đường mà tu tập, cái gì mà Thầy dạy, mà các con giữ đúng, thì các con nhanh, mà các con giữ không đúng thì các con không nhanh. Chẳng hạn Thầy bảo các con, như tại sao cô Út không có dạy các con ngồi, nhưng mà Thầy thì Thầy tùy thuận ở các con nhiều hơn, không nên gắng ép người khác, từ từ khẽ lần.
Cô Út thì đập phá để cho xả tâm cho được mà thôi. Còn riêng Thầy, Thầy nhẹ nhàng an ủi, sợ e mà đập phá mạnh thì làm cho các con thối tâm, không có tu tập được, giúp cho các con được vui vẻ theo cái ý muốn của mình, lần lượt rồi bẻ dần, lái dần cho đến khi mà các con đi vào đúng cái quỹ đạo của Phật dạy mà thôi.
Cũng như các con biết, như Minh Tâm theo Thầy tu học nay là bốn năm rồi, cũng như các con đã theo Thầy, thì bên nữ các con đã theo Thầy kể như là nay cũng là bốn năm rồi. Nhưng mà tại sao các con không có kết quả được? Thì bằng chứng là các con thiếu độc cư, nhưng mà tại sao Minh Tâm lại có độc cư mà không có kết quả?
Độc cư chưa trọn vẹn đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai thì nó có độc cư hơn các người khác, nhưng vì nó đã tu từ Tịnh Độ rồi đến Mật tông, rồi sau khi Thiền tông đến hơi thở Thầy dạy, thì nó có một sức ức chế tâm rất là vĩ đại. Hít thở, nương vào hơi thở hay hoặc niệm Phật từ một ngàn, hai ngàn câu, cho đến một ngàn, hai ngàn hơi thở không có một niệm vọng tưởng xen vào, khi mà sổ tức như vậy đấy thì các con biết cái sức ức chế tâm của nó hết sức và cái sự mà gom tâm của nó thì các con không có thể nào lường được cái sự gom tâm của nó. Nhưng mà cuối cùng, thì các con biết tại sao không kết quả không? Tại vì cái tâm không xả.
(01:8:22) Cho nên đến gần bước vào Tứ Thiền thì đứng lại, bởi vì đi tới nữa mà để mà dừng hơi thở mà dùng pháp hướng, thì nó sẽ dừng hơi thở. Mà dừng hơi thở mà trong cái pháp hướng để điều khiển, mà nhắc nó để mà dừng hơi thở thì cái cơ thể sẽ bị bệnh tật liền tức khắc.
Cho nên nó có bị thời gian bị ra máu, bị ra máu là do bị ức chế hơi thở, do tâm và cũng là do cơ để mà ức chế, gần như là nín, coi như là nín thở đó, không thở đó, thì tai hại rất lớn, mà may là phát giác kịp chứ không khéo thì nó sẽ thành bệnh rất nặng không có thể tưởng, mà Thầy gọi là thọ hành hay là hành thọ. Nghĩa là mình tu hành, mình tạo ra cái thọ đó, chứ không phải là tự thân mình có cái bệnh đó, gọi là hành thọ.
Do cái hành thọ, một phần thì nếu mà cái người mà không có dùng cơ mà ức chế đó, mà cái hành thọ mà xảy ra thì đó là tưởng thọ, còn cái người do các cơ mà ức chế, cũng như bây giờ nói tịnh chỉ hơi thở, thì các con lại hiểu lầm, hiểu lầm cái danh từ tịnh chỉ, như Thầy đã nhắc, tịnh chỉ là nó thanh tịnh cái hơi thở, rồi tuần tự nó chỉ, nó ngưng, chứ không phải chúng ta ức chế nó, mình tập thở chậm nhẹ, chậm nhẹ lần lần, rồi ngưng hơi thở, tự mình nín hơi thở lại thì cái đó là cái sai, nó không phải tịnh chỉ mà nó là đình chỉ hơi thở, thì cái đó là cái sai của các con tu tập.
Cho nên chúng ta muốn mau mà thành chậm, chúng ta phải biết rằng cái tâm thanh tịnh là cái tâm không tham, sân, si thì nó là tịnh, mà khi tịnh thì nó mới chỉ được hơi thở, nó mới ngưng được hơi thở. Tức là, cái hơi thở nó phải theo cái thân thanh tịnh, mà nó mới thanh tịnh được cái hơi thở, nó thanh tịnh được cái hơi thở thì nó mới chỉ được cái hơi thở. Còn nếu không thanh tịnh thì không chỉ được hơi thở, cho nên không thể nào mà nhập vào Tứ Thiền.
Cho nên Minh Tông hỏi Thầy, như trong kinh Phật dạy, thì xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thì nhập Tứ Thiền, chứ Phật đâu có dạy tịnh chỉ hơi thở mà nhập Tứ Thiền. Thì rõ ràng là trong những cái bài kinh, thì phần nhiều thì Phật nói xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thì nhập Tứ Thiền. Nhưng các con nên nhớ rằng, có một cái bài kinh Phật dạy, trong thân chúng ta có ba hành thân hành, khẩu hành và ý hành.
Khẩu hành là tầm tứ, mà thân hành là hơi thở, ý hành là thọ tưởng. Do đó, một cái người mà nhập Nhị Thiền, thì tịnh chỉ tầm tứ tức là tịnh chỉ khẩu hành, mà nhập Tứ Thiền thì tịnh chỉ thân hành, mà thân hành tức là hơi thở.
(01:11:24) Cho nên, trong cái bài kinh Nhập Tức Xuất Tức ở trong kinh Trung Bộ thì Phật dạy: “Hơi thở tức là thân, khi hơi thở mà dừng thì thân dừng, mà tâm dừng, mà tâm dừng thì cái thức nó dừng”, nó đâu còn biết. Cho nên ở đây, chúng ta muốn biết được, tại sao nhập Tứ Thiền mà lại còn cái thức, vậy cái thức nào mà còn, mà cái thức nào lại dừng? Đó là cách thức mà Thầy sẽ giảng dạy trong những cái buổi vấn đạo, những lời hỏi của các con.
Đó thì hôm nay, chúng ta thấy được cái điều kiện do các con tu sai ngồi ức chế, như Thầy không có kiểm tra các con, chứ sự thật ra các con biết, khi mà chúng ta ngồi như thế này, kiết già xong rồi, bắt đầu chúng ta ngồi, chúng ta hít thở, để mà gom tâm, thì các con biết như thế nào, hai cái vai các con gồng lên liền tức khắc. Nếu mà các con không có chịu thư giãn, xả xuống như thế này thì các con sẽ bị gồng hai cái vai, và thấy nó gom, nó tập trung nhưng mà bị gồng, bị dùng cơ mà gom tâm, ở hai cái vai rất là cảm giác rất rõ ràng.
Cho nên khi chúng ta gom lại một hơi thở chậm rồi, bắt đầu thở hơi thở bình thường, thì chúng ta nương vào hơi thở bình thường, thì chúng ta hướng tâm, chúng ta nhắc: “Các cơ trong thân phải xả xuống, buông xuống, thư giãn”, thì lúc bấy giờ các con nhắc thả xuống, thì các con nghe cái vai các con buông xuống cái vậy, thì các con nghe nó nhẹ nhàng, chứ nó không còn gồng lên, đó là cách thức chúng ta thư giãn lại cho cơ thể nó thư giãn hoàn toàn, không bị ức chế các cơ mà gom tâm, mà chúng ta tu tập bằng cách xả tâm.
Cho nên vì vậy, mà khi nương vào hơi thở thì chúng ta thường theo pháp Như Lý Tác Ý mà quán: “Quán ly tham tôi biết tôi đang thở vô, quán ly tham tôi biết tôi đang thở ra”, thì như vậy rõ ràng là chúng ta nương vào cái tỉnh thức của hơi thở, để mà chúng ta xả cái tâm khắc phục tham ưu như trong Tứ Niệm Xứ Phật đã dạy.
Chứ còn nếu mà chúng ta cứ ngồi để mà lặng lẽ không có niệm vọng tưởng, biết hơi thở ra biết hơi thở vô, rồi chúng ta hướng tâm nhắc: “Hơi thở phải mất đi để tầm tứ diệt, để nhập Nhị Thiền”, thì một lúc hơi thở chúng ta sẽ xả bỏ, không chú ý hơi thở nữa, thì lúc bấy giờ chúng ta không thấy hơi thở, thì chỉ có một trạng thái an lạc của Định Sanh Hỷ Lạc của Nhị Thiền, tức là của diệt tầm tứ. Thường thường là các con sẽ thấy thích thú ở trạng thái này rất nhiều, nhưng đó là cái sai, không đúng.
Thật sự hiểu biết bị hạn lượng trong không gian và thời gian, nên con người sống không nhìn rõ sự vật và các pháp nên lầm chấp, bởi vì chúng ta sống trong cái ý thức. Cái trí mà hữu hạn này nó bị hạn lượng, mà hạn lượng của không gian và thời gian, cho nên chúng ta nhìn sự vật, nhìn các pháp, thì chúng ta lầm, tưởng là thật, như bây giờ mình thấy cái bàn, cái nhà cửa này mình cho thật, thấy người này, người kia ngồi đó mình cho thật, chứ thật đó là mình tưởng chứ không phải thật.
(01:14:14) Cho nên ở cái bài kinh mà Pháp Môn Căn Bản, Phật nói con người sống ở trong cái thế giới tưởng, mà tưởng tri chứ không phải liễu tri, mà cái gì con người hiện giờ đang sống ở trong cái trí thức hữu hạn này, thì hoàn toàn là phải nói sống tưởng, chứ không có.
Cho nên cái thế giới siêu hình, cũng là cái thế giới tưởng của các người, chứ không phải có thật cái thế giới siêu hình, vì chính các người sống trong trí hữu hạn thì các người chỉ còn dùng tưởng để mà hiểu mà thôi.
Bởi vì bàn ghế, nhà cửa này nó là do duyên hợp mà có, thế mà chúng ta thấy cái bàn này là thật, rồi thấy ngay cả cái thân này, chúng ta thấy có người này chết, rồi người kia chết thì chúng ta cho cái thân này nó giả đi, chúng ta lại nghĩ rằng ở trong cái thân này nó có cái biết, cái linh hồn, cái thần thức nó còn, nó thường hằng hay hoặc cái Phật tánh ở trong đó thường hằng, đó là chúng ta tưởng nó ra thôi, cái gì chúng ta không thực tế thì chúng ta lại tưởng nó ra thôi.
Cho nên, cả cái thân này hiện bây giờ, đức Phật nói là nó vô thường, nó là ngũ duyên hợp lại, nó là sắc, thọ, tưởng, hành, thức hợp lại mà thành cái thân này, nó không có một cái gì thật, thế mà hở một chút là chúng ta có giận có hờn, phiền não. Cái gì của ta đâu mà chúng ta giận, hễ mà ai động chạm đến mình cái gì cứ nghe nó phiền não, cái nó buồn bã, may là theo tu với Thầy, chứ không theo tu với Thầy, thì các con thấy cái sự giận hờn đó như thế nào?
Rồi hở một chút gì, hơi đau cái ngón chân, đi vấp cục gạch, cục đá thôi, mà cũng thiếu điều muốn đi nằm nhà thương nữa. Sợ cái ngã chúng ta nó chết hay sao? Có cái gì là cái ngã của chúng ta đâu. Cho nên ở đây, thật sự ra các con đã lầm tưởng, sống trong cái tưởng, rồi cho đó là cái thân của mình, cái ngã rồi quý nó, mến nó, nhưng sự thật Phật đã nói, nó là cái thân bất tịnh, hôi thối, bẩn thỉu, do tứ đại mà tạo thành, nó không phải là cái gì của mình cả hết.
Thế mà, ngày Thầy bảo các con tu tập, các con quán vô ngã, thí dụ như bây giờ: “Quán vô ngã tôi biết tôi hít vô, quán vô ngã tôi biết tôi thở ra”, vô ngã là cái gì? Là cái thân của chúng ta là các pháp vô ngã, thì các con đã học đạo đã như vậy, mà hở chút gì cái nghe rên, la, ôi nó nhức cái vai này quá trời. Cái gì nhức, có cái gì đâu nhức, cái thọ là nó nhức, chứ ai mà nhức? Vì vậy mà chúng ta hiểu biết, tâm không dao động thì nó sẽ không có đau khổ, mà tâm dao động thì cái đau khổ nó, nó lại thành đau khổ nhiều hơn.
Cho nên, các con thấy, như Thầy ho, Thầy có cần gì đó đâu, mặc nó, nó thọ là nó ho thôi, nó có chết Thầy bao giờ đâu mà sợ, cỡ chết là chết lâu đời rồi, đâu có bây giờ. Cho nên, đối với Thầy không quan trọng vấn đề gì hết, thậm chí như Thầy nói thấy nó không quan trọng tức là nó không có đau, không nhức, chứ cỡ đau nhức thì tức là mình sẽ dùng pháp hướng ra lệnh, nó sẽ tịnh chỉ được tức khắc liền, có cần gì, bởi vì mang cái thân này là mang cái thân nghiệp nhân quả.
(01:17:04) Có một lần, Thầy trả lời với Minh Tâm, Minh Tâm hỏi một người tu hành còn bị nhân, quả hay không? Theo như là Bách Trượng Dã Hồ, câu chuyện như vậy. Thì nó thấy, một lần Thầy bị cây sắt, xốc trong cái tay, thì nó nghĩ rằng một người tu hành, thì biết được những chuyện xảy ra, thì làm gì để cho cây sắt mà chống, mà ấy trong tay mình như vậy, ý nó muốn nói như vậy.
Thì Thầy mới nói như thế này, đã mang thân nhân quả, thì cái sự việc xảy ra trong nhân quả, thì chúng ta đều phải chấp nhận nhân quả, chứ không thể nào mà gọi là tránh né nhân quả, trốn tránh né nhân quả, nhưng có làm chủ được cái tai họa, cái tai nạn xảy ra ở trong cái vết thương đó không? Có sợ hãi không?
Nếu mà chúng ta sợ hãi, chúng ta biết rằng, một lát nữa là mình chặt cái cây sắt đó, nó sẽ chống trong tay mình, nó sẽ thành vết thương, thì mình không chặt thì nó đâu có, chứ gì? Thì đó là tránh né, tức là mình sợ cái vết thương, mình sợ cái quả thì nó không phải. Người tu sĩ Đạo Phật mang thân này là thân nhân quả, thì phải có trường hợp mà phải xảy ra những cái vết thương hoặc là những bệnh đau ở trong cơ thể này, đó là một hẳn nhiên của thân nhân quả.
Nhưng chúng ta có làm chủ được nó không? Nếu làm chủ được nó, thì chúng ta chẳng có dao động tâm chẳng có hề sợ hãi, chẳng có đi nhà thương, chẳng có sợ gì cả, chết thì bỏ, nó có gì của mình đâu mình tiếc, tứ đại nó chết thì trả nó về đất, nước, gió, lửa có gì đâu của mình mà mình giữ.
Các con thấy, đó là cái thấm nhuần được cái lý của đạo, làm cho tâm hồn chúng ta giải thoát, thì cái nhân quả mà chúng ta mà chết, bây giờ cỡ đau sơ sơ nó chết cũng dễ dàng lắm, cái thân của chúng ta rất giòn bở, còn nếu mà không chết bây giờ chúng ta đau cái gì nó cũng không chết hết.
Như cô Diệu Thành, nếu mà con đã chết, bao nhiêu lần bệnh đau nó đã chết lâu rồi, nó không chết thì bây giờ nó có chết gì đâu. Nhưng mà hồi nào tới giờ, hễ hơi nhức xương, rêm xương là lo chạy bay đi xuống thành phố để mà đi bác sĩ, thì thử hỏi cái đó là cái mình sợ hãi, chấp cái thân của mình chứ gì? Cái hành động đó là hành động chấp ngã, cho nên vì vậy, mà từng đó cái tâm bị dao động, dao động trước các đối tượng, dao động trước các pháp.
Do cái chỗ mà trí hữu hạn của chúng ta, cái ý thức của chúng ta đang sống và hiểu biết đó, nó đều là tưởng tri chứ không phải là liễu tri, do cái tưởng tri đó mà chúng ta lầm chấp các pháp. Như Thầy đã nói, sống với tưởng tri, cho thế giới hữu hình và vô hình là có thật, vì thế mới đắm đuối chạy theo cái bóng giả tạo này, cho là đúng, sai, phải, trái, tốt, xấu sanh ra ham thích, dính mắc, rồi giận, hờn, thương, ghét, đau khổ, phiền não.
Cũng chỉ vì tưởng tri, cái thế giới này có thật, con người này có cái vĩnh hằng, linh hồn, Phật tánh, sinh ra chấp ngã vĩ đại, làm cái gì cũng tích lũy cho nó, thậm chí tu hành cũng cho nó. Nghĩa là bây giờ các con tu hành cũng cho cái ngã của các con, chứ đâu phải là cho người khác, các con hiểu điều đó.
(01:20:22) Cho nên, nếu mà cho người khác thì người ta chửi mình đừng có giận, tại vì mình tu hành, người ta chửi mình, mà mình giận, mình nói người ta, thì làm người ta khổ, thì tức là mình đâu phải tu cho người ta, mình tu cho mình. Cho nên ở đây Thầy nói, thậm chí tu hành cũng chỉ tu cho cái ngã của mình, do mình tu cho cái ngã của mình cho nên mình không giải thoát, vì vậy mà mình tự mình đã làm khổ lấy mình, mà làm khổ lấy người, làm sao gọi là tu giải thoát?
Các con hiểu được cái câu này thì chắc chắn là các con biết rằng cái câu mà Thầy nói, không làm khổ mình, khổ người, nó mang đầy đủ tính chất giải thoát của con người, trong đó có sự làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Nếu các con hiểu được câu đó, thì các con sẽ thấy, xả bỏ được tâm mình thì các con sẽ thấy giải thoát rất là cụ thể. Làm chủ được lúc nào, muốn sống chết lúc nào, các con không cần tập ngồi thiền, mà chỉ cần ra lệnh muốn nó mấy ngày, thì nó sẽ làm y như mấy ngày.
Thầy nhớ năm 1991, sau cái mùa an cư kiết hạ đó, mồng một tháng tám, Thầy vào thất với một số quý thầy còn ở lại đây, quyết sống giới luật ngày một bữa và đồng thời trong thời gian ấy, được rảnh rang nhiều hơn.
Thầy nhập thất bắt đầu từ bảy ngày, không ăn, không uống suốt bảy ngày. Nhập thất như thế nào mà biết bảy ngày ra mà bảy ngày vào? Chỉ có ra lệnh hướng tâm nhắc, khi mà ngồi thiền hướng tâm nhắc: “Bây giờ đó, tâm phải tịnh chỉ hơi thở, bảy ngày đêm nhập Tứ Thiền, bảy ngày đêm đúng giờ này ngày thứ bảy, phải xuất định”, thì trong khi đó, cái tâm từ từ lặn mất dần, không còn biết gì nữa hết.
Cuối cùng ở trong trạng thái của Tứ Thiền thì lúc bấy giờ đúng tới bảy ngày, chúng ta không có thấy cái thời gian ở trong đó là bảy ngày, mà tới chừng đó, tự động thì chúng ta lại thấy nó bung ra, tức là hơi thở bắt đầu thở trở lại. Nghĩa là, cái thức tới đó nó sẽ biết được cái hơi thở của nó và đồng thời nó hướng tâm lần lượt xả lần ra, thì đứng dậy đi như bình thường, không có tê, không nhức, không đau gì hết, chứ không phải.
Và đồng thời trong thời gian đó, Thầy sẽ ngồi suốt chỉ có được mười lăm ngày, còn hoàn toàn dự định trong ba tháng trong cái mùa hạ đó, trong ba năm đó, thì Thầy định Thầy ngồi ba tháng, chứ chưa dám ngồi một năm. Là tại sao vậy? Tại vì không có thời gian hướng dẫn chúng, nếu mà không có ai thì tức là Thầy sẽ ngồi nhiều, nhưng vì có mọi thầy tu hành, sợ người ta tu sai, mình nhập định, thì có những cái gì thì làm sao giải quyết được cho họ.
(01:22:59) Rồi sau đó, Thầy kèm cho Mật Hạnh tu tập, cho nên không còn thời gian nữa. Do vì vậy, mà những năm đó Thầy chỉ nhập được khoảng thời gian bảy ngày cho đến mười lăm ngày, thay vì một tháng, nhưng mà không dám ở lâu trong một tháng. Khi mà tăng lên một tháng, thì nhìn trước, nhìn sau không có ai chăm sóc cho chúng, cho nên đành phải mười lăm ngày rồi tiếp tục hướng dẫn chúng đi theo con đường của mình.
Khi Thầy tu tập, cái thời gian mà nhập định thì Thầy nhập suốt hai tháng, hai tháng định, mà người ta đồn thì Thầy nhập ba tháng, chứ thật ra Thầy nhập có hai tháng, trong khi Thầy cũng vào định, rồi cũng nhắc tâm của mình, rồi vào định trong khi mà tu tập về pháp môn của Phật.
Thì các con thấy rằng, trong cái sự tu tập, cái sự làm chủ rất là rõ ràng, cụ thể, chứ không phải tập ngồi từng giờ, từng phút tăng lên rồi bỏ cái ngồi lại không được. Còn đằng này đâu có gì đâu, rất dễ. Khi nào muốn ngồi là bảo nó tịnh chỉ ngưng, thì còn thấy đau, thấy nhức cái gì?
Đã hơi thở, Phật đã nói, hơi thở là thân, là thọ, là tâm, là pháp mà hơi thở ngưng thì thọ ngưng, thân ngưng, tâm ngưng, pháp ngưng thì còn gì là đau? Còn gì là nhức? Còn gì là mỏi mệt ở đâu? Cho nên, mình ngồi như gộc cây, chỉ có ra lệnh dặn nó thời gian bao lâu thì nó sẽ xuất định mà thôi. Đó là cách thức làm chủ sự sống chết theo ý muốn của mình điều khiển, chứ không phải nó muốn một giờ, hai giờ, ba giờ rồi lại bung ra, không phải kiểu đó đâu, kiểu làm chủ nó không phải như kiểu Thiền Đông Độ.
Cái lời Thầy dạy, thì các con chỉ tu đúng được phân nửa, còn một nửa thì tu chưa đúng, nghĩa là các con xét lại cái lời Thầy dạy, mà các con nếu mà các con tu đúng, thì giờ này các con không còn lận đận ở trên sự tu tập nữa. Tại vì các con không giữ đúng theo lời Thầy dạy, cho nên các con sẽ còn lận đận trên cái bước đường tu tập.
Nếu mà các con nghe lời Thầy dạy, mà giữ gìn cho đúng, thì thời gian rất ngắn Thầy nói rằng, đức Phật nói ở trong kinh, cũng như Thầy nói sáu tháng thì các con sẽ làm xong, còn đức Phật nói, sáng chúng ta nghe chiều đã giải thoát rồi, đó là cái tối thiểu ở trong đức Phật.
(01:25:38) Đức Phật nói, từ khi mà nghe pháp mà tu tập thì cái người mà lâu nhất là bảy năm, rồi bảy tháng, rồi bảy ngày, rồi sáng nghe chiều giải thoát. Đó thì cái người mà nhanh nhất sáng nghe chiều giải thoát, rồi bảy tháng, rồi bảy ngày cái người mà chậm hơn cái người sáng nghe chiều giải thoát thì bảy ngày, mà người chậm hơn nữa, chậm hơn bảy ngày là bảy tháng, mà cái người mà bảy tháng chậm hơn nữa thì nó là bảy năm. Thì cái số bảy năm là cái số tối đa, mà cái số mà sáng nghe chiều giải thoát đó là cái số tối thiểu, cái thời gian tối thiểu.
Mà khi nghe Thầy nói rồi, mà các con cứ mãi cố chấp ở trong lòng, ôm cái tham, sân, si làm gì? Nó có cái gì đâu là của mình đâu mà tham, mà giận, mà hờn, mà đau khổ, nhắc đi, nhắc lại mãi để mà xả cái tâm mà các con cũng xả chưa sạch. Thì Thầy cũng không biết làm sao cho nó hết được?
Bởi vì mỗi người đều đi cho mình chứ không thể nào mà đi cho các con được, nếu mà cỡ đi được Thầy đi giùm cho các con. Cho nên các con không còn giận hờn gì hết. Trái lại, là Thầy đi không có được, mà thấy mỗi lần mà cô Út la hét, thấy tụi nó sao nó đi không có nổi vậy? Phải chi mình đi được mình đi giùm, này đi không có được giùm.
Cho nên cái tu sao tu giùm không có được, chứ phải tu được thì Thầy tu giùm cho các con, Thầy ráng Thầy tu. Bây giờ ở đây là mấy đứa nè? Chín người nè, Thầy tu giùm cho, mỗi người Thầy tu một ngày cho thử coi nó hết không? Chắc chắn là nếu mà Thầy tu giùm được thì trong vòng chừng ba bữa, là mấy con sẽ hết sạch, không còn tham, sân, si gì hết. Ngặt tu không được, cho nên Thầy chỉ được giải thoát cho mình mà không có được cho mấy con.
Các con cũng biết rằng, sống gần bên Thầy, các con cũng biết rằng có những phong ba bão táp chứ, chứ đâu phải không, nhưng mà Thầy có hề hấn gì đối với Thầy đâu? Các con thấy đó, tại sao các con không bắt chước Thầy? Thế mà các con lại âm thầm đau khổ, rồi có khi buồn giận, rồi có khi nói ra lời nói trách móc rồi đủ thứ hết, tại sao vậy?
Đó là những cái sai, cho nên ở đây Thầy muốn nhắc để cho các con biết rằng, con đường tu thì không thể ai đi cho ai được, chứ cỡ mà đi được chắc Phật đi giùm cho chúng sanh để giải thoát hết rồi, chứ không cần tới Thầy nữa. Cho nên các con nghe những cái nỗi mà đau đớn, nỗi khắc khoải trong lòng khi mà tu không được, thì Thầy biết các con cũng vậy, tâm trạng của các con cũng vậy, nhiều khi dở khóc, dở cười trong cuộc đời tu hành chứ đâu phải thường đâu.
Đã lỡ tu rồi, thà là mình ở ngoài đời mình không biết gì Phật Pháp hết. Ba cái Phật Pháp này nhiều khi nó ghẹo gan mình cũng tức thật. Ham tu mà vô tu rồi tu không được, rồi đi ra, ra cũng không được, nó dính đó, nó kẹt, nó khổ sở, đi ra thì sợ người ta cười, người ta chê, rồi nói này, nói khác, mà tu thì không biết pháp nào mà tu cho được, trời ơi! nó khổ sở.
(01:28:30) Mà trong lúc các con còn được Thầy chỉ dẫn như vậy, chứ còn Thầy thì bơ vơ, nghĩa là dở chết, dở sống, chứ không phải, mà may là được hồi đó được nghe những cái lời Hòa thượng Minh Châu dạy ở trong kinh Nguyên Thủy, rồi được đọc ở trong kinh sách Nguyên Thủy, mới chực nhớ như vậy, chứ còn nếu không thì…
Như quý thầy bây giờ, chưa có được mà học về kinh Nguyên Thủy, chưa có được mà nghiên cứu kinh sách. Kinh Nguyên Thủy đó chứ mà thật sự ra các con kỳ lắm, các con lại đọc cái cuốn kinh Nguyên Thủy, nghe cái bài kinh nó nhạo đi, nhạo lại, lát các con thôi quăng cuốn sách này rồi, đọc nghe không khoái chút nào hết, có không? Các con cứ nghĩ có không? Thầy nói có không?
Nhưng mà sự thật ra, cái ý thâm sâu ở trong đó ghê gớm lắm, mà đọc rồi các con sẽ chán lắm, chứ không phải là không. Cho nên được nghe, được đọc rồi mới may mắn cho cái đời tu hành của mình, mới thấy được cái đường lối của Phật, chứ còn không khéo chắc là dễ chết lắm.
Nghĩa là nói chung nếu mà, Thầy chỉ thêm chừng vài tháng nữa, thì mẹ Thầy qua phần thì chắc chắn là Thầy cũng bỏ, Thầy tìm cái chết cho nó yên cái thân chứ còn… May là tìm được cái pháp, rồi tu được làm chủ được cái sự sống chết của mình, rồi ra thất, mẹ Thầy mất, chứ cỡ mà kéo dài thêm chừng một năm nữa, thì mẹ Thầy mất trước khi Thầy xong, thì chắc chắn mà tu chưa có được gì.
Thì Thầy là con người gan dạ nhất các con, Thầy lên trên Hòn Sơn ở một mình, Thầy không sợ mà, Thầy là con người có thể nói rằng sống, chết Thầy coi thường lắm, Thầy có thể là hủy hoại cái đời sống của mình rất dễ. Cho nên, trong cái lúc mà nó khắc khoải nó đường cùng rồi nó không muốn sống nữa, nó không có muốn ham thích gì nữa hết.
Đó là những cái mà Thầy đã viết cái tâm trạng của mình ở trong cái lời nói đầu của cái cuốn Đường Về Xứ Phật tập 5. Sau này các con sẽ nghe những cái câu trả lời của Thầy ở trong tập này đó..
HẾT BĂNG
HÃY TIN TẤN ĐỪNG TU SAI 01- LY DỤC LY ÁC PHÁP LÀ ĐỆ NHẤT PHÁP
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh nam
Thời lượng: [02:57:40]
(00:00) Trường lão: Hôm nay có cái nhân sự, cái duyên rất tốt, các sư, các thầy được ở đây và được nghe Thầy nói chuyện. Cái duyên đó là do thầy Thông Vân, như các sư và các thầy cũng biết, trường hợp xảy ra. Vì vậy đó thì, ở đây Thầy không có bào chữa cho cái pháp môn của mình đâu. Bởi vì cái pháp môn của mình nó màu nhiệm đến cái mức độ mà chúng ta tập sai một chút xíu là nó sẽ hậu quả rất khó lường. Bởi vì cái pháp đó là cái pháp Như Lý Tác Ý.
Khi tâm mình chưa ly dục, ly ác pháp mà mình muốn tịnh chỉ hơi thở để nhập Tứ Thiền để cho mau, để thực hiện Tam Minh, thì trong khi đó mình chịu khó ức chế tâm mình thôi. Rồi mình điều khiển pháp Như Lý Tác Ý, nó sẽ làm cho cái cơ thể mình rối loạn thần kinh. Mà nếu mà cỡ sức mà thầy nhập định một ngày nữa mà Thầy không hay, thì coi như thầy Thông Vân đi luôn đó. Bởi vì nó rối loạn, do cái pháp hướng nó rất mạnh. Tuy rằng thầy bị bệnh, thầy có bệnh thần kinh từ lúc bé.
Cho nên thầy Chân Thành, thầy có hỏi Thầy một câu mà Thầy chưa có trả lời để cho những người, các thầy và các sư sẽ nghe câu trả lời của Thầy. Thầy hỏi những cái người nào có bệnh thần kinh như vậy đó, thì có thể tu thiền được hay không? Tại sao chúng ta tu mà có người lại bị tẩu hỏa nhập ma, có người lại bị căng mặt, căng đầu, không có điên, còn có người lại tu bị điên. Và trong khi chúng ta mọi người đang ngồi ở đây, tại sao chúng ta không làm nòng cốt được mà phải có dạy chúng ta mới biết được?
(02:28) Những người đó thì chúng ta nói rằng, nếu mà tu thiền sai mà dùng pháp hướng thì những người đó sẽ bị tẩu hỏa nhập ma và bị rối loạn thần kinh. Đó là trong những hạng người, người mà có thể xảy ra họ tu như thế này. Thí dụ như thầy Minh Tông, thầy cố gắng để mà thầy nhập Tứ Thiền- tịnh chỉ hơi thở, thầy là con người không có bị bệnh thần kinh, cho nên thầy không đi, chứ còn… thì bị ức chế bằng cái hơi thở của mình, cho nên thầy bị rối loạn khí quản đứt mạch máu mao quản, thì khạc ra máu, chứ không có gì hết. Gây tổn thương cho phổi mà thầy sinh ra bệnh…
Đó là cách thức tu sai, làm sai dùng pháp hướng rồi đồng thời dùng cơ để ức chế hơi thở của mình…. Đó là cách hiểu lầm lạc. Ở đây mục đích chúng ta tu hành như cũng chính vừa rồi các thầy đã đọc, thì các sư, các thầy phải biết rằng, cái mục đích mà Thầy nhắm vào để dạy cho quý sư, quý thầy là tâm ly dục ly ác pháp, Bất Động Tâm Định. Nhưng muốn tu cái đó cho đúng, tu như thế nào, mà Thầy nhắc đi, nhắc lại là nên đi kinh hành nhiều, đừng nên ngồi.
(04:12) Vừa rồi thì Thầy nhắc lại, thầy vào trong thất đóng cửa thầy tu không đi kinh hành, nguy hiểm. Do đó thì cách đây chừng 3, 4 bữa thầy, có đến xin Thầy dạy cách thức để nhập Tứ Thiền, để thực hiện Tam Minh cho nhanh chóng. Thầy nói không được, phải ly dục ly ác pháp rồi Thầy sẽ dạy cho nghe biết cách thức … dùng cái pháp hướng gọi là tu Tứ Như Ý Túc, tức là Định Như Ý Túc, thì Thầy dạy cách thức tu tập pháp hướng đó để tịnh chỉ hơi thở.
Thầy nói chứ không phải bảo các con về tu, Thầy bảo phải xả, đi kinh hành. Nhưng mà không ngờ ông chỉ dụ Thầy thuyết cho ông nghe, cho nên cái này từ lâu tới giờ về Tứ Như ý Túc, Thầy chỉ nói sơ sơ là Thầy dùng pháp Như Lý Tác Ý: “Hơi thở phải tịnh chỉ, ngưng” nhưng mà cách thức để mà tu tập để làm cho được ngưng…
Trước kia thì có trường hợp thầy Thiện Thuận, thầy ở trên Tây Ninh, thầy về đây thầy tu. Rồi thầy tu theo thiền xuất hồn, rồi xuống đây Thầy dạy, thầy ly dục ly ác pháp. Thầy bảo hàng ngày sống ở trên thân, thọ, tâm, pháp quán sát các chướng ngại pháp. Thầy tu tập, nhưng mà cái tu tập về phần đó thì thầy nói thầy tu, nhưng sự thật ra Thầy biết rằng thầy luôn luôn lúc nào cũng ngồi thiền ức chế tâm của mình.
(06:00) Rồi nghe Thầy dạy cách thức mà ức chế hơi thở bằng cái pháp Như Lý Tác Ý, thầy lấy pháp đó thầy mới tác ý để hơi thở mình tịnh chỉ để nhập Tứ Thiền. Thầy nghĩ rằng thầy nhập Nhị Thiền, Tam Thiền rồi bây giờ thầy sẽ nhập Tứ Thiền, tịnh chỉ hơi thở được là nhập Tứ Thiền. Cho nên khi mà thầy ở trong thất thầy dùng cái pháp hướng thầy vô trong cái định tưởng, tức là tâm nó yên lặng nó không còn một niệm vọng tưởng, nó vắng lặng.
Thầy ở trong đó thầy dùng pháp hướng nhắc bảo hơi thở tịnh chỉ, do đó hơi thở tịnh chỉ, thầy cảm thấy như hơi thở nó mất, nó không còn thấy nữa. Vì khi đó dùng cái pháp hướng mà trong cái trạng thái tưởng thì sẽ không thấy hơi thở, do đó thầy thấy hơi thở mất. Mất coi như thầy không thở, mà toàn cơ thể của thầy, từng lỗ chân lông nó sôi lên, nó sôi lục bục lục bục như nồi cơm.
Do đó thầy nói nó sôi như vậy là nó sẽ ly dục ly ác pháp, và bây giờ thầy sẽ khạc nó ra. Bắt đầu thầy khẹc khẹc ra, cho nó ra, nó ly dục, cái dục nó ở trong lòng, trong khi đó thầy tưởng thầy nghĩ rằng, tất cả những cái dục là cái lòng mình ham muốn là nó ở trong bụng mình chứ không ở đâu. Bây giờ mình khạc nó ra hết thì nó sẽ không còn ham muốn nữa. Thầy tự, cái tưởng của thầy nghĩ như vậy, trong cái trạng thái đó thầy khởi ra một cái nghĩ như vậy, cho nên Thầy khạc, khẹc, khạc, thầy khạc.
Thì lúc bấy giờ Mật Hạnh ở ngay cái thất của Thầy ở cũ đó, bây giờ Mật Hạnh đang ở đó, thì nó nghe khọt khẹc đó, thì ở ngoài đó nó mới chạy vô. Thì trong khi đó Thầy đang bàn việc với cô Út là phải giải quyết như thế nào đối với tăng ni tu học ở đây, phải có cái sự cách biệt như thế nào để không khéo nó xảy ra những cái không hay. Do đó thì đang ngồi bàn thì Mật Hạnh chạy vào báo cho Thầy. Thầy biết rằng cái chuyện này không xong, bởi vì Thầy đã dạy hồi buổi sáng mà bây giờ nó xảy ra trường hợp này, thì do đó nó nguy hiểm.
(08:04) Cho nên Thầy bỏ ngay công chuyện liền, Thầy với Mật Hạnh đi thẳng ra ngoài thất liền. Thì Thầy vừa tới ngã ba mà chỗ thất của ông Út và thất của sư Phước Từ đó, tới ngã ba đó thì Thầy nghe tiếng la rất lớn ở trong thất. Cũng tại cái thất của thầy Thông Vân ở đó, Thầy nghe tiếng la rất lớn, hét lên nữa chứ. Thì Thầy đến thất, thì Thầy thấy đồ đạc ở trong thất coi như là nó bung xùm ra, mùng mền nó đổ hết xuống đất hết.
Vì vậy mà Thầy đến, trong khi đó cái cơ thể nó đang run, nó run bần bật như là một con thằn lằn đứt đuôi vậy đó. Thì Thầy lấy cái tay Thầy ấn nhẹ trên đầu xuống, ấn nhẹ một cái xuống. Rồi Thầy đứng Thầy định tâm để cho nó dùng cái nội lực của Thầy để nó ổn định lại cái cơ thể của thầy Thiện Thuận. Thì một lúc sau thì Thầy giở tay ra thì thầy Thiện Thuận bình tĩnh và tỉnh lại không còn cảm giác nữa. Thì đó là cách thức Thầy giải quyết cho thầy Thiện Thuận lúc bấy giờ.
Nhưng mà đến thầy Thông Vân thì, ăn cơm rồi Thầy cũng bận công chuyện, Thầy cũng chưa có ra ngồi với cô Út, Thầy cũng chưa biết hay tin gì hết,. Bởi vì Thầy lo Thầy làm công việc, bởi vì còn hai tháng nữa mà ba bốn cái tác phẩm Đường Về Xứ Phật chưa xong, cho nên Thầy quyết định là nội trong năm nay là phải mười tập Đường về xứ Phật cho xong. Cô Út cũng nói thầy Thông Vân sao không ăn cơm, do đó thì giờ này mà sao bát cơm của thầy Thông Vân còn.
Vì vậy mà Thầy buông tay Thầy nói thôi để Thầy dọn dẹp cái này xong rồi Thầy ra. Bởi vì Thầy đương để nào là giấy tờ, nào là cái này kia Thầy soạn ra Thầy làm. Thì Thầy dọn dẹp xong rồi cái Thầy mới đi ra. Thầy đi ra Thầy thấy sư Phước Từ ngó ngó đó, là Thầy đi thẳng luôn ra đó. Rồi Thầy ra Thầy thấy thầy đang ngồi bắt ấn, thầy đang chổng khu mà bắt ấn, chứ không phải như thầy Thiện Thuận đang ngồi kiết già.
(10:20) Nhưng Thầy nhìn trong thất của thầy Thông Vân cũng bừa bãi đồ đạc, bàn ghế bừa bãi. Coi như là cũng có những sự kiện gì xảy ra rất nhiều mà không hay trước, cho nên thầy không còn ngồi thiền nữa, thầy ngồi ở sau vỉa hè thầy một tay bắt ấn như thế này. Thì Thầy biết rằng thầy Thông Vân có học Mật Tông, cho nên cách thức bắt ấn không sai. Cho nên nó từ đó nó sống dậy với thầy, nên thầy biết bắt ấn.
Do vì vậy mà Thầy đến đó Thầy cũng, khi mà đang cúi cái đầu đang bắt ấn mà ngó như thế này, Thầy lại Thầy để sau ót như thế này, Thầy để cái tay sau thầy Thông Vân mà Thầy thấy cái ót thầy Thông Vân cứng lại, không phải như cái đầu của thầy Thiện Thuận nó mềm, cứng như lại. Thầy biết là cái này nó đã là, đã có thời gian dài, không còn ngắn nữa. Nghĩa là nó rối loạn nó mới nó dễ lắm, nó bị gì nó có cái thời gian dài. Mà trong khi ở ngoài này thì các sư không có báo cho Thầy biết, khi thấy cái trường hợp mà thầy xảy ra, phải báo trước mà nó vừa xảy ra, kịp thời thì nó dễ cứu.
Còn bên này nó bị kéo dài cái thời gian, cho nên thầy đã lung tung hết, đồ đạc lung tung hết. Và đồng thời thầy đi ra ngoài thầy bắt ấn, thầy đi tùm lum, tà la, thầy đi vòng vòng nè. Thầy nhìn cái hiện trường là Thầy đã thấy cái sự kiện này nó xảy ra có thời gian dài chứ không đâu. Thì cũng trong một ngày một đêm đó chứ không có nhiều. Cho nên đến đó cái bắt đầu Thầy ấn tay rồi thì Thầy thấy có hơi tỉnh, nhưng nó còn nửa tỉnh, nửa mê, con mắt lúc nhắm, lúc mở.
(12:05) Thầy hỏi có biết Thầy không. Rồi có khi Thầy hỏi nó không làm thinh nó không biết thì Thầy biết không biết. Rồi bấy giờ Thầy mới tìm mọi cách Thầy gỡ, Thầy nhắc, Thầy nói hỏi cái này nhắc cái kia rồi nói, có khi nó trúng có khi nó trật. Trúng tức là tỉnh mà trật tức là nó mất rồi, nó rối loạn rồi. Do như vậy thì Thầy bảo thôi bây giờ đó, đi vào ăn cơm. Tỉnh cái thầy biết thì đi theo Thầy, nhưng rồi chợt cái nó mới nhìn thầy không đi được, thầy ngồi xuống.
Do đó mà tới chừng mà Thầy thấy cái kiểu này nếu mà mình cứ nhẹ nhàng vậy không được, Thầy mới đánh ngay ấn đường, Thầy đấm vô đây một cái rất đau. Thì thầy la lên một tiếng, rồi từng đó Thầy mới dẫn đi vô trong này được. Thì đủ biết rằng nếu mà Thầy không biết cách thì chắc chắn là không lôi ông này đi được, độ ba bốn người kéo, khiêng đó. Cho nên lúc bấy giờ sư Từ ở gần bên đó biết. Cho nên Thầy dẫn đi một phút, cái tới đó ông đứng lại không cho đi nữa. Thầy bảo trở lại, Thầy nói dẫn đi, dẫn đi ra ngoài cái nhà đó.
Đó là một trường hợp mà Thầy thấy, cái pháp của Phật nó có màu nhiệm lắm chứ không phải không màu nhiệm, nhưng mà chúng ta tu sai thì coi chừng. Bởi vì một cái gì mà nó màu nhiệm thì nó sẽ nguy hiểm, chứ không phải là như cái lối thiền Đông Độ với là thiền Tiểu Thừa, đối với thiền mà Đại Thừa, nó không có nguy hiểm đâu. Bởi vì nó ức chế nó lạc vô thiền tưởng thôi. Và đồng thời nó có điên thì nó điên chứ nó không có đến nỗi mà như cái này. Chỉ dùng cái pháp hướng thôi, mà nó làm điên, còn cái kia phải tập trung nó mới điên.
Còn cái này dùng pháp hướng, tự động cái pháp hướng nó màu nhiệm nó dẫn dắt, nó tịnh chỉ các hành, nó làm cho cơ thể mình nó rối loạn liền. Nó không đúng. Bởi vậy cho nên Thầy nhắc quý sư, khi nào ly dục ly ác pháp rồi thì chúng ta mới dùng pháp hướng để mà tịnh chỉ các hành. Thì chúng ta sẽ nhập định, mà tâm chúng ta còn một chút xíu tham dục, chúng ta coi chừng đó. Chừng đó là nó dễ chết chúng ta lắm chứ không phải không đâu, nếu mà không có Thầy.
(14:25) Vừa rồi thì cô Út có gọi điện thoại về dưới, thì thầy Thông Vân đã tỉnh rồi. Đã bây giờ biết … thầy nói về này sao bây giờ không thấy Thầy, anh mong Thầy đến đây với em, tội lắm. Bởi vì thầy Thông Vân là em của Thầy mấy con. Thầy thấy trước hoàn cảnh đó Thầy rất thương. Cho nên đối với thầy Thông Vân, mặc dù Thầy biết thầy Thông Vân là người có bệnh bại liệt. Thầy biết rất rõ, có nghĩa là vô thất thầy sẽ bị.
Cho nên thầy vô thất Thầy bảo thầy phải đi kinh hành đừng có ngồi một chỗ, nhưng mà ông không nghe. Nhưng mà đầu tiên thì ông còn lấy sách ra ông đọc. Những ngày đầu thì các con cũng biết chứ, ông lại cái tủ sách của Thầy ông lục, ông lấy, ông đọc mấy cuốn sách. Sau khi đọc hết sách rồi bắt đầu ngồi không đó là ông bị.
(15:30) Đó thì ở đây Thầy nói như thế này, quý thầy thấy, tu là phải tu đúng lời Thầy dạy. Bởi vì đây là pháp của Phật, nó có sự màu nhiệm chứ không phải như cái thứ thường kia đâu. Thứ kia quý vị phải tập trung cho nhiều nó mới căng thần kinh quý vị, quý vị bị bệnh thôi, còn quý vị không tập trung căng nhiều thì nó không bệnh đâu. Còn ở đây không có tập trung, mà nó ức chế rất cao độ, khi quý vị độc cư là quý vị bị ức chế.
(16:00) Bởi vì tâm quý vị muốn cái này, muốn vui, muốn nói chuyện, muốn nghe băng, muốn nghe thuyết giảng, muốn đọc kinh sách, mà không được hết thì tức là quý vị ức chế nó rồi. Cho nên quý vị biết khi mà ức chế như vậy mà quý vị không biết cách xả thì quý vị ức chế, còn không thì quý vị phạm hết những cái kỉ luật ở đây hết rồi. Thí dụ như quý thầy đi qua, quý sư đi qua, đi lại nói chuyện với nhau là quý thầy đã phạm kỷ luật ở đây rồi.
Bởi vì độc cư ở đây, theo cái thanh quy ở đây, từ cái ngày mà Thầy thành lập tu viện tới giờ, ba cái giới trọng của nó là ăn, ngủ và độc cư. Ăn như thế nào, ngày một bữa không được ăn phi thời, không được để dành ăn thêm chiều một miếng nhỏ gì hết, không được uống một ly mà có nước ngọt trong đó được nữa. Cấm ngặt như vậy, và ngủ thì phải đúng giờ giấc. Thí dụ như ở đây 10 giờ đi ngủ thì mọi người phải 10 giờ mà không thức hơn. 2 giờ thức dậy là thức dậy đều đúng như vậy chứ không phải …
Nghĩa là giờ nào ra giờ nấy hẳn hoi chứ không phải. Hỏi lại mấy người cũ ở đây, thầy Mật Hạnh này, cô Út này, những người mà còn cái cũ, thầy Chơn Thành, giờ nào người ta ra giờ nấy chứ không phải như bây giờ, có người ngủ trước, có người ngủ sau. Bởi vì Thầy bắt người ta như vậy là ức chế người ta. Cho nên Thầy không có muốn bắt buộc ai hết, và tại sao mà các sư, các thầy đến đây Thầy đều tìm cách từ chối, Thầy không muốn nhận.
Tại sao vậy? Rất khó chứ không phải. Bây giờ quý sư vô đây rồi quý sư dễ chứ hồi quý sư đến xin Thầy nói nào là chính quyền, nào là này kia nọ thậm chí như thật sự, Thầy bảo cô Út lên nói chính quyền đừng có kí tên cho họ vô đây, tu không có được, nó cực khổ Thầy. Nhưng mà giữa cái tình cảm làm sao mà Thầy không nhận quý thầy, quý sư được.
Đây bây giờ Thầy nói ở đây, là Thầy ở ngoài tầm năm, thì anh của ông Lộc, ông Lộc trước kia ở đây có tình, có nghĩa với Thầy sống với nhau ở đây. Bây giờ ông không tu đây được, anh ông đến đây xin tu và đưa theo hai thầy nữa. Bây giờ có mặt Thầy, thì Thầy làm sao mà Thầy không nhận. Nhưng mà Thầy nói khó lắm giấy tờ này kia nọ đủ cách hết. Thật sự ra đối với Thầy thì, sống ở đây, cái người tu như vầy nhà nước họ biết rất rõ, cho nên Thầy không phải là người xấu.
(18:28) Họ theo dõi Thầy rất lâu, họ biết Thầy người tu như thế nào. Cho nên bây giờ mọi người vào đây bao nhiêu người họ cũng cho, nhưng mà điều kiện Thầy không nhận, tại vì vô đây tu không đúng lời Thầy dạy. Thầy bảo như thế này, mình muốn tu đúng, là phải ăn ngủ cho đúng giờ giấc nghiêm chỉnh, vì mình phải tập làm chủ nó mà, phải sống độc cư cho đúng. Nhưng quý thầy hỏi lại Mật Hạnh, ở đây có người nào sống đúng độc cư không, và chính bây giờ quý sư cũng vậy.
Tu như vậy thì uổng cái sự tu tập của quý sư. Mà cuối cùng rồi nó không có ra gì, mà nó khổ. Ăn ngày một bữa, còn ở những chỗ khác nó đâu có ăn vầy. Có ăn có uống, rồi thậm chí còn nghe nhạc, nghe băng, đọc kinh sách nữa. Còn quý thầy nghĩ quý thầy vô đây đâu phải là cái trường học, mà quý thầy lại đọc kinh, đọc sách, ai cấp chứng chỉ đỗ tiến sĩ cho quý thầy bao giờ đâu. Thì cái đọc này để hiểu làm gì đây?
Ở đây đến đây chúng ta tu để tìm sự giải thoát, dẹp hết tất cả những sự hiểu biết tầm thường kinh sách đi, ở đây người ta dạy mình hành động để cho mình giải thoát. Mà mình tu giải thoát mình thấy hàng giờ, hàng phút, hàng giây trong sự giải thoát của mình chứ đâu phải là người ta dạy không có. Bởi vì người ta nhắc mình, tâm thanh thản, an lạc, và vô sự. Nếu tu mà tâm không thanh thản, an lạc,vô sự tức là sai rồi, thì mau mau đến hỏi Thầy, Thầy sẽ dạy cho mình đem lại tâm thanh thản, an lạc, vô sự.
(20:01) Bây giờ tâm mình nó hơi khởi buồn nè, cô đơn buồn nè. Mà mình đuổi không đi nè, mình không làm sao cho mình vui được, đến hỏi Thầy, giờ tâm trạng con đang ở trong cái trạng thái nó không thanh thản, an lạc, vô sự này nè. Mong Thầy chỉ cho con đuổi cái tâm của con bây giờ nó đang buồn, nó nhớ nhà hoặc là nhớ chùa, nhớ này kia, thì ngay đó Thầy sẽ giúp. Quý sư, quý thầy sẽ giải quyết được cái tâm trở về thanh thản, an lạc, vô sự.
Còn như này thì thật sự ra quý sư, quý thầy thật sự ra, tu cô đơn quá chịu không nổi rồi nói chuyện này kia nọ, tất cả những cái. Những cái này đều là đưa đến quý vị mất thì giờ, mất thì giờ không giải thoát. Bởi vì từng phút giây không giải thoát thì bây giờ cả ngày. Tu vậy sai. Rồi cái tâm mình muốn khởi ra những cái tham vọng, thần thông phép tắc này kia, muốn nhập Tứ Thiền, muốn làm việc Phật sự dữ tợn cho nó nhiều đi nữa, cuối cùng thì…
Nghĩa là bây giờ có nghe Thầy, khéo léo hỏi Thầy, Thầy sẽ mở miệng Thầy nói những cái bí mật của con đường tu để mà nhập định để mà thực hiện Tam Minh, thì quý thầy sẽ lọt vào… bởi vì tâm của quý thầy nó chưa thanh tịnh. Nó còn là một bãi rác bất tịnh. Cho nên mình muốn đi vào những cái pháp thanh tịnh màu nhiệm siêu việt của Phật sao được?
Cho nên mình phải lọt vào trong pháp tạng. mà lọt vào trong pháp tạng thì một là mình giống như những người lên đồng nhập xác, hai là mình trở thành điên khùng. Đó bằng chứng như các thầy cũng đã biết cái hình ảnh thầy Thông Vân vừa rồi. Thầy biết chỉ còn cách thức là đưa thầy Thông Vân trở về gia đình, sống trong hoàn cảnh của gia đình, thì nó sẽ dịu, ở tu viện không chịu nổi. Nghĩa là còn ở trong tu viện một ngày giờ, là thầy Thông Vân sẽ bị rối loạn thêm.
Bởi vì cái tu viện là cái nơi thanh tịnh, còn thầy thì bây giờ đã rối loạn rồi. Mà nó thanh tịnh thì cái rối loạn này càng thanh tịnh hơn, còn bây giờ thầy ra cái cuộc sống của thế gian, giữa em út, con cháu người này người kia trong gia đình là thầy cởi mở ra, cái tâm trạng, cái trạng thái mà thanh tịnh im lặng như thế này nó mất đi. Cái tâm nó sẽ phóng dật ra.
(22:21) Đây Thầy sẽ nói cái sai thứ hai. Cái sai thứ hai nữa của người tu, mà Đức Phật ngày xưa đã nói: “Ta thành chánh giác là nhờ tâm không phóng dật”. Vậy phóng dật là cái gì, quý thầy quý sư có hiểu. Nghĩa là bây giờ cái người mà không phóng dật là cái người mà người ta ham tu, gọi là phòng hộ sáu căn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, ở bên vách này người ta la làng mình cũng không nghe. Mình cũng không để ý mình không nghe nữa, mặc dù người ta có nghe mà có biết ai la làng làm gì làm, chẳng biết, mà nếu mình nghe người ta la làng chuyện gì đó là mình đã phóng dật rồi.
Cho nên vì vậy cái tâm phóng dật là cái tâm đặc biệt của đạo Phật, mà nếu một người nào không tu, mà sáu căn không giữ gìn nó thì không thể nào mà không phóng dật. Chứ không phải mà như giữ gìn sáu căn như mình thấy người ta lấy cái quạt che không cho người ta thấy, không phải đâu. Nghĩa là luôn luôn lúc nào mình cũng giữ gìn nó, không ngó xung quanh mình cái gì hết, đó là phòng hộ con mắt. Không dám nghe cái gì hết gọi là phòng hộ lỗ tai.
Bây giờ mình sức yếu mình chưa đủ sức, nghe người ta chửi lộn bên đó mình bịt cái lỗ tai mình không nghe tiếng nữa, nghe nó dính vô nó bỏ ra không được, cái tâm nó phóng theo. Cho nên nhớ một câu đức Phật, ngài sắp sửa chết, còn một giây cuối cùng là ngài đã nói lời nói cuối cùng: “Ta thành chánh giác được là nhờ tâm không phóng dật”, nhờ tâm không phóng dật mà các điều lành nó có thể có được.
(24:06) Các sư có hiểu điều Thầy nói không? Bây giờ quý thầy, quý sư đến đây, sống với Thầy rất khổ, ăn ngày có một bữa, không được vui chơi một cái gì cả hết. Thế mà chúng ta không đạt được, không phải uổng sao? Tại sao Thầy không thể hiện thần thông để mà lòe quý thầy để mà cho quý thầy ham tinh tấn tu? Điều đó điều sai. Thần thông thì nó phải có cái lợi ích của trong cái thần thông đó thì mới thực hiện còn cái không lợi ích không thực hiện.
Các sư, các thầy sẽ hỏi tại sao Thầy biết những người điên khùng như vậy mà còn nhận. Hoặc là Thầy chẳng biết gì hết. Nói đúng ra hoàn toàn người nào đến đây Thầy biết người đó tu được, người nào tu được, tu không Thầy biết hết. Tại sao Thầy biết hết, bởi vì Thầy chưa thấy có một người nào tu được cho nên Thầy chưa có nhận. Cho nên đến đây ai xin Thầy cũng từ chối hết, không người nào Thầy muốn nhận. Nhưng mà trước lòng tha thiết muốn tu, Thầy không nỡ từ chối.
Vì một con người tu thì không có bao giờ mà làm ác ai hết. Người ta tham thì người ta nói nhiều thì mình cũng chấp nhận thôi, tu được hay không? Cho nên quý thầy, quý sư vô đây làm sai, trước kia thì Thầy có một lúc Thầy bắt ức chế, như Mật Hạnh là Thầy ức chế. Mật Hạnh ức chế nhập được Sơ Thiền đã là thực hiện được những cái Thiền Định rồi. Nhưng mà vì ức chế cho nên Thầy biết rằng, nó sẽ thực hiện đi đến cái mức độ cuối cùng là cái tâm chưa ly dục ly ác pháp thì nó sẽ tai hại vô cùng.
Cho nên Thầy xả ra, Thầy biết là đạo Phật, người nào ý thức được, sống không phóng dật, xả tâm mình, nhàm chán thế gian thì người đó sẽ tu được. Còn người còn ham thích thế gian thì không thể nào tu được. Thật sự ra thầy nghiệm lại mình coi mình còn ham thích nó không, nếu mà còn ham thích chút xíu, còn thấy đời đẹp thì không tu được gì hết, mà phải thấy nhàm chán, chán ngấy cái đời này. Nhìn thấy cuộc đời này nhàm chán, thật chán thì quý sư mới tu được.
Và tu được thì lúc bấy giờ nhàm chán rồi thì không còn vui với ai nữa, không còn thích nói chuyện với ai, không còn làm bè bạn với ai nữa hết, thì lúc đó sẽ tu được. Bởi vậy cho nên Thầy nhàm chán cuộc đời mà Thầy nhập thất mười năm, hai chục năm mà Thầy chịu đựng nổi trong cái sự tu tập của Thầy mà. Thầy không còn ham thích cái cuộc đời này nữa. Còn bây giờ bắt buộc mà mình tự ép mình vào tu mà mình còn ham thích mình tự dối mình.
(26:50) Còn Mật Hạnh, còn quý thầy hồi đó ở đây, Thầy bắt ép. Thầy thấy rõ ràng là, Thầy bắt ép họ độc cư chứ gì. Mật Hạnh thì nó là cháu của Thầy nó sợ chứ gì, nó không dám. Nhưng mà quý sư quý thầy thì, Thầy bắt ép thì trước mặt Thầy thì không nói chuyện, sau đó nửa đêm mười hai giờ thức, bởi vì không nói chuyện chịu không nổi mà. Mười hai giờ thức rồi rủ nhau ra cái thất của sư mới đến ở đây này, ra góc đó, lén ra góc đó mà nói chuyện.
Vậy mà không tránh khỏi Thầy, Thầy còn ra Thầy gặp Thầy điểm mặt. Ba bốn lần như vậy Thầy mới kêu Thầy đuổi một lượt ba thầy. Khi ra đi rồi họ nói Thầy đủ thứ, nói xấu Thầy đủ thứ. Nói Thầy nào là lấy pháp của Thầy để thí nghiệm đệ tử, nào cái này, nào cái kia. Thầy nói pháp của Thầy Thầy không có chế, pháp của Phật chứ không phải pháp của Thầy. Thầy không sợ cái điều đó đâu. Phật dạy sao, Thầy dạy y như vậy chứ Thầy có chế pháp mới đâu.
Cho nên vừa rồi cái cuốn chín thì phải, Thầy nói đến thầy Chơn Đức, thầy cũng lập luận cái đó đối với ở ngoài Hà Nội, với một số cư sĩ ở ngoài Hà Nội, nói Thầy lấy pháp môn của mình để thí nghiệm đệ tử như là Thầy chế ra một thứ thuốc mới để thí nghiệm. Đó, rõ ràng mà. Vì chính những thầy, Thầy đã đuổi ở đây, họ đã nói câu nói đó rồi, cho nên họ đã lặp lại, thầy Chân Đức đã lặp lại cái lời nói của cái pháp Thầy rồi, đó chứ không phải là thầy Chơn Đức mới biết.
(28:22) Thầy biết điều này rất rõ. Nhưng Thầy không ngại đâu. Thầy nói rằng cuộc đời của Thầy chỉ đào tạo được một người thôi, một người chứng như Thầy thôi, là Phật Giáo vẫn còn. Thầy không cần nhiều. Thầy chỉ cần tha thiết một người về đây mà nỗ lực, không nói chuyện ai hết, sống một mình, có điều gì cứ thưa hỏi Thầy, Thầy chỉ dẫn dắt người đó tới nơi tới chốn. Mà đi nói chuyện người này, người kia rồi thì ngàn đời Thầy không bao giờ mà Thầy đem một cái pháp mà màu nhiệm nào mà Thầy dạy được hết.
Bởi vì những người này không thể nào là con người giải thoát được. Làm sao dạy được. Dạy, có tâm thương yêu tha thứ họ, dạy họ thì họ sẽ tu điên, họ sẽ tu họ đi đến chỗ bệnh tật. Ngày hôm nay họ chưa làm được, nhưng ngày mai họ làm được thì nó sẽ lạc vào con đường điên. Mà nếu họ có những cái thần kinh có cơ thể khỏe mạnh, thì họ sẽ thực hiện những cái thần thông tưởng này, thì thế gian này rất, họ sẽ bị những danh lợi và sắc đẹp, qua cái thần thông của họ sẽ cám dỗ họ liền tức khắc.
Bởi vì họ chưa có ly, họ chưa có diệt được cái lòng dục của họ, thì họ có thần thông thì họ bị cám dỗ ngay liền. Và những người mà có khả năng, có cơ thể mà khả năng như vậy, họ sẽ thực hiện pháp hướng sẽ có thần thông. Minh Tông mà nếu không khạc ra máu, không đứt mạch máu mao quản ở trong phổi của nó đó, thì đương nhiên nó có thần thông.
(30:00) Và thần thông rồi thì Thầy cũng không làm sao mà Thầy khóa cái thần thông này được. Chỉ có đem nữ sắc đến mà dập cho nó, làm cho nó ô nhiễm thì nó mới phá được cái thứ này, chứ còn không thì không phá được. Nhưng mà chắc chắn nó có thần thông thì ra nó bị ô nhiễm nữ sắc, không thể nào tránh. May mà nó khạc ra máu nó đình chỉ, chứ nếu còn không, nếu mà nó không khạc ra máu thì nó sẽ thực hiện được thần thông cho mọi người sẽ thấy.
Nó lấy cái pháp hướng của Phật, mà nó dám thực hiện tà đạo của nó, nó thần thông. Nó dám tuyên bố với Thầy mà. Thầy nói thật hôm nay có mặt quý sư, quý thầy tất cả, may là chư Phật còn giữ được cái chìa khóa, chứ không khéo là nó đã thực hiện thành một cái người rất lớn mà có thể giết hại chúng sanh trong cái đời này chứ không phải đời sau.
Cho nên ở đây, Thầy nói rằng Thầy đã lỡ mà đem cái pháp này ra nói rồi, Như Lý Tác Ý rồi, cho mọi người biết rồi, không khéo người ta sẽ sử dụng nó, người ta tin tưởng người ta sử dụng nó bằng một cái tà đạo. Tại sao Thầy nói tà đạo, là tại vì cái tâm chưa ly dục ly ác pháp mà mình luyện cái này thì tà đạo chứ sao. Phải hiểu được cái điều đó.
Còn cái tâm ly dục ly ác pháp sống đúng giới hạnh của một đời sống tu sĩ, nó ly dục ly ác pháp rồi, thì pháp này nó sẽ đưa dần đến Chánh Pháp chứ không còn tà đạo. Còn cái tâm mình chứa một cái lòng ham muốn, mà mình thực hiện cái pháp này thì nó, cái cơ thể mình không bị bệnh, không bị gì hết, nó có cái khả năng, thì nó sẽ thể hiện được cái lực của nó rồi.
Cho nên Thầy nói thật sự ra, một cái người mà luyện tập về cái pháp hướng này, họ đâu có cần ly dục ly ác pháp đâu, họ sẽ thực hiện được, nhưng mà nó trở thành tà đạo, nó có những thần thông, mà thần thông kinh khủng ghê gớm lắm.
Cô Thanh Hải, cô đã thực hiện được những cái điều này, mà có những chút ít thần thông này, cũng đều chính cô đã, do cái chỗ này mà cô đã cám dỗ biết bao nhiêu người theo cái đạo Thanh Hải. Thầy hiểu được cái điều này, nhưng nó là tà đạo. Cho nên nó đâu có đưa cô đi đến cái chỗ mà thân tâm cô thanh tịnh đâu. Cô ô nhiễm rõ ràng mà.
(32:10) Đó thì hôm nay Thầy nói, những cái lời băng này Thầy ghi lại, giữ lại, Thầy không có bao giờ sai, để cho thấy rõ ràng là cái sai của người ta, là ngay cái bước đầu vô mà không ly dục ly ác pháp mà cứ tập luyện, ở những cái chỗ để tìm cái thần thông.
Và thầy Thông Vân cũng là cái trường hợp tham vọng đó, để mà hỏi Thầy, khéo léo hỏi Thầy để mà Thầy nhắc đến cái chỗ mà tịnh chỉ hơi thở. Không phải Thầy không biết đâu, nhưng bây giờ làm sao bây giờ? Không thể nào mà, mà như thế nào. Nhưng càng có những điều kiện xảy ra, để chứng minh cho chúng ta học, chúng ta hiểu chúng ta rõ được, chúng ta mở con mắt lớn ra để chúng ta thấy được, những cái pháp môn của tất cả những cái tôn giáo ngoại đạo trên thế gian này có là những gì.
Mà trong lúc đó Thầy đang cố gắng hết mình để mà soạn và viết một cái nền đạo đức cho con người, chứ không bao giờ đem cái thứ bậy bạ này dạy. Nhưng bây giờ Thầy không nói ra, thí dụ như bây giờ Thầy không nói rằng mình có Tam Minh, có này, có kia, có nọ, thì quý sư nghĩ rằng đó là pháp thường thôi. Cũng như Đức Phật nói, ta nói, ta chấp nhận là cái thần thông giáo hóa, mà không chấp nhận thần thông biến hóa mà thần thông kí thuyết, có nghĩa là ta không phải không có những cái thứ đó.
Đức Phật đã xác định vậy, nghĩa là bây giờ Ông nói những cái đó huyễn hóa tức là Ông có chứ gì, nhưng mà cái này không có lợi ích đâu. Trái lại Thầy thì Thầy bao giờ cũng muốn đi vào con đường đạo đức đúng cái lời của Phật nói, không bao giờ thực hiện thần thông là bởi điều này. Bởi vì thực hiện thần thông, bây giờ mình có dạy đạo đức người ta, người ta nói người ta ham đạo đức chứ sự thật ra không phải họ ham đạo đức đâu mà họ ham thần thông.
(34:03) Ham đạo đức là ham cái đường giải thoát chứ không phải là ham cái sự thần thông. Nhưng cái người mà ly dục ly ác pháp rồi làm sao người ta không có. Tâm người ta thanh tịnh làm sao người ta không có cái gì? Mình phải đặt một câu hỏi rất lớn chứ, tâm một người thanh tịnh như Phật mà làm sao không có thần thông. Tại sao người ta tôn xưng Phật người ta không có dám làm hại Phật.
Không phải trong thời Đức Phật không có thần thông. Có bao nhiêu, ngoại đạo nó luyện thần thông còn hơn bây giờ nữa. Trong cái thời đó là thời thanh tịnh mà, nó đâu có ô nhiễm như vật chất chúng ta bây giờ. Còn bây giờ chúng ta vật chất nó ô nhiễm làm sao chúng ta luyện được. Còn thời Đức Phật là cái thời thanh tịnh, người ta chỉ cần luyện tập ở trong núi non là người ta có thần thông rồi.
Cho nên trong khi đó, thần thông của ngoại đạo không đối với Đức Phật ra cái gì hết mà. Nghĩa là như là hạt cát, còn cái sức thần thông của Phật như thế này. Vì do cái tâm thanh tịnh người ta. Còn mình, mục đích của mình tìm cái tâm thanh tịnh như Đức Phật thì cái thần thông đó chỉ là huyễn hóa thôi. Nhưng mà làm sao không có. Có để làm gì đây.
Cho nên ở đây chúng ta nói thật sự, có nhiều người đặt câu hỏi, Thầy có thần thông sao Thầy không biết thầy Thông Vân điên mà nhận thầy Thông Vân vô đây tu, phải không? Cho nên ở đây tại sao Thầy nhận thầy Thông Vân? Như thầy Chơn Thành hỏi Thầy cái câu hỏi, cái người bại liệt thần kinh, thì cái người đó họ có thể tu được hay không. Thầy chưa trả lời trong cái cuốn sách, chứ Thầy trả lời cuốn sách là tức là Thầy đã biết những cái người nào mà nó thuộc về cái loại nào rồi.
Bây giờ một cái người mà lên đồng nhập xác mà đến đây xin tu, Thầy biết người đó sẽ bị như thế nào khi mà tu pháp này. Thầy biết hết chứ, nhưng mà tại sao Thầy nhận họ. Thầy nhận họ làm cho họ không bất mãn với Phật pháp. Đến đây lần lượt gỡ lần để cho họ đi vào con đường đạo đức. Đó là Thầy thương họ, chứ đâu phải Thầy sợ ba cái điên khùng của họ đâu. Thầy đâu có phải sợ gì một người điên ở đây để rồi mang tiếng cái chùa này điên sao. Thầy đâu sợ. Pháp của Thầy là pháp của Phật chứ đâu phải của Thầy. Thầy đâu có chế ra cái pháp nào của Thầy đâu mà Thầy sợ.
Nếu mà pháp của Phật điên thì Phật dạy người ta điên chứ Thầy đâu có dạy. Thầy chỉ lấy cái pháp của Phật mà Thầy tu, Thầy được giải thoát thôi. Thầy đâu có sợ, Thầy đâu có mong quý thầy mà đến đây cực khổ Thầy. Nhưng vì tha thiết đến đây xin, Thầy vẫn cho. Không phải Thầy không biết đâu. Những cái hạng đồng cốt vô đây cái mặt là thấy đã biết liền. Phải không? Còn những cái người mà thần kinh bại liệt vẫn thấy cái mặt biết liền mà, đâu phải không biết đâu.
(36:47) Đây Thầy nói không có thần thông gì hết, với con mắt của quý sư, quý thầy cũng vẫn biết người đó được mà. Nghĩa là ở ngoài đời người ta nói cái người mát mát, đó là người thần kinh bại liệt. Còn cái người lên đồng nhập xác ta thấy cái mặt của họ là đã biết liền rồi. Còn cái người mà không có cái trạng thái đó là mình thấy mặt mình biết rồi, đâu phải là thần thông. Đó Thầy nói hôm nay để biết rõ ràng chứ không phải không.
Nhưng trước sự tha thiết của họ đến đây họ xin, họ là một đồng cốt, họ xin tu theo pháp Phật. Bây giờ đuổi họ không đi, họ nói Thầy đuổi con, con không đi, thì như thế nào. Không lẽ mình là một tu sĩ mình xách gói quăng ra. Mà bây giờ người ta tha thiết như vậy thì mình khuyên họ, bây giờ tu một tháng, nửa tháng, hai tháng, ba tháng chừng nào coi được thì thôi. Nhưng mà coi ở quen rồi thì người ta tu đúng, tu sai người ta tu theo kiểu người ta, người ta không có tu theo mình, thì mình cũng đành chịu thôi chứ bây giờ làm sao.
Rồi bây giờ người ta ở thêm nữa thì cũng đành chịu thôi chứ không sao gì. Nhưng mà các thầy cứ nghĩ rằng mỗi một ngày qua, mà cái số lượng đông người thì trong tu viện chúng ta nó đâu phải là có cái tổ nấu cơm, mà chỉ có hai, ba người phụ nữ người ta nấu cơm. Bởi vì nhìn thấy cái này, hột cơm mà của một cái người làm ra cho chúng ta ngồi tu mà chúng ta tu mà sai, chúng ta có xấu hổ không?
(38:19) Ở đây người ta đem cái sức của người ta, nửa đêm người ta dậy, người ta nấu cơm cho mình ăn, người ta thay thế cái sự mà đi xin cho mình để người ta nấu cơm cho mình ăn cho đúng, mà mình ăn không đúng, mình tu không đúng thì mình có xấu hổ không? Bởi vậy, cho nên vì vậy mình đi xin ăn từng bữa, từng nhà, mà khi mình tu không đúng, mình thấy mình còn khởi một cái tâm tham, mình quan sát thấy mình còn cái tâm tham là mình đã tự xấu hổ rồi, xấu hổ với cái bữa cơm của người ta cúng dường cho mình ăn.
Huống hồ mình vô đây, các sư, các thầy thấy cô Út rất là cực khổ. Cực khổ mọi mặt, có cái gì mà khổ thì cô kê vai cô gánh vác hết. Cô không từ ai. Lo cho chúng ta, cho có một ngày một bữa ăn để cho chúng ta thực hiện. Nhưng mà chúng ta tu không đúng thì chúng ta có xấu hổ không. Hay là chúng ta sống chơi chơi cho nó qua ngày tháng. Cô chỉ mong làm sao cho một người tu chứng là cô rất mừng vì cái công của cô làm nó không có uổng.
Mà nhìn trước nhìn sau, mà thấy quý sư nói chuyện, thấy quý sư đi tới, đi lui, thấy quý sư không chịu đi kinh hành, là cô đau xót vô cùng. Cô nói với Thầy mà, cô đau xót vô cùng. Con muốn làm sao cho quý sư tu đúng, quý sư đi kinh hành nhiều, để tâm tỉnh thức, để quan sát, đừng có ngồi nhiều trong thất nó sinh ra lười biếng hoặc cái này cái khác. Đừng có đọc kinh sách, đừng có ham học mà ở đây phải ham giải thoát.
Vì học thì nó phải có trường có xá có này kia người ta cấp chứng chỉ này kia, mà bây giờ vô đây ở như thế này rồi, Thầy không cấp chứng chỉ được mà con cũng không cấp chứng chỉ được. Họ đi ra họ làm cái gì đây. Bất quá đi ra thì họ nói xấu con, họ nói con thế này thế kia, thế nọ, thì họ nói có nhằm nhò gì đối với con nhưng mà uổng cho cái công của họ tu.
(40:18) Một trăm mấy chục người về đây rồi, bây giờ nhìn lại công dã tràng. Bây giờ đi ra có ra gì đâu, có phải đi ra ngoài đó họ tu họ thành Phật, họ giải thoát thì mình cũng mừng đi. Tại chỗ này mình dạy người ta không được, người ta ra kia người ta đã giải thoát. Còn bây giờ nhìn lại cái người nào cũng chơi vơi hết, không có ra gì hết. Không làm được một cái gì hết. Ở mình cũng không được, ra ngoài kia sống thì chỗ này người, chỗ kia người, cuối cùng không người nào được hết. Đau lòng.
Vì những người đã đến gặp mình, dù là một giây, một phút thôi, nó cũng có cái tình cảm ở trong đó rồi. Khi ra đi mình cũng nhớ chớ, cũng thương chớ, làm sao mình quên được, là con người mà, chứ đâu phải cây đá mà quên. Cái hình ảnh của mỗi người đều ở trong cái đầu của mình mà, nhớ đến người đó mà người đó được giải thoát, người đó được hạnh phúc thì mình sung sướng, mà người đó không có được hạnh phúc không có được giải thoát mà đang trên cuộc đời đau khổ như thế này, thì mình có sung sướng gì khi mà mình đã được giải thoát.
(41:20) Thì hôm nay Thầy nói để thấy được cái chỗ tâm không phóng dật là đệ nhất pháp. Muốn ly dục ly ác pháp mà không phòng hộ sáu căn thì tâm sẽ phóng dật. Mà tâm phóng dật thì kết quả sẽ đi về đâu. Mà chính Đức Phật đã nhắc chúng ta, Thầy có ghi ở trên bia đá kia kìa. Trước khi còn một vài giây nữa Đức Phật đã tịch, thì Đức Phật đã nói câu nói đó. Thế rồi bây giờ chúng ta không ôm cái pháp này còn ôm cái pháp nào nữa để mà thực hiện cuộc đời giải thoát của mình.
Muốn giải thoát duy nhất có cái pháp không phóng dật. Vậy thì từng mỗi tâm niệm của chúng ta, niệm niệm tâm tâm của chúng ta lúc nào cũng nhìn coi cái tâm mình có phóng dật không, phóng chỗ nào. Nó không phải phóng chỉ riêng một niệm ở trong đầu chúng ta, nó còn phóng ở âm thanh, sắc tướng, sáu trần bên ngoài nữa, nó phóng tùm lum, nó phóng đủ thứ hết. Cho nên vì vậy mà hàng ngày chúng ta ngồi đây như một người lính canh mà phải tỉnh thức, không khéo kẻ gian trộm, kẻ giặc nó xen vào mình không hay.
(42:40) Mà nó xen vào thì nội thành của mình nó rối loạn hết rồi, nó không có thanh bình ở trong này. Mình có trách nhiệm và bổn phận canh cái cửa thành của mình, thế mà mình cứ để giặc len lỏi vào như vậy sao? Là một người tu, như một người lính, một người lính canh thành, mà canh lơ mơ thì kẻ giặc vào. Cũng như bây giờ, người cảnh sát nhà nước này, có cái bổn phận phải diệt trừ ma túy, mà cái người cảnh sát canh cái cửa thành để đừng cho ma túy vào xâm chiếm đất nước chúng ta, mà nó cứ chui vào như vậy là như thế nào?
Để con em mầm non của Tổ Quốc chúng ta nghiện ngập xì ke ma túy thì là một tai hại của đất nước. Chúng ta là người tu cũng như vậy. Mình ví như mình là một người canh cửa, để xem coi giặc nó chui chỗ nào vào, tức là sáu trần nó chui chỗ nào vào đây. Mà chúng ta tỉnh giác, tỉnh táo, chúng ta nhìn không thấy giặc chui vào thì đất nước chúng ta thanh bình, đó là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
Quý sư hiểu cách thức tu chớ, cụ thể rõ ràng. Quý Thầy có hiểu chớ, đâu có chỗ nào là khó khăn đâu. Nếu Thầy ngồi đây, Thầy là một người lính canh, bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp, bốn cửa thành này, mà có một thằng giặc nào mà chui vào được, chỉ chúng ta lơ đễnh mà để nó chui vào, nó làm tâm chúng ta chạy theo, thì còn gì cái thành của chúng ta gọi là giải thoát được, gọi là thanh bình được?
(44:32) Pháp của Phật nó cụ thể mà nó rõ ràng như vậy. Đức Phật đâu có chỉ cho chúng ta giữ một cửa thành, mà cả bốn cửa thành. Cho nên mình là một người canh giữ bốn cửa thành này làm sao mà giặc vô được. Chỉ mình bỏ quên mình đi chơi, mình uống rượu, mình say sưa rồi mình bỏ cửa thành hổng, chúng mới vô trong này mới quậy phá ở trong này làm cho thành mình tan nát. Chứ còn không thì đâu có như thế này.
Cho nên sau khi mà đất nước thanh bình rồi, tức là thân tâm của mình ly dục ly ác pháp rồi, thì bắt đầu mình mới sửa sang lại nội thành của mình bằng cách làm kinh tế, thì như chúng ta nhập định Tứ Thiền, bốn Thiền, như chúng ta thực hiện Tam Minh. Còn bây giờ cái thành của mình bây giờ, giặc nó xâm chiếm nó ở trong này, hoàn toàn mình đuổi chưa ra, mà bây giờ mình không canh gác mình đuổi cho sạch ra hết, rồi mình giữ gìn cho đến khi thành tựu.
Bây giờ Thầy tin rằng quý sư, quý thầy người nào cũng có ly dục ly ác pháp được hết. Nhưng ly dục ly ác pháp của quý sư chưa sung mãn, chỉ có hiện thấy được mặt nó, biết ly dục ly ác pháp trong một khoảng thời gian ngắn. Đức Phật bảo chúng ta phải thực hiện sung mãn kia mà. Có phải không, phải làm cho nó sung mãn. Cho cái tâm được ly dục ly ác pháp để nhập Sơ Thiền để cho sung mãn Sơ Thiền là có.
Thầy tin rằng người nào cũng thấy được Sơ Thiền, bởi vì chúng ta ngồi đây tâm chúng ta thấy thanh thản, an lạc, vô sự là đã ly dục ly ác pháp. Nhưng sung mãn tức là quét sạch nó thì chưa. Vậy thì Đức Phật đã dạy chúng ta trên Tứ Niệm Xứ mà ngồi đây canh phòng mà gác nó, mà phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, để cho mình tỉnh táo, để cho mình diệt giặc, thì cái đó mới chính là cái tu của mình chứ.
(46:37) Làm gì bây giờ ngồi đây mà gọi là hướng tâm để mà nhập Tứ Thiền, Tam Thiền. Mà Tứ Thiền, Tam Thiền nó có ích lợi gì, trong cái giai đoạn này nó đâu có ích lợi gì. Cũng như bây giờ đất nước của mình bị giặc nó xâm chiếm nè, mà mình lo mình làm kinh tế, để cho giàu thì làm sao giàu được. Đuổi giặc ra khỏi đất nước, rồi mới giữ gìn bờ cõi, an cư lạc nghiệp cho dân ở trong này có nghề nghiệp, rồi mới tính ra cách thức làm kinh tế, dân nó mới giàu nó mới mạnh chớ.
Còn bây giờ dân mình đang bị nô lệ, đang bị người ta cai trị, nó sai mình làm cái gì thì mình vất vả theo làm. Cũng như bây giờ nó sai quý sư ăn là quý sư cũng ăn, sai quý thầy nhìn ai cũng nhìn, quý thầy cứ làm theo. Đến đây Thầy thường nhắc, chúng ta tu hành là chúng ta giữ thất mình không cho ai bước vào thất. Mình nghĩ rằng mọi người đang ô nhiễm chứ chưa có người nào thanh tịnh. Mà người không thanh tịnh vô thất mình là nhiễm ô thất mình, không cho vô. Nhất định là không cho vô.
Đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai, phòng hộ nó, ai mà bén mảng đến thất mình là đóng cửa ngay liền, trèo lên ghế hoặc lên giường ngồi thiền, hoặc là ngồi dưới sàn thiền, ngồi thiền liền. Người ta có đến thất mình kiếm chuyện, thấy mình ngồi thiền không tiếp chuyện họ phải đi thôi. Nghĩa là mình có đủ cách để mình tránh duyên, mình có đủ cách mình đẩy lui các chướng ngại pháp không xâm chiếm mình, thì người đó là cái người sẽ giải thoát.
(48:17) Quý thầy cứ hỏi lại Mật Hạnh coi có không. Thầy ép buộc Mật Hạnh sống độc cư, phải làm đúng như vậy, ai muốn men men đến thất là đóng cửa lại, sau ba năm tâm quay vào định ở trên thân liền tức khắc. Đó là ức chế nó mà nó còn quay đó, huống hồ là chúng ta đã nhàm chán. Cho nên vì vậy khi nó đã quay rồi thì nó sung mãn liền. Còn ức chế nó làm sao nó sung mãn. Mình ức chế nó đừng có quay vậy chứ, thật sự ra nó chưa sung mãn tâm mình chưa nhàm chán pháp thế gian mà.
Thầy biết, Thầy bắt buộc các sư sẽ làm được cái điều này, sẽ nhập được Sơ Thiền một cách cụ thể rõ ràng, nhưng giết quý sư, quý thầy. Bởi vì qua kinh nghiệm Thầy đã biết rồi. Đối với Thầy thì tự giác … Thầy ức chế nó, Thầy khép mình trong khuôn khổ độc cư, cho nên từ đó tâm Thầy nó quay vô thật sự. Và trong khi tu tập Thầy nhàm chán cái pháp thế gian này. Thầy không còn tham, cho nên nó không còn lý luận một cái gì cho Thầy đi ra được.
Còn Mật Hạnh khi quay vô như vậy, thì lúc bấy giờ nó quay vô như vậy, nó định được như vậy rồi, mà do ức chế, cho nên lúc bấy giờ nó có cái sức mạnh của nó, nó bung ra. Nó bung bằng cách nào, nó bung ra đâu được bằng cái ý thức- cái vọng tưởng cái niệm của mình trong đầu. Nó phải bung qua cái thọ, nó đánh qua cái góc khác để cho mình tiếp duyên ra ngoài, bắt đầu phát khởi bệnh.
Mà trong khi bệnh đừng có sợ gì, đã Thầy nhắc mà, bệnh là vô thường, khổ. Bệnh mà sợ nó, do nếu mà bệnh mà mình sợ nó, mình đi ra mình tiếp xúc bác sĩ, uống thuốc thì ngay đó là mình đã bị động rồi. Và bị động rồi thì từ cái tư tưởng nó phóng ra, nào là thế này thế khác, thì nó đổ vỡ rồi. Mình đâu có sợ chết, mình đâu có sợ bệnh nữa, trong khi tu như quý sư đó, mình nhất định là không sợ chết, sợ bệnh nữa. Không đến bác sĩ nữa. Chết là chết ở trên cái sự tu của mình mà.
(50:22) Mình chết trên tâm thanh thản, an lạc, vô sự, hoàn toàn là không sợ hãi mà. Cho nên vì vậy quyết tử. Khi bước chân vào đây tu thì ai cũng phải có một cái tâm niệm quyết tử, thì quyết tử thì chúng ta mới thành, chẳng sợ chết đâu. Thân này bao đời chết chứ đâu phải một đời nay mà còn thấy chết sao sợ. Mình đừng có lý luận rằng tôi sẽ uống thuốc cho mạnh rồi tôi tu, ngàn đời mình tu không được đâu, mình sợ nó rồi mình tu không được đâu.
Còn mình không sợ, chết bỏ, nhất định chắc chắn là mình sớm muộn rồi mình cũng phải chết mà. Nhất định là không động, thì nó sẽ giải được. Trong bài kinh Đức Phật nói, khi mà cái sức chịu đựng của cái thọ, của cái đau đớn của cơ thể của mình, sức chịu đựng thân mạng của mình đó, mà tâm mình nó bất động nó không dao động, thì nó tận cùng cái sức chịu đựng, tận cùng của cái thọ đó, cái thọ đó đau đớn đến tận cùng của nó thôi chứ nó không có đau hơn đâu.
Mà đau hết tận cùng nó rồi thì nó mát lạnh, nó hết đau. Còn bây giờ nó đau vậy nó chưa hết cái sức tận cùng của nó rồi, thì nó còn đang tiếp diễn cái đau đó. Mà mình chịu đựng trên cái sức tận cùng đau đó đó, cuối cùng nó sẽ mát lạnh, nó sẽ không đau nữa, nó sẽ hết. Mà mình dao động mình đi uống thuốc, thì bình thường mình uống thì nó hết, rồi đến bữa nó sanh bệnh khác, không bao giờ nó hết đâu.
Từ ngày các sư đến đây thấy Thầy từ khi mà nghe băng Thầy, các sư thấy Thầy có ho, ở trong băng Thầy vẫn ho như thường, phải không? Cho đến giờ này Thầy cũng vẫn còn ho một, hai tiếng chứ đâu phải hết đâu. Nhưng mà thầy thấy có sao không? Thuốc không thèm uống nè, không, Thầy không bao giờ mà. Trước kia cô Út sợ Thầy lo này kia, thì mua thuốc này kia rồi cho Thầy. Thầy uống một liều chứ Thầy bỏ năm liều Thầy không thèm uống.
(52:19) Uống làm vui lòng vậy chứ sự thật là Thầy, cuộc đời này mà, xá gì cái thân này, chết bỏ mà, mình không cần gì. Đối với Thầy Thầy không sợ đâu. Do vì vậy mà khi mà Thầy ngồi lại Thầy phục hồi, Thầy chỉ ngồi yên lặng ở trong cái trạng thái bất động tâm của Thầy thôi chứ gì, thì nó sẽ phục hồi lại cái ho của Thầy liền tức khắc chứ gì. Nhưng mà Thầy lao động thì cái tật bệnh của Thầy nó có cái cốt bệnh của nó là bệnh phổi ho chứ không có gì hết, nhưng mà nó hoành hành Thầy không nổi.
Chớ còn người ta mà tuổi Thầy, nó không có sức đề kháng, thì nó hoành hành cái bệnh nó càng tăng gia lên chứ làm sao mà chịu đựng nổi khi mà Thầy làm việc suốt đêm. Các Thầy hiểu là khi mà mười hai giờ, một giờ Thầy còn làm việc mà. Đó thì đủ biết là cái sức làm việc của Thầy trông như vậy đó, mà cái thân của Thầy là cái thân có bệnh chứ đâu phải là thân không bệnh.
Trước kia Thầy bị bệnh phổi, trước kia Thầy dạy học, sau đó Thầy trị bệnh phổi hết. Rồi Thầy tu, sau khi Thầy ra thất Thầy tu, bệnh tái diễn trở lại, thì Thầy tự điều trị, tự nó không hết nó cũng hết. Rồi sau này gần đây, mới gần đây thì coi như là cái bệnh nó Thầy làm việc quá nhiều, bệnh nó phát triển trở lại. Bởi vì nó là thân bệnh. Tại trong thân Thầy nó có bệnh đó mà. Rồi bắt đầu Thầy phục hồi lại, trong vòng nửa tháng Thầy lấy lại bình thường Thầy làm việc được như thường.
Và chính cái giờ vừa làm việc vừa phục hồi Thầy không để cho nó tới thành bệnh, Nghĩa là Thầy làm việc, thí dụ như bây giờ Thầy làm việc tới 12 giờ, thì bắt đầu Thầy, 12 giờ Thầy đi nghỉ, nghỉ từ 12 giờ đến 1 giờ là Thầy phục hồi lại sức khỏe. Tới 1 giờ là Thầy phục hồi lại sức khỏe, thì Thầy mới làm việc… Thầy cứ như vậy mà bây giờ Thầy làm việc cho đến khi mà Thầy xong rồi thì Thầy thấy cái thân này không còn xài nữa thì Thầy bỏ.
(54:10) Nhưng mà trước khi bỏ Thầy hứa với quý thầy là Thầy đào tạo một người phải tu chứng hẳn hoi, đàng hoàng. Bởi vì kinh sách của Thầy mà không có người tu chứng thì như kinh sách Đại Thừa, chỉ lý luận nói thôi, không có ích lợi thực sự. Còn có một người tu chứng để cái người này dẫn dắt lại kinh sách này, kinh sách Thầy viết đó, để lợi ích cho đời sau, đem cái nền đạo đức cho người ta.
Thầy trước khi mà Thầy nhắm mắt ra đi, Thầy nhắc chỉ duy nhất có pháp ly dục, ly ác pháp là đệ nhất pháp của Phật, hãy đem giáo pháp này dạy cho người. Còn tất cả các loại thiền định, thần thông đều dẹp hết, bỏ hết, không lợi ích cho ai đâu. Những thứ này chỉ huyễn hóa gạt người, lừa đảo người. Đó là những cái, Thầy sẽ di chúc những lời này. Hôm nay Thầy ghi trong băng, để rồi ngày mai mà Thầy có tịch thì các thầy sẽ mở ra các thầy còn nhớ lại…
Những thần thông không có nghĩa lý gì hết. Nó đã lừa đảo người ta, làm cho người ta say mê nó từ muôn đời muôn kiếp cho đến bây giờ chứ đâu phải mới bây giờ. Chỉ có Thầy bây giờ mạnh mẽ mà đập xuống hết, chẳng sợ thần thông nào. Mấy ông thầy bùa, thầy chú bắt ấn làm cho người ta kinh hồn hoảng vía.
Thật sự như thầy Thông Vân ngày, bữa mà thầy điên đó, nếu mà cái người nào nhát gan mà thấy thầy bắt ấn, thầy đọc thần chú là cũng phải hơi run rồi, gọi thầy bằng cha rồi chứ còn ai nữa.
Nhưng mà sự thật đâu phải cái chuyện đó làm mình gì được. Bùa chú mà làm cái gì, thần thông đó mà làm cái gì, Thầy nói chẳng có gì, nó là cái ảo giác. Cho nên chúng ta chẳng sợ.
Đó thì hôm nay Thầy nói thật sự để chúng ta thấy cái nền đạo đức mà Phật giáo là cái người xây dựng nền đạo đức đó. Để mà người sau người ta còn mở màn cho cái nền đạo đức đó để cho con người. Bởi vì làm chúng ta là chúng ta là con người chúng ta phải làm gì lợi ích cho con người.
Nhất là với tu sĩ chúng ta. Ta không làm ra cơm gạo, thì chúng ta phải xây dựng cái nền đạo đức trong cái sống đúng đạo đức, để giúp cho người ta thấy được cái gương hạnh đạo đức, để người ta sống có đạo đức, đối xử với nhau, để cho chúng ta được ở trong một cái cảnh giới thanh bình, trong một cái cảnh giới an vui, không có người này chà đạp lên người kia. Đó là cái nhiệm vụ và bổn phận của người tu sĩ, của những người làm tôn giáo chứ.
(56:40) Mà chính cái nguồn giải thoát đó, cái nền đạo đức đó, lại là nguồn giải thoát cho tâm hồn của chúng ta. Chúng ta phải thấy được cái nhiệm vụ và cái trọng trách, trọng trách nhiệm vụ đối với mình. Đối với bản thân mình, mình phải làm sao cho nó giải thoát đây, đối với bản thân mình làm sao cho lợi ích cho mọi người. Những người gần nhất chúng ta, là con cái, vợ con của mình, là dòng họ anh em của mình, hãy làm sao cho họ thấy.
Đây thì, nếu mà Thầy vì một cá nhân, mà vì những người thân thuộc của Thầy, thì Thầy sẽ viết sách đạo đức ngay liền tức khắc, chứ Thầy không có nói dông dài như ở trên cái bộ Đường về xứ Phật. Tại sao vậy? Tại vì những người thân của Thầy là những người đang cần, đang tha thiết đạo đức. Mà cái sự đau khổ của quý sư, quý thầy còn gấp trăm ngàn lần. Bởi vì quý sư, quý thầy bỏ hết cuộc đời đi tu, mà không đúng chánh pháp, thì nó phí cuộc đời.
Cho nên thầy không nói đến đạo đức. Thầy chỉ nhắc chứ thầy chưa soạn thảo cuốn sách đạo đức. Chứ sách đạo đức của Thầy ra, dòng họ của Thầy, con cháu của Thầy, em út của Thầy không làm điều ác. Nghĩa là Thầy nói thật sự cho quý thầy biết, khi sách đạo đức Thầy ra rồi mà con cháu Thầy đọc nó không chửi lộn nhau đâu. Thầy nhất định rằng nó không đánh lộn, nó không chửi lộn, nó không tranh hơn, tranh thua với ai nữa đâu.
(58:24) Nhưng Thầy nói cái nỗi khổ của quý sư, quý thầy, Thầy là tu sĩ mà, Thầy phải thông cảm cái nỗi khổ của quý sư quý thầy nhiều nhất mà. Bỏ cuộc đời, còn con cháu Thầy nó còn chưa bỏ cuộc đời, nó còn sống trong cuộc đời. Còn quý sư bỏ hết cuộc đời, bây giờ quý sư, quý thầy có cái gì đây nữa. Còn cái gì đây nữa. Còn con cháu của Thầy nó còn có con cháu của nó sẽ nuôi dưỡng nó, còn quý thầy không còn ai.
Hay là mình tu rồi mình về mình nhờ vợ con mình nuôi hay là con cháu mình nuôi. Mình phải cứu mình chứ mình nghĩ, mình tu rồi, mình bỏ mình không có làm ích lợi gì cho nó không? Thật sự các thầy vô đây học, các sư, các thầy đem cái hột cơm bát gạo hoặc đồng tiền để mà nuôi vợ, nuôi con cháu của mình, cho nó đồng xu chỗ nào được nó không? Hoàn toàn không được, mà tới cuối cùng mình phải về nhờ nó.
Cho nên ở đây chúng ta phải ý thức được cái sự tu tập của chúng ta. Phải làm sao làm gương sáng cho những người tu sĩ của chúng ta, phải thấy cái gương đó để mà nỗ lực thực hiện để mà cứu cánh chúng ta … Chúng ta không còn gì nữa, mà bỏ thì cho thật bỏ đi, đừng có bỏ nửa chừng, thì nó không giải quyết được gì nhiều. Bỏ thì cho thật bỏ.
Bởi vậy, Thầy nói mỗi tâm niệm của chúng ta, bây giờ như sư Tuệ Tịnh, sư có mấy đứa con. Sư về đây sư tu, mà bây giờ làm sao sư là một người cha mà làm sao không nhớ con mình được. Mà khi nó khởi lên nhớ: “Không được, tâm này phải ly ra, không có được ở đây. Chỗ này là chỗ tu chứ không phải chỗ con cái. Tâm hồn phải thanh thản không được nhớ nó”. Nếu thương nó thì tâm phải thanh tịnh. Còn thương nó mà nhớ nó thì tức là tâm không thanh tịnh. Mà tâm không thanh tịnh thì đây ngày nào đó về báo nó phải nuôi mình.
(01:00:24) Tới chừng đó nó nói ba đi tu mà cuối cùng ba về ba ở đây vợ con con khổ quá. Nói một lời nói thấy đau lòng, làm cho nó, cái sự tu hành của mình chẳng ra gì mà bây giờ làm cho nó trở thành đứa con bất hiếu mình. Bởi vì nó cực khổ quá, nó chăm sóc mình nó cực khổ quá, thì nó mở lời nói cái mình thấy nó là đứa con bất hiếu rồi. Mà không ngờ là do mình đã tạo cho nó trở thành đứa con bất hiếu, chứ đâu phải khi không nó là bất hiếu.
Mình phải xét thấy được cái điều đó. Cho nên khi bây giờ mình ngồi đây tu, nó sẵn sàng nó dằn cái lòng thương yêu cha nó, nó không đến nó không gặp, nó không gọi điện thoại, chứ nó từng phút, từng giây nó hướng đến cha nó chứ làm sao nó quên được. Bởi vì đó là cái nút ruột, từ trong lòng cha nó đi ra mà. Mà tại sao mình nỡ tâm nào mà mình tu hành mà mình không giữ trọn cái pháp môn mà Thầy đã dạy.
Đây Thầy nói thí dụ như sư Tuệ Tịnh, cũng như sư Phước Từ. Sư đến đây tu thì sư cũng biết có gia đình, có con cái, có dòng họ của mình chứ gì. Mà nếu mà mình tu không đúng, thì chừng đó mình cứ nghĩ là chừng đó nó cũng nuôi mình chứ gì. Không! Đừng nghĩ như vậy. Mình phải có trách nhiệm, trách nhiệm của mình như thế nào, để xứng đáng với các con của mình chứ.
Khi mình đi tu rồi bây giờ gặp nó mình là người như thế nào chứ. Không lẽ hồi đi tu như vậy bây giờ về như vậy, rồi lại đau, lại bệnh, bởi vì càng ngày tuổi thọ càng lớn thì nó phải đau bệnh. Mà đau bệnh bây giờ ở chỗ nào người ta nuôi bằng con cái của mình. Mà khi về con cái mình nuôi mình, mình thấy có buồn không?
Có khoảng thời gian mà sức khỏe còn này, nếu ở ngoài đời thì như sư Phước Từ, sư làm ra tiền, ra bạc này kia, sư cất cái nhà này cho đứa con này, đứa con kia, bây giờ sư nằm đó, nó nuôi nó rất là sung sướng. Cha tui đã làm cho tui có cơ sở sống, bây giờ tui phải nuôi ông đàng hoàng. Còn bây giờ mình bỏ đi tu, mình không ngó ngàng gì tới nó, mà cuối cùng bây giờ mình về nằm đó, nó nuôi thì nó có xứng đáng, mình có xứng đáng mà nằm đó để cho nó nuôi không?
(01:02:26) Thầy đem những cái ví dụ cụ thể để thấy rằng cái nhiệm vụ trọng trách khi mình bước vào đạo Phật, mình phải làm sao cho xứng đáng. Bây giờ đến đây mình đâu có hưởng cái gì đâu sung sướng đâu. Ngày ăn có một bữa, không có ăn thêm được một cái gì hết. Phải nỗ lực từng phút, từng giây tìm sự giải thoát trong từng phút, từng giây này chớ đâu phải tìm cái giải thoát mênh mông đại hải đâu. Mà từng phút mình giải thoát, từng phút mình thấy đạo nghĩa của mình có trong từng phút giây mình tu mà.
Bởi vì đạo Phật nó thực hiện đạo đức mà. Cho nên từng phút giây nó nói lên đạo đức của chúng ta mà. Chứ đâu phải mình ở, bữa nay đến chùa này ở năm ba ngày mình tu, được thì mình chơi mà không được thì mình đi ở chùa khác cũng vậy thôi. Đâu phải cái chuyện đi chơi. Chuyện tu là cả một cuộc đời, là một cuộc cách mạng. Cách mạng bản thân của mình mà.
Từ nó ô nhiễm nó tham đắm cái này, cái kia bây giờ nó quét sạch ra hết, nó là cuộc cách mạng mà, nó đâu có để còn ô nhiễm trong này nữa. Cho nên nó là một cuộc trường kỳ kháng chiến, chứ đâu phải là một cái chuyện tầm thường chơi. Cho nên đi tu đâu có nghĩa là đi chơi được. Bây giờ Thầy nói thật, mình thấy mình chưa có đi tu được, thì hãy sống như Mật Hạnh. Ăn mặc như đời, đừng có mặc chiếc áo tu, mà nó không đúng cái con người tu, ra đời đi.
Chừng nào mình thấy chán ngấy cuộc đời rồi, bắt đầu trở lại, tu hành cho đàng hoàng, là mình chán đời rồi, mình chán mình ngao ngán, mình ngán đời rồi. Cho nên ở đây Thầy dạy thực giải thoát. Mà thực giải thoát thì nó là từng giây của mình, nó cụ thể nó rõ ràng, và mỗi giây của mình tu như vậy mình xét thấy, mình xứng đáng làm cha giữa mấy đứa con. Mình xứng đáng làm người giữa con người.
(01:04:30) Còn mình thực hiện từng giây mình thấy, một giây này mình lơ là, một giây này mình chưa có chuyên cần, giây này mình chưa có tinh tấn để nhìn thấy cái thân tâm của mình thanh tịnh như thế nào, thì do đó mình không xứng đáng. Mình phải thấy cái sự xứng đáng hay không xứng đáng. Cho nên ở đây tu, Thầy nói thật sự, khi bước chân vào cổng chùa này là phải tu thanh tịnh.
Người nào cũng như người nào, dù là cư sĩ hay tu sĩ, chấp nhận vào đây rồi thì chúng ta phải thực hiện cho đúng. Mà thực hiện không đúng thì năm năm, bảy năm, mười năm rồi thì chúng ta dậm chân tại chỗ là chúng ta tự xấu hổ, chúng ta tự xét thấy mình xấu hổ. Còn người nào mà không thấy xấu hổ là chai lì rồi. Thầy nói như vậy là uổng cuộc đời mà mình còn mang nợ đàn na thí chủ, ngày mai này mình tưởng cái đó đó, mình chết rồi thôi nó tan biến đâu.
Đâu có, nó không có mất cái chỗ nào hết. Một hột cơm nhỏ như thế này mình phải trả chứ không bao giờ mình chạy trốn khỏi đâu. Mồ hôi nước mắt người ta làm, thử bây giờ mình ra mình cày cấy, mình đập được cái hột lúa để cho mình xay mà thành hột cơm mình ăn coi nó có đổ mồ hôi, có sôi nước mắt của mình không.
Đây Thầy nói cho các sư biết, ngay trước cái ngày mà Thầy về đây, ở đằng trước cái chỗ mà có cái chùa mà Thầy đào mấy cái ao, đó là ruộng, chứ nó không phải là, bởi vì nó đất thấp mà, cho nên Thầy mới đào cái ao đó, mà Thầy đổ lên thành đất cao Thầy cất cái chùa những cái nhà đó. Cho nên về đó thì Thầy mới lấy cái cuốc, cái cuốc như thế này Thầy cuốc đất rồi Thầy cấy, chứ không cày mà, làm một người tu không bắt trâu bò cày mà.
Thầy cuốc Thầy cấy, Thầy cuốc tới khi nào mà, Thầy làm hết cả năm cái ao đó, tức là nửa mẫu đất đó, coi như nửa mẫu đất đó Thầy làm bằng tay của Thầy. Thầy thấy đúng là mồ hôi nước mắt của người nông dân, nếu mà người ta không lợi dụng sức trâu bò cày, máy móc cày, mà lấy sức mà làm ra được hột cơm thật ra mồ hôi của mình đổ, Thầy nói đổ không có kể mà, Thầy nói, nghĩa là nước mắt của mình với mồ hôi của mình nó đổ ra tràn trề nó mới có được hột cơm.
(01:06:37) Thầy làm Thầy biết mà. Một cái trái đậu mình mua thì mình thấy không có công lao của mình, mình ăn mình thấy ngon, chứ mình làm ra một cái trái đậu phộng mình ăn trong miệng mình mới thấy rằng cả mồ hôi của mình. Thầy là một người thực hiện trên cái điều đó Thầy biết. Cho nên hôm nay chúng ta không làm gì hết chúng ta vẫn có ăn, sống như thế này thì chúng ta phải nhìn thấy cái mồ hôi nước mắt của người nông dân của chúng ta. Cái người nông dân người ta làm ra, cái người Phật tử, mà người ta làm ra được cái hột cơm này cho mình ăn, vất vả lắm.
Cho nên khi mà chúng ta quán xét, chúng ta suy tư chúng ta nghĩ, chúng ta hằng giây, hằng phút chúng ta tu để mà chúng ta xứng đáng với cái hột cơm đó, với cái công đức cúng dường đó của mọi người, người ta cúng dường cho mình.
Cho nên trong kinh điển của Phật, nhắc nhở chúng ta cứ quán xét mình có xứng đáng thọ dụng của đàn na thí chủ hay chưa. Cũng như cái y cái áo này, nếu mà chúng ta phải làm ra tiền để mà mua, thì chắc chắn cũng phải mồ hôi nước mắt mới có.
(01:07:45) Ngày xưa khi giải phóng xong rồi, nghĩa là tất cả vải sồ nhà nước quản lý hết, mua phải có phiếu, phải có giấy mới đưa vô mới mua được, mà mua phải sắp hàng. Thầy là một cái người sống tự do, Thầy không chấp nhận trên cái điều kiện mà phải đầu lấy người ta mà mua từng thước vải đó đâu. Cho nên vì vậy đó, Thầy đi Thầy nghĩ cách thức Thầy phải giải quyết cho nông dân cái ấp này nè. Nghĩa là mỗi một cái nhà phải có một cái dệt cửi, trồng bông vải, đất này đất ông bà chúng ta chúng ta cứ trông bông vải lên, chúng ta kéo chỉ lên, chúng ta dệt vải mặc.
Xấu, chúng ta mặc xấu tốt cũng được, không mua đồ nhà nước. Trong lúc đó mà nhà nước còn ngăn sông cấm chợ, không có lưu thông, tỉnh nào sản xuất hàng tỉnh nấy, ở đây nhất định là, cái ấp này Thầy đứng ra chủ trương là chống lại nhà nước hoàn toàn đó. Nghĩa là tự làm nấy nè, Thầy nói là từ cái bột ngọt, Thầy lấy từ trong cái củ mì ra những bột ngọt để mà Thầy giúp nông dân có bột ngọt để mà nấu canh để mà ăn đó. Thầy chế ra đủ thứ mà… dầu Thầy ép ra đậu phộng lấy dầu ăn nè. Vải sồ dệt ra nữa này.
(01:08:57) Thầy nói cái xóm này mà Thầy tổ chức xong, nhưng mà không ngờ lúc bây giờ nó không còn ngăn sông cấm chợ nữa, nó thả lỏng ra thì Thầy thôi, không làm nữa. Chứ không Thầy nhất định là Thầy không đầu hàng mà, Thầy sẽ đứng ra Thầy tổ chức dân chúng chống lại tất cả mọi cái, nhất định là không thua nhà nước đâu. Nghĩa là người dân Thầy tổ chức là vải gai, dệt, không có đi hầu, đi hạ ai hết. Dệt vải mặc, mình dệt xấu mình mặc xấu, dệt tốt mặc tốt. Không có cần xấu tốt gì hết, miễn có cái thân của mình được.
Ăn uống thì gạo thóc mình nhất định là mình chia sẻ bà con mình ăn không bán nhà nước. Không đóng thuế thì mình đóng thuế đàng hoàng, nhất định, nhưng mà mình hoàn toàn là mình không thèm mua đồ nhà nước. Mình tự sản xuất ra bột ngọt cái này kia, muối bà con mình rủ nhau đi ra biển lấy về, ra ngoài dân ngoài biển nó cho mình lấy về ăn, không cần mua. Ở đây dân của mình là dân xứ biển, không có phải thiếu muối đâu mà sợ.
Thầy sách động tất cả dân chúng đó, tới chừng mà Thầy nói thật sự, nhà nước ở đây nè, chùa nào nó cũng mời đi họp hết, trừ Thầy không dám mời đó. Thầy không đi, nhất định là không đi. Thầy nói nhà nước đối xử vậy, tui không đi. Tưởng giải phóng rồi bao nhiêu cái sự tự do, ai dè bao nhiêu tự do không có, nhất định không làm. Thầy nói bây giờ cuộn băng đây, hoàn toàn Thầy không sợ đâu.
Thật sự mà, đời sống phải có tự do chứ đời sống gì mà gò bó, khắc khổ người ta đến mức độ vậy, ăn toàn là bo bo, không có gạo. Gạo thì chở đâu mất hết rồi. Người nông dân mình làm cực mà không có gạo ăn. Cho nên tất cả những cái này đầu óc của Thầy không có chịu nhường bước ai hết. Cái sống của Thầy là cái sống như vậy. Nhưng mà bây giờ nó rộng rãi, nó dễ dàng chứ không cần làm nữa.
(01:10:43) Bây giờ nhìn lại các Thầy thấy, nhìn lại những cái máy mà Thầy in ra, coi những cái máy mà Thầy đem vào Thầy đã chế Thầy bỏ kia. Nghĩa là Thầy làm đủ cách để mà Thầy sống tự do mà, không có đầu hàng ai hết. Cho nên trong cuộc đời của chúng ta, chúng ta phải sống làm chủ được sinh tử. Mà Thầy là con người có ý chí như vậy cho nên Thầy làm chủ được.
Còn quý sư, Thầy nói quý sư, quý thầy bỏ hết, không nghĩ gì, mỗi ngày chúng ta phải làm cái gì. Bởi vì Thầy nghĩ rằng như vậy tại sao. Không phải vì Thầy mà Thầy chế ra để mà Thầy sống tự do cho Thầy đâu, mà Thầy nghĩ đến xóm làng của chúng ta. Mà xóm làng của chúng ta, bà con ruột thịt chúng ta, cả xã hội chúng ta đều có cái sự như vậy, thì nhà nước sẽ phải thay đổi.
Mà đúng là nhà nước sẽ đụng vào miền Nam là dân miền Nam là nó không có như vậy. Ngày đầu mới giải phóng thì nó đi họp, mời đi họp đi họp, nhưng mà sau đó mà gắt khó rồi thì nhất định không đi. Nghĩa là sau khi mời họp mà không ai đi, chỉ có cái vùng mà quốc gia, cái vùng dân ở quốc gia là sợ đi thôi chứ còn cái dân cách mạng, cái dân cộng sản này không sợ người nào hết. Thầy nói thật sự mà, mình đã làm cách mạng gần chết mà bây giờ mình sống thế này mình chịu được à. Phải không?
Cho nên ở đây cái gì đúng cái gì sai. Đối với dân miền Nam này thì nó sống lề lề, lề lề vậy, nó sống làm đủ ăn thôi không làm nữa. Nhưng mà đụng tới nó thì nó thà chết bỏ chứ nhất định, nó cứng đầu. Cho nên Thầy là một người trong những người cứng đầu. Nhưng mà làm cách mạng không chịu làm tay sai giặc thôi. Cho nên vì vậy mà nó có cái lực, mạnh mẽ nói, tiếng nói ăn nói mạnh mẽ. Chùa người ta thì sợ, nghĩa là mời đi nó chửi, nó chửi mắng mấy ông thầy chùa này tan nát hết. Nhưng mà không dám mời Thầy. Nó đủ biết người cộng sản họ cũng ngán Thầy chứ không phải họ không ngán đâu.
(01:12:49) Cho nên chúng ta sống, còn lại sống, sống cho ích lợi cho dân tộc, sống cho ích lợi cho mọi người, mà đã là khoác chiếc áo tu sĩ là phải sống cho lợi ích đạo Phật, cho lợi ích con người, chứ không phải sống cho cá nhân mình. Mình phải lấy cái lớn. Cho nên Hòa Thượng Thanh Từ nói một lời nói mà Thầy nhất định sống chết mà: “Đạo Phật còn là còn một người tu chứng.”
Cho nên bây giờ Thầy nói rằng, kinh sách Thầy còn, thì phải có người đệ tử tu chứng như Thầy. Nếu mà kinh sách Thầy mà không có người đệ tử mà tu chứng, thì kinh sách Thầy kể như đồ bỏ, công của Thầy kể như công dã tràng. Ngồi mà viết thì sau này nó như là công dã tràng. Chỉ có một người tu chứng, và người đó sẽ nối tiếp một người tu chứng nữa, thì cái mạng mạch của Phật pháp nó mới giữ trọn.
Chết bỏ mà, nó đã đấu tranh cùng với giặc Pháp, Pháp nó bắn giết, Thầy nói thật sự, trong cái đời Thầy Thầy thấy điều đó. Nó chỉ chết có một thằng Tây thôi mà nó vô nó bắn cả xóm người ta không biết bao nhiêu người chết. Thầy hồi nhỏ, hồi đó Thầy mới tám tuổi thôi. Thầy cũng buổi trưa như này, Thầy mới đi đến một cái quán để mà mua bánh tráng, để mà về gia đình ba mẹ Thầy với các em Thầy để mà ăn bữa trưa. Bởi vì nghe nói Pháp nó đến, thì ai cũng sợ, đâu có nấu cơm được. Mua bánh tráng về ăn đặng, mình phòng ngừa để mà chạy đi trốn.
Nhưng mà không ngờ nó đi nhanh quá nó tới, thì Thầy mới đi đến cái quán mua bánh tráng ôm về thì nó đã tới, thì tới đó thì mấy cái ông cách mạng ở đâu đó, ở trong nhà trong cửa ở đâu, bắn nó té nó chết một thằng. Trời ơi nó chết một thằng rồi bắt đầu nó tới xóm nó tàn sát, mà may mà Thầy đi ôm bánh tráng Thầy đi nó không bắn Thầy chứ, cũng là cái phước chứ, lúc bấy giờ nó tàn sát người ta.
(01:14:35) Đó thì có một thằng Tây thôi mà nó giết dân mình, bắt bớ bao nhiêu người. Cái hình ảnh đó mà Thầy nhớ mãi, Thầy không quên. Một người đổi một người thôi chứ sao lại một người mà đổi nhiều người như vậy, đâu có công bằng, Thầy không chấp nhận. Đúng là người Pháp ác thật. Rồi trong khi đó, nhờ một cái người anh của Thầy, ông đi làm cho người Pháp, thì trong cái ngày đó là ngày Chủ Nhật, cho nên vì vậy mà Thầy về nhà thì Tây nó vô trong nhà đông nghẹt hết, thì cái người anh của Thầy mới lấy giấy tờ đưa nó, rồi nói tiếng Pháp với nó, do đó tụi nó mới rút lui.
Trời ơi nó đốt làng trên xóm dưới tràn lan hết, nó mới đốt cái nhà của Thầy. Mà nhờ cái người anh con cậu Thầy đi làm ở thành phố, đi làm với người Pháp, cái ngày Chủ Nhật đó mới về đó. Thì đó là, thật sự ra chứ không thì cái nhà của Thầy nó cũng bắt sạch hết rồi, không còn ai chừa. Thì Thầy về đó nó cũng làm tùm lum, nó cũng bắn luôn chứ nó không có tha mạng nào đâu. Chỉ có cái người giỏi tiếng Pháp và nói nó nghe đúng thì nó mới đình chỉ lại.
Đó thì, trước cái cảnh đó chúng ta thấy dân tộc Việt Nam khổ. Từ đó cái hình ảnh đó nó len lỏi trong đầu, cho nên khi đó Thầy về Trảng Bàng Thầy ở. Cũng vì cái viễn cảnh như vậy cho nên ông thân Thầy mới đưa về đây mà Thầy xuất gia tu hành trong lúc 8 tuổi. Mới cho Thầy ở ngoài đó, cho Thầy đi vào tu cho rồi. Đó Thầy nói như vậy, đúng cũng là cái nhân duyên để đưa Thầy đi tu rất sớm. Đó là cái chiến tranh.
(01:16:21) Rồi cái chiến tranh Thầy ở đây Thầy tu rồi cũng cái chiến tranh nó đưa Thầy đi về thành phố, từ thành phố mới học tập, học tập rồi mới đi tu. Mà cho đến giờ này thì đủ biết cái duyên chiến tranh nó đưa tới, đưa lui Thầy chạy lòng vòng như vậy để mà đi vào cái, cái phước của nó nó đẩy đó.
Nếu mà bây giờ thanh bình thì chắc chắn là Thầy không có ra gì hết. Bây giờ thanh bình thì ông thân Thầy cũng để cho Thầy đi học, bây giờ làm ông bốc vác, ông kĩ sư, ông bác sĩ hết sức thôi chứ có hơn gì đâu, cũng đi làm như mọi người, vì chiến tranh rồi bây giờ thôi.
Do đó mình thấy cái sự tàn ác của Tây như vậy thôi không thèm theo Tây nữa, thôi chứ gì. Mà không theo Tây thì không đi học trường Tây nữa thì coi như là đâu có biết chữ. Vậy mà Thầy đến 18 tuổi, Thầy nói Thầy về đây Thầy ở tu, học toàn chữ nho, không có cho học chữ Tây nữa mà. 18 tuổi, Thầy nói không được, bây giờ ai cũng biết chữ tiếng Việt giỏi hết còn con không biết. Thầy phải cho con đi học mới được. Thầy ra ở Trảng Bàng này Thầy xin học. Hồi đó Thầy chừa cái chóp như này nè, mà 18 tuổi còn chừa cái chóp Thầy đi học.
Đó thì đủ biết là Thầy như vậy. Tự nhiên Thầy đi học. Thầy xin là ông thân của Thầy chứ thầy Thầy không cho Thầy đi. Đó là cách thức của Thầy, một con người có ý chí quyết định trong cái cuộc đời của mình, bằng cái luật nhân quả của nó đưa tới đâu mình làm tới đó. Cho nên ở đây quý Thầy đến đây đều là do cái luật nhân quả, cái nhân duyên đời trước của mình. Mà Thầy nhắc nhở đem hết sức lực của mình.
Thầy luôn luôn lúc nào giờ khắc Thầy làm việc rất nhiều. Thầy biết tuổi đời của Thầy mà. Thầy biết cái cơ thể của Thầy nó hoại diệt từng phút giây ở trong đó nhiều, phục hồi như vậy mà không phục hồi là nó rã liền tức khắc. Cũng như một cái bè mà nó đã sắp hư rồi, mà bây giờ mình chắp vá lại để cho vượt cái dòng sông này, để mà cứu biết bao nhiêu người, mỗi người đến đây đều là Thầy bỏ trên chiếc bè của Thầy hết. Mà chiếc bè của Thầy là chiếc bè đang hư chứ có phải chiếc bè mới đâu.
(01:18:24) Cho nên Thầy ít có giảng nói là tại sao? Bởi vì mà Thầy giảng nói, ngày nào mà Thầy giảng nói vậy thì cái bệnh phổi của Thầy nó trở lại. Thầy hiểu biết rất rõ, bởi vì Thầy không thể nào mà nói nhỏ được. Thầy phải nói đúng với cái sức của mình, cái năng lực của mình không thể nào nói thầm thầm được. Cho nên hôm nay là các thầy, các sư mà về ở đây về đây, là đang ngồi trên một cái chiếc bè đã mục. Mà nếu không thực hiện được thì chiếc bè này nó sẽ rã xuống.
Nghĩa là bây giờ các sư mà gặp trường hợp mà hoàn toàn nó xảy như thế này, Thầy hoàn toàn ngày nào cũng phải giảng, phải nói, phải dạy đó, thì cái bè này nó mau rụp. Mà nó rụp rồi thì quý thầy quý sư sẽ chìm xuống dưới nước, xuống dưới biển, không có cái gì mà nắm với lên được hết. Đó, cho nên hôm nay là Thầy nói để cho quý thầy và quý sư cố gắng thực hiện cho đúng từng phút, từng giây. Mà đạt được rồi, thì quý sư là chiếc bè mới để chở bao nhiêu người sắp sửa chìm đắm dưới lòng biển này.
Ở đây có bác sĩ Trí từ hôm về đây tới nay, với tâm cũng tha thiết, mà Thầy định Thầy sẽ đến Thầy thăm và Thầy sẽ dạy từng chút để mà thực hiện. Một bác sĩ Trí mà thực hiện được, cũng là chở một số người đi ở trên chiếc bè. Và khi chiếc bè Thầy cũ rồi, bỏ, thì có chiếc bè mới thế vào, để chúng ta tiếp tục đưa đi đến cái bờ bên kia để mà giải thoát hoàn toàn. Cho nên Thầy ít muốn nói chuyện, Thầy ít muốn tiếp duyên, nhưng mà lâu lâu Thầy đến thất người này, người kia là Thầy đã biết trong nội tâm nó có những cái điều khắc khoải, Thầy mới đến, còn không thì Thầy không đến. Và không thì Thầy cũng không mời.
(01:20:26) Vừa rồi thì Thầy đến gặp một sư thầy, do thầy chánh đại diện trên trị sự tỉnh gởi đến đây, Thầy gặp Thầy cũng nhắc nhở. Phải tu cho xứng đáng chiếc áo tu, còn tu không xứng đáng nhất định là … thà làm người cư sĩ. Cho nên mỗi người đến đây đều là Thầy có trách nhiệm và bổn phận để mà nhắc nhở cho đúng.
Cho nên từ đây về sau các sư, các thầy cố gắng tu tập đúng, làm cho Thầy vui, chứ không khéo Thầy thấy tu sai Thầy không nói chứ Thầy ngầm ngầm. Buồn không phải là buồn quý sư, quý thầy đâu, mà buồn cho số phận của Phật giáo, nó không có người. Thầy muốn làm sao để trong tu viện chúng ta mỗi ngày nó có sự yên ổn, đừng có xảy ra một việc gì. Dù một người ở trong này có việc gì xảy ra thì cũng làm cho tâm quý thầy, quý sư dao động. Vì cái trí tuệ của quý sư, quý thầy nó còn yếu lắm. Có cái gì không làm sao mà quý thầy, quý sư vững vàng.
(01:21:34) Cho nên hôm nay thứ nhứt là chúng ta nhớ kỹ lại, chúng ta tu đúng. Thầy xin nhắc lại lời của Đức Phật nói: “Tâm không phóng dật là đệ nhất pháp giải thoát”. Vậy thì hằng ngày chúng ta kiểm soát lại tâm mình có phóng ra không. Mà nó phóng cái gì, nó phóng pháp gì, rồi nó phóng theo sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, sáu trần của nó là cái gì, thì chúng ta phòng hộ giữ gìn, đừng dính mắc những cái đó. Xả xuống.
Quý sư và các thầy đã đọc cái cuốn 9 xong rồi. Chắc chắn là quý sư đã thấy rõ ràng là, những cái điều Đức Phật nói, mình biết mình đừng biết người, tức là phòng hộ sáu căn. Đó là phòng hộ sáu căn. Mà hễ mình biết chuyện người là không phòng hộ sáu căn. Mà biết chuyện người thì như các sư, các thầy đọc, ở trong cuốn 9 các sư thấy, người ta đã tu phí công mà không có giải thoát.
Biết chuyện của cô Út, mà cô Út cô làm chuyện đó để cho mình tu mà tại sao mình lại biết chuyện cô Út làm gì, mình không biết chuyện của mình đi. Để Thầy lấy câu chuyện đó, lấy cái lời nói, lời hỏi của cô Liễu Tâm, mà trả lời cho tất cả những người tu sai. Cứ nhìn ra ngoài tức là phóng dật chứ gì. Đọc cái bài kinh đó, đọc cái cuốn 9 rồi có thấy phải, các cô ở đây Thầy nói các cô, nhưng mà nói chung, là cái tâm của các tu sĩ ở đây đều phóng dật như vậy hết. Không có người nào mà không phóng dật.
Mà Đức Phật đã nhắc: “Biết chuyện mình đừng có biết chuyện người”, nhưng mà tại sao chúng ta cứ biết chuyện người? Vậy thì biết chuyện người là gì? Là phóng dật chứ gì. Có đúng không ? Cho nên vì vậy đó là tâm phóng dật là không giải thoát đó. Cho nên chúng ta biết mình thì không phóng dật đó, mà không biết mình thì phóng dật. Cho nên biết mình phải biết như thế nào? Biết Tứ Niệm Xứ không có gì hết, thanh thản, an lạc. Mà Tứ Niệm Xứ có niệm thì tức là đẩy lui chướng ngại pháp. Đó là biết chuyện mình để đẩy lui nó thôi đó, đó là đẩy lui chướng ngại pháp trong tâm của mình là biết mình.
Còn bây giờ, đã quên mình, cho nên biết chuyện người ta thì trong này không còn biết trong này. Cho nên chướng ngại trong này bây giờ không thấy nữa, mà thấy chuyện người ta chướng ngại không, thấy người ta không đúng không, hoàn toàn vì vậy cho nên mình không giải thoát.
(01:24:02) Người ta tạo ra cái cảnh để cho mình, để nhử cho mình, để cho tâm mình coi có phóng dật hay không. Rồi cái hoàn cảnh, tùy theo cái hoàn cảnh ở trong tu viện, người ta dựa vào cái hoàn cảnh sẵn có của nó, người ta tạo ra thêm để cho mình thấy, để cho mình tâm không giận. Cho nên gọi là ly dục ly ác pháp hay gọi là xả tâm. Thường thường cô Út dạy là nắm cái ý chứ gì. Nắm cái ý, thì do tất cả mọi cái đều cái ý của mình chứ gì. Mà bây giờ mình nắm được cái ý thì không có cho nó phóng dật chứ gì. Mà không cho phóng dật thì tức là giải thoát.
Đó Thầy nhắc lại những cái điều này, cố gắng nhớ kĩ để chúng ta nỗ lực tu. Tu để đền đáp ơn Phật, để đền đáp ơn đàn na thí chủ, ơn Thầy và chúng ta xứng đáng là những con người trong xã hội loài người, xứng đáng là một con người đối với dòng họ, con cháu của chúng ta, từng phút giây, một phút giây, Thầy nói thực sự ra Thầy chỉ lấy như thế này. Đây là Thầy nhắc nhở.
Bây giờ tôi ngồi đây tôi tu nè, tôi coi có xứng đáng đối với những người thân của tôi không nè. Bây giờ cái tâm thanh thản, an lạc nè, vô sự nè, tôi quan sát bốn chỗ tôi thấy rõ ràng, như vậy là trong một giây này tôi sẽ xứng đáng với con cái tôi, xứng đáng với mọi người. Tôi không có cái tâm gì mà gọi là ác pháp trong này cả. Bây giờ tôi tiếp tục một phút nữa tôi coi xứng đáng không.
Bây giờ tôi thấy hoàn toàn tôi thanh tịnh, vậy là tôi xứng đáng. Tâm tôi không có phóng bậy bạ, không dính mắc việc của ai nữa hết, rõ ràng là tôi xứng đáng. Tôi xứng đáng với những người thân của tôi này, với những người mà hiện có mặt trên hành tinh này, tôi xứng đáng. Ngày hôm nay tôi ăn cái bữa cơm này tôi xứng đáng với cái chuyện làm của tôi này. Rồi bây giờ tôi tiếp tục tôi ngồi tôi chơi, mà tôi nhìn thấy tôi xứng đáng, tôi quan sát tôi thấy tôi xứng đáng thọ nhận của đàn na thí chủ. Cái y áo này tôi xứng đáng mặc.
Cho nên do đó mình quan sát mình xem thấy, cứ thấy như vậy, mà suốt 24 tiếng đồng hồ mà hoàn toàn thanh tịnh như vậy là tâm không phóng dật. Tức là nó không có dính bên đây, bên kia nữa là hết rồi. Thì do đó tiếp tục ngày mai nữa là tôi nhập Sơ Thiền hoàn toàn, tức là tâm của tôi nó sẽ sung mãn. Thì khi mà nó sung mãn rồi, thì bắt đầu bây giờ tôi vào hỏi Thầy bây giờ tâm con nó như vậy rồi, bây giờ nó luôn luôn định trong này rồi, nó sung mãn nó hoàn toàn nó không phóng dật gì nữa hết rồi, vậy Thầy dạy con tiếp.
(01:26:35) Rồi bắt đầu bây giờ trình cho Thầy nghe tất cả những cái quá trình tu như thế nào, thế nào. Bây giờ sau đó Thầy mới nghiệm, Thầy trắc nghiệm. Thầy trắc nghiệm xong rồi, Thầy nói bây giờ được để nhập Nhị Thiền. Bây giờ về phải không, tiếp tục hướng tâm như vầy, như vầy, như vầy, thì sẽ nhập Nhị Thiền. Phải không? Bây giờ mà nhập Nhị Thiền thì nó ở trong như thế nào, hỷ lạc nó làm sao, Thầy sẽ nhắc nhở hẳn hoi.
Đây là Thiền căn bản thứ hai. Nếu quý sư mà xong rồi bây giờ đến mà xin Thầy mà nhập Nhị Thiền, đây là Thầy sẽ giảng về Thiền căn bản thứ hai. Bởi vì Thiền căn bản thứ nhất là Thầy đã giảng rồi. Mà từ lâu tới giờ chưa có người nào tới Nhị Thiền cho nên Thầy chưa có giảng Thiền căn bản thứ hai. Phải không? Mà tới Thiền căn bản thứ ba tức là Tam Minh.
Tại sao hồi đó ông Phật ông đi một lèo vậy được, còn Thầy bây giờ phải dạy từng phần, từng phần như vậy? Đúng vậy, bởi vì bây giờ nó đã tu lạc vào những cái tà pháp, cho nên nếu mà không hướng, thì nó sẽ rơi vào tà pháp mất sao. Vốn chúng ta có tu tập một cái tà pháp, cho nên cái ngấn đó, nó sẽ lạc chúng ta vào chỗ sai.
Còn ngày xưa Đức Phật tu tập vào tà pháp, nhưng mà sáu năm khổ hạnh ông hoàn toàn sung mãn, còn chúng ta bây giờ mới hai ba ngày thấy nó quay vô chưa sung mãn.
Mật Hạnh mới có hai ba ngày nó quay vô, ức chế nó, nó cũng vẫn quay vô như thường chứ đâu có không quay vô đâu. Nhưng mà nó chưa hoàn toàn là sung mãn.
Cho nên vì vậy mà khi đó phải được Thầy hướng dẫn cặn kẽ trong cái giai đoạn thứ hai này, sau khi nhập xong bốn Thiền tức là chúng ta sẽ vượt qua giai đoạn thứ hai. Nghĩa là cái bài pháp mà chúng ta sẽ giảng tới cái chỗ này chúng ta mới thấy những cái nguy hiểm vô cùng. Thì bây giờ nỗ lực mình tu đi, tu đi rồi Thầy sẽ giảng tới giai đoạn thứ hai căn bản Thiền. Còn bây giờ Thầy nói về cái mình nghe, trời ơi hay quá màu nhiệm quá như vậy là vô làm đại, không ngờ mình ức chế tâm mình vô làm đại cái nó nguy hiểm vô cùng.
(01:28:42) Cho nên coi như là cái loại sách này không thể viết được. Vì vậy mà ngày xưa Đức Phật chỉ nói nhập cái Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền cho đến Tam Minh thì không có mệt nhọc, không có mỏi mệt. Phải không? Đức Phật nói trong kinh rất rõ mà, không có mệt nhọc, không có mỏi mệt mà. Nhưng mà bây giờ chúng ta muốn nó vào mau như vậy, làm sao cho được.
Đó, vì vậy mà sau này quý thầy tu được thì có cuốn thiền thứ hai ra đời. Cuốn thiền thứ hai ra đời là có người nào tu, thì trong cái cuốn thiền thứ hai ra đời, thì sau khi viết cuốn này rồi Thầy nhắc, khi nào ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền được rồi, thì phải đến học tập với một vị sư chứ không phải đọc trong cuốn sách này mà tu tập được.
Để người ta chưa ly dục ly ác pháp người ta tập ngang thì nó nguy hiểm. Mình phải nhắc nhở mới cho cuốn sách ra đời chứ còn nếu cho cuốn sách ra đời mà không nhắc nhở họ, thì họ cầm cuốn sách này, họ đọc cái rồi bắt đầu họ hướng tầm bậy cái họ chết thì sao. Đó là cách thức tu.
Cho nên ở đây, Thầy nhắc nhở, thứ nhất là chúng ta nên đi kinh hành nhiều, đừng có ngồi trong thất nhiều, phải đi kinh hành nhiều. Chúng ta không đi ở ngoài thì chúng ta đi vòng vòng, vòng vòng, mỏi chân thì chúng ta ngồi nghỉ một chút rồi chúng ta hết mỏi chân thì chúng ta đi. Đừng có đóng cửa, đừng có ngồi. Trong cái cuốn chín Thầy có nói tu về ánh sáng, vì Chơn Thành hỏi Thầy, tu trong ánh sáng rồi tu trong bóng tối, tu như thế nào.
Mình tu giải thoát cho mình thì mình đừng có tu giả dối. Vừa khi mình dùng ánh sáng mà mình lại không tu, để mình ngủ, thì cái đó là mình giả dối. mình giả dối là để mình làm gì đây. Mình quyết tu giải thoát chứ đâu phải mình đến đây mình làm hay đâu. Cho nên thắp đèn tới 12 giờ mà ngủ khò mà tưởng đâu là tu đến 12 giờ, ai ở ngoài: “Trời ông này thức quá trời, tu dữ tợn”, mà không thấy ông đi kinh hành chỗ nào hết.
(01:30:46) Trời đất ơi ông ngồi thiền ông giỏi quá trời, ông ngồi thiền mà ông gục. Trời ơi ông gục như vậy là ông tu cái gì bây giờ đây? Mình tu phải thật cho mình, giải thoát từng phút giây, biết cái phút này là phút tâm mình thanh thản, an lạc, còn tâm mình không thanh thản, an lạc thì mình có ngồi tu nó có lợi ích gì? Đi kinh hành nó còn lợi ích, nó còn tỉnh táo, nó còn phá được hôn trầm.
Cho nên trong đạo Phật chúng ta nhớ Chánh Tinh Tấn. Chánh Tinh Tấn là siêng năng chứ gì, mà siêng năng ở trong tà tinh tấn thì như thế nào? Siêng năng trong tà tinh tấn, bữa nay thôi tu tới 11, 12 giờ khuya mà chưa ngủ, nhưng ngày mai mới 7 giờ là lo đi ngủ rồi thì cái đó là Tà Tinh Tấn chứ làm sao Chánh Tinh Tấn được, phải không? Nghĩa là phải tu đều đều, bữa nay tới 10 giờ đi ngủ, thì mai cũng 10 giờ, mốt cũng 10 giờ, như vậy là Chánh Tinh Tấn, còn bữa nay thì 10 giờ đi ngủ, mà mai thì 9 giờ.
Đi tu mà Tà Tinh Tấn thì nó chẳng đi đến đâu hết. Thà là tu ít. Bây giờ 7 giờ, mình tu tới 9 giờ mình đi ngủ. Ngày mai cũng tu đúng 7 giờ tới 9 giờ đi ngủ. Khuya mình thức 3 giờ, thì mình phải thức luôn tới sáng, đừng đi ngủ nữa. Ngủ lại nó cũng thành quen, nó thành ra lười biếng. Còn nếu mình tu 3 giờ dậy không nổi, thì 4 giờ mình dậy ai bắt buộc mình 3 giờ?
Nhưng mà ngày mai cũng đúng 4 giờ, ngày mốt cũng đúng 4 giờ, buổi kia cũng đúng 4 giờ. Cứ đúng 4 giờ thì mình tu. Rồi lần lượt lần lượt mình tăng lên, tăng dần, tăng dần lên, do cái sức đi kinh hành của mình rồi cái sức tỉnh thức nó có, nó phá dần cái buồn ngủ, mà nó phá dần buồn ngủ thì sức tỉnh thức nó có.
(01:32:43) Thì Thầy xin nhắc lại cái sức tỉnh thức. Không phải tỉnh thức ở trong cái bước đi kinh hành, không phải tỉnh thức ở trong hành động của mình đang đi, không phải tỉnh thức ở trong hơi thở của mình, mà phải tỉnh thức ở trong cái tâm tham, sân, si của mình. Bây giờ quý vị nghe trong kinh sách Phật nói ăn mình biết mình ăn, ngủ mình biết mình ngủ, đi mình biết mình đi, đứng mình biết mình đứng. Vậy ăn mình biết mình ăn để làm gì đây?
Bây giờ Thầy đang nhai cơm, Thầy ăn biết Thầy đang ăn, vậy ăn để làm gì đây? Biết ăn có nghĩa là trong khi ăn đây, tôi tỉnh thức tôi biết tôi ăn đây, mà cái tâm tôi còn thèm muốn ăn cái này ngon. Trời bữa nay cô Út cho cái trái cây này ăn ngon, cho ly sữa này ngon, thì cái tỉnh thức ngon dở, thèm khát này là cái tâm tham của chúng ta.
Tức là Đức Phật nói: “Tâm có tham biết tôi có tham” là tỉnh thức, chứ đâu phải tỉnh thức trong cái biết đang nhai này gọi là tỉnh thức. Phải hiểu cái tỉnh thức là tỉnh thức chỗ tham, cho nên khi mà biết nó tham thì mình còn tham không? Thì không tham thì tức là giải thoát chứ gì. Mà còn tham là không giải thoát chứ gì. Vậy thì tỉnh thức đâu phải tỉnh thức chỗ cái ăn, mà tỉnh thức ở chỗ cái tâm tham của mình. Đang ăn nó tham cái gì đây?
(01:34:15) Phải hiểu chỗ này mới là cái chỗ tu của mình mới giải thoát chớ. Cho nên Phật nói: “Pháp ta hiện tại không có thời gian”, vậy hiện tại nó là gì? Ăn mà tôi tỉnh thức, tôi biết tôi ăn mà tôi có tham ăn cái này, thì do đó tôi xả cái tâm này ra, thì ngay có tâm tham mà biết không tham thì sẽ xả cái tham ra. Thì như vậy là ly cái tham. Mà ly cái tham thì đâu còn tham ăn nữa.
Vậy thì Thân Hành Niệm đâu có nghĩa là biết cái hành động của thân không, mà còn biết được cái tâm tham, sân, si trong hành động đó. Thì như vậy mới gọi là người biết tu chứ. Chứ còn bây giờ tôi đi tôi biết tôi đi, tôi đứng tôi biết tôi đứng, bao nhiêu người dạy cái kiểu này mà cứ biết như vậy không thì người này biết như vậy để làm gì đây?
Tôi tập trung tôi biết tôi đi nè, tôi thở tôi biết tôi thở mà tôi cứ hàng ngày tôi thở vậy nó có nghĩa lý gì mà người ta vừa nói tôi sân ầm ầm lên à. Mà ăn tôi còn thấy miếng ăn này ngon, thôi để dành để lát chiều ăn thêm nữa. Thì nghĩ như vậy là mình nghĩ như thế nào? Vì như vậy mình có tỉnh không? Rõ ràng là tôi tỉnh tôi biết tôi đang nhai, mà bây giờ tôi để dành một cái bánh chiều tôi ăn thì như vậy mình có tỉnh không?
Thì như vậy là đâu có tỉnh! Mà người ta nói tỉnh giác ở trong Chánh Niệm, vậy Chánh Niệm mà còn tham thì đó là Chánh Niệm sao? Cho nên biết rõ cái tâm tham thì nhất định là cái chỗ này là tỉnh thức trong tâm tham. Cái hành động đang ăn mà còn tham ăn, thì như vậy rõ ràng là phải khắc phục tham ưu chỗ này. Như vậy mới gọi là mình tu Tứ Niệm Xứ chớ, mới gọi là khắc phục tham ưu chứ.
Các con hiểu được như vậy, còn bây giờ mình tỉnh thức, bây giờ suốt ngày mình tỉnh mình biết hành động đi, đứng, nằm, ngồi, mang y mặc bát mình biết. Biết như vậy, mà cái tâm tham này không biết nó tham ở chỗ nào hết. Thì mai mốt nó sẽ tham chứ gì, vậy là mình có tỉnh không? Mình có Minh không? Vô minh quá vô minh, mình không có tỉnh được chút nào!
(01:36:10) Cho nên tu sai rồi bắt đầu bây giờ ông đó thành ông biết vậy thôi, ông làm cũng như là cái con vật mà có cái biết thôi, chứ còn không biết gì hết. Không biết tránh cái cây đó đụng không, còn không ông biết cái cây đó mà ông cứ xán đầu vô cái cây đó thì tức là ông còn ngu, quá ngu. Cũng như mình biết tham mà mình không có biết tham, mình biết cái đó là tham nhưng mà không biết tham thì nó là vẫn là như cái cây chứ còn cái gì.
Rõ ràng bây giờ mình biết, mà mình nói mình không biết thì nó không đúng. Mà mình biết mà mình không biết được cái tham của mình thì cái đó nó không giải thoát. Rõ ràng là hầu hết người ta không tu cho nên vì vậy người ta biết hết, mà người ta không biết được cái tâm tham của họ, cho nên họ tham mà họ không biết.
Cũng như bây giờ một cái người đó, họ không biết cái tâm tham họ, họ thấy cái xe nó đẹp, cho nên vì vậy họ muốn cái xe đó, họ làm sao làm cho có tiền họ mua, còn không thì họ ăn trộm, ăn cắp mua cho được cái xe đó. Thì do từ cái tâm tham mà họ không biết cái tâm tham đó là khổ, cho nên vì vậy mà họ muốn cái xe cho nên họ khổ.
Họ khổ, tới giờ ngủ mà họ còn phải suy tư, nghĩ cách này cách kia để cho có cái xe, thì cái đó là họ không thấy được cái tâm tham là khổ, cho nên họ không dừng được cái tâm đó, cho nên bây giờ họ cứ ước ao cho được cái vật đó. Cho nên vì vậy họ cứ ôm ấp trong lòng họ hoài. Đó là họ không tỉnh, họ là một người đang mê.
Cho nên từng chút vi tế, rất là vi tế mà chúng ta không tỉnh thức ngay trên đó, chứ không phải tu thiền định mà cứ bắt buộc phải tỉnh thức biết hơi thở ra, hơi thở vô. Cha! Bây giờ tôi biết như vậy cả giờ đồng hồ, hai giờ đồng hồ, ba giờ không vọng tưởng, là thiền định, không phải đâu. Cái đó là ức chế tâm đó, hoàn toàn không thoát ra khỏi cái tâm của mình, sau này nó sẽ rơi vào tưởng.Và nếu mà thần kinh mình yếu một chút là sau này nó sẽ rơi vào cái trạng thái của thầy Thông Vân, nó sẽ bị điên khùng đó.
(01:38:10) Đó cho nên vì vậy chúng ta phải thấy được cái chỗ tỉnh thức, mà Thầy nhắc, mà chính tỉnh thức nó mới tâm không phóng dật, không tỉnh thức là bị phóng dật. Biết như vậy rồi thì bây giờ chúng ta nỗ lực chúng ta thực hiện tu.
Bởi vì cái trường hợp xảy ra thầy Thông Vân, mà chúng ta lấy cái thầy Thông Vân để làm cái đối tượng chúng ta nỗ lực tu. Còn không thì thầy nói thật sự, nếu quý thầy mà không cảnh giác, không có đề phòng, thì thứ nhất là tu nó không tới đâu. Thứ hai là mình không xứng đáng, thiếu đạo đức làm một vị thầy tu hành. Thứ ba là cái kết quả tu hành không đến, mà nếu mình cố gắng mình nỗ lực tu mà mình tu sai thì mình sẽ đưa đi đến như thầy Thông Vân.
Nghĩa là mình nỗ lực nhiệt tâm tinh cần, mình nỗ lực tu, mà tu sai pháp thì mình sẽ dẫn đến như thầy Thông Vân. Vì ở đây chúng ta hoàn toàn là tu hành chứ chúng ta có làm gì đâu, cho nên chúng ta sẽ dẫn đến điên, cái trường hợp đó, nếu mà nỗ lực tu, mà tu trong cái chỗ mà không xả mà chỗ ức chế như vậy là chúng ta sẽ… Chúng ta cứ ngỡ tưởng rằng mình xả, nhưng mà sự thật mình lấy cái tỉnh mình lạng vô, mình dùng cái tỉnh của cái ý thức thanh tịnh, mình lạng vô trong định, thì cái này nó sẽ đưa đến rối loạn thần kinh.
Cho nên chúng ta phải tu đúng, hành đúng, làm đúng những cái điều mà chúng ta tu tập, thì kết quả đó là từng giây, từng phút chúng ta để nhìn thấy được cái tâm tham, sân, si. Cho nên Đức Phật nói pháp hiện tại không có thời gian, nghĩa là chúng ta tu nó là chúng ta có giải thoát liền. “Tâm tôi có tham tôi biết tôi có tham, tâm không tham tôi biết tôi không tham; Tâm có sân tôi biết tâm có sân, không sân biết không sân”.
Bây giờ tâm tôi không sân mà tôi biết rõ ràng nó không sân là tôi tu làm cái gì đây, thì nó thanh thản, an lạc, kệ nó chứ ăn thua gì, tui giải thoát mà tui có cái gì đâu. Rồi bây giờ nó khởi lên sân thì tôi biết nó sân, mà tôi biết nó sân thì tui không sân đó là hết sân. Còn cái này sân không biết, cứ sân hoài ầm ầm hoài kéo dài thời gian, ngày này qua ngày khác, hay là giờ này qua giờ khác mà không chịu xả ra, thì như vậy rõ ràng mình không biết sân.
(01:40:20) Còn có người biết sân mà lại nuôi sân thì mới là ngu. Đã là sân, là ác pháp, là khổ mà tại sao lại ôm ấp trong lòng mình. Sân mà biết tui giận dữ rồi đó, nhưng mà tại sao biết giận dữ mà không xả? Vậy là mình ngu sao. Đó là khổ mà, là pháp khổ mà tại sao ôm ấp trong lòng. Cũng như bây giờ mình thấy cái món ăn nó ngon, mình thèm món ăn đó, mình biết là tham là khổ mà tại sao lại thèm, thèm làm chi cho nó khổ.
Thì khi mà mình biết tu rồi, mình hằng mình quán xét tư duy vậy, thì mình giải thoát liền còn cái gì đâu mà làm khổ mình nữa. Đó nhớ kĩ, tu kĩ như vậy rõ ràng hàng giờ, bởi vì mình ăn rồi mình có làm cái gì, mình chỉ ngồi đây mà quán sát để mà cái tâm của mình được giải thoát.
Như hồi nãy Thầy đã nói, như mình canh gác một cái thành, mà cẩn thận kĩ lưỡng, tỉnh giác như vậy, thì cái thành này nó thật là thanh bình chứ gì, nghĩa là cái thành của mình là cái gì? Cái nội tâm của mình đó, nó yên ổn, nó thanh thản, vô sự hoàn toàn thì nó thanh bình chứ gì. Thì cái tu là như vậy thôi chứ không còn cái gì nữa.
Đó, dẹp hết tất cả kinh sách của Phật, bây giờ lật lời Phật tui không thèm nghiên cứu nữa. Nghiên cứu rồi nó có nhằm nhò gì tui, nó có giải thoát được tui lúc nào đâu. Dẹp hết không có được đọc nữa. Kinh sách Thầy bây giờ không cũng thèm động nữa, bây giờ chỉ còn tu. Thầy nói thật sự mà kinh sách mà Thầy đưa mà người nào đó, tôi bây giờ không đọc nữa, thì giờ tôi chỉ tu Bốn Niệm Xứ này thôi, thì mấy người sẽ…
Chẳng thèm đọc, tới rồi mặc sức đó rồi hiểu rồi, còn hơn đọc kinh sách. Trừ ra mình còn mắc mứu cái chỗ nào đó mình chưa giải quyết được, thì mình đọc để cho mình thêm, nhưng mà những cái lời Thầy dạy là những cái lời nó có những cái kinh nghiệm, cái kinh nghiệm của người này, của người kia, những cái mắc mứu của mọi người, người ta đi đường dính mắc người ta mới hỏi câu hỏi.
Thì những cái mình chưa hỏi, mà mình đọc trời ơi cái này tui sắp sửa hỏi, hỏi Thầy mà tui chưa hỏi mà người ta hỏi mà Thầy dạy như vầy nè, cũng như giải được cái chỗ tôi đang bị. Đó, cho nên tại sao mà cái cuốn sách Thầy lại là hỏi đạo. Tại vì những cái này là những cái thắc mắc, cái mắc mứu người ta tu hành, người ta gặp phải người ta mới hỏi. Và mình đọc đâu chừng mình lại là một người cùng bệnh với một cái người đã hỏi này.
(01:42:50) Cho nên câu hỏi này nói giống như bệnh của mình. Cho nên đó là những cái kinh nghiệm. Chẳng hạn bây giờ, làm sao có một cái người mà không tu mà người ta biết là, tu trong bóng tối, tu trong ánh sáng, tu trong ánh sáng tự nhiên. Nếu một người không tu mà làm sao biết đâu mà hỏi. Mà trong khi mình tu thì mình biết ánh sáng, bóng tối tự nhiên như thế nào, thế nào, thì tức là người ta hỏi, nó làm cởi mở mình ra được những cái điều mình không nghĩ ra, thắc mắc.
Đó là nó, đọc sách Thầy là nhờ chỗ mà vấn đạo, cái chỗ mà hỏi đạo, nó giúp cho mình có những cái mắc mứu mà mình không giải được, mà nhờ người ta hỏi rồi Thầy dạy cho người ta. Rồi bây giờ đọc trong đó Thầy giảng vậy, mà mình lại không hiểu, như các thầy đã đọc rồi chứ gì, có nhiều bài người ta hỏi về xá lợi chứ gì. Nhưng mà cái lời hỏi của người kia, thì nó không phải như cái lời hỏi của người này.
Cho nên cùng trả lời một cái vấn đề xá lợi, mà người này Thầy trả lời như vầy, nhưng mà hai cái bài trả lời vầy không mâu thuẫn nhau chút nào. Nghĩa là làm sáng tỏ thêm cái vấn đề hỏi câu hỏi này. Cũng như hai cái người hỏi về Tứ Thiền, mà Thầy trả lời cho cái người hỏi qua câu hỏi của họ, cái ý của họ, thì chúng ta thấy với một người khác, chúng ta thấy hai cái câu hỏi này để trả lời vào hai cái bài này, nó làm sáng tỏ lên, nó không bị mắc mứu.
(01:44:23) Cho nên người nào kẹt ở bên đây thì cũng hiểu được cái câu hỏi này, người nào kẹt bên đây thì cũng hiểu được câu hỏi này. Đó là cách thức mà Đường về xứ Phật ra đời để nhằm để mà giải quyết những cái tâm nghi, những cái tâm mắc mứu, những cái tu hành bị kẹt, vướng mắc mà không gỡ được, không ai giải được cho mình, thì Đường về xứ Phật nó sẽ giải giúp cho chúng ta, để giải thoát cái này cho đúng đường lối của Phật.
Chứ Thầy cũng chẳng có nói ra để mà phỉ báng ai cả hết. Vì Thầy biết họ đang mắc mứu ở trong cái kinh sách của Đại Thừa, mà nếu không nói thẳng ra thì làm sao họ biết cái đó sai đúng. Họ đang cho rằng kinh sách Đại Thừa là đúng, mà họ hỏi câu nói đó, họ mắc kẹt ở trong cái chỗ kinh sách Đại Thừa đó bằng cái hình ảnh này, họ hỏi ra Thầy biết họ đang dính trong kinh sách đó.
Cho nên đang dính trong kinh sách đó thì buộc lòng Thầy phải nói kinh sách đó, vạch ra nó đúng sai, để làm cho người ta hiểu cho rõ, mà người ta xả bỏ nó mà người ta thực hiện cho đúng con đường giải thoát. Chứ Thầy không bao giờ mà Thầy muốn chạm đến ai hết. Nghĩa là giáo pháp của Đại Thừa, Thiền Đông Độ, tu hành ra sao mặc nó, nó làm gì được nó nhờ, mắc mớ gì Thầy Thầy phải nói nó.
Nhưng mà vì những người tu gặp những cái khó khăn, mà kinh sách Đại Thừa không giải được, từ đó họ mới đem họ hỏi Thầy. Thầy mới dạy cho họ biết đây là sai không đúng cho nên nó không còn đường đi nữa, vậy thì chúng ta trở về vị trí này là cái này đúng. Còn cái này là lừa đảo, nó không thật, cái này lấy những cái bất tịnh mà cho đó là quý, phải tu hành phải kết tinh như vậy, nó không đúng.
(01:46:14) Bởi vì cái thân này toàn bộ nó là cái duyên hợp chứ có cái vật gì mà Đức Phật nói quý trong này đâu. Thế mà nói rằng do tu thiền kết tinh lại, như vậy là sai, lừa đảo người ta bằng cách như vậy. Do đó từ đó người ta không hiểu, người ta nói ráng tu hành đi để chết rồi người ta thiêu mình xá lợi nhiều. Thì rõ ràng là gieo vào đầu óc của người ta một cái lầm lạc, cái sai lệch.
Mà bây giờ nếu mà Thầy không thèm nói không trả lời, thì người ta cứ ở trong cái đầu óc người ta cứ nghĩ như vậy, người tu thiền là phải có xá lợi, chết là phải thiêu. Nhưng mà không ngờ đó là những mảnh xương vụn, những vật bất tịnh, có ra cái gì. Đó là hôm nay, chớ không phải là Thầy muốn bài bác họ. Nhưng mà cái tư tưởng họ bị dính cái sai đó rồi họ cứ kẹt vào trong đó, rồi họ nghĩ rằng mình phải tu cho đạt được.
Được những cái đó làm cái gì, mà trong khi cái mà lợi ích cho họ thì họ không làm. Cũng như bây giờ mình sống đạo đức, mình không làm khổ mình, khổ người, hàng ngày mình biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, vui vẻ đem lại sự an lạc, thanh thản cho tâm hồn của mình, thì mình lại không tu.
Mình đi tu cho có xá lợi để làm gì đây. Nó không có lợi cho mình, mà không có lợi cho người nữa, mất công người ta để người ta xây tháp nữa, tới lúc đó người ta giữ mồ, giữ mả cho mình. Nó có lợi ích gì đâu.
Đó thì như vậy Thầy mới trả lời chứ Thầy bài bác làm gì. Phải hiểu như vậy, cho nên người ta hay nói Thầy sao hay nói người ta quá. Tại vì mấy người cứ kẹt ba cái thứ gì đâu không, mà hỏi Thầy, Thầy không nói sao được. Mấy ông cứ đút cái đầu vô trong Đại Thừa rồi bây giờ cứ mang ra mà hỏi Thầy. Đừng có hỏi Thầy cái điều của Đại Thừa thì làm sao, chẳng hạn như bây giờ đừng có hỏi xá lợi thì làm sao Thầy nói.
Thì bây giờ kinh sách Đại Thừa cứ phô trương nó ca ngợi sự tu hành của nó là như vậy, bằng xá lợi như vậy, mà nó là cái lừa đảo người ta, mà bây giờ hỏi Thầy mà Thầy không nói thật ra đó là lừa đảo, thì người ta biết cái đó là làm sao, người ta cứ nghĩ là nó đúng thì sao. Mà trong khi Thầy biết là cái đó nó không đúng. Mà giờ Thầy làm thinh thì tội cho người ta hỏi Thầy, người ta không hiểu người ta mới hỏi chớ.
(01:48:10) Thì hôm nay tất cả những cái mà sai của Đại Thừa là do cái người hỏi, là vì người ta không biết đúng sai, người ta đang nghi ngờ. Cũng như hỏi về Quan Âm Thị Kính, hỏi về cái ngài mà báo hiếu Vu Lan, lễ Vu Lan đó. Người ta hỏi Thầy chứ còn … đừng có ai hỏi Thầy, Thầy không có thèm đem ba cái đó Thầy nói ra làm gì.
Cho nên ở đây các sư thấy, nếu mà không có trường hợp thầy Thông Vân, hôm nay Thầy cũng chẳng có cái ngày mà Thầy nói chuyện với quý sư. Thầy chẳng bao giờ mà Thầy nói quý sư tu sai hay cái này kia. Nhưng cái dịp này, vì cái hình ảnh đau khổ của một người mà điên loạn như vậy, cho nên hôm nay mới có cái ngày họp. Nếu mà không có cái nhân duyên này chắc chắn Thầy không họp, không có nói chuyện gì.
Bởi vì các thầy, các sư tu đúng thì các thầy, các sư giải thoát, mà không tu đúng thì chịu thôi chứ gì. Nhưng vì trường hợp đó không lấy cái gương này mà nhắc các sư, các thầy thì Thầy thấy Thầy có lỗi. Bởi vì có người hiện ra cái tướng quá khổ như vậy rồi, điên mà đâu có sung sướng gì đâu. Bây giờ các sư, các thầy hỏi, đái trong quần mình không biết, ỉa trong quần mình không biết nữa, có khổ không.
Bây giờ mình đâu còn biết nữa, cái đầu óc bây giờ đâu biết dơ, biết sạch. Đái ỉa mình cũng chưa biết nữa. Bây giờ mắc đái mà không đi đái được, đái trong quần thôi. Thì các sư nghĩ như thế nào mà như vậy. Mà trong khi Thầy đã thấy biết được như vậy mà Thầy không nói với các sư, để rồi mai mốt các sư tu điên, tu khùng cái rồi điên nữa rồi làm sao. Đó thì đó là cái điều mà Thầy nói ra hết rồi Thầy không có lỗi với các sư đâu.
Còn các sư có tu thì các sư phải chịu lấy, bởi vì Thầy đã nói hết rồi. Bởi vì cái sai Thầy đã nói rồi, mà bây giờ các sư cứ nhắm đi trên đó, các thầy nhắm đi trên đó là các sư bị điên, bị khùng thì các thầy chịu chứ. Tại sao Thầy nói rồi mà tại sao các thầy còn làm. Đó cũng như bây giờ Thầy nói các sư thí dụ bây giờ, Thầy nói các sư nói chuyện là tu không tới đâu. Thầy nói các sư mà ngồi thiền mà gục tới, gục lui, thì nó không có ra gì hết đâu, mất thì giờ vô ích. Phải không?
(01:50:22) Thì do đó mà các sư còn làm thì Thầy không có trách nhiệm rồi, Thầy đã nhắc rồi mà, Thầy hết bổn phận của mình rồi. Còn nếu Thầy không nhắc mà các sư tu hành mà đến khi các sư bị điên khùng, thầy có lỗi. Đối với thầy Thông Vân, khi mà Thầy nói cái pháp mà nhập Tứ Thiền là như vậy, như vậy, nhưng mà Thầy bảo thầy Thông Vân là không được ngồi trong đó mà nhập, mà hãy đi kinh hành ở ngoài xả cho hết cái tâm rồi mới dùng cái này.
Thì Thầy nhắc như vậy mà thầy Thông Vân không nghe lời Thầy, tưởng cái này làm cho mau, cho nhanh, thì thầy phải chịu lấy trách nhiệm đó chớ, chứ đâu phải Thầy được. Phải chi Thầy không nhắc sao. Thầy nhắc nhở mà, trước khi mà Thầy nói một cái pháp mà nó màu nhiệm nó đặc biệt rồi, thì Thầy sợ lắm. Sợ người ta ham rồi người ta làm bậy, cho nên mình nhắc nhở khéo léo cho người ta.
Rồi bây giờ cái trường hợp xảy ra trong thầy Thông Vân, Thầy thấy đây là cái nhân duyên, cái nhân duyên và nhân quả, để có cái duyên để mà thầy trò gặp nhau. Chúng ta nhắc nhở sách tấn trên con đường tu, lấy cái gương hạnh điên kia, nhắc nó mới cụ thể. Còn bây giờ không có ai hết Thầy nhắc quý sư xem thường hết, các thầy coi thường à.
Đâu có gì đâu, đâu có ai mà điên khùng, đâu có đâu mà Thầy nói, tui làm sao tin được, người nào người ta tu cũng thấy vui vẻ hết, người ta cũng nói chuyện vui vẻ. Người ta cũng ngồi thiền người ta gục lên, gục xuống cũng vui vẻ có gì đâu. Mà do như vậy đó, các thầy đâu có tin. Còn bây giờ cái trường hợp mà xảy ra như vậy đó, nếu ngày mai này Thầy nhắc rồi mà các thầy thực hiện có điên khùng, thì các thầy phải chịu trách nhiệm ở cái chỗ mà của các thầy làm.
Bởi vì Thầy nói rồi mà không sửa, thì phải chịu lấy chớ. Đó ngày mai các sư, các thầy mà có đi về rồi, thì cũng không nói đổ lỗi cho Thầy là không dạy. Thầy nhắc nhở hành đúng, làm đúng, rồi tuần tự… Bây giờ mình thấy trong khi mình hành đó mình gặp cái gì khó khăn, thì cứ trực tiếp hỏi Thầy, đừng có hỏi ai hết. Ai mà giải được. Ở đây chỉ có mình Thầy, Thầy là một cuốn từ điển sống, cho nên vì vậy muốn tìm cái nghĩa của nó ở trong đó thì Thầy là người giải cái nghĩa đó được.
(01:52:32) Chớ không có một cuốn từ điển nào mà giải nghĩa này được hết. Nghĩa là các thầy là những cuốn từ điển, nhưng mà các thầy từ điển thiếu, cho nên các thầy không giải được. Còn cái từ điển của Thầy là đại từ điển rồi, còn các thầy bây giờ hiện là tiểu từ điển.
Cho nên lật cái cuốn sách của các thầy, các thầy bây giờ hỏi các thầy để biết cái nghĩa cái từ đó như thế nào để tu hành, thì các thầy giải theo của các thầy tưởng ra, thì coi như nó trật nghĩa rồi, người ta về người ta tập thì người ta phải chết người ta, nó sai nghĩa rồi.
Còn Thầy cuốn từ điển của Thầy, nó có những cái kinh nghiệm rồi, hỏi Thầy là Thầy dẫn tới nơi, tới chốn. Nghĩa là đúng nghĩa. Cho nên sự tu hành là mình phải thực hiện đúng là được quyền hỏi Thầy mà không được hỏi ai hết, bởi vì ai cũng không làm sao hiểu hết, bởi vì người ta chưa có kinh nghiệm tới nơi.
Chớ phải chi, người ta thực hiện được tâm bất động nè, người ta thực hiện được tâm ly dục ly ác pháp nè, người ta thực hiện được những cái oai nghi tế hạnh. Tất cả mọi cái người ta làm được hết rồi, mà người ta thực hiện được thiền làm chủ được sanh tử, tịnh chỉ hơi thở, Tam Minh. À thì vậy người này có thể mình hỏi được. Cũng như ngày xưa các vị tỳ kheo mà hỏi ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên đó, là hỏi những vị đã tu chứng, phải không?
Chứ đâu phải hỏi những vị chưa tu chứng, họ biết sao mà trả lời. Còn bây giờ chúng ta trong chúng chúng ta chưa có người nào chứng, cho nên hỏi đâu có được. Họ biết gì đâu. Bây giờ như Mật Hạnh nó có kinh nghiệm, nó ở trong cái giai đoạn của nó, nhưng bây giờ mà hỏi nó, nó chưa có tới nơi, tới chốn, nó chỉ bậy một cái là chết rồi, trật lất có trúng đâu, đừng có hỏi nó, mà đừng có hỏi vậy nó không biết gì đâu.
Bởi vì những cái này nó còn đang sự thử thách rất nhiều không thể thực hiện được, chưa có trọn vẹn dâu. Rồi mai kia mốt nọ bao nhiêu sự cám dỗ, cái tâm con người ta, bởi vì vật chất thế gian bây giờ …
(01:54:21) Ngày xưa, vị Tỳ kheo Citta, ông nhập Sơ Thiền, ông hoàn tục ông ra đời, ông sống ở ngoài đời. Sau một thời gian ông trở vào xin Phật, ông tiếp tục trở về lại Sơ Thiền ông ly, ông nhập Nhị Thiền, phải không?
Nhưng mà ông nhập Nhị Thiền rồi, thì cái tâm ông, nó lại muốn hoàn tục, xin Phật hoàn tục. Mà cho tới Tứ Thiền, mà ông còn hoàn tục đó. Nhưng mà ông Phật khéo léo, bởi vì Thầy đọc cái bài kinh Thầy thấm thía, do Thầy đọc cái bài kinh này thấm thía Thầy mới cho Mật Hạnh, chớ còn Mật Hạnh Thầy bắt buộc nó sao nó cũng phải nghe hết, nhưng mà Thầy biết nguy hiểm.
Đúng là nếu mà không có cái bài kinh Citta này, Tỳ kheo Citta, thì chắc chắn là Thầy sẽ giết người nhiều. Cho nên trước kia coi như là bắt buộc vô đây độc cư hoàn toàn, trời ơi muốn chết họ luôn hết. Thật sự, vì vậy mà Thầy thấy, sau này Thầy mới rút tỉa từng những kinh nghiệm đó mà Thầy, đúng là ông Phật có kinh nghiệm, còn Thầy thiếu kinh nghiệm thiệt.
Đọc lại cái bài kinh Citta Thầy mới giật mình, trời tu Tứ Thiền mà còn hoàn tục được sao. Vậy mà nhập Tứ Thiền còn hoàn tục, thế mà Tam Minh mới dứt được. Cho nên đúng là cái bài kinh Đức Phật có giá trị kinh khủng, thật kinh khủng. Bởi vì Tam Minh nó mới diệt sạch, Lậu Tận Minh nó mới diệt sạch cái lậu hoặc, cho nên nó mới không còn hoàn tục được.
Còn cái kia nó còn lậu hoặc, cho nên cái hướng dục nó còn, ly chứ chưa diệt mà. Còn cái Lậu Tận Minh, nó mới diệt dục. Cho nên mình ở đây mình nói ly dục ly ác pháp chứ mình có nói diệt bao giờ. Có không? Đâu có diệt, mà cho tới Lậu Tân Minh, Lậu Tận, nó diệt cái lậu hoặc của mình, nó mới hết. Cho nên ở đây khi mà Tỳ kheo Cita mà thực hiện Tam Minh rồi, thì hoàn toàn là một vị tu sĩ Phạm hạnh không còn hoàn tục nữa.
(01:56:12) Thì chúng ta thấy được cái bài kinh đó, một bài kinh giá trị, một bài kinh coi như là sống phải dùng cái trí tuệ quán xét để rồi nhàm chán, để mà ly tham, đoạn diệt. Đó là đúng con đường của đạo. Thầy thấy hay quá. Cho nên ở đây, nhiều cái bài kinh của Đức Phật mà Thầy nhắc lại, ở đây chúng ta thấy rất là rõ ràng.
Đức Phật so sánh cho chúng ta thấy, Đức Phật chỉ nhắc lại cái bài kinh đơn sơ là cái bài kinh Channa, là vị Tỳ kheo mà cầm dao đâm mình để chết trong cái cơn bệnh của mình, có phải không? Có phải quý vị đọc quý vị nhớ chưa? Thì Đức Phật chấp nhận mà. Hồi Thầy mới đọc cái bài kinh này, Thầy nói sao Đức Phật chấp nhận cho tự tử như vậy được. Nhưng mà cuối cùng Thầy hiểu, Đức Phật muốn so sánh cái Tứ Thiền- tịnh chỉ hơi thở với mũi dao, quá hay.
Đúng như vậy, Tứ Thiền cũng chỉ là một phương pháp nhập để mà tự tử mà thôi, cách thức tự tử bằng một cách êm ái, bằng một cái lực Tứ Thiền. Còn cái kia nghe ghê gớm quá, cho nên chúng ta thấy nó kì cục, sợ hãi. Một người mà nhảy xuống nước trầm mình để mà tự tử, thì nó cũng như là một cái người nhập Tứ Thiền không khác gì, nhưng mà người nhập Tứ Thiền ngon hơn.
Chúng ta phải nói ngon hơn chớ, bởi vì tui người ta ngồi im lặng vầy mà tui bảo làm sao nó nghe vậy, nó tịnh chỉ. Còn ông, ông phải nhảy xuống mà uống nước thì mới ngộp thở. Còn ông phải đâm vào trong ngực ông một cái rồi ông mới ngưng thở. Tui tui không cần. Cho nên tui ngon hơn. Nhưng mà cái ông này chưa có đủ tới trình độ đó, cho nên ông mới mượn cái đó. Nhưng mà ông đã ngộ được cái chân lý giải thoát, ông đã thấy được chỗ ly dục ly ác pháp, ông đã ngộ được thân này là vô thường, khổ, không, vô ngã rồi.
(01:58:03) Cho nên ông cũng vẫn bỏ cái thân này. Bởi vì cái thân này là cái thân huyễn giả rồi, thân duyên hợp rồi, nó không quan trọng nữa rồi. Bây giờ một mũi dao thì ông mà giữ được cái tâm ông không bị chìm đắm, không bị dính mắc ở trong những cái đối tượng này, cái đối tượng của thân ông, thì ngay đó ông ở trong Niết bàn vĩnh viễn, không có lo nữa. Đó là đúng đó, cái đúng của đạo Phật.
Cho nên vì vậy mà những cái bài kinh này đưa ra để chúng ta thấy rằng, ly dục ly ác pháp là chánh pháp của Phật. Tâm không làm khổ mình, khổ người là chánh pháp của Phật.
Chứ không phải đợi Tứ Thiền. Tứ Thiền cũng như một mũi dao đâm, Tứ Thiền cũng như nhảy xuống nước mà không thở thôi chứ có gì đâu. Nhưng mà Tứ Thiền nó nhẹ nhàng êm ái, nó là thần lực mà. Nó khác hơn người ta.
Thấy nó mình ham là mình ham cái siêu việt như vậy, chớ cái chết thì hai người này thì hơi thở cũng ngưng rồi mới chết thôi. Một người mà đâm cho mình không thở thì cũng như cái người mà tịnh chỉ hơi thở, cái người mà nhảy xuống nước thì uống nước thở không được thì cũng vậy, hơi thở cũng dừng thôi có gì đâu. Cho nên suy cho cùng những cái bài kinh chúng ta thấy hay thật.
Nhưng mà người tu hành chúng ta không nên tự tử bằng cách nhảy xuống nước, tự tử vậy hay là thắt cổ hoặc là đâm vô ngực chết ngay vậy. Bà con lại nói mấy cái ông này tu thấy ghê gớm quá, tui không dám tu đâu, phải không? Đó mình tu sao mình ngồi vầy, bây giờ thì Thầy sẽ bỏ thân này, Thầy sẽ chết bằng cách tự tại cho quý sư, quý thầy xem, phải không? Thầy nói vậy, Thầy chống tay Thầy bảo: “Hơi thở tịnh chỉ, ngưng đi”, à ngưng Thầy mất.
Bỏ thân nghe, bỏ. Thì bắt đầu Thầy nói bỏ thì ngay đó Thầy không thở … cứng ngắc, đợi rồi thân Thầy cứng ngắc, Thầy chết. Ui trời ông này chết hay quá ta, ông làm sao ngon quá, vậy người ta mới ham tu chớ.
Chứ còn Thầy cầm cái dao Thầy đâm cái bụp vô đây, trời ơi thấy ghê quá, tôi nhắm mắt liền. Bây giờ các sư bây giờ có gan không, Thầy cầm dao Thầy đâm ngực, các sư có nhắm mắt không. Nhắm mắt liền chứ đừng có nói dám mở, phải không?
Thấy cái chuyện làm, thấy sợ rồi. Còn trái lại Thầy ngồi đây, Thầy nói bây giờ: “Hơi thở tịnh chỉ, ngưng”, các sư chăm chăm nhìn Thầy coi có ngưng được không, phải không, đâu có sợ. Làm cho tinh thần của mình không có hề sợ hãi. Như vậy chúng ta phải nhập Tứ Thiền, phải không? Đó cho nên so sánh hai bài kinh này chúng ta thấy, hai cái này nó giống nhau, nhưng mà điều kiện chúng ta phải làm, có một sự màu nhiệm thật của Tứ Thiền, cái đó là cái hay.
(02:00:19) Chứ đừng làm theo cái kiểu … sợ quá. Bây giờ nói thật sự ra mà Thầy thấy ai cầm dao đâm thì Thầy cũng ngán nữa, chứ đừng nói mà chi các sư nữa. Chứ thật sự. Thầy đã tu chứng rồi, Thầy thấy là cái thân này huyễn giả rõ ràng rồi, như thật rồi, mà người ta cầm cái dao đâm Thầy thấy, làm cái này ai cũng sợ. Phải không? Cho nên Thầy cũng thấy làm như vậy là người ta ghê quá.
Đó, cho nên trên cái bước đường tu tập chúng ta, nghĩa là tu tận cùng, tu phải tới Tam Minh, nhất định là phải thực hiện Tam Minh. Và Thầy hoàn toàn sẽ dẫn, các thầy sẽ tới Tam Minh. Quý thầy làm đúng lời dạy của Thầy dạy, Thầy sẽ dẫn tới Tam Minh. Mà quý thầy làm đúng thì thôi rồi. Nghĩa là ngay vô đầu mà ly dục ly ác pháp, Thầy thấy làm đúng, thôi Thầy không nói nữa. Bởi vì mình dạy mà không đúng bây giờ cứ nhắc hoài sao.
Cũng như hôm nay Thầy nhắc, mà làm không đúng Thầy chịu thôi. Bây giờ tại người ta làm không đúng chứ mình rầy rà người ta chi hoài, cứ nhắc rồi rầy người ta chi. Thấy người ta làm sai thì một lần thôi, nói một lần thôi không nói nữa. Là một người tu khuyên một lần chứ không thể khuyên hai, ba lần. Phải không? Cho nên muốn tu hẳn hoi thì phải làm đúng những lời Thầy dạy, Thầy sẽ dẫn dắt sẽ tới nơi, tới chốn, nhất định là tới Tam Minh.
Các vị sẽ Lậu Tận Minh hoàn toàn, Thầy nói là chấm dứt tái sanh luân hồi mà. Thầy hứa là Thầy làm. Như hồi nãy tới giờ Thầy nói, từ cái chuyện nhỏ tới chuyện lớn, trong chính trị, trong cuộc sống của Thầy mà đối với một cái gì bất công là Thầy không chấp nhận. Thầy chống tới cùng, thà là Thầy chết. Thầy không đầu hàng trước mọi cái gì đâu.
(02:01:57) Thì rõ ràng là quý Thầy đã biết rằng, trong cái con đường mà tu hành Thầy là con người mà ý chí, nghị lực gan dạ vô cùng, cho nên Thầy mới làm chủ được Thầy. Thầy lên Hòn Sơn Thầy ở một mình Thầy không chơi với ai hết, nhất định là ở chín tháng ở trên Hòn Sơn. Có dịp mà chúng ta về Hòn Sơn chúng ta thăm lại cái Ma Thiên Lãnh, cái hang Ma Thiên Lãnh của Thầy ở, thì các thầy sẽ biết rằng, gọi là Ma Thiên Lãnh ở đó là ma lạnh không ở đó đó. Mà Thầy dám lên ở đó.
Thầy Minh Nghĩa, ông lên ở đó, chỉ có một đêm ngày là ông cuốn quần áo, cuốn gói đi xuống liền, không dám ở. Mà Thầy lên đó ở chín tháng, gần một năm. Thì đủ biết là Thầy con người như thế nào. Không có khuất phục, thiên nhiên không có khuất phục nữa. Thầy khuất phục thiên nhiên chứ Thầy không có đầu hàng thiên nhiên. Cho nên hoàn cảnh nào, mọi hoàn cảnh Thầy đều khuất phục chứ Thầy không đầu hàng cái hoàn cảnh đó.
Cho nên cuộc đời tu của Thầy, Thầy cũng chiến đấu tận cùng, nhất định là phải làm được, thà là chết chứ không đầu hàng. Đó thì ở đây Thầy muốn nói như vậy để làm gì, để cho sách tấn quý sư, quý thầy nỗ lực. Mình là học trò của Thầy phải làm như Thầy, phải có gan dạ. Nhất định là chết chứ nhất định là không đầu hàng trước mọi hoàn cảnh, tu hành cũng như vậy thì quý sư sẽ đạt được.
Còn nếu quý sư mà đầu hàng thì Thầy nói, nếu một cái người người ta đầu hàng rồi thì mình cũng chịu thôi chứ làm sao, người ta đầu giặc thì mình cũng chịu thôi chứ mình đâu có lôi họ nổi được. Bởi vì nhân quả mà. Cho nên cái người nào mà có gan dạ, lầm lì tu hành đúng cách lời Thầy dạy, mà làm đúng thì Thầy biết người đó là người gan dạ nhất.
Bởi vì cái tu hành này mà làm sai là Thầy biết người đó không gan dạ. Chẳng hạn Thầy bảo 5 hơi thở đi kinh hành một vòng, 5 hơi thở đi kinh hành một vòng, mà người nào mà gan dạ là họ làm Thầy thấy Thầy chấp nhận. Mà không gan dạ Thầy thấy họ làm một lát thì họ bỏ. Đó là Thầy thử thách họ từng chút, từng chút Thầy biết mà. Cho nên vì vậy người đó tin Thầy không, tin Thầy thì họ sẽ làm đúng y như lời Thầy không sai chút nào.
Trong năm ngày, ba ngày, tuần lễ Thầy thấy người này làm được, thì Thầy sẽ mon men đến thất đó, nghĩa là cái người mà làm đúng, cái người có nghị lực. Mật Hạnh như thế nào mà Thầy đã vào thất mà Thầy đã dẫn dắt nó. Tại vì nó là con người gan dạ. Buồn ngủ hôn trầm, bị buồn ngủ hôn trầm mà, mà nó dám lấy dầu trét mắt, Thầy nói, thằng này gan dạ. Phải dẫn dắt cho nó được. Nó chỉ có gan dạ thôi, chứ chưa có bền chí.
(02:04:36) Thầy khép chặt nó, chứ nó chưa có bền chí. Chớ nó mà gan dạ mà bền chí nữa thì Thầy bảo nhất định chết không bỏ. Thì nó gan dạ nó có, mà nó không bền chí, cho nên vì vậy thời gian tu ba năm nó không bền chí. Bây giờ nó bị bệnh nó phải bung ra. Chớ còn nó gan dạ mà còn bền chí nữa, nhất định ba năm chưa đủ, nỗ lực tận cùng thì chắc chắn là …
Đó là những cái mà Thầy nói, Thầy nhắc nhở chung ở đây, để cho quý thầy trên bước đường tu hành đến đây, là Thầy hứa danh dự với mọi người mà, nếu mà làm đúng Thầy sẽ dẫn tới nơi, tới chốn. Tới nơi, tới chốn quý thầy đủ khả năng quý thầy làm việc. Thầy không cần quý thầy hiểu mênh mông thế giới vũ trụ để làm gì. Mà Thầy chỉ cần quý thầy hiểu trên con đường để mà độ chúng sanh bằng con đường đạo đức nhân bản, nhân quả là đủ rồi.
Từ đó thì quý thầy sẽ rút ra được những bậc chân tu, mà dẫn dắt họ đi vào Thiền Định, Tam Minh. Con người có đạo đức rồi thì dẫn dắt họ sau này dễ lắm, nó có nhiều người. Còn bây giờ nó đang thiếu đạo đức, mà dẫn dắt nó vô đạo đức chưa được, mà dẫn dắt nó vô Tam Minh, vô Tứ Thiền, Tam Minh làm gì đây được. Không bao giờ được. Người ta đang tu thì người ta đang mong cái cao, thì đó là cái tâm tham. Mà cứ bảo họ, thả họ xuống thấp, xuống thấp, lo xả thôi, họ không chịu, họ muốn cái cao thôi, thì Thầy cũng đầu hàng thôi, tại vì cái tâm tham, quá tham.
Bởi vì nó phạt Thầy không được, bây giờ cái đầu Thầy nhức là cái nhân quả chứ gì. Thầy bảo không có nhức đầu, thì nó lui liền. Nhưng mà nhân quả nó nói với Thầy, Thầy đã gieo một cái nhân quả tại sao Thầy trốn? Bây giờ thí dụ cái bệnh ho của Thầy này, cái nhân quả này, Thầy bảo nó dứt nó dứt này. Nhưng mà cái luật nhân quả nó nói trong đầu Thầy, phải không? Thầy đã gieo cái nhân quả đó làm sao bây giờ Thầy lại trốn bệnh ho này.
Bệnh ho nó không hoành hành Thầy được, nó có hoành hành Thầy được đâu nó … Thầy bảo nó không ho, nó không dám ho đó. Nó sẽ phục hồi hoàn toàn nó không ho, nhưng mà cái luật nhân quả, Thầy đã thấy nó được mà, Thầy đã làm cái gì nó mới có cái này chứ khi không mà nó có cái này được sao. Đạo luật nhân quả mà.
Bởi vì mình là con người làm chủ nhân quả mình phải biết được cái đạo luật, mà biết được cái đạo luật mình trốn đạo luật là mình bất công. Quý sư có biết, thôi cho nên vì vậy Thầy làm chủ, nghĩa là Thầy không bây giờ mà có thể thành con trâu được hết. Thầy không bây giờ thành con trâu. Nghĩa là không có luật nhân quả nào bắt Thầy thành con trâu được hết. Nhưng mà Thầy là con người hiểu nhân quả thì Thầy phải đi thành con trâu.
(02:10:40) Cũng như bây giờ mình hiểu luật nhà nước, bây giờ mình ăn trộm thì mình phải ra trình công an là tui ăn trộm hay là tui giết người thì nhà nước bắt bỏ tù mình. Sau mấy tháng đủ rồi thì người ta thả mình ra, thì đó là mình tốt. Còn mà bây giờ mình trốn, mình tránh, mình bên đây, bên kia mình không ở tù tức là mình là người xấu đó. Mình phải hiểu luật pháp chứ.
Thì cái luật nhân quả làm một người tu như Thầy là phải hiểu luật nhân quả. Mà lại cầm cán cân của luật nhân quả nữa chứ không phải là nhân quả không. Cho nên Thầy muốn cân sao cũng được hết, nhưng mà Thầy là một người, đã là luật nhân quả thì tức là phải công bằng chứ không thể nào. Công bằng tự nơi Thầy nữa, chứ không phải là bây giờ Thầy cầm cán cân đó rồi Thầy cân Thầy, thì coi như là ngon lành công lý rồi này kia thì đâu có được. Thầy làm thứ tội lỗi gì Thầy phải trả hết chứ Thầy đâu có tránh đâu.
Thầy nói thật sự, khi mà mình hiểu được luật nhân quả rồi thì không bao giờ mình làm một cái điều ác. Mà vì các sư thấy, Thầy biết các sư về đây tu hành nó khó khăn lắm. Bởi vì thật sự ra trong cái kỷ luật của Phật, trong cái con đường tu này, Thầy biết các sư rất khó. Nhưng mà vì ức chế ép mình vô tu, ham tu. Chứ còn nếu mà Thầy biết các sư đều là có đủ một cái duyên mà tu mà giải thoát, thì vô đây quý sư sẽ sống đúng không có cái gì mà sai lời Thầy dạy hết, thì ngay đó …
Nhưng mà Thầy đã biết, tại sao Thầy nhận thì như hồi nãy Thầy nói. Không thể nào từ chối trước một cái nhân quả, người đó có cái duyên với mình. Mặc dù biết người đó họ tu không chứng, nhưng mà vẫn phải thương yêu, rồi tạo cho họ cách thức họ tu làm sao cho đúng để mà dẫn dắt họ đi tới nơi. Kiếp này không xong thì kiếp sau họ cũng xong, nhưng mà điều kiện tốt nhất là làm sao giải quyết cho họ kiếp này.
(02:12:41) Nhưng mà các sư biết làm sao giải quyết trong kiếp này. Nếu mà không có thầy Thông Vân, Thầy không nói gì. Có thầy Thông Vân xảy ra Thầy nói. Đây là một cái duyên tốt, nói để cho huynh đệ, để cho quý thầy, quý sư sửa lại cho tốt. Rồi bây giờ nếu mà điều kiện các sư, các thầy sống mà không sửa, Thầy cũng phải chịu thôi. Rồi trong trường hợp nào có cái duyên đến, Thầy sẽ nhắc lại một lần nữa.
Còn không có thì thôi, rồi mai mốt nếu mà không có mai mốt các thầy tu không tới đâu thì các thầy sẽ ra đi thôi. Thầy tin chắc là phải ra đi thôi vì không có kết quả thì phải ra đi. Bởi vì mình tu hoài mà không thấy kết quả. Mà mình tu riết rồi cái tâm của mình nó sẽ phát khởi ra những cái niệm, nó nói pháp này tu không được, pháp này sao sao sao, tự nó lụm, rồi mình sẽ rớt. Thì Thầy tin rằng, sớm muộn rồi mà tu sai rồi thì cũng phải ra đi thôi, không có thể nào mà sống bên Thầy được. Đó là một cái nhìn nhận.
Cho nên vì vậy mà nó có cái duyên như vậy để Thầy nhắc nhở, nhắc nhở để cho mình thực hiện cho đúng. Mà khi mà đúng rồi thì, nó ly dục ly ác pháp từng giây, từng phút mình sẽ được giải thoát. Cho nên trên cái sự tu tập, cố gắng nhớ những lời Thầy dạy.
(02:14:00) Thầy nguyện nhất định đem hết cuộc đời của mình, như vừa nãy Thầy nói, Thầy như một chiếc bè đã mục rồi, mà bây giờ chất chồng chất chở như thế này, thì cái bè nó sẽ dễ mau chìm, chớ không phải gì, mà ráng tu. Người nào ráng tu, Thầy nói thật sự ráng tu đúng, Thầy không bao giờ Thầy ngồi Thầy viết sách nữa.
Nghĩa là mà tu đúng rồi, trong một số quý sư, quý thầy đây thôi, mà tu đúng rồi, đúng lời Thầy dạy rồi, Thầy không bây giờ Thầy viết sách nữa. Ai hỏi Thầy thì Thầy viết vài ba chữ Thầy trả lời họ rồi Thầy đưa, chứ Thầy không giải thích dài dòng đâu. Thầy không nói nhiều dâu. Mà Thầy chăm sóc quý sư, quý thầy, để thắp lại ngọn đèn của Phật pháp. Còn quý sư, quý thầy mà tu vậy Thầy phải viết kinh sách. Tại sao?
Tại vì Thầy phải viết cái đạo đức con người. Dù như thế nào ít ra con người cũng phải có một cái đạo đức, còn không biết cái đạo đức thì làm sao được. Nhưng trước khi có đạo đức phải phá đi những cái mê tín, những cái sai những cái phi đạo đức của xã hội đang có. Cho nên kinh sách Thầy tại sao mà 4 tập mà đạo đức nhân bản, nhân quả mà Thầy không viết trước. Lẽ ra Thầy phải viết trước chứ gì.
Không, bởi vì đạo đức nhân quả nó là cái đạo lực công bằng, mà bây giờ xã hội nó không công bằng, nó không công bằng trong những cái thế giới siêu hình tưởng của người ta đẻ ra cái thế giới này, nó không công bằng, nó đẻ ra. Bao nhiêu tôn giáo đẻ ra những cái thế giới này, những cái sự việc này nó làm cho không công bằng của cái đạo đức, của nhân quả.
Mà bây giờ không phá vỡ, từ cái thần thông cho đến cái thế giới siêu hình, mà không phá vỡ những cái này, thì cái đạo đức mà nhân bản, nhân quả này ra đời không thể nào được, không thể tồn tại được. Buộc lòng Thầy phá sạch những cái này, đập sạch những cái này xuống, thì cái đạo đức này nó mới xây dựng cho con người có cái đạo đức, người ta không còn dựa lưng ở đâu để mà làm những cái chuyện phi đạo đức.
Còn bây giờ có cái thế giới siêu hình, họ dựa lưng vào thánh thần họ làm điều phi đạo đức. Họ cầu khẩn một cách phi đạo đức, họ làm ác họ không sợ vì có thánh thần phù hộ họ. Cho nên phải đập sạch cái thế giới siêu hình này đi, từ đó cái đạo đức nó mới ra đời, đó là cái điều kiện mà Thầy làm.
(02:16:20) Cho nên Thầy thấy các sư, các thầy mà tu hành sai, không có đúng thì Thầy quan sát lắm chứ, người nào mà đến đây tu Thầy cũng nhìn ngó hết chứ. Cho nên Thầy tập trung Thầy dồn vào cái chuyện là kinh sách để mà phá cái thế giới siêu hình, rồi đưa ra cái nên đạo đức. Rồi sau khi cái nền đạo đức xong thì Thầy đi. Thì như vậy dù sao đi nữa nó cũng là một tiếng chuông cảnh tỉnh ở trong cái thế gian này.
Còn quý sư, quý thầy mà tu đúng thầy không cần viết, mà thầy lo thầy hướng dẫn các sư. Các sư, các thầy sau này sẽ thay thế Thầy mà viết cái này. Bởi vì các sư, các thầy sẽ tu chứng đạo rồi, đã thấy rồi cũng như Thầy thấy rồi, thì cái nhiệm vụ ở đây không phải là Thầy là một người có tài viết sách kinh đâu, Thầy là người vô tài viết kinh sách.
Cho nên ngày xưa mà thầy Thông Huyễn tức là thầy Chân Quang đó, thì về đây là Thầy thấy có cái khả năng, có cái tài viết lách. Còn Thầy biết Thầy không phải con người có cái tài viết, làm thơ văn Thầy không có tài. Về cây bút Thầy không có tài viết nó đâu. Nhưng mà vì không có người Thầy mới viết thôi. Chứ còn thật sự ra nếu mà có người thì Thầy sẽ truyền cái hiểu biết của mình qua cái người đó để cho họ mượn cái cây bút họ làm.
Cho nên cái sự tu hành, mà quý thầy tu đúng thì Thầy biết rằng đạo đức nhân bản ngày mai nó sẽ còn. Là do quý thầy, trong quý thầy có nhiều người có tài viết lách. Nhưng mà khi tu xong rồi quý thầy viết rất hay. Còn Thầy không có tài năng về cái vấn đề viết lách đâu. Thầy viết được cái thế giới siêu hình như thế nào mà các thầy đọc kinh sách Thầy, nói rất nhiều cái thế giới siêu hình, mà người ta không hiểu nổi nữa.
Thế mà Thầy dùng đủ cái ngôn từ, đủ cái từ để mà diễn tả. Thật sự ra cái trí hữu hạn của con người rất khó hiểu về vấn đề, nhưng Thầy cố gắng. Mặc dù nó mường tượng một chút xíu để mà họ nhận ra cho được. Cho nên vì vậy mà thầy quyết định là Thầy sẽ đập phá thế giới siêu hình thật sạch, và những cái thần thông này thật sạch.
(02:18:49) Cho nên vì vậy mà hễ mỗi chút, thí dụ như thầy Thông Vân mà thầy bệnh như vậy, Thầy dùng cái nội lực của Thầy mà Thầy trị bệnh cho thầy Thông Vân thì hết ngay liền chứ không phải không hết đâu. Nhưng mà trái với cái luật nhân quả, không đúng cách. Làm như vậy để lòe cái thần thông của mình đối với người ta.
Bây giờ nó nhẹ nhàng thì hóa giải giúp dùm, mà nó nặng thì mình cứ giải quyết theo cái nhân quả của nó, chứ không có gì. Mà may là còn sớm chứ chưa có đến nỗi quá tệ. Chứ còn nếu mà để chừng đôi ba ngày, thì nó sẽ quá tệ. Bởi vì càng trễ thì nó lại, nó gây cái ảnh hưởng trong cái thần kinh, nó thành cái nếp quen, cho nên bây giờ nó khó mà có thể giải trừ ra. Còn nó sớm chừng nào tốt chừng ấy.
Khi mà một người người ta vừa rối loạn thì mình phục hồi, mà dùng cái nội lực của mình nó giải quyết rất dễ. Như hồi nãy Thầy nói, cỡ sức mà Thầy không có giải quyết cho thầy Thông Vân, thì hôm nay chưa tỉnh, còn điên. Thuốc thang nó rất khó chứ không phải dễ đối với thần kinh thì, chớ không phải dễ. Cho nên vì vậy mà các sư, các thầy lấy cái gương đó mà ráng mà tu.
Chừng nào mà Thầy thấy được trong chúng này tu đúng thì bữa nay mà Thầy đi thất này, ngày mai Thầy đi thất khác Thầy thăm viếng các sư Thầy đi lại đó, Thầy không lo viết kinh sách nữa là Thầy dẫn các sư, các thầy đi tới nơi, tới chốn. Cho nên phải ráng mà tu tập. Còn nếu mà thấy mình tu không nổi thì các sư, các thầy xin Thầy về: “Bây giờ con thấy cái khả năng của con chưa được, con phải về một thời gian chừng nào con thấy được, con sẽ lại”.
(02:20:48) Vậy là Thầy cũng đỡ, mà các sư, các thầy cũng đỡ là vì mình không có nợ đàn na thí chủ. Cái gì mình phải thành thật với mình, để mình biết được mình, rồi ngày nào đó có duyên thầy trò sẽ gặp nhau, nỗ lực. Bây giờ con thấy bây giờ, cái tình cảm của con nó đoạn dứt được, nó không bị ức chế. Hoặc là cái hoàn cảnh của con bây giờ nó bị ức chế, bây giờ trở lại xin Thầy giúp con. Con sẽ tu đúng những lời Thầy dạy.
Còn bây giờ tình cảm của con như vậy, nó tu chưa có được. Bây giờ ngồi lại yên lặng một mình, con không nói chuyện với ai hết, thì bắt đầu nó cứ bật ra. Hoặc là cái thân con nó sinh ra bệnh này, bệnh kia, nó làm con không có ngồi yên được, mà cái sức chịu đựng của con bây giờ nó chưa có đủ sức. Xin Thầy cho con ra một thời gian, rồi con sống mọi mặt đó rồi con quán xét, cho đến khi nào con thấy được con sẽ trở lại, thì trở vào xin Thầy giúp đỡ cho con đi đến nơi, đến chốn, thì Thầy sẵn sàng mà nó không mất thì giờ.
(02:22:01) Còn không mấy quý sư ở đây sống nó khổ, mà rốt cuộc rồi nó không có giải quyết được gì. Mục đích của Thầy ở đây là mong quý thầy vô tu không, người nào cũng vậy, nghĩa là càng tu bấy nhiêu. Thí dụ như, tại sao chú Nhu mà Thầy giao cho chú Nhu trong một buổi sáng, trong buổi trưa ăn cơm rồi chú đi photo Thầy mấy tờ. Mọi lần thì Thầy để nhiều, nhưng mà Thầy thấy để nhiều thì chú phải photo hết nhiều mất thì giờ. Và đồng thời cái sự tu của chú cần, chú giúp Thầy chỉ chốc.
Còn tại sao sư Phước Nhẫn, mà thầy không giao? Là tại vì Thầy định Thầy gặp sư Phước Nhẫn, Thầy hóa giải cho một số điều kiện để giúp cho sư. Rồi bắt đầu từ đó Thầy sẽ giao cho sư Phước Nhẫn nhưng cái gì. Nhưng mà cái việc làm đó, Thầy khi mà Thầy nghĩ rằng cái máy của bác sĩ Trí, cái máy photo cuả bác sĩ Trí được phục hồi lại, nó chạy tốt được, thì thầy sẽ gặp sư Phước Nhẫn, Thầy bàn sắp xếp công việc.
Nhưng cái máy chưa có phục hồi lại được, vì bị hư, chưa phục hồi lại được. Cho nên nó còn có cái máy đó, nhỏ, cho nên thầy mới giao cho chú Nhu. Buổi trưa chú ăn cơm rồi, thì thay vì chú đi kinh hành chú phá cái ngủ của chú, chú không ngủ, thì Thầy giao chú photo để chú không có buồn ngủ, nó dễ hơn là cái đi kinh hành.
Mình làm công việc bắt buộc mình phải tập trung vào công việc, thì coi như là cố gắng làm công việc đó để cho nó hoàn chỉnh được cái nhiệm vụ Thầy giao, thì nó làm cho tâm mình nó thanh thản, và trong khi mình trở về mình tu mình thấy nó nhẹ nhàng hơn, là trong khi đó mình nghỉ, thay vì mình nghỉ thì mình lại đi kinh hành, mình không ngủ trưa mình đi kinh hành thì có cái sự tập trung tu trong đó.
Còn bây giờ, Thầy giao chú Nhu, chú tập trung trong việc làm thì cái sự tu của chú xả ra được, chú tập trung trong việc làm. Cho nên tập trung việc làm rồi coi như là nghỉ ngơi đó, nghỉ ngơi cái việc tu. Cho nên vì vậy mà trở lại tu, thì nghe nó dễ chịu, dễ dàng hơn. Đó là cách thức mà Thầy dạy cho chú Nhu. Thì ở đây, cái người nào mà Thầy thấy trợ giúp ở cái góc độ nào Thầy trợ giúp cho, tùy theo cái khả năng. Thì Thầy cũng lượng theo cái sức của các sư, các thầy.
(02:24:26) Còn sư Phước Nhẫn thì Thầy rất thương sư, cho nên Thầy nghĩ rằng, cái thời gian này Thầy thấy sư ốm ốm, mà gầy, chút chút vậy. Nhưng mà Thầy nói để hôm nào Thầy đến Thầy thăm coi cái sức khỏe ra sao. Vì từ hôm đó tới nay thì nhờ bác sĩ Trí giúp đỡ sư, mà còn biết cái cơ thể của sư như thế nào. Người sư thì nó đã có bệnh sẵn rồi chứ không phải là không bệnh. Nhưng mà nhờ một cái tinh thần quyết tu đó, cho nên mặc dù là có bị động nhưng nó vẫn có cái sự cố gắng của nó. Thì Thầy cũng rất đáng thương Thầy sẽ giúp đỡ.
Còn sư Từ, thì Thầy thấy sư cũng quyết tu lắm, nhưng mà có cái điều kiện, là chưa có thuận tiện để mà giúp. Cho nên hôm nay nhân cái dịp này, thì Thầy nói chung chung để cho các sư ráng cố gắng. Còn sư Thiện thì mới vào đây, cho nên những cái sai mà ở trong này, thì hôm nay sư Thiện có cái duyên về đây được nghe những cái buổi này. Cho nên vì vậy những cái mà có thể thưa hỏi Thầy cặn kẽ hơn, để sau khi mà bắt tay vào tu, thì sư Thiện sẽ tu đúng cách.
Và cuối cùng thì, các thầy, các sư ở phía sau, khi được ở trong này, thì sau cái thời gian trong cái buổi hôm nay mà nghe Thầy nói chuyện, thì sau đó về chúng ta phải chuẩn bị lại tu tập đúng cách. Cái gì không hiểu thì hãy thưa hỏi. Mình đi tìm về mục đích giải thoát, đi tìm về mục đích ly dục ly ác pháp, chứ không phải đi tìm về cái sự hiểu biết nữa, mà đi tìm cái sự giải thoát, làm chủ sinh, già, bệnh, chết.
(02:26:27) Thì các sư, các thầy hãy cần hỏi, thưa hỏi kỹ, cách thức tu như thế nào, thế nào, để cho nó rõ ràng, cụ thể. Bây giờ phải tu cái gì, mà tu trong thời gian này mấy ngày, tu cái pháp này bao lâu. Phải không? Để cho Thầy xác định cho cái sự tu đó. Nếu mà sự tu đó trong thời gian 7 ngày chưa xong, thì Thầy sẽ xác định thêm cho cái thời gian tu, rồi tu tập trong thời gian nữa mà chưa xong, Thầy sẽ cho thêm thời gian nữa. Chừng nào nó sung mãn được cái pháp hành đó, xong rồi thì Thầy dạy tiếp tục. Có hiểu vậy không?
Bởi vì mình chưa có sung mãn nó, mình chưa có đầy đủ nó, mình tiến tu qua, mình đừng có nghĩ mình đầy đủ. Chỉ có Thầy xác định đầy đủ hay là không đầy đủ mà thôi. Giờ Thầy nói bây giờ chưa được, tiếp tục tu cái này thêm, phải không? Phải tập cho đúng như vậy vậy, phải làm sao, đi kinh hành như thế nào, làm sao, ráng cố gắng mà tập.
(02:27:20) Trong sự tu tập nó phải có vất vả chứ, nó có mệt nhọc chứ, nhưng mà trong cái mệt nhọc đó mình xét qua cái tâm của mình, nó thanh thản, an lạc, vô sự. Chứ không phải là trong cái mệt nhọc, cũng như mình bây giờ mình lao động, mình làm, mình cấy một đám lúa, nhưng mà trong cái đám lúa nó sẽ đem lại cái quả giải thoát cho mình, mình thấy tâm hồn mình an vui, mình thấy vui.
Cực khổ thật sự, chăm sóc một cái đám, từ bắt đầu cày cấy cho đến khi mà gieo cây lúa xuống, luôn luôn lúc nào cây lúa nó cũng tốt tươi cho đến trổ bông trổ trái, thấy đầy đủ… Là cái niềm vui ở trong lòng của mình chứ, hỷ lạc như vậy, chứ tu đâu phải là sung sướng đâu. Cho nên nó cực khổ lắm, nhưng mà cực khổ, cũng như một nhà nông người ta trồng tỉa, người ta rất cực khổ, nhưng mà cực khổ mà cái kết quả người ta thấy, bông trái người ta thấy, cái cây nó lên tươi tốt.
(02:28:13) Còn cái này, mình cực khổ mà cây cứ èo uột hoài, nó vàng khè, nó không lên, thì cái ông nhà nông này ông cũng bất mãn, ông cũng buồn nữa. Và đồng thời tới chừng ra bông ra trái mà không ra gì hết, thì nó quá đau khổ rồi. Phải không? Còn cái này mình chăm sóc, mình tu tập nó cực khổ, mà nó kết quả mình thấy, từ đó cái lòng vui mừng của mình, nó phải rõ được cái điều này.
Cho nên cái kết quả đó là cái niềm tin của quý thầy ở Thầy. Còn nếu mà không kết quả, như một nhà nông mà cấy cây lúa xuống, mà nó cứ … phèn hoài nó không có ra lá thêm nữa, cái bụi không nở nữa thì thôi rồi, cái bông lúa này chắc tiêu rồi. Thì như vậy làm sao mình tin được. Cho nên ở đây tu hành thì phải thấy được kết quả, mà thấy được kết quả là thấy được từng cái cây lúa cấy xuống nó phát triển, nó xanh tốt, nó nở bụi lớn dần dần.
Mỗi ngày đi ra mình thấy cái bụi lúa của mình, mình thấy nó mát ruột, mát gan. Phải không? Thì đó là cái kết quả của nó, cho nên đến khi nó ra bông ra trái. Thì như vậy, quý thầy phải cần phải tu tập, sau một thời gian tu tập phải thưa hỏi, đừng lầm lỗi. Mà nếu mà lầm lỗi, thì tức là cái kết quả của quý thầy do cái sự lỗi mà nó không kết quả chứ gì.
Thay vì mình nhổ cỏ, mình không nhổ cỏ, mình để cỏ rác nó mọc đầy bụi lúa, rồi bảo cây lúa nó phải tốt lên sao được? Phải không? Mình chăm sóc mình nhổ cỏ sạch sẽ, mà giờ cây lúa nó không lên, thì mình phải hỏi Thầy, tại sao mà con cũng chăm sóc kỹ lưỡng mà tại sao cây lúa nó không lên? Thầy mới tìm được cái bệnh của nó Thầy chỉ cho. Như vậy rõ ràng là mình tu đúng rồi chứ gì, mà tại sao mà thấy không kết quả gì, thì Thầy sẽ chỉ cho.
Còn bây giờ mà tu không đúng, thì tức là mình để cỏ nó phủ trùm cây lúa rồi. Cho nên trên cái sự mà thưa hỏi, là có một vị tu xong, là các vị có phước rất lớn. Cho nên khi đó các vị hỏi như thế nào người ta cũng giải quyết được cho các vị tu để mà có kết quả. Mà các vị tu mà không có kết quả thì các vị chịu chết đó. Cho nên coi như là dậm chân tại chỗ. Nó không phải đâu, đạo Phật là có kết quả ngay liền trên cái sự tu tập của mình.
(02:30:18) Một nhà nông mà họ cấy cây lúa xuống, ngày nay họ ra họ thăm ruộng, họ thấy cây lúa xanh tươi tốt, ngày mai họ thấy nó lên được một tấc, thì họ mừng quá, họ thấy bụi lúa càng ngày càng tốt, họ phấn khởi lắm, họ siêng năng họ nhổ cỏ, họ siêng năng họ tưới nước, để cho cây lúa nó tốt. Còn bây giờ cây lúa èo ọt quá riết lười biếng. Có phải không. Mình tu cũng vậy. Thấy kết quả không có, là riết mình lười biếng, hết muốn tu.
Còn không thì thôi, mình thấy tu không nổi không vô, mình tu sau thời gian đó mình thấy, trời thật khó thiệt chứ không phải chơi.
Đó như sư Vinh hôm đó, sư đến nói Thầy, trời ơi pháp của Thầy coi vậy chứ nó khó chứ không phải dễ đâu, con bây giờ chưa chắc, chưa tu nổi đâu. Thì ông sư Vinh ông thành thật, ông nói với Thầy vậy mà, Thầy thấy đúng đó. Thấy coi vậy chứ xả cái tâm cũng khó quá chứ đâu phải dễ đâu.
Cho nên ông nói, ngồi ở trong thất của mình, coi vậy chứ nó cô đơn nó khó lắm, nó chịu không nổi. Con thấy khó, chớ không phải dễ đâu. Không biết ai thì sao chứ con thấy khó quá, chừng nào con thấy mà tu được con mới dám xin Thầy con ở tu. Bây giờ thì con đưa các sư về thăm Thầy, con thấy cái pháp của Thầy rất tuyệt rất hay, nhưng mà con còn chưa tới. Đó, ông thành thật ông nói.
Thầy nói thật sự, Đức Phật có nói năm cái điều kiện, trong cái bài Kinh Bồ đề Vương tử, quý thầy đọc thấy rõ ràng 5 cái trong bài kinh, phải thành thật mà, phải thành thật. Cái thành thật là một trong năm cái điều kiện. Thân thể phải mạnh khỏe là một điều kiện, phải có trí tuệ, rồi phải không có bệnh tật, phải thành thật, phải không? Do những cái điều kiện đó thì các sư mà không có bệnh tật là cái mừng nhất, cái cơ thể không bệnh tật làm mừng nhất.
Cái thứ hai là thành thật, cái thứ ba thông minh. Đó là những cái mà chúng ta cần phải có những cái điều kiện như vậy. Như vậy, thì muốn thông minh đâu phải ai cũng hiểu biết đâu. Bây giờ, hôm nay mình hiểu nó vậy, nó sai như thế nào mà mình tu không đúng đây, mình hỏi lại Thầy, Thầy nhắc nhở một lần, hai lần thì mình hiểu ra, à là như vậy mình sai.
Cũng như từ hồi nào tới giờ, thì như quý sư, quý thầy nói, người ta nói tỉnh thức hay là tỉnh giác ở trong hành động chứ gì. Người ta đâu có nghĩ rằng là tỉnh giác ở trong cái niệm tham, sân, si. Mà người ta cứ nghĩ rằng tỉnh giác ở trong cái hành động đi, đứng, nằm, ngồi. Mà không ngờ là người ta nương cái hành động, trong cái hành động đi, đứng, nằm, ngồi, nói nín của chúng ta đó, là thân hành, khẩu hành, ý hành chứ gì.
(02:32:48) Thì thân hành, khẩu hành, ý hành chúng ta, thì nó tham, sân, si ở trong này chứ gì, phải không? Chúng ta nói ra lời nói nó có ác, có thiện, có tham, có sân, có si trong này chứ gì. Do vì vậy mở miệng nói, do vậy đi nó cũng có ý nghĩa của cái sự đi này chớ. Thì do đó chúng ta xét qua cái tham, sân ,si này, thì nó có nghĩa, chớ không phải biết cái đi không là có nghĩa. Từ lâu tới giờ chúng ta hiểu như vậy là chúng ta hiểu sai.
Bây giờ do sự hỏi thì chúng ta mới hiểu đúng, hiểu đúng bây giờ chúng ta thấy, à như vậy là, mình hiểu đúng cái tâm mình hết tham, sân, si. Phải không? Cho nên vì vậy mình thấy kết quả rồi, thì cái cây lúa của mình bây giờ nó lên tốt rồi, nó hết tham, sân, si là nó thanh thản, an lạc. Mỗi lần mình tu mình đi kinh hành này rồi kia mà sao nó còn phóng dật ghê gớm quá ta. Mình thấy nó hở ra cái nó phóng dật.
Còn cái này mình thấy mình xả tâm tham, sân, si rồi, bây giờ hở ra ngồi chơi nó không phóng dật. Đó như vậy rõ ràng là có kết quả rồi. Bắt đầu mình nhìn cây lúa này thấy phấn khởi rồi, đó sắp sửa nó có bông trái rồi. Phải không? Thấy nó ham tu rồi. Còn không thì nó không ham tu đâu, nó lần lượt nó không tinh tấn nữa.
(02:33:55) Đó hôm nay thầy nói hết, ở đây quý thầy chúng ta đường xá xa xôi từ những nơi, các tỉnh về đây chứ không phải ở Tây Ninh này không đâu. Cho nên chúng ta phải nỗ lực tận cùng mà tu tập. Đã bỏ quê hương xứ sở, bỏ dòng họ, bỏ tất cả những người thân thương của mình, mình đến đây mình tu, thì phải tu cho được, để ngày mai mình về mình gặp họ nói, tôi đã làm được.
Thế ngày mai đó họ hỏi, thưa sư, thưa thầy tu ra sao, nói cho con biết. Trời ơi tu không được, khó quá. Mình nghe nói vậy mình thấy cũng nhụt chí rồi đó. Trời đất ơi đàn ông mà sao thua vậy. Bà Triệu Ẩu bà nói, cưỡi cá kình không làm thê thiếp, thế mà mình có cưỡi cá kình nổi không. Mình là đàn ông nhất định phải cưỡi cá kình, chẳng đầu hàng, chẳng làm thê thiếp ai hết. Như vậy mới là con cháu của Triệu Ẩu, Trưng Vương chớ.
(02:34:53) Mình thuộc về dòng giống Lạc Hồng rồi không có chịu thua ai đâu, Thầy nói thật sự mà. Nghĩa là người tu, người Việt Nam mà tu, cũng tu hơn người ngoại quốc, không có thua người nào hết. Thầy nói thật sự, Thầy tu rồi Thầy biết là người Việt Nam, thiệt đúng là cái người Việt Nam quá gan dạ, không thua người ngoại quốc. Tây nó tu vậy chứ nó không tu bằng mình đâu. Cho nó ăn một bữa là nó xách gói nó chạy.
Còn cái người Việt Nam mình ăn một bữa chứ chịu đựng nổi đó. Thật sự mà. Sáng mà không cho nó uống ly sữa là nó thấy nó tu hết thấu. Còn cái dân Việt Nam này gan lắm, nhất định là bây giờ cho ăn cái gì cũng ăn. Thầy nói thật sự các sư nghĩ, Thầy ăn rau lang luộc, mà với muối hoặc là với nước tương, mà sống cả 5 năm, 10 năm. Chẳng hề thèm đến đậu hũ gì hết, mà dám ăn dám sống.
Còn lên trên Hòn Sơn Thầy ăn toàn rau không, không ăn cơm mà Thầy sống nổi. Thầy nói không sợ chết mà, chết bỏ mà. Nhất định con bò, con trâu nó ăn còn sống, không lẽ cái thân mình ăn không sống sao. Nhất định. Nó bắt đầu nó vô ăn thì nó cũng xót ruột, nó cũng khó chịu lắm, nó làm cũng mệt nhọc lắm chứ đâu phải không. Nhưng kệ, con bò nó còn sống, con trâu nó còn sống nó còn cày nổi, mà mình con người ăn không sống sao. Tại mình không tập, nó không quen thôi.
Thầy lý luận như vậy, cứ ăn, bứt vô rửa ăn với muối không cần gì hết. Cho nên ở trên Hòn Sơn khỏi đi xuống núi, trời ơi xuống núi cực lắm. Xuống dưới rồi mới đeo một cái bao gạo 5,10 ký lô lên trên núi ăn rồi hết, xuống. Trời đất ơi, nội cái ăn thôi mà lên trên núi thấy khổ. Cho nên lên trên đó, Thầy dựa vào hai hòn đá mà nó có có cái mạch nước, thì ở trên đó nó nhờ mạch nước nó sống.
Thầy lấy cái nước đó Thầy làm cái đồng bương, Thầy trồng 3 cái rau, xuống dưới xin rau đem về trồng. Thầy trồng xà lách xoong, Thầy ở đó, Thầy ăn ba cái đó không, Thầy sống. Đúng là, cứ tới trưa ra Thầy cắt một rổ vậy, Thầy rửa sạch, Thầy ăn để sống. Bây giờ, trời! Ăn được rồi, sống rồi, Thầy nói, mình có làm cái gì đâu mà sợ mất sức, cho nên ăn sống để tu thôi, thành ra nó giải thoát hoàn toàn.
(02:36:52) Cắt rửa rồi cái vô chấm muối ăn ngấu nghiến, ăn như con bò ăn vậy thôi. Thầy nói thật sự ra đi cầu cũng như con bò mà đi cầu không khác gì hết. Nghĩa là bây giờ nó không có phân như mình ăn cơm đâu, nó y như con bò vậy. Đó, mà nó sạch sẽ, cái thân nó nhẹ nhàng, ăn rau nó nhẹ nhàng. Cho nên bây giờ mà rau mà cỡ cả rổ vậy là Thầy ăn hết mà. Ăn nhai mấy miếng hết.
Thầy nói thật sự ra đời sống của Thầy là đời sống cũng kinh lắm, chứ không phải đời sống thường đâu. Thầy đã sống rau được là như con bò vậy đó. Thầy tập cái ruột Thầy như con bò rồi. Con bò nó ăn vô rồi bắt đầu nó ngồi nó nhai, còn Thầy ăn rau Thầy nhai cho nhuyễn thì nhuyễn có một lần thôi. Cũng như con bò nhai nhuyễn, con bò thì nó nhai hai lần, còn Thầy nhai có một lần, nhai thật nhuyễn.
Thầy ăn từ từ, dần dần chẳng có ăn lẹ, rất nhuyễn, mà rau cải xoong thì nó cũng dễ ăn lắm, nhai dễ chứ nó không có dai. Thầy sống được, Thầy sống mấy tháng trời ở trên đó rồi Thầy mới xuống núi. Nghĩa là Thầy sống ở trên đó, mà Thầy sống tự do ở trên đó không ra. Cho nên về đây mà nói cái chuyện mà nhà nước bắt gạo là Thầy không sợ đâu. Cho nên Thầy hoàn toàn là Thầy chiến đấu mà Thầy thắng, Thầy không thua ai hết.
Vì vậy đó, đủ biết rằng, Thầy nói là người Việt Nam chúng ta mạnh mẽ lắm, không có thua ai hết. Và đồng thời người Việt Nam, Thầy thấy dám ăn, dám nói thật, không sợ ai hết. Trong khi Thầy chỉ có một mình, mà cả một khối Đại Thừa Thầy dám thẳng tay nói, không đầu hàng, không sợ người nào hết. Giỏi họ có giết Thầy thì giết chứ không sợ ai hết.
(02:38:24) Thầy nói thật sự, bây giờ ai nói gì Thầy thì nói, kệ họ. Đây là lời Phật dạy, Thầy cứ nói lời Phật dạy chứ thật sự đây là kinh sách của Phật chứ không phải của Thầy, Thầy không sợ. Hễ bài bác Thầy tức là bài bác Ông Phật Thích Ca. Mà lật đổ Ông Thích Ca thì chỉ có đưa ông Phật Di Lặc lên thì Thầy cũng chịu cáo chung như ông Phật Thích Ca thôi. Nghĩa là lật đổ Ông Phật Thích Ca là lật đổ Thầy. Đó, còn nếu mà bây giờ mà còn nói thờ Phật Thích Ca thì chắc chắn là còn thờ Thầy. Thầy không có thua ai hết.
Thầy mong Thầy nói như vậy không có nghĩa là Thầy khoe Thầy, mà Thầy nói như vậy để sách tấn quý thầy phải làm y như Thầy, mạnh mẽ, phải cương quyết, phải thẳng thắn, không có sợ ai hết. Nỗ lực tu phải giải thoát. Cuộc đời của mình, mình là con tiên, cháu rồng, mình là giống dòng của dân tộc Việt Nam thì phải làm sáng tỏ cho nhân dân ta.
Thầy nói thật sự không có một nước nào mà có đạo đức nhân bản, nhân quả này hết, chỉ có Việt Nam này sẽ có. Chỉ có người Việt Nam này sẽ có một cái nền đạo đức nhân bản cho loài người. Thì đủ biết rằng cái mục đích của Thầy tu để làm lợi ích cho con người chứ không phải là tu để làm lợi ích cho riêng cá nhân Thầy.
Cho nên Thầy ra đi là một cách dễ dàng, Thầy tự tại ra đi một cách dễ dàng, nhưng vì con người còn đau khổ, cho nên Thầy chưa đi. Vì vậy Thầy mượn thầy Thanh Từ, để mà tiếng nói của thầy Thanh Từ từ đó nó mới có những người đến. Chứ còn Thầy bây giờ Thầy tu rồi, bây giờ Thầy có nói có ai tin Thầy đâu. Mà thầy Từ nói họ tin. Có phải không? Thầy lên thầy xin thầy Từ nhập diệt hẳn hoi, thầy Từ chấp nhận Thầy nhập diệt liền. Mà thầy Từ không chấp nhận, thì cái duyên với chúng sanh nó còn cái đạo đức ra đời, thì tức là nương vào thầy Từ mà có thể, dù là cực khổ nhưng mà có thể là phát triển được đạo.
Đó cho nên bây giờ mà các sư mà biết được là do tiếng nói của Hòa Thượng. Khi mà Thầy lên đó rồi Hoà Thượng về Thường Chiếu Hòa Thượng tập trung các Chiếu, mà giờ ở các Chiếu đều là biết mà, kêu gọi các Chiếu phải tổ chức một vị trụ trì ở đó đi đến đây mời Thầy về dưới. Thầy Từ bảo đó. Cho nên các Chiếu nào là Viên Chiếu, Huệ Chiếu, Phổ Chiếu, rồi Linh Chiếu rồi Thường Chiếu tập trung mọi Chiếu về đây, mướn một cái xe lam về đây gặp Thầy, xin mời Thầy về ngoài đó để cho huynh đệ gặp.
(02:40:44) Sau khi gặp rồi, rồi thầy Từ còn tuyên bố với Phật tử, là là trong chúng của Hòa Thượng có người tu chứng A La Hán. Đó thì rõ ràng là Thầy tạo một cái duyên để cho người ta biết Thầy thôi, để rồi từ đó Thầy đem một cái nền đạo đức, Thầy đem cái Thiền Định của đạo Phật chấn hưng lại nó, thì hôm nay nhờ cái duyên đó thì quý sư, quý thầy mới mới gặp được Thầy. Mà gặp được Thầy thì phải nỗ lực, phải là anh hùng.
Cho nên những ngày này Thầy đem cái gương hạnh của Thầy mà Thầy nhắc nhở, ăn rau mà sống, thì đủ biết là con người gan dạ như thế nào rồi, đâu có ít. Rồi kế đó, sống ở trong cái thời gian chiến tranh bom đạn, bắn như vậy vẫn ngồi sừng sững như trồng, chẳng sợ ai, chẳng hề sợ hãi. Cái đó là cũng làm những cái gương hạnh để chúng ta tu học, chúng ta nhất định là không sợ chết.
Đó là những cái gương hạnh, mà Thầy nêu ra đây để chúng ta thấy những cái gương hạnh mà trong cái thời đại này khó có người làm được. Vậy thì các sư, các thầy đã theo Thầy là phải những người như vậy, không phải là những người hèn nhát. Chúng ta phải mạnh dạn, nghĩa là làm cho đúng, thực hiện cho đúng, gan dạ vì mình vì người, đem lại lợi ích cho muôn người.
Chúng ta biết rõ ràng mà, cái đạo đức không làm khổ mình, khổ người, mà làm sao mà được phổ biến, thì phải có nhiều người chứ một mình Thầy làm sao phổ biến được. Cho nên phải đem hết sức của mình ra tu. Đem hết sức của mình ra tu không có nghĩa là tu điên, tu khùng, mà phải tu đúng thì cái sức đó nó không phí. Luôn luôn có bên Thầy, Thầy sẽ hướng dẫn cho cái sức tu đó nó sẽ đúng, nó đúng với cái đặc tướng của mình. Chứ còn nếu tu sai, thì như là một dây đàn mà căng quá nó sẽ đứt.
Đến đây Thầy xin chấm dứt, dể cho quý thầy về suy ngẫm, nỗ lực quyết định tu. Tu vì mình, vì con người, vì tất cả con người trên hành tinh này. Và chúng ta sẽ cầm cái ngọn đuốc đạo đức mà soi lên, ăn ngày một bữa, sống đúng Phạm hạnh giới luật của Phật, giới đức làm người, giới đức làm thánh, không thể thua ai hết.
(02:42:48) Nhất định người trong tu viện này đi ra phải làm cho đúng, đừng có làm nửa, che đậy người ta. Ăn ngày ba bữa mà nói một bữa, tui ở tu viện đó ra tui tu vậy, đừng có che đậy ai, mình đừng có che đậy mình. Mình làm một cái điều sai, mình phải xấu hổ với người ta. Ăn một bữa là một bữa, ăn hai bữa là hai bữa, không bao giờ mà làm sai điều gì, nhất định là làm đúng, không có chịu sai.
Còn không mình muốn ăn hai, ba bữa, thì mình ra mình tu theo các giáo pháp khác của Đại Thừa, ăn hai, ba bữa không ai nói gì. Đừng có mình cũng lấy, mình nói mình ăn một bữa, mà trong khi đó sáng mình uống bột ,uống sữa hoặc ăn cái này, cái kia, mà mình nói mình ăn một bữa để mình lừa đảo người ta làm gì. Chính mình lừa đảo mình, bản thân của mình mình biết mình rõ ràng, mình lừa đảo chính mình nữa.
Mình đừng có làm cái điều đó. Mình phải làm cho tốt, cho thẳng thắn với mình, thắn với mọi người. Để làm tốt đẹp, để xây dựng lại Phật giáo, thắp sáng lại ngọn đèn Phật giáo. Phật giáo đang bị dìm mất. Người ta đã dìm mất lâu rồi, bây giờ chúng ta thắp lại, mà một tay Thầy làm sao Thầy thắp được. Một ngọn đèn của Thầy như một đom đóm lửa ở trong rừng làm sao sáng được cả khu rừng.
Mà nếu không nhờ quý thầy cùng Thầy thắp lại muôn ngàn ngọn đuốc sáng này thì làm sao mà cả cái hành tinh này sáng được? Cho nên ở đây quý thầy tu đúng như lời Thầy dạy là quý thầy đã cầm ngọn đuốc với cùng Thầy thắp sáng lại trên hành tinh này. Ráng, chúng ta nhất định ráng, đừng có chùn bước, thà là một hơi thở cuối cùng.
(02:44:25) Nếu ngày xưa trong cuộc cách mạng giải phóng quê hương này, mà những người thanh niên họ sợ súng đạn, họ không dám xông pha tấn công, không dám đánh giặc, họ sợ chết thì chắc chắn là ngày nay không có độc lập. Máu xương của chúng ta đổ ở trên, trước làn tên mũi đạn, bắn hàng loạt, bao nhiêu thanh niên của chúng ta gục, máu của dân tộc chúng ta đổ xuống ở trên cái nên độc lập này. Biết bao nhiêu người thanh niên của chúng ta chết. Thế mà xông pha lên, không đầu hàng giặc, súng đạn giặc.
Trời ơi Thầy nói, Tây với Mỹ thì nó súng đạn kinh khủng, thấy nó là kinh hồn rồi, còn mình thì tầm vông vạt nhọn. Trong cái thời của Thầy Thầy biết mà. Tầm vông vạt nhọn mà xách đi ra đánh Tây, trời ơi đi ra bao vây dinh ông Uẩn mà đánh. Mà mình không có cây súng nào hết. Mà chỉ có lấy cái sưc người của mình ra đó mà đập cái dinh Uẩn. Thì đủ biết trong cái cuộc cách mạng mà cộng sản, không biết cái dân ở đâu mà tập trung nó về ông Uẩn Hóc Môn
Trời đất ơi Thầy nói nó đen nhẻm hết. Mà ông nào cũng xách cây tầm vông nhọn, đi đâm trộm mà sao mà, đánh Tây mà đánh bằng cái kiểu dó. Mà hồi đó ông Uẩn ông sợ quá trời, ông có mấy thằng lính có súng mà không dám bắn, không dám gì hết, bởi vì thấy đông quá. Mà hồi đó thì lính nó không có như … Đó là Thầy chứng kiên mà, Thầy chứng kiến hồi Thầy ở quê Thầy Hóc Môn mà. Chớ đâu phải ở đây đâu. Ở đây là cái nơi mà Thầy về đây Thầy xuất gia Thầy đi tu.
Cho nên vì vậy mà Thầy thấy, đúng là chúng ta là anh hùng thật. Súng đạn không có, chỉ lấy thân của mình thôi, lấy tầm vông vạt nhọn mà đánh giặc. Cho đến ngày nay mà chúng ta giải phóng quê hương, mà có súng đồng đại bác như thế này thật là cả một cái trường kỳ kháng chiến chúng ta dữ lắm chớ. Thì cái cuộc trường kỳ mà chấn hưng Phật giáo của chúng ta, đây là cuộc bắt đầu của chúng ta.
Mà giờ quý sư ngồi đây, quý thầy ngồi đây, trong một cái số nhóm của chúng ta như thế này mà chúng ta không nỗ lực, thì cái cuộc cách mạng Phật giáo chúng ta làm sao có được. Ánh đuốc Phật giáo làm sao sáng được. Đạo đức Phật giáo làm sao sống được. Cho nên chúng ta phải nỗ lực làm sao cái đạo đức cho sống được, để chúng ta thực hiện được.
(02:46:35) Dân tộc chúng ta bây giờ độc lập giải phóng, có chính phủ hẳn hoi, lo cho đời sống của chúng ta, làm cái nhịp cầu. Bây giờ ở Đồng Tháp lũ lụt, nếu mà không có một cái sự cứu trợ, không có nhịp cầu của nhà nước, thì dân Đồng Tháp chết hết còn gì, tiêu tan sản nghiệp nhà cửa. Bây giờ nhà nước người ta làm nhịp cầu, cho những người dân ở nơi yên ổn làm ăn có, người ta san sẻ nhau người ta chia sẻ, người ta cứu giúp nhau, chúng ta thấy. Như vậy là cái tình đoàn kết của dân tộc chúng ta có, lòng thương yêu dân tộc chúng ta có mà.
Cho nên chúng ta phải thực hiện cái nền đạo đức của dân tộc chúng ta. Cái nền đạo đức của dân tộc chúng ta là nền đạo đức nhân bản, nhân quả của đạo Phật. Chúng ta mặc y áo này, chúng ta thực hiện cái hạnh, cái hạnh không làm khổ mình, khổ người, cái Phạm hạnh. Chúng ta xả hết cuộc đời chúng ta, nhà lầu xe hơi tất cả những sự sang giàu, sự sung sướng, ăn ngày hai, ba bữa chúng ta xả hết. Chúng ta không còn một cái máy móc tivi, cái gì đẹp đẽ hết. Chúng ta còn cái gì nữa?
Chúng ta chỉ còn có nền đạo đức, cái nền đạo đức, ánh sáng đạo đức để chúng ta soi sáng cho mọi người sống. Sống đem lại hạnh phúc, không có còn bon chen giết nhau, không còn chà đạp lên nhau vì miếng cơm manh áo. Chúng ta hãy mạnh dạn, chúng ta hãy nỗ lực tu, chúng ta đừng có sợ hãi những cái sự tu sai thì chúng ta dẹp xuống hết đi, nghe lời Thầy, Thầy sẽ dẫn dắt đi tới nơi, tới chốn.
Thầy quyết định quý sư mà tu đúng, quý thầy mà tu đúng, Thầy dẫn dắt quý thầy đi tới nơi, tới chốn như hồi nãy Thầy đã hứa. Tới nơi, tới chốn để làm gì? Để thắp lên cái ngọn đèn của Phật pháp. Để làm sống lại cái đạo đức của Phật giáo. Để con người trên hành tinh này không riêng gì dân tộc Việt Nam đâu, sẽ không làm khổ mình, khổ người, thì hạnh phúc biết bao nhiêu.
(02:48:22) Chúng ta không cần thần thông không cần gì hết, chúng ta không thể hiện đồ huyễn hóa đó. Đồ huyễn hóa đó chúng ta không thể hiện, đồ lừa đảo đó. Mà chúng ta thể hiện cái lòng thương yêu của chúng ta, cái tâm đạo đức của chúng ta. Không bao giờ mà chúng ta hờn giận một cái người nào hết. Chúng ta luôn luôn tha thứ những cái người. Chúng ta sống để nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trong mọi hoàn cảnh, mọi con người. Vì vậy chúng ta mới xứng đáng là đệ tử của Phật, mới xứng đáng là người thắp lên ngọn đèn của đạo Phật.
Đến đây Thầy xin chấm dứt. Các thầy hãy cố gắng, các sư hãy cố gắng. Có gì từ đây, có cái gì tu hành, có cái gì đến, các thầy gặp ngay liền hỏi Thầy, Thầy nhắc nhở. Gặp ngay liền hỏi Thầy. Hoặc là gặp cô Út, xin cô Út nói với Thầy, cho con gặp Thầy. Thì cứ như vậy là Thầy sẽ gặp, dù Thầy bận công việc gì Thầy cũng đến Thầy chăm sóc quý thầy. Có cái gì sai thì các sư thành thật sám hối, thành thật xả bỏ, đừng có xấu hổ, đừng có tự ti, mặc cảm trên cái lỗi của mình. Có cái gì sai đến xin Thầy, con xin sám hối.
Bởi sư Thiện vì bệnh đau mà có đến đây xin Thầy để thọ dụng thêm uống thuốc, Thầy có chấp nhận cho sư thọ dụng trong những ngày uống thuốc. Cho nên mới đến thì Thầy chưa có đưa cái thanh quy ở đây, coi như là cái thời khóa tu tập của tu viện ở đây Thầy chưa có đưa cho sư. Và đồng thời cũng chưa có gặp Thầy để mà nhắc nhở trên cái bước đường tu tập trong những ngày…
Nhưng mà hôm nay có cái duyên được gặp Thầy, được Thầy nói Thầy khuyên nhắc bữa hôm nay. Thì dây là một cái duyên của sư đến đây mà gặp được cái buổi đầu tiên như thế này. Chứ từ ngày mà các sư về đây thì các sư không thấy có cái buổi họp này, chỉ có nói chuyện lẻ tẻ một, hai sư mà muốn thưa hỏi Thầy gì đó thôi chớ không có được cái buổi họp mặt như thế này.
Thì do vì vậy mà hôm nay đó nhờ cái duyên của thầy Thông Vân, mà tạo cái duyên ra để rồi gặp Thầy để họp mặt nói chuyện chung. Như những năm trước mà cũng trong cái bàn này, cũng trong cái phòng này, Thầy thuyết giảng cái giáo án tu tập đường lối của đạo Phật, khơi lại cái ngọn đèn của Phật giáo ngày xưa đã bị dìm xuống. Cách đây 3 năm, thì cũng trong cái vị trí này, Thầy cũng đã từng thuyết giảng cho một số tu sinh cái giáo án này.
(02:50:54) Hôm nay thì cũng trên cái bàn này, mà do một cái duyên để cho Thầy nhắc nhở quý sư, quý thầy tu đúng. Và cái trách nhiệm và cái bổn phận chúng ta phải làm gì, từ đây về sau chúng ta phải cố gắng làm cho đúng. Tức là nói chung là chúng ta đền ơn được cái công của cô Út, cô quá cực khổ giúp cho mình. Chúng ta thực hiện được, những cái gần gũi chúng ta nhìn thấy mà. Thấy cô Út, nửa đêm cô thức dậy, cô lo nấu cơm cho chúng ta, rồi đi chợ về rồi nấu cho chúng ta. Chúng ta ráng cố gắng.
Đó là chúng ta thấy cái sự… Rồi tất cả những người trong xã hội đất nước Việt Nam của chúng ta tu tập như thế nào. Thầy nhắc nhở cái đó để làm gì? Nhắc nhở cái đó để chúng ta xét thấy để chúng ta tinh tấn chúng ta ráng … Cho nên những điều mà Thầy nói hôm nay quý sư sẽ nghe lại, quý thầy sẽ nghe lại và sẽ cố gắng nghe lại. Những lời Thầy nói là những lời sách tấn, từ một cái người phàm phu chúng ta sẽ trở thành những bậc Thánh.
Những người mà chúng ta thấy mình mặc cảm yếu đuối, thấy mình không có đủ khả năng, mình sẽ có một cái nghị lực, mình thấy mình phải lớn lên. Lời sách tấn của Thầy giúp cho quý sư, quý thầy phải lớn lên, phải trở thành bậc lớn lên chớ không còn nhỏ. Để làm gì? Để mình trở thành xứng đáng con người sanh trong thời đại này, không còn thua ai hết.
Đất nước chúng ta là đất nước độc lập hòa bình, với một chủ quyền biết thay đổi, biết thương dân, chớ không phải cố chấp trong một cái hệ thống nào. Thật sự Thầy thấy nhà nước rất thương dân, người ta biết lo thật sự chứ không phải người ta làm bằng hình thức đâu. Cho nên vì vậy chúng ta bổn phận chúng ta phải cố gắng, và sự sách tấn của Thầy giúp cho quý sư lớn mạnh lên, không còn yếu mềm, không còn mềm mại, không còn yếu đuối, không còn hèn nhát nữa. Chúng ta thấy được cái hướng đi đó.
(02:52:59) Thầy thấy ngày xưa Bác Hồ do sự sách tấn trên đường chính trị chống giặc, nhà thơ Tố Hữu viết ra bài thơ. Chúng ta thấy cả một sự đau khổ của dân tộc Việt Nam qua bài thơ Tố Hữu, làm cho mọi người thanh niên, trong lúc đó Thầy là một thanh niên mà, đọc bài thơ Tố Hữu bừng bừng sức sống, không thể nào dừng bước được trước một cái họa xâm lăng của đất nước.
Thì hôm nay Thầy cũng không thể nào mà không khơi lại cho huynh đệ, cho quý thầy, quý sư mạnh lên, để mà trở thành những con người vĩ đại mà nhìn thấy được trong cái giai đoạn con người trên hành tinh này nói riêng, thì chỉ dân tộc Việt Nam chúng ta phải có một nền đạo đức, mà nền đạo đức đó phải từ Phật giáo mới lưu xuất ra.
Mà từ Phật giáo lưu xuất ra là phải những nhà sư, những vị thầy chân chính mới có thực hiện được. Chứ nếu mà không có những vị thầy chân chính thì không thể nào thực hiện được cái con đường đạo đức này. Cho nên Thầy sách tấn khuyên lơn để mà nỗ lực thực hiện cho bằng được. Chúng ta là người dân Việt Nam, nhất định chết không có đầu hàng trước một cái hoàn cảnh nào, trước một cái tệ nạn nào của xã hội này.
Trước một cái lừa đảo nào, của mọi, từ người xưa đến bây giờ mà còn lừa đảo chúng ta thì không được. Nhất định là chúng ta phải vạch mặt hết, để chúng ta xây dựng lại tốt cho dân tộc chúng ta, tốt cho con người trên hành tinh này, không còn ai lừa đảo nó được. Nhất định chúng ta phải làm. Ngày xưa Bác Hồ đã sách tấn người ta cầm súng đánh giặc, ngày nay Thầy sách tấn quý thầy xây dựng một nền đạo đức cho dân tộc, cho con người trên hành tinh này, Thầy nhất định phải làm.
(02:54:37) Dù Thầy chết đi, lời nói Thầy muôn năm, muôn đời vẫn còn, không thể nào, và lời nói của Thầy là tiếng chuông, là một sự sách tấn làm cho người ta mạnh mẽ, đứng lên để xây dựng một nền đạo đức, để tương xứng với khoa học hiện đại. Đó là ước muốn của Thầy. Vì vậy hôm nay trong chúng ta rất ít, nhưng chúng ta sẽ nghĩ rằng trong số này có những người làm nên sự nghiệp cho dân tộc, cho đất nước ta, cho con người chúng ta.
Đừng nghĩ rằng tôi già. Tôi già tôi sẽ làm những chuyện già của tôi lợi ích cho con cháu của tôi. Cũng như bây giờ quý sư có người lớn tuổi rồi, nhưng chúng tôi nhất định làm lợi ích cho con cháu, cho dân tộc. Nếu mà quý sư cố gắng làm, thì Thầy sẽ sẵn sàng Thầy sẽ đi gần gũi bên quý sư, quý thầy, nỗ lực giúp đỡ quý thầy tận cùng, tu tập cho được để làm …
Cho nên sư Thiện, sư đã nhận thấy trong mấy ngày đến đây, qua cái lời sách tấn của Thầy, sư xấu hổ biết được cái lỗi lầm. Sư đã có hỏi Thầy rồi, nhưng biết như vậy, thấy như vậy, giữ được như vậy Thầy thấy rất mừng. Vì Đức Phật nói có hai pháp, nếu hai pháp này không còn, thì con người như là loài thú vật. Đó là pháp tàm quý, vì biết xấu hổ thì xã hội chúng ta còn, đạo đức chúng ta còn.
Cho nên Đức Phật đã xác định hai pháp này. Mà đã biết xấu hổ trước cái việc làm của mình thì tức là mình sẽ không làm sai nữa. Và đồng thời ở đây quý thầy, quý sư phải biết đó là hai pháp quý báu nhất của người tu sĩ đạo Phật. Đó thì nhân cái dịp sư Thiện thưa hỏi, Thầy nhắc thêm cái pháp tàm quý, đó là cái điều cần thiết cho trang bị cho mỗi người chúng ta.
(02:56:33) Nhất định, hôm nay chúng ta chết, chúng ta phải làm nên sự nghiệp gì mới chết xứng đáng. Chớ không phải chết một cách vô ích, chết một cách tầm thường của những người tầm thường của những người trong đời, mà phải chết trên bồ đoàn, chết trên giới luật của Phật chứ không phải chết dưới giới luật của Phật đâu.
Lấy giới luật của Phật làm một cái nền tảng vững chắc, làm một cái nơi vững chắc để chúng ta bám chặt, không bây giờ lìa khỏi giới, thì chúng ta làm nên sự nghiệp. Đây là một cái bè, đây là một cái phao, đây là một cái chỗ nương tựa vững chắc, đó là giới luật của Phật, là thầy của chúng ta. Chúng ta sẽ nương vào chỗ này mà chúng ta giải quyết …
Thôi đến đây thì Thầy xin chấm dứt, cũng tối rồi. Vậy thì các sư, các thầy hãy cố gắng, nhớ và Thầy sẽ sang cái băng này để thỉnh thoảng quý thầy nghe, sau khi nghe rồi thì quý thầy sẽ dẹp, không cần nghe nữa. Bây giờ chỉ còn là con người phải làm nên sự nghiệp…
HẾT BĂNG
HÃY TINH TẤN ĐỪNG TU SAI 02 - THÀNH ĐẠO NHỜ TÂM KHÔNG PHÓNG DẬT
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời lượng: [01:21:47]
(00:00) Trưởng lão: Bên nam trong ngày hôm qua, hồi chiều hôm qua, Thầy chỉ cho thấy được cái chỗ tu sai, tu đúng của mình. Do cái nhân duyên đó mà Thầy mới có cái cuộc mà gặp gỡ quý thầy, và cũng nhờ cái duyên đó mà hôm nay thì mấy con mới được gặp Thầy. Bởi vì đối với Thầy thì cơ thể của Thầy thì bây giờ nó cũng là như là cái chiếc bè nó đã mục. Mà nó lại chở với một cái số lượng rất là lớn. Cho nên nếu mà Thầy dụng cái sức của mình mà hằng ngày hay hoặc là mỗi tuần mà giảng hai ba lần. Hay hoặc là một tuần mà giảng một lần cho mấy con nghe, để sách tấn trên con đường tu tập của các con. Thầy giảng cái Giáo Án Đường Lối Tu Tập thì thông thường mấy con nghe Thầy ho, vì trong lúc mà Thầy còn trẻ tuổi Thầy đi dạy học đó, Thầy đã bệnh phổi một lần rồi. Cho nên khi mà nói nhiều thì nó bị cái bệnh phổi nó dễ trở lại. Cho nên suốt cái thời gian mà Thầy giảng cái giáo án thì thường mấy con nghe Thầy ho.
(01:27) Cho nên trong cái thời gian gần đây thì các con thấy Thầy vắng, Thầy không có thuyết giảng. Dù sao đi nữa nó cũng có cái sự tiếp khách. Cho nên Thầy thấy đó cũng là một cái điều nó làm cho Thầy cũng hao cái khí lực rất nhiều. Và vì vậy mà mọi lần mà nói chuyện hay hoặc mọi lần thuyết pháp thì đều là có cái sự phục hồi lại, để cho Thầy tiếp tục Thầy làm việc. Nhất là cái điều mà Thầy chú ý nhất đó là cái đạo đức nhân bản - nhân quả làm người.
Bởi vì Thầy xét trọn bộ cái đạo Phật chỉ có cái sự giải thoát của con người nó có cái đạo đức mà thôi, chỉ có cái đạo đức. Mà nếu mà không có cái đạo đức thì không thể nào… Vì thế sau khi Thầy tu hành xong thì Thầy xét thấy được cái điều này rất rõ. Đạo Phật đến với con người là đến với cái nền đạo đức nhân bản không làm khổ mình, khổ người. Mà hầu như người ta nghĩ đến cái đạo Phật quá cao siêu, đưa nó đi đến cái mức độ hơn tất cả các tôn giáo khác bằng cái hình thức siêu hình, quá tuyệt! Nhưng nó không phải đạo Phật, vì vậy cuối cùng Thầy biết là đạo Phật là cái đạo rất gần với con người. Xây dựng con người có một nền đạo đức, nhưng phải sống và tu tập như thế nào để nó có một cái nền đạo đức đó?
(03:04) Cho nên cái mục đích Của Thầy, Thầy đã biết được cái đạo Phật như vậy, cho nên đem hết, dốc hết toàn lực của mình ra để xây dựng cái nền đạo đức của đạo Phật cho loài người trên hành tinh này.
Một mặt thì cố gắng đào tạo con người tu thực tu, thực chứng. Nghĩa là thực sống đúng trong cái giới hạnh của Phật để làm cái gương hạnh tốt cho Phật pháp. Làm cái gương hạnh tốt cho mọi người để lấy đó họ sống. Nhưng nhìn trước, nhìn sau thì các con cũng nỗ lực tu hành chứ không phải không nỗ lực tu hành. Nhưng có cái là các con không hiểu rõ, cho nên sự tu hành của các con giậm chân tại chỗ, hoặc là còn lùi nữa. Chứ không phải là tiến tới.
(03:57) Thầy thấy rất rõ là vì các con nên nghe, nghe lại coi thử coi cái lời của đức Phật ngày xưa, đức Phật không nói ta ngồi thiền mà chứng đạo, thành chánh giác. Ta không tu pháp này, không tu pháp kia mà chứng đạo. Trên bia đá Thầy có ghi cái lời của đức Phật sau cùng, sắp sửa cái giờ mà đức Phật sắp sửa chết. Chỉ còn đôi ba phút nữa thì đức Phật nói: "Ta nhờ không phóng dật mà thành chánh giác. Các pháp điều lành cũng nhờ chỗ tâm không phóng dật mà ra".
Phóng dật là phóng như thế nào? Bây giờ mình ngồi trong thất mình tu mà mình thấy người ta như thế này, thế kia thì đó là phóng dật. Thấy người ta tu sai, tu đúng. Mình tu mà mình thấy người ta đúng, sai là mình phóng dật. Còn tâm không phóng dật tức là tâm không thấy cái chuyện mà thiên hạ. Ai làm gì mặc, họ tu được họ nhờ, tu không được mặc họ.
(05:02) Mà chỉ có đức Phật nhắc chúng ta tâm không phóng dật. Tâm không phóng dật có nghĩa là như thế nào? Là phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình. Đừng có để mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý mình nghe chuyện bên ngoài. Người ta nói, người ta làm mọi chuyện mặc người ta, làm ác thì họ chịu, làm thiện thì họ nhờ. Nó có mắc mớ gì mình đâu, mà mình điên gì mà để mình nghe, mình thấy để rồi tâm mình nó dính mắc, nó sanh ra những chướng ngại pháp trong đó. Phải không các con? Các con thấy cái sự tu của đạo Phật nó đơn giản, rất đơn giản.
(05:37) Thầy nói thiệt khi mà Thầy hiểu Phật pháp rồi, Thầy chỉ ngồi suốt trong 5 tháng, 6 tháng trong thất. Mà 5 tháng đầu tiên Thầy thấy quá dễ dàng là vì chỉ có ngồi giữ gìn trên bốn chỗ mà đức Phật gọi là Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ là Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Ngồi chơi, ngồi thiền tréo chân kiết già lên ngồi, cũng không phải là ức chế tâm, ngồi nhiếp cho hết vọng tưởng. Mà ngồi tự nhiên mà luôn luôn quan sát trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp của mình, coi bốn chỗ này nó có hiện một cái tướng, một cái niệm gì không ở trên bốn chỗ này không?
(06:26) Còn mắt, tai bao giờ cũng nhìn ngó vào bốn chỗ này, không bao giờ để ý bên ngoài. Cho nên tâm nó không phóng dật chứ gì? Mình có cái chỗ mình nương, mình nương vào bốn chỗ này để quan sát coi bốn chỗ này nó có khởi ra cái niệm gì không?
Bây giờ cái thân này nó bình thường, nó không đau, không nhức, không ngứa, không khổ sở gì hết. Thì đó là cái thân nó giải thoát, cái thân nó an lạc chứ gì? Mà cái tâm bây giờ nó không phiền não, nó không nhớ, không lo, không gì hết. Thì cái tâm thanh thản chứ gì? Mà nó nghĩ, nó nhớ, nó lo thì nó không thanh thản chứ gì? Mà nó không thanh thản tức là nó chướng ngại pháp rồi. Thì mình phải quán xét đẩy lui những chướng ngại pháp đó. Hoặc là mình dùng pháp Như Lý Tác Ý để mình tác ý mình đẩy lui đi.
(07:15) Mình lao động, mình suốt ngày mình làm công chuyện này, chuyện kia. Mình cũng không phải lao động để biết cái hành động lao động, mà nương vào cái hành động lao động đó để biết từng tâm niệm của mình, từng cái hành động này nó đi vào cái tham, sân, si hay không? Ví dụ, Thầy nói ví dụ để cho các con biết, thí dụ như mình đang ăn nè, không có nghĩa là tôi biết tôi đang nhai cái món ăn này biết tôi nhai không. Thì nó có nghĩa lý gì cho cái sự giải thoát đời mình?! Mình đang nhai cơm nè, mà mình biết rằng mình ăn miếng cơm này, cái món thực phẩm này nó ngon, nó thích. Mình biết nó ưa cái món ăn đó, thì mình biết đây là tâm tham của mình rồi. Mình ăn cái món ăn này, mình thấy món ăn này thấy nó không hợp với mình, mình ăn nghe nó ớn, nghe nó không ngon thì mình biết đây là cái tâm tham mình rồi. Nó tham nó mới chê cái này, nó tham nó mới thích cái kia. Đó như vậy rõ ràng trên cái hành động ăn của mình nó có ý nghĩ chỗ đó chứ.
(08:22) Bây giờ mình ra mình quét cái sân, nó có cái ý nghĩ dơ sạch ở trong đó chứ. Mình thấy nó dơ mình quét, vậy thì cái dơ này nó thuộc về cái gì đây? Đó thì tất cả những cái chướng ngại pháp đó mà tâm mình phóng lên cái dơ, cái sạch. Cho nên khi mình quét, mình đã hiểu biết như vậy là vì như thế nào mà mình phải quét? Tại vì mình ở không thể nào mình để người ta nói mình dơ hay sạch này kia. Nhưng chúng ta không nên trách dơ sạch. Một ngày nào đó thử hỏi cái thân của mình cũng bất tịnh, có gì sạch sẽ chỗ nào đâu mà để tâm dính mắc vô đó?!
Cho nên do đó mình làm với tánh cách mình làm thành một cái thói quen là mình quét cho sạch thôi, chứ không có khởi ra một chuyện khác nữa. Vì khởi ra chuyện khác nó sẽ có những cái chuyện tích lũy của tâm tham của mình trong đó, tâm chướng ngại của mình trong đó. Cho nên mình không làm chuyện gì ngoài ra cái nhiệm vụ hằng ngày mình sống ở trong chúng, mình làm cái việc đó mình làm, chứ giờ không có nghĩ là mình phải xách cái này ra trồng cái cây này, cây kia thì đó là cái thêm việc. Mà thêm việc tức là không vô sự, nó không vô sự thì không giải thoát.
(09:34) Tâm phóng dật, Thầy nói ví dụ tâm phóng dật như thế này. Thấy cái đống rác đó dơ, thì mình đã thấy đống rác dơ là tâm phóng dật ở trên đống rác. Cho nên ngăn chặn ngay liền. Vì vậy mà trong cái thời đức Phật tu, đức Phật rất đơn giản dạy cho chúng tất cả mọi cái trong cái cuộc sống của đức Phật, nay chỗ này, mai chỗ khác, nó không dính mắc chỗ nào hết. Cho nên đến đó ở đó năm ba ngày, một tháng, nửa tháng rồi về chỗ khác. Cho nên nó đâu bị dính chỗ đó, vì dính chỗ đó nó phải có dơ, có sạch.
(10:08) Cho nên Thầy mới nói với Phật tử Thầy, lúc nào cũng hỏi: "Chúng con không biết có cái duyên tu hành trong cái kiếp này hay không?" Thầy nói thật sự có duyên gặp được phật pháp, có duyên được thân người là có duyên rồi đó. Nhưng mà cái phước nó chưa đủ, cái phước cho cái duyên đó để mà nó thực hiện con đường chân lý.
Cũng như Thầy tuy tu hành như vậy, mở Tu viện này như vậy. Nhưng mà Tu viện này là một cái chùa của Đại thừa, mà Thầy chỉnh đốn nó lại đến như thế này nó cũng chưa đúng lắm đâu. Bởi vì nếu mà có học trò nè, có thầy giáo rồi nè, mà trường ấp nó không đủ thì cũng khó đào tạo con người lắm. Bằng chứng bây giờ chúng ta tự nấu ăn ở trong chùa như thế này, thì chúng ta là chùa Đại thừa chứ không phải là cái chùa của đức Phật ngày xưa đâu. Còn đức Phật ngày xưa là ôm bình bát đi xin, còn chúng ta thời đại này chúng ta khéo léo, chúng ta sẽ tìm cái cách mà chúng ta giúp cho mọi người có cách thức tu hành đúng. Bị vì chúng ta thí dụ như bây giờ mình tổ chức cho người cư sĩ nào đó, người ta sẽ mở ra một cái tiệm cơm chay, người ta nấu cơm chay người ta bán, để cho cái đời sống người ta có. Và đồng thời Phật tử cúng dường sẽ cúng dường vào tiệm cơm chay này. Người mà chủ tiệm cơm chay này người ta gian xảo thì người ta chịu tội. Còn riêng mình, mình cứ giao hết cho họ, tiền bạc tất cả mọi cái, họ chỉ nấu cơm rồi đúng giờ thì mình ôm bình bát đến đó thì xin họ bữa cơm mà thôi. Thì chúng ta chỉ chuyên tu dù nam hay nữ, chúng ta cũng là những bậc giải thoát hết rồi. Nó không còn phải lo ăn, lo uống. Người ta cho mình cái gì ăn cái nấy, mình không cần ngon dở, miễn ăn sống ngày đó để mình tu.
Nhưng trường lớp Thầy chưa có làm xong, chưa có làm xong được những cái điều đó. Nhất là cái hạnh mà đi xin mà không thực hiện được, thì Thầy thấy cả một vấn đề khó của sự tu tập. Đây là một cái giai đoạn thử thách.
(12:16) Đúng mấy con ham tu, nhưng mà cái tu của mấy con thì nó còn đang ở trong cái giai đoạn sơ khởi của sự xả tâm.
Thường thường trong cái sự tu tập, người ta đừng có hiểu nhiều, đừng có hiểu mênh mông. Cũng như thầy Thông Vân cách đây năm bảy ngày thì có gặp Thầy một lần, trong lần đó thì thầy Thông Vân có nói với Thầy như thế này: ''Con muốn Thầy dạy con cách thức nào mà nhập Tứ Thiền cho mau để mà con thực hiện''. Thì Thầy chỉ nói cái pháp hướng, cách thức để mà tịnh chỉ hơi thở. Nhưng Thầy có nói với thầy Thông Vân: “Con không nên tập ngay liền bây giờ, mà hãy đi kinh hành nhiều, đi tới đi lui nhiều, đừng có ở trong thất rất là nguy hiểm. Vì ở trong thất thì nó sẽ bị ức chế tâm của mình. Cho nên càng đi chừng nào lại càng tốt, mình đi để cho nó tỉnh, tỉnh để mình nhắc tâm, xả tâm của mình. Coi từng cái tâm niệm của mình, đừng có để cho cái tâm mình nó lặng lẽ, nó không niệm là nguy hiểm! Nó có niệm mình mới biết được cái chướng của tâm mà xả. Còn nếu không biết được cái tướng của tâm thì không bao giờ xả được”.
Thầy nhắc nhở như vậy thế mà thầy nghe cái lời Thầy dạy, bởi vì Thầy rất sợ về cái vấn đề, cái pháp Như Lý Tác Ý, nó là cái pháp màu nhiệm của đạo Phật. Cái pháp mà làm chủ được sự sống chết này là một cái truyền lệnh, nó là cái phương pháp ám thị nội tâm của chúng ta, nó không phải thường. Tâm mà của chúng ta nó yên lặng nó không vọng tưởng, ức chế nó bằng cách này, bằng cách khác. Thì nó vẫn có năng lực chứ không phải không. Như bây giờ mấy con thấy, mấy con chưa tới đâu hết, tâm mấy con chưa thanh tịnh đâu. Nhưng mấy con đã tập luyện nó, có khi mấy con thấy mấy con nhắc nó, nó có cái hiệu nghiệm mầu nhiệm chứ không phải không đâu. Vì vậy cho nên chúng ta mà ở trong cái thất, cái khu vực yên tịnh mà chúng ta luyện nó. Chúng ta coi chừng nhắc bậy một cái là chúng ta tiêu đó chứ không phải là một chuyện thường.
(14:25) Cho nên ở đây Thầy biết rằng Phật pháp có nhiều cái màu nhiệm đặc biệt. Tại sao cái lời của mình ra lệnh mà cái thân nó làm theo, nó làm cho cái thân nó rối loạn, làm cái thân nó phải dừng như vậy? Đâu có ai làm sao mà như vậy được, thế mà cái lực của nó, nó làm được. Như vậy chúng ta biết nó có màu nhiệm, nhưng chúng ta tu sai là cái màu nhiệm nó trở thành một cái tai hại cho chúng ta.
Cho nên bây giờ mục đích của chúng ta chỉ có cái quyền là chúng ta dùng cái pháp Như Lý Tác Ý đó ly dục ly ác pháp, đẩy lui tất cả tham, sân, si. Chứ không có quyền nhắc bảo tịnh chỉ cái này, cái kia. Nhưng chúng ta nhắc thì được, cho nên trước kia Thầy dạy hơi sớm cái điều này, bảo tịnh chỉ âm thanh, tịnh chỉ này kia. Thầy thấy nó hay là đối với Thầy, cho nên muốn đem một cái hay này mà nhắc. Cho nên vì thế mà Minh Tông phải bị ói ra máu, bị khạc ra máu, thì các con biết quá nguy hiểm.
Còn thầy Thiện Thuận bị rối loạn cơ thể, vừa rồi thầy Thông Vân bị rối loạn. Tại sao mà mấy người đó lại dễ như vậy? Đó là mấy người đó không có cái trường hợp. Như thầy Thông Vân có cái cơ thể bị thần kinh bại liệt, cái trạng thái bệnh mà người ta thường nói cái người đó mát mát. Bình thường mà cái người mà nó bị bệnh đó đó là họ hay mát mát, họ có khi họ nói mình nghe nó đúng mà có khi nó nói nghe lãng lãng, kỳ. Thì đó là cái lạ, cái hạng người nó bị bệnh thần kinh bại liệt.
Mà thầy Chơn Thành có hỏi Thầy, nhưng mà các con sẽ đọc tới cuốn 10, thì các con sẽ thấy cái câu trả lời của cái bệnh này. Thầy hỏi những cái người mà bị thần kinh bại liệt đó có thể tu hành được hay không? Thầy xác định là người mà bị thần kinh bại liệt tu hành theo đạo Phật đó, thì chỉ được có cái giai đoạn thứ nhất mà thôi, ly dục ly ác pháp, còn cái giai đoạn thứ hai là không thể được. Bởi vì cái thần kinh yếu quá, không thể thực hiện.
(16:35) Cho nên trong cái bài Bồ Đề Vương Tử, cái bài kinh Bồ Đề Vương Tử trong kinh Trung bộ, thì đức Phật nói có năm điều kiện. Có năm cái điều kiện mà con người không thể tu theo giáo pháp của ta được. Điều kiện thứ nhất là cái người không có trí thông minh, nói không có nhớ tu hành trật, làm không đúng là cái người đó không thông minh. Cái điều kiện thứ hai là con người có bệnh, cái người mà bệnh thần kinh bại liệt là không thể nào thực hiện con đường của Phật được. Đức Phật ở trong kinh Thầy nói chỉ nói bệnh thôi, cái thân mà bệnh thì không thể tu được. Mà đã là bệnh thần kinh nữa thì càng tu không thể nào tu được nữa!
Bởi vì các con biết rằng khi mà cái pháp mà độc cư, sống trầm lặng là cái pháp ức chế tâm đệ nhất của Phật. Chúng ta ngồi chúng ta gom tâm trong hơi thở tức là có ức chế tâm rồi đó. Nhưng mà cái độc cư lại còn ức chế hơn nữa, do đó các con chịu không nổi cái pháp độc cư, vì vậy mà buộc mình ngồi một mình mình thì phải ngó bên đây, ngó bên kia, ngó bên nọ chớ ngó trở lại một chỗ các con chịu không nổi. Cho nên cái tâm thường phóng dật theo pháp độc cư.
Do đó mà chúng ta tu hành chúng ta mới nhìn thấy được, chúng ta mới làm chủ được cái pháp này để mà xả được cái tâm của mình, là tâm mình nó dễ phóng dật khi mà mình độc cư. Bị ức chế nó phải bung ra, cho nên nó phải tuôn trào. Mình sống độc cư là nó tuôn trào, mình không sống độc cư là nó không tuôn trào, nó cũng tuôn ít thôi. Còn mình sống độc cư bắt buộc, không làm, không gì tất cả mọi cái. Cho nên Thầy mới chia ra cái hạnh độc cư nó có ba giai đoạn. Nếu mà chúng ta độc cư mà ức chế nó quá thì nó sẽ nó bùng ra, nó hưng phấn thì nó rối loạn thần kinh. Trường hợp cũng như là thầy Thông Vân từ ngày về đây cứ vô trong thất ngồi không, rồi tu mà đến khi mà cái tâm nó khởi ra cái niệm, cái niệm tham đắm mà không thấy cái niệm tham đắm. Tham muốn cho mình nhập Tứ Thiền, tham muốn mình cho tu mau, để cho thực hiện Tam Minh chứ gì? Để cho mau xong cái chứ gì? Đó là cái tham mà không thấy để mà xả.
(18:45) Cho nên khi một người tu mà ở trong thất mà mỗi niệm đều là xả hết, mình tham tốt chứ không phải tham xấu, nhưng mà cái tham tốt này vẫn là tham chớ. Ở đây hoàn toàn là không tham, không tham là mình phải thấy cái trạng thái không tham, sân, si của mình chứ, "thanh thản, an lạc, vô sự". Có tham gì được ở trong đó được. Còn cái này nó khởi ra: “mình ráng mình tu” thì mình ngay ráng tu là có tham, tu để làm gì đây? Có cái mục đích trong đó tham mới có nghĩ mình ráng chứ.
Còn ở đây mục đích mình đi tìm cái kết quả giải thoát. Mà kết quả giải thoát ở chỗ nào? Thì nó ở chỗ "tâm thanh thản, an lạc, vô sự". Ngồi đây mà không thấy "thanh thản, an lạc, vô sự" là không giải thoát. Mà không giải thoát thì một ngày đó mình xứng đáng không? Mình đâu có xứng đáng!
Bởi vì mình đi tu là đem lại cái sự giải thoát hằng ngày cho mình xứng đáng cái ngày mình thọ dụng bữa cơm của mình; xứng đáng đối với những người thân quyến thuộc của mình; xứng đáng với những người Phật tử cúng dường cho mình; xứng đáng với cái giáo pháp của Phật đã dạy mình. Thì như vậy mình mới xứng đáng để mà mình thấy rằng, bây giờ mình tu đi một giây, một phút mà mình thấy tâm mình thanh thản, an lạc không có một niệm gì hết, không có một sự gì mà phiền não trong lòng của mình hết. Thì đây là mình xứng đáng trong ngày đó đối với chư Phật, đối với Thầy, đối với cha mẹ người sanh thành, đối với dòng họ của mình, những người thân thương của mình, mình xứng đáng!
(20:15) Còn nếu mình không xứng đáng thì mình nghĩ chuyện này, mình nghĩ chuyện kia, mình nghĩ chuyện nọ. Hôm nay mình thọ dụng bữa cơm này mình xấu hổ, mình không xứng đáng! Tại sao? Mình đi tu để giải thoát, giải thoát để cái tâm thanh thản đó, để xứng đáng thọ dụng tất cả những công ơn của mọi người. Công ơn sanh thành của cha mẹ, công ơn thầy tổ, công ơn của đàn na thí chủ, công ơn của những người thân thương của mình. Đó mình mới xứng đáng, mà từng giây, từng phút cái kết quả này nó xứng đáng thì nó kéo dài từng giây, từng phút nó dài ra như thế này thì tâm sẽ không phóng dật.
Thầy nói thật sự ở đây toàn bộ ở đây chỉ có một người mà tu đúng mà thôi. Đó là thầy Mật Hạnh, tại sao mà luôn luôn lúc nào Thầy cũng ca ngợi thầy Mật Hạnh? Vì thầy Mật Hạnh là người đã làm đúng lời Thầy dạy, và thầy Mật Hạnh đã thấy được đường đi, và biết cách để thực hiện con đường đi. Tâm tự động quay vô hoàn toàn, tới giờ phút này thầy Mật Hạnh đang thấy là một con người ra đời rõ ràng, nhưng mà Thầy tin rằng thầy không đến đỗi. Thầy ra để mà thầy còn cái duyên thầy đi tiếp với mọi người, nhưng mà thầy không phải sa ngã ở trên cái cuộc đời của thầy tu hành đâu. Thầy có đủ cái khả năng của thầy để chống lại bao nhiêu sự cám dỗ của cuộc đời, Thầy tin điều đó! Cho nên Thầy luôn luôn gần gũi để mà sách tấn trên bước đường thầy tiếp giao. Thầy tiếp giao với bạn bè, thì bạn bè của thầy sau này trở những bậc tu hành tốt, để nối tiếp ngọn đèn của phật pháp. Thầy nói hôm nay các con không tin nhưng ngày mai mà khi Thầy tịch rồi, ai sẽ là người nắm ngọn đuốc này thì các con sẽ biết.
(22:06) Còn bây giờ ở đây Thầy thấy mấy con, Thầy nhắc nhở tới cái cuốn 9 mà Thầy đọc rồi thì các con biết, cái người mà làm cho chúng ta xả tâm, và cái người mà làm cho thầy Mật Hạnh xả tâm không phải ai khác hơn là cô Diệu Quang, cô Út. Nếu trên đời tu hành của chúng ta mà nó bình thản như mặt hồ nước, chúng ta không thấy tâm tham, sân, si của chúng ta đâu. Nhưng nó có những đời sống, có những cái cơn gió bão bùng, thì lúc bấy giờ chúng ta mới thấy được tâm của mình làm chủ hay không làm chủ. Có buông xả hay không buông xả, đó là cái ơn rất lớn!
Hiện giờ chúng ta không thấy cái ơn đó nhưng mà chúng ta thấy buồn khổ, thì đó là chúng ta quá phàm. Các con nên nhớ các con là giới nữ, các con không nghe bà Triệu Ẩu nói sao? Nghĩa là bà nói như thế này: "Cưỡi cá kình vượt sóng to, không làm thê thiếp cho người". Thế mà chúng ta ai là như bà Triệu Ẩu? Thầy tin rằng các giới nữ của các con là những người phải là con cháu của Triệu Ẩu, thì không thể nào khuất phục!
Các con hiểu Thầy muốn nói chứ? Mình khuất phục mình không phải là con cháu của Trưng Vương, Triệu Ẩu đâu! Chúng ta có những bậc anh thư, có những bậc anh hùng. Đất nước chúng ta toàn là những người gan dạ lầm lì, không chịu khuất phục một chỗ nào cả.
Thì chúng ta làm sao cho xứng đáng với những bậc đó. Người ta đâu có chịu cúi đầu mà làm thê thiếp cho người. "Cưỡi cá kình vượt sóng to". Chúng ta là những người làm những cái điều này, làm những cái điều mà đem lại cái nền đạo đức sống, thì phải thấy được tâm mình có đạo đức hay không? Mà cái đạo đức này rõ ràng là đạo đức giải thoát mà. Mà khi giải thoát hoàn toàn thì chúng ta thấy như thế nào? Có phải chúng ta xứng đáng không?
(24:23) Cho nên trong cuộc đời tu hành các con thấy Thầy nhắc rất nhiều, lấy cái gương của Thầy. Mà nói ra để cho các con thấy rằng khi lên Hòn Sơn, Thầy tu ở trên đó 9 tháng trời trên đó. Mới đầu còn xuống dưới chân hòn Thầy xin gạo của ông chủ tịch hòn, mới mang lên ăn, hằng nửa tháng mới xuống một lần. Nhưng các con biết cái hòn là như một cái hòn núi. Phải đi, phải trèo núi chứ làm sao mà đi đất bằng được như thế này. Mang chừng 15 kí lô gạo, là đi lên, đi xuống là đã thấy mệt rồi. Cho nên Thầy quyết định ăn rau mà sống, khỏi mắc công đi, vì vậy mà từ đó Thầy mới gây cái giống rau ở trên chỗ Thầy ở. Dựa vào cái mạch nước ở trên núi, rồi Thầy mới trồng rau Thầy sống.
Sau khi tập dần Thầy ăn rau được, mới đầu thì nó cũng làm khổ sở lắm. Nhiều khi Thầy suy nghĩ con người không thể ăn cỏ rau được. Nhưng Thầy nghĩ rằng con bò, con trâu, con voi. Những cái con vật lớn, to, mạnh nó lại toàn ăn cỏ, mà ăn cỏ nó sống được thì không lý con người không sống được. Chắc chắn phải sống được, đừng có nghĩ rằng chất bổ phải theo bác sĩ phải nói ăn có chất bột, chất này, chất kia mới được.
Con bò nó có ăn chất bột nào đâu, nó có ăn củ mì, củ lang đâu mà nó cũng sống; nó có ăn gạo, ăn cơm đâu mà nó cũng sống, mà nó cũng mập mà nó kéo cày nổi. Máu nó cũng đỏ như Thầy, máu nó có trắng đâu, có khác đâu? Nếu ăn cỏ mà máu trắng thì nó khác. Đằng này máu nó cũng đỏ như máu Thầy thì trong cỏ nó cũng có những cái chất bổ chứ.
Cho nên vì vậy mà Thầy quyết định sống bằng rau cải. Cuối cùng Thầy chiến thắng được mình, Thầy sống bằng rau.
(26:20) Thì cho nên các con thấy cái đó là cái ý chí của mình chứ gì! Còn bây giờ các con tu hành các con cũng phải có những ý chí của mình chứ, phải thắng được cái tâm mình chứ. Thầy đã nêu lên cái nhân quả cho các con thấy cái đạo đức nhân quả mà, người ta chửi mình để cho người ta thọ cái nhân quả đó chứ. Người ta nói sai, người ta nói láo, người ta nói cái gì đó để cho người ta thọ cái quả đó chứ. Mình làm gì mà mình giận, mình buồn, mình khổ, để cho mình không giải thoát? Tâm mình chướng ngại là một điều không hay cho mình.
Cho nên từng đó chúng ta mới hiểu được, mình phải vượt qua, vượt qua bằng những cái tâm niệm của mình. Gan dạ, lầm lì, không bao giờ Thầy nói sống là không bao giờ…
Các con thấy tất cả những cái mà người ta hiểu lầm người ta nói thế này, thế khác. Đúng là ở ngoài xã hội thì người ta nói vậy đúng đó. Nhưng mà tu là mình thấy mình nói vậy là mình sai. Mình đâu biết rằng, bởi vì người ta đâu hiểu được luật nhân quả. Mà hiểu được luật nhân quả rồi thì người ta sẽ không sai.
(27:30) Theo Thầy thiết nghĩ không tu thì thôi, đã tu thì phải ráng tới nơi, tới chốn. Thầy hứa với các con, một khi mà các con tu đúng rồi, thì Thầy sẽ dẫn dắt các con đi tới nơi, tới chốn. Nghĩa là phải nhập Tứ Thiền, Tam Minh hẳn hòi đàng hoàng. Tại sao Thầy dám nói những cái điều này?
Thầy có nhập được, Thầy có làm được không? Mà các con có thấy Thầy nhập đâu. Thường dường như là hầu hết người ta nói Thầy không có ngồi thiền nhập định gì được hết! Người ta hay nói như vậy, nhưng mà các con biết nếu mà Thầy không có ngồi thiền, nhập định mà không có đạt được đó, thì cái đầu của Thầy không bao giờ thấy được cái sai của thiên hạ như vậy được. Các con thấy, Thầy đã thấy không có cái gì mà bây giờ, mà Thầy viết ra mà các con cho rằng Thầy nói sai.
Nghĩa là từ lâu tới giờ người ta không thấy được mà Thầy hôm nay thấy được không phải là cái người tu như thế nào sao? Không chứng minh được cho cái trí tuệ của Thầy sao? Các con hiểu điều đó.
Cho nên vì vậy nếu mà Thầy không thực hiện được cái trí tuệ vô hạn thì không thể thấy được cái vô hạn đó. Thầy nói cái nào, hiện bây giờ các con cứ đọc sách của Thầy bây giờ đó bằng giấy trắng, mực đen. Mà Thầy nó cái nào thì các con cứ suy ngẫm, có đúng hay không?
Bởi vì đây là một cái cụ thể mà, đây là con đường của Phật mà, Phật đã nói như vậy mà. Những cái danh từ đó người ta không hiểu.
(28:51) Cho nên Thầy gồm chung lại đạo Phật không có cái pháp môn nào mà tu mà gọi là Thiền định cả. Đặt những cái tên nó ra, tâm không phóng dật nghĩa là hằng ngày mình ngồi đây, mình giữ cái tâm mình đừng có cho nó phóng dật. Nó phóng dật nó theo cảnh này, nó theo pháp kia, nó theo tiếng nói nọ, nó nghe âm thanh này, nó nghe âm thanh kia. Mà cái tâm mà nó không phóng thì nó là định, mà nó định rồi thì tất cả các định khác nó rất dễ dàng. Tam Minh nó cũng không có khó khăn gì hết!
Cho nên đức Phật nói khi mà tâm ly dục ly ác pháp rồi thì nhập từ Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền cho đến Tam Minh nó không có khó khăn, nó không có mệt nhọc.
Nhưng mà cái giai đoạn của Sơ Thiền này nó cả một cái đời sống của một con người, nó không thường, nó là cái nền tảng đạo đức của đạo Phật. Cái đạo đức thật tuyệt vời, nhưng thật khó chứ không phải dễ!
Các con biết rõ ràng mà. Không làm khổ mình, khổ người. Người ta làm khổ mình mặc tình người ta làm, nhưng mà nhất định là mình không để cho người ta làm khổ mình được. Người ta nói gì mặc người ta, nhất định là không khổ. Một cái quyết định!
Bởi vậy Thầy mơi nhắc các con "Cưỡi cá kình vượt sóng to, không làm thê thiếp cho thiên hạ". Không cúi đầu làm nô lệ cho người khác, như vậy là xứng đáng là con cháu của Trưng Vương, Triệu Ẩu.
(30:21) Bây giờ chúng ta là những người Việt Nam, là con cháu của các bà này thế mà chúng ta không có làm ra gì hết. Luôn cúi đầu làm thê thiếp người ta, người ta sai mình, người ta chửi mình, người ta mắng mình.
Các con ở đây các con có nghe vợ chồng thằng Phương, nó chửi mắng vợ, nó đánh, nó rên la, nó kêu, nó khóc. Thật sự ra nếu mà Thầy, thực sự nó là con cháu của Thầy chứ ai vô đây. Thầy xót xa lắm các con chứ không phải không. Thầy nguyện nhất định là Thầy sẽ viết cái bài đạo đức Nhân bản - Nhân quả đầu tiên là Thầy sẽ nói vấn đề này, Thầy sẽ dạy con cháu của Thầy. Nhưng trước khi mà cái đạo đức Nhân bản - Nhân quả này mà ra đời, là phải có một cái cuộc cách mạng, phá sạch hết cái thế giới siêu hình. Đập, dẹp tất cả những thần thông, phép tắc của ngoại đạo. Tại sao vậy?
Tại vì còn thần thông phép tắc thì cái đạo đức nhân quả nó không có nhân quả được, nó không công bằng được. Còn có thế giới siêu hình thì không công bằng được. Bởi vì các con thấy người ta dựa vào cái thế giới siêu hình Thần, Thánh người ta cầu khẩn, thì cái chuyện đó còn cái gì mà. Nếu mà có Thần, Thánh phù hộ, họ tin tưởng như vậy thì làm sao công bằng được cái nhân quả. Họ làm ác mà họ cầu khẩn thì làm sao được? Họ dựa vào thần thông đế mà họ lừa đảo người ta làm sao mà gọi là công bằng được? Cho nên không dẹp được những cái này thì làm sao?
(31:43) Cho nên tại sao từ lâu đến giờ mà các con về đây chưa thấy Thầy mà thực hiện thần thông, mà Thầy dám bảo rằng Thầy có thần thông. Các con không xét thấy được cái trí tuệ của Thầy nó đến cái mức độ người ta không ngờ được. Những điều mà Thầy lượm ra nó không sai một mảy nào ở trong cái thế gian này. Phật giáo sai như thế nào Thầy vạch ra hết tất cả những cái sai của nó. Các con thấy những cái điều đó các con phải chấp nhận rằng nó không công lý mà, không công bằng mà. Chứ đâu phải điều mà Thầy nói mà nó không có đâu, Thầy đâu có đặt ra Thầy nói.
Đó, thì các con đọc kinh sách của Thầy viết thì các con sẽ thấy những cái trí tuệ của Thầy. Cái trí tuệ của Thầy vô hạn, sao từ lâu các con không nhìn thấy? Mọi người sao không nhìn thấy, các tổ sao không nhìn thấy? Mà đến bây giờ đây để nhìn Thầy nói, thì không phải đó là cái trí tuệ của bậc tu hành như thế nào sao?
(32:38) Đó thì các con sẽ nhận xét qua cái điều này. Ngay khi Thầy thấy các con đọc cái cuốn 2 thì phải. Nó có bốn cái chỗ sanh chứ gì? Thai sanh, noãn sanh, thấp sanh và hóa sanh. Mà không có người nào mà dạy hóa sanh được hết.
Đâu phải biến hóa ra con người khác gọi là hóa sanh. Mà đây hóa sanh là phải có sự hợp chất như là cái sự hợp chất của thai sanh, của thấp sanh vậy. Nó có sự hợp, bởi vì nó là duyên hợp nó thành mà mình không hợp làm sao được. Mà khi người ta dùng cái năng lực của tâm, người ta hợp lại. Còn cái này người ta dùng cái duyên để mà tạo nó thành cái môi trường để nó sanh ra. Cũng như bây giờ nam nữ hai người họ hợp nhau lại, họ tạo thành một cái duyên đó nó mới sanh ra đứa con. Còn một người làm sao làm được?
Thấp sanh thì nó tạo thành một cái đống rác ẩm ướt, nó đủ cái môi trường ẩm ướt của nó, nó mới sanh ra con vật ở trong đống rác. Nếu không có sự ẩm ướt, không có đúng cái nhiệt độ của nó, thì cái đống rác này nó làm sao sanh ra những loài vi sinh vật ở trong cái đống rác? Các con hiểu điều đó.
Cho nên đây là nó phải có cái môi trường, mà ở đây người ta dùng cái năng lực, để người ta hợp mà nó thành chứ đâu phải người ta biến hóa. Người ta biến hóa là một cái ảo giác. Cho nên Thầy thường nhắc các con có một câu chuyện. Một vị thầy và một người học trò đều là tu có thần thông. Một hôm đó thì cái người học trò nó biến hóa ra một con voi. Con voi nó quơ vòi nó quất quắc nó đi vào trong chùa, thì ông thầy sợ quá, ông thầy nói: "Mày đừng có biến hóa nữa, mày hóa ra vậy nó hư cái chùa hết còn gì? Đi nó giậm hết". Thì người học trò nói: "Không sao đâu thầy". Mình nhìn thấy thì thật nhưng mà nó là cái bóng mà, người ta biến ra nó là cái bóng mà. Một cái bóng cũng như làm sao mà nó giậm cái bàn này gãy được? Đó là biến, các con hiểu chưa?
(34:47) Còn cái này nó thật, chúng ta hợp lại thành một con người thật. Nhưng mà con người đang ô nhiễm, mà đưa ra một con người mà như vậy đó. Đưa ra một con người mà thanh tịnh như vậy, thì các con nghĩ như thế nào, khi mà con người đó mà thanh tịnh như vậy đó thì họ phải thật thà, họ phải có đủ cái đức nhẫn nhục, tùy thuận. Con người này ra đời để làm gì, để bao nhiêu người ăn hiếp, có ích lợi gì?
Chỉ trả lời cho người ta biết rằng nếu mà thế gian này đều đi tu hết, không có người nào mà không đi tu, thì người ta không còn sanh đẻ nữa, phải không? Không còn sanh đẻ thì loài người sẽ không còn có gì nữa. Qua câu hỏi có ý nghĩ đó, cho nên vì vậy đừng hiểu những cái điều đó sai. Cái môi trường sống này nó đủ những cái gen, những cái từ trường của nó mà để hợp lại thành một con người. Thì khi toàn bộ mà đi tu rồi, người ta sẽ dùng cái hóa sanh mà người ta sanh ra con người rất toàn thiện. Chứ không phải như bên Thiên chúa giáo, người ta bảo rằng Chúa sanh ra muôn loài vạn vật. Nhưng mà Chúa sanh ra, Chúa là con người thanh tịnh hay là con người ô nhiễm nè? Mà sanh ra bây giờ chúng ta ô nhiễm?
Các con thấy, cái này là nói sai. Thầy bây giờ Thầy dùng cái năng lực của Thầy, Thầy sanh ra một con người thì con người đó phải là con người thanh tịnh chứ. Vì do cái tình cảm của cái người đó là cái tình cảm của Thầy chứ. Cũng như bây giờ hai vợ chồng nè, tình cảm của hai vợ chồng nè, mới hợp nhau lại mới sinh ra đứa con. Thì đứa con ít ra tình cảm cũng phải giống cha, giống mẹ chứ, có không?
Còn bây giờ nhà khoa học nó đem máy móc nó vô nó kết hợp lại những cái gen, những cái khí. Nó tạo thành một con trừu, một con bò. Nhưng mà con trừu, con bò nó trở thành cái máy. Nó không còn là một cái tình cảm của nó.
Bây giờ đó nó làm ra được con người, nhưng con người đó là con người máy, nó không có cái tình cảm. Bởi vì nó hợp bằng máy móc mà, chứ nó đâu phải hợp bằng cái năng lực của con người. Còn cái này hai vợ chồng người ta hợp nhau lại để người ta tạo ra đứa con, thì nó vừa có cái tình cảm của cha mẹ trong đó mà. Cho nên con cũng giống cha, giống mẹ chứ sao. Hễ nó không giống mẹ thì nó phải giống cha, không giống cha thì nó giống mẹ, đứa con nào cũng vậy. Cái tình cảm của nó là cái tình cảm của cha mẹ nó chứ ai vô đó, thì các con thấy nó rõ chứ gì?
(37:17) Còn Thầy bây giờ Thầy hợp chất này, Thầy dùng cái năng lực của Thầy, Thầy hợp nó lại nó thành, thì cái tinh thần của Thầy, cái tâm của Thầy, cái lòng thương yêu của Thầy. Nó được truyền sang qua ở cái từ trường đó, ở trong cái chỗ cái đứa con mà hóa sanh này chứ. Cho nên Thầy thiện thì nó phải thiện chứ. Còn Thầy ác nó phải ác chứ, mà Thầy ác làm sao Thầy hợp chất được. Toàn thiện nó mới được. Mà Thầy là con người toàn thiện Thầy mới sanh ra được hóa sanh chứ. Còn con người toàn ác làm sao sanh được, các con hiểu chưa?
Cho nên từ lâu tới giờ các con nghe người ta có giảng về hóa sanh được không? Có đúng không? Họ không hiểu biết. Mà Thầy thấy cái năng lực, như bây giờ các con thấy cái pháp hướng tâm của các con, các con gọi các con bảo nó, nhiều khi các con thấy nó có màu nhiệm. Thì cái màu nhiệm này mà nếu một người mà tu xong rồi cái màu nhiệm nó như thế nào các con biết không? Nó đâu có phải thường đâu, nhưng chúng ta phải biết rằng, cái việc làm đó là cái việc làm để mà nó cụ thể hóa cho cái vấn đề mà qua cái câu hỏi của người ta. Khi mọi người tu hết rồi thì thế gian này đâu còn con người nữa. Để trả lời câu hỏi đó thôi, chứ nó không phải là đúng cái mục đích của chúng ta để mà tu để mà nhầm để hóa sanh như vậy đâu. Chúng ta không phải làm cái chuyện đó đâu, chừng đó cái duyên của chúng ta tới đâu chúng ta làm tới đó, chứ chúng ta không có phải nghĩ cái điều đó. Nhưng mà vì câu hỏi phải trả lời.
(38:44) Trái lại thì bây giờ cái mục đích chúng ta là những người đang đau khổ. Đang tham nè, sân nè, si nè, phiền não nè, bao nhiêu các pháp ác nó vây quanh mình, nó tạo cho mình một cuộc sống bất an. Nên chúng ta phải làm sao cho mình giải phóng cho mình được cái an ổn, không có còn khổ đau nữa.
Vậy thì đâu phải cần ngồi thiền, đâu có cần phải niệm Phật, đâu có cần phải lễ Phật mà nó thành tựu được cái điều này. Mà chỉ cần ở trên Tứ Niệm Xứ mà quan sát, đẩy lui từng tâm niệm, mà những tâm niệm đó là chướng ngại pháp. Rồi giữ gìn phòng hộ mắt, tai của mình đừng có cho nó theo, mắt, tai của mình mà nó phóng dật ra tất cả mọi thứ bên ngoài.
(39:29) Ví dụ như người ta đang nói một lời nói gì đó, người ta đang gây lộn nhau đó. Mà tai mình nó luôn luôn nó cứ tiếp nhận vào cái âm thanh đó, bảo: "Cái tai quay vô nghe chứ đừng có nghe ba cái thứ đó, đó là thứ bất tịnh đừng nghe!". Thì trong khi đó nó nhắc một lần rồi nó còn dảo ra nó nghe, bởi vì cái âm thanh nó cứ đập vô mà. Thì do đó mình nhắc lần thứ hai, nhắc lần thứ ba, bây giờ phải tập trung vô chỗ nào? “Ờ, bây giờ phải tập trung vô hơi thở nè, biết hơi thở ra vô nè, không có được nghe nữa!”. Thì bắt đầu mới nương vào hơi thở, thở ra, thở vô. Một hơi cái nó không có còn lưu ý đến cái lỗ tai nó nữa, mà nó chỉ nghe cái hơi thở của mình. Đó là cách thức mà để mình đẩy lui cái chướng ngại pháp ở ngoài đó luôn luôn nó lôi cái lỗ tai mình nó ra ngoài để nó nghe người ta nói cái này, nói cái kia, nó làm động tâm của mình.
(40:16) Cho nên cách thức, vì vậy mà Thầy dạy các con phải tu tập, phải cách thức gom tâm bằng hơi thở chậm nhẹ, để khi mà nó gặp cái chướng ngại, mà phòng hộ cái lỗ tai này, phòng hộ con mắt này, bảo nó gom như vậy là chúng ta chỉ cần dùng cái hơi thở chậm, nhẹ, để cho mình tập trung mình gom. Hễ mình gom được ngay liền thì hết nghe cái lỗ tai, không còn nghe cái âm thanh người ta chửi mắng, họ nói gì đó.
Ờ, bây giờ có người nào mà chửi mình đó, mà bây giờ mình không muốn nghe thì cái tiếng đó nữa. Bởi vì họ chửi mình một lúc mình dằn không được, mình nhẫn không được thì nó sẽ sân ở trong lòng của mình, nó làm cho mình khổ. Cho nên mình muốn nó không nghe cái lời nói đó, thì mình hướng tâm mình nhắc: "Cái tâm quay vô hơi thở đi, tập trung hơi thở đi. Cái lỗ tai không có nghe cái âm thanh đó nữa". Mình thầm mình nói, chứ khi mà người ta ở gần người ta chửi, người ta nói nặng, nói nhẹ mà mình nói cái kiểu đó đó mình chửi lại người ta đó. Không khéo thì người ta coi như là mình mắng lại người ta, người ta lại nói mình nữa.
Cho nên vì vậy đó bắt đầu mình sẽ hướng tâm nhẹ nhàng thầm ở trong lòng của mình tác ý ra để nhắc mình, để làm chủ lấy tâm mình, để cho mình được giải thoát.
(41:23) Đó thì mình sẽ thấy rõ ràng, khi nào mình nghĩ rằng người ta đang nói mình một cái điều gì đó, đó là một cái…(. . .).
Thầy nói như thế này, một khi mà các con còn cái sự tôn kính, kính trọng một cái người đó, thì khi người đó đó nói bậy các con cũng thấy là một cái lời quý. Mà các con mất cái lòng tin rồi người đó có nói đúng 100 lần, 100 phần trăm, cái lòng tôn kính của mình đối với người đó mà không có còn tôn kính nữa rồi thì người đó có nói đúng các con cũng thấy sai.
Cũng như bây giờ nếu mà thầy Chơn Huệ nè, thầy Chơn Tịnh nè mà ở ngoài đó mà Thầy có nói đúng 100 lần, quý thầy cũng vẫn thấy Thầy nói sai. Mà khi thầy có còn tin Thầy, thì Thầy nói bậy quý thầy đó cũng tin, phải không? Và cái sức tin đó nó làm cho quý thầy giải thoát. Mà quý thầy bây giờ Thầy có nói đúng quý thầy không tin, thì quý thầy cũng không giải thoát. Nhưng mà mình cứ nghe nó là đúng rồi thì mình đâu có thấy mà chướng. Các con hiểu cái điều mà đức Phật, nó xoay ngược trở lại. Mình thấy người ta nói bậy là mình chết rồi, tự mình đã làm khổ lấy mình rồi.
(42:35) Cho nên cái lòng cung kính nó đưa đến cái chỗ mà ly dục ly ác pháp rất tuyệt vời! Mà chúng ta thiếu lòng cung kính là chúng ta đã tự giết mình, chứ không phải là ông thầy giết mình đâu. Bởi vậy chúng ta cung kính Phật, cung kính pháp của Phật. Nhưng chúng ta cũng phải cung kính cái người nói pháp của Phật dạy mình. Bởi vì mục đích người ta dạy mình để cho mình được giải thoát chứ gì. Thì người ta nói bậy, nói bạ, nói như thế nào, mà cái tâm mình vẫn luôn trọng, cung kính thì ngay đó là mình không có chướng ngại rồi, thì không chướng ngại là giải thoát rồi. Mấy cái pháp đó mà mình thấy rằng tâm hồn thanh thản, an lạc, vô sự thì chúng ta phải tin cái pháp đó, và cung kính cái pháp đó.
Cho nên ở đây Thầy dạy nó rất rõ, là vì các con khi tu các con phải thấy được cái sự giải thoát ngay liền. Mà cái pháp giải thoát ngay liền, thì như vậy là mình xả được cái tâm của mình. Và như vậy bây giờ người ta nói sai, nói đúng, nói gì nói mà mình vẫn thấy đó là đúng hết, thì ngay đó là mình thấy giải thoát. Mình cung kính, bởi vì nói chung là mình, Thầy muốn nói thấy đúng hết là có nghĩa là như thế này, có nghĩa là giải thoát tâm mình, chứ không phải là toàn bộ họ nói đúng hết, mình biết chứ, họ nói sai biết hết, nói sao mình biết hết chứ. Biết nhưng mà cái lòng cung kính, người ta nói sai là mục đích người ta giúp cho mình, để cho tâm mình đừng chướng. Do cái lòng cung kính mình đối với người đó.
(44:01) Thí dụ như người ta nói láo đi, nói câu nói nào nó không thật mình biết cái nói này nói láo rồi. Nhưng mà người ta muốn nói như vậy, là mục đích để cho mình thấy cái lời nói người ta làm chướng mình. Thầy nói như vậy là Thầy nói láo rồi, phải không? Thì tức là mình nghĩ rằng ông thầy đó nói láo như vậy là không xứng đáng rồi thì mình đã chết rồi. Ông thầy nói láo như vậy đó, có nghĩa là làm cho mình thấy được cái chướng ngại của tâm mình không nhận ra, ông thầy muốn cho mình giải thoát trên cái nói láo của ông ta, phải thấy kết quả của nó ngay liền.
Nghĩa là bây giờ sao tâm mình nó bực bội nó, thấy nó không có còn mà giải thoát được nữa. Thì lúc bấy giờ đó mình mới nghĩ mục đích của mình đi tìm con đường giải thoát thì phải có giải thoát. Ở đây mọi chướng ngại nó đến xâm chiếm mình, thì mình phải bằng cách nào khắc phục để mọi chướng ngại này nó phải ra khỏi. Mình tìm cái sự giải thoát chứ đâu phải là mình đi tìm cái gì đó khác hơn. Hằng ngày, mình tu tập là cái mục đích mình được giải thoát.
Cho nên Thầy nói thật sự ra khi mà biết tu rồi thì kinh sách, tất cả mọi cái dẹp hết, không có cần nghiên cứu, không cần đọc nữa. Chỉ luôn luôn sống, sống làm sao quan sát tâm mình, lúc nào nó không phóng dật, lúc nào mà hoàn toàn nó thanh tịnh, thanh thản là mình tu đúng. Ngồi chơi, một mình mình thơ thẩn ngồi chơi vậy chứ quan sát tất cả mọi cái tâm niệm của chúng ta hết. Chúng ta làm việc rất nhiều, rất nhiều với trong nội tâm của mình. Vô trong thất tu chúng ta sống đúng phạm hạnh, sống đúng giới luật. Tới giờ ăn chúng ta quan sát coi cái ăn của mình coi nó còn thèm khát cái này, kia. Nó còn lí luận ăn cái bổ, cái không bổ này kia nữa không, thì mình vạch cái mặt tham nó ra, thì mình biết rõ cái mặt của nó.
(45:58) Thầy ăn cỏ, ăn rau mà Thầy còn sống huống hồ ăn một bữa cơm mà chúng ta có cơm ăn vậy. Cơm với muối Thầy nói còn quý hơn là ăn rau gấp mấy lần. Thế mà người ta vẫn sống được thì đâu có lý nào mình ăn cơm, bây giờ tất cả đồ ăn mình ăn không được, mình ăn cơm với muối có sao đâu, có chết đâu!
Thầy nói thật ở trên đời này không có cần gì nữa, mà bây giờ mình nói: “Trời ơi, cơm sao mà nuốt không vô, không có đồ ăn, ăn muối ăn nuốt sao vô”. Các con thử bữa nào các con ăn cơm với muối các con ớn rồi, Thầy nói thậm chí bây giờ ớn như thế này, ăn cơm với muối ớn rồi, phải lấy ớt này kia ăn, đó là cái tham của mình. Để cho nó thật đói đi rồi ăn thử coi nó ngon không? Ăn cơm với muối cũng ngon nữa chứ đừng nói.
Cho nên vì vậy mà một ngày một bữa mà tới giờ ăn rau Thầy vẫn thấy ngon thật ngon, đâu có cái gì đâu. Mà ăn rồi nó khỏe khoắn, nó không có bị rửa bát này kia dầu mỡ đồ nó khó khăn. Còn cái này chỉ ra quậy cái là nó sạch bóng.
(47:01) Đó thì chúng ta trên cái sự mà tu tập theo đạo Phật chúng ta không quan trọng đối với thân. Còn đối với cái đau, cái thọ, thật sự ra Thầy nói Mật Hạnh mà đừng có sợ cái đau, thì Mật Hạnh đã xong rồi. Nhưng mà cỡ xong thì Thầy thấy cũng chưa hay. Chính bây giờ mà trên con đường của nó, mà Thầy cho nó hoàn tục hoàn toàn. Các con đừng nghĩ, tại sao Thầy không để nó chiếc áo tu sĩ, mà sống cũng theo quý thầy như người ta. Thầy có thể Thầy gởi nó vào như chùa thầy Minh Cảnh ở Huệ Quang thì nó đến đó nó ở trong đó nó đi chơi với quý thầy, ở trong chùa cũng tốt thôi chứ đâu có gì ở đó thì người ta sống phè phỡn đi chơi đủ thứ, ăn ngày ba bốn bữa, còn hơn là ở đâu, ở cái trường đó. Mà mình lại đến đó mình lại học được chữ nho đồ nữa. Mà Thầy gởi cho thầy Minh Cảnh là thầy nhận liền tức khắc, vô học liền chữ nho. Nhưng mà tại sao Thầy không gởi, mà Thầy bảo rằng: “Tu là tu, không tu thì thôi chứ còn không có được mặc chiếc áo này mà đi chơi như các thầy như vậy”. Đời không ra đời, đạo không ra đạo. Mượn chiếc áo đạo mà đi chơi đời như vậy người ta coi Phật giáo phỉ báng. Thà là bây giờ mặc chiếc áo cư sĩ, rồi tiếp duyên với mọi mặt. Chừng nào mà thấy nhàm chán hết rồi thì trở vào tu. Chừng đó là không ức chế tâm.
(48:22) Bởi vì Thầy đọc kinh sách của Phật, Thầy nhắc lại cho mấy con thấy. Những bài kinh ông Phật, Thầy so sánh nhiều lắm, nhiều cái bài kinh mà Thầy thấy rất tuyệt vời!
Tỳ kheo Shitta ông xin đức Phật vào tu trong sau cái thời gian giữ gì phạm hạnh, tức là giới luật. Bởi vì thời đức Phật thì bắt buộc giới luật phải nghiêm chỉnh rồi, sau thời gian giữ gìn phạm hạnh giới luật rất nghiêm chỉnh thì ông nhập được Sơ Thiền, tức là tâm ly dục ly ác pháp. Sau khi nhập Sơ Thiền rồi trình bày cho đức Phật, đức phật chấp nhận rằng ông nói rất đúng và ông nhập được Sơ Thiền. Nhưng ông xin đức Phật cho ông xin hoàn tục. Ông Phật nói: “được, cứ hoàn tục đi”. Thì ông ra ông hoàn tục, ông ra ông mặc chiếc áo đời, ông ra.
Một thời gian ông trở vào ông xin Phật cho ông tu nữa. Ông Phật nói được, bây giờ cho phép tu lại. Thì ông tu lại một thời gian, ổng lại nhập được Sơ Thiền, ông nhập Sơ Thiền rồi, thì khi mà nhập Sơ Thiền rồi thì ông tịnh chỉ tầm tứ hẳn hòi, đàng hoàng, âm thanh không nghe, mắt không thấy gì hết đàng hoàng rồi. Thì các con biết rằng nó còn những cái gút mắc gì của vị Tỳ kheo này chứ không phải không vì cuộc đời mà, cho nên nó gút mắc. Mà nếu mà bắt buộc ông này mà nỗ lực tu thì ông bị ức chế.
Cho nên sau đó thì ông xin đức Phật ra hoàn tục, thì đức Phật cho ra, cho đến Tứ Thiền ông cũng vẫn còn ra. Sau khi mà thực hiện Lậu Tận Minh rồi thì ông không còn ra nữa, hoàn toàn là trở thành bậc A La Hán. Tại sao vậy?
Tại vì pháp môn của đức Phật không ức chế, không bắt buộc ức chế tâm. Nếu mà mình buộc người ta ức chế, thì tức là sống trong cái khuôn khổ phạm hạnh, giới luật của Phật là ức chế đó. Cho nên nhiều khi mình sống mình ức chế thì mình có sự gian dối ở trong đó. Chẳng hạn bây giờ ăn ngày một bữa, mà mình ức chế nó thì mình phải ăn lén, thì tức là mình có sự gian dối trong đó rồi chứ gì? Nó sai, mình cứ nghĩ mình lý luận vầy: “Ăn vậy mình bây giờ mình thân mình yếu mình ăn một bữa mình ăn đâu có nhiều được, cho nên vì vậy mà đói, thôi chiều mình ăn miếng bánh hay cái gì đi”. Thì đó là mình sai rồi, mình đã phạm những cái lỗi rất lớn rồi, cái lỗi giả dối. Mình cũng nói với người ta là ăn ngày một bữa, nhưng mà lại ăn lén một cái bánh.
(50:51) Cho nên trong khi mà ở đây, thật sự chúng ở đây mà còn ở sau trai đường này, Thầy thấy đi ăn rồi họ khôn lắm. Cái bình bát, người nào cũng có bình bát vầy. Họ ăn rồi, bánh hay chuối họ bỏ lại cái bình bát, họ đậy lại rồi họ bỏ những cái vỏ chuối, vỏ này kia họ ăn họ đậy lên, rồi họ bưng về họ rửa. Nhưng mà họ để lại mấy cái đó để chiều họ có đói họ ăn thêm. Trời ơi tu hành giải thoát chứ mà sao mà lại tu giả như vậy? Mình lừa đảo mình, mình lừa đảo Thầy thì được chứ mình lừa đảo mình được không? Đâu có được, đâu có dối mình được, mình làm cái chuyện đó mà tại sao mình không xấu hổ? Mình phải thành thật chứ.
Cho nên đức Phật cũng rộng rãi cho chúng ta, về giới luật thì cho chúng ta Khai, Giá, Trì, Phạm. Khi mình bị bệnh đau thì mình có quyền khai giới để cho mình ăn, hay hoặc là uống thuốc thêm một cái phần nào đó. Thì nó đâu có lỗi đâu. Đức Phật đâu có khắc khe, đâu có ức chế bắt buộc mình phải giữ gìn, trong khi đó mình ép buộc mình quá.
Cho nên vì vậy mà đức Phật nói mình cần, mình thấy được con đường giải thoát thì mình tu mà mình không thấy thì thôi. Vì đời sống phạm hạnh là đời sống giải thoát. Mà đời sống phạm hạnh là mình, muốn tìm giải thoát thì cái tâm mình nó cởi mở. Còn mình không muốn tìm mà mình vô đó để mình sống cái đời sống phạm hạnh. Như vậy là mình đã phạm thêm nhiều cái lỗi của mình, mình gian dối, mình xảo trá ở trong đó.
(52:19) Cho nên hầu như bây giờ bên Nam tông hay bên Khất sĩ người ta cũng nói người ta ăn ngày một bữa. Nhưng mà sự thật có ăn ngày một bữa đâu. Hoàn toàn là không có. Cho nên đó là cái gian dối của họ gạt phật tử thôi chứ không phải là tu hành đâu.
Thà là như mấy ông Đại thừa ăn ba bữa là tuyên bố ba bữa, như vậy không có cái tội gian dối. Nó chỉ có cái tội là phạm giới thôi, phạm giới đọa thôi. Nghĩa là ăn phi thời là phạm giới đọa, thì mấy ông Đại thừa họ chỉ phạm giới đọa. Còn mấy ông mà Nguyên thủy với Nam tông đó, là phạm cả hai giới, giới vọng ngữ, giới dối trá, ăn lén. Thay vì mình ăn một bữa, mà giờ mình ăn như vậy mình dối trá, mình che đậy phật tử, mình thêm cái tội lừa đảo người ta, dối gạt người ta. Cho nên đã phạm cái tội phi thời mà thêm cái tội dối người, gạt người.
(53:19) Đó thì chúng ta thấy đứng trên một cái góc độ giới luật, thì chúng ta đã thấy được cái điều này rất rõ ràng, cái tội này rất rõ. Quý vị tưởng là cái phước của quý vị tu hành bây giờ nó hưởng như vậy. Nhưng mà cái ngày mà quý vị bỏ thân này rồi, thì cái phước đó nó có đến với quý vị không? Hay hoặc là đời đời quý vị phải thọ lấy những cái quả của ở trong cái gian xảo, cái dối trá này.
Cho nên chúng ta tu đúng để mà tìm thấy sự giải thoát. Bởi vì sự giải thoát nó ngay cái chỗ ăn, uống, ngay cái chỗ cuộc sống của chúng ta. Chúng ta tìm thấy sự giải thoát thì lúc bấy giờ chúng ta mới thích thú. Chúng ta thấy nó khổ thì chúng ta không có thích thú, mà chúng ta ép buộc chúng ta ăn ngày một bữa là chúng ta tự làm khổ lấy mình, nó có lợi ích gì đâu, mà nó còn gian xảo nữa.
Cho nên bây giờ chúng ta tìm thấy nè, ăn ngày một bữa nè, sáng khỏi bận tâm ăn uống, khỏi có rửa gì hết. Trưa mình ăn có một bữa thôi, rồi chiều mình cũng khỏe khoắn, ờ mình thấy như vậy giải thoát. Giải thoát thì phải ráng chứ, nó đã giải thoát thì nó phải ráng ăn cho đúng chứ. Sao mà giải thoát mà bây giờ chiều rồi mà còn pha ly sữa, bộ ly sữa pha không cực sao? Rồi uống rồi bây giờ phải đi rửa ly, chứ không rửa ly chứ bỏ đó được, ai rửa cho mình? Mà còn hồi hộp còn sợ không biết người ta có dòm thấy mình không nữa.
(54:33) Các con đọc cuốn 9 các con thấy nội cái tu không cũng giả dối nữa. Có người thì bật đèn sáng lên mà chống cẳng ngủ, để giả dối là mình tu. Trời ơi, mình tu cho mình chứ bộ mà tu cho Thầy sao mà sợ Thầy bắt, đó có phải giả dối không? Còn có người thì tắt đèn tối thui thì không có dám mở đèn. Thầy cũng không biết có tu hay không tu nữa.
Đó, mà thầy Chơn Thành đó, thầy ngồi đó mà thầy quan sát tất cả mọi cái thất thầy biết người nào tu, không tu thầy biết. Cái kiểu mà giả dối là mờ ám là phải có cái sự mờ ám ở trong đó chứ gì.
Mình tu giờ nào, giờ nấy thì mình bật đèn mình tu hẳn hòi. Người ta không tu mà người ta nói tưởng là người ta tu dữ tợn ở trong đó, để dối đó. Sự thật nó để đem lại cái kết quả gì cho mình không? Nó đâu có kết quả gì đâu. Còn mình tu thật thì cái kết quả đó nó sẽ đem đến cho mình, có phải không? Các con đọc cái bài đó nó có lợi ích, quá lợi ích mà Thầy vạch rõ hết tất cả mọi cái. May là người ta hỏi chứ còn cỡ người ta không hỏi, Thầy biết chứ Thầy không nói đâu. Ai tu được giải thoát nhờ, không giải thoát chịu.
(55:39) Đó thí dụ như bây giờ các con nè Thầy biết rõ ràng là cô Út chửi mắng nói nặng, nói nhẹ đủ cách như thế nào Thầy biết hết. Nhưng mà các con đau khổ cách nào Thầy cũng biết hết, Thầy cũng hiểu hết toàn bộ. Nhưng mà các con không thấy lấy cái đó để mà làm cái sự giải thoát cho mình, Thầy rất buồn! Thầy muốn ngay từ đó, mà các con cưỡi cá kình vượt sóng to đó, mới làm con cháu của Triệu Ẩu, Trưng Vương đó. Mà các con cưỡi không nỗi, sóng tới cái các con, dập các con xuống cái uống nước muốn chết nhau cả đám hết.
Rồi từng đó các con lại tạo thêm những cái tội lỗi, mà không thấy. Đọc cuốn 9 rồi các con thấy tất cả những cái điều mà các con sai hết, sai rất sai. Mà cái cô Liễu Tâm, cô ở ngoài Hà Nội, cô biết cô nghe những cái lời nói đó, cô bán tín, bán nghi không giải nổi nữa. Bởi vì người ta nhìn qua cái chỗ đó là người ta thấy quá sai chứ gì? Người ta thấy cô Út quá sai, không có còn chỗ nào sai hết. Nhưng mà không ngờ cô Út thể hiện trên cái vấn đề đó. Nghĩa là thể hiện không phải là biến hóa mà làm cái chuyện đó do cái vô tình của mình thôi. Thầy nói cô Út cô vô tình cô làm cái điều đó thôi.
(56:52) Nhưng mà cái duyên Phật pháp để tạo cho cái hoàn cảnh cô Út làm cái này để mà, thật sự các con cứ nghĩ đọc kinh sách Thầy tưởng Thầy ca ngợi cô Út là Thánh thần chứ gì? Cho nên các con nói cô Út là: "Thầy nói cô út quá" không phải đâu các con. Đây là một cái nhân duyên của Phật pháp, để chấn chỉnh Phật pháp. Nếu không có cô Út, ai mà làm như cô Út được. Thầy nói không người nào làm như cô Út được hết. Đây là cái duyên của Phật pháp để người ta trợ giúp cho cái con đường tu tập của Thầy đúng chánh pháp mà, để xả tâm mà nếu mà không có cô Út, thử từ ngày mà về đến đây, thì các con thấy có bao giờ mà nó xả tâm không? Thầy cứ nhắc nó, nói cô Út làm như thế này, thế khác để giúp con xả tâm chứ gì. Có phải cái cuốn Thiền Căn Bản là những cái băng mà Thầy giảng về cái sự mà xả tâm không? Thầy biết là các con chới với chứ không phải không đâu. Nhưng mà thường thường là Thầy thuyết giảng để mà Thầy an ủi các con, để các con ngoi lên chứ không ngay là lúc đầu các con đã đổ hết rồi đó, đâu phải dễ đâu.
Cho đến giờ này các con mới thấy con đường của Phật pháp nó rõ như bàn tay. Cô Út đập ai, đụng tới ai là người đó phải gần chết họ hết. Nam cũng vậy, nữ cũng vậy nữa, cho nên họ đi ra họ lôi, họ nói cô Út đủ thứ hết, Thầy biết lắm mà. Mà nếu mà không có cô Út thì không có thể chấn chỉnh được Phật pháp, không thể chấn chỉnh được. Thầy không thể, bởi vì toàn bộ đều tu ở trong cái im lìm của người ta, trong cái tránh duyên, tránh cảnh hết. Người ta nỗ lực người ta tu bằng cách đó người ta tưởng là thiền định. Nó giải quyết mà ngay cái sự tu tập đó.
Mà đức Phật, hôm nay các con thấy Thầy nói chướng ngại pháp, là vì cái bài kinh của đức Phật mà trong cái thời khóa tu tập của thời đức Phật. Mà đức Phật gọi là chướng ngại pháp, lấy cái danh từ trong kinh chướng ngại đó Thầy không có biết dùng cái từ nào mà để nói. Nhưng mà cái thời khóa của đức Phật trong cái thời đức Phật dạy chúng đó, mới có cái danh từ chướng ngại pháp. Thì đúng là cô Út tạo chướng ngại pháp cho chúng ta tu hành mà. Vì ngay cái chuyện cô Út làm là mình thấy chướng ngại rồi, mà chướng ngại thì chướng ngại ai đây, có phải chướng ngại mình không? Mà nếu không có cô Út thì đâu có chướng ngại thì ở đâu mà đẩy? Tối ngày thì thấy mình ở trong thất yên lặng vậy tưởng đâu mình giải thoát, không ngờ là mình ức chế tâm.
Đúng là đức Phật đã thấy được con đường đi rất rõ, mà cho nên mới trợ giúp cho cô Út trong một cái hoàn cảnh ngặt nghèo của Tu viện. Lúc thịnh, thì ở đây nó đông người, mà lúc suy nó ở đây nó cũng không có người, các con thấy? Bởi vì cái chuyện làm cô Út như vậy mà không suy sao được. Người ta cứ nghĩ một cái góc độ khác, cho nên phải suy thôi. Không ngờ là cái chuyện đó lại đưa đến cho mình giải thoát, không ngờ lại giúp cho mình những cái giải thoát cụ thể.
(59:41) Cho nên ở đây các con thấy những cái vấn đề đó làm nhằm mục đích để chúng ta thắp sáng lại ngọn đèn. Mà bây giờ tìm ở trong các con, người nào là người mà cưỡi cá kình vượt sóng to để mà thắp sáng ngọn đèn của Phật pháp, xây dựng lại cái nền đạo đức cho dân tộc Việt Nam này? Ai? Bên nữ thì chúng ta bây giờ chưa có người nào.
Hôm nay cái bài pháp mà Thầy sách tấn cho các con, Thầy sống nếu mà Thầy không phải là cái người mà có nghị lực, không có cái ý chí đó, không có bền chí thì cuộc đời tu hành của Thầy cũng chẳng ra gì. Con người có ý chí, có nghị lực. Thầy nói để cho các con biết cái nghị lực của Thầy. Ngay khi giải phóng về, nhà nước ngăn sông cấm chợ, ở đâu ăn theo đó, không có được mà chuyên chở. Cho nên cái chỗ nào mà không gạo, ăn toàn là củ khoai mì. Trời ơi! sống quá khổ, ăn toàn là thứ bo bo. Nhất là cái vùng mà vùng Tây Ninh này nó đâu phải như miền Hậu Giang đâu mà gạo. Còn gạo lúa ở dưới miền Hậu Giang chất đầy không có ai ăn hết, nó không có cho đi đâu hết hà, ở đâu ăn đó, ở đâu sản xuất ăn đó.
Cho nên vải sồ đó thì bắt mình mua thì phải ra sắp hàng, người nào có thẻ, có giấy mới mua được, không đó thì chợ búa đâu có bán. Trời ơi! bắt đầu rất là khổ sở, bột ngọt đâu có phải được mua mà tự do như bây giờ, muốn ăn hồi nào có đâu. Nhà nước họ bán cho mình sao mình mua nấy chứ không có được, quản lý hết tất cả hết mọi mặt.
(1:01:16) Thì các con biết Thầy là con người như thế nào không? Thầy nói nhất định là không đầu hàng, chúng ta phải tự lực sắm lấy. Thầy chế ra nào là Thầy tự cấy lúa nè, Thầy cuốc đất nè. Mặc dù là Thầy đang ở trong thất tu đó, nhất định là không nói chuyện nhưng mà ra lao động. Thầy cuốc đất cái dạng mà đất mà cất ở trước chùa là ruộng đó, mà Thầy đào cái mương mà Thầy đắp lên cao bây giờ cất nhà mà còn ngập nước, đó là ruộng như mấy đất ruộng ở trước của người ta đó, là ruộng không đó. Thầy cuốc hết mấy đám ruộng, cái dãy đất đó Thầy cuốc hết, Thầy cấy, Thầy làm lúa. Mà lúa Thầy cuốc nó lại tốt dữ lắm.
Rồi Thầy tỉa đậu, Thầy cũng cuốc Thầy tỉa đậu phộng, đậu phộng Thầy lại không bán một hột nào. Thầy nói Thầy không có bán cho nhà nước. Bà con đến đây người nào không có là Thầy lúa Thầy cho. Nghĩa là Thầy cho họ ăn đó, còn đậu phộng Thầy sẽ làm bánh, Thầy làm cái này, cái kia. Thầy kêu bà con ở xóm này lại Thầy cho. Rồi Thầy làm, Thầy dự định là Thầy sẽ làm vải sồ, Thầy sẽ giúp cho bà con. Để chi? Gây một cái điều kiện để bà con thấy mình phải tự lực sống, không có đứng sắp hàng đó mà đi mua đồ bằng cách như con chó mà chầu chực xương. Nhất định là Thầy phải sống như vậy.
(01:02:35) Cho nên Thầy tổ chức tất cả mọi cái. Bây giờ mấy con thấy máy cái máy mà ép dầu của Thầy, Thầy tổ chức Thầy làm cái máy mà ép dầu. Tức là đậu phộng Thầy sôi lên rồi, Thầy vô niền, rồi Thầy ép bằng tay, Thầy quay nó, là nó ra dầu Thầy xài. Thầy làm bột ngọt Thầy lấy củ mì Thầy rọc, Thầy cho bột vôi đó, Thầy cho vôi vô trong nước vôi Thầy quậy, nước vôi mà ấy Thầy lóng củ mì, Thầy ngâm củ mì, nó lên một cái lớp meo ở trên cái mặt nước nó, ba ngày sau nó lên một lớp meo rất dày vầy nè. Thầy vớt cái lớp meo đó Thầy cao lại thành bột ngọt. Nghĩa là nấu nếm gì nó rất ngon không thua gì bột ngọt, nhưng mà phải cao nó lại, nó khô rồi mới để trong bọc để dành. Đó là Thầy chế ra tất cả những cái mà sống, vừa lao động, Thầy dự định hô hào, tất cả mọi cái này ở trong cái ấp này đó. Bà con ở trên đây Thầy cho từ cái bánh bằng khoai lang, rồi củ mì mà Thầy hợp lại, Thầy chế ra những cái loại bánh để ăn mà không đói đó, để chống lại. Chừng nào mà nhà nước rộng rãi thì mới được chứ mà nhà nước không rộng rãi Thầy không chơi.
Vải sồ Thầy nói mình trồng cây bông vải nè rồi mình làm chỉ nè, mình dệt vải, mình làm khung cửi nè. Thầy đi xuống ở Hóc Môn Thầy nghiên cứu mấy cái khung cửi ở đó, rồi Thầy về đây Thầy định là Thầy làm những khung cửi, nhưng mà không ngờ thì nhà nước không ngăn sông, cấm chợ nữa. Bắt đầu có vải sồ mua tự do, thôi Thầy xả.
(1:03:57) Đó thì các con biết ý chí của Thầy, ý chí sống tự do chớ không có chịu lệ thuộc vào cái gì. Mặc dù là đất nước đã thanh bình rồi, nhưng mà khó khăn nhất định là phải sống.
Còn tu hành cũng vậy, mình không thể nào đầu hàng trước cái giặc sanh tử của mình. Nghĩa là mình chết mình không có kịp, mình muốn sống mà nó phải chết rồi nó không chịu sống nữa. Thì như vậy là mình đầu hàng nó chứ gì. Nô lệ nó quá chứ gì.
Bây giờ bệnh đau như thế này mình phải uống thuốc thì nó mới hết, còn không uống thuốc nó không hết. Mà uống thuốc có đôi khi nó cũng không hết nữa, mà cũng phải chịu ôm cái thân đau này. Không có, nhất định là không đầu hàng.
(01:04:32) Cho nên Thầy vì cái ý chí cương quyết và mạnh mẽ, gan dạ như vậy cho nên Thầy đã đạt được sự làm chủ. Và hôm nay các con có những cái pháp hướng mà như vậy đó là do cái chỗ tu tập của Thầy đã làm được. Chứ bây giờ trong kinh điển Phật nói Như Lý Tác Ý, biết như vậy mà có ai mà làm được đâu. Cho nên họ chẳng làm sao giải được cái Như Lý Tác Ý. Mà đến khi Thầy thấy cái năng lực của cái pháp Như Lý Tác Ý này nó quá tuyệt vời. Do mình thực hiện với cái nhiệt tâm của mình thì nó đạt được chứ gì. Nó đạt được thì đó là cái kết quả, mà kết quả cuối cùng Thầy thấy nó là cái pháp toàn diện thật sự.
Cho nên đem ra dạy cho mấy con là mấy con được cái phước rất lớn. Nếu mà không thì các con cũng nghe nói Như Lý Tác Ý, các con tác ý 1 lần thử, 2 lần thấy nó không có gì hết, thôi lại bỏ trôi luôn. Còn cái này Thầy là người bền chí, cho nên ngay cái chỗ mà đường tu tập của mình nó mất hướng rồi, chỉ còn ôm chặt cái pháp này thôi. Nhưng mà ôm chặt mà lại nhìn thấy được cái kết quả của nó, cho nên nó giúp cho mình tiến bước trên cái sự tu tập.
(01:05:37) Đó thì hôm nay các con thấy như vậy là các con phải đem hết ý chí của mình ra mình tu tập chứ. Nhưng tu tập không được quyền căng quá, tập nhiều quá nó căng thì nó sai. Bởi vì tu từng phút, từng giây chúng ta nhìn thấy cái sự giải thoát. Mà giờ mình tu quá nó mệt nhọc quá nó căng thần kinh mình, nó nặng đầu, nó mỏi mệt mà mình cứ ráng mình tu là mình tu sai rồi. Mặc dù tu đúng pháp nhưng mà cố gắng nhiều quá cái đặc tướng, quá cái sức của mình như vậy là tu sai rồi. Nó cũng trật rồi!
Cho nên đâu có phải nói là tui tu đúng là tôi ráng tôi tu cho nhiều được. Nó không phải đâu, cái sức của mình tu ở mức nào thì mình tu ở mức nấy.
Thí dụ như bây giờ một buổi sáng này Thầy tu, Thầy ngồi chỉ khoảng độ 30 phút để mà kiểm tra cái Thân, Thọ, Tâm, Pháp của Thầy, mà Thầy tu 1 giờ là Thầy sai, cũng tu đúng cái pháp đó mà quá cái sức của mình nó sẽ sai, thành ra mình không giải thoát.
Còn các con tu liên tục, giờ này tu định này, giờ kia tu định kia, tu liên tục buổi này cũng vậy, tới chiều cũng vậy, tối cũng vậy. Trời ơi, tu suốt 1 ngày đêm cái thấy mình muốn chới với rồi. Nó giải thoát cái chỗ nào đâu? Mà nó làm cho mình rã rời tay chân, mắt hoa, đầu choáng váng như thế này thì như thế nào? Bởi vì đó là tu sai không có đúng!
(01:07:01) Cho nên đừng có vội vàng, chúng ta tu đúng tuy một chút. Bây giờ mỗi buổi sáng Thầy tu, Thầy thấy thôi bây giờ mình xả ra, sống bình thường liền, đừng có ngồi khép nó nữa. Đừng có nói đi, đứng, nằm, ngồi đều thiền đó. Đừng có tu cái kiểu đó được, mình tu mình giải thoát trong những phút giây của mình tu ở trong một buổi sáng mình tu đúng.
Còn bao nhiêu cái chướng ngại pháp thì mình quán xét để cho cái tâm mình nó được an thôi. Chứ lúc bấy giờ mình còn sân, còn phiền não mà làm sao nó hết sạch được, sao mà khi mà nghe một cái gì mà nó trái ý của mình thì bất toại nguyện thì mình phải, có sự phiền não trong lòng của mình chứ gì. Cho nên mình không có ngại, không có ngại điều đó, mình cứ quán xét để mình nhẫn cho được. Rồi bắt đầu từng giờ, từng phút mình tăng dần, tăng dần lên mình thấy tu tới đâu mà nó có sự giải thoát, nó thanh thản tới đó thì mình cứ tu.
(1:07:51) Trong khi mà thầy Mật Hạnh ở trong thất, Thầy kềm thầy trong 3 năm, ở trong thất Thầy kềm. Do Thầy kềm đúng cái chỗ tu, cho nên mỗi tâm niệm Thầy nói, Thầy dặn trước mà. Thầy ở một cái thất khác, nhưng mà khi tu thì thầy đến thất Thầy hỏi: " Bữa nay có niệm gì không?” Có cái niệm, Thầy chăm sóc từng niệm mà. “Có cái niệm gì không? Niệm đó như thế nào? Trình cho Thầy nghe coi?" Thì nó mới trình bây giờ nó mới khởi cái niệm nó nhớ cái này, nó nhớ cái kia. Thầy nói phải quán như thế này nè, xả nó đi, rồi bắt đầu Thầy về thất Thầy.
Còn mà về hôn trầm thùy, miên đó thì Thầy bảo lại thất Thầy ngồi xuống đây tu cho Thầy. Thầy ngồi đây, bắt đầu bắt đi kinh hành vòng vòng vòng thầy phá cho sạch cái hôn trầm, thùy miên. Tất cả những cái này coi như là Thầy dồn tất cả những cái sức lực Thầy để đào tạo một con người cho được mà. Đâu phải chuyện dễ đâu.
Cho nên do cái sự mà ức chế của Thầy bắt buộc, mà 3 năm độc cư không nói chuyện với ai hết để mà thực hiện từng cái tâm niệm xả. Cũng như bây giờ các con xả là các con phải tự chứ làm sao mà Thầy hướng dẫn được từng tâm niệm của các con.
(1:09:03) Khi các con ngồi trong thất nè có một niệm, Thầy nói có một niệm thì phải chạy lại thất Thầy báo ngay rằng bây giờ tâm con khởi cái niệm đó cho Thầy. Mà nó nói vừa khởi niệm chạy báo Thầy cái niệm nó mất rồi, nó không còn nữa. Cho nên con cứ con dùng cái này thì con thấy cái tâm nó xả mau thiệt. Cho nên nó khởi ra con ngồi thanh thản thôi. Mà nó có niệm: “mày chết tao đi lại tao trình Thầy”, thì con vừa bước đi là con thấy nó tan biến hết, nó không có gì hết. Mà nhiều khi con tới Thầy con lại quên mất nó nữa, không có nhớ nữa. Còn có cái thì con nhớ con trình cho Thầy, nhưng mà con quyết định là cái pháp này hay thật, mà có Thầy trợ giúp như vậy con xả được.
Cho nên từng đó nó cứ trong 3 năm đó, cứ có cái gì mà khởi lên thì nó đến, thậm chí nó khởi cái niệm: “mình phải ráng tu có thần thông”. A, như vậy là ráng tu có thần thông, đây cũng là cái niệm để trình Thầy coi đúng hay sai. Phải không?
Thì đến Thầy nói: “xả xuống, không có được cái thứ này, cái thứ này cũng là cái tham của con. Mới có tu có chút chút tâm thanh tịnh là lo đã muốn làm thầy thiên hạ rồi, cái mặt này là cái mặt tham, tham dữ tợn đó, tham này là tham dữ đó, xả nó đi không có được, xả riết tất cả mọi niệm.”
(01:10:17) Có những niệm không dám nói Thầy, có những niệm phải nói, không có niệm nào mà không nói. Có những niệm mà về sắc dục, nó khởi tâm dục cũng vẫn phải nói với Thầy nữa. Đó cho nên vì vậy hễ có những cái niệm nào đều nói Thầy hết. Cho nên Thầy nói cái này như thế nào, quán bất tịnh như thế nào, Thầy giải hết mọi cái. Cho nên đẩy lui hết, bắt đầu từ đó tâm nó tự động nó quay vô liền.
Nó quay vô suốt cả ngày đêm nó nó quay vô, nó đã biết được cái này, do cái sự chăm sóc kỹ lưỡng của Thầy. Cho nên Thầy nói Thầy bây giờ Thầy mở được một cái Tu viện, mỗi một người có một cái hang đá mà sống tu, thì Thầy chăm sóc như kiểu Mật Hạnh. Thầy nói rằng người nào cũng tu đơn giản. Còn bây giờ Thầy không có cái cơ sở như vậy để mà dẫn dắt.
Còn bây giờ bên nữ các con phải có một người tu như Thầy chứ, để làm gì? Để chăm sóc những người khác người ta tu như vậy thì mới giải thoát. Người ta nhờ mình, người ta tin tưởng nơi mình. Mật Hạnh là người tin Thầy tuyệt đối!
Bây giờ Thầy nói như thế này nè, khi mà nó ra với cô Diệu Hảo, cô Diệu Hảo biết khi mà nó nói về Thầy nó nói như thế nào biết nó tin Thầy, phải không? Nó là người tin Thầy tuyệt đối, cho nên Thầy nói cái gì nó rất nghe, vì vậy mà nó là cái người… Ngay cả bây giờ nó tiếp xúc với đời. À, cái cô đó gửi thơ nó như vậy nó đem về trình Thầy, cái thơ này như thế này nè.
(01:11:37) Thầy nói như thế này để cho các con thấy rằng, thầy Mật Hạnh từ khi mà 8 tuổi về đây Thầy nuôi, trong cái lúc bé không có biết đời là cái gì hết. Rồi từ đó cho tới khi mà vào tu thì trong cái thời gian mà nhập thất với chúng, tập trung mà tu ở trước đó. Thì thầy bị buồn ngủ, cũng như mọi người. Bị vì lúc bấy giờ quý thầy ở đó họ hăng lắm, từ 10 giờ họ tăng lên 11 tới 12 giờ. Họ tăng họ tranh nhau họ ngồi thiền cho tới giờ đó, cho nên cái khoảng giờ đó là khoảng giờ mà nó, người nào mà ngồi im lìm thì nó dễ gục lắm. Hầu hết là quý thầy đều bị gục hết trong những cái giờ đó, còn riêng nó đã tăng lên rồi thì nhất định là phải làm cho được. Do đó vì vậy mà còn cái tuổi rất trẻ, lúc bấy giờ đó mười mấy tuổi, 15, 16 tuổi gì trong khoảng thời gian tu không có xuất gia.
Do vì vậy khi mà mọi người đều là ngủ khò hết, người thì ngồi, kẻ thì nằm. Chú Duy, chú nhỏ đó, chú nằm bật giữa cái tổ đường đó chú ngủ, ngủ ngay không có sợ ai nữa hết, bị vì buồn ngủ quá rồi.
Còn chú Mật Hạnh này chú lấy dầu chú tha mắt, nó cay mắt quá chú lăn lộn ngoài cái hành lang. Thầy đi Thầy gác thiền, cứ một lúc lâu Thầy mới ra. Nhưng mà Thầy đi ra Thầy thấy chú lăn lộn vậy Thầy hỏi: "Cái gì vậy? Sao mọi người ngủ hết mà con lại còn lăn lộn như vậy, có cái gì?" Nói: "Con thấy buồn ngủ quá, con lấy dầu con tha mắt, giờ nó cay quá làm sao cho hết Thầy?" Thầy mới lấy ly nước Thầy rửa, Thầy rửa rồi Thầy biết là chú này chú gan dạ, vậy là con người có ý chí, mọi người người ta ngủ rồi người ta thiếu ý chí, người ta không chiến đấu, còn chú này có thể đào tạo được.
(01:13:21) Từ đó về sau, sau cái mùa hạ năm đó thì Thầy tuyên bố Thầy nhập thất. Thầy nhập thất mục đích Thầy để dẫn dắt những cái người có ý chí, còn mấy người khác thì chỉ dạy đơn sơ thôi, chứ Thầy không có đem hết tận lực.
Cho nên sau 3 năm ở trong thất đó là Thầy đào tạo Mật Hạnh, chú nhập được Sơ Thiền hẳn hòi, đàng hoàng. Thậm chí như bây giờ chú ra lệnh chú nhập được Nhị Thiền, Tam Thiền được chứ không phải không. Nhưng mà Thầy chỉ cần cho chú phải sung mãn, bởi vì khi nhập Nhị Thiền rồi, thì cái thời gian kéo dài cái Nhị Thiền ra để cho chú sung mãn. Chớ nó chưa sung mãn, mình đi đại, mình tịnh chỉ đại thì tức là mình bị rơi trong tưởng. Bị vì cái ly dục ly ác pháp nó chưa sung mãn, tức là nó chưa hoàn chỉnh, nó còn cái ác pháp nó chưa hết.
(1:14:05) Cho nên đức Phật dạy chúng ta phải làm cho cái pháp đó sung mãn rồi mới tới cái pháp khác. Chứ không phải là tu bây giờ thấy được cái Sơ Thiền rồi, tâm quay vô rồi cái mình lo mình nhảy vô mình tu cái khác. Cái tưởng nó do cái còn tâm tham dục ở trong này, nó hiện cái tướng của nó ra nó làm cho mình ham thích, thì mình bị rơi rồi, bị rơi rồi chứ không có còn.
Cho nên nó phải sung mãn được cái pháp ly dục ly ác pháp. Cho nên hoàn toàn khi mình nhập Nhị Thiền cái tưởng nó không hiện ra nó cám dỗ mình được. Nó là cách thức như vậy. Cho nên do như vậy mà Thầy biết được chỉ có một người tu được, đó là thầy Mật Hạnh.
Cho nên bây giờ đi ra như vậy, mặc dù là thầy chưa có cái ăn nói khéo léo, thầy có cái lời nói nó ngay thẳng. Thầy dạy sao, ăn nói làm cho người ta mích lòng người ta. Nghĩa là thấy người ta sai Thầy nói thẳng, nói một cách mích lòng, không có khéo léo của cái người mà khéo léo cái ngôn ngữ.
(01:15:00) Cho nên Thầy biết đó là cái tự tin, và cũng vì vậy đó mà bạn bè của thầy rất nhiều. Bởi vì những người bạn mà tốt đó, nó mới nhận thấy được. Như đến học cái trường học đó, khi tất cả những cái người mà đến học đó họ tham lam, họ mở họ lấy chìa khóa họ lén họ lấy con ốc này kia của cái trường học đó. Thầy Mật Hạnh mới nói với cái ông giám đốc cái trường đó, mới nói: “Mấy cái người học sinh ở đây họ tham lắm, thầy phải cho cái người, người ta coi họ lấy ốc cái này kia trong nhà trường”. Họ lấy chìa khóa ở trong nhà trường. Thành ra thầy Mật Hạnh tố cáo mấy người đó nhưng mà không có chỉ mặt người nào. Nhưng mà nói chung là học sinh nó tham như vậy, thầy phải để ý để không mất của, bởi vì họ tham như vậy. Thì ngay cả cái lòng tốt Mật Hạnh đối với nhà trường như vậy, thì cái ông mà giám đốc trường đó, ông muốn Mật Hạnh học đó rồi ông sẽ nhận Mật Hạnh ở luôn làm việc ở đó cho ổng. Nghĩa là cái người tốt, khó tìm cái người tốt, mà bây giờ ông thấy Mật Hạnh như vậy. Nó cũng về nó trình với Thầy: "Bây giờ ông muốn con ở đó, sau khi học xong rồi thì ở đó làm việc ông sẽ trả lương cho con luôn." Thầy nói không, không có được, không phải mình đi làm công người ta, mình đi học để mình còn cái duyên, mình để tìm hiểu đời rồi mình tu chứ đâu phải mà mình ở đó mình làm nghề.
(01:17:54) Tại vì con đến đó con đem những cái lời của Thầy dạy con nói những cái điều thiện. Trước kia cái gia đình này nó có một cái chỗ, có cái cửa hiệu buôn bán, mà bán có khô, mắm cái này kia, con nói họ dẹp hết! Không buôn bán cái đó nữa, họ buôn bán những cái đồ mà không có giết hại chúng sinh, con thấy cái lời nói con cũng giúp họ được tốt. Rồi từng đó họ có cái sự mến đối với con.
Còn họ nói về sự tu, con nói: “Con không có tu hành, con ở gần cái chùa rồi con đến đó con nghe Thầy ở đó thuyết pháp, con nghe những cái điều hay, con không có tu, thì con cũng có muốn. Nhưng bây giờ thì con còn cái duyên chưa có tu thôi”. Nó nói vậy.
(1:18:34) Cho nên ở đây tất cả những cái sự kiện xảy ra Thầy nói thật sự mỗi cái gì, sợ điều kiện là nó che giấu Thầy thôi, nó không nói cho Thầy. Chứ còn nó nói cho Thầy hết, nhưng mà mỗi lần nó nói như vậy nó đều có những cái ý chí là trở lại con đường tu.
Vừa rồi hôm qua Thầy thuyết giảng ở đây cho quý thầy nghe, thì sau đó buổi tối nó đến nó làm nó phụ với Thầy để mà đóng mấy cái khung sách. Nó nói: “Thật sự ra theo con thấy, chắc quý thầy tu kiểu này chắc không có người thừa kế cho Thầy. Con quyết định rằng con sẽ, trong cái thời gian ngắn con sẽ trở về con nỗ lực, con thực hiện bằng được những cái điều này, để con đốt lại cái ngọn đuốc của Phật pháp. Chứ con không tin ai được hết. Cái sức của con, con đã làm được cái giai đoạn như thế này, thì còn tin vào người nào nữa.
Họ, ở đây Thầy nói hết lời, Thầy đem hết sức Thầy nói, mà họ đi lại thất này, thất kia họ nói chuyện. Con về đây con ở giữa cái thất đó con đã nhìn thấy người nào tu như thế nào con biết hết. Làm sao họ tu được? Không tu đúng làm sao tu được?.
Thì bây giờ ngoài ra con không nói là con sinh cái bản ngã của con, con nói đây là nói thật tâm. Là vì con thấy người ta tu không có đúng, không được đúng như lời Thầy dạy thì làm sao? Cứ ông này lại thất ông kia đi nói chuyện, ông kia lại thất ông nọ nói chuyện, rồi nghe băng đồ này kia mọi cái. Rồi thậm chí như đến nó, nhờ nó mua cái này, cái nọ kia. Thì thử hỏi còn cái gì nữa?
Thì trong cái sự này thì phải có cái sự ăn lén, ăn lút trong này rồi. Gửi mua như vậy bây giờ con mua như vậy thì con cũng phải lén lút con ăn. Tất cả những cái này là cái sai, tại sao mà Thầy dạy như vậy mà người ta tu như vậy? Còn con là Thầy dạy đâu con làm đó, làm đúng con mới thấy được cái này.”
(01:20:24) Thì các con thấy trong cái vấn đề mà Thầy dạy các con đừng có làm sai, Thầy dẫn dắt mấy con đi tới nơi, tới chốn. Mà các con làm sai, Thầy dạy các con Thầy nhắc lời nói cô Út, cái chuyện làm của cô Út là giúp cho các con giải thoát. Thì các con nghe đó là một cái đối tượng giải thoát. Con thấy cô Út phải đem cái sức lực của mình ra làm những cái điều đó, là cái nỗi khổ của cô Út rất lớn, phải không? La hét, mắng chửi mấy con mà không cực sao? Điên gì mà, Thầy làm vậy được không? Chắc chắn là Thầy làm không có được. Bây giờ làm sai Thầy cũng không chửi mắng ai được hết chứ đừng nói chuyện.
Thì các con thấy cái chuyện làm của cô Út làm cái chút xíu mà các con, hở ra là cổ nhận xét ờ… (. . .).
Đó cũng như con về, ví dụ như cô Út nói lời nói mà con thấy buồn trong lòng là cô nhận biết rồi đó. Cô biết là con phải xả tâm con chứ không khéo là như vậy. Còn huống hồ là mấy cô mà ở gần lâu rồi, cô sạt tan nát hết đó chứ đừng nói, cô làm cho bỏ cái tâm mà mình xả nó. Cô không tha thứ chuyện gì tùm lum đủ thứ hết. Cô nói có, nói không, cô làm đủ mọi cách. Nói làm cho mình tức, mình giận lên, cái không có cũng nói mình có, cho mình tức giận lên, để làm gì? Để cho mình xả chứ, oan ức gì chỗ này? Chỗ này đâu phải là chỗ oan ức đâu, mà chỗ này chỗ xả tâm.
Cho nên ở đây Thầy nói thật sự chúng ta tìm một người để giúp chúng ta giải thoát, không có phải là ai làm được hết đâu.
.
HẾT BĂNG
KIM TIÊN VẤN ĐẠO - THÂN HÀNH NIỆM
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Ngày giảng:…
Thời lượng: [1:15:16]
Tên cũ: Kim Tiên hỏi đạo-Khi thầy ẩn bóng
https://thuvienchonnhu.net/phap-am/kim-tien-van-dao-than-hanh-niem
https://thuvienchonnhu.net/audios/kim-tien-van-dao-than-hanh-niem.mp3
(00:00) Tu sinh 1: ( không nghe rõ)
(00:08) Trưởng lão: Con nên nhớ rằng, Thầy đã nói rằng: đi kinh hành mà tu tập như vậy là một cái điều kiện rất tốt, tuy rằng tuổi con già mà con đi kinh hành tập như vậy, là con cố gắng con ôm pháp đó mà con đi. Đó là một cái pháp duy nhất để cho con được giải thoát, con hãy cố gắng con ôm và con tác ý như vậy là đúng rồi. Hàng ngày phải chuyên cần, chừng nào mà tâm con nó hoàn toàn thanh tịnh, không phóng dật thì nó có đủ năng lực thì con làm chủ được sự sống chết. Đó con yên tâm nha.
Phải ráng nhớ những lời Thầy, đừng có tu gì nhiều khác nữa! Mà tu nhiều quá, cái nhớ cái quên, rồi con tu nó lộn xộn. Chỉ cần có trên thân hành đi, đứng kinh hành như vậy rồi tác ý như vậy nó sẽ tốt cho con hơn, nghe không? Đó con yên tâm, phải nỗ lực như vậy đi.
Còn con hỏi gì?
(1:10) Tu sinh 2: Kính bạch Thầy!… Con ôm pháp tâm thanh thản con cũng khắc phục được những trở ngại đó, bằng chứng là con vẫn siêng năng, dạo này con vẫn cố gắng con khắc phục được cái Định Niệm Hơi Thở này kia… con cũng không có trục trặc gì nhiều lắm, con xin thưa hỏi thêm: Trong cái trạng thái thanh thản đó, nó có dính trên cái hơi thở hay không? Mặc dù cái hơi thở nó tự nhiên mà nó có dính hơi thở hay không?
Câu hỏi thứ hai là làm sao được an trú?
Câu hỏi thứ ba là: Khi con đi Thân Hành Niệm thì cái mặt con ngó thẳng con không có cúi xuống, cái ý thì nó ở dưới bàn chân, từng bước chân thì đang luyện từng bước chân rất là chậm, cũng không phải chậm lắm cũng vừa với cái đặc tướng của con thôi, nhưng mà mình để ý từng bước mình “dở gót”, mình “đưa tới”, “hạ xuống”, mình để ý như vậy từng bước,… có khi thỉnh thoảng nó quên bước thứ mấy. Tại vì để ý cái bước dở lên, dở gót là mình dở bàn chân mình đưa tới rồi hạ xuống, để ý từng bước như vậy đó Thầy, lâu lâu nó quên bước thứ mấy?
Trưởng lão: Như vậy là rõ ràng là con tu tập không kỹ, phải không? Về tu tập kỹ lại đi, tu tập vậy là tu tập lấy có rồi đó. Còn tu tập Thân Hành Niệm là tu tập từng cái hành động của một cái chân, nó nhiều hành động, mà tu tập từng hành động tức là tu tập kỹ. Mà con tu tập mà bước thứ mấy không nhớ tức là nó đã quên, như vậy rõ ràng là con tu không kỹ. Chỉ biết rằng thỉnh thoảng, nhưng mà kỹ thì lúc nào nó cũng sẽ kỹ hết, cho nên con tu tập lại cho kỹ, thật kỹ lại mới được. Bây giờ chỉ cần tu tập kỹ thôi, thà là tu tập ít chứ đừng tu tập nhiều, mà tu tập kỹ.
Thì cái pháp Thân Hành Niệm nó bắt buộc chúng ta phải tu tập rất kỹ, ý thức chúng ta phải điều khiển. Cho nên con thấy con cứ tu như thế này là Thầy biết cũng là kỹ rồi, Thầy chỉ cái khuyết điểm mà thấy cái chỗ mà tu không kỹ. Chẳng hạn như bây giờ, con biết cái ý của con là nó chú ý dưới bước chân, nhưng mà con phải gom cả sáu cái thức của con (sáu cái căn của con) cho cái thức nó tập trung vào trong cái hành động của con mới được chứ không phải có cái ý không. Vậy rõ ràng là con mắt phải nhìn xuống cái hành động của bước chân của con.
Ví dụ: nó muốn nhón gót lên thì con mắt phải nhìn dưới chân của con thấy nó nhón lên hoàn toàn, tức là cái con mắt, cái lỗ tai con phải cũng phải tập trung nghe trong đó nữa, thì như vậy mới là kỹ. Bây giờ các con chỉ dùng có một cái ý thôi, còn cái lỗ tai thì mắc nghe ra ngoài, con mắt thì mắc nhìn ra kia, mà đi Thân Hành Niệm thì lát nó phải quên chứ sao! Các con hiểu Thầy muốn nói không? Sáu căn mà gom lại trong một cái hành động của chúng ta đang tập thì đó gọi là Thân Hành Niệm, nó gọi là “kiên cố như cỗ xe”. Con hiểu chỗ đó Thầy muốn nói, đức Phật đã dạy như vậy mà. Thì coi như là chúng ta phòng hộ sáu căn của chúng ta để cái tâm không phóng dật là nhờ chúng ta gom vào trong hành động của pháp Thân Hành Niệm. Pháp Thân Hành Niệm nó độc đáo lắm mấy con.
Cho nên nếu mấy con gom có cái ý không, thì con mắt này nó sẽ nhìn ở ngoài thấy người ta đi qua cái nó thấy rồi, thì như vậy rõ ràng là nó tu tập không kỹ. Chứ thật sự ra trước khi mà tu tập thì tâm của con sẽ an trú được trong hơi thở, rồi sau khi mà con an trú được trong hơi thở nghe nó an ổn rồi mới đứng dậy mới đi Thân Hành Niệm. Thì đi Thân Hành Niệm từng hành động của mỗi cái ý thức con nó tác ý, cái ý thức mình nó tác ý nhưng mà con mắt thì nhìn, cái lỗ tai thì nghe, cái mũi thì ngửi. Con hiểu không? Cái thân thì nó hành động cho nó phải đúng. Tất cả những cái này đều phải gom vào trong pháp Thân Hành Niệm, sáu căn đó.
(5:12) Đó là cái pháp độc cư tuyệt vời nhất, là con tê ngưu một sừng đó. Nó đi nó chỉ biết có một hành động duy nhất đó hành động nào thì gọi nó là một sừng, chứ không phải một sừng là như cái con gì đó có một cái sừng trên đầu nó vậy đâu, mà một sừng là một cái hành động. Các con không hiểu được cái ý của Phật nói: Một sừng làm cái hành động đó duy nhất hành động đó, rồi kế tiếp cái hành động kế của cái thân của chúng ta, mà kế tiếp như vậy đó là một sừng. Cho nên nó không hai sừng được. Mà các con quên đi hoặc nó hai sừng là nó có một cái niệm khác, nó có phóng dật cái niệm trong đó. Cái tai ở đây mặc dù mình biết thân hành mình đang hoạt động, mình đang dở gót mình biết đây nhưng mà con mắt nó vẫn thấy ngoài kia là nó đã hai rồi, nó mọc hai sừng rồi chứ chưa phải một sừng đâu. Cho nên các con tu như vậy nó chậm, nó lâu là tại vì các con tu không kỹ.
Chứ khi mà tu kỹ thì khi mà các con bước qua thân hành thì cái tâm của con đã an trú, đã an trú được ở trong hơi thở. Thì bắt đầu thì con mới nhắc: “Mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý gom vào trong thân hành. Chân trái: Bước!”, thì bắt đầu đó: “Nhón gót lên”, thì con sẽ lưu ý toàn bộ cái chân của con, con mắt nó nhìn xuống, cái tai nó nghe ở trong cái sửa soạn đó mà tai nó lắng nghe cái hành động của nó rồi, rồi cái mũi nó ngửi ngay cái hành động nó nữa rồi! Thật sự ra cái hành động mình có mùi không mấy con? Vậy mà nó mở cái lỗ mũi nó ra để mà nó ngửi cái hành động của nó, thì nó tập trung rất là kỹ như vậy: dở lên, để xuống một cách rất kỹ lưỡng.
Thì như vậy trong cái sự tu tập mỗi một cái thân hành của nó là một cái nhát búa rất mạnh mà đánh vào cái tâm tham, sân, si của chúng ta. Chứ còn tu lơ mơ thì các con tu cầm chừng đó thì Thầy nói có tu chứ sự thật ra Thầy biết rằng nếu mà Thầy kiểm tra lại thì các con sẽ tu có nhiều cái sai. Tu cho nhiều chứ còn cái chất lượng thì nó không có. Các con tu nhiều, nghĩa là hành động thì rất nhiều, tính ra thì những hành động chân trái, chân mặt bước đi hai mươi bước, ba mươi bước, ngồi lên đứng xuống thì nhiều, nhưng mà tính ra cái chất lượng để mà gom sáu căn của các con thì nó không có chất lượng.
Cho nên ở đây các con phải tu, Thầy đã từng dạy các con tu từng hơi thở, tu từng bước đi, tu từng cái hành động. Không tu thì thôi tu thì phải gom, cực khổ cách gì cũng phải làm, chứ các con cực có chút xíu thôi, rồi cứ cực chút như vậy đó, thà là cực thật cực đi, gom hết vô làm cái chuyện này cho chắc ăn đi, làm chắc ăn mà làm cho chính xác rồi xả nghỉ đi rồi làm nữa. Và cứ như vậy nó mới bảo đảm các con, kết quả nó rất lớn.
(7:52) Thầy nói thật sự, khi mà các con ngồi mà an trú được tâm mình đứng dậy đi kinh hành là có sự khinh an, hỷ lạc đó liền; còn các con mà an trú chưa được, các con đi khinh an, hỷ lạc nó không có. Tức là cái Khinh An Giác Chi với Hỷ Giác Chi nó không xuất hiện, mà Tinh Tấn Giác Chi nó không xuất hiện. Cho nên các con tu không kỹ là các con bị thôi. Nghĩa là nhiếp phục được tâm mình trước khi mình tu Thân Hành Niệm là mình đi kinh hành thì mình nhiếp phục được trên bước đi kinh hành của mình được rồi bắt đầu mình mới thực sự… Tức là tu Chánh Niệm Tỉnh Giác đó, mình nhiếp phục được tâm mình ở trong cái bước đi rồi, rồi mình an trú được tâm mình trong bước đi rồi, bắt đầu mình đi Thân Hành Niệm là nó gom rất là kỹ, rất tốt. Còn trái lại mình chưa có an trú trong chánh niệm.
Bởi vì Chánh Niệm Tỉnh Giác trước; khi tu Chánh Niệm Tỉnh Giác rồi thì mới tu Thân Hành Niệm. Cho nên chúng ta phải tập nhiếp phục rồi tập an trú, rồi chúng ta mới thực hiện pháp Thân Hành Niệm. Pháp Thân Hành Niệm là cái pháp cuối cùng của các phương pháp của Phật để mà tu trên Tứ Niệm Xứ. Đó thì các con thấy nó quan trọng đến mức độ đó mà Thầy phải đem ra Thầy dạy, chứ lẽ ra thì Thầy chưa có dạy các con, sợ các con tu nó không đúng cách rồi các con sai lạc, rồi nó có nhiều…
(9:00)Thì các con thấy như cô Nguyên Thanh mà tu tập thì cái lực nó đẩy cô nó muốn bay cô đó, thì đó là nó chưa có tới cái giai đoạn, mà tu sớm quá, rồi cô có luyện tập về khí công hoặc là về võ công thì do cái tưởng nó có lưu xuất ra cho nên nó hoạt động nó có.
Còn các con tu hầu hết là các con bị tưởng cho nên các con không có an trú được, các con vô nhiếp vô rồi nó xảy ra điều này thế kia. Thầy cũng biết, khi mà trình bày Thầy cũng đã biết, các con tu tập kỹ đi rồi các con sẽ thấy nó cụ thể, rõ ràng và rất lợi ích. Đó cho nên con nói ra, trình bày ra cái vấn đề con tu nó không kỹ.
Còn cái nữa là cái câu hỏi thứ nhất con hỏi gì quên rồi?
(9:50) Tu sinh 2: Khi tâm thanh thản nó an trú vào cái hơi thở thì cái hơi thở nó tự nhiên hay nó an trú như thế nào?
Trưởng lão: Lẽ đương nhiên, mà đức Phật đã nói: “Tâm định trên thân”, khi mà tâm thanh thản, an lạc, vô sự thì tâm sẽ định trên hơi thở. Nghĩa là dù muốn dù không nó cũng định trên hơi thở, mà nó định rất tự nhiên chứ không phải là vì mình nhiếp phục trên hơi thở. Nhiếp phục trên hơi thở là mình có sự bắt buộc của nó, cái sự chế ngự của nó, bắt buộc nó phải nhiếp phục thì nó khác. Còn cái này khi mà cái tâm chúng ta thanh thản, an lạc, vô sự thì cái tâm của chúng ta không phải ngồi đó cái trạng thái nó không biết gì hết đâu, mà nó biết hơi thở đang thở ra, thở vô. Đó thì gọi là tâm thanh thản, an lạc, vô sự.
Cho nên tâm thanh thản, an lạc, vô sự tức là tâm ở trên cái hơi thở tự nhiên của nó mà không phải nhiếp phục tâm chúng ta vào hơi thở, mà tự nó nó định trên hơi thở gọi là tâm thanh thản, an lạc, vô sự. Cho nên vì vậy mà nhiều khi tâm của con thấy thanh thản, an lạc, vô sự mà nó không biết hơi thở, nó không định hơi thở khi mà con ngồi; khi con ngồi vầy mà con thấy tâm mình thanh thản, an lạc, vô sự mà nó không biết gì hết, thì coi chừng một chút xíu nó bị vô ký. Cho nên nó phải biết hơi thở, vì vậy mà nó định trên thân của con, cho nên đức Phật nói: “Tâm định trên thân” rồi sau đó “Thân định trên tâm”, các con hiểu chỗ đó. Mà tâm không định trên thân thì sẽ không bao giờ có thanh thản, an lạc, vô sự an trú vào, nghĩa là nó không định trên hơi thở thì không được.
(11:22) Cho nên chúng ta ngồi chơi nhưng mà lúc nào chúng ta cũng thấy, chúng ta không nhiếp phục trong cái hơi thở nhưng mà tâm chúng ta thanh thản là tự động nó đã định trên cái hơi thở của nó; còn nếu mà chúng ta đi mà tâm chúng ta thanh thản, thì chúng ta sẽ thấy cái tâm nó định trên hơi thở hoặc là định dưới bước đi. Nếu mà đi nó cứ biết hơi thở, mà nó thanh thản, an ổn mà nó cứ biết hơi thở. Đó là tâm nó định trên hơi thở. Còn nó đi mà nó biết nó đi mà nó không thấy hơi thở, nó chỉ nhẹ nhàng nó biết nó đi lúc bây giờ thì nó thanh thản. Còn nếu mà nó đi mà nó không biết nó đi thì nó sẽ thanh thản với một cái phàm phu của nó, một chút xíu nó có niệm khác xen vô liền. Nó không định được ở trên cái hơi thở, nó không định trên được bước đi thì nó sẽ có niệm. Bây giờ nó thanh thản chỉ trong vòng một phút, một giây nào đó rồi nó sẽ có niệm.
Thầy đảm bảo với các con cái tâm mà nó không bám được một cái điểm nào ở trên thân của chúng ta thì nó sẽ có niệm xen vào. Nó không niệm hôn trầm thì cũng niệm lười biếng, không niệm vọng tưởng thì nó cũng có cái niệm khác ở trên đó, không có bao giờ mà không niệm. Nó chỉ có ở trên cái hơi thở và ở trên cái bước đi của các con thì nó mới không niệm mà thôi. Đó thì các con lưu ý cái chỗ này thì các con thấy cái sự tu của Phật nó quan trọng.
(12:28) Cho nên đức Phật có nói cái tâm mình ở không đâu, đức Phật nói: “Tâm định trên thân”, mà cái thân của chúng ta nó bất động thì nó định cái gì? Nó định trong “Cái Không” sao? Cho nên cái thân của chúng ta là cái thân nó còn động, cho nên nó động là nó đi kinh hành, nó động là nó đang đi, nó động là nó đang làm và nó động là nó đang thở, thì rõ ràng là nó phải định ở trên cái động của nó chứ nó không có định trên cái mà bất động được. Cái tâm nó phải định trên cái động, mà cái thân thì nó phải định trên cái bất động nó mới được.
Tại sao cái tâm nó bất động nó không có khởi niệm, nó an trú ở trên cái thân hành của nó? Bây giờ cái thân nó phải định lại trên cái bất động của cái tâm. Các con hiểu không? Cho nên cái thân nó định lại trên cái bất động của nó thì cái thân nó sẽ không thở. Bởi vì nó muốn định thì nó phải làm y như cái tâm của nó, còn bây giờ cái thân mà nó muốn, cái tâm nó muốn không động ra ngoài được thì nó phải làm cho ở trong cái động của cái thân. Các con hiểu không? Nó định trên cái hành động của cái thân nó mới không động ra ngoài, thì khi đó nó mới gọi “Tâm định trên thân”, rồi “Thân định trên tâm”, thì đây là hai cái nó mới ra cái sức định của chúng ta thân tâm đều định. Cho nên cuối cùng là chúng ta mới nhập định Tứ Thiền, còn nếu mà không được vậy thì nó không nhập.
Nó rõ ràng, những cái điều mà đức Phật đã xác định cho chúng ta thấy con đường tu của chúng ta rất rõ ràng. Trước tiên thì thân; tâm phải định trên thân, nghĩa là “tôi nhiếp trong hơi thở, tôi nương hơi thở, tôi an trú trong hơi thở bằng cách này bằng cách khác thì đó là cách thức tôi dẫn tâm tôi định. Cho nên tâm ly dục, ly ác pháp thì tâm sẽ định trên thân. Còn bây giờ tôi nhiếp phục nó để cho nó định thì không khéo cái sự nhiếp phục của tôi nó chỉ có cái thời gian; rồi dẫn nó qua một cái đề mục khác cho nó an ổn. Còn nếu mà tôi cứ nhắm vào một cái đề mục mà tôi dẫn cho nó nhiếp phục nó thì nó sẽ an ổn bằng loại tưởng, và vì vậy mà cái ý thức tôi nó bị chìm, cho nên tôi sẽ nhập vào các Định tưởng, nó sẽ sai”.
(14:24) Cho nên trong đề mục của Định Niệm Hơi Thở nó không bắt buộc chúng ta phải tu cái đề mục nào mà cho lâu hết, nghĩa là chúng ta tu đạt kết quả rồi thì chúng ta chuyển qua cái đề mục khác để tâm nó không còn cái chỗ bám của nó ở một chỗ. Nó dời, nó di chuyển, nó làm cho cái tâm nó xả. Cho nên cái người nào mà dạy cứ một điểm mà bám chặt cái tâm là cái người đó sai không có đúng pháp Phật. Thì các con hiểu được như vậy thì các con sẽ tu đúng theo pháp của Phật thì các con sẽ thấy giải thoát. Bởi vì nó ly dục, ly ác pháp thì nó giải thoát mà.
Nó không làm chướng ngại ở trên thân tâm của mình được. Mà thậm chí như Thầy nói: cái chướng ngại của tâm mình thì nó vô hình, nó phiền não nó vô hình, nhưng mà cái chướng ngại của thân thì chúng ta thấy rõ, là vì ác pháp trên thân chúng ta thấy rõ: là cái thân đau nhức chỗ này chỗ kia thấy rõ. Thế mà pháp Phật đẩy lui được, Thầy thấy tuyệt vời! Mà nó đẩy lui được cái cảm thọ đó thì nó phải đẩy lui được cái tâm phiền não đó. Thì cái pháp nó hay như vậy, nhưng mà chúng ta tu không đúng, tu không kỹ, làm không đúng thì chúng ta sẽ không đạt được kết quả.
(15:25) Cho nên đối với con, ví dụ như con bệnh đau con đừng có sợ hãi, mà con chỉ ôm chặt pháp con tu, nhất là cái pháp Thân Hành Niệm mà đức Phật đã nói: nó cán nát những cái đau, mà đau như đau điếng nó cũng cán nát nữa. Chúng ta đừng sợ, chúng ta tu tập kỹ, tại con tu tập không kỹ, cho nên vì vậy mà con không cán được. Cũng như mình tu tập kỹ là như cái bánh xe, mọi vật cản đường nó là nó cán cái vật đó đi qua, mà nó không bị cái vật đó làm cho chướng ngại nó. Còn nếu mà chúng ta tu không kỹ thì khi mà bị vật cản đường thì cái bánh xe của chúng ta nó sẽ đứng lại, bị cản nó đi không được nó đứng lại; còn cái này chúng ta cán qua liền, nghĩa là chúng ta tu kỹ là chúng ta cán qua liền. Mà cái kỹ mà Thầy nói đó là: gom sáu căn trong thân hành của chúng ta là kỹ, mà chúng ta gom một căn là không kỹ. Thường thường là chúng ta gom có một căn.
Bởi vì ví dụ như Thầy nói bây giờ mình nhìn xuống cái hành động mình thì hiện bây giờ mình thấy cái đó dễ, cái mà biết cái hành động của mình nó dễ, thấy dễ. Nhưng mà khi mình nghe cái hành động của mình thì đó là một cái khó, nhưng mà người ta tập đến người ta nghe được hành động. Rồi bây giờ con ngửi thì phải có mùi thơm, mùi thúi con mới ngửi được mà không có mùi mà con ngửi được, con phải tập. Cho nên vì vậy mà gom sáu cái căn của con vô ở trong một cái hành động của nó đều là thấy, nghe, hiểu biết, ngửi ở trên cái thân hành như vậy là chúng ta tập chính xác. Mà chính đó là cái pháp phòng hộ sáu căn tuyệt vời!
(17:00) Cho nên chúng ta tu một pháp mà chúng ta thực hiện nhiều pháp. Cho nên trong cái bài mà đức Phật dạy: Đoạn Tận Những Lậu Hoặc, thì cái ăn uống đức Phật cũng dạy nó là cái phương pháp Đoạn tận lậu hoặc, rồi cái pháp mà tĩnh giác (tỉnh thức) thì nó cũng là cái pháp Đoạn tận lậu hoặc, rồi cái pháp mà độc cư cũng là cái Đoạn tận lậu hoặc. Tất cả những cái tên của nó nhưng mà cái mục đích là đoạn tận lậu hoặc. Cho nên chúng ta độc cư tức là tu sáu căn của chúng ta, tức là gom sáu căn của chúng ta; nhiếp phục sáu căn của chúng ta; phòng hộ sáu căn chúng ta; hộ trì sáu căn của chúng ta. Những cái danh từ đó gồm lại để là chúng ta thấy đó là cái phương pháp độc cư, nó sẽ giúp cho chúng ta.
Cho nên khi mà chúng ta gom lại sáu căn của chúng ta thì nó nằm trong những cái pháp đoạn diệt lậu hoặc, nó nằm trong những cái pháp Thân Hành Niệm. Một cái hành động, một cái danh từ nói nó, nhưng mà khi suy nó ra thì chúng ta thấy nó muôn pháp ở trong này, cho nên tu một pháp mà nó thành ra nhiều pháp, chứ không phải mình tu pháp này rồi mình mới tu pháp kia.
“Bây giờ tôi ngồi đây tôi tu về pháp Phòng hộ sáu săn (hộ trì sáu căn) tôi gom mắt tai tôi, không ngờ là trong khi tôi tu Thân Hành Niệm là tôi đã gom nó trong đó rồi”, thành ra mình tu một pháp mà nó nhiều pháp ở trong đó, nhưng mà cái tên của nó gọi ra rất nhiều. Để rồi ít hôm chừng ba, bốn bữa nữa Thầy trao cho các con một cái tập sách, lời của đức Phật dạy để chúng ta thấy: “một cái pháp mà nó gom ra nhiều pháp, nó thành ra nhiều pháp, mình tu một cái pháp thôi mà nó thành ra nhiều pháp ở trong đó”.
Do đó chúng ta đừng có nghĩ rằng như Thầy dạy, vô đây để mà tu cái bước đi kinh hành của mình thôi, tác ý thôi, nhưng mà một pháp đó mà biết cách sử dụng thì nó là nhiều pháp. Nó vừa là độc cư, nó vừa là phòng hộ sáu căn, nó vừa là tỉnh thức ở trên nó. Thì các con thấy một pháp tu mà nó nhiếp phục cái tâm của mình, nhiếp phục cái thân của mình nó muôn pháp ở trong này, chứ không phải là một pháp. Mà mình sử dụng đúng thì mình thấy nó nhiếp phục vô liền, nó an trú vô được liền; còn mình tu sai là nó không an trú, sợ nhất là những cái tưởng nó ra nó cản đường. Bởi vì cái sự tu của chúng ta lấy ý thức mà tu, mà có bây giờ cái vật gì mà cản cái ý thức của mình nó làm cho mình, thay vì mình muốn nhiếp phục cái tâm của mình như vậy, nó đưa ra một cái hiện tượng nào đó nó làm cho cái tâm mình phải duyên vào cái đó thì cái đó là nó làm cho mình đi lệch cái đường đi.
Tâm mình muốn cho cái sức tỉnh thức của mình gom vào sáu căn của mình, gom vào cái thân hành của mình, thì lúc bây giờ nó đưa ra một cái trạng thái lực nào đó nó đẩy mình tới lui, nó làm cho cái tâm mình mất chú ý đó, thì do đó nó làm cho giảm cái lực tập trung gom của mình đi. Thành ra mình phải phá cái này cho được. Phá cho được rồi thì mình mới trở lại mình gom thì nó mới đúng pháp, chứ còn nếu mình để như thế này thì nó không đúng. Cũng như nó làm cho mình nặng cái thân mình ra, thì nó phân tâm của mình ra rồi, trong lúc đó mình gom nó không chính xác đâu, cho nên mình phải phá cái trạng thái đó đi. Bỗng dưng nó làm cho mình thế này, thế khác.
Cũng như Kim Tiên nó nói: khi nó ngồi nó tu thì nó nghe trong người nó thúi, bất tịnh, có mùi hôi thối quá! Thì rõ ràng là nó phân tâm nó ra rồi, cho nên vì vậy mà nó gom vào cái sức định tỉnh của nó ở trên cái thân hành của nó, nó bị kém đi, nó bị cái mùi thối đó nó làm kém đi. Cho nên mình phải phá cái mùi đó đi, để rồi toàn bộ cái thân tâm của mình nó mới gom vào một cái vị trí của nó, nó mới chắc chắn.
(20:32) Đó thì các con thấy tu tập là phải như vậy, chứ còn không khéo thì bây giờ Định tưởng mất, tưởng thì nó lại phân tâm mình. Khi mà mình dừng được cái lực của tưởng đó, thì cái lực của tưởng mình thấy nó dừng, nhưng mà sự thật ra cái ý thức của mình nó đã tiếp thu cái lực đó trở vào cái ý thức lực của chúng ta, cho nên chúng ta cũng không mất phần nào. Bởi vì chính nó cũng là cái lực của thân chúng ta, nhưng mà nó chia ra làm cái lực tưởng để nó làm chướng ma, nó làm hại cho cái sự tu tập của chúng ta, nó làm giảm đi cái sự tập trung của chúng ta, cái sự mà gom lực của chúng ta nó làm giảm mất đi bởi vì nó chia ra nó làm giảm.
Cho nên chúng ta mới bắt buộc nó dừng lại, mà khi nó dừng lại nó không còn cái lực đó nữa thì coi đương nhiên là nó tập trung nó gom lại cái lực của chúng ta, nó gom lại cái lực ý thức của chúng ta, nó làm cho chúng ta mạnh hơn, nó làm chúng ta có sức làm chủ hơn, cho nên nó cũng không mất phần nào. Nhưng mà chúng ta buộc nó phải ngưng để rồi chúng ta gom nó lại mới được. Đó thì các con hiểu được như vậy, Thầy trang bị cho các con biết được những cái chướng để mà các con thực hiện cho được.
(21:34) Tu sinh 3: Cái tưởng với cái thật khó biết cái nào tưởng cái nào thật. Tại vì ví dụ bây giờ con đang đi trên đường thẳng, con muốn trở lại con quay cái vai, con thấy thiệt nhiều cái hình chân con, con quay cái vai con thấy nhiều cái hình ảnh đó nó lưu trữ lại cái khoảng mình vừa đi qua đó Thầy, hay là cái bước chân của mình dở lên như vậy con thấy thiệt nhiều bước chân, nên nó làm thành một cái đoạn dở lên nên nó có thiệt nhiều cái bàn chân, như vậy không biết cái đó có phải là tưởng hay không vậy Thầy? Hàng ngày nhiều khi thân thể nó như không có trọng lượng nó nhẹ nhàng, cái đó có tưởng ở trong không?
Trưởng lão: Nó cũng phải có chứ không phải không, nhưng mà nó là cái Khinh An Giác Chi. Nhưng mà hiện bây giờ thì chúng ta đang tu cái gì, thì chúng ta phải chú ý ở trong cái đó, nó có làm cho chúng ta thấy cái thân nhẹ: “Mặc mày! Tao không chú ý mày đâu, tao chỉ biết rằng bây giờ cái bước chân, tao dở gót là dở gót, còn cái nhẹ tao không cần”. Thấy nó đẩy lên, phải không? Con thấy mình vừa dở lên thấy nó nhẹ nhàng nó đẩy lên, rồi mình dở cái chân lên nó nhẹ nhàng nó đẩy cái chân mình lên, mình đưa tới nó đẩy cái chân mình tới, thì cái đẩy đó mình không quan trọng đâu. Mà cái quan trọng là: “Tao dở chân lên dù nặng, dù nhẹ gì tao kệ, tao biết tao dở lên thôi. Tao tập trung, tao nhìn, tao ngó ở ở trên cái hành động của cái thân tao thôi. Còn cái nặng nhẹ tao không quan trọng, mày hãy dừng đi!”, bảo nó dừng đi: “Để tao làm chủ, tao điều khiển cái hành động”.
(23:09) Tu sinh 3: Trong đời sống hàng ngày con thấy nó nhẹ nhàng, thân nó cũng nhẹ, đi đứng hay làm công chuyện này kia thì đều thấy nó rất là nhẹ, cái đó có phải mình tưởng nặng nhẹ không, chứ thân này nó cũng mấy chục ký, bây giờ tại sao nó nhẹ dữ vậy?
Trưởng lão: Để Thầy nói cho nghe, nó nhẹ thì tốt chứ không có xấu, phải không? Nó nặng thì nó cũng là chướng ngại mình. Bây giờ thay vì thấy lấy cái tay này mà dở lên sao mà nó nặng như cục đá thì cái này nó khổ mình, còn nó nhẹ thì nó không có khổ đâu, nó tốt. Nhưng mà cũng đừng có quan tâm, con hiểu không? Nó khinh an, cái đó là khinh an. Cho nên vì vậy nó làm cho cái thân con nó nhẹ nhàng, nó dở lên dở xuống vậy nhẹ nhàng. Thì cái lực nó làm cho nhẹ nhàng từng cái hành động con đó là lực Tinh Tấn Giác Chi, con hiểu không?
Con biết nó có đó, nó làm cho con nhẹ nhàng, nó làm cho con khinh an thì con thấy tốt chứ không phải không, nhưng mà: “Ta cũng chưa phải chấp nhận, vì Ta chấp nhận là khi nào Ta bảo hơi thở ngưng, Ta chết hồi nào thì chết”, phải không? Mà khi nào Ta bảo: “Cái thân đau này đi chứ không được ở đây” thì nó đi, tức là con phải bất động trước các cảm thọ, nghĩa là cái tâm con muốn cái gì thì những cái cảm thọ nó sẽ rời đi, tâm con nó sẽ không dao động trước những cái đối tượng nào. Thì đó là cái mục đích mình làm cái chuyện này, chứ không phải là cái chỗ khinh an.
Nhưng mà con tu tập thì cái chỗ khinh an hay là hỷ khinh an hay là Hỷ Giác Chi hay là Khinh An Giác Chi nó xuất hiện ra, Tinh Tấn Giác Chi nó xuất hiện ra, trong bình thường con làm công việc gì con cũng thấy cái thân con nó nhẹ nhàng hơn là ngày xưa nhiều, mặc dù cái thân con cái trọng lượng nó cũng cỡ cái tầm vóc đó nó không hơn nhưng mà nó cũng không kém, mà tại sao bây giờ nó nhẹ nhàng, bước đi nghe nó nhẹ nhàng hơn? Thì cái điều này là điều tốt chứ không phải là điều xấu đâu, cái điều tốt cho cái sự tu tập của mình, nhưng không phải vì chỗ này mà mình quan trọng nó.
Bắt đầu mình quan trọng là: “Tôi làm chủ được sinh tử, chửi tôi không giận, tới giờ thì tôi ăn, tôi không thèm ăn bậy bạ”, đó là cái quan trọng mình làm chủ được những cái ăn, cái ngủ của mình. Tới giờ ngủ thì ngủ không có ngủ bậy bạ; không có buồn ngủ sai giờ, không có phi thời được; ăn ngủ không phi thời thì như vậy rõ ràng là mình làm chủ được, đó là cái quan trong. Còn cái nhẹ nhàng, bởi vì từ cái chỗ thân tâm tỉnh thức nhẹ nhàng thì nó sẽ giúp cho con được giải thoát tới cái chỗ con làm chủ. Còn nếu mà nó không nhẹ nhàng nó còn nặng, tức là nó không kết quả chứ gì? Mà không kết quả thì coi như là mình tu hoài mà nó không có tới. Còn bây giờ nó có những sự thay đổi của nó thì nó phải có những cái cảm nhận, cảm nhận được sự thay đổi của nó. Nhưng mà cái cảm nhận đó để nó thành một cái kết quả cho mình sau này làm chủ được: sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Đó là cái kết quả hiện giờ, có những cái kết quả chứ không phải mình tu không kết quả.
(26:10) Cho nên vì vậy mà nãy giờ Thầy nhắc các con là: Người nào nhiếp phục tâm chưa được thì phải hỏi kỹ Thầy để Thầy dạy cho cách nhiếp phục tâm, rồi kế đó Thầy sẽ dạy cho an trú tâm. Đó là hai cái điều căn bản khi mình nhiếp phục được, mình an trú được thì thôi, thì mình tiếp tục mình tu các pháp thì nó hiện ra những cái điều kiện tốt thì vẫn tốt, nhưng mà mình không vì dính mắc nó, không lo ngại nó.
Còn những cái mà hoàn toàn như thế này để cho mình phải đuổi. Ví dụ như con vừa bảo: “cánh tay đưa ra” thì con ngó cánh tay hoặc là con đi vầy thì con quay lại con nhìn qua con thấy hai, ba cái vai của con nó phóng ra nhiều cái vai con một lượt, như là sắp sửa nó phải quay một cuộn phim nó phải vẽ nhiều cái hình.
Cũng như bây giờ Thầy muốn làm một cái hình của một cái cánh tay Thầy đưa ra, Thầy phải vẽ từng cánh tay đưa ra chút chút vầy, do đó bây giờ mới mở cái cuộn băng mới quay cánh tay của Thầy vô. Thì lúc bây giờ khi mà nó có nhiều cái hình vậy đó, họ bắt đầu họ chụp họ quay những cái hành động đó, thành ra nó thấy cái cánh tay nó đưa ra vầy. Đó thì coi như là mình thấy có nhiều cái hành động nó… Cũng như con dở cái chân thì nó phải có nhiều cái chân nó đưa đưa lên vầy, thì đó là cái trạng thái của sắc tưởng, của sắc tưởng nó qua cái thị giác thần kinh của con, mà khi đó con nhìn qua thì nó hiện qua cái sắc tưởng của con trong cái thị giác thần kinh, cho nên con thấy nó như nó có nhiều cái hành động đưa cái chân lên. Thì như vậy con tác ý bảo: “Dừng, ở đây không phải cái chuyện Mi làm phim”, con bảo nó: “Mi không có làm phim này đâu, Mi đâu có vẽ hình mà Ta chiếu phim”, cho nên bảo: “Mi không có vẽ hình như vậy, cho nên Mi phải dừng. Ta nhìn là phải thấy cái chân dở lên thôi, chứ không phải thấy cái hình của Mi mà đưa đi đưa từng cái như vậy”, đó con nhắc vậy, thì sau khi những cái hình ảnh sắc tưởng nó sẽ tan biến đi, nó không còn nữa.
(28:07) Khi mà thấy những cái lạ là cái tưởng đó, nó qua cái thị giác của con thì nó làm cho con có những cái hình ảnh đó, mà nó qua cái thính giác của con (là cái lỗ tai) thì con lại nghe cái âm thanh nó lặp đi lặp lại nhiều lần, khi nó muốn nói một cái âm thanh gì đó thì nó phải tạo thành một cái sóng âm thanh nó đi. Thành ra do vì vậy mà cái tưởng con nó làm được những cái điều này.
Cho nên khi mà nó nghe cái âm thanh mà thinh tưởng, cũng như mình đang đi vậy mình nghe cái tiếng mình đi “bộp, bộp, bộp” nghe cái bước đi của mình, thì con bảo: “Thinh tưởng Mi ngưng đi, chứ Ta đi đâu bao giờ mà nghe như vậy mà Mi nghe đó tức là cái thinh tưởng, Mi phát ra ở trong tâm làm cho Ta nghe cái tiếng động đó, Mi tưởng Ta nghe như vậy Ta tập trung theo Mi hả? Ta tập trung theo hành động chứ Ta đâu có tập trung theo tiếng động”, đó con thấy không? Con tác ý con phá cái âm thanh đó đi, thì con sẽ mất cái âm thanh đó đi thì cái tâm con sẽ gom trong cái hành động rất kỹ hơn là bị âm thanh đó phân tâm. Con hiểu không?
Bây giờ con gom hành động con mà con thấy cái hình ảnh thì con sẽ bị phân tâm, cho nên con bảo: “Mi dừng, Ta không có làm phim đâu mà Mi biến ra những cái hình ảnh đó”, con tác ý như vậy để bảo cho nó dừng thì một thời gian nó dừng. Bởi vì mình có ý thức là chủ động điều khiển mà “ý tạo tác, ý chủ động”, con dùng ý thức là con sẽ dẹp nó chứ không có cái gì hết.
Bởi vì đức Phật biết được cái ý nó chủ động như vậy, cho nên mới lấy cái ý mà làm chủ để dẫn mình vào cái pháp thiện mà ngăn các ác pháp. Nhớ như vậy thì các con thấy các con có một cái điều kiện để mà các con làm chủ đó là cái ý thức của các con, đừng để mất ý thức. Mà cái tưởng là nó luôn làm cho mất cái ý thức của mình.
(29:45) Tu sinh 4: Con có hai câu hỏi…
Câu hỏi thứ nhất: Con tác ý, con hay bị thùy miên, vô ký thì làm sao để tâm tỉnh thức?
Trưởng lão: Do cái tưởng con phá con, cho nên vì vậy thay vì con muốn phá cái tâm giải đãi thì con phải tác ý nó tinh tấn chứ gì, thì khi mà tác ý tinh tấn thì bắt đầu tinh tấn rồi thì cái tưởng nó lại hiện ra nó phá con bằng cái niệm thọ, nó làm cho con tức lói hoặc làm cho con mệt nhọc gì đó, do đó đặng cho con đừng có tinh tấn nữa chứ gì. Thì con phải thiện xảo, bởi vì đức Phật nói: “Phải thiện xảo”. Thì trong khi đó mình thiện xảo, mình đã phá được cái giải đãi của mình rồi thì ngay đó mình trở về cái sự an tịnh của thân tâm của mình. Thì con liên tục con sử dụng tất cả các phương pháp mà Phật đã trang bị cho mình trong những cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở.
Nhưng mà cái điều kiện con nhớ rằng: Mình phải chiến đấu tận cùng chứ không có được đầu hàng nó đó. Nghĩa là không được xả nghỉ, không được đầu hàng, phải tận cùng chiến đấu nó bằng những cái phương pháp này, thay đổi cái câu tác ý là tác chiến nó bằng cái câu tác ý khác để cho nó…
Bởi vì mình thấy cái lực của những cái pháp hướng tâm của mình nó có hiệu quả. Thì khi mà phá được cái này rồi thì nó hiện tượng nó đánh mình cái đòn khác, thì phải sử dụng cái pháp khác để đánh nó liền, mà khi nó được cái này rồi thì nó hiện tới cái khác nữa, con đánh liên tục không có tha nó chút nào hết, mà không đầu hàng nhất định là không thua trận. Thua trận là con nghỉ tu, con xả nghỉ đi ngủ hay hoặc này kia là thua trận đó. Trong lúc đó là tác chiến đánh trận, cho nên vì vậy mà sử dụng tất cả các năng lực của con, các pháp mà tu tập có những kết quả thì con sẽ đánh dẹp nó hết. Mình đừng có đầu hàng, đừng có sợ mà phải phá cho được cái tâm giải đãi của mình, chứ không khéo nó quen.
(31:49) Tu sinh 4: Khi mà nó mệt thì con tác ý là: “Phải tinh tấn lên nha!”, tác ý rồi con thấy tâm thanh thản vô, “cái tâm đừng có phóng ra nên quay vào nghỉ ngơi thanh thản”, thì nó kết quả. Còn tinh tấn cũng vậy thì: “Phải bám sát pháp tu để có nội lực vượt các chướng ngại trong tâm”. Nhưng mà kính bạch Thầy đó là những cái tự trong tâm mình nó phát ra. Còn chẳng hạn như những cái bên ngoài, gần nhất mấy ngày nay không thể nhiếp phục được những cái hôn trầm này thì con xin trình Thầy là thất tu của con nó rất gần với mấy người nông dân họ đổ một cái phân gì mà nó hôi nồng vô cùng. Kính bạch Thầy từ bữa đó đến nay thì con tu chẳng được, cứ mỗi lần đồ ăn như vậy nó tạt vào mũi thì con muốn ói liền, mà con không biết làm sao để nhiếp phục được nữa? Thì nó rất là hôi mà nó vô cùng nồng, nghĩa là không hít thở được nữa, hít thở không được. Kính bạch Thầy có thể nào mà mình ôm chặt pháp mình để đẩy lui được cái ô nhiễm ở ngoài môi trường ra khỏi thân thể mình được không?
Trưởng lão: Được chứ. Bởi vì con sẽ nghe cái pháp mà Thân Hành Niệm của Phật đã dạy đó, nó nhiếp phục và nó cán nát tất cả những cái chướng ngại pháp bên ngoài hết con, nhưng mà mình tu tập không kỹ cho nên mình cán không nát đâu. Mặc dù lúc bây giờ đó nó bắt buộc nó cái mùi hôi, mùi gắt, mùi nồng đó đi thì nó có về cái phần mà cái căn mũi của mình rồi, phải không? Thì lúc bây giờ đó con mới có cái duyên để mà tu tập, bắt buộc nó phải nghe vào cái thân hành, thì con lắng nghe cái bước đi hơn là nghe, mặc dù nó còn, nhưng mà con nỗ lực con ôm chặt chút xíu là nó hết nghe cái mùi nồng này. Do đó con đã chiến thắng được rồi.
Con mới thấy cái tâm của mình nó mạnh lắm con, nó không có cái ác pháp nào mà tác động nó được, chỉ có mình phải nỗ lực kiên trì ôm chặt pháp thân hành là con sẽ phá nó, trời nóng không nóng được, mà trời lạnh không lạnh được. Mà bất kỳ một cái mùi hôi, mùi thối nào ở ngoài tác động vào, thậm chí như Thầy nói bây giờ cho Thầy mà ngồi trong cái rừng thây ma đi, nghĩa là xung quanh nó để thây ma người ta nó sình hôi thối, nghĩa là lúc bây giờ nó hôi thối không ai chịu nổi hết, nhưng mà đối với một cái người như Thầy thì Thầy vô đó Thầy nhiếp tâm là không bao giờ có mùi thối, không thúi con. Bởi vì cái pháp Thân Hành Niệm mà!
Tu sinh 4: Thưa Thầy, từ hôm giờ mỗi lần ăn cơm thì không thể nhiếp cho kỹ được như tu, thành ra mỗi lần ăn cơm nó ói mà con cứ chừa cơm lại đó Thầy, bữa nào con cũng chừa lại chén đầy, không nuốt nổi…
(35:08) Trưởng lão: Tại vì các con không biết áp dụng pháp rồi, “ăn thì biết ăn không có biết mùi nha! Ngửi cái mùi cơm của mình đây nè”, cứ nhắc nó vậy đi. Ở ngoài nó phá thì con cứ nhắc nó vậy rồi tập trung, bởi vì khi tu pháp Thân Hành Niệm rồi con có cái lực tập trung gom tâm rồi. Mà như hồi nãy Thầy nói: gom sáu căn, cả thậm chí như con tập trung. Bây giờ cái ý thức con nó biết cái bước đi rồi thì con không mà cần tập trung cái ý thức nữa, con bây giờ con mắt con nhìn con đã biết nhìn cái hành động đưa lên đưa xuống rồi bây giờ con không có cần nó nữa, mà con cần cái lỗ mũi con phải ngửi cho biết cái hành động đi. Thì Thầy nói con tập một thời gian sau mà con tập đúng rồi thì có cái hương thơm, thúi gì ở bên ngoài nó không tác động được con đâu, con bảo: “Cái lỗ mũi quay trở vô mà thấy hành động, nghe hành động, ngửi hành động cho Ta”, thì con dặn nó một cái nó quay vô thì con không có nghe được cái mùi gì bên ngoài đâu.
Tu sinh 3: Kính bạch Thầy! Nói thêm về cái ngửi, ngửi cái hành động con chưa hiểu?
Trưởng lão: Bởi vì con chưa có tập, con cứ bảo nó phải ngửi cái hành động đi!
(36:03) Tu sinh 3: Con trình Thầy… Giờ này là con…
Trưởng lão: Gặp một chút xíu chướng ngại pháp là Thầy nói cái tâm nó không an rồi, vậy thì đức Phật nói: Khắc phục, nhiếp phục để cho cái thân tâm mình nó an. Vậy mà có chút vậy mà còn sợ vậy đó. Vậy là sao?
Tu sinh 3: Sợ cái thân này chịu không nổi!
Trưởng lão: Cái thân chịu không nổi thì cho mày chết đi, có gì đâu chuyện đó dễ thôi.
Tu sinh 3: Ngủ nó cũng nghe được cái mùi đó Thầy. Cái mùi đó con nghĩ đó là cái mùi nước mắm… Khi con tập thiền hành thì con không có ngửi nữa, nhưng mà khi con đi ngủ thì cái lúc con đang ngủ thì cái mùi đó nó không có nồng nặc như lúc…
Trưởng lão: Thì con có duyên với ác pháp gần thì tốt chứ sao. Theo Thầy thấy lâu lâu, nó đâu phải nó rãi hoài sao, nó thử mình một trận thôi. Do đó các con cứ chiến đấu “Ta chiến đấu để coi cái tâm Ta chịu nổi không? Cho Mi chết đi”, nó không có chết đâu các con sợ!
Tu sinh (không nghe rõ)
Trưởng lão: Không, ít bữa nó sẽ hết, con thấy trước kia nó không có tất cả những ác pháp khác, nó vô thường.
Tu sinh 4: Phải mưa một trận thì nó mới hết được cái mùi…
Trưởng lão: Các con không quán nhân duyên, không quán nhân quả, rồi không dùng pháp đẩy. Thầy nói sự thật ra các con nhớ rằng: khi mà tâm chúng ta bị động thì bao nhiêu nó cũng vô trong đó hết, mà không động thì mặc tình nó vô, rồi nó cũng phải đi.
Tu sinh 4: Hôm nào cũng ói Thầy!
Trưởng lão: Con ói là tại vì con quá động!
(38:04) Tu sinh 3: Thầy giờ trở lại cái vấn đề Thầy giảng cách thức thế nào mà để ngửi cái hành động của mình kịp Thầy?
Trưởng lão: Thì bắt đầu bây giờ con muốn tu tập về cái pháp để mà ngửi được cái hành động của mình. Bởi vì cái hành động của mình nó đâu có hôi, phải không? Cái hành động của mình nó chỉ có con mắt mình nó nhìn, cái cảm giác mình nó co lên, co xuống vậy nó biết thôi, thì đó là cái phần mà nó nhận xét ra từ lâu nay ai cũng làm cái đó được, cũng biết cái đó được. Nhưng mà đến bây giờ thì chúng ta ngửi cho được cái mùi vị của cái bước đi. Tất cả mọi cái gì nó cũng có mùi vị hết chứ không phải không có.
Tu sinh 4: Kính bạch Thầy! Tưởng ra để ngửi hay là tự nhiên nó có mùi?
Trưởng lão: Không phải tưởng con, mà mình cứ bảo nó: “Phải ngửi đi, cứ ngửi”, rồi nó tập trung nó gom vô trong đó rồi chừng đó nó phát giác ra. Chứ con tưởng nó là thúi hoặc là tưởng thơm coi chừng cái tưởng nó ra đó, “Bây giờ tôi đi sao mà nó thúi quá!” hay là “Tôi đi nó thơm quá!” thì bị dẫn đi, nó trật đi, không có được. Con có biết cái mùi vị của “đi” nó ra làm sao đâu mà con tưởng, không ai mà tưởng nổi cái này đâu, phải không? Con chỉ tưởng qua một cái thúi hoặc một cái thơm thôi là nó trật hết rồi, không có đúng.
Cho nên vì vậy bắt buộc mình phải mở cái lỗ mũi, phình cái lỗ mũi to lên ngửi cái hành động. Bây giờ đưa cánh tay, “Mi ngửi cái hành động của cánh tay Mi đưa ra coi”, mình ngửi thử coi, mình hít vô. Như vậy rõ ràng là mình đang tập trung rất là cao, nhưng mà cuối cùng mình phát giác ra được cái mùi của cái hành động. Chứ bây giờ Thầy nói hành động cái mùi của nó thì Thầy nói làm sao cho được, nó có cái ngôn ngữ nào mà Thầy nói! Chỉ có các con tu rồi các con mới thấy “như vậy Thầy nói đúng”, phải không?
(39:47) Thì các con thử cánh tay Thầy đưa ra vậy, thì bắt đầu “hít vô thử coi nó ra sao?”. Mình đưa ra rồi mình hít vô coi cái hành động này cái mùi nó như thế nào? Rồi bắt đầu bây giờ nó có cái mùi tro nó chạy… thì như vậy là cái mùi tro chứ không phải cái mùi hành động.
Tu sinh 3: Vậy chắc cái mùi hành động là mùi của khí, mùi từ trường hả Thầy?
Trưởng lão: Thì bây giờ con nói cái mùi từ trường, cái mùi khí thì Thầy nói nó cũng vậy, cái danh từ chung chung làm sao mấy con…
Tu sinh: Cái này phải tưởng tượng?
Trưởng lão : Cái này tu rồi, mình ngửi nhiều rồi bắt đầu thâm nhập được rồi, mới thấy được cái mùi vị của cái hành động của nó.
Tu sinh: Vậy bây giờ ráng ngửi…
Trưởng lão: Nhưng mà coi chừng cái tưởng của con nó sẽ xen vô. Cho nên vì vậy thật sự ra cái này là mình tu tập, cho nên gọi là hộ trì sáu căn. Thì cái sự hộ trì sáu căn, trong cái mũi của chúng ta, cách thức hộ trì, thì cái phương pháp mà nhắc cho nó: “Cái mũi phải ngửi cái hành động đi”, thì bây giờ cái hành động thay vì cái hành động mình đưa ra thì cái ý thức của mình nó biết cái hành động đưa ra và cái nhìn, cái ngó của mình nó biết. Bây giờ các con muốn tập cái ngửi của nó thì con phải tập nghe cái hành động, nghe cái hành động trước rồi ngửi cái hành động sau, thì các con mới ngửi được cái hành động, mới nghe được. Khi mà nghe được cái hành động thì các con mới ngửi được cái hành động.
Bởi vì cái hành động này nó có phát ra âm đâu, thế mà chúng ta nghe được con, nghe được cái luồng gió quá nhẹ nhàng của nó đi, mình dở lên mình nghe được cái luồng gió đưa lên, thì phải tập luyện nó. Rồi bắt đầu nghe tức là gom, khi mà nó gom rất là tận cùng.
Con nghe một cái người mà tu tập tỉnh thức, có một vị Tứ Tổ mà tập tỉnh thức, ông ta vào cái thất, ông nói hai con rệp mà nó cắn nhau nó tranh đấu chạy rần rần, ông ngủ không có được, mà con rệp mà nó chạy nghe rầm rầm, thì người ta nghe được cái tiếng “rầm rầm” của hai con rệp, con kiến đi ở trên cái nền nhà như thế mà người ta nghe nó “sột sột”. Thì các con thấy như thế nào? Các con có nghe được cái tiếng đó không? Thế mà người ta nghe được, là tại vì người ta gom được cái tâm người ta trong cái hành động đó. Phải không?
(41:48) Rồi bây giờ ngửi được, tức là khi mọi vật nó đều có cái mùi vị của nó: cái chai này nó có mùi vị, cái ly này có mùi vị, cái máy này có mùi vị mỗi cái mùi vị nó có khác nhau. Nhưng bây giờ các con thử coi cái máy này có mùi vị gì không? Cái ly này có mùi vị không? Phải không? Chưa có ngửi được. Nhưng mà nó có, tại vì cái mũi con chưa có tập ngửi, phải không? Mình ngửi được bây giờ ngồi đây mà người ta ngửi được cái mùi hương mà cách đây cả triệu cây số mà người ta ngửi được. Là có phải mấy con phải tập, kêu là gom tâm của mình tận cùng để mà sáu căn của mình tận cùng để mà nó tỉnh thức đến cái mức độ đó nó mới ngửi được, chứ đâu phải.
Còn bây giờ chưa có tập luyện tới cái chỗ này thì mấy con ngửi sao cho được. Mà không tập luyện mà bây giờ ngửi làm sao, hỏi Thầy: “Cái mùi gì đâu?”, Thầy làm sao Thầy nói được, phải không? Cho nên mình phải tập, tập rồi mình sẽ thấy được cái chỗ ngửi của mình. Cũng như bây giờ mình tập nội cái ý thức thôi mà còn vọng tưởng tới lui như thế này, nhiếp phục ý thức còn chưa được thì thử hỏi mình đòi đi ngửi, mình đòi đi nghe thì nghe cái gì mà nghe cái chuyện như vậy? “Nói tôi làm sao tôi nghe cái tiếng động của con kiến nó đi dưới cái nền nhà này?”, trong khi mình không tập, thì làm sao được phải không?
Cho nên các con thấy sáu căn nó là vấn đề mà đức Phật gọi là: Phòng hộ sáu căn, chứ đâu phải phòng hộ một căn đâu. Mà phòng hộ sáu căn là một cái pháp đoạn tận lậu hoặc, nghĩa là đoạn tận hết lậu hoặc của chúng ta. Thì nó thính quá thì có lậu hoặc nào xen vô được nó đâu! Hở ra một chút thì nó nghe, hở một chút nó thấy, hở một chút ý thức nó được liền tức khắc, thì đâu có làm sao tác động được cái tâm của nó, cho nên tâm nó bất động. Cái pháp phòng hộ nó rất tuyệt vời mà.
Thì như vậy bây giờ chúng ta mới tập được ý thức, mà ý thức chưa trọn vẹn. Cái ý thức của chúng ta tập cho nó biết cái hành động này, hành động kia thì nó chưa trọn vẹn, nó chưa trọn vẹn là tại vì nó có niệm phóng dật, phóng tâm. Thế mà rồi khi mà cái ý thức hoàn toàn nó không phóng niệm, phóng tâm thì các con bảo cái mũi nó ngửi nó ngửi mau lắm. Còn cái ý thức của mấy con chưa có trọn vẹn, cho nên vì vậy mà bảo cái mũi mấy con thấy sao nó ngửi không có được. Nó ngửi cái hành động sao nó không có biết gì hết, phải không?
Cho nên ở đây các con phải cố gắng tập được cái ý thức, rồi vì vậy mà đầu tiên Thầy dạy các con khi mà Thân Hành Niệm, bắt buộc các con khi mà nói “Chân trái bước” thì các con khi mà ra lệnh rồi, thì con mắt các con phải nhìn từ cái chân của con từ chân trái xuống, chứ chưa hành động, phải tập trung cái mắt mình nữa, rồi cái ý thức để mà biết nó nữa rồi, phải không? Rồi bắt đầu bây giờ “Dở gót lên” thì lúc bây giờ mình nhìn coi cái chân của mình dở lên như thế nào, dở lên rồi bắt đầu dở cái chân lên thì cái mắt mình nhìn và cái ý thức nó tập trung trong cái hành động này. Các con thấy rõ ràng như vậy là mình đang tu tập có hai cái chứ mấy cái kia chưa có.
Bây giờ được hai cái này rồi bắt đầu gom cái lỗ tai vô “nghe cái hành động bước nè”, rồi nó nghe được rồi bắt đầu mới gom cái lỗ mũi vô, gom từng phần vô chứ. Bây giờ sáu cái con vật mà các con cột con này trước, cột con kia trước, chứ mình con làm sao con lôi sáu con cột lại một lần, làm sao hai tay mình làm sao nắm sáu con vật này? Phải cột cái con này được rồi, rồi mới cột con khác, cột riết cột sáu con này vô một cục nó nằm đó rồi thì bắt đầu là mình giải phóng mình rồi.
(45:07) Tu sinh: Kính bạch Thầy! Cái đó gọi là nhiếp phục tâm phải không Thầy?
Trưởng lão: Nhiếp phục tâm đó con. Cách thức là phải bắt nó lại, cột nó lại hết, cột nó lại hết thì nó không phóng chứ gì. Tại vì mấy con cột nó không hết cho nên nó phóng ra, nó theo cái chỗ mà chưa cột nó phóng, có đúng không? Đó cho nên vì vậy, phòng hộ sáu căn là cái phương pháp, mà cái phòng hộ sáu căn là cái hạnh độc cư để giúp cho phòng hộ mới làm nổi, còn không hạnh độc cư thì không nhiếp tâm không hết. Mà cái lỗ tai nó mạnh nó nghe cái gì đó nó kéo luôn cả ý mình đi theo, tụi nó với nhau theo cái ý mà, cứ con nào nó mạnh nó kéo cái kia.
Do đó bây giờ… cho nên ai la ngoài nó cũng không nghe, tức là an trú luôn cả lỗ tai.
Tu sinh 4: Cái thinh trần cũng dễ hơn, mà con thấy qua cái hương trần thì con thấy…
Trưởng lão: Là tại vì hồi nào tới giờ đâu có tập nó, thả lỏng cho nó, con thả nó đi rong ruổi, cái lỗ mũi con nó thả rong ruổi chứ con đâu có cột. Cho nên bây giờ nó gặp hôi, gặp thối thì nó chạy nó phóng, nó đâu có thèm vô trong thân con nữa, con hiểu không? Hồi nào mình tu mấy cái kia cho nên mình gọi nó còn vô, còn gặp cái thằng lỗ mũi này hồi nào tới giờ đâu có rầy la nó đâu, cho nên bây giờ nó gặp mùi thì tức là nó phải phóng nó chạy. Mà nó chạy ra thì nó tiếp nhận nhiều như cô Cảnh đó thì nó mới mệt nó chạy vô chỗ này, chứ còn không thì mấy con còn bền chí đó, còn gan đó còn cô Cảnh cô hoảng sợ. Cho nên cô tiếp nhận nhiều quá.
(46:28) Tu sinh 4: Với lại tại cái thể lực cô cũng yếu. Nó cũng già rồi, nó yếu… nó không đủ khả năng làm chủ…
Trưởng lão: Cái sức đề kháng không đủ.
Tu sinh 3: (46:37-46:59: không nghe được)
Trưởng lão: Không Thầy nói cho, để trả lời cho thấy, con hỏi như vậy là đủ rồi. Khi mà nó làm con mệt như vậy là tại vì con nhiếp tâm con không được, nhiếp tâm không có được cho nên lúc bây giờ con hồi nào tới giờ con tưởng mình nhiếp tâm được nhưng mà gặp cái chướng ngại… con nhiếp tâm không vô. Bây giờ con mới thấy cái sức nhiếp tâm con còn yếu, tại vì cái thói quen con tập luyện nó quen vậy chứ cái cách thức mà con cột cái tâm, con cột không được, cho nên bây giờ gặp một cái chướng ngại pháp nó phóng ra. Cho nên vì vậy hiện giờ nếu mà cơ thể con bây giờ đau ngặt nghèo là con không làm chủ được.
Con biết cái mùi hương như vậy đó, cái mùi thối như vậy, mùi hôi vậy mà con không làm chủ được thì cái sức đau nó còn gấp mấy lần không làm chủ nổi. Cho nên tới chừng mà nó mệt con biết không, bây giờ nội nghe cái đó nó còn mệt con, còn huống hồ tới chừng thân con mà nó tự động nó mệt thật mà nó sắp sửa chết con biết nó khổ sở ghê gớm, nó mệt rồi nó mới chết con, nó thở không được rồi nó mới chết. Cho nên nó mệt nó khó chịu, nó làm cái người khổ lắm. Bởi vậy người ta nói chết là khổ mà, cho nên trước khi chết khổ.
Cho nên chúng ta tập làm chủ mà ngay cái chuyện đó có chết chóc chúng ta bao giờ đâu mà nó còn làm mệt, mệt vậy chưa chết đâu, chứ nó mệt thật sự mà mệt để chết nó mệt gắt, vậy mà người ta làm chủ không mệt. Cho nên ngay bây giờ mình tập để rồi mình sẽ làm chủ, gặp cái khó này, gặp những cái chướng này mới là chính chỗ mình đấu đá.
Bây giờ đó: “Lỗ mũi Mi ngửi, Ta cho Mi ngửi, Ta cho Mi ra Mi ngửi đi, Ta không có sợ đâu. Bây giờ đó Ta bảo phải nghe lời, phải quay vô, phải nghe từng hành động, nghe từng hơi thở”, con lấy hơi thở con làm cái chỗ mà bám, tức là con chưa nhiếp phục được tâm mình. Chứ con nhiếp phục được tâm mình con bảo: “Biết hơi thở, nghe hơi thở, ngửi hơi thở này”, con ra lệnh như vậy thì bắt đầu con an trú trong hơi thở là con sẽ không nghe.
Con nên nhớ là khi mà cái người Thầy bị đau những cái lúc mà nó lạnh, kêu là cảm lạnh đó, mà Thầy bảo: “Ôm cho chặt hơi thở, chết cũng ôm chặt hơi thở không có sợ lạnh”, ngồi sững xương sống lên vậy, bắt đầu thở ra thở vô, cái hơi thở ra vô một lúc sau nó không có, nó phá được. Con không an trú được, khi mà bị như vậy con chỉ an trú trong hơi thở là hết liền. Thầy nói thật sự ôm chặt hơi thở đi, đừng có lìa cái phao, lìa cái phao là mình rớt xuống biển rồi.
Tu sinh 4: Bạch Thầy, mà rơi xuống sao mình thở được, không thể thở được?
(49:20) Trưởng lão: Bởi vậy con chưa an trú cho nên nó…
Tu sinh 4: Hít vô, tất nhiên là cái mùi nó vô, nó vô trong phổi là nó muốn ho ra, mới sặc sụa ra, nó lên luôn trên óc luôn.
Trưởng lão: Bởi vậy khi mà con dùng hơi thở con nhiếp phục không được thì con dùng có cái pháp Thân Hành Niệm Ngoại con đi thì làm sao con thở, phải không?
Tu sinh 4: Dạ! Cái đó thì được.
Trưởng lão: Được thì bây giờ cái này không được thì mình có cái khác, ông Phật ông cho mình nhiều cái phương pháp chứ đâu phải một phương pháp. Cho nên bây giờ hít thở mà dè cái mùi nó cứ vô cái hơi thở của mình thì không được, phải không? Bây giờ nếu mà mình nhiếp phục trong hơi thở được.
Tu sinh 4: Đó là hương trần thì làm sao mà thở được nữa Thầy, đã mắc kẹt cái hương trần rồi.
Trưởng lão: Bởi vậy ở đây nó phải khéo léo và thiện xảo, linh động. Nếu quả chăng bây giờ hương trần mà mình dùng cái lỗ mũi của mình để ngửi cái hơi thở mà không ngửi cái mùi hương đó, vì vậy mà khi đó mình chỉ còn duy nhất mình thở, mình biết có hơi thở, ngửi có hơi thở thôi, thì mình đã loại trừ ra được bằng cái đối tượng đó thực tế hơn là cái sức của mình mạnh lắm. Bởi vì cái mùi đó nó hòa lẫn với cái hơi thở của mình, mình hít vô thì nó lọt vô đây, mà mình không có chia nó ra được với cái mùi hơi thở của mình, cho nên vì vậy mà mình bị cái đó tác động. Sức mình còn yếu, thì bắt đầu bây giờ mình tập vào cái Thân Hành Niệm thì mình sẽ đánh bại nó ra liền tức khắc. Mình có hít thở đâu mà sợ, nhiều khi tôi nín thở tôi đi thử coi nó như thế nào, tôi đi từ đây tới kia tôi mới thở một cái, thì do đó làm sao mà nó hít vô trong nhiều được.
(50:45) Tu sinh 3: Kính bạch Thầy không biết con có tập gì sai hay không mà cái mùi đó mới mà ngửi thì con thấy nó có cái mùi rất là lạ, rất là nặng, nhưng mà con chấp nhận nó. Con nghĩ là: “Trong cái không gian này nó có quyền bằng nhau, sự hiện diện của tất cả mọi thứ, thơm hay thúi này kia rất tự nhiên”, vừa có ý tưởng đó lên thì con không còn cái cảm giác gì khó chịu nữa. Như vậy có cái gì sai hay không hả Thầy? Tại vì con không cảm thấy khó chịu với mùi thối. Ngay cả có lần con ngồi ngay đống cứt, thì con cũng biết là cứt thì đương nhiên nó thúi vậy thôi, mình đâu có mong cái mùi khác được, cái tự nhiên con chấp nhận nó con ngồi sát một bên đó luôn, nhà con mới nói: “Thôi đi đến chỗ khác ngồi cho nó xa xa ra”, con nói: “không”. Nhưng mà có một cái đống nữa nó sát ở bên trong con, nó gần hơn, có thể con đi đâu con cũng mang nó theo hết trơn, cái tự nhiên từ đó con chấp nhận tất cả các mùi đến nó dễ dàng lắm Thầy!
Trưởng lão: Bây giờ Thầy nói như thế này. Đó là một cái phần bất động tâm, cái phần đó là bất động tâm, còn cái mùi thúi nó vẫn thúi mình không động tâm.
Còn mình đẩy lui cái chướng ngại của mùi thúi thì bằng cách nào? Mình ức chế, nhiếp phục tâm mình vào cái đối tượng khác, cái này nó phần khác. Cũng như bây giờ đau thì biết đau, nhưng mà tâm thì không dao động, kệ nó đau thì đau. Thì Thầy nói cái đau nó cũng giảm xuống nó cũng không làm tác động mình, cái mùi thúi nó cũng vậy, nó bất động tâm rồi, cái phần mà con nói đó là thuộc về bất động tâm. Cho nên con ngồi con vẫn biết thúi chứ không phải không biết, nhưng mà con không sợ, đó là bất động tâm, nó khác con, cái phần đó là phần khác.
Tu sinh 3: Đó là do quán mà nó được hả Thầy?
Trưởng lão: Quán được con, nó là quán bất động tâm đó.
(52:37) Tu sinh 3: …
Trưởng lão: Như vậy là con chạy theo dục, con không chiến thắng, bởi vậy con luôn luôn lúc nào cũng không làm chủ. Gặp pháp thì nó đẩy con chạy thì con chạy chứ con không có làm chủ được nó. Thành ra nghĩ mình điên, mình ngửi, sự thật không phải ngửi mà mình làm chủ, tự cơ thể của mình nó sẽ đẩy tất cả những cái độc tố ở trong những cái vật, chất độc đó nó đã thâm nhập vào hoặc là cái lỗ chân lông hoặc là cái lỗ mũi của mình, hoặc là tất cả những cái cơ thể của mình. Nhưng mà cái cơ thể mình nó đâu có chịu, hoàn toàn nó đẩy tất cả những cái chất độc, tức là nó đề kháng con.
Đừng có sợ, mấy con cứ nghĩ rằng: “Mình hít vô đây chắc lẽ là lát nữa mình chết”. Càng sợ nó bao nhiêu thì nó lại tiếp nhận vô, cái sức đề kháng của mình yếu; còn mình không sợ nó, sức đề kháng nó mạnh. Cho nên con ngồi ở bên cái bãi phân rất là thối, nhưng mà bất động tâm con thì cái sức đề kháng của thân con nó làm cho con thấy thản nhiên, thúi thì có thúi nhưng mà nó không có ngại gì hết.
Cho nên những cái này là nó thực hiện những cái tri kiến quán của con nó thông suốt cho nên tâm của con bất động. Còn mấy con thấy bây giờ đứng trước những cái khó khăn mới thấy được cái chỗ yếu của mình, cái chỗ yếu, cái chỗ mình chưa tu được. Về cái tri kiến Tâm Như, Kim Tiên, Tâm Hạnh nó nói, cái tri kiến của nó có quán xét về cái vấn đề mà chiến thắng được, cho nên đó là cái bất động tâm đó. Đó là cái phương pháp bất động tâm; Ly, làm chủ được mình; ly những cái ác pháp ra đó.
Còn bây giờ về cái phần mà nhiếp phục ở trong cái phần định, để mà nhiếp phục làm cho cái hương đó nó không còn có tác động được, đó là nhiếp phục mà Thầy nói là nhiếp tâm đó.
Cho nên Thầy muốn nói các con nó có hai phần: Tri kiến giải thoát và cái phần mà Định giải thoát. Cho nên cái phần định giải thoát là cái phần nhiếp tâm, nhiếp tâm cho được, mà mình chưa nhiếp tâm được là lúc bây giờ nó gặp cái chướng ngại pháp.
Ví dụ như: Nó bình thường vậy thì con nhiếp tâm con thấy nó vô hơi thở, con thấy nó thở an ổn hoặc bước đi an ổn, nhưng gặp chướng ngại pháp bắt đầu con nhiếp không vô, tức là sự thật ra mình chưa có tập nhiếp tâm, nhiếp tâm chưa có cái lực.
Cho nên bây giờ mình muốn tập cho có lực thì trước cái cơn cảm thọ đau đớn trong thân của mình nhiếp tâm là hết đau, cho nên nó có những cái phương pháp của Định Niệm Hơi Thở để nhiếp tâm cho hết đau đó: An trú thân hành, an trú tâm hành chứ gì. Thì các con sẽ sử dụng những cái này thì các con sẽ đẩy lui được chướng ngại pháp.
Tu sinh: (55:02-55:17: không nghe được)
Trưởng lão: Về phòng hộ nhiếp phục. Ví dụ như con bị tiếng động thì con nhiếp phục về cái lỗ tai, mà con bị cái mùi hôi thì nhiếp phục cái mũi. Thì bắt đầu con bảo nó nghe trong cái hơi thở, nghe bước đi của con, ngửi cái bước đi. Thì bắt buộc cứ cố gắng, khi mà con bảo cái căn nào đó nhiếp phục cái căn, phòng hộ cái căn đó, thì khi mà bảo cái căn đó thì con cố gắng.
Ví dụ như về cái mũi của con thì lúc bây giờ con cố gắng con ngửi cái hành động của con, con tập một thời gian sau nó thuần là nó được, hễ bảo nó ngửi thì bắt đầu nó gom vô, thì nó sẽ không còn nghe cái mùi ở ngoài, không có gì. Đó cũng là cái phương pháp tập luyện thôi, mà nó thuộc về cái Định của nhiếp tâm của mình.
Còn cái tri kiến thì nó thuộc về quán để nhiếp tâm để làm cho tâm mình bất động, thì cái kia cũng làm cho tâm… nếu mà con có ngửi được cái mùi thối đó nữa thì cái tâm con nó sẽ bất động, còn bây giờ nó cứ ngửi thì nó sẽ bị động, có vậy thôi. Cho nên khi mà con dùng cái định mà con ức chế cái tâm của mình để nhiếp phục cái tâm của mình vào, để nó ngửi vào mà nó không được thì con phải dùng cái tri kiến để mà con quán con xả, thì do đó con cũng bất động thôi có gì đâu. Hai cái phần này chúng ta đều có thể tu tập được hết, tùy theo.
Tu sinh: (56:35-56:39: không nghe được)
Trưởng lão: Chúng ta đó là cái thân nhân quả, nó tạm thời cho chúng ta yên vậy thôi, chứ còn sự thật ra thì nó vẫn là phải bệnh. Cho nên vì vậy mà tiếp tới để cho mình tu tập tới để cho mình đủ cái lực để làm chủ sự sống chết. Chứ còn nay nó yên yên rồi thôi, bây giờ nó bớt thì thôi mình tu lơi lơi chơi lại thì cái kiểu đó không có đạt được cái kết quả sau cùng đâu, cho nên mình phải tu tập cho nó đúng cách. Cho nên bây giờ nó yên được thì ráng tu tập.
Tu sinh : (57:09-57:19: không nghe được)
Trưởng lão: Phương pháp một cái là mình nhiếp phục tâm mình vào trong cái thân hành của mình hoặc là hơi thở hoặc là cái hành động của thân ngoại, đó là cách thức mình nhiếp tâm mình vào trong định. Thứ hai là mình dùng cái tri kiến mình quán xét thì mình thông chạy chứ có gì đâu, chuyện đó đâu có sợ. Mà tự cái thân của mình khi mà nó tiếp những cái hơi thối vậy đó thì tự nó đề kháng, nó không có đến nổi mà để cho mấy con bệnh đâu. Đều tại vì các con hơi dao động tâm đó, cũng như cô Kim Tiên cô dao động tâm, nó bắt ăn cơm cô nghe cũng ớn quá. Đó thì dao động tâm nó mới ớn. Còn nếu mình bất động tâm rồi thì kệ nó không ăn thua gì nữa hết, nó không có lo.
Tu sinh Kim Tiên: Con ngủ mà nó cũng muốn ói quá, cái mùi hôi đó, con ráng con nằm…
Trưởng lão: Mùi hôi, cái mùi thối mà bị…
Tu sinh Kim Tiên: Không biết cái phân gì nhưng mà con chỉ nghe hôi, chứ không biết phân gì nó hôi?
Trưởng lão: Cái đó là những cái phân hỗn hợp của người ta…
Tu sinh Kim Tiên: Bữa nay họ cày họ lấp rồi nó cũng đỡ.
Trưởng lão: Càng có đối tượng thì càng tu nó mới tốt chứ sao.
Tu sinh Kim Tiên: Tại vì con chưa có hiểu cách thức cái đề kháng của mình nó đẩy cái chất độc ra sao, nếu như con biết thì con an tâm, nó thúi mà nó không…
(58:31) Trưởng lão: Đề kháng mình nó không đủ mạnh thì nó sẽ bị bệnh chứ không phải là bệnh, mà mình vẫn bất động tâm thì tức là tất cả những cái chất độc gì ở ngoài nó không tác động được nó. Mà cái người bất động thì nó sẽ đẩy lui hết tất cả. Các con biết cái thân của mình cái sức đề kháng nó mạnh lắm vì mình dao động tâm mà mình làm giảm bớt cái sức đề kháng của nó. Các con hiểu cái điều đó. Cho nên Thầy biết được cái sức đề kháng nó mạnh lắm, nhưng mà giữ tâm mình bất động là cái sức đề kháng rất mạnh, mà tâm dao động làm cho cái sức đề kháng của thân của mình nó giảm xuống, mười phần nó giảm còn năm.
Tu sinh Kim Tiên: Bữa nay con mới nghe Thầy giảng trạch con an tâm, con không có sợ nữa.
Trưởng lão: Thì có Thầy mà mấy con biết rằng Thầy là người an tâm của mấy con nhất. Có bất kỳ một cái gì nghe Thầy nói rồi thì an tâm.
Tu sinh Kim Tiên: Bữa nay Thầy nói thật cụ thể con an tâm thật đấy chứ, lâu nay thì con không biết, mà biết thì hôm nay con mới vững vàng.
Trưởng lão: Đúng là con chưa có hiểu cái sức đề kháng của cái thân mình nó ảnh hưởng đến cái tâm mình nhiều lắm. Cho nên vốn đạo Phật dạy cho mình bất động tâm là cái chỗ để cho tâm mình nó bất động đó, thì tự nó sẽ đẩy lui tất cả các cái nghiệp, tức là nói chung nó chuyển hóa được tất cả các nghiệp ác khổ của mình.
Tu sinh Kim Tiên: Thật là hy hữu, con rất là mừng những cái lời dạy của Thầy, nhất định con sẽ tận lực, cố gắng khắc phục.
Trưởng lão: Cố gắng khắc phục nó, không có gì đâu, không có gì sợ.
(59:50) Tu sinh 1: Con tu Thân Hành Niệm trong mười hai tiếng đồng hồ… mười hai tiếng nó gián đoạn lúc có niệm lúc không hay là phải trong mười hai tiếng xuyên suốt đêm không có niệm?
Trưởng lão: Nó suốt đêm con, không có được gián đoạn. Bây giờ gián đoạn là mình xả mình nghỉ một chút rồi mình tu lại thì gián đoạn, hoặc có một cái niệm gì nó xẹt vô đó thì nó cũng bị gián đoạn. Suốt đêm mà nó không có niệm gì thì bảy giác chi nó mới xuất hiện đủ. Bởi vì cái thời gian của nó đã quy định Nhất Dạ Hiền rồi, thành ra nó phải đúng mười hai tiếng đồng hồ. Nếu mà đúng được mười hai tiếng đồng hồ thì hai mươi bốn tiếng đồng hồ được, mà hai mươi bốn tiếng đồng hồ được thì bảy ngày đêm được. Nó định tỉnh bảy ngày đêm liên tục, không đói, không khát, không gì hết mà cái thân nó sung mãn.
Các con chưa thấy cái pháp Thân Hành Niệm nó tuyệt vời ở chỗ này lắm, mấy con không ngờ đâu. Nghĩa là mười hai tiếng đồng hồ được, khi mà mười hai tiếng đồng hồ mà nó không gián đoạn tức là nó không bị một niệm nào xẹt trong đó, không bị phóng tâm, phóng dật gì là nó mới bảo đảm. Còn con thí dụ mười hai tiếng đồng hồ con chỉ cần nghỉ chút xíu thôi, xả ra chút xíu thôi, bỏ rơi cái thân hành mình một chút thôi, tâm mình vẫn tốt chứ nó không có niệm gì, nhưng mà con chỉ nghỉ một chút đừng có chú ý cái thân hành thôi, nghĩa là bỏ thân hành đi mà tâm nó vẫn không phóng gì hết, nó vẫn yên tĩnh thì nó cũng bị gián đoạn rồi đó. Nghĩa là luôn luôn nó phải ôm chặt trên cái thân hành của nó không có kẻ hở mà suốt mười hai tiếng đồng hồ. Mà suốt mười hai tiếng đồng hồ được thì hai mươi bốn tiếng đồng hồ được, thì hai mươi bốn tiếng đồng hồ thì trưa con quên ăn đi nó không đói, mà nó không mệt, nó không gì, nó khỏe lắm.
Rồi hai mươi bốn tiếng đồng hồ được thì bốn mươi tám tiếng đồng hồ nó sẽ tiếp tục nó sẽ không mệt không gì hết, nó cũng không đói khát, mà cũng không đi cầu, đi tiểu, đi giải gì hết, hoàn toàn nó rất an lạc nó không đi cầu gì hết. Đó là nó đã định tỉnh của nó được.
Tu sinh 1: Một trăm phần trăm hả Thầy?
Trưởng lão: Một trăm phần trăm đó con. Nghĩa là con kéo dài bảy ngày không ăn uống vẫn đi kinh hành như vậy mà vẫn thấy khỏe trong người của mình không thấy mệt. Pháp của Phật tuyệt vời mà, nó nhiếp phục được hết, nhưng mà thiếu cái điều mình tu không tới thôi.
Tu sinh 1: Mình không ngồi nghỉ luôn Thầy?
Trưởng lão: Không ngồi nghỉ, không gì hết mà đi suốt mười hai tiếng đồng hồ không ngồi nghỉ mà không mệt gì hết, mà càng đi càng khỏe.
Cái pháp nó hay vậy đó, rồi bây giờ con mười hai tiếng đồng hồ được rồi con đi luôn suốt mười hai tiếng đồng hồ nữa là hai mươi bốn tiếng đồng hồ, đi như thường. Mà thay vì tới trưa thì con đói bụng chứ gì, nó không đói bụng đâu, nó không có đói gì hết, mà cái thân nghe nó khỏe khoắn lắm, nó không biết mỏi mệt, không biết gì hết. Khi mà nó hoàn toàn một trăm phần trăm, nó định tỉnh một trăm phần trăm.
Tu sinh Kim Tiên: Vậy mà con nghĩ rằng mình giữ cái tâm thôi chứ cái thân để cho nó nghỉ chứ nó đi hoài nó đi không nổi.
Trưởng lão: Tới chừng đó cái thân sung mãn.
Tu sinh Kim Tiên: Thành ra con cứ tu bốn mươi lăm phút thôi, con tu một tiếng con tu không nổi, con nghỉ mười lăm phút con mới tu lại.
Trưởng lão: Có gì không con?
Tu sinh: Có ai lên gặp Thầy?
Trưởng lão: Chờ Thầy chút xíu.
Tu sinh: (không nghe rõ)
(1:02:56) Trưởng lão: Thầy nói các con chưa có cần cái pháp Thân Hành Niệm đâu các con. Cái pháp Thân Hành Niệm là cái pháp rất tuyệt vời! Nhưng mà bây giờ các con cứ tập từ từ thôi, còn bây giờ cái sức của các con, nhớ là Thầy nói như thế này: Khi mà tâm nó chưa một trăm phần trăm định tỉnh như vậy mà các con cố gắng đi là các con hoài công, mà các con còn bị mệt người. Sau khi một hồi đi thì các con không có mệt đâu, nhưng mà xả nghỉ rồi nó sẽ vật các con trở lại, nó mệt nhọc lắm.
Khi nào các con thấy rằng, Thầy nói khi nào các con nhiếp phục được cái tâm của mình trong Thân Hành Niệm rồi mà nó không có một kẻ hở nào hết, hoàn toàn nó luôn luôn nó biết cái thân hành của nó, nó định tỉnh trên đó, nó không phóng tâm phóng dật cái gì bên ngoài nó cũng không. Sáu căn của các con nó phải quay vào trong toàn bộ, nó không bị một căn nào mà lôi ra ngoài được, thì lúc bây giờ các con đi suốt đêm mới được mười hai tiếng đồng hồ. Còn nếu không các con đừng có đi, các con ráng các con đi là các con tự hoại diệt các con đó. Nguy hiểm lắm!
Cho nên khi nào mình xét thấy đúng là mình đi. Cho nên Kim Tiên hỏi Thầy về vấn đề đó, thì đừng có tập điên mà phải xét tâm mình, bởi vì cái pháp này nó rất rõ ràng cụ thể. Mình đi một tiếng đồng hồ buổi sáng, buổi chiều, buổi tối, buổi khuya mình đi, mình thấy hoàn toàn nó không có, nó hoàn toàn gom vô, nó hoàn toàn nó không có niệm, hoàn toàn nó định tỉnh từng hành động rất rõ ràng thì mình sẽ tăng lên; còn chưa có hoàn toàn thì đừng có tăng lên, tăng lên là nguy hiểm. Phải không?
Mình thấy nó còn phóng hoặc là nó còn bị phóng dật, phóng tâm, bị tiếng động nó làm cho phóng ra ngoài rồi thì coi như nó chưa gom được sáu căn của nó, nó còn một căn nào nó chưa gom nó phóng căn đó ra; còn cái nào mà nó gom được thì nó không phóng chứ gì, chứ nó rõ ràng là mình vậy. Mà khi mà nó không phóng là sáu căn nó gom vô hết rồi, mà nó gom vô hết rồi thì có thể mình đi tăng lên thời gian, tăng lên, tăng lên… cho đến khi mười hai tiếng đồng hồ là bảy giác chi xuất hiện đủ.
Tu sinh 1: Kính thưa Thầy, khi con đi Thân Hành Niệm là con thấy cái gót chân nó xoay tròn, vậy là đúng hay sai?
Trưởng lão: Không có sao hết, cái đó cũng là cái phần tưởng thôi. Nhưng mà con bảo: “bình thường, không có xoay xoay gì hết”, thì để cho nó đi với dạng bình thường. Khi mà cái tâm mình nó an trú được thì nó sẽ có những cái hiện tượng đó xảy ra, có những cái hiện tượng xảy ra như vậy, hiện tượng của nó là tưởng thôi. Nhưng mà mình biết thì nó phải vậy thôi, bởi vì cái tâm con, cái ý thức con nó thanh tịnh rồi nó phải xảy ra, mà nó xảy ra thì con nhiếp phục nó vậy thôi, nó không có gì, tác ý nó hết.
(1:05:18) Tu sinh Kim Tiên: Kính bạch Thầy, con hỏi cái đề mục thứ mười bảy có phải là Thân Hành Niệm không Thầy?
Trưởng lão: Cái đề mục thứ mười bảy là tập Thân Hành Niệm rồi con. Bởi vì cái Thân Hành Niệm mà cái đề mục thứ mười bảy đó là cái đề mục của nó định tỉnh rồi, nó định tỉnh nhưng mà nó là cái phương pháp ngồi để phá hôn trầm, mà cái phương pháp đi là Thân Hành Niệm đó con. “Với tâm định tỉnh” là cái chỗ đó là cái chỗ phương pháp đi gọi là Thân Hành Niệm, mà cái chỗ ngồi để hít thở đó là cái tác ý nó để ngồi phá hôn trầm đó, là phá cái sự lười biếng, phá cái sự buồn ngủ, vô ký của mình. “Với tâm định tỉnh” là cái chỗ ngồi của nó là tác ý cái câu đó. Còn đi là tác ý từng hành động đó, nó là một pháp chứ không phải hai pháp đâu.
Tu sinh Kim Tiên: Tức là …
(1:06:01) Trưởng lão: Cho nên vì vậy mà trong pháp Thân Hành Niệm nó có mấy hơi thở đó, kết hợp nó đó, để khi mình nhắc mình ngồi mình hít thở là “với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô” là nó cũng phá đi cái si của mình, nó sẽ giúp cái tâm mình định tỉnh đó chứ không phải không đâu. Nhưng mà điều kiện nó có chia hai phần, một phần Thân Hành Niệm một phần của Định Niệm Hơi Thở đó. Nó rõ ràng. Cái phần Định Niệm Hơi Thở nó cũng tu tập y như cái pháp Thân Hành Niệm, sáu căn nó phải quay vô tất cả trong hơi thở hết nó mới định tỉnh nổi, chứ không phải mình tu lơ mơ đâu. Nhắc vậy chứ mà sáu căn quay vô hết đó. Đó là cái đề mục thứ mười bảy đó con.
Tu sinh 1: Kính bạch Thầy… con cảm nhận cái từ trường hay cái tưởng của con thì con chưa rõ, nhưng mà khi xả ra thì con thấy nó an ổn…
Trưởng lão: Cái đó là cái tưởng của con.
Tu sinh 1: Nó nhẹ nhàng, nó an ổn.
Trưởng lão: Biết rồi, cái đó là cái tưởng thôi. Nó nhẹ nhàng, an ổn cũng là tưởng. Nghĩa là con bây giờ không thể nào thấy không khí, mà giờ con thấy không khí nó bay như thế này là tưởng rồi, con hiểu không? Còn khi nào mà con thấy được cái từ trường là khi nào mà con phải có đủ cái năng lực của bảy giác chi và con phải nhập được Tứ Thiền, từ đó con thực hiện cái tâm thức của con nó hoạt động con mới nhìn bằng cái tâm thức của nó thì con mới thấy từng cái hào quang của người ta, từng cái từ trường của người ta mới được. Còn bây giờ con thấy như vậy là hoàn toàn con thấy tưởng thôi, cái tưởng con thấy như là nó bay, nó cuộn cuộn nó bay vậy đó, cái không khí nó bay vậy là cái tưởng con hết. Con hiểu không?
Chứ bây giờ con chưa có nhập Tứ Thiền được, chưa tịnh chỉ hơi thở được, tâm thức con nó chưa có hiện ra.
(1:07:30) Tu sinh Kim Tiên: Kính bạch Thầy! Xin Thầy giảng trạch cái tưởng tượng của ý thức khác và cái tưởng uẩn khác (như thế nào)? Chứ không để bị nhầm cái chỗ đó?
Trưởng lão: Cái tưởng của ý thức là như thế này: Con ngồi bây giờ mà nó không thấy cái không khí mình như nó bay ra, mà con ngồi đây mà con tưởng ra như cái không khí mình nó cuộn cuộn như là cái khói hay cái gì vậy đó, đó là cái ý thức tưởng. Còn cái tưởng nó hoạt động thì nó khác nữa mấy con, thì cô Kim Tiên nói để mà Thầy nói: bây giờ chúng ta tưởng cái này, tưởng cái kia bằng cái ý thức tưởng, con hiểu không? Ngồi mà tưởng ra cái này, cái kia, ngồi mà nghĩ tưởng ra đó là ý thức tưởng. Còn cái tưởng uẩn nó không phải ngồi tưởng được đâu, nó làm là nó làm, cũng như bây giờ con đi kinh hành con không có tưởng nó đẩy con đâu. Còn bây giờ con mới ngồi con tưởng, con cứ đi vậy mà con tưởng nó đẩy mình đi thì đó là ý thức tưởng, con hiểu chưa?
Còn bây giờ con đi mà con không có tưởng mà có cái lực nó đẩy ra thì đó là tưởng lực đẩy. Phân biệt được cái chỗ này chưa?
Tu sinh Kim Tiên: Là cái đó khi mà ý thức hoàn toàn thanh tịnh thì cái tưởng uẩn nó mới xuất hiện, có nghĩa là nó qua cái tầng ý thức.
Trưởng lão: Mới xuất hiện. Đúng vậy.
Phật tử: Còn cái tưởng này mình đang hoạt động, cái ý thức đang hoạt động mạnh cho nên cái tưởng này nó lại lòi ra. Chứ không cứ để bị lầm. Chứ cứ nghe nói tưởng, trường hợp cái tưởng này mà qua cái tưởng kia là không được.
(1:08:55:09-1:08:59: không nghe được)
Trưởng lão: Chưa con chưa tập, bây giờ con đang tập cái đề mục thứ mười bảy đi, cái tỉnh thức thứ mười bảy đó rồi mới bắt đầu mình đi từng bước, rồi sau này mới tập cái Thân Hành Niệm.
Tu sinh 2: Kính bạch Thầy! Cái đề mục thứ mười bảy, khi mà con luyện nó một tuần thì nó không ngủ được thì như vậy là luyện đủ chưa hay là phải luyện tiếp?
Trưởng lão: Chưa, chưa đủ con.
Tu sinh 2: Vậy là con tiếp tục?
Trưởng lão: Tiếp tục tu, nhưng mà tu trong cái khoảng thời gian của con vừa với cái sức của con thôi, rồi nó không ngủ thì nó tỉnh càng tốt chứ không sao. Nhưng mà mình sẽ tập, mình không mệt, không có những cái chướng ngại thì tốt, còn nó có chướng ngại thì mình lui lại, còn nó không chướng ngại thì mình cứ tu tập thôi, rồi mình tu tập mình thực hiện qua Thân Hành Niệm để vừa trợ giúp cái thân hành nội mà vừa trợ giúp cái thân hành ngoại. Thì hai cái này nó trợ giúp cái sức định tỉnh của mình để cho nó hoàn tất được cái sức định tỉnh, nó gom sáu căn lại để mà con nó thực hiện bảy giác chi đó.
Tu sinh 2: Ví dụ như bây giờ con đi Thân Hành Niệm hai tiếng đồng hồ, sau đó tới giờ con đi ngủ thì nó không ngủ nó thức luôn, tới khi mà con thức như vậy đó thì rất là tỉnh táo, rất là khỏe, thân tâm nó nhẹ nhàng thì con nên nhất định đi ngủ hay là con nên thiền tiếp.
Trưởng lão: Không, con phải bảo: “Ngủ không có được tỉnh thức, bây giờ Ta cho Mi ngủ lát nữa tới giờ tu là Mi phải tu cho đúng theo cái lệnh của Ta”, chứ đừng có thiền trước. Chừng nào mình muốn thiền kéo dài thời gian ra mình có cái lệnh mình cho, chứ không khéo nó tỉnh vậy nó tập cho con, thành ra con bị nó lôi. Tới giờ ngủ mà nó không ngủ nó tỉnh.
Tu sinh 2: Nó trở đi trở lại, có khi thì nó thức hoài nó không có buồn ngủ, nó tỉnh táo, tới chừng nó ngủ 18 – 19 tiếng đồng hồ.
Trưởng lão: Trời đất ơi! Bởi vậy nó dẫn con, bởi vậy Thầy nói nó dắt con lúc nó tỉnh là nó dụ, nó dụ con đã rồi bắt đầu nó cho con ngủ. Cho nên ở đây Thầy mới bảo mình làm chủ
Tu sinh 2: Lâu nay bị ba, bốn lần như vậy.
Trưởng lão: Con phải làm chủ, còn làm chủ tức là con ra lệnh “Ngủ! Mà Mi không ngủ là lát nữa thức Ta sẽ cho Mi thức, chứ Mi ngủ là chết”, đó vậy con dặn riết, tác ý riết nó sợ tới chừng giờ ngủ nó ngủ.
Tu sinh 2: Từ hôm Thầy dạy đề mục thứ mười bảy tới giờ nó không ngủ gì hết trơn.
Trưởng lão: Bây giờ con tập nó tỉnh rồi đó, có cái khả năng tỉnh rồi. Nhưng mà tới giờ ngủ: “bảo Mi ngủ, hồi nào Ta bảo tỉnh thì phải tỉnh, mà bây giờ Ta bảo ngủ là phải ngủ, Mi cãi là không được”.
Tu sinh 2: Nó tỉnh thì nó tỉnh mà bảo nó ngủ nó chưa được.
Trưởng lão: Con bây giờ phải tập làm chủ nó, chứ bây giờ nó hết tỉnh rồi bắt đầu nó nói biểu nó tỉnh: “Ta tỉnh cho Mi luôn rồi cho Mi chết, rồi mai mốt Ta cho Mi ngủ một loạt”. Thành ra nó sai con, chứ con không có làm chủ nó, như vậy cho nên “Ta muốn tỉnh là Mi phải tỉnh, mà Ta muốn ngủ là Mi phải ngủ không có được cãi”. Con phải làm chủ nó, con điều khiển nó đi. Thầy nói có Thầy mà con ma nó phải chạy thôi. Ma nó thường làm cho mấy con rối rắm lắm!
(1:11:58) Tu sinh 1: Kính bạch Thầy! Khi mà tu tập Thân Hành Niệm, đề mục thứ mười bảy thì không còn chướng ngại nữa hay là…?
Trưởng lão: Còn chứ chưa hết.
Tu sinh 1: Con thấy nó quay vào.
Trưởng lão: Nó quay vào chứ mà nó vẫn còn, bởi vì con còn xả ra chứ không phải con liên tục, chừng nào mà liên tục 12 tiếng đồng hồ đạt được nó mới hết, chứ còn không thì nó không hết, phải không?
Tu sinh 1: Kính bạch Thầy! Sau… con tưởng tỉnh táo lắm.
Trưởng lão: Cái lực của Thất Giác Chi nó theo cái điều khiển của cái ý thức con, ví dụ như bây giờ con giơ chân lên thế này thì cái lực của nó đẩy cho cái chân con nhẹ vừa với cái điều khiển của con, còn cái này nó đẩy bay lên như thế này, mà thay vì con giơ chân nó cỡ này mà nó đẩy lên trên vầy thì nó là lực tưởng rồi chứ. Nó ngoài cái ý thức của con chủ động rồi thì nó là lực tưởng, mà còn ở trong cái sự chủ động là Thất Giác Chi, con hiểu chưa?
(1:12:56) Tu sinh 1: Nếu mà Thất Giác Chi thì sử dụng nó như thế nào?
Trưởng lão: Thất Giác Chi nó xuất hiện thì con sử dụng theo cái pháp hành của con, nó đúng với cái hành động của con, nó vừa giống với con giơ chân bình thường có bao nhiêu đây thôi mà nó khác lạ là con biết tưởng là con phải bảo nó dừng lại. Còn nếu mà nó cứ đẩy con vừa vầy rồi con bước đi nó cũng vừa nó không dài. Còn bây giờ nó bắt con chạy lia lịa như vậy thì đây là tưởng rồi không được, dừng lại, phải không? Nó sai! Còn nếu mà con cứ đi đều đều thì lực của giác chi rồi, tinh tấn của nó thì cứ để cho nó tu. Mình cứ ôm pháp nhờ nó thì mình tu nó lại tốt chứ sao!
Tu sinh 1: Cái lực tưởng nó cũng tốt hả Thầy?
Trưởng lão: Tưởng có thể khi nào mà nó đẩy sai thì mình bảo cái tưởng dừng, chứ ai bảo cái Tinh Tấn Giác Chi con dừng, bảo cái lực tưởng. Bởi vì khi nó đẩy con quá sức thì con bảo: “Không có đẩy nha, bình thường lại, đi bình thường lại” thì do đó nó bình thường, chứ con đâu có bảo nó dừng cái Tinh Tấn Giác Chi đâu.
Tu sinh 1: Thầy bảo cái Tinh Tấn Giác Chi nói dừng là nó dừng?
Trưởng lão: Dừng chứ, con bảo dừng nó cũng dừng, nó mất đó con! Tinh Tấn Giác Chi nó mất. Bởi vì có ý thức lực của con con bảo nó dừng sau đó nó dừng con luôn, nó rất vất vả cực khổ.
Tu sinh: (không nghe rõ)
Trưởng lão: Đâu có, con đâu có bảo được. Bởi vì con tu tập đúng nó phải xuất hiện thôi.
Tu sinh Kim Tiên: Kính bạch Thầy! Nó cũng có chỗ khác biệt chứ, nó có chỗ khác biệt để cho mình phân biệt. Bởi vì nó bất thường thì mình mới phát hiện.
Trưởng lão: Phải rồi, đúng rồi, nó mới phát hiện.
Bây giờ Thầy vô tiếp hả con…?
Cô Út: Bây giờ Thầy tiếp rồi con đi thành phố (không nghe rõ)
Trưởng lão: Rồi, bây giờ các con đủ rồi, thôi nha!
Tu sinh 1: Bạch Thầy cho con hỏi chút xíu? Một phút thôi Thầy ạ! Tại vì con đi Thân Hành Niệm ban đêm, không có ngoại cảnh gì bên ngoài chi phối hết, mà chỉ vì con chú tâm vô cái bước chân “giở tới, rồi bước tới, giở gót rồi hạ gót”, con chú tâm cái đó trong khi con quên cái bước thứ mấy, nó không có bị cái ở bên ngoài Thầy.
Trưởng lão: Thầy đã bảo con tu mà nó quên, tức là thứ nhất con tu không kỹ, phải tu tập lại kỹ.
HẾT BĂNG.
LỄ XUẤT GIA - NHIỆM VỤ VÀ TRỌNG TRÁCH CỦA NGƯỜI XUẤT GIA
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 18/07/1997
Thời lượng: [1:03:04]
(0:00) Trưởng lão: Hôm nay, các con được Thầy nhận để làm lễ xuất gia cho các con, là một cái điều rất vinh hạnh cho đời sống tu hành của các con. Tại sao vậy? Tại vì đời sống của người xuất gia không phải giống như đời sống của thế gian, phải sống đúng hạnh của người xuất gia, không thể nào sống còn chạy theo dục lạc của thế gian.
Và đời sống của người xuất gia rất là khó khăn, muôn vàn khó khăn, vì phải biết thiểu dục tri túc, vì phải biết tỉnh thức, vì phải biết phòng hộ sáu căn, cho nên cuộc sống không phải là cuộc sống tầm thường mà người thế gian làm được. Chỉ có người quyết tâm tìm con đường giải thoát mới có thể thực hiện được mà thôi.Vì vậy muốn xuất gia là phải hiểu được con đường xuất gia như thế nào.
Như Thầy đã vạch trong giáo án của Phật, lộ trình xuất gia một vị tu sĩ là phải từ giả tất cả những sợi dây ràng buộc của thế gian, không còn thương ghét giận hờn, không còn của cải tài sản, sống vô gia đình, không nhà cửa, chỉ còn ba y một bát, thiểu dục tri túc hằng ngày, biết đủ không tính thiếu. Do đó rất là khó đối với một con người còn tâm dục lạc thế gian, thì không thể nào sống được đời sống xuất thế gian.
Vì thế hôm nay có đủ duyên mà các con muốn hướng đến sự tu hành của đạo Phật, trở về con đường giải thoát thật sự của một tu sĩ đạo Phật, phải biết trau dồi, rèn luyện, tu tập những gì mà chưa làm được. Cần phải cố gắng thực hiện hằng ngày, phải trau dồi rèn luyện tu tập, để thực hiện sống đúng và giải thoát đúng con đường của một người xuất gia tu hành.
(01:54) Vì con đường này rất là khó không phải dễ ai cũng làm được. Vậy mà hôm nay có duyên mấy con đã chọn lấy con đường này, tu hành thì phải biết nó là một con đường đưa đến giải thoát cứu cánh hoàn toàn cho một kiếp người trong hiện tại.
Chứ không phải xuất gia tu hành chỉ có chiếc đầu cạo trọc và chiếc áo chiếc y mặc bên ngoài, mà đã cạo sạch thân tâm của chúng ta không còn tham sân si phiền não nữa, mà còn cạo sạch những thứ ô uế, ô trược trong tâm hồn của chúng ta từ muôn kiếp, chứ không phải có những sự bên ngoài, hình thức bên ngoài, mà cả những sự nạo vét tận sạch trong thân tâm của chúng ta, để hoàn toàn thanh tịnh, để hoàn toàn thực hiện đường đi giải thoát của đạo Phật.
Chúng ta đã biết được lộ trình của đạo Phật là một lộ trình đưa con người đến giải thoát cứu cánh hoàn toàn. Vì thế đời sống của người tu sĩ xuất gia là một đời sống rất là khổ. Các con phải bền chí, phải gan dạ, phải kiên trì, nghị lực mà chiến đấu từng phút từng giây để vượt qua, để làm tròn, để sống đúng con đường của đạo giải thoát.
(03:13) Nếu không kiên trì, không nhẫn nhục, không trau dồi, không rèn luyện, thì các con khó mà sống trong cái đời sống của người xuất gia nổi. Vì thế toàn bộ thân tâm của các con, sức lực và nghị lực của các con phải đem hết, đem hết.
Hồi nào tuy biết rằng cố gắng, nhưng bây giờ khi đã mang cái hình thức của vị tu sĩ thì phải còn cố gắng hơn, cố gắng hơn để làm cho sáng tỏ Phật pháp, để làm cho gương hạnh cho mọi người, thấy chiếc đầu tròn chiếc áo vuông của chúng ta người ta kính trọng mãi mãi muôn đời. Nhờ thế mà Phật pháp mới còn, nhứt là phái nữ của các con hôm nay.
Thầy là một người tu sĩ nam, cũng như đức Phật ngày xưa là một người nam không có đứng ra mà cho các con thọ giới để mà trở thành một tu sĩ nữ. Đức Phật khi nhận lời ông A-Nan thì đức Phật đã chế ra Bát Kỉnh Pháp. Các con nhờ Bát Kỉnh Pháp mà quy y theo ba ngôi Tam Bảo và thọ đầy đủ những giới luật của Phật, cụ túc của Phật để thực hiện một đời sống giải thoát của chính mình.
Hôm nay, thì thời đại của chúng ta nó cũng như cái thời đại của đức Phật, các con cũng phải lấy Bát Kỉnh, nhưng ở đây Bát Kỉnh Phật ngày xưa đã dùng và hiện thời, thì Thầy không lấy Bát Kỉnh, mà lấy ba Đức để thực hiện nơi người nữ.
Và cũng nơi ba Đức này mà các con thực hiện được, thì con đường của đạo Phật, con đường xuất gia của đạo Phật các con sẽ sống được và thực hiện được những đức hạnh, những giới hạnh của Phật đã dạy, các con sẽ đi đến cái đích, đạt được cái mục đích cuối cùng của giới hạnh, của phạm hạnh của người tu.
Ba Đức đó là gì? Thầy từng nhắc đi nhắc lại cho các con rất nhiều đó là: Đức thứ nhất là nhẫn nhục, Đức thứ hai là tuỳ thuận, Đức thứ ba là bằng lòng. Ba Đức này bao gồm ở trong Bát Kỉnh Pháp mà Phật đã nêu ra trong khi độ người nữ trở thành giáo đoàn Ni trong thời lúc bấy giờ.
(5:53) Còn bây giờ thì Thầy dùng ba Đức này, để lấy ba Đức này làm y chỉ cho các con nương vào đó mà thực hiện con đường giải thoát. Cho nên ba Đức này là coi như là một vị Thầy đại diện cho Phật - Pháp - Tăng và ba trăm bốn mươi tám giới, để cho các con thực hiện đầy đủ giới hạnh oai nghi của một người tu sĩ.
Nếu có nhẫn nhục, có tuỳ thuận, có bằng lòng, thì các con sẽ thấy tâm hồn các con mới giải thoát ngay liền lúc đó, và giới hạnh mới đắc được, và mới có cái sự sắp được, mới có Bát Kỉnh Pháp mới ngay đó mới thực hiện được.
Do cố gắng giữ gìn ba cái điều này, nó là người đại diện để xuất gia cho các con, và sẽ trở thành lập một Ni đoàn sau này, lấy đó mà nương vào chứ không làm các pháp Yết Ma như các bậc Tôn Túc của chúng ta. Tại sao vậy? Tại vì hiện giờ các pháp Yết Ma đâu đâu cũng theo đó mà làm, nhưng mà thực hành, nhưng người tu sĩ đã thọ giới trong các pháp Yết Ma, thì lại là phạm giới, phạm giới quá nhiều.
Không đi đến giải thoát mà đi đến dục, đi đến trong cảnh dục lạc của thế gian. Người tu sĩ nữ bỏ hết đời mình, bỏ hết tất cả mọi gì trên thế gian, để rồi có tất cả những gì trên thế gian. Cuộc đời giải thoát không còn có giải thoát nữa, mà trói buộc chằng chịt bao nhiêu sợi dây ràng buộc của dục lạc thế gian, tới khi chết rồi, mắt nhắm không yên, thân hành khổ não vô cùng vô tận.
Nhìn các bậc Tôn túc bên Ni mà chúng ta rất là đau khổ. Bởi vậy, các con hãy cố gắng, mà cố gắng thực hiện ba cái Đức đó là thay mặt Phật, thay mặt Thầy, mà hướng dẫn cho các con đi vào con đường xuất gia tu hành giải thoát.
(08:09) [Các con đừng có quỳ thẳng, ngồi xuống đi con để nghe Thầy, quỳ thẳng mỏi chân.]
Bởi vậy lộ trình của người xuất gia là một lộ trình rất là cam go khắc khổ. Người ta tưởng xuất gia sẽ là sung sướng, sẽ được đầy đủ, hạnh phúc an vui. Không phải. Con đường xuất gia là con đường rất là khắc khổ đối với cuộc sống của chúng ta. Vì có con đường khắc khổ như vậy, chúng ta mới tìm đến sự giải thoát sanh tử luân hồi. Nếu không khắc khổ như vậy làm sao chúng ta giải thoát luân hồi được.
Chúng ta không phải là những kẻ khổ hạnh, nhưng chúng ta biết con đường đời là con đường khổ. Con đường xuất gia tuy khổ về mặt đời nhưng giải thoát về mặt tinh thần. Mỗi bước đi, mỗi giới luật của Phật đều đem đến cho chúng ta một giải thoát, một sự an vui, một sự hạnh phúc vô cùng vô lượng.
Nếu chúng ta biết tu hành, biết giữ gìn giới hạnh, biết tu tập giới đức, biết thực hiện giới tuệ, biết trau dồi giới bổn, và biết luôn luôn lúc nào cũng luyện tập, không quên giới hành thì chắc chắn mỗi giờ mỗi khắc mỗi giây chúng ta thấy cuộc đời an vui, hạnh phúc. Bát phong không làm động nổi tâm ta, gió không lay chuyển nơi tâm hồn ta được. Muốn được vậy thì đây về sau khi Thầy làm cái cuộc lễ xuất gia này cho các con, hãy cố gắng mà thực hiện.
(9:59) Lần lượt thì Thầy sẽ trao y và bát cho các con, để thực hiện một đời sống khất sĩ du tăng, không chết một nơi nào, không trụ một nơi nào. Ngày nào chúng ta thực hiện xong con đường tu tập, ngày ấy chúng ta trở thành những du tăng khất sĩ, nơi rừng sâu, nơi núi thẳm đều là nơi chúng ta ở.
Nơi nào nghèo đói, nơi nào mà thiếu Phật pháp là nơi đó chúng ta nương tựa để đem đạo đức Nhân Quả dạy người, để đem hạnh từ bi nơi cuộc sống của chúng ta mà làm tròn bổn phận truyền lại đức hạnh của đạo Phật cho muôn người, lợi ích cho muôn người.
Như vậy chúng ta mới đi vào cái con đường giải thoát, con đường quá khắc khổ này, để làm lợi ích, thứ nhất là cho mình, và kế đó cho tất cả những người thân thương của mình, họ đang hướng về mình, và cho tất cả mọi chúng sanh, mọi người chưa biết Phật pháp, mọi người đang biết Phật pháp mà đã lầm đường lạc nẻo. Đó là nhiệm vụ và trọng trách của các con.
Từ khi xuất gia, từ khi khoác chiếc áo, chiếc y của tu sĩ vào mình, chiếc đầu bỏ xuống, không còn là chiếc đầu của thế gian nữa, không còn đẹp đẽ, không còn trang điểm làm cho nó xinh đẹp nữa, nó trở thành một chiếc đầu tròn.
Thì lúc bấy giờ nó không còn gì là xinh đẹp đối với thế gian nữa, thì chúng ta nên biết chiếc đầu tròn chỉ còn đẹp nhứt là ở đức hạnh nó mà thôi, chứ không còn cài hoa vắt trâm trên đó nữa, mà chỉ còn nêu lên ánh sáng hào quang, mùi hương thơm ngát của đức hạnh của người tu, ăn ngày một bữa, sống ít ngủ, đi nhìn xuống, không ngó qua ngó lại.
(12:04) Nó sẽ tỏa hương thơm ngát muôn phương, giúp cho người thấy đó mà nương vào Phật pháp tìm đường giải thoát. Qua những hạnh tu này, các con phải ghi nhớ mãi trong tâm khi mà ngày nay trở thành những vị tu sĩ. Các con không phải trải qua nhiều giai đoạn từ Sa-di cho đến Thức-xoa rồi mới Tỳ-kheo.
Ở đây các con sống đúng giới hạnh, các con lập đức lập hạnh đúng mức, thì ngay đó các con sẽ là những vị Tỳ-kheo-ni, xứng đáng là những đệ tử của Phật, không phải như chúng ta là những học sinh phải trải qua nhiều cấp bậc mới có thể có cấp bằng này cấp bằng kia.
Ở đây chúng ta chỉ có một cấp bằng là giải thoát được, có một cấp bằng là đạo đức chúng ta có thực hiện được nơi thân tâm của chúng ta hay không, giữ gìn oai nghi tế hạnh của chúng ta được hay không, đó là cấp bằng của người tu sĩ. Chứ không phải là cấp bằng của chúng ta là từ Sa-di-ni, rồi từ Thức-xoa-ni, rồi đến Tỳ-kheo-ni. Không phải vậy đâu. Rồi bắt đầu chúng ta tiến dần trong nhiều năm hạ, thì từ đó chúng ta mới lên Sư bà, rồi Sư trưởng, không phải vậy.
Chúng ta chỉ có một chức vụ cao nhứt là Trưởng lão, khi chúng ta đã làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi. Dù chúng ta tuổi còn trẻ mà vừa bước chân vào đạo đã chứng quả A La Hán làm chủ được sanh tử, chấm dứt được luân hồi, lúc bấy giờ chúng ta cũng là bậc Trưởng lão, chứ không phải tu lâu năm mà trở thành bậc Trưởng lão. Dù tu lâu năm mà không có được sự giải thoát, không làm chủ được sanh tử, thì vẫn xem là một người chưa có gì hết, chưa được gọi là Trưởng lão.
(14:06) Thầy theo đúng con đường của Phật dạy, bậc nào gọi là Trưởng lão là bậc đó dù tuổi rất trẻ mới hai mươi, mà vẫn được, làm chủ được sanh tử, chấm dứt được luân hồi thì bậc đó đều là Trưởng lão. Trưởng lão có thể tương đương với cái giáo phẩm hiện giờ có thể gọi là Thượng tọa hay là Hòa thượng.
Như vậy thì các con biết Thầy dẫn dắt các con đi từ cái chỗ đúng của đạo Phật, không sai, vì ngày xưa đức Phật cũng hướng dẫn các đệ tử của mình cũng như vậy. Cho nên không vì cấp bậc Hòa thượng, Thượng toạ, Đại đức mà chúng ta tu hành, mà chúng ta vì cấp bậc giải thoát mà tu hành, cho nên người ta đặt cái tên là Trưởng lão, chứ sự thật ra cái tên Trưởng lão chẳng qua là nhắm vào sự tu hành giải thoát trên lộ trình xuất gia của chúng ta mà thôi.
(15:02) Muốn được vậy, thì từ đây bước chân vào cái lộ trình này thì các con phải nhớ kỷ, phải thực hành giới luật mà Thầy đã dạy, đã học, đã biết giữ gìn. Khi ra đi thì phải giữ gìn những cái Định, những cái phòng hộ sáu căn như thế nào, oai nghi tế hạnh của mình như thế nào, giữ gìn rất là kỹ lưỡng, nghiêm túc.
Từ đây về sau, dù có ai mời gì mà lúc bấy giờ là phi thời thì nhứt định là, nhất định là không ăn, thà chết, giữ gìn giới hạnh của Phật nghiêm túc. Nhứt là cái ăn, thứ hai là cái mặc, thứ ba là trong giấc ngủ phải tập cho tỉnh. Khi mê thì chúng ta xốc xếch y áo, khi mê thì để chúng ta coi người khác nhìn cười mình. Cho nên cố gắng mà tỉnh thức, cố gắng mà sống riêng rẻ, không nên sống chung trong thế gian như người thế gian nữa.
(15:59) Chúng ta tránh không được nằm chung với bất kỳ một người nào, một đời tu hành chỉ biết có một mình mình mà thôi. Đó là những cái oai nghi tế hạnh của người tu sĩ. Y áo chúng ta có rách cố gắng vá lại, không ham muốn y áo mới. Chừng nào rách mà chúng ta không sử dụng được nữa, không xài được nữa thì chúng ta mới xin y áo mới mà thôi. Các con nhớ kỹ, thì như vậy Thầy mới xuống tóc và xuất gia cho các con.
Bây giờ các con đã hiểu cái lộ trình xuất gia rồi, có đồng ý thì các con quỳ lên mà tự tâm các con phát nguyện. Thầy gợi ý cho các con như thế này, trước tiên Thầy gợi ý cái câu này, để sau đó các con theo ý đó mà đọc ra, mỗi người đều đọc ra.
Bây giờ con ngồi xuống đi con, để cô Loan trước, cô Loan lớn tuổi, con nghỉ, con nhỏ tuổi hơn thì con khoan, để cho cô Loan phát tâm trước.
(16:58) Con, thí dụ, hôm nay là ngày rằm tháng bảy năm Đinh Sửu, con là Đỗ Thị Lan, sáu mươi tuổi. Hôm nay con quyết tâm xuất gia làm một đệ tử tu hành của Phật. Xin đức Phật, chư Hiền Thánh tăng chứng minh cho con. Rồi con lạy một lạy, rồi con lại đứng lên, rồi con lại nói một lần nữa, cho đến lần thứ ba, tức là ba lần xin Phật để mà trở thành một vị tu sĩ xuất gia theo Phật. Bây giờ bắt đầu con nói.
Phật tử 1:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Đệ tử con là Đỗ Thị Loan, sáu mươi tuổi, hôm nay là ngày rằm tháng bảy năm Đinh Sửu, con xin phát nguyện trước Tam Bảo và Thầy Bốn Sư của con, cho con xin được xuất gia theo đạo giải thoát của Phật. Từ nay trở đi con xin quyết tâm để thực hành những giới đức, giới hạnh, giới luật của Phật. Con xin đảnh lễ Phật, lạy Phật, Thầy chứng minh cho con ạ!
[Phật tử lập lại ba lần]
(20:05) Trưởng lão: Rồi con xá, ngồi xuống đi. Tới con.
Phật tử 2:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Con tên là Trần Ngọc Mỹ, bốn mươi tuổi, hôm nay là ngày rằm tháng bảy năm Đinh Sửu, con xin quỳ trước Tam Bảo, con xin quỳ trước đức Bổn Sư của con, con xin Tam Bảo chứng minh, con xin đức Bổn Sư của con chứng minh cho con được xuất gia. Con cũng xin nguyện là khi thọ giới xuất gia này, con giữ gìn giới luật của đạo tu hành giải thoát. Con nguyện suốt đời nương theo đức hạnh của Bổn Sư đã dạy con, để con tu hành cho đạo quả mình được viên mãn.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
[Phật tử lập lại ba lần]
(23:43) Trưởng lão: Con ngồi xuống đi con. Hôm nay là, bây giờ các con đã phát nguyện xuất gia, sẽ trở thành người tu sĩ của đạo Phật. Thì từ đây về sau các con là đệ tử của Phật, Thầy xin thay mặt chư Phật ba đời cũng như đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, để hứa khả cái sự thành tâm của các con đã phát nguyện trước ba ngôi Tam Bảo.
Vậy thì ngày giờ này, đương nhiên là các con trở thành những người tu sĩ của đạo Phật, và đồng thời là các con khỏi phải qua nhiều giai đoạn từ Sa-di-ni, Thức-xoa-ni cho đến Tỳ-kheo. Ngay bây giờ là các con đã là những vị tân Tỳ kheo.
Vì tuổi của các con quá lớn rồi, không còn phải chờ đợi nữa, mà phải nỗ lực thực hiện giới hạnh, giới đức, giới tuệ và giới bổn, giới hành cho nghiêm túc, để đem lại cái sự giải thoát cho chính bản thân của các con và làm sáng tỏ lại đạo Phật, thấp sáng lại ngọn đuốc của đạo Phật.
Cho nên không thể nào còn phải trải qua nhiều giai đoạn cấp bậc như là cấp bậc của thế gian, làm quan phải có quan huyện, rồi quan tỉnh, rồi mới là quan nhỏ quan lớn thế này thế khác. Ở đây chúng ta là tu sĩ, chỉ có một quan là quan giải thoát mà thôi. Cho nên ở đây chỉ có xuất gia là một vị Tỳ kheo đầy đủ giới hạnh, còn phạm giới thì dù là giới nào thì chúng ta ở nơi nào thì chúng ta cũng vẫn phạm, dù chức vụ nào vẫn là, vẫn phạm là vẫn phạm.
Tu thì tu, mà không tu thì không thể nào gọi là tu từ từ, mà phải ngay đó thực hiện đúng đời sống của chúng ta đầy đủ phạm hạnh, thì lần lượt nó sẽ đi đến chỗ giải thoát. Do vì vậy mà hôm nay đương nhiên các con được xem mình là những vị Tỳ-kheo-ni của Phật giáo, chứ không còn như trải qua nhiều lần làm Tác Pháp Yết Ma để từ chức này đến chức khác.
(25:52) Nhưng ở đây các con thọ Tỳ-kheo-ni không có nghĩa là danh, mà Tỳ-kheo-ni có nghĩa là cuộc đời các con khắc khổ trong kỷ luật gấp trăm gấp ngàn lần, để tìm lấy con đường giải thoát. Tỳ-kheo-ni của các con không có nghĩa là đi ra đường mà nghênh ngáo chứng tỏ mình là Tỳ-kheo-ni còn các vị kia toàn là Sa-di, thì như vậy nó không phải đúng.
Dẹp cái ngã mạn đó đi, dẹp cái chức vụ đó đi, dẹp cái cấp bậc đó đi, mà hãy thấy đây là một sự trói buộc khắc khổ của một người tu sĩ, là cái chức, là cái nhiệm vụ và cái chức vụ Tỳ-kheo-ni không phải đơn giản cho cuộc sống của nó.
Cho nên các con đừng nghĩ mình là Tỳ-kheo-ni rồi xem thường những người khác, nay là tu năm năm, ba năm, mười năm, hai chục năm mà vẫn còn là Sa-di-ni chưa thọ giới, chưa được Cụ túc, thì cái nghĩ đó là cái nghĩ sai của các con. Hãy dẹp đi. Xem thường một vị Tỳ-kheo-ni, ra đường hãy xem mình như một chú Sa-di-ni không hơn không kém.
(27:03) Luôn luôn dùng Bát Kỉnh Pháp của Phật, dù là một cái người nhỏ hơn mình, vẫn đảnh lễ họ như thường. Họ là Sa-di, họ là Thức-xoa như thế nào thì mình vẫn kính bái họ như thường. Họ là chú Sa-di, một thầy Sa-di nhỏ, mình cũng vẫn kính bái họ như thường. Họ là một người cư sĩ, một cận sự nam, một cận sự nữ, mình vẫn kính bái họ như thường.
Các con càng thấy cái chức vụ, cái nghĩa vụ của một Tỳ-kheo-ni là phải hạ mình xuống tận dưới đất để dẹp cái ngã của mình. Chứ không phải là khi thọ Cụ túc xong Tỳ-kheo-ni là mình lớn hơn ai hết. Vì giới hạnh đâu cho phép chúng ta lớn hơn ai, mà chúng ta càng nhỏ hơn mọi người thì như vậy chúng ta mới ly dục ly ác pháp. Nhớ kỷ những lời Thầy dặn, chứ không phải lấy cái danh mà Thầy đặt ở đây cho các con thọ Cụ túc, mà các con thấy mình mà hơn mọi người.
(28:04) Từ lâu thì các con thấy Thầy, cái duyên người ta chưa sống đủ ở đây, buộc lòng Thầy cho họ xuất gia mà đừng xem họ là Sa-di như chú Chân Trí. Tại vì chú không ở gần Thầy để nghiêm trì giới hạnh, cho nên khi ra đi sợ chú e phạm phải, cho nên chú phải mang cái sắc thái của Sa-di, người ta không cười.
Còn các con hôm nay đã được ở đây học toàn bộ giáo án của Phật, Thầy dạy toàn bộ là giới luật của Phật rồi thì đương nhiên các con phải thâm nhập vào cái giới luật đó, đương nhiên các con là những Tỳ-kheo-ni. Mà Tỳ-kheo-ni thì các con phải thấy nhỏ hơn là những người Sa-di-ni và những người Sa-di thì như vậy mới là Tỳ-kheo, không có được coi mình là lớn, mà hãy coi mình nhỏ hơn người nhỏ nữa thì mới xứng đáng là Tỳ-kheo-ni.
Các con hiểu chưa? Hiểu được vậy thì lời giáo huấn của Thầy nó mới có hiệu quả cho cuộc đời giải thoát của mấy con. Người ta bảo vô ngã là Niết Bàn. Mà muốn tìm Niết Bàn mà tại sao thấy mình là Tỳ-kheo-ni là mình lại có ngã trong đó liền? Thì như vậy có phải là Niết Bàn cho Tỳ-kheo-ni không, hay là địa ngục ở đó? Muốn hiểu được như vậy thì các con thấy cái nhiệm vụ và cái chức vụ mà của các con đã lảnh trong mình là phải diệt ngã.
Vì vậy cho nên thọ Cụ túc, thọ Tỳ-kheo-ni là phải làm hết nhiệm vụ là diệt ngã, không còn thấy lớn hơn ai hết. Cho nên pháp Bát Kỉnh của Phật đã dạy thì các con đã thấu rõ. Bất kỳ một vị gì, một người nào cũng phải là cung kính cho nên gọi là Bát Kỉnh. Mà Bát Kỉnh mới là giải thoát cho chúng ta thoát khỏi cái tâm ngã mạng của mình.
(30:04) Có làm được Tỳ-kheo-ni tự thấy là mình lớn, thì tức là mình đã chết đi ở trên con đường của Phật rồi, làm mất con đường tu của mình rồi. Vì thế, cái danh từ Tỳ-kheo-ni này không được các con thoát ra khỏi miệng, không được nói ra khỏi miệng: “tôi là Tỳ-kheo-ni”, thì cái đó là cái sai. Mà hãy biết Tỳ-kheo-ni là cái nhiệm vụ, cái trọng trách để tìm lấy cái sự giải thoát trong cái các giới luật của Phật, để giữ gìn oai nghi tế hạnh, để giữ gìn tu tập thiền định, trí tuệ vô lậu thì đó mới là Tỳ-kheo-ni.
Những lời giáo huấn của Thầy, các con nhớ kỹ và ghi khắc mãi trong tâm để các con đạt đến sự giải thoát cứu cánh hoàn toàn. Nếu không được vậy thì chắc chắn các con sẽ rơi vào địa ngục vĩnh kiếp không được sanh làm người. Vì giới luật của Phật mà được giải thoát, mà vì giới luật của Phật mà mình dìm nó đi, mình hại nó đi, làm mất thanh danh của một người, của một Tỳ-kheo-ni, thì các con sẽ bị đọa địa ngục biết đời nào kiếp nào mà thoát ra khỏi.
Nhớ kỹ mà cố gắng thực hành thì ngay được giải thoát, ngay đó đã làm con đường của Phật pháp thênh thang, ánh đèn của Phật pháp sáng suốt muôn trùng, mà nếu không được vậy thì các con phải thọ lấy khổ. Nhớ những lời Thầy, Thầy nói đâu là phải có vậy, vì cái nhìn của Thầy đã thấy biết rõ ràng.
Các con hiểu rồi thì giờ phút này là các con là những vị Tỳ-kheo-ni xứng đáng là người đệ tử nữ của đức Phật, như các vị Thánh Ni mà các con đã từng được nghe lời Thầy giảng dạy. Làm sao cố mà gắng theo gương hạnh của các bậc Thánh Ni để được như các vị, thì các con mới xứng đáng là những vị Tỳ-kheo-ni trong thời đức Phật, và hiện tại là những đệ tử của Thầy.
Đến đây Thầy xin chấm dứt buổi làm lễ xuất gia cho hai con. Vậy chư Phật mười phương ba đời chứng minh lời giáo huấn, lời giáo giới của Thầy hôm nay đến đây hoàn mãn.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật chứng minh!
(32:28) Trưởng lão: Bây giờ thì Thầy, các con có tâm mà quyết đã xin quy y Tam Bảo, theo ba cái ngôi báu của Phật, Pháp, Tăng để mà nương nhờ. Sau này thực hiện những cái Đạo Đức Nhân Quả để đem lại cái đời sống của các con được hạnh phúc an vui, không làm khổ mình khổ người, như vậy thì trước khi mà quyết tâm mà nương theo quy y Tam Bảo thì các con phải hiểu Tam Bảo là gì.
Chữ quy y này có nghĩa là gì? Quy là trở về, y là nương tựa. Quy y có nghĩa là trở về nương tựa một cái nơi vững chắc. Như các con đã thấy mình nương tựa với cha mẹ mình, từ nhỏ chí lớn nhờ cha mẹ làm để nuôi mình, nhưng mà sự nương tựa đó không vững chắc. Khi các con đau cha mẹ đâu có đau thế được, các con đau là các con phải chịu đau.Đó các con thấy rõ chưa.
Mà khi các con chết, cha mẹ cũng đâu có chết thay cho các con được, chỉ có làm cơm cho các con ăn, mua thuốc cho các con uống cho nó bớt đau thôi, chứ cha mẹ của mình thì không có đau thay cho mình được, mà cũng không có chết thay cho mình được. Vì vậy mà cái chỗ nương tựa với cha mẹ nó không vững chắc, nó chỉ đỡ thôi chứ nó không vững chắc. Dù bất cứ bây giờ chúng ta nương tựa với người nào nó cũng không vững chắc.
Trái lại nương tựa ba ngôi Tam Bảo nó sẽ vững chắc. Tại sao vậy? Tại vì, cái đau bệnh của các con nó sẽ không còn có đau bệnh nữa. Tại sao không còn có đau bệnh nữa? Tại vì con sẽ làm giống y như Phật thì con sẽ không còn đau bệnh nữa.
(34:00) Và con sẽ thực hiện sống đúng cái đời sống của Phật, thì chết con làm chủ được cái chết, con muốn sống thì con cũng làm chủ được cái sống. Cho nên thấy cái ba ngôi Tam Bảo mà nương tựa nhu vậy, nó rất vững chắc, nó làm cho cái đời sống chúng ta an ổn, không còn lo sống, lo chết, lo bệnh tật, lo đói khát nữa. Chỉ có mình làm đúng thực hiện đúng là cơm ăn áo mặc đầy đủ, không cần phải nhờ vả vào ai nuôi mình nữa hết, tự mình.
Và đồng thời, bệnh đau mình cũng nương tựa vào đó, thì bệnh đau mình cũng không có bệnh đau, và tới chừng chết mình cũng vẫn thấy tự tại được cái sự chết. Như vậy thì chúng ta mới nương tựa cái ba ngôi Tam Bảo mới gọi là nương tựa nơi vững chắc, bảo vệ cho chúng ta vững chắc, đời đời kiếp kiếp chúng ta không còn đau khổ nữa.
Cái thứ nhứt là nương tựa ba ngôi Tam Bảo, thì chúng ta nương tựa vào ba cái nơi đó, nó mới xuất phát ra chúng ta cái lộ trình nhân quả, cái đạo đức nhân quả. Từ nơi Phật, Pháp, Tăng nó mới thực hiện được cái đạo đức Nhân quả, từ đó chúng ta là con người biết sống ở trong cái đạo đức nhân quả. Một điều ác chúng ta không làm, và điều thiện thì chúng ta làm.
(35:09) Đó là chúng ta biết rõ. Còn bây giờ nhiều khi điều ác chúng ta không biết, chúng ta làm rồi mai mốt tai hoạ đến chúng ta mới hởi ôi là khổ. Đó là con đường nhân quả là như vậy. Vì vậy mà chúng ta nương tựa ba ngôi Tam Bảo, là chúng ta biết rõ được con đường nhân quả. Và rõ được con đường nhân quả thì tự bàn tay chúng ta đem đến cái hạnh phúc cho chúng ta.
Cơm ăn áo mặc cũng do bàn tay khối óc chúng ta đem lại cho chính mình, và sự giàu sang cũng chính bàn tay của chính mình, và sự đau bệnh chết chóc cũng do chính mình, và hạnh phúc an vui cũng do chính mình. Mình nói một lời nói đã làm cho cả gia đình buồn khổ, mà cũng một lời nói mà đem lại hạnh phúc cho gia đình mình. Một lời nói mà yên làng yên xóm, một lời nói mà làm xáo động cả làng cả xóm, cũng đều do lời nói. Lời nói chúng ta là ở chỗ thiện và ác là nhân quả.
(36:03) Mà từ đâu lưu xuất ra được cái nhân quả này, có phải là từ ba ngôi Tam Bảo Phật Pháp Tăng hay không? Do ba ngôi Tam Bảo này mà chúng ta nương tựa đúng chánh, hiểu đúng, thì đem lại đời sống chúng ta hạnh phúc an vui, đầy đủ cuộc đời. Sinh ra làm người có ai muốn đời mình khổ bao giờ, có ai muốn đời mình thiếu cơm ăn áo mặc bao giờ?
Người nào cũng muốn cho mình đây đủ cơm ăn áo mặc, thế mà vẫn thiếu, bươn chải thôi đầu này đến đầu kia, nhiều khi cố gắng làm, làm mãi làm mãi để cho có đủ cơm ăn áo mặc, hay dư dả như mọi người, thì lại bị tù tội. Do ác pháp mà chúng ta đã tạo ra những điều đau khổ càng đau khổ hơn nữa.
Do như vậy mà chúng ta trở về ba ngôi Tam Bảo. Vậy ba ngôi Tam Bảo là gì? Là Phật, Pháp, Tăng.
Phật là một con người như tất cả con người chúng ta, không phải là một bậc Thánh. Ngài là một người phàm phu cũng có vợ có con, cũng có cha có mẹ, cũng biết đau khổ, cũng biết bệnh tật, cũng biết thương nhớ. Nhưng ngài thấy cuộc đời người quá khổ, ngài bỏ ngai vàng của báu, ngài bỏ cả vợ đẹp con xinh, ngài bỏ cả cha già, rồi ra đi trong rừng rú, sống một đời sống thiếu trước hụt sau, không có được đầy đủ, cơm ăn cũng thiếu, mà áo mặc cũng không dư.
Do đó ngài quyết tâm đi tìm đạo giải thoát. Cuối cúng ngài giải thoát được, đem lại một cái đời sống quá là an vui cho chính mình, giải thoát được sanh tử, làm chủ được luân hồi. Ngài sung sướng vô cùng, đem lại dạy cho chúng ta ngày nay.
Hôm nay chúng ra nương vào ngài mà thực hiện con đường này, thì chúng ta cũng hạnh phúc vô cùng, được làm đệ tử của một bậc siêu việt vô cùng, một bậc giải thoát. Ngài mới sanh ra ngài đưa tay chỉ trời chỉ đất Ngài nói: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn, nhứt thiết thế gian sanh lão bệnh tử”. Ngài nói trên trời dưới trời ta là người duy nhất đã vượt qua sanh lão bệnh tử.
(38:07) Mà bây giờ chúng ta theo Ngài thì chúng ta cũng vượt qua được sanh lão bệnh tử, thì còn hạnh phúc nào mà vui cho đời sống của chúng ta. Phải không các con?
Hôm nay cái con được duyên về nghe Thầy giải thích, hiểu được Phật, hiểu được một con người siêu việt. Không phải siêu việt để làm một trò thuật, một trò xiếc cho người ta xem, mà siêu việt ở đây là siêu việt làm chủ cái sống chết của con người, làm chủ được cái đau khổ của con người, cho nên chúng ta quá kính phục Ngài.
Từ đó chúng ta xem như Ngài như một ông cha lành, một vị Thầy vô cùng vĩ đại đã đem lại cho chúng ta một đời sống giải thoát. Và được phước duyên, được có một vị thầy đại diện thay ngài để mà dẫn dắt các con đi vào con đường của Phật pháp, hướng về ba ngôi Tam Bảo này, để cho các con từ đây về sau có một chỗ nương tựa vững chắc.
Như vậy các con thấy một đức Phật có xứng đáng là bậc Thầy của các con không, có xứng đáng là cái chỗ nương tựa của các con không? Chắc chắn sẽ là rất xứng đáng. Và rất xứng đáng khi mà các con đã hiểu thực của nó, còn nếu mà các con nghĩ, hiểu một cách mơ hồ, thì cái xứng đáng này nó chưa hẳn đã xứng đáng, mà nhiều khi còn lầm lạc, các con đã dìm cái hình ảnh, cái Đạo Đức cao siêu của đức Phật lại xuống bùn nhơ hôi thúi.
Quy ý Tam Bảo cách đây năm năm mười năm rồi, mà người đệ tử của Phật chẳng ra gì hết thì cái đó là quy y Tam Bảo gì? Quy y Tam Bảo theo Phật, nương tựa Phật, thì hằng ngày phải đi gần đến cái chỗ làm chủ sanh tử, thì mới gọi là quy y Tam Bảo. Phật ngày xưa từ bỏ tất cả của cải vàng bạc, châu báu, chúng ta bây giờ là người cư sĩ, từ bỏ những gì mà đem đến những đau khổ cho chúng ta, từ bỏ những ác pháp, để đem lại cho hạnh phúc cho chúng ta, thực hiện những thiện pháp.
(40:01) Chứ không phải bỏ như đức Phật để đi vào lộ trình xuất gia như đức Phật, mà đi vào lộ trình của người cư sĩ, thì các con phải từ bỏ những ác pháp, mà chấp nhận những thiện pháp, để đem lại một cuộc đời ăn vui hạnh phúc cho các con. Vì nơi Phật, nơi Pháp, nơi chúng Tăng mà sản sanh ra được cái con đường Đạo Đức giải thoát thật sự cứu cánh cho các con khi các con đã nương tựa nó.
Hiểu được như vậy thì các con mới rõ được Phật là một vị đáng là chỗ nương tựa của chúng ta, là đáng một bậc thầy của chúng ta, là đáng là một người cha lành cho chúng ta để chúng ta nương tựa.
Bây giờ đến Pháp, Pháp là gì? Pháp là những lời Phật dạy. Phật dạy pháp này ác chúng ta không nên làm, thì từ đây về sau chúng ta đừng có làm, đừng có sống theo pháp ác. Mà pháp này thiện, đức Phật ngài dạy các con hãy thực hiện pháp này, hãy tăng trưởng cái pháp này, nuôi lớn cái pháp này, sống theo cái pháp thiện này, mà luôn luôn phải diệt trừ các ác pháp.
Thì chúng ta hãy nghe lời, và sống đúng các pháp thiện mà diệt trừ các pháp ác, thì tâm hồn các con không còn tham sân si, giận hờn và đau khổ nữa, cơm ăn áo mặc các con đầy đủ, tiền bạc các con xài không hết, luôn luôn lúc nào trong gia đình cũng hạnh phúc an vui, cha mẹ thì thương nhau hòa thuận, các con thì hiếu thảo đối với cha mẹ.
Không bao giờ các con ham chơi với những bè bạn hư thân mất nết, lời ăn tiếng nói thô lỗ độc ác, các con đều luôn luôn tránh xa khi mà các con đã biết Phật pháp, đã quy y Tam Bảo. Các con nhớ kỷ, khi quy y Tam Bảo rồi thì các con không được chơi với những người bạn ác, vì có những hành động ăn cắp ăn trộm, nói lời nói thô lỗ, nói lời nói hung dữ, nói lời nói lật ngược, nói lời nói xảo trá không thành thật; những người bạn đó các con không được gần họ.
(42:02) Lời Phật dạy như vậy mà, gần những người bạn ác chúng ta sẽ trở thành những người ác, mà gần những người tốt thì chúng ta sẽ được tốt. Chúng ta hãy chọn những người bạn lành mà chúng ta chơi. Từ khi các con quy y Phật Pháp Tăng rồi, phải sáng suốt mà chọn người bạn tốt mà chơi. Những người nào ham chơi, rượu chè, bài bạc thì các con nên tránh, vì pháp Phật đã dạy như vậy. Khi mà các con đã hiểu biết được như vậy, các con chọn bạn tốt mà chơi.
Tăng là những bậc nào? Là những bậc giới đức thanh tịnh, là những bậc Thánh Tăng trong thời đức Phật, hoàn toàn là những người có giới hạnh, không ham muốn, không rượu chè, không cờ bạc, không vui chơi, không đá banh, không đá bóng, không chơi đua xe, không chạy lạng ở trên đường, đó là những bậc Thánh Tăng.
Những vị Thánh Tăng đi thì phòng hộ sáu căn, ngó xuống đường, không ngó qua ngó lại, không đắm đuối vật chất ham mê, cho nên chúng ta là những người cư sĩ, không phải như những bậc tu sĩ ấy, nhưng chúng ta cũng nương vào các ngài để mà chúng ta thực hiện thiểu dục tri túc, ít muốn biết đủ, để chúng ta thực hiện thiện pháp, sống đúng thiện pháp như các ngài.
Như vậy là ba ngôi báu này để tượng trưng ba cái nơi mà chúng ta nương tựa vững chắc. Bây giờ các con đã hiểu được ba cái nơi cao quý và tốt đẹp này. Lần lượt vì Thầy đang ẩn bóng rồi cho nên không có duyên mà giảng dạy cho các con đạo đức nhân quả, không có duyên giảng dạy cho các con thấm hiểu hơn nữa, để cho các con biết cái nào ác cái nào thiện, để mà các con nương vào ba ngôi Tam Bảo này, là nơi cứu kính, là nơi đem lại hạnh phúc an vui cho các con.
Khi các con còn tuổi trẻ, được sự khích lệ, được sự hướng tâm đến ba ngôi Tam Bảo mà ngày hôm nay mới có sự quy y Tam Bảo. Vậy thì các con lần lượt sau này còn đủ duyên, các con về đây thưa hỏi với cô Út, rồi cô Út dạy từng bước một. Và cũng là thưa hỏi cô Út để cô Út cho những bản kinh nói về Nhân Quả.
Rồi các con sẽ đọc thấy những gì Phật dạy trong đó, những điều thiện các con cố gắng mà làm, những điều ác thì các con cố gắng mà diệt trừ, để đem lại cuộc đời của người cư sĩ an vui hạnh phúc mãi mãi muôn đời, cho đến ngày các con chết đi vẫn là đem lại cuộc sống đầy đủ hạnh phúc cho các con, không làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ những người trong gia đình, cũng không làm khổ những người trong xã hội.
(44:49) Được như vậy, thì các con hiểu được như vậy, thì các con hãy quỳ lên mà nói câu này, Thầy tóm tắt gọn để các con nói theo: “Hôm nay con quyết tâm quy y Tam Bảo Phật Pháp Tăng trọn đời làm người đệ tử cư sĩ của Phật”. Con nói như vậy, nhớ không?
Bây giờ nghe theo Thầy con nói theo: “Hôm nay chúng con”, nói đi, “quyết tâm quy y Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng trọn đời làm cư sĩ đệ tử Phật”, lạy một lạy.
Rồi các con nói nữa, Thầy nói trước các con nói sau: “Hôm nay chúng con quyết tâm quy y Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng trọn đời làm là cư sĩ đệ tử của Phật”, rồi con lạy một lạy.
“Hôm nay chúng con quyết tâm quy y Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng trọn đời làm đệ tử cư sĩ của Phật”, con lạy một lạy. Bây giờ thì các con ngồi xuống đi.
Sau khi thành tâm, phát cái tâm mà đã hướng đến ba ngôi Tam Bảo quyết làm đệ tử của Phật ba lần, Thầy đại diện cho chư Phật mười phương chứng nhận cho các con là trở thành những người đệ tử cư sĩ của Phật. Vậy thì ngay bây giờ, giờ này bắt đầu từ đây về sau, hai con là đệ tử của Phật, là đệ tử cư sĩ của Phật, các con hãy đảnh lễ Phật ba lạy. Bây giờ các con quỳ lên đảnh lễ Phật ba lạy. Lạy đi con, lạy Phật đi.
(47:18) Bây giờ thì các con đã lễ Phật rồi, đã phát nguyện quy y Tam Bảo rồi, thì đương nhiên là cái thọ Tam Quy của các con hôm nay đã viên mãn, đã hoàn thành rồi. Thôi thì các con để chờ ít hôm Thầy sẽ viết cho cái Lòng phái, mỗi đứa một cái, rồi Thầy đặc cho các con cái pháp danh, còn giờ này thì đương nhiên là cái lễ đã quy y thì các con đã viên mãn. Cho nên các con đã đảnh lễ Phật để đền đáp ơn Phật tổ xong rồi thì các con lui ra nghỉ, không có gì hết.
Trưởng lão: Bây giờ tới cái phần mà các con xin Thầy cái pháp hiệu.
Phật tử: Thưa Thầy có pháp danh còn pháp hiệu nữa?
Trưởng lão: Tại vì cái pháp danh có rồi con, thì phải đặt cái pháp hiệu.
(48:48) Con là Hải Tâm phải không? Tâm rộng như biển mà, còn xin gì nữa. Tâm rộng như biển thì dung chứa biết bao nhiêu. Thôi cứ để cái Hải Tâm cho rộng lớn như biển đi, tốt rồi con, khỏi xin. Cố gắng mà tu tập, tâm rộng lớn như biển đi
Phật tử: Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Bạch Thầy, hôm nay con xin Thầy cái pháp hiệu
Trưởng lão: Hôm nay con xin Thầy cái pháp hiệu, và đồng thời thì các con đã được nghe Thầy giảng về cái giới luật của Phật, tức là cái bậc thầy mà làm thầy cho các vị, thừa kế Phật làm thầy cho các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni sau này thì Thầy đã giảng gần xong rồi. Chỉ còn cái giới hành nữa là mới xong, nhưng tạm thời thì các con đã hiểu được cái giới luật làm thầy của mình rồi.
Vậy thì bắt đầu từ nay mà về sau, cố gắng mà giữ gìn cái giới hạnh đó, thì đương nhiên là các con là những vị Tỳ-kheo-ni của đức Phật rồi. Mà nếu các con làm mà không đúng, sống không đúng cái giới hạnh của Phật, ăn phi thời, ngủ phi thời, sống không độc cư, không đúng cách thì tức là các con sống không phải là Tỳ-kheo-ni nữa.
(50:04) Bởi vì Tỳ-kheo-ni là tượng trưng cho giới hành, tượng trưng cho giới đức, tượng trưng cho giới tuệ. Mà nếu mà không giữ gìn đúng những giới luật như vậy, thì đương nhiên các con sẽ không có xứng đáng làm một vị Tỳ-kheo-ni.
Muốn xứng đáng như vậy thì các con phải sống như thế nào? Phải biết nhẫn nhục, phải biết tuỳ thuận, phải biết bằng lòng. Thì như vậy, cái đức mà Nhẫn nhục - Tùy thuận - Bằng lòng nó bao gồm cả cái giới hành, cái giới mà hạnh, giới đức, giới tuệ, và giới bổn, và đến cả cái giới hành nữa. Nhớ kỷ vì ba cái Đức này nó bao gồm cả cái giới luật của Phật, cũng như Bát Kỉnh Pháp, nó bao gồm cả ba trăm bốn mươi tám giới Tỳ-kheo-ni.
Cho nên Bát Kỉnh Pháp là cái người mà đứng ra để cho bên Ni lấy đó mà làm cái hướng mà quy y Tam Bảo. Các con hiểu chưa. Cho nên hướng đến mà thọ Cụ túc cũng là Bát Kỉnh Pháp. Chứ không phải là đức Phật, cũng không phải là một vị Tỳ-kheo nào, các con đã từng nghe Thầy thuyết giảng rồi mà.
Hôm nay thì các con lại lấy ba cái Đức Nhẫn nhục - Tùy thuận - Bằng lòng làm cái hướng, làm cái nơi đại diện để dẫn dắt cho các con vào con đường của Phật pháp, trở thành cái Ni, trở thành những người Ni xứng đáng của đạo Phật.
Vì có gì hơn là nhẫn nhục? Mà Phật nói nhẫn nhục là một điều khó làm hơn những điều khác. Và cái gì tuỳ thuận mà được, thì cái đó không phải là chuyện dễ tuỳ thuận; mà tuỳ được thì tất cả những giới đều thực hiện được. Và cái gì mà bằng lòng được, nếu mà bằng lòng được thì tức là xả được hết, mà xả được hết tức là cái giới hành đã trọn vẹn, cái giới đức đã thành tựu, cái giới tuệ đã viên mãn.
(52:00) Các con hiểu chưa? Như vậy thì hôm nay Thầy sẽ cho các con mỗi người một cái pháp hiệu, vì đã từng xuất gia với Bổn Sư của mình, thì dù là xuất gia với Bổn Sư nào cũng là một người đại diện cho Phật pháp chứ đâu phải ông ta. Cho nên chúng ta đừng bỏ ông ta, mà chúng ta hãy nhớ rằng nhờ ông ta mới hôm nay mới có gặp Thầy.
Không có ông ta thì hôm nay các con đã có gia đình, có con, nay là đã là bà nội bà ngoại mất rồi, còn đâu mà biết tới tu hành. Cho nên ơn nghĩa đó chúng ta không quên, và cái pháp danh Minh Cảnh vẫn mãi mãi nhớ mãi trong lòng.
Nhưng hôm nay đến đây được Thầy chấp nhận là đệ tử Thầy truyền pháp cho, thì cố gắng mà thực hiện, thì các con sẽ tiến tu mãi, trước là đền ơn Bổn Sư của mình, người đã dẫn dắt mình lúc ban đầu, để cho mình tránh cái duyên ràng buộc của thế tục, vì vậy mà ngày giờ này mình không có gia đình, không có con cái, không có trở thành bà nội bà ngoại, vì vậy mà mình giải thoát được. Nhớ ơn đó, thì mình bao giờ mình cũng không quên.
Cho nên Thầy không bao giờ mà dạy các con trở thành người đệ tử vong ơn bạc nghĩa, mà muốn cho các con luôn luôn nhớ cái bước đầu chập chững phải nhờ một bậc thầy người ta đưa mình đến ba ngôi Tam Bảo. Mặc dù người ta có sai phạm trong giới luật, nhưng người ta vẫn đưa mình đến chỗ cao quý. Đó là cái thứ nhứt.
Và lần lượt Thầy sẽ cho cái pháp hiệu các con, để các con thực hiện được những giới đức cho xứng hợp với các pháp hiệu. Vì vậy thì lần lượt Thầy sẽ cho. Thay vì các con phải hỏi trước Thầy một tuần lễ thì mới được, đằng này các con vui đâu chạy theo đó, nghe người ta làm lễ xuất gia, làm lễ quy y thì các con đã là chạy theo xin thì cái này nó hấp tấp và vội vàng quá.
Minh Cảnh thì có gởi cho Thầy cách đây mấy bữa, trong cái tập nhật ký thời khoá cho nên Thầy có xem rồi. Nhưng mà vì nhiều công việc quá cho nên Thầy không có chuẩn bị cho Minh Cảnh. Cho nên hôm nay thì Thầy sẽ lần lượt cho cái pháp hiệu con.
(54:12) Và cô Phượng thì cũng xin Thầy, đã từng quy y với Hòa thượng. Hoà thượng là một bậc tôn túc, Hòa thượng đã hướng dẫn biết bao nhiêu người, uy danh của ngài rất là lớn, do vì vậy cũng là xứng đáng là một bậc thầy của mình, cao quý nhứt lắm rồi. Cho nên đến đây mà thọ pháp tu hành với Thầy, qua cái sự hướng dẫn của Thầy, đi vào con đường giới luật, thì xin thì Thầy thấy nó có một cái gì mà hấp tấp quá, đó là cái nó không có rõ ràng.
Là vì đến đây nghe nói như vậy rồi xin, chứ còn phải chi xin Thầy trước ba bốn bữa, và từ lâu đã có tâm niệm đó, thì như vậy thì Thầy thấy nó không có nông nổi và vội vàng. Bởi vì Hoà Thượng cũng là một bậc rất là xứng đáng cho cô Phượng nương theo người mà tu hành, nhưng vì cái pháp tu nó không có phù hợp với căn cơ của mình, cho nên xin về tu hành những cái pháp môn của Thầy.
Điều kiện đó Hoà Thượng không buồn đâu mà Hoà Thượng rất vui, là vì mình thấy mình không hợp thì mình đi tìm cái pháp khác mà tu. Là một bậc mà dạy đạo, người ta không có ngại, chỉ ngại là cái người không hiểu đạo rồi chỉ trích thầy mình như thế này thế khác, rồi khinh bỉ thầy mình thế khác. Bởi vậy Thầy thấy ở trong cuộc đời Thầy dạy đạo chưa bao giờ mà Thầy làm phiền Hoà Thượng Thanh Từ.
Thế mà có một số đệ tử của Thầy lại lấy những cái lời giảng của Thầy, cho rằng Thầy chỉ trích Hoà Thượng thế này thế khác. Thiệt ra những cái hạng đệ tử này đã không làm cho sự sum họp giữa thầy và trò, mà còn muốn làm cho thầy trò chống đối nhau, chính là những người đệ tử của Thầy ở đây không ai khác. Các con hiểu điều đó, cho nên Thầy thấy tâm niệm của họ rất là ác độc.
(56:02) Tình thầy trò giữa thầy Thanh Từ không bao giờ sứt mẻ, thế mà họ dám làm để cho sứt mẻ, thì thử hỏi họ là những con người gì? Có phải là ác thú không. Các con nhớ, cho nên khi mà xin Thầy Thầy giảng cho các con rõ, các con rõ thì Hoà Thượng là một bậc cao quý, một bậc rất là xứng đáng.
Thầy là đệ tử của Hoà Thượng, con đã quy y với Hòa Thượng là coi như là đàn em của Thầy. Hôm nay xin Thầy một pháp hiệu thì đó là một điều tốt chứ không có gì. Các con hiểu điều đó. Vì Hoà Thượng có ngày phải thị tịch, thì các con biết nương tựa vào ai, phải nương tựa vào các huynh trưởng của mình.
Thì đó là một cái điều trên dưới hoà thuận, không có nghịch nhau, hoàn toàn đem lại một cái đạo Phật thống nhất, không có chia rẻ, không có, rất là đoàn kết, không có sống thế này thế khác. Cho nên hầu hết là gặp Thầy, Thầy rất khuyên các con đừng có những cái tâm niệm sai lệch, làm cho từ con đường tu chân chánh của mình nó lạc vào con đường tà mất rồi.
Tình nghĩa thầy trò một ngày một giờ cũng là thầy của mình, thế mà mình nghĩ sai một chút là đã làm lệch tâm của mình rồi, là làm cho mình trở thành một người xấu. Cho nên các con tuần tự Thầy sẽ cho các con cái pháp hiệu, để các con cố gắng mà giữ gìn giới đức giới hành để mà tu tập cho đến giải thoát sanh tử làm chủ luân hồi.
Đó là cái ý muốn chung của Thầy, không muốn cái người nào còn ở trong địa ngục nữa, muốn cho các con thoát ra khỏi địa ngục trần gian đau khổ này. Thôi đến đây thì hoàn mãn công đức.
Lần lượt Thầy sẽ cho từng người từng cái pháp hiệu xứng hợp với tâm tánh, đặc tánh của các con, để các con lấy cái pháp danh hằng ngày người ta gọi tên mình là nhắc mình phải làm cái gì đây. Các con hiểu cái tên nó phù hợp với con người chứ, người ta kêu cái tên mình, thì mình phải làm cái gì chứ.
(58:01) Cũng như hồi nãy Hải Tâm tính xin Thầy pháp hiệu, mà Thầy xét Hải Tâm là cái tâm rộng lớn như biển, nó dung chứa biết bao nhiêu cá xà cá mập, cá ông cũng chứa đủ thứ hết, rồi các con cá bé nó cũng đầy hết, cố gắng mà dung chứa cho hết, đừng có phiền não. Mà không phiền não thì dung chứa hết thì cái tâm đó gọi là từ bi vô lượng, phải không? Rộng lớn vậy còn xin làm gì nữa.
Từ đây về sau cứ gọi Hải Tâm cho dữ, cho tâm nó lớn rộng như biển. Còn các con, Minh Cảnh mà cảnh không có minh chút nào hết, nó mù tối, cho nên nó là tối cảnh chứ không phải minh cảnh.
Bây giờ là các con đã trở thành những người tu sĩ rồi, vậy thì trước khi mà cái buổi lễ hôm nay viên mãn, thì còn cái phút cuối cùng là Thầy nhắn nhủ các con, mặc chiếc áo giữ đầu tròn này, mãi mãi là những cái phạm hạnh, tâm bất động trước các pháp của thế gian, do cái mục đích phạm hạnh của nó là tâm bất động giải thoát.
(59:00) Nhớ kỷ những cái điều này, trước các pháp nào thì các con cũng phải giữ tâm bất động. Và bây giờ đó, là giờ phút này là các con là tân Tỳ-kheo-ni rồi, thì các con lại còn phải giữ gìn tâm bất động giải thoát mình hơn nữa.
Và cuối cùng, thì các con đảnh lễ Thầy, để tạ ơn Thầy đã nãy giờ đã nói mệt quá rồi mà không thấy mấy cái người học trò này nó nói lời ơn nghĩa nào hết, vậy thì bây giờ các con đảnh lễ Thầy đi, rồi chúng ta sẽ viên mãn cái buổi lễ xuất gia cho mấy con. Bây giờ các con đảnh lễ đi.
Phật tử 1: Phật tử chúng con hôm nay được chút duyên lành, được về đây tu học cùng với Thầy. Hôm nay lại được Thầy tế độ cho chúng con, chúng con nghĩ ơn này không biết lấy gì đến đáp ạ. Con xin nguyện trước Tam Bảo, trước Thầy Bổn Sư, con xin cố gắng những gì mà Thầy đã dạy ra cho chúng con. Chúng con xin thực hành những lời Thầy dạy và những giới luật của Phật được nghiêm túc, được đầy đủ.
Chúng con xin, từ nay trở đi chúng con xin nguyện nương theo giới đức của Thầy, giới hạnh, giới tuệ của Thầy chúng con tu hành cho đến ngày thành công viên mãn. Chúng con xin lễ tạ Thầy ạ. Con Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
(1:00:45) Phật tử 2: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! (ba lần).
Nam Mô kính bạch Thầy, hôm nay con thấy là con có đủ cái phước duyên về nương tựa nơi bóng từ bi của Thầy. Con cảm thấy là một cái điều phước nhiều đời của con. Bấy lâu thì con cũng có đi tu, nhưng mà con nương tựa những cái nơi mà con cũng chưa có vừa lòng lắm.
Thì hôm nay con về đến đây thì với cái đạo hạnh của Thầy, con thấy Thầy đúng là một vị chân sư mà con theo Thầy để nương cái oai đức và cái đạo hạnh của Thầy trên bước đường tu của con nó được suôn sẻ. Và con nguyện con nương theo cái giới hạnh của Thầy, tu hành đến ngày viên mãn. Con xin lễ tạ Thầy hai lễ.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! (Hai lần)
Trưởng lão: Bây giờ là cái buổi lễ mà xuất gia của hai con ấy, đã hoàn thành rồi, đã viên mãn xong và nghe lời cuối cùng đã xong. Các con hãy trở lui mà nghỉ, và các con, tất cả những người mà tham dự hôm nay, buổi lễ xuất gia này, thì các con cũng lui ra hết để nghỉ ngơi. Vì nãy giờ rất lâu rồi. Các con trở về, rồi Thầy sẽ tuần tự cho các con mỗi người một cái pháp danh pháp hiệu, như các con đã cầu xin Thầy. Thôi các con bây giờ lui ra.
HẾT BĂNG
MUỘI LƯỢC THAM SÂN SI
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
(00:00) Hiểu biết một cái đối tượng để làm cho mình không còn đau khổ nữa thì cái đó gọi là Định Vô Lậu - cái phương pháp tu tập làm cho tâm chúng ta không còn đau khổ được gọi là Định Vô Lậu.
Vì vậy cho nên bây giờ các con muốn tu Định Vô Lậu thì các con đưa ra một cái niệm, đưa ra một đề tài để mà tư duy suy nghĩ nó để mình thấy rõ ràng trên nhân quả thiện ác, thì mới chuyển hóa được cái tâm của chúng ta không còn đau khổ nữa. Lúc bấy giờ chúng ta thấy rằng chúng ta đang tu Định Vô Lậu.
Cũng như bây giờ các con ngồi, như ở trong cái giới mà ý hành niệm, khi trong đầu các con khởi ra một cái niệm, các con đem cái niệm đó đặt ra rồi mình ngồi mình tư duy cái niệm này nó thuộc về cái gì? Nó thuộc về triền cái, kiết sử hay hoặc là cái niệm này nó thuộc về nhân quả? Các con đặt nó ra rồi tư duy, ngồi suy nghĩ trên cái niệm đó. Khi đó mình suy nghĩ thông suốt được cái niệm đó tức là các con sẽ xả cái niệm đó, nó không có làm cho các con bị chướng ngại, đau khổ.
Thì cái sự tu tập của đạo Phật, càng ngày trí tuệ của các con được triển khai, trí tuệ đó là cái tri kiến của sự hiểu biết của các con bây giờ, nó làm cho tri kiến đó nó rộng mở, làm cho tri kiến đó nó hiểu sâu sắc về nhân quả, nó giúp cho các con lúc nào cũng an ổn, thanh thản, an lạc và vô sự. Các con hiểu chưa?
Cho nên vì vậy mà mình càng học thì đầu óc của mình nó thông minh và sáng suốt, nó nhận định một cách rất cụ thể, rõ ràng, nó làm cho thân tâm của chúng ta an ổn. Trong một cuộc sống không còn một ác pháp nào tác động làm chúng ta đau khổ được, vì nó đến nó đụng với chúng ta thì nó đụng với tri kiến giải thoát của chúng ta, nó đụng với sự hiểu biết của chúng ta, làm chúng ta không còn đau khổ nữa. Nó tác động vô thì chúng ta hiểu biết, hiểu biết thì chúng ta hóa giải làm cho nó rơi rụng ra ngoài mà không còn làm cho tâm chúng ta dính mắc. Thì các con nhớ đó là Định Vô Lậu.
Thường xuyên phải tư duy suy nghĩ. Mọi sự kiện xảy ra trong đời sống của các con, trong tâm hồn của các con thì các con hãy đặt cái niệm đó thành một cái pháp Định Vô Lậu mà quán xét xả tâm. Đừng có để tâm mình bị một tác động nào buồn phiền từ một phút đến một giờ, không được để kéo dài đến một giờ, một phút hai phút là phải xả thật sạch, đừng có để trong tâm của mình sự đau khổ. Dù sự kiện đó bằng trời đi nữa, các con cũng phải xả xuống hết. Nhớ kỹ! Thì đó là các con đã tự thắp đuốc lên mà cứu mình. Thắp đuốc lên mà đi các con!
(02:16) Tự ôm pháp của Phật - ôm pháp Định Vô Lậu này làm chỗ nương tựa vững chắc để chúng ta vượt bao nhiêu sự khổ đau của kiếp làm người, không phải ít đâu. Cho nên mấy con biết pháp của Phật thật là tuyệt vời, chỉ có chúng ta hiểu biết, tin cậy, tin tưởng thì chúng ta ôm chặt nó để mà vượt qua những sự đau khổ của kiếp làm người. Nhớ kỹ!
Hôm nay mấy con có đủ duyên để gặp Thầy, Thầy dạy cho mấy con những điều kiện cần thiết để giúp cho đời sống các con được giải thoát.
(02:48) Còn mấy cháu còn trẻ, còn nhỏ, còn đi học thì mấy cháu nên tập như thế này để đầu óc của mấy cháu sẽ thông minh, học mau thuộc, thì có sự yên tịnh của tâm. Ví dụ như bây giờ: “Đưa tay ra, tôi biết tôi đưa tay ra; đưa tay vào, tôi biết tôi đưa tay vào”; các con cứ tập như thế này để biết cái hành động đưa ra, đưa vào. Đừng nhắc gì hết, chú ý cái hành động đưa ra đưa vào. Cứ khoảng mười hành động như vậy mấy cháu sẽ nhắc: “Tôi đưa tay ra, tôi biết tôi đưa tay ra” rồi mấy cháu đưa ra, “Tôi đưa tay vô, tôi biết tôi đưa tay vô” rồi mình cứ tập trung như thế này, tâm mình đưa như thế này làm cái tâm nó an tịnh.
Khi mà tâm định tĩnh, an ổn rồi thì nó có một sự thông minh ở trong đó, cho nên chúng ta sẽ học dễ dàng nhớ, học nhiều hơn.
Cũng như một người còn trẻ tuổi, một đứa bé còn trẻ tuổi tại sao nó học thuộc mà người lớn tuổi lại học không thuộc? Vì người lớn tuổi đầu óc có nhiều chuyện trong đó lắm, cho nên nó không có thể nhớ được. Còn đứa bé nó mới lớn lên, nó học nó nhớ được tại vì đầu óc nó không có nhiều chuyện ở trong đó. Mà một người tu là người ta làm cho đầu óc người ta không có nhiều chuyện, nghĩa là nó lặng lẽ, nó yên lặng, cho nên vì vậy mà nó thông minh, nhớ dai, nhớ được nhiều là vì cái sự yên tịnh của nó.
Mấy cháu còn trẻ tuổi, còn đi học thì nên tập như thế. Hoặc là mấy cháu đi mấy cháu lưu ý từng bước đi của mấy cháu. Mấy cháu cứ bước một bước nào thì biết chắc bước đấy, cứ như vậy tập từ mười bước đến hai mươi bước cho đến một trăm bước, một ngàn bước. Cái thời gian mà tâm nó định tĩnh trên bước đi nó kéo dài chừng nào thì mấy cháu sẽ thông minh chừng nấy. Nghĩa là một giờ thì mấy cháu sẽ thông minh trong một giờ, mà hai giờ nó sẽ thông minh trong hai giờ, mà mười giờ nó sẽ thông minh trong mười giờ. Các cháu biết các cháu ba mươi phút thì các cháu không được thông minh lắm, không bằng một cháu an trú được trong tâm bước đi mười giờ, các cháu không bằng cái cháu mà mười giờ đi mà chỉ biết duy nhất có bước đi, nó sẽ thông minh hơn một cháu trong ba mươi phút hay một giờ.
(04:39) Nếu cháu nào cũng bước đi từ mười giờ đến hai mươi giờ, hai mươi bốn giờ một ngày thì mấy cháu đó thông minh vô cùng, học một mà biết mười, rất là sáng suốt, rất là thông minh. Mấy cháu làm thử đi rồi mấy cháu sẽ thấy sự thông minh. Một cái người tu người ta thông minh đến độ vũ trụ như thế nào, người ta muốn biết người ta đều biết được. Thì cái đó là cái sự thông minh chứ? Mấy con thấy đấy!
Nếu mà không có sự tỉnh thức cao, không có sự yên lặng sâu như vậy thì làm sao người ta thấy được vũ trụ? Làm sao người ta hiểu được vũ trụ mênh mông như thế này? Cho nên mấy cháu thấy nó là sự thông minh ghê gớm, không phải là cái sự thường. Vì vậy mà hãy cố gắng tập, tập để cho mình trở thành một người thông minh, một đứa bé thông minh.
Một con người rất thông minh, không có một cái gì che giấu được nó. Ví dụ bây giờ người ta nói hoặc thấy hành động người khác làm như vậy người ta biết được tâm ý của người đó liền. Đó thì các con thấy, Phật pháp rất là vi diệu. Nhưng nó có những bài bản để mà chúng ta thực hiện được, đem lại cho đời sống chúng ta trở thành những người thông minh, nếu không chúng ta sẽ trở thành ngu dốt, tối tăm, u mê, không sáng suốt.
Cho nên mấy con vừa tập để an ổn được, giải thoát được thân tâm của mình, vừa tập để cho mình trở thành những con người thông minh. Muốn đạt được sức tỉnh thức cao như vậy thì mấy cháu còn trẻ tuổi phải tập như thế này: Mấy cháu sẽ đi hai mươi bước, đi mỗi bước đi mình sẽ biết mình bước đi từng bước đi; đếm đúng hai mươi bước, đừng quên, đừng hai mươi mốt, hai mươi hai; đúng hai mươi bước thì ngồi xếp chân lại. Nếu ngồi kiết già được thì mấy cháu ngồi kiết già, ngồi kiết già không được thì ngồi bán già, ngồi xếp bằng lại, lưng thẳng lên rồi bắt đầu tiếp tục hít thở năm hơi thở. Đúng năm hơi thở, chứ đừng sáu hơi thở, đừng bảy hơi thở, đừng mười hơi thở; mà chỉ đúng năm hơi thở thôi. Khi đúng năm hơi thở thì đứng dậy bước đi hai mươi bước, hai mươi bước rồi ngồi lại. Mấy cháu tu tập ba mươi phút rồi tăng lên một giờ, một giờ được thì tăng lên hai giờ, hai giờ được ba giờ …, càng tu chừng nào càng tốt chừng nấy, thời gian dài chừng nào tốt chừng nấy.
(07:02) Nhưng sức của mấy cháu chưa đủ nó sẽ có sự mệt nhọc thì mấy cháu lui lại tập luyện, tập luyện dần rồi tăng lên đến hai, ba, bốn tiếng đồng hồ. Mấy cháu đi suốt thời gian mà ba, bốn tiếng đồng hồ, vừa hai mươi bước vừa ngồi xuống hít thở năm hơi thở. Kéo dài thời gian tu tập như vậy thì mấy cháu vừa rèn luyện được nghị lực của mình, mà vừa rèn luyện sức tỉnh thức của mình. Nó rất lợi ích cho mấy cháu, nó vừa rèn luyện sự kiên trì, bền bỉ, đầy đủ những sự nghị lực dũng mãnh. Sau này gặp những khó khăn thì mấy cháu sẽ vượt qua tất cả được những khó khăn đó.
Cho nên mấy cháu nhớ tập cái pháp: năm hơi thở đi kinh hành hai mươi bước. Không cần phải vào cái gì hết, rèn luyện cho mình có đủ nghị lực, có sức bền chí. Nếu mà không bền chí, mấy cháu đi chừng năm mười phút là mấy cháu sẽ không tu tập nổi.
Còn mấy cháu bền chí và nghị lực thì mấy cháu tập từ một giờ, hai giờ, ba giờ, bốn giờ mấy cháu làm được. Nghĩa là đứa nào mà làm được mà suốt ba tiếng đồng hồ mà cứ hai mươi bước rồi ngồi xuống thở năm hơi thở thì mấy cháu đến đây gặp Thầy, Thầy sẽ dạy tiếp tục. Đây là một pháp đầu tiên để rèn luyện nghị lực.
Ai cũng nói tôi có nghị lực nhưng mà gặp khó khăn là mọi người, mấy con, quý Phật tử đều là buông bỏ hết; nghĩa là gặp khó khăn là chúng ta buông bỏ hết. Nếu không rèn luyện pháp này thì chúng ta không đủ nghị lực mà để chiến đấu với sự lười biếng, sự đau khổ ở trong thân của chúng ta. Chúng ta không đủ nghị lực chiến thắng.
Cho nên khi rèn luyện pháp này rồi thì trước cái đau khổ, khó khăn gì mấy con sẽ vượt qua được một cách rất dễ dàng, vì mấy con đã thấy rằng cái pháp rất là độc đáo. Vì hai mươi bước mà ngồi xuống có năm hơi thở làm cho chúng ta không được nghỉ ngơi chỗ nào hết, nếu một người không siêng năng thì không làm được, người có siêng năng thì mới làm được. Và làm được thì người này mới có nghị lực, mới có ý chí, mới có sự bền chí gan dạ. Còn nếu không làm được thì đi trên con đường của đạo Phật không thể nào mà tu tập nổi. Nhớ chưa mấy cháu còn trẻ tuổi?
(09:10) Còn người già thì không được. Người già tu như vậy không nổi đâu, sức mấy con yếu lắm rồi. Mấy con đứng lên ngồi xuống như vậy, cơ thể của mấy con sẽ bị mệt nhọc. Tốt hơn mấy con ngồi giữ tâm thanh thản, an lạc, vô sự của mình mà thôi; rồi dùng cánh tay của mình tu tập, dùng hơi thở của mình tu tập, để đẩy lui các chướng ngại pháp, ác pháp tác động vào thân tâm của mấy con.
Còn người trẻ thì rèn luyện nghị lực, rèn luyện ý chí của mình, sự dũng cảm, sự mạnh mẽ để chúng ta còn gặp những khó khăn trên đường đời rất nhiều thì chúng ta vượt qua, chúng ta làm tốt lại cho đời cho đạo, chứ không phải chỉ có cá nhân của chúng ta không đâu. Cho nên các cháu cần phải tu tập, còn tuổi trẻ phải luyện tập pháp này, không được bỏ pháp này. Nhớ chưa? Mấy cháu trẻ tuổi phải tập luyện.
Còn những người già thì sẽ không được tập luyện mà hãy tập những pháp mà Thầy đã dạy từ cánh tay, từ hơi thở, từ tâm thanh thản, an lạc, vô sự để giữ gìn. Nhất là người lớn tuổi thì luôn luôn lúc nào cũng phải nhớ ôm pháp thanh thản, an lạc, vô sự. Thầy nhắc lại, nhớ kỹ, đừng có buông pháp này. Pháp này như cái phao của mấy con. Nó cứu mấy con thoát ra những đau khổ của kiếp người đó.
Còn trẻ tuổi thì Thầy dạy cho mấy cháu rèn luyện nghị lực trở thành con người có đầy đủ ý chí dũng mãnh, không đầu hàng trước những khó khăn. Đó là tuổi trẻ của mấy cháu để sau này mấy cháu trở thành những con người có khả năng giúp đời giúp đạo, làm cho tất cả những sự kiện cần thiết cho đời tốt đẹp hơn, đẹp đẽ hơn, không còn có sự mà đen tối như ngày hôm nay.
Các cháu cố gắng tuổi trẻ phải nhớ như vậy, dù trai cũng vậy, dù gái cũng vậy. Các cháu nhớ rằng mình là người Việt Nam chúng ta có Quang Trung, Trần Hưng Đạo thì cũng có Trưng Vương, Triệu Ẩu là những bậc anh hùng, anh thư của đất nước chúng ta. Chúng ta là con cháu của những người đó thì chúng ta làm sao cho xứng đáng, chứ không thể nào mà chúng ta lại hèn nhát.
(11:19) Mà muốn mình đừng hèn nhát thì phải tu tập pháp này để rèn luyện nghị lực của mình thì mình không hèn nhát, các cháu hiểu chưa? Phải cố gắng mấy cháu. Có Thầy thì Thầy sẽ rèn luyện mấy cháu, dạy mấy cháu thì mấy cháu trở thành những đứa con đứa cháu của Thầy, hoàn toàn là người có đầy đủ gan dạ, đầy đủ nghị lực, không thua ai hết, để mình xứng đáng là người dân Việt Nam. Nhớ chưa? Nhớ rồi nghe không? Tất cả mấy cháu còn tuổi trẻ phải nhớ lời Thầy dạy, về tập pháp này đi, rồi có gì thì trình lại Thầy, để rồi Thầy chỉnh lại cái pháp.
Thí dụ như mấy cháu đi ba mươi phút mà thấy có sự mỏi chân, có những gì xảy ra ở trong ba mươi phút đó mà tâm mấy cháu chưa an ổn được trên bước đi và khi hít thở năm hơi thở thì mấy cháu trình lại Thầy, Thầy sẽ giúp mấy cháu vượt qua và tâm lúc nào cũng định tĩnh trên thân hành của mấy cháu. Và như vậy giúp cho mấy cháu có sự tỉnh thức cao, làm cho thông minh. Mấy cháu nhớ. Cho nên trình lại từng chút từng chút để Thầy biết Thầy giúp cho mấy cháu tu tập.
Còn mấy cháu tu rồi mấy cháu không nói gì hết thì mấy cháu làm sao biết đâu mà sửa? Phải không? Nên phải thưa hỏi: bữa nay con tu con thấy như vậy, trạng thái nó xảy ra như vậy, con tu như vậy bây giờ sao mà vọng niệm nhiều quá, con tu như vậy sao mà nó mỏi chân quá, con tu như vậy mà cái trạng thái con bây giờ nó lười biếng quá … thì cứ trình lại cho Thầy, Thầy sẽ có cách giúp mấy cháu vượt qua và chiến đấu tận cùng, ôm chặt pháp mà đem đến cho mấy cháu có một trạng thái an lạc, vô sự, làm cho mấy cháu thích thú tu trên pháp này. Chứ không khéo mấy cháu sẽ nhàm chán và buông bỏ mà không còn muốn tu nữa thì rất uổng. Nhớ chưa?
Tập thì phải thưa hỏi, có thì giờ phải tập luyện rồi thưa hỏi. Những cái này là điều kiện chúng ta tập luyện chứ đâu phải từ trên trời rơi xuống, tự chúng ta biết được? Do sự tập luyện, tu tập mà chúng ta có được những nghị lực, nội lực. Chứ còn nếu mà không tập luyện thì mấy cháu không bao giờ có nội lực, có nghị lực được. Cho nên chúng ta phải nỗ lực tu tập, nỗ lực rèn luyện mình. Mấy cháu nhớ kĩ chưa?
(13:22) Còn các cụ, các bác lớn tuổi rồi thì nhớ ôm chặt pháp thanh thản, an lạc, vô sự, luôn luôn thấy đời bằng nhân quả, đừng thấy nó đúng sai phải trái; đừng thấy tôi đúng mà sao người kia sai, đừng thấy điều đó, mà hãy thấy nhân quả. Thấy nhân quả tức là thấy khổ và thấy không khổ mà thôi. Không khổ là thiện pháp, thấy khổ là ác pháp, đó là những lời Thầy nhắc nhở cho mấy con.
(13:43) Bây giờ mấy con đã hiểu biết cách thức tu tập nhiếp tâm và an trú tâm, đồng thời biết cách thức xả tâm và biết cách thức rèn luyện nghị lực của mình, thì bây giờ mấy cháu phân chia ra, tùy theo mỗi người thành lập cho mình một cái thời khóa, thời gian quy định theo khả năng của mình, mỗi người đều lập thời khóa theo mình chứ không được người này làm chung chung với nhau.
Như Thầy đã viết ở trong sách, lập thời khóa đó là cái thời khóa chung chung, còn đây, mấy con phải lập thời khóa theo của mình. Bởi vì có người ban ngày giờ này bị bận thì không thể tu thời khóa chung được. Mà người này, giờ này bận thì mình bỏ cái giờ bận này ra, giờ kia sẽ rảnh thì biết hơn ai hết, mình lập thành cái thời khóa, giờ nào mà rảnh thì các con cứ dựa vào đó mà các con lập thành thời khóa rồi ôm thời khóa đó mà tu tập. Bởi vì cuộc đời nó nhiều việc lắm, cuộc sống nó còn đòi hỏi ở mấy con rất nhiều việc, vì vậy mà các con phải tùy theo cái thời gian nào mà rảnh rỗi thì các con lập thành thời khóa cho nó hợp với cuộc sống của mình, lấy đó mình làm thời khóa tu, giờ nào, ngày nào, phút nào nếu rảnh thì mình vẫn có nơi, có thời gian tu tập. Đừng có bỏ phí, dù một phút mấy con cũng nhớ tu tập.
Bây giờ, mình vừa làm rồi bắt đầu ngồi nghỉ, mà ngồi nghỉ trong vòng một phút thôi thì mình vẫn tác ý được một câu “tâm thanh thản, an lạc, vô sự” hay là “tâm như đất, ly tham, sân, si hết đi!”. Phải không? Các con thấy, mình vẫn tu được. Dù các con nhắc một lời nói, vẫn là các con tập tu cái tâm của mình rồi, tự huấn luyện cái tâm của mình rồi, đã làm cho tâm mình được an ổn rồi. Vì vậy cho nên các con đừng phí, dù một phút rảnh rang là tác ý ngay liền. Tác ý rồi các con sẽ tiếp tục làm công việc khác.
(15:54) Nhưng khi mà làm công việc khác đó mà nhớ thì các con lại tác ý một lần nữa: “Tâm thanh thản, an lạc, vô sự, tất cả các pháp đều vô thường”. Các con nhớ, những lời nói tuy đơn giản mà nó thâm sâu, càng nhắc nó càng thâm sâu vào tận ở trong tâm của mấy con, làm cho mấy con thấm nhuần được lý đạo, làm cho các con được giải thoát hoàn toàn. Các con hiểu chưa? Cố gắng nhắc là nó sẽ đi sâu vào tận tâm hồn của mình, nó không còn cạn cợt bên ngoài, chỉ có chúng ta nhắc nó mới đi sâu được, còn chúng ta không có nhắc thì không đi sâu được. Các con hiểu chưa?
Cho nên cứ hằng ngày, rảnh lúc nào, việc yên ổn được lúc nào thì các con khoanh chân lại ngồi lại, các con nhắc, người già thì nhắc “thanh thản, an lạc, vô sự”, người trẻ thì “hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, rồi năm hơi thở rồi nhắc một lần. Hay hoặc là nếu mà tâm mình an trú được trong hơi thở thì cứ để nó an trú trong hơi thở. Thở ra thở vô, suốt thời gian mình rảnh rang thì thời gian đó (năm phút, ba phút, mười phút …) mấy con đều có thể tu được. Nhưng ngày nào các con cũng tu thì một năm góp lại số thời gian mà các con tu nó rất nhiều, chứ đừng bỏ phí, mình ngồi chơi rất uổng. Phí thời gian qua là phí đời mình rồi mấy con.
(17:08) “Tấc bóng thời gian một tấc vàng
Tấc vàng tìm được không gì khó
Tấc bóng thời gian khó hỏi ai”
Khi mà thời gian nó qua rồi, tuổi đời mấy con lôi trở lại không được đâu. Cho nên rất tiếc cái thời gian. Dù mấy con còn trẻ tuổi mấy con cũng đừng có phí thời gian của đời của các con, cho nên mỗi giây mỗi phút các con phải cố gắng mà tập luyện, đừng bỏ phí. Bởi vì đời sống của chúng ta ngắn ngủi lắm, không có dài đâu. Coi vậy chứ chúng ta nghĩ bây giờ mình sống nhưng ngày mai mình chết mình có biết được đâu? Rất ngắn mấy con! Cho nên thời gian là quý báu nhất.
Vì vậy đức Phật đã có bài kệ nhắc đến thời gian như Thầy đã nhắc cho mấy con nghe:
“Tấc bóng thời gian một tấc vàng - Nó là tấc vàng
Tấc vàng tìm được không gì khó
Tấc bóng thời gian khó hỏi ai”
Khi nó đi qua rồi mấy con lôi lại không kịp.
Như bây giờ các cụ, các bác lớn tuổi rồi muốn mình trẻ lại có trẻ được không? Nó qua rồi không làm sao lấy lại được. Muốn sống thêm nó cũng không cho phép mình sống thêm đâu.
Còn tuổi trẻ đó, chúng ta dễ vui, để cho cái tuổi, cái thời gian đi qua rồi bắt đầu lớn như các cụ thì ôi thôi bây giờ làm sao được nữa. Cho nên chúng ta phải nỗ lực, nỗ lực tận cùng để rồi chúng ta muốn sống hồi nào sống, muốn chết hồi nào chết.
Giả dụ như cái sức của Thầy, bây giờ kéo dài một triệu năm Thầy vẫn sống được, Thầy bảo đảm với mấy con mà, bởi vì cái sức làm chủ được mà. Thầy sống như không gian, như vũ trụ, phải không? Thầy muốn mà, bởi vì Thầy muốn là nó phải nghe, nó không dám cãi, còn bây giờ mấy con muốn được không? Ít bữa đi ra đồng mả nằm chứ ở đó mà muốn! Có đúng không? Mình thấy ông bà cha mẹ mình có người nào muốn được không? Bây giờ nằm láng ở ngoài đó hết. Có đúng không?
Còn Thầy bây giờ muốn bao nhiêu được không? Được, bởi vì Thầy có cái lệnh rồi, bởi vì Tứ Như Ý Túc, Dục Như Ý Túc, Thầy muốn sao nó làm vậy, nó không cản được, có phải không? Nhưng mà sống chi cho cực mấy con?
(18:59) Các con thấy, ăn ngày một bữa, mà sống để làm gì? Người ta ăn ba bữa, người ta sống người ta tham ăn, còn mình có tham nữa đâu mà sống? Cho nên vì lợi ích mà sống chứ không phải vì tham sống đâu.
Biết thân này là vô thường, thân này là bất tịnh, có gì đâu mà quý nó đâu mà mình sống? Cho nên những vị tu tiên để mà sống trường sinh bất tử đều sai, họ không thấy cái thân bất tịnh của họ, họ rèn luyện cho nó trở thành kim cương đi, để cho nó sống đi. Có quý báu gì đâu? Tất cả các pháp đều vô thường, cho nên nói tu tiên mà để giữ gìn, để sống trường sinh thì không có mấy con, đó là ảo tưởng. Phải không?
Cho nên Thầy có khả năng làm cho nó sống cả triệu năm được. Nhưng sống làm gì? Sống chẳng ích lợi cho ai thì sống làm gì? Thà là Thầy sống một phút mà làm ích lợi, đem lại nền đạo đức cho loài người thì cái phút đó nó quý báu.
Mà khi đã làm xong thì ra đi chứ không ai muốn ở trên thế gian này, ăn những đồ bất tịnh này, nhét tối ngày mất công nhai, mất công nuốt, có lợi ích gì đâu?! Các con thấy không?
Nhưng mà không ăn mấy con sống được không? Không sống được, cho nên phải ăn. Mà ăn thì mất công, có ngon lành gì đâu? Phải không? Các con thấy không?
Đối với người tu, người ta rất là nhàm chán. Nhưng mà vì các con còn quá khổ, không thể nào làm ngơ mà bỏ đi được. Nhưng tội, mấy con không đủ duyên với chánh pháp thì mấy con không ôm chặt rồi mấy con bị trôi lăn ở trong vòng sanh tử.
Cho nên hôm nay được về đây nghe Thầy, mấy con cố gắng được một cái tổ hợp, như được một nhóm như mấy con như vậy, cùng nhau sách tấn mà nỗ lực hàng ngày ôm chặt pháp mà tu thì rất là quý. Đó cũng là cái duyên vui cho quê hương của mấy con biết được chánh pháp. Vì vậy mà âm thầm lặng lẽ nỗ lực tu hành. Cố gắng, cố gắng lên mấy con!
Rồi bắt đầu bây giờ mấy con đã thấy được những điều kiện mà Thầy dạy dễ dàng tu quá. Đâu có gì đâu mấy con: cánh tay, bàn chân, lối đi, hơi thở, đưa vào pháp là tu hết, không thêm một cái gì hết. Chỉ ráng mà thôi. Cố gắng! Đó mấy con thấy chưa?
(21:16) Còn gì nữa không? Có gì hỏi thêm Thầy không? Chỉ bây giờ còn tu nữa thôi. Phụ ơn Thầy là không tu, mà tu là không phụ ơn Thầy, mà đạt được giải thoát là mừng tuổi thọ Thầy. Phải không? Bởi vì Thầy thọ tới một ngàn năm, mấy con chắc không đủ cái sức mừng tuổi thọ Thầy rồi. Bởi vì mấy con ít bữa mấy con chết mất rồi còn đâu mà mừng nữa?
(21:42) Phật tử: Bạch Thầy cho con hỏi trong kinh có viết mẹ đức Phật mất sau khi sinh đức Phật. Đức Phật dạy ba mươi ba cõi Trời rồi độ cho mẹ trên cõi Trời. Thầy giải thích giúp con ạ?
(22:09) Trưởng lão: Vì trong kinh có nói như thế này, khi mà đức Phật sinh ra bảy ngày thì bà mẹ mất đi. Do nhờ sinh đức Phật, nhờ công đức mà đức Phật tu được giải thoát thì trong kinh có nói rằng bà mẹ của đức Phật được sinh lên cõi Trời Đâu Suất.
Do đó sau khi đức Phật chứng đạo rồi thì cái câu chuyện huyền thoại là đức Phật nhập vào cõi Trời Đâu Suất - tức là trở vào cõi Trời Đâu Suất mà độ mẹ mình tu hành để thành chánh quả. Câu chuyện thì như vậy nhưng câu chuyện thật là huyền thoại.
Ở đây thật ra có một loại Định để mà vào trong thế giới tưởng. Thế giới tưởng đó không phải ở ngoài không gian này nó có cõi nào đó, không phải, mà thế giới tưởng đó do cái tưởng uẩn của con người. Ở trong thân chúng ta có năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, thì cái tưởng uẩn này nó là cái thế giới mà đức Phật đã vào đó.
Bây giờ ví dụ như chúng ta tu tập, chúng ta làm muội lược tham, sân, si chúng ta đi. Muội lược tức là nó làm giảm đi. Thay vì người ta chửi mình thì mình còn tức nhưng mà mình không chửi lại họ tức là muội rồi, phải không?
Cái thân của mình đau mà mình đẩy lui được nó, mình tác ý đẩy lui được nó, nó sẽ không còn tác động. Nhưng mà trong khoảng thời gian nó làm chúng ta đau ít ra cũng nửa tiếng, một tiếng đồng hồ chúng ta mới đẩy lui nó được, thì cái sự đau đó nó muội lược rồi.
Còn người mà tu xong rồi, người ta có đủ đạo lực, người ta bảo: “Thọ là vô thường, cái đầu đau này không có đau nữa” thì ngay đó nó hết đau liền, tức là nó có cái đạo lực nó làm cho cái đầu không đau liền. Còn chúng ta còn phải chịu đau một thời gian một tiếng hai tiếng rồi mới hết đau, cái đau đó nó hết gọi là muội lược, tức là giảm đi, nhưng mà nó còn kéo dài thời gian rồi nó mới hết đau; do đó mới gọi là muội lược.
Khi một người muội lược như vậy thì nó không tương ưng với người khác, nó không giống. Thí dụ như Thầy tham, sân, si mười mà bây giờ Thầy còn có năm, thì trong khi mọi người xung quanh Thầy ai cũng mười hết mà Thầy có năm thì Thầy không tái sanh được làm con của người đó. Cho nên khi mà Thầy chết mất cái thân rồi thì từ trường thiện của Thầy (tức là hàng ngày Thầy làm hành động thiện mà nó muội lược đó) nó phóng ra không gian này nó nằm. Nó không thành con người nào hết, nó không thành cái thế giới được, bởi vì thế giới nó phải hợp duyên nó mới thành, mà không đủ duyên nên nó mới không thành mà nó thành cái từ trường. Bây giờ chỉ có cái loại định để mà vào từ trường đó thì cái định đó là Nhị Thiền.
(24:35) Cũng như bây giờ các con ngủ chiêm bao thì mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của các con không nghe nữa. Cái thế giới hữu hình này, thế giới mà chúng ta đang sống thì chúng ta không còn biết nữa. Thì lúc bấy giờ chúng ta nằm chiêm bao mà ông bà, cha mẹ chết rồi thì chúng ta cũng gặp nói chuyện được hết. Mình tưởng là linh hồn của ông bà mình về nhưng không phải, từ cái tâm tưởng chúng ta nó lưu suất, nó bối cảnh làm bố cục cái cảnh giống y như cuộc sống của chúng ta hiện tại, cho nên chúng ta cũng gặp ông bà, cha mẹ thấy cũng mạnh giỏi bình yên chứ không có thấy chết chóc gì hết. Đó là cảnh chiêm bao. Các con hiểu không? Cái cảnh chiêm bao đó là cái cảnh từ trường của chúng ta ở bên ngoài mà bằng cái tưởng của nó nó bố cục vô, bởi vì cái tưởng của chúng ta nó bắt gặp những từ trường mà của những người chết, những người sống xung quanh chúng ta, cái từ trường của chúng ta.
Bây giờ các con đang ngồi trong cảnh mà đang ngồi này thì hình ảnh của các con nó lưu lại trong không gian, nó không mất, các con đưa tay nó sẽ đưa tay, hình ảnh nó sẽ đưa tay, tiếng nói của các con nó lưu lại trong không gian hết, cái đó gọi là từ trường.
Các con thấy như ở trên cái đài phát thanh, phát hình đó, nó đưa hình ảnh các con trên không gian, mình ở đây mình có cái máy thì mình bắt được cái hình ảnh đó thì mình thấy ở trên tivi có hình ảnh hiện lên chứ gì? Thì từ trường của chúng ta nó cũng phóng như vậy, nó cũng phóng ra hình ảnh, âm thanh nó giữ ở trên này, chứ nó không thành con người được. Không lẽ bây giờ mình đem cái băng video mình đưa lên máy thì thấy nó hiện hình, mình nói: “À, đây là thế giới!”, đâu có lý, phải không các con? Ai mà điên gì mà thấy cái hình trên ti vi mà nói đây là thế giới? Phải không? Nó đâu có đúng, phải không?
Cho nên khi đó cái từ trường đó, hình ảnh đó là nó lưu lại cái sự kiện đó chứ không phải là cảnh giới thật, mà cái tưởng của chúng ta là một cái máy nó phóng ra, nó phóng ra nó bắt gặp ở đó, thì nó bố cục lại cái cảnh cho nên giấc mộng chúng ta nằm chiêm bao. Thì nằm chiêm bao mà, đâu phải là cảnh thật? Cảnh do tưởng uẩn chúng ta làm ra.
(26:46) Cho nên trong khi đó đức Phật biết mẹ mình do thiện pháp nó không tương ưng, không tái sinh thì cái từ trường đó nó ở đó. Nhưng khi đức Phật tu chưa chứng thì không làm sao vào được từ trường đó. Các con hiểu phải đi vào từ trường đó. Muốn vào từ trường đó thì nó có một cái Định, cái Định đó gọi là Nhị Thiền. Diệt tầm tứ tức là diệt làm cho mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình ngưng hoạt động, giống như mình ngủ đó mà, các con hiểu chưa? Thì lúc bấy giờ mình ở như giấc mộng chứ gì? Nhưng mà vì một cái Định đó nó mới đi vào ở trong, nó bắt gặp tất cả những từ trường đó, thì trong đó mẹ của đức Phật không còn cái thân nữa, không còn linh hồn, không còn gì hết, mà chỉ còn hành động sống thiện của bà mẹ nó ở trong không gian đó, ở trong từ trường đó.
Cho nên khi đó đức Phật mới đến trong từ trường đó. Nhờ trong từ trường đó cái tưởng của đức Phật nó mới tạo ra một cái cảnh cho nên đức Phật mới nhắc cái từ trường đó. Chứ cái từ trường đó, hồi chưa có đức Phật thì đâu có biết pháp tu? Cho nên nó chỉ chờ đợi, khi mà nó hưởng hết cái đó nó trở thành tham, sân, si trở lại, nó giống y với mọi người thì bắt đầu nó tái sanh làm người trở lại, chứ nó không chạy đi đâu khỏi hết. Bởi vì nó ở đó nó không biết cách tu thì nó không biết lối đi tới Niết Bàn.
Cho nên đức Phật nói khi một người tu mà đã làm được muội lược thì chúng ta sẽ hóa sinh, tức là chúng ta sẽ ở trong từ trường đó. Và khi chúng ta ở trong từ trường đó thì cái tưởng vẫn còn hoạt động, thì người mà chết rồi đó thì cái thân họ không có bị hoại, bởi vì nó ở trong từ trường đó thì cái thân nó vừa chôn dưới đất nó không bị hoại đâu. Cho nên nó đang ở trong giấc mộng. Vì vậy mà khi đó đức Phật biết rõ là cái thây tứ đại của mẹ đức Phật chôn ở trong đất nhưng chưa có tan rã đâu, cho nên nó còn, còn nếu mà tan rã thì nó phải đi tái sinh luân hồi rồi, không còn gì nữa hết. Cái thân chúng ta còn thì cái tưởng nó còn hoạt động, mà cái thân nó mất thì cái tưởng nó mất.
(28:55) Cũng như mình nằm chiêm bao đó, do cái ý thức mình không hoạt động nhưng tưởng thức hoạt động nên mình thấy giấc mộng. Cho nên bà mẹ của đức Phật chết đi rồi, thì cái thân còn chứ không phải hoại diệt, mặc dù cái thời gian rất lâu, từ khi sinh đức Phật cho đến khi đức Phật tu chứng đến hai mươi mấy năm gần ba chục năm, hai mươi chín năm đức Phật mới chứng đạo. Khi đức Phật chứng đạo thì lúc bấy giờ mới về độ mẹ mình, bắt đầu phải nhập vào Nhị Thiền, ở trong trạng thái của từ trường đó mới ở trong cái tưởng của mình (tức là cái trạng thái tưởng của mình). Thì trong từ trường đó mà đức Phật khéo nhắc nhở, trong cái từ trường của mẹ mình thì bà mẹ đang ở trong giấc mộng như chúng ta đang ở trong giấc mộng vậy, nghĩa là cái thân còn nằm coi như là đang nằm ngủ mà hai mươi chín năm chưa tan hoại.
Mấy con biết rằng, khi mà chúng ta muội lược được tham, sân, si thì nó có một cái sức giữ gìn cái thân của chúng ta, nó làm cho thân chúng ta không hoại đâu. Cho nên chúng ta ở trong từ trường thiện đó. Khi toàn bộ nó trở về dung dưỡng cái sự tham, sân, si cũ, nó tương ưng với chúng sanh thì cái thân này bắt đầu hoại thì lúc bấy giờ nó đi làm con người ta.
Còn nếu cái thân này chưa hoại nó nằm đó, thì lúc bấy giờ cái từ trường đó nó vẫn còn. Cho nên khi đó người mà không hiểu thì tưởng đâu như đức Phật vào cái cõi Trời Đâu Suất để độ mẹ mình, tưởng mẹ mình sinh làm một vị tiên nữ trên đó cho nên lên giảng. Không phải! Đức Phật vào thế giới tưởng đó, nhận ra từ trường nào là của mẹ mình, do đó mới đem những chánh pháp nhắc mẹ mình tiếp tục ở trên cái tưởng mà tu.
Cũng như bây giờ các con ngồi thiền các con ngủ mà thấy mình hít thở, phải không? Thấy mình đang tu chứ gì? Hay hoặc là mình đang ngủ mà nhớ mình quán vô lậu này kia đó, mình ngủ mà mình vẫn quán tức là cái tưởng tu chứ đâu phải là cái ý thức mình tu đâu? Đó là cái tưởng tu. Cho nên khi đức Phật vào thế giới tưởng đó mới nhận diện được từ trường của mẹ mình, bởi vì người ta vào Định là người ta chủ động ở trên đó chứ không phải như giấc mộng đâu. Mà giấc mộng là tự bối cảnh rồi mình thấy chiêm bao thôi, còn cái này thì không. Mình diệt tầm tứ vào Nhị Thiền, bắt đầu bây giờ đó mình tự lục lọi, dùng cái tưởng của mình mà lục, lục coi thử coi cái từ trường của mẹ mình nó bàng bạc ở chỗ nào? Ngay ở chỗ đó mình mới nhắc cái từ trường này thì phải tu tập, phải tác ý như thế này thế này thì sẽ bắt đầu từ chỗ này mà đi vào Niết Bàn, khỏi có còn tái sinh luân hồi nữa, các con hiểu không?
(31:21) Do đó nó có Định, bởi vì Thầy nói thật sự ra cha mẹ mình khi chết đi sinh làm đứa trẻ khác rồi. Cũng như bây giờ ba mẹ Thầy, hồi mà Thầy tu chứng ba Thầy chết rồi, chỉ có mẹ Thầy còn sống giúp đỡ Thầy cho đến khi Thầy tu xong rồi bà mới chết. Nhưng mà khi mà Thầy tu thì bà làm rất nhiều điều thiện nên bà cũng muội lược, cho nên vì vậy bà đã biết được phương pháp tu của Thầy rồi. Cho nên Thầy đâu cần vô đó nhắc bà, nhưng ông thân của Thầy lại chết trước, cho nên vì vậy mà khi Thầy tu xong rồi Thầy cũng đi tìm coi ông thân ở đâu mà đền đáp. Nhưng ông thân đã sanh ra làm đứa con nít rồi, làm người khác rồi. Các con hiểu không? Khi mà Thầy tu xong rồi, ông trở thành một người thanh niên, may mắn là ông chưa lập gia đình, chứ ông lập gia đình thì độ cũng khó chứ không phải dễ đâu. Các con hiểu không?
Bây giờ mình muốn gặp người thanh niên này là ông thân mình đời trước chứ gì? Thì bây giờ mình phải tìm cách mình gặp. Nhưng mà nó có một cái duyên nhân quả, khi gặp chú thanh niên này nó lại có tình cảm với Thầy rất lớn, thấy nó có sự mến nhau, ngay đó nói pháp thì người này họ chấp nhận liền, họ nỗ lực họ tu. Cái duyên nhân quả mà, mấy con biết nó còn kéo dài nhiều đời chứ đâu phải một đời, phải không? Cho nên vì vậy mà ngay khi mà sanh làm người vẫn đi đến độ, mà còn ở trong từ trường chưa có sanh làm người thì vào đó mà độ, có gì đâu. Không phải những độ cha mẹ một đời mà nhiều đời.
Bây giờ thử hỏi mấy con ngồi trước mặt mấy con biết mấy con là ai của Thầy không? Mấy con đâu hiểu. Nhưng mà Thầy biết. Bởi vì mấy con tu tới Tam Minh rồi mấy con sẽ nhìn thấy, mấy con biết.
Còn bây giờ cái trí mấy con nó hữu hạn chứ đâu phải vô hạn mà biết đâu, phải không? Quá khứ qua rồi thì hết biết rồi. Một đời nay thôi mà chuyện vừa rồi cách đây mười năm, hai chục năm mà còn quên trước quên sau chưa nhớ hết, thử hỏi mà cách một đời mấy con biết đâu mà nhớ? Có đúng không? (Dạ) Vì vậy cho nên mấy con biết tu là lợi ích rất lớn đó. Cho nên không phải độ cha mẹ một đời này của mình đâu mà còn nhiều đời nữa. Các con hiểu chưa?
(33:43) Cho nên một người tu rồi, người ta quan sát người ta không bỏ chúng sanh là tại vì chúng sanh là tất cả những người thân của người ta. Các con biết, người thân của người ta không phải chỉ có người Việt Nam mà cả người Tây, người Mỹ, người nào cũng đủ hết, nhiều lắm, đều là ruột thịt, đều là thân thuộc hết.
Cho nên bây giờ Thầy tu rồi thì Thầy thương các con là Thầy thương những người mà thân thuộc của Thầy, chứ không ai vô đó hết. Các con bây giờ thấy Thầy với con, thế nhưng đối với Thầy thì mấy con nếu mà trong thân tộc thì không có gì hết, nhưng mà trong nhân quả thì lại thân thuộc ghê gớm. Không ngờ! Các con hiểu chưa?
Cho nên khi mà Thầy nói mà các con thấy tin tưởng, các con ôm pháp các con tu tập, đó là cái duyên rất sâu của đời trước. Có nhiều người nói là họ bỏ đi, thì như vậy rõ ràng họ đâu có thân với Thầy. Mà mình trách sao được, tại vì người ta đâu có duyên nhân quả với mình đâu. Các con hiểu chưa?
Đó, cho nên vì vậy mấy con nghĩ là Thầy không nói cái chuyện là Thầy bói nhưng mà Thầy đã biết được những điều này chứ không phải không biết đâu.
Thầy mong mấy con tu được như Thầy rồi mấy con sẽ ngồi: “À như vậy là Thầy là ai, tôi biết rồi!”, phải không? Thầy là người nào mấy con cũng biết, mà các con biết hồi đó mình là ai, mấy con cũng biết liền.
Sự tu tập có lợi ích rất nhiều. Cho nên bây giờ mấy con nghĩ giờ mình tu mình độ cha mẹ mình có một đời, còn những đời khác biết đâu mà độ? Nhưng mà sự thật ra tu rồi mình biết hết, nó lợi ích lắm mấy con. Mình thương cha mẹ trong đời nay chứ mình đâu có nghĩ rằng cha mẹ mình trong đời khác, đâu có ai biết đâu mà thương?
Cho nên sau khi tu tập rồi, các con thấy biết bao nhiêu những người thân thương của mình, cho nên tại sao một người tu rồi người ta không nỡ người ta bỏ. Không phải người ta tham danh tham lợi; người ta không còn tham ăn, tham uống gì trong thế gian này hết; nhưng mà vì cái lòng thương yêu, vì cái tình của nhân quả của chúng ta có dính dấp với nhau cho nên chúng ta không nỡ bỏ nhau. Phải không? Các con thấy chưa? Vì vậy về ráng mà tu tập, nhớ chưa? Nhớ hoàn toàn nha!
(35:48) Phật tử: Thưa Thầy cho con hỏi một câu ạ. Bồ tát khi còn bảy tuổi … (Không nghe rõ)
(36:08) Trưởng lão: Cái đó là phải giải quyết việc kiết sử, giải quyết cái tình của mẹ con là thiêng liêng lắm, cho nên mình phải giải quyết. Cho nên Thầy về đó, Thầy nói chuyện của Thầy cho con biết, Thầy về Thầy núp dưới bóng mẹ thì Thầy nỗ lực tu nó rất an ổn, không còn ray rứt trong lòng nữa mà lại chính là mẹ lại sách tấn mình.
Còn con, bây giờ con nhớ đến mẹ coi như là với cái sự sai của mẹ mình tu sai như vậy không đi đến đâu, mình nỗ lực mình tu cho được để mình về độ mẹ, để tội bà quá. Bởi vì bà đi tu mà, cho nên mình ráng nỗ lực. Khi bị hôn trầm phải ráng chiến đấu chứ không được ngủ. Khi bị đau đớn thì phải ráng ôm pháp mà diệt cái thọ để mình làm chủ sự sống chết. Mục đích của mình làm chủ được bệnh khổ mà, do đó ôm pháp để làm chủ mà, vì vậy mà nỗ lực ôm pháp, đau chết bỏ, nhất định là không uống thuốc. Con hiểu chưa?
Nhờ cái hình ảnh, cái tình thương đó mà nó sách tấn mình, cũng như mỗi lần Thầy tu mà gặp những khó khăn thì Thầy cũng nhớ hòa thượng Thanh Từ, hòa thượng nói như này: “Một người tu chứng thì Phật pháp sẽ còn, còn nếu mà không chứng thì Phật pháp sẽ không còn”. Thầy trò tâm sự như vậy, cho nên ông ấy cũng ráng tu, Thầy cũng ráng tu, vì vậy có những sự sách tấn nhau ghê gớm.
Còn mình có những đối tượng mà sách tấn như mẹ mình này kia, cho nên phải biết sử dụng, vì vậy mà gặp những cái khó khăn thì vượt qua. Bởi vì trong con đường chiến đấu với giặc sinh tử nó có nhiều cái khó vô cùng. Mà con người của mình khi mà nó buồn ngủ thì nó lười biếng lắm, nó uể oải, nó mệt mỏi lắm, nó muốn bắt nằm. Lúc bấy giờ chiến đấu với nó là khó chứ đâu phải dễ? Nếu không có những cái gương người khác là mình không thắng nổi.
Khi mà đau mà ngồi sừng sững như thế này là để mà chịu những cơn đau của nó, ví dụ như cảm lạnh, đau bụng … tất cả những bệnh đó, mà nếu mà mình không có những cái gương hạnh của người khác, mình phải nhắc mình ráng thì coi như là nó dập mình liền.
Phật tử: (Không nghe rõ).
Trưởng lão: Đó là ái kiết sử.
Phật tử: Cứ nghĩ rằng phải đi tu, mong muốn đến đây để nhận được sự dạy bảo của Thầy … (Không nghe rõ).
(38:29) Trưởng lão: Đúng vậy. Bây giờ nó cũng là do cái duyên con mới nghe được, nó mới đánh thức được tâm con. Thì con cũng nghĩ rằng bây giờ mẹ mình tuổi bắt đầu cao rồi, mình phải giúp cho mẹ mình sớm được gặp chánh pháp được càng tốt. Thì ông cũng nghĩ như vậy, bây giờ nếu mà mình lo cho mình giải thoát, chừng đó mẹ mình mất, phải không? Cho nên vì vậy mà ông nghĩ rằng đưa mẹ mình gặp được Thầy, được Thầy dạy thì may ra nó không còn lạc loài ở trên con đường của Đại thừa nữa.
Do đó ông muốn mẹ ông, mà cả gia đình nữa, anh em của ông nữa chứ không có riêng … theo Thầy biết cái tâm niệm đó. Cho nên mặc dù ông tu chưa được nhưng mà ông thấy Thầy trên cái sự tu tập của Thầy ông tin chắc rằng Thầy sẽ làm được những điều mà Thầy dạy, đúng pháp, cho nên ông muốn đưa cả gia đình đi theo. Những điều kiện đó thì ông dành lại một thời gian, chứ bây giờ mình ôm mình ngồi tu thì bỏ những người thân của mình.
Cũng như bây giờ con cũng vậy, bởi vì mình nghĩ rằng cái tuổi đời của mình còn dài hơn một chút, mà mẹ sức đã tàn rồi mà mình không có giúp cho bà sớm biết được thì tội cho bà quá, mình đã hiểu rồi thì mình mới thương mẹ mình, cũng như cô … ở đây đưa mẹ vô, con thấy không? Đó là cái lòng hiếu.
Báo hiếu cha mẹ, mình cho cơm ăn, áo mặc, thực phẩm rất là đầy đủ, đời sống rất đầy đủ không bằng cho pháp, không bằng giúp mẹ mình tu. Con thấy không? Bây giờ cho bao nhiêu bà cũng vẫn khổ, cất nhà lầu cho bà ở bà vẫn khổ, nhưng mà đem pháp cho bà sẽ chuyển, bà sẽ không khổ nữa. Còn gì nữa? Thân bà sắp sửa tàn hoại, chỉ còn cái … (Không nghe rõ). Cho nên làm con báo hiếu như vậy là quý lắm. Ở đây sư Giác Ngộ Thầy cũng ca ngợi điều đó, mặc dù sư chưa tu xong, nhưng mà sư đã biết được, sư có tu sư biết mà, những cái điều kiện mà sư làm thì sẽ được giải thoát.
Cho nên vì vậy vừa rồi thì sư nói với đoàn Phật tử: “Bây giờ quý Phật tử hãy lo, có lẽ là sư sẽ ít gặp Phật tử nữa, sư cũng biết sư lo thân phận sư rồi, vì vậy sư không muốn đi nữa, sư muốn … (…)”. Nhưng mà trước khi … (…), sư muốn về sư đưa gia đình của sư vào trong này, đến để gặp Thầy, để rồi từ đó họ tự lực họ tu tập. Còn Thầy thì tìm cái chỗ đóng cửa Thầy tu. Đó là Thầy cũng muốn tìm giải thoát chứ, mà trước khi giải thoát thì Thầy muốn cả gia đình Thầy đều gieo duyên chánh pháp, chứ bây giờ mình tu rồi mà cả gia đình mình không biết chánh pháp mà cứ tà pháp. Thì đó là theo cái ý sư thì Thầy ca ngợi đó là lòng báo hiếu, lòng thương mẹ. Còn con cũng vậy.
(41:00) Phật tử: … (Không nghe rõ).
(41:12) Trưởng lão: Con cứ bình tĩnh nói đi con!
Phật tử: Họ cứ tưởng con lầm, nói con giống như người sắp chết, con không biết thế nào, không được thoải mái, không đau ốm gì, con chủ yếu ăn ngủ thì cũng đúng giờ. Con thấy ổn nhưng mà họ không tha cho con, cho nên cuối cùng con phá … (Không nghe rõ)
(42:48) Trưởng lão: Không sao con. Bởi vì Thầy thiết nghĩ giới luật nghiêm chỉnh như bài kinh Ước Nguyện, ước nguyện cho thân mình được khỏe mạnh … thì giới luật nghiêm chỉnh thì mình sẽ đuổi được bệnh của mình. Nó rất là đặc biệt, cho nên nó cũng có những điều mà để kiểm chứng cho niềm tin của con đối với Phật pháp.
Khi mình phạm giới thì coi như là nội lực của mình bị mất, không thanh tịnh thân nữa. Cho nên mục đích của tu theo Phật giáo là làm sao cho thanh tịnh, tức là ly dục ly ác pháp. Mà ly dục ly ác pháp chỉ có giới luật của Phật, mình sống đúng thì nó ly dục. Ví dụ con ăn ba bữa thì làm sao mà đúng giới được? Phải không? Con thấy không? Cho nên mình chỉ ăn ngày một bữa. Mình ngủ phi thời thì làm sao đúng được? Cho nên mình cũng ngủ đúng giờ giấc. Từ cái sống của mình, sống đúng thì nó ly dục ly ác pháp, nó không làm sao. Không làm sao thì lại có cái nội lực, nó giúp cho mình làm chủ được thân tâm của mình. Các con hiểu không? Cho nên vì vậy mà qua sự giữ gìn giới con thấy nó có được cái đạo lực, đến khi mà con phạm giới thì nó bị mất đi.
Phật tử: … Không nghe rõ.
Trưởng lão: Rồi bắt đầu từ nay về sau các con cố gắng giữ giới. Đời mình không có gì hết, một ngày nào đó rồi nó cũng chết nó mất đi theo cái nghiệp nhân quả. Mình giữ giới tức là đi ngược lại cái luật nhân quả, nhân quả không sai mình được.
Bởi vì ví dụ như mình ăn ngày một bữa thì nó không sai mình được. Sáng nó bảo mình ăn mình không ăn, chiều nó bảo ăn mình không ăn. Tức là nó sai mình không được.
Quy luật nhân quả là nó chạy theo dục, cho nên cái dục nó làm mình phiền não, khổ đau, ham muốn, mà mình không làm theo nó thì tức là mình đã giữ gìn giới nghiêm chỉnh. Do đó nghiêm chỉnh thì trong tâm an lạc.
Phật tử: Con cảm thấy khổ, tác ý tâm con vẫn còn tham, sân, si. Con có hai chị em, con tăng cân … (…)
(45:45) Trưởng lão: Từ từ con, tập dần. Bởi vậy đức Phật dạy chúng ta thọ Bát Quan Trai đó, nghĩa là trong một tháng chúng ta giữ một ngày, hai ngày để giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Vì hoàn cảnh gia đình của mình không cho phép, mọi người thấy mình ăn ngày một bữa, mình sống theo kiểu đau bệnh mà không uống thuốc mà lại dùng pháp trị, người ta sợ quá, cho nên người ta không có chấp nhận. Mà mình làm cho người ta lo lắng, sợ hãi cho mình thì mình cũng không đúng với đạo đức không làm khổ mình khổ người, cho nên mình tùy thuận mình sống cho mình.
Trong một tháng mình xin được hai ngày hay một ngày phải giữ giới cho đúng. Thứ nhất là gieo duyên, thứ hai cũng là cái đà đó để chuyển gia đình của mình, sau đó thì mọi người vui vẻ chấp nhận. Người ta chấp nhận thì mình nỗ lực tu tập thì nó rất tốt.
Còn bây giờ mình làm cho gia đình, cả những người thân của mình, họ thương mình, họ thấy mình ăn ít, ăn như vậy mà không uống thuốc trị bệnh như vậy họ sợ, họ lo lắng. Cho nên đó là cái tình thương, mà mình nỡ mình phụ cái lòng thương của người ta sao được con? Nên mình chấp nhận, vui vẻ nhưng mình xin gia đình cho mình ăn một ngày, hai ngày thì người ta cũng vui vẻ chấp nhận cho mình. Mình phải biết linh động, khéo léo, lần lượt mình tập dần rồi mình sẽ tiến.
Bởi vì chiếc áo cư sĩ của mấy con nó còn ràng buộc ở trong thế tục nhiều lắm. Chiếc áo của người tu sĩ nó không còn ràng buộc nữa, nó ra khỏi thế gian. Cho nên khi mà chúng ta học giới mà thấy mình giữ gìn được giới luật nghiêm chỉnh, mình thấy không có chồng, không có con thì mình biết có một hướng đi là đi đến giải thoát thì mình xin xuất gia thì bảo đảm hơn. Bởi vì cái áo xuất gia nó cách lìa đời sống thế gian, nó luôn luôn nó giữ gìn giới luật, cho nên vì vậy mình nỗ lực, mình thấy hoàn cảnh của mình thuận tiện là mình xuất gia liền, nó làm cho mình đỡ hơn.
Còn trong cái xuất gia đó với vị Thầy người ta nghiêm chỉnh thì người ta sẽ khích lệ, sách tấn cho mình giữ gìn giới. Bởi vì nếu mình mặc chiếc áo đó mà phạm giới thì mình tội rất lớn, thà là chiếc áo cư sĩ sẽ đỡ chứ còn chiếc áo tu sĩ phạm thì rất tội. Chẳng hạn bây giờ mấy con còn là cư sĩ, mấy con ăn ngọ - ăn ngày một bữa thì tốt, mà lỡ mấy con ăn ba bữa thì không sao hết. Trái lại, tu sĩ như Thầy mà ăn ba bữa thì tội lắm, không có đúng đâu, cái phạm hạnh tức là thánh hạnh của người tu sĩ không cho phép chúng ta còn ăn ba bữa, ăn ba bữa là không được.
(47:54) Vì vậy cho nên sau thời gian mà mấy con cư sĩ mà mấy con đã thọ Bát Quan Trai giữ gìn giới, mà bây giờ thích ăn ngày một bữa thì lúc bấy giờ các con sẽ trở thành tu sĩ được.
Còn bây giờ mình còn thèm ăn này kia. Vì ngày đó thọ Bát Quan Trai, mình cố gắng mình chế ngự mình, đừng có cho nó ăn, nhưng mà mình vẫn thấy là xả ra nó vẫn thích ăn, nó còn đói bụng, nó còn làm cho mình khó chịu thì mình chưa mặc áo tu sĩ được.
Còn khi nào mà chiếc áo cư sĩ mình thích ăn ngày một bữa, thích sống độc cư không nói chuyện với ai hết, những cái hạnh đó hoàn toàn mình thích, thì lúc bấy giờ đi xuất gia thì không phạm, chứ không khéo mình xuất gia rồi mình phạm giới.
(48:33) Phật tử: … dần dần ăn giờ ngọ … có phản khoa học không? … (…)
(49:43) Trưởng lão: Người ta rất khoa học vì ăn uống ngày một bữa nó đủ nuôi sống mình rồi. Cái thân mình nó mập hơn một chút là nó dễ sinh bệnh, mức độ về cơ thể chúng ta thì nó ở cái mức độ nào đó nó đủ, mà nó thừa ra thì mặc dù thừa chất bổ nó vẫn bệnh chứ không phải là nó không bệnh đâu. Cho nên đức Phật dạy ăn ngày một bữa là khoa học đó.
Sau khi mà tu tập xong, người ta dùng cái trí Tam Minh người ta quan sát cơ thể, nó ăn ngày một bữa là nó khỏe mạnh, còn ăn nhiều quá cơ thể nó sẽ bị bệnh. Cho nên nó điều độ, nó tiết độ trong ăn uống, nó giữ gìn, nó không phải khổ hạnh, cho nên cơ thể người ta ít bệnh.
Cũng như các con thấy Thầy ăn ngày một bữa, bảy mươi mấy tuổi rồi Thầy vẫn khỏe, không đau ốm, đi đứng rất vững vàng, trèo núi không mệt. Các con thấy, đó là một cơ thể của người già, đặc biệt là người ta ăn ngày một bữa từ lúc mà ba bốn chục năm nay rồi. Người ta rèn luyện cái thân người ta bằng cách ăn, cho nên người ta không thừa mà cũng không thiếu.
Các con biết là trong bữa ăn Thầy đâu có gì gọi là chất bổ gì đâu: một bát cơm rau chứ không có cần phải ăn đậu hũ hoặc một cái gì bổ hết, Thầy không cần, ăn tương hoặc muối vậy thôi, vậy mà cơ thể vẫn khỏe. Thầy khỏe lạ lùng lắm, nó sung mãn, khỏe, làm việc suốt ngày mà Thầy đâu có mệt nhọc. Cho nên vì vậy đừng nghĩ rằng ăn ngày một bữa là khổ hạnh, là không đúng khoa học, không phải đâu.
Cơ thể chúng ta ăn nhiều nó thừa, ăn thừa nó mập, nó mập thì nó bệnh. Con thấy những người mập là bệnh đó. Còn mấy người mà ăn thiếu, ăn không đủ, nó ốm, tại vì người ta ăn như vậy mà người ta không biết pháp tu cho nên cái tâm và cái thân người ta nó tiêu hao năng lượng nhiều quá mà nó không cung cấp đủ. Cho nên do đó cơ thể của người ốm coi vậy cũng dễ bị bệnh.
Còn người tu, cái tâm của người ta nó thanh thản, nó không mất năng lượng về tâm, còn cái thân người ta ăn vừa đủ, bởi vì ăn một bữa nó đủ rồi, thì từ những chất bình thường chúng ta xem thì nó không bổ nhưng mà tự nó tạo ra chất bổ.
(52:03) Bây giờ rau cải chúng ta thấy nó không bổ bằng thịt cá chứ gì? Nhưng mà trái lại thì cái cơ thể chúng ta nó bình an, thanh thản thì nó tạo thành đủ chất bổ. Còn cơ thể chúng ta lo lắng nó bị tiêu hao chất mỡ, chất đường … đủ thứ đó, thì lúc bấy giờ nó không còn tạo rau cải thành chất bổ nữa, cho nên nó bị hao. Rất là khoa học chứ không phải không khoa học. Tại vì cái tâm của mình nó động quá, vì vậy mà nó không biến được chất đó thành chất bổ của mình, nó thành ra cặn bã. Có đúng thế không?
Con ăn rau cải mà đầu óc con cứ lo nghĩ cái này, lo nghĩ cái kia thì rau cải nó thành rau, cái chất bã chứ không phải chất bổ. Còn Thầy ăn rau cải mà đầu óc không nghĩ ngợi gì, thì từ đó cơ thể của Thầy nó tạo thành chất bổ. Có phải không? Nó rất khoa học chứ? Nhưng tại vì khoa học chưa tìm tới, chỉ thấy cái chất này là chất bổ, vitamin A, B, C, nó giúp cho cơ thể như vậy như vậy, thì họ chỉ thấy vậy chứ họ quên rồi, khi mà cái tâm của người thanh thản, an lạc, vô sự, nó sẽ biến tất cả thành chất bổ hết.
Trong không gian nó đều đầy đủ chất bổ mà nó không phải trực tiếp qua cái gốc cây, qua cái rễ sâu qua cái cây, con hiểu không, nó qua thịt của chúng sanh, bởi vì thịt chúng sanh nó được ăn những cái chất đó mà nó thành thịt chúng sanh; còn cái này nó ở trong không gian nó đủ. Khi một người nhập Định mà người ta vẫn không mất thịt mà lại không ăn uống.
Thầy ngồi thiền nhập Định hai tháng không mất một chút, không ốm một chút, không ăn không uống, không đi tiểu đi đại mà Thầy không mất một chút da thịt nào hết. Con thấy hình cái râu của Thầy không? Thầy ngồi thiền mà râu tóc … hồi đó Thầy ra Thầy còn cạo tóc, thì còn râu đó, Thầy mới đi về hòa thượng Thanh Từ, họ mới chụp cái hình đó đó. Các con thấy hình Thầy có râu, tròn trịa, chứ đâu phải … Thầy ở trên pháp tu đâu có ốm đâu? Đâu có phải ốm như con đâu? Con thấy hình có râu không? Có phải không?
Tuy ốm nhưng mà vẫn còn công việc vẫn thấy khỏe, đó là bảo đảm cho sự an dục của cơ thể chúng ta nó có đủ sức lực của nó chứ không có thiếu đâu.
(54:12) Nhưng mà trên vấn đề dục tâm của con thì còn phải tu nhiều bởi vì cái tâm nó khó lắm, ly dục ly ác pháp khó lắm. Cho nên trong cái vấn đề tu tập mấy con thấy Phật pháp vi diệu lắm. Coi vậy chứ nó rất là đặc biệt, dường như nó không giống khoa học mà nó rất khoa học.
Chúng ta suy ngẫm kỹ cái phương pháp của Phật, nó không giống, đem mà chứng minh ra thì chúng ta không ngờ là khoa học chứng minh cái nội lực, nó có cái lực như vậy thì khoa học chứng minh không được, nó thuộc về tâm linh mà. Nhưng mà nó rất khoa học.
Khi mà cái thân chúng ta đau bệnh như thế này mà lại không ăn, thay vì người ta ăn, người ta uống thuốc nó mới hết, còn cái này không ăn, mà lại dùng cái nội lực của tâm rồi nương vào cái thân hành của mình. Không làm cái chuyện khác, tại cái thân nó có những hành động. Ở trong thân hành đó mà đẩy lui bệnh.
Bệnh hết, rồi lần lượt từ chỗ mà ăn không được đó, nghĩa là bây giờ mình đang bệnh thì mình ăn không được đâu, nhưng mà mình đuổi cho bệnh nó đi đi, thì từ cái cơ thể nó có đủ cái sức đề kháng để mà bệnh lui ra. Rồi cái bệnh nó lần lượt nó hết bắt đầu mình ăn. Đau bệnh thì ăn có một miếng, ăn không được thì lúc bấy giờ chúng ta đâu có ép chúng ta ăn được đâu? Chúng ta đâu có cần ăn, khỏi cần uống thuốc nữa, rồi bắt đầu chúng ta ăn ít nhưng mà lại chúng ta tu, tu rồi bao giờ bệnh nó hết, rồi nó phục hồi giảm cái bệnh rồi, lần lượt nó ăn tăng dần lên.
Cũng một bữa nhưng mà ăn nhiều lại được. Ví dụ một lần ăn ba chén, bệnh đau thì nó ăn một miếng, người nào đau bệnh đâu có ăn được. Do đó mình mới ở trên pháp mình đẩy lui bệnh. Khi cái bệnh nó lần lượt nó giảm dần rồi nó hết đi thì bắt đầu mình ăn dần, mình tăng lên, mình ăn phục hồi lại bình thường. Ví dụ được ba chén rồi không tăng lên nữa, tới đó ăn ngày một bữa nó đủ nuôi cơ thể mấy con nên không tăng nữa, nó hết bệnh thì nó ăn một bữa bình thường.
(56:02) Tu sinh: Dạ thưa Thầy con thấy xấu hổ vì đạo hữu ăn ít … (…)
(56:11) Trưởng lão: Không sao, bởi vì trong cơ thể con nó mạnh khỏe lắm, mà trong khi đó một ngày con ăn một bữa. Cho nên cái sức con bây giờ … thay vì con đừng có nghĩ rằng sao người ta ăn ít mà mình làm một bát mà ém xuống mới đủ ăn, không nó đói, đừng có nghĩ xấu hổ nữa. Tôi chỉ ăn một bữa nhưng mà cơ thể tôi đòi hỏi tôi biết nó phải ăn như vậy nó mới có đủ sức, phải không? Cho nên bây giờ con không ăn phi thời nhưng mà trong bữa ăn con ăn bao nhiêu cũng được hết, ăn đủ thì thôi, đừng có nghĩ.
Tu sinh: ăn nhiều như thế …. thành ra xấu hổ như thế nên không biết làm thế nào … (…)
Trưởng lão: Không phải đâu. Cái cơ thể của mình, cái sức của nó nó tiêu thụ bao nhiêu đó, thì con ăn một bữa thì lúc bấy giờ nó đòi hỏi là cái sức con ăn. Bây giờ con còn đói, con còn muốn ăn nữa mà trái lại mình cứ lấy ít ít, để người ta không cười mình sao ăn nhiều. Đâu phải! Cơ thể tôi muốn ăn vậy mà tôi không ăn thì mai mốt nó yếu đuối thì tôi lấy gì tôi tu? Tôi ăn phi thời thì nói, đây tôi ăn một bữa mà, tại vì nó còn ăn thêm được. Nó ăn như vậy để cơ thể nó đủ cung cấp cho nó. Con còn muốn ăn được thì con cứ ăn mà đừng ăn phi thời, ăn một bữa thôi. Con hiểu không? Đâu có gì đâu.
Hồi đó ở đây có Thầy Chân Trí ở ngoài Hà Nội, rồi ông về đây ông ở ông tu, rồi cái bát Thầy cho thì nó nhỏ quá, thành ra buộc lòng ông ấy ăn một bữa thì ông ăn phải là hai bát, ông ém như là cơm người ta vắt ra nó mới đủ ăn. Mà cái sức lực của ông thì khỏe mà lại ăn một bữa. Sáng đâu có ăn, chiều đâu có ăn, trưa nó phải ăn nhiều, tại vì cơ thể người ta nó đòi hỏi cái sức phải ăn như vậy cho nên người ta ăn. Ông nói bây giờ ăn cơm muối cũng ngon chứ đừng nói nghĩ là ăn cho ngon nữa. Vì vậy ông ém, mà ông sợ, thấy người ta nhòm ngó cũng kỳ, cho nên chờ tới giờ mà ai cũng lấy cơm hết rồi ông đến ông lấy. Tại không có ai thì mình ém. Thầy nói trời đất ơi ăn mà cũng sợ xấu hổ nữa. Mình nuôi cái cơ thể của mình thì phải có đủ tứ đại trong một bữa để nuôi.
(58:12) Ông Phật ngày xưa ông ăn được sức nào thì ổng xin sức nấy, chứ bây giờ ông nói thôi để ăn ít, như vậy là ổng ăn ít có một bát cháo, vài bát cháo thì ông nằm bẹp xuống ổng tu không nổi. Cho nên sau khi ăn một ngày một bữa, ông đi xin ăn, thì bây giờ ổng lượn đi ba nhà rồi mà chưa có đủ, phải không? Chưa có đủ mà, mới có nửa bát mà sức mình ăn một bát đầy, thì đi thêm mấy nhà nữa. Ở đây người ta đi xin cho vừa đủ thì thôi, người ta đậy bát về tức là mình lựa được cái sức ăn.
Cũng như Thầy bây giờ, thí dụ Thầy quen rồi, Thầy lại Thầy xúc cơm, Thầy xúc mấy muỗng Thầy biết là Thầy ăn đủ, Thầy lấy không thừa đâu. Còn người nào xúc cho Thầy, có khi thiếu mà cũng có khi thừa quá Thầy ăn không hết. Họ xúc họ không biết cái bụng mình đâu, còn con xúc cơm con biết cái bụng của mình, con hiểu không? Cho nên cứ xúc, nếu mà cái bát nhỏ thì ém vô ăn cho đủ sức trong một ngày để mình nuôi sống, để mình chiến đấu.
Quân lính mà không có lương thực thì cũng dập, mà chính cái thân con là quân lính của con, bây giờ mà con ăn cơm ít thì làm sao con thức đêm đánh giặc?! Không làm nổi, phải không? Làm sao mà con đánh giặc với các cái thọ của con nổi?! Cho nên con phải ăn đầy đủ chứ? Nhưng mà không ăn phi thời. Ăn phi thời là chạy theo dục. Còn ăn như vậy là không chạy theo dục, ăn để nuôi sống để mà đánh giặc. Hiểu chưa? Đừng có mắc cỡ, ai nói gì thì nói, kệ. Tại cơ thể tôi nó ăn vậy thì tôi ăn như vậy chứ?! Mấy người ăn không được thì ăn ít, tôi ăn nhiều tôi cũng ăn một bữa chứ đâu ăn hai bữa mà sợ, tôi đâu ăn theo mấy người được.
Phật tử: Con trình Thầy như chúng con có nên uống bổ không?
Trưởng lão: Thầy nói thật sự ra nếu mà giữ cái tâm thanh thản là thuốc bổ nhất rồi. Không cần bổ hơn.
(01:00:05) Phật tử: Khi ốm đau con tu thấy nhẹ nhàng, cảm thấy con là người khác … (…)
(01:00:35) Trưởng lão: Con cứ giữ gìn thọ tám giới trong những ngày đó thôi, còn những ngày khác con hòa hợp với gia đình thì con cứ tu tập những cái sự nhẫn nhục, cái sự xảy ra trong gia đình con biết nhẫn nhục, con làm vui vẻ, họ nói gì thì nói nhưng mà vẫn lăn vô làm công việc chứ không có bỏ lại, làm cho vui vẻ mọi người. Mọi người mới ngạc nhiên tại sao con bây giờ nó trở thành một cái người lạ lùng không bao giờ biết giận biết hờn, từ đó mới cảm hóa được, người ta mới thấy con đường của Phật pháp, rồi người ta chấp nhận. Người ta đã chấp nhận tức là người ta đã theo mình rồi. Mình tu đi trước người ta sẽ đi sau, mình không nỡ bỏ gia đình của mình. Cho nên Thầy nói cha mẹ anh em ruột thịt dòng họ của mình, mình làm gương, trừ ra họ không đủ duyên thì mình chịu thôi, chứ còn họ đủ duyên thì mình cố gắng lấy gương hạnh của mình.
Mỗi tháng thì con dành một ngày, hai ngày thọ Bát Quan Trai. Mặc dù con không đến chùa, không đến đâu nhưng mà con sẽ ở trong nhà, con ở trong phòng của con, con sẽ giữ gìn, con sẽ đến trước bàn Phật con xin thọ tám giới nghiêm túc, ngày hôm nay hoặc là một ngày một đêm, sau đó con sẽ xả ra. Con nguyện rồi con giữ giới, làm như những ngày mà thọ Bát Quan Trai.
Phật tử: Thời gian như thế nào thừa Thầy?
Trưởng lão: Ví dụ con thấy giờ nào đó mà thọ Bát Quan Trai dễ, một giờ đó rảnh con đến trước bàn thờ Phật con xin: “Bây giờ con chỉ được một giờ rảnh, con xin thọ Bát Quan Trai trong một giờ này” thì ngay đó con thọ tám giới liền ngay trong giờ, sau giờ đó con xả ra, con làm việc, con tiếp xúc với mọi người. Còn ban đêm cũng vậy, khi mà con đến trước bàn thờ Phật xin thọ tám giới Quan Trai: “Trong đêm nay con nỗ lực tu giờ giấc nghiêm chỉnh”, con thọ theo hoàn cảnh của mình thì là tu rất tốt.
Phật tử: Con không biết khả năng của mình.
Trưởng lão: Dễ lắm con, không có khó đâu con, ráng cố gắng.
Mấy con hôm nay được vào đây gặp Thầy thì lần lượt mấy con sẽ trình bày cho Thầy những cái phương pháp tu. Bây giờ về mấy con sắp xếp lại nơi cô Út sắp cho mình chỗ nào nghỉ ngơi đó, rồi chiều hai giờ hoặc ngày mai bảy giờ, thôi chiều chứ đừng bỏ phí thời gian dài quá, rồi Thầy chịu khó Thầy đến đây, hai giờ.
(01:03:00) Trưởng lão: Cũng là một cái duyên đó mấy con, một người con gái dẫn mẹ mình đi vào chùa tu tập, cho bà đi đến chỗ tu tập là rất đúng rồi đó.
Phật tử: Thưa Thầy là con cũng có một mẹ già thì nên làm thế nào ạ?
Trưởng lão: Cái đó thì bắt đầu chỉ nhắc mẹ nhắc nhớ câu tác ý thôi. Như bà nằm mộng chiêm bao bị ngủ mớ nói to tiếng trong giấc mộng, thì nhắc mẹ: muốn cho những cơn ác mộng không còn đến với mẹ nữa thì mẹ nhắc cái tâm ngủ không được chiêm bao nữa, cứ nhắc vậy đi rồi mẹ sẽ hết giấc mộng. Mộng nó khổ mệt mẹ đó, bởi vì trong giấc mộng mình thấy này kia đó, thì mình thức dậy mình thấy mệt. Cho nên vì vậy mà mẹ nên nhớ rằng nằm ngủ mà nó yên, nó không chiêm bao thì nó tốt, còn bị chiêm bao nó cũng như là mình lao động làm việc. Con nhắc mẹ con nên nhớ trước khi ngủ nhắc nhở cái tâm, cái thân: “Cái thân ngủ đừng có chiêm bao mộng nữa”, cứ nhắc như vậy mãi nó hết, nhắc bà bảo: “Tâm thanh thản, an lạc, vô sự” trước khi ngủ, thì cái tâm sẽ thanh thản, an lạc, vô sự.
Để cho bà lớn tuổi rồi giữ được cái thanh thản, an lạc, vô sự. Cứ nhắc cái câu nữa là nhớ mẹ thấy khi mà mẹ giận, phiền não, như con cái nó làm cho mẹ buồn phiền, mẹ giận thì mẹ đau khổ lắm, mẹ nên nhớ nhắc: “Tâm như cục đất, đừng có giận hờn phiền não nữa, phiền não là đau khổ”, mẹ cứ nhắc vậy đi thì mẹ sẽ hết đau khổ. Đó, mình giúp cho bà có một phương pháp mà bà không đau khổ là mình đền đáp công sinh thành, hiếu hạnh của mình đó con. Con hiểu không?
Không có gì hơn là mình còn người mẹ, mất mẹ là mình tìm không được đâu. Bây giờ còn mẹ, còn cha, hướng dẫn cho những người đó họ sống được với một tâm hồn thanh thản như vậy, nó ở trong thiện pháp đó, mình hạnh phúc lắm, làm được cho cha mẹ được hạnh phúc như vậy là mình thấy rất là vui. Cho nên đó là mình đền đáp công ơn sinh thành của mẹ.
Khi mà sinh mình ra thì mẹ mình cực lắm. Họ phải ôm ẵm nuôi mình cho đến ba bốn năm, mình đái ỉa dơ bẩn bà cũng chịu hết. Cho nên mình nhớ công ơn đó, mình làm sao mình đền đáp, thì bây giờ chỉ còn đem Phật pháp chứ gì? Đem thực phẩm nuôi bà thì bà bị khổ. Cho nên mặc dù là mình cũng cung cấp những cái cần thiết cho đời sống cho bà (thực phẩm, …), nhưng về tinh thần mình lại giúp bà có những cái pháp, các con nhớ đó là mình báo hiếu.
Cho nên các con mà còn mẹ, các con đừng bỏ mẹ mà tội. Dù sao đi nữa mình cũng từ trong lòng mẹ mình đi ra, thì cái ơn đó quá là cao rồi, con không thể bỏ, cho nên con ráng, nhớ lời Thầy.
Phật tử: … (…)
(01:05:52) Trưởng lão: Cái gì cần thiết mình giữ được thì mình cố gắng giữ, còn những cái giới gì chưa giữ được thì mình khoan đã, rồi lần lượt. Bởi vì nhân quả mình giữ được cái thiện này thì nó chuyển được ác pháp kia, lần lượt nó chuyển biến làm cho cả gia đình mình trở thành tốt hơn.
Ví dụ như mười giới thì mình cố gắng những giới nào mình giữ được thì mình cố gắng giữ được cái giới đó. Còn cái giới đó giữ được rồi thì nó thanh tịnh nó chuyển cái giới khác, nó làm cho cái hoàn cảnh của mình thuận tiện hơn, bởi vì giữ giới tốt, đừng có giữ trọn hết mười giới.
Cũng như ví dụ hai trăm năm chục giới không có nghĩa là mình giữ nó trọn vẹn hai trăm năm chục giới đâu. Nhưng mà mình giữ cái giới này nó thanh tịnh được thì nó chuyển qua cái giới kế của nó, nó bắt mình phải giữ giới kế nữa, và cái hoàn cảnh của mình sẽ giúp cho mình giữ được giới đó tốt. Cứ như vậy mình cứ leo thang dần dần mình lan dần cái giới luật cho tới khi nó thanh tịnh hoàn toàn, tức là ly dục ly ác pháp hoàn toàn, chứ đừng có sợ, sao tôi muốn tôi giữ gìn giới mà bây giờ hoàn cảnh như vậy không giữ được.
Trong những giới đó nó có những cái giới mà trong hoàn cảnh mình giữ được, còn có những giới không giữ được. Cũng như bây giờ gia đình mình còn ăn thịt, còn ăn chúng sanh mà mình nghĩ rằng mình ăn chay rồi mình không có làm thịt, làm cá, làm thực phẩm bằng thịt động vật thì chưa được đâu. Thứ nhất là mình giữ giới mình giảm bớt phân nửa là mình mua cái loài thực phẩm động vật bằng cách là người ta đã giết sẵn rồi, mình đem về làm cho gia đình ăn, nhưng mà mình nhất định là mình không ăn. Bàn tay mình làm ra thực phẩm đó cho gia đình ăn, cũng như mọi lần mình làm cho cả gia đình ăn chứ gì? Hôm nay mình làm cho mọi người ăn mà mình không ăn.
Đó là cái thân hành của mình, cái sống của mình, nó vẫn sẽ hướng dẫn cho gia đình của mình ăn chay hết đó, nhưng mà dưới sự bắt đầu họ ngạc nhiên, họ nói tại sao mình làm mà để cho người khác ăn, cái người làm lại không ăn, họ tự hỏi trong đầu. Do đó, trong cái thời gian mình ăn như vậy thì mình có những hành động mình biết nhẫn nhục, biết làm vui lòng gia đình của mình, từ đó nó cảm hóa cho họ. Họ thấy từ chỗ mình đi tu mình đem cái hạnh phúc gia đình của họ lại, từ đó họ chuyển biến, họ thay đổi. Họ thay đổi thì mình tiếp tục những cái giới khác, mình nghiêm chỉnh lên. Nó liên tục, từng chút, từng chút nó chuyển biến cái nhân quả chứ nó không phải là làm một lần mà nó xong đâu, nó chuyển biến dần.
Phật tử: … (…)
(01:08:11) Trưởng lão: Cái tình cảm mà. Đó là cái duyên để cho mình tạo để mình nói cho họ nghe: Khi mà không hiểu đó, thì em còn ăn thịt chúng sanh, mà bây giờ hiểu thì đó là cái sự đau khổ, cho nên khi hiểu rồi không nỡ nhẫn tâm mà ăn đâu. Vì vậy mà gia đình chưa hiểu biết thì thôi cứ ăn đi, đừng hỏi. Chỉ bây giờ em là người đã hiểu biết cái sự đau khổ của các loài, trước khi nó chết đó, thì nó phải đau khổ, nó cũng muốn sống chứ đâu muốn chết. Mình giải thích những sự đau khổ của loài động vật khi nó bị chết, thì do đó làm cho người thân mình tích cực.
Bây giờ họ ăn nhưng mà họ nghe tới cái sự sống chết họ cũng xót xa. Bởi vì con người nó có cái tình cảm, nhưng mà từ lâu tới giờ người ta không nghe, người ta thấy một con vật sinh ra để cho người ta ăn thôi, chứ người ta chưa hiểu.
Nhưng mà trong khi đó mình có sự giải thích cho họ nghe rồi, mặc dù mình không phải giải thích để cho họ ăn chay theo mình đâu, nhưng mà giải thích đánh thức họ. Khi đó là tiếng chuông cảnh tỉnh cho lòng hiếu sinh của họ thôi, nhưng không ngờ nó sẽ là cái lý muốn giải thoát, vì vậy mà họ không nỡ. Bởi vì họ thương mình thì họ cũng không nỡ bắt mình phải ăn thịt. Con hiểu không? Không bắt mình ăn thịt thì mình ăn một thời gian sau thì những sự kiện mà nó xảy ra trong gia đình nó lại xảy ra rất là êm ấm. Từ đó họ thấy nó thay đổi cả cái không khí gia đình, từ đó họ thấy họ ăn chay. Con hiểu không? Thì cái đó gọi là thân giáo đó, hướng dẫn người ta bằng cái thân hành của mình.
Nhưng trước khi mà thân giáo đó, thì cái trường hợp đúng là mình có sự giải thích. Giải thích cho mình, chứ không phải bắt buộc họ ăn chay. Thì mình nói với chồng, với cha mẹ của mình, em hoặc con mình: Khi mà con chưa hiểu, khi em chưa hiểu thì nghĩ trường hợp ăn chay để làm Phật, làm Thánh gì, nhưng mà khi thấy trước cái sự đau khổ đó thì em không nỡ, cho nên cả gia đình hiểu.
Mình giải thích như vậy làm cho người ta xúc động hơn: Do đó em thấy bây giờ ăn như vậy cũng làm cho gia đình nó bức xúc trước cảnh mà gia đình ăn uống với nhau nó phải tương hợp, nhưng mà trước cái lòng thương yêu đối với chúng sinh, đối với con vật như vậy em không nỡ ăn thịt nó được nữa. Con nói như vậy đó, thì người ta sẽ xúc động liền. Mình không nỡ tâm thì không lẽ họ nỡ tâm? Cho nên họ cũng từ đó mà họ: “Thôi, ăn chay hết đi!”.
Phật tử: … (…).
(01:10:43) Trưởng lão: Họ lý luận bằng cái này cái kia thì mình nhịn đi, đừng nói nữa, mình làm thinh nhưng mà vui vẻ.
Khi người ta có những cái lý luận người ta chống lại thì mình làm thinh nhưng mà vui vẻ, không buồn, mình giữ vững lập trường của mình chứ không theo họ đâu. Họ lý luận để mà họ lôi cuốn mình vào ác pháp đó. Bởi vậy ta nói tùy thuận, nhẫn nhục nhưng không bị lôi cuốn. Mạnh mẽ nhất là mình phải chiến đấu cái phần của mình bởi vì những ác pháp nó mạnh lắm. Có những cái lý luận … chính bản thân mình ngồi tu thôi, mà cái tâm mình nó lý luận, cái ác pháp nó lý luận rất là hay, nó làm cho mình phải sa ngã.
Nó nói như thế này, thí dụ như buồn ngủ là nó nói thôi ngủ một chút đi, rồi lấy sức khỏe rồi tu lại tốt hơn. Đó, ví dụ như vậy đó, nó cũng lý luận giỏi lắm. Hoặc là nó nói bây giờ mình đi nói chuyện một chút để hỏi này kia chứ mình không hỏi thì làm sao mình hiểu? Hoặc là nó sai nữa, chỗ mình bẩn mình lại kia mình mượn cái chổi mình quét. Nó lý luận, chứ mình có nói chuyện đâu, mình lại mình mượn cái chổi rồi mình đi mà. Nhưng mà khởi sự cho cái duyên mượn cái chổi sau này nó có cái duyên nó nói chuyện chứ gì?
Nó ngầm nó sai mình làm cái chuyện này đó, mà mình thiếu sáng suốt đi, chỉ thấy là lại mượn cái chổi thôi, lại cái thất kia mượn cái chổi, thấy cái chổi để đó, đó là bắt đầu cái ý nó muốn đi nói chuyện rồi đó, nhưng mà nó không nói nó muốn nói chuyện đâu, nó nói mình mượn cái chổi để quét thôi xong rồi mình trả. Nhưng mà nó khởi sự cho cái duyên để tạo nó để nó đi nói chuyện nó phá độc cư đó.
Nó biết được, cái tâm của mình nó khéo léo lắm, nó đi từng chút từng chút chứ nó đụng cái nó lại nói chuyện, không, nó không có làm vậy đâu, mà nó sai mình từng chút. Rồi cái hoàn cảnh, cái ác pháp đó nó xảy ra. Ví dụ như trong nhà, bình thường ai cũng giữ độc cư hết, bỗng dưng có con rắn bò vô, hoảng hồn chạy lại đằng kia kêu. Thì rõ ràng mình đâu có nói chuyện? Tại vì mình sợ rắn chứ gì? Cái tâm nó lý luận như vậy, con hiểu không? Nó che đậy từng chút để nó phá hạnh độc cư, nó xảy ra những điều kiện đó để nó tạo thành cái sự hội họp.
(01:12:50) Bởi vì ở đây kỷ luật của mình là cấm không cho hội họp, nhưng mà trường hợp này xảy ra rồi ai bắt lỗi được? Bởi vì thấy con rắn sợ quá tôi chạy kêu ông đó hoặc là chạy kêu chị đó đuổi con rắn đi, nhưng mà không ngờ là nó tạo cái duyên.
(01:13:13) Các con thấy cái tâm của mình nó khéo léo lắm. Bởi vì đức Phật dạy cho mình tu tập tỉnh giác để mình giác từng hành động, từng cái điều kiện mình có phạm giới không? Từng giới đưa ra để cho mình thấy, chứ không khéo mình bị phạm giới hết rồi mình không thấy. Cho nên cái giác là giác ở trên giới, cho nên đức Phật nói: “Giới luật ở đâu là trí tuệ sẽ ở đó, trí tuệ ở đâu là giới luật ở đó. Giới luật làm thanh tịnh trí tuệ mà trí tuệ làm thanh tịnh giới luật”.
Bác hết tất cả những cái pháp tu của Bà La Môn, Đức Phật quét sạch hết chỉ còn có trí tuệ với giới luật mà thôi. Bởi vì cái đó giác được, giác được những hành động sai của mình, ở trên trí tuệ của mình nhìn thấy được nó phạm giới, tức là nó sai rồi, nó không đúng, cho nên cái đó là cái tu hạnh của Phật pháp. Cốt cán của nó là giới luật là hàng đầu, mà hiểu biết của mình là kế đó, nếu có hiểu biết thì có giới luật, mà hoàn toàn là hiểu biết mà ngoài giới luật là sai pháp, không đúng pháp. Nội tu đó là ly dục ly ác pháp mấy con.
Không phải là chỗ ngồi thiền, ngồi thiền đưa tay, đưa chân, đi kinh hành là tại vì đó là những phương pháp để trợ giúp cho nên gọi là trợ đạo, ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Chứ còn cái pháp, cái đạo của nó là giới luật ly dục, ly ác pháp.
Cho nên Đạo Đế là nói Chánh Kiến, không có nghĩa là tôi Chánh Kiến là tôi phải thấy như vậy như vậy là Chánh Kiến, không phải. Chánh Kiến, tôi muốn ở trong Chánh Kiến này là tôi phải lấy giới luật mà tôi tu Chánh Kiến, chứ không phải nói Chánh Kiến là tôi giải thích Chánh Kiến theo kiểu mấy ông Đại thừa: Nghe nói Chánh Kiến là tôi phải thấy như vậy như vậy là Chánh Kiến, mà tôi thấy như vậy là tà kiến …. Bây giờ tôi theo ngoại đạo tôi tu cầu khẩn này kia là tà kiến, cái đó mình giải thích sai.
Bây giờ thí dụ như tôi vô chùa cúng bái, cầu siêu, cầu an, nó là tà kiến, ví dụ như vậy, mê tín, tà kiến. Cái đó nói đúng chứ không sai. Nhưng mà đâu phải Chánh Kiến là tu cái đó, không phải vậy. Nhưng mà muốn tu cái đó là phải tu cái pháp nào ở trên cái Chánh Kiến, từ đó những cái này mới lòi ra là nó tà kiến. Chứ còn mình cứ đứng ở trên cái lý luận mình giải thích: Bây giờ đến chùa cầu an, cầu siêu, cúng bái hoặc làm tình làm tịu bằng cách này cách kia đó là tà kiến - mình nói vậy là mình chửi người ta chứ sự thật mình cũng chưa biết tà kiến.
(01:15:27) Bây giờ chúng ta tu thì phải có cái pháp ở trên chỗ lớp Chánh Kiến đó. Chánh Kiến là cái tên của một cái lớp, cái lớp đó mình học mình có Chánh Kiến, chứ không phải ở trên cái lớp đó giải thích Chánh Kiến. Người ta biến Chánh Kiến thành ra một bài pháp, nó sai. Phải không?
Bây giờ mới đưa ra những pháp khác lên trên lớp Chánh Kiến này để cho tu học nó thành cái Chánh Kiến ở trong tâm chúng ta, con hiểu chưa? Cho nên người ta đem Bát Chánh Đạo ra người ta giải nghĩa thành ra cái pháp tu chứ không phải là lớp tu, cái đó là hiểu sai.
Phật tử: Thưa Thầy bây giờ bắt buộc học ba năm Bát Chánh Đạo, mười hai nhân duyên.
Trưởng lão: Bây giờ mười hai cái nhân duyên, rồi Bát Chánh Đạo … thì cái Bát Chánh Đạo đó là cái Đạo Đế, là chân lý nó phân ra, trong chân lý Đạo Đế nó phân ra làm tám lớp học: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, … cho đến Chánh Định thì nó là tám lớp học. Trên tám lớp học này, nó được căn cứ vào những bài học nào trên tám lớp này? Con hiểu không?
Thí dụ như bây giờ nói lớp Chín thì nó có những bài vở của lớp Chín, mà lớp Một thì có những bài vở của lớp Một, chứ không phải ở trên lớp Một mà giải thích nó như thế này thế khác được. Con hiểu không? Cũng như ở trên lớp học ở chương trình giáo dục, lớp Bảy thì phải có những bài học của lớp Bảy, chứ không phải ở trên lớp Bảy mà giải thích.
Đạo Phật có tám lớp, lớp Chánh Kiến thì không phải ở Chánh Kiến mà giải thích, mà trên những bài vở của cái lớp để học lớp Chánh Kiến, nó có bài vở. Cho nên hầu hết người ta đem Bát Chánh Đạo ra người ta giảng thành cái pháp, nhưng không ngờ đó là lớp học của người ta, cái tên của lớp học.
Chánh Định, thì bây giờ ở trên Chánh Định này thì mình muốn tu thiền định này, thiền định kia mình nói tùm lum. Không phải! Chánh Định nó phải có những bài pháp để học về Chánh Định, thì bài pháp đó là Tứ Thánh Định. Phải không? Mình phải đem những pháp học về Tứ Thánh Định. Chứ bây giờ đem thiền Đông Độ cũng nói Định, đem Yoga cũng nói Định, tôi cũng đưa vô chỗ này tôi nói Chánh Định, cái này đâu có được. Có phải không?
(01:17:52) Chỉ có những bài pháp đó là Tứ Thánh Định - Bốn Thiền: Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền mới đưa vô lớp Chánh Định này mà học. Nó có những cái pháp, cái giáo trình của nó đó, là bốn cái Định - Bốn Thiền Định của nó.
Về Chánh Định mà con đem bốn cái thiền vô sắc vô đây là Không Vô Biên Xứ cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ vô đây học thì sao được? Đâu phải! Chương trình đó nó học cái lớp nào ở đâu của ngoại đạo chứ đâu đem vô đây được.
Còn ở đây lớp người ta là phải Bốn Thiền vô đây mới học cái lớp Chánh Định. Lớp Chánh Định là phải đem bài vở của Bốn Thiền vô mà tu, vô mà học ở đây, con hiểu chưa? Chứ không phải ở trên Chánh Định mà giải điên giải khùng, nào là kiến tánh thành Phật là Định này kia, thì cái đó không đúng. Cái đó không là Định được, không hiểu.
Phật tử: Người ta nói như thế chứ người ta cũng không làm được.
Trưởng lão: Người ta chỉ ở trên chữ nghĩa mà giải thích, cái tên của cái lớp học mà giải thích cái gì kỳ vậy? Lớp học thì nói lớp học thôi, nhưng mà nó có cái tên.
Ví dụ Chánh Niệm, mình giải thích là Chánh Niệm là phải niệm Phật này kia đó, thì như vậy là sai, niệm chú là sai rồi, nó không phải. Chánh Niệm thì chỉ có Tứ Niệm Xứ thôi. Mà pháp Tứ Niệm Xứ thì nó có những pháp gì? Người ta dạy cho mình học tu những pháp đó gọi là Chánh Niệm. Tên Chánh Niệm chứ không phải đem mà dạy, giảng ra Chánh Niệm.
Người ta hiểu Bát Chánh Đạo mà hiểu như vậy là một cái chân lý Đạo Đế, một cái chương trình giáo dục để đào tạo trở thành một vị giải thoát, một vị A la hán. Đó là lớp học để mà đào tạo cho trở thành một bậc A la hán. Nó y như chương trình của giáo dục vậy.
Thí dụ như bây giờ các con vô học lớp Một cho đến khi lên Đại Học học về y khoa, thì các con sẽ trở thành bác sĩ, học về luật khoa thì sẽ trở thành luật sư. Các con hiểu không? Mình học lớp nào thì sẽ đào tạo cho mình ra ngành nghề đó, còn bây giờ mình học lớp Bát Chánh Đạo này - tám lớp này nó đào tạo mình trở thành ông A la hán, chứ không phải là nói tôi tu cầu may hay tu nhiều kiếp, tôi chỉ có tu bảy năm thôi.
(01:20:02) Bảy năm thì nó tương đương bảy lớp, cộng với lớp Chánh Định nữa là tại vì mình có đủ đạo lực rồi thì cái năm đó là cái năm Chánh Định. Tại vì cái lớp Chánh Định thì tức là mình có đủ đạo lực rồi thì mình mới nhập Định. Phải không? Cho nên trong bảy năm đó thì sự thật ra là tu tập những cái đạo lực cho đến năm thứ tám là cái năm nhập Định, thì Định nó rất dễ chứ đâu còn khó nữa? Cho nên đức Phật nói: “Tâm nhu nhuyễn dễ sử dụng thì nhập Định nó không có khó khăn mệt nhọc”.
Mà bảy năm đầu mình học cái Chánh Niệm mình xong hết rồi thì tới năm Chánh Định nó dễ dàng lắm, cho nên nó có bảy năm.
Phật tử: Con kính bạch Thầy là nếu tu tập trong bảy năm mà việc học với một người thế tục như con, có một mình con luyện tập thì có nhập Định được không ạ?
Trưởng lão: Một mình con làm sao làm được! Con phải vào học lớp học người ta dạy lớp Một, lớp Hai, … nó có những bậc A la hán người ta đứng người ta hướng dẫn, chứ còn không có ông giáo sư dạy thì con học sao được? Con học nó không hiệu quả. Cho nên cái chương trình của Phật là phải có những bậc A la hán đứng giảng hết.
(01:20:56) Phật tử: Bây giờ còn có những vị A la hán, sau Thầy còn có những người kế không?
(01:21:02) Trưởng lão: Bởi vậy Thầy nói đây là lớp học rồi, không những có tám ông dạy đây mà còn có tám ông dạy ở chỗ khác nữa, nghĩa là chương trình của Phật mà Thầy đã vạch ra rồi thì bây giờ cái chương trình học như vậy, đường lối như vậy thì phải có chứng quả A la hán chứ?
Nhưng người sau này kế chúng ta chừng khoảng một trăm năm sau thì trường lớp này nó đầy đủ, cũng như cái chương trình giáo dục của Nhà nước đào tạo bác sĩ là ra bác sĩ, đào tạo những ông luật sư là ra những ông luật sư … Thí dụ như vậy đi, thì bắt đầu bây giờ đào tạo ông A la hán là nó sẽ có những trường lớp đào tạo, cho nên hàng loạt A la hán ra đời mà, đem lại nền đạo đức, nghĩa là có những bậc A la hán ra đời là không bao giờ còn người ta làm ác nữa, nó là cái chương trình đạo đức mà.
Phật tử: Năm nay con bảy mươi bảy, mất bảy năm nữa là tám mươi tư tuổi …
Trưởng lão: Bây giờ thì thôi biết bây giờ. Thí dụ ở đây thì con thấy là con còn bảy năm nữa chứ gì? Coi như mới bắt đầu vô lớp Một chứ gì? Thì còn phải bảy năm nữa. Nhưng mà trong bảy năm nữa thì số người mà đã theo Thầy thì họ đã có những người người ta tới lớp Sáu, có người lớp Năm, rồi có người lớp Bảy sắp sửa ra trường rồi. Bởi vậy, tới chừng mà con mà được mở các lớp này thì đào tạo được một số giáo sư rồi. Giáo sư dạy để mà cấp bằng A la hán đó, thì những bậc này đều là chứng quả A la hán hết rồi mới đủ khả năng mà người ta đứng lớp người ta dạy. Chứ còn không đủ khả năng thì mấy con nói người ta đâu có biết đâu mà trả lời?
Phật tử: Đức Phật tới hai ngàn năm nay, kẹt một nỗi tìm một con người trong bảy năm mà tu chứng quả A la hán thì cũng là hiếm.
Trưởng lão: Dĩ nhiên là họ giữ giới không được thì phải vậy chứ sao. Thầy nghĩ rằng bắt đầu từ đây, từ thời điểm này, những điều kiện mà Thầy đã viết trước kia thì quyển về những lời Phật dạy chưa có, chỉ có bộ Đường về xứ Phật, mà bộ Mười giới đức thánh Sa di chưa có, thì cái chuyện hồi về đây thì chưa có mấy cái này, cho nên giới luật chưa biết hết. Phải nói hoàn toàn là mấy ổng tu thì tu chứ chưa rành giới luật đâu.
(01:23:21) Sau khi bây giờ tới con, thì bây giờ con có đọc hai bộ Giới Sa di rồi phải không? Con thấy rõ không? Thầy Chí Thiện hồi đó về đây chưa có, rồi Những lời Phật dạy cũng chưa có nữa, có đúng không? Cho nên đường lối chưa có rõ ràng, nên người ta không biết tu như thế nào. Mà đọc Đường về xứ Phật thì Thầy đập tan nát Đại thừa hết mà không thấy đường lối, có nhắc ở trong đó nhưng mà người ta thấy cũng chưa rõ lắm, có phải không? Có nói đường lối tu nhưng mà chưa sắp xếp thứ lớp đâu.
Lần lượt bây giờ Thầy mới đưa đến Bát Chánh Đạo mới trở thành những cái lớp. Từ đó niềm tin của người ta bắt đầu, người ta tu tập, người ta thấy có những kết quả, kết quả làm chủ sự thật bệnh mà, phương pháp Thầy dạy rõ ràng họ làm chủ được thân tâm họ rồi.
Từ đây về sau, con biết không, cái số người mà người ta nỗ lực tu không phải như trước nữa, họ không có phá giới đâu, họ biết đây là con đường đúng rồi, họ nỗ lực, họ tin tưởng rồi, phải không? Thì người mà Thầy đào tạo ra từ đây về sau nó mới có người. Chứ còn từ trước đến giờ đó, con biết không, sách vở mình chưa có, mình chỉ đập phá người ta thôi. Những lời Phật dạy thì chưa đứng lớp, pháp nào tu tới pháp nào … nghĩa là thực phẩm của pháp này cho đến thực phẩm của pháp khác kế đó chưa có.
Mà bây giờ đã có những bài pháp căn cứ rõ ràng cái đường lối, rõ ràng rồi chứ gì? Rồi lần lượt những giới luật nghiêm chỉnh như thế nào, con thấy không? Những bộ giới đức Sa di con thấy không? Quá căn bản rồi chứ gì? Rồi tới những bộ giới kế tới đây, con thấy những bộ giới tỳ kheo đưa những phạm hạnh của những bậc Thánh tăng ra, con thấy kinh khủng lắm chứ đâu phải? Vì vậy càng ngày người ra rõ cái đường đi của đạo Phật, đường lối hẳn hoi, giáo trình tu tập đàng hoàng, do đó thì đào tạo dễ rồi chứ không có gì. Con hiểu chưa?
Thì như vậy là rõ ràng tám vị A la hán quá dễ chứ không có khó đâu. Bắt đầu từ đây mà tám vị có rồi, trường ốc có rồi thì sẽ tiếp tục đào tạo, mỗi một năm sẽ ra bao nhiêu ông.
Người ta tu hoàn toàn mà giới luật nghiêm chỉnh hẳn hoi; sinh, già, bệnh, chết người ta làm chủ được đàng hoàng mà, người ta đâu cần thần thông đâu? Có thần thông người ta cũng không thực hiện đâu. Nhưng mà có điều kiện là người ta thực hiện được làm chủ để làm cái gương hạnh đạo đức không làm khổ mình, khổ người, để giúp người ta, để làm cái đạo đức nhân bản - nhân quả của đạo Phật lan khắp trên thế giới, để đem lại niềm vui cho con người, làm cho người ta khoa học, nó đi song song với đạo đức để nâng cao đời sống vật chất và nâng cao tinh thần đạo đức người ta lên.
(01:25:42) Người ta không tranh giành, mà người ta làm mọi việc đều giữ gìn vệ sinh, giữ gìn không để ô nhiễm. Cho nên lúc bấy giờ Thầy nói rằng khi mà đưa ra những môn đạo đức này, thời tiết không có lũ lụt đâu, nắng mưa rất ôn hòa, bởi vì chúng ta thải ra những từ trường ác chúng ta phải thọ lãnh những điều kiện đó, còn bây giờ chúng ta sống đạo đức rồi, chúng ta thải ra những từ trường thiện, cho nên mưa gió thuận hòa theo cái hành của thiện pháp, nó không có nghịch nữa. Cho nên Thầy nói tới chừng đó sợ mấy con … ráng tu đi rồi mấy con kéo dài chừng hai trăm năm nữa thôi, thì mấy con sẽ thấy hành tinh này thay đổi toàn bộ.
Người ta tu người ta sẽ chứng quả A la hán bằng cái đào tạo chứ không phải là bằng cái tu cầu may, không phải là tu nhiều đời nhiều kiếp nữa. Người ta đào tạo, khép mình vô trong khuôn khổ kỷ luật rồi, người ta dạy tu tập như vậy, có ông Thầy hướng dẫn mình cũng như là ông Thầy giáo dạy bài. Mà người ta mở lớp người ta nhận có mười người, cao lắm hai chục người chứ không nhận nhiều. Đào tạo suốt bảy năm là mười người ra là mười ông A la hán. Con hiểu không?
Mà bây giờ ở tỉnh này người ta mở một lớp, ở tỉnh kia người ta mở một lớp, chỗ nào cũng mở lớp. Một năm vậy mười tỉnh ở Việt Nam này có một trăm ông A la hán rồi. Mà mỗi tỉnh có một ông như vậy thì làm cái gương hạnh cho tỉnh đó rồi. Đâu cần phải di chuyển từ Hà Nội, Nghệ An … mấy con vào đây vất vả đâu? Ở đâu cũng có người hết mà, phải không? Đó thấy chưa? Mấy con thấy chưa?
Chương trình của Thầy là chương trình rất là … (…) phổ biến tất cả những điều hạnh phúc cho loài người bằng sống trong nền đạo đức.
Phật tử: Con kính thưa Thầy, Thầy lớn tuổi, bây giờ Thầy tự tại rồi, muốn đi khi nào thì đi, năm mươi mấy tuổi Thầy đã có thể đi, nghĩa là đi mất rồi, nhưng cái thân Thầy rồi nó cũng phải hủy hoại hết, rồi cũng phải cho nó nghỉ ngơi.
(01:27:42) Trưởng lão: Đúng vậy, chứ Thầy cực quá mà không cho nó nghỉ.
Phật tử: Nhưng mà sợ Thầy bỏ con rồi thì nhiều cái duyên nó kéo.
Trưởng lão: Không phải đâu, khi mà cái phước chúng sanh có là Thầy mới tu hành được, chứ cỡ chúng sanh không có Thầy không tu hành được.
Tại sao vậy? Nó có cộng nghiệp với nhau cả một thế giới này chứ không phải ít đâu, con hiểu không? Cho nên Thầy tu được để làm sống lại nền đạo đức, phải không? Thầy mới đập phá những cái sai để mà dựng lên những cái đạo đức. Dựng lên đạo đức là nó phải có những người thừa kế để mà tiếp tục, chứ còn nếu một mình Thầy thì nếu mà Thầy chết rồi, ba tháng sau Đại thừa dập cũng tan nát hết, không còn nữa.
Nó dập nát hết. Bởi vì tâm dục ngoài đời họ không biết đạo, họ dập, kế đó ba ông Đại thừa, cái lực lượng người ta ghê gớm lắm. Khi Thầy mà chết rồi đó, thì còn ai có tiếng nói nữa? Người ta dập liền. Nó nói cái pháp gì tu quá khổ hạnh, ăn uống gì mà ngày một bữa, đau uống thuốc cũng không cho uống thuốc. Nó dập liền, tan nát liền hết chứ, đâu phải dễ đâu.
Cái tâm người ta yếu đuối lắm, người ta cũng nghe theo hết, bởi vì người ta có đủ niềm tin đâu.
Thầy viết sách thì ít ra phải có những ông A la hán trẻ tuổi chứ đâu phải già như Thầy nữa.
Cho nên mấy cháu mà nhỏ nhỏ đó, cỡ chừng hai mươi, hai mấy tuổi mà học Đại học mà nó học, thì những tuổi đó là tuổi đào tạo những bậc A la hán tương lai để mà đứng lên xây dựng đạo đức cho quê hương của mình, cả cho thế giới này, là gương hạnh đó.
Phật tử: Con cũng nghĩ như Thầy, Thầy phải có lớp đó, chứ nếu không có lớp đó thì không biết bám vào đâu, sau này Thầy nhập diệt rồi …
Trưởng lão: Mất đi rồi, nói chung là Thầy phải tổ chức cả trường lớp, và cả những điều kiện viết sách như vậy, Thầy còn phải soạn thảo những giáo trình của từng lớp học - tám lớp học này.
Con biết những tạng kinh như vậy mà Thầy phải chọn lọc, lập luận, đọc để lấy những bài kinh nằm trong những lớp đó là những bài kinh nào nữa. Thầy xác định lớp học đó nó phải học bài gì? Thí dụ như bây giờ lớp Chánh Kiến phải học Tứ Bất Hoại Tịnh, vậy thì những bài pháp nào ở trong kinh Phật mà dạy về Tứ Bất Hoại Tịnh Thầy lược ra vô đây trong lớp này hết. Rồi những giới luật nào mà ở trong lớp Chánh Kiến này phải học, phải tu tập những giới luật này, chứ không phải đem bộ giới kê ra bảo học. Nhiều quá ai mà học, một cái lớp mà học nhiều vậy? Con hiểu không? Nó là cả một cái giáo trình, rồi người mà chứng quả A la hán rồi họ mới dựa vào giáo trình này họ mới soạn giáo án.
HẾT BĂNG
MỸ CHÂU THAM VẤN - THUYỀN XUYÊN NHƯ LÝ TÁC Ý
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời lượng: [01:32:15]
Trưởng lão: Hôm nay Mỹ Châu về. Con trình lại cái sự tu tập, con có cái gì mà gặp khó khăn, hay hoặc cái trạng thái gì, con trình lại Thầy sẽ giúp cho con. Mỹ Châu đó con!
Phật tử Mỹ Châu: Dạ kính thưa Thầy! Con nhận thấy cái tâm con là tâm tham, sân, si. Cho nên trong cái hành động thường ngày thì con tỉnh thức để để tác ý xả tham, sân, si. Rồi trong Thiền Định đó, thì con ngồi một tiếng, thấy nó an toàn, nhưng mà sau đó thì cái chân con nó tê. Rồi cái con cũng trong vòng xong một tiếng rồi, thì sau đó con không mà biết đường nữa. Thành ra nó có bị gục.
Tong khi tu đó, thì con tu Định Niệm Hơi Thở kết hợp với lại Định Vô Lậu, thì con thấy rất là ổn, trong vòng một tiếng. Và rồi cái bây giờ con gặp khó khăn, là trong cái sự mà bị ngủ đó Thầy, kéo dài thì nó bị ngủ. Với nó làm như con bí đường rồi. Con ngồi được có một tiếng cái con bí. Dạ thưa Thầy, vậy kính nhờ Thầy chỉ dạy con thêm!
(1:45) Trưởng lão: Trong khi tu tập mà con gặp cái trường hợp mà nó xảy ra như vậy đó. Thứ nhất là cái phần mà Thầy dạy đó, là cái Thiền bốn thiền đó, là cái Thiền nó Hữu Sắc. Mà nói Thiền Hữu Sắc tức là nói Thiền của ý thức, chứ không phải Thiền của tưởng thức. Bởi vì trong một con người của chúng ta nó chia làm ba cái Thức.
Cái Thức thứ nhất là cái Sắc Thức, nó thuộc về thân, ý của chúng ta. Hiện giờ là chúng ta đang hoạt động bằng cái ý thức, còn khi chúng ta ngủ chiêm bao, nó là chúng ta hoạt động bằng cái tưởng thức. Còn khi mà cái người mà tu thì mà đạt Tam Minh, thì người ta sử dụng cái Thức Thức. Cho nên nó có ba cái Thức.
Vì vậy mà khi cái người tu theo đạo Phật đó, vào cái Thiền để nhập được các Định, theo đạo Phật thì phải dùng cái Thiền Định của ý thức, chứ không phải dùng của tưởng thức mà được. Cho nên cái tưởng thức phải loại trừ ra, không có được sử dụng nó ở trong cái sự tu tập Thiền Định. Vì vậy mà luôn luôn đạo Phật dạy chúng ta Như Lý Tác Ý, như cái Lý của đạo để mà tác ý, để giữ cái ý thức của mình. Cón nếu mình không tác ý thì mình sẽ mất cái ý thức.
Vậy cho nên thường thường là nhiếp tâm trong hơi thở hoặc đi kinh hành, đều là chúng ta thường xuyên tác ý nhắc. Nếu mà chúng ta không thường xuyên tác ý nhắc, thì cái ý thức nó bị lặng đi, và nó nhường lại cho tưởng thức nó hoạt động. Cho nên chúng ta sẽ bị lạc vào những cái Định Tưởng, tức là Định Vô Sắc.
Thì cho nên mà vì vậy mà khi mà con ngồi con còn cảm giác tê, thì nó chưa có rơi vào tưởng thức, nó còn ý thức, con mới biết nó tê đó. Chớ còn khi mà con rơi vào mà tưởng thức rồi, thì con không biết tê nữa đâu. Mặc dù là con thấy mình vẫn biết, nhưng không thấy tê đâu. Cho nên mà một cái người ngủ mà chiêm bao, thì họ bị co cái tay, họ mới, giấc mộng nó mới thực hiện. Khi đó họ bị tê mà họ không biết tê, mà họ thấy chỉ thấy một cái giấc mộng. Con lưu ý trên vấn đề đó.
(3:52) Cho nên khi mà ý thức chúng ta muốn biết cái thân mình tê hay là cứng, hay là này kia đó là ý thức. Còn cái tưởng thức thì nó không có cảm giác cái thân tê hay hoặc là cứng, hoặc là cảm giác này kia, nhưng mà nó có cái cảm giác riêng của nó. Cái thân nó không tê mà nó tưởng là tê. Cái thân nó không cứng mà nó tưởng là cứng. Cái thân không nặng mà nó tưởng là nặng. Cái đó là cái cảm giác của tưởng.
Còn cái thân của chúng ta tê thật sự, nó bị máu không lưu thông được, nó tê thật sự. Thì cái mà mình cảm giác tê thật sự đó là ý thức. Cái thân đau nhức chỗ nào, thì cái ý thức nó biết ngay chỗ đó. Cho nên đó là ý thức.
Ở đây cái phần tu tập của con đó, là con chỉ tu tới một tiếng đồng hồ, rồi con có cái lúc thì bị tê, nhưng mà nó không quan trọng đâu. Khi mà tê, thì con nên nhớ rằng, ở đây chúng ta tu về phần tâm, chứ không phải thuộc về phần thân. Vì thân, khi tâm mà thanh tịnh rồi, thì thân nó sẽ theo cái sự điều khiển của tâm. Còn tâm mà chưa thanh tịnh đó, thì chúng ta có tập cách gì đi nữa, thì cái thân nó cũng không có định được, mà nó lọt vào những cái định tưởng.
Cho nên khi mà tu tập đó, thì con nhớ khi bị tê, thì con cũng vẫn, khi mà vừa cái thân con vừa bị mới tê đó, thì con đừng có cố chấp mà mình phải ráng mình ngồi cho được một giờ. Mà con cứ giữ đúng cái tâm của con lúc bấy giờ đang tu ở cái pháp gì, thì con cứ đứng dậy, con sẽ đi, và con giữ cái tâm ở trạng thái đó, đến khi hết giờ thì con sẽ xả nghỉ.
Thí dụ như bây giờ con tu một giờ, mà khoảng 40 phút thì con bị tê, bị nghe cảm giác nó tê cái chân con, bắt đầu con đứng dậy. Con đứng dậy con đi kinh hành, thì con đi kinh hành, con vẫn giữ cái tâm của con ở trong cái hơi thở, chứ không có chú ý ở trên bước đi của con.
(5:52) Con vẫn giữ nó thở ra, hít vô, thở ra, hít vô. Thì con sẽ đứng dậy con đi đó, thì cái chân của con nó sẽ hết tê liền tức khắc, tức là xả chướng ngại pháp. Do đó con đi như, con đi cho đến khi mà đúng một giờ, rức là đi 20 phút nữa, thì nó sẽ đúng 1 giờ. Và khi đúng 1 giờ thì con cũng vẫn giữ cái tâm của con ở trạng thái con đang như con đang ngồi.
Thì như vậy là con đang ngồi tu suốt 1 giờ chứ không phải là nói rằng mình đi, hoặc ngồi. Nó nhiều cái oai nghi ở trong cái thân của mình. Mình cho rằng như vậy nó không đúng, không phải. Mình chỉ giữ cái tâm của mình, khi con đứng dậy thì con cũng cố gắng, con phải giứ cái tâm con ở trong hơi thở, rồi con bước đi con cũng giữ tâm trong hơi thở.
Nghĩa là tâm con duy nhất, mà có cái thân của con nó có nhiều cái hành động, thì như vậy thì suốt 1 giờ mà con tu hoặc là cao hơn, 2 giờ, 3 giờ, đều là tốt tất cả, nhưng mà cái tâm luôn lúc giờ đó, con tu sao mà con chín chắn ở trong cái, thí dụ như cái hơi thở của con, con nhiếp tâm. Và đồng thời thỉnh thoảng thì con tác ý ra, thì nó sẽ không bị lọt vô tưởng.
Và vì vậy mà con giữ cho hết giờ, hoặc là con tăng lên một hai giờ đồng hồ nữa cũng dễ dàng. Bây giờ con đi con thấy, bây giờ nó mỏi chân, nó hơi mỏi chân, thì bắt đầu con ngồi. Con ngồi, hoặc ngồi xếp bằng, hoặc ngồi ở trên một cái ghế, vừa là nghỉ, nhưng mà tâm vẫn tu, vẫn giữ tu. Cho nên con có thể tăng từ giờ này đến giờ khác, tâm con hoàn toàn nó không phóng dật.
Đó là cái trạng thái của tâm không phóng dật, là trạng thái của Định. Như vậy rõ ràng là con tu nó sẽ tiến bộ, còn con cứ cố chấp phải ngồi một hai tiếng, luôn luôn có cái oai nghi ngồi. Nhưng mà nhiều khi con ngồi như vậy đó, tâm con nó nhiều cái trạng thái ở trong đó, chứ nó không có duy nhất một trạng thái.
Còn con, cái thân con nó động, từ ngồi đến đứng, từ đứng đến đi, rồi thay thế cái oai nghi ngồi. Hồi nãy con ngồi xếp bằng, bây giờ thì con ngồi trên ghế, nhưng con giữ có một tâm duy nhất, tức là không có thay đổi cái tâm, mà cái thân thì con có thay đổi những cái oai nghi của nó. Do đó con sẽ thấy tiến bộ rất rõ ràng.
(8:05) Còn trái lại con cố chấp là phải ngồi, ngồi từ 1 tiếng đến 2 tiếng 3 tiếng thì trong lúc đó con quên là cái tâm của con nó có Định, chứ không phải là cái thân của con có Định. Vì vậy mà con phải thực hiện cái tâm trước, rồi sau này, con chỉ truyền lệnh thì cái thân con nó sẽ theo đó mà tự tu tập.
Vì hiểu sai cho nên con nghĩ rằng mình phải ngồi nhiều, hàng ngày nó tiến, thí dụ như con ngồi 1 giờ cho đến 1 giờ 10 phút, rồi 1 giờ 20 phút, 1 giờ rưỡi, cho đến 2 giờ rồi 3 giờ. Mà ngồi suốt như vậy mà không đau không này kia, thì con cho rằng một tiếng, thì không phải đâu. Nó không phải tiến bộ chỗ đó. Mà tiến bộ do cái tâm của con nó thanh thản, an lạc, và vô sự.
Bây giờ nó thanh thản, an lạc, vô sự, nhưng mà con thỉnh thoảng con nhắc cái tâm con, “tâm phải thanh thản an lạc vô sự”. Rồi con tiếp tục một cái thời gian, hoặc một phút con lại nhắc một lần nữa "tâm thanh thản, an lạc, vô sự". Như vậy rõ ràng là cái ý thức của con vẫn luôn luôn biết thanh thản, an lac, vô sự. Vì con còn có tác ý.
Bây giờ nó bị buồn ngủ, trong cái khoảng thời gian bị buồn ngủ tức là chứng tỏ rằng tâm tham sân của mình chưa ly, vì si còn, si là trạng thái buồn ngủ. Mà si còn thì tham sân nó vẫn còn, chưa hết, nó chưa ly ra. Cho nên vì vậy mình phải phá cho, thật sự mình phải phá cho thật hết si.
Mà muốn phá cho thật hết si, thì nó có những cái phương pháp mình có thể phá nó được. Ví dụ như trong một giờ đồng hồ con ngồi, con bị lặng đi, rơi vào trong cái thùy miên hay hôn trầm, hoặc là ngoan không. Khi mà bị rơi vào như vậy thì con mất cái trạng thái của tâm thanh tịnh của con, mất ý thức của con.
Cho nên con phải cẩn thận, là khi đầu giờ, 30 phút đầu, con ngồi con thấy tỉnh, nhưng mà 30 phút sau con đứng dậy con cũng vẫn giữ cái tâm ở trong cái hơi thở, mà con tiếp tục con tu. Và đồng thời con đi kinh hành, thì con đi động thân như vậy thì nó không có rơi trong hôn trầm, mà con vân thấy tâm con tiến bộ suốt một giờ không bị một chút xíu nào hôn trầm.
(10:11) Nếu mà nó bị hôn trầm thùy miên nặng hơn, nó làm cho con đi lảo đảo, không có thể chủ động được, tức là bị nặng. Vì vậy mà con phải dùng cái phương pháp 5 hơi thở, đi kinh hành 20 bước, ngồi xuống thở 5 hơi thở, rồi đứng dậy đi kinh hành 20 bước. Và mỗi oai nghi của con đều phải có nhớ truyền lệnh.
Truyền lệnh, thí dụ như bây giờ con ngồi xuống con ra lệnh "Ngồi", thì con, cái thân con ngồi xuống, Con biểu "chéo chân lên xếp bằng" thì nó, thân con sẽ chéo hai chân lên xếp bằng. Khi xếp bằng xong, con bảo "Thở", thì bắt đầu con thở. Con bảo "Đếm" thì con đếm 1, 2, 3, 4, 5. Con bảo "Đứng dậy", thì cái thân con đứng dậy. Con bảo "Đi", thì nó bước đi. Thì con nhắc lần nữa "Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành".
Thì lúc bây giờ, con nương vào hơi thở, tiếp tục con biết hơi thở ra, hơi thở vô. Rồi tác ý "Tâm thanh thản, an lạc và vô sự". Và cứ nhắc nó như vậy, cho đến khi mà con thấy nó không có buồn ngủ nữa, hoàn toàn tỉnh táo. Cứ 5 hơi thở đứng lên, 5 hơi thở đứng lên kinh hành, nhắc tới nhắc lui. Thì một lúc nó sẽ hết buồn ngủ, nó không còn buồn ngủ nữa.
Và nó cũng không còn rơi trong ngoan không nữa, nó không rớt trong không. Bởi vì nó rớt trong không thì coi như là con không còn tỉnh thức nữa, mất tiêu đi. Cho nên nó sẽ sai đạo, nó không đúng cách. Vì vậy mà con cần phải tập trở lại. Trong khoảng thời gian con tu 1 giờ, con đừng để cái hôn trầm xen vô trong đó, dù là một sát na, một giây mà có rớt trong hôn trầm, thì niệm si con vẫn còn.
Con phải hoàn toàn tu 1 giờ, là hoàn toàn con biết cái lúc nào nó sẽ sắp ngủ, nó sắp thùy miên, nó hôn trầm, thì lúc bấy giờ con chuẩn bị 5 hơi thở đi kinh hành 1 vòng, 5 hơi thở đi kinh hành 1 vòng, thì con tu hết giờ, hoàn toàn con không bị hôn trầm và nó không lọt hôn trầm lúc nào hết. Hãy ráng siêng năng tu tập, lúc này là lúc phá hôn trầm, thùy miên rất khó, chứ không phải dễ.
(12:14) Nó khi mà muốn buồn ngủ, mà cái thời gian của mình nó chưa hết, tức là, thí dụ như mình muốn tu 1 giờ, mà mới có 40 phút mà nó buồn ngủ rồi, nhưng nó hơi buồn ngủ thôi, chứ còn con để mà nó gục xuống vầy là trật rồi, nó sai rồi. Nó biết rằng mình sắp buồn ngủ trong giờ này rồi, thì lúc bấy giờ con thay đổi oai nghi liền.
5 hơi thở, ngồi xuống, đứng dậy đi 20 bước, ngồi xuống 5 hơi thở. Cứ, con cứ như vậy, cho đến khi hoàn toàn con thấy rằng nó tỉnh, thật tỉnh, nó không còn buồn ngủ nữa. Tức là tâm thanh thản, an lạc vô sự một cách thoải mái và dễ chịu, nó an ổn, thì lúc bây giờ nó rất tỉnh.
Còn nó lặng lặng mất, nó làm cho con có cái vẻ mà mệt nhọc, lười biếng đó, thì lúc bây giờ coi chừng nó sẽ bị hôn trầm thùy miên nó đánh vào. Đó thì cách thức phá thì phải phá như vậy. Chỉ có 5 hơi thở, đi kinh hành 1 vòng thì con sẽ phá sạch.
Còn cái tê, bất kỳ con ngồi bán già hay kiết già, mà cái thân con vừa tê hoặc là nó có cái cảm giác đau, thì đứng dậy ngay liền, xả liền, không được ngồi lâu. Bởi vì theo đạo Phật, thì chúng ta tu, để trong những giờ phút tu, dù là 1 phút, 1 giây đi nữa cũng phải thấy sự giải thoát, không có để chướng ngại ở trên thân của mình, dù là thân thọ, không có để chướng ngại.
Cho nên, thí dụ như một con muỗi mà vừa cắn chúng ta nghe cảm giác ngứa, thì chúng ta đuổi con muỗi, và đồng thời chúng ta phải xả nó đi, bằng cách chúng ta gãi nơi ngứa đó, chứ không phải nói "Bây giờ tôi ngồi thiền, tôi nhiếp tâm, tôi không có động chạm đến", điều đó thì đó là sai. Mục đích của đạo Phật là giải thoát, không làm cho chúng ta khổ, không làm chúng ta chịu đựng, có cái chịu đựng ức chế trong đó.
Cho nên đối với đạo Phật là tìm cách xả ngay cái ác pháp đó liền, không để. Đó thì hôm nay con nhớ, và trong những ngày mà ở đây thì tập, rồi sẽ trình bày. Ngày mai 7 giờ Thầy gặp lại, con sẽ tu tập lại, để mà cách thức phá. Thí dụ như từ 7 giờ tối cho đến 10 giờ, mà khoảng từ 9 giờ cho đến 10 giờ, là khoảng buồn ngủ, thì con cố gắng con tu tập nhiều oai nghi ở trong cái khoảng thời gian đó, thì con sẽ phá sạch.
Làm sao phá cho sạch được cái niệm si, tức là cái trạng thái buồn ngủ, thì con sẽ ly được tham, sân. Tham sân con sẽ ly được. Cho nên nhớ kỹ trong vấn đề mà tu tập này. Con còn hỏi Thầy gì thêm nữa không?
(14:46) Phật tử: Dạ kính bạch Thầy! Thường là ở nhà con thì, 8 giờ hoặc 9 giờ con ngủ, con ngủ tới 1 giờ khuya con thức dậy. Rồi ở chùa đó Thầy, rồi con ngủ sớm như vậy có bị phạm lỗi không thưa Thầy?
Dạ, rồi cái hôm trước con ngồi thiền đó, thì con thấy hình như là cái tâm trí nó yên dữ lắm. Nhưng mà thay vì ngồi 1 tiếng, mà con thấy cái sức nó yên ổn rồi đó, có thể ngồi tới 3 tiếng hoặc là 4 tiếng cũng khỏe ru. Mà con thấy ở trong cái tinh thần con cũng như cái máy vậy Thầy. Nó chạy cũng như cái sợi dây trơn vậy, nó chạy nó cuốn hoài hoài hoài hoài vậy nè.
Thành ra con suy nghĩ nếu mà cái trạng thái như vầy đó, mình bây giờ mình ngồi được 1 tiếng mà nó như vậy hoài đó, có thể tới 3 tiếng thì cũng dễ dàng thôi mà. Con không biết cái trạng thái đó nó có sai gì không thưa Thầy?
Trưởng lão: Con thấy, thay vì cái hơi thở của mình, thở ra, thở vô mình chỉ biết, nhưng bây giờ con thấy như nó chạy một cái vòng, nó cảm giác như nó chạy, tự động nó như vậy, thì con thấy nó làm cho mình cũng an ổn lắm.
Và đồng thời mình thấy nó, nó không có cái gì đối với cái thân của mình nó làm cho chướng ngại, có thể con từ 1 giờ con có thể ngồi 2, 3 giờ nó vẫn dễ dàng không khó khăn, nhưng mà đều rơi vào trạng thái tưởng con.
Phật tử: […]
Trưởng lão: Nó quần quần cái này, đúng rồi. Nếu mà nó quần ở trên đầu con như vậy, thì nó là cái trạng thái tưởng. Nó thường thường là lúc bấy giờ, như vậy là con chỉ xả nó đi, đừng có chấp nhận nó, xả. Bởi vì cái tâm của mình thanh thản thì cái thân phải thanh thản, nó không có một cái gợn, một cái gì lăn tăn ở trên đó hết, thì nó mới đúng.
Còn nó có cái gì, thí dụ như trên đầu con nó, con có cảm giác như nó quần quần vậy, tức là cái phần mà hoạt động của tưởng thức của con đó, tức là những cái tế bào não của con ở trên đầu bắt đầu nó hoạt động.
(16:55) Nó hoạt động, bây giờ con thấy nó an ổn vậy, con có thể ngồi lâu được, con có thể tăng lên cái thời gian rất dài được, rồi nó sẽ thời gian mà nó dài ra nhiều đó, thì nó sẽ phát ra ánh sáng, nó hào quang, thinh tưởng, sắc tưởng, nó sẽ phát ra. Chừng đó con sẽ thấy, nó rất nguy hiểm đó, nó không có tốt đâu. Và đồng thời cái thần kinh của con nó bị rối loạn. Cho nên cái trạng thái nó, hiện tượng của nó là nó sẽ bị rối loạn thần kinh sau này.
Cho nên thí dụ như con thấy những cái người mà họ tu, mà do ức chế mà họ không biết, cái vọng tưởng nó hết rồi. Thì bắt đầu, mới đầu thì ức chế, thì chúng ta còn ý thức chúng ta ức chế nó, nhưng mà sau khi mà cái tưởng nó hoạt động rồi, thì chúng ta không còn ức chế cho nên chúng ta thấy khỏe re à. Nhưng mà cuối cùng nó có cái sự hoạt động riêng của nó, nó tự động rồi, mình không chủ động, vì vậy đó là mình bị lạc.
Cho nên cái mục đích của đạo Phật là nhắm vào cái ý thức để mà chúng ta ly dục ly ác pháp, xa lìa những cái tâm tham, sân, si của chúng ta. Nhưng mà cái trạng thái, cho nên vì vậy mà có những cái trạng thái, vì khi tu mà có trạng thái gì mà xảy ra trên thân của chúng ta, nhất là trên cái đầu của chúng ta, nó có nhiều cái cảm giác, cảm giác thế này, cảm giác thế khác nó hiện ra.
Như vậy tất cả những cảm giác mà nó hiện ra, đều là chúng ta không chấp nhận. Mà không chấp nhận, thì muốn xả nó thì chỉ có cách là, bây giờ chúng ta đang ngồi, mà nó như vậy thì chúng ta đi kinh hành, chúng ta xả ra. Chúng ta không có tiếp tục ở trong cái pháp đó nữa, mà chúng ta thay đổi cái pháp tu.
Thay vì bây giờ mình nương vào hơi thở mình tu, thì bắt đầu nó bị như vậy, thì mình nương vào cái hành động mình đi mình tu. Mình đi mình biết mình đi, mình tu. Và đồng thời nếu mà mình mà khéo léo hơn, thiện xảo hơn nữa, thì mình có thể mình tác ý. Mình dùng cái ý thức của mình tác ý ra: “Những cái trạng thái tưởng này, những cái hoạt động này sai, hãy đi đi, không có được ở đây”, đuổi nó đi.
(18:44) Con sử dụng cái tác ý con đuổi nó đi, thì con sẽ lấy lại cái tâm, thân tâm nó bình thường. Nghĩa là hiện bây giờ thân tâm của con nó như bình thường như thế nào, thì khi tu, con kéo dài cái trạng thái tâm không phóng dật thì nó vẫn như thế nấy, chứ không có thay đổi cái gì hết. Bởi vì nó thuộc ý thức, chứ nó không thể nào mà tưởng thức được.
Cho nên vì vậy mà trên đầu con nó cũng bình thường, nó cũng không có cái gì hết, nhưng nó, khi mà tâm con nó không phóng dật, tức là nó không có cái niệm khởi ra, thì con sẽ thấy cái thân và cái tâm con nó an lạc. Cho nên đức Phật nói do ly dục sanh hỷ lạc, cái hỷ lạc này do ly dục mà sanh.
Còn bây giờ đó, mình chưa có ly hết dục, cái si mình còn, cái buồn ngủ mình còn, mà giờ nó lại xảy ra những cái trường hợp mà nó ở trên đầu của mình bằng trạng thái này, bằng trạng thái kia, thì tức là mình đã đã đi sai vào trong con đường thiền tưởng rồi.
Mình sẽ đứng, mình sẽ vào đó, thì coi như mình không có cái lối giải thoát được, mà mình kẹt ở trong những cái định tưởng đó, thì nó sẽ dẫn dắt mình đi vào trong cái thế giới tưởng, nó sai.
Cho nên vì vậy mà Thầy nghe tin con tu, Thầy rất lo, là sợ nó để lâu đó, thì nó thành cái thói quen đi, nó không tốt. Nhưng mà Thầy chuẩn bị cho mấy con hết rồi, cho nên mấy con cũng không đến đỗi, nhưng mà cũng lo. Lo là sợ nó có cái trục trặc gì đó, thì nó sai, rồi nó ảnh hưởng, rồi mình xả ra, nó thời gian, nó mất hết thời gian trên sự tu tập của mình.
Cho nên hôm nay thì con lưu ý, lưu ý cái phần bất kỳ, cái đầu của mình nó bình thường, mình ngồi thanh thản mà nó bình thường, thì nó tốt. Thân thì nghe nó an ổn, nó không có đau, không nhức, không gì hết thì tốt. Mà nó rất là bình thường, còn nghe trên đầu của mình nó có cái cảm giác gì lạ lùng, thì ngay đó là phải dùng pháp hướng đẩy lui liền.
(20:38) Con nhớ phải dùng pháp hướng: “mày là tưởng, không có được ở đây, phải đi". Và đồng thời con thay đổi oai nghi thì nó sẽ phá vỡ, nó không còn nữa. Tức là khi ngồi thì con đi, mà khi đi con bị thì con ngồi. Thì có như vậy thì con sẽ phá sạch. Và phá sạch để cái mục đích của mình, là mình rèn luyện cái pháp Như Lý Tác Ý.
Mình hằng ngày nhớ nhắc cái tâm “phải ly tham, sân, si”, hay hoặc là "tâm ly dục, ly ác pháp đi", "nhập Sơ Thiền đi, chứ không có nhập bậy bạ được". Thì con cứ hướng tâm nhắc như vậy, rồi con tu tập tâm thanh thản. Càng thanh thản bao nhiêu, thì nó sẽ ly cái tâm bấy nhiêu, nhưng mà trong thanh thản đó, không phải do sự ức chế.
Thí dụ bây giờ con ngồi đây mà con tập trung, con biết hơi thở ra vô, ra vô, ra vô, cố gắng, thì nó không một cái niệm nào khởi, rất sợ cái điều này. Rất sợ cái điều này, tại sao? Tại vì khi mà cái tâm nó bám vô được cái hơi thở mà nó biết ra vô, thì chỉ trong cái thời gian chừng 5, 10 phút sau, thì cái tưởng thức nó sẽ xen vô nó làm việc và cái ý thức nó bị dừng.
Cho nên khi mà thấy cái tâm mình nó không phóng dật, thì thỉnh thoảng phải tác ý ra. Tác ý ra, đặng giữ cái ý thức của mình. Cho nên trong 16 cái đề mục mà tu tập Định Niệm Hơi Thở mà Phật dạy đó, cứ thỉnh thoảng lại tác ý. "Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra". Rồi "Quán vô ngã tôi biết tôi hít vô, quán vô ngã tôi biết tôi thở ra".
Tại sao 16 cái đề mục tác ý như vậy mà cứ phải tác ý hoài như vậy. Nghĩa là tác ý như vậy để giữ ý thức của chúng ta đừng để mất ý thức. Cho nên đức Phật mới dạy như vậy, chứ khi không mà đức Phật dạy để làm gì? Thay vì thôi mình biết hơi thở ra vô thì để cho nó tự biết ra vô, không phải là đi vào Định sao, còn lại bắt buộc chúng ta phải tác ý?
(22:26) Thật sự ra đọc trong kinh sách, thì chúng ta mới thấy có đạo Phật đặc biệt nhất ở chỗ này, còn tất cả những cái phương pháp khác mà tu như Sổ Tức Quan hay hoặc là Sổ - Tùy - Chỉ - Quán - Hoàn - Tịnh của Lục Diệu Pháp Môn đều nương vào hơi thở, mà chỉ biết hơi thở rồi chỉ biết ra biết vô, rớt vào tưởng không biết. Chỉ có đức Phật mới hiểu được cái chỗ này mà thôi.
Cho nên trong khi tu về hơi thở thì đức Phật buộc mình phải tác ý ra, phải tác ý ra. Thì các con cứ nhớ thỉnh thoảng tác ý để giữ cái ý thức của mình, không khéo nó mất ý thức. Mà nó mất ý thức thì tức là nó rơi vào tưởng thức. Cho nên nó khó chỗ đó, cho nên con thấy bây giờ đi kinh hành, thì con cũng phải tác ý ra. "Tâm như cục đất, tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành".
Cho nên trong những bài pháp mà Thầy dạy mấy con, là dựa vào cái ý của đức Phật dạy để mà chúng ta giữ gìn cái tâm của chúng ta trên mọi hành động nhưng luôn luôn bằng ý thức, chứ không được để nó lọt vào tưởng thức.
Cho nên có những cái gì các con thấy, ngồi mà nó an ổn, nó thích thú, nó không có một niệm gì xen vô. Bắt đầu đó, các con tưởng chắc có lẽ là Định, không phải đâu, nó rơi vào xúc tưởng hỷ lạc rồi. Nó là cái tưởng hỷ lạc của nó, nó thấy an ổn nó không vọng tưởng, coi chừng.
Còn bắt đầu nó có vọng tưởng ra vô ra vô, nó chưa có sao hết đâu. Mà mỗi cái vọng tưởng mà nó ra vô, để cho chúng ta triển khai tư duy, tức là Chánh Tư Duy suy nghĩ cái niệm đó, mà chúng ta triển khai cái trí tuệ suy nghĩ của chúng ta nó trở thành cái tri kiến giải thoát.
Cho nên chúng ta hiểu được cái niệm của chúng ta, nó Dục lâu, Hữu lậu, Vô Minh lậu hay là Thập Thất Kiết Sử, hay là Ngũ Triền Cái? Những cái niệm đó, nó mang cái tính chất của nó trong những cái pháp này.
Khi mà chúng ta hiểu được nó ở trong cái tánh chất của pháp nào, thì ngay đó chúng ta xả nó liền, nhưng chúng ta biết nó ác thi chúng ta phải xả nó liền, chúng ta biết nó thiện, thì chúng ta tăng trưởng nó lên. Cho nên con đường tu của đạo Phật vạch cho chúng ta tu rõ ràng, nhưng mà vì chúng ta tu sai một chút là chúng ta lọt vô tưởng, là vì chúng ta quên tác ý.
(24:38) Cho nên đức Phật nói “Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý”, phải không, mình khéo mình tác ý ra. Bây giờ mình hít thở nè: "Tôi thở ra, tôi biết tôi thở ra, tôi hít vô tôi biết tôi hít vô". Thì bây giờ tôi đang thở ra hít vô, nhưng tôi không tác ý thì tôi trật. Mà tôi vẫn phải tác ý, vì "Tôi hít ra, tôi biết tôi hít ra, tôi thở vô, tôi biết tôi thở vô".
Thì lúc bấy giờ đó, mình thở ra vô, thì thay vì mình để tự nó biết thì nó cũng vẫn biết, nhưng mà nếu mà để tự nó biết thì một lúc nó bị mất ý thức. Cái ý thức nó không còn biết nữa, mà cái tưởng thức nó biết. Còn bây giờ mình khéo tác ý ra, thì cái ý thức nó không mất. Cho nên đức Phật nói: ”Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý”, chứ không có được mà ngồi im im, ngồi im lìm để cho nó tự biết đâu, không được! Mà phải khéo tác ý ra, khéo tác ý.
Bây giờ tôi đang tu trong hơi thở, thì tôi nhắc "Tôi hít vô, tôi biết tôi hít vô; tôi thở ra tôi biết tôi thở ra", rồi tôi hít vô, tôi thở ra, tôi để cho nó tự biết một thời gian chừng 1 phút đi, rồi bắt đầu tôi nhắc một câu nữa: "Tôi hít vô tôi biết tôi hít vô, tôi thở ra tôi biết tôi thở ra".
Rồi kéo dài một thời gian tự động nó biết thở ra vô. Mà thời gian tự động nó biết thở ra vô trong 1 phút nó chưa bị rơi đâu, nó chưa bị rớt đâu. Thì tôi lại tác ý ra một lần nữa, tôi giữ cái ý thức của tôi ra một lần nữa.
Cho nên đức Phật nói cái Định đó là cái Định diệt Tầm mà giữ Tứ. Các con hiểu, diệt Tầm là cái sự tư duy, suy nghĩ trong đầu của mình, mình không có tư duy, suy nghĩ, mà cái Tứ là tác ý ra, cứ tác ý ra. Cho nên cái Định đó gọi là Định diệt Tầm mà giữ Tứ. Vì vậy mà sau khi mà chúng ta diệt tất cả những cái Tầm, mà cái Tứ của chúng ta thì luôn luôn lúc nào chúng ta cũng tác ý ra luôn luôn.
Như vậy rõ ràng là, chứ cái tâm của chúng ta để tập cho nó không phóng dật, vì nó luôn luôn nó biết hơi thở bằng ý thức của nó, chứ không phải bằng tưởng thức. Phải không, các con thấy hiểu chỗ đó chưa?
Cho nên vì vậy mà vô đầu tiên đức Phật dạy Định Niệm Hơi Thở, thì "Tôi hít vô, tôi biết tôi hít vô, tôi thở ra, tôi biết tôi thở ra". "Hít vô dài, tôi biết tôi hít vô dài, thở ra dài, tôi biết tôi thở ra dài". “Hít vô ngắn, tôi biết tôi hít vô ngắn, thở ra ngắn, tôi biết tôi thở ra ngắn", thì hai cái tác ý.
(26:54) Kế đó thì chúng ta thấy đức Phật dạy chúng ta phải tu theo cái hơi thở tự nhiên, đừng có thở dài, đừng có điều khiển. Hơi thở chúng ta bình thường, vừa mà chúng ta lại tập cho nó dài ra thì không được. Mà cũng đừng có, hơi thở chúng ta bình thường mà tập cho nó thở ngắn, nhanh hơn chút thì cũng không được.
Còn cái câu đầu là để, cái câu mà "Hít vô, tôi biết tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra", đó là tác ý để giữ cái ý tú của chúng ta. Còn hai câu sau, thì Phật muốn nhắc chúng ta là hơi thở bình thường, thì chúng ta thở. Cái đặc tướng thở của chúng ta nhanh thì chúng ta thở nhanh, dài chúng ta thở dài, ngắn chúng ta thở ngắn, đừng có sửa cái hơi thở trong này.
Cái ý của cái câu đó là như vậy. Cho nên vì vậy đức Phật sợ một bước sau đó, một lúc sau khi mà cái tâm chúng ta bị lọt vào trong tưởng, thì cái hơi thở chúng ta bị chậm, chậm lại, nó ngắn, nó dài ra, nó không còn ngắn nữa. Cho nên vì vậy đức Phật sợ chúng ta rớt vào ở trong cái hơi thở tưởng.
Cho nên thay vì hơi thở Thầy bình thường là 3 giây một hơi thở, bây giờ Thầy nghe nó an ổn, nó không có vọng tưởng, thì bắt đầu nó thở chậm trở lại. Nó thở chậm nó có thể 5 giây hoặc là 10 giây một hơi thở, thì đó là sai rồi, không được. Cho nên vì vậy mà nhắc để cho mình giữ lại hơi thở của mình là 3 giây, nó là cái 3 giây bình thường, chứ không được thở 5 giây hay 10 giây.
Mà hễ cảm thấy nó như nó chậm thì chúng ta nhắc, hơi thở ngắn thì chúng ta thở ngắn, mà hơi thở dài chúng ta thở dài. Cho nên cái ý của đức Phật muốn ở chỗ này để mà chúng ta giữ cái hơi thở 3 giây của chúng ta bình thường mà thôi, không được thở dài hơn, mà không được thở ngắn hơn. Đó là cách thức để giữ cái hơi thở bình thường.
(28:31) Đó thì nội trong cái bài Định Niệm Hơi Thở, mà để đức Phật dạy chúng ta tu tập, thì đức Phật rất cặn kẽ. Khi cái thân chúng ta ngồi mà bất an, thì chúng ta phải quan sát cái thân của mình, rồi mình phải nhắc cái thân, dùng cái pháp hướng để nhắc cho cái thân nó an: "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra". Nhắc đến khi nào mà cái thân nó an ổn thì chúng ta không nhắc nữa.
Phải không, bây giờ cái tâm của mình nó cứ nó sanh vọng tưởng, nó ra vô, lúc thì nó nhớ cái này, lúc nhớ cái kia, cho nên mình cũng nhắc: "An tịnh tâm hành, tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành, tôi biết tôi thở ra". Thì trong cái bài Định Niệm của hơi thở, nương vào hơi thở để cho thân và tâm này nó được an tịnh. Đó là cách thức tu.
Bây giờ cái thân chúng ta không an tịnh, thì chúng ta nhắc an tịnh thân, còn cái tâm chúng ta không an tịnh thì chúng ta nhắc cái tâm bảo nó phải an tịnh. Cho nên muốn được, chúng ta muốn được cái gì thì chúng ta phải tác ý cái nấy, để cho cái thân và tâm chúng ta nó làm theo cho được, và như vậy là chúng ta đang tu Tứ Như Ý Túc, Dục Như Ý Túc.
Muốn cái tâm thân của mình được an ổn, muốn cái tâm của mình không có loạn tưởng, thì mình phải hướng tâm, mình phải tác ý. Mà nó có lợi hai mặt, một mặt thứ nhất là rèn luyện trở thành một cái nội lực của tâm, mặt thứ hai nó lợi ích, là nó giữ được cái ý thức của chúng ta suốt cái thời gian tu tập nó không mất ý thức. Mà không mất ý thức thì chúng ta không bị điên loạn, không có bị rối loạn thần kinh.
(30:18) Bởi vì một cái người mà tu tập mà ở trong cái ý thức hoàn toàn hoạt động, thì cái người đó không bị rối loạn thần kinh, không bị điên. Còn cái người mà bị mất ý thức, thì cái người đó bị điên, họ hoạt động theo cái kiểu tưởng thức. Cho nên cái người điên, họ đâu có biết họ điên. Họ đang hoạt động trong cái tưởng thức của họ.
Nhưng chúng ta thấy họ nói một câu nói mà lặp đi lặp lại mãi, hoặc là những cái hành động, hoặc là cái ngôn ngữ người đó nói nó không có đúng, nó không có đúng cái ý thức làm việc. Cho nên mình mới biết họ là điên, họ nói, mình nghe mới đầu thì nghe nó đúng, nhưng mà lát nữa họ lặp trở lại lần nữa, lại lặp lại lần nữa thì mình biết người này đang sai rồi, đang lạc rồi, nó không còn ý thức chủ động nữa, mà cái tưởng thức nó hoạt động, cho nên biết nó sai.
Đó, thì như vậy là các con nên nhớ rằng cái sự tu tập cẩn thận nhất là phải thường xuyên, phải giữ cái ý thức của mình. Và từ đây về sau thì con cố gắng, luôn luôn con phải giữ gìn, khi mà nó an ổn thì con thay đổi nhiều oai nghi, với một cái tâm duy nhất mà có nhiều oai nghi, thì nó sẽ không bị lạc vào ở trong cái trạng thái của tưởng. Nhất là cái đầu con mà nó quần quần, thì cái điều đó là phải xả gấp, không được để.
Ở trước, ở đằng trước có một vị thầy cũng tu, cái đầu nó quần, nó bắt đầu đầu tiên thì nó quần, sau này nó làm như là nó đảo lộn tất cả những cái thần kinh ở đầu, nó rung chuyển cả toàn cái đầu. Và đồng thời thì thầy đó trình bày cho Thầy, thì từ hôm đó tới nay thì thầy xả rất nhiều và thầy cũng được an ổn.
Coi như là bị tu sai rồi, thì về đây Thầy chỉ cách thức xả, xả những cái sai đó, để cuối cùng trở lại với sự bình thường, thanh thản. Nhưng mà còn, thầy còn có những cái sai. Nhưng mà cái sai đó là cái, bởi vì rơi vào tưởng thì nó bị pháp tưởng. Cho nên thầy cứ nghĩ rằng mình sẽ nhập Tứ Thiền, mình sẽ chứng đạo bằng cách này, bằng cách khác. Thầy sẽ thấy thầy ly dục, ly ác pháp bằng cách này, bằng cách khác.
Thật sự đó là cái tưởng hết, nó không phải đâu. Khi nó ly dục rồi, thì cái người đó ít buồn ngủ, thầy nói thầy cũng không có buồn ngủ, chắc thầy ly hết rồi. Nhưng mà không phải, thầy bị mất ngủ. Cho nên con người thầy nó hơi ốm gầy và đồng thời nó, cái sức khỏe nó không có được trọn vẹn.
(32:42) Còn mà cái người mà người ta ly dục ly ác pháp người ta không ngủ, cái sức khỏe người ta nó trọn vẹn, nó không có, cái thân nó không có bị ốm yếu gầy quá gầy. Đó là một cái trường hợp. Cho nên con ở đây con nhỡ kỹ, khi mà nó có những cái trạng thái đó, thì con xả liền, đừng có để.
Xả bằng cách nào? Tác ý đuổi nó đi, thứ nhất. Cách thứ hai là con xả cái hành động mà con đang tu đó đi, con trở lại con tu con nhắc cái đi kinh hành hoặc là tu những cái hành động khác. Hay hoặc là ngồi quán xét một cái đề tài nào đó, thì nó sẽ phá đi, nó không còn nữa.
Phật tử Mỹ Châu: Từ hôm mà con nghe lời Thầy dạy, là cái con không có ngồi nhiều, mà con tu tập trong cái công việc làm, con tỉnh thức để xả tâm. Là nhiều tối con chỉ ngồi 1 tiếng đồng hồ, từ khoảng, từ 3 giờ cho tới 4 giờ sáng thôi. Dạ thưa Thầy.
Trưởng lão: Trong cái sự tu tập con biết chuẩn bị như vậy rất tốt. Con tiếp tục tu và tiếp tục trong cuộc sống hằng ngày, khi mình tu đó mình áp dụng vào cái đời sống của mình trong hằng ngày, mình sẽ xả tâm trong những cái ác pháp, các đối tượng nó xảy ra. Mình chung đụng với mọi người, nó có những cái điều kiện mình xả ra, mình thấy cái điều đó nó không quan trọng nữa, thì con xả.
Mà cuối cùng thì con sẽ thấy để tự động cho cái tâm của mình nó tự động, nó quay vô nó định trong hơi thở của nó. Tức là tâm định trên thân đó. Để cho nó tự động nó quay thôi.
Mình tu tập là một lẽ, nhưng mà một cái lẽ của mình đó, là mình tu tập làm sao mình ly dục ly ác pháp, mình ngăn chặn hay hoặc diệt cái tham, sân, si của mình thôi. Còn cái Định, thì để cho tự cái tâm của mình nó định, chứ còn đừng có bắt nó ở trong hơi thở nhiều, kéo dài nhiều, mà để cho nó tự thôi.
(34:48) Còn mình tu tập thì chỉ khoảng thời gian 1 giờ trở lại, chứ không được tu hơn 1 giờ trong hơi thở. Tại sao vây? Tại vì tu nhiều hơn 1 giờ trong hơi thở, mình đương nhiên mình tưởng là mình tiến bộ, mình có tiến bộ trên sự tu, chứ không phải đâu. Con quan sát chỗ cái tâm của con nó tiến bộ hay không đó, và cuộc sống của con, và cái sức mà hiểu biết của con nó nhanh chóng thì con tiến bộ.
Thí dụ như có chuyện gì xảy ra, bắt đầu bây giờ đầu óc con khởi nghĩ ra một cái gì đó, nó giải quyết một cách rất là ổn, nó đem lại sự an lạc cho con, thì cái đó là cái tiến bộ của con, bằng cái trí tuệ của con, thì cái đó cái đúng. Còn cái mà con ngồi nhiều, con thấy không vọng tưởng mà con kéo dài 1 - 2 giờ, không phải tiến đâu, mà cái đó sẽ rớt vào ở trong những cái trạng thái của tưởng, nó sai.
Hễ ngồi nhiều yên lặng nhiều, tưởng là mình tiến bộ nhưng mà không tiến bộ. Mà trái lại khi nào có chuyện gì hoặc là có một cái niệm ở trong đầu con khởi ra, mà con có cái hiểu biết rất nhanh chóng, thì cái đó con tiến bộ. Đạo Phật nó tiến bộ bằng cái trí tri kiến giải thoát, bằng cái trí tuệ. Mà trí tuệ ở đâu thì nó đem lại cái sự hạnh phúc của con ở đó, nó làm cho con được an ổn.
Thì cái trí tuệ đó thì nó là đạo đức, nó không làm khổ mình, nó không làm khổ người. Cho nên trí tuệ ở đâu thì đạo đức ở đó. Đó là con đường giải thoát của đạo Phật, chứ không phải con đường không vọng tưởng, con đường mà ngồi im lặng phăng phắc, không có niệm gì, thì đạo Phật nó không phải cái mục đích đó đâu.
Mà cái mục đích là nó phải sống hiểu, hiểu để giải tỏa cái sự đau khổ của bản thân mình, và không làm khổ người. Thì cái đó là đức Phật đã xác định trong cái bài kinh Sô Na Đa, thì chúng ta thấy rất rõ ràng, là trí tuệ ở đâu là đạo đức ở đó, mà đạo đức ở đâu là trí tuệ ở đó.
Vì vậy mà mình có nhanh chóng trí tuệ, có một cái niệm, mình ngồi đây mà khởi một cái niệm, mà mình nhận ra cái niệm đó liền, mình biết liền, thì tức là cái trí tuệ mình đã hiểu biết cái niệm đó nó thuộc về nhân quả gì, do đó mình hiểu biết sắc bén như vậy, đó là mình tiến bộ rất nhiều.
(36:38) Bởi vì cái sự giải thoát của đạo Phật là giải thoát bằng cái sự hiểu biết, bằng cái trí tuệ để đưa mình thoát ra khỏi sự đau khổ. Cho nên con càng sâu sắc hơn nó càng thấy con, mỗi lần con suy tư về cuộc đời con, thì con thấy những cái gì nó lại sáng suốt hơn. Nó làm cho con xả được cái tâm con nhanh chóng, con không còn dính mắc nữa.
Như hôm qua chú Huệ, chú ngồi đây, chú nhỏ mà chú trình bày trên cái sự xả tâm của chú, Thầy thấy đúng là cái tuổi trẻ mà lại quyết xả tâm như vậy, thì chắc chắn là có ngày sẽ thành tựu.
Nghĩa là nỗ lực xả tâm như vậy, tức là từ cuốn kinh cuốn sách, từ cái băng từ cái này kia, chú nghĩ rằng bây giờ mình ngồi đọc sách này kia nọ thì tức là mình không có xả. Cho nên vì vậy mà chú dẹp, chú trả lại Thầy, gởi lại Thầy hết, để rồi cuối cùng, thật sự ra mình hoàn toàn xả.
Còn không khéo, chú nghe nói, nghe lời Thầy giảng, chú cũng đem dẹp hết, nhưng mà tâm chú không xả, dẹp nhưng mà cứ, ở trong tâm cứ ước ao muốn đọc hoặc là muốn nghe, mà không dám nghe, thì bị ức chế, càng khổ hơn nữa. Cho nên trong cái vấn đề mà tu tập, mà Thầy rất lo, là nhiều khi người ta ham quá, mà người ta ức chế người ta trên bước đường tu.
Chứ người ta phải xả thật sự, là mình hiện bây giờ mình không ham thật sự, mình hiểu biết như vậy, để cho mình thực hiện tu được như vậy, là không phải vì mình tham tu để cho mau, mà mình tu để đạt được sự giải thoát, giải thoát từng phút giây, từng giây, từng phút.
Mình ly tất cả những cái vật dụng mà không cần thiết đối với đời sống của mình, thì sự tư duy nó sáng suốt nó nhìn tất cả mọi cái để nó xả ra hết, cái này là cái trí tuệ. Mà cái trí tuệ nó xả nó mới hoàn toàn.
Còn bây giờ, chúng ta cố gắng ham thích để mà làm cho được, nhưng mà lòng chúng ta còn ưa thích, còn ham muốn cái đó, mà bắt buộc bây giờ chúng ta muốn được giải thoát, chúng ta cứ bỏ mà chúng ta không có sự hiểu biết cho nó cụ thể, thì coi chừng nó bị ức chế.
(38:42) Đó, cho nên những điều kiện này ấy, Thầy nhắc nhở cho các con tu tập đó, các con sáng suốt nhận định. Thí dụ như, cái mình đáng xả thì mình xả. Bây giờ mình cần phải còn phải nghe, cần phải nghe những cái băng của Thầy giảng, thì khoan xả đã.
Còn bây giờ nghe nông nổi quá, chúng ta đem xả hết, nhưng mà trong tâm thì nó chưa có hiểu rõ được cái đường lối tu, mà bây giờ bỏ hết để mà cho giải thoát, thì coi chừng chúng ta bị ức chế. Còn bây giờ chúng ta đã đọc, rồi nghiên cứu kĩ lưỡng hết cách thức tu tập như thế nào, xong hết rồi, bây giờ chúng ta không cần thiết nữa rồi, chúng ta chỉ còn có thực hành thôi.
Cho nên nhất định là không đọc, trả hết kinh sách, băng giảng gì chúng ta không cần nghe nữa hết, dẹp hết hoàn toàn, để mà lo tu. Lúc bấy giờ chúng ta đã hiểu biết rất là sâu sắc tới đường lối chúng ta tu, chỉ cần nhờ có một vị người hướng dẫn chúng ta tu mà thôi. Cái người đó có kinh nghiệm, thì người ta chỉ sao mình làm như vậy thôi.
Còn bây giờ tôi không thèm đọc, tôi không thèm khát khao, ước muốn gì nữa hết, nghĩa là tôi đã nghiên cứu kĩ hết rồi. Cái này rõ ràng là tôi nghiên cứu cái này, là tôi phải rõ ràng là đức Phật đã dạy những cái điều này rất rõ. Tôi đặt trọn niềm tin, đây là lời của đức Phật dạy không phải là lời của Thầy nói suông, mà tất cả những cái điều mà Thầy viết ra đều là của lời của Phật dạy.
Khi mà đọc đã hiểu rồi, đặt trọn niềm tin rồi, thì dẹp sạch không đọc nữa để thực hành để sống. Bây giờ Thầy dạy như thế nào làm như thế nấy, thì chắc chắn cái sự tu tập nó sẽ, thời gian nó sẽ ngắn, nó nhanh chóng hơn, nó sẽ thu lại cái thời gian mà đức Phật đã xác định cho chúng ta cái thời gian, cho chúng ta biết là 7 ngày, 7 tháng và 7 năm, nó không dài lắm.
Nhưng mà sau khi mà tu, thì trước khi mà chúng ta, để mà chúng ta tu tập, thì chúng ta phải hiểu biết rõ. Bởi vì nếu mà chúng ta không hiểu biết rõ cái giáo pháp đó cho rõ ràng, thì bán tín, bán nghi, tới chừng mà nó gặp cái trường hợp xảy ra cho thế này, thế khác, thì chúng ta chới với, chúng ta mất niềm tin. Mà mất niềm tin thì nghĩ rằng cái này chắc không phải Phật, mà do Thầy thuyết giảng cái này không đúng.
(40:47) Do vì vậy mà khi mình nghiên cứu, nghiên cứu kỹ. Cho nên Thầy nghe, vợ chồng của Như Đức và Như Hạnh, khi được về ở Việt Nam, tập luyện ở đây hơn năm, mười ngày, thì khi mà trở về nước, thì hai người này đọc nghiên cứu lại kinh sách nguyên thủy rất kĩ, mà đọc lại bằng tiếng Anh.
Cho nên có một lúc, có gởi bức thư về hỏi Thầy, những cái danh từ mà tiếng Anh nó nói như vậy thì cái nghĩa của Hòa thượng Minh Châu dịch như thế này, theo con nghĩ thì nó không có giống nhau. Như vậy là cái nghĩ như thế nào là giống nhau thì xác định cho cái nghĩa đó, để cho tụi nó thấy rằng cái nghĩa đó nó đúng.
Còn Hòa thượng Minh Châu dịch như vậy, là cái nghĩa chung chung, cái danh từ để chỉ cái nghĩa chung chung, nó chưa đúng lắm. Cho nên Thầy nói cái nghĩa này, các con hiểu qua cái danh từ Anh này rất đúng. Các con hiểu nghĩa đó rất đúng, rất đúng để mà thực hành. Cho nên nó nghiên cứu kỹ, sau khi nghiên cứu kĩ thì cái niềm tin của nó nó thấy rằng đây là lời của Phật dạy, không phải của Thầy dạy đâu, các con hiểu điều đó.
Cho nên khi mà nó tin rồi đó, thì nó nỗ lực nó thực hiện. Thầy nghĩ rằng, nếu mà cả hai vợ chồng nó mà thực hiện với cái niềm tin sâu sắc, thì cái thời gian tu nó không lâu. Nó khó là khó cái giai đoạn đầu, là vì mình không biết cái này có đúng của Phật dạy hay không, hay là Thầy chỉ là tưởng ra mà Thầy viết, tưởng ra mà Thầy dạy, hay hoặc là Thầy tưởng ra Thầy nói đây là Phật nói.
Nhưng mà những cái gì mà Thầy dạy, thì có cái bài kinh của Phật đã chứng minh cho những cái điều Thầy dạy. Thí dụ như hồi nãy Thầy dạy, đức Phật dạy mình có 16 cái đề mục tu về Định Niệm Hơi Thở thường phải tác ý. Mà trong cái bài kinh mà đức Phật dạy về Định Niệm Hơi Thở thì đức Phật có dạy, Định Niệm Hơi Thỏ phải khéo tác ý, nếu mà tu về Định Niệm Hơi Thở thì thường xuyên phải khéo tác ý.
(42:36) Vậy thì trong cái câu đó đức Phật nói khéo tác ý là tác ý cái gì? Thì trong cái bài Định Niệm Hơi Thở đức Phật nói: "Quán ly tham, tôi biết tôi hít vô. Quán ly tham, tôi biết tôi thở ra", thì khéo tác ý câu đó, chứ đâu phải là khéo tác ý cái gì? Các con hiểu chỗ đó. Cho nên vì vậy mà chính đức Phật đã dạy và qua cái kinh nghiệm mà tu tập của Thầy, Thầy đã đạt được kết quả Thầy mới hiểu cái chỗ này đúng.
Còn các nhà học giả dạy tới đây, họ chỉ biết thầm thầm, chúng ta biết thở ra, thở vô, chứ còn không có hiểu biết trong cái quán ly tham, quán ly sân, quán vô ngã như thế nào, họ không hiểu. Cho nên họ không có dạy chúng ta nó một cách cụ thể như đức Phật đã dạy. Tại vì người ta không hiểu. Chớ còn người ta hiểu, thì người ta đâu có dạy như vậy.
Vì người ta là học giả người ta đâu có tu, cho nên người ta không hiểu là ông Phật nói sao kỳ. Mình biết hơi thở ra, biết hơi thở vô, để cho nó biết như vậy nó đi vào Định chớ. Còn bây giờ, cứ tác ý ra như vậy, thì nó có cái ý như vậy làm sao nó bất định làm sao. Nhưng mà không ngờ cái Định của Phật là cái chỗ ly tham, sân, si, chứ không phải là cái Định ở chỗ mà không vọng tưởng.
Đó, cho nên người ta không có hiểu, vì vậy mà người ta biến dần cái pháp của Phật nó thành cái tà pháp, nó không có đúng cái ý của Phật. Bây giờ Thầy mới dạy cho nó đúng trở lại thì người ta thấy, không biết Thầy kiến giải hay là như thế nào, hay sao đây? Nhưng mà cái chuyện mà Thầy đã làm được rồi thì tức là Thầy đã có cái kinh nghiệm rồi, Thầy mới nói, ờ Phật dạy như vậy là mình phải làm như vậy.
Thì bây giờ chúng ta thấy rõ ràng cái lời đức Phật nói nó cụ thể quá mà. Đó, khéo tác ý ra, thì Định Niệm Hơi Thở phải khéo tác ý. Nếu mà mình tu Định Niệm Hơi Thở thì mình phải khéo tác ý. Mà mình không khéo tác ý thì nó sẽ bị tưởng rồi.
Cho nên vì vậy mà trải qua một cái thời gian tu tập, thì các con nhớ cái mục đích của chúng ta sẽ đạt được là phải tâm ly dục ly ác pháp, phải ngăn ác diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện. Cho nên có người nói rằng Thầy dạy như vậy là bị chấp vào trong cái thiện, bởi vì cái thiện mà còn ác, thì chúng ta còn thấy chấp thiện.
Nhưng mà cái ác nó hết sạch thì cái thiện chúng ta còn cái chỗ nào cái đối đãi của nó đâu mà gọi là chấp thiện nữa. Khi nó đã sạch hết cái ác thì đâu còn cái đối tượng của ác nữa đối với thiện, thì như vậy thiện nó cũng đâu còn.
(44:46) Cho nên cuối cùng mới đầu thì chúng ta thấy, mình phải tăng trưởng, mình sanh thiện mà tăng trưởng thiện, coi như là bị dính vào thiện chứ gì? Nhưng mà cuối cùng thì không còn ác nữa, bởi vì hồi đó mình còn dính thiện là tại vì còn ác. Mà khi ác nó sạch rồi, thì thiện nó đâu còn cái gì nữa đâu mà thiện, bởi vì không ác thì nó đâu còn thiện nữa, cho nên cả thiện nó cũng mất. Nó là vậy.
Chúng ta hiểu được như vậy thì chúng ta thấy con đường tu của đạo Phật. Mới đầu thì chúng ta nghe ông Phật dạy "Ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện", chúng ta, như vậy là ông Phật dạy chúng ta còn dính thiện. Còn Thiền Đông Độ dạy chúng ta không có dính cái thiện cái ác nào hết, cho nên hoàn toàn nó sạch trong.
Nhưng mà không ngờ nhờ cái thiện mà chúng ta diệt được cái ác, nhờ cái thiện mà chúng ta mới sống được an lành, mới được giải thoát. Nhưng mà cuối cùng cái ác nó sạch hết rồi thì cái thiện nó cũng đâu còn cái đối tượng của nó nữa đâu mà gọi là thiện, cho nên nó toàn thiện thì nó không còn có cái bị dính mắc cái chấp đó nữa.
Đó là những cái phương pháp và cách thức tu và cái sự suy nghĩ, để mà hiểu rõ được cái đường lối. Không khéo thì người ta sử dụng mà cái ngôn ngữ lý luận, thì mình không …
Phật tử Mỹ Châu: Dạ kính bạch Thầy! Thầy dạy như là muốn ly dục, ly ác pháp thì phải một ngày ăn một buổi. Mà ý con thì ở nhà con cũng muốn như vậy lắm, nhưng mà có bữa thì làm được, còn có bữa thì con ăn hai bữa như vậy rồi là sao Thầy? Ở nhà con có thể là ăn hai buổi được không Thầy?
(46:28) Trưởng lão: Trong cái vấn đề mà tu tập ăn ngày một bữa, thì các con thấy rằng về một người tu sĩ, mà đạo Phật đó, đó là cái ăn ngày một bữa đó là cái Thánh hạnh của một vị tu sĩ. Còn các con là cư sĩ các con còn lao động, còn làm những công việc, cho nên các con ăn uống như thế nào mà giản tiện nhất không có cực khổ, để nhằm vào cái sự giải thoát hoàn toàn.
Còn cái Thánh hạnh, thì người ta ăn ngày một bữa, trưa người ta ăn. Vì vậy mà do đó là người ta không có lao động, không có làm gì cả hết, người ta chỉ đi xin ăn, nó khác rồi. Cho nên Thầy mới dạy, đức Phật dạy các con thọ Bát Quan Trai, là một tháng hoặc thọ một ngày hai ngày thì những cái ngày đó thì các con sống đúng cái hạnh như Phật, các con ăn ngày một bữa.
Nhưng mà hoàn toàn ngoài tất cả các ngày khác, thì các con đang lao động đang sống cho cái gia đình của mình, mọi người trong gia đình của mình, thì do đó các con ăn thêm buổi sáng. Buổi chiều các con không ăn, các con uống nước cũng được. Hoặc buổi sáng các con uống sữa uống gì đó đơn giản, hoặc ăn bánh mì gì đơn giản, đừng có làm bữa ăn, mà nào là phải nấu nướng cái này kia cực khổ, đó là không giải thoát.
Còn bây giờ các con thấy cần thiết mình mua một người một ổ bánh mì, rồi chấm với nước tương hay hoặc là ăn với cái gì, ăn sữa hay gì đó. Các con đơn sơ các con ăn, thấy mình cũng xong cái bữa ăn, mà nó đơn giản, nó không có, khỏi cực khổ các con phải rửa bát, rửa chén này kia, rồi nấu nướng nữa.
Đó là mình chọn lấy một ngày, một ngày mình ăn cái bữa ăn chính cho gia đình mình sum họp với nhau trong bữa ăn. Còn cái phần mà buổi sáng và buổi chiều, thì ăn phụ mà thôi. Do đó như vậy thì con đường tu các con cũng vẫn tốt như thường, không phải các con còn tham ăn đâu.
Nghĩa là bây giờ các con xét mình, mình thấy mình không thích ăn đâu, nhưng mà vì các con không thể ăn trong một bữa mà các con còn lao động được. Nghĩa là các con còn lao động mà con ăn một bữa thì các con không thể làm nổi đâu. Cho nên vì vậy mà các con phải ăn thêm, nhưng mà ăn thêm rất là đơn giản.
(48:29) Còn những người tu sĩ mà ăn phi thời thì không đúng, là tại vì là không có lao động. Không có lao động mà lại ăn nhiều, làm cho người khác người ta gánh một gánh nặng của mình, thì cái đó là cái sai. Cái lòng mình không thể nào mà cho phép mình làm cái điều đó được.
Cho nên cái người tu sĩ người ta ăn một bữa, người ta ở không người ta không có lao động, cho nên một bữa người ta đủ sống rồi. Vì vậy mà người ta ăn một bữa rồi, thì người ta nỗ lực người ta ngồi không người ta tu. Hoặc là người ta tu rồi, người ta chỉ đi xin ăn, như đức Phật đã tu rồi, thì đức Phật chỉ đi xin ăn cho mình sống một bữa thôi, để mình đem cái khả năng của mình mình giáo hóa cho người ta, mình dạy người ta cái con đường tu tập, thì cái đó là cái đúng.
Còn đối với mấy con, mấy con đừng có, yên tâm, trong cái vấn đề không phải ăn mà không giải thoát, nhưng mình ăn mà mình phải suy nghĩ mình còn tham ăn hay không? À bữa nay bày ăn cái này cho ngon, mai phải làm cái kia cho ngon, mốt phải mua cái vật nọ làm cho ngon, thì cái này là không đúng.
Mình ăn để sống chứ không phải ăn cầu ngon, nhưng mà ăn để sống. Nhưng mà vì còn lao động, các con không nên mà tìm mọi cách sống như một vị tu sĩ, một vị Thánh Tăng, không được đâu, đừng có làm như vậy, mà các con đã tự ức chế thân tâm của mình, làm khổ lấy mình.
Cho nên đức Phật đâu có chấp nhận khổ hạnh. Ngày xưa đức Phật đi tu, rồi người ta dạy đức Phật ăn ít, tiết thực. Cho nên đức Phật ăn ít, ăn một ngày có vài ba miếng cháo, ít rất ít. Trong cái bữa ăn như vậy, ăn có miếng cháo, ăn quá ít, đức Phật không có đủ sức khỏe, mà đến đỗi mà đứng dậy không có nổi. Do đó đức Phật mới thấy rằng mình khổ hạnh như thế này nó chẳng ích lợi gì.
Cho nên đức Phật ăn lại, ăn một bữa, ăn no đủ một bữa, đủ sống cho cả ngày của mình để mình tu tập. Thì đức Phật thấy sức khỏe của mình bình thường. Thậm chí như đức Phật người ta cũng sữa dê, đức Phật vẫn uống mà.
Người ta nói đức Phật uống sữa dê như vậy là ăn mặn, đâu phải. Sữa là do cây cỏ của một con dê nó ăn, nó thành sữa, chứ đâu phải là sữa mà bắt con vật mà cắt cô nó rồi nặn ra lấy sữa, thì như vậy là đức Phật không ăn uống đâu.
(50:28) Còn cái này rõ ràng là con vật có chết chỗ nào đâu? Người ta chỉ vắt sữa người ta lấy ra, mà sữa là do cỏ con dê nó ăn, con bò nó ăn, người ta vắt ra, thì như vậy đâu phải là chất đó là chất mặn. Phải không, nó từ cỏ nó thành ra sữa chứ đâu phải là từ cái.
Phải chi mà con bò với con dê mà nó ăn từ thịt của chúng sanh mà nó thành sữa, thì do đó chúng ta gián tiếp, chúng ta uống sữa nó là có sự sát sanh. Trái lại con bò với con dê nó ăn cỏ mà nó có sữa chứ. Cho nên trong sữa đâu phải là có chất đau khổ trong đó đâu, các con thấy.
Đó cho nên vì vậy người ta lý luận những cái điều sai, mà chúng ta nghe thì nó hữu lý, bởi vì, trong cái thân động vật thì người ta cho đó là chất mặn, không đúng đâu.
Mục đích của đạo Phật tu ăn chay, không có nghĩa là như con bo ăn cỏ. Mà có cái ý thức, ý thức ăn chay của nó là phải hoàn toàn có cái lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống. Mà cho nên vì vậy mà ăn mỗi ngày một bữa, chúng ta cũng phải có cái lòng thương yêu đối với bản thân của chúng ta.
Chúng ta còn lao động, còn làm công việc, thì chúng ta không được quyền bắt ép nó phải ăn ngày một bữa mà chịu đựng những cái sự thiếu hụt của cái cơ thể nó cần cái nhu cầu ăn uống, mà bây giờ chúng ta ăn ít quá thì không được.
Đó cho nên vì vậy, một cái người mà quyết định mà xuất gia để làm tu sĩ thì chúng ta quyết định ăn ngày một bữa, vì chúng ta không có làm, cho nên chúng ta tránh được cái sự gánh nặng cho Phật tử người ta gánh mình. Ăn ngày ba bữa thì tức là mình phải ăn nhiều rồi.
Còn mình ăn ngày một bữa, dù muốn, dù ăn nhiêu cũng không ăn được nữa. Cho nên nó giảm bớt cái sự gánh nặng cho Phật tử, vì mình không có làm ra của nữa, mà tất cả cái ăn cái sống của mình đều là do mồ hôi nước mắt của Phật tử. Cho nên vì vậy mình ăn với lòng thương yêu của mình, cho nên mình ăn ngày một bữa.
Còn các con phải tự làm lấy sống, mà các con lại làm cho cái thân các con phải ăn ngày một bữa, các con sẽ thấy nó bị hao hụt đi, nó sẽ khổ sở nhiều. Cho nên vì vậy mà các con, bình thường các con cứ tu xả tâm. Và đồng thời trong cái ăn của các con, các con cũng thấy mình, sáng nay phải mua cái này mua cái kia ăn để ngon, thì các con còn dục đó, còn tham đó.
(52:43) Còn bây giờ ăn để sống các con thấy, có một ổ bánh hoặc là một chén cơm nguội các con ăn để sống trong cái buổi sáng của các con cũng được rồi, chứ không cần phải đòi hỏi. Thí dụ như bây giờ còn cơm nguội hay còn này kia các con lấy ra ăn, trong một bát buổi sáng cũng tạm được rồi, không có cái gì đâu mà các con ngại.
Cho nên ở đây mục đích chúng ta nhắm vào chỗ tham, sân, si của chúng ta mà thôi, để ly để xả nó, chứ không phải nhắm vào cái chỗ mà ăn. Mà khi trong một tháng, mà các con Thọ Bát Quan Trai, thì buổi sáng nhất định không ăn, buổi chiều nhất định không ăn, trưa ăn. Bởi vì ngày đó mình làm Phật mà. Mình tập làm Phật thì mình phải khác rồi, cho nên nó khác rồi.
Và vì vậy, khi mà tâm các con nó nhu nhuyễn, nó đi đến cái mức độ mà có thể nhập các Định, thì lúc bấy giờ các con sẽ trở thành một người tu sĩ thật sự, các con sẽ ăn ngày một bữa, các con mới nhập Định, nó trọn vẹn.
Là tại sao vậy? Tại vì Định nó không còn ăn uống nữa. Nghĩa là người nhập định 7, 8 ngày hay 1 tháng 2 tháng người ta đâu có ăn uống cái gì đâu, người ta vẫn ở trong Định, vẫn an ổn ở trong Định, đâu có cái gì mà khổ sở. Còn mình chưa nhập Định, thì mình còn là chiếc áo người cư sĩ, mình ăn uống đơn giản, đơn giản chừng nào tốt chừng nấy. Nói vậy là về cái phần ăn uống, con đừng có ngại.
Khi nào Thọ Bát Quan Trai thì giữ gìn đúng, mà không Thọ Bát Quan Trai thì không đúng. Thí dụ như bây giờ, con 1 tháng con thọ 15 ngày Thọ Bát Quan Trai, thì 15 ngày đó con phải sống cho đúng, ăn ngày một bữa, không sáng không ăn, không uống gì cả hết, không thêm một ly nước ngọt, không thêm một cái vật gì bánh kẹo gì cả hết, thì như vậy mói đúng trong Thọ Bát Quan Trai.
Còn ngoài ra còn 15 ngày khác con không Thọ Bát Quan Trai, con sống bình thường, nhưng ăn uống rất đơn giản. Mỗi khi ăn con đều có quán sát ở trên sự ăn con có thèm khát hay không, có muốn ăn hay không?
(54:33) Nếu nó muốn nhất định là không có cho cái lòng ham muốn nó, mà ăn để sống chứ không phải ăn mà tham ăn. Thì cái tu của con nó dùng cái trí tuệ, nó biết suy tư chín chắn trên cái sự ăn uống đời sống của nó thì nó sẽ được giải thoát. Con còn hỏi gì thêm nữa không con?
Phật tử Mỹ Châu: Dạ thưa Thầy hôm bữa con đi đó với bạn con có […].
Trưởng lão: Thầy Thông Vân, thì cái bệnh của thầy Thông Vân thì cũng dễ không có cái gì khó khăn, bởi vì nó thuộc về cái, nó rối loạn tưởng thôi. Mà đã có nhiều lần kinh nghiệm rồi, cho nên cái kì này tuy rằng thầy có bị rối loạn, nhưng mà nó nhẹ hơn các kì trước nhiều.
Cho nên các con yên tâm bởi vì, mỗi lần mà về đây mà tập luyện đó, thì coi như là xả được một số rất lớn, cho nên cái thần kinh của thầy nó cũng bớt cái loạn. Kỳ này thầy cũng có rối loạn, nhưng mà rối loạn nhẹ, nó không phải như kỳ trước.
Nhưng mà trước khi mà nó sắp sửa xảy ra đó, thì bữa đó thì Thầy có họp chúng, tất cả chúng đến đây, thì cho nên thầy Thông Vân sau buổi sáng, thì buổi chiều thì Thầy Thông Vân có đến, nói: “Hôm nay con thấy sao con ngủ con lại bị rơi trong tưởng. Và con ngồi yên lặng thì con dễ bị rớt trong tưởng lắm.”
Thầy bảo bây giờ hoàn toàn là con không có nên ngồi nữa, mà không có nên nằm ngủ nữa, mà nên tập đi kinh hành thôi, tập đi kinh hành xả đi. Còn không thì phải về ở dưới Châu Đốc, trong cái cảnh động thì nó mới yên, chứ còn trong cảnh tĩnh như thế này, thì cái trạng thái tưởng nó sẽ bị dễ rớt lắm.Thầy bảo cái ý là bảo khi mà nó tưởng hợp như vậy đó, thì thầy phải ra tiếp duyên.
(56:31) Tiếp duyên tức là nói chuyện này kia chơi vậy đó, thì nó sẽ không có. Còn đằng này đó, có một mình thầy ở trong thất thấy cứ thầy ngồi hoài, ngồi miết nó rơi vô. Mà khi mà nó hiện tượng nó xảy ra như vậy, nó có như vậy rồi, thì nó thích ngồi lắm, nó không có muốn đi kinh hành đâu, nó ngồi. Cho nên thầy cứ thầy ngồi hoài.
Vì vậy mà nó rớt thầy trong có, bữa trước và bữa sau thầy đã bị liền. Cái bữa Thầy giảng là bữa sau thầy đã bị, nhưng mà cái ngày đầu thì nó nhẹ, nhẹ hơn. Nhưng mà Thầy có ra Thầy khuyên hãy xả đi đừng có ngồi, còn không thì phải nghe băng, phải nói chuyện phải này kia cho nó không bị rối loạn. Nhưng mà thầy thì ở ngoài thất đó có mình thầy à.
Cho nên vì vậy mà thầy từ ngày thầy đi về trong này thầy tu, thì cũng rất nghiêm chỉnh con, thầy Thông Vân là người tu hành rất nghiêm chỉnh. Thầy không cần gối không cần mền, không cần gì hết, thầy đem đồ vật dụng của thầy vừa đủ cho thầy, thầy đi đâu thầy đem vừa đủ cho thầy. Cho nên thầy đến đâu, thầy hoàn toàn là rất đơn giản, nên là đời sống của thầy rất đơn giản.
Nếu mà thầy không có bị bệnh này, mà được về đây mà tu trước khi mà Thầy chưa bị rối loạn đó, mà thầy được về đây, thầy là một người tu đạt được đạo sớm nhất đó. Cái con người của thầy là con người có quyết chí chứ không phải là con người không quyết chí.
Nhưng mà thầy bị rối loạn thần kinh thầy rồi. Cho nên hễ mà, khi tâm thầy nó vừa an là thầy bị, thầy rớt trong đó, nó rối, thần kinh thầy nó hoạt động, cái tưởng thức của thầy nó hoạt động, nó làm cản trở con đường tu thầy rất lớn, tội cho thầy! Mà vì trước kia thầy ham tu, thầy mới cũng rơi vào trong cái trạng thái bị rối loạn. Chứ nếu mà thầy tu chơi chơi như quý thầy khác, thầy không bị đâu.
Vì vậy mà, khi mà thầy xảy ra những cái trường hợp mà bệnh đau như vậy, sau này mà khi mà thầy về, thì gia đình có báo cho Thầy biết là thầy bị bệnh như vậy. Cho nên Thầy khuyên là cứ nên xả, không có nên tu. Nghĩa là xả tâm thôi, chứ không có được ngồi nhiếp tâm nữa, nhưng mà thầy không có nghe, thỉnh thoảng là thầy bị rớt.
(58:35) Cho nên thầy lần đầu thì nó nặng, lần kế này thì nó nhẹ hơn nó không có, lần này thì nó không có đến đỗi nào đâu. Cho nên thầy Thông Vân sẽ trở lại bình thường, nhưng mà cái điều kiện của thầy Thông Vân hiện giờ đó, phải tạo cái điều kiện, gia đình của thầy phải có tạo điều kiện.
Thầy cũng dự định là hôm nào có dịp Thầy về Châu Đốc, thì Thầy sẽ bàn với cái người em của thầy Thông Vân, đừng có nhốt thầy ở trên một cái phòng như vậy, mà nên tạo cho thầy một cái cơ sở. Và đồng thời Thầy sẽ hướng dẫn cho thầy Thông Vân là tạo cho thầy có cái cơ sở để cho Phật tử đến Thọ Bát Quan Trai thầy hướng dẫn. Rồi khi mà Phật tử tu tập đến mà tiếp xúc này kia, thầy sẽ không bị cái điều đó nữa.
Và đồng thời hướng dẫn cho thầy cách thức thầy xả tâm trong cái hoàn cảnh động. Cúng như các con sống ở trong gia đình hiện giờ, các con xả cái tâm của mình, mọi cái thứ đều đến với các con, các con sẽ xả. Đó là giúp cho thầy để vượt qua, để cho cái thần kinh của thầy nó ổn định hoàn toàn, thì lúc bấy giờ, thì thầy cũng xả rất nhiều thì cái tâm của thầy nó được an ổn nhất, và đồng thời thầy sẽ vào Định được.
Chứ bây giờ thầy vào Định là sẽ bị trở, bị cản trở liền. Nghĩa là tâm thầy nó an định, nó an định nó không phóng dật là thầy bị lọt trong tưởng liền, cái tưởng nó hoạt động liền. Cho nên nó mới làm cái, coi như là cái hàng rào tưởng đó nó đã che đậy thầy mất đi, thầy không có thể nào đi qua hàng rào tưởng này được.
Khi mà thầy, cái tâm của thầy nó yên tĩnh nó không vọng tưởng để mà nó đi vào cái Định hoàn toàn để mà nó, nó không phóng dật đó, nghĩa khi cái tâm thầy nó vừa không phóng dật là thầy bị cái trạng thái tưởng nó đến nó hoạt động liền. Cho nên nó cản con đường của thầy, thầy không còn cái lối để mà tiến tới được. Cho nên chỉ còn cách thức là thầy phải xả.
(1:00:20) Cho nên hầu hết là Thầy thấy, hầu như là, một số người tu tập mà về đây mà gặp Thầy, đều là tu sai hết. Cũng như vừa rồi ở, một cái cô ở ngoài Phước Sơn, cô đó cư sĩ, cô tu cô cứ hướng tâm cô nhắc, cô biêt biết biết, đi đi đi đi, nắm nắm nắm. Hễ cô lấy cái gì thì cô cứ ra lệnh nó lấy, cứ làm như vậy. Cho nên bây giờ cô đã trở thành một thói quen mất rồi.
Trời Thầy nói thật sự nguy hiểm, rất là nguy hiểm, chứ không phải là cái điều kiện tu như vậy là không nguy hiểm. Nó thành ra một cái thói quen, như vậy rất là khó bỏ. Mà nếu mà nó đi tới một cái giai đoạn nào nữa, thì nó sẽ trở thành nó, cái trí cái tưởng nó hoạt động thì nó thay thế cái ý thức được rồi. Thì hễ mình vừa đụng tới nó là nó hoạt động thì mình lại mất tự nhiên rồi, mình thành điên rồi.
Cho nên nó nguy hiểm vô cùng là tu sai là Thầy thấy nó cực lắm. Đó, đó là một cái vấn đề. Thà là mình không tu, mà tu thì tu đúng pháp, mà tu trật pháp là chết đó, nó rất khổ. Cho nên vì vậy mà cái trường hợp các con thấy, trường hợp ở đây nó nhiều người họ tu ở đâu họ đến đây. Mà họ tu tất cả những cái sai họ đến đây, thật sự ra đến đây Thầy chỉ sửa họ lại thôi. Chứ họ, họ là toàn là những người mà gọi là điên đó.
Cho nên vi vậy như thầy Thiện Thuận, con thấy ở trên Tây Ninh thầy tu về thiền xuất hồn, thầy đến đây, thì thầy bị tẩu hỏa nhập ma. Mà do cái trạng thái mà thầy nhiếp tâm để mà tưởng ra thầy sống trong tưởng, như hồn mình xuất đó, do đó thầy về đây, thầy bị cái tưởng nó rất mạnh, cho nên vì vậy mà thầy bị nó hoạt động. Coi như toàn thân thầy nó sôi lục bục, thầy cảm giác như vậy.
Cho nên Thầy phải phá, cho nên vì vậy mà Thầy khuyên thầy không có nên mà tu cái đó nữa. Vì vậy mà thầy trở về Tây Ninh, thầy nói rằng nếu mà con giữ gìn giới luật được, thì con mới dám tu, mà giữ gìn giới luật không được, thì thôi con xả hết, con không dám tu.Đó đó, Thầy đã cứu được thầy Thiện Thuận.
Kế đó thì coi như thầy Thông Vân là từ cái ngày mà đến đây tới bây giờ đó, thì Thầy cũng nỗ lực Thầy giải quyết cho thầy Thông Vân để mà thoát khổ. Rồi còn nhiều người nữa, còn nhiều người nữa tu sai nữa. Như ở Hà Nội cũng có chứ không phải không, mà Thầy cũng giải quyết rất lớn.
(1:02:39) Như Minh Đạo, ở ngoài đó các con biết Minh Đạo. Nếu mà không có Thầy giúp, thì nó cũng sẽ bị lạc vô tưởng. Mà đến đây kịp lúc Thầy chặn liền, Thầy không có cho nó đi sâu hơn nữa, chứ không khéo nó ức chế, nó không vọng tưởng nó đi vô. Mà tất cả nhừng điều đó sai.
Rồi Minh Tông, chính ở trong băng các con nghe mà Thầy nói về Minh Tông không? Nếu mà Minh Tông đừng cãi Thầy, thì Minh Tông bây giờ đã xong hết rồi. Mà Minh Tông cãi Thầy một chút xíu mà Minh Tông bây giờ hoàn toàn là số không hết. Nó đã tu từ Niệm Phật cho đến Mật Tông, nghĩa là nó tu có thần thông đó, chứ không phải không, đến đây mà những cái mà nó thấy nó bay lên đó, mà Thầy đã gạt xuống hết. Nó tu nhiều lắm.
Cho nên tất cả những cái điều kiện, mà từ khi mà Thầy triển khai cái giáo pháp của Phật, Thầy đã cứu biết bao nhiêu người, mà trong khi họ bị điên. Mà trong những người mà dạy người ta tu những cái pháp điên như vậy, họ có trách nhiệm chỗ này không, hay hoặc cái người điên rồi họ bỏ người ta như vậy?
Con thấy, thầy Thông Vân bây giờ gia đình gánh thầy Thông Vân chứ ai gánh? Có phải những cái người dạy đạo đó bây giờ gánh thầy Thông Vân không? Mấy con thấy. Họ đâu có trách nhiệm đâu, họ dạy người ta tu điên, rồi ai chịu.
Cái người mà người ta nhiệt tâm người ta tu đến khi người ta điên rồi, thì người đó phải chịu thôi. Còn cái ông thầy dạy thì người ta phè phỡn người ta không có bao giờ người ta thấy cái trách nhiệm của người ta. Trái lại khi một cái người mà về đây Thầy thấy điên, Thầy thấy tội cái đời nó.
Cho nên tại sao mà Thầy phải nói Đại Thừa, Thầy phải nói Thiền Đông Độ như vậy là tại vì, trước mặt Thầy thấy một cái nỗi khổ của con người người ta tu như vậy. Mình tu được mình mới dạy người ta, mình tu không được mình dạy người ta để cho người ta điên khùng như vậy, cái nỗi khổ có phải không?
Các con thấy, trên vấn đề này là một vấn đề đau khổ lắm. Ai mà lỡ làm cho người ta đau khổ như vậy? Thầy Thông Vân con thấy như vậy. Thầy bây giờ chỉ có biết, khi mà điên rồi, điên nặng đó, thì thầy bắt ấn, thầy trợn trắng mắt thầy lên, thầy làm đủ kiểu coi như là thầy bùa đó, tức là thầy đã từng tu Mật Tông đó.
(1:04:41) Coi như là thầy Thông Vân đã từng tu Mật Tông rồi, sau đó mới tu thiền. Từ cái chỗ tu thiền bị ức chế, nó mới điên. Cho nên vì vậy, từ đó mà, khi mà cái tưởng nó hoạt động, thì tức là thầy sẽ hoạt động tất cả những cái hành động mà thầy đã qua, những cái hành động mà tu tập cái gì thầy bắt đầu thầy hoạt động trở lại, y như hồi thầy mới tu. Cho nên thầy bắt ấn này, thầy niệm chú này, thầy ra lệnh, thầy làm đủ cách đủ loại.
Cho nên tất cả những hậu quả này ai chịu cho những cái người này? Gia đình người ta ôm con, ôm cháu, ôm em, người ta phải, người ta đau khổ lắm. Một cái người bình thường như thầy Thông Vân, các con nghĩ thầy Thông Vân, nếu mà bình thường, thầy đi học, rồi thầy đi làm, có lợi cho thầy mà có lợi cho xã hội nữa.
Bây giờ thầy trở thành một ông thầy giáo đi nữa, ít ra ông thầy giáo như thầy Thông Vân cũng là một thầy giáo gương mẫu chứ đâu phải là người xấu. Thế mà bây giờ thầy không làm gì lợi ích cho ai hết mà thầy điên khùng như vậy thì các con thấy cái gánh nặng của ai không?
Cho nên về đây Thầy thấy thấy giảm bớt cái sự, cái thời gian mà thầy mấy lần thầy đã giảm bớt, giảm bớt Thầy thấy rằng, nếu mà có cái dịp mà Thầy về Châu Đốc, Thầy tìm cách Thầy gỡ rối thêm để mà tạo cho thầy Thông Vân có cái cơ sở, thầy vừa ích lợi cho thầy, mà vừa lợi ích cho người khác.
Phật tử Mỹ Châu: Dạ, kính bạch Thầy, ở Châu Đốc có cái cô Diệu Hiền đó, cô mà đi với cô bữa đó đó Thầy, cúng cho Thầy Thông Vân 5 công đất. Đã cúng rồi, giấy tờ đã xong hết rồi đó Thầy. Thầy cho phép có điều kiện, nếu vậy thì nói với gia đình của chú Lân sẽ dựng cho thầy. Chú Lân thì con thấy khá giả lắm, cất nhà lên lầu 4 tầng.
(1:06:28) Vớt con hỏi Thầy một câu chót nữa là con bây giờ cái hoàn cảnh con thì, con con thì lớn hết rồi, con cũng có của, có nhà, có tới 4 chỗ, bây giờ con chia phần cho con thì được hết rồi. Nhưng mà con thấy bây giờ chưa, con tính cỡ khoảng năm con năm mươi, bốn mươi tám, con tính tới năm mươi hai đó Thầy, con vô trong chùa con ở luôn. Tới đây rồi Út dạy con tu, Thầy quán xét con có nhân duyên tói năm đó để con chuẩn bị?
Trưởng lão: Trong cái vấn đề tu tập đó, là cái vấn đề mà con sắp xếp được mà tới năm mươi hai tuổi, mà con vào mà tu luôn ấy, thì con sắp xếp. Thứ nhất là Minh Điền, chồng con, nó vui vẻ nó chấp nhận để cho con đi trước một bước, càng tốt không có sao đâu. Và đồng thời mấy đứa con con sắp xếp cho đứa nào nó cũng có an ổn, cái công ăn việc làm, mọi việc, cái cuộc sống của nó nó hoàn tất được.
Thì lúc bấy giờ con vào đây con tu Thầy thấy nó nhanh. Nghĩa là mình sắp xếp sao cho cái hoàn cảnh gia đình của mình rất ổn, mà mình không còn bận tâm lo, tức là nó thuộc về ái kiết sử đó, mình không có còn cái kiết sử đó nữa, mình không bận tâm nữa, thì cuối cùng thì con sẽ yên ổn mà con tu tập thì coi như là cái kiết sử nó không còn có nữa thì tu tập nó mau.
Nghĩa là hằng ngày mình vô đây, mình tu mình sống đời sống của một tu sĩ, trong cái chiếc áo của người cư sĩ. Nhưng mà sau khi mình tu xong rồi, tức là mình chứng Tam Minh rồi đó, mình nhập Tứ Thiền mình chứng Tam Minh xong, thì chứng đó mình muốn trở thành một vị tu sĩ, thì rất dễ dàng không khó nữa.
Vì cái vấn đề chấn hưng Phật pháp, vì cái vấn đề mà lợi ích cho con người, cho nên chúng ta phải khoác chiếc áo tu sĩ. Cho nên trong cái thời mà đức Phật mà thường hay, những cái vị mà đến xin đức Phật nghe thuyết pháp, những cái vị đó vừa nghe mà vừa chứng đó, thì hay hoặc là một thời gian chứng đạo, thì đức Phật gọi là Thiện Lai Tỳ Kheo, thì ngay đó là đã trở thành một bậc A La Hán, là một vị Tỳ Kheo đệ tử của Phật rồi đó.
(1:08:43) Thì nói râu tóc nó rụng xuống chứ sự thật không phải rụng đâu. Người ta coi như là râu tóc người ta còn là cư sĩ, mà chứng đạo thì khi mà đức Phật gọi Thiện Lai Tỳ Kheo, thì râu tóc nó rụng xuống, chứ nó không phải rụng đâu, mà người ta cạo cho nó rụng.
Thì các con hiểu đươc cái lý đó là cái người cư sĩ, ở đây cái mục đích cái bài pháp như vậy, cái lời dạy như vậy đó, là cái mục đích là tu tập ở chiếc áo của người cư sĩ cho đến khi thành tựu trở thành một người tu si, thì cái người tu sĩ đó mới chân chánh đó mấy con. Cho nên gọi là Thiện Lai Tỳ Kheo, vừa gọi là cái người đó đã trở thành một bậc A La Hán, một người chứng quả A La Hán.
Thì theo Thầy thiết nghĩ các con cũng nên tu như vậy, khi vào đây các con sẽ tu trong chiếc áo cư sĩ. Sau khi trong chiếc áo cư sĩ, các con hoàn toàn hoàn tất được con đường tu, tức là hoàn tất được Tam Minh, Lậu Tận Minh xong, thì lúc bấy giờ các con sẽ trở thành một vị tu sĩ xứng đáng. Đối với con dù nữ hay nam, đều là chúng ta có cái nhiệm vụ bổn phận là chúng ta phải chấn hưng Phật pháp, làm cho sáng tỏ lại Phật pháp.
Mà nếu mà sắp xếp được như vậy, an ổn được như vậy, không có làm phiền lòng ai hết, mà con quyết tâm tu như vậy là Thầy thấy, cái tuổi của con, trong cái năm mươi mấy tuổi, thì nó cũng chưa có muộn lắm, mà nó cũng không phải sớm lắm đâu. Nó không phải sớm mà cũng không phải muộn, nó cũng vừa rồi. Còn nếu mà để hơn nữa thì nó muộn, sợ cái sức khỏe của mình nó không đủ.
Cho nên sắp xếp được sớm chừng nào, mà về đây tu tập càng sớm thì nó cũng càng tốt chứ không có sao. Các con nên nhớ trên cái vấn đề đó, cố gắng mà sắp xếp. Chỉ cần sắp xếp yên thôi, rồi về đây tu tập. Và trong cái khoảng thời gian mà từ đây mà cho đến khi mà con được trở về đây, thì con có thể con xả tâm tiến bộ rất nhiều. Dùng cái tri kiến cái trí tuệ của con quán xét từng cái niệm của mình để xả, thì cái này thấy hay nhất.
(1:10:38) Tới chứng đó về đây cũng tiếp tục trên con đường xả bằng cách chúng ta tu Tứ Niệm Xứ. Nghĩa là về đây rồi con coi như là con hoàn toàn là tu Tứ Niệm Xứ hết, và đồng thời thì nỗ lực để quét sạch ở trên thân thọ tâm pháp các con, không còn một cái tham, sân, si gì nằm ở trên đó được. Không còn một chướng ngại pháp gì ở trên thân thọ tâm pháp của con được. Thì lúc bấy giờ là lúc mà con phải đi vào Định.
Mà khi vào Định mà ở tại đây, thì con rất an ổn là vì có Thầy, nó không có đến nỗi sai đường đâu. Và đồng thời thì con thấy như ở Châu Đốc mà về đây thì cũng không xa đâu. Mà sắp xếp được mà ở đây thì Thầy thấy rằng rất tốt, không có gì đâu. Con yên tâm mà cố gắng mà sắp xếp. Đó, bây giờ là đây là câu trả lời cuối cùng của con. Vậy thì […]
Phật tử: Dạ con kính bach Thầy! Trong thời gian con ở tại Tu viện này đên hôm nay là đã được một tuần rồi, thì bạch Thầy là con đã áp dụng theo phương pháp của Thầy giảng dạy. Và trước đây thì con ham con ngồi nhiều, nhưng mà bây giờ là con áp dụng theo phương pháp của Thầy dạy thì con không còn ngồi nhiều nữa.
Còn ngồi từ 30 phút đến 45 phút, thì mỗi khi mà con bắt đầu tác ý đó, thì theo dõi hơi thở thì cỡ khoảng 45 phút mà khi con thấy là cái ý thúc nó hơi yếu đi, và cái tưởng thức nó chuẩn bị xuất hiện ra, thì con cũng đã thực hiện, thì phương pháp Thầy dạy là theo tác ý, để cho tâm nó trở lại theo dõi hơi thở.
Mà cứ khoảng 30 phút hoặc 45 phút, mà khi con thấy tê rồi thì con xả liền chứ con không ngồi nữa. Nhưng mà khi xả, là khi đứng dậy là con có tác ý nhưng mà trong khi đi kinh hành là con chưa biết vì hôm trước con chưa hỏi kỹ. Cho nên là, trong khi đi kinh hành thì con theo dõi sự chuyển động của thân chứ con chưa theo dõi hơi thở như Thầy giảng hôm nay.
(1:12:43) Nên con thưa với Thầy là cái hành của con trong một tuần là như vậy. Con xin hỏi Thầy một vấn đề là trong khi con hành đó, được khoảng, con ngồi được khoảng được 5 phút, thì trong thân của con nó có cái cảm thọ ghê lắm, nóng ran cả người. Thì con xin Thầy dạy cho con, và đây là mấy quyển sách.
Trưởng lão: Cái đầu tiên mà Thầy sẽ nói về cái pháp hơi thở đó.
Khi con tu cái Định Niệm Hơi Thở, là như hỗi nãy Thầy nói đó. Trong cái thời gian mà 1 giờ đi, 1 giờ, thay vì con phải ngồi 1 giờ đồng hồ, là tu cái Định Niệm Hơi Thở, nhưng bây giờ mới có 40 phút thôi, còn 20 phút nữa nó mới đúng 1 giờ.
Nhưng mà vì cái chân con bị tê, cho nên nếu mà con ngồi con chịu tê cho đến 20 phút thì nó cũng được, nhưng mà vì nó có cái chướng ngại ở trên thân của con. Cho nên vì vậy, con đứng dậy, phải không, con đứng dậy.
Lúc bấy giờ con, con không phải là ra lệnh như cái kiểu mà con ra lệnh theo cái phương pháp mà 5 hơi thở đi kinh hành một vòng, nó khác rồi. Cái phương này khi đứng dậy, thì con thấy bây giờ cái chân tê, thì cần thiết là mình phải xả cái thọ này, xả cái tê này, thì con phải đứng dậy. Nhưng mà khi con đứng dậy con vẫn hít thở chứ con không chú ý cái đứng dậy của con, bởi vì con đang tu Định Niệm Hơi Thở.
Cho nên con vẫn giữ cái tâm con trong hơi thở như trong khi con đang ngồi. Rồi bắt đầu con bước đi thì con vẫn giữ cái tâm con trong hơi thở, chứ không phải để cho nó tập trung trong bước đi. Nó duy nhất chỉ có hơi thở, cho nên con đi vậy chớ con biết hơi thở chứ con không biết bước đi. Vì mục đích của con là để đi như vậy, để phá cái thọ của con, cái chướng ngại ở trên cái thân của con mà thôi.
Cho nên con đi như vậy là 20 phút nữa. Thì trong khi đi như vậy nhưng vẫn giữ trong cái hơi thở, cho nên cuối cùng đúng 20 đó con xả, là 1 giờ con ở trong hơi thở con tu, chứ không phải là con đi kinh hành. Coi như là hoàn toàn con tu trên Định Niêm Hơi Thở chớ không phải là.
(1:14:44) Cho nên con không có, con xen cái pháp tác ý con để giữ cái ý thức của con như là con đang tu ở trong Định Niêm Hơi Thở, chứ không phải là con phải truyền lệnh. Cho nên mà vì vậy mà từ cái pháp này, bước sang qua cái pháp khác là chúng ta không có được lầm lạc, không có được lầm.
Cái pháp mà 5 hơi thở đi kinh hành 1 vòng 20 bước rồi trở lại ngồi trong hơi thở, đó là cái pháp, thứ nhất là luyện về cái nội lực của tâm, là phải truyền lệnh nó ngồi, rồi xếp bằng lại, rồi thở rồi đếm, rồi đứng, rồi đi, phải không, con truyền lệnh như vậy đó là cái phương pháp đó.
Còn bây giờ con tu về Định Niệm Hơi Thở không, thì bắt đầu bây giờ con thở ra con biết thở ra, thở vô biết thở vô. Rồi tùy theo cái, thỉnh thoảng con khéo tác ý theo những cái câu tác ý của nó, “quán ly tham”, “quán ly sân”, hay là “tâm như đất”, hoặc là “ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền”. Con tùy theo con quán theo cái hơi thở con hít ra hít vô này, phải không, để giữ cái ý thức của con không mất.
Nhưng bây giờ bị tê, thì bắt đầu con lại đứng dậy. Thì đứng dậy con cũng vẫn giữ y như con đang ngồi tu như vậy. Con hiểu rồi phải không? Tiếp tục bây giờ tới cái giờ mà đi kinh hành, không phải giờ mà tu cái Định Niêm Hơi Thở nữa, thì lúc bấy giờ đi kinh hành nó là cái phương pháp khác rồi. Con hiểu không, cái phương pháp khác. Tức là cái phương pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác Định rồi.
Cho nên đi kinh hành thì biết đi chứ không biết hơi thở nữa, nó khác rồi. Bây giờ đi thì biết đi, nhắc cho nó biết đi chứ không nhắc hơi thở. Và nếu mà nó biết hơi thở là tại vì mình quen hơi thở, thì tức là phải đoạn dứt. Biết đi, chứ không được biết hơi thở. Hễ phần nào là hay phần nấy.
(1:16:27) Nhiều khi chúng ta vừa đi, vừa biết đi mà vừa kết hợp với hơi thở, vừa biết hơi thở, thì cái đó nó không có chuyên nhất, nó không có nhất tâm đâu, nó đi hai loại à. Cho nên đó là sai, chúng ta phải xả cái đó ra. Mà đi thì biết đi thôi, rồi đi ở trong cái tác ý của nó để mà biết tác ý thôi.
Và đồng thời thỉnh thoảng có những cái vọng tưởng nào, thì chúng ta dùng cái Định Vô Lậu mà quán xét cái niệm vọng tưởng đó để xả cái niệm đó thôi. Thì trong khi ngòi tu hơi thở, Định Niệm Hơi Thở, mà giờ mình khéo tác ý vậy, nhưng mà có cái niệm vọng tưởng thì mình lấy ngay cái Định Vô Lậu tu ở trên cái Định Niệm Hơi Thở đó.
Thì cái Chánh Niệm Tỉnh Giác mà đang đi kinh hành biết đi kinh hành đó, mà có cái niệm khác thì cái Định Vô Lậu đem vô mà tu tập Định Vô Lậu. Thường thường cái Định Vô Lậu nó câu hữu với các định khác, nhưng nó độc lập riêng nó, nó cũng có cái phần riêng của Định Vô Lậu. Cái Định Vô Lậu nó rộng rãi lắm.
Thí dụ như bây giờ Thầy vì cái tâm của Thầy thích ăn, nó ưa bánh ngọt, hoặc ưa sữa hoặc ưa gì đó. Thì cho nên Thầy bây giờ Thầy ngồi Thầy tu riêng cái Định Vô Lậu, Thầy đưa cái tài liệu, cái đề tài nó ra quán, Thầy quán thực phẩm bất tịnh. Thì bắt đầu Thầy tư duy, Thầy suy nghĩ, từ cái món thực phẩm nó thiu thúi, cho đến khi mà ăn mà nó nhàm chán, nó không thích ăn cái thực phẩm.
Đó, con quán bất tịnh như thế nào, để mà tâm con nhàm chán. Tức là con đưa cái đề tài ra để mà con quán xét cái đề tài đó, làm cho tâm con nhàm chán về thực phẩm. Thì cái đó là con tu hoàn toàn là Định Vô Lậu, không có xen vô cái gì. Cái giờ phút mà nó xen vào trong cái Định Niệm Hơi Thở, thì con cũng dùng cái quán cái niệm đó, bất kỳ.
(1:18:31) Bây giờ, thí dụ như bây giờ mình đang ngồi tu hơi thở, mà nó khởi cái niệm muốn ăn cái gì, thì con nên đưa cái, nó đã có cái niệm cho nên con không có đưa cái đề tài ra mà quán, mà con lấy cái niệm đó con quán ở trong cái Định Niệm Hơi Thở. Còn bây giờ hoàn toàn là con không có tu hơi thở. Con không có tu mà cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác đi kinh hành.
Bây giờ con ngồi chơi đi, hay hoặc là con ngồi cái giờ này vì giờ mà tu Định Vô Lậu riêng cái giờ của nó, thì con đưa ra cái đề tài, vì con biết là cái tâm con còn sân, thì con đưa ra cái đề tài từ bi, con quán lòng từ bi của con, phải không? Mà bây giờ cái đề tài mà, bây giờ cái tâm của con nó về sắc dục, thì con lại đưa ra cái đề tài thân bất tịnh để mà con quán con đối trị với tâm sắc dục, tức là con dùng cái Định Vô Lậu.
Cái Định Vô Lậu này nó riêng, nó không có câu hữu kết hợp với các Định khác, mà nó riêng. Trong cái giờ này là cái giờ tu Định Vô Lậu. Còn nếu mà hoàn toàn con đã quán sát về bất tịnh, về thực phẩm bất tịnh, về thân bất tịnh, về từ bi con đã qua sát, con đã tư duy, con đã suy xét nó đã thấm rồi, thì con không cần mà phải tu cái Định Vô Lậu riêng nữa, mà con sẽ đem cái Định Vô Lậu đó câu hữu với tất cả mọi cái.
Còn bây giờ nó có cái gì chướng ngại trong thân tâm của con này, bằng cái lậu hoặc, nên con phải đem cái đề tài đó ra, mà con tu riêng cái Định Vô Lậu, nó không có câu hữu với các Định nào khác. Còn nếu mà trong các Định khác, nó có khởi ra một cái niệm, thì con mới áp dụng ngay cái Định Vô Lậu, tức là câu hữu Định Vô Lậu trên cái Định đó mà mình tu.
Thí dụ bây giờ Định Niệm Hơi Thở, mà nếu mà nó suôn, nó không có cái niệm gì hết thì thôi. Mà nó đã xảy ra có cái niệm khởi vô, thì các con mới đưa ra cái niệm đó mà quán xét, thì tức là con sử dụng cái Định Vô Lậu ở trên cái Định Niệm Hơi Thở. Con đi kinh hành mà nếu mà có cái niệm gì khởi ra, thì con mới đưa cái niệm đó ra để mà quán xét.
(1:20:34) Mặc dù bây giờ thay vì con phải dừng cái niệm đó lại, rồi con tiếp tục con đi kinh hành gì, thì không có được quyền, mà con câu hữu cái Định Vô Lậu ngay liền đó, con mới đưa ra quán xét. Chừng nào mà thông suốt được cái niệm đó, xả rồi, thì con mới trở về vị trí của bước đi của con, con biết bước đi.
Còn bây giờ tới cái giờ này là giờ con riêng con tu cái Định Vô Lậu, nó không câu hữa với Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Hơi Thở, mà cũng không có trong cái giờ tu của Định Sáng Suốt, thì con tu cái định này, cái Định riêng của nó là Định Vô Lậu.
Vì vậy mà hiện giờ con thấy cái tâm sân con còn, cái tâm si con còn, cái tâm sắc dục còn, cái tham muốn ăn còn, thì mỗi cái con thấy bây giờ tâm mình nó còn cái đó, thì mình phải đưa riêng ra mình quán xét, để mình triển khai cái tri kiến, để mình hiểu về cái đó, cái đối tượng đó cho nó thâm sâu, để cho nó nhàm chán.
Cũng như bây giờ con thấy con tu hơi dễ dãi, thì con mới, khi mà tới cái giờ mà tu cái Định Vô Lậu đó, thì con mới đưa ra cái niệm chết, con hiểu không? Để cho con quán cái niệm chết thì con sẽ thấy, bây giờ mình còn sống nhưng lát nữa mình chết, mình biết chừng đâu, cho nên mình phải ráng nỗ lực chứ sao lại mình lười biếng, mình tu như thế này đâu có được. Nó chết rồi lấy cái gì mà tu?
Cho nên con đưa cái niệm chết con quán xét, vì vậy nó làm cho con tinh tấn, nó không có còn làm cho con lười biếng nữa. Đó. Mõi mỗi cái mình thấy đặc tướng của mình ở trong tâm mình nó có cái gì đó, thì con hãy đưa ra những cái đó để mà con tu tập trong cái Định Vô Lậu, thì nó sẽ là cái Định Vô Lậu riêng biệt, chứ nó không có nằm chung ở trên cái đó.
Mà nằm chung trên các môn khác là tại vì cái tâm của con nó khởi cái niệm ra, nó làm cho con bị cái niệm đó nó chi phối ở trên cái chỗ mà con tu cái Định đó. Cho nên con mới lấy cái Định Vô Lậu mà con quán xét chứ con đừng có nên mà ngắt ngang hoặc dừng ngang cái niệm đó, thì như vậy con bị ức chế tâm.
Còn dùng cái Định Vô Lậu mà quán sát, nó giúp cho con cái tri kiến giải thoát nó càng tăng lên. Và đồng thời thì con lại đẩy lui nó bằng cách nhẹ nhàng và kêu là thấu suốt cái lý của cái niệm đó, nó làm cho tâm con ly dục ly ác pháp.
(1:22:43) Còn về cái phần mà con nói, con nói ngồi tu mà nó cảm giác nó lạnh hay như thế nào? Nó nóng hả? Trong cái vấn đề mà nó gặp cái trường hợp mà như vậy đó, thì con sẽ dùng cái pháp Như Lý con tiếp tục con ngồi, mà nó cảm giác như vậy thì con tác ý một cái tướng khác của cái tướng.
Thí dụ như bây giờ nó cảm giác như nóng, con nói "Cảm giác cái thân mát lạnh, không được nóng nữa". Thì con cứ ngồi, rồi một lát con tác ý chừng nào mà con cảm thấy nó hoàn toàn nó mát lạnh, nó không còn nóng nữa thì thôi. Mà nó còn thì thỉnh thoảng con cứ tác ý, tác ý đến khi đuổi nó thôi. Thì con phải dùng cái pháp.
Bởi vì trong cái bài mà An Trú Tầm đó, thì đức Phật có dạy chúng ta tác ý một cái tướng khác cái tướng đó. Bây giờ mình đang bị cái tướng nóng, phải không, mình cảm giác tướng nóng thì mình tác ý một cái tướng mát mẻ, thì mình tác ý cho đến khi nó mát mẻ. Thì lúc bấy giờ nó đã đẩy lui được cái chướng ngại.
Đó là cái phương pháp đối trị mà đức Phật đã dạy cho mình, có 5 cái điều kiện đối trị các cái pháp ác. Mà cái đối trị các pháp ác thì trong đó có cái pháp ác thọ, nó làm cho mình khó chịu, nhức, đau cái gì đó thì mình cứ tác ý ra cái tướng đó.
Cho nên hầu như là có một số người bị bệnh, họ bị khổ, Thầy cũng theo cái bài pháp đó, mà Thầy dạy cho mọi người. Thì có người người ta đặt trọn cái niềm tin, thì họ tác ý, tác ý, nó sẽ hết. Còn có người họ bán tín bán nghi, họ cũng tác ý mà không hết là tại vì họ không có tin. Còn con bây giờ tin thì con nó sẽ hết, mà con không tin thì nó không hết. Con nhớ trong cái giờ mình ngồi tu mà bị trường hợp đó, thì phải tác ý.
(1:24:28) Phật tử: Kính bạch Thầy! Mấy năm nay con tu ở Nam Tông, thành ra ngày hôm qua con có xem một ít trang trong cái quyển “Đường về xứ Phật” tập 1 của Thầy viết đó. Thì thật ra con vào trường con tu 8 tiếng nên không có thời gian để đọc sách. Cho nên con không hiểu, mà con chỉ nghe quý sư giảng lại thôi.
Cho nên lúc đầu mới đến chùa thì con cũng ăn chay nhưng mà sau quý sư giảng thẻo, như trong sách mà "Đường về xứ Phật" mà Thầy có viết đó, thì con cũng nghe theo có lý thì con cũng dừng theo thôi. Nhưng mà bây giờ xem sách của Thầy viết, thì con thấy ở Nam Tông chúng con là, có cái chỗ này là như con xét thấy, vì cái chỗ đó cho nên là quý sư cho phép ăn mặn.
Là bởi vì quý sư lập luận rằng, quý sư có diễn giải trong kinh ra, quý sư cho rằng cái ý mà không nghe không thấy và không nghi đó, là bởi vì quý sư nói là không bảo, hoặc là không để, hoặc là không cho Phật tử giết con vật đó để cúng dường cho quý sư. Mà ở đây là Phật tử họ đi mua cái con vật ấy sẵn rồi, ví dụ ra ngoài chợ mua con cá họ đập chết ở đâu rồi đó, họ không biết, cái người mà vô chợ đó không biết, thì quý sư giải thích đó là không nghe, không thấy, thì con thấy hay.
Bây giờ xem sách của Thầy rồi, con thấy hai cái ý đó không nghe được. Nhưng cái ý mà không nghi đó, thì con thấy là không nghe được. Bởi vì, như Thầy nói đó, khi ăn thì tất nhiên mùi cá, mùi thịt thì con chưa chưa xét kỹ nhưng mà riêng con thấy cái mùi cá, thì ăn là biết liền, thì khi nào cũng có tâm nghi.
Cho nên là con bạch với Thầy là, cái vấn đề đó con xin bạch Thầy giảng thêm cho con, vì con ở Nam Tông sau này con về nữa, thì quý thầy quý sư có hỏi, con cũng thưa thật. Thì cái điều mắc mớ đấy là sau này con sẽ xin trở lại đây tu và học và, ở ngoài đó tu thì nó cũng có cái phần lợi. Cái đó là vấn đề thứ nhất.
(1:26:29) Còn vấn đề thứ hai nữa đó là, chúng con thường được quý sư cho phép đó, là buổi trưa thì ở Nam Tông là được phép buổi sáng ăn điểm tâm, còn buổi trưa thì 10 rưỡi hoặc 11 giờ ăn, còn buổi chiều thì không ăn, nhưng mà có được cho phép là buổi chiều dùng các thứ là thuốc chữa bệnh, ví dụ như là các loại nước ép khác hoặc là sữa, đường. Thì con bạch Thầy là có được hay không?
Còn cái thứ ba nữa, là ở Nam Tông đó, thì quý sư thường dạy là cái đường với cái sữa nó thuộc vào thuốc ngừa bệnh. Cho nên ngoài cái tầm 10 giờ rưỡi, thì buổi sáng hay buổi chiều đó, thì cái thuốc ngừa bệnh đó có dùng được hay không? Dạ con xin Thầy!
Trưởng lão: Ở đây thì Thầy sẽ trả lời. Trong một bài kinh mà trong kinh Trung Bộ, đó thì cái bài kinh Jivaka. Ông Jivaka là một vị quan của, trong cái thời đức Phật, ông đến ông hỏi, một vị thừa tướng trong cái thời đó. Ngài đến ngài hỏi đức Phật về cái vấn đề ăn chay, ăn mặn thì đức Phật có nói cho cái vị sư đó biết.
Thì đầu tiên đức Phật nói, thì trong bài kinh, lẽ ra thì nó phải có cái thứ tự, nhưng mà vì người ta kiết tập, người ta viết cái trước thành cái sau, cái sau thành cái trước. Cho nên Thầy chỉnh đốn lại cho thấy rõ. Đầu tiên đức Phật cấm, người cư sĩ mà cúng dường thực phẩm động vật cho Phật và chúng Thánh Tăng, thì có 5 điều phi công đức, phải không?
Kế đó thì đức Phật kể ra điều thứ nhất như thế nào, thứ hai như thế nào, thứ ba như thế nào, thì đã có cái điều kiện đức Phật đã nêu lên không có phi công đức như vậy, thì tức là có cái ý là cấm người đệ tử cư sĩ đó, mà cúng dường cho Phật với chúng Thánh Tăng, thì phải cúng dường cho đúng cách, đừng có tạo cái điều không có công đức đó. Cho nên đức Phật đã cấm.
(1:28:46) Kế đó thì đức Phật lại dạy thêm nữa, là một cái người tu sĩ đó, khi ăn là phải khởi cái tâm từ bi của mình khắp 4 phương, khắp 6 phương, phương Đông, phương Tây, phương Nam và phương Bắc và phương trên và phương dưới là 6 phương, nghĩa là khắp cùng.
Khắp cùng như vậy là rõ ràng là đức Phật muốn bảo chúng ta không phải là ăn mà chúng ta khởi cái tâm từ bi bốn phương gì đâu. Mà đức Phật nói khi ăn chúng ta phải nhìn vào cái dĩa thực phẩm chúng ta ăn, cái món ăn của chúng ta, phải toàn diện, quan sát toàn diện, gọi là khắp 10 phương hay là 6 phương, trên dưới trong ngoài tất cả mọi cái đều là phải khởi tâm từ bi ở trên cái món ăn của chúng ta. Ý của đức Phật muốn nói vậy.
Thì trong khi đó thì nhiều người ta không hiểu được cái ý này. Người ta nghĩ là, khi mà muốn ăn cái gì đó thì phải khởi cái tâm từ bi khắp cùng 10 phương, không phải. Mà đức Phật muốn trọn vẹn ở trên cái món ăn của chúng ta, phải cái tâm quan sát cái lòng từ chúng ta ở trên đó.
Mà khi mà lòng từ bi của chúng ta ở trên cái món ăn, thì cái thứ nhất là nhớ đến công lao của cái người cúng dường cho mình, người ta rất cực khổ, để mà người ta mói có cái thực phẩm hôm nay mình ăn. Vì vậy có nghĩa là đức Phật muốn nhắc nhủ chúng ta ăn đừng có phí của đàn na thí chủ.
Cái thứ hai nữa, thì Đức Phật nói tâm từ bi đó, thì tức là phải nhìn quan sát ở trên đó có sự sống, sự chết, sự đau khổ gì trên đó không? Nghĩa là có cái sự chết ở trên đó thì nhất định là không ăn. Bởi vì có sự đau khổ mà.
Thì như mình ăn một cái miếng thịt, mà trong miếng thịt mà mình ăn, mà có một sự chết của một cái loài vật, mà trước khi chết cái loài vật đó phải bị làm thịt, thì nó phải chịu đau khổ. Mà chịu đau khổ như vậy, thì không thể nào là chúng ta ăn hết. Tâm từ bi thì không có cho phép một người tu sĩ của đao Phật mà ăn như vậy.
(1:30:41) Đó, do như vậy là cái bài kinh đó đức Phật muốn dạy chúng ta thấy, đầu tiên là cấm người cứ sĩ rồi, kế đó đức Phật còn sâu sắc hơn nữa là dạy chúng ta ăn phải khởi tâm từ bi. Từ bi đầu tiên là phải biết ơn cái người mà làm ra cái của cải này, để mà chúng ta nỗ lực thực hiện tu hành cho xứng đáng với cái bữa cơm của chúng ta.
Cái từ bi thứ hai, kế đó là phải quan sát cái sự sống chết và khổ trong đĩa thực phẩm của chúng ta đang ăn. Rồi bây giờ mới đến cuối cùng, kế đó thì đức Phật mới dạy tới nữa.
Một vị Tỳ kheo ăn thì không thấy không nghe và không nghi, do các sư ở bên Nam Tông đó, thì các sư nói ăn không thấy người ta giết con vật, hoặc là cái người mà mua thực phẩm cúng dường không thấy người ta giết con vật, mua đem về thì có thể cúng dường được, thì cái đó là ăn không thấy không nghe không nghi.
Thì bây giờ ăn không thấy, không thấy người ta giết cho mình ăn, không nghe người ta giết cho mình ăn, không nghi người ta giết cho mình ăn, đó là cái lý luận của các nhà sư. Nhưng mà đọc lại cái bài kinh nói rất rõ ràng. Ăn phải khởi tâm từ bi, mà không thấy thì không thấy cái gì?
Nếu mà khởi tâm từ bi mà phải nhìn 6 phương, Đông, Tây, Nam, Bắc, trên dưới, như vậy là phải nhìn trọn vẹn ở trong cái dĩa thực phẩm của mình ăn chứ gì, phải không, khắp 10 phương ở trong này, thì trên cái dĩa này nó cũng là chứng tỏ nó toàn diện hết, mà chúng ta phải quan sát toàn diện.
Vậy thì không thấy cái gì? Không thấy thịt chúng sanh, chứ không thấy cái gì bây giờ?
HÊT BĂNG
NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT TRONG SỰ TU TẬP
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời lượng:1:33:42
Tên cũ: Những lời thầy nhắc nhở (Thầy trả lời thưa hỏi và sách tấn)
https://thuvienchonnhu.net/phap-am/nhung-dieu-kien-can-thiet-trong-su-tu-tap
https://thuvienchonnhu.net/audios/nhung-dieu-kien-can-thiet-trong-su-tu-tap.mp3
(00:01) Trưởng lão: Thầy sẽ đáp Thầy sẽ giảng luôn ba câu chứ không phải là một câu.
1. Nguyện làm tất cả điều lành.
Câu đầu, con thấy có ai làm tất cả điều lành được chưa? Chưa có bao giờ. Nguyện mà có ai mà làm được không? Chưa!
2. Nguyện đoạn dứt những việc ác.
3. Nguyện độ hết chúng sanh.
Câu thứ ba con có thấy ai độ hết chúng sanh chưa? Ngay cả Đức Thế Tôn (Đức Phật) còn chưa độ hết chúng sanh huống hồ là chúng sanh như chúng ta!
Ba câu này chỉ là một sự ước muốn, ước vọng của những bậc tu hành để sách tấn khích lệ mình trên bước đường tu tập chứ không phải là một việc làm viên thành. Con hiểu chưa? Đây là một cái ước muốn, cái ước muốn lớn lao như vậy đó là cái ước muốn để độ mình, để khích lệ trên bước đường tu tập mình vì chúng sanh còn đau khổ quá nhiều, vì chúng sanh còn ở trong ác pháp, vì chúng sanh chưa có thực hiện được. Cho nên mình quyết dứt cho được, làm cho được để cho sự độ. Đó là sau ước muốn để độ mình thoát ra khỏi.
Chứ còn độ chúng sanh, nếu mà đã nói rằng "nguyện độ hết chúng sanh" thì ông Phật đã độ hết chúng sanh từ cái lúc ông Phật cho đến giờ là 2541 năm tới chúng ta rồi, thế mà chúng sanh còn dẫy đầy. Chúng sanh ở đây không có nghĩa là loài người không, mà cả con trùng, con dế tất cả các loại chúng sanh thì làm sao mà độ cho hết được. Cho nên đây là cái ước vọng, cái lời ao ước để mà thực hiện cái tâm giải thoát của mình cho hoàn thành được cái sứ mệnh là làm tất cả những điều lành và dứt các điều ác. Bởi vì làm tất cả các điều lành rất khó, mà đoạn dứt các điều ác rất khó chứ không phải dễ. Nếu không có ước vọng lớn, cái tâm rộng lớn như vậy thì khó mà đoạn dứt được điều ác.
Cho nên thường ngày chúng ta ăn ba miếng cơm mà chúng ta nhắc nhở mình, sự thật ra cái sự khích lệ để cho mình thực hiện cho được các điều lành này. Nhiều khi chúng ta đọc nhưng tới chuyện chúng ta vẫn thấy tâm mình giận hờn, phiền não, đau khổ chứ chưa phải là hết ác pháp đâu, phải không? Rất là rõ ràng. Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu nó là những câu ước muốn, cái câu để sách tấn khích lệ chúng ta trên bước đường tu chứ không phải là cái việc làm chúng ta làm hết được.
Bởi vì tôn giáo chẳng qua ra đời để an ủi tinh thần của chúng sanh, để đem lại cái đạo đức giúp cho họ sống chung nhau, biết thương nhau đừng làm khổ mình, khổ người chứ không phải tôn giáo ra đời để mà độ hết người ta thoát cảnh khổ mà làm hết tất cả những cái điều thiện, mà thực hiện hết những cái điều thiện không làm được đâu; đó là cái sự ước muốn chứ không phải là cái sự viên thành, cái sự làm được.
(02:47) Hỏi: Có những vị đã chứng quả A-la-hán thấy biết rất rõ sao lại còn buồn khổ xin nhập diệt trước khi Đức Như Lai nhập diệt?
Nghĩa là câu hỏi của con ở trong đó như thế này nè, nghĩa là đã chứng quả A-la-hán sao lại khi nghe tin Đức Phật nhập diệt, các ngài lại xin nhập diệt trước Phật để không nhìn thấy khi Đức Phật đã nhập diệt, rất là đau khổ. Thì câu nói đó chúng ta sẽ xét nó ở trong cái bản kinh nào?
Đáp: Đó là bản kinh Đại Bát Niết Bàn của Đại Thừa của người sau viết như vậy. Còn kinh Nguyên thủy không có dạy như vậy. Các bậc A-la-hán khi đã thấy nhân duyên, thấy cái duyên nhân quả của mình đã hết thì các ngài xin Phật nhập diệt, chứ không có buồn khổ mà sợ rằng mình chết sau Phật, Phật chết trước mình phải thương nhớ đau khổ, không phải vậy. Chính vì cái chỗ mà thấy cái duyên nhân quả của mình hết. Bởi vì mình ở đây mình sống ở đây là do cái nhân quả, do cái nhân quả mà mình mới có cuộc sống này, mà cái duyên nhân quả của mình hết thì các vị đó họ đều nhập Niết Bàn.
(03:59) Cho nên tại sao mà khi Đức Phật sắp sửa nhập diệt thì các ngài cũng đều nhập diệt trước Phật, hoặc sau Phật, lần lượt họ ra đi hết, tại sao vậy? Cái duyên của một đấng giáo chủ đó nó có bao nhiêu vị đệ tử phải theo để mà xây dựng cái đạo giáo, tức là cái Phật giáo, thì khi là cái duyên nó hết rồi thì những người đó họ lần lượt họ ra đi. Họ hết cái duyên của họ rồi, thì họ không còn hỗ trợ ai nữa. Cho nên khi mà họ biết Đức Phật đã sắp sửa nhập diệt thì như ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên, ông La Hầu La, những cái bậc đó đều là họ đi trước hết, là vì họ biết Phật đã sắp sửa nhập diệt, họ đã hiểu biết trước chứ không phải vì họ thương, họ nhớ mà họ đi trước. Họ biết rằng cái duyên của họ cũng đã hết rồi, pháp tới đây chỉ còn lại ông A Nan, hoặc ông Ca Diếp, những ông đó mà thôi thôi, chứ còn chúng mình phải đi thôi là vì mình chỉ có cái duyên với Phật là mình theo hỗ trợ Phật, giúp cái giáo đoàn cho Phật. Mà bây giờ cái duyên hết rồi thì mình không còn giúp, tức là không thể giúp ông Ca Diếp, mà cũng không thể giúp ông A Nan. Cho nên khi còn Phật thì các ngài giúp mà Phật sắp sửa Niết Bàn thì các ngài đi. Do đó các con thấy cái duyên nó có cái sự khắng khít nhau ở chỗ đó.
Cũng như bây giờ các con về đây tu là có cái duyên với Thầy mới có quây quần xung quanh Thầy, mà nếu không có duyên thì làm sao quây quần. Nếu mà các con tu mà làm chủ được sanh tử thì các con thấy cái duyên đó rất rõ ràng. Bây giờ ngày mai Thầy tịch, thì cái duyên của con cũng hết rồi, con theo Thầy tới đây cũng hết rồi, vì còn Thầy thì chắc chắn là con còn hỗ trợ để cho đường lối của Thầy làm sáng tỏ thêm lên, mà bây giờ cái duyên của Thầy đã ra đi thì tức là con không thể hỗ trợ cho một cái người khác. Như bây giờ Thầy (TC) hoặc là Mật Hạnh, con không có duyên với quý Thầy đó cho nên con không có hỗ trợ cho quý Thầy được vì vậy các con phải ra đi với Thầy, vì duyên Thầy hết, con không hỗ trợ nữa. Đó là những cái gì chứ không phải vì buồn khổ, nếu mà còn buồn khổ thì tức là con còn tâm phàm phu, không thấy được nhân quả, không thấy được cái lý của Khổ, Tập, Diệt, Đạo, do đó thì nó không phải là bậc A La Hán.
(06:08) Cho nên kinh Đại Bát Niết Bàn thì nó diễn tả cái chỗ này là của những bậc A La Hán, bởi vì cái Đại Bát Niết Bàn đó nó là kinh của Bồ Tát rồi, chỉ có những bậc Bồ Tát, những bậc lớn hơn thì không khổ. Chứ còn A-la-hán xưng danh thì còn buồn khổ, cho nên nó mới hạ A-la-hán xuống cái tầng thấp, để cho cái A-la-hán của Đức Phật trở thành những người còn nhỏ, gọi là Tiểu thừa. Cho nên kinh Đại Bát Niết Bàn bên kinh phát triển, tức là kinh Đại Thừa thì viết là các bậc A-la-hán có buồn khổ.
Còn kinh Nguyên thủy thì không có dạy như vậy mà chỉ biết rằng cái duyên của mình nhân quả đã hết, thì đi trước hoặc đi sau Phật mà thôi, chứ không có buồn khổ. Còn những người mà tu chưa chứng, như ông A Nan hồi đó chưa chứng thì còn buồn khổ, còn khóc lóc.
Đó là kinh phát triển viết phỉ báng Phật pháp. Nếu trước cái chết của người thân còn buồn khổ thì không phải A-la-hán, nghĩa là đúng như kinh Nguyên Thủy thì cái người chứng quả A-la-hán thì không còn buồn khổ, mà còn buồn khổ thì không phải là A-la-hán, tức là không giải thoát.
Hỏi: Chinh phục được thân, thọ, tâm, pháp là làm chủ được thân, thọ, tâm, pháp phải không thưa Thầy? Còn nếu nhiếp phục thân căn, ý căn, khẩu căn, v.v.. là như thế nào? Có phải không phá hạnh độc cư là nhiếp phục được thân căn, khẩu căn, và ý căn hay không? Xin Thầy và cô Út giảng cho con được rõ.
Đáp: Chinh phục được Thân-Thọ-Tâm-Pháp là làm chủ được sự sống chết. Chinh phục được Thân-Thọ-Tâm-Pháp nghĩa là làm chủ được thân, thọ, tâm, pháp. Trong khi tu Tứ Niệm Xứ mà làm chủ được nó rồi, tức là chúng ta có định, mà có đạt được những cái định đó thì chúng ta làm chủ sống chết chứ không phải làm chủ thân, thọ, tâm, pháp. Nghĩa là lấy thân, thọ, tâm, pháp để mà chinh phục, để mà tu tập, để mà làm chủ được sự sống chết.
Còn nhiếp phục thân căn, khẩu căn, ý căn, nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn ở đây thì con có nói rằng chinh phục, còn nhiếp phục thân căn, ý căn, khẩu căn cho nên (chấm chấm) tức là nó còn năm cái căn chứ không phải là một cái căn, mà sáu căn, ngũ căn hay là lục căn. Thì thân căn là xúc căn đó - thân căn, khẩu căn, ý căn, nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thì sáu cái căn này thì đó là mới là phòng hộ sáu căn. Ở đây con dùng cái chữ “nhiếp phục” các căn của mình, đó là phòng hộ nó chứ không phải nhiếp phục.
Còn nhiếp phục nó tức là chinh phục Thân-Thọ-Tâm-Pháp, làm chủ được Thân-Thọ-Tâm-Pháp. Mà trong cái Thân thì nó có sáu cái căn, cho nên chúng ta nhiếp phục.
(09:03) Mà ở đây con dùng chữ nhiếp phục thân căn, khẩu căn, ý căn đó là tức là "phòng hộ" sáu căn chứ không phải nhiếp phục nó. Phòng hộ là giữ gìn nó để khi nó tiếp xúc với vật gì thì nó không bị dính mắc, tiếp xúc vật gì nó không bị tham đắm, không bị tham mê, do đó gọi là phòng hộ chớ không phải nhiếp phục nó.
Nhiếp phục nó tức là làm cho nó phục tùng, còn cái này là mình ngăn ngừa, phòng hộ, giữ gìn, bảo vệ nó để cho nó đừng dính mắc chứ không phải là nhiếp phục. Còn nhiếp phục là phải sai nó, như con ở trong định con sai nó, bảo: “cái lỗ tai này nghe vô, đừng có nghe ra ngoài”, đó là nhiếp phục; phần đó là phần nhiếp phục. Còn cái phần phòng hộ, giữ gìn cho nó đừng dính mắc, nghe người ta chửi đừng có để cái ý căn của mình dính mắc ở trong cái chỗ chửi đó, để rồi nó sanh ra cái phiền não, sân hận của mình, đó là phòng hộ.
Còn cái sự phòng hộ này thì còn gọi là Thánh phòng hộ sáu căn. Cho nên trong thân của chúng ta nó có sáu cái căn, do vì vậy mà chúng ta chinh phục được thân, thọ, tâm, pháp thì chúng ta đã chinh phục được sáu căn của chúng ta, mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chúng ta. Đó thân - ý căn.
Như vậy con hiểu biết được cái chỗ chúng ta đã tu tập cái nào mà để nhiếp phục được thân căn, khẩu căn, ý căn, nhãn căn, nhĩ căn, tỉ căn, thiệt căn.
Chúng ta tu ở trên cái chỗ pháp Định Vô Lậu thì chúng ta chinh phục được thân, thọ, tâm, pháp.
Chúng ta tu cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác thì chúng ta chinh phục được thân, thọ, tâm, pháp.
Chúng ta tu cái Định Hiện Tại An Lạc Trú thì chúng ta chinh phục được thân, thọ, tâm, pháp.
Chúng ta tu cái Định Niệm Hơi Thở chúng ta chinh phục được thân, thọ, tâm, pháp.
Nghĩa là tất cả các định chúng ta đều chinh phục được thân, thọ, tâm, pháp, mà chinh phục được thân, thọ, tâm, pháp tức là nhiếp phục được thân căn, khẩu căn, ý căn, nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn. Nhưng mà trước khi mà chinh phục nó thì chúng ta phải phòng hộ sáu căn, giữ gìn nó không cho dính mắc. Mà phòng hộ sáu căn giữ gìn không cho dính mắc, tức là Độc Cư.
(11:03) Độc Cư thì nó có hai phần, chứ không phải là một phần. Hôm đầu Thầy nhắc đi nhắc lại cái chỗ này rất rõ, tức là độc cư. Nếu mà phòng hộ sáu căn của chúng ta mà không độc cư thì khó mà phòng hộ.
Cho nên phòng hộ nó có hai phần - nó có bốn phần chứ không phải hai phần, nó có bốn phần.
Phần thứ nhất: Là phòng hộ sáu căn.
Phần Thứ hai là: Tâm không phân tán. Nghĩa là mình độc cư thì tâm không bị phân tán.
Phần thứ ba: Có thời giờ tu tập nhiều. Nghĩa là khi mà mình phòng hộ giữ gìn sáu căn của mình thì cái thời gian rảnh rỗi mình tu tập nhiều.
Phần thứ tư: Sống trầm lặng, tập sống trầm lặng không nói chuyện nhiều. Nghĩa là đời sống của mình sống được độc cư thì mình sống trầm lặng, và khi an vui được trong cái sự sống trầm lặng của mình, mình trở thành bậc Thánh, chứ không có gì.
Đó là bốn cái điều kiện của hạnh độc cư. Bốn cái điều kiện của hạnh độc cư đó mà chúng ta thực hiện được thì chúng ta tu tập rất dễ chứ không khó.
(12:05) Đó là cái phần trả lời của cái phần Hải Tâm hỏi Thầy. Nhưng phải lưu ý: tuy rằng hỏi, Thầy trả lời cho thông hiểu như vậy nhưng trong giai đoạn này cái tiên quyết của con là phải làm chủ sự sống chết chứ không phải chỗ hiểu biết đơn thuần như vậy. Cái chỗ hiểu biết như vậy để chờ sau khi tu xong rồi thì cái chỗ hiểu biết này, nó sẽ trả lời nơi thân con rất là rõ. Không cần phải hiểu biết trước, vì hiểu biết như vậy nó làm cho tâm của chúng ta nó không được an, tức là nó không được yên, nó không được thanh thản, mà nó còn cái pháp tưởng làm cho của chúng ta muốn tìm hiểu, muốn hiểu cho rõ thì chúng ta phải xả bỏ nó ngay liền tức khắc, không cần hiểu.
Bây giờ là trong giai đoạn phải vô lậu, phải quét sạch những cái này, dù là pháp của Phật cũng phải xả, huống hồ là pháp thế gian, nghĩa là Phật pháp còn phải xả thì những cái câu hỏi của con nó về Phật pháp chứ không phải ngoài Phật pháp, nhưng mà phải xả, thì huống hồ là pháp thế gian con còn phải bỏ. Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu rằng Phật pháp hỏi mà Thầy còn cho là pháp tưởng thì thử hỏi pháp thế gian còn chỗ nào mà các con chứa chấp ở trong lòng? Các con tu theo Thầy thì các con còn chứa chấp trong lòng pháp thế gian thì đó là một điều sai, phải xả nó xuống hết, bỏ cho sạch, không còn con cái, không còn gì hết hoàn toàn xả.
Nhưng phải khéo léo linh động, tâm mình chưa có xả được, nó còn thương nhớ thì nên tiếp duyên chứ đừng nên nén tâm. Nén tâm nó làm cho mình cô đơn buồn khổ rồi sanh bệnh, và sanh bệnh thì tu không được, cho nên phải hiểu.
Bởi vì 5 điều kiện mà có bệnh, thân không thể tu tập được đối với Đạo Phật mà, cho nên phải khéo léo. Khi biết tâm mình ở mức độ nào, độc cư ở mức độ nào thì chúng ta cố gắng giữ gìn, chứ không phải Thầy cấm các con đâu, vì sự giải thoát của các con mà Thầy nói lên những cái điều kiện như vậy để cho các con quyết tâm, chứ còn các con tu các con phải biết được cái tâm và các sức của các con ở mức độ xả tâm như thế nào, đừng quá ép.
(14:26) Đức Phật ví dụ như một cái dây đờn mà quá căng quá thẳng thì nó sẽ đứt, mà quá chùng thì nó không thành tiếng, làm sao mà vừa với cái sức của mình thì nó mới phát ra âm thanh được.
Thì như cô Út đã dạy, các con biết rằng cái sự tu tập nó không được thái quá, mà không được dễ duôi với nó, mà phải đi đúng chừng với cái sức của mình. Cho nên cái người mà tu thiền, luôn luôn lúc nào cũng biết được cái chỗ tu tập của mình rất là rõ ràng với cái sức của mình. Còn nếu mà cái người mà không biết, ham ngồi nhiều là như dây đàn căng thẳng, ham ngồi nhiều mà chất lượng không có thì phí mất thì giờ chúng ta không bao giờ đạt. Cho nên ở đây chúng ta phải biết cái sức của chúng ta tu.
Thời gian ôm, Minh Tông đã tu theo Thầy, Thầy thì không phải như cô Út, nói thẳng, Thầy bảo: “Đừng có ngồi nhiều”. Không nghe mà ngồi nhiều thì bây giờ mới hiểu ra: “Tại vì con không nghe lời Thầy, nếu con làm Thầy như Thầy thì con bắt phải là thực hiện 1 phút là tu cho đúng 1 phút”. Nói sự thật ra nói là nói một điều, nhưng khi tâm người ta muốn ngồi 1 giờ thì mình làm sao mình bảo tu 1 phút, người ta thấy an người ta thích thì người ta cứ ngồi nhiều. Ai đâu mà đi theo kềm, chỉ người ta có tin mình hay không?
“Bây giờ con mới hiểu ra được từ cái chỗ ngồi 6, 7 tiếng đồng hồ nó không kết quả cho con, bây giờ con trở lại tu 30 phút, 1 giờ để đạt cho được cái đạo lực, con rèn đạo lực. Thì bây giờ con mới thấy được cái chỗ rèn đạo lực của con thì con đã mất đi, thay vì năm thứ nhất con đã mất đi… Năm thứ hai con lặng ở trong, kéo dài ở trong cái trạng thái an để rồi 6, 7 tiếng đồng hồ mà lại rơi trong vô ký thì…, thì lại rơi trong giấc mộng, thì tất cả những cái này nó làm mất thì giờ con tu tập. Kế năm thứ ba con chẳng nghe lời Thầy, tu dài dài. Bảo tu tập tỉnh thức trong giấc ngủ thì sức của mình tu tập trong 5 phút, thì tu tập trong 5 phút, đằng này tu tập cả tiếng đồng hồ trong 1 tiếng đồng hồ, rồi 2 tiếng, rồi 3 tiếng, tăng dần lên tới 4, 5 tiếng thì làm sao tỉnh thức trong giấc ngủ được, nó phải kéo dài. Cho đến bây giờ tỉnh ra mới thấy được”.
Và đồng thời thì ở đây nói chung là các con vẫn thấy được cái sai, chứ không phải không thấy được cái sai, nhưng mà chừng mà ngộ ra được, tỉnh ngộ ra được thì đã mất cái thời gian rất nhiều.
(17:13) Và đồng thời các con cũng thấy rằng tu tập của các con có quyết tâm tu nhưng mà không nhiệt tâm với cái sự tu tập. Giờ tu của mình coi thường mà không xem nó là cái giờ của mình khoanh chân lên làm cái giờ làm chủ sanh tử, chấm dứt sự luân hồi tái sanh của mình là một điều quan trọng của con người theo Đạo Phật. Cho nên không khoanh chân thôi, làm gì làm, nhưng mà đã khoanh chân rồi nhất định là phải chiến đấu, chiến thắng cho thật. Như vậy mới có kết quả, như vậy mỗi ngày mới có tiến bước nhanh chứ còn không thì mất thời gian.
Hôm nay Thầy dạy để cho các con biết được mà nỗ lực, còn những gì thưa hỏi thì sẽ thưa hỏi.
Còn về phần Đào, dự định xin về thì Thầy trả lời bức thơ của nó, Thầy sẽ dẫn (…)
Các con còn gì hỏi Thầy nữa không?
Hôm nay Thầy xin nhắc lại, có nhiều cái phần các con đừng có tu mênh mông, các con sẽ chia ra từng thời gian các con tu Định Vô Lậu, đó là cái thứ nhất.
Cái thứ hai thì các con tu, các con sẽ dùng các đối tượng trong công việc làm, nhất là mấy con đang ở trong giai đoạn diệt ngã, xả tâm - ly dục, ly ác pháp thì nỗ lực xả tâm cho thật sạch. Mỗi mỗi một cái tâm niệm của mình khởi lên là lấy cái đối tượng xả liền, có chuyện gì mau mau xả liền vì đời sống của chúng ta, không có được để cho tâm chúng ta kéo dài cái sự lo sợ, cái sự sợ hãi, mau xả liền tức khắc để cho tâm chúng ta trở về thanh thản, đó là cách thức xả, xả liên tục hàng ngày, hàng giờ lúc nào chúng ta cũng xả, đó là cái sự tu tập.
Và thường nhắc tâm: “tâm như cục đất”, nhưng mà làm sao nó như cục đất chứ không phải là nhắc nó như cục đất rồi để cho nó thành cục đất. Nghĩa là nhắc tâm để cho chúng ta nhớ là khi có chuyện gì thì ngay đó phải tìm mọi cách để biến cho nó trở thành cục đất thật sự, (…). Thì như vậy cái hướng tâm của chúng ta nhắc nó như cục đất là cái tâm niệm của chúng ta luôn luôn đặt trên hàng đầu để mà diệt ngã xả tâm - ly dục, ly ác pháp. Có như vậy chúng ta mới thấy được kết quả.
(19:40) Ở đây thì Thầy nhắc nhở mấy con rất nhiều, rồi ngày nào Thầy ra đi rồi thì lấy ai mà nhắc nhở, mà các con đã nắm được, hiểu được mới tu đúng được. Thời gian ngắn như thế này mà các con đã hiểu biết tu mới đúng được.
Bây giờ thí dụ như Hải Tâm đang đạt được ở trong cái trạng thái Diệt Tầm Tứ, thì bây giờ đang ở trong cái sự yên lặng đó, cố gắng mà nỗ lực. Mục đích chúng ta phải đạt là nó vắng lặng, làm sao hướng tâm đạt được vắng lặng, chứ không phải là ở trong cái trạng thái yên lặng thọ hưởng cái trạng thái yên lặng đó, mà phải lấy cái trạng thái yên lặng đó làm cái chỗ đứng cho chúng ta tu tập để giải thoát. Đó thì cái điều kiện mà cần phải làm, là cái điều kiện rất rõ, chứ đâu có phải gì nhiều đâu.
Rồi kế đó chúng ta tu tập cái gì? Thì như Hải Tâm con phải tu tập cái gì? Tu tập Định Vô Lậu, vì biết rằng cái tâm lậu hoặc của mình tuy có xả rất nhiều nhưng chưa phải hết đâu, cho nên hàng ngày chúng ta phải nhắc nhở nó và hầu hết duyên sự gì chúng ta sẵn sàng tiếp đón duyên sự đó để mà xả tâm, nghĩa là tiếp đón nó để mà chúng ta biết được tâm mình xả.
Còn nếu mình sợ nó mình trốn chưa chắc đã là xả, nghĩa là mình trốn tránh là sợ rồi, không bao giờ mình xả. Nghĩa là mình phải tiếp đón, để rồi mình quán xét lại cái tâm của mình coi nó xả hay không xả? Nếu mà nó còn tức là mình phải xả, phải tiếp nhận nó để mà xả, chớ không phải tiếp nhận nó để mà phiền não. Tiếp nhận rồi mình phải dùng tất cả những cái sự tu tập của mình, những cái kinh nghiệm tu tập của mình mình quét nó ra từ đó chúng ta có đủ lực để mà tu tập, để mà xả tâm. Thì trên cái bước đường tu tập như vậy các con thấy đâu có phải cực, tu tập nhiều đâu.
(21:22) Bây giờ con còn phải tu tập cái thứ ba là Tỉnh Thức. Tỉnh Thức tức là mình đi kinh hành, mình làm công việc mình làm tất cả mọi cái, làm một mình mình nè, không làm hai người, ba người nè, làm một mình quét sân, luôn luôn mình giữ cái tâm mình ở trong những cái hành động của mình để cái Tỉnh Thức nó cao. Mà Tỉnh Thức cao thì mình mới vào, khi mà tâm nó vắng lặng không nghe âm thanh thì cái Tỉnh Thức đó nó sẽ trợ giúp cho mình… chứ còn nếu không đủ cái Tỉnh Thức - mà hiện bây giờ không có tu cái tỉnh thức này nhiều - tới chừng đó cái Tỉnh Thức ở đâu mà có cho mình, không tu làm sao có. Còn mình tu nó mới có chứ, mình tỉnh thức ở trong cái hành động của mình từng đó, tỉnh thức ở trong cái sự yên lặng, vắng lặng của mình chứ nó đâu mất được.
Cho nên cái bài kinh Đức Phật nhắc nhở như thế này: khi mà tâm chúng ta đã nhập Tứ thiền rồi thì cái trạng thái Tứ thiền đó là cái trạng thái thanh tịnh nhất của tâm của chúng ta, ở trong đó cái sức tỉnh nó rất là cao độ, cho nên chúng ta muốn cái gì chúng ta được cái nấy hết.
Nghĩa là muốn cái thân này biến ra thành Tâm Như, nó ra thành Tâm Như liền tức khắc; muốn cái thân này ra cái gì thì nó ra cái nấy. Bởi vì khi mà chúng ta vào Tứ thiền chúng ta muốn cái hơi thở ngưng, muốn các hành trên thân ngưng, nó ngưng liền. Lúc bây giờ chúng ta được nhập vào trong Tứ thiền rồi thì cái muốn của chúng ta tức là Dục Như Ý Túc, nó muốn như thế nào thì ở trong đó người ta hướng được hết. Muốn tức là hướng tâm chứ không phải gì. Chúng ta muốn tức là hướng nó về đó, mà hướng nó về đó là phải đạt. Như vậy rõ ràng là cái đạo lực của chúng ta chứ cái gì.
Cho nên ở đây các con không có thấy được cái chỗ mà tu tập: rèn luyện từng cái đạo lực của mình để cho cái muốn của mình, muốn theo cái gì nó làm cái nấy. Ở đây mình đã ly dục ly ác cho nên cái muốn của mình muốn thanh cao chứ không phải cái muốn của phàm phu. Cho nên Đức Phật gọi Tứ Như Ý Túc là Dục Như Ý Túc, muốn cái gì thì làm cái nấy. Nói như vậy không có nghĩa là nói về thần thông, nói như vậy nghĩa là nói về cái đạo lực của chúng ta làm được những cái chuyện phi thường mà chúng ta phải nỗ lực.
(23:26) Rồi đây nghe Thầy nói như vậy, thì các con khi ngồi tu lại muốn cho mình có thần thông, thì cái đó là cái nguy hiểm đó. Cho nên ở đây thì không được muốn, mà chỉ nói để cho biết chúng ta phải thực hiện cho được ở cái chỗ này, chứ không phải ngồi đây như mà muốn bay lên trời, không phải được. Cho nên cái chuyện nói là một cái lý nhưng mà đừng có hiểu qua cái chỗ nói rồi bắt đầu ngồi yên lặng một hơi, bây giờ chắc bay lên, bây giờ nó yên lặng rồi đây nó bay lên, nó vắng lặng bây giờ nó nghe rồi nó bay, thì cái đó là cái muốn bậy rồi. Bởi vì khi mà chúng ta làm chủ được sự sống chết rồi thì cái muốn của chúng ta nó là cái hướng tâm. Cái tâm của mình phải đề phòng. Bây giờ nó còn buồn thương giận ghét mà nó muốn thì nó muốn trong buồn thương giận ghét rồi chứ nó không phải là cái muốn của Thánh nhân, cái muốn của Thánh nhân là cái tâm này phải sạch.
(24:14) Đó, thì hôm nay Thầy nói như vậy để cho biết rằng cái bước đường tu tập của các con là phải tu tập ít, nhưng tu tập ít mà cái chất lượng cao, chứ không phải tu tập nhiều mà nó được nhiều. Tu hoài tu hoài mà thời nào tôi cũng lờ mờ, lờ mờ, thời nào tôi cũng không làm chủ hết thì tu cái đó tu cái gì? Tu hoài mà không hết vọng tưởng, tu hoài mà không hết cái tâm nó cứ còn thương, còn nhớ, còn ghét, còn giận, còn hờn hoài mà tu như vậy tu cái gì?
Thầy nói mục đích tu là mình phải xả, phải làm sao cho hết; thế mà tu cứ còn hoài cái đó là tu cái gì? Tu là phải dẹp cái đó, dứt bỏ cái đó. Đã quyết tâm đi tu rồi phải xả bỏ cái này chứ, tại sao mà cứ để hoài?
Các con không có rầy cái tâm của mình, không có rầy mình, không có mắng mình: tại sao đi tu rồi mà còn cái tâm này còn hoài, phải xả bỏ chứ cái này bộ tốt lắm sao? Cái này là cái đau khổ, cái này là cái không tốt của đời người, cái này là cái chìm nổi ở trong sự sống chết sanh tử luân hồi; nó đâu có tốt lành gì cho nên phải xả nó, bỏ đi, không cần thiết mấy thứ này.
Ở đây đâu còn lo đói, lo no, lo gì nữa hết, có gì ăn cái nấy, sống đâu có cần là phải buồn vui ở trong này nữa, đâu có cần ngon béo bở nữa, mà chỉ cần sống để mà thực hiện cho được cái sự giải thoát. Phải quyết tâm, nhiệt tâm. Ở đây phải có sự tư duy suy nghĩ đừng có để cái tâm niệm nào xen vô, tạp niệm nào xen vô, hoặc cái trạo hối nào xem vô làm cho tâm mất thanh thản. Phải nhiệt tâm, phải kiên quyết, gan dạ, kiên trì, coi nó, lúc nào cũng phải dùng pháp hướng, quán xét đập vỡ đầu nó xuống, đừng có để cho nó lẵng nhẵng, lẵng nhẵng đeo đẳng hoài trong đầu của mình thì có ích gì.
(26:08) Các con thấy ba năm trời dài đằng đẳng chứ đâu phải một ngày, đến giờ này là phải quyết định rồi, không còn cái giờ phút chậm trễ, phải quyết xả cho sạch, bỏ cho sạch. “Nếu mày không đi tao đập đầu cho chết cho rồi”, nói vậy nó ớn nó phải đi. Chứ sống làm gì mà cứ đeo đẳng hoài như thế này. Thì các con thấy một Thánh ni người ta đã thắt cái vòng rồi, “nếu mà mày không đi tao đưa cái cổ vô, tao đạp ghế là mày đứt đầu liền tức khắc, chứ tao sợ à!” Người ta còn như vậy, người ta còn nghĩ như vậy, vì vậy mà nó sợ quá, nó rút lui nó đi mất. Còn mình chưa dám chết cho nên nó chưa chịu rút lui. Cho nên vì vậy phải nhiệt tâm, phải đem hết sức lực của mình, phải xả bỏ, ly dục như đất, không còn ham muốn gì, đời này không còn ham muốn gì, không có cái gì mà tốt đẹp, cái gì đều là vô thường, không có gì mà trường tồn ở trên thế gian này. Ví như ngọn tháp này mà nó còn thay đổi đủ thứ hết, huống hồ là cái gì, cho nên chúng ta cố gắng xả bỏ hết, quyết định xả bỏ cho sạch.
Cũng như cô Diệu Hảo, lớn tuổi rồi mà chỉ còn sức khỏe như vậy đó là có phước, mà bây giờ còn một chút gia duyên nhỏ, quét cho sạch ra đi đừng có để. Một ngày qua là một ngày đau khổ, nỗ lực thực hiện sống trong một cái thất vắng vẻ ở bên bờ kinh kia kìa mà ngồi mà nhìn nước mà nghe dòng nước chảy để rồi tâm nó thanh tịnh, chứ còn nếu mà ngồi đó mà lo toan cái này, cái kia biết chừng nào mà cho nó giải quyết được, bỏ hết, dẹp hết xả hết đi, để rồi còn một cái gì thì xả tiếp, xả chưa hết coi như.. .một ngày nào đó thân này hoại diệt rồi thì còn giữ được cái gì đâu? Danh cũng chẳng còn, mà lợi cũng không còn, chỉ có hai, chỉ có nhân quả thiện, ác là tiếp tục đi tái sanh luân hồi rồi thọ lấy khổ. Cho nên bỏ xuống đi, đừng có nghĩ gì hết, hoàn toàn bỏ hết.
(28:08) Còn riêng Hải Tâm, Tú với Tám, như cô Huệ Ân sau khi mà mình đem cái hài cốt của ông thân về đây rồi các con hãy xả xuống đi, nỗ lực mà tu, đừng có lo cái gì nữa hết, đừng có bận tâm gì nữa. Cứu mình đi, tức là mình đã tu xong, cứu mình được tức là đã tu xong, vì Phật pháp còn có người tu chứng thì còn có người tin tưởng ở Phật pháp, mà không có người tu chứng thì Phật pháp không còn. Mà các con đã từng theo Thầy ba năm nay rồi, còn gì nữa mà không xả bỏ.
Tại sao ở đây cô Út không có nhận thêm nữa, vì nhận thêm cô Út cũng còn phải tu cho mình chứ, cũng còn những bước đi cuối cùng của mình chứ. Bây giờ nhận thêm nấu cơm, hằng ngày cho các con ngồi tu tập, còn mình thì tu tập không được, bởi vì phải lo cái này, lo cái kia, lo cái khác thì không tu tập được. Còn Thầy ra đi rồi thì Thầy an trú ở trong hang, trong núi, Thầy dẫn ba cái ông tăng này đi Thầy nhét trong núi cho cọp ăn cho rồi hết, chứ tu ở ngoài này có làm được cái trò trống gì, các con thấy có làm được cái trò trống gì? Ít bữa gia đình đến thăm, đến viếng riết, tu hành cái thứ gì được.
Thật sự ra cái tâm trạng của con người đâu phải dễ con, khó lắm, vắng vẻ ở xa xôi trong rừng núi tu không ai tới thăm viếng, làm gì đi vô đó nổi mà đi, thì đâu có ai thăm viếng mà không thăm viếng thì cái tâm tuôn trào. Nhưng cái tâm có con có động hay không chừng đó các con biết. Vô trong rừng núi rồi ngồi, bây giờ các con nó không tới rồi mới thương, mới nhớ, mới khóc, mới lóc. Thì cũng như cô An Tịnh đi vào trong này tu rồi bắt đầu vô đây các vị độc cư rồi, không nói chuyện gì được hết cho nên bắt đầu mới nhớ ở ngoài vui vẻ, cho nên rất sợ sệt. Do đó mình phải nhờ cái đối tượng, nhờ cái sự độc cư mới thấy được cái tâm tuôn trào, tuôn trào ra hết, quyết định xả chứ đừng có để. Ai tu cho mình được, chỉ có mình xả chứ còn. Bởi vì mình dứt bỏ; dứt bỏ có mình dứt bỏ chứ không ai dứt bỏ cho mình, mình ráng, cứu mình chỉ có một mình.
(30:22) Đó thì hôm nay tất cả những cái, hơn nữa nửa tháng mới gặp Thầy một lần, mà gặp Thầy một lần Thầy nhắc nhở hết sức nhắc nhở. Nghĩa là tu phải có chất lượng tu thời gian phải ngắn, tu cho đúng cách chứ đừng có tu sai. Chẳng hạn như các con thấy ngồi thấy an thì bắt đầu: Thầy bảo 30 phút ngồi lại 35- 40 phút thì như vậy là sai rồi không đúng, cho nên những cái này thì các con hầu hết là sơ sót. Tu thì tu lờ mờ, tới giờ ngồi thì vô ngồi chứ còn không có chất lượng. Cho nên mấy con tịnh tu bây giờ, tới bây giờ mà vọng tưởng chưa đứt. Còn riêng Tú thì con phải tu tập Định Vô Lậu xả cho nhiều, nghĩa là tiếp duyên rồi tạp niệm xả cái tâm cho sạch. Đừng có nghĩ rằng khoanh chân ngồi là tu cái đó không phải, mà chính xả tâm vô lậu; ly dục, ly ác pháp, lúc nào cái tâm cũng an vui hết. Đó là cái tâm thanh tịnh đó.
Cho nên Phật dạy: “Ly dục, ly bất thiện pháp nhập Sơ Thiền”.
Cái thiền đầu tiên của chúng ta là cái Tâm Xả mà, rồi từng đó nếu mà chúng ta dùng cái Định Vô Lậu, mà dùng các pháp hướng mà chúng ta nhắc nó, mà xả nó như cục đất được rồi, thì cái pháp hướng đó nó có hiệu quả là bảo nó: “tịnh chỉ tầm tứ” thì nó tịnh chỉ, nó không còn vọng tưởng nữa. Bảo: “cái tâm quay vô định ở trên thân, không có được nghĩ ngợi cái gì hết, luôn luôn biết hơi thở ra biết hơi thở vô, hơi thở chậm và nhẹ, không được thở ngắn, không được thở dài quá, không được thở mạnh quá”, bắt đầu hơi thở nó cũng theo truyền lệnh đó một cách tự nhiên của nó.
Do cách tu mà quyết định tu được cái Tĩnh Giác Chánh Niệm Định và cái Định Vô Lậu xong rồi, thì tới tu Hiện Tại An Lạc Trú là bảo đảm thành công. Các con chỉ ra lệnh là nó quay vô, cái tâm nó quay vô nó chỉ biết hơi thở ra, vô. Nó biểu hơi thở chậm nhẹ, nó chậm nhẹ. Mà các con không chịu tu cái định này mà các con cứ ngay cái định hơi thở mà cố gắng mà ức chế nó thì các con sẽ bị rơi vào trong tưởng.
(32:24) Đó là những cái khó mà hầu hết Thầy căn dặn nhắc nhở rất nhiều. Vừa rồi thì có một người Phật tử người Hoa, được nghe băng Thầy, rồi xin cô Út lên đây gặp Thầy. Thầy cho gặp thì nhìn cái người này họ tu cái thiền định gì Thầy cũng chả biết nhưng mà có điều kiện (…). Cho nên đó là những cái tu mà không Thầy, tu mà ức chế tâm nhiều quá.
Ở đây không ức chế tâm, tu là dùng cái Định Vô Lậu quán xét xả tâm cho thành tựu. Tâm không phiền não, không giận hờn, tâm như cục đất chừng đó cái tâm được như vậy thì cái pháp hướng các con là hướng vô lậu mà nó được tâm như cục đất rồi thì các con bảo: “cái tâm quay vô, định ở trên thân, biết hơi thở ra vô”. Ra lệnh như vậy rồi bắt đầu thì con vẫn thấy cái tâm nó bám chặt hơi thở, nó không bao giờ mà nó có vọng tưởng. Con bảo: “ba mươi phút phải xả ra”, ba mươi phút cái nó xả. Con phải nhắc chứ con không nhắc nó ngồi một giờ, hai giờ nó quên đi, nó cứ nó biết vậy nó ngồi một giờ hai giờ. Thấy nó ngồi được như vậy rồi cứ ngồi riết, tiếp, tiếp, nó dẫn đi tuốt luốt. Cho nên ba mươi phút xả ra, xả ra tu tập cái khác. Rồi tới chừng nó hết, tới chừng đó mình thấy mình tới giờ gom, ngồi khoanh chân lại mình nhắc: “tâm quay vô định trên thân, biết hơi thở ra vô, hơi thở chậm và nhẹ”, bắt đầu ra lệnh như vậy rồi hơi thở mình thở nó chậm lại, khỏi cần tập trung, chỉ có nói vậy thôi…
(34:10) Cho nên cái mục đích chính là các con phải tu cái Định Vô Lậu trước đi. Bởi vì trên Tứ Niệm Xứ Phật dạy rất rõ: “trên thân quán thân tu về nhân tướng”. Nhân tướng là cái tướng thân để khắc phục tham ưu, tham là tham, nó có tham nó mới có ưu; nó có sân nó mới có ưu phiền; nó có si nó mới ưu phiền chứ; tham, sân, si. Cho nên mình khắc phục được tham, sân, si thì tức là mình tu cái Định Vô Lậu. Thì ngay đó ở trên thân, mình tu cái Nhân Tướng đó. Còn những cái Hành Tướng thì tu Chánh Niệm Tỉnh Giác, rồi tu cái Định Niệm Hơi Thở; đó là mình tu. Vì vậy cái tu đầu tiên là cái Định Vô Lậu, “trên thân quán thân tu về nhân tướng”. Do đó con làm sao tu được cái thân thọ tâm pháp. Bốn cái này là bốn chỗ liên tục tu.
Bây giờ cái thọ của con nó đánh nó đau nó nhức cái chỗ này, thì ngay đó là mình cũng phải dùng pháp hướng mình đánh, đuổi nó đi, đó là trên-thân-quán-thân về Thọ. Mà trên thân quán thân về Tưởng, nó tưởng cái gì thì mình phải quán xét, lìa nó ra đi, chứ đừng có để nó, bây giờ nó nghĩ tưởng nó nhớ cái chuyện này, nhớ cái chuyện kia như mấy con lớn tuổi có con cái rồi nhớ cái này, nhớ cái kia nhớ con nhớ cái rồi thì tức là dùng đến cái đó, đuổi nó đi, trên tâm mình đuổi đừng có để cho nó…
Rồi trong các pháp, trong các đối tượng nó xảy đến cho mình chuyện này chuyện kia thì hoàn toàn là mình cũng dùng cái Định Vô Lậu đó. Trên các pháp mình quán các pháp để mình phá nó đi, diệt sạch nó đi thì rõ ràng là mình ly dục ly ác pháp chứ còn cái gì nữa? Thì nội ở trên-thân-quán-thân mà tu Định Vô Lậu không thì các con thấy đã là tâm giải thoát rồi. Mà tu như vậy là các con thấy hầu hết là suốt ngày tu, không có thời giờ. Thầy nói nếu có cơm mà người nào cho ăn không, đừng có cho làm cái gì hết, tự mình quét sân, tự mình nhổ cỏ, làm gì một mình; mình tu, đâu có thời giờ mà suốt ngày thương nhớ. Tại vì các con để kẽ hở nó mới nhớ nhà nhớ cửa, nhớ con nhớ cái chứ còn các con tu liên tục làm sao nhớ nhà, nhớ cửa được.
(36:13) Còn cái Chánh Niệm Tỉnh Giác thì các con tu trong hành động thôi, còn cái chỗ nào mà kẽ hở nữa đâu lọt vô được trong tâm các con. Cho nên mỗi lần có cái kẽ hở tức là bị thất niệm, mà thất niệm đương nhiên coi như là mình chưa xứng đáng là người đệ tử của Phật, bởi vì người đệ tử của Phật là không thất niệm. Thì các con thấy cái bài kệ Nhất Dạ Hiền, ông A-Nan một đêm mà làm thánh hiền “Tuệ trí quán vô lậu”. Ở trong cái bài kệ đó nó có hai cái câu kệ. Cái câu thứ nhất là “Chánh Niệm Tỉnh Giác đây”, "Tuệ tri quán vô lậu”
Hai câu kệ rất rõ ràng. Hai câu kệ đó chỉ cho chúng ta thấy một đêm người ta không thất niệm thì người ta đã thành Phật chứ đâu phải cần phải tu tới nhập Tứ thiền đâu. Mà các con thấy khi cái Chánh Niệm Tỉnh Giác với cái Tuệ tri quán vô lậu mà đạt được, thì Tứ Thiền nó lại nhập được, nó đâu có khó gì. Bởi vì nó là cái đạo lực của nó rồi, thành ra nó chỉ bảo: “Tầm tứ diệt, nhập Nhị thiền”. Bởi vì cái Chánh Niệm Tỉnh Giác với cái Định Vô Lậu là cái Sơ Thiền rồi, nó ly dục, ly ác pháp rồi.
Do đó thì nó ra lệnh, thì bắt đầu bây giờ tầm tứ phải diệt nè, tâm phải định ở trên thân nè, phải quay vô nè, biết hơi thở rõ thì bắt đầu nó biết hơi thở ra vô, ra vô mà nó không khởi niệm vọng tưởng nào hết thì tầm, tứ nó diệt thì nhập Nhị thiền rồi.
Thì bây giờ nó tiến tới phải xả hết các trạng thái hỷ nè, phải không còn mộng mị chiêm bao nữa nè, phải hoàn toàn tỉnh thức trong suốt đêm ngày không có được ngủ nè. Thân ngủ mà tâm không ngủ nè. Nó ra lệnh như vậy thì bắt đầu suốt đêm này nó không ngủ, nó hướng nó biết hơi thở ra, vô, ra vô hoài. Mà cái thân thì không ngủ, cho nên nó không bị hôn trầm.
(38:00) Rồi bắt đầu nó ra lệnh nữa: “bây giờ cái hơi thở ngưng nè, các hành trong thân ngưng nè” thì tuần tự nó ra lệnh, lần lần nó đi hết toàn bộ. Thì như vậy có cần phải tu tập như mấy con bây giờ còm lưng cúp cổ như vậy không, mà nó có vô được chưa?
Cái tâm thì còn dẫy đầy như là cái bãi tha ma vậy đó. Nghĩa là như cái thây ma mà chưa có chôn nó quăng bừa ở trên cái nghĩa địa, các con chưa có dẹp sạch, rồi các con bây giờ lo tu đi, tu những cái định diệt tầm tứ để nhập Nhị thiền để có định sanh hỷ lạc, rồi Tu Định Vô Lậu, tu cái định Tam thiền, Tứ thiền làm sao tu được? Cái tâm của mình Sơ Thiền nó như là cái bãi tha ma không hơn chút nào hết, nó ô nhiễm đủ thứ, hễ mà hở ra thì nó dính mắc cái này, hở ra nó dính mắc cái kia đủ thứ, nó phiền não, nó đau khổ, nó thương, nó ghét, nó giận, nó hờn, nó nhớ những kỷ niệm năm xưa, nó trạo hối điều này, nó hối hận những điều kia đủ thứ hết không bao giờ sạch, chất đống cũng như một cái đống rác vậy đó. Nếu mà đem ra thì cái mùi hôi thúi khắp cả trời, nghĩa là tới cái mây xanh nó còn thúi tới trển, bởi vì nó bất tịnh mà.
Cái tâm niệm thế gian cũng vậy, nó bất tịnh vô cùng, nó có thể hôi thúi, thế mà chúng ta không thấy hôi thối chúng ta cứ ôm ấp ở trong tâm. Cũng như mấy người mà nằm trên đống rác rất là hôi thúi, mình đi ngang mình bịt mũi gần chết mà họ vô trong họ cào khắp, các con thấy không? Mấy cái người mà moi rác họ vô đó họ móc ở trong đống rác, còn mình đi ngang mình bịt mũi mình đi.
Thì mấy con thấy khi mình nằm trên những cái tâm mà phàm phu tục tử thì nó như mình nằm trên cái đống rác, mà những bậc thánh nhân người ta đi ngang người ta sợ muốn chết, người ta bịt mũi người ta đi, người ta không chấp nhận. Còn mình thì lăn ở trên mà nằm ở trên, mà lại còn nói thương nhớ bỏ uổng. Đó là những cái Thầy dùng những cái danh từ như vậy là Thầy muốn cho các con xả tâm, chứ Thầy nói làm chi cho nó mệt, muốn cho các con xả tâm, nhiệt tâm mà xả cho sạch, coi như cái đống rác bẩn thỉu chứ không phải đẹp tốt gì. Thì có như vậy mới ráng nỗ lực tu hành mới đạt được kết quả, chứ còn không thì không có kết quả.
(40:14) Hôm nay Thầy trả lời cô Hải Tâm vấn đề tu tập, nhưng từ đây về sau có những cái pháp tưởng mà khởi lên thì Hải Tâm hãy chú ý để xả bỏ. Còn nói chung thì như các con, tức là cô Lan cũng bị pháp tưởng, tuy rằng chưa tới đâu, bởi vì còn nhiều, thỉnh thoảng phạm giới luật, pháp của Phật đã nhét ở trong đầu của mình, tích lũy rất nhiều, rồi thỉnh thoảng ngồi tu nó lại phóng ra, phóng ra rồi nó biết tu sai. Hỏi cho biết, hỏi biết để làm gì?
Tu đi, tu cho xong giải thoát rồi cái gì cũng biết hết, khỏi cần hỏi nó cũng biết. Bây giờ có hỏi đi nữa nghe cho rõ ràng vậy thôi, mai mốt đi ra nói dóc chứ làm gi. Nói láo thiên hạ chứ mình nói theo cái miệng của Thầy thôi chứ, mình chẳng biết cái đó nó như thế nào nữa. Bởi vì người ta ăn người ta biết ngon dở còn mình chưa có ăn, mình cũng nói ngon ngon chứ sự thật ra mình chưa có có biết nó thế nào. Cho nên đừng có thèm nhai cái bã mía như vầy, mà hãy ăn cái gì mà thực sự của mình, từ cái chỗ hiểu của mình.
Cũng như cô Út cổ nói, cổ nói qua cái cái hiểu của cổ, cổ không cần nói theo những cái lời dạy của Thầy, còn các con thì rập khuôn, nghĩa là bánh in rồi, giống y khuôn. Nghĩa là Thầy nói cái từ sao, các con thốt ra y vậy không có trật cái chỗ nào hết. Các con nghe cô Út dạy đạo cô nói theo kiểu cổ mà, cổ nói có lúc kiểu cổ không, mà có lúc cô nói những cái danh từ rất là bình dân, Thầy không biết, tự cô dạy. Nhưng mà thật sự ra đó là cái lối hiểu của cô, cái lối cổ lưu xuất từ tâm cổ, cổ hiểu qua cái chỗ cổ tu tập giải thoát của cổ sao, cổ nói vậy, mà Thầy thấy đúng chứ không phải sai.
(41:58) Cho nên còn hầu hết là những cái danh từ mà dùng ở trong kinh điển hầu hết là các con sẽ rập khuôn theo Thầy, Thầy cũng rập khuôn theo mấy Hòa thượng, chứ không phải mới như cô Út. Cô Út không có cần, cô không bao giờ nói "ly dục ly ác pháp", nói cái gì đâu, mà rồi cô ly dục ly ác pháp, nói chữ xả… Thì cái đó là tự tâm người ta lưu xuất ra. Cho nên hầu hết những cái lập lại khuôn mẫu đó mà thiền Đông Độ Thầy không chấp nhận. Còn cái gì nói mới, Thầy hỏi ra cái gì mà là lời mới, không bị rập khuôn thì Thầy chấp nhận, đó là cái mới của mình, cái sáng suốt. Cho nên các con nỗ lực tu đi, rồi tự cái mới của các con nó lưu xuất ra, các con thấy cái nói của con là cái kinh nghiệm của con chứ không phải cái rập khuôn. Cho nên các con phải ráng nỗ lực tu đi. Còn bây giờ các con hỏi Thầy, Thầy giải thích các con hiểu, mai mốt các con nói cái của Thầy chứ đâu phải của các con. Con phải tự tìm hiểu.
Như bây giờ Tín Thọ hay là Pháp Tín Thọ, chả cần hiểu, tao tu xong rồi bao nhiêu cái thứ này tao khỏi cẩn giữ làm chi cho mệt, do đó nỗ lực tu giải thoát rồi các con sẽ lưu xuất ra. Thì Thầy nói như vậy để các con biết là khi bị pháp tưởng là ngay đó chúng ta coi như đó là một cái sai mà chúng ta phải xả bỏ ngay liền, coi đó là một cái đối tượng của cái tâm chưa ly dục, nó còn ở trong cái tham-sân-si. Cho nên cái pháp chúng ta phải xả. Thì tu tập như vậy nó mới kết quả tốt.
Các con nhớ hết chưa? Phải nhớ cho rõ, phải tu cái nào cái nào, nhớ cái người mà chưa hết vọng tưởng thì biết mình tỉnh thức chưa có, phải tu tập tỉnh thức đi kinh hành, phải nhớ kỹ. Hôm nay Thầy cô đọng lại cho các con thấy này. Tu trong công việc làm, tu trong khi đi kinh hành, khi mình rảnh rang mình đi kinh hành mình tu, tu ngồi ở trên ghế, mình tu tỉnh thức của mình cũng được; hay hoặc là tu cái định sáng suốt, mình ngồi mình giữ tâm thanh thản. Đó là những cái mình cần tu.
(44:16) Rồi bây giờ tu Định Vô Lậu này, mình khoanh chân ngồi để cho gom tâm mình để cho nó phóng ra cái trí tuệ sáng suốt, quán xét để mình xả tâm, hoặc là mình ngồi thường, hoặc là đụng đâu mình ngồi đó rồi mình khởi tâm mình niệm, khởi lên cái niệm nào đó để rồi mình quán xét coi mình còn dính mắc cái gì? Hoặc là tâm mình đang phóng một cái niệm gì đó, ngay đó mình tu cái niệm đó chứ không phải đợi tới giờ mình tu cái đó đâu. Không phải. Có một cái tâm gì, có cái niệm gì ở trong đầu của mình là đem ngay ra quán xét ngay để mà đập nó xuống liền, dùng pháp hướng mà dập đầu nó xuống liền chứ không có để cho nó kéo dài.
Cho nên cái Định Vô Lậu là lúc nào - gặp giờ nào mà nó có, cũng như bây giờ các con tu ngồi, tu một niệm hơi thở này, Định Niệm Hơi Thở - mà giờ nó khởi một cái niệm nhất định là không cần … để theo cái niệm này để mà đập nó xuống tu Định Vô Lậu, phải như vậy nó mới có cái hiệu quả, nó mới có kết quả. Còn bây giờ nó khởi cái niệm này, mà ráng gò bó nó, nếu mà mình có nhiệt tâm thì ngay từ lúc đầu đã làm chủ nó, giờ này nó không có vô được; mà bây giờ giờ này nó vô thì tức là mình không làm chủ nó rồi vì mình thiếu nhiệt tâm, thì phải đi qua cái định khác để quét nó. Chứ không mình dừng ngang nó, thì một lát nó vô nữa, lát nó vô nữa, nó vô, nó vô cái này nó vô cái khác, nó cứ vô hoài, thì như vậy suốt cái thời gian nó tu vô ích. Thà là mình quán xét nó để mà xả được cái tâm niệm này nó có lợi ích hơn là mình tu tập.
Cho nên các con phải sáng suốt cái chỗ tu chứ. Đâu phải là ngồi tu mà thiếu sự sáng suốt như vậy thì cái thời gian đó mình đã phí bỏ cái thời gian; mà thời gian nó đi qua rồi, dù là một phút đi nữa các con có lấy lại được không, có đem lại được không? Bây giờ năm nay là năm nào rồi, tóc đã bạc thêm rồi, tuổi đã già thêm rồi mà bây giờ phút này mà nó còn tu như vậy sao.
(45:58) Hôm nay Thầy xin nhắc lại trên cái bước đường tu tập, qua những cái tập nhật ký thời khóa tu tập thì hầu hết các con tu thì Thầy thấy nó còn những cái chưa có nhận đúng được cái chỗ mà Thầy giảng cho nên nó còn những cái sai, chứ chưa phải là đúng. Nếu mà đúng thì các con tu sẽ có chất lượng rất cao và tiến rất nhanh, rất tốt ở trên cái bước đường tu tập.
Như các con biết rằng cái Đạo Phật là tu tập thiền định nó không phải là cái chỗ mà chúng ta ngồi nó hết vọng tưởng mà nó có sự an lạc, nó say say ở trong đó thì cái đó là không đúng rồi. Các con biết rằng hầu hết ở đây thì cái vấn đề ngồi lâu cũng là cái vấn đề có cái trạng thái an lạc, nương theo cái trạng thái an lạc là sai. Bởi vì các con thấy rằng trong cái Đạo Phật nó rất rõ ràng. Mau mau, Đức Phật gọi xả hỉ liền tức khắc, không có nên nương cái chỗ đó, không có nên nương cái an lạc. Khi chúng ta đạt được cái chỗ tầm tứ không vọng tưởng rồi, thì chúng ta tiến tới chứ không phải là đứng dừng đó để mà hưởng luôn cái lạc đó. Mà đã hưởng cái lạc đó thì các con sẽ bị rơi vào trong những cái định khác, cái định sai.
Mà hầu hết là tất cả các huynh đệ về đây tu hành có cái trạng thái gọi là an ổn thì cứ thích thú ở trong cái trạng thái đó, mà không có thì lại thấy như mình không có thiền định, mà có thì tưởng đó là cái trạng thái tốt của thiền định; không phải đâu. Nó phải có, nhưng mà có để mà bỏ chứ không phải có để mà lấy nó. Cho nên ngay đó thì chúng ta không chấp nhận nó rồi, không chấp nhận nó thì chúng ta phải làm sao? Chứ không thể chúng ta nằm yên đó mà hưởng nó sao? Cho nên các con tưởng là mình động đậy hay hoặc là mình tác ý ra là mất nó rồi còn gì. Cho nên không có động đậy cứ nằm yên đó để mà nó kéo dài được, nó tăng lên được 1 giờ, 2 giờ hay là 3 giờ, mà càng dài ra càng tốt; không phải. Nó đi tới cái đường cùng của nó, chứ không bao giờ nói rằng để nó dẫn cho chúng ta đúng.
(48:01) Mà ở đây cái mục đích chúng ta tu hành là luyện cho mình có cái đạo lực, cái đạo lực là cái sức lực của đạo làm cho làm chủ được cái sống chết của mình, làm chủ được cái đời sống của con người chúng ta, chứ không phải là đi tìm một cái lạc khác hơn là cái lạc của dục lạc.
Nghĩa là bây giờ chúng ta đi tìm cái sự ức chế cái tâm không vọng tưởng để đi tìm một cái lạc khác hơn là cái lạc của chúng ta đang thọ hưởng thế gian, thì cái lạc đó nó cũng đâu có cái gì hơn là cái dục lạc của chúng ta đâu. Cho nên ở đây chúng ta phải mau mau bỏ cái đó xuống. Bỏ cái đó thì chúng ta nghĩ rằng thế nếu mình tác ý ra thì nó sẽ mất cái đó làm sao, mất cái sự yên lặng; không phải đâu. Các con cứ nghĩ rằng một người tu không chất lượng, tức là ngồi tu có vọng tưởng ra vô là không chất lượng. Mà hết vọng tưởng rồi thì không phải là chỗ hết vọng tưởng đó, mà lấy cái chỗ chất lượng hết vọng tưởng đó. Chứ không phải ở chỗ đó là cái chỗ cuối cùng của cái đó là chúng ta rồi.
Không phải cái chỗ không niệm thiện, niệm ác là xong, mà chúng ta lấy cái chỗ không niệm thiện, niệm ác đó để mà tiến tới rèn luyện một cái lực của chúng ta mạnh hơn, sâu hơn và vĩ đại hơn. Thì cái lực đó nó phải ở trong cái trạng thái mà cái chỗ mà không có vọng tưởng, không có tầm tứ đó, thì chúng ta ở cái chỗ đó nó khoảng độ, cái sức của chúng ta tu tập nó khoảng độ chừng ba mươi phút, không hơn một giờ đồng hồ. Vì hơn một giờ đồng hồ thì cái sức của chúng ta không còn có nữa thì cái trạng thái mà không vọng tưởng, nó sẽ lôi chúng ta đi vào một cái định sai lệch, cái định khác mất tiêu hoặc là vô ký hoặc là thùy miên. Tất cả những cái khác nó làm cho chúng ta mất thời giờ kéo dài cái đời sống tu hành của chúng ta mà không đạt được kết quả, không có kết quả tốt, kết quả sai, mất thì giờ vô ích.
Cho nên chúng ta tu càng cái thời gian càng ngắn ba mươi phút mà chất lượng càng cao, quý hơn là chúng ta ngồi một giờ mà chất lượng không có. Cho nên trong cái thời gian khi mà chúng ta biết rằng trong một tuần lễ mà mỗi một buổi chúng ta tu một thời, mà trong bốn buổi chúng ta tu bốn thời: sáng, chiều, tối, khuya. Bốn thời, mà mỗi thời chúng ta tu ba mươi phút còn ngoài ra tất cả những cái thời gian khác thì chúng ta tu cái Định Vô Lậu, tu cái định Chánh Niệm Tĩnh Giác để giúp cho cái sức tĩnh giác.
(50:22) Khi đi ngủ thì chúng ta cũng tập tỉnh giác ở trong giấc ngủ để chúng ta không còn ngủ mê, để chúng ta có đủ cái sức tỉnh, cái sức tỉnh rất cao, để khi mà chúng ta phá hết âm thanh, phá hết tất cả mọi cái mà sức tỉnh chúng ta không mất. Thì lúc bấy giờ nó mới được gọi là sức tỉnh cao độ, còn nếu mà sức tỉnh khi mà âm thanh không còn có rồi cái sức tỉnh đó mất luôn thì không tốt, không đúng.
Do cái không hiểu rõ và bị cái trạng thái xúc tưởng hỷ lạc nó đã sai khiến làm cho các con sẽ tu lạc, hướng ngồi, tập ngồi cho nhiều. Ngồi nhiều để mà làm gì trong khi cái tâm các con chưa có xả sạch, chưa thanh tịnh. Mà chưa thanh tịnh thì tức là nó còn lo ra, nó còn phiền não, nó còn sợ hãi trước những cái cơn bệnh đau. Năm cái triền cái, Bảy cái kiết sử nó luôn luôn nó cột chặt, nó ghịt các con, vì vậy mà các con phải cố gắng mà vứt cho sạch những cái này. Khi một niệm khởi trong tâm, ngay đó chúng ta phải sáng suốt mà nhận ra nó, nó là Ngũ Triền Cái, hoặc là nó là Thất kiết sử. Thì vứt nó ra liền, và đồng thời dùng cái pháp hướng truyền lệnh nó.
Thầy quên nói cho các con biết rằng trong cái pháp hướng của chúng ta nó có cái pháp hướng để tu Định Vô Lậu, và cái pháp hướng để tu định Chánh Niệm Tỉnh Giác. Như Thầy nhắc, thường thường các con không phân biệt, do cái chỗ mà các con tu rồi ghi trong tập nhật ký này Thầy thấy dường như các con không hiểu chỗ này, cho nên tu thì tu chứ còn chưa biết.
Gần đây thì Minh Tông hỏi Thầy, Thầy giảng cho nghe mới có hiểu biết. Các con tưởng tại sao cái pháp hướng có khi truyền lệnh, mà có khi không truyền lệnh. Vậy không truyền lệnh là tu cái gì? Mà truyền lệnh là tu cái gì? Đó là cái mà chúng ta phải phân biệt được hai cái pháp hướng này.
(52:14) Vậy thì cái pháp hướng đầu tiên của chúng ta để tập là gì, như: “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành” thì có truyền lệnh không? Nhắc mình biết đi kinh hành chứ mình có truyền lệnh nó cái gì đâu. “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”; “nhổ cỏ tôi biết tôi nhổ cỏ, quét sân tôi biết tôi quét sân, đang thở tôi biết tôi đang thở”.
Thí dụ như bây giờ con thấy thở nè, con đếm: một, hai, ba, bốn; hít vô, thở đếm một, hai, ba, bốn con không đếm mà con cứ hít thở chừng độ khoảng ba bốn hơi thở thì các con lại “tôi thở tôi đang biết tôi thở”, rồi chút con nhắc “tôi thở tôi biết tôi thở”; tức là dùng cái pháp hướng như vậy, đó gọi là tu Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trong cái hơi thở. Còn mình đang quét sân mình nhắc: “Tôi quét sân tôi biết tôi đang quét sân” thì đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác trong quét sân, mà dùng pháp hướng như vậy để nhắc cái tâm mình tỉnh giác thôi, chứ không truyền lệnh.
Còn bây giờ cái tâm các con có chuyện gì nó phiền não, nó tham, sân, si thì bắt đầu các con ra lệnh, thì cái câu pháp hướng đó nó lại là cái lực, đạo lực, tập rèn luyện cái đạo lực của con, chứ không phải cái nhắc (bồ sô) của cái câu pháp hướng như Chánh Niệm Tỉnh Giác, mà đây là tu tập cái đạo lực để làm chủ nó. “Cái tâm bây giờ từ đây về sau như cục đất, không có được tham, sân, si nữa, đừng giận hờn nữa, không được lo toan, không được sợ hãi”. Ra lệnh thì câu pháp hướng đó gọi là đạo lực điều khiển chủ động, chứ không có nhắc.
Cũng như bây giờ mới đầu chúng ta tu Chánh Niệm Tỉnh Giác, chúng ta cũng như là con vật mà chúng ta huấn luyện nó, dạy nó thì chúng ta dỗ ngọt, sau đó thì chúng ta phải răn nó để cho nó sợ, vừa dỗ mà vừa răn. Cho nên câu pháp hướng có câu thì dỗ, mà có câu thì lại răn. Cho nên chúng ta điều khiển cái tâm của mình cũng như chúng ta huấn luyện cái tâm của mình trở lại theo cái sự điều khiển của mình, mình muốn như thế nào thì nó làm theo như thế nấy, thì coi như Đức Phật ví như một người huấn luyện voi. Cái sự huấn luyện voi nó có hai cách huấn luyện của nó, vừa ngọt ngào vừa nhắc nhở; rồi vừa ra lệnh. Cho nên mình sai bảo một con voi nó làm cái gì nó làm theo mình đó, đó là cái lệnh.
(54:20) Còn mình huấn luyện nó thì mình phải nhỏ nhẹ với nó, cho nên vì vậy mà mình nói: “đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành” nhỏ nhẹ đó. Bây giờ “tôi thở tôi biết tôi đang thở”, tức là nhỏ nhẹ đó. Thì tất cả những cái này là tu Chánh Niệm Tỉnh Giác, tỉnh giác chánh niệm là cái niệm hơi thở, cái niệm đi, cái niệm làm công việc, cái niệm đó là cái niệm ở trên thân của chúng ta. Do cái thân hành đó mà chúng ta niệm theo cái thân hành đó, mà chúng ta tu tập gọi là Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Vì vậy mà bây giờ về cái phần dạy, thì các con thấy cái giáo án thì nó mênh mông, nhưng cái tu nó đâu có mênh mông đâu. Hàng ngày các con chỉ có tu Chánh Niệm Tĩnh Giác thì dùng pháp hướng nhắc nhở cái tâm của mình để cho nó tỉnh thức ở trong đó, rồi tu Định Vô Lậu thì các con truyền lệnh mà quét sạch nó, làm chủ nó mà sai nó mà. Các con thấy rất rõ.
Còn về Định Niệm Hơi Thở hay Hiện Tại An Trú Định thì nó là Tứ Thánh Định rồi, thì bắt đầu các con, khi các con chưa hết vọng tưởng, thì các con hít vô thở ra 1 - 2 hơi thở, thì các con “Tôi đang thở tôi biết tôi đang thở”; trong lúc nói như vậy không có nghĩa là các con tu lơ mơ, mà khi khép chân lên thì các con phải đem hết cái nhiệt tâm của mình khi mà khoanh chân lên. Thà là đừng có ngồi thiền mà đã ngồi thiền thì đừng có để cái vọng tưởng xen vô, cho nên phải nghe lời Thầy Thầy dạy.
Muốn mà làm được một ông Phật, muốn giải thoát được cái sự đau khổ của kiếp người đừng có ngồi một cách mà để dậm chân tại chỗ đó. Khi khoanh chân vô rồi thì dù là tu một phút nhưng một phút đó phải có chất lượng hẳn hoi đem hết cái nhiệt tâm, cái nghị lực cương quyết, cái gan dạ của mình để làm chủ hoàn toàn với một cái sự tập trung hết sức cao độ, chứ không thể nào mà tu lơ mơ được khi mà các con còn vọng tưởng.
Còn hết vọng tưởng rồi thì lại khác hơn, cũng phải nhiệt tâm, cũng phải hết sức để mà giữ an trú được ở trong cái sự yên lặng đó, để rồi từng đó phải liên tục mà hướng tâm, mà nhắc cái sự vắng lặng để đạt được cái sự vắng lặng, lấy cái sự yên lặng đó không tầm không tứ đó mà đạt cái sự vắng lặng, chứ không phải ở đó mà thọ hưởng cái sự an lạc ở đó, cái sự an ổn ở đó. Mà đây là một cuộc chiến đấu, chiến đấu tận cùng. Bắt đầu chúng ta chiến đấu với vọng tưởng với tầm với tác ý của chúng ta.
Cho nên khi mà chúng ta ngồi một phút mà hít thở một phút, chúng ta phải đem hết nhiệt tâm ra để mà tu tập, chứ không phải là tu lơ mơ. Tu lơ mơ cũng ngồi có hình thức vậy, rồi hít thở năm, ba hơi thở, mười hơi thở không vọng tưởng, kế đó nó quên mất; cái nhiệt tâm nó không có, cái nghị lực nó không chiến đấu trong cái đó, cho nên năm - mười hơi thở rồi cũng có vọng tưởng. Hoặc là ráng bữa nào đó nó yên tịnh, bữa nào cái thân tâm nó khỏe khoắn thì ngồi nó kéo dài được mười phút, hai mươi phút mà nó không vọng tưởng. Còn hôm nào đó thì không có thì cái đó là thiếu nhiệt. Còn cái nhiệt tâm của chúng ta thì phút nào, giờ nào mà khoanh chân lên thì chúng ta coi như đây là một cuộc chiến đấu vĩ đại. Phải chiến thắng diệt một mình, không để thua kẻ giặc, mà kẻ giặt tức là tầm tứ của chúng ta.
Cũng như khi mà chúng ta hết tầm tứ rồi thì kẻ giặc của chúng ta là âm thanh bên ngoài, chúng ta phải chiến thắng âm thanh bên ngoài, mà nếu mà âm thanh chúng ta đã chiến thắng rồi thì kể giặc của chúng ta là Thọ, đau nhức chỗ này đau nhức chỗ kia phải làm sao triệt hạ thọ cho hết đau, thì đó là cách thức chúng ta tu tập để làm chủ từng bước của chúng ta. Mà cái pháp hướng của chúng ta luôn luôn lúc nào cũng đánh bạt chúng ra hết.
(57:57) Cho nên Thầy nói rằng khi chúng ta hướng tâm rồi, thì chúng ta nằm yên lặng đó để mà chúng ta nỗ lực thực hiện cái sự yên lặng đó rất là sâu để cho âm thanh bên ngoài vắng bặt không còn, để cho Thọ không tác động được nữa. Chứ mà nếu chúng ta không chịu nằm yên như Thánh, thì lúc bấy giờ cái Thọ nó tác động, âm thanh nó sẽ tác động chúng ta - mà chúng ta không “im lặng như Thánh” - nghĩa là khi chúng ta hướng tâm rồi nằm yên xuống đó, nằm thật yên mà mặc dù nó chưa hết âm thanh thì thỉnh thoảng chúng ta lại hướng tâm nhắc lại, rồi lại nằm yên xuống nữa, cứ tập nằm yên tức là Định chúng ta sẽ xong. Cái sự nằm yên lặng đó “im lặng như Thánh” đó nó sẽ càng sâu xuống. Mà mỗi lần nhắc thì mỗi lần chúng ta lại nằm xuống, nằm yên xuống, gom sáu căn lại một tụ điểm, nằm cho thật chặt thì âm thanh sẽ vắng lặng.
Đến khi phá Thọ cũng vậy, đến khi phá các Hành trong thân chúng ta cũng vậy, hơi thở cũng vậy. Cho nên tất cả những cái này là chúng ta phải nỗ lực thực hiện chứ không phải nằm yên để cho chúng ta nói: bây giờ nếu tác ý ra rồi thì nó mất đi, thì không đúng đâu.
(59:01) Cho nên cái giai đoạn đầu mà chúng ta tu tập là cái giai đoạn mà chúng ta phải có một cái nhiệt tâm, cái nhiệt tâm nhiệt huyết của mình chứ còn thiếu nhiệt tâm nhiệt huyết của mình thì không được, thì trong cái pháp nào tu hành cũng phải có nhiệt tâm.
Bây giờ muốn xả bỏ cái ly dục, ly ác pháp đi, xả bỏ cái đó đi. Cái tâm nó khởi ra thương nhớ này, nhớ con, nhớ cái hoặc là lo cho thằng này, lo cho đứa kia thì chúng ta là người đã tu rồi thì phải quyết tâm xả bỏ. Có cái nhiệt tâm xả bỏ thì mới xả được, còn chúng ta nói xả mà cái tâm chúng ta không nhiệt huyết xả thì chúng ta khó mà xả được, không phải chuyện dễ. Cho nên nếu mà ngày hôm nay chúng ta xả chưa được sạch thì nó còn cái niệm nó khởi lên, như vậy chúng ta phải thấy rằng chúng ta chưa có nhiệt huyết, chúng ta còn kém nhiệt huyết, còn kém cái nghị lực chưa có xả được.
Nó trói buộc chúng ta rõ ràng mà tại sao chúng ta phải sướt mướt với nó, phải theo nó để mà đau khổ với nó như vậy, chúng ta không cứu mình ra được sao? Cho nên chúng ta thấy rằng chúng ta là cái người chưa đủ gan dạ, bị nó lôi kéo mà chúng ta không thấy, cho nên chúng ta phải mạnh dạn và cương quyết, đời chúng ta không còn có gì nữa mà phải đổi lấy nó bằng máu và nước mắt của chúng ta trong cái sự tranh đấu, không được để chúng chiến đấu giành cái tâm của chúng ta được, để luôn luôn lúc nào cái tâm chúng ta cũng phải thanh thản. Chứ còn nếu mà để cho chúng ngự trị ở trong đó thì nó dày xéo ở trên đó, nó làm cho chúng ta nhớ thương cái này, cái nọ, cái kia. Chúng ta nào là hối hận cái này, cái nọ kia, đó là chúng ta đã tự giết mình chứ không phải là tự cứu mình.
Chúng ta tu theo Đạo Phật chúng ta phải tự cứu mình bằng cách nhiệt tâm của chúng ta, quyết định là phải dứt bỏ, quyết định là phải xả bỏ, từ giã nó, dứt khoát không có để trong tâm chút nào. Luôn luôn lúc nào cũng giữ gìn cái tâm thanh thản tức là cái Định Sáng Suốt đó. Cho nên phải đem hết cái nhiệt tâm mà tu chứ còn nếu mà không đem hết cái nhiệt tâm mà tu thì không ai tu cho mình.
Đức Phật bảo: “Các con tự thắp đuốc lên mà đi”, tức là đem hết cái nhiệt tâm của mình ra để mà chiến thắng với nó. Đây là một cuộc đấu tranh, một cuộc chiến đấu với nhau, mà nếu mà chúng ta không đem hết cái nghị lực, sức lực của mình ra để chiến đấu thì mình khó chiến thắng được mặt trận này.
Bởi vậy trong bước đường tu tập Thầy thấy hầu hết các con thiếu cái nhiệt tâm. Người nào mà tu đến giờ này mà không hết vọng tưởng là thiếu nhiệt tâm đối với vọng tưởng. Người nào mà tu tới giờ này mà chưa xả được cái tâm tham, sân, si, phiền não, đau khổ, chưa ly dục, ly ác pháp thì đó là thiếu nhiệt tâm. Nếu mà có nhiệt tâm thì chúng ta đã xả sạch quách rồi, không còn có tới giờ này. Đem hết nhiệt tâm vì chúng ta còn gì nữa, coi như thân của chúng ta tuy sống chứ đã chết rồi, cho nên đem hết cái nhiệt tâm của chúng ta ra để mà chúng ta xả, xả cho sạch thì từng đó chúng ta mới thấy được con đường của đạo, nó mới có kết quả.
Tất cả những pháp Thầy đã dạy các con rất rõ ràng, từ cách thức tu cho đến tất cả mọi cái, nhưng các con không thấy cái chỗ mà các con tu, nhiều khi các con tu sai, tu theo cái ý của mình mà không suy nghĩ theo đúng cái lời của Thầy dạy. Thầy bảo các con tu thời gian ngắn, chất lượng cho cao. Muốn mà đạt được cái thời gian ngắn chất lượng cao thì cái nhiệt tâm của mình trong cái thời gian đó mình phải hết sức.
(1:02:25) Thầy không bảo các con tu nhiều mà các con tu ít, mà mỗi khi tu là phải đạt được cái chất lượng, cho có một cái chất lượng đúng của cái sự giải thoát của nó. Khi chúng ta tăng lên thời gian thì chúng ta phải thấy rằng cái sức của chúng ta nó kham đủ cái thời gian đó để mà làm chủ những phút mà chúng ta tu tập.
Bởi vì thí dụ như các con tu Định Vô Lậu thì các con sẽ biết mình phải làm chủ cái gì của Định Vô Lậu, các con phải hiểu cái đó chứ. Mà các con tu Chánh Niệm Tỉnh Giác thì các con sẽ biết rằng các con sẽ làm chủ cái gì ở của cái tâm của các con ở chỗ đó chứ. Thì như vậy biết cái chỗ mình làm chủ thì mình phải nhiệt tâm để làm chủ thì nó sẽ làm được. Còn nếu mà các con không biết nó thì làm sao mà các con làm chủ được nó, nó sẽ bị mất đi, nó sẽ bị những cái đối tượng nào nó mất đi thì làm sao làm chủ nó được.
Cho nên tu cái định nào nó có cái mấu chốt, cái mục đích đạt được cái định đó thì chúng ta phải nỗ lực, nhiệt tâm để đạt được từng cái bước. Nghĩa là như một cái vết dầu nó phải lan dần ra. Ngày hôm nay chúng ta tu một phút chúng ta phải đạt được một phút. Ngày mai chúng ta tu hai phút, chúng ta phải đạt được hai phút, lên ba phút, năm phút chúng ta phải đạt được kết quả đó, chứ không phải lên rồi thua, thua rồi tiến, tiến rồi thối như vậy là không được. Phải thấy được cái sức lực của mình, chiến đấu tới đâu là phải chiếm cứ tới đó không để mất, đó là cái giờ tu. Đừng vội mà ngồi năm - bảy giờ, tám - chín giờ đồng hồ mà sai lệch làm cho chúng ta rơi vào trong những trạng thái của định tưởng, khó mà cho chúng ta tu tập.
(1:04:16) Đây là một cái phần mà Thầy trả lời do Hải Tâm hỏi.
Nhưng trước khi mà trả lời thì trong cái Đạo Phật nó có năm cái điều mà trước đây Thầy cũng có nhắc các con rồi. Năm cái điều kiện mà tiên quyết là cái người đệ tử mà theo Phật tu là cái người đó phải hội đủ 5 điều kiện, nghĩa là:
1- Phải tin Phật: tức là tin Thầy dẫn dắt các con tới nơi tới chốn.
2- Người đó phải thân ít bệnh, bệnh tật nhiều là tu không nổi.
3- Người đó không gian xảo. Nếu người đó gian xảo thì không tu được, bởi vì gian xảo mình nói bên đây mà trật bên kia. Thí dụ như mình tu không được mình nói mình tu được thì đó là gian xảo.
4- Phải có trí tuệ. Khi mà Thầy nói ra một cái gì ghi nhớ những cái điều mà mình tu cho đúng.
Chẳng hạn Thầy nói tu ba mươi phút là mình ghi nhớ ba mươi phút. Rồi khi được cái trạng thái yên lặng, thì ở trong trạng thái yên lặng đó, bắt đầu nằm yên ở trong trạng thái yên lặng đó mà hướng tâm để phá cái âm thanh để cho nó được vắng lặng, luôn luôn ở trong yên lặng đó mà hướng động để mà phá, bởi vì sự yên lặng đó mình đã biết rằng nó sự yên lặng nhưng mà vì mình muốn luyện tập ở trong cái trạng thái yên lặng đó nó trở thành một cái lực của nó để nó làm cho mình vắng lặng, nó đi tới hơn nữa. Mà khi mà mình tạo thành một cái lực như vậy thì nó mất cái sự yên lặng của mình.
Nhưng mất cái sự yên lặng mà mình tự chủ, chứ đâu phải mất cái sự yên lặng -nếu mà mình quậy động ở trong đó thì cái động của mình là cái luyện tập ở trong cái trạng thái đó, chứ cái trạng thái đó nếu mà nằm yên thì nó thấy yên lặng, nhưng mình quậy động ở trong cái mình tập luyện trong cái trạng thái đó, thì cái trạng thái đó nó sẽ bị mất. Nó không phải mất vì mình ở trong đó, mình không thấy nó mà thôi; chứ nó đâu có mất. Nó đang yên lặng đó, mình muốn tu tập cái khác, nhưng vì đang tu tập cái khác mà mình không có để ý cái yên lặng đó cho nên mình cảm thấy như cái sự yên lặng đó mất, chứ nó không phải mất.
(1:06:22) Đó là những cái các con phải thấy cái đó là một cái trí tuệ để nhận xét, chứ nếu các con thấy: à bây giờ tôi đang yên lặng nó không vọng tưởng này kia, bỗng nhiên tôi tác ý ra: “sáu căn phải quay vô, không được nghe âm thanh bên ngoài nữa” thì như vậy nó bị động rồi. Nhưng mà sự thật cái này không phải động cái kia đâu, cái kia nó đang yên lặng đó chứ nó vẫn yên lặng đó, nhưng cái này là cái sử dụng trong yên lặng đó để tạo cho mình thành cái đạo lực khác chứ không phải như cái này. Do đó nó đâu có phải mất đâu, bởi vì mình lấy được cái trạng thái yên lặng, mình nằm trong cái chỗ này không tầm tứ rồi, thì tức là mình ở trong này mình phải rèn luyện ở trong một cái khác nữa. Cho nên coi thì động, chứ sự thật ra không động, phải hiểu cái chỗ đó.
Cho nên nếu mà không hiểu, thì như là mình tác ý ra thì nó mất rồi; mình tác ý làm sao mà lại không mất. Nghĩa là mình muốn cả hai hết thì đâu được. Có một tâm yên lặng mà trong khi nằm ở trong yên lặng này mà tác động ra thành cái yên lặng này cảm thấy như mất, nhưng mà sự yên lặng này thật sự là tầm tứ không có. Cái yên lặng này là do tầm tứ chứ không phải cái trạng thái ít lặng này. Là vì cái mục đích của mình khi mà mình thấy cái sự im lặng này là do tầm tứ không có, nhưng bây giờ tầm tứ không có không có nghĩa là khi mà mình tác ý ra là nó sẽ mất. Mình tác ý ra là có mục đích chứ đâu phải tự nó tác ý ra mà gọi là vọng tưởng, mình có mục đích của mình, mục đích của mình để nằm trên cái sự yên lặng không tầm tứ này mà tạo ra một cái lực khác để chúng ta đi đến cái vắng lặng.
Rồi từ cái vắng lặng chúng ta mới tạo ra một cái lực khác nữa chứ không thể nào chúng ta nằm trên sự vắng lặng đó để mà thọ hưởng sự vắng lặng hay là ngơi nghỉ trong sự vắng lặng. Các con thường bị cái bệnh, cái bệnh kêu là ngơi nghỉ, khi nó được yên lặng thì ngơi nghỉ trong yên lặng mà không chịu làm ra nữa.
(1:08:02) Cũng như bây giờ chúng ta cần đám bắp có đám bắp ăn rồi chúng ta ăn cho sạch đám bắp rồi mới trồng nữa cái này sai. Khi có đám bắp rồi chúng ta tiếp tục vừa ăn đám bắp mà vừa trồng cây khác nữa, thì như vậy chúng ta mới có cái khác. Còn này ăn sạch đám bắp rồi mới có trồng nữa thì lấy ở đâu mà trồng, thì bây giờ chỉ còn ăn bắp trở lại hoặc là đói mà thôi. Cho nên bây giờ chúng ta đã có đám bắp thì chúng ta vừa ăn đám bắp, mà chúng ta lại vừa hoạt động cái khác nữa thì cái đám bắp chúng ta đâu phải là mất, vì mình ăn mình làm ra cái khác nữa. Đó thì mục đích đạt cái này rồi mới đi tới cái khác, còn nếu chưa đạt được cái này thì chưa tới cái khác được.
5- Phải siêng năng.
Cho nên trong cái bài kinh Bồ Đề Nguyên Tử thì Phật còn nêu lên năm cái điều kiện mà người muốn theo Đạo Phật phải tin Phật, thân ít bệnh, không gian xảo, trí tuệ, và siêng năng. Năm điều kiện này thì người đó sẽ tu giải thoát hoàn toàn. Mà cái trí tuệ đây không phải là cái trí tuệ hiểu mênh mông cái gì cũng hiểu hết cái đó là trí tuệ tích lũy. Còn cái trí tuệ của Phật là cái trí tuệ hiểu biết được cái đó mình tu cái là đạt được, không hỏi lòng vòng, không có hỏi cái ngoài cái vấn đề.
Hầu hết là các con bị Pháp tưởng. Khi mà tâm nó hết vọng tưởng thì nó bị pháp tưởng. Pháp tưởng là ngồi yên tự dưng nó nhớ một cái pháp gì đó, nó không nhớ chuyện thế gian đâu, nó khởi ra hoặc khi xả thiền ra rồi, bỗng dưng nhớ tới cái pháp nào đó là mình bị pháp tưởng. Mình nghĩ rằng bây giờ tôi là một người tu, không phải là người học cho nên tôi chẳng đi tìm danh thích thú, không tìm chữ nghĩa trên nữa không cần hiểu trên nữa mà chỉ cần biết tu làm sao cho cái tâm này nó sẽ hoàn toàn là Thanh Tịnh, hoàn toàn chủ động điều khiển những cái sự định, mình cứ nhắm vào đó. Còn bây giờ nó khởi ra cái câu kinh này, câu kệ khác hay hoặc là cái khác thì nhất định đó là pháp tưởng.
(1:10:00) Bởi vậy Ở đây Thầy trả lời cho Hải Tâm vì có cái sự tu tập, rồi có gặp, có hỏi Thầy chứ nếu mà không gặp thì không biết đâu mà hỏi.
Hỏi: Nếu không đem hết sức mình dùng nghị lực để chiến đấu với nó thì thời đó con tu không chất lượng trong trạng thái yên lặng con chỉ không trú tâm một chút thôi là thời đó coi như bỏ cuộc. (Nghĩa là thời đó coi như là mình thiếu trú tâm một chút thì thời đó coi như là có vọng tưởng đó, coi như là bỏ cuộc hoài công đó, thành ra con phải liên tục và liên tục tỉnh thức, có liên tục có trú tâm như vậy thì nó không có vọng tưởng, như vậy thì cái sự trả lời của Thầy đây.)
Đáp: Sức tỉnh thức con còn yếu, nghĩa là mình phải trú tâm liên tục như vậy tức là sức tỉnh thức còn yếu, nhưng mà sức tỉnh thức có, cho nên vì vậy mà mình cố gắng trú tâm và sức tỉnh thức của mình hàng phục được tầm tứ, không vọng tưởng. Đó là cái bước đầu của con chứ chưa phải. Khi mà nó thuần thục rồi thì con không cần phải trú tâm, tự nó nó sẽ quay vô rồi từ đó nó sẽ tự thanh thản, chừng đó thì con sẽ nằm yên ở trên đó rất dễ dàng phá. Còn bây giờ thì cố gắng trú tâm và cố gắng mà (xả ra).
Đã sức tỉnh thức con còn yếu, phải tu tập tỉnh giác định nhiều hơn để khi vào tu Định Niệm Hơi Thở tức là Hiện Tại An Lạc Trú Định thì tự nhiên mà không cần phải trú tâm nhiều. Nghĩa là tu Định Vô Lậu xả tâm không hết. Bởi vì cái vọng tưởng của các con là do cái tâm xả nó chưa sạch, cho nên nó mới sanh ra vọng tưởng. Còn nếu mà cái tâm xả nó sạch ly dục, ly ác pháp mà nó sạch rồi đó thì nó không có vọng tưởng nữa cho nên nó tự nhiên mà nó không phải trú tâm. Còn cái này con phải ráng trú tâm, mà cái ráng trú tâm của con nó rất tốt là vì cái sự trú tâm đó liên tục nó làm cho tâm con nó được an ổn, nó có chất lượng và thời gian sau nó sẽ quen đi, nó trở thành tốt chứ không sao. Nhưng cái thời gian mà con trú tâm như vậy, thời gian ngắn, đừng có nên dài vì cái sự trú tâm đó nó sẽ làm cho con rất là phí sức.
(1:12:05) Hỏi: Trong năm phút, mười phút giữ trạng thái yên lặng. “Im lặng như Thánh” để sáu thức ngủ yên, nếu tâm nhắc thì con sợ bị động mà không nhắc thì rơi vào lặng liền, con biết rất rõ. Vậy trong lúc này con hướng tâm như thế nào cho phù hợp, xin Thầy và cô Út chỉ dạy cho?
Đáp: Bây giờ đó con biết rất rõ rồi, thì trong lúc đó không phải là con sợ nó mất, con sợ bị động mất cái tâm yên lặng đó. Nghĩa là để sáu thức ngủ yên, nếu hướng tâm nhắc thì con sợ bị động. Nghĩa là trong khi nó đang ngủ yên vậy mình nhắc cái nó động vậy. Không phải. Mình biết nó ngủ yên tức là nó yên lặng. Mà tức là yên lặng thì mình phải lấy cái trạng thái yên lặng đó để cho mình hướng tâm, mà mình hướng tâm thì tức là mình bị động chứ gì, mà cái động này ở trong cái lặng đó mà hướng nó mới có hiệu quả, chắc con hiểu rồi chứ.
Cho nên khi mà hiểu rõ thì không phải sợ bị động, mà chỉ cố gắng ở trong trạng thái yên lặng đó để mà hướng đến vắng lặng, thì như vậy nó sẽ mới đạt được cái sự vắng lặng, chứ không phải là khi mình khuấy động cái sự yên lặng đó rồi nó sẽ mất cái sự yên lặng và vắng lặng đó; không có, không phải.
Bởi vì mình nhờ cái trạng thái yên lặng, cái nền tảng yên lặng đó mà mình xây dựng cái nhà vắng lặng, mình cất lên cái nhà vắng lặng ở trên sườn, ở trên cái nền tảng yên lặng đó. Vì nó yên lặng tức là không tầm tứ mà mình biết rất rõ.
Cho nên bây giờ thí dụ như con không động đậy đến nó, thì mấy con thấy rõ ràng là yên lặng, nó đang ngủ, nó rất là yên lặng. Nhưng mà âm thanh nó vẫn còn nghe, cho nên bây giờ con phải bước thêm một bước nữa, tức là con phải hướng tâm tu tập ra lệnh cho sáu thức của con quay vô, sáu căn nó đóng kín lại, không còn nghe âm thanh bên ngoài nữa. Như vậy con lấy cái nền tảng yên lặng đó mà luyện tập cái nhà vắng lặng thì từng bước, từng bước như vậy để đạt được, thì nó mới có kết quả của sự tu tập.
(1:14:09) Thầy đáp: Khi Tâm đã vào trạng thái “im lặng như Thánh” thì bây giờ con chỉ muốn sáu thức tiếp tục ngủ yên, chỉ có tâm thức là phải biết rõ ràng tỉnh thức hoàn toàn thì đó con đã hướng tâm rồi. Nghĩa là khi mà tâm mình nó khởi muốn thôi, nó muốn cho sáu cái thức tiếp tục ngủ yên như vậy, yên lặng như vậy và chỉ có tâm thức thì hoàn toàn phải là biết rõ ràng không được mất. Thì khi mà cái tâm con nó vừa khởi muốn vậy đó là con đã hướng tâm chứ không phải là con hướng tâm là con phải nhắc: “sáu thức phải tiếp tục ngủ đi, mà tâm thức thì phải biết cho rõ ràng, tỉnh thức hoàn toàn”, không phải con nhắc thô như vậy, chỉ cái ý con nó thoáng muốn như vậy là con đã hướng tâm rồi.
Cho nên trong yên lặng mà thoáng muốn tức là đã hướng tâm, thì không lý nào trong yên lặng đó mà con lại mất cái tác động của cái tâm thức của con, mà mất làm sao mất, mất thì làm sao con biết. Mà đã biết thì tức là mình đang biết muốn tâm bằng cái ý muốn của mình như vậy. Mà đã muốn tâm ý muốn như vậy thì nó có phải khuấy động đâu, con hiểu cho nên khéo léo, thiện xảo như vậy gọi là hướng tâm nơi yên lặng thì nó không mất yên lặng.
Rồi thỉnh thoảng tiếp tục hướng như vậy đừng sợ bị động mà dùng trạng thái “im lặng như Thánh” để rèn luyện tu tập đạo lực càng lúc càng sâu sắc và hiệu quả hơn. Nghĩa là nằm trong đó mà rèn luyện cái đạo lực của mình. Thì trong đạo lực Thầy có nói, trong đạo lực thì nó có Ngũ lực chứ không phải trong đạo lực nó chỉ có một cái lực của nó không. Cái đạo lực nó gồm Ngũ lực là Tín lực, Tấn lực, Niệm lực, Định lực, Huệ lực. Có năm cái lực nó mới gồm mọi cái, cái đạo lực của Đạo Phật.
(1:16:00) Vậy thì có lòng tin đối với Thầy, Thầy dạy sao con làm như vậy thì bây giờ nó mới trở thành một cái đạo lực, rồi con siêng năng, con tinh tấn, con mới nỗ lực con tu tập thì nó mới có thành đạo lực, chứ con lười biếng nó làm sao có được. Và cái niệm mà con đặt, cái pháp hướng mà con đặt đúng, con hướng tâm đúng thì nó mới có thành cái đạo lực, phải không? Con thấy rất rõ mà. Cho nên cái Niệm lực nó mới trở thành cái đạo lực được.
Rồi bây giờ khi mà cái niệm nó đã thành một cái lực thì nó đã sai khiến được tất cả thân tâm con im lặng, yên lặng, thanh tịnh thì lúc bây giờ đó là Định lực và đồng thời con thấu suốt được cái Tam Minh - Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh - thì cái đó là Tuệ lực. Các con thấy cái tuệ lực, nếu mà không có cái tuệ lực thì con làm sao con biết được Túc Mạng Minh biết được nhiều đời, nhiều kiếp; thấy được xa ngàn dặm, biết được lậu hoặc của tất cả chúng sanh, đó thì tất cả những cái đó gọi là Đạo lực. Mà đạo lực là do cái chỗ luyện tập mà con nằm ở trong sự yên lặng đó mà con tu tập đạo lực.
Đây, Thầy đọc cái bài cho các con nghe:
Khi Tâm đã vào trạng thái “im lặng như Thánh” thì bây giờ con chỉ muốn sáu thức chỉ khởi cái ý muốn mà thôi, chứ mình không có hướng như thô như ra lệnh của cái miệng mình nói phải ra tiếng như vậy, hay là ra cái ý như vậy, không phải. Cái ý muốn thoáng qua như vậy, nghĩa là cái ý mình muốn sáu cái thức tiếp tục ngủ yên đi, để cho sự yên lặng đó đi. Chỉ có tâm thức là phải biết rõ ràng, tỉnh thức hoàn toàn đó là cái ý muốn của mình.
Thì bây giờ con đã hướng tâm rồi và thỉnh thoảng tiếp tục hướng như vậy. Đừng sợ bị động mà dùng trạng thái “im lặng như Thánh” để rèn luyện tu tập đạo lực càng lúc càng sâu sắc.
Hỏi: Thưa Thầy và cô Út, một thời tu muốn đạt được chất lượng tốt 100 % thì phải hội đủ những điều kiện gì?
(1:17:50) Đáp: Một thời tu muốn đạt được chất lượng tốt 100% thì phải hội đủ, nghĩa là một thời tu ở đây không có nghĩa là tu cái định Hiện Tại An lạc Trú tức là Bốn thiền đâu, mà tu tất cả các định khác mà hội đủ, thì ở đây thì cái phần mà ở đây thì nói về cái Định Niệm Hơi Thở mà Thầy trả lời cho Hải Tâm. Thứ nhất là phải:
1- Tâm thanh thản. Nghĩa là mình vào tu mình thấy cái tâm mình thanh thản là tu tốt đó. Mà cái tâm mà nó chưa thanh thản, nó còn lo cái này, nghĩ cái kia, nghĩ cái nọ thì vô tu không tốt đâu. Cho nên hàng ngày các con thấy cái độc cư nó giúp cho con thanh thản, còn có hữu sự có duyên gì nó làm cho Tâm con không thanh thản, mà không thanh thản thì con tu không chất lượng. Mà nếu mà con ức chế nhiều quá thì nó lại mệt, mệt óc, nó lại sinh ra những cái trạng thái khó chịu nó làm cho con không có an lạc.
2- Thân không mệt nhọc. Nghĩa là người tu hành làm quá nặng nề thì mệt nhọc, mệt nhọc vô ngồi tu thì khó mà có thể tu tập tốt, con hiểu chưa? Làm thì chúng ta làm nhẹ nhàng, chúng ta tu chứ không phải là chúng ta làm, nhưng mà làm để mà chúng ta lấy cái làm để mà cho nó vui trên cái bước đường tu cho nó đúng chứ không phải; làm là phụ mà tu là chính.
3- Thân tâm không có hôn trầm thùy miên. Nghĩa là vào tu mà thấy nó buồn ngủ thì không nên ngồi tu.
4- Thân tâm phải vô sự và an lạc. Nghĩa là cái thân tâm của chúng ta không có sự việc gì và an lạc. Chứ đừng có chuyện này chuyện kia làm chưa rồi mà vô ngồi tu, thì một hơi nó khởi ra: “cái rào này rào chưa rồi đây, lát nữa có thằng nào nó chung vô à”. Thì đó là cái tâm chưa phải vô sự, nó còn hữu sự.
5- Phải đủ sức lực. Nghĩa là khi mình muốn ngồi một thời tu tốt là mình phải biết được cái sức của mình. Hôm nay cái sức của mình nó có khỏe không, hay hoặc là bây giờ mình đau bệnh, hay này kia nó làm cho mình mệt nhọc thì thử hỏi mình làm sao mình tu tốt được.
6- Phải có nhiệt tâm kiên quyết. Nghĩa là lúc mà mình vào tu thì mình phải đem cái nhiệt tâm ra, đặt ra ở trước mặt của mình để kiên quyết ở trong cái sự chiến thắng của mình trong cái thời tu. Coi như là mình khoanh chân lên để mình ngồi tu là mình phải chiến đấu mình phải thắng hay là bại chứ không thể nào mà lừng chừng nó được, cho nên Sáu là mình phải có nhiệt tâm kiên quyết.
(1:20:31) 7 - Phải có nghị lực đầy đủ. Phải đem hết cái sức nghị lực của mình ra đầy đủ để chiến đấu.
8 - Phải gan dạ liều sống chết. Khi bây giờ mà lỡ tu rồi, mình ngồi tu rồi mà bây giờ cái bụng đau, cái đầu nhức nhất định là quyết chết chứ không có bao giờ xả ngang xương. Không bao giờ mà có thể nó đau quá nằm xuống đâu. Thì như vậy là phải gan dạ chứ còn nếu mà nhát dạ, đau quá. Hoặc là bây giờ mới ngồi lên thấy con rắn bò vô cái nhảy, thì cái đó là không gan dạ, cho nên phải gan dạ liều sống chết. Bây giờ có cắn chết nhất định là ngồi là phải đạt chất lượng chứ không thể mà lui chừng nó được, ai làm gì thì làm, mặc, chết bỏ.
Cũng như bây giờ Thầy nói đang ngồi vầy họ đốt cháy nhà mình cháy, ngồi đó chết bỏ trong lửa nhất định không chạy, đó là cái gan dạ của cái người làm chủ sống chết. Mà Thầy muốn nói đây gan dạ không có nghĩa là gan dạ với cái đối tượng bên ngoài của mình mà gan dạ đối với cái tâm, tâm niệm của mình để mình chiến thắng nó. Các con hiểu ý của Thầy nói? Chứ các con nói như vậy là cái nhà cháy rồi ngồi đó cho chết rục luôn, thì cái đó là hiểu lệch sai. Thầy muốn nói đây là cái gan dạ của mình. Ví dụ như lửa cháy nóng như vậy chúng ta phải gan dạ, chứ không phải cái đó ngu si để mà lửa cháy thật sự như vậy thì ngồi đó mà chết thì cái đó là quá ngu. Nếu mà không giảng cái chỗ này thì càng ngu nữa.
9 - Thân không bệnh. Nghĩa là cái người tu thì phải thân không bệnh, mà thân bệnh thì thôi chịu khó đi uống thuốc đi chứ đừng có ngồi mà ráng tu, tu như vậy thì uổng lắm, mất công, để nằm xuống trị bệnh còn khoẻ hơn là ngồi tu. Cho nên thân không bệnh chứ mà thân có bệnh thì thôi không tu, đừng có ráng chi vô ích, chỉ có cái uống thuốc mà thôi.
10 - Tâm phải đủ sức tỉnh thức. Nghĩa là lúc bây giờ mình phải rèn luyện tu tập sức tỉnh thức của mình bằng những hành động đi kinh hành, bằng tất cả những cái việc làm, hành động của chúng ta làm cái gì chúng ta cũng phải tu tập tỉnh thức, cho đủ sức thì chúng ta mới tu cái Định Niệm Hơi Thở, nó mới đạt được cái chất lượng 100%. Còn nếu mà sức tỉnh thức chưa đủ mà chúng ta vội tu thì thì chúng ta chưa có đạt được 100%. Bữa nay tốt, ngày mai xấu, ngày mai xấu ngày mốt tốt, chưa có phải là liên tục được tốt.
(1:22:24) Đó là có mười cái điều kiện mà chúng ta muốn đạt được một cái thời tu về Định Hiện Tại An Lạc Trú hay là Định Niệm Hơi Thở chất lượng tốt 100% thì phải hội đủ mười cái điều kiện này. Nếu mà thiếu mười điều kiện này thì chắc chắn chúng ta không có thể nào mà có chất lượng tốt. Thí dụ như mười thời tu, thì chúng ta có thể tu tốt được năm, sáu còn ba hoặc bốn thời thì tu không có chất lượng, không được tốt.
Bây giờ cái nữa:
Hỏi: Thời gian con giữ ba mươi phút, tự nó kéo dài tỉnh giác năm phút, mười phút thì được, chứ không cho sụt phải không thưa Thầy?
Đó là cái thời gian mà mình ngồi tu ba mươi phút thôi. Nhưng bây giờ nó yên quá, nó tăng lên năm phút hay là mười phút, mười phút có khi nó kéo dài một giờ, giờ rưỡi đi, mình thấy nó yên quá. Thôi để mình ngồi yên. Sự thật ra cái này là cái tu sai, không có đúng.
Đáp: Thời gian con nên tu tập làm chủ cho đúng giờ. Bởi vậy, Thầy nói thí dụ như bây giờ Thầy ra lệnh, Thầy khoanh chân Thầy ra lệnh: “giờ này là 3 giờ nè, thì bảy ngày sau, thân tâm này nhập định bảy ngày sau đúng 3 giờ chiều ngày thứ 7 hãy ra định, hãy xuất định” thì đúng tới đó nó xuất định.
Còn như con, con tu tập kiểu đó tới chừng đó bảo nó xuất định bảy ngày tới 3 giờ chiều ngày thứ 7 nó ra, nhè tới ngày thứ một trăm nó mới ra, rồi người ta đem chôn con mất rồi làm sao phải không? Cho nên ở đây chúng ta tu tập làm chủ từng giờ phút chứ đâu phải làm chủ như vậy được. Nó yên mặc nó, tới giờ là phải xả không cần thiết, tao làm chủ chứ đâu phải mày dẫn dắt tao theo cái sự an lạc của mày, trong cái sự yên lặng, yên lặng được là ngay vào bước đầu tao đã tập trung yên lặng ngay liền tức khắc.
(1:24:13) Đó là cái sức làm chủ, luyện tập cái sức làm chủ chứ không phải chạy theo cái sự an lạc đó, chạy theo cái sự im lặng đó để mà chúng ta thấy. Như vậy ngày mai nó sẽ yên lặng nhiều hơn không phải đâu. Nó dẫn cho chúng ta yên lặng chứ chưa phải chúng ta làm chủ. Còn chúng ta làm chủ yên lặng, vô chúng ta hướng tâm nhắc, gom tâm liền cái sự yên lặng liền, tức là chúng ta điều khiển nó yên lặng.
Cho nên cái thời gian nếu mà thời gian như vậy thì con tu tập như vậy sau này quen rồi, con bảo nó tu trong ba mươi phút thì nó làm lố tới một giờ, hai giờ thì cái chuyện đó là, sau đó rồi nhập định nó bảy - tám ngày thì nó làm cho một tháng, hai tháng mới chết. Thì tất cả những cái này chúng ta phải tu ngay từ lúc đầu để làm chủ.
Cho nên ở đây chúng ta không tham, mà tu thấy an, rồi tự nó kéo dài ra, không xả ra thì tức là chúng ta… thì như vậy là chúng ta phải chủ động điều khiển từng giờ phút chúng ta. Muốn nó 45 phút là phải 45 phút, muốn nó một giờ là phải một giờ, muốn nó hai giờ là phải hai giờ thì muốn đâu nó làm đó, đó là cái sự điều khiển của chúng ta.
Bởi vậy tu theo Thầy nó rất là … mọi cách thức điều khiển nó phải làm chủ phải chủ động điều khiển chứ không phải là nó muốn được bao nhiêu là bao nhiêu.
Mới vào ngồi tu con hướng tâm nhắc: “Sáu căn phải “im lặng như Thánh” trong ba mươi phút không được tăng, không được giảm”. Đó mình nhắc nói như vậy đó, rồi bắt đầu mình ngồi có tu tập được như vậy sau này con vào định bảy ngày, một tháng, hai tháng hoặc ba tháng thì tự nó xuất định rất đúng. Còn tu tập như con hiện giờ sau này xuất định không theo sự điều khiển của con. Nghĩa là nó sẽ ngồi lố, hoặc là nó xuất định trước, cái đó là nó không đúng theo cái sự điều khiển của mình muốn, mình làm chủ.
Đó, thì nhớ kỹ những cái điều này để mà tập luyện cho đúng. Hầu hết là các con phải rút tỉa kinh nghiệm với nhau mà tu tập cho đúng.
Hỏi: Ngồi kiết già lưng thẳng, đặt niệm trước mặt, suy tư quán xét có phải như vậy là tu thiền quán không?
Đáp: Phải, đó là tu Định Vô Lậu - ly dục, ly ác pháp; diệt ngã, xả tâm. Về cái phần tu như vậy đó thì rất tốt, nghĩa là thân nó gom lại, tâm nó gom lại để rồi chúng ta quán xét nó có cái trí tuệ phóng ra từ cái thân tâm gom lại đó. Cho nên tu cái Định Vô Lậu mà lại ngồi lưng thẳng, ngồi kiết già hẳn hòi thì tu rất tốt. Nó có cái trí tuệ sáng suốt phóng ra.
Hỏi: Nó có lợi ích hơn người ngồi bình thường suy tư quán xét ở điểm nào?
Đây là hỏi thêm Thầy cái chỗ này thôi để biết rằng khi ngồi kiết già thì nó lợi ích hơn cái ngồi bình thường như thế nào?
(1:26:57) Đáp: Ngồi kiết già thì thân được gom lại, và tâm được tập trung vào một niệm. Theo kiểu ngồi kiết già thì độ sáng suốt của trí tuệ được phóng ra và hóa giải được những khúc mắc và khó khăn của các pháp.
Đó, thì các con thấy khi mà ngồi kiết già thì thân nó gom lại, thân mình nó tréo lại, nó gom lại nó thành một khối, thì cái tâm nó lại nằm ở trên cho nên thân định trên tâm, tâm định trên thân, hai cái nó đều định với nhau ở trên đó cho nên từ đó cái trí tuệ chúng ta phóng quan sát cái sự kiện xảy ra như thế nào? Hoặc là cái tâm niệm của chúng ta nó có những cái niệm gì đó thì chúng ta quán xét nó rất dễ và nó sáng suốt, cho nên nó hóa giải được những cái gút mắc của những cái niệm đó, của những các pháp đó nó làm cho chúng ta thoát khỏi cái sự khổ đau của nó.
Còn ngồi bình thường thân không được gom, chỉ có tâm tập trung vào niệm nên độ sáng suốt hóa giải không bằng. Tuy rằng nó cũng có hóa giải nhưng nó kém nó không bằng cái người ngồi kiết già lưng thẳng.
Đó là Thầy phân tích ra để cho thấy rõ được cái chỗ mà con hỏi ngồi kiết già lưng thẳng với ngồi bình thường mà tu Định Vô Lậu cái nào có lợi nhiều hơn.
Hỏi: Nghĩa tín thọ và Pháp tín thọ như thế nào?
Trong cái lời hỏi của con thì hỏi Pháp tín thọ trước còn Nghĩa tín thọ sau. Còn ở đây thì thay vì hỏi phải hỏi Nghĩa tín thọ và Pháp tín thọ như thế nào?
Đáp: Nghĩa tín thọ là tin theo và thọ lãnh những lẽ mà mình đã được nghe. Cái lý lẽ mà mình đã được nghe, mình tin theo. Nghĩa là “tín thọ” nghĩa là tin theo và thọ lãnh những cái lý lẽ mà mình đã được nghe nó đúng đắn.
Pháp Tín Thọ: là tin theo và lãnh thọ giáo pháp mà mình đã được nghe, gọi là Pháp Tín Thọ. Nghĩa là mình nghe cái pháp đó, mình rất là tin cho nên mình theo cái pháp đó mình nỗ lực mình tu hành, nỗ lực mình sống đúng, nỗ lực mình dứt bỏ, nỗ lực mình làm những cái chuyện rất là nhiệt tâm để trong mình xả bỏ được ly dục, ly ác pháp được đó là Pháp Tín Thọ.
Như Thầy dạy về pháp Tứ Bất Hoại Tịnh, Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng, hay hoặc là Tứ Niệm Xứ trên thân quán thân, hay là Định Vô Lậu, hay định Chánh Niệm Tỉnh Giác đó là Pháp Tín Thọ. Tín thọ là các con tin mà nỗ lực tu hành tập luyện đúng, không sai lời dạy của Thầy gọi là tín thọ. Cho nên còn có nghĩa là trong kinh Phật như kinh A hàm, cái Kinh Trung Bộ thì “y giáo phụng hành”. Còn ở Kinh A hàm thì thường thường “Tín thọ phụng hành”. Tin và theo mà làm y kinh pháp đó là tín thọ.
Ở đây giảng từng chữ nghĩa như vậy, đó là trong những cái điều kiện con hỏi như vậy hầu hết là đều bị pháp tưởng nó lưu xuất ra, nó cũng hay chứ không phải dở nhưng mà nó điều bị pháp tưởng, nó làm cho chúng ta bị lạc, bị lạc vào cái chỗ tu.
(1:30:05) Thay vì chúng ta tu cái thứ nhất là tập yên lặng để mà tu. Thứ hai là quán xét vô lậu quét sạch, có những pháp tưởng quét ra hết không có cần nghe, không cần hiểu gì thêm những cái này, mà những cái này tức là bị Pháp tưởng nó làm cho động tâm.
Cho nên một cái người mà học kinh điển nhiều là sau khi mà cái tâm hết vọng tưởng thì nó bị Pháp tưởng. Bởi vì cái đoạn đường từ Nhị Thiền mà đến Tam Thiền là cái đoạn đường của Tưởng thức nó hoạt động, cho nên mỗi mỗi nó đều hoạt động ra vì vậy mà các tổ sư đều ở trên cái chỗ Pháp tưởng này mà họ nói ra những cái công án. Họ hỏi đáp những cái công án với nhau, thì đó là cái Pháp tưởng. Cho nên gọi là Triệt Ngộ là họ ngay từ cái chỗ trạng thái này mà họ triệt ngộ những cái công án. Do chúng ta tuần tự mà khi mà cái tâm các con đạt đến cái chỗ Sơ thiền rồi thì bắt đầu các pháp tưởng nó hoạt động. Cho nên hầu hết là Hải Tâm con cũng đang ở trong cái chỗ pháp tưởng, do đó mà hỏi qua những cái danh từ như vậy đó là bị pháp tưởng đó con.
Hỏi: Trước bữa ăn ba muỗng cơm đầu tiên đọc ba câu
1- Nguyện làm tất cả việc lành.
2- Nguyện đoạn dứt các việc ác.
3- Nguyện độ tất cả chúng sanh.
Con xin hỏi câu thứ ba nếu độ quá ít người có tội hay không? Con chỉ sợ đọc được mà con không thực hiện được xin Thầy giảng cho con hiểu rõ.
Các con nhớ phải ráng mà tu tập, còn Phương thì con phải giải quyết cho cháu và đồng thời khi nào muốn tu là phải sống trọn vẹn một con người không còn kiết sử, chứ còn kiết sử thì con tu cũng uổng phí mà thôi, chỉ là hai buổi trong một ngày, hai ngày cho nó qua thôi, chứ còn tu như vậy thì không đến, không tới nơi tới chốn, rất là uổng.
Nếu mà trước kia con nghe lời mà con cắt bỏ hết, con đừng có đắm đuối cuộc đời thì hôm nay con sẽ tu rất tốt, vì con cũng không nghe lời Thầy, cho nên bây giờ con mới chịu những cái nỗi khổ đau như thế này.
Đời có gì hạnh phúc đâu, chỉ là một ảo ảnh, một hạnh phúc ảo ảnh, chúng ta chuốc lấy ảo ảnh tưởng là thật, nhưng chạy mãi, chạy mãi theo nó rồi thì các con cũng thấy chỉ là một chuỗi dài đau khổ của đời người, không có gì. Bây giờ là một cái bài học rất lớn cuộc đời của con, nhưng con phải làm trách nhiệm, bốn phận của Đạo Đức làm người vì nhân quả con đã tạo ra thì con không thể bỏ bê hay hoặc là chối bỏ cái nhân quả đó được mà hãy làm cái phận sự của một con người cho xứng đáng.
Có những gì chưa giải quyết được cần gặp Thầy giúp, thí dụ như muốn cho cháu đi tu, nơi tốt dạy các con học con không làm được thì Thầy sẽ giới thiệu cho cô Liễu với cô Nguyên hai người đang ở ngoài Vũng Tàu họ đang hướng dẫn một số chúng ni, nhỏ có, lớn có thì Thầy có thể sẽ gởi gắm cho và cháu sẽ ra đó mà tu.
HẾT BĂNG
NĂNG LỰC CỦA TAM MINH
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
(00:00) Trưởng lão: Ở nơi đây là rừng, cây cỏ, hoặc là ở nơi đây Thầy muốn biến ra thành một cái chùa rất đẹp. Ví dụ Thầy có Thần Thông Biến Hóa, Thầy biến ra một cái chùa rất đẹp, đẹp hơn cả Trúc Lâm nữa. Quý vị có đến Trúc Lâm quý vị biết, rất đẹp.
Nhưng ở đây Thầy muốn có nên Thầy biến hóa tạo một khu vực rất đẹp hơn Trúc Lâm nữa. Có dòng suối, có nước chảy, có núi, có những hòn non bộ rất đẹp, đẹp hơn cả những nơi mà vua Chúa nhà Đường ở.
Thì Thầy muốn như thế nào thì nó sẽ làm được như thế ấy. Và quý vị vào đây quý vị tham quan sẽ thấy nó đẹp đẽ vô cùng, thấy thích thú vô cùng. Chim trên cây, rất nhiều loại chim đẹp đủ loại, ca hót, rất là đẹp rất là hay. Thầy muốn như thế nào nó sẽ làm y như thế nấy.
Nó rất là đẹp, nhưng nó là Thần Thông Biến Hoá, quý vị đừng có ham. Bởi vì về Trúc Lâm quý vị thấy đẹp, bao nhiêu công lao của Hòa thượng đổ, bao nhiêu tiền của của phật tử. Còn ở đây Thầy chỉ có muốn là được, thì quý vị thấy cái nào sướng hơn, mà không bỏ một cắc nữa, có phải không?
Bây giờ Thầy muốn ăn, quý vị muốn ăn một bữa cơm chay rất ngon thì ngay đó Thầy ra lệnh, liền thì sẽ có đầy đủ chén bát đẹp, quý vị dùng bữa cơm rất ngon mà quý vị không biết, phải không?
Sư Thông Vân: Bạch Thầy, (…) mà đã chứng đạo (…) rồi mà muốn nuôi chúng thì như vậy đâu có khó?
Trưởng lão: Rất dễ, không có khó khăn. Mà thật sự, như mà nuôi, để chúng sống mà ăn, không tu thì nuôi để làm gì? Cho nên mà chọn để một người mà nuôi, để họ tu, họ được giải thoát, là con người đó phải có đủ căn cơ.
Còn không đủ căn cơ, ba bữa mà vào trong đây sống giới luật thì chắc là bay rồi. Bởi vì cái đời sống mà thể hiện cái thần thông để có đầy đủ tiện nghi, sung sướng, cái người tu có đầy đủ thần thông rồi thì người ta làm được. Đời sống của quý vị muốn gì có nấy hết. Quý vị muốn cái gì, ăn cái gì là ngay đó có liền.
(02:16) Ví dụ bây giờ muốn ăn trái bom ở bên Pháp, thì ngay tức khắc ở đây sẽ có một đĩa bom ngay liền tức khắc. Người ta lấy rất nhanh, cho nên cái này nó là đặc biệt lắm quý vị. Cái này phải tu tập, mà chỉ có cái pháp Như Lý Tác Ý có được mà thôi, vừa tác ý là có.
Nghĩa là giờ, quý vị mới tu quý vị tác ý như thế này: "Tâm như cục đất, không tham, sân, si!" Nhưng mà khi cái pháp nó vi diệu rồi, tâm quý vị vừa thoáng muốn là nó đã Như Lý Tác Ý rồi đó, chứ không phải đợi quý vị tác ý ra một câu như vậy đâu. Quý vị muốn là được liền. Đó là cách thức của pháp Như Lý Tác Ý, nó vi diệu và siêu việt như vậy.
Nhưng chúng ta không cầu mong cái đó đâu, nó chỉ là một cái huyễn hoá, để chúng ta thấy sống thoải mái hơn một cái thời gian đó thôi. Còn cái thật sự của nó là Thần Thông Giáo Hóa - chúng ta sống đời sống đức hạnh, sống đúng đời sống của một vị tu sĩ là chúng ta đã tìm thấy sự giải thoát. Sự ích lợi ngay đó, nó thật sự và nó lợi ích thiết thực.
Cho nên Thần Thông Giáo Hóa là thần thông quyết định cho đời sống của chúng ta. Còn tất cả các cái thần thông kia chỉ là một trò du hí để mà chơi thôi, ảo giác để mà chơi, không có lợi ích gì.
Sư Thông Vân: Bạch Thầy, cái Thần Thông Ký Thuyết con thấy cũng cần thiết cho những người hoằng hoá. Có nó thì mới biết căn cơ của người đến với mình như thế nào, có cái pháp để giúp họ cho có hiệu quả.
Trưởng lão: À, nó có ích cho người tu, nhưng không khéo nó biến người tu trở thành một người thầy bói. Nghĩa là bây giờ Thầy nói cái chuyện của mọi người rõ ràng quá, cho nên mọi người đến hỏi: “Con như thế này, như thế này… xin nhờ Thầy coi dùm.”, tức là dần biến Thầy thành ông thầy bói mất rồi!
(04:07) Cái Thần Thông Ký Thuyết giúp cho một vị thầy để hoằng hóa độ sanh. Biết sự kiện xảy ra, biết được người tu được hay không được, tu được bao lâu, nghiệp họ tới như thế nào… biết nhưng không nói ra.
Nghĩa là hiện giờ, Thầy nói thẳng nói thật làm cho các thầy Đại thừa họ tức giận. Họ tức giận thì họ sẽ tìm cách hại Thầy. Cho nên có Thần Thông Ký Thuyết nên Thầy biết họ sẽ hại Thầy, ngày nào họ sẽ làm gì làm gì… Bây giờ họ sẽ chờ Thầy đi ngang qua đó để mà gây ra tai nạn lưu thông cho Thầy chết, thì lúc bấy giờ Thầy biết trước, thì họ không làm được gì Thầy. Cũng như ngày mai họ sẽ tổ chức một đoàn Phật tử, họ thỉnh Thầy và đồng thời sẽ thủ tiêu Thầy thì Thầy cũng biết. Cho nên họ không làm gì được Thầy.
Đối với Thầy, hiện giờ Thầy muốn sống là sống, Thầy muốn chết là chết không ai làm được gì Thầy. Tại vì Thầy phải thấy được những điều đó thì Thầy mới dám ăn dám nói chứ! Nếu mà nói ra những điều không thấy thì chắc chắn là chúng sẽ diệt Thầy chết một cách dễ dàng.
Nhưng mà Thầy nói ở đây là vậy, nhưng sự thật ra thì Thầy mù tịt, Thầy không biết gì hết đâu. Thật sự Thầy như mấy con, nghĩa là ai làm gì thì làm. Thầy cứ lấy, lấy cái gì mấy con biết không? Lấy cái nhân quả, Thầy có nhân quả tốt thì không ai làm được gì Thầy hết! Chứ không phải Thầy biết trước mà tránh né như vậy đâu.
Thầy không bao giờ Thầy tránh né cái điều gì hết. Thầy biết rằng suốt cuộc đời này của Thầy, Thầy tu thiện, sống thiện, ngăn ác diệt ác, thì không có một người nào hại được Thầy. Cái gì chân lý của đạo Phật thì phải trả về chân lý của đạo Phật. Không thể nào mờ ám như vậy! Thầy chỉ là tiếng nói của đạo Phật để mà lật ra những cái sai trong đạo Phật, để chỉnh đốn lại Phật giáo.
Cho nên Thầy nói cái đó là điều tốt, điều thiện thì không ai hại Thầy. Thầy không bị giết như tổ sư Minh Đăng Quang đâu. Vì cái phước báu thiện của Thầy thì không sợ ai hết, thì các con nghĩ Thầy không có thần thông. Nhưng mà thần thông của Phật nói như vậy đó. Nó có ba loại như vậy, chứ sự thật Thầy hoàn toàn không có.
(06:25) Các con cứ nghĩ, người ta xảy ra cái tai nạn, như có một người Phật tử miền Bắc, họ nghe nói con họ trốn đi tu ở trên này. Mà biết được cái vị thầy ở trong này. Đi kiếm ở trong các chùa nhưng mà kiếm mấy chùa thì kiếm không ra, cho nên đến đây. Cái người cha đó, họ đến đây họ khóc, họ rất là khổ tâm. Nhưng mà Thầy, nếu Thầy có Thần Thông Ký Thuyết thì chỉ cần động tâm một chút ít thôi, thì Thầy cũng trở thành ông Thầy bói mất rồi, phải không?
Nhưng mà đối với những người tu hành với đạo Phật, thì người ta không có động tâm đâu. Nhân quả mà. Nhân quả của ông này, nhân quả của gia đình ông này mà! Ông phải khóc để trả nhân quả chứ! Sao Thầy lại cõng nhân quả của ông, phải không mấy con? Thầy đâu có ngu, Thầy đâu có điên gì mà Thầy cõng?
Thay vì bây giờ mấy con có đau bệnh, có nhức đầu, Thầy chỉ cần ra lệnh là cái đầu của mấy con hết, bởi vì có thần thông mà, phải không? Nhưng mà sự thật ra, bệnh của mấy con, nghiệp của mấy con trả, điên gì mà Thầy lấy bệnh của các con vào trong thân Thầy? Có chừng Thầy ra lệnh bảo cái đầu của con hết nhức, cái nó vậy nó làm nhức cái đầu Thầy sao? Phải không? Thầy đâu có điên, tự nhiên làm đau cái đầu Thầy. Để cho các con phải trả cái nghiệp của các con chứ. Cho nên có thần thông như là không có thần thông chứ gì!
Bởi vì sống trong nhân quả rồi, Thầy biết nhân quả rồi thì Thầy đâu có điên gì mà sống ngoài nhân quả sao? Mà cái thân của Thầy đang là thân nhân quả nữa, chứ đâu có phải thân hóa sanh đâu!
(08:00) Cái thân hóa sanh là cái thân không bị nhân quả. Bởi nói hóa sanh là không có nhân quả. Còn cái thân mà sanh ở trong ba cái giai đoạn sanh - từ thấp sanh, thai sanh, noãn sanh - là cái thân nhân quả. Nó bị chi phối bởi cái luật nhân quả, và nó là do những duyên hợp của nhân quả. Còn cái thân hóa sanh là không bị chi phối bởi nhân quả, nó là tâm lực của một người giải thoát.
Cho nên có người hỏi Thầy, khi chúng ta tu theo Phật hết rồi thì dâm dục hết rồi, con người đâu còn sanh, thì thế gian này còn ai? Rồi Thầy nói môi trường sống là phải có con người, chứ không lẽ mấy ông tu rồi mấy ông để cho thế gian này trống lốc hay sao? Người ta ra lệnh là con người đầy trên này hết. Muốn ăn là có ăn, chứ đâu có cần phải cày ruộng chi cho cực, phải không?
Người ta sanh ra trong những con đường sanh này thì phải cấy lúa, thì phải làm lụng vất vả mới có ăn. Rồi còn tham muốn, muốn có xe hơi này… quý vị thấy có vất vả không? Vất vả lắm chứ, làm hết sức chứ không khéo sao có được, phải không?
Nhưng mà đối với người tu, mà trong thế gian này tu hết, người ta cho cái xã hội này như thế nào thì nó sẽ như thế nấy. Người ta muốn bao nhiêu xe hơi, nó cũng chạy đầy đường, có điều nó cũng không tốn xăng nữa.
Đó quý vị thấy cái năng lực của người tu chứng quả A La Hán chưa? Vi diệu như vậy. Thế mà con đường của đạo Phật đã vạch ra cho chúng ta đi đến những chỗ đó, thế mà chúng ta không ham. Chúng ta ham từng chiếc xe hơi, từng cái nhà lầu, từng cái chùa rất đẹp… để rồi chúng ta bỏ biết bao tiền bạc, công lao. Còn trong khi đó, chúng ta chỉ cần hóa thôi mà chùa cũng đẹp, nhà cũng đẹp. Toàn bộ con người mà hóa sanh đi đâu cũng thấy nhà rất đẹp, phải không? Nhà hóa mà, hóa ra mà!
Bây giờ mấy con muốn cất cái chòi như Thầy thì cũng phải mất năm, mười triệu, cũng bộ ít đâu? Mà năm, mười triệu đâu làm dễ phải không? Các con thấy. Bây giờ thí dụ như muốn đi xe hơi chơi thì vẫn có xe hơi đi mà, người ta vẫn làm được. Cái gì người ta cũng làm được hết mà, đâu có gì người ta không làm được đâu.
(10:15) Còn bây giờ người ta muốn đi Châu Đốc, đâu phải đi từ hồi mười giờ mới tới. Ngay khi co duỗi cánh tay này thì người ta đã tới rồi phải không? Như vậy thì cái gì sướng?
Thế mà chúng ta đi tạo sung sướng bằng cái giả tạo, vất vả, mồ hôi nước mắt của chúng ta chất ở trong đó tìm ra được cái sung sướng này. Còn Thầy chỉ cần sáu tháng tu trong thất thôi thì đã làm được chuyện này thì có phải là hay? Có sáu tháng à!
(10:41) Sư Thông Vân: Sáu tháng trong đời này, trong những đời trước Thầy đã tu rất nhiều rồi phải không Thầy?
Trưởng lão: Cái điều đó Thầy không thấy. Thầy chỉ thấy sáu tháng à. Thầy tu chín năm phải không? Nhưng mà cuối cùng Thầy trở về Nguyên Thủy dùng pháp hướng: "Tâm như cục đất, ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền!”. Thì ngay đó trong sáu tháng thì Thầy đã nhập được Sơ Thiền rồi.
Từ đó trong một tuần lễ Thầy đã thực hiện được Tam Minh. Cái chuyện đó chuyện quá dễ, có sáu tháng à.
Sư Thông Vân: Cái sáu tháng đó là cái thời gian chín muồi. Nhiều năm trước là những cái chuẩn bị cho sáu tháng này, phải không Thầy?
Trưởng lão: Thầy nghĩ không có chuẩn bị, mà tu sai. Nó đi lạc lạc đường rồi. Mà nó đúng thì ngay đó nó đã tới.
Bởi vì, thí dụ như hồi giờ mình biết cái mục đích như là chóp cái nón đó, mà mình định đi cho tới cái mục đích, mà cứ đi lòng vòng ở đây hoài thì đâu có tới. Mà giờ biết rồi thì ngay tại đây đi lại đó là tới, có phải không? Là mình đi đúng đường rồi. Còn hồi đó không biết, mình đi lòng vòng, cứ đi lòng vòng cái khu này, mà chỗ mục đích mình muốn đạt ở đằng kia lại không tới.
Sư Thông Vân: Con xin phép con đi về con đi thẳng cái mục đích.
Trưởng lão: Thì đúng rồi. Bởi vậy Thầy nói, cứ mà đi lòng vòng là không tới, mà chỉ có sáu tháng là đi thẳng cái tới, thì Thầy nói thật sự rõ ràng là luân hồi.
Tu sinh 1: Thầy chỉ tụi con cái phương pháp tu sáu tháng đó đi.
(12:06) Trưởng lão: Các con muốn nhanh thì các con sống cho đúng đời sống phạm hạnh cho Thầy đi, "ba y, một bát", xả hết! Rồi về đây Thầy chỉ cho các con, 6 tháng các con tu tới. Còn các con xả không hết thì thôi. Ngồi trong thất các con còn nhớ nhà, nhớ chùa thì chết rồi! Thầy nói rồi, có muốn đi thẳng cũng không được.
Sư Thông Vân: Con nói với các Phật tử ở Châu đốc đó Thầy, các Phật tử có duyên với con, con nói con tu chưa có xong, còn dở lắm. Cho nên con bỏ để đến tu với Thầy Thông Lạc.
Trưởng lão: Bây giờ muốn tu theo Thầy thì "ba y, một bát", đi xin ăn ngày một bữa. Không ăn uống phi thời, không gì hết. Nguyện nhất định là cái tâm nó lớn như không gian vũ trụ, mà cái thân thì nó ốm như Thầy đó. Hễ khi nào cái thân mập thì cái tâm không lớn được đâu.
Cho nên mà đến với Thầy thì chỉ còn xương với da thôi. Mà trong khi tu thì thiệt chỉ còn xương với da thôi. Nghĩa là không còn tính cái thân này. Phải chết đi mới sống lại một lần. Nếu mà chúng ta còn muốn sống thì chắc không được.
Sư Thông Vân: Nhưng mà bạch Thầy, có cái này nữa nè Thầy. Nếu mà mình về đây thì phải làm sao cho xứng đáng. Chứ mà về đây mình (…), mà mình tu không ra gì thì mình tổn phước dữ lắm, phải không Thầy?
Trưởng lão: À cái đó đúng đó! Bởi vì mình phải suy tư cho kỹ. Mình có khả năng quyết tâm để thực hiện con đường giải thoát này, để làm ngọn đuốc sáng cho Phật giáo, để làm cái gương hạnh cho Phật tử cho người ta soi, thì lúc bấy giờ quyết định đời nay phải làm cho được, thì Thầy nói đến đây Thầy cho cái thất ở. Sống độc cư trọn vẹn sáu tháng.
Độc cư, không được nói chuyện với ai hết, hoàn toàn sống một mình. Không lao động gì hết, không quét, không dọn… Ngồi không, nhưng mà chịu nổi, thì người đó sáu tháng sẽ thành tựu. Còn ngồi không mà chịu không nổi, thì coi như là trong sáu tháng đó… chưa được sáu tháng đâu, thì trong vòng một tháng đã bay rồi, chịu không thấu!
(14:14) Nói thì đơn giản như vậy đó, nhưng mà độc cư khó lắm, chứ không phải dễ đâu. Mình còn độc cư mà mình đọc sách, nghe băng đồ… thì nó không độc cư đâu. Mà còn lao động, cũng chưa độc cư đâu. Mà độc cư, ngồi không mới độc cư à!
Ở đây ngồi không mà cái người nào chịu nổi, là cái người ấy tâm phải ly dục, ly ác pháp. Còn tâm chưa ly dục, ly ác pháp là không chịu nổi. Ngồi một chỗ chứ tâm nó phóng dật dữ lắm, nó phóng dật hơn là cái người ở ngoài đời.
Thầy nói thật sự mà, ngồi không nó phóng dật kinh lắm chứ không phải thường đâu. Còn mình còn lao động, còn làm cái này, làm cái kia thì tâm nó không có phóng dật.
Sư Thông Vân: Bạch Thầy, có dòng tiếp hiện, và dòng chuyên tu, như vậy thì những vị tu sĩ nào tiếp hiện? Như con ngày hôm nay chẳng hạn, một thời gian chuẩn bị rồi cũng vào chuyên tu. Như vậy, trong khi đang tiếp hiện thì con phải giữ gìn như thế nào để không dính danh, không dính lợi và có được lợi ích thiết thực?
Trưởng lão: À, trong cái vòng tiếp hiện đó thì những bậc A La Hán lãnh đạo dòng tiếp hiện. Người cư sĩ là những người tiếp hiện, nghĩa là người cư sĩ là người tiếp hiện. Còn những tu sĩ thì đều là trở về, quay về hướng chuyên tu. Còn những tu sĩ mà lãnh đạo tiếp hiện là những bậc A La Hán. Những người mà chưa chứng quả A La Hán mà tiếp hiện sẽ bị danh lợi lôi cuốn mất, rất là nguy hiểm.
Sư Thông Vân: Bạch Thầy, như vậy con đi vào chuyên tu, không nên làm chuyện khác thưa Thầy?
Trưởng lão: Theo Thầy thiết nghĩ thì như vậy mới đúng, để những người chứng quả A La Hán, người ta lãnh đạo cư sĩ tiếp hiện. Bởi vì cái gương hạnh những người tu sĩ ấy, họ là những gương hạnh đạo đức, không làm khổ mình, khổ người. Và họ sống với người cư sĩ mà họ làm dòng tiếp hiện đó, thì các cư sĩ mà ở gần bên họ có lợi ích rất lớn.
(16:17) Còn chúng ta chưa chứng quả A La Hán đó, chúng ta còn nhiều sơ sót. Còn nhiều sơ sót sẽ làm cho những Phật tử xung quanh mình có những sự nghi kỵ, mất tín tâm. Cho nên nguy hiểm lắm, vì vậy dòng tiếp hiện chỉ có những bậc A La Hán lãnh đạo. Còn dòng chuyên tu thì những tu sĩ trở về dòng chuyên tu hết thì như vậy là đúng.
(16:44) Sư Thông Vân: Bạch Thầy, con có nói với những Phật tử là con không có muốn chùa to, Phật lớn, chỉ muốn ở chùa tranh vách lá. Đó là cái duyên của con chưa tới hay là…
Trưởng lão: Theo Thầy thiết nghĩ, chùa tranh vách lá là đúng đó! Đúng cái tinh thần của một vị tu sĩ Phật giáo đó! Nhưng chúng ta nên thực hiện rốt ráo nó trong một đời nay. Để không, được thân người là khó, mất thân người khó tìm lắm, không phải dễ.
Nghĩa là khi mà tu xong rồi mới nhìn lại quá khứ của mình, mới xem thấy từ khi đức Phật đản sanh cho đến giờ, rất nhiều người cư sĩ, trong thời đức Phật được nghe pháp, mà cho đến giờ chưa được làm người. Được nghe pháp Phật giảng mà không chịu tu, đến giờ chưa được làm người. Có người được làm người, được nhớ lại pháp Phật, đó là một điều hy hữu. Có người được làm người mà không nhớ lại được pháp Phật.
Tu sinh Thông Vân: Bạch Thầy, có người đã được làm người, nhớ pháp Phật, biết tu, mà lại muốn tự tử thì rất uổng phải không Thầy?
(18:13) Trưởng lão: Thông Vân muốn nói, một cái người mà có cái thân này mà tự tử thật là uổng đó. Bởi vì cái thân rất quý mà! Chỉ có con người mới có được cái trí tuệ, mới phân biệt được thiện và ác. Và vì vậy mà cái con người đi vào cái đường thiện, thì mới đi vào cái con đường này.
Còn nếu mà không làm người, như một con thú vật đó, thì nó đâu có biết được phân biệt thiện ác! Cho nên nó sống theo bản năng tự nhiên của nó. Cho nên toàn ác nó cũng không biết, thiện nó cũng không biết. Nó ứng xử tự nhiên.
Còn con người phân biệt thiện ác, phải trái, biết. Do vì vậy mà chỉ có con người mới giải thoát được thôi. Mà bây giờ thì lại vì cái chuyện thất tình, hay thất vọng điều gì mà tự tử, thì thiệt là ngu si, không có chỗ nào nói! Mất cái thân này rồi thì cái tự tử này có được nữa không? Còn được một lần tự tử nữa không? Hay là sanh làm con thú vật chỉ còn biết cắn lộn hay là dành ăn với nhau thôi?
Cho nên là quá ngu! Được cái thân này thì đi tìm một cái đường lối như thế nào, một cái lộ trình như thế nào để ta đi trên lộ trình đó, giống như bây giờ quý Phật tử, vượt đường xá xa xôi như thế này, trong mưa bão như thế này mà đến đây.
Nhưng đức Phật đã vạch cho chúng ta có hai lộ trình mà, một đường thiện và một đường ác. Quý vị phật tử đang sống trong con đường ác và con đường thiện.
Nhưng con đường thiện thì mình chưa rõ, con đường ác thì mình cũng chưa rõ. Bây giờ được một vị mà người ta đi qua được con đường này, người ta biết đây là con đường ác, đây là con đường thiện. Con đường thiện như thế nào, con đường ác như thế nào, người ta chỉ cho mình biết. Từ đây về sau mình đi trên con đường thiện. Ai dại gì mà đi trên con đường ác!
Cho nên phải không, ở đây quý vị đã vượt đường xá xa xôi mà đến đây như vậy là chọn lấy con đường thiện, đừng chọn lấy con đường ác. Từ đây về sau chúng ta sống không làm khổ mình, không làm khổ người. Tức là quý vị đã chọn lấy con đường thiện mà quý vị đi. Và con đường đó sẽ đưa quý vị đến giải thoát hoàn toàn.
(20:11) Quý vị không còn tự tử. Tự tử tức là quý vị tự sát. Quý vị tự làm khổ mình, thì như vậy là quý vị thọ lấy sự đau khổ chứ có lợi ích gì đâu?
Cho nên người có thân mà tự tử là rất là uổng, rất là phí. Cũng như là có viên ngọc quý mà chúng ta lại ném đi. Chúng ta đừng nghĩ thân này là vô thường, nay mất mai được, không được đâu!
Đức Phật đã cho ví dụ, được thân người là khó như con rùa mù mà tìm bọng cây giữa biển. Ném một bọng cây ở ngoài biển rồi chúng ta thả một con rùa mù bảo mà đi tìm đi. Thử hỏi con rùa mù nó tìm như thế nào được? Không bao giờ được!
Như vậy thì lời nói của đức Phật có nghĩa là được thân người khó quá, khó thật khó. Và chúng ta nhìn thấy, như các cư sĩ ở đây, đức Phật có cho chúng ta năm điểm, thực hiện để được làm con người. Năm điểm tức là đức Phật cho chúng ta thọ năm giới chứ gì? Ai trong chúng ta cũng biết năm giới, nhưng mà ở đây quý vị người nào đã giữ đúng năm giới?
Nếu quý vị chưa giữ được năm giới, quý vị chưa được làm người đâu, phải không? Năm cái điểm. Bây giờ Thầy đi thi tú tài nè, mà người ta cho 120 điểm đậu, mà bây giờ Thầy mới có 100 điểm, thì làm sao người ta cho Thầy đậu được, phải không? Đâu có đậu được! Thì như vậy dù quý vị giữ được bốn giới, mà còn một giới, quý vị cũng chưa được làm người. Như vậy là khó thật mà đâu phải dễ.
Còn mang thân chúng sanh thì làm sao làm được năm cái điểm này. Như đức Phật nói muốn sanh lên cõi trời thì phải làm mười điều thiện, mà muốn làm người thì làm năm điều thiện, tức là năm giới. Quý vị thấy chưa? Khó không?
(22:00) Như vậy ở đây quý vị, các con thấy, ở đây các con thấy như thế nào? Tại vì nhiều khi các con chưa ăn chay được nữa, các con còn ăn thịt chúng sanh mà làm sao mà muốn làm người được! Đâu có được phải không? Phải làm chúng sanh nữa chứ!
Cho nên đạo đức nhân quả Thầy nói như thế này, vì sự sống sao ta nỡ sống trên sự đau khổ của loài vật khác? Các con có thấy không? Một lần các con ăn miếng thịt, sao vì sự sống của các con mà các con ăn miếng thịt, nỡ lòng nào ăn miếng thịt phải không? Các con có nỡ lòng không?
Người tu sĩ người ta hiểu biết, cho nên vì thế mà người ta không nỡ lòng nào người ta ăn thịt, chứ không phải người ta ăn chay. Người ta đâu phải con bò! Con bò nó cũng ăn chay, cũng ăn cỏ, chứ nó thành Phật được sao? Nhưng vì không nỡ trên cái sự đau khổ của loài vật khác mà chúng ta ăn thực vật, không ăn động vật. Đó là tâm niệm của những người tu theo Phật giáo.
Còn dạy chúng ta ăn chay như con bò ăn cỏ, cho nên chế ra nào là thịt heo, thịt bò bằng đậu hũ chứ gì? Đó là con bò ăn cỏ. Họ ăn chay kiểu đó là như con bò.
Bởi vì đức Phật dạy ăn “không thấy, không nghe, không nghi”. Dù là miếng đậu hủ, mà làm giống miếng đùi gà, làm giống miếng thịt heo, nhưng chúng ta vẫn nhất định, là người tu theo đạo Phật, không ăn vì thấy đau khổ của loài vật, phải không? Như vậy thì mới là người ăn chay theo đạo Phật.
Còn người ăn chay của Đại thừa thật sự người ta làm những đồ ăn giống như những đồ mặn. Thế mà các thầy ngồi ăn vẫn ngon như thường! Quý vị như vậy rõ ràng là ăn mặn chứ đâu phải ăn chay, cái đó đúng không?
Cái đó không đúng. Thầy nói không đúng đâu. Cho nên ở đây Thầy nói rằng, người ta nói rằng, trong kem đánh răng người ta có làm mỡ heo trong đó, nhất định Thầy không dùng kem đánh răng. Người ta nói, tức đã nghe, tức đừng có dùng, phải không? Chứ không phải "không thấy" mà dùng, nghe nói là không dùng rồi!
Bởi vì trong đó có sự đau khổ, người ta chắt ra mỡ của con heo, của một sự sống, của một sự đau khổ, để cho chúng ta đánh răng. Chúng ta sung sướng lắm, làm cho hàm răng của chúng ta đẹp, trong khi có sự đau khổ trong đó, chúng ta không làm. Cho nên Thầy lấy than, lấy muối, Thầy đánh răng cũng sạch vậy. Mà khỏi tốn tiền mua, có lợi ích phải không? Các con thấy không?
(24:20) Đối với người tu sĩ tu theo đạo Phật là như vậy. Hễ ai nói trong đó có sự sống chết là nhất định không sử dụng, cho nên mà giày, dép, guốc… mà bằng da của chúng sinh thì không xài. Nghĩa là bằng mủ, bằng cao su thì xài, bằng da thì không xài. Bằng da, bằng này kia thì không xài, bị có sự đau khổ của chúng sinh.
Vì sự sống của mình, sao mình lại sống trên sự đau khổ của người khác, sinh vật khác? Chúng ta không làm! Đó như vậy mới thật sự là người tu theo đạo Phật, đạo đức nhân quả mà, không làm khổ mình, không làm khổ người. Thấy sự đau khổ tại sao mình còn làm? Còn nếu mà chúng ta không làm đạo đức thì chúng ta sống bừa bãi trên sự đau khổ của người khác, sinh vật khác. Các con hiểu chưa, đó là cuộc sống đạo đức mà.
Từ cái chỗ đạo đức này mà chúng ta mới đi đến Thiền Định. Rồi từ Thiền Định đó chúng ta sẽ thấy là cuộc sống này hoàn toàn không có gì hết. Chỉ là một môi trường nhân quả, môi trường sống trong nhân quả. Rồi từ đó nhân quả nó diễn biến như một cái diễn kịch trên sân khấu mà thôi. Không có gì của mình trong đó.
Khổ vui, buồn giận đều do nhân quả chi phối tất cả những cái này. Rồi mình lầm chấp, mình cho là khổ, mình đau, mình đớn này kia… Cho nên hễ nhức đầu cái đi kiếm bác sĩ, đau cái tay thì kêu bác sĩ, các con thấy không?
Còn cái người tu, người ta thấy đó là cái trò của nhân quả, sao mà phải chạy, mà không chạy thì tâm bất động. Mà tâm bất động thì cái đó nó hết, bởi vì nhân quả nó chi phối theo cái sự động của nó, mà bất động thì nó không chi phối được. Mà không chi phối được thì mình giải thoát, có phải không? Các con thấy cái nào sướng, chính cái tâm bất động là sung sướng nhất.
(26:16) Đó như các con thấy, như cái đời tu hành chúng ta biết rất rõ Phật pháp là như vậy. Nhưng vì nó đi ngược lại với cái đời sống nên nó khó. Nhất là cái đời sống vật chất trong cái thời đại này thì các người tu sĩ, các con tu qua khó. Vì cái vật chất nó cám dỗ, cho chúng ta có những cái tham, cái ham muốn. Nó làm cho chúng ta lìa nó không được.
Thời đức Phật thì vật chất ít cho nên người tu có thể dễ. Thế mà Phật tịch rồi thì người ta vẫn đắm đuối trên vật chất. Cái vật chất ở thời ấy nó không có, thế mà người ta vẫn đắm đuối. Người ta vẫn phân hóa ra, người ta chế giới ra, người ta bẻ vụn giới ra để người ta chạy theo dục. Cho nên vì vậy cái Phật giáo chân chính nó khó tồn tại bởi vì nó đi ngược lại với dòng đời.
Còn cái Phật giáo Đại thừa nó đi vào thiền nhập, nó nhập thế tục. Nó nhập riết, thành ra mấy ông thầy tu chứng đó ngày càng không ra gì hết.
(27:18) Sư Thông Vân: Bạch Thầy, do cái nhân gì mà hiện giờ có ít người tu sĩ tu chứng. Đó có phải là do chánh pháp bị biến mất phải không Thầy?
Trưởng lão: Đúng rồi, chánh pháp bị biến mất, giới luật không còn. Không còn tu sĩ nào giữ gìn giới luật thì làm sao mà chánh pháp không biến mất!
Vả lại chúng ta cũng không biết đường tu nữa. Bây giờ thật sự ra nếu mà chúng ta tu mà không có thiện hữu tri thức, lơ mơ là chúng ta bị ức chế.
Như quý vị phật tử nè, tâm chúng ta chưa xả được chuyện đời, chưa có cái sự tư duy đúng đắn, chưa có sống cái đạo đức "ly dục, ly ác pháp". Quý vị nghe, quý vị vô đây có sáu tháng à, là quý vị chứng quả A La Hán chứ gì. Bỏ đi hết, vô đây tu, nỗ lực với cái tâm tha thiết thật sự. Nhưng mà cái tâm nó vẫn còn tràn đầy cái tham như vầy, tức là quý vị vô trong thất tầm ba bữa là quý vị thấy ức chế liền. Sai rồi, tu sai rồi!
(28:16) Cho nên quý vị biết, nãy thầy Thanh Vân nói đó, sáu tháng đó là Thầy đã chuẩn bị như thế nào? Chuẩn bị cả một cuộc đời của Thầy, từ khi là một chú tiểu 8 tuổi, rồi đi học, rồi đến ngày ra đến Tu viện Chơn Không tu với Hòa thượng Thanh Từ. Xả bỏ, xả bỏ cho đến ngày vào thất chín năm trời, toàn là xả không đó.
Nghĩa là sống, mỗi lần khởi lên cái tâm ham muốn, thì có cái sự quyết định, nhìn thấy lời của Hòa thượng năm xưa. Hòa thượng nói: “Phật pháp còn là vì còn một người tu chứng”. Thế mà nhìn trong Phật pháp chưa có ai tu chứng, tại sao mà mình còn ham muốn cái đó? Phải làm cái điều này, nhắc nhở cái tâm mình như vậy, để rồi bền chí mười năm độc cư ở trong thất mới chịu nổi. Chứ mà nếu không có hình ảnh lớn đó thì mình chịu gì nổi!
Bởi vì tâm ham muốn, ai cũng có thể bung ra để mà ham muốn mà! Cho nên vì vậy mà mỗi lần có khởi ra cái tâm ham muốn là nhắc: “Phật pháp còn là vì còn một người tu chứng. Tại sao chưa có người tu chứng mà mình lại còn muốn đi ra?”
Cứ nhắc như vậy mà ôm chặt mãi đến khi mà nắm được pháp Nguyên Thủy, thấy được pháp Như Lý Tác Ý. Từ đó mới thấy được rõ con đường của đạo Phật giúp cho mình cái hướng đúng.
Nhưng mà trải qua rồi cả một cuộc đời như vậy là ly dục, thậm chí mà ngay cả lúc Thầy ở Ấn Quang, Hòa thượng Thiện Hòa đề nghị Thầy đi ra ngoài lập luận án tiến sĩ ở Nhật Bản hay là bên Đại học Ananda giúp đỡ, giáo hội giúp đỡ Thầy đó.
Cái danh ngon quá mà, cái miếng ăn rất sướng mà! Thế mà nghe Thầy Thanh Từ mở Tu viện Chơn Không đi tu giải thoát thì Thầy xả bỏ liền cái danh liền.
(30:06) Thầy Chơn Thành- đồng thời là bạn bè của Thầy- thầy đi, còn Thầy không đi. Bây giờ thầy làm phó Tăng thống ở ngoại quốc đó, ngon lắm chứ đâu có phải là, thầy Chơn Thành bây giờ đó.
Bởi vì bấy giờ thầy Minh Thành ở Ấn Quang lúc đó chưa chết đó, khi mà Thầy về thăm thì tháng trước, tháng sau thầy chết, Thầy về thăm rồi thầy chết.
Thầy cho thầy một bộ Giới Đức Làm Người đó. Thì lúc bấy giờ về thăm, Thầy Minh Thành mới nói: “Tôi đi qua bên đó, tôi gặp thầy Chơn Thành, trời ơi ông ta bây giờ người ta làm lớn, ngon lắm, đâu phải như mình ở bên đây.”. Thầy nói: “Lớn ngon gì không biết nhưng mà thầy hãy đọc cái bộ giới đức này đi!”
Sư Thông Vân: Bạch Thầy, lúc mà con có đến chùa Ấn Quang, con có thưa hỏi Hòa thượng Minh Thành, mới hỏi cái con về Châu Đốc, cái ngày hôm sau thầy mất, thấy cuộc đời này thật là vô thường tạm bợ, mới nói chuyện vui vẻ cái qua hôm sau…
Trưởng lão: Đúng vậy, đó là có duyên còn gặp ông. Thầy xuống đó một tháng Thầy cho ông rồi, sau thì về, cách tháng sau thì ông mất.
Đúng là, Thầy biết rằng ông dạy về giới, ông viết và soạn về cái bộ giới. Nhưng mà ông không có soạn về Giới Đức Làm Người, Giới Đức Làm Thánh, cho nên Thầy mới đưa ra. Thì bữa gặp ông, ông nói với Thầy như thế này nè: "Tôi chưa có biết cách nào mà dạy, tôi biết ở trong kinh giới thì có nói rằng “đức giới” nhưng mà chưa có biết khai triển như thế nào. Sao mà Thầy lại đến mang đến cho tôi như thế này?”
Thầy nói: “Chính đây là giờ phút cuối cùng để nhắc nhở thầy trên con đường soạn kinh giới.”. Nhưng mà trong khi đó Thầy mới hỏi sức khỏe của thầy. Mập, cơ thể thầy mập khỏe như vậy, chứ sức khỏe thầy kém lắm.
Ông nói: "Ờ tôi bị đau tim".
Thầy nói: "Coi chừng thầy tịch bây giờ đó."
Ông nói: “Chưa đâu, tôi ráng tôi coi hết bộ kinh của thầy rồi tịch mới được."
(32:05) Thì huynh đệ nói chuyện chơi với nhau thôi. Nhưng mà sự thật tháng sau đó, sợ ông đọc chưa hết nữa. Bởi vì công việc rất nhiều, có thể là đọc cái lời tựa thôi, chứ chắc đọc chưa hết, rồi chết.
(32:18) Thì các con thấy đó là sự vô thường. Cũng như hôm nay chúng ta gặp nhau ở đây, ngày mai chúng ta biết còn hay không? Chưa chắc đâu.
Cho nên tuổi đời chúng ta, những người lớn tuổi chúng ta sẽ sắp sửa đi. Thì hiện giờ, nếu mà Thầy không đủ cái năng lực phục hồi cái cơ thể của Thầy, thì Thầy cũng đi rồi. Bởi vì ăn ngày một bữa, từ ngày mà tu tới giờ, từ ngày mà về Trảng Bàng, Tây Ninh tu tới giờ thì ngày ăn một bữa. Cơ thể lúc nào cũng luôn luôn vừa đủ để sống, không thừa. Mà lỡ có một trận đau thì kể như sức đề kháng không có rồi. Nó không có thừa thì sao mà nó có đủ sức đề kháng? Cho nên nó hoại diệt cơ thể rất nhanh.
Cho nên có một lúc, năm rồi, có một lúc Thầy bị cảm, từ đó sức đề kháng nó không có. Và làm việc rất nhiều cho nên đề kháng không có. Do đó từ 40 kí, Thầy sụt xuống 35 kí, luôn luôn lúc nào cũng dễ chóng mặt. Như vậy là Thầy thấy rất là nguy hiểm, và đồng thời khi mà Thầy ho thì Thầy khạc ra máu. Đó, các con thấy ghê gớm! Tất cả các thuốc của bác sĩ cho đều không hết, không trị hết.
Cho nên, anh Chín Ký là một bác sĩ, ông nói với Thầy như thế này, khi mà cho thuốc ông nói: "Chỉ có anh cứu anh thôi, chứ trời không cứu anh được đâu." Nghĩa là ông muốn nói là anh ráng anh ăn cho nhiều, thì nó đề kháng lại thôi, chứ còn chịu thua.
Thầy mới nói, Phật tử với cô Út cũng đã thấy rồi, thuốc không trị được thì Thầy chỉ có cách như anh Chín nói “Anh cứu anh thôi” phải không?
Bây giờ Thầy cứu Thầy chứ, trong khi công việc của Thầy còn dở dang, chứ mà làm xong rồi thì Thầy đi nó cũng vừa. Thầy đâu có tiếc thân tứ đại này đâu. Nó vô thường, là cái thân nhân quả mà. Cho nên Thầy nói, thôi bây giờ, mời cô Út giữ cửa thất, Thầy sẽ phục hồi trong một tháng.
(34:16) Mỗi ngày, buổi trưa cho Thầy thêm nước cam. Nghĩa là buổi ăn của Thầy cho thêm một ly nước cam tươi, hoặc là một ly sữa. Thầy chỉ xin thêm vậy thôi, còn bình thường chúng ăn sao Thầy ăn vậy, đừng làm thêm khác. Thì trong vòng, coi như từ sáng tới chiều Thầy phục hồi, là Thầy không khạc ra máu nữa.
Thầy đến mức độ đó thì quý vị thấy 15 ngày, Thầy lên 43 kí. Từ 35 kí mà tăng lên 43 kí thì quý vị biết rất rõ. Thầy không bao giờ nhập ở trong cái thiền định nào cả. Thầy chỉ ở trong cái trạng thái bất động tâm mà thôi, nghĩa là thanh thản, an lạc, vô sự. Tâm Thầy lúc nào cũng luôn giữ gìn ở trong cái trạng thái đó, nghĩa là Thầy ở trong cái Bất Động Tâm Định. Do đó Thầy chỉ hướng tâm "cái cơ thể phải phục hồi" vì Thầy còn nhiệm vụ nhiều lắm, chưa nên bỏ nó.
“Bây giờ phải phục hồi lại. Cái phổi phải phục hồi lại. Lành lại không được bệnh!” Thầy cứ ra lệnh, thỉnh thoảng Thầy nhắc. Chỉ trong vòng từ sáng tới chiều là cái bệnh nó dứt liền, không còn có một chút xíu gì nữa. Rồi bắt đầu từ đó phục hồi lại cơ thể. Trong vòng 15 ngày là lên 43 kí.
Khi mà một tháng sau Thầy ra, mặt hồng hào, đỏ tươi lại hết. Ai cũng thấy Thầy không còn bệnh nữa. Thầy nói thật là mầu nhiệm thiệt. Đúng là pháp của Phật mầu nhiệm thiệt. Dám phục hồi lại cơ thể của mình, dám trị được những cái bệnh quá khó. Bệnh của Thầy như cô Cúc Phương với bác sĩ Ký nói thì bị bệnh lao phổi trở lại, vi trùng đề kháng nên không có thuốc trị. Họ dám xác định như vậy mà, cho nên sống để chờ chết thôi.
Sư Thông Vân: Như vậy là Thầy làm chủ được bệnh?
(36:19) Trưởng lão: Thầy làm chủ được bệnh, mà bệnh rất khó chứ không phải bệnh dễ. Vi trùng đề kháng mà, đâu phải dễ. Thì như các con thấy, người tu hành người ta sẽ đẩy lui tất cả các bệnh khổ trong cơ thể.
Cho nên hôm Thầy sách tấn một ca ở Tân Vạn, thầy bị ung thư, ung thư bên trong chứ không phải ung thư bên ngoài. Thầy dau nhức khổ sở vô cùng, cái tuổi cũng lớn, nhưng nhỏ hơn Thầy. Thì Thầy khuyên, Thầy sách tấn giùm. Thầy rất thương những người tuổi già bị gặp cái bệnh khổ. Thầy chỉ trao cho cái pháp để thầy tự cứu thầy. Thầy cho ở đây cái pháp ăn ngày một bữa, không có bồi dưỡng thêm gì hết. Thầy nói với thầy: "Bây giờ cái thọ của thầy là cái bệnh ung thư, thầy phải tác ý cái tướng khác của cái thọ khác. Và thầy ôm cái pháp Như Lý Tác Ý đó, thầy ôm cho chặt. Lúc nào thầy cũng tác ý ra. Khi nó đau, càng đau thì thầy tác ý ra, thì thầy sẽ vượt qua cái khổ đau này, nó sẽ tận cùng, là thầy sẽ phục hồi cơ thể, thầy sẽ vượt qua căn bệnh ung thư."
Nhưng mà Thầy rất tiếc, thầy ấy nhát gan, thầy vô trong thất trong vòng ba bữa. Những ngày đầu còn đỡ, bữa sau đau quá thầy chịu không nổi. Tâm thầy nó cứ bám theo cơn đau mà nó không bám theo câu tác ý. Cho nên do đó thầy xin Thầy về chùa để thầy dưỡng bệnh mới được.
Thầy nói thiệt ra là thầy tìm cái chết chứ không phải thầy tìm cái sống. Chứ mà thầy quyết tâm ở đây, từ một tuần lễ cho đến một tháng, thầy sẽ phục hồi lại, phục hồi hoàn toàn với cái pháp Như Lý Tác Ý. Mặc dù thầy chưa có định, tâm thầy còn phàm phu, nhưng mà thầy tin rằng tâm đừng dao động, ôm chặt pháp, coi như mình chết trong bệnh này thì Thầy sẽ cứu thầy.
(38:11) Nhưng mà thầy yếu quá, cho nên khi mà thầy xin đi, Thầy nói, thầy yếu quá, chứ còn như Thầy thà là chết, chết ở trong cái pháp giới của Phật, để mà sống ở trong cái sự giải thoát, chứ không để nhân quả làm chủ mình như vậy.
Đúng là nhân quả chi phối của nghiệp. Mà bằng cái pháp giới mà chuyển không được thì bị nhân quả chuyển.
Bị nhân quả chuyển thì mình phải rút đi, bỏ pháp. Khi mà về chùa làm sao ôm nổi? Ở đây mà ôm không nổi, có Thầy mà ôm không nổi. Bước vào cái từ trường này, coi như là có cái từ trường của Thầy trợ lực, thế mà đi ra. Nó còn đau hơn nữa, chứ đừng nói. Bước ra khỏi là còn đau hơn nữa. Chỉ còn có nước là về, thì chỉ có chịu chết thôi, chứ không còn.
Ở đây thí dụ như có cái từ trường của Thầy ở đây, bước vào đây một người mà bị nhức đầu, thì thay vì ở ngoài nó bị nhức mười lần, vô đây nó chỉ còn năm. Mà giờ pháp hướng nữa, tâm không dao động nữa thì nó giảm xuống liền. Thế mà người ta không chịu nổi!
Cái từ trường ở đây nó trợ giúp cho quý vị tu, còn Thầy thật sự Thầy không giúp được điều gì hết. Bởi vì cái thiện pháp ở trong đây nó sống trong giới luật. Cái giới luật đó nó sẽ có một cái từ trường thiện pháp, cái giới luật đó. Cho nên bước vào cái thiện pháp giới luật đó các con sẽ thấy mát lạnh. Nó nhẹ nhàng, nó thanh thản.
Còn cái từ trường mà chỗ đó nó không có thiện pháp, nó sẽ không có mát lạnh đâu. Nhưng mà cái người mà mang những cái tâm đầy ác vào cái từ trường thiện sẽ bị đẩy lui. Nó không thuộc về là nó bị đẩy lui ra.
(39:50) Sư Thông Vân: Bạch Thầy, vậy cái ý nghĩ thiện ác của mình nó cũng tạo ra cái từ trường ảnh hưởng xung quanh?
Trưởng lão: Ảnh hưởng xung quanh. Nó rất ảnh hưởng đến xung quanh. Mặc dù mình không thấy nhưng nó rất ảnh hưởng.
Sư Thông Vân: Như vậy là mình nghĩ cái điều gì mà khổ cho mình hay làm những điều tội lỗi là đã làm ô nhiễm môi trường xung quanh…?
(40:11) Trưởng lão: Đúng đó. Bởi vậy vô tình mà mình đã làm ô nhiễm môi trường xung quanh. Cái từ trường của mình, cái suy nghĩ đó nó có cái từ trường đó.
Sư Thông Vân: Bạch Thầy, như vậy một người còn sơ cơ nên sống trong một cái đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh, toàn là những người thanh tịnh để dễ tu hơn, để được ảnh hưởng từ trường tốt phải không Thầy?
Trưởng lão: Đúng vậy. Cái đó là cái đúng. Bởi vậy trong cái thời đức Phật, nhờ cái từ trường của đức Phật, các chúng Tỳ kheo nương vào đó để thực hiện Phạm hạnh. Cái từ trường Phạm hạnh của các vị Tỳ kheo toả ra, người sau tiếp tục thì như thế rất tốt. Nhưng mà người nào mà sống có ác tâm thì cái từ trường thiện nó đẩy lui ra, người đó không sống gần đó được.
Sư Thông Vân: Như đức Phật nói là chứng thanh tịnh không có khó?
Trưởng lão: Nó không có khó. Cho nên Thầy luôn luôn Thầy nhắc, vì vậy mà các sư thấy là khi đó, lúc mà thầy Chơn Quang, tức là thầy Thông Huyễn đó, về ở với Thầy. Thì lúc bấy giờ Thầy về với Hòa thượng, rồi Hòa thượng cúng cho Thầy khu đất ở Phước Hải, Thầy đưa thầy Chơn Quang ra ngoài đó ở. Rồi Nhà nước đuổi, thầy Chơn Quang đi về núi Dinh. Bây giờ thầy Chơn Quang ở ngoài núi Dinh. Còn Thầy thì ở đây.
Lúc bấy giờ, Thầy nghĩ rằng chỉ còn cách thức là giữa Thầy với Hòa thượng, hợp tác với nhau lại, đem Giới, Định, Tuệ hướng dẫn cho những bậc chuyên tu, những bậc quyết tâm tu giải thoát, thì Thầy là người đứng sau Hòa thượng, để giúp cho Hòa thượng chấn hưng Thiền tông Phật giáo Việt nam, nhưng không được, duyên chúng sanh không đủ.
Khi mà giao đất cho Thầy, Thầy ra ngoải Thầy cất hơn 20 chục thất cho Hòa thượng, toàn nhỏ nhỏ như ở đây vậy. Thì lúc bấy giờ chính trong Thường Chiếu đăng ký ra ngoài đó hết, làm dao động Thường Chiếu, coi như bỏ Thường Chiếu đi. Còn Thường Chiếu bắt đầu trống không, cuối cùng không còn ai hết. Từ đó dẫn đến có sự lui dần, lui dần. Bởi vậy Thầy nói "dục tốc bất đạt" là vậy. Cho nên Thầy nhận thiếu sót.
(42:16) Và bây giờ Thầy ở đây Thầy mang giới luật Thầy dạy, nhưng mà vì cái thói quen của người ta đã sống phá giới luật rồi. Cho nên chúng về đây cứ mỗi đợt thì về, cứ ba bốn chục người, hai chục người, mười người… Sống một thời gian, chịu giới luật không nổi, nhất là độc cư không chịu nổi, cho nên người nào thấy khó thì về, chứ Thầy không có bắt buộc ở.
Thầy cũng không phóng rộng rãi thêm, nghĩa là họ ở giữ gìn giới luật được thì tu, không giữ gìn giới luật được thì về. Không có bắt buộc người ta phải ép mình để mà tu. Người ta tu sao người ta tu, họ đến đây rồi lại đi.
Cho nên biết bao nhiêu người về đây, có người đến đây ba bữa thì đi, có người đến đây một đêm, sáng ra đi. Thầy nói như vậy là đuổi, cho nên rất đông, nhưng mà không có ở đây được.
Nhưng mà Thầy nói, đây là một cái chùa của Đại thừa, Thầy chỉ cải biến nó lại thôi. Chứ sự thật ra nói có môi trường đúng cho tu sĩ tu là phải ôm bát đi xin, "ba y, một bát". Người nào mà trong thất có đồ dư là quăng ra ngoài hết.
Luật của Phật mà, "ba y, một bát" mà thừa một y, là phạm giới đó. Thầy nói thật, quăng hết như vậy là lìa cái tâm tham của mình, mới ly cái tham được. Còn mình còn thừa, tức là còn tham chứ đừng có nói.
Nội cái chuyện đố, quăng hết đồ ra hết nếu muốn tu giải thoát. Còn không muốn tu thì vô đây làm cư sĩ, chứ không phải mặc cái áo này mà vô đây mà gạt thiên hạ được. Thầy nói thật sự, làm cho đúng.
Thầy bây giờ, cư sĩ họ đang chuẩn bị cấp cho Thầy một cái khu vực chuyên tu ở ngoài Phước Hải. Xin phép được cái khu An Dưỡng thì họ sẽ xây từng hang đá cho Thầy. Thầy bảo họ cất những chòi tranh vách lá như vầy. Họ nói: “Không được! Tụi con là những kiến trúc sư, tụi con phải làm những cơ sở Phật giáo thật sự để quý thầy tu cho đúng. Tụi con sẽ xây từng hang đá. Cái này đâu phải của quý thầy đâu, của Phật tử của chúng tôi. Chúng tôi làm cho quý thầy tu. Quý thầy cứ ở, mỗi hang đá đều có phòng vệ sinh đàng hoàng. Thầy cứ tu trong đó.”
“Chúng tôi sẽ ghép lại thành cái hang đá. Chỗ nào không có đá, chúng tôi kéo lại ngay. Còn chỗ nào có đá, chúng tôi làm cái hang. Chúng tôi tổ chức, chúng tôi sẽ cúng dường cơm cho quý vị.”
(44:38) Bây giờ mình có mười người, thì cứ đúng ngọ, đúng giờ mình đi ôm bát, qua cái chỗ đó người ta sẽ sớt bát, sớt bát xong mình về. Thầy sẽ điều khiển người nào mà thừa y, thừa áo, thừa thuốc ở trong thất, Thầy quăng ra hết. Thật sự mà, Thầy quyết định, Thầy sẽ làm cho các sư, các thầy không còn mang cái tâm tham nữa, hoàn toàn là không tham được mà, như vậy nó mới ly chứ.
Còn nếu không giữ được như vậy, bây giờ tu không được thì quý sư, quý thầy cứ ra đi, chứ ở trong này để làm mang tiếng cho Phật giáo. Thà tu thì thật tu, mà không tu thì thôi. Phật tử hằng ngày người ta làm bằng mồ hôi, nước mắt, người ta phải cúng dường kính dâng mình.
Để Thầy nói cho quý sư rõ ràng, tại sao cái cơ sở này mà các cư sĩ họ không màng cái mưa nắng như thế này mà họ đến sơn phết làm đẹp cho chúng ta. Thầy đâu có cần sự đẹp này đâu, nhưng mà cái tâm nguyện của họ, Thầy không có kêu gọi các cư sĩ đến đây để làm đẹp, phải không? Nó sao thì kệ, Thầy không muốn, Thầy không cần nữa mà, bây giờ chỉ cần tu thôi. Nhưng mà vì cái lòng thành của họ, họ thấy nơi đây tu như vậy, họ muốn làm nơi đây nó đẹp đẽ như vậy.
Quý sư thấy, người ta sẵn sàng hi sinh trên từng cái giọt mồ hôi, nước mắt của người ta để chúng ta sống, trong khi chúng ta tu hành chẳng ra gì hết. Y áo, bây giờ Thầy nói thật sự có người có mười bộ mặc, cả bao vậy chứ không hết. Còn phật tử họ, có người hai bộ mà người ta còn chưa có nữa, chứ đừng nói có bảy, mười bộ.
Hễ nói tới Phật là người ta giúp liền, người ta cúng dường mình liền, thế mà mình làm không ra gì! Cho nên, Thầy như vậy, Thầy không quăng ra à? Phải không?
Các sư thấy, mà mình quăng như vậy là để mình giải thoát chứ, thì các sư mà bị quăng như vậy thì các sư phải mang ơn Thầy rất nhiều chứ: “Nhờ Thầy giúp mà chúng con mới lìa được cái tâm tham.”. Đó như vậy mới là thật tu, chính như vậy là nó lại giúp cho chúng ta lìa, ly tham, giải thoát.
(46:37) Sư Thông Vân: Bạch Hòa thượng, xin Hòa thượng giải thích cho chúng con cái Thức tri và Tưởng tri, khác nhau chỗ nào?
Trưởng lão: À, cái Thức tri và Tưởng tri, cái đó dễ lắm. Cũng như bây giờ, cái Thức tri, chúng ta thấy cái ca này, thấy cái máy này, chúng ta biết, đó là thức tri. Còn bây giờ chúng ta ngồi lại, chúng ta cũng thấy cái hình dáng của nó, đó là Tưởng tri. Hiểu không? Cho nên chúng ta thường sống ở trong cái ý thức và cái tưởng thức.
Ngay đây bây giờ, mọi thứ Thầy đang nói chuyện với quý sư là cái ý thức, nhưng mà khi quý sư về rồi mà Thầy còn cái bóng dáng của quý sư thì là tưởng thức. Hay hoặc Thầy đang nói chuyện thì Thầy đang tưởng cái gì đó, thì Thầy đang tưởng. Cho nên chúng ta đang sống trong tưởng và trong ý thức. Nó câu hữu với nhau, kết hợp với nhau. Cho nên đợi chúng ta nằm chiêm bao mà nó thực hiện giấc mộng của chúng ta.
Sư Thông Vân: Thì như vậy hành giả tu học nên sống theo Thức tri chứ đừng sống trong Tưởng tri?
Trưởng lão: Đúng, phải nên sống trong Thức tri, chứ không nên sống trong Tưởng tri.
Sư Thông Vân: Như vậy sao… Bạch Thầy giảng giải lại cho chúng con. Đức Phật có nói nếu mà còn chút Thức nào, còn chút xíu như đất trong móng tay, thì đạo Phật không ra đời, thì như vậy có mâu thuẫn không Thầy?
Trưởng lão: Không mâu thuẫn. Bởi vì câu này đức Phật nói khi một người chết mà còn một chút xíu Thức như đất trong móng tay, thì đạo Phật không ra đời. Còn bây giờ mà người tu để mà thành tựu, dùng cái Thức này để mà thành tựu. Cho nên vì vậy đến khi chúng ta thành tựu được đạo giải thoát, không còn phải dùng cái thức này nữa, rã cái thức luôn.
Sư Thông Vân: Vậy thì cái thức chỉ là phương tiện?
(48:08) Trưởng lão: Là phương tiện. Mà dùng Tưởng thì nó chỉ là cái bóng dáng, thì còn sai. Mà nếu tu Tưởng thì sai lệch trong đó. Nó không có giải quyết được cái chuyện sanh tử luân hồi.
Cho nên phải dùng cái thức. Bởi vì cái Thức là cái cụ thể nhất trong cuộc sống, còn cái Tưởng chỉ là bóng dáng thôi. Mà bây giờ mình tu, lại dùng tưởng, tức là mình tu, bị ức chế không tiến triển được.
Nhưng nói chung là có lúc chúng ta cũng cần dùng Tưởng chứ không phải không, mình dùng Tưởng đúng chứ không dùng Tưởng sai.
Dùng Tưởng đúng như thế nào? Tôi bây giờ không có cái thây ma bất tịnh, không có bộ xương người ở đây, nhưng mà tôi phải tưởng nó ra để mà tôi trị cái tâm sắc dục của tôi đây. Bởi vì tôi nặng cái tâm sắc dục, cho nên tôi không Tưởng cái bất tịnh như vậy đó, thì cái tâm của tôi sẽ bám theo cái tâm tham sắc dục đó. Mình phải sử dụng cái Tưởng. Nhưng mà khi cái Tưởng đó đã dứt thì không nên dùng nó đi tới.
(49:08) Sư Thông Vân: Bạch Hòa thượng, theo thông tin thì cái người mà đạt được Tứ Thiền rồi, thì tiến tới đạt được Tam Minh (…) Đức Phật không chấp nhận cho đệ tử sử dụng thần thông.
Nhưng có những trường hợp vẫn chấp nhận cho sử dụng như ngài Mục Kiền Liên, ngài Xá Lợi Phất cũng đã từng sử dụng. Và cũng chính bản thân đức Phật cũng đã sử dụng.
Nhưng mà trong sách của Thầy thì có những đệ tử đã nhắc tới vấn đề thần thông, hình như Hòa thượng không hài lòng. Chính vì vậy chúng con cũng có thắc mắc, xin Thầy giảng giải.
Trưởng lão: À, bởi vì khi dùng thần thông là phải tùy đối tượng mình mới được dùng thần thông. Mà đối tượng của mình là người không có thần thông mà mình dùng thần thông tức là làm một trò đùa, một trò hí luận, một trò du hí cho người ta xem, để người ta khâm phục mình, thì lúc đó là mình đã lừa đảo.
Sư Thông Vân: Chỉ dùng đối với những người đã đạt thần thông?
(50:08) Trưởng lão: Đã có thần thông. Thí dụ có một ngoại đạo nào đó có thần thông, mà họ đến đây, họ muốn dùng cái thần thông để đàn áp Phật giáo, thì đệ tử của đức Phật dùng thần thông để đối trị với những cái hạng người ngoại đạo có thần thông.
Sư Thông Vân: Vậy là không phải có ngăn cấm?
Trưởng lão: Không có ngăn cấm, để mình dùng đúng đối tượng. Còn cái dùng thần thông, mà bây giờ quý phật tử ngồi đây toàn là những người không có thần thông mà dùng thần thông, phóng hào quang cho quý vị coi chơi thì đức Phật cấm liền. Đó là cái huyễn hóa, gạt người ta chơi để người ta dính mắc, chứ không phải để người ta buông xuống, để người ta ly dục, ly ác pháp. Phải dạy người ta bằng đạo đức chứ không phải dạy người ta…
Cho nên đức Phật có nêu ra ba cái loại thần thông: Thần Thông Giáo Hoá, Thần Thông Ký Thuyết, Thần Thông Biến Hóa.
Đức Phật nói Thần Thông Ký Thuyết, tức là ví dụ như tâm của quý sư ở đây, bây giờ không có nói ra mà Thầy đều hiểu trong tâm của quý sư muốn cái gì, đó là Thần Thông Ký Thuyết.
Bây giờ có một người tới đây nói với Thầy, bây giờ mẹ tôi ở nhà có chuyện mà đau như vậy, nhờ Thầy xem giùm đau cái gì hay là bị cái gì, như thế nào mà nó trải qua như vậy… thì Thầy cũng đều biết cả, mặc dù là không thấy cái bà mẹ đó, cái người đó như thế nào, gọi là Thần Thông Ký Thuyết.
Còn Thần Thông Biến Hóa, biến ra chim, ra nhà, ra cửa, ra lầu, chùa tháp đủ cấp, đẹp đẽ, sang đẹp là Thần Thông Biến Hóa, nhưng đức Phật gọi nó là Thần Thông Huyễn Hóa, Đức Phật không chấp nhận. Không chấp nhận không có nghĩa là đức Phật không có.
Còn ở đây Thầy không chấp nhận. Thầy cũng biết rằng trong cái pháp Như Lý Tác Ý, Thầy cũng có thể làm được những cái điều này. Nhưng mà Thầy không chấp nhận là tại vì Thầy thấy không có lợi ích, làm cho người ta coi chơi, người ta ngưỡng mộ.
Thần Thông Giáo Hóa, Thầy chấp nhận. Thầy sống đúng đời sống Phạm hạnh, đạo đức thì Phật tử thấy Thầy ở đây sống đúng là người "ba y, một bát" Người ta quý cái hạnh của Thầy thì cái đó là Thần Thông Giáo Hóa.
(52:07) Thầy dạy người ta Đạo Đức Làm Người, không làm khổ mình, khổ người. Mở miệng ra, phải nói, phải tư duy ở trong cái Chánh Tư Duy như thế nào để lời nói của mình không làm khổ ai, thì đó gọi là Thần Thông Giáo Hóa, thì cái đó là thêm, chúng ta nên thực hiện, dạy cho tín đồ, dạy cho những người Phật tử. Đừng có đem thần thông ra dụ người ta theo mình tu, người ta nhắm vào trong cái chỗ đó mà người ta thực hiện, cái điều đó làm cho người ta lạc.
Cho nên đức Phật đưa ra trong cái bộ Tăng chi, đức Phật có nói về cái vấn đề này. Cho nên đối với Thầy là cái người chấp hành theo cái lời dạy của đức Phật. Thậm chí như Thầy sắp sửa ẩn bóng, nghĩa là Thầy đã giảng ở trong băng của Thầy mà, có danh có lợi là ẩn bóng.
Nhưng mà khi mà Thầy giảng xong, cái giáo án Đường Về Xứ Phật xong rồi, dạy cái đường lối tu tập theo đạo Phật rồi, thì Thầy định soạn nó. Thì cái duyên như thế này mà Thầy chưa ẩn bóng.
Cho nên mà hằng ngày Thầy cố làm việc cả đêm để mà soạn để mà hoàn thành cái bộ Đường Về Xứ Phật mười tập, hai bộ Giới Đức Làm Người, hai bộ Giới Đức Làm Thánh và bốn tập Đạo Đức Nhân Quả. Mà khi xong rồi thì Thầy ẩn bóng, chưa đủ duyên nhập diệt thì ẩn bóng, không có tiếp ai nữa hết.
Thầy nghĩ rằng có danh, có lợi mà ở lại thọ hưởng thì không đúng lời Phật dạy, giáo pháp của Phật. Lời dạy của Thầy, mười bộ kinh như vậy, mười bộ Đường Về Xứ Phật như vậy và đồng thời giới đức rõ ràng - Giới Đức Làm Thánh, Giới Đức Làm Người rõ ràng rồi và đạo đức đã đủ rồi. Thầy có nói thì Thầy cũng nói ở trong đó thôi. Chứ hỏi Thầy thì cũng vậy thôi, có gì đâu!
Cho nên là làm xong rồi thì chắc chắn sẽ không gặp được Thầy. Thầy nói thật sự, người nào mà trong lúc Thầy còn, được trực tiếp Thầy hướng dẫn thì nỗ lực mà thực hiện. Thực hiện xong thì còn duyên của mình thì tiếp nối Thầy, chứ Thầy không có ra, Thầy không có ở đây mà cầu danh, cầu lợi.
(54:12) Thật sự kinh sách Thầy mà càng ngày càng phổ biến ra thì cái danh và cái lợi nó rất lớn. Từ đó chúng ta làm cái gì đây, điều đó là điều không thể làm được, cho nên mà vì vậy Thầy chọn ẩn bóng. Cho nên khi mà ẩn bóng, người ta đến người ta không gặp Thầy thì người ta không cúng dường. Người ta không cúng dường thì người ta không có cái sự cung kính đảnh lễ Thầy, thì tức là đức Phật đã dạy: "Tránh cung kính, tránh danh, tránh lợi".
Cho nên mà Thầy thấy cần phải nỗ lực thực hiện cho xong những điều mà mình để lại cho đời sau, cho con cháu, vì những lời của Thầy đã cặn kẽ hết. Trong kinh Phật có những chỗ nào mờ ám, không rõ Thầy đã vạch ra hết, không có chỗ nào mà trong kinh Nguyên Thủy mà Thầy không giảng, Thầy chỉ rất rõ.
Khi, ví như như lúc nãy sư hỏi là khi đức Phật thuyết pháp với các chúng Tỳ kheo hay các cư sĩ xong rồi, mọi người về rồi, thì đức Phật nhập vào Bất Động Tâm ở trong cái trạng thái ly dục, ly ác pháp. Hoàn toàn lúc nào cũng vậy.
Nhưng mà khi đức Phật nhập diệt, trong kinh rất rõ ràng mà, nhập diệt thì đức Phật nhập Tứ Thiền, xả cái hơi thở, tịnh chỉ hơi thở tức là xả cái báo thân của mình, thì ngay đó ra khỏi Tứ Thiền nhập vào Bất Động Tâm Định.
Trở lại cái trạng thái đó, cái trạng thái đó là một cái từ trường thanh tịnh nhất của một người tu chứng. Nó không còn cái gì nữa hết. Thầy nói đó là cái từ trường thanh tịnh của người ta, không động tâm mà, Bất Động Tâm mà, cho nên nó hoàn toàn là xả, luôn cả Thức, cả Tưởng, cả gì hết. Đều là ở trong cái trạng thái đó, nó là cái từ trường thanh tịnh nhất.
Sư Thông Vân: Ở trong sách Hòa thượng đề cập đến Vô Tướng Tâm Định, có phải là cái đó không?
Trưởng lão: Cái đó, Vô Tướng Tâm Định, đúng là sư rõ cái đó.
Sư Thông Vân: Trong sách Hòa thượng có viết về trong cảnh động muốn tránh va chạm thì phải sống phòng hộ khẩu hành, chuyện người không có ý kiến, trong tất cả mọi việc ai làm gì mặc họ. Mình chỉ biết giữ gìn tâm ý mình, lúc nào thanh thản. Nhất định mình không để ý chuyện người khác.
Thì như vậy nếu sống trong một đạo tràng, huynh đệ mình làm những chuyện sai hoặc là phạm giới cấm, hoặc là tu sai pháp…thì mình vẫn cứ giữ im lặng hay là sao thưa Thầy?
(56:25) Trưởng lão: À trong lúc đó là trong lúc mình lo cứu mình chứ không phải mình lo cứu bạn. Thầy muốn nói ở đây, là trong lúc mình chưa cứu mình được, mà giờ bạn mình sai, mình biết sai nhưng mình chưa cứu mình được mà mình nói, là mình với bạn mình đều cùng dẫn nhau đi xuống hố mà chết với nhau. Chưa chắc đã cứu được, mà lại làm bạn mình không tránh được.
Cho nên vì vậy mà lúc đang tu, nghĩa là bây giờ mà nhập thất, mà thấy người ta sai mà mình đạp cái thất ra mình nói: "Anh làm vậy là phạm giới” thì như vậy là mình đã bị bể . Cho nên mình phải cho tu cho xong đã. Sau khi tu xong thì cái người bạn mình mới dẫn dắt được. Còn mà tu chưa xong mình nói, chưa chắc nói họ đã nghe.
Sư Thông Vân: Trong cái giới Tỳ kheo thì có cái giới, là nếu người tu mà phạm giới mà mình không nói thì có trường hợp mình cũng có tội?
Trưởng lão: Đúng rồi, bây giờ Thầy nói như thế này nè, đúng là sư nói cái này, nêu cái này rất hay.
Bởi vì sống trong chúng mà nếu mà mình không nhập thất tu thì thôi, mà nếu đã nhập thất tu thì mọi người làm cái gì thì làm, mình không cần biết, mình không cần lo. Còn bây giờ mình sống trong chúng, mà mình không nhập thất tu, mình chưa tu chuyên nhất để tìm ra cái giải thoát, thì phải nói hết, phải trình cái sai của huynh đệ, để nhờ những người có đức người ta lôi kéo những huynh đệ ấy trở lại. Còn nếu mà mình không nói tức là mình ích kỷ mình sống.
Còn bây giờ mình đã vô thất mình tu rồi, thì mọi cái sai bên ngoài thì để chúng người ta lo chứ còn mình không được lo nữa. Chỗ Thầy muốn nói là người ta đi vào cái chỗ quyết liệt nhất, rất quyết liệt rồi. Còn mà quyết liệt mà còn động tâm thì không quyết liệt nổi. Các con có phân biệt được chỗ Thầy nói không?
(58:00) Bởi vì kinh sách viết như vậy nếu mà không hỏi thì sẽ lầm chết. Như vậy thấy rõ ràng mà mình không nói là mình có lỗi đấy chứ, nhưng mà nó ở trong cái vị trí nào mà nói, ở vị trí nào để nói.
Sư Thông Vân: Phòng hộ giới…
Trưởng lão: …Tu mới tới chứ không cứ động hoài bởi vì các pháp luôn luôn đánh vào, liên tiếp đánh mình mà mình không biết khép chặt để giải quyết sanh tử của mình thì coi như là mình không bao giờ giải quyết được hết.
Sư Thông Vân: Có những vị tu suốt mà nhân quả suốt cuộc đời của họ như tổ Sư Tử phải chịu chết như vậy, tổ Huệ Khả chết (…)
Trưởng lão: Có thể, đúng là cái chỗ đó nên làm cái gương cho chúng ta để mà tỉnh giác.
Sư Thông Vân: Họ tu đúng hay sai?
Trưởng lão: Họ tu sai, chứ không phải đúng.
Sư Thông Vân: Vì là nhân quả nên họ phải chịu.
Trưởng lão: Họ phải chịu cái nhân quả.
Sư Thông Vân: Và vì sao ngài Mục Kiền Liên là Thánh tăng mà phải chịu (…)
Trưởng lão: Thầy xin trả lời cái chỗ này. Nó về ngài Mục Kiền Liên, là một đại để tử của Phật, ngài biết tất cả mọi sự việc xảy ra cho ngài như thế nào. Đã là người tu sĩ theo đạo Phật để làm chủ sanh, già, bệnh, chết- tức là làm chủ nhân quả. Làm chủ nhân quả thì làm sao có bọn cướp giết ngài Mục Kiền Liên được. Làm chủ nhân quả thì làm sao mà còn trả quả như vậy? Điều đó vô lí, Đại thừa đã đặt ra để phỉ báng để tử của đức Phật, những bậc Thánh tăng.
Thầy xác định rõ ràng, Thầy làm chủ, bây giờ cái đầu Thầy nhức là cái nhân quả chứ đâu phải khi không mà nó nhức đầu Thầy được. Mà Thầy đuổi nó đi được mà.
Thì làm gì có nhân quả mà để bọn cướp giết mình được?! Vô lí.
Sư Thông Vân: Như vậy là vấn đề này không có.
Trưởng lão: Không có, bởi vì vấn đề đó là của Đại thừa…
Sư Thông Vân: Như vậy cái tích Ngài Mục Kiền Liên hoặc bị giết hoặc bị đánh chết…
(01:00:05) Trưởng lão: Đó là cái điều kiện người ta bịa đặt ra mà thôi. Thầy nói thật sự ra, họ đưa vô để họ làm mất cái Đạo Đức Nhân Quả của đức Phật. Đạo Đức Nhân Quả của đức Phật là chuyển biến được, một người tu là người ta lấy thiện người ta chuyển hết nhân quả ác thì làm sao mà có cái kiểu trả quả đó.
Sư Thông Vân: Bạch Thầy như vậy thì chính bản thân đức Phật thì cũng đã từng bị đau lưng trước khi mà nhập Niết bàn.
Trưởng lão: Lẽ đương nhiên đức Phật đau lưng nhưng đức Phật làm chủ nó.
Sư Thông Vân: Rồi những tai nạn mà chính bản thân đức Phật cũng bị làm chảy máu…
Trưởng lão: Làm chảy máu…Đó là cái nhân quả phải trả nhưng mà thấy đức Phật…
Sư Thông Vân: Sao Ngài không chuyển mà để cái đó…?
Trưởng lão: Đây bây giờ Thầy nói như thế này, bây giờ phải không? Thầy bữa đó Thầy làm công việc, Thầy chặt cây sắt, cây sắt nó chọc một cái, thủng một cái lỗ, máu tuôn thì Minh Tông nó thấy, nó hỏi Thầy: “Thầy nói "một người tu sĩ làm chủ nhân quả", sao Thầy để cho cái nhân quả nó đâm cái tay Thầy?” Thầy làm chủ nhân quả có nghĩa là Thầy làm chủ sự sống chết của Thầy hẳn hoi, đàng hoàng. Nhưng Thầy còn mang cái thân nhân quả này thì cái việc…Nếu mà Thầy không làm, không đi chặt cây sắt này thì lấy cái gì nó chọc vào tay? Thầy đi làm tức là Thầy tạo nhân quả mà, phải không?
Còn nếu mà ông Phật, ông nói là bây giờ ông biết ngày đó Đề Bà Đạt Đa lăn đá cho ông, ông tránh đi, phải không? Thì làm gì mà Đề Bà Đạt Đa lăn đá làm hại ông. Nhưng mà ông không có sợ cái vấn để nhân quả. Người ta làm chủ được nhân quả mà, người ta có lo nó đâu.
Cũng như bây giờ thân Thầy đau, Thầy cũng biết là ngày mai Thầy sẽ bị nhức đầu, Thầy biết nó như vậy mà. Còn bây giờ Thầy nói, bây giờ Thầy chuẩn bị cho việc ngày mai Thầy nhức đầu thì như vậy Thầy tránh né nhân quả, bởi vì cái thân nhân quả của Thầy mà. Nó nhức đầu thì đuổi nó đi, Thầy làm chủ nó.
Sư Thông Vân: Như vậy thì cái vị đã biết làm chủ nhân quả rồi thì họ có thể né tránh hoặc là họ có thể trả nhân quả của họ?
Trưởng lão: Đúng thế! Họ muốn tránh hồi nào cũng được.
Sư Thông Vân: Như vậy thì các tổ Thiền tông họ cũng đã từng làm như vậy, tổ Sử Tử…, tổ Huệ Khả…, tổ La Hầu…
(01:02:10) Trưởng lão: Trong khí đó họ đặt hay là họ biết trước?
Sư Thông Vân: Làm sao biết là họ đạt được những cái thành tựu…
Trưởng lão: Bởi vì trên con đường tu và giáo pháp của họ để lại, chứng minh là họ chưa biết. Bởi vì họ biết giáo pháp, họ sẽ có, đằng này họ không có. Còn đức Phật tại sao biết? tại vì đức Phật thực hiện Tam Minh, rõ ràng từ Tứ Thiền đến Tam Minh. Còn mấy ông này có thực hiện Tứ Thiền đâu. Bởi vì cái giáo pháp của họ để lại rõ ràng, mình đã nghiên cứu rõ rồi, mình thấy rõ ràng cái giáo pháp không đi tới chỗ đó mà họ nói chỗ này là họ chỉ huyền thoại thôi.
Sư Thông Vân: Do người sau thêm vào.
Trưởng lão: Thêm vào hoặc là…Đúng là người sau thêm vào, huyền thoại thôi. Cho nên vì vậy mà ngài Thường Chiếu mới nói, đó là bọn đại bịp mà thôi, đúng là ngài là một vị tổ sư Thiền mà ngài nói câu nói đó. Rõ ràng là chúng ta đã vạch rõ ra, chúng ta biết đó là bọn đại bịp. Người sau cứ lừa người… người trước lừa người sau, người sau lừa người sau nữa, cứ kế tiếp mà lừa nhau. Bằng chứng là giáo pháp của họ không có đường lối đi vào, cho nên nó cụ thể, nó rất cụ thể.
Còn đường lối của đạo Phật chúng ta thấy rất rõ ràng. Muốn làm chủ sinh tử, cái hơi thở phải dừng, mình dừng, mình làm chủ được nó thì mình mới làm chủ được chứ. Còn đằng này, bên đó không có pháp nào dừng hơi thở thì làm sao gọi là làm chủ. Còn cái này Tứ Thiền là phải dừng hơi thở, rõ ràng và cụ thể.
Rồi bây giờ thực hiện được đến cái chỗ để biết được mình chết ngày nào, giờ nào hoặc như thế nào, thì phải Tam Minh rồi. Mà mấy ông này có nói về Tam Minh ở chỗ nào đâu! Cách thức thực hiện Tam Minh cũng không có, không cho chúng ta biết. Rõ ràng là giáo pháp này lừa đảo, không đúng.
Còn kinh sách Nguyên Thủy rõ ràng, để lại cho chúng ta thấy cái giáo pháp rõ ràng, cụ thể, phải không? Các sư thấy có đúng không? Cho nên vì vậy xét qua cái pháp của họ là mình biết rằng không đúng. Đức Phật nói đúng là tại vì cái pháp của đức Phật, nó đi từ chỗ này cho đến khác, nó có từng giai đoạn của nó, đi đến cái chỗ… đức Phật nói như vậy là đúng.
(01:04:00) Còn mấy ông này nói chỉ là gạt chúng ta. Cũng như câu chuyện gia đình ông Bàng Uẩn, mà tự tại trong sinh tử mà Thiền Định như vậy. Cô Linh Chiếu trèo lên cái bàn thiền của ông Bàng Uẩn ngồi nhập Niết bàn một cách, chết tự tại như vậy. Chết bằng cách nào đây, định gì mà chết như vậy? Không nói ra, có phải là nói láo không?
Còn ông Phật, muốn nói mình làm chủ được cái sự chết này, ông nhập ba lần cho chúng ta biết. Nhập từ Sơ thiền cho đến Diệt Thọ Tưởng Định, tới Tứ Thiền, ba lần như vậy tới Tứ thiền rồi mới xả bỏ báo thân. Chứng minh rõ mà, cụ thể mà, đâu có trật. Mà trong Tứ thiền đã bảo là tịnh chỉ hơi thở mới nhập Tứ thiền, rõ ràng như vậy mới làm chủ được chứ, phải không?
Còn cái kia, có nói cái chỗ ngồi mà chết được không? Không nói được! Thậm chí như nói ngồi thiền mà rồi một ngàn năm, móng tay, móng chân, râu ria mọc bao quanh cái người đó luôn. Trời đất ơi!
Ngồi thiền thì thân bất động, tâm bất động, ngôn ngữ bất động, ba cái động này là của nhân quả. Do ba cái động này là vô thường cho nên con người mới có râu tóc mọc ra. Còn khi bất động rồi thì làm sao nó mọc ra được nữa mà dám nói. Bởi khi mà người ta nhập định thì các hành nó ngưng mà. Làm sao mà nó còn? Cả ngàn năm là nhập cái định nào chứ? Chứ đâu có nhập cái định sơ sơ được. Nếu một ngàn năm cứ chẻ cái cây ra, cái ông này râu tóc kết tùm lum vào trong hết, láo thật, có tin không, có tin nổi không?
Thầy nói thiệt là khi mà Thầy tu rồi Thầy đọc hết mấy cái cuốn mà huyền thoại này, gạt người ta. Có một câu chuyện nói có cái ông đó nhập Diệt Thọ Tưởng Định, ông nằm trên tảng đá, lá cây phủ trùm lại hết. Cái người thợ săn đi tới, họ nhìn họ thấy, họ lại họ thấy ông ta. Rồi họ vạch lá cái ông giật mình ngồi dậy. Trời ơi, nhập Diệt Thọ Tưởng Định mà ông này, ông lại vạch lá được à? Có phải gạt người ta không? Lá cây nó phủ vậy mà ông thợ săn ở đằng kia mà ông thấy được ông này. Trời đất ơi! Làm sao ông thấy được.
(01:06:09) Cái này đều là đặt điều mà nó không có cái lý để mà nói cho nó tin được. Cho nên nhiều chuyện thiền ở trong cái, các tổ đặt ra, Thầy nói thiệt ra khi mà tu rồi Thầy thấy rõ cái bộ mặt. Chứ hồi mới đầu thì nghe nó vĩ đại thật chứ không phải chơi đâu. Nghe mấy ông này nhập định như vậy như là…Thậm chí như bây giờ mà Thầy, ngày xưa mà nghe Lục tổ Huệ năng để lại cái nhục thân, tổ Phật Sơn để lại nhục thân, tổ Huệ Năng, rồi một vị tổ nữa ở bên Trung Hoa. Ba cái nhục thân mà Hòa thượng Thanh Từ đi qua bên đó chụp hình ba cái nhục thân. Trời thầy thấy Thầy quá tin tưởng, tu thiền để lại nhục thân.
Gần đây Thầy có việc Thầy đi ra Hà nội, Thầy đến Thầy thăm qua, Thầy nói tu mà để cái bộ xương bất tịnh như vậy thì Thầy không để đâu. Thầy nói thật sự mà, để vậy cho người ta bán, để lấy tiền người ta ăn. Thầy đâu phải là thằng ngu mà tu để làm cái vật cho người ta bán, bán cái thân mình để người ta ăn.
Cho nên bây giờ cái ông xã ở tại gần cái chùa đó, ông đưa cái cây ngang qua đường vậy, ai đi tới đưa ra mười ngàn thì mới rút cái cây, chứ không đưa thì không rút đâu. Ông ấy bán cái xác của ông Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Trường, ông lấy tiền ông ăn đó. Rồi vô trong chùa còn ăn chặn nữa chứ không phải không đâu. Bây giờ nhà nước làm cái cổng, xe nào vô đó cũng lấy tiền hết. Như vậy để lại để bán cho người ta ăn, như vậy là để làm gì đây.
Rồi bây giờ bên Trung Hoa, cái nhục thân của lục tổ Huệ Năng được nhà nước quý trọng lắm, trang bị đẹp đẽ, ý áo đàng hoàng. Để ông ta ngồi đó, chờ khách du quan, thăm quan đến đó để lấy tiền, hốt bạc. Như vậy là ông làm giàu cho cái dân tộc Trung Hoa chứ gì, tu hành để làm giàu như vậy. Thật sự ra thì Thầy thấy họ đủ cách mánh khóe, gian xảo đủ thứ.
(01:08:00) Cần gì phải tu cho mất công, một liều thuốc cũng để lại nhục thân được như thường, có gì đâu. Người ta ướp xác phải moi ruột gan, Thầy ướp xác không cần, chỉ uống vô thì máu chết rồi, thì nó ướp trong đó rồi, nó còn hay hơn Hồ chủ tịch, phải không? Hồ chủ tịch còn phải để trong thùng lạnh, rồi này kia, máy lạnh hoặc là phải để cái này kia để cho nó không thối.
Chứ còn sự thật ra có loại thuốc cất, cái xác nó vừa….Cái người bên Tây tạng, Lạt ma bên Tây tạng phải ướp xác bằng mổ ruột, mổ gan, moi óc rồi mới ướp xác, nó mới để cái xác. Dở, Thầy nói dở, thua Việt nam xa lắc. Cái chuyện đó đâu có phải khó đâu, Thầy nói không khó đâu. Còn ba cái xương vụn gọi là xá lợi, trời đất ơi, bộ cái đó quý lắm sao, cái đồ bất tịnh! Đức Phật nói cái thân tứ đại là cái thân bất tịnh. Mà giờ để lại để làm của quý, nói do thiền định mới có.
Cái người không thiền định, đốt cũng…Bây giờ các sư, quý Phật tử không có tu, Thầy đem Thầy đốt sơ sài, Thầy lựa một đống xương thì nó có không, phải không? Đốt sơ sài thôi thì đó là xá lợi chứ gì? Nếu đốt, thật đốt thì hết, còn có gì đâu. Mục đích gian xảo trong đó Thầy quá thấy rõ rồi.
Cho nên các sư thấy, trong chiến tranh có nhiều cái gian xảo lắm, nếu mà chúng ta thấy rõ ràng. Trái tim đốt không cháy, trời ơi, Phật tử quá tin tưởng! Đâu có cái chuyện đó đâu.
Đức Phật đã bảo rằng, cái thân hữu sắc thì nó hữu hoại, vô thường. Tại sao nó lại thường còn như vậy được, vô lý! Cho nên đức Phật nói, không lẽ nói láo à? Bây giờ chúng ta lại điên, lại tin những cái đó, đó là tinh ba của cái lòng nhiệt huyết của Phật giáo, cho nên bây giờ nó còn. Còn cái gì mà tinh ba, cái (…) mà tinh ba cái gì! Thầy nói thật sự, mình là thầy tu mà đi làm chính trị thì còn nghĩa lý gì mà gọi là tinh ba? Giới luật không nghiêm chỉnh là tinh ba?
(01:10:02) Phật giáo là phải giới luật, Phạm hạnh nghiêm chỉnh, sống "ba y, một bát" chứ. Mình có giữ trọn không? Chùa to, Phật lớn hẳn hoi, sống như nhà giàu, mà lại là tinh ba Phật giáo. Có dối gạt người ta không? Làm cái gì kỳ đặc một chút là coi như lừa đảo người ta được à. Phật tử, thực sự người ta làm sao người ta hiểu được cái điều này.
Thầy không tu chứng Thầy không dám chửi ai hết. Thầy tu chứng rồi chửi xả láng hết, không sợ ai hết. Bất quá họ giết Thầy thì chỉ có cái mạng già này thôi, có ăn thua gì, Thầy nói thật sự mà.
Phải nói cho người ta nghe, phải gióng lên tiếng chuông cho tất cả Phật tử. Bởi vì cái công lao của Phật tử, chùa nào cũng do công lao, mồ hôi, nước mắt của Phật tử chứ không phải có ông thầy nào mà đi cày ruộng để cất lên nổi cái chùa. Mấy ông chỉ ăn trên mồ hôi, nước mắt của người ta mà cuối cùng không làm được cái điều gì của Phật pháp, Thầy nói thật sự mà.
Còn Phật tử, làm sao người ta biết, nói sao người ta nghe vậy. Cho nên người ta đem công lao, sức lực của người ta…như mấy ngày này quý Phật tử đến đây làm cái gì? Trời ơi, Thầy xúc động, Thầy không biết làm sao để làm cho Phật tử được giải thoát này. Cho nên Thầy thức đêm, thức khuya, Thầy đánh trên vi tính để mà soạn thảo cái đạo đức cho quý Phật tử. Là vì một người đại diện về đây làm công việc cho Phật pháp như thế này thì làm sao mà Thầy ngủ yên được. Thầy phải viết làm sao cái nền đạo đức, để cho quý vị sống trong đạo đức, làm cho gia đình quý vị an ổn, sống trong xã hội quý vị được an ổn.
Chứ đâu có phải chúng ta hưởng trên mồ hôi, nước mắt của người ta rồi an nhiên làm giàu trên đó. Đi ra thì xe hơi, xe cộ. Ngày xưa đức Phật đi bộ, bây giờ chúng ta sung sướng quá rồi.
Bây giờ Thầy nói như vậy, tất cả những băng này, khi nghe rồi thì các vị nghe thôi, đừng có cho ai nghe, bởi vì nghe làm tội nghiệp người ta. Thầy nói thực sự, thu thì thu cho chúng ta nghe thôi, chứ đừng cho ai nghe.
Sư Thông Vân: (…)
(01:12:00) Trưởng lão: Thầy sắp sửa xuất bản, khi nào xuất bản thì có địa chỉ Thầy sẽ gửi về cho. Nghĩa là Thầy, các sư mà quyết tâm tu hành thì Thầy sẽ gửi về cho.
Tu sinh 2: (…)
Trưởng lão: Bây giờ cái quyển IV thì không có, đã hết. Quyển XIII thì cũng hết rồi. Bây giờ cho cái địa chỉ, khi nào cô Út, cô đem photo về đóng thành sách, cô sẽ gửi cho, nếu mà có cái địa chỉ. Ví dụ như tập III, rồi tập IX, tập XX sắp sửa…ở trên vi tính đầy đủ rồi, bây giờ kiểm lại, đọc lại cho kỹ rồi mới in ra. Chứ bây giờ in ra, cái bản thảo in ra thì dễ rồi, nhưng cái người mà kiểm lại thì không dễ đâu.
Ở đây chúng, toàn bộ là người tu nên không có bắt người ta làm cái chuyện đó. Có người đánh vi tính rất giỏi như chú Nhu, chú làm công việc đó thay Thầy rất giỏi rồi. Nhưng chú quyết tu mà bắt chú làm cho Thầy thì Thầy thấy không ổn. Thà là một mình Thầy làm. Cho nên vì vậy một mình Thầy kiểm tới, kiểm lui thì mất thì giờ rất nhiều, nhưng phải làm thôi để cho người khác người ta tu.
Thầy nói, Thầy viết 1000 bộ sách không bằng 1 người tu chứng. Cho nên chú Nhu tu chứng là bộ sách của Thầy có giá trị nhất. Còn chú Nhu mà tu không chứng thì bộ sách của Thầy không có giá trị. Ở đây người nào tu chứng là người đó làm cho bộ sách có giá trị. Họ đã nói lên được kinh nghiệm của Thầy bằng kinh nghiệm của họ, cho nên nó là ánh sáng của Phật pháp.
Còn không thì kinh sách của Thầy không khéo ngày mai nó như kinh sách Đại thừa, nó không có giá trị. Cho nên giúp cho quý thầy, quý sư, cư sĩ hiểu rõ con đường của Phật pháp bằng bộ sách này nhưng người tu chứng vẫn là cái niềm tin lớn nhất của quý vị, cho nên nó kèm theo với sự tu chứng.
(01:14:01) Nó không khó nhưng mà người ta xả cái tâm người ta quá khó, cái tâm danh, tâm lợi, tâm thương ghét… của người ta, xả quá khó. Cái bước đường “ly dục, ly ác pháp”, nó khó vô cùng.
Còn cái nhập Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền cho đến Tam minh nó dễ như trở bàn tay. Cũng như bàn tay chúng ta để như thế này, chúng ta lật, nó dễ lắm, nó không khó đâu. Nó chỉ còn có hướng đi lên, nó không còn có phải ngồi đó mà tẳn mẳn, tê mê gì nữa hết.
Còn cái chỗ mà "ly dục, ly ác pháp- tâm không phóng dật" là cái chỗ rất khó, nó khó cái giai đoạn này. Mà người đã quyết tu rồi, coi như liều chết để xả cái tâm ham muốn của mình rồi, những người đó coi như chết thì mới giải quyết được.
Cho nên Thầy, khi mà có cái địa chỉ (ghi lại địa chỉ cho cô Út), in ra, đem về rồi, đóng thành sách rồi thì Thầy, ngay mấy cái địa chỉ mà cô Út đã để trong cái sổ, Thầy gửi in một lần 1 trăm, 2 trăm tập, theo mấy cái địa chỉ đó Thầy gửi đi sạch bóng hết. Sau này phải làm 5 chục hay 3 chục, người nào đến gặp dịp mà có thì trao cho, còn không thì thôi.
Bởi vì cái số lượng ít nên chỉ làm vậy. Thậm chí như cuốn đưa đi xin phép cũng rất lâu mới được phép chứ không phải mau. Chứ đâu được phép cái đưa cho Phật tử in ra hàng ngàn cuốn thì nó mau. Còn đằng này, trong máy vi tính đưa ra in, in rồi photo, rồi đóng bìa, rồi gửi cho các Phật tử. Thành ra nó không có số lượng thừa, thành ra nó ít.
Chớ mà nó có, in một lần 2 ngàn, 5 ngàn thì nói chung quý sư mà về, Thầy phát cho mỗi người 2, 3 tập chứ đừng nói. Để mà mình coi người nào tâm đầu, ý hợp với mình, quyết tu thì mình cho họ một tập, để mình phổ biến được cái giáo pháp của Phật, chân pháp, cái đường lối thật sự của Phật đã tu hành giải thoát.
Còn bây giờ cái sức của Thầy làm sao có nhiều và cái kinh tế của chùa cũng không có nhiều. Mỗi lần đi photo 1 trăm, 2 trăm cuốn như vậy cũng đâu ít, nó cũng 2, 3 triệu bạc chứ đâu có ít. Năm, mười triệu thì mình thấy, bỏ xuống mà photo được chừng 3,4 trăm cuốn, 5 trăm cuốn thì nó cũng nhiều tiền bạc rồi, chứ đâu có ít đâu.
(01:16:13) Cho nên từng chút, từng chút tiền bạc, gom góp bỏ ra in kinh. Nghĩa là nhiều thì in ra nhiều, gửi cho nhiều, mà ít thì mình in ít, có vậy thôi. Chứ bây giờ không biết làm sao hết. Mà Thầy cấm kêu gọi Phật tử bởi vì Phật tử khổ lắm, lao động cực khổ, không có được kêu gọi in kinh sách. Ai nhà giàu người ta thấy, người ta biết, người ta gửi thì in. Như vừa rồi ông Năm về gửi cúng dường Thầy 10 triệu để in kinh sách, đó là người có tiền thừa.
Còn bây giờ kêu các con, các con đóng góp thật sự nhưng các con phải vắt mồ hôi ra mà… Thầy không nỡ, không kêu ai hết. Còn cô Đồng Tâm, cô ở Biên Hòa, cô có đồ gốm Đồng Tâm đó, cô cúng dường Thầy 2 chục triệu và đồng thời cô xin kinh sách Thầy sau khi xin phép, cô sẽ in 5 ngàn, 10 ngàn, cô bỏ tiền ra cô in. Đó thì nhờ mấy người nhà giàu họ làm thì Thầy nói cũng đỡ mấy con. Thầy thật sự không kêu Phật tử, bởi vì Phật tử nghèo lắm, làm ra tiền bạc rất khó.
Thành ra hễ có tiền nhiều thì cô Út đem photo 1 lần 1, 2, 3, 4 trăm cuốn, 5, 6 trăm cuốn. Còn ít thì 1 trăm, 2 trăm cuốn, rồi về phân phát cho nhau. Hễ có tác phẩm nào mà Thầy soạn thảo xong rồi thì bắt đầu gom tiền bạc lại đem đi photo, có vậy thôi.
Sư Thông Vân: Thưa Thầy cho con hỏi về vấn đề (…)
Trưởng lão: Coi như đang tiến hành, coi như bây giờ Thầy chia làm 2 nhóm cư sĩ, Thầy giao trách nhiệm cho cư sĩ làm chứ Thầy không đứng ra làm. Thầy chỉ gợi rồi tụi nó làm thôi. Nhóm thứ nhất là chú Chơn Tâm, nhóm thứ hai là chú Tâm Đắc. Nhóm chú Tâm Đắc là nhóm kiến trúc sư, còn nhóm Chơn Tâm là nhóm làm kinh tế, nhóm này đương mở nhà máy nước thiên nhiên để lấy nước đó bán, nó làm kinh tế để lo cái trung tâm ngoài đó.
(01:18:10) Còn cái nhóm kiến trúc sư thì mở trường hướng nghiệp. Do đó nó tập trung số người học nghề đẽo đục đá này kia, đưa ra ngoài đó để làm cái hang hốc cho Thầy. Mà nhờ cái sự học này mà các học viên trở thành thợ thì họ làm được những việc lớn. Chứ còn mình mướn thợ vô làm thì tiền bạc mình chịu không nổi.
Sư Thông Vân: Chương trình bao lâu mới hoàn thành?
Trưởng lão: Nghĩa là từ 10 năm đến 20 chục năm mới hoàn thành. Đó là trung tâm an dưỡng của chư tăng ni và cư sĩ. Xin phép nhà nước chứ không xin phép cất chùa được, mà chỉ là cái trung tâm an dưỡng để mà tạo cái trung tâm để mà an dưỡng thôi. Cho nên mình xin vô đó an dưỡng thì tăng cũng đến an dưỡng, ni cũng đến an dưỡng, cư sĩ cũng đến an dưỡng được hết. Do đó vô đó là mình tu…
Sư Thông Vân: Thưa Thầy thời gian nào mới bắt đầu cho mọi người đến an dưỡng?
Trưởng lão: Bây giờ tụi nó đang xúc tiến làm, 8 năm nay, tức là nó chạy, nó xin phép thế này, thế khác đủ loại hết mà chưa được. Bây giờ nó mới xin phép được mở cái nhà máy, rồi bắt đầu nó mới xin phép mở trường hướng nghiệp trong khu đó để cho thợ học, thì ở chỗ học đó nó làm cho mình cái khu vực chuyên tu.
Coi như nó mở cái trường mỹ nghệ, thực hành như trường mỹ nghệ gia đình như vậy đó, rồi nó hướng nghiệp, chuyên môn cho những người đó. Nó đề nghị, nhà nước có chuyên viên mà tay thợ không có thì không làm được. Nghĩa là cứ đào tạo đại học không à, còn thợ để làm thì không có. Cho nên bây giờ nó xin phép mở thì nhà nước sẽ cho mở cái trường, nó lấy số người vô học nghề đó, đưa ra làm cái chuyện này.
Phải khéo léo lắm chứ không phải cứ muốn là được. Thầy nói cái nhóm cư sĩ của Thầy, nó cũng linh động, khéo léo lắm chứ còn lơ mơ thì đâu có được. Thầy tin rằng, mặc dù Thầy có chết đi nữa thì cái cơ sở này tụi nó cũng thực hiện được, để lại cho tăng, ni, cho cư sĩ đời sau này có những cái chỗ thọ Bát Quan Trai, có những chỗ để tăng, ni thực hiện con đường tu hành- Giới, Định, Tuệ hẳn hoi.
(01:20:12) Cái người Thầy đào tạo sau này mà thực hiện như Thầy rồi, họ ra đó họ sẽ điều khiển như Thầy. Thầy dặn hết, coi như Thầy dặn hoàn toàn, người nào quyết tìm tu giải thoát đến đây, nhận họ vô rồi thì nói với họ tất cả mọi cái. Khi bước vào chỉ còn "ba, một bát", không còn gì hết, để thực hiện tâm hoàn toàn "ly dục, ly ác pháp", khi người ta muốn giải thoát, còn không muốn thì thôi. Khi vô đó thì mình trao cho họ cái hang, rồi y bát… cho họ đầy đủ.
Oai nghi tế hạnh, những đức hạnh Thánh đều dạy hết. Cho nên khi tu sinh về đây hỏi Thầy, Thầy chỉ bảo từ cái ăn, cái đi khất thực, tất cả mọi cái để phải thực hiện. Thầy không có dạy cái gì hết, Thầy chỉ dạy những điều đó thôi. Nghĩa là đi thì phòng hộ sáu căn trên bước đường đi khất thực như thế nào? Hỏi tu sinh thì biết.
Mà Thầy biết rằng bên khất sĩ thì quý sư đã thông suốt những điều đó rồi, nhưng mà Thầy lặp lại một lần nữa ở đây. Để làm gương cho những người khác ở đây mà người ta chưa biết. Còn Thầy, nếu vô mà Thầy có cơ sở rồi, vô cái bắt đầu Thầy kiểm tra lại hết. Mà giờ ở đây chưa có nhận lãnh cái hang thì Thầy sẽ dạy từ oai nghi tế hạnh, cách thức ăn uống này kia, Thầy dạy cách thức hết. Đến nhận thực phẩm thì phải ước nguyện như thế nào, nhận thực phẩm rồi thì ước nguyện như thế nào. Rồi bắt đầu ôm bát về, ăn rồi phải ước nguyện như thế nào, làm sao dạy mọi oai nghi tế hành này hết.
Để rồi hoàn toàn khi nhận thất là có những cái hạnh của người tu sĩ thực thụ. Đó là những đức hạnh để ly dục, để phòng hộ sáu căn của mình chứ không phải đức hạnh thường đâu. Đức hạnh đó là đức hạnh "ly dục, ly ác pháp" đó. Phải sống bằng cái hạnh của mình, cái hành động đó nó mới nói lên được cái sự ly. Ly được rồi mình còn ôm pháp để ly nữa, chứ không phải nội cái hạnh không mà ly được đâu. Bởi cái hạnh không chưa hẳn là cái muốn ở trong tâm mình được.
(01:22:02) Mà cái hạnh giúp cho mình rất là thanh tịnh ở bên ngoài rồi thì ở trong tâm mới dứt ra. Thành ra Thầy dạy đâu ra đó, nghĩa là cái người nhanh nhất là 7 ngày họ đã thành tựu Tam minh. Người dở là phải 7 tháng. Còn người tệ nhất là 7 năm thôi. Còn không thì mấy con đi ra chứ không có ở đây, tu cái kiểu 7 năm mà không được thì đi ra chứ tu không có nổi đâu, ở đây mất công.
Nghĩa là phải thực hiện được, đúng là những bậc A la hán, đủ Tam minh hẳn hoi, đàng hoàng, đầu đủ đàng hoàng. Thầy dạy là phải đi tới thôi. Nghĩa là phải nhiệt tâm, tu được là được, còn không thì cứ xin ra liền. Thầy gắt lắm, thà là gắt để đào tạo Phật giáo thực sự, chứ không thì Phật giáo sẽ bị diệt.
Mà không uổng cuộc đời tu của quý vị. Bây giờ quý vị bỏ hết cuộc đời, quý vị vô, quý vị lơ mơ, lơ mơ như thế này, "đời không đời, đạo không đạo". Cũng ăn uống, cũng ngủ nghỉ như thế này thì ra cái gì? Cuối cùng mình có ra gì đâu? Rồi cái tủ nó chồng chất…Nếu mình có khả năng viết lách chút ít, người ta phong mình làm Thượng tọa, Hòa thượng, lãnh làm trụ trì, gánh vác ba cái này. Rồi cứ ngọt ngào với Phật tử để người ta cúng, chứ mà nói nặng họ không thèm cúng thì đói, cả bầy nhăn răng. Bợ Phật tử chứ đừng có nói!
Nghĩa là sau này Phật tử mà nhà có người chết, quý sư tranh nhau đi đám để mà kiếm sống chứ đâu…nếu mà không tranh nhau thì lấy gì sống. Thầy nói thật sự, cái trường hợp này ở ngoại quốc đã có điều đó rồi. Các sư không nghe, chứ sư Giác Nhiên ở bển đã gửi những bức thư về cho nên Thầy biết được. Vậy đó, bên Việt nam mình thì không có đến nỗi đó chứ ở bên Pháp nó vậy. Ở ngoại quốc tranh nhau Phật tử, lôi kéo nó dữ lắm, để nó cúng đồ cho mình. Cái chùa thì sang lắm nhưng mà nợ nần tùm lum, không ai hay biết.
(01:24:08) Cho nên Thầy nói, trời ơi! (…) Thôi vậy thì thôi, hết giải thoát rồi!
Hôm nay Thầy nói như vậy, phải ráng, phải ráng!
Còn cái gì hỏi Thầy nữa không?
Tu sinh 3: Khi mà đức Phật sắp nhập Niết bàn, đức Phật nhập từ Sơ thiền cho đến thiền cao nhất, nhiều lần để làm chi? Cái thứ hai nữa là khi đức Phật nhập Niết bàn, sao không ở Diệt thọ tưởng định mà ở Tứ thiền?
Trưởng lão: Thầy sẽ trả lời, đức Phật nhập 3 lần như vậy có nghĩa là di chúc cho chúng ta, không lời đó. Nói rằng trong cuộc làm chủ sanh tử, chấm dứt sự luân hồi, làm chủ được là chỉ có con đường thiền đó thôi. Cho nên nhắc đi, nhắc lại 3 lần. Đó là di chúc không lời.
Còn câu thứ hai, tại sao đức Phật không nhập Diệt thọ tưởng định mà nhập Niết bàn, mà lại phải nhập trở lại Tứ thiền? Bởi vì chỉ có Tứ thiền mới xả cái hơi thở mà thôi. Còn Diệt thọ tưởng định không có ra được, tức là không có trở về trạng thái Bất động tâm định được. Còn Tứ thiền nó còn làm chủ, điều khiển được trở lại. Phải không?
Nhập vô Diệt thọ tưởng định rồi, mặc dù cái thân bất động cũng như Tứ thiền vậy, nhưng cái từ trường của Diệt thọ tưởng định, nó dữ tợn lắm, nó giữ cái thân như đồng, sắt, cho nên đâu có bỏ nó được. Coi như là chết, cái thân nó bất động đó, nhưng nó như tường sắt. Từ trường của nó bảo vệ, không có mưa, nắng gì mà lọt vào khu vực đó được. Mà cái thân của nó không ai đâm được, bây giờ ở xa chúng ta đâm không được, nó như là sắt rồi.
Cho nên đức Phật coi như là muốn để lại cái nhục thân thì nhập vô đó chứ gì! Còn trái lại đức Phật không muốn, muốn bỏ cái thân của mình. Cho nên Tứ thiền nó hoại diệt cái thân dễ, cho nên hơi thở dừng thì ngay đó bỏ cái thân này, người ta đem thiêu đốt nó được.
Còn cái kia đem thiêu đốt, nó không cháy, nhập vô Diệt thọ tưởng định, đốt không cháy. Thành ra đức Phật không có (…), các con hiểu cái chỗ đó, bởi cái định nó như vậy, sức nó như vậy, nó bảo vệ cái thân nó. (01:26:08)
HẾT BĂNG
PHÁ HÔN TRẦM- LÀM CHỦ BỆNH - PHẬT TỬ NGHỆ AN
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Ngày giảng:
Phật tử: …Xin Thầy chỉ dạy để con khắc phục…
(00:50) Trưởng lão: Trên con đường tu thì nó có nhiều khó khăn lắm, chứ không phải dễ, nếu mình không có nghị lực thì mình không vượt qua.
Thí dụ như bây giờ con ngồi tréo chân kiết già, đau chân quá, đau mức độ vã mồ hôi hột, đau đến mức độ rất là kinh khủng mà những người không nghị lực thì sẽ đổi chân liền.
Hầu hết, con ở Trúc Lâm con biết rồi, chỉ có tập ngồi nhiều. Thế mà khi đau quá thì có nhiều người, họ chịu không được thì họ phải đổi chân, tức là nghị lực không có. Những người không đổi chân là những người có nghị lực, người ta chịu được qua cơn đau, nhưng mà tới một lúc nào thôi chứ không thể nào hết được. Ráng hết sức mình của họ chịu đau, đó là những khó khăn. Nhưng mà trong cuộc đời tu của chúng ta, do mình ngồi nó đau, cái đó là tại mình ngồi nó đau.
Chứ mà nếu cơn bệnh chúng ta, thật sự trong thân nó đau thì cái bệnh nó đau rồi, nếu mà chúng ta không đủ nghị lực nó không hết được.
Còn cái kia chỉ cần tháo chân ra, xoa bóp, đứng dậy thì nó hết đau liền tức khắc. Coi như là gỡ chân ra thấy nó nhẹ nó không còn đau nữa, đó là cái đau giả, nó không thật.
(02:14) Còn cái này đau thật rồi, cho nên bây giờ mình muốn như thế nào nó đau, nó vẫn đau. Vì vậy mà trong thời gian chúng ta chiến đấu với những nghiệp thân như vậy đó, nếu mà chúng ta không đủ nghị lực, chúng ta không thắng nổi. Nó không phải như chúng ta ngồi hai chân đau hay là cơn đau. Hoặc là cái thọ hành, nó có cái cảm nhận bằng cái Tưởng, nó làm cho chúng ta thế này, thế khác, nếu mà chúng ta không đủ sức chiến đấu với nó thì chúng ta sẽ bị thua trận.
Cũng như hôn trầm, thùy miên, nếu mà chúng ta không thắng nó thì nó trở thành thói quen, thấy buồn ngủ rồi nó kéo mình đi, nằm xuống ngủ thì như vậy mình sẽ là người thất bại. Cho nên vì vậy mà phải có nghị lực, có nghị lực để mà tu tập. Cho nên trước khi muốn tu tập thì chúng ta biết hôn trầm, thùy miên là bản chất của con người, người nào cũng có. Phải thắng nó, mà thắng nó thì mới xả được cái tâm tham, sân, si.
Mà không thắng nó thì, nó đâu có tỉnh được, bởi vì nó hôn trầm, thùy miên, nó đâu có tỉnh được. Cho nên nó mờ mịt, làm chúng ta không xả được tâm tham, sân của chúng ta. Mục đích của đạo Phật là ly dục, ly ác pháp, cho nên do như vậy mà chúng ta biết là cái buồn ngủ, cái hôn trầm, thùy miên vẫn là ác pháp chứ không phải thiện pháp, nó làm chúng mờ mịt, không Chánh Niệm Tỉnh Giác.
(03:21) Mà muốn được Chánh Niệm Tỉnh Giác thì phải phá được hôn trầm, thùy miên mà phá được hôn trầm, thùy miên thì có những phương pháp đi kinh hành thì mới phá được nó. Cho nên vào đầu tiên, trước tiên chúng ta phải tập đi Chánh Niệm Tỉnh Giác tức là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, đi kinh hành.
Đi kinh hành, nó có phương pháp hẳn hoi, chứ không phải là muốn đi, mình đi đại, mình đi như thế nào cũng được. Không phải đâu! Mà đi kinh hành nó có phương pháp.
Thí dụ như bây giờ đầu tiên con phải vào con tập, đầu tiên Thầy sẽ dạy cho con. Bây giờ tất cả những điều mà tu tập ở trên Trúc Lâm, Hòa thượng như thế nào thì nó cũng tốt chứ không có gì. Nhưng mà nó chưa có chuẩn bị cho chúng ta những điều kiện cần thiết để chúng ta đương đầu hôn trầm, thùy miên, hoặc là đương đầu với những cái cảm thọ đau đớn, hoặc là đương đầu với những trạng thái Tưởng. Chúng ta chưa biết cách. Ở đây vô đầu thì Thầy dạy cho chúng ta cách thức phải đương đầu với khó khăn đó.
(04:11) Đầu tiên chúng ta sẽ tập đi Chánh Niệm Tỉnh Giác bằng phương pháp đi hai mươi bước, trước khi đi phải tác ý. Bởi vì đức Phật dạy: "Tâm làm chủ, tâm tạo tác, tâm dẫn đầu”. “Tâm làm chủ, tâm tạo tác" cho nên mình dùng cái ý thức của mình, mình dẫn nó vào: "Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành."
Cho nên trong bài Xuất Tức Nhập Tức của Phật dạy đó, theo Hòa thượng Minh Châu dịch thì nó là mười sáu đề mục để mà tu tập Định Niệm Hơi Thở.
"Hít vô, tôi biết tôi hít vô. Thở ra, tôi biết tôi thở ra." Đó là phương pháp tác ý, tác ý để dẫn cái tâm mình vào hơi thở.
"An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành, tôi biết tôi thở ra." Đó là dẫn cái thân mình vào cái chỗ an ổn của hơi thở.
Đó là cách thức dẫn chứ không phải là hít thở, biết hít thở như là sổ tức, tùy tức thì không đúng. Đạo Phật dạy chúng ta có mười sáu, mười tám, hai mốt cái đề mục của hơi thở chứ không phải là một cái. Cho nên vì vậy mà mỗi đề mục, nó là đề tài để chúng ta tu về hơi thở, nương vào hơi thở mà tu.
Cho nên dựa vào chỗ đó mà chúng ta biết rằng trước khi chúng ta làm một điều gì đó thì chúng ta phải tác ý truyền, dẫn tâm vào Đạo, dẫn cái tâm mình vào cái chỗ mình tu tập, gọi là vào Đạo.
Cho nên ở đây, bây giờ mình tu tập, muốn phá hôn trầm, thùy miên, muốn rèn luyện nghị lực thì nó có cái phương pháp tập Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Lúc đầu con về con tập trong bảy giờ sáng cho đến mười giờ thì nghỉ. Rồi từ hai giờ bắt đầu tu lại cho đến năm giờ chiều nghỉ. Tối bắt đầu tu từ bảy giờ cho đến mười giờ mới đi nghỉ. Rồi khuya đúng hai giờ dậy, tu tập cho đến năm giờ sáng thì nghỉ. Đó là cái thời gian của chúng ta, bốn cái buổi: sáng, chiều, tối, khuya, bốn thời chúng ta tu tập.
Và bây giờ tu tập pháp gì trước tiên? Tu tập, rèn luyện nghị lực và Chánh Niệm Tỉnh Giác- đi kinh hành hai mươi bước. Đếm đừng lộn, vọng tưởng thôi kệ! Có, không có, không có cần thiết chỉ đếm đừng lộn thôi.
(06:06) Bắt đầu bước đi mình tác ý. Trước khi đi mình tác ý: "Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành." Bước: Một, hai, ba, bốn, năm cho đúng hai mươi bước, đứng lại.
Đứng lại thì mình tác ý: "Hít vô, tôi biết tôi hít vô. Thở ra, tôi biết tôi thở ra." Rồi hít vô, thở ra. Đếm: Một, hai, ba, bốn, năm.
Đúng năm hơi thở thì tác ý, bắt đầu dừng lại hơi thở thì mình tác ý: "Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành." Rồi tiếp tục đếm: Một, hai, ba, bốn, năm cho đúng hai mươi bước, đứng lại.
Đứng lại rồi lại tác ý: "Hít vô, tôi biết tôi hít vô. Thở ra, tôi biết tôi thở ra." Rồi hít vô, thở ra.
Con cứ tập như vậy thì sẽ không còn buồn ngủ đâu! Mà cứ tập như vậy, tập ba mươi phút thôi, không được tập nhiều, sau khi đúng ba mươi phút thì xả nghỉ ba mươi phút. Xả nghỉ có quyền đọc kinh sách, nghiên cứu gì cũng được hết. Nhưng mà nếu có còn buồn ngủ, không được ngồi đó mà đọc kinh sách hoặc là ngồi đó mà hít thở, không có! Do đó mình đứng dậy, mình đi.
(07:10) Sau khi ba mươi phút mình nghỉ rồi, tiếp tục tu tới một pháp khác chứ không phải đi kinh hành như hồi nãy nữa. Tu tới pháp khác, bây giờ ngồi đây mới đưa một đề tài gọi là Định Vô Lậu, mình triển khai tri kiến của mình để cho cái nhìn của mình nó có Chánh Kiến chứ mình không triển khai thì mình không có Chánh Kiến được.
Cho nên nó có Định Vô Lậu, Định Vô Lậu làm cho hết lậu hoặc, làm cho mình không có đau khổ. Người ta chửi mình, mình có hiểu biết, với Chánh Tri Kiến thì cái tâm mình nó không giận hờn, không còn đau khổ, gọi là vô lậu.
Do muốn tu tập như vậy thì đưa đề tài đầu tiên là đề tài Nhân Quả. Mình quán cái thân Nhân Quả của mình. Mà bây giờ con đặt cái đề tài Nhân Quả của cái thân của con. Con quán thân Nhân Quả, cái thân tứ đại này chứ không phải thân Ngũ uẩn. Thân tứ đại, xem coi Nhân Quả nó như thế nào? Cái Nhân nó như thế nào, cái Nhân từ đâu mà con có sinh ra, rồi cái Quả nó bây giờ con phải chịu khổ, chịu đau, phải gặp những cái Quả được cái duyên tu tập, đây là cái Quả của nó. Cái Nhân đời trước nó như thế nào, mà cái Quả đời nay mình được tu tập như thế này, đều là Nhân Quả hết. Cho nên quán Nhân Quả, bây giờ con đặt thành cái Nhân Quả.
(08:11) Ngày mai, ngày mốt đến đây trình bày với Thầy, con triển khai tư tưởng con đường Nhân Quả của thân con. Còn chỗ nào không hiểu biết, Thầy bổ túc thêm để làm cho mình có tri kiến hiểu về Nhân Quả của cái thân của mình.
Rồi quán Nhân Quả rồi, sau khi quán Nhân Quả đã thông suốt rồi thì bắt đầu đưa đến Nhân Quả của các pháp chứ không phải quán thân. Rồi quán tâm Nhân Quả nữa. Rồi quán cái cảm thọ của Nhân Qủa nữa. Rồi quán các pháp Nhân Quả nữa.
Đó là đề tài tu của Định Vô Lậu. Nếu mà triển khai được cái Tri Kiến Vô Lậu thì mọi ác pháp đến với tâm mình thì mình hóa giải rất dễ, nó không còn phiền não, giận hờn đau khổ gì hết. Hoàn toàn mình không bị ức chế, mà tại vì tri kiến mình hiểu, nó làm cho mình thấy không có giận hờn.
Thí dụ như mình quán thân mình Nhân Quả, nó không có cái gì của mình, do Nhân Quả, từ Nhân Quả mà sinh ra. Cho nên đâu có cái gì của mình đâu. Do đó cái người khác người ta chửi cái thân của mình. Người ta mắng mình nào là đủ thứ, người ta mạt sát mình đủ thứ. Mình thấy đây là Nhân Quả, có gì đâu. Ngày nào đó mình chửi người ta, bây giờ người ta chửi mình thì mình vui vẻ trả chứ tại sao mình chửi người ta. Do mình từng quán được cái Nhân Quả thì mình thấy tâm mình rất an ổn, mình không còn buồn phiền nữa. Đó là cách thức để mà mình đi sâu vào Tri Kiến Giải thoát, nó làm cho mình hóa giải được sự đau khổ của tâm mình, nó làm cho tâm mình bất động.
Bây giờ con sẽ tu hai pháp, một pháp đầu tiên là con đi kinh hành, kế đó con nghỉ ba mươi phút.
Trở lại con ngồi quán ba mươi phút về Nhân Quả. Nếu mà con quán thấy có năm phút thấy nó hết rồi thì con đặt trở lại quán Nhân Quả lần thứ hai. Con ngẫm lại ý nghĩ đó, con đặt trở lại cũng đúng ba mươi phút, nhiều lần. Sau đó một lần con đặt cái đề mục Nhân Quả, con sẽ quán, con ngồi tư duy cái Nhân Quả nó kéo dài giờ từ một giờ đến hai giờ. Tri kiến con nó rộng rồi thì lúc bấy giờ nó sâu sắc, thấu suốt, nó thấu được cái lý Nhân Quả quá sâu, cho nên nó tư duy cái kiểu thời gian dài mà nó không hết lý Nhân Quả của nó, tức là mình thông suốt được cái lý.
(10:32) “Những điều thông suốt cần phải thông suốt”, đó là mình đã thông suốt được cái lý Nhân Quả. Mà thông suốt cái lý Nhân Quả thì cái tâm mình nó dễ bất động, không ai tác động được nó nữa thì đó là pháp để cho mình tu Vô Lậu. Cho nên định đó là Định Vô Lậu.
Bắt đầu bây giờ con tu định đầu tiên, pháp đi kinh hành như Thầy dạy rồi, đó chính là Chánh Niệm Tỉnh Giác. Mấy bữa nay Thầy biết rằng con ở trong thất tu thì nó không có đúng pháp. Cho nên con bị hôn trầm, thùy miên, con không khắc phục nổi đâu. Thầy biết con tu không đúng pháp tại vì chưa hỏi Thầy cái gì hết, cho nên tu không đúng pháp.
Cho nên hôm nay thưa hỏi Thầy, Thầy sẽ dạy. Thầy nói rằng cuộc đời Thầy tu rồi, Thầy biết nó như thế nào đúng, như thế nào sai rồi. Cho nên đến hỏi Thầy là Thầy sẽ dạy, mà Thầy dạy cặn kẽ, tu tập kỹ, mà con đã tu tập kỹ rồi thì nó có cái kết quả này rồi thì sẽ bước tới pháp khác, chứ không phải là tu cái này rồi mà tu hoài pháp này đâu.
Thời gian, thí dụ như bây giờ con tu pháp đi hai mươi bước, đứng lại thở năm hơi thở. Sau một thời gian công phu, Thầy thấy thuần trong một tuần lễ, hoặc là trong năm ngày, mười ngày, Thầy thấy nó thuần, Thầy thay đổi liền. Tức là con sẽ không còn đứng mà thở nữa mà con phải ngồi xuống thở năm hơi thở. Nó nhọc nhằn lắm. Đi hai mươi bước rồi ngồi xuống rồi hít thở năm hơi thở.
Mục đích nó không phải ức chế vọng tưởng đâu mà mục đích đếm cho đúng. Nghĩa là đúng hai bước chứ đừng có được hai mốt bước, thì không được. Mười chín bước mà đứng lại thở thì cũng không được. Phải đúng hai mươi bước và năm năm hơi thở. Chứ không được sáu hơi thở, bảy hơi thở, mười hơi hơi thở.
Nếu con có cái tính lười biếng là khi năm hơi thở thì thấy nó cực quá thôi để làm cho nó mươi hơi thở, thì cái đó là cái sai. Tại vì đúng pháp, bởi vì ôm pháp chặt pháp, đúng pháp, đừng làm sai pháp thì tu mới đạt.
Còn mình tự nghĩ ra mình tu, mình nghĩ là bây giờ mà tu như vậy cho hết vọng tưởng thì cái này là cái sai.
(12:01) Ở đây không cần hết vọng tưởng mà ở đây cần phải ly dục, ly ác pháp. Khi dục và ác pháp hết thì không vọng tưởng, chứ không phải ngồi giữ cái tâm để cho nó đừng niệm là nó hết vọng tưởng. Không phải! Mình ức chế nó đó. Chẳng hạn bây giờ con ngồi, con giữ cái tâm của mình không có niệm khởi, không có niệm thiện, niệm ác tức là ức chế tâm.
Còn mục đích ở đây phá cái si, làm cho chúng ta không còn hôn trầm, thùy miên. Không có hôn trầm, thùy miên thì nó Tỉnh Giác nó tỉnh thức, nó không buồn ngủ, nó tỉnh lắm. Mà nó tỉnh lắm thì do đó mình mới tu tập pháp khác mình mới đẩy lui, mình mới ly dục, ly ác pháp được.
Nhờ các pháp đó nó làm cho mình không còn tham, sân, si. Cái tham, sân, si nó đẩy quét ra hết. Mà nó quét ra hết thì tâm thanh tịnh, thì nó không còn niệm. Mục đích ở đây nó khác, nó không ức chế, con hiểu không? Cho nên vì vậy mình không có dùng pháp ức chế tâm mà mình dùng pháp để xả.
Như bây giờ thân con đau là ác pháp chứ gì? Ác pháp là cái thân có bệnh chứ gì? Thì người ta dùng Tứ Niệm Xứ, người ta dùng đẩy lui cái ác pháp đó ra, thân không bệnh đau. Cho nên người tu theo đạo Phật, người ta làm chủ được bệnh. Cho nên trong kinh Niết Bàn đức Phật đau bệnh gần như chết, đức Phật thì giữ tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác, không có để cho nó dao động trên cái đau. Đức Phật giữ tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác, tác ý đuổi bệnh đi liền, bệnh hết đau. Con thấy đọc trong kinh Niết Bàn, con thấy rõ ràng chứ đâu phải đức Phật nói Ta đau lưng rồi để nằm nghỉ trị đau lưng đâu.
Cho nên người ta hiểu sai: “Đau thì mặc đau mình cứ đừng động tâm đến nó.” Không! Mình đẩy lui ra chứ không để đau. Cho nên đức Phật vẫn đi như thường, đau gần chết nhưng mà đẩy lui bệnh, hết bệnh rồi đi. Nhưng mà cái thân mình là cái thân cằn cỗi mà, nó sẽ già, nó sẽ bệnh chứ sao, nhưng mà cuối cùng đẩy lui hết, con thấy không? Cho nên khi mà đức Phật nhập Niết Bàn, đức Phật dùng Tứ Thiền- tịnh chỉ hơi thở, chỉ nhập Tứ Thiền mới tịnh chỉ hơi thở thôi, khi hơi thở ngưng thì Ngài mới xả trạng thái Tứ Thiền, mới nhập vào Niết Bàn, mới bỏ báo thân, có đúng không? Đó cách thức của người ta như vậy, cho nên nó đâu có mơ hồ đâu, rất thực tế.
Cho nên trong khi đó Thầy dạy thì con về tập kỹ điều này. Nó có hai pháp, một cái pháp đi kinh hành hai mươi bước rồi đứng lại hít thở. Sau này khi mà tu thuần rồi thì Thầy sẽ thay đổi liền, tức là ngồi xuống chứ không có được đi nữa. Sau khi tu đúng hai giờ đồng hồ trên cái bước đi thì không tu pháp này nữa, đủ rồi, Thầy dạy tới pháp khác.
(14:17) Nó có nhiều pháp, ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo của người ta chứ chứ đâu phải một pháp, con hiểu không? Ba mươi bảy pháp tu của người ta ở trong đó.
Cho nên mình tu pháp này rồi thì tức là mình đạt được cái chất lượng, cái kết quả của pháp này thì tiếp tục tới pháp khác, để cho mình tiếp tục mình tu tới. Còn kết quả pháp này chưa được mà tu pháp tới thì tu không được, tu cũng không vô đâu.
Con chưa có phá hôn trầm, thùy miên mà con ngồi con tu thì con bị hôn trầm, thùy miên, không thế nào chạy khỏi nó. Nó chưa đổ ra, mà nó đổ ra rồi sẽ biết, nó đổ ra thì mình thắng không nổi.
Cho nên bây giờ thì con nhớ tập luyện cái này đi rồi do đó nó đầy đủ nghị lực. Khi mà con thấy, khi mà đứng lên, ngồi xuống, đi hai mươi bước, ngồi lên, ngồi xuống mà nó nhọc nhằn lắm. Nó nhọc nhằn mà mình ráng mình tu một giờ, hai giờ thì sự ráng của mình đó là nghị lực. Con hiểu chỗ Thầy muốn nói không? Chứ đâu có gì khác hơn, cho nên mình cố gắng mình tu cho được, đúng tới giờ đó mình nghỉ. Chưa tới giờ, nhất định là chết bỏ, không nghỉ, đó là nghị lực.
Rèn luyện nghị lực mà trong khi đó có Chánh Niệm Tỉnh Giác nữa. Con thấy nó có lợi hai phần, một phần rèn luyện nghị lực, một phần Chánh Niệm Tỉnh Giác. Nhờ Chánh Niệm Tỉnh Giác đó mà chúng ta tu tập sau này nó rất dễ dàng. Cho nên an trú, nhiếp tâm, an trú cứu được rồi thì mới đẩy lui được bệnh. Còn mình nhiếp tâm chưa được, an trú chưa được thì không có đẩy lui được bệnh.
Bây giờ thân Thầy, cái đầu nhức nè, mà nhức thì nó làm sao nó an được, phải không? Cho nên Thầy biết cách, bởi vì Thầy có tập rồi, Thầy nhiếp tâm trong hơi thở đi, Thầy an trú được trong hơi thở, cho nên Thầy nhắc: "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra.”
“An tịnh thân hành”, Thầy nhắc nó, cái thân của Thầy nó an ổn liền tức khắc. Mà nó an ổn liền tức khắc thì cái đau trong đầu Thầy còn không? Đâu còn! Cho nên pháp Phật nó hay vậy đó, tu đúng thì con thấy con làm chủ được bệnh đó, khỏi cần đi bác sĩ, khỏi cần đi nhà thương. Chứ không phải lúc nào cũng thuốc, lúc nào cũng bác sĩ, chiều theo cái thân này.
(16:05) Người tu theo Phật mà, làm chủ bốn chỗ: Sanh, già, bệnh, chết. Tại sao không làm chủ được mà gọi là theo Phật? Phải hiểu như vậy.
Cho nên các con về đây là Thầy dạy các con là các con sẽ làm chủ được sự sống chết của các con. Mục đích của đạo Phật là đạt được chỗ đó thôi. Bởi vì đức Phật ra đời là nhằm để giải quyết sự đau khổ của chúng sanh. Giải quyết bốn chỗ này: Sanh, già, bệnh, chết. Đó là mục đích rõ ràng mà ở đây Thầy dạy.
Mọi người ở đây, thật sự họ làm chủ được bệnh đó. Mặc dù họ chưa có hoàn tất được, nhưng mà họ vẫn đẩy được bệnh. Bởi vì nó ở trên pháp Tứ Niệm Xứ rồi, họ đẩy được bệnh đó là họ ở trên pháp Tứ Niệm Xứ.
Còn người ta ở Tứ Thần Túc, tức là Tứ Như Ý Túc, nếu có Tứ Như Ý Túc rồi thì không cần ở Tứ Niệm Xứ nữa đâu, mà người ta chỉ cần, người ta tác ý thôi. Dục Như Ý Túc mà, muốn không đau là không đau. Cái lực của nó như vậy, cái lực của thân của chúng ta, cái lực của tâm chúng ta nó mạnh như vậy, kêu là Thần Túc. Tứ Thần Túc Thông tức là Tứ Như Ý Túc.
Cho nên ráng tu, bây giờ con về con tập tu đi. Đừng có tu cái gì khác, Thầy dạy sao tu vậy. Thầy dẫn dắt từ từ đi tới, chứ còn tu khác thì thôi Thầy chịu. Nhớ chưa?
Cái gì mà con tu từ lâu tới giờ là con bỏ hết đi, rồi con sẽ ở đây sống một đời sống Giới, ăn ngày một bữa. Rồi có tâm trạng gì, có cái gì thì con trình cho Thầy. Thầy chỉ dạy các pháp, Thầy sẽ dạy con cách thức con tác ý, con sẽ đuổi những chướng ngại đó để làm cho con thân tâm của con rất an ổn, để mà con tiến tu. Chứ không khéo nó làm chướng ngại thì con tu khó lắm.
Phật tử Nguyên Tánh: Con kính bạch Thầy! Con là Nguyên Tánh, ở tổ Bát Quan Trai Hà Tĩnh. Hôm nay con được duyên gặp Thầy lần thứ năm … Thời gian có hạn, sáng mai con phải về. Hôm nay con xin Thầy giúp con một số mắc mớ trong khi tu tập.
(18:11) Con thì nắm được qua loa nhưng mà số Phật tử Nghệ an, Hà Tĩnh, họ muốn xin phép thỉnh Pháp, họ không biết pháp tu, cho nên họ bệnh tật. Ngay bản thân bác này cũng thế, vào ở đây mà vì Giới không thanh tịnh cho nên bị bệnh ho … cho nên con biết rằng, sau khi con phát hiện là giữ đúng Giới, ăn một ngọ thì con lành được số bệnh như con kể cho bạn con.
Thành thử hôm nay con xin sám hối Thầy là sau khi con phụ trách cái tổ này thì con đi nhiều, nói nhiều. Cho nên cái Giới của con, rõ ràng con bị phạm. Cho nên trước tiên con xin sám hối Thầy.
Con xin phép là sau này có ai lên phụ trách tổ thì con xin phép tu tại gia … Con là thương binh nặng. Hôm nay con sám hối Thầy. Từ ngày con đi thì, Thầy dạy là “tịnh chỉ ngôn ngữ”, nhưng mà con hay nói. Cái này không phải do con nói vì bản ngã mà do vì con muốn mọi người được như con. Cho nên con xin Pháp và đặc biệt con có tính hay quên, quên nhiều và hôn trầm phát mạnh, thời gian trước không có hôn trầm … xin Thầy chỉ dạy …
Trưởng lão: Các con ngồi xuống đi!
Thầy dạy cho mấy con tu tập. Bây giờ lớn tuổi rồi, mấy con không có tụ tập nhiều pháp được. Còn tuổi trẻ thì người ta tu tập nhiều, còn lớn tuổi rồi mấy con không thể tu tập như vậy được đâu.
(20:14) Bây giờ trong vấn đề tuổi của mấy con lớn rồi thì mấy con chỉ cần giữ ‘Tâm Thanh Thản, An Lạc, Vô Sự’, nhưng mà đừng có ghìm ghìm nó thì nó bị ức chế, các con nhớ điều đó không?
Cứ để tự nhiên như vậy thì nó là ‘thanh thản’, nhưng mà khi nó có xảy ra gì trong tâm con một niệm nào đó thì con tác ý đuổi cái niệm đó đi, phải không? Các con trạch pháp, tác ý câu, cái niệm đó nó khởi ra: "Mày là Ma mày đi đi! Tao không chấp nhận. Ở đây phải thanh thản chứ không có tụi Ma mày vô." Cái niệm đó gì, kệ nó không cần phải hiểu nó Nhân Quả hay Kiết Sử gì hết, nhưng mà nó vô, nó động thì nó là Ma hết.
Con bắt chước trong Kinh Tương Ưng đức Phật nói: “Mày là ma”. Nói nó Ma thì nó đi, có như vậy thôi thì cái niệm đó nó sẽ đi.
Còn bây giờ cái thân của con mà nó đau: “Mày cũng là Ma, Ma Thọ mày đến đây, mày cuốn gói đi chứ không ở đây đâu! Tao bây giờ chỉ biết ‘thanh thản, An Lạc, Vô Sự’ thôi.” Đừng có để ý dao động, các con sẽ yên ổn, cứ giữ cho nó ‘thanh thản, An Lạc, Vô Sự’.
Thì các con sẽ thấy, nó có hai cái lớp. Lớp ‘đau’ nó nằm dưới, cái lớp ‘thanh thản’ nằm trên. Hễ lớp thanh thản nó nhiều thì cái lớp đau nó lần giảm xuống, nó mất, con hiểu không? Làm sao mấy con cũng thấy. Đầu tiên mấy con thấy cái lớp đau, cái lớp thanh thản lặng im gần mất: “Tao bảo là thanh thản là thanh thản chứ không phải được chú ý cái đau nha! Chỉ biết thanh thản thôi!” Con chỉ nhắc nó như vậy thì nó sẽ thanh thản, mà nó thanh thản mấy con lắng nghe thử coi, rõ ràng là cái thanh thản nằm ở trên, cái đau nó nằm ở dưới rồi.
Các con nhắc nó nữa: “thanh thản nghe, đau mặc nó, đừng có sợ. Chết, nhất định chết tao cũng thanh thản, chứ tao không có ngán đâu.” Con cứ làm già như vậy là nó sợ, nó phải rút thôi. Bởi vì đức Phật nói: “Thọ là vô thường.” Nó đâu có thường đâu mà sợ, nó đến rồi đi, nó là Nhân Quả mà, nó đến rồi nó đi.
Cũng như con ho vậy đó, bây giờ con ho, cứ uống thuốc, uống thuốc thì uống thuốc, đừng có sợ, không phải uống thuốc là phạm với Pháp đâu. Pháp là nó hỗ trợ cho thuốc, thuốc cũng hỗ trợ cho Pháp. Vì cơ thể mình chưa đủ đạo lực, các con hiểu chưa? Mình tu chưa đủ đạo lực thì các con cứ uống thuốc. Chứ đừng nói: “Tôi tu, tôi không uống thuốc.” Không phải đâu!
(22:19) Mà nếu các con mạnh hơn nữa, các con nói: “Tao không uống thuốc cho mày chết.” Nó cũng sợ, bệnh nó cũng đi nữa, cái nghiệp nó chưa tới không sao nó giết mấy con. Nhân Quả chưa hết, nó không làm sao nó giết mấy con được, nó bắt buộc nó phải thua thôi, phải không? Các con nhớ kỹ những lời Thầy dặn, mấy con đừng có dao động.
Mà khi nó đau quá: “Thầy ơi, cứu con đi Thầy! Con đặt biệt khổ lắm rồi.” Vì đau quá đó, các con kêu thì lúc bấy giờ, các con kêu rồi thì cái Tín Lực của các con nó hiện ra. Bởi vì con tin Thầy rồi, mình gọi là mình đã tin Thầy rồi. Mình kêu cứu là mình tin nơi Thầy rồi mình mới kêu.
Chứ mình không tin, mình không kêu, con hiểu không? Mình tin người nào giúp mình được mình mới gọi người đó: “Anh bạn ơi, anh giúp dùm tôi.” Tại mình tin người đó. Mà người đó không cứu được mình thì mình đâu có tin, con hiểu chỗ đó không?
Lòng tin của con, nó hiện ra, nó bảo vệ cho con thanh thản liền tức khắc, thì con tiếp nhận cái ‘Từ Trường thanh thản’ ở bên ngoài của Thầy, của chư Phật. Thì lúc đó cái thanh thản của con nó mạnh, nó cao lên, cái cảm thọ đau nó dịu xuống. Thầy nói các con gọi một cái là mấy con thấy cái bệnh mấy con nó lui xuống. Cái Tín Lực nó mạnh lắm. Cho nên luôn luôn lúc nào, khi mà nó ngặt nghèo quá thì mấy con gọi. Mà không ngặt nghèo thì không cần, mấy con chỉ lấy sức của mình tự chiến đấu nó thôi.
Mà khi mà ngắc nghèo quá, sức của mình không có thể vượt qua được thì các con gọi Phật, gọi Thầy. Thì lúc bấy giờ gọi rồi: “Tao có Phật, có Thầy, tao nhất định không sợ mày đâu, mày sẽ thua.” Tinh thần của con, nó vững lắm, nó vững thì nó đẩy lui cái đau khổ của mấy con, mấy con nhớ chưa?
Còn bệnh đau thì mấy con cứ uống thuốc, thay vì mấy con uống mười viên thì mấy con uống năm viên nó hết bệnh. Nó giảm xuống có gì đâu, nó ít tốn, chứ không có gì đâu mà sợ, các con nhớ kỹ nha!
Chứ đừng, khi mà mấy con không uống thuốc, mấy con dùng Pháp, gia đình mấy con lo lắm. Còn mấy con uống thuốc: “Tao cũng uống thuốc, chứ nó hết hay không hết tao cũng tu, tao đẩy lui thêm chứ có gì đâu!” Gia đình mình nó cũng yên tâm, con cái mình cũng yên tâm, vợ con yên bụng, nó thấy: “Ông đau thì ông cũng uống thuốc mà, đâu có gì đâu mà lo.”
(24:02) Nhưng không ngờ là mình uống để đối tượng của mình, gia đình mình yên ổn và đồng thời thì mình nỗ lực, mình tu thì cái này làm cho mình yên mình tu mấy con. Khéo léo, thiện xảo mà mình tu.
Chứ Pháp Phật nó là Thánh dược, nó không phải như là thuốc thường nữa đâu, nó là Thánh dược. Nhưng mà vì mình muốn gia đình của mình an ổn, cho nên mình cũng lấy thuốc cho mọi người thấy tôi uống đàng hoàng. nhưng đó là mình biết cái thân mình đâu là mình vô trong cái phòng của mình rồi. Ngồi sừng sững lên mà tác ý đuổi, cứ bàn tay đưa ra, đưa vô là đuổi bệnh đó mấy con.
Mạnh mẽ lên mấy con, đừng sợ chết mấy con! Sớm muộn rồi mình cũng chết chứ không có gì. Nhưng mà: “Tao chết trong Pháp chứ tao không chết trong bệnh đau đâu.” Nhớ lời Thầy nói: “Chết trong Pháp chứ đừng chết trong bệnh đau. Chết trên bồ đoàn chứ không chết dưới bồ đoàn. Tao chết ngồi chứ quyết định không chết nằm” , các con nhớ không? Đau quá mấy con nằm, mấy con chết nằm thì giống như thiên hạ hết. Còn bây giờ con chết ngồi, nó vững vàng lắm mấy con. “Tao chết ngồi chứ tao không chết nằm đâu. Tao ngồi đây tao chết”, thì bệnh nó chạy mất, nó rất sợ mình ngồi lắm.
Cho nên Thanh Quang, mấy con biết không? Thầy bảo, nó tăng xông lên như vậy, nó chóng mặt như vậy, trời đất quay cuồng như vậy đó, mà Thầy bảo ngồi là ngồi không được nằm. Thay vì nằm cho nó đỡ, ngồi nó quay thì kệ nó. Cứ tác ý đuổi nó ra, đừng có sợ, chết bỏ. Cuối cùng nó, huyết áp nó tụt xuống, nó không tăng lên nữa, nó giảm xuống liền.
Mạnh mẽ, gan dạ, đừng có sợ! Phật pháp là Thánh dược rồi, mà Tứ Niệm Xứ là Thánh dược đó mấy con! Nó đẩy lui hết, không còn nữa. Cho nên hôm nay Thầy nói mấy con, cái băng này còn thu thì mấy con giữ nó lại để mỗi lần mở ra mấy con nghe, nó sách tấn mấy con dữ lắm mấy con. Mỗi đứa về sao một băng, để dành khi gặp trường hợp mở băng ra nghe. Thầy nhắc ở trong đó, “Tao nghe rồi nhất định tao chết ngồi chứ tao không chết nằm đâu. Tao chết ở trong Giới luật Phật chứ tao không chết phi Giới luật đâu.” Do đó tinh thần, nghị lực của con mạnh mẽ lắm con. Nó vượt qua tất cả những cái chướng ngại hết, nó đem lại sự bình an cho con rất lớn. Nhớ!
(26:24) Rồi cánh tay của mấy con, đó là những phương pháp đưa ra và cái hơi thở khi mà đưa cánh tay ra không được thì cái hơi thở của con cũng là phương pháp đẩy lui bệnh đó mấy con, nhớ nương vào nó!
Thì những cái điều kiện mà Thầy dạy cho mấy con là chuyển tất cả những nghiệp khổ mấy con. Mấy con sẽ không còn khổ nữa. Nhớ lời Thầy dạy mấy con!
Đây là ‘Pháp thanh thản’, là cái tâm phải thanh thản, bất động. Lúc bấy giờ mấy con mới tiếp nhận được sự thanh thản, bất động của chư Phật, của Thầy. Bởi vì Thầy luôn luôn lúc nào Thầy cũng thanh thản. Không có ai làm Thầy động được, không ai làm sao mà tâm Thầy động được, không ai nói gì mà Thầy động hết. Tâm Thầy bất động, tức là nó phải ‘Thanh Thản, An Lạc, Vô Sự’. Mà khi mấy con giữ được tâm bất động của con thì con tiếp nhận được tâm của Thầy. Thầy trò mình đồng nhau.
Bất quá thì mình chết, mình cũng gặp Thầy rồi chứ sao? Ai mà chết mà gặp cha mình không phải mừng sao? Ai mà chết không được ở gần bên Phật thì thà là chết ở gần Phật có sướng hơn không, phải không? Con hiểu mình theo Phật, được ở dưới chân Phật, được theo bên Phật ở thì không phải khỏe hơn sao? Nó đâu còn khổ nữa. “Vậy cho mày chết, tao theo Phật, tao giữ thanh thản thì tao theo chứ còn chỗ nào nữa.” Nói như vậy, Thầy đã vẽ ra cho con thấy được cái tương ưng, nó cụ thể và nó rõ ràng thì các con sẽ tự cứu mình được. Nếu cái nghiệp nó chưa hết, mấy con sẽ mạnh khỏe, bình an. Mà nghiệp nó hết mấy con cũng sẽ vào với Phật. Có mất phần ở chỗ nào đâu?
Cái thân này để làm chi? Nó bất tịnh, nó hôi thối, nó mất công ăn, mất công ngủ, mất công thức, nó đủ thứ bệnh tật chứ bộ sung sướng lắm sao! “Chết được tao chết quách cho rồi”, mình đâu cần, tiếc nó phải không mấy con? Mà chết là được về với Phật, không phải hạnh phúc sao? “Tao đâu đi xuống địa ngục, tao đi lên lầu thang, chứ đâu mà sợ”, có phải không mấy con?
Không lẽ bây giờ mình chết rồi, mình vào trong cái bụng mẹ, mình nằm trong đó. Trời đất ơi! Nó chật chội, nó cực khổ mới chết chứ. Còn bây giờ: “Tao chết là tao thảnh thơi, tao ở không gian vũ trụ, rộng mênh mông”, không sướng sao? Trời đất ơi, khỏe hơn chứ, con hiểu chưa?
(28:22) Cái băng này nhắc nhở mấy con đó! Mấy con nhớ rồi phải không? Do đó cứ ‘Thanh Thản, An Lạc, Vô Sự’ và đồng thời cánh tay đưa ra, đưa vô là cánh tay đẩy bệnh. Nếu mà các con đưa tay ra vô mà không được nó mỏi hoặc là nó như thế nào, các con đưa ra không được thì dùng hơi thở. Các con còn thở mà, dù là hơi thở như thế nào nó cũng vẫn còn, bởi vì mấy con còn sống là còn thở, chừng nào hết thở thì nó mới hết. Thì mấy con sử dụng hơi thở.
Phật tử: Thưa Thầy trên thân để hồi phục thân?
Trưởng lão: Cũng hơi thở. Cho nên hơi thở ra là mấy con sẽ ….
Còn bây giờ về vấn đề hiện giờ mấy con tu mà gặp hôn trầm, thùy miên thì mấy con phải đi Chánh Niệm Tỉnh Giác. Mấy con đi: "Đi tôi biết tôi đi" chứ mấy con đừng có đi Thân Hành Niệm, nó vất vả lắm. Mình chỉ đi, các con bước chân hơi thẳng thẳng một chút để nó có cái cảm giác, để mình nhận cái bước chân của mình, để mình tỉnh đó mấy con! Mình đi thẳng cái lưng, bước thẳng, thẳng… bước thẳng xuống, mình cứ đi hoài. "Tao cho mày ngủ, tao đi cho mày ngủ, mày ngủ rồi mày té.” Con cứ nhắc: “Tao cho mày ngủ, tao đi cho mày ngủ, mày ngủ là mày phải té, mày phải chết thôi, tao cho mày ngủ". Nó sợ chết, nó không dám ngủ đâu.
Thật sự con thấy cái tâm của mình nó nhát lắm. Khi nào nó buồn ngủ, con cứ đi bên hồ mà nhỏ như vậy, ở dưới này là nước, mà trên này con cứ đi đi, nó không dám ngủ, nó ngủ nó sợ té xuống dưới. Con cứ đi theo bờ sông, mà đi theo đường mà nó thấy ấy, con đi, nó không dám đâu.
Thầy Chân Thành hồi đó, cái kênh này nó có nước, mà thầy Chân Thành nói, nó khôn lắm nó lủi trong hàng rào chứ nó không dám lủi…Thầy nói: "Tao đi mé bờ kinh cho mầy ngủ, mày lủi xuống, màu lạnh cho mày ớn". Nhưng mà nó khôn lắm, nó đi nó ngủ, nó cứ lủi vào hàng rào chứ không dám lủi ra ngoài, con đủ biết cái tâm khôn chứ đâu phải nó không khôn. Nó khó lắm chứ đâu phải không? Thầy Chơn Thành, bây giờ thầy phá hết rồi, thầy không còn buồn ngủ nữa, hết buồn ngủ rồi nhưng mà hồi đó nó ghê gớm lắm. Đi cái chân này, đá chân kia nó ngủ, nó ngủ như vậy đấy. Mấy con chưa biết nó đâu, nó dữ lắm.
(30:17) Cho nên vì vậy, mình phải nỗ lực mình đi kinh hành là mình sẽ phá. Mình khéo léo, mình đi bước chân hơi mạnh mạnh một chút. Mình đi: “Tao cho mày ngủ, tao cứ đi hoài, chừng nào mày hết ngủ thôi.” Nó rụt, khi mà nó qua cái cơn ngủ rồi nó tỉnh một cách kỳ lạ lắm. Nó qua cái cơn rồi nó không lừ đừ. Từ cái thớ thịt con nó tỉnh, ở trong cái thớ thịt, các cơ nó tỉnh ra. Chứ nó không phải là nó làm ể oải, nó làm theo kiểu nó lười biếng đó. Thầy nói cái thân nó buồn ngủ là nó lười biếng, còn cái tâm nó gục tới gục lui là nó ngủ đó. Khi tỉnh thì cả cơ thể đều tỉnh hết, tỉnh rõ ràng. Cho nên khi mà con vượt qua được cái hôn trầm rồi, nó tỉnh lắm, chừng đó mình mới thấy được tỉnh giác.
Bây giờ mình tập tỉnh nhưng chưa tỉnh đâu. Nhưng chỉ có đi kinh hành mới phá. Đừng có dùng cái gì phá hết, đừng có đi rửa mặt, đừng có dùng cái gì khác, đừng có chạy nhảy, đánh võ này kia, đừng có múa may… Cứ đi đúng theo pháp Phật, không có đi sai pháp Phật, đó mình làm đúng pháp Phật. Còn mình ra mình đánh đường võ, đường quyền hoặc là tập thể thao hoặc tắm này kia, đó là ngoài pháp Phật! Còn mình đi kinh hành đó là trong pháp Phật.
Mà còn nếu mấy con còn sức khỏe thì mấy con đi pháp Thân Hành Niệm, mấy con biết pháp Thân Hành Niệm chưa? Tác ý từng cái lệnh của nó rồi mấy con đi. Thí dụ như bây giờ:
“Dở gót lên!” Thì mới dở gót lên.
"Dở chân lên!”
“Đưa chân tới!”
“Hạ chân xuống!”
“Hạ gót xuống!” Từng hành động mấy con tác ý rồi mới là làm, làm chậm chậm, chứ đừng làm nhanh.
“Dở gót lên!” Từ từ mình mới dở lên.
“Dở chân lên!” Từ từ dở lên.
“Đưa chân tới!” Đưa tới.
“Hạ chân xuống!” Hạ chân xuống.
“Hạ gót xuống!” Hạ xuống. Từ từ làm chậm chậm, tập ít thôi!
Rồi mấy con làm như vậy, mấy con ra lệnh, mấy con tác ý lớn tiếng đi. Trong khi nó buồn ngủ, mấy con phải la lớn tiếng.
(32:10) Thí dụ như nó buồn ngủ con bảo: “Hôn trầm, thùy miên là si. Mày cút đi!” Con la cho lớn như vậy, nó rung cái thân con, nó tỉnh. Con la nó cũng tỉnh, la cho lớn nó tỉnh, chứ con đừng có nói nhỏ nhỏ, tác ý nhỏ nhỏ nó không tỉnh đâu. Con la cho lớn: "Hôn trầm, thùy miên cút đi!" La “Cút đi!” nó rung cái thân con, nó tỉnh hà, nó không buồn ngủ. Cũng là cách thức để phá nó, mình bảo: “Cút đi!”. La lớn vậy cái thân của mình cho tỉnh lại, nó không còn lừ đừ, đó là cách thức phá đó con.
Cho nên hôn trầm, thùy miên, con nghe cái thất người ta đi, người ta tác ý lớn tiếng là biết người này đang buồn ngủ, thì mình đừng có nói, mình đừng có nghĩ: “Ông này tu sao mà la lớn quá, tác ý lớn quá trời.” Ông ta đang buồn ngủ, mai mốt mình buồn ngủ mình cũng tác ý như vậy. Nhưng mà ông ta tác ý một hồi, ông hết, ông không tác ý nữa là biết ông này đã phá được buồn ngủ rồi. Cho nên mình cảm thông nhau được cái chỗ đó, mình ở gần thất: “Người này đang bị hôn trầm, thùy miên dữ!” Tác ý dữ như vậy là ông đó, mình biết liền.
Cho nên thí dụ như mình nghe trong thất ông này ngồi tu, ông la: “Cút đi!”. Ông này buồn ngủ rồi, mình biết liền vì ông la như vậy, nó động cái thân ông, nó làm ông tỉnh, để ông tiếp tục, ông tu cho có chất lượng chứ không khéo nó lờ mờ, lờ mờ rồi nó ngủ.
Thì mấy con cũng lấy, rút tỉa từ những kinh nghiệm đó thì mấy con sẽ phá được cái si của mình, cái lười biếng của mình, những trạng thái như vậy, nhớ chưa? Mấy con nhớ hết, Thầy trang bị cho các con đủ cách phá mà, đủ cách mấy con phá hết, giặc sinh tử nó đến nó hiện ra cái tướng nào là mấy con đập dẹp xuống hết, không sợ gì hết. Cho nên mấy con sẽ thắng.
Mà nếu có gì khó hơn, những Tưởng gì mà nó hiện ra, các con mau mau gọi điện thoại cho Thầy, để Thầy xác định con ma này, nó thuộc loại thứ nào đây, thứ này là thứ thượng hay thứ hạ đây? Nếu mà thứ thượng thì trị theo thứ thượng, thứ hạ trị thì theo thứ hạ, con biết không? Tưởng là thứ ma Tưởng, ngồi đây mà cái lỗ tai nó nghe Phật nói, nghe thinh tưởng đó là thứ thượng rồi. Ngồi đây mà thấy ánh sáng hào quang, đó là thứ thượng rồi đó, chứ không phải thứ hạ đâu!
(34:14) Cái thứ này thì phải mau mau gọi Thầy, thì lúc bấy giờ Thầy giảng cho con đập phá nó xuống, nó thuộc về ma Tưởng, nó là thiên ma đó. Nó thuộc 18 cái loại tưởng: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Ngồi đây mà nghe cái mùi thúi quá trời nè! Ai mà làm cái gì vậy? Đó là, coi chừng nó là ma Tưởng, Hương Tưởng đó con! Hoặc ngồi đây mà nghe thơm ngào ngạt, trời đất ơi! Ngồi đây mà nghe người ta nấu mì mà nghe nó thèm ăn quá trời! Đó là ma Tưởng dục đó con, nó làm cho mình đói bụng đó, nghe cái mùi sao nó ngào ngạt, nó muốn thèm ăn quá! Ông bà nào mà ở gần đây nấu hủ tiếu hay nấu mì gì đây mà nó thơm quá vậy? Đó cũng là ma đó con, ở đây làm gì có chuyện đó, con hiểu không? Mà khi nghe vậy đó là Hương Tưởng đó con, tưởng dục để tâm mình, tâm thèm ăn, cho nên các con biết nó là ma đó, ma thứ thượng đó, chứ không thứ hạ đâu. Vì vậy Thầy căn dặn cho mấy con hết rồi.
Khi nào có những cái điều kiện mấy con tác ý đuổi không được thì mấy con gọi cho Thầy, thì Thầy sẽ trợ giúp mấy con sẽ diệt con ma đó liền, chứ không để cho nó ở trong cái đầu của mấy con, hiểu chưa? Như vậy mấy con mới vượt qua cái khó, có Thầy mà. Chừng nào Thầy mất rồi thì thôi, chứ có Thầy thì lúc nào mấy con gọi cũng có Thầy, Thầy giúp cho mấy con. Mấy con đau bệnh, mấy con gặp ma chướng, mấy con làm chướng ngại trên con đường tu, mấy con ôm pháp không được, mấy con gọi Thầy. Thầy sẽ trợ giúp cho mấy con phá đi, để cho mấy con ôm chặt pháp mấy con đi.
Cũng như ma nó lên, nó chiếm đoạt cái bè của mấy con rồi. Nó xô con rời khỏi cái bè, nếu mà con không gọi Thầy, nó đạp mấy con xuống biển. Nó ôm cái bè của mấy con chứ nó đâu để mấy con ôm bè phải không? Con sẽ mất cái phao tức là mất Pháp rồi còn gì, con hiểu không?
(36:20) Đau quá con cứ ôm cái đau mà quên Pháp rồi thì nó đã đáp xuống biển chứ còn gì, con hiểu chỗ đó không? Cho nên gọi Thầy, giữ thanh thản, Thầy tiếp nhận, Thầy giúp mấy con ôm lại phao, thì cái bệnh này nó giảm xuống, thì ma nó chạy mất, con hiểu chưa? Đó như vậy đó, để giúp mấy con vượt biển, ôm phao vượt biển đó mấy con. Cuộc đời của mình, mình đang đi trên biển nghiệp mà, cái thân của mấy con là cái nghiệp rồi, mà cái thân là biển nghiệp đó mấy con, nó không dễ đâu.
Đã là biển mà nó đâu phải một chút mình qua được bờ đâu, nó biển thì bờ đâu có thấy được. Cho nên các con bơi giữa biển, chưa phải đến bờ đâu, mà nếu mà không có Thầy thì mấy con sẽ bị chìm xuống biển chứ làm sao mấy con đến bờ được, con hiểu chưa? Nó là biển nghiệp, mà cái thân của con là biển nghiệp đó, nó khó lắm chứ không phải dễ đâu! Cho nên Thầy dạy mấy con vượt biển. Vược biển nghiệp mà qua bờ bên kia thì phải có nhờ cái năng lực, từ trường của chư Phật, của những người tu chứng, người ta hỗ trợ cho mình, mình mới vượt biển, mình mới vượt sóng mình qua.
Chứ còn không khéo, con thấy cái đau cũng là một trong những đợt sóng ghê lắm, sóng Thần đó mấy con, nó giết mấy con biết bao nhiêu không? Mà cái thân của mấy con là sóng Thần chứ nó không dễ đâu. Khi nó không đau thôi, nó không buồn ngủ thì thôi. Mấy con thấy nó buồn ngủ là mấy con thấy đợt sóng đó nó giật mình, lôi mình nằm xuống ngủ, nó không để cho mình ngóc cái đầu đậy đâu, nó ghê gớm lắm chứ không phải dễ đâu. Mình có đương đầu với hôn trầm, thùy miên, mình đương đầu với vô ký, mình đương đầu với bệnh khổ, mình mới biết nó khó chứ không phải dễ. Nói, Thầy thì nói dễ vậy đó nhưng khi mà đương đầu với nó, chống với nó, không phải là chuyện dễ đâu.
Mấy con không đủ nghị lực, mấy con thắng không nổi đâu. Mấy con không có đủ niềm tin ở Thầy, ở Phật, mấy con không thắng nổi đâu, mấy con nhớ chưa? Cho nên gì vậy mà phải nỗ lực tận cùng, chết bỏ, nhất định là chết trên bồ đoàn như hồi nãy Thầy nói, không chết dưới bồ đoàn. Đệ tử của Thầy là chết gan lắm! Không có đứa nào mà hèn nhát, hèn nhát là mình không phải con của Trưng Vương Triệu Ẩu, không phải cháu bác Hồ, các con hiểu chưa?
(38:13) Mình là con của những bậc anh hùng của đất nước này thì phải là anh hùng chứ không có chịu thua, các con nhớ chưa? Mấy con chết mà nằm xuống là mấy con chết hèn. Không xứng đáng là đệ tử của Thầy đâu, không có xứng đáng là con cháu của Quang Trung, Trần Hưng Đạo đâu? Mấy con nhớ kỹ, cho nên theo Thầy tu là phải gan dạ như Phật, như Thầy, chết bỏ đó.
Đó là biển nghiệp của mình rồi, mình không chịu khó mà vượt qua thì mình sẽ bị chìm. Cho nên ở đây, Thầy dạy thực tế, trực tiếp, hẳn hoi, đánh mặt trận sinh tử. Cho nên những pháp mà Thầy dạy, mấy con nhớ kỹ đó là những phương pháp chiến đấu. Mà nếu mấy con mà rời pháp ra thì mấy con, mình đi đánh giặc, mình bỏ súng, lấy gì mình đánh. Những cái pháo, những cây súng, mấy con đánh giặc mà mấy con bỏ Pháp ra rồi, tức là mấy con bỏ vũ khí rồi, đầu hàng đó!
Cho nên ôm chặt Pháp, tức là ôm chặt súng mà bắn, chết bỏ. Chết mà cũng phải giải phóng chứ không có đầu hàng. Các con biết không? Bao nhiêu người đổ xương máu trên trận Điện Biên Phủ, con hiểu không? Bao nhiêu những binh sĩ, những người dân Việt của mình, những người chiến sĩ bỏ thân trên Điện Biên Phủ mới đuổi được giặc Pháp chứ đâu phải dễ.
Các con hiểu điều đó mà bây giờ bao nhiêu sức lực của mình phải tập trung diệt giặc sinh tử chứ! Các con đầu hàng trước à! Các con hiểu không? Cái gì đi nữa, mình muốn thành công cái gì đi nữa thì phải đổ mồ hôi, nước mắt, máu của mình chứ!
Giải phóng đất nước của mình là giặc thường, giặc Pháp, giặc Mỹ thôi, nhưng mà giải phóng giặc sinh tử của mình là giải phóng nghiệp, mình phải chuyển nghiệp của mình thì nó phải gấp trăm ngàn lần giặc Pháp, giặc Mỹ chứ, có phải không? Nếu mấy con nhát gan thì mấy con đầu hàng giặc rồi thì nó muốn làm gì nó làm? Nó là nó muốn bảo con chết là chết, nó bảo con sống là sống, bệnh là bệnh, nó bảo đau là đau, mấy con chịu hết, bởi vì mấy con bị lệ thuộc nó rồi.
(40:19) Còn như Thầy làm sao lệ thuộc nó: “Mày giỏi vô đây. Tao cho mày một phát là mày đi đời”, phải không? Mấy con tập như Thầy vậy đó. Đó là cái điều Thầy khích lệ, sách tấn mấy con qua cái gương hạnh của Thầy, nhất định chết bỏ chứ không đầu hàng giặc sinh tử đâu. Vượt biển nghiệp mà, không có đầu hàng cái biển nghiệp này đâu.
Thầy cũng mang thân như mấy con chứ Thầy có khác gì đâu! Nhưng mà sao Thầy vượt được, con cũng mang như Thầy tại sao không vượt được? Mấy con cũng thanh niên chứ bộ. Phụ nữ kia người ta cũng vượt được, con thấy Trưng Vương, Triệu Ẩu không, người ta cầm quân người ta đánh giặc như thường chứ đâu có thua ai.
Mình có những anh hùng, anh thư rõ ràng mà, tại sao mình hèn, mình con cháu của các vị đó mình phải mạnh chứ. Đây là mình đánh giặc sinh tử mà, con hiểu chưa? Giải phóng quê hương của mình làm chủ giặc sinh tử không phải sướng hơn sao. Như Thầy bây giờ làm chủ rồi, giặc Thầy im rồi, đuổi nó đi rồi. Còn mấy con chưa đuổi nó, mấy con đang bị cai trị đó.
Như vậy ráng mấy con, cuộn băng này, khi nào mở nó ra nó sách tấn mấy con dữ lắm. “Tao nghe Thầy tao nhất định là chết bỏ”. Nó có giá trị lớn lắm, con nhớ kỹ, Thầy nói thì nó thường vậy chứ nó sách tấn mấy con ghê gớm lắm, phải ráng mấy con!
Phật tử Nguyên Tánh: Con kính bạch Thầy là chúng con càng tu càng thấy cái vĩ đại, sau khi Thầy đạt được cái cảnh pháp, đắc Đạo để cho chúng con học theo Thầy. Bản thân con lành được, đúng hôm nay ba tư bệnh. Con nghĩ rằng con chỉ giữ giới mà lành thôi chứ còn không phải là có cách đuổi gì khác! Cho nên cái phương pháp mà vừa rồi, mấy năm trước con giữ được. Tu đúng là hai giờ sáng con dậy, con không ngủ. Nhưng bây giờ con bị hôn trầm mạnh, bây giờ con không biết tính thế nào, nếu tuổi như con, con cũng nhiệt huyết như Thầy, con cũng mạnh mẽ, chết bỏ, vẫn cứ giữ có được không Thầy? Coi như vẫn cứ giữ, ngày nào con cũng thọ Bát Quan Trai và có thời gian thì con cứ thọ như thế mãi có được không Thầy?
Trưởng lão: Được đó con.
(42:09) Phật tử Nguyên Tánh: Theo con thì có lẽ do mình ăn hơi nhiều thành ra hôn trầm mạnh, giờ con giảm cái ăn xuống được không?
Trưởng lão: Cũng được, giảm xuống được, không có sao đâu. Hôn Trầm nhiều, con ăn vừa thôi, đừng có ăn ít quá thì cơ thể con bị kiệt. Nó vừa đủ, mình ăn có một bữa, vừa thôi đừng ăn quá, ăn trừ hao thì không có được, ăn trừ hao là bị hôn trầm, do đó con ăn vừa. Rồi bắt con đầu tập đi Chánh Niệm Tỉnh Giác là con sẽ phá sạch tụi nó. "Tao Cho Mày Chết Đi!" có bao nhiêu đó thôi. Thầy dạy cái này, khi đó trong cái băng ‘Đi phá hôn trầm, thùy miên’, là con đi Chánh Niệm Tỉnh Giác, là con sẽ phá được. Bền chí ôm cái pháp đó đi, cuối cùng rồi nó phải thua thôi.
Phật tử Nguyên Tánh: Bạch Thầy là con thấy ‘năm hơi thở và đi nhẹ nhàng hai mươi bước’ của Thầy phá hôn trầm rất tuyệt vời. Nhưng nghe bảo là tu sáu tháng như thế rồi sau này không dùng nó. Hôm nay con bị hôn trầm con dùng lại được không Thầy?
Trưởng lão: Có hôn trầm thì mình dùng nó không có hôn trầm thì bỏ, con hiểu không? Chứ mình tu rồi, bởi vì tu nó cũng như là vũ khí của mình: “Cần thì tao lấy ra tao bắn mày, không cần thì tao để, tao cất chứ không phải là tao không có tu. Nghĩa là bây giờ nó buồn ngủ, hôn trầm, tao không dùng cái này thì làm sao tao hết được, mà còn thì tao dùng nó, mà mày hết thì tao dẹp, cất kho đó chứ tao chưa phải quăng đâu”, con hiểu không? Đặng mình tu cái pháp khác, nhưng mà nó hiện ra, nó phá mình thì phải dùng vũ khí này mà diệt nó chứ, đâu phải bỏ, con hiểu chưa? Cũng như bây giờ con dùng cánh tay này mà thân con không đau, con đâu có cần dùng nó đâu, mà nó đau, tao dùng đẩy đấy, tao không có tha đâu! Tao tập rồi, tao quen cái này rồi, con hiểu chưa?
Tất cả những pháp khác đều là tập luyện, coi như là một sĩ quan ở trong quân trường rồi. Khi mà ra chiến trận, giặc nó áp dụng cách thức chiến đấu như thế nào thì tao sử dụng vũ khí đó tao đánh, bởi vì tao học hết rồi, con hiểu không? Chiến thuật, chiến lược nào tao cũng học hết rồi mà khi mà mày ló mặt nào ra thì tao biết dùng cái đó tao đánh. Tao học sẵn đây rồi chứ tao chưa học đâu mà tao sợ, con hiểu không? Nhưng đâu có phải tao tập hoài nó đâu, tao tập trong quân trường thôi! Nhưng mà khi ra tác chiến đúng rồi thì dùng nó tao diệt, các con hiểu chỗ đó chưa? Cho nên không phải bỏ, các con hiểu không? Cho nên thời giờ khác con tiến tới con tu pháp khác, nhưng mà nó ló cái mặt ra là dùng cái pháp cũ diệt. Nó là như vậy là không có mất gì, các con hiểu rồi phải không!?
(44:37) Phật tử Nguyên Tánh: Con bạch thầy con nghĩ là bệnh là do nghiệp, cho nên tất cả là do nghiệp cả cho nên bây giờ con không uống thuốc nữa, một năm nay con không uống thuốc nữa.
Trưởng lão: Đúng rồi. Nếu con không uống thuốc, con giữ Giới, chuyển nghiệp con. Con đọc cuốn Văn Hóa Truyền Thống tập hai, mười bảy điều lợi ích của Giới. Thân có bệnh đau, giữ Giới luật nghiêm chỉnh, ước nguyện là sẽ hết đau. Giới luật nghiêm chỉnh là hết đau, con thấy chưa? Con đọc cuốn đó rồi con mới thấy Giới luật nó tuyệt vời lắm con!
Phật tử Nguyên Tánh: Bạch Thầy con không uống thuốc mà đôi khi vợ con cứ sợ, con giả nói dối là con đã uống rồi có được không Thầy?
Trưởng lão: Thật sự ra nói dối thì không được con! Tao uống thuốc rồi nói như vậy, đừng có nói. Nhưng mà mình cũng lấy thuốc ra để đây cho nó thấy mình đang uống thuốc, nhưng mà uống hay không thì lát nữa tao cất. Mình khéo, thiện xảo thôi chứ không kéo mình nói láo thì không được, mắc tội, bởi vì Giới luật mà, con thấy không? Mình giữ Giới mà mình lại nói láo thì bị kẹt trong Giới rồi, không có được. Cho nên con cũng đem thuốc ra để cho nó thấy, nhưng mà để từ từ tao uống, không có lật đật rồi chừng nó đi vắng rồi mình đem dẹp.
Uống thuốc, bệnh này nó hết thì bệnh khác nó tới. Cái bệnh của con mà con uống thuốc, hết cái bệnh đó rồi là có cái bệnh khác. Bởi vì cái thuốc trị bệnh này mà nó lại làm hư chỗ khác, nó nguy hiểm cho mấy con lắm. Cho nên không cần uống thuốc gì hết, chỉ cần ôm pháp thôi!
(46:21) Thầy nói như thế này, nếu thật sự ra tai nạn giao thông gãy tay, chân. Các con lấy cây bó cứng tại chỗ gãy, tại mình cục cựa thì nó trật, mình bó cho chặt cứng, đừng để chân nó dính nhau lại, mấy con dùng tác ý, mấy con tác ý nó liền trở lại hết, khỏi cần gì hết con. Cái phương pháp tác ý của Phật, nó có sức đề kháng rất mạnh, nó làm cho những gì trên thân của nó phải lành lặn trở lại, nhưng tại mình yếu, mình sợ rồi mình lo cái này, lo cái kia, đừng có lo cái chuyện đó.
Phật tử Nguyên Tánh: Bạch Thầy là sự chiến thắng thân nghiệp thì phải chết sống với nó. Nhưng nghiệp của gia đình, bà con quyến thuộc, cha mẹ, anh em như thế nào thưa Thầy?
Trưởng lão: Mình tu nó chuyển dần con! Nó giảm bớt những nghiệp chướng ở trong gia đình của mình. Con nỗ lực con tu, biết nhẫn nhục, tùy thuận, sống đúng Giới luật, họ nói gì thì nói. Nhưng lần lượt nó ảnh hưởng tốt cho gia đình con. “Trời ơi ông tu hay quá, ba tôi bây giờ ông hiền quá!” Những cái hạnh hạnh sống của con, mà ông không bao giờ, ông đau, ông rên la, ông cái này, cái kia. Nó lạ lùng, từ đó nó ngạc nhiên tức là con chuyển Nhân Quả gia đình con, nó đúng chánh pháp. Mấy con cứ tự nhiên, mình sống đúng giới hạnh, tu tập đúng pháp Phật, tự nó đi chuyển cả gia đình của mình thuận hết, nó tốt hết. Sau này các con mình nó trở thành người tốt hết, các con yên tâm.
Các con đừng nói ba tu như vậy, tụi bay đọc sách này mà tu. Đừng có biểu nó vậy! Nó chưa có ngộ, chưa có hiểu đâu, nó không có làm đâu. Nhưng mà con làm được rồi bắt đầu nó theo, bắt chước mấy con, nó ảnh hưởng như vậy đó con. Cho nên kệ nó, đừng có nói gì nó, đừng có dạy, mình cũng không làm thầy nó được đâu, con hiểu không? Mặc dù mình làm cha nó được chứ không làm thầy được đâu, bảo nó tu, nó không tu đâu. Mình bảo nó ăn chay, nó không ăn chay đâu. Nhưng mình ăn chay, ăn ngày một bữa, nó thấy ông già ăn ngày một bữa sao ông khoẻ quá trời thì lúc đó nó bắt chước con. Còn nó ăn, cho nó ăn đủ thịt, cá, ăn này kia mà nó cứ đau hoài. “Trời đất ơi ông già ăn kiểu này mà mạnh, mình ăn vầy mà mình bệnh”, từ đó nó thay đổi mấy con.
(48:21) Các con yên tâm đi, các con cứ giữ đúng Giới luật của Phật, cơ thể các con nó sẽ mạnh khỏe, chứng minh cho tụi nó thấy, trong gia đình mình thấy, anh em mình thấy. Từ cái thấy của họ, nó thực tế, bắt đầu họ mới hướng về Phật pháp. Nó hướng dẫn, mình dạy người ta mà không có dạy Đạo chỗ nào hết. Mình dạy bằng cái thân hành, kêu là thân giáo đó, cái đó nó thực tế lắm mấy con, dạy bằng thân giáo.
Gia đình thấy mình ăn ngày một bữa họ không chấp nhận đâu, nhưng mà bắt đầu mình muốn thuận với gia đình thì trong một tháng, ba ngày, bốn ngày: “Ba thọ Bát Quan Trai, ba phải làm giống như Phật mà”. Sau thời gian đó mình ăn luôn, mà bây giờ làm Phật làm luôn chứ không lẽ làm có mấy ngày sao? Mình dần dần mình nói, nó nghe có lý. Thấy ba cũng ăn ngày một bữa, hôm nào đến nay một tháng ăn bốn bữa, ba có chết đâu, mấy con thấy ba có bệnh đau đâu. Rõ ràng là mạnh khỏe như thường mà. Bây giờ ba làm luôn tháng nguyên thử coi sao, thấy nó cũng được ba làm luôn chứ sao.
Bắt đầu tụi nó thua, mình không tranh cãi nó, mấy con thấy ba ăn ngày một bữa, ba có chết không? Mà nó đỡ tốn hao nữa, mà ba khỏi mất công ăn uống nữa. Con thấy cái nào lợi, còn mấy con nhai, ăn uống rồi cũng đi cầu này kia, bài tiết rồi bỏ hết. Ba cũng bấy nhiêu đó ba còn ít tốn hao, mấy con có cực khổ với ba nhiều đâu, có phải sướng không? Cái nào sướng? Tụi bây ăn nhiều có sướng hơn ba không? Mà tụi bay còn đau nhiều bệnh hơn nữa, rồi nóng giận, rồi sinh dục, đi chơi bậy bạ, tai nạn xảy ra đủ thứ. Còn ba có đi nhậu nhẹt với ai nữa đâu, có phải sướng hơn không? Còn tụi bay nhậu nhẹt mới là chết đó. Phải không, mấy con thấy không?
Từ cái chỗ thân giáo của mấy con, mấy con tu đúng thì sẽ dạy các con, nó sẽ thấy kết quả, nó tin tưởng mấy con lắm. Yên tâm đi mấy con! Mấy con cứ thực hiện đúng rồi gia đình mấy con tốt, nó chuyển lần hết, thiện pháp nó chuyển cả ác pháp làm gia đình của mình trở thành tốt. Mấy con yên tâm đi, mấy con cứ nỗ lực tu cho được!
(50:28) Phật tử Nguyên Tánh: Bạch Thầy như thế coi như hiện nay thì kinh của Thầy viết ra thì nhiều và chúng con cũng biết được nhưng mà chưa đọc được bao nhiêu. Trong pháp hành của Thầy đã giảng và truyền thụ cho con để chúng con hành, chúng con nên đọc những kinh nào và xem những phương pháp nào để hỗ trợ, giúp đỡ cho pháp tu của chúng con, hay là không nên đọc kinh sách?
Trưởng lão: Bây giờ thì mấy con không nên đọc nhiều kinh sách, bởi vì tuổi con đã già rồi, sức của mình, mắt của mình nó cũng mờ mịt nữa, tốt hơn mấy con đừng có đọc. Nhưng sách nào cần đọc là sách dạy đạo đức, dạy từng cái hành động, từng lời nói, từng cái suy nghĩ, mấy con đọc sách này. Nó giúp cho mấy con, từ đó mấy con còn tu thì lời nói mềm mỏng, nhẹ nhàng, êm ái, không bao giờ giận dữ, nói nạt nộ ai hết. Nó chỉ dạy cho mấy con cái đạo đức gì về ngôn ngữ thôi, từ đạo đức gì về sự tư duy, suy nghĩ, đạo đức về hành động. Nó dạy mọi hành động sống của mình. Trong cuộc sống ‘Không Làm Khổ Mình Khổ Người’ thì sách đó sau này Thầy sẽ gửi cho mấy con hết, các con nhớ Thầy sẽ gửi cho, Thầy sẽ in sách đạo đức này nhiều mà Thầy gọi là ‘Văn Hóa Truyền Thống’ đó. Các con sẽ đọc cái Văn Hóa Truyền Thống’ là dạy đạo đức không đó!
Thì Thầy sẽ gửi con đọc sách này, mấy con chỉ cần đọc cái này thôi, một ngày mấy con đọc một chương, một chương thôi, chương đó có dạy đạo đức trong những hành động gì? Rồi ngày mai các con đọc chương khác có dạy đạo đức trong những hành động gì? Nó lợi ích cho mấy con, càng đọc thì mấy con càng sống đạo đức, con hiểu không? Nó lợi ích cho mấy con, cho nên sách này là cần thiết đọc.
Còn những sách khác dạy con tu pháp này, pháp kia nó làm mấy con rối, không cần đọc nữa, chỉ cái pháp Thầy dạy tu thôi, đủ rồi! Không có đọc nữa, bấy nhiêu đó là giải thoát rồi, không có cần! Mà bây giờ mình học, mình đọc thêm những đạo đức, cách thức sống của mình, hằng ngày sống, hành động như thế nào đúng, hành động như thế nào sai. Đọc cái đó để cho mình bổ túc thêm những cái điều mình tu, nó càng tốt thêm, nó trở thành con người có đạo đức.
(52:17) Thánh hạnh mà các con, mình làm Thánh thì mình phải sống như vậy chứ! Bây giờ không lẽ phàm phu rồi, bây giờ làm người tốt rồi, bây giờ ở chỗ này hoài sao? Lên làm Thánh nữa chứ, mình cứ sống như Thánh. Ban đầu mấy con ăn ngày một bữa, mấy con làm Thánh rồi chứ bộ, giống ai nữa đâu, phải không? Còn ăn ba bốn bữa là phàm phu rồi mấy con. Cho nên mình bắt đầu mình làm Thánh từ từ rồi, những cái hành động đó là hành động Thánh hết rồi. Sau này từ ngôn ngữ, lời nói nhẹ nhàng, không nói nặng, nói nhẹ ai, đó là hành động Thánh.
Phàm phu thì còn tục tử, còn tục tĩu nói lời này, nói kia, nạt nộ được. Còn con người Thánh không có bao giờ nạt nộ ai hết đâu, không có nói to tiếng với ai đâu, đó là Thánh rồi. Vì vậy mấy con đọc sách này, nó giúp mấy con, trợ duyên mấy con, mình phải làm Thánh chứ. Mang thân người chứ mà tâm hồn Thánh hết rồi.
Bởi vì tập như vậy thì các con đã từng sống ở trong tâm Thánh như vậy, thì các con chết các con làm sao phàm phu được nữa? Phải không? Các con phải làm Thánh thôi, thì vậy là đủ cho mấy con rồi. Thầy dạy mấy con đi tới làm Thánh rồi, đủ sức rồi, phải không? Bây giờ mấy con còn gì nữa không?
Phật tử 1: Bạch Thầy cho con hỏi….
Trưởng lão: Cái đau, con bị cái đau. Đó là cái nghiệp của con nặng! Con bảo như thế này nè, khi mà đau vậy đó, con tu hoặc gì đó, con bảo như thế này, con lắng nghe kỹ, Thầy dạy cho: "Thọ là vô thường, tất cả những đau nhức trong thân này, tất cả những bệnh đau nhức này phải đi ra khỏi thân ta! Bình thường, mạnh khỏe, quắc thước, đi đứng không đau nhức, ngồi không đau nhức nữa!" Con tác ý cho mạnh nó đi.
(54:11) Rồi cứ giờ nào tu con cũng tác ý như vậy. Rồi một ngày nào đó con sẽ thấy thân con không còn đau nhức chỗ nào nữa. Con đi cũng như thanh niên đi, nó không sợ té nữa. Nó mạnh mẽ bởi vì cái phương pháp tác ý, cái lực ý thức của con, nó ra lệnh làm cho cái thân của con nó mạnh mẽ. Và đồng thời con giữ tám giới Bát Quan Trai, rồi con tác ý, cái bệnh con sẽ hết mà.
Con nghe lời Thầy, con tin Thầy, bệnh con sẽ không còn đau nhức, khổ sở nữa, chứ bây giờ con ngồi lâu cũng đau, con quỳ cũng đau, con đi cũng đau nữa. Cái thân của con là nghiệp của con dữ lắm, nó hành hạ con dữ lắm bởi vì cái biển nghiệp của con, bây giờ nó đổ ra, nó đau đủ thứ, nó không có phút nào nó yên cho con. Cho nên con bảo: “Phải bình thường trở lại. Cái thân này phải mạnh mẽ, quắc thước! Đi đứng không được đau nữa, hai chân này phải bình thường!" Con ra lệnh nó vậy đi, rồi nó sẽ nghe, nó làm bình thường lại cho con.
Phật tử Nguyên Tánh: Bạch Thầy có một thời gian con theo tâm an dưỡng sinh, tu ức chế, ngồi hai tiếng đồng hồ là mồ hôi mẹ, mồ hôi con rơi ra. Con ra ngoài hội hội khoa học tâm an, con được làm hướng dẫn viên. Con về nhà con mở một lớp tâm an dưỡng sinh, con cũng là hướng dẫn viên, sáng lập viên của trung tâm tâm an dưỡng sinh. Cho nên con biết vì đi sai pháp Phật, tính tham, sân, si càng nhiều, cho nên là cái Tưởng hoạt động nhiều thì trí tuệ con yếu đi. May mà con gặp được pháp của Thầy không thì có lẽ giờ con cũng mê mờ. Sức khỏe thì có thật, trí tuệ thì yếu đi, cho nên trí nhớ kém đi, xin Thầy cho con một số pháp hướng tâm để trí nhớ con làm sao khôi phục được để cho đỡ ạ.
Trưởng lão: Thứ nhất là con đi Chánh Niệm Tỉnh Giác, con Chánh Niệm Tỉnh Giác, con phá cái hôn trầm, thùy miên. Cái hôn trầm, thùy miên con hết thì sức tỉnh con nó có, nó tỉnh giác mà tỉnh giác thì con tác ý thì nó phục hồi lại trí nhớ.
Khi nó tỉnh giác rồi con phục hồi lại trí nhớ thì nó được, còn con chưa có tỉnh giác thì con chưa phục hồi nó không được. Con tập cho tỉnh giác lại đã, cho nó tỉnh, nó không còn bị hôn trầm, thùy miên nữa. Sau khi con thấy nó tỉnh rồi, mà Thầy nói nó tỉnh, nó từ trong cái thớ thịt con nó tỉnh ra, thì lúc bấy giờ con bảo nó: “Trí nhớ phải phục hồi lại, phải nhớ không được quên nữa!”. Thì lần lượt nó phục hồi lại, nó thuộc về thần kinh, trí nhớ con nó thuộc về bộ óc, cho nên vì vậy mà cái cơ thể con nó tỉnh giác được rồi thì con mới phục hồi lại nó được.
(56:34) Phật tử 2: Bạch Thầy hiện nay chúng con cũng có bạn bè tu học với nhau. Hiện nay chúng con cũng được nhân duyên vào Thầy, ôm pháp của Thầy để về tu. Thì khi gặp bạn bè thì chúng con nên làm thế nào? Nên nhắc nhở bạn bè hãy im lặng để mà tu? Xin Thầy chỉ bảo!
Trưởng lão: Bạn bè của mình mà người ta có tâm tha thiết cũng muốn theo mình tu đó, các con nên giúp đỡ đừng nên bỏ. Mặc dù tôi tu chưa tới nơi nhưng mà tôi thấy có cái sự hiệu quả làm cho cái tâm, cái đời sống tôi bắt đầu bây giờ nó thấy nó hạnh phúc. Tôi cũng muốn các bạn cũng được vậy. Cho nên bây giờ có những gì khó hơn các bạn nên hỏi Thầy. Còn cái gì mà tôi đã làm được, tôi sẽ sẵn sàng giúp các bạn. Các con sẽ nói với các bạn được.
Chứ không phải là nói mình không giúp đỡ, nhưng mà mình phải nói là những cái mà tôi làm được, còn những cái chưa có làm được thì các bạn muốn hỏi cái tôi chưa làm được thì nên hỏi Thầy, chứ còn tôi thì không dám chỉ cái này đâu! Tôi chỉ nó trật thì chắc…, hiểu không?
Các con cũng nói thẳng, nói thật vậy đó, đừng nói là tôi đã tu tới nơi rồi thì không được. Ở mình mới được một phần giải giải thoát nhỏ của mình thôi. Nhưng mà vì cái lợi ích này, mình thấy cái lợi ích này là cái đạo đức, cho nên mình hướng dẫn cho bạn bè mình, khi người ta thấy mình được cuộc sống như vậy đó, người ta cũng thích cho nên mình phải giúp đỡ chứ sao lại bỏ người ta.
Còn nói chờ tôi tu xong rồi chỉ. Ông tu xong thì chắc tôi chết mất rồi thì làm sao tôi tu. Cho nên bây giờ giúp đỡ người ta được phần nào thì mấy con giúp đỡ chứ không sao đâu. Nhưng mà mình không có dạy người ta tới nơi tới chốn được, vì vậy mình nhắc nhở người ta, có những gì khó khăn thì mau mau hỏi Thầy. Thầy sẵn sàng giúp đỡ, Thầy là người đi tới nơi rồi. Còn tụi tôi thì cũng đang ở trên con đường đi, nhưng mà được cái phần lợi ích nào thì tôi sẽ giúp đỡ cho bạn bè với nhau để bạn bè sống được cái lợi ích đó thì các con giúp đỡ được, không có sao hết, đừng có sợ.
(58:18) Phật tử 2: Con xin sám hối Thầy có lẽ con lọt vào pháp ức chế tâm cho nên bây giờ còn không biết được trạng thái thanh thản nó nằm chỗ nào, chắc chắn con bị ức chế tâm nên hay quên, nên Thầy chỉ giảng cho con giữ Tâm thanh Thản đúng cách như thế nào? Hôm qua Thầy nói là…
Trưởng lão: Phần thanh thản nó như thế này nè! Bây giờ con muốn biết chắc phần thanh thản mà không bị ức chế đó, phải không? Thì con ngồi chơi như thế này nè! Con ngồi con xả, con chơi, con bảo: “Thư giãn hết!” Rồi bắt đầu nó thư giãn ra hết, con cứ nhắc thư giãn thôi, rồi con ngồi chơi vậy đó, rồi bắt đầu bây giờ con để cho nó tự nhiên, rồi con mới tác ý xen câu thanh thản thử coi, thì con mới nhìn thấy sự thanh thản tự nhiên của nó. Đó, thanh thản tự nhiên rồi đó, rồi một lần con xét nó vậy, con chú ý nó nữa thì nó mất thanh thản đó con! Con chỉ nhắc nó, rồi thấy tự nhiên rồi đó, rồi lát nữa con làm lại lần nữa thì con sẽ thấy tự nhiên của nó.
Rồi con xả ra chứ con đừng có ôm nó nữa. Con ôm là con bị ức chế, con hiểu chưa? Rồi con xả ra, rồi con tập dần như vậy đó rồi bắt đầu con nhận ra được nó, để tự nhiên, như vật là mày thanh thản rồi, tao không cần động tới mày đâu mà hễ có cái chướng ngại gì mà lọt vào trong thân tâm tao thì tao đuổi. Lúc bấy giờ con tu Tứ Niệm Xứ được rồi, con hiểu chưa?
Đầu tiên con ngồi, con chơi, con đừng có chú ý thanh thản gì hết, đừng nhắc gì hết, phải không? Con ngồi chơi vậy, bắt đầu đó thì con mới để nó tự nhiên, nó yên ổn thì sau khi nó yên ổn rồi, con mới nói bây giờ xem con có thanh thản không? Con nói, chú ý xem làm như vậy là có thanh thảnh đó. Nhưng mà mình đã nói xem coi thanh thản là đã bị ức chế rồi đó.
Cho nên mình xem nó coi thôi rồi mình xả ra, nó khó lắm con, bởi vì mình nhắc nó là mình đã gom tâm, cũng đã chú ý nó rồi. Mà mình không gom tâm chú ý thì thanh thản tự nhiên thì mình làm sao biết, nó kẹt chỗ mình không biết nó.
(01:00:11) Cho nên khi mình nhận ra rồi như vậy mày thanh thản nhưng mà tao không có ở trong này nữa, tao xả ra. Để một vài lần nó quen rồi, con không cần nhắc, con thấy tự nó thanh thản. Không nhắc nữa mà thấy thanh thản, rồi bắt đầu bây giờ ở trong Tứ Niệm Xứ tu đó, chứ hễ mà nhắc nó là bị gom rồi. Tại vì con tu tập cái đó là vì con tập ức chế, con gom tâm nó quen rồi. Cho nên con nhắc là nó gom, nhắc là nó gom, cho nên Thầy biết chỗ đó rồi.
Còn người mà ta chưa có tu, người ta nhắc là nó thanh thản bởi vì họ không tu nên họ không gom, cho nên một lúc nó bật ra niệm này, niệm kia, nó không có yên được. Còn con nó gom lại, nó yên, nó không có niệm nữa, con hiểu chưa? Nó bị ức chế.
Còn người ta chưa có tu, chưa có quen, người ta nhắc thanh thản, vậy chứ vẫn biết thanh thản, chứ lát nữa nó không thanh thản, con hiểu chưa? Cho nên cái tự nhiên của người ta, nó có cái thanh thản tự nhiên. Do đó theo Thầy hướng dẫn một thời gian sau người ta nhận ra thanh thản được. Còn con bây giờ thì nhắc nó để thấy thanh thản rồi xả ra chứ không được ở trong đó nữa. Nhắc thanh thản, rồi xả ra, lần lượt rồi con không nhắc nó vẫn thanh thản, nó thanh thản rất tự nhiên. Bắt đầu bây giờ chướng ngại gì thì đuổi, không chướng ngại thì để tự nhiên cái thanh thản đó.
Chứ con nhắc là nó gom lại, tại vì con tập ‘tâm an’ nó quen ức chế rồi, con hiểu không? Nó kẹt cái chỗ đó, phải tu cái này, đó là cách thức Thầy giúp con giữ cái thanh thản để con tu Tứ Niệm Xứ. Con làm vậy sau thời gian nó quen, con không có bị gom tâm.
(Ngồi xuống mấy con!)
Phật tử 2: Con xin một thời cuối cùng, đó là cái chùa Long Đàm của chúng con hiện nay, gần đây cái nghiệp Nghệ Tĩnh, con nghĩ rằng nếu chỗ này phát triển được là bọn con được, bây giờ cũng có trên dưới khoảng, cái số mà chuyên tu khoảng ba, bốn chục người. Nhưng số mà nhận được Chánh Pháp cũng khá nhiều rồi, trong vòng một trăm.
(01:02:18) Hôm nay có một sư là thương binh hạng hai, họ muốn đề nghị con, có một số ở đó Phật tử bên Đại Thừa, họ xây chùa, họ lấy quyền của họ, họ muốn đưa một số sư, bạn bè của họ ở miền Nam về để trụ trì tại đó, coi như đã về đó lâu rồi. Nhưng mà vừa rồi xã, sau khi nhận được những quyển Đường Về Xứ Phật của Thầy mà con đưa về thì họ đã giác ngộ rồi.
Ban đầu họ đuổi lên, đuổi xuống cũng là do cái nhóm họ báo, họ quen công an tỉnh, họ đưa thầy trò con xuống rồi lên. Chúng con đấu tranh mãi thì đến hôm nay họ giác ngộ Chánh Pháp rồi. Khi sáng công an triệu tập tụi con.
Chúng con đang tu tập thì cái pháp chưa nắm được mấy nhưng cũng muốn vào Thầy. Nhưng hiện nay ông Minh chủ tịch muốn giữ ông Khang ở lại và chuyển hộ khẩu để trụ trì tại đó một thời gian để hộ trì Chánh pháp. Nhưng mà lúc đầu thì sư Thiện Nghĩa về, muốn được cái này là phải vào Thầy gấp để…Nhưng giờ theo con thì sư Khang muốn thưa với Thầy xem thử có nên vào đợt này hay thể thời gian nguôi nguôi để họ khỏi đưa cái số về đó để tranh cái chùa mà chúng con tu…Theo Thầy nên vào trong dịp này hay là nên để thời gian cho nguôi nguôi để họ không có điều kiện đưa các sư ở ngoài Đại Thừa về…
Trưởng lão: Phải chờ thời gian để cho các sư này hoàn toàn yên ổn đã, sau này Thầy mới hướng dẫn các sư tu học, sau đó sư về sư mới lãnh đạo thì nó vững vàng cái Tu viện đó lắm con, mấy con sẽ có chỗ sinh hoạt tốt. Chứ không vào đây thì…. cái đó là hay, cái kế hoạch đó là tốt.
Phật tử 2: Chúng con xin đa tạ Thầy, chúng con đã làm phiền Thầy nhiều lần rồi. Dạ. (01:04:10)
HẾT BĂNG
PHẠM HẠNH CỦA NGƯỜI TU THIỀN
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Thời lượng: [1:02:28]
(00:01) Hôm nay, Thầy giảng thực hành thiền định về hơi thở, quý Phật tử cùng Thầy niệm hồng danh Đức Phật.
“Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” (3 lần)
Hôm nay, Thầy dạy quý Phật tử thực hành Thiền định, không còn dạy lý thuyết suông, giải thích lòng vòng làm mất thì giờ vô ích. Đối với sự thực hành này, nếu quý Phật tử cố gắng một chút thì ngay tức khắc đã có kết quả nhất tâm dễ dàng.
Thay vì quý Phật tử phải chờ đợi cho đến khi nào Thầy ra thất, đó là một lý do chánh đáng mà Thầy đã vạch ra một đường lối hướng dẫn tuần tự tu tập có căn bản, từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, để cho mọi người ai cũng thực hành được và cũng đạt được kết quả nhất tâm tốt đẹp như nhau. Quý Phật tử hãy lắng nghe cho kỹ và cần nên để ý những gì mà Thầy đã dạy hôm nay. Tu tập thiền định không nên vội vàng, luôn phải khắc ghi trong lòng mười điều tâm niệm quan trọng dưới đây:
(2:42) Ngoài sự tu tập thiền định quý Phật tử còn phải sống đúng giới hạnh của người tu thiền.
1- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức thì không thể nào đem thiền đạo hoặc kinh điển Phật ra thuyết giảng giữa đám tang, đám cưới, đám giỗ, ngày kỵ, hoặc trên xe, bên lộ, trên hè phố v.v và v.v.
2- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức thì không thể nào đem thiền đạo hoặc kinh điển Phật ra tranh luận hơn thua cao thấp.
3- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức thì không thể nào dùng thiền đạo hoặc kinh điển Phật ra bài bác những tôn giáo khác, hoặc những pháp môn tu hành khác.
4- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ có giọng cười hách dịch, phách lối, có giọng nói thô lỗ, tục tằn.
5- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ đem việc chánh trị ra bàn.
(04:32)
6- Một người tu thiền định có giới Đức đầy đủ không thể nào để danh lợi làm mờ mắt mình.
7- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không thể nào để sắc đẹp cám dỗ lôi cuốn.
8- Một người tu thiền định có Giới đức không bao giờ ăn phi thời hoặc ăn uống lặt vặt.
9- Một người tu thiền định có Giới đức không bao giờ ham ngủ, thích đi du hí du thực.
10- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ nói chuyện phi thời, nói chuyện tào lao, nói chuyện vô ích.
11- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ cười nói một lượt, hay trong lúc ăn nói chuyện.
12- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ đem chuyện người này nói chuyện người kia, để khiến cho mọi người bất hòa thù giận nhau.
13- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ thiếu hạnh nhẫn nhục, thiếu hạnh kham nhẫn.
(06:32)
14- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ thiếu lòng tha thứ, thiếu lòng từ, bi, hỉ, xả.
15- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức bao giờ cũng biết đủ, ít ham muốn.
16- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức sống một cuộc đời tùy thuận và an vui, bằng lòng mọi sự việc, mọi hoàn cảnh và mọi đối tượng.
17- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ giết hại chúng sanh, làm cho chúng sanh đau khổ.
18- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ thiếu giữ gìn vệ sinh nội thân và ngoại cảnh để cho cơ thể và nơi ở toát ra mùi hôi làm mọi người xung quanh khó chịu.
19- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức bao giờ cũng thấy những lỗi nhỏ của mình là quan trọng đối với đời tu hành của mình.
20- Một người tu hành thiền định có đầy đủ Giới đức thì từ bỏ sát sanh, tránh xa sự sát sanh vì sát sanh là làm đoản mạng chúng sanh, gây sự chết chóc đau thương kẻ sống cũng như người chết. Khi có sự vô tình làm chúng sanh đau khổ hoặc chết chóc thì tự thấy rất là xấu hổ, rất là đau lòng, lúc nào cũng gìn giữ tâm từ, lòng thương xót và nghĩ đến hạnh phúc của người khác, của các loài vật khác.
(09:02)
21- Một người tu hành thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ lấy của không cho, tránh xa sự lấy của không cho, chỉ nhận những vật đã cho, sống một đời sống trong sạch, không có tâm tham lam, trộm cướp, và còn phải biết mọi người làm ra miếng sống, hoặc của cải, tài sản phải đổi lấy bằng mồ hôi, nước mắt rất là vất vả, khổ sở, phải chịu cháy da, phỏng cát mới có được của cải, tài sản.
22- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ dùng tà hạnh, từ bỏ dâm dục hèn hạ, không để tâm bị sắc dục lôi cuốn, không để tâm ham muốn dâm dục, phải từ bỏ, phải tránh xa, phải tu phạm hạnh, và còn phải biết dâm dục là nguồn gốc của tái sanh luân hồi, tạo nên nhiều đời kiếp tiếp khổ đau.
23- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ nói láo, thường tránh xa sự nói láo, luôn nói những lời chân thật, y chỉ nơi sự thật mà nói, nói lời chắc chắn đúng đắn, tin cậy, không lừa gạt, không phản phúc, nói lời hứa giữ gìn rất đúng, không bao giờ sai lời hứa đối với đời, cũng như đối với một ai.
(10:50)
24- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ nói lưỡi hai chiều, tránh xa sự nói hai chiều, nghe điều gì ở chỗ này không đi nói đến chỗ kia, để sanh chia rẽ những người này; nghe điều gì chỗ kia, không đi đến nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia; thường sống hòa hợp trong mọi đoàn thể, thường nói những lời đưa đến hòa hợp, không nói lời tranh đua cao thấp.
25- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ nói lời độc ác, nói lời thô lỗ, nói lời tục tĩu, nguyền rủa, chửi mắng, thề thốt, chửi thề, thường nói những lời không lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương, thanh tao, lời nói đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người, ôn hòa, nhã nhặn.
26- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ nói lời phách lối, tránh xa những lời phách lối, nói lời khinh khi người, nói lời chê trách người, mạ nhục người, phỉ báng người, thường dùng lời chân thật khen tặng người, lúc nào cũng nói đúng thời, lời nói có đầy đủ ý nghĩ chân chánh, không nói cà rỡn, nói đùa, nói mỉa mai, nói móc họng, nói lời chua chát, thường nói những lời về chánh pháp, nói những lời về đức hạnh, nói những lời được mọi người giữ gìn, nói những lời hợp thời, thuận lý không nói đùa, nói giỡn, nói có mạch lạc, có hệ thống và có ích lợi cho mọi người.
(13:08)
27- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức mỗi ngày ăn một bữa, không ăn ban đêm, không ăn lặt vặt; từ bỏ không ăn ban đêm; từ bỏ không ăn phi thời; từ bỏ không đi xem hát, ca hát, nhạc kịch; từ bỏ không trang sức, vòng hoa, hương liệu, dầu thơm và các thứ thời trang; từ bỏ nằm giường cao rộng, đẹp, sang; từ bỏ không cất giữ tiền bạc, vàng bạc; từ bỏ không nhận người làm, người hầu, kẻ hạ hoặc nam hoặc nữ; từ bỏ các nghề Thầy thuốc, Thầy ký, Thầy thông, buôn bán, môi giới, hôn nhân; từ bỏ các sự gian lận bằng cân, đo lường, tiền bạc; từ bỏ lo lót, hối lộ, gian trá, lừa đảo; từ bỏ sát hại cấm túc, làm thương tổn, bức đoạt, cướp phá và trộm cướp.
28- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ sống theo các du hí như ca hát, nhạc kịch, ngâm vịnh, nhịp tay, nhịp chân, tụng chú, tụng niệm kinh giọng cao, giọng thấp, giọng trầm, đánh trống, gióng chuông, diễn các tuồng thần tiên, mãi võ, đấu voi, đấu ngựa, đấu trâu, đấu bò, đấu cừu, đá gà, đá chim cun cút, đấu gậy, đấu quyền, đô vật, đánh giặc giã, dàn trận, thao dợt, diễn binh, lúc nào cũng từ bỏ những loại du hí như trên.
(15:20)
29- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ sống với nghề đánh bài, gian lận, và không theo các trò giải trí như cờ tướng, cờ tam hình, bát hình, cờ gánh, các trò chơi trên đất, nhảy cò cò, ô quyền, chơi quăng thẻ, chụp khăn, bắt mọi, đánh bài, cút bắt, chơi xúc xắc, chơi khăng, lấy tay làm viết, làm chó, làm mèo, đá banh, tennis, bóng rổ, bóng chuyền, thổi kèn, chơi xe con, búp bế, cung tên, khiêng kiệu bằng tay, bắt chước, nhá nhại điệu bộ của người khác, chế giễu, méo miệng làm ma, lè lưỡi làm quỷ.
30- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ sống giường cao rộng lớn, ghế bành, ghế dài, ghế chạm trổ, cẩn ngọc, cẩn vàng, và các thứ gỗ quý, vải trải giường bằng len, vải trải giường, bàn, ghế, nhiều tấm, nhiều màu chăn len trắng, chăn len thêu bông, nệm bông, nệm thêu hình các con thú, mền bằng bông, mền bằng lông thú, cả hai phía mền có đính ngọc, mền bằng lụa, tất cả những loại dùng ở trên đều phải từ bỏ.
(17:17)
31- Một người tu thiền định có đầy đủ giới đức không bao giờ dùng đồ trang sức, mỹ phẩm, thân hình ẻo lả, thướt tha, kem đánh mặt, vòng hoa và phấn son, phấn mặt, sáp mặt, gậy cầm tay đầu rồng, đầu rắn, ống thuốc hút, ống trầu, dép thêu, khăn thêu, khăn đầu thêu, khăn tay thêu, phất trần, vải trắng có viền tua dài.
32- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ nói chuyện vô ích, nói chuyện tầm phào, nói chuyện chánh trị, vua chúa, nói chuyện trộm cướp, nói chuyện về binh lính, nói chuyện về hãi hùng, nói chuyện chiến tranh, nói chuyện về ăn cắp, dâm dục, nói chuyện về vải mặc, giường nằm, vòng hoa, hương liệu, thuốc thang, bà con, xe cộ, làng xóm, thị tứ, thành phố, nói chuyện thế giới, nói chuyện đàn bà con gái, nói chuyện đàn ông, nói chuyện anh hùng, quân tử, tiểu nhân, nói chuyện bên lề đường, bên giếng nước, nói chuyện người chết, xe đụng, nói chuyện nạn tai thủy hỏa, nói chuyện tạp thoại, thần thoại, tiên thoại, Phật thoại, nói chuyện ma, chuyện quỷ, đồng cốt, bói khoa, nói chuyện đất sụp, núi lửa.
33- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ sống bàn luận, tranh chấp về luật pháp, về tà kiến, chánh kiến, về thiên thời, địa lợi, thiên văn, địa lý, bàn chuyện cổ kim, tranh hơn, tranh thua, tranh cao, tranh thấp, luận thiền, luận đạo, luận kinh, luận luật, v.v.
34- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ đứng ra làm môi giới, chánh trị, từ thiện, xã hội, môi giới trai gái, thanh niên, môi giới buôn bán làm ăn các thứ nghề, đưa tin tức qua lại, liên lạc chánh trị, thời sự.
(20:11)
35- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ sống lừa đảo, nói lời xiểm nịnh, a dua, gợi ý, gièm pha, lấy lợi, cầu lợi, cầu danh.
36- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ tự nuôi thân sống bằng những tà hạnh, quay tay, đoán quẻ, bói khoa, chiêm tinh, xem tướng, đoán mộng, xem ngày tốt xấu, xem tuổi cất nhà, cưới vợ, gả con, cúng tế, quỷ thần, cầu an, cầu siêu, trừ bệnh, trừ thần, trừ linh, ếm bùa, ếm chú, trị bệnh tà ma, lên đồng, lên cốt, hốt thuốc, chích thuốc, trâm cứu, rờ mó, đấm bóp trong thân người khác, ôm ẵm, hôn hít, vuốt ve, nựng nịu.
37- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ nuôi thân bằng tà nghiệp như làm nghề xem tướng, xem ngọc, vàng tốt xấu, xem nốt ruồi đàn bà, đàn ông, thiếu niên, thiếu nữ này tốt tướng, thiếu niên kia xấu tướng, tướng này làm quan, tướng kia làm tôi tớ, tướng này nghèo khổ, tướng kia giàu sang, tướng này làm thầy, tướng kia làm thợ, tuổi này sung sướng, tuổi kia khổ đau, coi soái trâu bò, dê, ngựa, chó, bò cái, bò đực.
(22:17)
38- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới hạnh không bao giờ làm chánh trị, quân sự, hoặc bàn vua này thắng, vua kia thua, nước này thắng, nước kia thua, nước này bại trận, nước kia thắng trận, tướng này đánh giặc giỏi, tướng kia đánh giặc dở.
39- Một người tu thiền định có đầy đủ Giới đức không bao giờ sống bằng những nghề xem đoán Nhật thực, Nguyệt thực, xem các tinh tú, sao chổi, sao băng, động đất, núi lửa, sấm sét rung động, báo điều thất mùa, tai nạn binh đao, hỏa tai, thủy lạ, năm thất mùa, năm trúng mùa, mưa nhiều, mưa ít, hạn nhiều, hạn ít, được mùa, mất mùa, viết văn, làm thơ, luận kinh, viết sách khiến cho người đời sau kiến chấp vào đó mà mất nhân giải thoát.
Trên đây là những đức hạnh của người tu thiền định, nếu ai không giữ gìn đúng những giới hạnh này mà tu thiền thì được xem như tu thiền tà đạo không phải Phật đạo.
Này quý Phật tử, tu thiền định không phải chỉ có biết tu thiền định mà thôi mà còn phải tu tập giới Đức, nếu không tu Giới đức thì không đúng con đường tu hành thiền định của Đạo Phật. Đạo Phật gọi tu giới là tu phạm hạnh. Ở đây Thầy gọi Đức hạnh của người tu thiền. Người tu thiền định của Đạo Phật không sợ lạc thiền tà vì luôn lấy giới luật của Phật làm nền tảng vững chắc cho sự tu thiền định của mình. Nhờ nền tảng Đạo đức Giới luật này quý Phật tử tu thiền định mới thấy được kết quả hữu hiệu, lợi ích, thiết thực làm chủ thân tâm rõ ràng, lìa xa tâm ái dục, tham lam, sân hận, cụ thể. Vì thế không sợ tu sai, tu lạc.
(25:00) Tóm Lại quý Phật tử cần phải nhớ kỹ Mười Điều Tâm Niệm dưới đây để tu tập rèn luyện Đức Hạnh của người tu thiền.
1- Phải đặt lòng tin nơi sự hướng dẫn của Thầy, phải tin tưởng rằng Thầy sẽ đưa quý Phật tử đến chỗ làm chủ sanh tử luân hồi.
2- Phải đầy đủ nhiệt tâm đối với con đường tu hành giải thoát.
3- Phải cố gắng tập trung tư tưởng đối với hơi thở từng giây từng phút, chú ý rất cẩn thận và rất thận trọng, không được để một giây, một phút lơ là.
4- Trong khi tu tập thiền hơi thở không được để tâm xao lãng dù chỉ một giây, phải tập tỉnh giác suốt thời công phu, thận trọng hết sức mình.
(26:19)
5- Khi gặp mọi hoàn cảnh khó khăn trên bước đường tu hành cũng như trong lúc công phu thực hành thiền định phải bền tâm, vững chí, kiên trì, bền lòng, chắc dạ, giữ vững lập trường, không để sự xuyên tạc bên ngoài đánh lạc hướng, quyết không bỏ sự tu hành giữa đường.
6- Phải ăn uống đúng giờ giấc, có tiết độ, không nên ăn uống lặt vặt phi thời và ăn đêm.
7- Tập ít giao du tiếp khách.
8- Tập sống độc cư cô đơn.
9- Tập ít muốn, thường biết đủ.
10- Tập kham nhẫn, nhẫn nhục xem mọi việc trên thế gian đều vô thường, tập an vui trong mọi hoàn cảnh, thường sống bằng lòng mọi sự việc đối với mọi người.
Ở đây quý Phật tử phải biết bước đầu tiên trên con đường tu tập thiền định, mọi người muốn tu thiền định phải trang bị cho mình một tín lực. Muốn trang bị cho mình một tín lực đầy đủ thì quý Phật tử hãy chờ đợi Thầy ra thất. Thầy sẽ đem lại cho quý Phật tử một tín lực rất đầy đủ. Nhờ đó quý Phật tử mới đủ sức kiên trì, bền bỉ, dẻo dai, chiến đấu từng tâm niệm của mình.
(28:11) Một lần nữa Thầy xin nhắc lại, ở đây quý Phật tử phải biết chỉ có khi nào Thầy ra thất cùng với quý Thầy mới đem lại cho quý Phật tử một niềm tin sâu đối với Phật pháp cũng như đối với con đường tu tập Thầy. Còn hiện giờ nói về tín lực của quý Phật tử thì còn xa lắm và khó lắm. Đây quý Phật tử mới chỉ có một lòng tin nho nhỏ mà thôi, dễ thì quý Phật tử tu chơi, khó thì chạy bỏ theo pháp môn khác. Chỉ khi nào Thầy ra thất cùng với quý Thầy mang lại cho quý Phật tử thấy tận tay, tận mắt kết quả công phu tu tập mà quý Thầy đã thành tựu, quý Phật tử sẽ nghe và sẽ thấy rõ ràng sức thành tựu giới luật, thiền định và trí tuệ.
Nhưng lúc bây giờ quý Phật tử đang chờ đợi Thầy ra thất thì thời gian này bỏ trống không quá uổng. Còn nếu tu không đúng cách thì luống uổng công phu. Vậy bây giờ không để mất thì giờ, quý Phật tử hãy theo lời dạy của thầy mà tu tập để có một căn bản vững chắc sau khi quý thầy ra thất sẽ mở khóa tu thiền, thì quý Phật tử sẽ được nhập viện tu tập, thì sự tu tập của quý Phật tử sẽ được dễ dàng và nhanh chóng.
(30:15) Bây giờ quý Phật tử cùng Thầy đi ngay vào thực hành, không nên lý thuyết dài dòng.
Bắt đầu ngay đây quý Phật tử mỗi vị phải có một chiếc đồng hồ báo thức, chiếc đồng hồ báo thức này là trang bị cho quý Phật tử một tinh thần tinh tấn siêng năng, nếu quý Phật tử không có đồng hồ báo thức thì dễ sanh ra tâm lười biếng, trễ nải giờ giấc, lâu ngày sẽ trở thành thói quen dễ dãi.
Bây giờ quý Phật tử chuẩn bị ngồi kiết già, nếu Phật tử nào chưa ngồi kiết già được thì lần lượt sẽ tập sau. Còn hiện giờ thì ngồi bán già.
Quý Phật tử đã ngồi xong chưa? Ở đây quý Phật tử nào chưa bao giờ tu tập thiền định thì bắt đầu chú ý theo Thầy. Lắng nghe kỹ lời dạy của Thầy. Còn những Phật tử nào đã có tu tập thiền rồi, dù bất cứ một pháp môn thiền nào thì hãy chờ đợi một lát nữa Thầy sẽ dạy sau.
Bây giờ quý Phật tử đã ngồi xong. Bắt đầu hít vô một hơi thở mạnh, và sâu đến khi nào không còn hít vô được nữa mới thôi, nương theo hơi thở này xương sống nâng lên thẳng đứng, giữ xương sống thẳng đứng này, ở tư thế này rồi từ từ thở ra cho hết. Khi thở ra hết vẫn giữ tư thế ngồi thẳng xương sống, nhìn phía trước mặt cách chỗ ngồi tám tấc, chú ý tại nơi hai lỗ mũi, biết rõ hơi thở hít vô, thở ra, cảm giác hơi thở và sự vận dụng hít vô, thở ra của mũi, cổ, ngực, và bụng.
(32:53) Bây giờ quý Phật tử còn nhớ lại hơi thở Thầy đã chọn, lực hơi thở và sức lực nhiếp tâm của Quý Phật tử, vậy quý Phật tử hãy lấy hơi thở đã chọn để tu tập ngay bây giờ.
Chú ý:
Hít vô, thở ra đếm “Một”. Đếm xong “Một” nghỉ nửa phút, nghỉ xong nửa phút bắt đầu chú ý.
Hít vô, thở ra, đếm “Một”.
Đếm xong “Một” nghỉ nửa phút.
Nghỉ xong nửa phút, bắt đầu hít vô, thở ra đếm “Một”.
Đếm xong “Một” nghỉ nửa phút, và cứ tiếp tục tu như vậy cho đến khi đúng ba mươi phút rồi xả nghỉ.
Suốt trong thời gian tu ba mươi phút, quý Phật tử luôn giữ tư thế ngồi kiết già, lưng thật thẳng, không nhúc nhích, không động đậy. Quý Phật tử cần nhớ kỹ chỗ này: Đếm “Một” mà thôi, không được đếm “Hai”, “Ba”, “Bốn”, “Năm”. Đây là Pháp môn tu một hơi thở cho người kém sức tập trung. Và bất cứ người nào, ai tu cũng được. Đây phải nói là trình độ tu thấp nhất của pháp môn hơi thở. Một Hơi Thở quý Phật tử phải hiểu cũng là trình độ cao nhất của Pháp môn. Nếu quý Phật tử tu hành kỹ lưỡng, thận trọng, cẩn thận, chú ý từng phút, từng giây, từng hơi thở quý Phật tử nhập định dễ dàng.
Ở đây quý Phật tử đừng khởi tâm xem thường Pháp môn tu Một Hơi Thở. Tuy thấy rất dễ dàng, mà nó cũng rất khó vô cùng. Tu Một Hơi Thở rất căn bản cho người tập luyện thiền định. Quý Phật tử ở đây cần phải nhớ kỹ: Tu phải đều đặn, giờ giấc phải giữ gìn nghiêm túc, đừng tu theo một nắng, hai sương, hoặc ham thì tu nhiều, lúc hết tham thì tu ít, tu như vậy khó thành tựu được đạo quả.
(36:33) Trong thời gian tu tập “một” hơi thở, quý Phật tử không được tự ý thay đổi cách tu, mà phải theo đúng lời dạy của Thầy. Nếu thay đổi tu sai hoặc tăng lên hai, ba hơi thở thì đó cũng là tu sai. Quý Phật tử phải biết chỉ tu một hơi thở mà thôi. Chuyên cần và duy nhất theo đúng kiểu cách Thầy hướng dẫn. Còn nếu tự ý ham tu nhiều hơn, làm sai lời dạy của Thầy thì kết quả sẽ không bao giờ có được. Tu lâu ngày sẽ bỏ cuộc thối tâm.
Sau ba tháng chuyên cần tu tập một hơi thở như vậy. Quý Phật tử sẽ đến trình Thầy và trình lại công phu tu hành, Thầy sẽ dạy tiếp.
Quý Phật tử là những người cư sĩ gia duyên rất nhiều, cuộc sống đang nặng trên vai vì thế quý Phật tử nên chọn hai thời buổi tối và buổi khuya. Chọn giờ nào yên tĩnh trong khu vực của mình ở rồi mới tập tu ba mươi phút.
(37:59) Sự tu hành cần thiết nhất là phải cố gắng giữ gìn một hơi thở có chất lượng, không cho một niệm vọng tưởng xen vào trong khi tu tập. Còn hoàn toàn trong khi giờ nghỉ, có vọng tưởng hay không vọng tưởng cũng không sao, đều tốt tất cả. Đừng lúc nào cũng kiềm chế tâm, không cho vọng tưởng khởi là một cách tu vô ý thức, sai lầm. Tu như vậy sẽ không đưa hành giả nhập định được. Chỉ đưa hành giả ở trong trạng thái lưng chừng.
Ở đây quý Phật tử cần phải hiểu rõ chỗ này hơn, sự tu hành của chúng ta không phải diệt vọng tưởng, diệt tác ý. Nếu diệt vọng tưởng, diệt tác ý quý vị sẽ trở thành như cây, như đá, như loài vật, không biết phân biệt dơ sạch, tốt xấu, không biết thiện ác nhân quả, không biết xấu hổ, không tàm quý. Không tác ý là không nhớ, sẽ trở thành con người đần độn, ngu si lẫn lộn, v.v.
Phải hiểu rõ: Ở đây chúng ta tu hành không phải đi tìm các lạc của xúc tưởng, hoặc một cõi giới thiên đàng, hay những thần thông, biến hóa tàng hình cùng biết chuyện quá khứ vị lai của mọi người. Ở đây chúng ta chỉ ức chế vọng tưởng để nhập định, vì có ức chế vọng tưởng mới làm chủ được vọng tưởng.
Vì cuộc sống chúng ta bây giờ đang sống nhiều nhất trong tưởng. Nếu không ức chế làm chủ nó, nó sẽ sai bảo chúng ta chạy theo con đường ác gây nhiều tội lỗi. Nhờ có ức chế và làm chủ được vọng tưởng thì quý Phật tử mới làm chủ được thân và tâm của mình, bây giờ quý Phật tử sẽ không còn làm nô lệ vọng tưởng. Khi không còn nô lệ cho vọng tưởng thì tham, sân, si mạn, nghi của quý Phật tử không còn.
Ở đây Phật tử không cần quán bằng cách này bằng cách khác, mà do sự làm chủ nó nên nó đã triệt tiêu những tâm tham, sân, si, mạn, nghi; bây giờ quý Phật tử giải thoát hoàn toàn.
(41:31) Ở đây quý Phật tử cũng phải hiểu thêm: Đối với pháp môn của quý Phật tử đang tu hành không có diệt vọng tưởng vì vọng tưởng là tâm của quý Phật tử. Hiện giờ tâm thiện hay tâm ác đều là tâm của quý Phật tử. Chỉ có quý Phật tử sử dụng hơi thở để làm chủ nó, sai bảo nó, khiến nó không khởi niệm ác, chấm dứt niệm ác, xa lìa niệm ác vì thế quý Phật tử giải thoát sự đau khổ, sự phiền muộn, sự sân hận. v.v và v.v. Bây giờ tâm quý Phật tử được an vui, hạnh phúc, không còn một đối tượng nào làm chướng ngại, dù trước cái chết của quý Phật tử, quý Phật tử vẫn xem thường và tâm mình vẫn tự tại, an nhiên.
Bây giờ đến quý Phật tử đã có tu thiền:
Bắt đầu, quý Phật tử hãy ngồi kiết già, ngồi thẳng xương sống, mặt nhìn phía trước cách chỗ ngồi tám tấc, hai mắt nhìn chóp mũi, chú ý nơi hai lỗ mũi, chỗ hơi thở ra, vào.
Quý Phật tử chú ý hít vô một hơi thở mạnh và sâu, hít vô đến chừng nào không hít vô được nữa mới thôi, ngực phồng lên, bụng thóp vào, lưng thẳng đứng. Quý Phật tử hãy giữ nguyên tư thế lưng thẳng này rồi từ từ thở ra cho hết. Khi thở ra xong, quý Phật tử bắt đầu hít vô trở lại, hơi thở mạnh và nhanh hơn hơi thở bình thường một chút, nhưng đừng thở sâu như hơi thở ổn định cách ngồi lúc nãy, rồi quý Phật tử thở ra như hơi thở hít vô, hai hơi thở phải bằng nhau, đừng cho hai hơi thở có sự chênh lệch nhau nhiều. Nếu quý Phật tử nào đã được Thầy chọn cho hơi thở thì lấy ngay hơi thở đó tu tập, còn chưa được chọn hơi thở thì sau này Thầy sẽ chọn cho. (44:38)
Khi quý Phật tử thở ra xong đếm “một”.
Đếm “một” xong, quý Phật tử hít vô, thở ra đếm “hai”.
Đếm “hai” xong, quý Phật tử cẩn thận chú ý hơi thở thứ ba, bắt đầu hít vô, thở ra đếm “ba”
Đếm “ba” xong, chú ý hơi thở thứ tư. Bắt đầu hít vô, thở ra đếm “bốn”.
Và cứ như thế, hít vô, thở ra đếm đến một trăm hơi thở, rồi nghỉ mười phút.
Phật tử hãy chú ý: Một trăm hơi thở này hoàn toàn phải ức chế vọng tưởng, không để một niệm vọng tưởng xem vào, được như vậy mới gọi là một trăm hơi thở có chất lượng.
Sau khi hít thở một trăm hơi thở rồi nghỉ mười phút, quý Phật tử vẫn giữ nguyên tư thế ngồi, không được động thân, không được thay đổi vị trí trong thời gian nghỉ mười phút quý Phật tử không được kềm tâm, giữ tâm mà hãy thả lỏng tâm, có vọng tưởng cũng tốt, không vọng tưởng cũng tốt.
(46:05) Trừ khi bị hôn trầm, thì quý Phật tử đứng dậy đi kinh hành, khi đi kinh hành quý Phật tử chú ý bước đi thong thả, nếu hôn trầm nặng đi nhanh, nếu hôn trầm nặng hơn quý Phật tử chạy bộ lúp xúp, đến khi nào xuất mồ hôi mới nghỉ, rồi vào ngồi tu lại.
Ở đây điều cần thiết quý Phật tử phải nhớ kỹ. Khi thời gian nghỉ xả hơi để lấy sức lại, để nhiếp tâm tu lại trong thời công phu kế, nếu quý Phật tử cứ kềm giữ tâm không cho vọng tưởng khởi niệm là cách thức tu sai, vì tu như vậy thời công phu kế sẽ không đủ sức ức chế vọng tưởng, thì vọng tưởng thỉnh thoảng sẽ xen ra, xen vào. Tu như vậy sẽ trở thành định tưởng, không làm chủ được thân tâm, ngã của Phật tử ở trong sự tu tập định tưởng này càng lớn dần lên, và sự đau khổ phiền não lại nhiều hơn nữa. Lúc bấy giờ quý Phật tử bị nhiều kiến chấp như kiến chấp thế gian và kiến chấp Phật pháp. Ở đây quý Phật tử cũng phải hiểu thêm, ức chế vọng tưởng là để nhập định thì phải có giờ, có khắc, có nhập định, có sức định chứ không thể gọi suông là thiền định.
Ở đây quý Phật tử cũng phải hiểu rõ đây không phải là lối thiền tu kềm tâm diệt vọng tưởng bằng cách thực hành nhẹ nhàng trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm ngồi đều thiền, rồi cho trạng thái nhẹ nhàng, an lạc này không vọng tưởng, đi tới đi lui làm tất cả công việc mà không có sự khởi ý, cho đó là ở trong thường định thì đây là lối Tưởng định. Định này không bao giờ có, chỉ có tưởng của quý Phật tử mà thôi.
Nghỉ xong mười phút quý Phật tử tu trở lại một trăm hơi thở, thở ức chế hoàn toàn không vọng tưởng rồi xả nghỉ mười phút. Tu như vậy cho đúng ba mươi phút rồi mới xả nghỉ luôn. Mỗi ngày đêm quý Phật tử phải tùy thời gian của mình mà sắp xếp thời khóa tu tập và giữ gìn đúng giờ đúng khắc, không được trễ giờ trễ khắc. Sau thời gian tu tập ba tháng luôn lúc nào cũng giữ đúng hơi thở không thay đổi và giờ giấc không thay đổi. Quý Phật tử chú ý không được tự ý tăng hơi thở, hoặc thay đổi giờ giấc, chỉ giữ đúng lời dạy của Thầy, Thầy sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm, còn thay đổi là quý Phật tử tự chịu lấy.
(50:12) Nhớ kỹ mỗi thời công phu đều phải ức chế vọng tưởng được tốt, không được lơ là mất tỉnh giác, để một vọng tưởng xen vào trong hơi thở thì tu như vậy không tốt. Tu ba tháng đến gặp Thầy Thầy sẽ dạy tiếp.
Nếu còn có vọng tưởng xen vào trong hơi thở, thì phải về gặp Thầy để ổn định hơi thở lại, Chừng nào nhiếp tâm không vọng tưởng thì mới tu tập. Trong khi tu tập phải cố gắng hết sức tập trung, không phải tu lơ mơ, tu chơi, mà phải tu thật tình, dù khó thế nào quý Phật tử phải cố gắng, “đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Ở đây quý Phật tử phải hiểu khi nào ổn định được hơi thở thì quý Phật tử sẽ nhiếp tâm tu hành dễ dàng không còn có một niệm vọng tưởng, còn chưa ổn định được thì vọng tưởng sẽ ra vào thường xuyên.
Lúc bấy giờ Thầy đang nhập thất làm gương hạnh hướng dẫn quý Thầy nên không trực tiếp hướng dẫn quý Phật tử, đó là một điều kiện rất khó ổn định hơi thở. Vậy quý Phật tử cố gắng tập luyện cho đến khi không còn vọng tưởng xen vào, chừng đó tiếp tục tu ba tháng rồi mới trở về gặp Thầy thưa hỏi.
Chỗ này, quý Phật tử cũng nên để ý trước sự cố gắng hết sức tu trong 100 hơi thở mà không ức chế được vọng tưởng, vẫn còn một hoặc hai lần vọng tưởng rất vi tế xen vào mà quý Phật tử không còn cách nào khắc phục được thì quý Phật tử hãy trở về gặp Thầy, đừng tự ý thay đổi hơi thở hoặc giờ giấc.
Thầy xin nhắc lại: điều quan trọng và cần thiết nhất trên đường tu tập thiền định và rất căn bản là một hơi thở có chất lượng. Người tu một hơi thở cũng như người tu trăm hơi thở, nhập định sẽ giống như nhau, nếu người tu trăm hơi thở mà không có chất lượng thì không thể nhập định được, còn ngược lại người tu một hơi thở mà có chất lượng thì nhập định dễ dàng. Con đường tu hành giải thoát của Đạo Phật rất quan trọng ở chỗ thiền định, nếu không nhập định được thì chẳng bao giờ có Tuệ giải thoát, nếu không Tuệ giải thoát thì quý Phật tử không chấm dứt con đường sanh tử luân hồi và làm chủ thân tâm.
Bây giờ quý Phật tử thấy, mình tu tập một trăm hơi thở mà quý Phật tử vẫn còn vọng tưởng, thì hãy lùi lại tám mươi hơi thở;
Nếu tám mươi hơi thở mà còn có vọng tưởng thì quý Phật tử hãy lùi lại sáu mươi hơi thở.
Nếu tu sáu mươi hơi thở mà còn có vọng tưởng xen vào thì lui lại năm mươi hơi thở.
Nếu năm mươi hơi thở mà còn có vọng tưởng thì lui lại hai mươi hơi thở. Nhưng khi lui lại đến hai mươi hơi thở thì quý Phật tử phải nhớ kỹ nên xả nghỉ năm phút, rồi tiếp tục tu lại.
Nếu quý Phật tử tu hai mươi hơi thở mà còn có vọng tưởng thì lui lại mười hơi thở. Nhưng khi lui lại mười hơi thở thì quý Phật tử chỉ nghỉ một phút mà thôi.
Nếu tu mười hơi thở mà còn có vọng tưởng thì lui lại năm hơi thở.
Nếu tu năm hơi thở mà còn có vọng tưởng thì lui lại ba hơi thở.
Nếu ba hơi thở còn có vọng tưởng thì quý Phật tử lui lại hai hơi thở.
Nếu hai hơi thở còn có vọng tưởng thì lui lại một hơi thở giống như người mới tập thiền định.
Nếu quý Phật tử tu một hơi thở mà còn có vọng tưởng, thì phải hướng tâm nhắc chừng “vô”, tức là hít vô, “ra” tức là thở ra; hoặc nhắc chừng “chú ý” rồi hít vô, “chú ý” rồi thở ra. Hoặc nhắc chừng “tốt” hít vô, hoặc nhắc chừng “tốt” thở ra và cứ nhắc như vậy cho đến hết thời công phu thì vọng tưởng không xen vào được.
(55:29) Chỗ này quý Phật tử cũng cần nên chú ý: “nhắc chừng” ở đây không phải là vọng tưởng mà là hướng tâm chủ động, trong việc làm chủ ức chế vọng tưởng.
Vọng tưởng là những tư niệm vô tình hiện đến, còn hướng tâm là sự chủ ý.
Bởi vậy người đang nhập định hướng tâm về một việc gì thì thông suốt việc ấy. Một người tâm đã thanh tịnh không còn vọng tưởng họ đã hoàn toàn giải thoát, thì lúc bấy giờ họ thường hướng tâm đến mọi sự việc để giải quyết mọi vấn đề. Ở trong sự hướng tâm không có đam mê, không có sự dày vò đau khổ, không có vui mừng lạc thú, không có sân hận thù oán. Không có những ý niệm vô tích sự, không có những chuyện tào lao chẳng buồn, chẳng vui. Hướng tâm là một sự tập trung ý thức vào một vấn đề gì chứ không phải tâm đi lang thang từ ý niệm này đến ý niệm khác.
Hướng tâm là tâm hướng vào một vấn đề gì, còn vọng tưởng thì khởi hết niệm này đến niệm kia không có sự chủ tâm, thường là vô ý. Hiện giờ chúng ta còn là những tâm phàm phu thường có vọng tưởng, nhưng trong các vọng tưởng đó không phải toàn hết là vọng tưởng mà phải biết trong đó có sự hướng tâm, nhưng chúng ta chưa phân biệt được chỉ vì chúng ta chịu ảnh hưởng của những người tu thiền lý thuyết suông, và thiền tưởng rồi đem dạy lại cho chúng ta. Khi có một niệm trong đầu đều cho là vọng tưởng, những người này họ chưa bao giờ nhập định, nên họ chẳng biết sự hướng tâm, vì thế họ dạy thiền chẳng ai nhập định được.
(58:07) Ví dụ chúng ta ngồi lại hướng tâm về một việc gì đã qua mà còn đang dở dang trong hiện tại, đó là hướng tâm tìm mọi biện pháp để giải quyết dứt khoát việc đó khỏi hiện tại, thì không thể gọi đó là vọng tưởng. Chúng ta đang ý thức quan sát một vật gì, hoặc nghiên cứu một việc gì để thấu rõ việc đó, để hoàn thành công việc đó thì đó không phải là vọng tưởng, mà là sự hướng tâm.
Chúng ta phải phân biệt rõ ràng, những ý niệm, tư niệm vô tình hiện đến không có sự chủ ý của chúng ta đó là vọng tưởng. Những ý niệm, tư niệm vô tình hiện đến khiến chúng ta say mê tư duy rồi sanh tâm đam mê, ham thích những tư niệm ấy, hoặc khổ, hoặc vui, hoặc buồn, hoặc không khổ, không vui, không buồn đó là vọng tưởng.
Những ý niệm, tư niệm trong quá khứ không còn dính đến hiện tại, mà hiện đến, đó là những ký ức, hồi tưởng lại thì đó là vọng tưởng. Những ý niệm, tư niệm hướng về tương lai, bằng những sự ước ao, mơ mộng, hi vọng như trúng vé số, thi đậu làm quan, làm vua thì đó là vọng tưởng.
(59:59) Để kết luận bài pháp hôm nay Thầy xin nhắc lại cùng quý Phật tử để quý vị hiểu cho rõ ràng. Chúng ta là những người tu tập theo Đạo Phật, mục đích của chúng ta là phải làm chủ thân và tâm này, là phải được tự tại trong sanh tử, là phải chấm dứt được con đường tái sanh luân hồi. Vậy ngay bây giờ chúng ta phải thấy chúng ta là những người đang tập làm chủ vọng tưởng, cho nên bằng mọi cách, bằng mọi giá chúng ta phải ức chế cho được vọng tưởng. Chứ không thể ngồi chờ cho vọng tưởng hết dần, giặc vọng tưởng không thể nào ngồi chờ mà có thể hết được. Chúng ta phải mạnh dạn đập thẳng vào đầu chúng bằng những đòn sấm sét, bằng những quả đấm thôi sơn, bằng những ý chí kiên cường, bằng những tấm lòng vững chắc, kiên trì, bằng những lòng quyết thắng dũng cảm gan dạ, xem sự chết đối với chúng ta hiện giờ như không có. Chúng ta phải có một tấm lòng sắt đá như vậy thì quý Phật tử mới hoàn thành công việc tu hành của mình, mới thấy được sự làm chủ sanh tử luân hồi trọn vẹn.
Bài Pháp hôm nay đến đây Thầy xin chấm dứt, chừng nào quý Phật tử ổn định hơi thở Thầy sẽ dạy tiếp cách thức ổn định giờ giấc và cách thức nhiếp tâm nhập định.
Bây giờ quý Phật tử cùng Thầy niệm hồi hướng.
“Nguyện đem công đức này
Hồi hướng cho tất cả,
Pháp giới và chúng sanh,
Đều trọn thành Phật đạo”
HẾT BĂNG
PHẬT TỬ CAM RANH 01 - NHỮNG ĐIỀU NGƯỜI PHẬT TỬ CẦN BIẾT
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian:
Thời lượng: [01:24:19]
Tên cũ: Cam Ranh 1-Tâm Thanh thản là không tái sanh
https://thuvienchonnhu.net/phap-am/phat-tu-cam-ranh-01-nhung-dieu-nguoi-phat-tu-can-biet
https://thuvienchonnhu.net/audios/phat-tu-cam-ranh-01-nhung-dieu-nguoi-phat-tu-can-biet.mp3
(00:00)* Trưởng lão:* Ở gần bên Thầy hạnh phúc lắm mấy con, an ổn lắm, không sợ gì nữa hết. Đau bệnh chết mình còn không sợ thì còn sợ lo cái thứ gì nữa, có đúng không? Đời nay người ta chỉ lo sợ đau bệnh và chết mà mình bây giờ đau bệnh, chết không có lo gì. Thì thanh thản, an lạc, vô sự thì còn gì lo. Cho nên mấy con sẽ ở yên đó, mấy con thấy hạnh phúc lắm!
Còn bây giờ mấy con có duyên mấy con tu thêm để làm chủ được sự sống chết, chết tự tại rồi chơi vậy thôi. Rồi mấy con còn có thì giờ mà mấy con còn sống thêm thì mấy con sử dụng Tam Minh để xem vũ trụ đồ chơi, để biết quá khứ, cái chuyện đó chuyện chơi chứ đâu phải là chuyện thật. Mà chuyện thật chỉ có thanh thản, an lạc, vô sự thôi. Có nhiêu đó thôi, cái bí quyết là cái chỗ đó thôi, không có gì hết.
Mà nếu mà không tu thì tới đó nó không giữ nổi đâu, cái nghiệp nó mạnh hơn thì nó lôi mấy con tứ tung. Mà nếu mấy con ráng mấy con tập thì nó đủ cái lực thì nó lôi không nổi, thì do đó mấy con sẽ thắng. Nhớ hằng ngày mấy con nỗ lực mấy con tập như vậy thì Thầy tin rằng mấy con sẽ thanh thản tới giờ phút chết.
(01:07) Bởi vì có nhiều cụ ở ngoài Hà Nội họ lớn tuổi. Họ chín mươi mấy tuổi, bảy mươi mấy tuổi họ sắp chết. Đều là khi đó con cái gửi thư vào cho Thầy, thì Thầy viết bức thư hoặc Thầy thu một đoạn băng nhắc nhở đem về cho cụ nghe. Tức khắc ngay liền để cụ giữ tâm mình bất động trước cái sự đau khổ của thân cụ sắp hoại diệt. Như vậy là mấy cụ nỗ lực chết êm re các con. Nghĩa là khi chết rồi con cái gửi thư: “Mẹ con chết rất êm, không có thấy khổ đau, không có thấy lăn lộn. Bà cứ giữ tâm thanh thản, kiên trì ôm cái pháp đó mà thấy thanh thản, không có khổ đau nữa. Thành ra cuối cùng thì bà ra đi tụi con thấy rất là êm chứ không phải như cụ ông hồi trước đau khổ hết sức rồi mới chịu chết. Còn bà êm re bà ra đi rất êm”. Nhờ phương pháp của Phật quá tuyệt vời mấy con.
Vì vậy mà Thầy thấy mấy cụ không còn tái sanh nữa. Lúc nào, bây giờ cũng ở trong chỗ trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự, giải thoát. Mặc dù là cuộc đời vì con vì chồng các cụ rất là cực khổ mấy con, làm nhiều việc ác. Nhưng mà cuối cùng được duyên Phật pháp mấy cụ giữ được tâm bất động của mình thanh thản, an lạc chuyển hóa tất cả những nghiệp.
Một cái pháp đó mà chuyển tất cả nghiệp nhiều đời của chúng ta. Nhưng chúng ta biết cách tu tập và niềm tin của chúng ta tức là Tín Lực. Các cụ nhờ lòng tin thôi, chứ chưa có tu tập gì nhiều nhưng mà nhờ lòng tin, tin theo Thầy, cho nên khi được nghe lời Thầy, được bức thư Thầy con cháu đọc các cụ tin cho nên ôm chặt. Mà khi ôm chặt pháp rồi thì cơn đau mà sắp sửa chết nó giảm đi mấy con. Bởi vì Tín Lực hàng đầu của đạo Phật mà, cái lòng tin, cho nên các cụ được là nhờ lòng tin và Thầy cũng biết gợi đúng lòng tin đó cho nên cứu được các cụ. Chớ không khéo thì kể như cũng bị trôi lăn trong đau khổ mà thôi, không có gì khác.
(03:04) Vì hôm nay con có duyên về đây thì Thầy biết sự vô thường không phải như cháu kia còn trẻ là nói tôi còn sống dai, không phải đâu! Đùng một cái mấy con cũng sẽ biết vô thường sẽ chết không kịp đâu. Cho nên chuẩn bị hết khi biết được Phật pháp và chúng ta chuẩn bị còn sống một giây, một giờ, một ngày chúng ta chuẩn bị pháp đó để cho nó có một nội lực để khi (cái chết nó đến).
Cũng như bây giờ đặt vấn đề gặp tai nạn giao thông xảy đến cái rầm ngay liền chúng ta bất động liền chẳng sợ, bởi vì chúng ta đã từng tác ý câu đó rồi, cho nên khi mà nó vừa ra thì nó làm cho chúng ta hoảng hồn hết biết, lúc bấy giờ chúng ta “Tâm thanh thản, an lạc, vô sự”. Khi thấy cái xe kia chạy ngay mình một cái là “Tâm thanh thản, an lạc, vô sự” chẳng sợ, ngay đó tâm bất động liền, hoàn toàn không run sợ, nó không mất, chứ nó hết hồn đó con! Con hiểu không?
Cho nên vì vậy những cái này là cái thình lình nó mất hồn. Đột ngột mà mình không chuẩn bị trước, mình không tỉnh thức trước, bất ngờ nó đụng một cái rầm hồn vía mình mất hết, hết biết cho nên mình chuẩn bị, khi thấy điều kiện sắp sửa xảy ra thì tác ý ngay liền: “Tâm thanh thản, an lạc, vô sự, tất cả đều vô thường, nhân quả không sợ”, do đó cái tâm nó vững vàng. Đụng cái rầm chết thanh thản, an lạc, vô sự hạnh phúc lắm mấy con!
Thân này mà có gì đâu, nó đâu phải của mình đâu. Các con thấy nó không thật phải của mình. Tại sao…? Nếu là của mình thì mình sai nó được chứ, phải không? Của nhân quả, cho nên nó đau mình bảo nó đừng có đau nó đâu có nghe mình đâu. Phải không? Còn cái tâm này đâu phải của mình đâu. Nó giận, bảo nó đừng có giận nó đâu có nghe đâu, có đúng không? Nó đâu phải của mình đâu, nó là của nhân quả.
Cái người tu người ta làm chủ lại nó là tại vì người ta cướp lại của nhân quả người ta làm chủ lại nó. Cũng như bây giờ Thầy muốn chết chết, muốn sống sống, đó là cái thân của Thầy là thân của nhân quả rồi. Hồi nào tới giờ nhân quả nó sai nhưng bây giờ Thầy đuổi giặc nhân quả, Thầy chuyển nhân quả đi, cho nên thành cái thân bây giờ nó mới thuộc của Thầy đó. Thầy sai nó được, các con hiểu chưa? Thật sự ra đức Phật nói: "Thân này không phải là ta, không phải của ta, không phải là bản ngã của ta". Không có gì của mình hết, nó của nhân quả. Nhưng một người tu rồi làm chủ lại nó, tức là bây giờ nó là vật của mình sai rồi, nó cũng không phải của mình đâu nhưng mà mình sai được, mình bảo được.
(05:19) Đó là cách thức tu mấy con. Nỗ lực đi, Thầy tin rằng mấy con người nào cũng làm được hết. Cháu nhỏ kia cũng làm được chứ không phải không. Mà nếu mà nó bỏ mình đi tu đó thì nữa sau này nó làm trụ cốt giải thoát, cho nên ráng đi con! Thật sự ráng còn nhỏ học hành sau đó mình có duyên được nghe Pháp. Có một lần nhớ lại trong cuộc đời của mình theo những bác, chú đến đây gặp Thầy cũng là một cái duyên. Cho nên do đó sau khi mà cuộc đời có nhiều cám dỗ thì các con nhớ đến Thầy, nhớ đến cái ngày nào còn bé mấy con đến Tu viện này, cái hướng của mình là hướng muốn giải thoát ra cái đau khổ cuộc đời. Cho nên nhiều khi những hình ảnh, những cái duyên như vậy nhắc mấy con, làm cho nó thoát ra khổ cuộc đời của nó. Bây giờ thì cái duyên không có gì đâu nhưng mà nhờ đó mà sau này nó có cái duyên tu mấy con.
Cho nên mấy con nhớ kỹ lời Thầy, Thầy đem hết tâm huyết của Thầy. Những cái gì mà Thầy đã làm được thì nói hết để cho mấy con vừa sách tấn vừa khích lệ cho mấy con. Mấy con cố gắng mà tu lấy. Phật pháp thì sẵn sàng giúp đỡ mọi người hết không bỏ một người nào. Nhưng còn điều kiện của mấy con, mấy con phải làm.
Thôi xong rồi phải không?
(06:41) Hồi nãy chú Thanh Quang có gởi hai cuộn băng cũng nhờ con sau này sang lại cho chú cái băng và Chú đi qua đi lại Chú nghe Thầy giảng. Chú muốn có cái tài liệu để nghe. Con nhớ con sang giùm Chú khi mà con còn ở lại.
Bây giờ mấy con có còn hỏi gì Thầy nữa không?
Đúng vậy còn hỏi Thầy sẽ trả lời!
(07:10) Bây giờ thầy trả lời câu hỏi đó của mấy con. Phật tử trong đất nước Việt Nam chúng ta có hai giới Phật tử. Một cái giới Phật tử theo ông bà mình đi chùa rồi bắt đầu ông bà mình chết rồi mình cũng tiếp tục theo cái thói quen đến chùa thôi, chứ không quy y với ai hết. Nhưng mà cũng kính trọng Phật, kính trọng Thầy, kính trọng Pháp (lời của Phật dạy), cũng kính trọng nhưng mà vẫn theo nề nếp, theo phong tục di truyền của ông bà của mình. Hồi đi chùa bây giờ con cháu cũng dẫn tới, dẫn lui, giờ quen rồi lớn lên cũng đến để cúng trong chùa vậy thôi. Chứ còn hiểu thêm về quy y với ông thầy nào thì không có quy y. Đó là giới Phật tử gọi là do di truyền, truyền thống của dân tộc chúng ta gọi hầu hết là Phật tử đó đông.
Còn có một số Phật tử đến chùa rồi họ xin quy y họ viết tên họ. Sau đó ở trong chùa ông thầy đó đại diện cho ba Ngôi Tam Bảo. Rồi ông mới làm cái điệp phái ghi tên họ. Cho điệp phái ký tên, đóng dấu trong đó rồi về treo đó. Rồi cũng đến chùa cúng bái, tụng niệm. Cũng có nhiều khi tụng kinh ở trong chùa chiền chiều bữa nào cũng đến tụng kinh thì đó là Phật tử quy y. Nghĩa là Phật tử mà ông thầy đó nắm. Nắm cái số Phật tử đó là đệ tử của chùa mình.
Còn cái kia người ta muốn đến là người ta đến còn không đến thì thôi, không có quyền gì hết. Và đồng thời thì những cái người mà quy y như vậy đó thì thường mà ở trong chùa họ muốn làm cái gì đó, họ cất chùa thì họ kêu mấy người có giấy tờ đóng góp cất chùa, còn Phật tử và đi theo di truyền thì họ không có nắm, họ không có biết đâu họ kêu. Cho nên đến cúng được nhiêu hay nhiêu thôi chứ họ không kêu. Đó cũng là Phật tử, nhưng Phật tử theo truyền thống.
Còn Phật tử mà có giấy tờ đó là Phật tử chính của ông thầy đó, của chùa đó. Cho nên Phật tử này gánh nặng lắm mấy con. Gánh nặng cho Chùa đó lắm. Hở ra cái gì đó: ông cúng giỗ, cúng bái hay làm lễ gì thì cái nhóm Phật tử này còng lưng mà chịu chung số tiền này. Đó là cái số Phật tử thuận thành. Cho nên hầu hết là ở các chùa Thầy thấy Phật tử mà đã được quy y rồi họ tổ chức như gia đình Phật tử, họ tổ chức Ban hộ đạo. Để làm gì? Họ chỉ cần nắm cái người đầu tiên mà trong cái tổ chức đó, gọi người này thì người này kêu hết nhóm Phật tử này đóng góp. Hễ làm gì đó họ kêu đóng góp, đi đâu đó họ kêu mướn xe, mướn cộ thế nào… Cái ông Trưởng Ban, Phó Ban hộ đạo này ông chịu hết mấy cái vấn đề này. Đó là những Phật tử có giấy tờ đó.
Còn trái lại, đúng theo tinh thần của đạo Phật thì Phật tử theo truyền thống của ông bà cũng như Phật tử mà được quy y có giấy tờ với mục đích chính của đạo Phật là dù người đó đến chùa, đến chùa thôi, theo truyền thống của ông bà và người được trực tiếp quy y có giấy tờ đều được hướng dẫn như nhau, hướng dẫn cách sống đạo đức.
(10:26) Cho nên cái ông thầy ở trong chùa đó có nhiệm vụ, không có nghĩa là kêu gọi những người Phật tử này cúng dường mà dạy họ những điều kiện cần thiết để cho họ sống một đời sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Như năm giới chưa đủ mình phải dạy. Và năm giới họ chưa sống trọn vẹn thì mình tìm cách khuyến khích họ, nói lên những đạo đức.
Ví dụ như giới sát sinh. Mặc dù là con thấy có nhiều người vô chùa họ đã thọ năm giới không sát sinh rồi chứ gì? Thế mà họ vẫn ăn thịt chúng sinh, họ vẫn đi bắt cá như thường. Có nhiều Phật tử họ lại mở tiệm bán phở, bán cơm mặn đủ thứ, chứ chưa hẳn. Họ cũng Phật tử, thay vì họ mở tiệm cơm chay thì cũng không nói gì, thậm chí có người lại mở tiệm rượu nhậu nhẹt nữa, vừa mình bán rượu cho người ta mà vừa ông chồng ở quán cũng uống rượu.
Đó là những cái thọ là thọ nhưng mà sự thật ra họ không nghiêm chỉnh. Cho nên ông thầy ông chỉ làm cho có hình thức giấy tờ để dễ dàng. Khi làm như vậy có cuốn sổ mấy con, có ghi tên họ, pháp danh của mấy con. Cho nên vì vậy khi cần lật sổ này ra thì ông sẽ kêu mấy con không trật người nào hết đâu. Phải không mấy con? Thầy là một tu sĩ ở chùa Thầy biết mà, Thầy biết rất rõ điều đó. Cho nên ở đây cái cần thiết mấy con quy y có giấy tờ cũng tốt mà không giấy tờ cũng tốt. Miễn con chọn đến một vị thầy, con thưa hỏi vị thầy đó.
(12:03) Cái người tu sĩ mà hoàn toàn biết thương người khác đau khổ, hoàn cảnh gia đình con như thế nào, xảy ra đau khổ thế này. Con đến với chùa nơi con thường đến lạy Phật, Phật không nói được điều gì giải khổ con được. Con lạy thì an ủi tinh thần con thôi chứ đức Phật không cứu khổ gia đình con được mà chính ông thầy mới là người cứu khổ gia đình con. Nghĩa là hoàn cảnh con rối ren con khổ quá. Thì lúc bấy giờ con đến con tâm sự trình bày với ông thầy. Ông thầy hướng dẫn đúng chánh pháp của Phật. Con thấy cởi mở tâm hồn con liền. Ông thầy như một ông cha của mình. Cho nên khi mà quy y có giấy tờ hẳn hòi đàng hoàng con là một người đệ tử cũng như một đứa con, cho nên ông luôn luôn, bởi vì cái tình cảm.
Ngay khi mà con nhận cái giấy cái tình cảm con thấy mình như là một người thân của ông. Cho nên có những nỗi khổ gì thì ông là một người cha giúp cho mình vượt qua những cái khổ đó. Cho nên mình đến mình thưa hỏi và thưa hỏi để học hỏi, thưa để học đạo đức, thưa hỏi để học kiến thức sống thì ông thầy đó mới chính ông thầy của mình. Và người đó mới là người đại diện cấp giấy tờ cho mình, con hiểu không?
Còn nếu mà con theo truyền thống mà đi đó thì nhiều khi nó không có sự gắn bó với nhau. Có khi con dám hỏi mà có khi con không dám, con hiểu không? Còn khi có giấy tờ rồi thì đương nhiên thầy trò coi như là gắn bó với nhau cho nên con dám hỏi, dám thưa những điều này, điều kia. Con thấy đó là nó có một cái dây nối liền với nhau. Thưa hỏi để làm gì? Thưa hỏi để học hỏi những gì mà đức Phật đã dạy. Các con là Phật tử chưa biết mà ông thầy là cái người đã thông hiểu. Và ông thầy là người sống được những đức hạnh đó, họ là cái gương hạnh cho mình.
Chẳng hạn, ví dụ như bây giờ con gặp những cái khó khăn nào đó như con mất chiếc xe đi, con bị ăn trộm lấy chiếc xe mà con dùng để đi làm, mà bây giờ trời ơi mất cái xe coi như là cụt cái chân của mình rồi khổ sở quá. Bây giờ sáng phải ra ô tô buýt mà đi đến sở làm thấy nó khổ, mà mất xe thì nó tiếc vô cùng tận. Do đó, khi đó thì bỗng dưng nhớ đến thầy mình, thầy mình chẳng có gì hết, ông còn "ba y một bát", ông không còn quần áo nhiều để mặc như mình, mình sao mất chiếc xe mà buồn, nhớ đến Thầy, nhớ đến sự buông xả của thầy thì con thấy bớt đi sự đau khổ mất xe của con liền. Con hiểu chỗ đó chưa?
(14:35) Cho nên khi mà quy y nó có giấy tờ nó cũng lợi, là vì nhờ cái đó gắn bó thầy trò với nhau để mà thưa hỏi những điều kiện gì cần thiết. Chẳng hạn nào nó có cái tình với nhau lắm. Chẳng hạn bây giờ con đến thăm không phải Thầy đòi hỏi áo quần này kia con sắm cho Thầy, không kêu gọi con cúng dường cái gì hết. Nhưng thấy Thầy rách cái áo, các con về thăm Thầy thấy cái áo Thầy rách các con xin cúng dường Thầy, các con hiểu điều đó không? Do đó nó có cái tình nghĩa với nhau.
Bây giờ trong hoàn cảnh gia đình con khổ, nó thường nó thấy mình như thế này, bởi vì người tu sĩ họ không có gia đình. Tất cả đệ tử của họ là gia đình của họ đó, con hiểu không? Cho nên từ cái tình cảm nhỏ mọn mà các con thấy, tình cảm nhỏ nhặt đó nó gây cái tình sâu lắm mấy con, con trao cho Thầy cái áo khi mà Thầy bỏ cái áo rách của Thầy bận lên cái áo của con nó nhớ cái tình của con lắm. Do đó, khi nghe cái sự đau khổ của gia đình con thì ông thầy tìm cách giúp cho con để cho con được thanh thản, con hiểu không, nó khác chút. Nó lấy cái đại gia đình của Phật giáo làm chung.
Cho nên các con biết có những cụ ở Hà Nội họ cũng vừa biết Thầy thôi, họ cũng chưa được Thầy làm lễ xuất gia. Nhưng mà cái niềm tin của họ có, vì con của họ đã xuất gia với Thầy thôi. Mà nói đến đây là người mẹ của người đệ tử của mình rồi thì đương nhiên là cái người thân của mình, giúp bà làm sao bà vượt thoát được sự đau khổ mà nghiệp lực đang hoành hành bà, các con hiểu không?
Đó là như vậy, rõ ràng là đứa con xuất gia làm đệ tử của Thầy thì cả những người thân của họ cũng đều nhờ công ơn của Thầy, con hiểu không? An ủi nhau để giúp nhau trên cuộc đời đầy đau khổ của sự sống kiếp người sinh, già, bệnh, chết là khó ai thoát khỏi điều này. Cho nên được Thầy, được trò, được sống một đại gia đình của Phật giáo như vậy là hạnh phúc vô cùng mấy con.
Cho nên mấy con không gặp Thầy, gặp Thầy rồi thì bắt đầu bây giờ chưa quy y nhưng mà mấy con chỉ nhắc cái tên Thầy nhớ có lần nó đến chùa mình, bây giờ hoàn cảnh con khó khăn mình thương nó, giúp đỡ nó những ý kiến để nó vượt qua khó khăn. Còn bắt đầu bây giờ mấy con quy y Thầy làm sao quên được mấy con! À hôm đó con về con quy y, hôm nay hoàn cảnh con gặp khó khăn mong Thầy dạy cho con cách nào để thoát ra. Lúc bấy giờ Thầy sẵn sàng Thầy giúp mấy con chứ Thầy đâu có bỏ mấy con đâu.
Con hiểu chỗ đó không? Đó là quy y thật sự, nó lợi ích lắm. Bởi vì các con tìm đến những bậc chân tu thì người ta thật sự người ta đem cái tình thương, lòng đại từ, đại bi của họ thương mấy con. Bởi vì họ biết mấy con khổ lắm. Khổ vì gia đình, khổ vì bản thân cho nên họ rất là thương. Còn trái lại mấy con thương Thầy là vì Thầy sống cái hạnh, cái hạnh mà ngoài đời khó làm. Cũng như con nghĩ mình ăn ba bữa mà Thầy ăn một bữa được. Các con hiểu điều đó không? Nhưng mà vì cái hạnh của Thầy thì không được ăn nhiều bữa đâu. Nhưng mà Thầy thấy được cái sự giải thoát nơi cái hạnh đó. Còn mấy con không thấy cho nên mấy con thấy Thầy khổ cực.
Thầy bận áo rách mấy con thấy Thầy mấy con thương, nhưng mà con không ngờ là cái mặc áo rách của Thầy là cái để giải thoát nơi thân Thầy. Mấy con không hiểu nhưng mà Thầy hiểu. Nhưng mà mấy con vì cái hiểu theo cái tình cảm của mấy con thấy Thầy mặc áo rách, cái tình của mấy con thấy Thầy, thương Thầy. Mấy con hiểu điều đó. Tự nhiên mình phải có tình cảm như vậy, nó gắn bó như vậy mấy con.
Cho nên ở đời các con thấy mình từ lâu đến giờ con không quy y với ai hết là tại vì cái duyên mình chưa gặp. Nhưng mà khi mình gặp mình quy y rồi mình thấy, mình quy y rồi mình chọn lấy một vị thầy chân tu, một vị thầy tu hành thực sự, mình thấy được tình cảm của vị thầy đó đối với mình như một người cha, như một mẹ hiền đối với con. Họ rất thương mấy con. Rồi mấy con sẽ gần gũi, mấy con sẽ trở thành những đứa con của họ, những đứa con ngoan. Mấy con rất thương Thầy và Thầy cũng rất thương mấy con, cái tình cảm sâu sắc nhau ở chỗ đó. Gần gũi lần lượt chia sẻ nhau trên pháp Phật, bởi vì cái nền đạo đức nhân bản nhân quả, đạo đức không làm khổ mình, khổ người, chia sẻ nhau từng chút, từng li, không để nhau cho khổ.
(18:57) Cho nên quy y là điều đó tốt, có giấy tờ cũng tốt mà không giấy tờ cũng tốt. Nhưng mà có giấy tờ để làm bằng chứng để mà nhớ nhau, để mà có sự liên hệ nhau, sự giúp đỡ nhau. Rồi thì mấy con có cần hỏi thầy gì nữa không?
Rồi Thầy hiểu rồi. Để Thầy giải thích cho hiểu.
(19:30) Bởi vì, cũng như hồi nãy Thầy đã nói cha mẹ cùng đến chùa, ông bà cùng đến chùa, con cái vẫn theo đến chùa, đó là một Phật tử theo truyền thống. Cho nên một Phật tử theo truyền thống chứ tại sao người ta không đi nhà thờ mà người ta đi chùa. Thì mình cho người ta vong linh chứ không phải là Phật tử, phải không?
Đó là truyền thống, họ cũng vẫn là đệ tử của chùa đó. Tại vì cái xóm họ ở đây có cái chùa ở đây, mà họ không đi lại cái nhà thờ, mà họ cứ lại cái chùa. Tại vì ông bà, cha mẹ người ta cứ đến chùa lạy Phật, rồi con cháu người ta cũng vẫn vô đây, người ta không dẫn vào nhà thờ, người ta không có giấy tờ gì hết, nhưng mà đó là Phật tử truyền thống. Những người đó là những người truyền thống của cả dân tộc.
Cái nền đạo đức dân tộc là đạo đức Phật giáo đó mấy con. Truyền thống rất là tuyệt vời. Từ cha ông người ta truyền với nhau đến bây giờ người ta không giấy tờ của ông thầy, thay vì ông cố, ông nội của mình đã quy y với ông thầy nào ở cái chùa đó. Bây giờ ông bà, cha mẹ, cứ dẫn mình vào chùa thôi, cái truyền thống người ta lâu đời lắm chứ không phải là không có đâu.
Nếu mà trước kia, ông cố người ta không có được quy y chùa đó chắc họ không đến chùa đâu, con hiểu chỗ này không? Cho nên đừng có gọi vong linh mà gọi là Phật tử nó mới đúng đó. Nghĩa là con đến chùa được gọi con là Phật tử. Trừ ra con đến nhà thờ rồi con đến chùa thì không được gọi Phật tử, bởi vì con có tôn giáo khác, con nhớ không?
Con đến chùa con lạy Phật, con cung kính thầy trong chùa là đủ rồi con! Cho nên Đạo Phật có nói như thế nào con biết không? Mấy ông thầy nói như thế là sai: “Tự quy y Phật, tự quy y Pháp, tự quy y Tăng”. Tự quy y chứ đâu phải mà có ai quy y tôi đâu. Tại vì cái tinh thần của tôi thấy Phật tôi kính trọng, tôi thích đến chùa đó là tự quy y Phật, quy y Pháp rồi con hiểu chưa? Cho nên không có được gọi con là vong linh suông đâu mà gọi con là Phật tử mới đúng đó.
Còn người ta quy y để mà có giấy tờ, cũng như bây giờ con đến chùa con cũng thấy sao mọi người viết tên họ xin quy y. Thôi mình cũng xin quy y với thầy đi. Tức là từ đây về sau con mới có ông thầy của mình. Chân chính rồi đó. Còn hồi đó con chỉ biết đến chùa kính trọng Thầy vậy thôi nhưng chưa hẳn ông là Thầy của con. Nhưng mà khi ông thầy đó đứng ra quy y cho con rồi thì đó chính là ông thầy của con, là ông cha thứ hai đó, con hiểu không? Trách nhiệm ông nặng lắm đó chứ không phải là nhẹ đâu.
(21:52) Khi mà ông chấp nhận quy y cho con là ông phải chịu trách nhiệm. Con có gì mà con khóc là ông phải dỗ con, đừng để cho khóc chứ không phải thường đâu! Nên đạo Phật có cái đạo đức lắm mấy con! Cho nên cái người thầy họ nói như vậy là họ không hiểu Phật tử truyền thống. Phật tử truyền thống là tại vì dân tộc của chúng ta đã có cái Phật giáo trở thành truyền thống dân tộc, mình phải hiểu mà, các con đọc lịch sử có phải không? Phật giáo của mình lâu đời lắm. Bây giờ tôi đến chùa tôi lạy Phật chớ tôi không có quy y với ai hết nhưng tôi là Phật tử truyền thống đó, cho nên gọi là Phật tử. Đừng có nói tôi không phải Phật tử.
Trong khi đó con có quy y, con không quy y là tất cả những phật tử trong chùa này đều có bổn phận hộ niệm con hết, chứ đừng có nói bỏ. Nhưng mà phải biết phân loại, Phật tử có giấy tờ và Phật tử không giấy tờ, đó biết phân loại. Nhưng mà Phật tử có giấy tờ đó thì nắm được trong cái chùa này khi mà Mặt trận hoặc khi Ban tôn giáo hỏi chùa này có bao nhiêu Phật tử? Mà nói về Phật tử truyền thống thì tôi nói không biết, bởi vì không có giấy tờ nên tôi không biết mấy người này được. Nhưng họ cũng vẫn đến chùa tôi lạy Phật, cho nên tôi không biết. Mình phải trả lời với họ mà, với Nhà nước.
Còn trái lại với Phật tử mà tôi biết là có giấy tờ tôi có quy y. Bây giờ từ một trăm hay hai trăm người tôi biết, có giấy tờ đàng hoàng đưa ra cho họ nắm. Còn Phật tử truyền thống từ ông bà, cha mẹ họ đi chùa rồi bây giờ họ cũng đi chùa lạy Phật, tôi không nắm họ được đâu. Nhưng mà có con số này đông lắm. Số Phật tử mà có giấy tờ thì ít lắm, cái số mà Phật tử truyền thống thôi.
Tại sao như vậy mấy con biết không? Tại vì với cái tinh thần, với cái nghĩ, cái hiểu biết của họ, họ không có thấy ông thầy đó quy y. Cho nên họ không quy y mà họ chỉ muốn đến chùa. Chứ nếu mà ông thầy tu đúng giới hạnh hẳn hòi, dù sao đi nữa con đến chùa vài lần con mến ông thầy đó liền, con muốn con làm đệ tử của Phật, con hiểu chưa? Thành ra con muốn con làm Phật tử truyền thống chứ con không muốn quy y là tại vì ông thầy đó có vợ, có con, ăn uống phi thời sống không đúng, có phải đúng không? Tự mình thấy ông Thầy sống không đúng mình đâu có muốn ông làm thầy mình đâu, mà mình muốn đến chùa lạy Phật thôi. Mình không muốn ông làm thầy mình.
Nhưng mà con thấy ông thầy đó bình thường là người ta có cái nhìn mấy con người ta muốn quy y với ông thầy đó. Ông thầy đó có trong hàng giáo phẩm, phải làm Hòa thượng, rồi phải làm hàng giáo phẩm, Thượng tọa, cách thức giảng sư này kia, đi phải rầm rộ xe trước xe sau. Bây giờ mình làm đệ tử của ông thầy này cũng oai lắm chứ. Cho nên người ta theo mấy ông đó quy y chứ không phải không đâu. Ông này là Phó Tăng Thống, ông này là Chủ tịch Phật giáo, thì bắt đầu thấy ông đó có đệ tử quy y đông không? Là tại vì người ta thấy cái danh của ông ta.
Còn mấy con mà tìm một cái vị mà tu hành đạo đức để theo thì thật ra mấy con khó quá. Cho nên những chùa xa xa ở quê các con tìm thầy khó lắm, cho nên mấy con không muốn làm đệ tử mấy ông thầy đó, hiểu chưa? Thầy nói như vậy mà mấy con rõ.
(25:23) Thật sự ra thì quy y nhiều ông thầy được thì tại vì mình cứ thấy ông thầy này, ông thầy khác mình quy y, chứ sự thật ra quy y là quy y Tam bảo chứ không phải quy y ông thầy, phải không? Mấy con thấy không? Tam Bảo. Bởi vì đạo Phật hay, không có quy y với ông thầy mà cũng không quy y dưới một ông Chúa hoặc ông Phật, mà ông Phật bắt mình phải quy y ba ngôi Tam Bảo. Đó là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, có kèm theo ông Tăng trong đó. Mà bây giờ bữa nay mình quy y ông Tăng này mai mình quy y ông Tăng khác, quy y Tăng sao nhiều quá vậy mà quy y ông Phật có một ông thôi, thì nó trật mấy con.
Ví dụ bây giờ như mấy con quy y với một vị thầy nào đó mà ông thầy đại diện cho ba ngôi tam bảo Phật, Pháp, Tăng. Ông làm lễ cho mấy con, rồi cho mấy con điệp phái. Bây giờ mấy con đến mấy con muốn quy y với Thầy thì khi mà quy y rồi thì Thầy sẽ hỏi mấy con, mấy con có hiểu về năm giới. Khi quy y Tam bảo thì phải thọ năm giới, thì tức là Thầy hỏi con có hiểu không? Mấy con không hiểu thì Thầy dạy thêm. Bởi vì mấy con đã quy y, Phật, Pháp, Tăng rồi mà.
Bây giờ người ta đã cho pháp danh đó, tên gì đó thì mấy con cứ nhận điều đó đi. Bây giờ đến với Thầy thì con khỏi cần quy y, tại sao Vậy? Đã quy y: Phật, Pháp rồi mà, đâu cần có ông thầy đại diện, chứ đâu phải quy y cho ông thầy đó đâu. Cho nên bây giờ mấy con đến gặp Thầy thì Thầy chỉ cần hướng dẫn cách thức tu mà thôi. Thầy cũng xem như Thầy là thầy của mấy con, khi mấy con có ý muốn quy y với Thầy, thì như vậy Thầy hướng dẫn.
Còn bây giờ con hồi nào con quy y với vị thầy đó, mà vị thầy đó thì con cũng kính trọng thấy đó là thầy của con. Nhưng mà thầy đó con thấy như không có chỉ dạy con cách thức tu hành gì hết hoặc là chỉ dạy con cúng bái, cầu siêu, cầu an. Bây giờ con đọc kinh sách con thấy nó không có đúng với cái ước muốn của con. Cho nên bây giờ con muốn con quy y với Thầy, để Thầy chỉ dạy cho con cách thức sống như thế nào đúng đạo đức. Chứ đừng có sống trong cúng bái, cầu siêu, cầu an mê tín như vậy. Mong thầy chỉ dạy con cách thức. Phải quy y lại hay không quy y? Thì Thầy sẽ hướng và bây giờ các con sẽ như thế nào thế nào, cần thì Thầy sẽ quy y lại cho mấy con. Từ đây về sau nhất định chỉ có: Phật, Pháp, Tăng, đúng như vậy, sống đạo đức như vậy, thắp đuốc lên mà đi như vậy chứ không có được làm mê tín, nhảm nhí tầm bậy, tầm bạ.
Nghĩa là Thầy cấm mấy con không được làm, thay vì hồi nào tới giờ ở trong nhà mấy con hay đốt tiền vàng mã. Bây giờ Thầy cấm không được. Hồi nào tới giờ mấy con mỗi lần có làm tuần, làm tự thì dán kho, dán quần áo đem đốt. Thì Thầy cấm không cho làm chuyện đó nữa. Ở dây không làm chuyện nhảm nhí tốn tiền đó đâu. Thậm chí mua xe gắn máy, tủ lạnh bằng giấy đem lại đốt cho ông bà xài, chuyện đó Thầy cấm luôn không cho.
Bắt đầu bây giờ Thầy dạy cách thức mấy con sống. Thế giới siêu hình không có, chết là tiếp tục tái sinh. Thầy hướng dẫn cho mấy con sống đúng cách, đúng những lời Phật dạy. Kể từ đó coi như là mấy con nên theo Thầy để học tập tu không còn làm những chuyện mê tín đó nữa, dẹp hết ba chuyện mê tín đó.
(28:32) Bắt đầu bây giờ thay vì ngày mấy con phải tốn hết một cây hương. Ít ra một cây hương để mà thắp trên bàn thờ Phật, hôm nay đối với Thầy không thắp cây hương nữa. Hàng ngày thắp cây hương giải thoát nơi tâm mấy con, chắp tay lên trước bàn Phật, nghiêm chỉnh mặc áo dài, áo rộng đàng hoàng, chắp tay lên thắp năm cây hương “Giới hương, Định hương, Giữ Huệ hương, giải thoát, giải thoát, Tri Kiến hương” các con thắp cây hương tâm giải thoát.
Một ngày mấy con nhịn người ta, người ta chửi mấy con mấy con không giận. Chiều mấy con chắp tay lên, hôm nay con thắp hương giải thoát mong đức Phật chứng minh cho con. Con đã đền đáp công ơn Phật bằng cách con không biết giận người ta nữa. Mà ngày nào mấy con cũng đem công đức thắp cây hương lên Thầy tin rằng suốt đời con không biết giận ai nữa hết, phải không?
Mới đầu thì còn giận giận chứ sau mấy con thắp hương riết như vậy kiểu đó thì con sẽ không giận nữa. Bởi vì hàng ngày mình dâng lên cái sự mà không tham, sân, si của mình, cúng Phật mà. Bởi vì đó là hương giải thoát mà. Mà mấy con cứ dâng cúng như vậy đâu cần gì đốt cây hương bằng vỏ cây, phải không? Nhưng nó thanh tịnh lắm mấy con! Đó là cách thức mà mấy con có tốn tiền mua hương không? Không tốn tiền cắc nào hết mà mình lại thắp hương rất là tuyệt vời. Đó là phá đi cái mê tín của mình. Nhưng trong khi anh em ruột thịt của mình còn trong cái truyền thống thắp cây hương thì ngày Giỗ, ngày Tết mấy con không có được quyền không thắp hương hay bài bác người ta, cây hương là tượng trưng cho cái lòng thương nhớ của người ta.
Bây giờ người ta còn cái niềm tin đó thì con không được bác, các con hiểu chưa? Người ta thắp hương nhưng mà mình không thắp hương, mình chắp tay lên mình dâng cái lòng tôn kính của mình đối với ông bà tổ tiên của mình trong ngày ông bà mất, ngày Giỗ, ngày Tết, phải không? Người ta thắp hương, gia đình mình thắp hương ông bà hoặc cô bác, anh chị em mình thắp hương, mặc không nói ai hết, họ thắp hương tượng trưng cái lòng của họ.
Nhưng mà thắp hương để cầu linh hồn ông bà, cha mẹ về phù hộ thì bác liền, phải không? Thắp hương mà cầu kiểu này không có được. Ông bà phù hộ kiểu này, mình đi ăn trộm cũng phù hộ cho mình đừng bỏ tù thì chắc chắn là xã hội náo loạn hết, không được. Cho nên mình bác luôn. Không được, mấy người đừng kêu ai phù hộ, chính mình phù hộ mình. Mình làm thiện mình phù hộ mình chứ gì. Nhắc nhở họ vậy.
Cắm hương thì đốt hương mình không nói nhưng mà phải thực hiện tinh thần tư tưởng khi mà cắm cây hương đó. Còn mình biết nó nhảm nhí, tốn tiền mình không thắp. Chắp tay lên mình đem những cái điều mà mình làm tốt cho gia đình của mình. Không có làm cái điều mà mất uy tín cho ông bà, cha mẹ của mình trong cái ngày giỗ, ngày chạp mình dâng lên sự cúng dường. Con cái học giỏi làm cho gia đình của mình thẳng tiến, mình đem cái hương đó mình thắp lên, nói lên con cháu ngày nay đã làm xứng đáng cho gia đình, cho tổ tiên. Đó mình thắp cây hương. Tâm nguyện của mình như thế nào thì đó là cái hương tâm của mình.
Mấy con nhớ không có tốn tiền mấy con. Nhưng mà mấy con không được bác ai hết, nhớ kỹ người ta thắp hương nhưng mình khéo dẫn dắt họ cho đi vào con đường chánh tín thôi. Thắp cây hương tượng trưng cho lòng hiếu thảo, lòng biết ơn.
Có gì không con? Có gì con, bây giờ tới giờ rồi?
(32:00) Khi mà người chết vừa tắt thở thì cái nghiệp của họ nó tương ưng ở trong bào thai liền. Còn tất cả những điều kiện, hiện tượng mà con thấy đó là hiện tượng của cái tưởng của người xung quanh đó chứ không phải là cái người chết đó còn. Tất cả những điều kiện mà xảy ra là những người còn sống đang ở đó là cái tưởng uẩn của họ nó hoạt động qua cái niềm tin họ như thế giới linh hồn, như thế này, thế kia thì hoàn toàn là cái tưởng của mọi người còn sống đó, nó hoạt động qua những cái điều kiện đó thôi chứ không phải là người chết đó còn ở đó.
Bởi vì thầy nói khi mà nó chưa tương ưng được nó nằm đây nó hô hốp, nó không chết đâu. Mà khi nó tương ưng được, tức là nó có cái bào thai rồi làm một đứa con. Cái bào thai trong bụng mẹ rồi thì ngay đó tắt thở liền. Còn chưa có được cái bào thai, chưa có cái trứng nước ở trong bào thai thì nó nằm đấy thoi thóp. Cho nên con thấy có nhiều người họ nằm họ thoi thóp họ chờ, họ chờ để cho nó đúng cái điểm của nó, cho nó vừa ở bên kia có một cái thân xác thì bên đây nó tắt thở.
Cái nhân quả nó là cái ngọn đuốc. Cái đuốc này vừa tắt thì cái đuốc kia nó cháy lên liền, nó không có kẽ hở. Nó không phải bốn mươi chín ngày để cầu siêu, cầu an của Đại thừa đâu, nó là sai mấy con. Nhân quả nó để như vậy là có khoảng hở đó nhân quả nó tác động ngay. Bởi vì cái thân của chúng ta nhân quả sai chúng ta hằng ngày: Giận hờn, phiền não, ham muốn cái này, cái kia đủ thứ mà bây giờ nó chết, cái này để kẻ hở nói sai ai mà tham muốn đây? Nó đâu có. Cho nên khi đó nó vừa bên cái thân này nó tắt thở thì nó có cái thân mới để cho nó sai rồi. Cái thằng chủ nhân quả này nó khôn lắm nó đâu nó đâu có để cho chúng ta ngồi không đâu. Cho nên nó có cái thân mới.
Mà khi mình ở trong cái bào thai mình có thọ khổ không? Có khổ chứ đâu phải không khổ. Nó chật ních ở trong đó chứ bộ nó rộng, phải không? Ăn, uống, cách thức này kia, khi mình lọt qua bên đây là nó khổ rồi. Còn tất cả những hiện tượng mà xảy ra là do chính những người đang sống đó mà nó có cái phần hoạt động về cái hình ảnh siêu hình mà chúng ta tưởng thế giới siêu hình. Ở trong người chúng ta có cái điều kiện đó, con hiểu chưa?
Có gì không con? Tới giờ thọ trai rồi hả con? Thôi nghỉ
(34:28) Như vậy là buổi chiều hai giờ Thầy đến trong một hai tiếng đồng hồ để trả lời mấy con. Phải rồi, phải ở lại đây rồi tập thử, nghĩa là mình tập có thích nghi không? Coi mình tập nếu mà nó chưa có thích nghi được thì mình về mình tập từ từ. Đạo Phật phải tu tập bằng cách thích nghi cơ thể và tâm của mình chứ không phải ức chế và gò bó nó không được. Muốn làm Phật mau không có được đâu. Cho nên phải tập từ từ mấy con!
(35:20) Nó cũng giúp cho chúng ta hiểu biết một cách rất cụ thể, rõ ràng. Nhất là những pháp hành. Mà nếu cái pháp hành hỏi kỹ rồi tu tập thực hành, rồi còn được phải xem xét trắc nghiệm lại coi sự tụ tập đó có đúng hay chưa nữa. Chứ không phải mình hiểu rồi mình tu tập là đúng đâu, nó còn tập sai trong đó mà cái hiểu của mình chưa có được chính xác. Cho nên khi hiểu là một lẽ nhưng mà khi hành là một cái điều kiện.
Cho nên trong khi tu tập thì luôn luôn mình gần gũi với thiện hữu tri thức trong giai đoạn đầu để Người xem xét cái hành động tập tu của mình có đúng hay chưa? Nếu chưa thì Người sửa lại cho mình đúng. Mà nếu đúng thì mình tu tập tiếp tục tốt.
Nó có kết quả trong từng giây, từng phút của sự tu tập. Nếu mà tu sai một chút thì nó sẽ không có kết quả mà nó còn có tai hại mà nó gây cho mình bị rối loạn cơ thể, tức là bị bệnh trong cơ thể. Nhất là tập trung sai thì nó bị bệnh thần kinh, nó làm rối loạn thần kinh. Về hơi thở nếu mà vận dụng hơi thở sai thì nó rối loạn hô hấp. Nếu nó rối loạn hô hấp thì nó lâu ngày thì nó cũng ảnh hưởng đến tim của mình, nhịp tim đập của mình. Cho nên nó có thể nó làm tu sai gây rất tai hại cho cơ thể của mình. Vì vậy mà khi tu tập dù một pháp môn nào thì cũng nên được vị thầy thiện hữu tri thức hướng dẫn kỹ lưỡng trong giai đoạn đầu tu tập. Chứ đừng nghĩ rằng mình nghe hiểu rồi mình tu là đúng, không phải đâu. Nó không đơn giản.
(37:03) Cho nên hầu hết sau một thời gian hướng dẫn cho mọi người đệ tử của Thầy ở đây, Thầy mới biết rằng họ hiểu là một lẽ nhưng hành là một cái lẽ nó không được đúng đắn như là Thầy hướng dẫn. Cho nên ngôn ngữ không thể diễn tả được hết cái ý nghĩ của sự tu tập. Nó chỉ nói cái nghĩa như vậy nhưng người hiểu như thế này, kẻ hiểu như thế khác. Cho nên biến ra hành động mình nó vẫn bị sai.
Vì vậy mà từ lâu con đường của đạo Phật đã truyền thừa quá lâu mà đến hôm nay chúng ta thấy rằng con đường thiền định của Phật là con đường “Thiền Xả Tâm”. Thế mà người ta tu mãi ức chế tâm. Đó là tại vì tu sai mà không biết, không được thiện hữu tri thức có kinh nghiệm hướng dẫn, cho nên càng lúc lại càng đi xa con đường của đạo Phật làm mất đi dấu vết thực hành, cái phương pháp giải thoát của đạo Phật. Và cả làm mất luôn cái nền đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình, khổ người cũng bị mất luôn.
Đến hôm nay, nhờ cái phước duyên của chúng sanh mà Thầy đã nổ công tu tập để được kết quả giải thoát như hôm nay. Và đồng thời, triển khai lại cái nền đạo đức của Phật giáo làm cho con người có một cách sống, một lối sống không làm khổ mình, khổ người. Thật may mắn cho con người trên hành tinh này trong thế kỷ của chúng ta. Vậy thì từ đây về sau quý Phật tử cố gắng đừng để làm mất một lần nữa. Và mất một lần nữa biết còn có ai khơi dậy lại ngọn đèn Chánh pháp, ngọn đèn đạo đức này nữa hay không? Rồi mãi mãi những con người trên hành tinh này sẽ ra sao? Sống ra sao? Hay là để tự nó hoại diệt lấy nó? Thật là đáng thương. Thật là đau khổ, phải không các con!
Cho nên từ nay về sau các con cố gắng đem hết sức mình vì bản thân của mình, vì nỗi khổ của mình, và vì con cháu của chúng ta, và vì những sự sống trên hành tinh này các con phải cố gắng, cố gắng hết mình. Cũng như Thầy cố gắng, cố gắng hết mình đem lại sức mòn mỏi tuổi già yếu của mình. Vẫn một niềm ước vọng làm sao đem lại một nền đạo đức cho con người trên hành tinh này, biến cõi sống trên hành tinh này thành Thiên Đàng, Cực Lạc từng phút, từng giây, cho từng người, từng sự sống.
(39:41) Vậy thì các con, quý Phật tử có những điều gì cần thưa hỏi thì thưa hỏi cho kỹ. Chúng ta không biết Phật pháp mà thôi, khi đã biết Phật pháp thì phải biết cho thật, hiểu cho thật rõ ràng, cho kỹ lưỡng, cho hẳn hòi. Đừng hiểu lơ mơ rồi truyền thừa lại người khác làm lệch con đường của Phật thì rất tội cho Phật pháp. Vậy mấy con ai có gì cứ hỏi Thầy.
Dù bất cứ một điều gì Thầy sẵn sàng trả lời cho các con. Hiện giờ có nhiều điều Thầy trả lời các con chưa hiểu, nhưng ngày mai các con cũng sẽ hiểu. Thầy tin rằng lần lượt những gì chưa hiểu rồi các con sẽ hiểu. Thậm chí như cả thế giới siêu hình từ lâu mọi người trên hành tinh này đều không biết nó có hay không? Nhưng hiện tượng của nó xảy ra, người ta đều cho rằng có thế giới siêu hình. Nhưng hôm nay Thầy nói rằng không có thế giới siêu hình mà có những trạng thái siêu hình từ Thức Uẩn của chúng ta tạo ra. Nhưng Thầy tin rằng một ngày nào đó các con sẽ thấy điều Thầy nói là chân thật không sai. Nhưng hôm nay thì mấy con còn bán tín bán nghi, nhưng chắc chắn cái gì thật là thật, chân lý là chân lý không thể nào chân lý là không phải chân lý được.
(41:15) Những gì Đức Phật nói ngày xưa là chân lý, đến ngày nay vẫn đúng như vậy, không có sai. Và lời hôm nay Thầy nói cho đến hàng ngàn năm sau, tỷ năm sau vẫn là như vậy không thể thay đổi được. Vậy thì các con cứ yên tâm mà hỏi, bởi vì xung quanh chúng ta có nhiều cái sai. Trên hành tinh này thường xuyên xuất hiện những bậc đầy đủ trí tuệ để lại cho chúng ta, giúp chúng ta hiểu, hiểu như thật. Đó là những người đã hy sinh sự sống của mình, đã hy sinh cuộc đời mình để đem lại sự an vui cho mọi người.
Ví dụ như đức Phật, Ngài bỏ sự sung sướng giàu sang, vợ đẹp con xinh. Ngài tu tập gần như chết, khổ hạnh sáu năm, Ngài để lại một gia tài cho chúng ta ngày nay. Công ơn ấy vô cùng không làm sao chúng ta đền đáp công ơn ấy được. Vì hôm nay được nghe lời Thầy nói những điều lợi ích mà đức Phật đã để lại cho chúng ta, chúng ta thấy mình là những đứa con được duyên phước mà đức Phật để lại Chánh pháp như thế này. Biết được như thế này còn biết bao nhiêu anh chị em của chúng ta chưa hiểu, chưa biết và chưa được nghe nữa.
Thế mà chúng ta được nghe, được hiểu biết như thế này thì chúng ta phải ráng cố gắng học, tu tập như thế nào để may ra chúng ta làm tấm gương cho những người xung quanh chúng ta thấy được để họ giảm bớt sự đau khổ chính họ đang mang trên vai, trên đầu, cổ họ mà họ không biết cách nào buông bỏ.
Vậy các Phật tử các con hãy cố gắng. Cố gắng cùng Thầy để làm tấm gương. Chứ chúng ta chưa có điều kiện gì mà nói họ nghe cả, nhưng chúng ta hãy làm tấm gương giải thoát để giúp cho họ thấy được cái gương phản chiếu giải thoát đó. Họ biết cách từ bỏ những điều mà họ chưa hiểu. Do đó họ mang sự đau khổ mà họ không bỏ được.
(43:52) Cho nên hôm nay mấy con cứ thẳng thắng mà hỏi Thầy. Dù trong thời gian Thầy rất bận nhiều công việc nhưng Thầy vẫn dành cho mấy con buổi sáng, buổi chiều. Mấy con biết trong giờ khắc mấy con nghỉ thì Thầy phải làm việc, làm việc rất nhiều. Để có những cuốn sách, để những điều mà con chưa hiểu rồi các con sẽ hiểu. Để giúp cho con đường của Phật giáo càng ngày càng sáng tỏ hơn, lối đi càng ngày càng dễ dàng hơn. Để giúp cho các con bước đi một cách vững vàng mà không sợ lạc lối nữa. Cho nên từng cuốn sách của Thầy ra đời là từng giọt mồ hôi nước mắt của Thầy đổ xuống nói lên một sự thật, nhắc lại một điều sự thật mà những người đã qua họ đã để lại cho chúng ta.
Vừa rồi Thầy cho ra đời bộ Giới hành của người đầu tiên bước chân vào đạo Phật. Chúng ta đọc chúng ta rất xúc động, xúc động gia đình của đức Phật. Con cái, vợ con của đức Phật ngày xưa thì chúng ta nhìn lại chúng ta hiện giờ cũng vậy, chúng ta cũng có vợ, có con. Chúng ta thử nghĩ tâm trạng của đức Phật và tâm trạng của vợ con mình trong khi người chồng đi tu. Và ở nhà vợ của Đức Phật ở nhà sống như thế nào để tỏ lòng chung thủy với chồng.
Chúng ta đọc đến chỗ bà Da Du Đà La khi đức Phật ăn mặc xấu ba y một bát, ăn ngày một bữa thì ở nhà bà Da Du Đà La cũng sống ngày một bữa. Có người vợ nào mà sống được với chồng chung thủy như vậy không mấy con?
Cuộc đời này khó quá. Chồng đi tu ăn ngày một bữa, vợ ở nhà vẫn ăn ngày ba bữa như thường hoặc là vợ đi tu vào đây ăn ngày một bữa thì chồng ở nhà vẫn say sưa, rượu chè, chưa có chia sẻ những nỗi niềm cùng nhau. Thầy thấy đọc đoạn sử này, Thầy nhìn lại các cư sĩ các con lòng chung thủy của mình có không? Gia đình của đạo Phật đẹp quá, chồng đi tu vợ không tu nhưng chồng làm những gì thì vợ ở nhà vẫn làm đúng cái điều đó.
Các con có đọc cuốn “Mười Giới Đức Thánh Sa Di tập 2” thì các con sẽ xúc động khi đức Phật trở về. Với tình cảm của người phụ nữ khi gặp chồng mười năm cách xa trở về các con biết lòng họ như thế nào không? Thầy muốn diễn tả hết nỗi lòng đó nhưng ngòi bút của mình không đủ để nói lên. Nhưng cũng vẫn làm cho mấy con đọc xúc động. Một đứa con xa cha từ khi mới sinh đến mười năm sau, mười tuổi mới thấy mặt nhau. Chẳng biết mặt cha mình là ai. Thế nên mấy con thấy những người cao quý tuyệt vời vì mọi người, vì sự sống con người bỏ cả thương yêu gia đình của mình.
Hôm nay nhắc lại chúng ta thấy thương cảm vô cùng. Như vậy chúng ta phải làm sao cho xứng đáng với tình thương của đức Phật. Ngài đã bỏ hết để đem lại sự an vui, hạnh phúc cho chúng ta. Để đem lại Chánh pháp cho chúng ta làm chủ được sinh, già, bệnh, chết. Để đem lại cho chúng ta Giáo pháp chấm dứt tái sinh luân hồi làm người. Ơn ấy không ai, không có gì đổi được. Ơn ấy vô cùng to lớn đối với mọi chúng ta khi chúng ta biết được Phật pháp. Hôm nay Thầy kêu gọi nhắc nhở mấy con đánh thức tình cảm của mấy con sống dậy để nhớ ơn của một con người, một vĩ nhân đưa ra bốn chân lý của loài người.
(47:42) Mà chúng ta nếu không có đức Phật cuộc đời chúng ta bơ vơ và chúng ta không còn lối đi. Không còn biết đường nào để cứu mình ra khỏi sự đau khổ của kiếp người nếu không có Ngài. Thầy cũng chỉ là theo đường lối và vết đi của Ngài, Thầy cũng không đặt ra được con đường này nổi. May mắn lắm là Thầy đã đi đúng đường. May mắn thay, đủ phước duyên thay Thầy trở về với con đường Nguyên Thủy, với những câu pháp hướng Như Lý Tác Ý mà thành tựu được đạo giải thoát.
Thì hôm nay buổi sáng Thầy đã hướng dẫn mấy con những cốt tủy của pháp tu tập. Chỉ có phương pháp “Như Lý Tác Ý” mà tác ý những câu thực tế để thực hiện được tâm hồn giải thoát của mình ngay liền trong khi tu tập nó. Các con nhớ kỹ. Và hằng ngày như câu thần chú, những điều tâm niệm luôn luôn khắc ghi trong lòng. Đừng quên những câu này, nó là những phương pháp cứu cánh đời của mấy con thoát ra khỏi đau khổ kiếp làm người. Thầy trao cho các con những bí quyết chỉ giúp cho các con không còn đau khổ trong kiếp sống này nữa. Vậy các con nhớ gì? Hôm nay phải nhớ những điều gì, mấy con sẽ không còn ở đây mấy hôm nữa, ngày mai mấy con trở về quê mình thì cứ hỏi những điều gì cho cặn kẽ để Thầy hướng dẫn cho. Mấy con cứ hỏi đi!
(49:52) Thật sự ra thì với người cư sĩ mà đi đến kết quả cứu cánh hoàn toàn được như Thầy, tức là “Nhập Thiền Định Chứng Tam Minh”. Thì trong chiếc áo người cư sĩ còn bao nhiêu gia duyên, còn bao nhiêu trách nhiệm, bổn phận đạo đức làm người thì các con không thể nào đến đạt được mục đích cao đó được. Nhưng trong chiếc áo cư sĩ, trong mọi gia duyên của các con có những phương pháp giúp các con sống được giải thoát, được an vui, biết xả tâm của mình, biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. Có phương pháp giúp cho các con sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Ở mức độ tâm bất động chứ không thể đi vào thiền định, thực hiện Tam Minh được.
Vì người cư sĩ còn trách nhiệm, còn gia duyên phải làm mọi công việc không thể như người tu sĩ. Chỉ có người tu sĩ, xuất gia, cắt ái ly gia, từ bỏ gia đình sống không nhà cửa mới thực hiện được thiền định sâu màu. Không thế nào để cư sĩ vừa làm vừa nuôi con, vừa giúp gia đình mình, vừa an ủi những người thân trong gia đình của mình mà thực hiện được giải thoát vì đó là ái kiết sử.
Ái kiết sử tức là những sợi dây thương yêu ràng rịt cái bổn phận trách nhiệm, đạo đức của một con người đối với gia đình, xã hội. Thì không thể nào mà chúng ta hoàn toàn được giải thoát như Phật, như Thầy được. Cho nên chỉ chẳng qua chúng ta phải sống đạo đức để dọn đường cho đến khi đủ duyên thuận tiện, chúng ta mặc dù không cạo tóc, không mặc áo tu sĩ nhưng chúng ta phải sống một đời sống như Phật, như Thầy. Vì giới luật là phương pháp đầu tiên mà cuộc sống không đúng thì tu pháp gì cũng không được.
(52:00) Cuộc sống mà không ly gia cắt ái thì không thực hiện được sâu màu. Cho nên với người cư sĩ chỉ có sống tu tập hướng tâm, dẫn tâm vào đạo đức nhân quả không làm khổ mình, khổ người thì cũng được giải thoát. Giúp cho tâm bất động thì cũng hạnh phúc lắm rồi. Không có gì khác hơn được nữa. Cho nên không thể nào thực hiện một người cư sĩ, thực hiện rốt ráo được như Thầy. Bởi vì đối với một người tu sĩ, để được rốt ráo họ bỏ, hết bỏ sạch như Thầy nói, chỉ còn lại ba y một bát, trắng bạch như vỏ ốc phóng khoáng như hư không, không nhà không cửa thì rày đây mai đó, du tăng khất sĩ. Đi xin ăn, bữa đói, bữa no. Không được đầy đủ như người sống trong gia đình.
Các con biết đời sống của người tu sĩ thì không thể nào là đời sống của người cư sĩ được. Họ hoàn toàn, nếu đứng góc độ cuộc đời của người cư sĩ thì đời sống của người tu sĩ là rất khổ, khổ mà vui trong cái khổ của họ. Hạnh phúc trong cái khổ đó để mà tìm lấy con đường giải thoát vì vậy mà thiền định mới sâu.
(53:20) Ví dụ ba y một bát mưa gió mà ướt hết bộ đồ như thế này thì đành phải chịu ướt át suốt đêm và cả ngày. Không được quyền ở trần ở truồng mà phải mặc, mà mặc đồ ướt thì liệu sức của người cư sĩ các con chịu được không? Mà tu sĩ phải chấp nhận điều đó. Còn bữa đi xin ăn có thì no, bữa xin ăn không có thì phải chịu đói.
Thậm chí như ngày xưa La Hầu La là đứa con trai của Phật đi xuất gia theo Phật tu hành. Đi xin ăn người ta thấy tuổi trẻ còn nhỏ người ta không cho cơm ngon mà người ta cho cơm lại ngựa ăn, cơm xấu. Do đó chú bé con nhà giàu, con vua chúa mà ăn cơm vậy Chú ăn không được. Chú ngồi Chú khóc. Đọc lại những trang sử rất đau lòng, nhưng thầy Bổn sư của chú bé là Xá Lợi Phất: “Con phải nhẫn nhục, mình là người tu buông xả hết, không cần ăn ngon, cái gì ăn sống là ăn”. Cho nên bữa có người ta cho mình cái gì ăn được cứ ăn, sống. Không chê, không khen, không đòi hỏi. Đó là hạnh “Ly dục ly ác pháp” mà con người tu sĩ của đạo Phật chấp nhận.
Một người tu sĩ đạo Phật không thể để dành tiền gửi ngân hàng rồi lần lượt lấy lời đem về sống mà tu. Tu kiểu đó không bao giờ đạt được mục đích giải thoát. Cho nên có nhiều người nghĩ rằng mình có của để dành từng đó mình ngồi không mình tu. Ngồi không tu cũng chẳng tới đâu. Cho nên rất khó mấy con! Vì vậy cái vai trò, phương pháp của người cư sĩ là phải tu theo phương pháp của người cư sĩ. Không thể tu theo phương pháp người tu sĩ được.
Rồi giai đoạn thứ nhất của người cư sĩ sống đúng đức hạnh để tâm bất động. Tiếp đến giai đoạn thứ hai là phải tu như thế nào cho đúng cái hạnh của người cư sĩ. Chẳng hạn, bây giờ mấy con tu tập đứng trước cái ác pháp tâm mấy con nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng.
Kế đó mấy con mấy bước qua một giai đoạn thứ hai, mấy con phải sống ăn, ngủ và độc cư các con thấy rõ. Đầu tiên thì Thầy nói: “Nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng” trước ác pháp đó là cư sĩ. Kế đó sau khi thấy tâm mình bất động trước hoàn cảnh gia đình, xã hội tiếp xúc với mọi người thấy được thì bắt đầu bước thêm một cái giai đoạn thứ hai. Giai đoạn thứ hai phải sống nhẫn nhục, mình phải sống ăn ngày một bữa, phải sống ngủ đúng giờ, phải sống trầm lặng, độc cư một mình. Đây là ba cái hạnh sống của một giai đoạn thứ hai.
Nếu mà sống được giai đoạn này, thì tất cả các pháp tu hành nó không giống như các pháp tu hành của người cư sĩ trong giai đoạn thứ nhất. Đó là từng bước, từng bước như vậy. Bởi vì đạo Phật có lớp lang và thứ lớp, từ cái thấp bước đến cái cao, từ chiếc áo người cư sĩ chuyển qua chiếc áo của người tu sĩ đều có những cái giai đoạn tu tập cụ thể, rõ ràng.
Giới luật của người cư sĩ không phải giới luật của người tu sĩ nó khác nhau, nó không giống nhau. Cho nên người cư sĩ chỉ có thọ Bát Quan Trai, sống một ngày một đêm, hai mươi bốn tiếng đồng hồ hoặc hai ngày hai đêm, rồi những ngày khác hoàn toàn sống trong giới luật của người cư sĩ chứ không thể nào luôn luôn thọ Bát Quan Trai.
(57:01) Thọ Bát Quan Trai là phương pháp để giúp cho người cư sĩ tập làm tu sĩ chứ chưa phải tu sĩ. Vì có tập làm tu sĩ mới sống giới luật của người tu sĩ thì mới có đạt được thiền định và Tam Minh. Đó là giai đoạn cao hơn, sâu hơn. Còn giai đoạn của người cư sĩ chỉ có ở trạng thái bất động tâm, nhập được bất động tâm định. Các con thấy, đạo Phật nó rõ ràng chứ không phải người cư sĩ cũng kiến tánh cũng thành Phật. Người cư sĩ cũng làm được như người tu sĩ nhưng người cư sĩ mà muốn làm được như người tu sĩ, là phải sống như người tu sĩ, không phải ở chỗ chiếc áo, cái đầu mà chỗ cái hạnh sống.
Cho nên người cư sĩ vẫn còn mặc áo của người cư sĩ nhưng phải cắt ái ly gia, nhưng phải sống như người tu sĩ. Giới luật nghiêm túc hẳn hòi. 250 giới đâu ra đó, còn nữ thì phải 348 giới không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào và đồng thời thực hiện những pháp cao hơn, sâu hơn của ngươi cư sĩ.
Đó thì bắt đầu mấy con đọc sách Thầy thì mấy con cứ tu. Tu sĩ cũng giống như cư sĩ. Nhưng mà không ngờ là cái hạnh sống của các con, của người cư sĩ nó không giống của người tu sĩ. Các con về các con cũng nói mình ở trong gia đình ăn ngày một bữa. Không ngờ ăn ngày một bữa với con đã làm rối loạn cả gia đình mình hết. Ví dụ như chồng ăn ngày một bữa, vợ con buồn khổ, thấy cha ăn vậy lo lắng mất sức khỏe của cha, các con thấy chưa? Mà vợ đi tu, ăn ngày một bữa về nhà cũng tập tu đi kinh hành không ngó ngàng gì tới chồng con nữa, thì chồng con buồn khổ nó làm rối loạn gia đình, không hạnh phúc.
Cho nên trong gia đình cư sĩ chỉ nên tu đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Biết sống nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trong mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng mà thôi. Đó là cách thức tu của người cư sĩ. Vậy thì mấy con hỏi Thầy thêm gì nữa không?
(59:10) Như trong kinh Tương Ưng đức Phật đã dạy rất rõ ràng. Vì đức Phật chỉ cho chúng ta thấy chúng ta tương ưng chỗ nào thì chúng ta cứ bỏ thân này là chúng ta sẽ ở chỗ đó. Hiện giờ tâm chúng ta còn tham, sân, si, phiền não. Thì chúng ta còn tham, sân, si tức là tương ứng với những người còn tham, sân, si. Khi chết thì chúng ta phải làm con cái của những người còn tham, sân, si. Khi chúng ta hết tham, sân, si thì trạng thái không tham, sân, si có chứ không phải không?
Hiện giờ tâm chúng ta còn có tham, sân, si, cho nên chúng ta không nhận thấy được trạng thái không tham, sân, si. Khi tâm chúng ta hết tham, sân, si nó có một trạng thái không tham, sân, si hiện ra. Vì vậy trạng thái không tham, sân, si, tức là trạng thái tâm bất động.
Hiện giờ quý Phật tử ngồi lại chỉ trong vòng một giây, năm mười phút là đã có từng niệm khởi. Tâm còn động chưa phải là bất động. Do tâm còn động cho nên không có thấy trạng thái bất động được. Vì vậy, tâm còn động tức là tâm còn tham, sân, si. Mà tâm còn tham, sân, si khi chết thì chúng ta tương ưng nơi đâu có tham, sân, si thì sẽ tái sinh chỗ đó.
Còn trái lại tâm chúng ta không tham, sân, si tức là tâm bất động. Tâm bất động chúng ta hiện đang sống, còn thân này chúng ta vẫn nhận ra được trạng thái đó, trạng thái không tham, sân, si. Bây giờ các Phật tử chưa ai nhận ra được trạng thái không tham, sân, si là tại vì tâm mình còn tham, sân, si. Cho nên người tu giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh hằng ngày tức là tâm chúng ta còn tham, sân, si thì sẽ còn những móng niệm ham muốn cái này, cái kia. Vì vậy mà người tu sĩ hằng ngày dừng những cái niệm đó. Dừng những cái niệm đó không có nghĩa là ức chế nó mà chúng ta dừng nó bằng cái tri kiến giải thoát, bằng phương pháp thực sự để hóa giải những niệm đó. Làm cho những niệm đó lìa ra.
Ví dụ như bây giờ Thầy nói để cho thấy được chỗ mà lìa những cái niệm. Bây giờ ngồi đây mà khởi muốn ăn một cái bánh, muốn uống một ly nước ngọt hoặc là muốn ăn cơm. Nó khởi sự nó muốn ăn thì nếu mà chúng ta đi lấy cơm, lấy bánh hoặc lấy nước uống thì đó là chúng ta không ly dục ăn, dục uống. Còn chúng ta không chấp nhận đúng giờ là ăn mà không đúng giờ nhất định là không ăn và khi mà giữ gìn đúng như vậy tức là ta ly dục. Và cuối cùng thì thân và tâm chúng ta sẽ quen đi. Không có ăn uống phi thời như vậy tức là chúng ta ly được dục ăn, và ly được dục ăn mà thân chúng ta quen thì không thấy đói giờ đó.
Cũng như buổi sáng hoặc buổi chiều thì không thấy đói, thậm chí như buổi trưa mà chúng ta vẫn giữ được tâm ly dục, cho nên trạng thái an lạc hiện ra chỗ tâm ly dục. Vậy thay vì buổi trưa ăn ngày một bữa cho tới trưa mai mình mới ăn. Tới trưa thì đói chết, mình cảm thấy đói lắm. Nhưng trái lại một người mà có cái trạng thái ly dục thì họ không còn thấy đói nữa, họ không còn thèm ăn nữa. Nhưng tới giờ họ ăn là ăn chứ thật ra họ không phải vì đói, vì thèm cái thực phẩm ngon dở mà ăn. Nó khác xa lạ, nó không còn giống như chúng ta còn mang tâm dục, tâm thích ăn, nó đói, nó thèm ăn.
(01:02:48) Còn đằng này nó đã hết, nó ly dục, nó hết thèm, nó không muốn ăn. Nhưng họ biết ăn để sống. Họ nhàm chán, họ biết được từng thực phẩm là bất tịnh. Cho nên họ đem cái bất tịnh để nuôi cái bất tịnh trong thân của họ, họ nhàm chán. Họ khác xa chúng ta rất nhiều. Vì vậy khi chúng ta đã ly dục ly ác pháp có một cái trạng thái, trạng thái đó là chúng ta nếm được mùi vị giải thoát. Mùi vị giải thoát đó nó giúp cho thân chúng ta làm chúng ta không thấy đói khát. Và cơ thể chúng ta do cái chỗ mà an lạc của cái thân sung mãn đó, do cơ thể chúng ta không bị đau bệnh và không bị đói khát nữa. Nó vẫn khỏe mạnh bình thường của một người tu tập, của một người biết xả tâm biết ly dục, ly ác pháp.
Cho nên cái trạng thái mà gọi là mùi vị giải thoát thì hầu hết các Phật tử mới hiểu biết thì chưa ai nếm được mùi vị. Cũng như có người nói cái bánh này rất ngon mà chưa từng được ăn miếng bánh cho nên mình không biết nó ngon cỡ nào, ngọt như thế nào, béo như thế nào, cay như thế nào, đắng như thế nào thì mình chưa biết. Nhưng một người đã ly dục, ly ác pháp rồi người ta biết được cái bánh đó. Do khi ly dục, ly ác pháp rồi thì người ta biết khi bỏ thân này thì người ta trở về cái chỗ đó rồi, đó là cái chỗ mà chúng ta về. Thực tế là chúng ta đã biết. Còn bây giờ tâm mình còn dục mình chưa biết. Chưa ly, cho nên mình chưa biết, khi mà mình tập ly chút chút thì mình thấy nó hiện ra. Nó hiện ra như thế nào khi mình ly được?
(01:04:28) Ví dụ như mười phần mình ly được 5 phần thì nó hiện ra trong vòng 5 phút, 10 phút rồi nó mất. Bởi vì mình còn dục cho nên nó có hiện ra, nó hiện ra mình thấy an lạc thật. Rồi nó lại mất nó không kéo dài được và cố gắng mình ly nữa thì nó lại kéo dài thêm ra. Thêm ra từ một giờ rồi hai giờ rồi nó mất, nó không được kéo dài nữa thì mình biết tâm mình ly chưa hết. Cố gắng tập ly nữa, tập hoài, tập cho đến khi 24 tiếng đồng hồ như đức Phật đã nói: “Trong mười hai tiếng đồng hồ Nhất Dạ Hiền một đêm làm Thánh hiền”, tức là mười hai tiếng đồng hồ ở trong trạng thái an lạc đó, ở trong trạng thái ly dục, ly bất thiện pháp đó. Hay nói là trong trạng thái tâm không phóng dật thì lúc bấy giờ đó là một trạng thái mà khi chúng ta bỏ thân này thì chúng ta ở đó. Vì nó sẽ tương ưng chỗ không tham, sân, si. Cho nên chỗ đó là chỗ chư Phật đang ở.
Vì một người mà nhập Tứ thiền thì người ta cũng ở trong trạng thái bất động đó mà người ta muốn gặp đức Phật Thích Ca thì ngay trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự đó, cái trạng thái an ổn đó người ta vừa muốn gặp Đức Phật Thích Ca thì hình ảnh của đức Phật Thích Ca trong trạng thái đó hiện ra rất rõ ràng và cụ thể như chúng ta hai người nói chuyện trực tiếp nhau như hiện giờ trong căn phòng này.
Cho nên thực tế như vậy. Vì vậy mà chúng ta biết con đường chúng ta chết là chúng ta sẽ đi về đâu. Cảnh giới mà chúng ta đến, trạng thái mà chúng ta đến rất là rõ ràng. Nhưng khi chúng ta tu chưa hết, chưa ly dục ly ác pháp thì chúng ta chưa nếm được mùi vị đó thì chúng ta còn mờ mịt không biết. Chết không biết về đâu? Không biết đi về đâu? Đó là câu hỏi cư sĩ hỏi Thầy.
(01:06:12) Vì vậy thật sự chúng ta biết đường đi, biết nơi chúng ta về khi chúng ta tu đúng chánh pháp của Phật. Đó là điều mà cần thiết, bởi vì chúng ta tu tập rất là gian khổ mà nếu không đạt được, nếm được mùi vị này thì sự gian khổ chúng ta chỉ phí bỏ không có ích gì cả.
Nhưng chúng ta cũng dễ lầm bởi vì kiềm bên chúng ta có một trạng thái xúc tưởng hỷ lạc. Do tưởng chúng ta tạo ra làm chúng ta bị gạt. Mà chúng ta phải có một thiện hữu tri thức gần bên để xác định được trạng thái đúng và trạng thái sai. Chứ không khéo ma, là trạng thái tưởng của chúng ta nó cũng tạo có sự an lạc đó. Cho nên một người ức chế tâm nó cũng hiện ra trạng thái an lạc đó. Nhưng không phải tâm bất động là tại sao? Tại vì tâm bất động chúng ta xả ra bình thường tâm vẫn bất động. Còn trạng thái của sai lạc khi mà chúng ta nhiếp tâm, tâm không có niệm khởi thì nó cũng trạng thái an lạc, nhưng khi xả ra thì tâm tham, sân, si chúng ta còn đủ. Thì người này bị ma chứ không phải là thật.
Cho nên phải xác định được điều đúng và điều sai. Cũng trạng thái an lạc mà trạng thái an lạc đúng và trạng thái an lạc sai nó sẽ không làm được. Đó là cách thức mà quý Phật tử sau này tu tập cần phải thưa hỏi kỹ những cái điều này. Chứ không khéo thấy bữa nay sao tu hành mà nhiếp trong hơi thở nghe nó an lạc không biết đúng sai phải hỏi kỹ cái điều này để cho bậc thiện hữu tri thức người ta xác định cho rõ ràng đây là đúng, đây là sai. Đây là đúng thì cố gắng tiếp tục ngăn và diệt áp pháp nữa thì trạng thái này tự nó tăng lên. Chứ không phải hôm nay thấy nó có an lạc rồi mình cố gắng mình khởi tâm ham muốn duy trì nó lên. Không bao giờ duy trì được. Không bao giờ duy trì trạng thái đó được. Như vậy thì con đường tu chúng ta vẫn biết được đường đi của chúng ta, biết được cái mùi vị giải thoát của chúng ta rất rõ ràng.
Chỉ khi nào mà tâm chúng ta ly dục ly ác pháp hoàn toàn thì chúng ta sẽ thấy được điều này. Và ly dục được một phần chúng ta cũng cảm giác được cái phần ly dục đó, cái kết quả. Bởi vì Đức Phật đã nói “Pháp ta không có thời gian đến để mà thấy”. Ngay chúng ta tu tập có ly được một phần, nghĩa là bây giờ ăn ngày một bữa mà thấy sung sướng, thấy thích thú trên cái ăn ngày một bữa. Thì người đó đã có nếm mùi vị giải thoát của ăn một bữa rồi chứ chưa nói là những cái khác nữa. Đó là thực tế của đạo Phật là như vậy. Không tu thôi mà tu đúng một cái điều kiện, ly được cái điều kiện nào thì chúng ta có lợi ích ngay được cái điều kiện đó liền. Có nhận ra được cái giải thoát ngay cái điều kiện đó.
Ví dụ như bây giờ Thầy ngủ. Thầy tập làm chủ được cái ngủ, Thầy thắng được cái ngủ. Thì Thầy sẽ có một cái trạng thái bất động của cái ngủ, làm cho Thầy tĩnh mạch trong trạng thái an lạc của kết quả phá được ngủ. Còn Thầy ăn cũng vậy và Thầy sống độc cư mà Thầy thấy thích thú sống một mình trong thất, không thích nói chuyện với ai. Không có ưa thích nói chuyện người nào hết mà sống một mình vui, vui sống một mình thì ngày đó Thầy cũng có một cái trạng thái, cái mùi vị giải thoát của sống độc cư.
Đó là những điều ly dục bằng cái phương pháp đó đã giúp cho chúng ta nhận ra được cái trạng thái rất tuyệt vời. Giải thoát. Chứ không phải là đợi chúng ta tu hết rồi nó mới có, không phải đâu! Mỗi điều mà chúng ta làm được là chúng ta thấy được kết quả, đặt thành vấn đề để quý Phật tử thấy rất rõ ràng. Bây giờ cơ thể chúng ta đang bị đau bụng hoặc nhức đầu mà chúng ta ngồi ôm pháp tu tập không lìa pháp. Sau khi cơn đau đó qua, do pháp mà để vượt qua được cơn đau thì ngay đó chúng ta sẽ thấy được một cái trạng thái an lạc vô cùng. Cơn đau qua rồi thì để lại một chiến lợi phẩm cho chúng ta thấy đó là trạng thái rất là tuyệt vời.
Cho nên trong đạo Phật không có tu tập nào mà không có kết quả. Có kết quả đầy đủ nhưng chúng ta không chiến thắng được giặc sinh tử thì chúng ta sẽ thất bại, thì chúng ta ê chề, vừa là tu tập chịu khó trong một khoảng thời gian mà không chiến đấu tận cùng. Cho nên khi mà bổ ngửa ra thì sự cực khổ chúng ta rất nhiều, mà chiến lợi phẩm không có, coi như là thất trận.
(01:10:22) Còn trái lại chúng ta chiến đấu tận cùng. Thắng trên mặt trận bệnh tật mà do cái ôm pháp mà thắng thì nó để lại cho chúng ta có một chiến lợi phẩm. Tức là có một trạng thái rất là an ổn. Vì vậy nó tạo cho chúng ta có một niềm tin, một niềm tin lớn. Chúng ta không hề sợ đau bệnh nữa, không hề sợ đau nhức trong thân này nữa.
Gặp đau nhức là chúng ta ôm pháp chiến đấu tận cùng, cuối cùng giặc sinh tử đầu hàng. Mà đầu hàng thì chúng để lại cho chúng ta một trạng thái giải thoát thật sự cụ thể rõ ràng. Chứ không phải như chúng ta uống thuốc hết bệnh rồi thì nó đã bình thường, nó không có gì hết, không phải, đạo Phật khác, chúng ta chiến thắng được bệnh để lại cho chúng ta thấy được một trạng thái chiến thắng của mình rất rõ ràng, an lạc vô cùng, cơ thể sung mãn đầy đủ như chúng ta uống thuốc bổ, còn hơn là uống thuốc bổ, đó là cách thức của đạo Phật là như vậy.
Những câu hỏi của mấy con, trong cái sự mấy con hiểu biết về Phật pháp mà hiểu biết thật rõ ràng thì mấy con không sợ hãi. Mấy con tu thì nó còn có thấy được rõ ràng, chết các con sẽ đi về đâu và tương ưng ở đâu? Được về đâu? Pháp đó con tu như thế nào? Đạt được như vậy thì mấy con không lầm lạc, không sợ lạc đường. Mấy con biết đường đi của mình rất rõ ràng.
Mấy con còn hỏi gì Thầy thêm nữa không?
Cháu bé kia có cần hỏi gì Thầy không? Con học, con sẽ tụ tập như thế nào, Con biết không?
(01:11:59) Làm sao cho mình còn trẻ tuổi mà mình học vừa thông minh mà vừa tu được. Đó là điều quan trọng đấy cháu. Cho nên tu mà thông minh để mà học, phải không? Nếu mà mình thông minh mình học mình sẽ nhớ dai. Vậy thì người tuổi trẻ mình phải có trách nhiệm học để hiểu biết và phải có phương pháp tu để cho mình thông minh. Học đâu nhớ đó không quên thì do đó mới là học trò giỏi, có phải không? Chứ không khéo con học rồi con quên thì dù con có muốn cách gì giỏi cũng không giỏi được, bởi vì quên. Vì vậy cho nên đạo Phật dạy cho chúng ta có 4 giai đoạn tu tập không quên gọi là tỉnh thức.
Giai đoạn thứ nhất: Là chúng ta biết ngày giờ chúng ta chết. Như bây giờ, người mà tu tập tỉnh thức bây giờ ngày mai chết, họ biết họ chết, phải không? Họ biết được, họ báo trước được. Đó là biết trước mình chết chứ không phải làm chủ mình chết. Cho nên các con nghe những nhà tu Tịnh độ, những nhà tu Mật tông Tây Tạng họ biết ngày mai, ngày mốt, tháng sau, tháng tới họ chết, họ nói đúng quá mình thấy cũng hay chứ. Nhưng mà đó là giai đoạn tỉnh thức thứ nhất mấy con!
Tới giai đoạn tỉnh thức thứ hai: Là khi chết họ đi vào bào thai mẹ họ biết. Còn cái kia chết rồi họ mờ mịt họ không biết. Họ biết được ngày chết nhưng mà chết rồi họ không biết họ đi về đâu. Không biết về Cực Lạc hoặc là về nơi đâu hay được tái sinh luân hồi họ không biết.
Rồi bây giờ tới cái giai đoạn thứ hai tập tỉnh thức tức là tập nhớ được, nhớ cả cái thời gian họ sắp tới họ biết được. Cho nên bây giờ tập tỉnh thức tới giai đoạn thứ hai là khi chết rồi họ đi vào bào thai mẹ họ biết đi vào bào thai mẹ.
Rồi tới giai đoạn thứ ba: Ở trong bào thai mẹ họ biết, nghĩa là tới cái ngày mà bà mẹ xuất thai. Khi bà mẹ sinh mình ra đau quá mình mất mình không biết nữa. Cũng như bây giờ mình biết nè mà khi đau quá chết hết biết, không biết, mất tiêu luôn cái biết của mình. Nó không còn nhớ.
Giai đoạn thứ tư: Là khi bà mẹ xuất thai ra. Mình sinh ra mình biết mình nhớ mình hồi đó là ai, ở đâu, xứ nào, nước nào, tên gì, họ gì? Đó là có bốn cái giai đoạn Tỉnh Thức.
(01:14:18) Cho nên có cái thiền định gọi là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định. Nó có bốn giai đoạn tu tập tỉnh thức đó. Cho nên đạo Phật nó có những cái phương pháp giúp chúng ta tu tập rõ ràng chứ không phải niệm chú, niệm Phật hoặc niệm bùa, niệm gì cả hết. Mà nó có những cái giai đoạn tập luyện trên thân hành của nó để tạo tỉnh thức. Nó có 4 giai đoạn tỉnh thức.
Một người hay quên là thuộc về người vô ký. Trên tâm ý của mình quên trước hay quên sau cho nên có những phương pháp tập cho chúng ta không vô ký. Vì vậy giờ giấc chúng ta phải giữ gìn nghiêm chỉnh. Chẳng hạn, bây giờ con dự định con tập để cho mình có được sự không quên nhớ dai thì con phải tập Chánh Niệm Tỉnh Giác nương vào thân hành. Đi kinh hành hoặc nương vào cánh tay hoặc nương vào hơi thở. Tập nhiếp phục tâm trong hơi thở. Đó là tập không quên.
Bởi vì "hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra", mà không quên hơi thở ra vô tức là nhớ, phải không? Không vô ký. Và tập làm sao nhiếp cho được. Vậy nhiếp đến bao giờ? Đến bao lâu mà sức tỉnh thức có?
Do sự hướng dẫn của một vị thầy mà người ta hướng dẫn. Từng đó con tập thì con sẽ có trí nhớ không có quên. Vì vậy mà khi học nó rất là nhớ. Đầu óc của tuổi trẻ mới lớn lên, cuộc đời chưa có đè nặng trên đôi vai cho nên còn rảnh rang, sáng suốt mà được tập tỉnh thức thì lại nhớ, không quên. Cho nên mỗi lần học bài học gì thì nó không quên.
Cũng như bây giờ chúng ta hít thở mỗi hơi thở thứ nhất, hơi thở thứ hai, hơi thở thứ ba, hơi thở thứ tư, hơi thở thứ năm nó quên đi không biết mình thở ra thứ mấy rồi, đó là bị vô ký, bị quên. Còn trái lại thở tới một ngàn hơi thở, hai trăm hơi thở, ba trăm hơi thở, một triệu hơi thở, hơi thở nào cũng rõ ràng cụ thể đó là “Tỉnh Thức Trên Thân Hành Nội”, con thấy chưa? Tỉnh thức như vậy là không quên mà không quên tức là nhớ. Con thấy chưa?
Đó là những cái giai đoạn tu tập cho người tuổi trẻ để chúng ta áp dụng vào trường học mà không quên. Nhưng muốn tu tập cũng không phải dễ. Coi vậy muốn tập tỉnh thức cũng không phải dễ. Lơ mơ không khéo thì bị ức chế tâm. Ức chế con biết như thế nào? Nó căng thần kinh, nhức đầu. À bây giờ cứ tập trung đi rồi mấy con sẽ thấy vậy nhức đầu. Thầy nói đâu có đó, chứ không sai đâu! Nhưng phải biết, phải hỏi. Muốn học, muốn tu đều là phải có Thầy, không phải là muốn mình làm đại là được.
Cho nên với tuổi trẻ mấy con cần phải học thì cần phải tu tập những phương pháp làm đừng cho vô ký, tức là không quên. Làm cho trí nhớ đó là cái lợi ích của mấy con. Cho nên đến chùa phải thưa hỏi. Thưa hỏi với ông thầy, với ông thầy có kinh nghiệm, ông sẽ dạy cho từ đó mình về học thấy tiến bộ, nhớ dai không quên, các con hiểu không? Còn những người già lớn tuổi thì phải học như thế nào, phải không?
(01:17:17) Do đó phải học tu như thế nào? Rồi còn gia đình và tu như thế nào? Những pháp gì để áp dụng vào đời sống gia đình an mình vui và hạnh phúc? Đó là mục đích. Bởi vì mình đứng trong vị trí nào thì có cái phương pháp đó để giúp cho mình được an ổn, được hạnh phúc trong cái vị trí của mình đang. Rồi cái vị trí đó qua rồi nói đến một cái thời điểm khác và cái vị trí khác. Cái tuổi tác nào nó ở trong cái thời điểm của nó. Thì lúc bấy giờ chúng ta thực hiện những cái pháp nó hợp với cái tuổi tác, hợp với cái thời điểm của mình thì nó sẽ đem lại sự hạnh phúc cho chính mình.
Bây giờ già rồi mình rảnh rang không còn lo cho con cháu nữa mà cứ ở đó ẵm con, ẵm cháu hoài thì như vậy chẳng có lợi ích gì hết. Bỏ xuống, bỏ xuống! Phải làm theo kiểu người già.
Do đó cái người già bây giờ mình còn vài năm sống trên thế gian này hãy làm gì cho mình có lợi ích. Chứ không phải lo cho đứa này, lo cho đứa kia, lo cho đứa nọ, lo sao được? Già rồi đâu còn lo nữa. Chia của chia cải cho chúng rồi thì bắt đầu bây giờ còn lại những ngày còn sống phải lo cho chính bản thân mình. Để khi mình phải ra đi mình chết được an vui thanh thản, được biết ngày giờ mình chết. Được làm chủ sự sống chết đó là quan trọng, phải không? Cho nên ở đây từng tuổi, từng cái hoàn cảnh gia đình mấy con cứ thưa hỏi để mấy con biết pháp mà tu. Chứ không phải tu chung chung.
Bây giờ nghiên cứu Phật giáo mấy con biết đó. Nhưng mà khi tập tu thì phải biết với vai trò của mình, cái hoàn cảnh của mình, phải tập tu cái gì? Chứ không phải muốn tu cái gì là tu. Bởi vì sách vở hiện giờ đang chấn chỉnh. Chưa có đường lối rõ ràng, chưa có phương pháp rõ ràng. Người còn trẻ tuổi phải tu cái gì? Người lớn tuổi phải tu cái gì? Người già phải tu cái gì? Và mỗi cái nó có một cái căn bản chung cho những người đó thì mọi người đều phải giữ trong bản chung đó như thế nào. Và những cái riêng biệt của từng lứa tuổi, từng thời điểm, từng hoàn cảnh của gia đình, của bản thân mình đều phải có phương pháp phù hợp.
(01:19:24) Do đó, những bộ sách mà dạy được như vậy thì cần phải có thời gian để cho những người đã kinh nghiệm tu qua họ làm công việc này để giúp cho mình cầm cuốn sách, biết được mình đang tu ở giai đoạn nào. Đó là phải chờ một thời gian nữa mới có. Chứ bây giờ ngay liền một mình Thầy, Thầy làm chưa kịp. Chứ nếu mà đã có những cuốn sách đó thì mấy con khỏe lắm rồi. Chỉ cần trao cho mấy cuốn sách rồi dạy cho mấy con cái nào chữ nghĩa không hiểu chỉ hỏi mà thôi. Còn bây giờ chưa có những cuốn sách đó.
Nhưng mà Thầy cũng đã xây dựng trong cái đầu của mình để cố gắng soạn thảo thành một bộ sách đó cho mấy con! Để từng cái lứa tuổi, từng cái hoàn cảnh mà biết cách áp dụng đúng pháp, đúng người, đúng thời điểm, thì sẽ được giải thoát ngay liền. Như đức Phật nói: "Pháp ta không có thời gian đến để mà thấy".
Cái lời nói đó không phải là nói sai, mà tại vì bây giờ pháp nó lộn xộn, kết tập bằng pháp lộn xộn. Nghĩa là đọc kinh sách của Phật người kết tập phải nói rằng là người không có tu chứng. Cho nên họ kết tập bài kinh dạy về Chánh kiến thì nó nhét sau ở đâu xứ nào đâu chứ không có mà ngay cái chỗ là lớp Chánh kiến đó mà chúng ta tìm thấy. Cho nên khi đọc toàn bộ kinh của Phật mà rút ra từng những cái bài kinh thuộc về Chánh kiến thì phải có công trình. Họ làm lộn xộn, có bài trước, bài sau nó lộn xộn đủ thứ trong này.
Cho nên đọc kinh Phật chúng ta không thấy cái thứ lớp nào là cư sĩ, lớp nào cho tu sĩ, như thế nào. Chúng ta không tìm thấy được điều đó, thấy lộn xộn. Mấy con mà nghiên cứu về kinh sách tạng kinh Nguyên Thủy thì mấy con mới thấy cái điều mà kết tập nó không có thứ lớp, nó không có lớp lang. Cho nên bây giờ chúng ta vất vả vô cùng. Vì vậy mà từ đó cho tới giờ không có người tu chứng. Chứ mà có người tu chứng thì họ đã sắp xếp lại cho chúng ta có một đường lối tu tập rồi.
Cho nên xét qua kinh sách bây giờ chúng ta thấy thiệt đang lộn xộn, chứ chưa phải là có cách thức rõ ràng. Cũng như bây giờ các con thấy các nước trên thế gian này về chương trình giáo dục thì lớp một có những bài vở của lớp một. Lớp hai có bài vở lớp hai. Phật giáo mình thì cũng giống như chương trình giáo dục của mọi nước trên thế gian này. Thế mà bây giờ lớp một nó không biết cái bài nào, lớp hai không biết bài nào. Đọc kinh thì lu bù. Đọc bài nào cũng thấy hay hay mà không biết nó ở đâu? Có phải bài này của mình tu tập không? Hay là bài học cho mình tu tập đây? Thôi thấy bài nào cũng tu được hết thì cứ tu chứ còn chẳng biết. Đó là mấy con thấy Phật giáo chúng ta nó đang lộn xộn như vậy đó.
Cho nên có những người tu chứng hẳn hòi người ta mới làm cái này cho chúng ta. Còn không có người tu chứng thì đâu dám sắp xếp, đâu dám làm, làm bậy nó sai sao. Cho nên từ khi đức Phật tịch cho đến giờ không có ai sắp xếp lại con đường tu tập này. Cho nên đến giờ rất là vất vả cho chúng ta.
(01:22:18) Ngày hôm nay Thầy đang ra công làm công việc này nhưng trải qua một thời gian tu tập cũng quá lớn tuổi. Bốn mươi mấy năm mươi tuổi rồi. Rồi bắt đầu từ đó cho đến giờ thì hơn bảy mươi tuổi rồi. Mà sắp xếp lại cái này thì thật ra với cái tuổi mà bảy mươi mấy, Thầy nói tuổi này là tuổi nghỉ ngơi chứ không phải làm việc, thế mà phải làm việc như thế này thì các con phải biết là vì Thầy thương tất cả chúng sinh mà làm, từng mồ hôi, công lao của mình để lại chứ đâu phải làm cái này để danh lợi, để làm gì. Còn vài hôm nữa ra đi rồi mà danh lợi để làm gì nữa mấy con, phải không?
Cho nên trong khi làm vì lợi ích mà vắt hết từng sức của mình ra để làm. Rồi phải chịu khó phục hồi. May là mình phục hồi chứ còn cỡ mà một người bình thường mà ngồi làm việc như Thầy thì cái chết rất là nhanh chóng. Cơ thể già ăn uống không được nhiều mà lại ăn một bữa thì làm sao đủ cung cầu cho cái thân mà làm việc như vậy. Thế mà phải dùng những cái sự tu tập của mình để phục hồi cho sự sống tế bào trong người để làm việc, để cho những bộ sách ra đời, để giúp cho mấy con biết được đường lối, cách thức tu theo Phật giáo. Đó là việc làm hết sức cố gắng, cho nên Thầy nói từng giọt mồ hôi, nước mắt của mình vì thương chúng sinh mà phải làm. Chứ rất là vất vả.
(01:23:41) Cho nên hôm nay mấy con chỉ biết không phụ lòng Thầy. Chỉ biết làm sao người ta chửi mình không giận. Người ta nói nặng nhẹ không buồn phiền. Cả gia đình của mình, vợ con mọi mọi điều không có buồn phiền, vì đó là nhân quả. Các con cứ nhìn đó là nhân quả là các con đã đền đáp ơn Thầy. Các con không giận hờn, không phiền não thì các con đã đền đáp ơn Thầy rồi. Không cần mấy con tu gì nhiều đâu. Các con nhớ như vầy cũng đủ đền đáp ơn Thầy. Cho nên trong khi đó mấy con thưa hỏi để cho biết, để rồi mấy con tụ tập mới được. Vậy thì còn ai thưa hỏi?
HẾT BĂNG
PHẬT TỬ CAM RANH 02 - CÁI ĐÚNG CỦA ĐẠI THỪA
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian:14/03/2009
Phật tử: Kính thưa Thầy, có người thắc mắc rằng tại sao Thầy chỉ chê cái sai của Đại thừa mà không khen những cái đúng của họ? Thầy chỉ chê họ không à. Kính xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ ạ.
(00:25) Trưởng lão: Được rồi con ngồi xuống đi, Thầy sẽ trả lời.
Cái thứ nhất, phải nói rằng từ khi đức Phật tịch, ông A Nan, như các con đọc lịch sử, các con biết ông A Nan là người đệ tử của Phật, ông tịch năm 120 tuổi. Khi ông A Nan còn sống, là Phật giáo đã sai mà ông chỉnh lại không được, người ta đã chê ông là: “Già lú lẫn rồi, ông A Nan nói sai”, cho nên ông thấy ông không còn duyên nữa. Ông là người lãnh đạo của giáo đoàn đức Phật để lại, mà ông chỉnh cũng không được. Con đọc lại những cái sự kiện của ông A Nan thì các con sẽ thấy rất rõ. Mặc dù là những cái chuyện sử này mình cũng chưa chắc là đúng, nhưng mà nó có thật.
Ngay từ ông Ca Diếp, khi mà nghe đức Phật tịch, ông dẫn cả phái đoàn của ông về kinh thành, để làm đám tang cho Phật, thì trong số đệ tử của ông cũng đã nói thế này thế khác rồi: “Cái ông già này ổng chết là đáng”, như thế này, thế kia… đó chúng ta thấy. Mà ngay trong thời đức Phật, thì cái giáo đoàn của đức Phật ở trong thời đó đã chia làm hai rồi chứ không phải đợi hai trăm năm sau, như trong lịch sử của Phật giáo.
Người ta nghĩ rằng, hai trăm năm sau đó khi đức Phật tịch thì mới chia làm hai bộ phái Đại Chúng Bộ và Thượng Tọa Bộ. Nhưng sự thật ra không phải, thời đức Phật còn tại thế, thì đã chia làm hai bộ phái: Một bộ phái do Phật lãnh đạo và một bộ phái do Đề Bà Đạt Đa lãnh đạo, có đúng không?
Cho nên đã chia từ đó rồi, và từng đó nhờ tài khéo léo của đức Phật hướng dẫn, cho nên bộ phái của Đề Bà Đạt Đa nó chìm xuống, nhưng vẫn có người tin Đề Bà Đạt Đa, chứ đâu phải người nào cũng không tin. Nó không phát triển được, nhưng nó vẫn không mất cái mầm đó đâu, nó không có mất cái mầm đó.
(02:12) Cũng như bây giờ Đại thừa nó phát triển, dù Thầy có hướng dẫn gì gì đi nữa thì cũng không có diệt nó được đâu, nó cũng nằm đó. Dù bây giờ cái con đường này có nhiều người tu chứng quả A La Hán, thì cái pháp Đại thừa nó vẫn còn, đã nó có là nó phải còn, nó còn chứ không phải là mất. Và cái điều kiện mà tính từ ông A Nan chết cho tới bây giờ có người nào chứng quả A La Hán hay không? Có những người nào tu theo đạo Phật, thật sự nếu có thì chúng ta đã có một chặng đường, một khoảng thời gian đó đã có chấn chỉnh rồi.
Bởi vì một người tu chứng quả A La Hán, họ không bao giờ bỏ chúng sanh. Dù họ tu rồi, họ thấy không duyên, họ tạo duyên. Bởi vì đạo Phật có nói rất rõ, các con thấy: “Hóa duyên độ chúng”. Không có duyên thì mình đi xin, để người ta sớt cho mình một bát cơm là gieo duyên với họ, tạo duyên cho họ, để cho mình độ họ. Chứ không phải nói là tôi thấy tôi không có duyên, thôi tôi bỏ, tôi nhập diệt tôi đi, chứ tôi không độ ai nữa hết. Không phải!
Đạo Phật còn một hơi thở một ngày, vẫn tạo duyên cho mình để giúp đỡ chúng sanh ra khỏi đau khổ của kiếp người. Đạo Phật gọi là Tứ Vô Lượng Tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả, thì không thể nào trong một phút tu chứng mà làm ngơ trước cái sự đau khổ của chúng sanh. Đạo Phật không làm ngơ!
Cho nên, xét chỗ đó chúng ta thấy từ khi đức Phật tịch cho đến giờ, chúng ta thấy có ai chuyển được pháp của Phật, xây dựng nền tảng đạo đức của Phật trong Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý này không?
Chúng ta xét, các Tổ triển khai như thế này, triển khai như thế khác, kinh sách đều còn để lại dấu vết của những người truyền thừa đạo Phật. Những kinh sách đó còn để lại như rừng, chúng ta tìm một cuốn sách để chuyển lại cái chân lý của đạo Phật, để biến nó thành một cái nền đạo đức không làm khổ mình, khổ người như trong kinh sách Nguyên Thủy đã từng nhắc cái tên này. Thế rồi, bây giờ chúng ta thấy, có một người nào làm cái điều này không? Bởi vì, ngoài cái đạo đức không làm khổ mình khổ người, ngoài cái giới luật của Phật, cái giới hành, chúng ta tìm cái bộ Giới Đức, Giới Hành, Giới Hạnh, chúng ta không thấy những bộ giới này. Vậy thì bậc A La Hán ra đời để hướng dẫn đức hạnh, phạm hạnh của người tu sĩ Phật Giáo ở chỗ nào?
(04:28) Có bộ sách Giới Đức không? Có bộ sách Giới Hành không? Có bộ sách Giới Hạnh không? Không có! Chỉ có bộ Giới Cấm, phải không?
Chúng ta tìm cái bộ Giới, tức là Đạo Phật có 3 cấp: Giới, Định, Tuệ, có phải không? Mà bây giờ về cái bộ Giới thì dường như là chúng ta thấy chỉ có bộ Giới Cấm, mà không thấy bộ Giới Đức. Đâu có Giới Đức, kiếm Giới Đức không ra. Như vậy là có A La Hán, mà tại sao không xây dựng được giới đức? Mà giới đức là phạm hạnh, là cái hạnh sống của một tu sĩ, không thể nào thiếu được, mà ngày xưa đức Phật nói đó là phạm hạnh. Phạm hạnh tức là hạnh của Phạm Thiên.
Cho nên có một người viết cái câu mà nói: “Trong 13 năm sau, đức Phật mới chế Giới”, tức là theo giới Bổn mà nói, thì giới luật chưa có, mà tại sao nói là phạm hay là không phạm?
Sự thật ra giới luật đã có trước Phật chứ không phải sau. Tại sao biết giới luật có trước Phật? Bởi vì, khi mà chúng ta vào theo đạo Phật, thì đức Phật bắt buộc, đức Phật nói mình phải tự nguyện sống đời sống phạm hạnh, phạm hạnh tức là Phạm Thiên, mà Phạm Thiên tức là đức hạnh của Giới. Như vậy là Giới có trước Phật chứ đâu phải Phật chế, có phải không?
Cho nên, chúng ta thấy rất rõ ràng, năm điều kiện của Bà La Môn thì đức Phật chấp nhận có giới luật và trí tuệ mà thôi, có phải không? Bỏ ba cái điều kiện kia, mà chỉ lấy có hai điều kiện Giới Luật và Đức Hạnh trong bài kinh Sonadanda, phải không? Cho nên đức Phật nói bây giờ một người giữ gìn giới, thì phải có trí tuệ, có trí tuệ thì phải giữ gìn giới. Cho nên đức Phật nói: “Trí tuệ ở đâu là giới luật ở đó, giới luật làm thanh tịnh trí tuệ, mà trí tuệ làm thanh tịnh giới luật”.
Còn sanh ra bảy đời của Bà La Môn, đức Phật nói dù bảy đời mà phạm giới, cái người đó có xứng đáng là Bà La Môn? Ông Bà La Môn cũng đành chịu phải bác nó thôi. Bây giờ một người thuộc chú thuật, kinh sách, thông suốt tam tạng kinh điển đi, kinh sách Vệ Đà đó, tụng niệm rất hay, chú thuật rất giỏi, nhưng người này vẫn phạm giới, thì người này có xứng đáng là Bà La Môn không? Cho nên bỏ cái giỏi về chú thuật, kinh sách này hết, tụng niệm này bỏ luôn hết, phải không?
Một người Bà La Môn phải đẹp trai, xấu trai thì không được, phải đẹp 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp mà phạm giới, thì người này có xứng đáng là Bà La Môn không? Cái ông Bà La Môn Sonadanda, ông nói: “Không xứng đáng, chỉ có giới luật và trí tuệ mà thôi”, có đúng không? Cho nên, lấy cái đúng của Bà La Môn, mà dẹp cái sai của Bà La Môn, chứ ông Phật không có cái gì mới.
(07:02) Trưởng lão: Còn bây giờ, hồi nãy con hỏi Thầy tại sao Đại thừa nó có cái đúng mà không khen, phải không? Không khen nó, mà cứ chê nó không. Cho nên có những quan điểm là không đồng ý với Thầy. Thật sự những cái đúng là những cái của Phật! Cho nên những cái mà trong kinh sách Đại thừa đúng mà Thầy không nói, là những cái của Phật! Thì bây giờ nói của Phật cũng như của Bà La Môn mà thôi. Cũng như ngày xưa Bà La Môn có những cái sai thì đức Phật bác, lấy những cái đúng mà thôi, chứ đức Phật đâu có nói: “Đây là cái của Bà La Môn”, phải không? Cho nên Thầy làm có giống ông Phật không? Đó, như bây giờ lấy cái này, đức Phật nói trí tuệ và giới luật mà thôi, phải không? Thì trong Bà La Môn nó có giới luật và trí tuệ, thì cái này bây giờ là của Phật, phải không? Thì bây giờ Thầy nói cái đúng của Phật, thì trong cái đúng của Đại thừa nó vẫn có cái của Phật. Mà bây giờ Thầy khen nữa là khen làm sao? Tại cái ông Đại thừa ông ăn cắp của Phật, có đúng không? Chớ phải cái này của ông thiệt, riêng của ông đó, thì khen cũng phải đi, nhưng mà cái này là đâu phải!
Cho nên nói Bát Chánh Đạo, ông cũng ăn cắp của Phật, chứ ông Đại thừa ông có Bát Chánh Đạo sao? Ổng nói Tứ Diệu Đế, ông có Tứ Diệu Đế, ông nói: Khổ, Tập, Diệt, Đạo, nhiều khi Kinh Bát Nhã còn nói: Vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo nữa, nó còn bác cái chân lý của Phật nữa, phải không?
Cho nên, vì vậy thấy Thầy nói bác thì mấy con thấy đúng, cho nên nói Thầy đúng, Thầy bác đúng. Còn sao Đại thừa có cái đúng mà sao không khen? Khen sao được, cái đó là của Phật mà làm sao khen, có phải không?
Cho nên bây giờ mấy con hiểu đó, là thật sự ra Thầy biết Đại thừa có cái đúng, nhưng mà cái đúng của nó là cái nó mượn của Phật, rồi nó từ cái gốc của Phật - đó là cái đúng, nó mới triển khai cái ngọn của nó nên mới thành sai.
(08:41) Cũng như bây giờ Phật dạy mình tu thiền xả tâm, để nhập Tứ Thiền chứ gì, để ly dục, ly ác pháp, thì Ảnh cũng từ cái chỗ mà xả tâm, Ảnh cũng nói ngăn ác, diệt ác; Ảnh cũng dạy Tứ Chánh Cần, nhưng mà Ảnh không thèm giữ giới luật, cho nên ảnh không ly, vì vậy mà Ảnh ức chế tâm. Ảnh ức chế tâm cho hết vọng tưởng, Ảnh chẳng niệm thiện niệm ác, Ảnh giữ: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Cho nên Ảnh đi lạc vào cái đường tưởng.
Bây giờ Thầy nói những cái sai, nhưng mà trở lại cái đúng, ngăn ác, diệt ác, thì Phật đã có đây rồi hết rồi. Bây giờ khen ổng cũng như khen Phật, thì như vậy rõ ràng là Thầy dựng lại những cái mà Đại thừa đã ném bỏ, còn những cái mà Đại thừa nó giữ, mà nó làm như lu mờ, nó không có muốn tôn lên. Đúng bây giờ chúng ta đọc thấy đúng, nhưng mà cái đúng này là cái ông mượn của Phật mà ông triển khai, cho nên nói là Phật giáo Phát triển. Nó dựa vào những cái cốt tủy của Phật giáo để triển khai ra cái ngọn, cái nhánh của nó. Mà cái ngọn, cái nhánh của nó lại sai, cho nên Thầy nói cái ngọn nhánh sai, mà Thầy không có nói cái gốc sai.
Cho nên nó đúng thì thôi, đúng thôi. Vậy thì, các Phật tử cũng nên hiểu rằng, Thầy dựng lại những cái mà Đại thừa nó dùng cái nhánh lá, cái ngọn nó đậy lên, làm cho cái gốc đó nó mất đi. Còn bây giờ Thầy mới vạch cái ngọn lá của nó ra, để cho nó lòi cái gốc lên.
Bây giờ bảo Thầy khen Đại thừa có cái đúng là sao? Thầy vạch ra như vậy, để cho mình thấy cái đó là của Phật, có đúng không? Bởi vì nó là Phật giáo Đại thừa, cho nên nó có cái gốc của Phật giáo, còn cái ngọn, cái lá mà nó phát triển, nó kiến giải, nó làm cho cái ngọn, cái lá đó rườm rà, nó dữ tợn. Nhưng mà nó đậy lại cái gốc của nó, làm chúng ta mất cái gốc tu rồi, thậm chí như cái nền đạo đức Nhân Bản - Nhân Quả đó, không làm khổ mình khổ người, nó cũng đậy mất đi.
Cho nên chúng ta thấy, sao không có cái đạo đức của Phật, kỳ vậy? Đạo Phật gì mà dạy cúng bái, cầu siêu, cầu an không à? Mà cầu đi cảnh giới này, cảnh giới kia, còn cái đạo đức để mình sống mình đối xử nhau thì không thấy, nhưng mà sự thật ra, thì nó có. Nhưng mà dường như là chúng ta lại cứ dùng cái ngọn lá đó đến chùa lạy Phật cầu cho gia đình mạnh giỏi, bình yên, cầu an cầu siêu, hoặc là ngồi thiền thì cầu vãng sanh, hoặc là ngồi thiền để kiến tánh thành Phật.
Thì như vậy, rõ ràng là chúng ta chỉ dùng cái ngọn không à, mà chính ngay chỗ ly dục, ly ác pháp này, hằng ngày chúng ta sống với từng cái hành động thiện đó, thì chúng ta quên mất đi. Nhưng mà bây giờ lật ra, thì mình thấy Đại thừa có những cái này chớ, cũng có nói mình: Nghĩa là mắt nhìn thấy sắc, thì không nên để sắc dính, thì đó là thiện chứ gì, phải không? Dính sắc thì nó sinh ra dục, thì thiện chứ gì? Thì không lẽ đem cái này: “Anh nói cái này đúng”, thì Đại thừa nó cũng có những cái đúng. Như vậy, rõ ràng là ở Phật giáo đã dạy rồi, cho nên Thầy chỉ cần dựng lại.
(11:16) Cho nên lúc bây giờ đó, trong thời đức Phật có nhiều người khen đức Phật: “Những gì mà người ta đã ném bỏ, đức Phật đã dựng lại”, có phải không? Mấy con đọc cái bài kinh của Phật, người ta khen Phật là dựng lại những cái gì đã bị ngoại đạo ném bỏ. Còn bây giờ, Thầy dựng những gì mà các Tổ đã ném bỏ. Bởi vì họ kiến giải rồi họ phủ lên cái gốc của nó, chứ đâu phải là Đại thừa không có cái đúng. Nhưng mà cái đúng đó là cái gốc của Phật giáo chứ cái gì! Cũng như cái đúng của Phật, mà hiện giờ cái đúng của Phật là cái của Bà La Môn đúng chứ gì. Chứ đâu phải, đức Phật theo Bà La Môn tu, chứ đức Phật có cái đạo Phật mới ở đâu bao giờ.
Hồi đức Phật đi tu đâu có đạo Phật, nhưng mà dựng lại những cái đúng của Bà La Môn, mà dẹp bỏ những cái sai của Bà La Môn. Mục đích của Thầy bây giờ là dẹp bỏ những cái sai của Đại thừa, và dựng lại đúng cái đúng của Đại thừa, là đúng của Phật giáo chứ có gì đâu!
Cho nên ở đây không có nghĩa là khen của Phật giáo, cái đúng của Đại thừa, tức là có Tiểu Thừa và có Đại thừa hẳn hòi, rõ ràng. Như vậy là có hai pháp, còn ở đây không có, Thầy là tu sĩ Đại thừa, Thầy mặc áo này, mà Thầy làm cho tốt lại Đại thừa. Tức là, cái sai của Đại thừa dẹp xuống, mà dựng lên cái tốt, mà cái tốt đó là của Phật giáo. Nói Nguyên Thủy chứ sự thật, nói Nguyên Thủy, tức là nói cái gốc của Phật giáo, mà trong Đại thừa có cái gốc, có đúng không?
Cho nên cái đúng của Đại thừa, là cái đúng là cái gốc của Phật giáo mà thôi, chứ không có gì hết, không có gì mà lạ hết.
Cho nên Thầy không khen là phải, khen cái gì, lật nó ra rồi, thì thấy rồi của Phật giáo chứ cái gì mà khen. Thì ông là Phật giáo, mà bây giờ cái đúng hồi nào tới giờ ông phủ, ông đậy kín lại, tôi bây giờ tôi lật ra cho thấy thì thôi chứ còn cái gì khen nữa. Bây giờ cái đúng của ông, thì ông cứ lo ông tu đi, phải không? Đúng rồi thấy chưa?
(12:57) Trưởng lão: Còn nói về chứng quả A La Hán, thật sự ra từ xưa đến giờ, từ ngày đức Phật tịch, ông A Nan tịch, rồi tới bây giờ, chúng ta không tìm thấy một vị chứng quả A La Hán. Nghĩa là chúng ta có thể chứng thiền, chứng đạo bằng cách ngoại đạo, có! Có thần thông, có! Có đủ sức thần thông, có! Nhưng còn nói về chứng thiền, mà chứng để ly dục, ly ác pháp, mà đúng là ly dục, ly ác pháp của đạo Phật thì không có. Bởi vì, con đường của đạo Phật là phải ly dục, ly ác pháp, mục đích là bất động tâm. Mà cái người chứng chỗ vô lậu Bất Động Tâm, thì không có. Cho nên chúng ta thấy, không có được triển khai chánh pháp của Phật. Từ đó tới giờ, chúng ta đi tìm kinh sách bây giờ kêu là cả kho, cả rừng đó, cả rừng kinh sách của Phật giáo bây giờ tìm lại coi có cuốn kinh nào mà nó đã dựng lại những cái gì của Phật giáo chưa? Chưa có!
Cho nên, chúng ta xác định rằng, chưa có người tu chứng, chứng A La Hán. Mình phải thấy quá trình thời gian chứ, rồi mình nghiệm lại coi những cái cuốn kinh nào, mà nói rằng ông đó chứng quả A La Hán, rồi ông thấy ông không có duyên, thôi ông nhập diệt, ông vô rừng núi ông ở, ông tịch. Điều đó vô lý!
Một người tu chứng quả A La Hán vô lậu, họ rất thương những người còn lậu hoặc, họ không bao giờ bỏ đâu. Thậm chí như Thầy có biết, Thầy thấy rõ ràng mình không đủ duyên đâu, mà không có Hòa thượng Thanh Từ, chắc chắn mấy con chưa biết Thầy đâu. Một tu sĩ từ một Tăng sinh, một tu sĩ đi học chứ Thầy có đi thuyết giảng, làm giảng sư đâu mà phật tử biết Thầy. Mà bây giờ đùng một cái Thầy tu như vậy, Thầy vỗ ngực như ông Phật, nói: “Ta chứng chánh quả A La Hán!”. Trời đất ơi, ai tin! “Ông nói dóc đó!”. Có phải không?
Cho nên, khi mà được Hòa thượng Thanh Từ ấn chứng, là Thầy phải chứng được Thiền Tông. Mặc dù, Hòa thượng đã triển khai Thiền Tông, thì ít ra Hòa thượng cũng phải thấy Thầy đã hiểu biết Thiền Tông như thế nào. Giống như Hòa thượng hay không, Hòa thượng mới ấn chứng, chứ bộ mấy con lại đó mấy con nói bậy bạ Hòa thượng chứng cho à, đâu phải chuyện dễ!
Còn cái phần tu giải thoát làm chủ, thì Hòa thượng làm sao biết được, mà đem cái này ra, thì Hòa thượng nói: “Tao không biết, thì mày tu bậy”, phải không? Có đúng không? Mình là học trò, thì Hòa thượng vẫn nói thẳng được chớ sao: “Mày cái này tu trật, tao dạy mày phải kiến Tánh thành Phật, mà mày giờ không có kiến Tánh, mà mày nói cái chuyện mày nhập định gì đây, mày ngoại đạo rồi”, có đúng không?
Hòa thượng nói rõ ràng mà, nói đúng mà, các con hiểu điều đó không? Nhưng mà Thầy đến đó, Hòa thượng ấn chứng Thầy hẳn hòi, đàng hoàng, là Thầy rất là thông suốt Thiền Tông. Coi như Thầy phải trải qua một cái giai đoạn tu Thiền Tông chứ gì, để làm gì? Để Hòa thượng ấn chứng mình, nói Thầy đã chứng được Thiền Tông như vậy, làm cho mọi người tin nơi mình. Nhưng mà Thầy lại hướng dẫn họ đi vào con đường Giới, Định, Tuệ. Mục đích chính là chúng ta nhắm vào chỗ ly dục, ly ác pháp, để làm chủ được bốn sự đau khổ sanh, già, bệnh, chết, chứ không phải ngồi thiền nhập định kiểu này, không phải kiến tánh kiểu này mà gọi là làm chủ được, các con hiểu điều đó chưa?
(15:36) Cho nên vì vậy mà Thầy phải chờ đợi, chịu đựng núp sau lưng Hòa thượng, để giúp đỡ huynh đệ mình, nhưng cuối cùng duyên nó không đủ. Bởi vì mình không có duyên, mình nhờ duyên của người khác, người ta đã có duyên người ta gieo, còn mình không duyên, thì phải tạo duyên mới. Cho nên lần lượt các con đủ duyên hôm nay, là Thầy đã tạo duyên mới các con thấy. Mà tạo duyên mới là vất vả, bữa đi xin, Thầy đặt ra vấn đề bữa đi xin người ta cho thì mình có ăn, mà bữa người ta không cho thì kể như là mình đói, phải không? Chứ còn nhập diệt rồi thì có đói có khát gì nữa đâu, không phải sung sướng sao?
Nhưng mà thương chúng sanh, phải chịu khổ đau với chúng sanh, các con không hiểu, các con tưởng rằng, đâu phải một người mà tu thành rồi họ còn ham danh sao? Họ thấy mang cái thân này là mang cái khổ, mang cái ổ bệnh. Họ đi tới đâu là họ biết cái ngục tù ở đó, đang giam họ trong ngục tù đó, chứ họ đâu có ham sống đâu!
Các con biết, khi người ta làm chủ rồi, người ta muốn đi cho khỏi cái thế gian này liền, nhưng mà ta không nỡ đành lòng. Bởi vì, còn biết bao nhiêu người đang đau khổ trong cái lậu hoặc của mỗi người, cho nên Thầy không bỏ được, chứ còn Thầy bỏ được là kể như Thầy khỏe nhất rồi…
Bây giờ Thầy có duyên, cho nên vì vậy mà các con đến đây, Thầy không bỏ các con, Thầy cố gắng Thầy kéo dài, để mà Thầy chỉnh lại. Bởi vì, Thầy nghĩ rằng có một bậc A La Hán mà ra đời họ đã làm như Thầy, chứ không có người nào mà không làm.
Phật giáo đã bị che phủ hết rồi, mà không làm thì ai biết đường đây? Tất cả những người hướng đến Phật pháp, họ sẽ hướng dẫn sai sao? Cho nên cái quá trình hai ngàn mấy trăm năm cho tới bây giờ, chúng ta mới thấy được những cái bộ sách mà Thầy nói làm cho họ giật mình hết. “Cái ông này, ông ta tu cỡ nào, mà ông ta nói Tổ, nói này kia dữ tợn quá vậy, ông không sợ đọa địa ngục sao?” Trời đất ơi, nếu mà Thầy chưa tu xong đó, đọa địa ngục, Thầy có biết nó ở chỗ nào mà Thầy dám nói kiểu đó. Chắc chắn là cái đầu của Thầy nó kéo xuống dưới, nó dìm xuống dưới, mà nó giật đầu Thầy nó hành hạ, chứ dễ gì nó tha ha?
Nhưng mà Thầy biết rằng mình làm chủ được, không có bao giờ có quỷ sứ, ngưu đầu nào mà lôi đầu Thầy được nữa. Cho nên ai sai là nói sai, mà ai đúng là nói đúng, không sợ ai nữa hết. Người ta tu được, người ta mới dám chứ mấy con nếu mà tu không được, dám nói không? Mấy con bây giờ các con dám nói gì không? Nói đụng tới mấy ông Thầy đó thì coi chừng: “Đừng có nói tới mấy ổng là đọa địa ngục mà chết!”. Nội bấy nhiêu đó thôi là các con cũng hoảng hồn nữa chứ đừng có nói chuyện là dám nói. Ai cũng vậy chớ, nhưng mà cái đôi mắt người ta đã thấy rất rõ rồi, người ta biết được cái sức làm chủ của người ta rồi, người ta đâu có sợ nữa.
Còn người nào lại, ai cũng mang cái tâm sợ sợ, chứ làm sao mà ai không sợ! Nhưng mà khi người ta tu đến nơi đến chốn, người ta đâu còn sợ ai nữa; nói là nói người ta đâu có sợ. Chẳng hạn như bây giờ Thầy đặt thành vấn đề: Các con biết, Thầy chỉ là hạt cát đứng giữa cái bãi cát của Đại thừa. Một hạt cát mà đứng giữa cái bãi cát hàng vạn, như vậy mà Thầy dám nói, thì các con biết là Thầy có sợ không? Nếu mà Thầy sợ, chắc Thầy không dám nói.
Nghĩa là, Thầy nói tất cả những Phật giáo Đại thừa, họ tổ chức các Thầy mà về đây phun nước miếng không thôi thì Thầy cũng ngộp chết, chứ đừng nói chi nó dậm, có đúng không? Chứ đừng nói, Thầy mở miệng ra nói một, chứ họ bác Thầy, họ nói nặng nhẹ Thầy gấp mười lần, chứ đừng có nói. Thầy biết, bây giờ họ đưa lên trên mạng, họ nói Thầy bao nhiêu Thầy biết hết à, chứ đâu phải không biết, nhưng mà họ nói kệ họ, Thầy im lặng như Thánh. Có gì đâu, họ có biết gì Thầy được đâu. Thầy biết hết chứ con!
Nhưng mà, Thầy chỉ ước ao các con tu tập, là tiếng nói của các con trả lời họ đó, còn các con tu tập không được là các con không có trả lời được gì hết. Phải không? các con thấy chưa?
(18:57) Trưởng lão: Thầy ngồi đây chứ Thầy biết hết mọi chỗ. Thầy không có thần thông, nhưng mà họ nói như thế nào, Thầy cũng biết, cũng hiểu hết. Nhưng mà họ là người không hiểu, đáng thương họ chứ đâu phải đáng ghét. Họ bị vì cái kiến chấp của họ theo kinh sách Đại thừa, họ mới luận rằng: “Thầy tu chứng quả A La Hán mà còn biết mình chứng quả A La Hán là không tu chứng quả A La Hán”, họ hiểu theo kiểu Đại thừa đã nói.
Sự thật, trong kinh Nguyên Thủy Phật cũng có nói câu nói đó, như thế nào các con biết không? Khi Thầy nhập định, Thầy ở trong định mà thấy mình nhập định, thì cái kiểu đó làm sao mà có hai cách biết ở trong này một lượt, được không? Các con thấy, bây giờ khi Thầy xuất định ra Thầy biết Thầy nhập định, Thầy chứng quả A La Hán. Nhưng mà khi Thầy nhập định rồi thì Thầy ở trong định hỏi Thầy biết, biết cái gì? Thầy ở trong trạng thái của một cái thế giới khác rồi, chứ bộ Thầy ở đây ha mà Thầy biết Thầy nhập định? Có đúng không mấy con?
Cho nên câu kinh Phật đúng, nhưng mà mấy ông này dựa vào đó để nói: “Một người chứng quả A La Hán còn thấy mình chứng quả A La Hán là chưa chứng quả A La Hán”. Câu nói thiệt là quê! Nghĩa là Thầy hết tham, sân, si, Thầy biết rõ ràng mình hết tham, sân, si. Tâm Thầy vô lậu, người ta chửi Thầy không giận Thầy biết chớ, có đúng không? Họ đâu có ngờ quả A La Hán là ở trong bàn tay của Thầy, người ta chửi mà Thầy không giận là nó ở trong bàn tay của Thầy chứ ở đâu. Mà Thầy hở giận ra nó có lậu hoặc liền đó thì Thầy có ở trong A La Hán không? Chứ đâu phải A La Hán là phải có Tam Minh, thần thông. Nhưng mà từ cái chỗ tâm bất động này, nó sẽ có đủ Tam Minh, thần thông đó mấy con, nó không có thường đâu!
Cho nên đừng có nghĩ cái cao siêu đó, mà hãy nghĩ cái chỗ mà người ta chửi mình không giận nè, ngày ăn một bữa được nè, không còn đói khát, không còn thèm ăn, không còn ttham uống, … Cái này là quả A La Hán trong tay Thầy đó. Các con cũng nắm được hết rồi đó, nhưng mà các con cứ buông, buông giuột ra à. Bữa nay ở đây ăn một bữa, mà mai các con đi ra ngoài, ngồi trên xe: “Thôi bây giờ vô quán này làm bữa sáng, rồi mình đi cho nó khỏe”, thì các con giuột tay mất rồi!
Bờ bên kia không ở mà cứ nhảy qua bờ bên đây ở, thì tức là mấy con bỏ quả A La Hán của mấy con, chứ A La Hán trong tay mấy con chứ đâu. Trong tầm tay của các con đó, người nào cũng có quả A La Hán hết đó, nhưng mấy con cứ giuột tay à. Còn Thầy thì nắm chặt, dù đi tới đâu cũng vậy, đúng giờ thì ăn, mà không đúng giờ thì nhất định không ăn, A La Hán của Thầy rõ ràng! Người ta không hiểu quả A La Hán, người ta chưa chứng quả A La Hán. Cho nên mấy người nói cái câu nói đó Thầy biết, họ chưa được nếm mùi vị A La Hán chút nào hết. Chưa biết! Có đúng không?
Các con thấy rõ mà, Thầy đâu có nói cao siêu, thần thông, phép tắt đâu mà mấy con nói là mấy con không hiểu. Người ta chửi mà mình không giận, thì A La Hán ở đó chứ còn ở chỗ nào nữa mà đòi? Mấy con làm được không? Chưa làm được thì chưa phải A La Hán, chứ còn làm được thì thử coi: Người ta chửi đừng thèm giận, thì có sao đâu! Mình làm được mà, không giận thì được rồi chứ có gì!
(21:38) Cũng như sáng không thèm ăn, thì mình không ăn thì thôi chứ có gì đâu, cái chuyện đó ai làm cũng được hết. A La Hán nó dễ mà, trong tầm tay, nó nắm được ở trong tay mà mình cứ buông ra, cho nên phạm giới, phạm giới là buông ra đó. Quả A La Hán là giới luật đó, bất động tâm đó các con, chứ đâu có cái gì khó đâu. Thầy nói không khó đâu. Giới luật kê ra hết, bao nhiêu Giới nắm gọn không phạm, không vi phạm một lỗi nhỏ nhặt, tức là quả A La Hán ở đó.
Chết nó sẽ trở về đất Phật rồi không còn ở chúng sanh, mình phạm giới là mình còn trở về chúng sanh đó, chớ còn mình không phạm giới là không trở về chúng sanh nữa. Giới vô lậu mà, quả A La Hán là quả vô lậu chứ gì! Cho nên tu giới vô lậu thì nó là xong rồi, chứ còn đòi gì nữa.
Còn Định Vô Lậu, rồi Tuệ Vô Lậu là chỉ chẳng qua làm chủ chơi cái thân này, lấy le người ta chơi, cho người ta biết là tôi làm chủ, muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống. Cái đó là chỉ làm chơi vậy thôi chứ có ăn thua gì, ăn thua là chỗ giới đó các con, nó khó tu là khó ở chỗ giới, chớ không phải là chỗ thiền định đâu.
Cho nên, đức Phật nói thiền định: “Nhập định không có mệt nhọc, không có khó khăn”, có phải không? Còn bây giờ mình cứ lo thiền định, mà cái giới luật thì ôi thôi nó phạm tùm lum, ăn ngày ba bữa mà tối chổng khu ngồi thiền một, hai giờ. Thầy thấy thiệt nó mệt nhọc, thôi đi ngủ đi cho sướng hơn, có phải không? Ăn phi thời, mà ngồi thiền để làm Phật à? Phật sao mà ăn, sống phi thời như vậy? Đâu có đúng! Không, Thầy nói thật, nói đúng. Các con cứ suy ngẫm đi, những cái lời nói đúng, khi nào các con sống đúng, thì các con tu thiền định mới đúng, mà các con sống sai là các con tu thiền định sai, nó lọt vào thiền tà. Bởi vì ngoại đạo nó vẫn theo dục lạc, mà nó vẫn ngồi thiền nhập định, thì thiền đó đâu phải là thiền của Phật đâu! Phải không?
Bây giờ xong rồi phải không? Như vậy là từ xưa đến giờ, từ ngày ông A Nan chết tới giờ không có A La Hán. Mà A La Hán thì trong tay, người nào cũng có hết chứ không phải là không, mà cứ mở tay cho nó giuột nó chạy ra hết, có đúng không? Không chịu nắm lại.
Đó, cái người khôn người ta nắm lại. Cho nên người khôn, người ta ở bờ bên kia, người ta không trở về bờ bên đây nữa, cho nên người ta giải thoát luôn. Còn mình thì nhảy qua nhảy lại. Nghe Thầy nói thì cũng thích, hơi làm được, hơi nhảy trở lại, đặng cho nó giận hờn phiền não, cho nó tức một chút, rồi cái nhảy qua bên đây, đau khổ quá nên nhảy qua bên đây ở một chút, chút rồi nhảy lại. Cứ nhảy qua nhảy lại như vậy, thì biết chừng nào cho ở được bên đây thôi luôn? Phải không? Đúng là mấy con, đời thì không muốn bỏ mà đạo lại muốn thêm, cho nên biết luôn cả hai bên.
Phật tử: Thầy đứng có một bên à!
Trưởng lão: Đúng rồi, Thầy chỉ đứng có một bên thôi, còn bên kia Thầy hoảng, Thầy sợ rồi, Thầy bỏ! Cho nên Thầy dở hơn mấy con, các con ôm đồm luôn cả hai.
(24:15) Trưởng lão: Rồi thôi, bây giờ còn hỏi gì nữa không? Rồi Ngày mai mấy con về phải không? Còn con thì ở lại ráng mà tu tập, có gì thì hỏi Thầy. Để sau này về đó có huynh đệ muốn hỏi, hoặc có chị em huynh đệ nào muốn biết, thì con chỉ lại những cái kinh nghiệm của mình cho đúng để mọi người tu tập. Bởi vì ở ngoài đấy vô đây xa lắm các con, cực lắm. Cho nên có một người nào mà dành được thời gian vào đây tu tập, để rồi về ngoài đó gần gũi với các con, có gì hỏi nhau thì nó tiện lắm. Chứ còn cứ đi ra, đi vô như thế này thì Thầy thấy, nhiều khi gia đình của mình nó cũng còn nhiều công việc lắm, chứ không phải không đâu.
Phật tử: Xin Thầy biên soạn những bộ sách tu tập dành cho người cư sĩ, để chúng con biết cách tu tập với ạ.
(25:15) Trưởng lão: À! Thầy sẽ làm cái điều đó cho các con, bộ sách Đạo Đức Làm Người đó sẽ lần lượt - trong bộ sách đạo đức đó, nó sẽ có những giáo trình cho các con tu tập, đó là bộ sách của người cư sĩ đó các con. Còn bộ sách giới luật, mà Thầy dạy về giới của Sa di, là để cho người tu sĩ, bắt đầu cho người tu sĩ đó. Thầy cũng có viết bộ sách Đạo Đức Làm Người tập 1, tập 2 rồi các con, nhưng mà đây là bộ đạo đức, chứ chưa phải là cái giáo trình. Giáo trình nó cô đọng lại những bài vở, chớ không phải là để cho mình học hiểu. Nhưng mà trước khi mình muốn tu tập, thì mình phải hiểu, hiểu về đạo đức của một con người.
Các con đọc bộ sách Đạo Đức Làm Người, mà Thầy viết tập 1, tập 2 rồi đó, thì đó là khởi sự, bắt đầu cho những chương trình sau này, để soạn thành giáo trình của nó trong những bộ sách đạo đức này. Để sau này các con hiểu, hiểu rồi mình mới biết cách, rồi phải dạy phương pháp để cho các con tập, để giữ được những đạo đức đó. Mình phải hiểu biết về đạo đức của mình trước đã, chứ bây giờ chưa có hiểu về đạo đức mà bắt mình vô, khép vô tu, thì mình không hiểu gì hết. Còn như bây giờ, mình đã hiểu rồi thì bắt đầu: Đây là những đạo đức của mình đây, của người cư sĩ, thì mình phải học, tập, luyện những cái này, cái này… thì đây là cái giáo trình. Cũng như các con đọc bộ: Mười Giới Đức Thánh Sa Di, Tập 2, thì đây là giáo trình cho người Sa di tập trong Giới Hành đó. Các con thấy chưa, nó cụ thể lắm đó.
(26:56) Còn gì hỏi không con? Thôi, bây giờ không có hỏi gì nữa, về mà lo tu tập, còn cái gì đó thì hỏi sau. Lần lượt Thầy sẽ soạn thảo Giáo Trình Tu Tập Cho Người Cư Sĩ, kèm theo đó là có bộ đạo đức cho các con đọc, để học hiểu những đạo đức làm người của chúng ta, từ cách thức: Ăn, mặc, đi, đứng, ngồi, nói, nín, … tất cả mọi hành động. Tập sách Đạo Đức Làm Người, Tập 3 là sẽ nói về thân thành, khẩu hành và ý hành, ba cái cái hành động này là nơi mà nhân quả nó luôn luôn hoạt động ở trên này. Thầy sẽ đem ba cái hành động này, triển khai ra thành Tập 3 Đạo Đức Làm Người đó các con. Khi cái thân của mình hành động, mà có một cái hành động nào đó Thầy nói nó là vô đạo đức, thì Thầy sẽ giải thích cái vô đạo đức như thế nào, cái hành động này phải không nên làm. Còn hành động này có đạo đức, thì hằng ngày nên làm, cái thân này làm cái hành động đó đúng, các con hiểu chưa?
Rồi từ những lời nói của chúng ta, lời nói này đúng, lời nói này không đúng, Thầy vạch từng chút, từng chút… Sau này soạn thành bộ giáo trình, buộc các con phải học tập và tu luyện, từ cái hành động thân, từ cái hành động ý, từ cái hành động lời nói để tạo thành thói quen đạo đức, nó đem lại hạnh phúc cho mình, cho người, nó không làm khổ nhau nữa. Chứ vô tình mình nói một cái, làm người ta giận ầm ầm lên à, phải không? Vô tình, cái hành động của mình làm khiến người ta: “Thấy ghét thằng cha đó quá!”. Có đúng không?
Bởi vì mình vô tình, còn bây giờ mình học rồi, mình biết rồi, muốn làm cái gì đó, thì phải có sự tư duy trong hành động của mình, và khi đó mình tập luyện, nó mới thành quen. Chứ bây giờ, nhiều khi mình làm trước khi mình hiểu nó, làm rồi mới giật mình: “Trời đất ơi, bây giờ làm bậy quá”, phải không? Đó là những cái mà người cư sĩ, cần phải học, tu tập như thế nào, và đó chính là cái giáo trình của các con sau này. Có những cái lớp đó cho các con học tu đó.
Chớ không phải viết cái giáo trình rồi thôi, để cho các con đọc, rồi các con cũng bỏ qua một bên đó. Bởi vì cái đời sống nó chi phối các con nhiều lắm, bắt buộc các con phải vào những lớp này để học. Một tháng có bốn ngày chủ nhật phải không? Phải nghỉ bốn ngày chủ nhật, để vô trong trường học này mà đăng ký, phải học! Nghĩa là người cư sĩ nào cũng vậy, phải vô học, nghĩa là không học luôn, một tháng chọn bốn ngày, mỗi tuần một ngày chủ nhật. Công chức cũng làm được, nông dân cũng làm được, cũng phải nghỉ cái ngày đó, ngày đó là ngày quan trọng cho cái đời sống của mình. Buộc lòng, một tháng mình bỏ ra bốn ngày, một tuần lễ có một ngày học thôi, vô đây học tập. Như vậy là một năm sau thì các con thấy nó như thế nào? Nhiều lắm các con. Giải thoát đó!
(29:17) Ở đâu mà có mở được cái lớp đó, thì thiệt là hạnh phúc cho những người cư sĩ ở đó vô cùng. Rồi không những là người cư sĩ mà cả người không theo Phật giáo đi nữa, cả những người Thiên Chúa, họ cũng đến họ học nữa. Bởi vì, đạo đức chung cho loài người, chứ đâu phải là của riêng Phật tử thôi đâu, mà là của những người khác nữa. Người ta thấy học tốt quá, gia đình anh học, bây giờ anh về anh đối xử tốt, xã hội cũng tốt quá. Thì bên Thiên Chúa người ta cũng thấy vậy, và người ta cũng vào học như thường, mình cũng cho, chứ không phải nói là anh Thiên Chúa thì không được, không có vô Phật giáo học. Thì như vậy là không được, cho luôn hết, hoàn toàn mình chấp nhận hết, cho vô học hết.
Thầy nghĩ rằng, bây giờ đạo đức này là đạo đức của con người, thì không có tôn giáo, không có cái ranh giới của tôn giáo nữa, không còn phe nhóm nữa, mà chỉ là của chung. Cho nên, mở lớp là mở lớp chung cho mọi người, và khi chiêu sinh để vào học, thì người ta cũng sẽ nói rõ trên vấn đề này. Bất kỳ một tôn giáo nào cũng đều có thể vào lớp học Chánh Kiến này học được hết, có thể vào lớp học của giới cư sĩ đều được hết. Người cư sĩ là một con người, nam nữ cũng đều vào trong lớp này học được,vì đây là đạo đức của con người. Nó sẽ thành đó! Rồi sau này các con sẽ thấy, nếu có đủ duyên và Thầy còn sống, Thầy sẽ tổ chức những lớp học này, thì ở Phú Yên hoặc là ở tỉnh nào cũng đều có những cái lớp học hết. Để cho những người không có phương tiện, không có điều kiện để mà đến đây, thì ở tại tỉnh người ta, cũng có nơi để người ta đến người ta học. Trong một ngày chủ nhật, người ta đạp xe đạp đến học cũng được rồi, không cần nhiều, đó là một cái điều kiện để đem lại nền đạo đức cho cả dân tộc mình.
(30:43) Ví dụ như bây giờ các con ở ngoài đó, các con lấy một cái nhà của một người nào đó, của một người bạn nào đó làm lớp học. Đến ngày chủ nhật thì mình mượn cái phòng đó, tập trung nhau học, xong rồi về, cái nhà trả lại cho người ta, người ta sẽ sinh hoạt bình thường. Còn cái ngày học thì thôi làm ơn dẹp cho trống trống một chút để cho mọi người vào học, học xong rồi người ta về, chứ có ở luôn đó đâu.
Như vậy là mình cũng có thể phương tiện, chưa có thành trường lớp hẳn hòi, nhưng cũng có thể mượn một cái căn phòng rộng rãi một chút, mình cũng có thể học tập được. Và đồng thời, những sách vở này cũng đều được xin phép, chứ nếu không, khi các con tập trung thì công an lại họ bắt các con, họ hỏi ở đây tập hợp làm gì đây, phải không? À tôi tập hợp ở đây, rõ ràng là tôi học tập đạo đức, đây là sách vở nhà nước đã chứng nhận hẳn hòi, đàng hoàng. Các con hiểu chỗ đó chưa?
Cho nên phải xin phép đàng hoàng rồi mới có sự sinh hoạt, chứ không có xin phép đàng hoàng mà đưa ba cái sách chưa xin phép thì họ nói đây là ngoại đạo, là tập trung biểu tình chống đối nhà nước, thì mới chết mình đó, phải không? Cho nên ở đây, mình phải thi hành pháp luật nghiêm chỉnh, hoàn toàn ở đâu mình cũng thi hành pháp luật của nhà nước, chấp hành luật pháp của nhà nước hẳn hòi, sách vở xin phép đàng hoàng mới được sinh hoạt, không xin phép thì không nên sinh hoạt. Đó là cách thức như vậy.
Bây giờ Thầy đưa ra những cuốn sách đó cho các con đọc, là để cho các con hiểu thôi, nhưng mà vẫn phải đưa cho nhà xuất bản Văn Hóa hay là Tôn Giáo để người ta sẽ chứng cho mình. Nghĩa là nhà nước đọc rồi, nhà nước kiểm duyệt, nhà nước thấy cái này lợi ích, nhà nước cho phép, chừng đó mình mới có thể tập hợp, sinh hoạt với nhau được, không có sao hết.
Mình phải chấp hành đúng pháp luật của nhà nước, vì mình làm công dân của một nước thì không nên phạm vào pháp luật của đất nước đó được, mình phải giữ gìn nghiêm chỉnh. Đối với Thầy thì vậy, cho nên hôm nay các con ngồi đây yên ổn là vì Thầy là người chấp hành pháp luật nhà nước nghiêm chỉnh hẳn hòi, không có làm sai.
(32:35) Ví dụ như các con đến đây ở, thì cô Út phải khai báo cho những người chính quyền ở ấp, xã là bây giờ có một số Phật tử ở ngoài Phú Yên đến đây thăm Tu viện, ở lại một đêm sáng ra họ về, báo cho người ta biết vậy thôi, rồi người ta mới tin tưởng mình. Bởi vì mình không có làm cái gì xấu, cho nên đó là một cái điều kiện để người ta yên tâm rằng mình quản lý những người đến ở trong Tu viện của mình là những người tốt, người ta không có ngại nữa, chứ không thì người ta rất ngại. Bởi vì, người lạ ở chỗ khác mà đến địa phương người ta, người ta rất lo, không biết mình làm cái gì? Bởi vì, về mặt chính quyền, thì người ta phải lo cái điều đó thôi, phải không?
Cho nên, mình làm người tốt thì người ta tin tưởng, người tốt thì không có những người xấu xen vào được, cho nên các con ở yên. Bởi vì, Thầy là người tốt thì các con mới đến tìm người tốt, chớ không lẽ người đó là người xấu mà đi tìm người tốt phải không? Cho nên toàn là người tốt.
Mà Thầy nói, nếu người xấu mà vô đây ăn ngày một bữa, mà sống độc cư cũng không nổi, sống chịu không nổi đâu, là tại vì cái kỷ luật ở đây nó kỳ cục quá, không ai mà chui vào được. Bởi vì sống không cho ai nói chuyện với nhau hết, rồi ăn ngày một bữa đói thấy mồ thấy tổ, mà ở đây ba bữa chắc chết, thành ra không ai dám ở hết. Mà vô đây thì phải vậy thôi, chứ không lẽ bây giờ các con vô đây rồi trưa các con ăn, rồi chiều các con cũng bày ra ăn nữa sao? Chết bỏ, không lẽ một bữa hai bữa là chết sao, phải không? Không, không làm như vậy được, cho nên có chấp nhận được thì các con sẽ vào đây được, hoàn toàn thấy cũng an ổn chứ đâu có gì đâu. Cũng như giờ này, thay vì ở ngoài đời thì người ta dự định tính đến quán, đến lều, hoặc là lo nấu ăn rồi, còn ở đây thì đâu có, ngồi không chơi thôi, tối ngủ êm re, không có gì hết. Đó là cách thức tu của mình!
(34:11) Trưởng lão: Thôi bây giờ nghỉ nghe con, phải không, có gì nữa không? Nghỉ, đặng cho khỏe chớ. Rồi hỏi đi.
Phật tử: (Thưa hỏi)
Trưởng lão: Rồi hỏi đi.
Phật tử: (Thưa hỏi)
(35:07) Trưởng lão: À, để Thầy chỉ cho cái sai. Bởi vì cái giai đoạn mà con tu để quán thân bất tịnh, để mà đến giai đoạn tác ý bất tịnh của cái thân, rồi nương vào hơi thở, thì nó có nhiều giai đoạn tu trong đó, chớ không phải là một giai đoạn, mà con bỏ cái giai đoạn đầu của con tu. Bắt đầu, bây giờ con mới tập: Giờ mình ăn ngày một bữa phải không? Rồi bắt đầu, tới chiều mình coi cái bụng mình có đói không? Mình mới nói: “Tao ăn một bữa có một ngày nay, chứ bộ tao ăn hoài sao mà mày đói, mày đừng có đói nha, chết mày đó nha!”. Con cứ tìm cách không có làm theo nó, mà con cứ rầy nó, như vậy là con tập ly dần,… ly dục ăn. Rồi con tập ngủ: Bây giờ tới cái giờ mà nó cứ ngồi không là nó dễ buồn ngủ lắm. Mình làm gì thì nó không buồn ngủ, chứ mình ngồi không nó buồn ngủ dữ lắm. Thấy nó buồn ngủ nó gục, thì mình nhắc: “Mày phải tỉnh nghe, có một ngày tu tập thôi mà mày cũng vậy nữa, lười biếng gì dữ vậy, tao đi kinh hành cho mày coi nha, tao đi cho mày biết!”. Con cứ đi tới đi lui mà không cần tập trung, mà chỉ động thân đi thôi, chứ con tập trung sẽ bị nặng đầu đó, con hiểu không? Mình đi mình biết mình đi, chứ coi chừng mình gom tâm, mình sẽ bị nặng đầu, bởi vì thần kinh của con nó sẽ bị căng khi con tập trung, thay vì con ngồi con quán thân bất tịnh, tức là Định Vô Lậu chứ gì? Con ngồi con tư duy suy nghĩ còn nặng đầu kia mà.
Phật tử: (Thưa hỏi)
Trưởng lão: Mà lại quán, lại ngồi đó tư duy ra, nó dài ra?
Phật tử: … con ngồi, chứ không có phải là con ngồi không …
(37:21) Trưởng lão: Đúng là con tu cái đó nó sai, con phải tu ngắn lại. Thay vì bây giờ, con tu một thời công phu, ba lần con tác ý, phải không? Mà bây giờ là con thêm vào để con tư duy nó dài ra đó, thì cái thời gian nó phải dài ra rồi, vậy con nên tu chỉ hai lần thôi, con lại giữ ba lần nữa, cho nên cái thời gian dài, con bị nặng đầu. Con giữ lại hai lần, mà hai lần, con chỉ giữ lại một lần, trong khi đó con đưa ra cái đề tài con quán thêm, tức là định vô lậu nữa, con tu ít như vậy nó vừa phải với con, thì con không bị trường hợp đó đâu, con hiểu không?
Còn đằng này con muốn giữ luôn cả ba lần, như vậy là nó dài quá, thế mà con lại đưa thêm sự tư duy ở trong đó nữa. Cho nên bắt buộc con phải tư duy và đồng thời nó có sự liên tục, vừa tu cái này rồi bắt đầu qua cái pháp khác, nó đâu có nghỉ, cho nên con tu tuy là nhiều pháp, nhưng mà vẫn bắt buộc nó phải làm việc quá trời, nó không có chỗ nào mà nghỉ được, nó tức con nên nó phải căng đầu chứ sao.
Chứ con làm mà con cho nó nghỉ thì nó khỏe quá. Con cặm cụi con cuốc đất một hơi, cuốc đất rồi, con xúm xuống con cấy, con nói: “Bây giờ tao không cuốc đất nữa, cuốc đất mệt, thôi giờ tao khom tao cấy”. Con cấy đàng hoàng rồi, con nói: “Thôi bây giờ tao không cấy nữa, cấy nữa đau lưng tao không thèm cấy nữa, mà tao đi nhổ củ mì, tao lột vỏ hoặc là nhổ khoai lang, về rồi thôi tao cũng không nghỉ được nữa, mà tao lo tao nấu, tao lượm, rửa, rồi tao nấu”…. Con làm những công việc khác, nhưng mà con làm hoài, con không có chỗ nào nghỉ, thì như vậy con phải bệnh chứ sao? Ít ra trong sự tu tập, mình phải có thời gian nghỉ ngơi, phải không? Bây giờ con tu cái pháp này rồi con nghỉ, con nghỉ mà con tập thấy nó lại còn căng đầu, thì con lại lui nó lại cho nó thích nghi. Bởi vì, Thầy nói cái phương pháp tập của Phật nó vừa thích nghi cái thân mà vừa thích nghi… cái tâm nữa.
Phật tử: (Thưa hỏi)
(39:07) Trưởng lão: Vậy thôi chứ gì, bởi vì đó là cách thức mình ham tu, chứ không phải không ham, nhưng mà tham quá nó thành sai, tham lắm! Bởi vì con nói con tham lớn, tham nhiều, cho nên như vậy mà nó bệnh nhiều cũng phải. Cho nên ở đây, khi mà gần Thầy, Thầy sẽ xem từng cái đặc tướng tu tập, Thầy bảo tu như thế nào thì tu như thế nấy, đừng có vội tu cái gì lung tung hết.
Bây giờ, thí dụ gần Thầy, Thầy bảo không có tu quán, tu gì hết, cứ tập đi 20 bước, ngồi xuống thở 5 hơi thở rồi nghỉ, rồi chút nữa đi lại 20 bước, rồi ngồi xuống thở 5 hơi thở. Ngày làm hoài như vậy, mà vừa làm vừa nghỉ, vừa làm vừa nghỉ, chứ đừng có nghĩ mà ngồi đó tập trung quán tư duy cái này, cái kia nữa thì coi như là con tu nữa, thì thôi chết Thầy rồi. Tu như vầy nó căng thần kinh của con. Thôi, bây giờ con lui lại cái pháp đó, để nó thích nghi cho được với cái pháp này đã.
Nghĩa là vừa xả nghỉ, để cho nó thích nghi, để cho đừng có căng thẳng mình nữa. Còn bây giờ con xả nghỉ cái này, rồi con lại tu cái pháp khác, cũng như, cuốc đất đã rồi bắt đầu khom nhổ cỏ, nhổ cỏ đã rồi cấy lúa, cấy lúa rồi nhổ khoai, nhổ khoai về rồi lo rửa, rửa rồi bỏ vô nồi, lặc nấu, nấu rồi cái ngồi ăn. Lúc nào cũng bận rộn như vậy thì chịu sao cho nổi, không có thì giờ nào nghỉ, trừ ra cái ăn, rồi mới bắt đầu đi nghỉ chút. Các con tu nhiều quá luôn rồi đó, không có chỗ nào để cho nó nghỉ nữa.
Cho nên, ở đây Thầy không có bảo các con tu nhiều, mà tu ít thôi nhưng chất lượng, bởi vì mình không tu thì thôi, chứ tu là phải có chất lượng. Không cần tu nhiều hơi thở mà chỉ một hơi thở thôi, mà một hơi thở có chất lượng, mà nó không căng đầu, không gì hết. Thà là một ngày con tu chừng một lần hơi thở, cũng quý hơn con tu mười lần hơi thở, mà một hơi thở rất chín chắn, mỗi một hơi thở vận dụng đúng cách. Thì theo hơi thở thứ hai, mà con tăng lên hơi thở thứ hai, thì hai hơi thở nó giống nhau như hệt, rồi hơi thở thứ ba… Theo một tháng tu tập, thì con thấy được năm hơi thở mà hơi thở này chất lượng, cũng như là hột lúa chắc, không có lép chỗ nào trong đó hết, đó là con tu đúng pháp. Mà tu thấy như là vừa tu vừa chơi vậy, mà nó sướng vô cùng lận, thiệt là hạnh phúc lắm, cho nên tu ít mà kết quả rất lớn.
Từ đó mình cứ tăng dần, tăng dần lên rồi thích nghi, cơ thể nó sẽ thích nghi với cái pháp, và thần kinh của mình nó cũng sẽ thích nghi, cho nên mình chế ngự mà không bị ức chế. Vì vậy mà đức Phật nói: “Chế ngự tâm”, chứ không phải là ức chế. Còn con làm thẳng thừng nó, nó căng, cũng như dây đàn mà căng thẳng quá, nó làm cái “bưng”! Thì lúc bây giờ con đứt mạch máu não rồi, lúc bây giờ chỉ còn có cách nằm đó, chứ không còn cái cách nào khác hơn hết, con hiểu không?
(41:29) Cho nên tu mà không có thiện hữu tri thức, thì nó nguy hiểm vô cùng, như trường hợp của con đó mà bỏ con thì sẽ như thế nào?… Vừa rồi ở Phú Yên cũng có một người vào đây, chú này vào đây, chú cũng tính nỗ lực tu vài bữa để làm A Là Hán cho nó xong. Chú làm riết, … Bắt đầu hồi sáng hôm qua, gặp Thầy chú nói: “Con ớn quá, con vô con tu, con ngán quá trời, nó đánh gì mà buồn ngủ lu bù, nó làm mệt mỏi lười biếng, bây giờ thắng hết nổi rồi, bây giờ không còn sức lực nào để mà thắng”. Bị vì hồi đầu hăng lắm, vô mấy ngày đầu làm dữ tợn, rồi sau đó sức khỏe nó hết, bắt đầu nói quật trở lại, nên bây giờ nó đâu còn cách nào mà tu nổi nữa. Các con thấy chưa, mình phí sức mình một cách vô ích.
Bởi vì, trên sự tu tập của các con là phải dụng công rất nhiều, chứ không có ít đâu, coi vậy chứ mình phải dụng công, chứ không phải mình ngồi chơi được đâu. Không phải nó thường thường đâu, cái gì chứ tu tập là cái vấn đề làm việc rất lớn. Người đời, người ta làm việc chứ cái đầu người ta còn nghĩ ngợi cái này, cái kia. Mặc dù người ta cuốc đất, vậy chứ người ta còn nghĩ cái này, cái kia; còn mình bắt anh ta làm theo mình không à, không có cho làm cái khác, không cho nghĩ cái khác. Nó cũng tức mình ở trong đó lắm, nhưng mà nó chưa có nói được, đến chừng nó thấy phản công được, nó nói: “Cho mày chết chứ ở đó mà mày bắt tao…”. Đấy, cho nên các con là bị nó đấu tranh trở lại, chứ không có gì hết.
Cho nên ở đây, gần thiện hữu tri thức là nhờ người ta dạy mình từng bước. Bước bước nào chắc bước nấy, để lỡ nó té rồi thì nó ngán lắm, nó té xuống mà đứng dậy, đứng hết muốn nổi đó. Hầu hết, có một số người về đây tham lắm, vô nghe pháp Thân Hành Niệm bèn ôm luyện liền, để cho có mười thần lực, để mau chứng quả A La Hán, bay trên trời ngồi chơi cho khỏe. Nhưng không ngờ, bay lên trời không được, mà nó ngồi nó lết xuống đất, chừng đó hết tu nổi, phải bỏ cuộc chạy ngay à.
(43:07) Đó, như vậy, cho nên bây giờ con phải chuẩn bị sửa lại đi, phải biết tu cho đúng cách. Bởi vì, đức Phật ví dụ như sợi dây đàn: “Chùng quá thì không thành âm, mà thẳng quá thì không được”, mình tu tập cũng như vậy. Chớ không phải là thấy pháp nhiều quá: “Trời ơi, pháp nào cũng tu ngon quá”, ôm hết pháp này, ôm tới pháp kia, tác ý lia lịa đủ thứ hết, làm việc tối ngày. Trời đất ơi, làm thiệt siêng năng. Nó siêng năng có một lúc à, rồi sau đó nó lười biếng, rồi bây giờ nó hết muốn làm luôn. Bây giờ có lấy roi mà đánh, nó cũng nằm vạ đó, không thèm đứng dậy làm đâu.
Thầy nói thiệt, chừng mà nó làm biếng rồi, chừng mà nó hết sức rồi, các con có muốn gì nó cũng không làm, nó ngồi đó không thèm làm cái gì nữa hết. Nó chống lại đó, cái thân cái tâm của mình nó kỳ lắm, vậy chứ nó cứng đầu ghê gớm lắm. Cho nên đức Phật nói: “Thân không phải là ta, không phải của ta, không phải là bản ngã của ta”, cho nên tới chừng nói nó không chịu nghe mình rồi, thì mình không có làm gì sai nó được hết, nó khó lắm. Các con thấy cái chướng của nó không? Bảo nó đừng ngủ, vậy mà nó cứ gục à, mà đi thì nó đá chân này, nó đá chân kia, mà biểu nó thức, nó cũng không thức nữa. Nó khó lắm chứ không phải dễ đâu, coi vậy chứ mình có cái thân mà như thân của ai đâu, chứ không phải của mình. Bảo nó không nghe! Nó muốn ăn mà mình không cho nó ăn, nó tức tối lắm chứ không phải không đâu, nó làm thế này, thế khác để cho mình ăn, chứ đâu phải dễ đâu các con. Mình không cho nó ăn, cái bắt đầu nó sôi ruột, nó làm xót ruột, nó làm sôi, … Rồi nó làm chóng mặt, để cho mình nghĩ: “Trời ơi, thôi chắc chết, bệnh chắc chết, thôi làm miếng cháo đi, cho nó khỏe lại”. Nó làm như vậy là nó phản công, nó đánh mình đó, nó làm cho mình sợ.
(44:44) Phật tử: Trình bày thắc mắc vì sao sự tu tập của mình có lúc thiệt khỏe, có lúc lại hết muốn nổi luôn…
(45:08) Trưởng lão: Nghĩa là con biết sao không? Từ lâu tới giờ chưa có tu, bao nhiêu cái sức khỏe của con nó gôm lại đó, bây giờ bắt đầu nỗ lực tu, nghe nó khỏe quá. Đến chừng nó tiêu hao hết rồi, bắt đầu nó hết cái lực của con rồi, coi như nó hết cơm rồi, bắt đầu nó chống lại, rồi tu sao hết muốn vô, đó là hết cơm đó, tức là nó hết sức khỏe rồi. Còn hồi đầu tới giờ chưa tu, bắt đầu tu một ngày thấy phấn chấn thực, tu đâu cũng được đó nên mừng. Nhưng mà sự thật ra, từ cái lúc đầu đó mình phải biết tiết kiệm cái năng lượng của mình đó con. Ngay từ lúc đầu đó, để dành dụm cho mình tu từ từ, từ từ, mình sử dụng việc này lâu dài mà. Cũng như bây giờ có cái bồ lúa để từ từ mình ăn, chứ bây giờ mình đem ra mình xài hết, mai mốt nó đói chết đó. Cho nên con tận dụng để cho nó mau, lấy hết cái sức của mình có từ hồi nào giờ đó mình tu, để cho nó mau, nhưng mà không ngờ là nó dốc hết cái năng lượng của mình rồi.
Con đường này là con đường đi dài, chứ không phải là con đường đi ngắn được đâu. Cho nên vận dụng như vậy không được đâu. Vì vậy, cho nên bắt đầu tu để mình sử dụng cái năng lượng của mình đang có, mình xài ít ít, ít ít, từ từ, rồi từ cái chỗ mình vừa tu đó, mình vừa chế được cái năng lượng thêm ra. Tức là mình an trú được trong một hơi thở, hai hơi thở, đó là nó chế thêm cái năng lượng, nó dồi dào, vừa tiêu thụ mà lại vừa có năng lượng thêm vô. Còn đằng này có bao nhiêu con xài hết, vận dụng xài hết mà sự tu tập chưa có năng lượng gì hết, cho nên nó không có bồi dưỡng vô thêm, mà còn bắt buộc ăn phải ăn ít nữa, thành ra thiếu quá thiếu. Cuối cùng thì nó phản ứng lại, làm cho mình tu không được.
(46:36) Bởi vậy, đó là những cái kinh nghiệm, rút ra những kinh nghiệm để cho chúng ta biết cách thức tu cho đúng. Vì vậy mà trải qua một thời gian ở đây Thầy hướng dẫn, những cái kinh nghiệm này là những kinh nghiệm ngàn đời, mà chỉ có Tu viện này mới có những cái này, chứ thiệt ra thì chỗ khác cũng không có, chứ chỗ này có, không ở đâu có, sự thật đó. Cho nên, rút ra từng cái kinh nghiệm của mọi người, của huynh đệ với nhau, để rồi chúng ta chia sẻ nhau trên cái chuyện tu tập. Người mà tu được chia sẻ những cái điều kiện là tại sao họ tu được. Họ giúp đỡ cho mình, rồi từ đó mình rút tỉa những kinh nghiệm đó, mới áp dụng vào mình. Người này giúp cho người kia, người kia giúp người nọ, kế đó là có Thầy nữa, cho nên vì vậy mới vững vàng. Còn nếu mà tự tu cái pháp kỳ cục, nó xả tâm mà lại nó kỳ dữ, nó làm cho mình rối loạn ghê gớm.
Bởi vì, cái mục đích là chúng ta đi ngược lại cái tâm của chúng ta, cho nên nó bị rối loạn, chứ còn mình cứ để nó dục đi, rồi mình tu cái khác thì nó không sao. Bởi vì đời thì mình cũng còn giữ đó chứ chưa bỏ, mà đạo thì mình thêm, cho nên nó không sao. Cho nên tu như mấy ông Thầy Đại thừa mập thù lù, mà nó không có sao hết, còn mình tu ít bữa cái thân nó ốm nhom! Nó đi ngược, nó đi ngược lại nên cái thân nó ốm, cho nên bắt đầu ôm pháp vô, nó ôm hết muốn nổi.
Còn mấy ông đó, ôm pháp vô mà đời không bỏ, cho nên đời nó làm cho họ sung mãn, rồi họ lại thêm cái dục của pháp nữa. Cho nên từ đó, nó bồi dục lên, thành ra họ tu nó dễ dàng lắm, nhưng mà tới đâu thì nó không tới, bởi vì dục nó không có ly. Còn mình đi ngược lại là mình ly, cho nên nó làm cho mình từ lâu tới giờ đã quen dục, mà bây giờ nó ly tức là nó sẽ làm hao hụt, mà hao hụt là tại vì mình ly dục. Bởi vì mình không ly thì làm sao được? Mà nếu mình ăn ba bốn bữa thì làm sao mình ly? Buộc mình phải ăn một bữa đủ sống thôi, cho nên nó ly rồi.
Rồi bắt đầu, bây giờ cái pháp lại ly nữa, hai cái đều ly hết. Hồi nào tới giờ, lúc nào muốn ngủ, thì mình cho nó ngủ thẳng cửa, còn bây giờ thì không cho, buộc lòng nó phải ly. Thì bây giờ ly được cái ngủ rồi, thì cái pháp mình ôm mình tu thì nó lại hao cái sức của mình. Cho nên mình ly cái này mà mình lại vận dụng những cái lực của mình, làm cho càng ngày mình thấy như là kiệt quệ, nó không có…
Cho nên ở đây, nó đi ngược lại cái dòng đời, nó không giữ cái đời, mà nó tiếp tục ở trên cái pháp. Mà cái pháp lại tiếp tục ly, nó làm rối loạn cả cái tâm và cả cái cơ thể của nó, nó rối loạn hết. Cho nên khi mà rối loạn, thì các con hoảng hồn: “Ủa, trời đất ơi! Sao nó kỳ, nó cũng ly, tu tập sao nó gì, nó sao vầy?”.
Thì các con thấy: “Trời ơi, vậy làm sao tu được?”. Nhưng mà không ngờ, là khi hỏi rồi, nhờ Thầy sách tấn, nhờ huynh đệ khích lệ với nhau, nên ôm pháp tu vượt qua. Khi vượt qua được rồi, thì bắt đầu nó ly rồi, cái thân nó khỏe mạnh trở lại. “Trời, ăn ngày một bữa tu tập nghe nó an lạc”. Nó lọt vô trong cái vòng an lạc, mà nếm được mùi vị giải thoát nữa. Trời ơi, sung sướng biết mấy! Bây giờ mình mới ở trong cái thế giới khác rồi, mỗi lần mà ôm pháp tu mình thấy mình ở trong một cái gì đặc biệt vô cùng đó, lúc bây giờ thích rồi.
Cho nên con không vượt qua được chỗ này, mùi vị giải thoát không có, cho nên nó ngán quá chừng! Cho nên sửa lại, sửa lại để rồi nếm được cái mùi vị của bánh ngọt, của trung thu này mới được.
(49:40) Phật tử: Thưa Thầy, con thấy có lúc sao mà cũng câu nói đó, mình xả nó dễ dàng, nhưng cũng có lúc sao mà nó cứ nghẹn lại ở cần cổ?
Trưởng lão: Nó không chịu xả ra.
Phật tử: Con đang không hiểu là tại sao mà nó cứ nằm ở đây?
(51:02) Trưởng lão: À, bởi vì con nên nhớ rằng trong cái thời gian tu, mình phải biết cái lúc mà tâm nó ly dục được rồi, thì người ta nói gì mình thấy cũng thản nhiên. Còn khi mà nó không ly được tức là có lúc nó ly, mà có lúc nó chưa ly, bởi vì mình chưa phải ly đều. Cho nên có lúc nó không ly đó, thì cái chuyện không cần mà sao lại nó cứ ấm ức, nó tức hoài mà xả không được. Tức là, lúc đó là lúc cái tâm nó không có ly, còn cái lúc mà nó ly, con thấy nó thản nhiên lắm.
Còn hồi nào tới giờ mình chưa tu thì lúc nào nó cũng ấm ức được hết, có đúng không? Còn bây giờ mình đã tu rồi, cho nên có lúc nó ly, cho nên có lúc con thấy con ôm pháp vô thì nó an lạc vô cùng. Nhưng mà có lúc ôm vô nó không có an lạc, tức là lúc đó là lúc chưa có ly. Nhưng mà tại sao có lúc được, lúc không? Có lúc cái tâm của mình nó không có ly, còn có lúc tự nó ly, rồi có lúc nó chưa có ly, con hiểu chưa?
Cho nên cái câu nói, con xét lại nó cũng tầm thường, mà sao nó cứ nghẹn cổ mình, nó tức, kỳ lạ! Đó là lúc nó không có ly, nó cứ ở trong bụng mình hoài là nó không có chịu ly. Cho nên vì vậy, mình phải đầy đủ nghị lực, phải chiến đấu với nó, mình phải tác ý, mình phải tư duy, mình phải suy nghĩ về cái điều đó, để làm cho nó giảm cái lực của nghiệp đó. Bởi vì cái lực của tham sân si nó có, mà lúc bây giờ cái tham sân si của con, cái lực nó đang ở trong cái chỗ con, nó chưa có ly. Cho nên cái lực nó nằm đó, mà khi người ta động đến nó, mà cái lực nó còn ở đó, thì tức là nó nghẹn ngào nó tức.
(52:21) Còn khi mà nó ly rồi, thì người ta có nói gì sao nó thấy thản nhiên quá, mình nói sao có lúc vầy lúc khác, kỳ? Tại vì con biết Phật pháp nó mới vậy, chứ còn con không biết Phật pháp thì nó thẳng thừng, lúc nào nó cũng tức được hết, con hiểu chỗ đó chưa? Nhờ biết Phật pháp mà có lúc nó ly, cho nên mình thấy nó dễ, dễ qua, dễ vượt qua; có lúc mà nó không ly, nó ấm ức, cho nên mình biết: “Mày còn, chưa hết”. Cho nên: “Mày còn đây, mọi lần tao thấy mày dễ quá, mà sao bây giờ mày như vầy, tức là mày còn, tao cố gắng tu nữa”. “Tâm như cục đất, ly sân hết đi”, “mày còn ở đây là chết!”. Con nhớ vậy nghe! Con nhớ thì con hãy bền chí. Tức là mình ly chưa hết, chứ không có gì hết, mà ly sạch rồi thì tức là con thấy thanh thản, không có gì hết.
Cho nên, đó là những cái kinh nghiệm, có tu mới biết được những cái này, chứ còn không tu, nếu mà con chưa có thực hành, thì con chưa có biết cái này đâu. Chính những cái giá trị của người tu là hỏi trong cái thực hành đó các con, còn cái mình hỏi chữ nghĩa để mình hiểu là để hiểu chơi; chứ còn hiểu mà như cách con hỏi Thầy, cái đó mới là hiểu trong cái thực hành.
Mình có thực hành mình mới thấy lạ lùng: “Sao cái tâm mình lúc chuyện người ta nói, lẽ ra cái câu đó mình ấm ức chứ, mà sao nó chỉ xả như thường; còn cái chuyện câu này họ nói vậy đó, mà sao nó nghẹn tức cổ mình như thế này”?
Bây giờ mình biết, lúc đó là lúc anh ta nằm im, chưa có ly, cái tâm của mình thời điểm đó nó không có ly. Còn cái thời điểm này anh ta đang ly, cho nên đằng kia đánh vô mà lúc này anh ta ly rồi, nên vì vậy nó thản nhiên lắm. Cho nên tiếp tục! Bây giờ mình biết nó chưa có hết, cho nên như vậy tiếp tục ly ra, ly riết cái lực của tham sân si nó hết. Nó hết thì nó không còn cái chỗ mà tức nghẹn mình nữa, không còn tức giận nữa, con hiểu chưa? Đó là cái pháp ly. Cho nên mình nhắc, nhắc hoài, nhắc: “Tâm như cục đất ly tham sân si đi!”.
(54:02) Phật tử: Trình bày về cách nhiếp tâm trong Định Niệm Hơi Thở của mình như vậy, không biết là đúng hay sai?
(56:06) Trưởng lão: Sai! Con tu sai pháp, bởi vì cái pháp Định Niệm Hơi Thở đó, thì đầu tiên: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, Thở ra tôi biết tôi thở ra”, đó là cách thức nhiếp tâm trong hơi thở, con hiểu không? Đó là nhiếp tâm trong hơi thở. Bây giờ nhiếp tâm được trong hơi thở rồi thì nó sẽ có một cái tụ điểm là chỗ tập trung của nó. Cho nên đức Phật mới dời cái tụ điểm đó, không có cho chúng ta tập trung trong cái tụ điểm đó nữa.
Cho nên sau khi mà chúng ta tu 30 phút của nhiếp tâm trong hơi thở, của cái đề mục thứ nhất. Mà nhiếp tâm trong 30 phút, thấy không có một cái niệm nào khởi, tức là chế ngự tâm, chứ chưa phải ức chế, bởi vì ức chế nó sẽ hiện ra cái tướng trạng định của tưởng. Còn bây giờ nó chưa có gì hết, trong 30 phút chưa có hiện ra, còn nếu 30 phút mà nó đã hiện ra một tướng trạng tưởng nào đó, nó thấy hình ảnh người, hoặc nó nghe âm thanh trong tai, là mình lui lại 20 phút, không được 30 phút nữa. Nếu 20 phút vẫn còn có âm thanh, sắc tướng tưởng hiện ra, thì lui lại 10 phút, mà nếu còn nữa thì chỉ còn có 5 phút mà thôi, nghĩa là đừng có cho nó hiện ra cái tướng tưởng, là mình nhiếp tâm được trong hơi thở.
Phật tử: Trình bày cách kết hợp giữa Định Niệm Hơi Thở với sự tư duy để quán, như vậy là có đúng không?
(57:33) Trưởng lão: Không được! Bởi vì con tu sai cái chỗ đó, là vì cái chỗ mà hơi thở, Thầy muốn nói, nhắc lại cái đề mục đầu của hơi thở, là mục đích nhiếp tâm, rồi an trú tâm cho được ở trong cái hơi thở. Cho nên: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”, nương vào hơi thở mà thân của mình phải an ổn. Mà khi tâm an ổn được rồi, tức là phải có cái trạng thái an ổn xuất hiện, tức là con sẽ an trú được trong hơi thở của tâm và của thân, con hiểu chỗ an trú chưa?
Trong khi con chưa đạt được cái sự an trú đó, mà con lại tu tới cái đề mục: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô”… Cái câu nói của người ta tác ý như vậy nó ngắn, nó vừa với hơi thở, thì con lại đưa cái định vô lậu vô để con tư duy cái câu đó, tham như thế này, thế khác,… Làm sao mà cái hơi thở của con cho đủ với cái chỗ mà con tư duy, phải không?
Cho nên vì vậy mà con đã sai! Sai thứ nhất là sai cái pháp tu, sai thứ hai là câu hữu không đúng cách, câu hữu là kết hợp giữa định vô lậu trong hơi thở, thành ra cái pháp quán. Còn chữ: “Quán ly tham” có nghĩa là cái câu tác ý thôi, chứ không có phải là quán. Tác ý để làm cho khi mình an trú trong đó, cái tâm mình muốn cho cái tâm tham của mình ly, tức là nó ly cái triền cái của nó, cái tham triền cái của nó, chớ không phải là tham kiết sử, con hiểu không?
Cho nên, cái mục đích nhắc như vậy, có nghĩa là cái tham này nó phải đi đi, chứ nó không có được ở trong tâm nữa mà thôi. Nhưng vì nhờ an trú, cho nên cái tham đó nó lìa ra, con hiểu không? Là nhờ mình an trú được trong hơi thở. Còn bây giờ, con vừa nhiếp hơi thở, mà cái trạng thái kết quả của con là sáu cái đề mục đầu tiên chưa đạt được kết quả, chỉ đi luôn cho hết mười tám cái đề mục này: “Quán ly tham”, “quán vô ngã”, “quán từ bỏ”, gì gì đủ thứ hết. Nhưng mà cái kết quả của những đề mục đó chưa có cái kết quả nào chắc ăn hết.
Phật tử: Thưa hỏi Thầy về cách làm thế nào để diệt được tâm tham bằng Định Niệm Hơi Thở.
(59:43) Trưởng lão: À, bây giờ diệt cái tham như thế này, để Thầy chỉ cho con, diệt được bằng cái đề mục này đây.
Bây giờ cái tâm con nó tham ăn, con thấy nó bây giờ nó muốn ăn chứ gì? Bắt đầu con mới tác ý, con an trú được trong hơi thở rồi chứ gì? Thì con sẽ tác ý như thế này: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, Quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Con chỉ tác ý như vậy thôi thì nó hết muốn, nó không còn muốn ăn nữa. Nó mắc an trú ở trong hơi thở làm sao nó nhớ ăn được nữa, cho nên nó ly cái tham của con rồi, con hiểu không?
Bây giờ quán ly sân chớ gì, con đang thấy nó nghẹn cổ con đây nè, phải không? Nó tức, nó nghẹn cổ con, rõ ràng nó không chịu hết sân nè, thì bắt đầu con ngồi con nương vào hơi thở, con nhiếp tâm vô hơi thở, con an trú trong hơi thở, con mới nhắc: “Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, Quán ly sân tôi biết tôi thở ra”. Khi đó con an trong đó rồi, con đâu thấy sân nữa, cái nghẹn cổ của con nó hết liền à.
Đây là cái pháp đối trị, đối trị cái chướng ngại pháp, cái ác pháp nó đang bị chướng ngại, chớ không phải ngồi đó mà để tư duy quán cái tham của mình, để cho mình thâm sâu, để cho mình xả cái tham. Không phải, đây là mục đích đối trị với cái ác pháp nó đang tác động trên tâm, trên thân của con, con hiểu chưa? Đó là pháp Định Niệm Hơi Thở, nó có mục đích là như vậy thôi.
Còn bây giờ, con lại câu hữu với cái định vô lậu, con quán ly tham, rồi con ngồi con tư duy ly tham… Trời ơi cái hơi thở của con, không biết là bao nhiêu hơi thở nó mới có được cái khoản thời gian mà con ly, con tư duy cái chỗ tham của con, phải không? Như vậy là con sẽ sai mất rồi, không có đúng đâu. Cho nên, đó là con câu hữu không có đúng với cái pháp của Định Niệm Hơi Thở.
(1:01:12) Còn bây giờ đó, con thấy như thế này, con tu hơi thở, rồi con câu hữu với Pháp Vô lậu này, Định Vô Lậu này, thì con đang hít thở: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, Thở ra tôi biết tôi thở ra” chứ gì? Bây giờ đó, con đang tu, biết ra biết vô, con đang an trú ở trong hơi thở chứ gì, bây giờ con đang quán tới cái đề mục, thí dụ như cái đề mục: “Quán ly sân tôi biết tôi hít vô” hay “Quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi hít vô, … tôi thở ra” chứ gì? Bỗng dưng nó có một cái niệm, cái niệm đó chớ không phải là cái chỗ mà con quán tham, quán sân, mà con đưa cái đề tài tham, sân rồi con mổ xẻ trong đó là không có được.
Cái câu của người ta là để cho mình ngầm mình tác ý, để cho nó phá vỡ những cái triền cái tham sân si của nó thôi, nó ngầm nó phá thôi, còn đằng này con đem mổ xẻ nó thì không được, nó mổ xẻ là như thế này: Con câu hữu cho đúng cách, bây giờ con đang hít vô thở ra và con đang tác ý: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, Quán ly tham tôi biết tôi thở ra”, bỗng dưng trong đầu con nó khởi ra một cái niệm, là bây giờ nó tham cái gì đó, phải không?
Cho nên bây giờ, thí dụ đặt thành vấn đề, tham sắc dục đi, rồi con mới đưa cái niệm sắc dục ra con mới quán bất tịnh nó đi, để con nhàm chán chứ gì? Thì bây giờ con mới không nương vào hơi thở, mà con ngồi đó tu Định Vô Lậu, con mới suy nghĩ, chứ con không có nương hơi thở nữa. Tôi dừng cái hơi thở tôi lại, cái pháp hơi thở tôi dừng lại. Bây giờ tôi đưa cái đề tài của cái niệm trong đầu tôi nó khởi ra nè, tôi đưa đề tài đó mà tôi muốn mổ xẻ, tôi quán chừng nào mà tôi thấy tôi nhàm chán nó rồi, tâm tôi nó hết cái đó rồi, nó không còn tham nữa thì tôi xả tôi đứng dậy. Mà nếu còn giờ thì tôi bắt đầu, tôi hít thở lại, mà nếu hết giờ thì tôi xả tôi nghỉ luôn.
Con hiểu chỗ đó chưa? Tu vậy mới đúng, chứ không phải là như con, con vừa tư duy, vừa quán cái tham của cái câu mà con tác ý. Thì như vậy nó trật pháp mất đi, con hiểu không? Câu hữu là tại vì có cái niệm khác nó xen vô, rồi bắt buộc mình đưa cái đề tài của cái niệm đó, mình dừng cái pháp này mà tu tập cái định khác, gọi là câu hữu giữa hai pháp, chứ không phải là cài hai pháp với nhau mà tu kiểu này, không có được!
Phật tử: Trình bày trình bày sự hiểu của mình qua lời hướng dẫn của Thầy.
Trưởng lão: Ừ, nó vậy đó, con hiểu chưa? Còn cái kia là mục đích để đối trị. Bây giờ cái tâm mình sân thì mình nương vào hơi thở an trú nó, thì cái sân nó tan biến liền, gọi là: “Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân tôi biết tôi thở ra”.
(1:03:33) Phật tử: Trình bày về kinh nghiệm nhiếp phục tâm sân bằng hơi thở không được, bèn chuyển qua pháp Thân Hành Niệm thì nó hết nghẹn cổ.
(1:03:59) Trưởng lão: Đó, bởi vậy con phải biết áp dụng pháp, thí dụ bây giờ con không áp dụng vào hơi thở thì con sẽ áp dụng pháp Thân Hành Niệm. Bắt đầu con thấy nó nghẹn như vậy, là nó tức rồi đó, thì con áp dụng vào pháp Thân Hành Niệm, con đưa cánh tay ra, đưa cánh tay vào; con duỗi chân ra, duỗi chân vào, con đứng dậy, con bước đi… Con nhiếp phục cái tâm trong cái thân hành của con. Khi mà con nhiếp phục cái tâm trong thân hành, con an trú được tâm con trong thân hành, thì tất cả những cái chướng ngại pháp đó đều bị phá vỡ hết, nó bị phá hết, không còn nữa. Nó không còn có một chút xíu gì hết, và trở thành một trạng thái an lạc trên cái thân hành của con.
Cho nên tu tập nó rất hay, là nó phá được những cái chướng ngại pháp, nó làm cho ác pháp không tác động trên Thân - Thọ - Tâm - Pháp của con được, đó là mình tu đúng pháp rồi đó. Cho nên cái điều kiện cần thiết là khi tu, phải nhiếp phục được tâm và an trú được tâm; an trú được tâm trong thân hành, thân hành niệm nội hay thân hành niệm ngoại, là hai cái điều kiện căn bản nhất của người tu.
Nhưng mà cái này nó khó, hễ tu sai là bị căng, nó làm cho cơ thể bị rối loạn. Cho nên vì vậy mà, khi hướng dẫn về phương pháp tu này thì người ta sẽ hướng dẫn mình từng bước, từng bước để cho mình nhiếp được tâm và an trú được. Nó an trú, con thấy nó an trú đó, thậm chí như thế này nè: Khi mà con an trú cái thân con đau, thì con không biết đau, con không nghe đau đâu, cái âm thanh bên ngoài người ta la, con cũng không nghe đâu. Bởi vì nó an trú, nó bám vô trong cái pháp, nó trú ở trong đó, gọi là nó trú trong đó chứ không có ló cái đầu nó ra, cho nên con không có nghe! Mà con còn nghe là bị phân tâm, con còn thấy là bị phân tâm, tức là chưa an trú. Chứ nó đã an trú rồi thì Thầy nói, cái bệnh của Thầy, thật sự cái thân này có đau cái gì, mà đã an trú vô đó rồi là nó hết đau liền. Cái pháp của Phật hay như vậy đó. Bởi vì nó là an trú, cho nên nói: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”, cái thân nó an ổn, cho nên nó rất là tuyệt vời!
Phật tử: Khi an trú thì nó có niệm gì không?
Trưởng lão: Nó không có gì hết à, nó an trú nó không có niệm.
Phật tử: (Thưa hỏi)
Trưởng lão: Ờ, vì vậy mà con bước thêm, con tham quá, rồi con câu hữu hai pháp mà trở lại nương vào hơi thở, nó trật.
Phật tử: (Thưa hỏi)
(1:06:06) Trưởng lão: À, tu được cái chỗ đó là căn bản lắm rồi đó, mà nếu được hướng dẫn nữa thì áp dụng trong Tứ Niệm Xứ, chứ không có tu pháp đó nữa, con không có tu Định Niệm Hơi Thở nữa, cũng không có tu Định Vô Lậu nữa, mà tu Tứ Niệm Xứ. Khi mà trên Tứ Niệm Xứ có những cái chướng ngại, thì mình dùng cái phương pháp đó để khắc phục tham ưu cho nó rời khỏi Tứ Niệm Xứ của mình. Cho nên, luôn luôn để mà sung mãn Tứ Niệm Xứ là không có chướng ngại trên Tứ Niệm Xứ, mà chỉ có 12 tiếng đồng hồ là nó xong công việc đó, đó là con an trú được.
Nếu mà con bước qua cái giai đoạn tu tập Tứ Niệm Xứ rồi, thì coi như là trong 12 tiếng đồng hồ, thì cái tâm thanh tịnh hoàn toàn, nó ly dục ly ác pháp hết. Khi nó ly hết rồi mà không có Tứ Như Ý Túc, thì mới ôm pháp Thân Hành Niệm, con tập chừng nửa tiếng, một tiếng đồng hồ thì cái lệnh của con nó sẽ hiện ra, cái lệnh Tứ Như Ý Túc nó hiện ra đủ. Thì chừng đó nhập định, hoặc là thực hiện Tam Minh. Sau khi con thực hiện trong vòng chừng mấy tiếng đồng hồ, mấy tiếng đồng hồ xong rồi, thì coi như là con hoàn tất con đường tu rồi, khỏi cần tu gì nữa hết.
Phật tử: (Thưa hỏi)
(1:07:13) Trưởng lão: Đó! Thì bây giờ con tiếp tục, những cái niệm, cái thân của con nó khởi tham sân si, thì con sử dụng các cái pháp mà con nhiếp tâm an trú được, thì con đẩy lui nó hết, nó không có sai mình được nữa, nó không làm cho cái tâm mình khởi tham sân si được nữa, thì nó sẽ bị diệt. Nó diệt thì tâm hết phóng dật, thành ra nó thanh thản, an lạc, vô sự hoàn toàn.
Cũng là nỗ lực tu, mặc dù là chưa có Quy Y, chưa có gì hết mà cũng là ham pháp tu đó chớ, như vậy là con cũng gan lắm, đó là tự Quy Y Phật, Quy Y Pháp, Quy Y Tăng rồi đó. Như vậy là cái ý chí cũng lớn lắm, chứ không phải nhỏ đâu. Nhưng mà cái tham cũng dữ, tham dữ quá, cho nên mới kết hợp bậy đó, kết hợp sai pháp, nếu mà con không hỏi là con sẽ tu trật đó, tu lạc đường.
Các con còn hỏi gì nữa không? À bây giờ có tu có gặp cái gì thì hỏi, vậy đi, Thầy sẽ dạy cho để tu. Thầy xác định từng pháp, để cho các con biết cái sai, cái đúng của mình, để mình chỉnh thôi, đó là cái quan trọng nhất.
(1:08:47) Có nhớ gì thì hỏi, không có thì thôi cứ về, rồi Thầy sẽ gửi sách cho, để các con đem về nghiên cứu, đọc, rồi tập, rồi mới hỏi, như con hỏi Thầy vậy, để mà mình biết cách mình tu tập. Các con cứ hỏi thì sẽ được Thầy xác định cho các con cách thức tu tập, không có sao. À thì thôi, nghỉ con.
HẾT BĂNG
PHẬT TỬ CAM RANH 03 - TRIỂN KHAI TỨ DIỆU ĐẾ
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời lượng: [01:32:28]
Tên cũ: Cam Ranh 3-Triển khai Tứ Diệu Đế
https://thuvienchonnhu.net/phap-am/phat-tu-cam-ranh-03-trien-khai-tu-dieu-de
https://thuvienchonnhu.net/audios/phat-tu-cam-ranh-03-trien-khai-tu-dieu-de.mp3
(00:04) Trưởng lão: Hôm nay, các Phật tử có duyên về thăm Tu Viện. Và được nghe những lời pháp nhũ của Thầy, để thấy rõ được con đường tu tập của Phật giáo như thế nào đúng, như thế nào sai.
Như chúng ta đã biết, bài pháp đầu tiên gọi là Tứ Diệu Đế - bài pháp mà để thuyết phục được năm anh em Kiều Trần Như để triển khai đạo Phật, cái giai đoạn đầu rất là khó khăn.
Khi chúng ta nghe được bài pháp mà đức Phật tu chứng đạo, xong rồi muốn trở về độ hai vị thầy của mình, nhưng lúc bây giờ hai vị thầy đã mất. Chúng ta đặt thành vấn đề, nếu hai vị thầy còn sống, phỏng đức Phật về có độ được hay không? Đó là một điều rất quan trọng. Nếu không đủ khả năng thì chắc chắn đức Phật không thấy được cái duyên của hai vị thầy này; cho nên khi thấy được cái duyên của hai vị thầy không có duyên với Phật pháp vì vậy hai ngài đã chết.
Vì thế mới quan sát thấy năm anh em Kiều Trần Như, là những người do Vua cha sai đi theo hộ thất cho mình trong giai đoạn tu tập, nhưng năm người này đã thấy đức Phật không còn sống hạnh khổ hạnh nữa, cho nên họ không tin đức Phật làm được.
(02:03) Vì thế, khi đức Phật trở về để độ năm người này thì họ đã bàn với nhau rằng: khi Cồ Đàm đến thì chúng ta không đứng dậy chào. Nhưng khi đức Phật từ xa đến, tướng mạo ung dung hiện ra sự giải thoát nơi thân hình của đức Phật khiến cho năm anh em Kiều Trần Như đều đứng dậy và chào đón đức Phật. Lúc bấy giờ, đức Phật muốn thuyết phục những người này vì ít ra họ cũng am tường được những giáo lý của Bà Là Môn lúc bấy giờ, cho nên không còn cách nào khác hơn hết là giảng những bài pháp khác.
Đức Phật phải đem Bốn Chân Lý của loài người ra mà giảng cho những người này. Bởi vì đức Phật đã hiểu được cái bài pháp đó như thế nào - nó là chân lý, là phải sự thật, không thể nào sai khác được. Chỉ có loài người mới có những chân lý này.
Thì chúng ta thấy Khổ - Đức Phật nói con người khổ, thì không thể nào ai nói rằng con người hạnh phúc được. Và đức Phật nói nguyên nhân đau khổ của con người thì cũng không ai chối cãi được điều đó.
Khi đức Phật nói trạng thái Niết Bàn, tức là Diệt khổ, Diệt Đế thì nó không phải là một điều kiện mơ hồ, trừu tượng mà nó là một trạng thái thực tế trong tâm của chúng ta khi chúng ta diệt nguyên nhân đau khổ. Và đồng thời đưa ra con đường để tu tập để diệt cái nguyên nhân đau khổ đó rất là cụ thể, rõ ràng. Đó là Bát Chánh Đạo.
(04:01) Bát Chánh Đạo là tám lớp tu học chứ không phải tám cái bài thuyết giảng suông mà là tám cái lớp tu học. Tám lớp ấy là Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tin Tấn, Chánh Niệm, và Chánh Định.
Mỗi lớp ích ra một thời gian tu học của chúng ta cũng phải một năm. Cho nên đức Phật có nói trong Kinh Tứ Niệm Xứ: “Tu 7 ngày, 7 tháng, 7 năm”, đó là giá chót của đạo Phật, tức là 7 năm. Bảy năm để xác định cho chúng ta biết rằng tám cái lớp học này trong bảy năm.
Từ lớp Chánh Kiến cho đến lớp Chánh Định thì chúng ta thấy rằng lớp Chánh Kiến cho đến lớp Chánh Niệm là bảy lớp tu rất nhiều thời gian. Lớp Chánh Định thì đức Phật xác định không có khó khăn, không có mệt nhọc cho nên tu Thiền Định không có khó mà tu Giới Luật mới khó. Trong ba lớp này có ba cấp: thứ nhất là cấp Giới, thứ hai là cấp Định, cấp thứ ba là cấp Tuệ.
Vì vậy, mà chúng ta thấy người tu sĩ đạo Phật, dù tu sĩ hay là cư sĩ, bước chân vào đạo Phật phải học lớp Giới Luật. Giới Luật là Đạo Đức của loài người - đạo đức không làm khổ mình khổ người. Một con người sinh ra đời mà muốn được hạnh phúc an vui chân thật thì thứ nhất là không nên làm khổ mình, thứ hai là không nên làm khổ người và khổ cả hai. Đó là mục đích của Đaọ Phật ra đời để giúp cho con người không làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh, chứ không phải dạy chúng ta tu tập để có Thần thông, cũng không phải dạy chúng ta cầu tha lực để ban cho mình được những phước báu, giàu sang hay là người khác mạnh giỏi. Đạo Phật không làm chuyện đó mà đạo Phật dạy cho chúng ta biết cách thức sống, sống như thế nào để đem lại hạnh phúc cho mình và người, không làm khổ mình và khổ người. Đó chính là bảy lớp học đầu tiên của đạo Phật mà gọi là lớp Giới Luật.
(06:37) Bởi vậy, Tam Vô Lậu Học của đạo Phật là: Giới, Định, Tuệ. Thế mà người ta chỉ tu theo đạo Phật bằng Thiền Định, bằng cầu khẩn, cúng bái, tụng niệm, cầu siêu, cầu an thì như vậy có đúng là đạo Phật không?
Cho nên bài pháp đầu tiên mà đức Phật dạy Bát Chánh Đạo là lớp Chánh Kiến. Lớp Chánh Kiến chúng ta phải tu những pháp gì? Đức Phật dạy Ngăn ác, Diệt ác - Sinh thiện, Tăng trưởng thiện. Đó là pháp Tứ Chánh Cần, bốn điều cần mẫn siêng năng tu tập hằng ngày của mọi người khi theo đạo Phật. Cho nên gọi là Tứ Chánh Cần, bốn điều cần hãy tu tập hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, cho nên phải ngăn ác diệt ác, và luôn luôn sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp. Có như vậy, chúng ta mới thấy được (..) chân thật nhưng rất khó. Rất khó tu theo đạo Phật vì để giữ được đời sống phạm hạnh thì phải tự nguyện, tự giác, không thể có sự bắt buộc, cho nên Giới luật của Phật không phải là Giới cấm mà sau này các Tổ vì thấy các vị Tỳ kheo phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới cho nên các Tổ dựa theo Kinh Phật soạn thảo ra thành bộ giới cấm.
(08:06) Thầy xin nhắc lại, ngày xưa có những người đến xin Phật, tu theo Phật, dù là người chưa biết đạo hoặc là có theo những tôn giáo khác đến xin Phật. Phật đều chấp nhận cho nhưng phải biệt trú trong bốn tháng, nghĩa là phải chấp nhận sống đúng phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo. Trong bốn tháng, nếu thấy được thì đức Phật cho người ấy xuất gia làm đệ tử của mình. Như quý Phật tử đã đọc trong Kinh Nguyên Thủy thì những người ngoại đạo đến xin đức Phật tu học theo Phật, thì các ngài hứa với Phật không những bốn tháng mà chúng con xin sống biệt trú bốn năm. Nói như vậy là có tâm ý tha thiết tìm sự giải thoát thật sự mới dám nói điều đó, chứ phạm hạnh, Thánh hạnh của đạo Phật một người tu tập rất khó, khó vô cùng khó. Vì chứng minh cho quý Phật tử thấy, Tu viện Chân Như từ ngày mở cửa đến giờ chỉ đưa ra Ba Đức - Ba Hạnh, mà người ta về đây cũng với tâm tha thiết nhưng sống không vô, không nổi, đó là: nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, ăn, ngủ và độc cư.
Nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, ăn, ngủ và độc cư là căn bản thiền định, cho nên cuốn sách mà Thầy để tên “Thiền Căn Bản”. Người muốn tu thiền phải đi vào con đường giới luật để tâm thanh tịnh, từ tâm thanh tịnh chúng ta mới nhập vào các Định. Tâm chưa thanh tịnh tức là tâm chưa ly dục ly ác pháp mà nhập các định thì chúng ta sẽ nhập các loại định tưởng - tà định chứ không thể Chánh định được. Người còn phạm giới mà nhập định đó là định sai, không đúng.
(10:09) Nếu chúng ta mà ngày ăn uống phi thời thì không thể nào nhập được định. Nếu chúng ta còn ham ngủ, ngủ nghỉ không đúng giờ giấc, không làm chủ được giờ giấc ngủ nghỉ thì người đó cũng không nhập định được. Nếu chúng ta không sống độc cư trọn vẹn được, thường tiếp duyên nói chuyện tụ họp thì người ấy cũng không bao giờ nhập định được vì tâm thường phóng dật. Tâm thường phóng dật là tâm không ly dục ly ác pháp cho nên đơn giản chúng ta thấy ăn ngủ độc cư rất khó không phải dễ. Do khó cho nên tu sĩ Phật giáo hiện giờ đều vi phạm, vì vậy sự tu tập của mọi người không làm chủ được sự Sinh tử - Luân hồi, không chấm dứt, không làm chủ được bốn sự đau khổ của kiếp người: sanh, già, bệnh, chết.
Đạo Phật rất rõ ràng, pháp môn dạy cụ thể làm chủ từng phần rất rõ. Nếu muốn làm chủ được tâm thì đạo Phật có phương pháp dạy chúng ta làm chủ được tâm khi tâm phiền não, đau khổ, buồn rầu. Như chúng ta đọc trong bài kinh Xuất Tức Nhập Tức có đề mục dạy chúng ta tu tập làm chủ được tâm khi tâm giận hờn, khi tâm phiền não, khi tâm lo sợ thì chúng ta hãy nhiếp tâm vào những đề mục đó. Và nếu có công tu tập thì tâm chúng ta sẽ trở lại bình thường, không giận hờn, không phiền não, không ham muốn. Vậy thì đề mục đó như thế nào, khi quý Phật tử đọc lại sẽ thấy rất rõ đức Phật nói: "An tịnh tâm hành, tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành, tôi biết tôi thở ra". Vì tâm của chúng ta hiện giờ đang buồn rầu, đang giận hờn, đang ham muốn cho nên nếu muốn tâm của chúng ta an ổn trở lại thì dùng đề mục này để tu tập thì tâm chúng ta sẽ được an ổn.
Như vậy, tâm chúng ta được an ổn là tâm không có phiền não, không giận hờn, không đau khổ, tâm thanh thản an lạc và vô sự, như vậy là tâm giải thoát. Muốn được vậy thì nên tu đề mục này cho đến khi có kết quả thì chúng ta làm chủ được tâm. Làm chủ được tâm tức là làm chủ đời sống. Làm chủ đời sống tức là “làm chủ Sanh”, như đức Phật nói, sanh - già - bệnh - chết.
Khi một người không giận hờn, không phiền não, không lo rầu thì cơ thể họ là cơ thể vô thường, thay đổi, có già nhưng già trong khoẻ mạnh, trong quắc thước, không đau ốm, không bệnh tật, không lụm cụm, không khổ sở, khó khăn gì vì cơ thể già, già như thanh niên mặc dù cơ thể vô thường thì phải già không thể trẻ mãi được nhưng chúng ta làm chủ già có nghĩa là trong cái già vẫn không làm chúng ta đau khổ cho nên gọi là làm chủ già.
(13:17) Pháp của Phật dạy chúng ta làm chủ bệnh. Khi thân có bệnh thì chúng ta có phương pháp để đẩy lui bệnh chứ không phải đi bệnh viện uống thuốc. Như hiện giờ, quý thầy, quý Hòa thượng mà chúng ta đã thấy tu hành theo Phật mà vẫn đi bệnh viện, vẫn đi bác sĩ, vẫn uống thuốc. Điều đó là điều sai, không đúng, không đúng đường lối của đạo Phật. Pháp của Phật có phương pháp để đối trị được bệnh cho nên mới làm chủ được bệnh, đó là: “An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành, tôi biết tôi thở ra”
Đó là đề mục để tu, để khắc phục được sự đau đớn, bệnh tật trên thân của chúng ta, rất là khoa học. Bởi vì, khi tâm chúng ta dao động trước cơn bệnh, sức đề kháng của thân chúng ta rất yếu làm cho bệnh phát triển vì vậy chúng ta chỉ còn nhờ uống thuốc để trợ giúp thân chúng ta có đủ sức để đề kháng để chống lại bệnh. Trái lại, một người tu tập theo đạo Phật mà nhiếp tâm được trong hơi thở, nói chung là nhiếp tâm trong thân hành. Muốn đối trị được bệnh mình, muốn đối trị được tâm mình, thì mình phải nhiếp tâm trong thân hành của mình. Thân hành có Thân Hành Nội và Thân Hành Ngoại. Thân Hành Ngoại là đi, đứng, nằm, ngồi, co tay, duỗi chân… đó là thân hành ngoại. Thân Hành Nội là hơi thở của chúng ta. Cho nên nhiếp tâm trong Thân Hành Ngoại hay hoặc Thân Hành Nội và an trú trong thân hành thì lúc bấy giờ chúng ta đẩy lui được tất cả các bệnh tật trên thân của chúng ta mà đức Phật gọi là làm chủ bệnh.
Chúng ta tu tập đều không có người kinh nghiệm dạy cho nên chúng ta chưa biết cách nhiếp tâm trong thân hành vì thế chúng ta nhiếp mãi mà không được. Đó là căn bản đầu tiên của sự tu tập để chiến đấu với giặc sanh tử. Khi nhiếp tâm được trong thân hành thì chúng ta phải biết cách an trú trong thân hành. Khi mà an trú được trong hơi thở rồi, thì chúng ta sẽ đẩy lui được những đau khổ trên thân của chúng ta. Đó là làm chủ tâm, làm chủ bệnh, làm chủ thân của chúng ta.
Cho nên trên Tứ Niệm Xứ - pháp Tứ Niệm Xứ - chắc quý Phật tử cũng đã đọc kinh sách Phật, một bài pháp tuyệt vời mà chính đó là Chánh Niệm. Chánh Niệm là lớp học thứ 7 trong Bát Chánh Đạo, một phương pháp tuyệt vời vì vậy mà đức Phật nói: “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu”. Chúng ta trên thân mà quán thân khi thân chúng ta bị bệnh đau khổ mà khắc phục được sự đau khổ đó, vậy bằng cách nào? Thì người thuyết giảng Tứ Niệm Xứ không biết cách thức cho nên không giải nổi được điều này. Cho nên trước khi tu tập pháp Tứ Niệm Xứ thì chúng ta đã từng tu tập Tứ Chánh Cần.
(16:30) Trên pháp Tứ Chánh Cần có Định Niệm Hơi Thở. Trong Định Niệm Hơi Thở có đề mục "An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành, tôi biết tôi thở ra", cho nên người tu tập Tứ Niệm Xứ là người tu ngồi chơi, ngồi chơi không có pháp nào tu cả, luôn luôn tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự. Khi thân mỏi mệt, khi thân bị đau nhức, khi thân có chướng ngại thì lúc bấy giờ chúng ta áp dụng ngay liền những pháp mà chúng ta đã tu tập trong Tứ Chánh Cần. Đó là phương pháp để khắc phục tham ưu trên thân mà trong Tứ Niệm Xứ đã dạy: “trên thân quán thân để khắc phục tham ưu”, nghĩa là chúng ta dùng những phương pháp để đẩy lui bệnh ra khỏi thân của chúng ta, làm cho thân chúng ta trở thành an lạc. Đó là phương pháp làm chủ bệnh.
Vì vậy, mà đức Phật nói:
“Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn;
Nhất thiết thế gian, sanh lão bệnh tử”
Trên trời dưới trời ta là người duy nhất vượt ra khỏi sanh già bệnh chết, hay làm chủ được Sanh - Già - Bệnh - Chết.
Thế rồi chúng ta làm chủ được bệnh, cuộc đời hạnh phúc vô cùng. Chúng ta làm chủ được tâm, tâm không còn giận hờn, phiền não, ham muốn, sống thanh thản, an lạc, vô sự. Chúng ta làm chủ được già, già không lụm cụm, không lẫn lộn, khỏe mạnh như người thanh niên còn sức khỏe, sung mãn đầy đủ, người già rất là quắc thước, không bệnh đau lặt vặt. Đó là làm chủ già.
(18:16) Vậy làm chủ chết như thế nào? Làm chủ chết chúng ta phải đi vào lớp cuối cùng của đạo Phật, tức là lớp thứ 8. Lớp thứ 8 là Chánh Định. Trong Chánh Định có bốn loại định, thì định thứ 4 đó là Tứ Thiền. Tứ Thiền mới tịnh chỉ được hơi thở, cho nên lớp thứ 4 mới làm chủ được sự sống chết của chúng ta, muốn sống là sống, muốn chết là chết. Đó là quyền làm chủ sanh tử. Cho nên Thiền Định của đạo Phật rất thực tế, đối trị ngay sự đau khổ của chúng ta. Nếu phỏng chừng bây giờ quý Phật tử muốn chết thì không thể nào làm được điều đó bằng sức Thiền Định của mình thì không thể được cho nên phải tự tử bằng cách uống thuốc độc, hoặc tự tử nhảy xuống sống, thắt cô để cho đừng thở nó mới chết. Trái lại, thiền thứ 4 tịnh chỉ hơi thở làm cho hơi thở ngưng mà chúng ta sống trong một trạng thái an lạc vô cùng chứ không phải thấy khó chịu như người tự tử.
Cho nên đạo Phật rất tuyệt vời - làm chủ được bốn nỗi khổ của kiếp người. Thế mà chúng ta không tu tập được, tại vì chúng ta đã bị nhiều sợi dây kiết sử trói buộc cho nên chúng ta buông bỏ không nổi và chúng ta không đủ nghị lực để sống một đời sống phạm hạnh giống như Phật, đời sống ăn ngủ độc cư, đời sống biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng - đó là căn bản của người tu tập theo đạo Phật.
Thầy mong rằng mọi người trước mặt Thầy, quý Phật tử đang ngồi đây, ước ao một ngày nào đó có một người quyết tâm theo bước chân Thầy. Thầy sẽ đem hết những kinh nghiệm của mình để truyền dạy lại để cho người khác có đủ khả năng làm chủ được bốn sự đau khổ này, trước là đền đáp ơn Phật, sau là đền đáp công ơn của Thầy. Thầy không ước gì khác nhưng mãi đến ngày nay, chỉ có một vài người mà không thể có nhiều.
Thầy nghĩ rằng đạo Phật khó quá, làm cho người ta không đi vào nổi được trong những bước đường giới luật vì thế mà đạo Phật bị thay đổi mất. Nếu mà dễ dàng, người ta làm chủ được bốn đau khổ này mà sống một đời sống bình thường như cuộc sống của mọi người thì chắc đạo Phật không thay đổi như bây giờ. Vì quá khó, sống một đời sống khác của mọi người. Tuy Phật và Thầy cũng sống như mọi người nhưng là phi thường các con, phi thường quý Phật tử.
Tại sao mọi người sống ngày ba bữa, thì Phật và chúng Thánh Tăng hiện giờ và Thầy lại sống một bữa mà sống được, không phải đó là việc phi thường sao. Rất tầm thường mà phi thường. Thầy thấy rõ ràng nhiều người không sống được cho nên xem nó là phi thường và đồng thời sống như vậy lại ít bệnh, ít tật, ít đau bệnh. Ăn ngày một bữa lẽ ra thiếu chất, không bằng người ăn nhiều thế mà ăn ít lại khỏe mạnh, lại không đau bệnh lặt vặt. Lạ kỳ! Thay vì ăn nhiều có đầy đủ chất bổ, cơ thể khỏe mạnh mới phải, nhưng đằng này ăn như Thầy đơn giản không cần chất bổ thế mà vẫn khỏe mạnh và tự tại. Lạ lùng! Đó là việc ăn.
(22:15) Về ngủ, nhờ ăn ít cho nên là ngủ ít, sức tỉnh, dám thức nhiều và đồng thời còn phải chiến đấu với bệnh Si tức là bịnh hôn trầm, lười biếng, thùy miên của mình. Cho nên trải qua thời gian phải đầy đủ nghị lực mới thắng được giặc buồn ngủ, giặc hôn trầm, giặc thùy miên. Nếu không đủ nghị lực, khó thắng giặc này lắm. Hầu hết người ta ăn được một ngày một bữa, nhưng đến giặc ngủ thì nhiều người đã đầu hàng trước giặc này, thì Thầy thấy không phải dễ, rất là khó.
Kế đó, sống độc cư hầu như không có mấy ai. Chính những người hiện giờ đang tu pháp Thân Hành Niệm đã đạt được những kết quả rất cao, nghĩa là người ta lọt được trong vòng an lạc, sung mãn của Tứ Niệm Xứ, người ta sẽ không thối chuyển con đường tu hành nhưng người ta vẫn còn ham, nhưng ví dụ như người bình thường thì 100% phá độc cư thì người này chỉ còn một phần, hai phần nhưng vẫn chưa hết. Thầy tiếc sao họ lại không chịu bỏ nốt để rồi mình thành tựu được sự giải thoát hoàn toàn, không phải hạnh phúc sao? Thì người ấy nói: “Rất khó Trưởng lão! Con thì con muốn giữ độc cư, nhưng người ta cứ đến gõ thất con, con cố gắng hết mình nhưng không được, là ma hay sao nó lại cứ phá hoài”.
Người ta cho rằng người đến gõ thất mình nói chuyện, người ta xem đó là ma, người ta cố gắng người ta tránh nhưng không khỏi mấy con, rất là khó. Qua những kinh nghiệm, qua những nỗi đau khổ của sự tu tập, người ta nói với Thầy rằng: “Phải chi mình ở trong rừng một mình không có ai thì chắc có lẽ tu mau”.
(24:26) Thầy nói không mấy con, chính ngay ở chỗ này mà tu tập. Có nhiều người mà tu tập thì chúng ta phải mạnh mẽ, xả cái tâm tự ái, xả cái tâm lịch sự của chúng ta - sợ người ta buồn. Do cái chỗ các con không can đảm, không mạnh mẽ, không dứt khoát cho nên các con không giữ được hạnh độc cư. Thay vì người ta muốn đến thất mình người ta nói chuyện thì người ta không nói chuyện mà người ta đến để mượn một cái điều gì đó, thì các con vừa thấy bóng dáng thì các con đóng cửa thất ngay liền, mà đóng rất mạnh làm cho người ta tự ái người ta không đến. Còn mấy con nhẹ nhàng thì người ta sẽ đến với mấy con, làm như ma dục người ta đến chứ không phải người ta muốn đến thất của mấy con - khi các con muốn tới nơi tới chốn. Đó là một điều khó, coi vậy chứ khó.
Chuẩn bị cho chúng ta có một hành trang chắc chắn để bảo vệ chúng ta trong bước đường tu tập phải có một vòng rào bảo vệ hạnh độc cư. Vì Hạnh Độc Cư là phương pháp phòng hộ sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình để không cho dính mắc sáu trần - tức là ý căn của chúng ta.
Hôm nay, Thầy nhắc lại về bài pháp mà hầu như người ta không hiểu, đó là bài pháp Thân Hành Niệm. Mà Thầy tin chắc rằng các con có đọc sách Thầy, có nghe và có biết bài pháp rất tuyệt vời - nó tạo cho chúng ta có đủ Thần lực nơi nội tâm của chúng ta để chúng ta làm chủ được giặc sanh tử, để chúng ta nhập được các định, tịnh chỉ được hơi thở.
(26:04) Đó là bài pháp Thân Hành Niệm: Tu trong thân hành của mình mà đức Phật gọi là Niệm Thân Hành, không có lấy niệm nào khác hơn là mỗi hành động của chúng ta là cái Niệm để cho chúng ta tu tập mà thôi. Có nhiều người rất nỗ lực tu tập về pháp thân hành nhưng họ thấy sao lại có những niệm vọng tưởng khởi ra, họ hết sức tập trung, họ tác ý từng hành động thế mà vẫn có niệm khởi.
Quý Phật tử lưu ý chỗ này rất là quan trọng. Ví dụ như một cái ly nước như thế này, để yên lặng thì nước không động thì cặn cấu sẽ lắng dưới đáy ly. Còn hiện giờ chúng ta còn dùng ý thức để tác ý cho từng hành động, như chúng ta lấy một cái cây mà quậy nước trong ly này làm cho nước ở trong ly này động. Khi động thì cặn cấu ở dưới này mới nổi lên và từ đó chúng ta vớt bỏ ra cho đến khi mà vớt hết cặn cấu thì ly nước này còn là nước trong - đó là tâm trong sạch của chúng ta mà chính pháp môn Thân Hành Niệm là pháp môn quậy cái tâm để cặn cấu được lọc sạch ra. Nhưng nó rất khó là vì chúng ta không hiểu; vì vậy mà chúng ta nỗ lực, nỗ lực tập trung trong từng hành động.
Ví dụ như Thầy để cánh tay mặt ở đây, Thầy bảo "cánh tay mặt đưa ra”, thì sẽ đưa ra và lưu ý Thầy đưa ra; Thầy bảo "đưa vào", Thầy sẽ đưa vào và cứ đưa ra đưa vào như thế này, từng hành động đưa ra, từng hành động đưa vào. Bỗng dưng có một cái niệm khởi xen vào. Nó sẽ xen vào rất dễ dàng - tại vì thường là quý Phật tử tu sai - là khi chúng ta thấy đưa ra đưa vào, biết đưa ra đưa vào thì chúng ta không tác ý nữa.
Thay vì “Cánh tay mặt đưa ra", Thầy đưa ra; "Đưa vào", Thầy đưa vào; “Đưa ra”, “Đưa vào”. Bây giờ, thấy đưa ra đưa vào mình biết rồi nên không tác ý nữa, có phải không, để cứ đưa ra đưa vào và cố ý tập trung trong hành động đưa ra đưa vào, coi như là không niệm khởi là chúng ta đạt được kết quả. Điều đó sai, không đúng.
(28:39) Bởi vì lúc bấy giờ mình không tác ý tức là tâm yên lặng, mà tâm yên lặng thì cặn cấu sẽ không nổi lên và không nổi lên thì không có niệm, phải không? Còn mình tu tập mà chưa biết cách nhiếp tâm trong thân hành. Chưa biết cách, thì vọng hay xen vô; còn biết cách rồi mà bỏ pháp tác ý thì tâm sẽ bị ức chế mà lắng xuống - cặn cấu lắng xuống đáy mà không tuông ra. Đó là tu pháp Thân Hành Niệm khác mà tu pháp Định Niệm Hơi Thở khác.
* Tu Định Niệm Hơi Thở biết hơi thở ra, biết hơi thở vô là nhiếp tâm trong hơi thở, có ức chế trong hơi thở - nghĩa là lấy hơi thở ức chế tâm mình cho nó không niệm khởi. Cho nên do như vậy tu pháp nào theo pháp nấy, không khéo chúng ta tu sai.
* Trái lại, pháp Thân Hành Niệm luôn luôn tác ý - tức là làm cho tâm động, không thể để cho nó ngồi im. Vì vậy mà trong pháp hơi thở, đức Phật dạy từng niệm một, thỉnh thoảng chúng ta phải tác ý, không thể nào yên. Nếu mà chúng ta cứ để hơi thở ra, hơi thở vô thì chúng ta bị ức chế tâm và đồng thời chúng ta không có niệm khởi thì chúng ta sẽ nhập vào Định tưởng.
Cho nên các trạng thái tưởng đều xuất hiện tại đó và chúng ta kéo dài trạng thái này từ một giờ, hai giờ, thậm chí ngồi được yên lặng ba giờ là chúng ta sẽ bị rối loạn trong trạng thái tưởng. Rất là nguy hiểm!
(30:17) Cho nên ở đây, chúng ta phải hiểu pháp Thân Hành Niệm là pháp động - động ở tâm cho nên pháp lệnh chứ không phải pháp ức chế tâm. Vì vậy, tu pháp Thân Hành Niệm là tu lệnh chứ không phải nương vào niệm để mà tạo thành cái lệnh, tạo thành cái lệnh là tạo cho tâm mình động. Tâm động để từng cái cặn cấu của tâm - tức là từng tham, sân, si ở trong tâm chúng ta - lần lượt sẽ tuông ra hết.
Nghĩa là bây giờ ví dụ như Thầy để cánh tay đây, Thầy bảo: "Cánh tay mặt đưa ra", Thầy chỉ đưa ra mới tới đây thôi thì lại có một niệm xẹt ra. Thầy không lưu ý niệm, Thầy biết khi nó có niệm xẹt ra là nó đã phân tâm Thầy; Thầy biết thân hành - cái hành động đưa tay - và thấy một niệm cho nên Thầy tiếp tục biết cái thân hành, mà không để cho tâm mình biết niệm.
Đầu tiên Thầy bảo: "Cánh tay mặt đưa ra”, thì Thầy đưa mới tới đây thôi, thì có niệm; thì Thầy tiếp tục tác ý lần nữa: "Đưa ra”. Thì Thầy đưa ra mà tiếng nói kế đó, tác ý kế đó phải to lớn làm ác đi cái niệm đang khởi trong tâm Thầy. Do đó tâm Thầy sẽ tập trung qua cái lệnh của nó trong thân hành, mà không lưu ý cái niệm cho nên Thầy không dừng niệm, không phải dùng tác ý để dừng niệm mà để niệm tuông ra. Vì vậy, cứ niệm đến nhiều chừng nào tốt chừng nấy mà cứ ôm chặt trên Thân Hành của mình, theo lệnh mà thôi.
(32:02) Hễ có niệm nhiều thì tác ý nhiều, Niệm ít thì tác ý từng hành động. Ví dụ, một hành động đưa ra mà có một niệm khởi ra, thì tác ý thêm một lần nữa. Trong hành động đưa ra chưa cuối cùng, mà có thêm một niệm nữa, thì tác ý một lần nữa. Hễ có niệm thì tác ý để cho tâm đừng phân tâm và niệm mặc tuông, mà hành động thì cứ hành động - gọi là ôm pháp hay ôm phao vượt biển. Các con thấy được cách thức tu tập chưa?
Tu tập đúng thì chúng ta sẽ tuông trào hết; một thời gian tất cả các tham, sân, si trong tâm của chúng ta gọi là Ngũ Triền Cái lần lượt tuông sạch. Tuông sạch thì nước sẽ trong. Chúng ta ôm pháp này. Nước trong thì sẽ có đủ bảy năng lực của Giác Chi - tức là mười Công đức hay còn gọi là mười Thần lực. Dùng mười Công đức này hoặc mười Thần lực này, chúng ta sẽ nhập vào Sơ Thiền rất dễ dàng, nhập Nhị Thiền không khó khăn, nhập Tam Thiền không khó khăn, đến Tứ Thiền rất dễ dàng, thực hiện Tam Minh không còn khó khăn nữa.
Cho nên tu pháp Thân Hành Niệm cấu kết như cổ xe, biến nó trở thành căn cứ địa - nghĩa là luôn luôn ôm chặt nó chứ không phải căn cứ địa theo kiểu ức chế tâm thì sai. Phật dạy ly dục, ly ác pháp đâu dạy mình ức chế tâm, đâu dạy mình hết vọng tưởng, nhưng khi tuông trào, quậy cho nó trào ra cho hết. Nó hết rồi thì nó thanh tịnh chứ không phải ức chế đè nén nó, không cho niệm khởi.
Cho nên tuy coi như vậy mà hai pháp vẫn giống nhau. Ví dụ như bên Thiền Đông Độ, chẳng niệm thiện niệm ác; bên đây cho tuông, tuông mãi thì nó không niệm thiện niệm ác nữa. Có đúng không? Nó tuông ra hết rồi thì nó đâu còn. Còn cái kia, biết vọng liền buông như Hòa thượng dạy thì mình buông mãi, tức là có nó, biết nó liền nó dừng lại; dừng lại là ức chế chứ sao. Còn cái này chúng ta có chỗ pháp, tâm chúng ta nương vào chỗ đó, còn chỗ này tuông và theo lệnh tác ý làm cho tâm động để trào ra, cứ liên tục tác ý. Có phải không?
(34:11) Cho nên làm tâm động làm cho vọng tưởng tuông ra chứ không phải tâm động. Chứ không phải tác ý là mục đích để cho vọng tưởng đừng ra. Hiểu như vậy chúng ta mới hiểu được Phật Pháp là ly dục ly ác pháp chứ không phải ức chế tâm.
Cho nên người tu pháp Thân Hành Niệm, các Phật tử cứ nghĩ rằng: chúng ta đi pháp Thân Hành Niệm - đi hai mươi bước rồi, ngồi xuống co tay co chân ngồi xuống, rồi hít thở năm hơi thở, rồi duỗi tay duỗi chân. Từng hành động, đều tu trên những hành động đó, rồi đứng dậy đi hai mươi bước. Vậy mà người ta đi từ ba tiếng đồng hồ, từ bốn tiếng đồng hồ trong một đêm mà người ta thấy nó an lạc, nó khỏe khoắn. Đi suốt như vậy đó, hai, ba tiếng, bốn, năm tiếng đồng hồ thì quý Phật tử nghĩ chúng ta có sức nào mà đi làm suốt không, mấy tiếng đồng hồ liên tục như vậy được không? Không nổi đâu. Nhưng người tu được rồi thì người ta thấy còn thừa sức để tập chứ chưa phải là người ta thiếu sức.
Nhưng mà khi mới tu tập, con sẽ thấy khổ sở vô cùng. Khi chúng ta chưa lọt vào trong cái vòng an ổn của pháp Thân Hành Niệm thì chúng ta tu nghe mệt nhọc vô cùng. Thường thường là người ta bỏ pháp này rất nhiều là tại vì không bền chí, không cố gắng. Chỉ cần bền chí cố gắng, ôm chặt, giữ đúng pháp thì trong một thời gian tu từ ba mươi phút đến một giờ, hai giờ, ba giờ. Nhưng Thầy nghĩ rằng khi tu đúng pháp, trong ba mười phút là chúng ta sẽ lọt vào trong vòng an ổn nhất của pháp làm chúng ta tu tập rất nhẹ nhàng vì trong lúc bấy giờ thân hành của chúng ta nhịp nhàng, nó không phải dùng cơ để mà chúng ta sử dụng.
Ví dụ, bây giờ Thầy bảo cánh tay mặt Thầy đưa ra thì Thầy phải dùng cơ Thầy giở tay đưa ra, phải không? Còn bắt đầu khi mà nó vào trong cái nội lực của tâm ở trong pháp Thân Hành Niệm, thì Thầy bảo “cánh tay mặt đưa ra”, Thầy không dùng cơ mà nó có sức nó đẩy ra. Cho nên bây giờ Thầy không dùng cơ, tức là Thầy không dùng cái năng lực của mình để vận dụng, có phải không? Cho nên Thầy không tiêu hao. Cho nên Thầy đi suốt đêm, Thầy vẫn thấy khỏe mà không mệt. Còn bây giờ, suốt đêm mà phải giở chân để lên, để xuống như vậy thử phỏng chừng chúng ta có làm nổi không. Không ai làm nổi đâu. Có đúng không?
(36:38) Cho nên ở đây cái pháp nó rất tuyệt vời, mà chúng ta đừng vội tu nhiều. Mới đầu chúng ta tu một vòng của nó hai mươi bước đi, và ngồi xuống, và hít thở năm hơi thở rồi chúng ta nghỉ; rồi chúng ta tu tập lại. Nghỉ và tu tập cho cơ thể chúng ta thích nghi được với cái phương pháp. Sau khi thích nghi được rồi thì chúng ta lại tăng lên, hai vòng, ba vòng cho đến năm phút, mười phút, ba mươi phút rồi lần lượt một giờ, hai giờ.
Nhưng ba mươi phút chúng ta đã thấy được cái trạng thái có nội lực, giở chân lên chúng ta không dùng cơ đẩy chân lên mà tự nó nó lôi chân chúng ta lên và đưa chân tới để bước thì nó có cái lực đẩy chân chúng ta tới mà không phải dùng cơ đẩy chân tới. Nó rất tuyệt vời và nó nhịp nhàng, nó tới mức độ đưa chân như thế nào thì nó đưa tới mức đó, nó không đưa xa, không đưa gần, nó đưa rất đúng nhịp. Vậy gọi là Niệm Giác Chi.
Niệm Thân Hành của chúng ta nó trở thành Giác Chi cho nên nó nhịp nhàng và nó không dùng cơ, nó không dùng năng lượng vận dụng nữa. Vì vậy mà chúng ta đi suốt đêm không thấy mệt nhọc. Đó là phương pháp của Phật, nó cấu kết nó như cổ xe, kiêng cố như căn cứ địa, nó không còn kẽ hở - từ hành động này tiếp tới hành động khác theo lệnh của ý thức của chúng ta. Cho nên đức Phật nói “ý làm chủ, ý tạo tác, ý dẫn đầu”, lấy ý dẫn vào thân hành để nó tạo thành cái sức làm chủ.
(38:17) Thường nghiệp làm chủ cho nên cái nghiệp nó sai cái thân hành của chúng ta làm, cho nên chúng ta làm nhiều khi làm rồi chúng ta mới thấy mình làm điều đó sai. Cũng như bây giờ, mình nghe gì đó mình không chịu suy nghĩ lời nói của mình, mình vội mình trả lời - tức là mình làm theo nghiệp, nghiệp nó sai mình trả lời. Còn người tu sĩ Phật giáo người ta làm chủ cái nghiệp cho nên người ta sai nó, cái thân nó làm, cái miệng nó nói theo cái lệnh của ý thức chủ động cho nên nó phải có sự tư duy suy nghĩ.
Sau này, mấy con đọc bộ Giới hành Sa di của đức Phật dạy cho đứa con trai của mình là La Hầu La, cho nên Ngài dạy La Hầu La khi mà mình muốn suy nghĩ một điều gì, thì phải suy nghĩ điều đó cho chín chắn, khi mình nói một cái điều gì thì phải suy nghĩ điều mình muốn nói rồi mình mới nói, khi mình muốn làm một điều gì thì mình phải suy nghĩ về điều đó rồi mình mới làm cái điều đó. Khi mình suy nghĩ mình thấy nó hại mình, hại người, hại cả hai thì nhất định không làm cái hành động đó, không nói cái lời nói đó, không suy nghĩ cái điều đó nữa. Đó là đức Phật đã dạy cách thức trong Giới hành của người mới vào đạo. Rất là căn bản.
Cho nên ở đây chúng ta tập pháp Thân Hành Niệm là lệnh trước tức là biết cái hành động đó theo cái ý của mình, bảo nó đưa cánh tay ra thì cái thân nó phải đưa ra; cho nên sau khi cái lệnh đó, nó bảo tịnh chỉ hơi thở thì hơi thở tịnh chỉ; bảo sáu căn phải ngưng hoạt động (mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý ngưng hoạt động) - tức là Diệt Tầm Tứ - làm cho mắt tai chúng ta đang nghe thấy biết rất rõ, thế mà bảo "Diệt, ngưng hoạt động" thì ngay đó nó không hoạt động. Tai không còn nghe âm thanh, mắt không còn thấy các tướng, ý không còn khởi niệm.
(40:05) Đó là cái lực - Cái nội lực của tâm chúng ta làm điều đó chứ không thể nào mà không có lực đó, không thể nào lỗ tai đang nghe mà bảo nó không nghe thì chỉ còn nước chúng ta lấy cây mà chọt cho nó lủng thì nó mới không nghe mà thôi. Cho nên cái phương pháp của Phật không cần phải phá cái căn đó mà nó vẫn đóng lại giống như chúng ta ngủ mà không nghe, không thấy vậy. Đó là cách thức của phương pháp của Phật làm chúng ta ở trong một trạng thái khác, trong một cái thế giới khác, không phải còn thế giới của ý thức nữa.
Đó là cách thức phương pháp của Phật, nó làm chủ từng cơ thể của chúng ta, từng phần trong cơ thể. Bây giờ, cơ thể vẫn sống bình thường mà bảo không nghe là không nghe, cho nên vì vậy mà thân bị bệnh đau nhức, bảo "không bệnh" là không bệnh, bảo "hết" là hết.
Đó là cái lực của ý thức của chúng ta rất là mạnh mà trong đạo Phật có dạy: “Dục như ý túc”. Dục Như Ý Túc là một phương pháp mà mình hướng một cái gì thân và tâm chúng ta phải làm theo cho nên nó có bốn cái Như Ý Túc, cho nên gọi là Tứ Như Ý Túc bao gồm: Định Như Ý Túc, Dục Như Ý Túc, Tuệ Như Ý Túc và Tinh Tấn Như Ý Túc. Mình muốn làm cái gì thì nó phải làm liên tục.
Ví dụ như bây giờ Thầy muốn tu pháp Thân Hành Niệm từ 7 giờ tối cho đến 7 giờ sáng, Thầy muốn như vậy thì nó phải làm theo như vậy, gọi là Tinh Tấn Như Ý Túc. Nó phải siêng năng và ham làm như vậy chứ nó không được làm biếng. Còn chúng ta chưa có được Tinh Tấn Như Ý Túc thì chúng ta làm một hơi cái nó mệt, nó chán, nó không muốn làm nữa. Còn khi chúng ta có Tinh Tấn Như Ý Túc thì chúng ta định làm cái này suốt đêm thì nó sẽ làm cho đến suốt đêm cho nên đó là Tinh Tấn Như Ý Túc. Cho nên bốn cái như ý là: Dục Như Ý Túc, Tinh Tấn Như Ý Túc, Định Như Ý Túc, Tuệ Như Ý Túc.
Tuệ Như Ý Túc có nghĩa là mình muốn biết cái gì, ở đâu nó sẽ biết hết, gọi là Tuệ Như Ý Túc. Tuệ tức là trí tuệ, cho nên Trí Tuệ Như Ý Túc tức là Tam Minh:
Muốn biết nhiều đời nhiều kiếp mình là ai thì nó biết cho chúng ta hết, nó làm cho chúng ta biết hết. Muốn biết cái vũ trụ không gian này có bao nhiêu hành tinh, có bao nhiêu cái hành tinh sống, loài người sống trên hành tinh đó như thế nào, mặt mày như thế nào thì chúng ta muốn biết cái điều đó thì chúng ta biết gọi là Thiên Nhãn Minh. Nó không còn có cái không gian vô trọng, mênh mông vô cùng vô tận trải dài vô cùng vô tận nữa mà nó chỉ thu hẹp trên một điểm để rồi chúng ta quan sát rất dễ dàng, không có khó khăn gọi là Tuệ Như Ý Túc.
(43:01) Và đồng thời chúng ta muốn biết cái nguyên nhân nào mà sanh ra vạn vật, sanh ra con người thì lúc bấy giờ chúng ta biết rất rõ ràng và dễ dàng. Cái đó gọi là Lậu Tận Minh - cái biết mà lậu hoặc, cái biết mà sanh ra muôn vật, từ đó chúng ta có cái biết đó, chúng ta thấu triệt cho nên chúng ta chấm dứt sự tái sanh luân hồi. Bởi vì môi trường sống chúng ta có nhiều cái duyên, có nhiều cái chất để nó hợp nhau thành ra nhiều cái vật mới. Nó hợp đúng cái môi trường đó, thời tiết đó thì nó sanh ra một cái loài vật, cây cỏ hoặc là loài vật, hoặc là con người, nó có cái hình dạng theo cái thời điểm đó.
Cho nên, đối với vũ trụ là nó mênh mông nhưng mà đối với người tu là nó không mênh mông. Tại sao vậy? Không phải như Thầy đang ngồi như thế này mà Thầy muốn biết cái không gian và thời gian, quá khứ và cái không gian trải dài vô tận mà muốn biết được, không thể được. Khi nào cái không gian của Thầy tức là cái thân của Thầy là không gian mà nó đóng lại, thì lúc bấy giờ cái không gian của vũ trụ Thầy khám phá dễ dàng.
Cho nên, muốn nó đóng lại thì hơi thở phải ngừng, bởi cái không gian là cái thân của Thầy, là cái không gian của Thầy. Cho nên nếu muốn biết người khác, thì cái không gian này phải đóng lại, do đó mọi thân của người khác hay mọi không gian của người khác nó không còn cách ra nữa cho nên Thầy biết từng tâm niệm của mọi người bằng cái Tha tâm thông của mình hay là bằng cái Túc mạng minh của mình thông suốt qua. Vì lúc bấy giờ nhập vào Tứ Thiền, cái thân Thầy nó không thở tức là cái không gian nó bị mất rồi. Mà nó mất không gian thì không gian không còn trải dài, và cái thân Thầy không thở thì cái thời gian nó không còn có nữa, cho nên nó không còn bị chi phối trong quá khứ, vị lai và hiện tại. Vì vậy, trong quá khứ nó không ở đâu xa nó cũng ở trong hiện tại mà thôi.
(45:05) Đó thì mấy con thấy đạo Phật, từ cái chỗ mà chúng ta tu tập ăn, ngủ, độc cư, sống nhẫn nhục tùy thuận cho đến khi rốt ráo làm cho không gian và thời gian không còn nữa, chỉ ở trên một điểm; chừng đó chúng ta sử dụng mà quan sát chúng. Sự quan sát chúng không phải ngoài chúng ta có sự quan sát đó mà nơi thân của chúng ta, nơi cái bộ máy thân này, nơi cái đầu của chúng ta nó có những điều kiện để chúng ta quan sát. Ngoài cái đầu của chúng ta, đi tìm cái điều kiện để mà quan sát vũ trụ thì không có, bởi vì cái thân của chúng ta là cái cổ máy cũng như cái máy đó vậy, nó sử dụng về cái phận sự của nó thì nó phải sử dụng cái phận sự của nó.
Trong đầu chúng ta, nó tiếp xúc bằng tưởng thức của nó chứ không phải bằng ý thức. Do đó, khi mà chúng ta đánh thức sự hoạt động của ý thức tức là nhóm tế bào của tưởng thức hoạt động, chúng ta sẽ tiếp nhận được những trạng thái vô hình qua cái tưởng thức của nó. Đến khi mà chúng ta dừng cả thân, không còn thở nữa tức là cái không gian nơi thân của chúng ta bị dừng thì lúc bấy giờ ở trên đầu chúng ta nó dừng, nhưng những tế bào mà hoạt động bởi vì nó dừng không có nghĩa là chết.
Người nhập Tứ Thiền không có nghĩa là người chết nhưng mà thân bất động, thân không thở, tim không đập, máu không chảy nhưng cái thân vẫn sống. Không chết, do đó bộ phận trên đầu chúng ta còn hoạt động cho nên Thức uẩn bắt đầu hoạt động từ nơi đó. Vì vậy mà không gian và thời gian không còn có đối với nó. Cho nên chúng ta còn thức uẩn tức là còn biết, biết cả vũ trụ không gian cho nên chúng ta thực hiện Tam Minh. Vì vậy mà lớp Tuệ chúng ta không thấy có, mà lớp Định trong Bát Chánh Đạo thấy có.
Khi nhập định, tức là chúng ta có quyền sử dụng được Tuệ, các con thấy rất rõ. Cho nên trong Tám lớp của đạo Phật gọi là Bát Chánh Đạo thì lớp Định chính là Tứ Thánh Định: Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền. Cho nên nói Thiền Định để làm chủ sự sống chết là phải Tứ Thiền. Hoàn toàn không có loại thiền nào làm chủ được điều này, chỉ có loại Thiền Định của đạo Phật mới làm chủ.
(47:25) Và Sơ Thiền là cái thiền đầu tiên để chúng ta tu tập Ly Dục Ly Ác Pháp. Nhưng chúng ta lại còn:
nếu chúng ta nhập vào Sơ Thiền lại có một trạng thái Sơ Thiền - là Sơ thiền có năm chi: tầm, tứ, hỷ, lạc, và nhất tâm.
Trái lại chúng ta không nhập vào Sơ Thiền mà chúng ta ở vào trạng thái ly dục, ly bất thiện pháp nhưng ở vào trạng thái Bất Động Tâm tức là ở trạng thái sung mãn Tứ Niệm Xứ.
Nghĩa là bây giờ Thầy ngồi đây, thân Thầy đau nhức Thầy đẩy lui, nhiếp phục; tâm Thầy phiền não Thầy đẩy lui; các pháp tác động Thầy đẩy lui không cho xâm chiếm vào thân tâm của Thầy. Thân tâm của Thầy bất động cho nên cái trạng thái bất động đó - mà đức Phật gọi là Bất Động Tâm Định.
Bất Động Tâm Định là trạng thái sung mãn của Tứ Niệm Xứ, bốn chỗ: Thân, Thọ, Tâm, Pháp của Thầy không bị tác động với thọ, với các ác pháp tham sân, si, hoặc với tất cả các dục đều không tác động trên bốn chỗ này, cho nên trạng thái tâm của Thầy lúc bấy giờ là bất động.
Tu Tứ Niệm Xứ không khó, ngồi chơi, biết pháp để khắc phục thì ngồi chơi, chỉ trong vòng bảy ngày là chúng ta đã thành công. Nếu chúng ta chưa có đủ pháp để ngồi trong bảy ngày thì phải tu tập các pháp khác thì bảy tháng. Nếu bảy tháng các pháp khác chưa thuần thục thì phải bảy năm. Bảy năm trở về ngồi lại tu Tứ Niệm Xứ chỉ trong bảy ngày mà thành tựu được nhập vào Bất Động Tâm Định. Nó không khó.
Bởi vì nghe tu pháp tu Tứ Niệm Xứ mà ngay vô đó chúng ta ngồi “trên thân quán thân", "quán thân bất tịnh”, rồi "quán thân vô thường". Đó đều là sai hết! Không biết cách tu pháp Tứ Niệm Xứ.
(49:18) Đọc bài kinh Tứ Niệm Xứ thì đức Phật có dạy mình quán thân bất tịnh, quán xương trắng, quán vô thường, quán vô ngã, rồi quán thân hành trên đó, quán hơi thở trên đó nữa. Bài pháp Tứ Niệm Xứ là dạy như vậy, nhưng kinh nghiệm tu hành là giai đoạn mà tu như vậy đó là tu Tứ Chánh Cần trên Tứ Niệm Xứ chứ không phải tu Tứ Niệm Xứ. Tại sao?
Tại vì tu như vậy là có hơi thở là phải có Định Niệm Hơi Thở, không thể nào nói nó là pháp Tứ Niệm Xứ được, cho nên nó là giai đoạn thứ nhất của pháp Tứ Niệm Xứ. Ngoài thân chúng ta làm sao có hơi thở cho nên gọi là Tứ Niệm Xứ, nhưng sự thật là chúng ta tu Định Niệm Hơi Thở.
Định niệm hơi thở vốn riêng cái hơi thở thì nó có mười sáu cái đề mục, mười sáu bài pháp để tu hơi thở chứ không phải một hơi thở, mà mười sáu cái bài pháp. Nhưng khi nghiên cứu về pháp Thân Hành Niệm lại có thêm hai đề mục về hơi thở, cho nên cộng lại là mười tám đề mục. Nhưng khi nghiên cứu qua bài Giáo giới La Hầu La mà đức Phật dạy về hơi thở cho La Hầu La, thì lại thêm ba đề mục nữa là 21 đề mục.
Thì trong hơi thở, chúng ta từ nghiên cứu bài kinh này đến nghiên cứu bài kinh khác về hơi thở thì chúng ta lại thấy thêm có những cái đề mục mới khác nữa, vì vậy cộng chung chúng ta thấy về hơi thở phải là 21 đề mục mới trọn vẹn đầy đủ của pháp môn tu về hơi thở. Và pháp môn tu về hơi thở là pháp môn Ngăn Ác Diệt Ác như trong Tứ Chánh Cần đã dạy.
Đồng thời có cái phương pháp gọi là ngồi quán thân bất tịnh, quán thân vô thường, khổ, vô ngã - thì cái bài pháp mà quán thân vô thường vô ngã mà gọi là Tứ Niệm Xứ thì không đúng, vì đó là Định Vô Lậu mà đức Phật đã dạy trên Tứ Chánh Cần. Cho nên trên Tứ Niệm Xứ mà tu quán như vậy là tu Định Vô Lậu.
(51:21) Và trên Tứ Niệm Xứ, khi chúng ta bị hôn trầm, thùy miên, vô ký thì có phương pháp để pháp hôn trầm, thùy miên, vô ký, đó là Chánh Niệm tỉnh giác, phương pháp đi kinh hành.
Cái nào nó ra rõ ràng cái nấy. Cho nên khi chúng ta tu tập như vậy, trong cái thời gian đó, sự tu tập là sự vận dụng; cho nên cơ thể và tâm chúng ta bị mệt mỏi vì vậy mà có một cái phương pháp để thư giãn, do đó có Định Sáng Suốt làm chúng ta thư giãn để nghỉ ngơi.
Bởi vì trong đạo Phật có bốn loại định đầu tiên để ngăn ác diệt ác thì chúng ta phải tu tập đầy đủ. Khi tu tập đầy đủ xong rồi, chúng ta thấy có hiệu quả trên tất cả pháp này, chúng ta có thể áp dụng đẩy lui được giặc sanh tử. Nghĩa là bệnh đau trên thân đẩy lui được, tâm phiền não đẩy lui được, tâm tham muốn đẩy lui được, hôn trầm thùy miên đẩy lui được. Tất cả những chướng ngại ở trên Thân - Thọ - Tâm - Pháp của chúng ta đẩy lui được hết, thì lúc bấy giờ chúng ta mới tu Tứ Niệm Xứ.
Vì vậy, bây giờ mới ở trên Tứ Niệm Xứ gọi là “Quán thân, trên thân để khắc phục tham ưu - Quán thọ trên thọ để khắc phục tham ưu - Trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu - Trên pháp quán pháp để khắc phục tham ưu”. Đó là chúng ta mới trở về tu tập Tứ Niệm Xứ trong giai đoạn thứ hai.
Tứ Niệm Xứ trong gia đoạn thứ nhất là tu Tứ Chánh Cần, trong giai đoạn thứ hai chúng ta tu tập mới chính là Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ. Khi đó bấy giờ tâm chúng ta thanh tịnh hoàn toàn nhưng nội lực chúng ta chưa đủ, tức là cái lệnh chúng ta chưa đủ, tức là Dục Như Ý Túc chưa đủ, Tứ Như Ý Túc chưa hiện đủ thì lúc bấy giờ chúng ta ôm pháp Thân Hành Niệm thì lệnh ở đâu hành động phải làm theo đó.
Vì pháp Thân Hành Niệm là pháp tu lệnh:
Tu Dục Như Ý Túc,
Tu Tứ Như Ý Túc
Bởi vì đức Phật đưa ra Tứ Như Ý Túc mà chúng ta không biết pháp tu Tứ Như Ý Túc thì chúng ta không tu Tứ Như Ý Túc được. Cho nên pháp Thân Hành Niệm là pháp tu Tứ Như Ý Túc hay nói pháp Thân Hành Niệm là thực phẩm của Tứ Như Ý Túc, nghĩa là thực phẩm của cái pháp đó là nó phải tập luyện hàng ngày như chúng ta ăn uống hàng ngày để mà sống. Phải hiểu chỗ này, cho nên khi mà thực hiện, muốn thực hiện pháp Tứ Như Ý Túc là phải tu pháp Thân Hành Niệm, từ đó nó mới có mười Công đức hay là mười Thần lực hiện trên pháp Thân Hành Niệm.
(53:49) Khi mà hiện lên đủ thì lúc bấy giờ chúng ta mới thực hiện Tứ Như Ý Túc chứ không tu Tứ Như Ý Túc, mà tu Tứ Như Ý Túc tức là tu pháp Thân Hành Niệm. Hiểu chỗ Thầy muốn nói thì quý Phật tử sau này không còn lạc đường nữa.
Sau khi thực hiện được cái Tứ Như Ý Túc thì chúng ta Định Như Ý Túc, khi Định Như Ý Túc là chúng ta muốn định Tứ Thiền, tức là nhập Tứ Thiền. Khi mà nhập được Tứ Thiền thì lúc bấy giờ chúng ta thực hiện Tam Minh không còn khó khăn. Có phải đúng không?
Chúng ta phải đi từng pháp của Phật rất rõ ràng chứ không còn hiểu lầm lạc được, mà hiểu lầm lạc thì chúng ta đi trật đường thì muôn đời chúng ta không bao giờ làm chủ sanh già bệnh chết và chấm dứt luân hồi.
Đến đây thì Thầy thuyết giảng tóm lược lại con đường đi của đạo Phật là như vậy. Nếu quý Phật tử thấy cuộc đời của mình không lẽ bây giờ chúng ta sinh ra làm người mà chỉ biết có làm để phục vụ cho ăn ngủ thì không có lý, chúng ta phải nỗ lực như thế nào để xứng đáng khi chúng ta có mặt trên cuộc sống này.
Không thể nào chỉ để phục vụ cho ăn ngủ, làm cho tiền nhiều cũng cho ăn, làm cho tiền nhiều cũng ngủ, ăn ngủ và dâm dục, không có cái gì khác hơn hoặc ngoài những vấn đề này. Cuối cùng chúng ta chết đi có còn được những gì. Có phải không? Cho nên ở đây chúng ta có thân là khó, không phải dễ, mà có thân mà được chánh pháp của Phật như thế này mà không tu thì quá uổng. Phải ráng nổ lực!
Tuy Thầy nói khó nhưng không phải khó mà không làm được. Nếu không làm được, làm sao Phật đã tu giải thoát, làm sao hôm nay thời đại của chúng ta Thầy tu được giải thoát như thế này. Thầy đã làm được. Cơ thể Thầy, các con thấy Thầy ôm yếu, nhỏ con, đâu có lớn con mà vẫn làm được thì Thầy tin rằng mấy con cũng vẫn thừa sức làm được nhưng phải bền chí, phải kiên gan, bởi vì trên con đường tu tập là nghiệp chúng ta nặng, nó sẽ gặp nhiều cái khó khăn thì chúng ta phải đổi lấy máu và nước mắt. Khi thân chúng ta ngồi tu mà cái cơ thể bệnh đau mà vẫn giữ thân sừng sựng mà tu thì các con biết nước mắt chảy ròng ròng, chịu đựng, không hề dám buông pháp thì mấy người gan dạ như vậy người ta mới vượt qua những cái khổ đau của kiếp người.
(56:19) Còn nếu chúng ta thấy đau mệt nhọc quá, chỉ nằm xuống rồi uống thuốc để dưỡng bệnh thì chắc chắn không bao giờ đạt được kết quả. Cho nên mỗi lần mà Thầy nói, mấy con hiểu là tu tập theo đạo Phật để đạt được kết quả là phải bằng máu và nước mắt của mình. Nó đau quá, nước mắt không khóc mà nó chảy, tự nó chảy vì nó đau quá mà mình ôm pháp, có pháp ôm mà vẫn thấy đau bởi vì cái sức đau nó đau kinh khủng, nó đau hơn cái lực mình ôm pháp nhưng trì chí mà ôm nó cũng như mình qua biển, sóng gió ba đào mà phải ôm cái phao cho chặt, nếu mình lơ lỏng là mình chìm xuống biển, không còn chỗ bám nữa. Cho nên khi tu tập mà đến giờ phút cuối cùng chứng đạo phải một lần chết đi rồi sống lại.
Khi mà nó đau quá đến nỗi mình không còn biết nữa tức là mình chết mất rồi nhưng mà mình tỉnh lại, cả một cái không gian an lành cho chúng ta vô cùng mà đức Phật đã nói: “Cái sức chịu đựng tận cùng của sự cảm thọ của mình, sức sinh mạng chịu đựng sự cảm thọ của mình nó sẽ mát lạnh” là nó chết đi rồi nó sống lại, nó mát lạnh vô cùng, nó không còn đau đớn chút nào trong thân chúng ta nữa. Thì Thầy nói bằng máu, nước mắt của mình là đúng, không sai. Chúng ta tu rồi chúng ta sẽ thấy và nói như vậy không có nghĩa là làm cho mấy con sợ mà hướng dẫn cho mấy con chuẩn bị tinh Thần của mình trước những khó khăn, trước những đau khổ của pháp tu, quyết định phải qua cho được.
Thầy đi qua, Phật đi qua thì mình phải đi qua, không bao giờ mình lùi bước, đi là phải đi tới, không lùi bước. Không tu thì thôi, mà đã tu thì phải nhất định tới nơi tới chốn, giống như Thầy, giống như Phật, bỏ ngai vàng, bỏ vợ đẹp con xinh, bỏ vua cha mà đi tu thì phải đi cho tới nơi. Nếu trở về thì mặt mũi nào mà thấy vợ, thấy con, thấy cha mình nữa. Cho nên đức Phật đã làm được, hôm nay Thầy đã làm được, Thầy không xấu hổ với cha mẹ Thầy, đã sanh Thầy ra - một đứa con gan dạ, làm được những điều ít ai làm được. Vậy Thầy mong mấy con cũng nên theo gương Phật, theo gương Thầy xứng đáng là con người được sanh ra trong thời đại khoa học. Thầy mong mấy con cố gắng. Thầy chỉ ước mong như vậy thôi.
Mấy con sắp xếp gia đình đâu vào đó, con cái lớn khôn rồi từ bỏ để chúng ta nổ lực thực hiện những ngày còn lại trong tuổi đời của mấy con, đừng đắm đuối, một ngày nào đó vô thường đến nó cũng sẽ lôi mấy con vào sáu đường đau khổ mà Thầy cũng không cứu mấy con, mà Phật cũng không cứu mấy con được. Chính mấy con phải tự thắp đuốc lên mà đi.
Đến đây Thầy xin chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay.
(59:17) Mấy con còn hỏi Thầy gì nữa không, cứ hỏi Thầy sẽ trả lời.
Thầy xin nhắc thêm mấy con thấy, một con người bằng xương bằng thịt, mấy con cứ nhìn Thầy cũng như mấy con, không khác, cũng biết đau, cũng biết thương, cũng biết ghét, cũng biết giận, biết hờn như mọi người, thế mà đi trên con đường của đạo Phật mà một con người như Thầy làm được, thì Thầy tin rằng mấy con cũng làm được. Bởi vì thật sự Thầy cũng bằng xương bằng thịt, cũng bằng cha mẹ sinh ra chứ không phải là một con người ở cõi nào biến hóa ra đây mà chính là con người thật sự. Thầy có cha có mẹ, có quê hương, có tổ tiên, có ông bà hẳn hòi, bằng xương bằng thịt, mấy con lấy cây đánh Thầy, Thầy cũng biết đau như người khác đánh mấy con vậy thì Thầy tin rằng mấy con cũng làm được như Thầy. Phải ráng thôi.
Hôm nay mấy con về đây là có một cái nhân duyên rất lớn. Ngày xưa, mấy con biết không, Thầy cũng tu tập nhiều đời chứ không phải một đời. Do hạnh ăn ngày một bữa và đi xin ăn mà Thầy đã đi cùng khắp nước, khắp nơi rồi trong cái tiền kiếp đó, mấy con cũng là những con người, mấy con cũng cúng dường cho Thầy, dù là một bữa ăn thì hôm nay mấy con cũng gặp Thầy. Nếu mấy con biết rằng một bậc chân tu mà người ta ôm bình bác đi xin, mấy con chỉ cần xớt cho họ một bát cơm thôi, đời sau mấy con có duyên gặp họ nếu là người tu đúng mà ngày xưa đức Phật gọi là hóa duyên độ chúng, chứ không phải là đức Phật cần thực phẩm ăn để sống đâu. Cũng như hôm nay Thầy có ăn, có thực phẩm ăn thì ăn, có cúng dường thì ăn mà không thì ngồi thiền còn sung mãn biết mấy.
Các con thấy như thầy Chơn Thành, hôm nay thầy ngồi thầy tu pháp Thân Hành Niệm, nó sung mãn, nó làm cho thầy không có đói khát, ngày này qua ngày kia thấy hạnh phúc vô cùng, đâu cần gì thực phẩm. Cho nên trong thời đức Phật, một hôm Ngài đi xin thì có một bác nông dân ở dưới ruộng thấy đức Phật đi xin thì ông đến bên đức Phật ông nhìn vào bình bác, ông cười rồi ông đi xuống ruộng ông cày. Đến khi trưa khi đức Phật đi về thì ông chạy lên, ông cũng nhìn vào bình bát, ông thấy bình bát không có hạt cơm nào hết thì ông mới nói với đức Phật như thế này: “Ông phải cày ruộng như tôi mới có lúa ăn, chứ ông đi xin làm gì người ta cho ông”. Đức Phật mới nói: “Ta không cần thực phẩm mà ta cần gieo duyên để độ chúng sanh, chứ đối với ta cần gì phải ăn, ta chỉ cần ngồi thiền là thân đã đầy đủ sung mãn sức sống rồi”.
(1:02:29) Thật sự đúng như vậy mấy con, khi mà tâm mình bất động rồi thì lúc bấy giờ có một cái trạng thái rất là an lạc và sung mãn, nó quên cả đói, quên cả ngủ mà rất an ổn, rất khỏe khoắn trong thân người cho nên Thầy làm việc nhiều nhưng chỉ cần trong 1 giờ, 2 giờ giữ tâm thanh thản, an lạc, vô sự, bất động tâm, thì ngay lúc đó liền thấy mình như thọ dụng những chất bổ dưỡng rất đầy đủ, làm cho cơ thể không còn cảm thấy mệt nhọc nữa, rồi tiếp tục ngày hôm sau vẫn làm việc được. Thì mấy con thấy, Phật pháp rất hay. Cho nên Thầy mong rằng mấy con hãy tu đi, rồi mấy con bước được vào ngưỡng cửa, nếm được mùi vị giải thoát thì chắc chắn mấy con thấy cuộc đời không có gì hơn được.
Chỉ vì hôm nay mấy con chưa nếm được mùi vị giải thoát mà các con mà các con thiếu tu tập quá. Đúng, Thầy đã thấy một số người tu giữ giới không nghiêm chỉnh cho nên làm sao nếm được mùi vị giải thoát của đạo Phật được. Trừ ra chúng ta phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì chúng ta mới nếm được mùi vị, cho nên đức Phật nói trong bài kinh Ước nguyện: “Nếu ước nguyện một điều gì thì chúng ta phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì ước nguyện điều đó sẽ đạt được”. Đúng vậy, đức Phật có nói nếu chúng ta muốn nhập Sơ Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền thì giới luật phải nghiêm chỉnh, do giới luật nghiêm chỉnh thì chúng ta sẽ đạt được.
Như vậy, Thầy Chơn Thành ở đây, đầu tiên Thầy còn được hai bộ đồ mặc nhưng tu thì cũng có kết quả, nhưng cuối cùng thầy nghe về Giới luật, thầy buông xả còn ba y một bát, nghĩa là chỉ còn một cái áo tràng mặc như Thầy như thế này và đồ ngắn ở trong, còn bao nhiêu thầy cho hết. Bây giờ, mặc cái áo tràng thì giặt bộ đồ mà các con biết khó lắm mấy con, phải biết lựa cái giờ nào mà giặt. Mỗi lần mình muốn giặt, mình có hai bộ đồ thì giặt giờ nào cũng được cho nên mình phơi suốt cả buổi nó khô. Còn bây giờ tối mà giặt hoặc cái giờ nào mà giặt nó không hợp thì tới chừng giặt tới cái áo này thì ta không có cái bộ đồ để mặc. Cho nên phải lựa giờ giặt đâu nó ra đó để khi cái áo này thay thì mặc cái bộ đồ kia, bộ đồ kia mặc thì cái áo này thay ra giặt. Thí dụ như bây giờ, Thầy thuyết giảng xong mấy con, Thầy giặt bây giờ đến chiều cái áo này nó sẽ khô. Cho nên Thầy ra khỏi cái phòng này, Thầy đem thay cái áo này Thầy giặt để chiều Thầy lấy mặc, cho nên Thầy thay cái áo trong Thầy giặt. Đó là đời sống ba y một bát đó mấy con.
(1:05:13) Cuộc sống rất là, mới đầu thì thấy nó rất là khổ, nhưng cuối cùng hôm nay thì Thầy nói như vầy, sao nó hạnh phúc quá, nó không có bề bộn nhiều nữa, nghĩa là cái này mặc thì cái kia giặt, nó làm cho con thấy hạnh phúc và đồng thời cái thời gian mà tu tập nó nhiều hơn, nó không có bận rộn nhiều về quần áo hoặc này kia, cho nên con thấy đúng là hạnh phúc thật.
Mà từ đó, lại bệnh đau trong thân con, tác ý bệnh nào - hồi đó con phải tác ý, tác ý cả năm, mười phút nó mới lui được cái bệnh, bây giờ con chỉ nói: “Thọ vô thường. Đi! không được đau”. Con chỉ nói như vậy thôi thì con nghe thấy cái thân con không con đau nhức; thậm chí như cái răng, Thầy lớn tuổi, răng nó già nó lung lơ nó rụng, cho nên nó hay bị lung lơ, bị nhức. Thầy bảo: “Thọ vô thường, răng này không có đau nữa nhe”. Thầy chỉ cần nói vậy thôi, rồi nó hết đau liền.
Thì các biết cái giới luật của Phật rất tuyệt vời. Thầy không ngờ khi mà giữ giới nghiêm túc thì cái lệnh của mình nói đâu nó làm đó, nó còn hay. Còn cái kia, hồi đó mình tu tập gần chết mà giới luật nó hơi lỏng lẻo, nó chưa được nghiêm do đó nó phải tác ý từ 1 phút cho đến năm phút, có khi cả ba mươi phút nó mới hết cái bệnh thì đủ biết rằng nó chưa thanh tịnh cho nên nó lâu, mà nó thanh tịnh thì nó mau. Đó là để chúng ta thấy được cái giới luật của Phật là giới vô lậu thật sự, nó làm chúng ta không còn lậu hoặc nữa rất nhanh, cho nên hầu hết người ta coi về giới, giới luật lắm. Giới luật là đức hạnh, làm phạm hạnh của người tu, rất tuyệt.
(1:07:00) Đó, bây giờ các con nghe Thầy ca ngợi giới tại vì Thầy sống giới và Thầy thấy kết quả của giới. Thầy muốn truyền dạy lại cho mấy con cái pháp rất tuyệt vời.
Bây giờ Thầy tóm lược bài và Thầy cũng khích lệ mấy con và đồng thời Thầy cũng nhắc nhở về giới lợi ích và tu sĩ ở đây người ta tu có kết quả. Vì nhờ kết quả đó mà niềm tin của người ta thấy được Phật pháp vi diệu, cho nên mấy con mà tu tập mà mấy con nhiếp tâm và an trú được tâm và đẩy lui được những bệnh khổ và tâm mình có điều gì đẩy lui được hết thì mấy con thấy niềm tin của mấy con càng lớn càng mạnh và càng sâu, nó trở thành Tín Lực. Còn nếu tu không có kết quả, không an trú được, không đẩy lui được bệnh khổ, không đẩy lui được tâm phiền não của chúng ta thì chúng ta sẽ bị thối chuyển. Bởi vì giới luật khắc nghiệt quá, ăn ngày một bữa, sống giờ giấc phải nghiêm chỉnh, không được muốn ngủ giờ nào thì ngủ, muốn chơi giờ nào chơi mà giờ nào phải ra giờ nấy và phải sống độc cư một mình.
Bởi vậy, Thầy ca ngợi cái hạnh độc cư một mình. Chính người sống độc cư một mình là người đó sống cho mình vì vậy từng tâm niệm của mình khởi lên mình mới thấy rất rõ, mình mới hiểu được mình, còn mình sống mình tiếp duyên mình nói chuyện thì mình sống ở ngoài chứ không phải sống cho mình, mình sống cho mọi người cho nên cái hạnh độc cư rất tuyệt vời. Và đồng thời nếu mà giữ được giới hạnh như vậy và những giới mà đức Phật đã dạy mà sau này các con đọc được những Bộ Giới - như vừa rồi thì Thầy đã soạn thảo bộ Giới Hành của người Sa di tức là người đầu tiên vào đạo Phật.
Các con có đọc bộ Mười Đức Thánh Giới Sa-Di rồi phải không? Bây giờ các con sẽ đọc 25 Giới Hành Của Sa-Di nữa, thì mấy con thấy như vậy nó cũng còn một bộ thứ 3, đó là bộ Giới Oai Nghi Tế Hạnh Của Người Sa-Di. Ba tập nó mới vào thành bộ của bộ Giới Luật của người Sa-Di. Giới hành rất tuyệt vời mấy con. Giới đức thì mấy con đọc rồi, mấy con biết từng giới nó có cái đức của nó.
Bây giờ tới cái Giới hành, cái giới hành thực hiện qua cái hạnh sống của mình tới cái oai nghi tế hạnh. Đó là nói ra cho rõ những cái từ về cái đi đứng nằm ngồi, mặc y, mang bát, ăn ở, nói nín như thế nào là một người tu sĩ của Phật giáo, là một người vị phạm hạnh. Đó là cách thức như vầy, cho nên những giới luật sẽ dạy chúng ta có đạo đức, có hạnh, có pháp để mà chúng ta thực hiện đức hạnh đó, sống trở thành một vị Thánh Tăng, Thánh Ni chứ không phải là một người tầm thường nữa. Đó là giới luật.
(1:10:15) Hiện giờ, Thầy đang soạn thảo bộ Giới Đức Thánh Tăng, Thánh Ni; đang soạn thảo bộ Giới Của Sa-Di. Bây giờ mới soạn thảo bộ Giới Tỳ Kheo - Tỳ kheo Tăng và Tỳ kheo Ni - thì mấy con thấy như Thầy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, tức là giới thứ nhất của Phật. Một người muốn bước chân vào đạo Phật để trở thành một vị tu sĩ, Thánh Tăng, Thánh Ni thì phải cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa. Giới thứ nhất dạy như vậy để làm gì, Thầy sẽ giải thích trên cái giới đó để cho mấy con sẽ hiểu chứ không phải Giới Sát Sanh là giới thứ nhất, mà là giới cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa.
Mấy con đọc bộ giới mấy con thấy rất lạ lùng, tại sao có những cái giới mà đúng nếu không cạo bỏ râu tóc, không đắp áo cà sa thì làm sao trở thành một vị tu sĩ Phật giáo được cho nên nó là cái giới, nghĩa là người đến với đạo Phật tự nguyện tôi cạo tóc, con xin cạo tóc chứ không phải là người ta bắt buộc. Cho nên nó là giới, mà không phải giới cấm mà nó là giới hành - tôi tự nguyện đến đến với đạo Phật để trở thành một tu sĩ thì tôi cạo bỏ râu tóc, tôi đắp áo cà sa tức là áo vải thô xấu, chứ không phải áo cà sa mà như quý sư quý thầy bây giờ, vải đẹp. Nó sai đi. Vải mà người ta bó thây ma, người ta bỏ trong rừng rồi những con thú nó xé cái thây ma nó ăn, những cái vải đó nó rách rưới, nó quăng tùm lum ra trong rừng, rồi những tu sĩ trong thời của đức Phật, người ta mới lượm cái đó người ta đem giặt rồi về người ta kết lại thành cái miếng, gọi là y, rồi người ta vấn như mấy ông sư vấn vậy đó. Đó là miếng y phấn tảo của người ta. Ngày xưa người ta tu, người ta lượm lặt những cái đó.
(1:12:06) Có nhiều người nói ngày xưa tại vì vải sồ không có, phải tiết kiệm, phải vậy. Còn bây giờ thiếu gì mà phải ăn mặc như vậy. Không phải đâu. Cái hạnh, phạm hạnh của người ta bởi vì nếu mình còn ăn mặc sang đẹp, cũng như bây giờ cái áo Thầy nó bạc màu thế này, Thầy sẽ may áo mới màu nâu, nó đẹp hơn và vải tốt hơn thì như vậy rõ ràng là nó có sự trang điểm, nó không đúng hạnh nữa. Ăn mặc thô xấu như vậy là mục đích chúng ta phá đi cái tâm trang điểm, tâm làm đẹp chứ không phải vì có vải hay không có vải.
Mình phải hiểu được cái hạnh của nó cho nên vì vậy mà cạo bỏ râu tóc là mục đích chúng ta làm cho cơ thể của chúng ta nó không còn có cách thức sửa soạn, có râu cứ tỉa râu cho đẹp như râu Quang Công thì như vậy, bộ râu cũng mắc công mình cho nên cạo trụi lủi thì đâu còn sửa sang, phải không mấy con? Còn có tóc, mấy con phải đi hớt, nếu không hớt thì để phải mắc công bới lên, rồi phải sức dầu chứ không nó đánh đồng đanh thì sao, rồi phải lược chải, phải cực không? Cạo như ông Thầy chùa Thầy thấy nó khỏe vô cùng, khỏi tốn dầu gội đầu, không sướng sao. Mấy con còn để tóc, mấy con cũng cực đó, phải không. Ít chừng nửa tháng một tháng phải đi hớt, không thì nó dài quá nó cũng kỳ, nó dài quá thì giống như phụ nữ thì phải bới lên rồi phải gội, thế này thế kia. Trời, nó rất vất vả, đâu phải là hạnh phúc gì đâu cho nên cái giải thoát của đạo Phật ngay liền khi cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa. Thầy thấy nó giải thoát ngay liền, cái miếng vải nào, tốt xấu như thế nào mình vẫn đắp trên thân mình được, không có cần nó phải là thứ này phải như vầy, lựa cái này cái kia, không có. Cái nào xấu tốt, miễn sạch sẽ, đắp lên thân mình làm cái y để thân nó kín đáo, nó đừng bày da bày thịt là được. Đó là mục đích của cái hạnh của một vị tu sĩ.
(1:14:01) Còn bây giờ nó khác, quý thầy phải lựa vải tốt rồi may y cho tốt, thậm chí như không có lượm vải mà cắt vải nát ra rồi kết lại. Thiệt ra làm cái chuyện mắc công quá, không có đúng. Thầy thấy bây giờ người ta cho mình cái gì cũng mặc được hết nhưng mà xin Phật tử, vì phạm hạnh, cái hạnh của một người tu, hãy cúng dường vải xấu cho chúng tôi vì chúng tôi là những người tu, không phải là người đời cho nên Phật tử hãy mua vải rất rẻ tiền mà cúng dường để chúng tôi kết lại làm cái y.
Còn đằng này, Phật tử cúng dường vải xấu, nó phải mua thứ tốt Thầy chứ mua vải này mặc ít bữa nó rách, nó mắc công lắm này kia thì rõ ràng cái tâm muốn của mình nó muốn nên nó nói. Người Phật tử là đệ tử, người ta nghe Thầy nói vậy thì người ta phải tìm hoặc là người ta tìm vải tốt người ta cúng dường. Không lẽ cúng dường Thầy mình vải xấu sao cho nên khi cúng dường vải tốt, thì ông Thầy phải nói cho Phật tử biết cái hạnh của người tu không được mặc cái này thì Phật tử đừng có mua cái này nữa, sau đó người ta quen đi, người ta cúng dường cho quý thầy người ta mua vải xấu người ta cúng dường. Còn cái này mình cứ gợi ý phải mua vải tốt, vải nhập còn vải Việt Nam cũng không mặc nữa, thì như vậy rõ ràng mình hướng dẫn cho Phật tử cúng dường chứ đâu phải Phật tử biết cúng dường như thế nào. Mình phải dạy, cho nên đứng trong giới luật thì phải dạy người Phật tử người ta cúng dường vừa tiết kiệm được mồ hôi nước mắt của người ta, mà vừa mình mặc đúng cái đức hạnh, cái phạm hạnh của người tu.
Đó thì như vầy nó mới đúng cái hạnh cho nên Thầy thấy ăn mặc mà đúng cách nó mới đúng phạm hạnh. Mà ngay cái giới đầu tiên đức Phật đã chỉ chúng ta, thấy cái ông này ăn mặc sang là không phải đệ tử của Phật rồi, sai rồi. Cái đầu ông cạo mà ông mặc cái bộ đồ này tui thấy nó khác rồi, nó không giống rồi. Mặc cái đồ gì mà đẹp quá như thế này thì đâu có được cho nên vì vậy mà sai, không đúng. Cho nên người ta lý luận đời nay vải nhiều người ta cúng dường sao thì mình cứ nhận vậy mình mặc đừng có bày đặt cho người ta cực. Sự thật ra mình bày cho người ta mua đồ tốt chứ ở đó mà bày đặt cho cực. Sự thật ra mình phải hướng dẫn cho người Phật tử người ta biết cái hạnh của người tu, từ đó về sau người ta dâng y hoàn toàn là người ta mua vải xấu. Người ta muốn thầy mình đúng cái hạnh, đúng giới luật chứ ai muốn thầy mình sai đâu, nhưng tại thầy mình ham cái đẹp mà giờ mình không cúng dường cho ổng vậy thì như là mình không có cung kính, không có tôn trọng ổng. Ổng muốn cái tốt mà mình không cho ông cái tốt thì mai mốt không chừng mình cúng dường ông quăng đi cho nên vì vậy mình cũng mua để cho ông mặc. Do đó, tại ông Thầy thôi chứ không phải tại Phật tử.
Cho nên vì vậy thí dụ như bây giờ Thầy còn cái áo này, các con thấy cái áo Thầy cũ, rách muốn cúng dường Thầy, Thầy nói khoan đã, chừng nào rách nhưng con là người đến xin Thầy đầu tiên để cúng dường Thầy, chờ Thầy mặc cái áo này rách Thầy sẽ nhận của con, còn người khác đến xin không được. Thầy đã nhận một Phật tử rồi, người khác xin, ví dụ như bây giờ các con xin Thầy hén thì Thầy nhận con rồi. Thầy chờ cái áo Thầy rách thì chừng đó Thầy sẽ báo. Giờ áo Thầy rách, Thầy không còn cái áo nữa, con hãy cúng dường cho xin con đã sẵn sàng chờ đợi cho nên con rất vui vẻ khi mà nhận được. Rồi, bây giờ Thầy đã nhận lời con rồi, có người xin cúng dường Thầy do thấy áo Thầy rách. Không được, Thầy đã nhận của một người rồi. Không lẽ Thầy mặc hai, ba cái áo sao cho nên Thầy không có chấp đâu.
(1:17:15) Đó, như vậy là rõ ràng do ông Thầy phải hướng dẫn đệ tử của mình, nó cúng dường không sai thì nó sẽ được phước. Còn những điều kiện mà các con cúng dường Thầy, còn biết bao nhiêu điều để mà các con cúng dường, không phải có một chiếc áo này. Phải không? Cho nên vì vậy mà mình phải hướng dẫn, người ta có tâm, Phật tử có tâm cúng dường mà bây giờ mình đã nhận cái áo của một người Phật tử đã cúng rồi nhưng bây giờ mình còn mặc cho nên mình chưa có bỏ cái áo này. Chứ còn áo mà chưa rách mà bỏ để mặc áo mới thì không được rồi. Đó là cái hạnh của người tu cho nên người Phật tử khác muốn xin cúng dường, Thầy nói Thầy bảo người Phật tử khác, Thầy đã nhận sự cúng dường của một người khác rồi, con đến trễ rồi, chứ phải con đến sớm hơn thì Thầy nhận con.
Bây giờ sự cúng dường đó, con sẽ cúng dường Thầy một cái gì Thầy đang cần, thiếu. Hay hoặc chai kem Thầy gần hết. Thôi bây giờ con có cúng dường thì chờ chừng nào chai kem Thầy hết, thì Thầy sẽ nhận sự cúng dường chai kem súc miệng của con cúng dường Thầy. Con hãy mua sẵn để dành đó đi chờ Thầy, còn không thì chừng đó Thầy hết Thầy đến xin con. Có phải vậy không? Cho nên một ông Thầy giữ gìn giới hạnh rất nghiêm chỉnh mà người Phật tử cúng dường đúng cách, không sai.
Các con thấy từ sự Thầy trò hướng dẫn nhau để đi trên con đường thanh tịnh của Phật pháp là làm cho chúng ta cúng dường được phước mà làm cho ông Thầy không bị vật chất lôi cuốn. Chứ còn bao nhiêu cúng dường nhận hết cuối cùng vật chất lôi ông Thầy mất. Cũng như bây giờ không cần dùng tiền mà các con cứ cúng dường, cúng riết Thầy không biết làm sao. Do đó gởi ngân hàng tới chừng mà Thầy chết, Nhà nước họ xem xét coi, họ quản lý họ lấy tuốt luốt hết, không còn cái thứ gì đâu. Không, có trường hợp mấy con, còn trường hợp nhiều quý thầy đã làm cái điều sai đó mà Nhà nước lấy hết chứ không phải không. Cho nên Thầy thấy điều đó là điều sai. Bây giờ Thầy không cần gì hết mà mấy con cúng dường Thầy làm gì đây. Thầy không cần nhận.
(1:19:06) Bây giờ mấy con cúng dường thì Thầy chỉ, Thầy hướng, bây giờ có bộ sách Đạo Đức Làm Người - Đạo Đức Nhân Quả, các con hãy họp nhau giao lại cho người nào đó để người đó đứng ra họ xin phép, họ sẽ bỏ tiền họ in cái bộ sách này ra rồi mấy con sẽ ấn tống cho mọi người một tập. Đó thì tiền mấy con cúng dường nó hữu ích chung cho mấy con, chung cho Phật giáo nữa. Đó là cái hướng dẫn của vị Thầy, chứ không phải vị Thầy cúng dường bao nhiêu cứ bỏ dồn dồn cất rồi cuối cùng đó xài không hết, ăn không hết rồi cất chùa cho lớn lên. Như vậy, rõ ràng là phí của, phí của người ta.
Cái chùa lớn đâu có cần thiết lắm đâu. Cuối cùng rồi sau này cái chùa lớn, thay vì những đồng tiền đó được cất một cái trường học, một phòng học, những phòng học để cho những người Phật tử người ta đến hoặc là những người tu sĩ người ta đến người ta học. Người ta học cái gì? Người ta học tu trong cái lớp Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ để cho người ta có cái nhìn của người ta để cho người ta có cái lối sống khác, nó không còn cái lối sống cũ, làm cho người ta nhìn mọi vật mà người ta không bị dính mắc, nhìn mọi vật mà người ta không bị tham, sân, si, làm cho người ta được giải thoát.
Như vậy, cái đồng tiền đó chúng ta cất lên một cái trường ốc, cái lớp học do đó bây giờ có một người chứng quả A La Hán, họ đứng ra để hướng dẫn. Bắt đầu họ nhận mười người, hai mươi người vào cái lớp này. Bắt đầu một năm phải học cái lớp này. Trong một năm, vừa học vừa tập luyện, vừa tu, vừa sống đúng những giới hạnh của cái lớp này. Phải không?
Bởi vì cái lớp này, nó cho một người mới vào tu những cái giới gì người đó phải sống, những cái giới gì phải tập. Cũng như bây giờ các con vô lớp Chánh Kiến, ai mà bắt mấy con cạo tóc bao giờ, phải không. Khi mà vô như vậy, mấy con phải học lớp Chánh Kiến đó, phải học cái gì cái gì, giới luật gì chứ ai mà bắt cạo tóc, đắp áo cà sa hết đâu. Cho nên sau khi học như vậy để các con về gia đình và tiếp xúc với xã hội, mấy con không làm khổ mình, không người trong cái nhìn của mấy con, thì làm cho xã hội chúng ta đầy đủ đạo đức đẹp đẽ.
(1:21:11) Đó là một cái đường lối của đạo Phật như vậy, triển khai như vậy thì số tiền của mấy con, mỗi người một ít góp nhau mở thành một lớp học, quá tuyệt vời. Có phải không? Lợi ích chung cho xã hội, xây dựng chung. Bởi vì Phật pháp là cái môn giáo dục thực tập để đem lại sự sống đạo đức cho mọi người thì những lớp học như vậy, mà Thầy thấy nhìn lại Phật giáo chúng ta có những trường học, học để nói, để thuyết giảng, để nói láo chứ đâu có làm gì được đâu. Anh không nhập Thiền Định được, anh không thực hiện được Tâm ly dục ly ác pháp mà anh nói thì rất hay thì đó là học nói láo chứ gì. Rõ ràng mấy ông giảng sư là nói láo. Có đúng không? Cho nên thật sự mấy ông này có làm chủ được cái gì đâu. Giầy, giỏ, xe cộ, cái gì cũng sang cũng giống như người đời hết thì coi như cái người, cái ông Thầy này có xả được cái gì đâu. Ông y còn hơn ngoài đời, còn đẹp hơn. Cho nên trong khi đó cái lớp học này làm cho người ta được biết cách buông xả, người ta trở về với cái đức hạnh của một con người thật sự, không tham đắm giữ vật chất.
Cho nên Thầy cũng ước ao một ngày nào đó quê hương chúng ta có những cái lớp học chứ không phải có những cái chùa. Tại sao mấy con biết không, có những cái chùa đến đó chuyên môn mê tín, cầu cúng thì như vậy dạy mình làm cái điều nhảm nhí chứ có lợi ích gì đâu, chỉ an ủi tinh Thần của mình một chút chứ sự thật ra rất là nhảm nhí. Còn trái lại vô cái lớp học này anh phải nhìn cái này, cái sự kiện này xảy ra, anh phải nhìn nó như thế này thế này, tập trong cái thời gian đó, luyện tập cho người ta có cái nhìn của một góc độ khác. Hồi giờ mình nhìn cái đó là đúng, cái đó là sai, bây giờ anh này ảnh nhìn cái đó là nhân, là quả cho nên từ đó người ta chửi ảnh, ảnh không giận. Có phải không, thay vì bây giờ ai mạ nhục, ai chửi mình, mình tức giận liền bởi vì cái hiểu biết, cái nhìn của mình trong cái góc độ của truyền thống, từ người xưa đến bây giờ cho nên mình dễ giận, dễ hờn.
(1:23:08) Bắt đầu bây giờ học qua lớp Chánh Kiến có cái nhìn khác cho nên người ta nhìn mọi cái sự kiện xảy ra trong ác pháp làm tâm chúng ta bất động, không có giận hờn cho nên người ta hướng dẫn mình có lối sống mới, sống mà không đau khổ nữa, sống mà thoát ra khỏi mọi sự đau khổ quá tầm thường. Do đó cái lớp học như vậy rất thực tế và bây giờ mỗi người một ít mà chúng ta mở một lớp học như vậy, cất một cái nhà, làm cái trường, có những cái nơi ăn ở để cho những người về đây người ta ở lại, người ta học tập trong một tháng hoặc là trong một năm rồi sau khi người ta tốt nghiệp lớp này ra người ta thấy cuộc sống người ta hạnh phúc vô cùng. Có phải đúng không? Lợi ích. Cũng như bây giờ mình vào một lớp học, sau một năm học mình đi ra, ít ra mình vào lớp Một hay lớp Hai, mình cũng biết đọc chữ cũng biết làm toán chứ; do đó cái kết quả nó như vậy, nó thực tế.
Đạo Phật cũng như vậy chứ đâu phải chúng ta giải thoát đợi tới cuối cùng chúng ta có Tam Minh mới giải thoát sao. Vô học lúc nào là chúng ta có giải thoát liền cho nên đạo Phật nói: “Pháp ta không có thời gian đến để mà thấy”, ngay vô chúng ta đã thấy liền. Có phải đúng không mấy con? Cho nên ở đây sự thật ra, chúng ta có cái duyên với Phật pháp cho nên chúng ta được nghe, được hiểu và hôm nay còn có duyên mấy con từ xa xôi mấy con lặn lội vào trong này. Đây là một cái duyên chớ. Con có biết bao nhiêu người không? Bây giờ nhìn đất nước Việt Nam chúng ta có bao nhiêu người mà được mấy người biết Thầy, được mấy người mà được nghe Thầy nói về giới luật, được mấy người mà nghe Thầy nói từ cái pháp của Phật đi đến cái cuối cùng của nó là Tam Minh không? Ít lắm mấy con.
Thậm chí người ta còn chửi Thầy là khác nữa. Các con thấy phải không? Thầy không nói một người nào mà sai pháp như thế, Thầy không nói ai hết nhưng mà Thầy nói cái pháp sai làm cho quý thầy sống sai, chứ còn thật sự Thầy không nói ông thầy nào hết. Nhưng mà họ chửi thì họ chửi đích danh Thầy đó, họ nói thẳng Thầy, Thầy là như thế này thế khác nhưng mà quan trọng gì mấy con. Một người tu tập giải thoát mà được làm chủ rồi thì cái sự mà họ nói có nhằm nhò gì. Nhưng mà Thầy rất là thương mấy con, bởi vì những lời nói đó nó làm cho mấy con bán tin bán nghi, không biết đúng hay sai. Bởi vì cái lý luận nào người ta cũng có cái lý luận, nhưng mà cái lý luận sai vẫn có cái lý luận sai chứ đâu phải không có.
(1:25:35) Cho nên đức Phật dạy khi người ta khen mình thì đừng có mừng, coi chừng họ khen sai chứ đâu phải khen đúng; mà khi họ chê mình chưa hẳn là họ chê đúng, coi chừng họ chê sai cho nên mình đừng có mừng, cũng đừng có giận. Coi chừng! Cho nên trong những bài kinh mà đức Phật đã dạy, như bài kinh Phạm võng có hai Thầy trò của ngoại đạo, cái ông Thầy thì tìm mọi cách để bài bác đức Phật đủ mọi cách, còn ông học trò thì khen ông Phật đủ cách. Cho nên đức Phật nói: “Các Tỳ kheo, đừng có vì người ta khen mà mừng, đừng có vì người ta chê mà buồn. Vì vậy mà mình cứ xét nếu họ chê đúng thì mình cố gắng sửa, mà người ta chê sai thì mình chẳng có màng cái đó”. Người ta khen mình mà khen đúng thì mình phải dựa vào đâu mà họ khen đúng, tức là dựa vào giới luật khen mình.
Ví dụ như nói: Thầy Thông Lạc bây giờ ăn ngày một bữa là Thầy rất giỏi, mình ăn sao mình cứ bị đói hoài. Đó là khen đúng. Còn bây giờ mà khen Thầy: Thầy Thông Lạc có thần thông phép biến hóa tàn hình, biết chuyện quá khứ vị lai, Thầy giỏi quá. Đó là khen sai. Các con hiểu không? Mục đích của đạo Phật đâu phải nhằm chỗ này mà khen Thầy như vậy là khen Thầy ngoại đạo rồi chứ khen gì, lừa dối người ta bằng Thần thông chứ gì, thì như vậy khen Thầy là khen sai. Có đúng không? Nhưng mà ai nghe nói Trời, Thầy Thông Lạc ổng biết chuyện quá khứ, mình chưa đến ổng biết bụng gan mình hết, Trời ông hay quá, cái đó coi chừng khen sai. Đối với đạo Phật, cái đó khen sai, không đúng. Còn trái lại, khen Thầy Thông Lạc không giết hại chúng sanh, sống biết thương yêu chúng sanh, Thầy Thông Lạc không tham lam trộm cắp, Thầy Thông Lạc không ăn uống phi thời, Thầy ăn một bữa, sống độc cư trầm lặng một mình, Thầy ngủ trên tảng đá trong thất, không giường không chỏng, Thầy đơn sơ như một cái người giữ đúng hạnh đầu đà. Đó người ta khen Thầy như vậy là khen đúng bởi vì cái này là cái giới luật của Phật, cái phạm hạnh. Đó là khen đúng, mà khen đúng cũng không phải mừng nhưng mà khen đúng mình biết đúng, nhưng mà khen sai mình biết sai.
(1:27:37) Mục đích của đạo Phật là khuyên các đệ tử của ngài phải vậy. Cho nên đối với những người mà chê, mạt sát nói gì, Thầy biết đó là họ chưa hiểu gì hết. Nếu một người mà hiểu Phật pháp, họ thấy đó là chê sai không đúng, chê trật không đúng vì vậy cho nên thật sự ra Thầy nghĩ rằng trong cái duyên mà mấy con về đây, về Trảng Bàng, được nghe Thầy nói.
Thầy nghĩ rằng mấy con chỉ cần sống cho Thầy như thế này thôi. Lúc nào các con cũng nhớ nhắc, Thầy nhắc bởi vì mấy con gia duyên nhiều lắm, khó mà bức ra trở thành như Thầy. Các con chỉ cần nhắc - đầu tiên mấy con nhắc: “Tâm như cục đất, ly tham, sân, si hết đi. Tham, sân, si là ác pháp, là đau khổ từ đây về sau không được tham, sân, si”. Các con nhắc nó vậy đi và đồng thời con lại nhắc một câu, câu kế nữa: “Tâm thanh thản an lạc vô sự là hạnh phúc nhất đời, phải sống với cái hạnh này”. Đó, con cứ nhắc nó cái này rồi một ngày nào đó con sẽ sống được tâm thanh thản, an lạc, vô sự.
Các con nhớ chưa? Một cái thì tác ý là "Tâm như cục đất, ly tham, sân, si hết đi. Tham, sân, si là ác pháp, là đau khổ, từ đây về sau không được tham, sân, si nữa”. Mỗi mỗi đều nhắc nó như vậy rồi nó sẽ làm cho mấy con tự ý thức của mấy con dẫn nó vào trong cái chỗ giải thoát đó thì các con sẽ được giải thoát, và đồng thời thì khi nào có điều kiện gì hoặc là bình an thì các con nhắc: “tâm thanh thản, an lạc, vô sự”.
Bấy giờ thân các con đau nhức, các con nhắc “tâm thanh thản an lạc vô sự, nó là vô thường không sợ” thì nó sẽ hết bệnh cho mấy con coi. Bấy nhiêu đó đủ rồi, mấy con đừng có tu nhiều, chỉ có mấy câu tác ý đó thôi dẫn tâm vào đạo chứ đừng dẫn đạo vào tâm. Đó, mấy con nhớ chưa? Cứ dẫn đi rồi mấy con sẽ thấy đạo thực tế lắm. Bây giờ mấy con gặp Thầy, các con nhớ nhắc cho tới chiều, ngày mai chúng chửi mấy con, nhớ nhắc “tâm như cục đất, không có sân” thì ngay đó nó hết sân liền. Thầy cứu mấy con thoát khổ đó, chỉ một câu đó cũng đủ làm mấy con thấy an ổn. Về mà gia đình, vợ con giận dỗi hay gì đó, thì mấy con sẽ nhắc chừng “tâm thanh thản an lạc vô sự, tất cả đều là nhân quả, đừng giận hờn” và do đó mấy con thấy an ổn lắm.
Mấy con nhớ nhắc như vậy là mấy con cứu lấy mình bởi vì đó là thắp đuốc lên mà đi mấy con, mình đốt cây đuốc lên mà cây đuốc này là cây đuốc trí tuệ, bằng tri kiến của con mà, tri kiến giải thoát mà cho nên mấy con tác ý một cái là tri kiến của mấy con ngay đó là nó hóa giải được cái ác pháp, nó vây quanh mấy con, nó làm cho mấy con đau khổ.
(1:30:07) Mấy con nhớ những lời Thầy dạy là Thầy đã cứu mấy con, chứ còn Thầy không thể nào mà làm cách gì mà làm cho gia đình mấy con hạnh phúc bằng chính các con đã tự cứu mình. Hạnh phúc là nằm ở chỗ đó. Các con nhớ chưa? Bây giờ các con sắp sửa chết, cơ thể hoại diệt thì các sẽ nhắc “tâm thanh thản an lạc vô sự, chẳng sợ chết bỏ” thì mấy con sẽ thấy khi mà mấy con tác ý được như vậy tinh Thần mấy con mạnh lắm. Lúc bấy giờ mấy con sẽ thấy khi đó cái thân chết mà nó thanh thản, nó không tái sanh luân hồi đâu. Các con hiểu không? Mà cái tâm dao động, sợ một chút là nó tiếp tục tái sanh luân hồi đó cho nên chúng ta làm sao chúng ta đừng giống thiên hạ bởi vì thiên hạ sợ hãi, sân hận, ham muốn.
Mọi người xung quanh ta ai cũng vậy mà giờ mình thanh thản an lạc vô sự không sợ hãi thì như vậy khác họ rồi làm sao làm con họ được. Phải không? Cho nên vì vậy mình chấm dứt cái tái sanh luân hồi. Thầy dạy con tương ưng với chư Phật liền nhưng mà mấy con có làm được không, cái đó tự mấy con thôi. Nhớ, mà muốn làm được thì chỉ cần nhắc như vậy thôi, hàng ngày mình cứ nhắc thôi nhưng mà không ngờ nó có nội lực ở trong đó. Đó là mấy con đã cứu mấy con được, cho nên vì vậy mấy con cứ nhắc: “Thầy Thông Lạc hồi đó làm được như vậy, mình cũng làm được như vậy chứ sao”.
Đó, tức là mấy con sẽ chấm dứt tái sanh luân hồi, bởi vì vô thường. Mấy con gặp Thầy, ngày mai biết đâu chừng mấy con sẽ xa Thầy và vĩnh viễn không gặp nhau nữa, thì mấy con chỉ cần nhớ như vậy là mấy con gặp Thầy vĩnh viễn bởi vì mấy con thanh thản, Thầy thanh thản là gặp nhau chứ sao. Thầy hẹn mấy con ở chỗ Thanh thản - An lạc - Vô sự đó. Chúng ta sẽ về chỗ đó. Mấy con giữ được tâm thì cùng về gặp Thầy, mấy con giữ không được tâm thì mấy con sẽ đi vào chỗ tham, sân, si của thiên hạ, thì mấy con sẽ làm con của họ, đâu gặp Thầy được. Hiểu không?
(1:31:57) Nhờ trước kia mấy con gieo duyên cho nên các con về đây gặp Thầy, nhờ cái duyên đó mà Thầy dạy các con để được sống bên Thầy. Các con hiểu không? Được sống bên Thầy tức là được sống bên Phật chứ gì, mà được sống bên Phật tức là thanh thản an lạc vô sự, có gì đâu. Cái đó là cái nơi mà chư Phật người ta về thì bắt đầu bây giờ mình cố gắng mình giữ, thì mình cũng được về chỗ chư Phật đó thôi.
HẾT BĂNG
PHẬT TỬ NGHỆ AN 01 - ĐẠO PHẬT TU TẬP BẰNG Ý THỨC
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời lượng: [44:15]
Trưởng lão: Không thấy, thì tức là mình không có thấy cái miếng thịt, không thấy con cá, không thấy cái thực phẩm động vật ở trên thì cái tâm từ bi mình mới ăn được, còn mình thấy thì tức là không ăn được. Chứ không phải không thấy người ta giết con vật đó để cúng dường mình. Nhưng mà các sư lại lái nó ra một cái ý khác để cho mình ăn thịt được chúng sanh mà, đó là lái cái ý đó trở thành một cái nghĩa sai nó đi.
Tức là đức Phật đã dạy mình ăn phải khởi tâm từ bi, mà ở sáu phương trên, mà trong Đại thừa thì gọi là mười phương đó, còn ở trong kinh Nguyên Thủy thường gọi là sáu phương, bốn phương và cộng phương trên phương dưới tức là khắp cùng đó, thì khi mà khắp cùng mà khởi tâm từ bi khắp cùng mà thấy có miếng thịt chúng sanh đó thì đâu nỡ nào mà ăn thịt được. Thì không thể nào mà nỡ ăn thịt chúng sanh được.
(00:55) Rồi lại không nghe, bây giờ không thấy thịt ở trong cái dĩa này mà nghe người ta nói thịt ở đây nó bằm nát ra, thì con thấy rõ ràng thì đức Phật đã dạy đầu tiên cấm người cư sĩ, kế đó dạy chúng ta một người tu sĩ phải ăn phải khởi tâm từ bi khắp sáu phương như vậy. Rồi bây giờ đó ăn không thấy, không nghe, không nghi lại xác định thêm cho chúng ta thấy ăn không thấy, không nghe, không nghi.
Bây giờ một cái dĩa thực phẩm mà không thấy có cái thịt của động vật rồi, không thấy cái sự đau khổ ở trong đó rồi thì cái tâm từ bi nó trọn vẹn rồi, bây giờ mà có người khác, nơi khác người ta nghe người ta nói ở trong cái dĩa thực phẩm này người ta bằm nát ra hết, chứ còn ở trong đó là thịt chúng sanh ở trong đó, thì do đó mà khi nghe nói vậy là nhất định không ăn.
Cũng như có người người ta nói như thế này, người ta nói kem đánh răng mà của cái hãng nào đó, nó làm bằng mỡ heo trong đó, thì chúng ta đâu có thấy kem đánh răng, thì chúng ta đâu có thấy mỡ ở trong đó. Nhưng mà có người nói như vậy thì tức là một cái người mà tu theo đạo Phật người ta nghĩ rằng đó có nhìn thấy cái sự khổ đau ở trong đó, cho nên người ta không dùng kem.
Còn Thầy, Thầy nghĩ như thế này, nếu mà họa chăng mà đúng nghĩa như vậy, đúng là sự thật mà có như vậy là một người tu sĩ tu theo đạo Phật người ta sẽ lấy than, muối người ta đánh răng, người ta không cần phải sử dụng nữa, kem đánh răng nữa đâu. Người ta cũng vẫn có cái phương tiện người ta vẫn đánh răng tốt chứ đâu phải là xấu. Cho nên vì vậy đó người ta không có cần thiết cái điều đó nữa, nếu mà họa chăng có.
Cho nên vì vậy mà Thầy đã hỏi thăm để nghe người ta nói như vậy rồi hỏi thăm, thì có người bảo rằng đâu có cái điều đó đâu, đâu có lấy mỡ heo mà làm cái phương pháp, điều đó được, thì do đó thì người ta nói như vậy… không có làm, nhưng mà người ta nói rằng, mình hỏi những người mà ở nơi mà sản xuất đó, người ta nói rằng không có làm, thì do đó như vậy thì mình có quyền sử dụng nó để đánh răng của mình.
(02:50) Thì đây là cái vấn đề không phải ăn, nhưng mà vấn đề mà vật dụng hằng ngày của mình, thì cái gì mà mình thấy cũng như bây giờ một cái dây nịt mà bằng da loài thú mà người ta thuộc rồi nhất định là người tu sĩ không xài, vì đó là có cái sự đau khổ của chúng sanh, người ta lột cái da con thú mà thì có sự đau khổ tức là lòng từ bi của chúng ta không cho phép chúng ta phải sử dụng, một đôi dép một đôi giày mà thấy có da là chúng ta không sử dụng.
Một người tu sĩ mà mang giày bằng da thú mà người ta thuộc, người ta làm giày dép cho mình mang mà nỡ lòng nào mang thì người đó không phải là đệ tử của Phật. Vì đệ tử của Phật phải có lòng từ bi. Cho nên ở đây từ cái chỗ ăn cho đến cái vật dụng mà của cái người mà tu sĩ hoàn toàn là cấm cái sự đau khổ đó.
Mà cho nên vì vậy mà trong cái bài kinh Jivaka nó đã xác định được, mà coi như cái bài kinh này là một cái giới kinh, một cái bài giới kinh hẳn hòi trong về cái giới sát sanh. Cho nên chúng ta suy ra cái bài kinh này chúng ta mới biết đây là cái bài giới kinh. Còn cái giới mà không sát sanh, không giết hại chúng sanh, không nghi, không nghe, thì đó là cái giới bổn.
Còn cái này là giới kinh, giới kinh nó có cái ý nghĩa của nó rất là thâm sâu, nó dạy chúng ta có một cái đạo đức biết thương cái sự sống của chúng sanh. Cho nên rất rõ ràng, dạy từ người cư sĩ không được cúng dường cho chư Tăng thịt động vật, thực phẩm động vật vì cúng dường như vậy có sự phi công đức, rồi đến dạy cái người tu sĩ thì ăn phải khởi tâm từ bi ở trên cái món ăn của mình, khắp cùng ở trên món ăn của mình.
Rồi kế đó dạy tới là cái ăn không thấy, không nghe, không nghi. Đó thì tất cả những cái không thấy, không nghe, không nghi bây giờ đã là không thấy, không nghe rồi mà còn nghi, nghi cái gì nghe mùi thịt cá hoặc là nghe mùi thịt bò, thịt heo vì những cái vật đó nó phải nghe cái mùi.
Bây giờ trong một cái bánh, Thầy nói trong một cái bánh tét hay là bánh ú hay hoặc là một cái loại bánh nếp. Người ta cho mỡ vào trong đó, thì khi mà bình thường thì người ta nói bánh chay chứ mình đâu có nghĩ cái gì, nhưng mà khi ăn cắn vào thì nghe cái mùi mỡ liền tức khắc chúng ta không ăn, không nuốt, chúng ta nhả ra và chúng ta sẽ bỏ nó, tại sao vậy? Tại vì nó có mùi mỡ heo, làm gì chúng ta cũng biết được hết.
Cho nên thí dụ như trong một cái bánh trung thu, người ta bỏ mỡ heo hay hoặc là người ta bỏ một cái miếng thịt nạc heo ở trong đó, khi mà người ta nói bánh này bánh chay nhưng mà khi cắt ăn mình nghe cái mùi mình nghi, cái tâm mình khởi nghi cái này chắc có mỡ heo, cái này chắc có thịt heo trong này, do đó khi mà nghe như vậy thì chúng ta hoàn toàn là không ăn cái vật đó, không nuốt vào.
Nghĩa là nói chung là chúng ta phải nuôi cái Chánh Mạng chứ không thể nào nuôi cái Tà Mạng. Bởi vì cái hành động mà chúng ta ăn vào thân của chúng ta tức là chúng ta sẽ nuôi cái Tà Mạng chứ không phải nuôi Chánh Mạng. Vì trong Bát Chánh Đạo đức Phật đã dạy chúng ta có cái Chánh Mạng, mà cái Chánh Mạng là cái thân mạng chúng ta phải nuôi cái sự chơn chánh.
Cho nên một cái người mà đệ tử của Phật mà ăn phi thời, ăn ngày ba bữa, mà uống phi thời, bằng cách chúng ta lý luận như thế này thế khác mà chúng ta ăn uống như vậy đó, thì tức là chúng ta đều là phi thời, mà phi thời tức là chúng ta nuôi cái Tà Mạng chứ không phải nuôi Chánh Mạng. Cho nên thân mạng chúng ta không thanh tịnh, mà không thanh tịnh thì tức là chúng ta không bao giờ ly dục, ly ác pháp được.
(06:00) Cho nên hầu hết là chúng ta nhìn, mặc dù là các sư Nguyên Thủy, các sư có trình độ học thức giáo pháp của đức Phật rất thâm sâu nhưng mà học chứ không phải tu. Cho nên từ cái giới tu của các sư, nó chưa có dẫn các sư đi đến chỗ giải thoát hoàn toàn vì vậy mà đời sống của các sư nó…
Các sư nói mình ăn một ngọ, sự thật ra nó không phải đâu, các sư ăn nhiều bữa, thậm chí chiều các sư còn uống nữa mà. Thành ra do tất cả những cái này nó dẫn dắt cho các sư, sự thật ra các sư không giải thoát, không làm chủ được sanh tử luân hồi. Tại sao các sư tu theo Nguyên Thủy mà các sư không thực hiện được Tam Minh? Các sư không nhập được Tứ Thánh Định? Các sư không làm chủ được hơi thở? Thì rõ ràng là các sư đã đi sai một cái bước đầu tiên của các sư là trong giới luật.
Đó hôm nay Thầy nói cái bài kinh Jivaka đức Phật đã xác định cho chúng ta thấy được cái giới kinh của đức Phật dù chỉ giới sát sanh. Chúng ta phải hiểu đây là cái giới chứ không phải, bởi vì một cái bài kinh của Phật mà dạy cho chúng ta có một cái đạo đức gì trong đó thì chúng ta thấy cái này là cái giới mà gọi là giới kinh.
Cho nên toàn bộ cái bộ kinh sách Nguyên Thủy của Phật từ cái bộ Trường Bộ, Trung Bộ, Tăng Chi, Tương Ưng bốn cái bộ kinh này hoàn toàn Thầy thấy toàn bộ này đức Phật dạy về giới kinh, chứ không phải là giới bổn. Nhưng mà giới kinh nó thâm sâu cái nghĩa lý nó đạo đức, cái nghĩa lý nó sâu sắc.
Còn cái giới bổn nó chỉ “bây giờ cấm không có cho vị tu sĩ sát sanh, giết hại chúng sanh, vui theo sự giết hại chúng sanh hay hoặc là cấm ăn cắp, ăn trộm”, thì do đó cấm thôi chứ còn nó không có dạy cái lý ra, cái lý là cái nền đạo đức của một con người sống phải nó có cái đức hạnh như thế nào, thì trong cái bài kinh Jivaka là một bài giới kinh.
Thầy xác định để cho chúng ta thấy được cái bài giới kinh rất là sâu sắc, dạy về không sát sanh mà dạy về cái bài kinh Thầy thấy rất là hay. Vì vậy mà cái người tu sĩ của đạo Phật ăn chay mà không phải như con bò ăn cỏ, ăn chay nó có ý thức, ý thức cái lòng từ của chúng ta. Cho nên dạy chúng ta ăn món ăn phải khởi cái tâm từ bi của chúng ta khắp cùng sáu phương.
(8:10) Thì Thầy thấy rằng cái đạo Phật rất tuyệt vời, dạy cái giới nó rất là đầy đủ những cái đức hạnh hiếu sinh của con người nơi này, mà dạy từ người cư sĩ không cúng dường, cho đến dạy người tu sĩ ăn, rồi ăn không thấy, không nghe, không nghi Thầy nói tuyệt vời, đúng là ăn không thấy, không nghe, không nghi mới là thật sự là con người của Phật giáo.
Chứ còn nếu mà nói về Đại thừa nó dạy chúng ta ăn chay thôi. Cho nên vì vậy mà họ làm đồ đùi gà chay, họ làm vịt tiềm chay, họ làm thịt heo chay họ ăn như thường. Như vậy là rõ ràng là họ…
Đối với đạo Phật mặc dù là đồ chay mà làm cái đùi gà nhất định là không ăn, làm cái miếng thịt heo chay là không ăn, đối với cái người mà tu theo đạo Phật, mà đức Phật đã dạy nhất định là thấy có hình dáng một con vật hoặc là con cá hoặc là miếng thịt nhất định là không ăn, mặc dù đó là đồ chay đậu hũ nhưng mà không ăn, bởi vì nhìn thấy đó là nhìn thấy cái lòng thương yêu của chúng ta không nỡ chúng ta ăn cái vật này vô, mặc dù nó là đồ chay nhưng mà không ăn.
Còn trái lại, thì Đại thừa nó ăn hết. Thầy nói Đại thừa nó ăn chay mà nó ăn hết, nó là con bò ăn cỏ, nó thấy nó đâu có thương yêu ai đâu cho nên nó tạo ra thịt heo, thịt gà, thịt này kia nó làm đủ thứ như đồ mặn. Thậm chí như nó làm dưa ướp đi nữa nó cũng nói mắm chay nữa, rồi nó làm thối cho tanh đi cho giống cái kiểu mắm nữa đặng nó ăn, đặng nó thỏa mãn cái sự mà thèm khát của thực phẩm đó. Chứ nó đâu phải là cái người tu theo đạo Phật đâu.
Cho nên các sư cũng vẫn là cái lý luận mà kinh điển của Phật nó hẳn hòi, nó rõ ràng như vậy mà dám lý luận để mà nuốt cho trôi ba miếng thịt. Thì rõ ràng đọc cuốn một Thầy nói rất mạnh với các sư Nam tông ở chỗ này.
Thậm chí như ở trong cái băng mà Thầy giảng sáu mươi mốt cuộn băng Thầy dám nói thẳng, tại sao mà đất nước của Campuchia là một đất nước Phật giáo, lấy Phật giáo làm quốc giáo, thế mà dân chúng nước đó lại cầm súng giết người như vậy? Mồ hôi nước mắt của dân tộc này đổ lên xây cái chùa vĩ đại, gọi là kỳ quan của thế giới, thế rồi bây giờ cái người dân này nó tàn ác như vậy, thử hỏi như vậy đạo Phật ở chỗ nào đối với đất nước này? Mà là quốc giáo của nước này! Mà tất cả những nhà sư này đều là ăn mặn không có bao giờ ăn chay ngày nào hết, thì cái lòng… không mấy con?
(10:27) Cho nên đối với cái sự ăn mặn, ăn chay này rất lấn cấn. Thậm chí như các nhà sư Nam tông còn dám lý luận nói rằng đức Phật ăn thịt heo rừng, trong khi ăn thịt heo rừng mà chết. Thật sự ra Thầy nói tất cả những cái bịa đặt này rất sai! Thậm chí như Đại thừa cũng sai! Trong cái bài kinh này cũng sai, ông Phật là người đã tu chứng như vậy và cái người mà dâng cúng mà bữa ăn cuối cùng cho đức Phật lại là dâng cái nấm mà chưa từng mình ăn. Bên Đại thừa nó nói rằng ông Phật ăn nấm đó mà chết, phải không?
Mà trong khi kinh sách của Phật bên Nam tông thì lại nói ăn thịt heo rừng mà chết, do đó cái người thợ săn nó mới giết con heo rừng rồi mới đem cái thịt này mà dâng cho ông Phật để ăn, rồi ông Phật ăn cái thịt này mà chết. Vô lý! Đức Phật đã cấm không có cho người cư sĩ dâng thực phẩm động vật, thế mà bây giờ cuối cùng là có những người cư sĩ này dâng thực phẩm động vật cho Phật ăn.
Rồi bây giờ chúng ta lại lý luận rằng nơi biên cương thống khổ không có thực phẩm. Thầy nói nếu mà không có thực phẩm thực vật thì làm sao có động vật ở đó mà sống được, mà người ta săn bắn người ta cúng dường, một cái vô lý rất là vô lý! Thấy nói nơi đó là bây giờ đất đá không, chỉ có loài vật, loài vật đó ở đó nó ăn cái gì nó sống với đất đá này, phải không? Ít ra nó phải có cây có cỏ chứ, mà có cây cỏ thì ở đó có thực vật, mà thực vật thì sống được rồi. Mấy sư lý luận để mà ăn thịt.
Cho nên tất cả những cái này là cái bịa của người sau. Thầy không tin cái điều đó được. Mà đồng thời khi mà có cái tôn giáo ở trong cái đất nước Ấn Độ mà trước khi đức Phật ra đời thì đã có những cái tôn giáo, mà những tôn giáo đó dạy người ta ở đó, những người mà theo các tôn giáo đó đều là những người ăn chay. Đại thừa mà, Bà La Môn mà, phải không? Cho nên vì vậy mà khi cúng những vị tu sĩ họ đều cúng đồ chay chứ sao lại họ cúng đồ mặn.
Thử hỏi bây giờ ở trong cái xóm của Thầy thôi, chưa từng biết ông Thầy chùa đi xin cơm ăn, chúng ta ôm bình bát đi xin chúng cho không? Chưa bao giờ ai cho chúng ta đâu, nhưng mà chỗ nào có tổ chức Phật tử này kia đã từng có cúng dường này kia, chúng ta ôm bình bát họ đi xin họ cho. Chỗ đó chưa có Phật tử chưa chắc chúng ta ôm bình bát đến họ cho đâu. Họ còn xụa chó, họ còn dí mình, họ còn phang mình chưa chắc đã họ cho mình cái gì, tay chân lành lẽ như thế này mà ôm đi xin ai cho.
Sự thật ra cái gì cũng có sự tổ chức sẵn sàng ở trong đó hết thì người ta mới cho. Chứ đừng có lý luận qua một cái ngu si của trí tuệ chúng ta cứ nghe đâu tin đó, không phải đâu cái gì đúng sự thật chúng ta mới tin, không đúng nhất định là không tin.
Người ta bịa ra đủ thứ, đủ chuyện ở trong kinh sách này, không còn một cái gì mà Nguyên Thủy, nguyên chất của nó hết mà người ta đặt ra, người ta lượm bên đây, người ta lượm bên kia, người ta lượm cách nào để người ta chạy theo dục lạc, để người ta thọ hưởng những cái sự đau khổ của mọi người khác.
Ví dụ bây giờ người ta bày đặt ra, nếu mà cúng chùa, cất chùa đúc tượng, đúc chuông sẽ làm giàu, làm có thử hỏi dân Campuchia nó cất cái chùa Đế Thiên, Đế Thích như vậy nó có giàu có được không, thấy không? Cả một dân nước như vậy mà nó lạc hậu nó dã man đến cái mức độ Thầy không tưởng tượng được, mà là quốc giáo, một đạo Phật đi đến mà dạy đạo, mà dạy đạo đến đỗi mà dân tộc nó như vậy.
(13:29) Còn Đại thừa coi vậy chứ dân tộc chúng ta chưa đến đỗi mà tàn ác quá đến độ, chúng ta thấy một cuộc chiến thắng của chúng ta chưa hẳn đã là giết tất cả những sĩ quan của Ngụy hồi trước. Chứ còn Campuchia nó diệt chủng, nó không còn thứ gì hết, có phải không? Các con thấy.
Dân tộc Việt Nam chúng ta Đại thừa sự thật, nhưng mà nó đâu có đến đỗi mà quá tệ như là dân tộc Campuchia. Một hình ảnh của Nguyên Thủy ở Campuchia chúng ta đã lên án ngay liền tức khắc là sự tu sai của các sư. Lẽ ra chúng ta phải dạy đạo đức chứ, tại sao lại… Cái nền đạo đức của Phật giáo như vậy mà tại sao lại cầm súng mà giết người. Nói là người Việt của mình thôi giết cũng phải, nó giết dân tộc nó nữa, một cách ghê gớm vô cùng, tàn ác đến đỗi mà bây giờ mà chúng ta nhắc đến chùa Phi Lai là chúng ta thấy rợn người.
Bao nhiêu dân chúng người ta sợ giặc, người ta tập chung trong chùa, người ta tin tưởng rằng chư Phật, chư Bồ Tát theo kiểu mà tin tưởng mê tín, tưởng là khi mà vào đó thì Miên nó không giết mình. Không ngờ khi đó quân đội Việt Nam mà rút đi, bắt đầu là kêu gọi dân biểu đi mà người ta cứ tin tưởng rằng chư Phật, chư Bồ Tát Quan Âm nó sẽ phù hộ, họ tập trung vô trong cái chùa Phi Lai họ núp núp trong đó, Miên nó đến nó rẹt súng nó bắn không chừa một người nào hết. Cái lòng tin tưởng của chúng ta ngu si.
Cho nên ngày xưa vua Lương Võ Đế cũng ngu si mà tin theo Đại thừa, mà cho nên bị giết tại trong thành. Chúng ta ngu si tin tưởng chư Phật gia hộ chúng ta, phù hộ chúng ta, cho nên chúng ta tập trung trong chùa Phi Lai mà Miên giết chúng ta cả một cái xã, hỏi thử những cái dân đó thì chúng ta sẽ biết. Rất là đau lòng chúng ta ngu si đến cái mức độ, mà tin tưởng một cách ngu si mê mờ vậy.
Cho nên buộc lòng Thầy phải nói thẳng nói thật, những cái điều này đưa đến dân tộc chúng ta rất đau khổ. Mỗi một trên con người Việt Nam, mỗi một con người trên hành tinh này mà bị chết một cách mê mờ ngu si như vậy chúng ta đau đớn lắm chứ. Làm con người chúng ta phải truyền đạt với nhau để hiểu biết để mà tránh những sự đau khổ này. Cho nên đối với Thầy thật sự ra những cái gì mà phi đạo lý, phi công đức là không được.
Mà các sư cứ nhận thấy cái sự tu tập của mình làm sao phải đúng theo lời Phật dạy chứ, tại sao Phật dạy vậy, dám bỏ cái bài… Các sư dường như là đọc qua cái bài kinh này không dám giảng cho người ta hiểu nữa, không dám giảng cho người ta rõ được cái lý nữa, chỉ lái nó qua một phần nào đó thôi, không dám giải thích ra. Cho nên nó rõ ràng nếu mà không có cái bài kinh này, thật sự ra thì chắc chắn Thầy không có, không dám nói ai hết, bởi vì Phật không có dạy. Đằng này nó có những cái bài kinh nó cụ thể nó chứng minh.
Cũng như đức Phật nói: Không có thế giới siêu hình. Cái bài kinh mà Pháp Môn Căn Bản đức Phật nói: “Toàn bộ ba mươi ba cõi Trời là thế giới tưởng tri”, thế rồi bây giờ đức Phật nói có cõi Trời này có cõi Trời kia, thì đức Phật nói là cõi tưởng tri, chứ đâu phải là cõi liễu tri. Vì vậy mà chúng ta cũng vẫn tin nó là có, rồi có linh hồn, rồi có ông Thần, ông Thánh, ông này, kia đủ mọi mặt.
Rõ ràng đức Phật, đạo Phật đã xác định là không có thế giới siêu hình, thế mà bây giờ chúng ta lại nói đức Phật nói có cõi Trời này, cõi Trời kia để rồi chúng ta dựng lên những cái cõi Trời đó. Nhưng mà đức Phật đã xác định ba mươi ba cõi Trời chỉ là tưởng tri chứ không phải liễu tri, đó là những cái điều kiện mà kinh sách Phật đã dạy chúng ta rõ ràng như vậy rồi, thế mà bây giờ chúng ta lại còn lầm lạc nữa sao?
Cho nên ở đây thật sự ra Thầy nói cho quý cư sĩ, quý sư cô ở đây để hiểu thôi còn riêng ai làm thì nấy tội, nấy chuyện họ, họ tu đến được thì họ nhờ mà không được thì họ phải chịu lấy cái hậu quả khổ đau của họ.
(16:46) Còn cái lý luận bằng cách này bằng cách khác thì cái chuyện miệng lưỡi của người ta, người ta vẫn lý luận được, kinh sách Phật người ta vẫn lý luận được. Không chừng đức Phật Thích Ca hiện bây giờ có hiện thân ở đây, họ chưa chắc họ đã tin ông Phật Thích Ca, họ sẽ tìm mọi cách họ bác đức Phật Thích Ca nữa.
Bởi vì ông Phật Thích Ca sống không hợp thời đại, cái giới luật của ông Phật Thích Ca không hợp thời đại, thời đại này là thời đại vật chất, mà tu tập như đức Phật Thích Ca là khổ hạnh là không hợp. Cho nên coi như đức Phật Thích Ca mà có ra đời trong hiện tại này thì đối với hiện giờ thì người ta vẫn cho rằng đức Phật Thích Ca không hợp thời. Nghĩa là cái thời đại mà của đức Phật Thích Ca ngày xưa là cách đây 2500 năm thì nó hợp thời, chứ thời đại của đức Phật Thích Ca hiện giờ mà ra đời mà để dạy cho người ta có đạo đức mà sống như cái thời đại của đức Phật Thích Ca thì bây giờ nó không hợp thời, phải là có sự thay đổi mới thì nó hợp thời.
Tôn giáo mà làm như là phải thay đổi, thay đổi như vậy thì Thầy nghĩ rằng cái tôn giáo đó nó không phải là cái chơn lý của con người mà là một cái triết học nó thay đổi từng cái giai đoạn của cuộc sống của con người. Cái triết học nó theo cái sự thay đổi đó nó không phải chứng thật.
Còn cái tôn giáo là luôn luôn nó phải cố định, nó là cái chân lý của con người thì không bao giờ được thay đổi. Từ ngày nào cho đến hôm nay thì nó không bao giờ sai một cái gì hết. Cho nên bốn cái chân lý của đạo Phật Khổ, Tập, Diệt, Đạo bốn cái chân lý này không bao giờ sai được. Cho nên bây giờ dù ngàn đời sau cũng không sai được vì áp dụng vào đời sống con người thì cái này không sai được.
Nhưng cái này mà đem áp dụng vào một cái thế giới nào đó thì nó sai, nghĩa là vào cái thế tưởng thì nó sai, mà vào cái thế giới thực của con người hiện giờ chúng ta đang sống thì bốn cái chân lý của đạo Phật là không bao giờ sai.
Bốn Chân Lý này là Bốn Chân Lý xác định được con người khổ và cái nguyên nhân khổ và cái nơi mà giải thoát khổ và cái đường đi để mà giải thoát khổ, thì Bốn Chân Lý này không bao giờ được thay đổi và nếu một cái người nào mà thay đổi Bốn Chân Lý này là cái người đó chỉ điên rồi, nghĩa là người đó chỉ là người loạn óc, người tưởng rồi, chứ không còn là cái người bình thường nữa.
(18:44) Cho nên bốn cái chân lý của đạo Phật là đưa ra để áp dụng vào cái đời sống của chúng ta để làm chủ bốn cái sự đau khổ sanh, già, bệnh, chết của con người. Chừng nào mà con người không còn sanh, già, bệnh, chết thì chừng đó Bốn Chân Lý này lỗi thời, còn con người còn có sanh, già, bệnh, chết bốn cái khổ thì cái chân lý này không bao giờ là lỗi thời. Đó Thầy nói như vậy để thấy được Phật pháp nó không lỗi thời.
Cho nên những giới luật của đức Phật là những đức hạnh để làm cho chúng ta không còn đau khổ nữa. Nghĩa là không làm khổ mình, khổ người nó là cái làm chủ được cái cuộc sống, cái sanh của bốn cái sự đau khổ của chúng ta. Thì như vậy là không thể nào chúng ta phi cái giới luật này được.
Cho nên cái mà đạo Phật dạy là cái chắc chắn đối với con người chúng ta là một cái chân lý chứ không phải là một cái triết học suông. Một cái triết học thì chúng ta còn phải chỉnh đốn nó bằng cách này bằng cách khác, nó phải thay đổi bằng cái triết học khác chứ còn cái đạo Phật không được quyền thay đổi, ai thay đổi đạo Phật là người đó đã sai.
Đại thừa đã thay đổi đạo Phật cho nên dẫn dắt bao nhiêu, mấy ngàn năm nay từ khi đức Phật nhập diệt cho đến giờ bao nhiêu người đau khổ trên cái sự thay đổi này, có ai đạt được sự làm chủ này? Có ai sống được hoàn toàn mà làm chủ bốn sự đau khổ này chưa? Chưa! Như vậy rõ ràng là chưa có người nào đi đúng trên con đường của đạo Phật.
Cho nên hôm nay Thầy xác định để cho thấy được cái vấn đề sai của các sư Nam tông là ở chỗ quá cố chấp vào cái chỗ ăn uống, ăn uống để sống. Ngày xưa đức Phật khổ hạnh, ăn tiết thực, trong kinh sách Đại thừa nói đức Phật ăn có bảy hạt mè, còn trong kinh sách Nguyên Thủy thì nói rằng đức Phật tiết thực chỉ ăn một bát cháo nhỏ đậu xanh hay hoặc là cháo với cái gì đó, mà chỉ ăn ít thôi. Còn trái lại thì Đại thừa nó quá ca ngợi về cái sự khổ hạnh, nó quá ca ngợi rằng ăn ngày có bảy hạt mè, thử hỏi bảy hạt mè quý vị làm sao mà ăn cái gì? Cái đó là cái vô lý. Thầy không tin!
Ăn một bát cháo như thế này mà chúng ta còn đi không nổi huống hồ là ăn bảy hạt mè làm sao mà sống được? Điều đó điều không đúng. Cho nên cái sự thật Thầy nói mang cái thân tứ đại này thì phải có một cái tứ đại bên ngoài, dù chúng ta có tiết thực cách gì đi nữa thì mà nó muốn duy trì nó sống ít ra mỗi ngày chúng ta phải ăn một bát cơm hay hoặc là một bát cháo, mà duy trì chưa chắc đã là duy trì được dài. Còn huống hồ là ăn bảy hạt mè làm sao mà sống nổi? Dù bảy hạt mè đó nó có chất bổ cách gì đi nữa nó cũng không thể nào mà chúng ta sống được nữa, chứ đừng nói.
(21:01) Đó là hôm nay Thầy nói tất cả những cái sai mà kinh sách Đại thừa ca ngợi cái không đúng, rồi kinh sách Nguyên Thủy bị bóp méo mà người ta không hay, bóp méo qua những cái tưởng giải, qua những cái phân hóa của hệ phái của nó.
Hễ khi phân hóa tức là do tham, tham nó mới chia chẽ ra những cái hệ phái của nó. Ông này thấy thấy mình có khả năng kiến giải, bắt đầu kiến giải theo cái nghĩa của mình rồi tập hợp nhau một nhóm theo đó rồi thành lập ra cái hệ phái của nó, thì như vậy là rõ ràng là cái tâm danh lợi của mình mới chia ra như vậy, đó là những cái sai.
Cho nên vì vậy hôm nay Phật giáo phải được chỉnh đốn không có hệ phái nữa. Đó thì Thầy nói như vậy để chúng ta thấy rằng cái nhiệm vụ và trọng trách của chúng ta sắp tới chúng ta sẽ còn nhiều cái sự khó khăn vô cùng. Hễ đã chia ra nó phe nhóm, hệ phái rồi thì nó có cái đoàn thể, nó bảo vệ chung nó đấu tranh lại cái hệ phái khác, nó có sự tranh chấp ở trong cái tôn giáo của nó, thì nó tan nát hết nó không còn cái gì hết.
Cho nên bây giờ chúng ta nói rằng nó đoàn kết, nó thống nhất, sự thật nó không thống nhất chút nào hết, nó thống nhất ở trên cái mặt họp nghị, cái hội nghị của nó, nó nói rằng thống nhất, nhưng sự sinh hoạt của nó thử coi Nam tông, Nguyên Thủy nó sinh hoạt theo kiểu nó. Bắc tông nó nói nó thống nhất tại sao không sinh hoạt chung nhau một cái điểm mà lại nó theo cái kiểu của nó? Ai theo kiểu nấy không có giống nhau chút nào hết. Đó tất cả những cái sai mà chúng ta thấy con người từ cái chỗ danh, lợi, tham danh, tham lợi, mà đưa dần đến cái tôn giáo nó tan nát hết, nó không còn cái chỗ nào mà gọi là cái tôn giáo đó tốt đẹp hết.
Rồi bây giờ chúng ta người nào đi vào cái Đại thừa thì chúng ta chấp Đại thừa, Thiền tông chúng ta chấp Thiền tông, chống đối lại Tịnh Độ tông, rồi người mà đi theo Đại thừa thì chống đối lại Nguyên Thủy, tất cả những cái này chúng ta thấy toàn bộ là sai hết mà.
Rồi Nguyên Thủy thì lại cho rằng Đại thừa Bà La Môn thế này thế khác, nhưng mà cuối cùng cái ông ở trong kinh sách Nguyên Thủy này ông thực hành không có đúng những cái điều, lời Phật dạy thì ông la Bà La Môn chứ gì. Ông không thấy rằng cái điều ông làm sai này ông là Bà La Môn rồi chứ gì, đâu có đúng đâu. Đó tất cả những cái này đều nó nằm ở trong những cái tôn giáo mà cái tôn giáo sai là nó là Bà La Môn tất cả.
Cho nên đức Phật gọi là ngoại đạo, gọi cái danh từ là ngoại đạo. Nó ngoài cái đạo của Phật giáo, thì cái hành động sống của mình mà không đúng thì nó là ngoại đạo. Cho nên đức Phật nói: “Giới luật còn là đạo ta còn, mà giới luật mất đạo ta mất”. Thật sự ra bây giờ một vị sư mà tu mà ăn thịt chúng sanh như vậy là đạo Phật mất rồi đâu còn, giới luật đâu còn.
Mà cái bài kinh Jivaka là cái bài kinh giới sát sanh, thì chúng ta thấy đây là các sư phạm giới sát sinh mà. Gián tiếp sát sanh, không trực tiếp giết con vật, nhưng mà ăn thịt chúng sanh là mình có ăn người ta mới mần mà người ta bán chứ. Đó cho nên đó là những cái sai mấy con.
Nhưng mà bây giờ Thầy nói đây để nghe, nhưng mà không được làm phiền quý sư, bởi vì quý sư đã có một cái người ta gọi là kiến kiết sử, đã là chấp vào một cái ý kiến đó rồi khó mà sửa lại cái điều này lắm.
(23:46) Trưởng lão: Hồi sáng Thầy trả lời cho mấy con có những cái gì mà thắc mắc mà đã hỏi. Còn bây giờ thì các con có cái gì thưa hỏi thêm Thầy để rồi Thầy chỉ dạy cho cách thức tu tập cho nó đúng cách, mà nó không có sai lạc cái đường tu. Bởi vì con đường tu hiện giờ đó, nó rất khó chứ không phải dễ.
Như hồi sáng có hai người cư sĩ, một người là cha, một người là con, nhưng mà người con đã theo tu các cái pháp Đại thừa và Thiền tông đó, họ đã bị lạc vào trong một cái tưởng, cho nên coi như là đương nhiên bây giờ mà ngồi tu thì cái trạng thái nó xuất hiện ra, chứ không phải là cái người mà chưa bao giờ biết tu mà đến đây tu, vì vậy nó có những cái điều kiện đã xảy ra trong cái tâm của họ, cái đầu óc của họ, cho nên bây giờ họ không biết cách nào mà xả.
Rồi mà hồi trưa Thầy tiếp thì qua cái trình bày, Thầy khuyên nên bây giờ về để mà xả bằng cách là mình đừng có ngồi tu, mình đừng có nhiếp tâm trong một cái pháp tu nào cả hết mà chỉ sống bình thường, nếu mà nó có những cái sự kiện gì mà nó xảy ra trên đầu của mình, nó nghe nó phát khởi ra những cái trạng thái gì đó, thì mình nhắc cái tâm của mình, hướng tâm rồi mình tìm cái cách mà mình hoạt động, để làm cho cái tâm của mình nó không có chú ý cái đó nó quên đi, thì nó sẽ lần lượt nó sẽ trở về với cái trạng thái bình thường, nó không bị rối loạn thần kinh nữa.
Đây là những cái điều kiện mà rất tai hại mà nhiều người hiện bây giờ, họ chưa biết Thầy, cho nên họ chưa có đến đây để mà thưa hỏi Thầy. Chứ còn rất nhiều người đang ở trong những cái gặp khó khăn. Trải qua một thời gian cái người mà tu mà không có nhiệt tâm thì họ không có bị lạc. Còn người mà quyết tu, nhiệt tâm thì trong vòng một năm, hai năm là họ bị cái trạng thái thường xảy ra.
(25:43) Đó thì như các con thấy hồi sáng đó, Mỹ Châu trình bày cho Thầy nếu mà không khéo đó thì chúng ta tu cũng theo đúng cái pháp của Phật chứ, nhưng mà không khéo chúng ta bị ức chế đó, cho nên vì vậy mà nó có những cái trạng thái nó xuất hiện ra chúng ta nhận thấy dễ dàng chứ không thể, nó chưa có bị rối loạn gì đâu, nhưng mà nó phát hiện ra, nhưng mà sớm mà chúng ta thấy rõ ràng thì chúng ta xả nó dễ lắm. Còn cái đến khi mà nó đã thành bệnh rồi thì nó khó xả lắm.
Bởi vì nó cũng như là người ta nói ở trong cái thân của chúng ta nó có nhiều cái luân xa, nghĩa là nó có những cái đường chéo của nó ở trong đó, như đường mạch máu chúng ta, đường gân này nó chéo qua đường gân kia, thì những cái chéo đó thì người ta gọi là luân xa, vì vậy mà khi mà những cái đường chéo đó nó được khai mở bằng cái thức tưởng của nó, thì nó tạo thành cái rối loạn thần kinh của chúng ta rồi.
Khi chúng ta cần yên lặng thì tức là những cái chéo đó nó mở ngay liền ra, thì nó làm cho cái tưởng uẩn của chúng ta, cái hệ thần kinh não mà tưởng đó nó hoạt động liền, nó làm cho cái trạng thái ở trên đầu chúng ta nó có cái sự mà, cái cảm giác như nó quay mòng mòng hay là nó cảm giác như nó cồn cào, hay cảm giác như nó xoay tròn ở trong đó, thì tất cả những cái trạng thái đó là cái trạng thái của tế bào não nó hoạt động nó làm cho chúng ta có cái cảm giác nó lạ lùng vậy.
Vì vậy mà cái chú Thanh Lương hồi sáng đi với ông cha đó, cái chú đó cũng đã bị cái trường hợp đó mà cũng bị nặng đó, nghĩa là coi như là bảy cái luân xa mà cái trạng thái như là mình mở được luôn sáu cái luân xa rồi, gần như là mở hết, do đó mà nó ảnh hưởng của cái nhân điện của ông Lương Minh Đáng.
Thì cái phần mà nhân điện để trị bệnh đó. Thì cái ông này tu thiền xong nhưng mà lại đọc sách vở của ông Lương Minh Đáng ảnh hưởng qua những cái luân xa ở trong cái cơ thể, vì vậy mà khi mà tu thì nó tưởng tượng như là những cái luân xa nó đã mở và cảm thấy khi nó mở ra thì bắt đầu nó làm cho cái cơ thể của mình nó có cái sự biến động của nó, cho nên rất là nguy hiểm. Vì vậy mà những người mà viết kinh sách ra như vậy, họ không nghĩ rằng nó là cái tai hại cho cái con người.
Bây giờ như cái đời của chú Thanh Lương đó, chú đã không làm lợi ích cho bản thân của chú mà chú làm cho một cái gánh nặng của gia đình của chú, bây giờ chú không có làm việc được nó rất khổ. Vì vậy mà bây giờ muốn sống trở lại đời sống bình thường thì nó cũng rất khó chứ không phải dễ.
(28:08) Cho nên ở đây có những cái gì mà mấy con mà tu sai đó, thì hãy trình cho Thầy, Thầy tìm mọi cách để mà thư giãn để phục hồi trở lại cái trạng thái bình thường. Từ cái trạng thái bình thường đó mình mới nhắm vào cái chỗ mình ly dục, ly ác pháp chứ không có ức chế.
Bởi vì mỗi tâm niệm của mình đó nó mang theo một cái lòng ham muốn, một cái ác pháp trong đó nó làm cho mình phiền não và đau khổ, thì cái người mà tu theo đạo Phật, cái mục đích để nhắm vào cái nỗi khổ đó, mà tư duy quán xét để làm cho mình thoát cái cảnh khổ đó, cái phiền não đó, thoát cái lòng sân hận đó, để cho mình lấy lại bình thường, mình không giận, không hờn, không phiền não nữa.
Cái mục đích của đạo Phật làm sao cho cái tâm chúng ta xả ra tất cả những cái chướng ngại pháp đó, đem đến cho cái tâm của chúng ta và thân của chúng ta có sự an lạc và cái sự vô sự. Thì cái mục đích của đạo Phật là như vậy.
Chứ không có bao giờ động chạm đến cái thân của chúng ta phải ức chế chỗ này, phải ức chế chỗ kia, phải làm cho nó hết vọng tưởng, phải diệt cho nó hết vọng tưởng, không có cái mục đích đó. Mà đạo Phật chỉ giúp chúng ta sống một cuộc sống mà đem lại cái sự thanh thản an lạc cho mình, không làm khổ mình mà cũng không làm khổ người. Cho nên nói là mình sống ở trong thiện pháp là ý như vậy.
Cho nên ở đây đạo Phật tu nó không có buộc chúng ta phải ức chế, phải làm khổ chúng ta thế này thế khác. Vì vậy đức Phật mới nói rằng ta không chấp nhận khổ hạnh, mà phải đi vào trong con đường Trung đạo.
Con đường Trung đạo mà chúng ta cứ hiểu như thế này, hiểu như thế khác. Con đường Trung đạo có nghĩa là chúng ta không làm khổ mình mà cũng không vì chạy theo dục lạc, mà cũng không chạy theo ác pháp để mang đến những cái sự khổ đau cho chính mình, cho nên gọi là không lợi dưỡng, mà cũng không khổ hạnh, nó làm cho chúng ta thấy an ổn, luôn lúc nào tâm hồn cũng thanh thản, an lạc và vô sự.
(29:51) Hôm nay có những điều gì mấy con thắc mắc thì cứ tiếp tục hỏi Thầy để rồi chúng ta tìm hiểu và đồng thời thì Thầy có đọc cái bức thư của cô Liễu Tâm giới thiệu con vô đây. Để trong cái những ngày gần được Thầy để hỏi những cái điều kiện mà cần hỏi, để biết những cái điều mà con cần biết và đồng thời thì cô Liễu Tâm cũng cho Thầy biết rằng con đang học ở trên Đại học vì vậy mà tốt hơn nhất là Thầy khuyên nên cố gắng học cho xong Đại học. Mình có đủ cái khả năng vừa lợi ích cho mình mà vừa lợi ích cho người.
Còn cái phần mà tu tập thì phải tìm những cái người có đức hạnh, cái người mà có đạo đức, giới đức thì người ta sẽ dạy mình cái đạo đức, mình sống có đạo đức thì mình đem lại cái sự an vui cho mình và cho người. Từ cái đạo đức mà mình sống được thì mình bước một bước xa hơn nữa thì người ta dạy mình thiền định.
Chứ con người của mình mà chưa có đạo đức mà đi tu thiền định, dù thì thiền nào nó cũng không có đạt được cái chánh được. Vì cái đạo đức nó mới xác định được cái thiền định chánh hay tà, nếu là Chánh Định thì con người đó phải ở trong một cái đạo đức, đạo đức không làm khổ mình, khổ người thì nó mới Chánh Định, mà đạo đức không làm khổ mình, khổ người tức là đạo đức nhân quả.
Bởi vì nhân quả là cái hành động thiện hoặc là hành độc ác cho nên nó mới gọi là nhân quả, mà hành động ác mà đi vào con đường thiền định thì cái đó là nó tà thiền, tà định nó không thể nào mà thiền định chân chánh được. Mà cái hành động thiện, sống thiện hằng ngày biết sống nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng vui lòng mình, vui lòng người mà không hại mình, không hại người thì cái người đó sẽ tu thiền định nó sẽ là Chánh Định nó không thể tà định.
Mặc dù là cái phương pháp thiền định nó chân chánh nhưng một người mà tâm còn ác pháp, còn đầy tham muốn mà tập tu thiền định, thì thiền định đó dù là chân chánh nhưng nó cũng vẫn bị tà thiền, tà định. Bởi vì cái tâm không chân chánh, cái tâm ác mà đi vào tu tập thiền định chân chánh thì thiền định đó nó cũng sai. Bởi vì mang cái tâm đó mà đi vào thiền định chánh thì nó cũng phải trở thành thiền tà.
Như vậy là chúng ta nên suy nghĩ tại sao vậy, cái pháp chân chánh thì phải con người chân chánh mới tu cái pháp chân chánh. Mà con người không chân chánh mà tu pháp chân chánh thì cũng biến cái pháp nó trở thành sai, trở thành tà không đúng.
(32:13) Trưởng lão: Cho nên bây giờ thì các con muốn hỏi Thầy gì thì cứ hỏi để rồi Thầy sẽ trả lời cho mấy con. Con hỏi.
Phật tử 1: Con xin kính bạch Thầy, con thỉnh Thầy giải cho con biết cái chương trình mà tu sáng suốt, các con chưa hiểu là một. Hai nữa là giảng về cái quét sạch cái ngũ triền cái con cũng chưa hiểu. Xin bạch Thầy từ bi chỉ dạy cho con.
Trưởng lão: Tu tập mà cái tâm tỉnh thức của mình đó, thì đức Phật có dạy chúng ta tu trong Thân Hành Niệm. Mà Thân Hành Niệm thì nó có thân hành nội và thân hành ngoại. Thân hành nội là hơi thở, bởi vì cái thân hành là cái hành động của thân, mà nội là cái hành động đó trong thân của chúng ta tự động nó thở ra thở vô, từng cái tim đập, mạch máu nhảy đó là những cái hành động của thân, thân nội.
Còn chúng ta đi, chúng ta đứng, chúng ta ngồi, chúng ta nắm, chúng ta cầm, chúng ta lấy, chúng ta làm mọi việc, cái thân hành chúng ta làm mọi việc thì tóm lại việc đó là thân hành ngoại. Vì vậy mà cái người tu mà tỉnh thức thì nương vào cái hành động đó.
Hằng ngày chúng ta biết chúng ta nằm, chúng ta nắm, chúng ta cầm thì chúng ta biết chúng ta nắm, cầm, chúng ta mặc áo chúng ta biết mặc áo. Nhiều khi chúng ta mặc áo chứ chúng ta không có lưu ý mặc áo đâu, chúng ta đang suy tư một cái gì thì như vậy là chúng ta chưa có tỉnh thức. Cho nên muốn tập tỉnh thức thì phải tập ngay trên hành động.
Ví dụ như chúng ta thở thì chúng ta biết thở, mà tập thở như vậy nó phải có cái phương pháp. Nếu mà không có chúng ta thở biết thở, thở ra, nó thở vô, thở như vậy mà kéo dài cái thời gian mà không có phương pháp thì chúng ta sẽ rớt vào những cái sai nó không đúng, cho nên nó không tỉnh thức mà nó bị rơi ở trong cái tưởng thức, coi như là chúng ta sẽ đi lạc đường.
Còn trái lại mà tập tỉnh thức cho đúng thì thỉnh thoảng là chúng ta nên nhớ rằng đức Phật thường nhắc: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”, tức là tu tập thân hành ngoại. Còn nếu mà nội thì chúng ta kể như hít thở, thì biết hơi thở ra, biết hơi thở vô và đồng thời thì tác ý cứ thỉnh thoảng tác ý để cho ý thức chúng ta hoạt động trên cái sự tỉnh thức của ý thức.
Cho nên: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, rồi tôi hít vô năm hơi thở tôi không có mà tôi vẫn biết năm hơi thở hít vô, hít ra và cuối cùng tôi lại tác ý mặc dù bây giờ tôi còn đang biết hơi thở ra hơi thở vô, nhưng nếu không khéo thì ý thức của chúng tôi thì nó mất. Cho nên tôi lại nhắc: “Tôi hít vô tôi biết tôi hít vô, tôi thở ra tôi biết tôi thở ra”, để cái ý thức của chúng ta nó có một sự tác ý ra, nó làm cho cái ý thức không bị chìm trong cái sự biết hơi thở ra, biết hơi thở vô do đó gọi là tập tỉnh thức.
(35:01) Còn vấn đề mà quét sạch ngũ triền cái, ngũ triền cái là năm cái màn ngăn che. Năm cái điều ngăn che đó là tham, sân, si, mạn, nghi nó che khuất nó làm chúng ta không thấy.
Bây giờ cái tâm chúng ta tham, mà bây giờ chúng ta không thấy mình có tham gì hết, nhưng sự thật ra chúng ta đang có tham, nhưng vì cái tham mà triền cái nó che đi, nó làm chúng ta thấy mình không có tham. Cũng như bây giờ cái sân triền cái nó che đi, nó làm chúng ta không thấy cái tâm mình sân, cho nên mình thấy bây giờ mình không có sân, mà tại vì cái màn nó che cho nên gọi là ngũ triền cái.
Mà muốn phá đi ngũ triền cái này thì chúng ta phải phá ngay cái đối tượng của nó, hằng ngày chúng ta phải dùng cái pháp Như Lý Tác Ý. Tức là bây giờ cái tâm chúng ta không có tham nhưng mà chúng ta biết tâm không có tham, không có sân si nghĩa là tâm chúng ta hiện bị ngũ triền cái che cho nên nó có tham, có sân, có si.
Bây giờ chúng ta tác ý một cái tướng khác của tướng tham, sân, si là cái tướng không tham, sân, si. Cho nên chúng ta nhắc cái tâm không có tham, sân, si. Nhưng hiện giờ nó không có tham, sân, si nhưng chúng ta phải thường nhắc. Cho nên vì vậy mà Thầy dạy các con luôn luôn nhắc với năm cái triền cái này thì các con luôn nhắc: “Tâm như cục đất ly tham, sân, si, mạn, nghi hết đi”, thì đó là bình thường nhắc như vậy cho đến khi mà có cái tham kiết sử, có cái sân kiết sử thì ngay đó nó hiện ra trong người để mà nhắc chúng ta.
Thí dụ như có một cái người chửi chúng ta ngay đó tâm chúng ta vừa khởi lên sân thì ngay đó nó khi nghe người khác chửi nó chưa có khởi sân thì nó đã nhắc: “Tâm như cục đất không có tham, sân, si nữa”, thì lúc bây giờ cái triền cái nó bị vén qua thì nó cái kiết sử nó hiện ra liền, cái sân kiết sử nó hiện ra liền để cho nó sân thì ngay đó thì chúng ta đã từng tu tập cái pháp Như Lý Tác Ý: “Tâm như cục đất không có tham, sân, si”, nó nhắc ở trong đầu chúng ta như vậy thì ngay cái sân triền cái nó vừa hiện ra thì nó bị bẻ gãy, nó bị diệt ngay liền là nhờ cái chúng ta đã quét sạch cái sân của ngũ triền cái. Cho nên cái sân kiết sử nó không còn phát hiện ra được.
(37:15) Ở đây chúng ta phân biệt cái tham, sân của triền cái là cái màn che, mà cái tham, sân kiết sử là cái sợi dây nó đang trói. Một cái người mà đang sân mà xả cái cơn sân họ không được, họ không có dẹp cái sân họ xuống được, họ cứ họ tức tối, họ buồn bực, họ giận hờn trong lòng của họ, thì cái sân mà đang hoành hành, đang làm cho họ khổ sở trong thân họ, trong tâm họ đó thì cái sân đó gọi là cái sân kiết sử.
Kiết sử là cái sợi dây nó trói buộc nó sai mình, sử là nó sai cho nên nó vừa trói chặt mà nó vừa sai mình, mình không có xả được. Vì vậy mà mình nếu mà không có cái phương pháp phá sân triền cái thì kiết sử chúng ta không bứt được.
Cho nên vì vậy mà chúng ta hằng ngày chúng ta tu để mà phá sạch cái triền cái của nó thì chúng ta nói: “Tâm như cục đất không có tham, sân, si”, hay hoặc là: “Từ đây về sau tâm không có còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa”, cứ nhắc nó như vậy cho đến khi mà nó được việc ngay đó nó đã phát hiện ra nó nhắc mình: “Tâm như cục đất không có tham, sân, si nữa”. Thì như vậy là rõ ràng là chúng ta có phương pháp để mà chúng ta quét sạch cái triền cái.
Bây giờ chúng ta bị cái triền cái che chúng ta không thấy nhưng mà chúng ta có cái pháp để mà diệt cái triền cái đó bằng cái phương pháp hướng.
Cho nên khi mà gặp chuyện thì cái kiết sử nó không còn trói chúng ta được nữa, nó bứt đi liền nó không còn sân liền, cho nên cái phương pháp đó gọi là cái phương pháp ly dục, ly ác pháp hay là cái phương pháp đó gọi là ngăn ác, diệt ác pháp, cái phương pháp mà quét sạch triền cái, cái phương pháp đó Như Lý Tác Ý là cái phương pháp ngăn ác, diệt ác pháp không có cho nó xâm chiếm vào thân và tâm của chúng ta.
(38:51) Nên trong cái đường tu thì con nhớ rằng tu tỉnh thức thì con nhớ là nương vào hơi thở, nương vào hành động đi, nhưng phải khéo tác ý, không có được mà lặng thinh để mà chỉ duy nhất có sự biết thì như vậy là con sẽ tu đúng.
Còn về mà phá cái ngũ triền cái thì con phải dùng cái phương pháp Như Lý Tác Ý hay nói một cách cho dễ hiểu hơn là dẫn cái tâm của mình vào cái chỗ giải thoát không còn tham, sân, si nữa. Hằng ngày nhắc cái tâm của mình tức là dẫn cái tâm vào chỗ đó thì chúng ta sẽ hết tham, sân, si.
Mà hết tham, sân, si thì con người sẽ tâm bất động, nó sẽ không còn khổ đau, không còn phiền não, không còn giận hờn, không còn lo sợ đó là giải thoát của đạo Phật. Nhờ đó mà một cái người không còn tham, sân, si như vậy là một cái người sống trong một cái nền đạo đức nhân bản của đạo Phật không làm khổ mình, khổ người. Đó là cái tu tập của đạo Phật để biến chúng ta trở thành con người thật sự là con người có đạo đức, có đạo đức với mình với mọi người.
Các con hiểu cái mục đích của đạo Phật là tu tập như vậy, chứ không phải cần các con phải ngồi thiền, phải niệm Phật, phải tụng kinh, phải cúng bái. Cái mục đích tu để ngăn đi vào cái chỗ mà đau khổ của các con để mà xả để ly nó ra, mà có cái phương pháp để giúp cho chúng ta đối diện việc sắp đến, khi nó có cái điều kiện là các con sẽ diệt được ngay nó liền. Đó con hiểu chưa?
(40:04) Trưởng lão: Bây giờ còn hỏi thêm gì nữa không?
Phật tử 1: Con xin kính thỉnh Thầy giải, con có đọc kinh Bửu Tích đó là nói rằng là nếu ai nhận đầu mà lạy đúng mười phương Phật thì coi như là ở an trú trong cái cõi Phật. Đó là phương Đông, phương Tây, phương Nam, phương Bắc, rồi Đông Nam, Tây Nam, rồi Tây Bắc, Đông Bắc.
Phương Đông thì Vô Lượng Công Đức Như Lai, phương Nam Công Đức Bảo Thắng Như Lai, rồi phương Tây thì Công Đức Trang Nghiêm Quang Minh Như Lai, rồi phương Bắc là Tích Tập Vô Lượng Bồ Đề Như Lai. Rồi phương Đông Nam Thiên Văn Lôi Hống Thanh Vương Như Lai, phương Tây Nam là Quang Minh Chiếu Như Lai, rồi phương Tây Bắc là Chủng Chủng Oai Đức Vương Như Lai, rồi phương Đông Bắc là Vô Số Kiếp Tích Tập Bồ Đề Như Lai.
Bây giờ con cũng không hiểu được cái nơi đó là nơi nó ảo tưởng hay là có thật. Xin bạch Thầy từ bi giải rõ cho con được hiểu.
(41:24) Trưởng lão: Tất cả những cái điều mà con nêu ra trong kinh Bảo Tích đó là một cái bài kinh tưởng. Vì cuộc đời của chúng ta từ khi mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời cho đến giờ, thì chúng ta chỉ duy nhất biết có một đức Như Lai đó là đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà thôi. Còn hoàn toàn những cái điều đều là tưởng của chúng ta mà vẽ ra.
Chứ chúng ta chưa thấy bao nhiêu, có bốn phương tám hướng như vậy mà có mỗi hướng như vậy mà có một cái vị tên Như Lai và Vô Lượng Như Lai như vậy thì hoàn toàn là chúng ta sống trong tưởng mà thôi.
Cho nên chúng ta không nên tin cái điều đó, mục đích của đạo Phật là muốn dạy cho chúng ta biết là chúng ta chỉ tu tập làm chủ được bốn cái điều đau khổ của chúng ta đó là sanh, già, bệnh, chết. Như vậy là cái mục đích chúng ta nhắm để mà giải thoát, chứ không phải để nhắm vào cái chỗ Như Lai các vị để an trú với các vị đó, để làm gì? Vậy chúng ta chỉ an trú được bốn cái chỗ mà chúng ta thoát ra bốn cái nỗi khổ này thì chúng ta thấy hạnh phúc rồi, không còn chỗ nào là chúng ta cần đi tìm một cái cõi giới nào hết.
Cho nên có Như Lai hay không có Như Lai điều đó đều không quan trọng, mà điều quan trọng là chúng ta phải điều phục được tham, sân, si mà gây ra trong lòng của chúng ta, quét sạch cái ngũ triền cái này để chúng ta quét sạch tất cả những cái đau khổ từ nơi thân tâm của chúng ta hiện giờ mà chúng ta đang đau khổ.
(42:36) Sanh là cuộc sống chúng ta hằng ngày luôn luôn có phiền não, có đau khổ, có giận hờn, có thương ghét nó làm chúng ta khổ. Bệnh, thân của chúng ta luôn luôn lúc nào, nay không đau thì mai đau, mai không đau thì mốt đau, bệnh. Rồi già, lần lượt năm tháng chúng ta thấy không, từ cái mái đầu xanh cho đến bây giờ thì các vị thấy có người thì muốn đầu bạc rồi, rồi qua năm thì đầu bạc trắng, rồi sắp sửa vô thường nó đến chúng ta cũng không còn bao lâu, mà sống ở trên cái mảnh đất này nữa, thì đó là cái già cái thay đổi. Rồi đến cái chết, chắc chắn là chúng ta phải biết rằng con người chúng ta không ai tránh khỏi sự chết. Như vậy bốn cái nỗi khổ này làm sao chúng ta chấm dứt được?
Cái mục chúng ta đi theo đạo Phật không phải cầu đức Như Lai, cho nên đức Phật nói: “Ta cũng không phải là thầy của các ngươi, mà các ngươi hãy lấy giới luật làm thầy”. Đức Phật cũng chỉ khi mà tu chứng thì đức Phật đảnh lễ cái giáo pháp và cái giới luật mà đức Phật đã thực hiện được cái đời sống giải thoát, xem như đó là Thầy của mình. Vì vậy mà sau khi đức Phật truyền lại cho chúng ta, những cái người mà thừa kế đức Phật đó là giới luật và giáo pháp của đức Phật, là cái người Thầy của chúng ta.
Cho nên bây giờ chúng ta theo đạo Phật không có nghĩa là chúng ta theo đức Phật mà chúng ta theo cái giáo pháp, cái giới luật, cái đức hạnh đó mà chúng ta tu tập để chúng ta đạt được giải thoát. Vì chính ông Thầy đó mới là cái người mà dạy chúng ta con đường giải thoát. Chứ không phải một vị Phật hay một vị Như Lai nào mà giúp chúng ta giải thoát được, mà chính giới luật tức là đức hạnh và giáo pháp của đức Phật đã để lại, đó là Thầy của chúng ta. Lời di chúc này trước khi mà đức Phật lìa đời, đức Phật đã nhắn lại với chúng ta.
HẾT BĂNG
PHẬT TỬ NGHỆ AN 02 - CÁCH THỨC ĐƯỜNG LỐI TU TẬP CỦA ĐẠO PHẬT
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời lượng: [45:08]
(00:01) Trưởng lão: Nó sẽ giúp chúng ta thoát được bốn sự đau khổ sanh, già, bệnh, chết. Chúng ta sẽ làm chủ được cuộc sống. Chúng ta sẽ chấm dứt được tái sanh luân hồi. Chúng ta không còn tái sanh làm thân con người khổ đau này nữa. Đó là cái mục đích mà chúng ta đã hướng theo đạo Phật.
Còn kinh Bảo Tích tưởng tượng ra bốn phương tám hướng như vậy. Mà mỗi phương hướng như vậy đều có những cái tên đức Như Lai thật là kêu. Nhưng đó là danh từ tưởng mà thôi không thật có. Vì lịch sử loài người không chứng minh các vị Như Lai đó có mặt, có sanh ra làm người ở trong cái quả địa cầu này. Những người này ở đâu chúng ta không biết. Vì vậy mà chúng ta không chấp nhận họ. Bởi vì đạo Phật là đạo thực tế. Dạy chúng ta bằng ý thức. Chứ không phải bằng tưởng thức.
Cho nên đức Phật nói: “Ta nói một cái điều gì mà các vị Tỳ kheo, các con, các thầy mà nghĩ bằng tưởng thì ta có nói láo trong ta”. Đức Phật đã xác định điều đó. Mà nếu mà ta nói một cái điều gì mà ý thức chúng ta đã nhận xét cái điều đó có lợi ích cho mình, có lợi ích cho người thì hãy tin đó là đúng. “Còn nếu mà ta nói cái đó mà nghĩ tưởng ra mà hiểu thì cái đó ta có nói láo trong ta”. Đức Phật xác định cái điều đó rất rõ ràng.
Vì vậy mà khi chúng ta không biết cái vị Như Lai đó như thế nào, thế mà nói phương Đông thì có một vị đó như vậy, mà vô lượng vị Như Lai vậy. Thì bây giờ chúng ta phải lấy cái tưởng mà chúng ta hiểu, để hiểu cái các vị Phật đó. Thì như vậy rõ ràng là có nói láo rồi. Đức Phật đã xác định cái điều đó mà. Ai nói điều đó là có nói láo rồi. Chúng ta không tin.
(01:29) Còn bây giờ ai nói rằng không có đức Phật Thích Ca. Thì chúng ta nói rằng có đức Phật Thích Ca. Tại vì lịch sử đã chứng minh có một cái con người ở nước Ấn Độ, có vợ có con, con một vị vua. Rồi bỏ đi tu, rồi giải thoát, rồi thành lập ra một cái đạo, cái đạo đó gọi là đạo Phật. Do đó bây giờ ai nói không có đức Phật Thích Ca thì chúng ta không chấp nhận. Vì lịch sử đã có chứng nhận cái điều đó rồi.
Còn trái lại những cái người, những nhân vật mà không có trong lịch sử thì những nhân vật đó là nhân vật tưởng mà thôi. Đó cho nên vì vậy mà chúng ta là một con người chúng ta phải lấy một cái trí tuệ thông minh sáng suốt nhận định cái nào có chúng ta tin, cái nào không có nhất định là không tin. Ai nói gì chúng ta cũng không tin.
Tôi phải thấy thật sự, tôi phải nghe thật sự những cái điều đó tôi phải chứng kiến bằng ý thức của chúng tôi, chứ không phải bằng tưởng thức. Tôi không thể thấy một cái mờ ảo như một cái bóng dáng gọi là ma, rồi chúng tôi tin đó là có linh hồn người, chúng tôi không tin điều đó đâu. Đó là cách thức của con người chúng ta phải thực, chứ không thể nào tin một cái điều bậy được.
Cho nên hôm nay những cái điều kinh sách Đại thừa là Thầy đã từng bảo đó là kinh tưởng. Nó không thật để giúp cho chúng ta đi vào con đường thực tế. Còn đạo Phật dạy chúng ta rất thực tế. Rất thực tế.
Cho nên trên con đường tu đó chúng ta phải lấy cái thực tế để mà cứu mình. Lấy cái thực tế để mà chúng ta sống trong đạo đức không làm khổ mình, khổ người thì cái đó là cái thực tế, cái cuộc sống của chúng ta. Đem lại hạnh phúc cho mình cho người, đem lại sự giải thoát, đem lại cái sự sống trên hành tinh này trở thành một cõi Thiên Đàng.
Chứ đừng mơ tưởng cõi Thiên Đàng hay là cõi Cực Lạc nơi đâu cả. Mà chỉ ở nơi đây chúng ta phải tạo nó, nó sẽ có Cực Lạc ở đây, chứ không ai mà có cõi Cực Lạc nào mà để mà chúng ta trở về đó được. Cho nên bằng những cái sức lực của chúng ta, bằng những cái khối óc chúng ta, chúng ta sẽ tạo cảnh sống của chúng ta trở thành, biến thành nó là Cực Lạc ở tại đây chứ không phải ở cõi Tây phương đâu.
Đó cho nên hôm nay chúng ta tu là chúng ta đem lại cái cuộc sống chúng ta, cuộc sống của chúng ta tức là mọi người cùng sống trên hành tinh này trở thành một Thiên Đàng. Đó là cái mục đích của chúng ta. Từ lâu con người đã đem cái sức của con người ra. Từ xưa đến giờ người ta muốn biến thành cái cuộc sống của chúng ta trở thành Thiên Đàng. Nhưng mà vì chúng ta không hiểu được cái đường lối và cách thức cho nên chúng ta mơ tưởng, thành ra sống trong tưởng, có cái cảnh giới Cực Lạc, Thiên Đàng bằng cái tưởng, nó không thực tế rồi.
Cho nên chúng ta bây giờ không chấp nhận những điều này. Mà phải chấp nhận bằng sức lực của chúng ta phải tạo nó như thế nào? Ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện thì nơi đó sẽ có Cực Lạc tại đó. Đó hôm nay thì con hỏi về kinh Đại thừa, Thầy tóm lại là kinh Đại thừa là những cái kinh không thật, là những cái kinh sống bằng tưởng tri chứ không phải bằng liễu tri.
(04:00) Bây giờ thì các con còn hỏi thêm gì nữa không?
Phật tử 1: Hồi nãy con có hỏi Thầy cái pháp tu mà sáng suốt. Trong cái sáng suốt, cái tỉnh thức là nó một hay là nó hai?
Trưởng lão: À nó một.
Phật tử 1: Dạ. Mô Phật.
(04:17) Phật tử 2: Dạ kính bạch Thầy! Cái điều kiện gì để mà cho một số tế bào não ở thuộc về mà phần tâm thức cho nó hoạt động? Rồi ở trong cái đó đó là nó có những cái lợi ích gì? Cái công dụng của nó hoạt động như vậy đó?
Trưởng lão: Về phần muốn cho… Ở trong cái bộ óc của chúng ta nó có ba cái nhóm tế bào não tạo thành những cái thức của chúng ta. Cái nhóm tế bào não mà tạo thành cái thức đầu tiên đó là cái nhóm tế bào não ý thức. Rồi cái nhóm tế bào não mà tạo thành cái tưởng thức của chúng ta. Rồi cái nhóm tế bào não mà tạo thành cái tâm thức của chúng ta. Nó ba cái nhóm.
Do đó hiện giờ chúng ta đang sống đang tiếp việc, đang tiếp duyên với nhau, đang nói chuyện nhau, đang thuyết giảng, đang trả lời, đang vấn đạo. Thì đó là cái nhóm tế bào của ý thức của chúng ta đang hoạt động. Tức là nó đang hoạt động trong đầu của chúng ta là nhóm tế bào ý thức.
Bây giờ trong khi chúng ta ngủ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chúng ta đều ngưng nghỉ không có làm việc. Thì cái nhóm tế bào tưởng thức nó hoạt động. Cho nên chúng ta chiêm bao. Chúng ta thấy mình trong giấc mộng đó là cái nhóm tế bào tưởng thức hoạt động. Do khi mà cái nhóm tế bào ý thức nó ngưng thì cái nhóm tế bào tưởng thức nó hoạt động. Cho nên chúng ta mới có mộng. Mà khi mà chúng ta còn đang thức với ý thức đó thì cái mộng chúng ta không có thực hiện được.
(06:00) Nhưng cái ý thức và cái tưởng thức của hai nhóm tế bào này, nó có thể câu hữu và nó kết hợp nó hoạt động. Như một nhà ngoại cảm. Nhà ngoại cảm họ có thể vừa là ý thức mà cũng vừa là tưởng thức. Nhưng mà đó là cái sự hoạt động nó cấu kết nhau. Nó, khi nó có một trường hợp nó xảy ra. Thì nó sẽ hoạt động được như vậy. Hay hoặc là do cái sự tập luyện của một cái người mà tu tập. Thì họ câu hữu được giữa cái ý thức và cái tưởng thức của họ hoạt động. Cho nên chúng ta thấy họ có thần thông. Họ biết được chuyện quá khứ vị lai của mình. Không phải ý thức của họ biết mà tưởng thức họ biết được chuyện quá khứ vị lai của gia đình của mình. Họ biết cũng như mình ở trong nhà của mình. Đó là tưởng thức hoạt động câu hữu với ý thức.
Còn trái lại đó muốn mà đánh thức được cái nhóm tế bào não mà tâm thức đó. Thì chúng ta phải dừng, phải cách thức tu tập phải dừng ý thức. Dừng sáu cái thức của cái thân của chúng ta. Dừng cái tưởng thức là cái thức mà có cái tế bào mà tưởng thức đó nó hoạt động đó phải dừng cái đó lại. Thì khi dừng tất cả những cái nhóm tế bào này thì tế bào tâm thức của chúng ta nó hoạt động.
Do đó nó có những cái sức thiền định để mà nó dừng được những cái này. Thì nó dừng được những cái này thì bắt đầu cái này nó phải hoạt động. Và nó hoạt động thì cái người tu sĩ đấy người ta sẽ dừng cái sự hoạt động của cái nhóm tế bào đó đó, mà người ta đưa, đưa cái sự biết của cái nhóm tế bào mà tâm thức đó đó, nó đi vào trong cái chỗ mà không có thời gian. Không có thời gian tức là không có quá khứ vị lai và hiện tại.
Cho nên về nhiều đời nhiều kiếp về quá khứ nó điều rõ biết rất rõ. Cũng như nó đang sống trong hiện tại của nó trong nhiều đời nhiều kiếp. Do đó cho nên nó đi nó đưa cái chỗ cái tâm thức đó đó đi đến cái chỗ không có không gian. Cho nên không gian nó không trải dài. Vì vậy mà ở bất cứ nơi đâu ở trong cái không gian này chỗ nào nó cũng điều biết hết chứ không phải là ở trên cái hành tinh này không đâu. Mà nó cả cái không gian vô tận này muốn nó đi đến cái chỗ nào đó, thì cái tâm thức của chúng ta sẽ đến ngay đó liền tức khắc.
Bây giờ Thầy đem một cái ví dụ chúng ta là những cái con người đang sống ở trong tưởng thức chứ chưa sống ở trong tâm thức. Mà cái cấp độ nó nhanh, cái độ mà cái tưởng thức nó nhanh. Nó nhanh hơn ánh sáng rất nhiều. Thầy đem một cái ví dụ để thấy cho nó rõ ràng.
(08:14) Bây giờ một cái người ngồi đây mà nghĩ tưởng ở qua bên Mỹ. Là nó nửa cái quả địa cầu chúng ta. Một người ngồi đây mà tưởng ra Trảng Bàng nó chỉ cách mấy cây số thôi. Thì cái từ đây ra Trảng Bàng thì nó ngắn, mà từ đây qua Mỹ thì nó xa. Thế mà cái người vừa, một cái người nghĩ gần và một người mà nghĩ xa đó. Thì cái tưởng chúng ta nghĩ ngay Mỹ đó và cái người mà nghĩ ở Trảng Bàng thì hai người đồng thời cũng đều là hiểu biết một cách, cái thời gian nó rất nhanh như vậy. Cho nên xa nó cũng như vậy mà gần nó cũng như vậy. Cái thời gian nó chớp mắt là chúng ta đã nghĩ tới đó liền. Có phải vậy không?
Cho nên cái tưởng của chúng ta nó đi rất nhanh vì vậy nó không có cái không gian. Nó không có không gian trải dài, cho nên vì vậy mà cái gần cũng như cái xa nó cũng đều ở trong cái khoảng thời gian của nó tích tắc là nó đã tới liền. Nó không có cái phải là như ánh sáng, bây giờ cái ánh sáng nó phải ở đây ra Trảng Bàng nó phải đi trong vòng một giây đi, cái ánh sáng nó sẽ tới ngoài đó. Thì nó phải qua bên Mỹ nó bao nhiêu giây nó mới tới.
Còn không cái này nó không cần có cái khoảng không gian dài như vậy đâu. Mà vừa nghĩ thì cái tưởng của chúng ta ngay đó là Trảng Bàng tới thì cái kia bên Mỹ nó cũng tới liền. Các con thấy cái tưởng nó không có thời gian và không gian.
Cho nên do đó mà cái tâm thức của chúng ta nó cũng không có không gian và thời gian như vậy. Cho nên dù là cái không gian này là vô tận nhưng mà muốn biết cái chỗ nào đó thì cái tâm thức của chúng ta nó sẽ đưa đi đến cái chỗ đó, nó đều biết cái chỗ đó mà nó đưa, chứ sự thật ra nó ở trên một cái điểm mà nó quan sát chứ nó không có đưa đi đâu hết. Vì đối với nó thì không có vô tận nữa. Đối với cái tâm thức chúng ta hoạt động thì nó không có vô tận nữa.
Bởi vì ở bên ngoài mà chúng ta thấy cái không gian này là một cái đại vũ trụ chứ gì? Nhưng mà cái biểu tượng của cái đại vũ trụ đó là cái đầu óc của chúng ta nó trở thành một cái biểu tượng của nó. Cũng như là một cái gạch, cũng như một cái dấu hoặc một cái điểm. Là cái biểu tượng của cái vũ trụ. Cho nên khi mà chúng ta khai mở được cái tâm chúng ta thì cái vũ trụ nó phá toang ra. Nó không còn không gian và thời gian nữa.
Cho nên nhiều đời nhiều kiếp của chúng ta đã nhiều lần tái sanh. Mà khi mà chúng ta đã đóng cái ý thức và cái tưởng thức chúng ta lại nó không hoạt động thì cái tâm thức của chúng ta nó hoạt động. Thì nó không gian, thời gian nó sẽ thu ngắn lại hết. Nó hoàn toàn là chúng ta dễ biết nhiều đời nhiều kiếp của chúng ta một cách rất rõ ràng và cụ thể.
(10:24) Đó như vậy, khi mà con hỏi làm sao mà chúng ta đóng được. Thì đây bây giờ trên con đường tu để mà chúng ta đóng được nó. Thì trong con đường thiền định thì đức Phật đã xác định cho chúng ta thấy rất rõ cái phương pháp, cách thức để mà chúng ta đóng từ cái ý thức và đóng từ cái tưởng thức của chúng ta lại. Để chúng ta thực hiện được cái tâm thức để thực hiện Tam Minh.
Bởi vì Phật giáo đã dạy cho chúng ta phương pháp nó cụ thể và rõ ràng. Chứ không phải mơ hồ. Vì vậy mà muốn cho được như vậy thì cái tâm này nó phải ly tham, sân, si. Nó không còn tham, sân, si nữa. Và nó không còn tham, sân, si đó nó thanh tịnh rồi thì nó đủ cái năng lực để nó tịnh chỉ nó ngưng các cái hoạt động của nó ở trong thân.
Bây giờ về ý thức nó hoạt động thì nó phải có mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của nó hoạt động. Bây giờ muốn cho nó ngưng hoạt động. Muốn cho nó ngưng hoạt động thì tức là người ta phải điều khiển bằng cái tâm lực của nó. Mà cái tâm lực nó phải là ly tham, sân, si thì nó mới dùng được cái tâm lực đó.
Còn nếu nó không có cái năng lực của tâm mà thanh tịnh ly tham, sân, si đó thì nó phải dùng cái tưởng. Nó dùng cái tưởng. Bây giờ muốn cái tưởng để nó dừng cái ý thức của nó lại thì người ta phải ngồi đó người ta tưởng. Tưởng như thí dụ chẳng hạn là ngồi đó người ta im lặng người ta ức chế hoàn toàn cái ý thức không có cho nó khởi niệm gì, nó nghĩ cái gì hết. Tức là cái ý thức nó không có hoạt động, nó không có khởi niệm. Thời gian kéo dài từ một giờ hai giờ hay ba giờ thì bắt đầu cái tưởng thức nó sẽ hoạt động thì nó giống như là mình đang ở chiêm bao.
Còn cái ý thức của chúng ta nó bị ngưng đi, nó không hoạt động, nó không có cái niệm nữa thì nó ngưng hoạt động. Thì do đó gọi là cái ý thức nó ngưng. Để cho cái tưởng thức nó hoạt động.
Nhưng mà tới cái tưởng thức mà các cái vị mà tu sĩ này họ không biết làm sao dừng cái tưởng thức, cho nên họ không đánh thức được cái tâm thức của họ. Phải không? Cho nên vì vậy mà họ rơi trong cái thế giới tưởng này, cái bắt đầu đó họ có những cái thần thông, những cái siêu việt biết chuyện quá khứ vị lai của người ta họ biết hết. Họ tưởng là họ đạt đạo.
Nhưng cuối cùng họ đứng ở đó họ xây dựng cái thế giới, cái thế giới tâm linh, cái thế giới siêu hình. Họ thấy có Chúa, họ thấy có Phật, họ thấy có chư Bồ Tát Như Lai ở bốn phương tám hướng như vậy. Thành ra họ ở trong cái thế giới tưởng họ tưởng ra. Họ tưởng ra mà họ tưởng tới đâu thì họ thấy thật tới đó. Họ thấy cái ông đó họ tưởng ra ông đó thì có cái ông đó thật sự. Cho nên họ hoàn toàn họ sống ở trong cái tưởng của họ nó hoạt động mà họ không biết rằng đó là cái tưởng của họ. Họ cho rằng đó là có cái thế giới thật sự của chư Thiên, chư Phật, chư Bồ Tát hay hoặc là các cõi Trời.
Cho nên đó là một cái sai của họ, họ nằm ở trong đó. Chừng nào mà họ đóng hết tất cả các cái trạng thái mà của tưởng đó. Họ đóng hết họ không có cho nó hoạt động nữa thì bắt đầu bây giờ tâm thức họ mới tìm thấy rằng không có cái thế giới đó nữa. Hoàn toàn không có thế giới đó nữa. Mà họ muốn biết cái chỗ nào nó cũng đều không có không gian và thời gian như cái tưởng thức vậy.
(13:01) Trưởng lão: Cho nên ở đây đó, cái hầu hết là các tôn giáo và ngoại đạo đều bị rơi vào cái trạng thái tưởng mà xây dựng thành một cái thế giới siêu hình tưởng của nó. Tạo nên cái thế giới mà chúng ta không lường được. Đem đến cho chúng ta rất nhiều đau khổ. Nhưng mà đó là thuộc về tưởng của chúng ta tạo ra làm sao có thật. Cho nên đức Phật mới nói nó là tưởng tri chứ không phải liễu tri.
Vì vậy hôm nay con thấy khi mà cái người tu đúng là chúng ta phải tâm thanh tịnh thì chúng ta mới đóng được cái tưởng thức. Mà tâm không thanh tịnh thì không đóng được tưởng thức. Mà tâm không thanh tịnh mà đóng được ý thức chứ không đóng được tưởng thức. Cũng như bây giờ tâm chúng ta không thanh tịnh nhưng chúng ta ngủ đó thì ý thức chúng ta ngưng. Cho nên vì vậy mà tưởng thức chúng ta hoạt động cho nên chúng ta mới chiêm bao.
Cho nên cái người tu đó mà tâm không thanh tịnh còn tham, sân, si giận hờn còn ham muốn. Thế mà người ta vẫn đóng ý thức người ta thực hiện qua tưởng thức. Cho nên đạo Phật thì dạy chúng ta muốn thực hiện được một cái gì siêu việt, màu nhiệm. Thì phải đóng ý thức và đóng tưởng thức lại. Chừng cái siêu việt, màu nhiệm đó mới thật sự là chơn chánh của đạo Phật. Mới gọi nó là Tam Minh.
Hôm nay Thầy nói rất rõ để chúng ta thấy được con đường đi của đạo Phật chơn chánh đến cái mức độ chơn chánh. Nếu mà tâm không ly tham, sân, si mà nó có đủ Tam Minh đó thì người này sẽ làm bá chủ hoàn cầu. Biết bao nhiêu con người chết dưới bàn tay họ không? Vì cái tâm tham dục họ còn. Còn đối với một đức Phật người ta đã ly dục, ly ác pháp thì người ta làm sao mà người ta trở thành một bá chủ hoàn cầu. Người ta đâu có ham cái điều đó nữa. Bởi vì cái tâm tham người ta đã hết, người ta đã ly rồi.
Cho nên vì vậy đối với đạo Phật là cánh cửa mà để cho chúng ta bước vào thiền định đó là cái cánh cửa đạo đức. Người nào mà có đạo đức không tham, sân, si thì mới vào được cánh cửa của Phật, của thiền định của Phật. Mà người nào còn tham, sân, si thì không bao giờ vào được cánh cửa của Phật. Chỉ vào cánh cửa của tà đạo mà thôi. Tức là vào cái thế giới tưởng của nó mà thôi chứ không làm sao vào được cái tâm thức của nó được.
(14:42) Đó hôm nay con thấy cái phương pháp, tại sao đức Phật dạy chúng ta nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền để làm gì?
Bốn cái thiền định này nó xác định rõ. Cái thiền định thứ nhất là ly dục, ly ác pháp làm cho tâm chúng ta thanh tịnh không còn tham, sân, si. Tâm không còn tham, sân, si đó thì nó là Sơ Thiền. Cái thiền thứ nhất giúp cho tâm chúng ta, cuộc sống của chúng ta hoàn toàn là đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Đó là cái thiền thứ nhất.
Đến cái thiền thứ hai đó là buộc nó phải dừng lại tất cả ý thức. Cho nên nó phải diệt tầm tứ. Vì vậy cái thiền thứ hai gọi là diệt tầm tứ mới nhập Nhị Thiền. Nó các con thấy đi vào cái chỗ này diệt tầm tứ thì nhập Nhị Thiền.
Bây giờ cái ý thức của chúng ta nó ngưng nó không hoạt động nữa thì bây giờ tưởng thức nó hoạt động. Kế đó thì đức Phật mới bảo rằng chúng ta phải ly tất cả các trạng thái hỷ để mà nhập Tam Thiền. Khi đó chúng ta ly hết trạng thái hỷ thì tức là chúng ta lìa tất cả những cái hoạt động của tưởng. Cho nên cái tưởng chúng ta lìa xa rồi.
Bắt đầu bây giờ đức Phật mới dạy chúng ta tới một cái thiền thứ tư là chúng ta diệt hơi thở. Tức là tịnh chỉ hơi thở để mà hoàn toàn cái thân bất động. Chừng đó thân tâm nó bất động hoàn toàn thì cái tâm thức của chúng ta nó sẽ hoạt động. Nó hoạt động chúng ta mới đưa cái tâm thức của chúng ta nó đi về Tam Minh. Cho nên Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh chúng ta mới thực hiện được.
Như vậy rõ ràng là chúng ta phải đóng, phải đóng chặt ngưng hoạt động ý thức và tưởng thức. Rồi chúng ta mới hoàn toàn, mới tâm thức mới hoạt động chúng ta mới đưa tâm mình đi đến chỗ Tam Minh. Nó mới có thực hiện đúng chánh pháp của Phật. Tâm chúng ta hoàn toàn là thanh tịnh không còn tham, sân, si. Cho nên vì vậy mà chúng ta có đủ màu nhiệm thần thông, đủ phép tắc nhưng chúng ta vẫn thấy bình thường chúng ta không có gì cả.
Chúng ta không có tham đắm những cái mơ hồ, những cái trừu tượng đó hay hoặc là đem những cái đó để mà lừa đảo người khác. Vì vậy mới chính là đạo Phật. Đó đạo Phật rất siêu việt nhưng mà cái siêu việt đó không lừa đảo ai hết!
Làm được nhưng không đem cái điều đó khoe. Làm được nhưng không hô hào cái điều đó. Mà chỉ hô hào chúng ta phải thực hiện được cái đạo đức làm người: Không làm khổ mình, khổ người. Vì mọi hành động chúng ta thiện là đem lại hạnh phúc cho chúng ta và cho người. Đó mới chính là cái chơn chánh của đạo Phật. Còn tất cả những cái kia đều là thực hiện qua cái tâm thanh tịnh mà thôi. Nó không có hay ho gì đâu.
(16:48) Cho nên ở đây Thầy chỉ cho chúng ta thấy cái lộ trình cái đường đi của đạo Phật nó có phương pháp hẳn hòi đàng hoàng chứ không phải mơ hồ trừu tượng như các pháp môn khác của ngoại đạo, của Bà La Môn dạy chúng ta tu mà không có đường lối cách thức.
Còn ở đây chúng ta có đường lối và cách thức. Từ bước chúng ta tu tập chúng ta phải thực hiện cái gì. Cái gì rất rõ ràng. Cái phương pháp thực hiện như thế nào làm sao chúng ta rõ ràng. Nhưng chỉ vì chúng ta sống không đúng, làm không đúng mà sai đường. Thực hiện không đúng mà lạc vào những pháp tà đạo, ngoại đạo rồi chúng ta không có biết đường lối mà ra.
Còn bây giờ có người đã đi trước, người ta nắm tay người ta hướng dẫn, mình không sợ lạc đâu. Thật sự có một người mà đi tới Tam Minh rồi, thì người đó dẫn chúng ta không hề chúng ta sợ lạc đường. Chỉ ngại chúng ta tập cho đúng cách mà thôi. Làm cho đúng cách mà thôi thì chúng ta sẽ đi đến nơi đến chốn.
Đó thì hôm nay con thấy tất cả những cái phương pháp của Phật chỉ dạy để chúng ta ngưng cái gì, cái gì hoạt động và cái gì diệt, cái gì ngưng, để rồi chúng ta mới đánh thức được cái tâm thức của chúng ta hoạt động. Đó là cái điều kiện mà Thầy đã nói như nãy giờ.
Trưởng lão: Bây giờ các con còn hỏi Thầy gì thêm nữa không?
(17:58) Phật tử 3: Dạ bạch Thầy, con ở ngoài Hà Nội vào ạ. Thì qua tiếp xúc với Thầy con đã nắm được cái tư tưởng, đường lối tu hành của Thầy. Vậy con xin được theo Thầy, Thầy cho con một cái giáo pháp để con tu tập ạ.
Trưởng lão: Cái lợi ích thiết thực trước mắt của cái người mà muốn theo Thầy tu hành. Là hiện giờ, cái tâm nguyện của con là tâm nguyện rất tốt. Và tương lai của Phật giáo là những người tuổi trẻ. Những người tuổi trẻ của các con. Nhưng mà các con đang ở trong cái tuổi trẻ thì tức là chúng ta còn cha mẹ, thì cha mẹ có bằng lòng không? Nếu mà cha mẹ bằng lòng thì Thầy chấp nhận liền.
Nhưng trong khi mà con đang lở dở trên bước đường học. Còn một năm, hai năm nữa trên Đại học. Thì hãy về học cho hẳn hòi đàng hoàng không trễ đâu. Thầy sẽ chờ đợi không chết đâu. Thầy hứa với mấy con mà. Thầy có đủ khả năng duy trì cái mạng sống của mình thêm một vài năm không khó đâu. Nhưng mà các con hãy làm xong cái bổn phận của các con, đối với gia đình của mình. Học hành tới nơi tới chốn. Rồi bắt đầu tu hành không trễ đâu. Không có trễ chút nào hết.
Con đừng có vội vàng. Đã hiểu Thầy, hiểu Phật pháp rồi đừng có vội. Mà hãy làm đúng cái nền đạo đức của nó. Cha mẹ vui lòng cho con đi tu. Điều đó là đủ cái duyên rồi Thầy chấp nhận liền tức khắc. Nhưng trong khi con còn đang lỡ dở học đừng nghĩ rằng hôm nay tôi sống ngày mai tôi chết. Không!
Thật sự ra đức Phật dạy chúng ta là để quán cái niệm chết để làm gì? Quán cái niệm chết để cho chúng ta đừng lười biếng. Chứ không phải quán niệm chết, để mà chúng ta sợ hãi mà không làm xong bổn phận. Để cứ mãi lo tu giải thoát không phải điều đó đâu, không phải. Chúng ta phải biết hiểu được. Khi chúng ta lười biếng thì chúng ta hãy quán niệm chết để chúng ta đừng lười biếng.
Còn bây giờ con phải ráng học tập, vì học tập của con và đồng thời nó sẽ giúp cho con có đủ khả năng sau khi con tu hành thành đạo quả, thì cái khả năng học tập của con nó có nhiều cái điều lợi ích cho con, ở trong cái cuộc đời vừa đem đạo mà vừa đem đời giúp người ta. Những cái điều kiện mà con cần phải học. Đó thì như hiện giờ con còn tuổi trẻ ráng mà học. Và đồng thời Thầy sẽ bồi dưỡng thêm những cái hành động đạo đức cho con hiểu thêm. Và đồng thời cái tâm nguyện mà quyết tu Thầy tin rằng mấy con sẽ không mất.
(20:18) Thầy sẽ chờ đợi cho các con, hướng dẫn các con đi đến nơi đến chốn. Để trao cho con cái ngọn đuốc của Phật pháp. Cái ngọn đuốc đạo đức của Phật pháp để giúp cho mọi người trên hành tinh này chúng ta sống có đạo đức. Đâu phải một mình Thầy làm hết được cái chuyện này. Phải nhờ các bàn tay của các con, trao cái ngọn đuốc này cho mấy con.
Mấy con nắm cái ngọn đuốc này mà soi khắp năm châu, giúp cho người ta để người ta thoát khổ. Để người ta không còn làm khổ cho nhau nữa. Đó là cái hạnh phúc mà chúng ta phải đem truyền cái đạo pháp. Thì cái nhiệm vụ trọng trách của các con không những ở trong quê hương của chúng ta đất nước Việt Nam mà cả những con người có mặt trên hành tinh này. Cả sự sống của nó. Đó là cái nhiệm vụ của các con.
Cho nên các con hãy cố gắng vừa học tập mà vừa là sau này rèn luyện đạo đức trong cái đối tượng học tập của mình. Mỗi mỗi đối với bạn bè, đối với thầy với bạn với tất cả những người thân trong gia đình của mình phải sống đạo đức. Và từng đó Thầy sẽ đưa những sách vở đạo đức đến cho mấy con, Thầy gửi đến cho mấy con. Mấy con đọc, học và tập luyện để sống đúng đạo đức.
Sau khi sống đúng đạo đức học tập xong. Cha mẹ vui lòng thì lúc bấy giờ trở về ngay Tu viện, Thầy sẽ chấp nhận cho mấy con. Tập luyện, rèn luyện đúng cách để mà các con thực hiện. Thì các con sẽ thấy con đường tu tập của đạo Phật không có khó. Vì đức Phật đã xác định cái thời gian chúng ta đã thấy. Thời gian đức Phật đã xác định bảy ngày, bảy tháng, bảy năm.
Nghĩa là cao nhất là bảy năm mà Thầy từng nhắc đi nhắc lại. Đâu phải tu năm này tới năm khác. Đâu phải tu nhiều đời nhiều kiếp. Mà chỉ trong một kiếp của chúng ta mà chỉ có bảy năm mà thôi. Nhưng mà những cái điều kiện mà chúng ta cần phải sống đạo đức cho nó trọn vẹn, hiểu biết những gì mà chúng ta cần hiểu biết. Bây giờ chúng ta chưa hiểu biết cái gì hết, mà vội đi tu thì Thầy e nông nổi. Nông nổi.
Cho nên vì vậy mà chúng ta chuẩn bị cho một cái tinh thần vững chắc, chúng ta sẽ hướng vào con đường của đạo Phật. Nhất định là tất cả các giáo pháp khác chúng ta đều nghĩ rằng đó là tưởng. Cuộc đời này nếu mà nó đã không tưởng thì tức là nó phải có một cái nền đạo đức của nó sẵn sàng nó dạy con người, vì lợi ích cho con người. Tại sao nó tốt mà tại sao nó không đưa ra những cái đạo đức để dạy cho những người khác? Phải không?
Hoàn toàn con thấy từ kinh sách Đại thừa biết bao nhiêu rừng kinh sách. Mà nó có dạy đạo đức cho chúng ta những cái gì đâu. Mà chỉ có mấy tập kinh Nguyên Thủy mà đã nhắc đi nhắc lại những cái điều không làm khổ mình, khổ người. Lời đức Phật sâu sắc vô cùng. Cái bài kinh hồi sáng Thầy nói cái bài kinh Jīvaka. Một cái bài kinh dạy chúng ta một cái tình thương yêu. Một cái đạo đức rất thực tế. Mà nói trên cái vấn đề ăn uống của chúng ta chứ không phải nói xa.
Thế mà người ta bẻ cái pháp môn đó đi. Để đó rồi người ta phạm vào một cái tội lỗi rất nặng, rất nặng. Mà cái tội lỗi đó trong giới luật của Phật gọi là Ba La Di. Bốn cái giới mà gọi là đứt đầu. Một cái người Tăng mà phạm vào giới đó thì ngàn đời tu không giải thoát. Mất cái lòng từ bi rồi còn gì mà giải thoát được mà gọi là đạo từ bi.
(22:59) Cho nên vì vậy mà sư cô hỏi hồi sáng, đúng là đang ở trong cái chỗ đó cho nên nhìn các sư Nguyên Thủy, người ta tu tập bỏ hết cuộc đời người ta mà cuối cùng người ta được làm những gì đây? Toàn là sống ở trong cái xương máu của chúng sanh.
Cho nên Hòa thượng Huệ Hưng khi mà đến gặp Thầy, Hòa thượng nói, khi mà đến các chùa Nguyên Thủy, Hòa thượng nói nghe coi như là sát khí đằng đằng ở đó. Sự chết chóc ở đó ghê gớm. Vì ở đó, mà nếu mà không ăn thịt chúng sanh đó, thì cái người mà người ta mà ăn chay đó lâu ngày rồi có một cái mùi cá mùi thịt là người ta dễ biết lắm. Còn cái người mà ăn mặn đó người ta không có biết cái mùi tanh mùi thịt, cá đâu. Nhưng mà khi đến cái chùa mà người ăn mặn đó người ta vẫn thấy cái mùi hôi của người đó họ toát ra cái mùi thịt cá.
Ví như Thầy bây giờ đó Thầy ăn chay nè, từng năm mười năm hai chục năm rồi nó quen rồi. Mà khi ngồi gần cái người mà ăn thịt cá cái mồ hôi họ toát ra đã là nghe cái mùi tanh, mùi hôi thịt cá rồi. Bởi vì mình huân cái nào thì nó phải toát ra những cái từ trường đó. Nó làm cho cái người mà thanh tịnh người ta nghe được cái mùi đó, nó dễ dàng lắm.
Bây giờ thí dụ như mấy con nè, người nào mà ngồi có thiền định, có đúng định, mấy con ngồi cái tâm yên lặng đó từ trường các con thảy ra người ta vẫn biết cái sức định của các con ở mức độ nào. Chứ đâu phải cần các con phải ngồi thiền. Các con ngồi chơi vầy mà cái tâm mà các con định đó người ta vẫn thấy, cái thân các con định người ta vẫn thấy cái từ trường nó phóng ra. Nó đâu có phải người ta không nhận ra được cái điều đó đâu.
Cho nên vì vậy mà con bình thường như con mặc chiếc áo cư sĩ nè mà con đã tu tập thiền định đúng cách của Phật, cái tâm thanh tịnh của con, cái sức thiền định của con, con ngồi đó cái từ trường thiện nó thảy ra xung quanh con, người ta đến người ta tiếp nhận, người ta biết rằng cái môi trường của con là môi trường thanh tịnh tốt. Con người con là con người toàn thiện. Cho nên người ta nhận ra được liền tức khắc.
Còn những người mà phàm phu, những người mà ăn thịt chúng sanh, giết hại chúng sanh họ nhận ra không có ra đâu. Họ không biết cái nào thanh tịnh, họ không biết ác pháp mà thiện pháp nữa mà. Họ đang mù mờ.
(24:48) Cho nên ở đây hôm nay con xin Thầy, Thầy nhận con. Từ đây về sau đương nhiên coi như là con đệ tử của Thầy. Mặc dù Thầy không làm phái điệp, không làm gì hết. Nhưng mà con phải ráng học, con phải làm cho cha mẹ vui lòng, đừng có làm buồn lòng cha mẹ, mình phải làm sao mà cho đúng một đứa con hiếu trong gia đình. Và đồng thời cha mẹ đã nhận cho con tu hành đó là một cái phước của con đủ, rồi sau khi mà học tập rồi.
Con đừng có nghĩ rằng vợ con này kia con biết rằng có vợ con thêm là khổ. Đời con nhìn thấy cha mẹ mình, rồi anh chị em của mình có chồng có vợ con toàn là khổ đau không có gì hết. Không thoát ra khỏi cuộc đời khổ đau đâu. Càng có thêm thì phải lo thêm. Một người thì chưa hẳn chúng ta đã thoát khổ đối với tâm của chúng ta. Thêm một người thứ hai nữa là chúng ta đã khổ với một cái tư tưởng khác nữa rồi đó.
Rồi bây giờ đẻ ra năm ba đứa con, năm ba đứa con nó đâu phải đứa nào nó cũng giống với nhau đâu. Đứa nào nó cũng khác với nhau. Do nó khác nhau đó mà nó làm cho chúng ta rất khổ ở trong một cái gia đình chứ không phải. Đứa thì nay vầy mai thì khác. Đứa thì nói vầy đứa nói khác nó không giống nhau chút nào, nó làm cho chúng ta đau khổ. Cho nên chúng ta biết đời là khổ lắm. Cuộc đời là rất khổ.
Cho nên chúng ta dừng ngay đây khi biết đạo Phật, chúng ta dừng ngay đây. Đừng có đắm đuối theo cái hình sắc của phụ nữ, nó cám dỗ chúng ta nhưng nó là con rắn độc, nó sẽ giết hại chúng ta suốt một cuộc đời của chúng ta lận. Cho nên chúng ta phải chấm dứt ngay liền.
Từ đây về sau chúng ta có một cái hướng, một cái hướng phải lấy cái ngọn đuốc trí tuệ của mình soi đường cho mình đi. Cái hướng đó là hướng giải thoát. Chấm dứt luân hồi sanh tử. Mà cái phương pháp của Phật nó đã rõ ràng. Sơ Thiền nó như thế nào, Nhị Thiền nó như thế nào, Tam Thiền như thế nào, Tứ Thiền như thế nào? Để rồi thực hiện được Tam Minh.
Con đường của đạo Phật nó đâu có khó đâu, nó rất dễ mà. Nó rõ ràng và cụ thể nó rất ít, nó không nhiều pháp. Nó không phải tám mươi bốn ngàn pháp môn như chúng ta tưởng. Cho nên chúng ta tu đúng.
(26:22) Thầy nói rằng, mấy con nhớ rằng Ngài Ca Diếp tám mươi tuổi đến xin Phật, Phật cho ông ta. Ông thấy mình rất già không thể tu kịp cho nên ông vội vàng, ông thức, ông không có nằm. Nghĩa là luôn luôn ông đi tới đi lui rồi ngồi, không bao giờ dám nằm. Nhưng cuối cùng ông chứng quả A La Hán. Một cái sự tinh tấn siêng năng như vậy, cái thời gian quá ngắn. Bảy ngày, bảy tháng, bảy năm. Ông chỉ chừng bảy tháng là hết sức. Ông cũng đã chứng quả A La Hán. Trong vòng một hai tháng là ông đã xong công chuyện tu hành của ông rồi. Do cái sự tinh tấn siêng năng đó mà tu đúng.
Hoàn cảnh chúng ta đã thực hiện đúng nó không có một cái chướng ngại. Cho nên chúng ta vào tu rất dễ. Còn chướng ngại mà chúng ta vào tu là nó sẽ gây rối loạn cho chúng ta, nó làm chúng ta không an tâm tu đâu. Cho nên chúng ta trước khi tu chúng ta phải sắp xếp hoàn cảnh chúng ta cho thuận tiện. Rất thuận tiện.
Như hồi sáng Mỹ Châu hỏi Thầy, nó tới năm mươi hai nó sẽ vào đây mà tu tập. Thì quãng thời gian từ đây cho đến đó mà nó sắp xếp cho ổn định toàn bộ gia đình nó. Tức là kiết sử nó không còn có nữa. Thì do đó bây giờ nó vào đây tu thời gian ngắn nó sẽ đạt được. Còn bây giờ nó sắp xếp không ổn mà nó vô đây, nó ở đây mười năm hai chục năm chưa ổn. Mặc dù tu nhưng mà tâm của mình nó không cho phép mình đâu.
Đó Thầy nói hết để cho mấy con thấy rằng, con đường tu nó không phải khó. Nhưng phải sống phải có đạo đức. Và có đạo đức thì chúng ta mới giải quyết được những nỗi khổ của chúng ta và cái sự tu tập nó mới có sự giải thoát thật sự. Tu không khó. Khó là ở tại hoàn cảnh của chúng ta. Cha mẹ không cho là một điều khó, cha mẹ cho là một điều dễ. Mà có vợ con là một điều khó, mà không có vợ con là một điều dễ. Phải hiểu điều đó.
Thuở giờ không tu một pháp môn gì. Mà bây giờ đã tu lạc vào một cái thế giới tưởng là điều khó. Mà không tu một pháp môn gì mà đi vào con đường của đạo Phật là dễ. Tại vì chúng ta một người bình thường không có bị ảnh hưởng một pháp nào khác, không có bị một kiến chấp nào khác. Do đó chúng ta vào đây chúng ta học đạo đức. Chúng ta tu tập xả tâm, diệt ngã của mình lần lượt chúng ta sẽ quét sạch những cái sự đau khổ nơi thân tâm của chúng ta và chúng ta thực hiện được sự giải thoát.
(28:16) Trưởng lão: Bây giờ các con còn hỏi thêm Thầy gì nữa không?
Phật tử 4: Dạ con xin Thầy cho con, dạ con ở Nghệ An ạ. Dạ con năm nay sáu mươi tuổi. Con lâu nay là con đi theo cái Đại thừa, tức là con được các vị sư là hướng dẫn cho con là niệm Phật A Di Đà. Thì con niệm suốt một thời gian thì con thấy là nó vẫn là không có một cái lợi ích gì cả.
Sau đó thì con cũng viết thư thì sư bảo là nếu vậy thì con niệm là đức Phật Quan Thế Âm Bồ Tát. Thì con cứ niệm đi. Thế là con cũng niệm, niệm suốt ngày nào lúc nào con cũng niệm ạ. Lúc nào đến cái mức độ mà con chỉ có ngồi thế này mà cứ hiện lên cái câu đó. Nó cứ hiện lên trong cái tâm của con, những cái câu đó rất là rõ ràng. Rất là đầy đủ như vậy. Sau đó thì con thấy là con vẫn cứ là còn tham, còn sân, còn si. Nó không dẹp được.
Thế con mới viết thư bảo cho thầy, thì thầy bảo con cứ tinh tấn nữa đi. Thì cứ như thể là ta mà cọ đá cọ cây để mà lấy lửa. Thì nếu mà không tinh tấn nữa thì đến đó mà dừng lại thì không được. Thế là con sau đó thì con không niệm nữa thật. Con thấy là nó cứ vẫn là, con nó về nó làm sai, làm gì thì con vẫn còn phải nói nhiều. Cái lời của mình còn, cái ngôn ngữ còn phải nói nhiều cho nên là nó vẫn còn mệt. Cho nên con không niệm nữa.
Sau đó thì con lại gặp được sư Pháp Ngộ. Sư Pháp Ngộ cho con mượn cái quyển sách là Đường Về Xứ Phật quyển tám của Thầy. Thì con đọc trong đó thì con tinh tấn tức là con đã dẹp hết tất cả những cái điều mà từ trước tới nay con đi về Đại thừa là con bao nhiêu kinh sách hoặc là những cái điều mà bài chú hoặc bài kinh mà con đã thuộc làu làu, thì bây giờ là con nói thật là con làm sao mà con diệt, con không có một cái gì mà nó nổi ở trong cái tâm con nữa.
Thì là con sẽ là đi theo con đường của Thầy. Và con đã, hai giờ sáng thì con chỉ ngủ là khoảng một hai giờ. Thầy nói là ngủ đến mười giờ, nhưng mà con thì tập đến mười giờ thì ngủ cho đến hai giờ sáng. Nhưng mà con lại mãi đến mười hai giờ con vẫn không ngủ được. Tại sao mà con ngủ được một xíu thì khoảng là một hai giờ thì con lại dậy khoảng đâu một tiếng như vậy, thì con tinh tấn con tập. Nhưng mà con thấy là nó vẫn không buồn ngủ. Nếu mà mình ức chế tức là mình tự mà thức, thì con kiểm tra xem cái tâm của con thì con thấy là không phải là do mình lo lắng mà mình thức dậy. Nhưng mà tự nhiên cứ đến cái giấc đó là con cứ tự nhiên là nó tỉnh thức nó dậy thôi.
Thì con dậy con cứ năm hơi thở xong rồi con lại đi kinh hành hai mươi bước. Thì trong bốn bước thì con lại cứ tác ý một lần. Rồi sau đó thì con lại đi kinh hành hai mươi bước. Sau đó thì con lại ngồi là chỗ Định Vô Lậu, tức là quán tâm là không được… Bất động trước tất cả các pháp thế gian và tâm ly ác pháp, ly tham, ly sân, ly si, ly ngã mạn với lại nghi, rồi là bảy cái thất kiết sử đó thì con cũng là luôn luôn con niệm như vậy. Nhưng mà con luôn con ngồi thiền là được ba mươi phút ạ. Hai cái bài sau thì con ngồi được ba mươi phút. Rồi sau đó thì con lại cũng không biết là đến đó xong rồi con lại… Con nói là Thầy không có hướng dẫn thêm. Con sợ là ngồi theo cái hơi thở một cái thì sợ lại chệch sang bên tưởng hay là như thế nào con lại dừng lại.
Còn trước thì con được có cái quyển sách là Thiền Môn Khẩu Quyết đó. Thì con theo cái quyển sách đó con tu thì con cũng không ấy được. Sau con xem một cái quyển là đức Phật và Phật pháp thì con, chỗ mà đức Phật là tu về hơi thở thì con theo đó. Thì con ngồi thiền thì con ngồi được đến một tiếng hoặc là một tiếng rưỡi.
Nhưng mà đến cái lúc mà con thấy đâu nó ngưng thở rồi không thở nữa. Con thấy là không thở gì nữa hết nhưng mà con chú ý rất là cái tâm con rất là chú ý, thì con thấy vẫn cứ thở vô thở ra nhưng mà rất là nhỏ rất là ít thôi ạ. Nhưng mà vẫn còn thở. Con nghĩ là giống như thể không thở. Nhưng mà con cứ là chú ý mạnh vào thì con cứ thấy là vẫn còn thở. Nhưng mà có một cái điều là con chỉ hơi tê chân. Thì khi mà con xả thiền ra thì con thấy là chân nó tê bọp, con đau con nghĩ là con xin Thầy, Thầy cho con cái pháp tu ạ.
(32:31) Trưởng lão: Trong cái sự tu tập mặc dù là con có đọc ở trong cái cuốn Đường Về Xứ Phật. Ở trong đó có cái thời khóa biểu để dạy mấy con tu tập. Nhưng mà các con cũng chưa có biết cách tu tập đâu. Bởi vì Phật pháp nó, khi mà mình mới tu đó mình phải tu cái pháp này. Mà tu trong cái thời gian nào đó. Thì các con thuần thục thì các con phải bỏ cái pháp đó chứ mấy con không có được tu cái pháp đó nữa.
Nghĩa là mình tu cái pháp đó rồi tới một thời gian nào đó mình phải bỏ nó mình tu cái pháp khác. Và mình cứ đi dần tới cái pháp nào. Cho nên đức Phật dạy, thí dụ như đức Phật dạy người mới vào tu đó, thì nó mình phải xét thấy cái đặc tướng của mình. Cái đặc tướng của mình như cái tâm mình con tham ăn thì mình phải tu tập về cái Định Vô Lậu. Quán xét về cái thực phẩm bất tịnh. Để cho mình nhàm chán mình không tham ăn.
Nếu mà cái tâm mình nó tham sắc dục. Thì mình quán cái thân bất tịnh, thân mình bất tịnh, thân người khác bất tịnh. Để cho mình nhàm chán mình không có còn cái tâm sắc dục nữa.
Bây giờ mình cái lòng của mình hay sân. Cho nên mình phải quán từ bi. Mình quán cái tâm từ. Mình phải khởi nghĩ cái lòng thương yêu của mình, cái sự sống cái sự đau khổ của chúng sanh với cái sự đau khổ của mình mình so sánh. Vì vậy mình khởi cái lòng thương yêu. Mình không có nỡ mình làm khổ đau ai hết, con vật từ con chúng sanh từ con vật nhỏ đến con vật lớn.
Thì như vậy là mình vào mà khởi sự tu đó, cái người thầy người ta sẽ biết cái đặc tướng của mình khi mà mình trình bày ra thì người ta biết mình thực sự đang bị cái điều kiện gì chi phối cái tâm của mình, đang bị cái tâm niệm nào đó. Thì người ta biết cái điều đó người ta cho mình cái đề mục để cho mình quán mình tu tập cái vô lậu.
Rồi trong thời gian đó thì hằng ngày mình vừa tu tập trong cái giờ nào đó nhất định, nhất định mình phải đem ra mình quán cái giờ đó. Rồi ngoài cái giờ đó thì mình không có được tu nữa mình ngồi chơi. Mình xả hoặc là mình đi lao động mình làm cái gì nhẹ nhàng. Chứ không phải lao động để mà sản xuất như trồng cây, trồng trái, trồng bông, trồng cải. Hay hoặc là làm kiểng làm này làm kia đẹp.
Hoàn toàn là lao động với cái tính cách như là mình quét sân hay hoặc là như mình sinh hoạt xung quanh cái thất của mình cho nó sạch sẽ cho nó vui. Nó có cái sự lao động theo cái nhẹ nhàng. Chứ không có làm những cái mà mình phải có trách nhiệm ở trong cái việc làm đó.
Nghĩa là bây giờ con trồng một cái cây, mà muốn cho cái cây này nó có trái, thì nơi đó mình phải có một cái trách nhiệm, chứ không phải là trồng để mà trồng chơi. Còn bây giờ con muốn trồng những cái bông, cây kiểng để mà làm đẹp thì con cũng phải có cái trách nhiệm là không thể nào mà con bỏ lơ được.
Khi trời nắng là phải đi múc nước tưới, nó bắt buộc con phải, thay vì cái giờ này là cái giờ mình tu đi hay hoặc là giờ này là giờ mình ngồi chơi đi nghỉ đi. Mà bây giờ nó phải xách nước phải tưới những cây kiểng này. Thì đó là có cái sự bắt buộc có trách nhiệm ở trong đó. Thì chúng ta đừng có tạo những cái việc làm mà phải mang cái trách nhiệm đó. Thì nó không có tu hành được nó khó. Cho nên vì vậy đó mà chúng ta biết phương pháp tu. Rồi đặc tướng của mình tu. Rồi tu như thế nào.
Còn con cứ hễ mà nghe đây dạy đó thì con cứ tu như vậy thì nó sai rồi. Bây giờ bắt đầu bây giờ con vào đây đó thì muốn tu thì hỏi Thầy, bây giờ con muốn tu theo cái thời khóa này phải tu như thế nào?
(35:28) Buổi sáng từ bảy giờ cho đến mười giờ thì con mới nghỉ. Vậy thì từ bảy giờ đến mười giờ con sẽ tu cái pháp gì, pháp gì. Thì chừng đó một vị thầy người ta dạy, bây giờ đó con sẽ cái giờ thứ nhất bảy giờ đến tám giờ đó phải tu năm hơi thở đi kinh hành một vòng. Thì cứ năm hơi thở đi kinh hành một vòng là hai mươi bước rồi cứ ngồi lên ngồi xuống như vậy, là tu trong mười phút rồi nghỉ. Nghỉ khoảng độ chừng năm phút hay là mười phút rồi bắt đầu tu trở lại nữa và cứ như vậy đúng ba mươi phút thì nghỉ trong cái giờ đó là mình nghỉ luôn không có tu pháp gì hết.
Rồi bắt đầu tới cái giờ thứ hai thì mình cũng tập lại cái phương pháp đó. Rồi tới cái giờ thứ ba mình cũng tập lại y như vậy chứ không có tu pháp gì khác hết.
Bây giờ mình tu thuần cái đó rồi. Trong một tuần lễ, người ta dạy mình trong tuần lễ. Trong một tuần lễ mình tu cái pháp đó là mình quen rồi. Vì vậy bây giờ đó từ mười phút mình cộng lần trở lại mình liên tục ba mươi phút. Trong một tuần lễ mình nối lại ba mươi phút mà năm hơi thở rồi đứng dậy đi kinh hành. Rồi hai mươi bước rồi ngồi xuống năm hơi thở rồi đứng dậy đi kinh hành. Trong khi một tuần lễ là mình đã quen với cái pháp này rồi. Thì ngay đó xả pháp đó, tui tu rồi không có tu nữa.
Thì bắt đầu bây giờ người ta dạy mình tới cái pháp kế. Bây giờ ngồi đây hít thở một hơi thở chậm chậm nhẹ nhẹ. Rồi thở ra chậm chậm nhẹ nhẹ để gom cái tâm mình nơi cái hơi thở, thở ra thở vào nơi cái nhân trung. Rồi bắt đầu thở một hơi thở chậm nhẹ như vậy, ra vô như vậy thì thở lại hơi thở bình thường. Cho nó lấy lại cái sự bình thường nó không có mệt. Rồi do đó mình lại tập thở một lần nữa hơi thở chậm chậm nhẹ nhẹ như vậy.
Sau khi tập trong một tuần lễ. Là trong từ một giờ mình sẽ tu cái hơi thở này mấy lần. Trong một giờ vậy đó thì cái đầu tiên đó, mình chỉ tu trong vòng năm phút hơi thở chậm nhẹ như vậy. Rồi năm hơi thở bình thường. Rồi thở lại hơi thở chậm nhẹ như vậy rồi năm hơi thở bình thường. Sau một tuần lễ tu như vậy chúng ta xả ra không có tu cái đó nữa. Pháp đó không tu nữa.
(37:13) Cái đó để dùng cái gì? Sau này chúng ta gặp bị hôn trầm. Bị hôn trầm thì chúng ta lại sử dụng nó ngay liền. Bởi gì mình có tập rồi, bây giờ đem ra mình áp dụng để mình phá hôn trầm. Tức là bây giờ tui đang buồn ngủ thì tui mới lấy ra tui tu mà tui không buồn ngủ thì tui lấy ra tui tu nó làm gì đây. Nó đâu có giúp ích tui gì đâu. Tui tu cái này mục đích để phá cái tâm mà tui đang bị buồn ngủ trong cái giờ này, tui còn nửa tiếng nữa tui mới đi ngủ mà bây giờ nó buồn ngủ rồi, nó muốn buồn ngủ nó thiu thỉu ngủ nè. Thì tui chỉ có cái pháp này là giúp tui sẽ không buồn ngủ. Phải không?
Cho nên tui đã luyện tập nó trong một tuần lễ. Mà tui luyện tập nó trong tuần lễ mà tui tu chuyên nhất có một pháp này thôi. Thì tui phải quen phải thuần chứ. Mà tui đã quen thuần rồi tui còn tu tập chi nữa. Phải không? Nó đâu có lợi ích gì nữa đâu. Nó đâu có dẫn tui đi tới đâu được đâu. Nó chỉ chờ mà khi nào tui bị hôn trầm bị buồn ngủ thì tui lấy ra tui áp dụng nó nó sẽ hết hôn trầm buồn ngủ. Phải không? Các con thấy không?
Đó là một cái phương pháp để mà mình chuẩn bị cho mình buồn ngủ hôn trầm thì mình dùng nó mà không buồn ngủ hôn trầm thì mình tu nó làm gì nữa. Chứ đâu phải nó giúp cho mình đi tới mà giải thoát ly tham, sân, si mình được hết đâu. Nó không có đâu. Phải không? Cho nên ở đây đó, người ta dạy mình từng pháp, từng pháp mình tu trong một tuần lễ mình tu cái pháp gì. Mình tu rồi bỏ. Nó có trường hợp xảy ra hôn trầm, thùy miên là mình sẽ dùng nó mình tu. Phải không?
Còn bây giờ mình ngồi tu, mà tâm mình nó bị tuôn trào nó bị loạn tưởng. Mà nó bị hôn trầm nặng. Về cái phần mà hôn trầm đó thì nó chúng ta phải phân biệt cho nó rõ, cho nó rõ. Cái thân ngủ và cái tâm ngủ. Còn cái thân ngủ mà cái tâm không ngủ. Con cái tâm ngủ mà cái thân không ngủ.
Cho nên cái trạng thái mà gọi là hôn trầm đó là cái thân ngủ mà cái tâm không ngủ. Cho nên vừa gục vầy cái chúng ta giật mình liền. Bị gì cái tâm nó thức. Cho nên nó vừa động cái thân là mình hay liền. Phải không?
Còn cái mà thùy miên đó là cái thân nó không ngủ mà cái tâm nó ngủ. Tại sao mà chúng ta biết cái thân không ngủ? Tại Vì cái thân nó thức thì nó cứng ngắc nó có sự điều khiển nó cứng ngắc nó không có mềm. Cho nên nó không có gục đâu. Cho nên cái người mà thùy miên họ ngồi đây họ ngủ. Họ ngủ say, ngủ cái tâm họ ngủ mà cái thân họ không ngủ đâu. Cái thân họ cứng ngắc hà nó không có gục xuống cho nên gọi là thùy miên. Cho nên nói thùy miên là chúng ta biết cái tâm ngủ. Mà nói hôn trầm thì chúng ta biết cái thân ngủ.
(39:19) Còn thân và tâm chúng ta ngủ đó. Thì như mà các con mà ngồi mà xếp bằng như vậy mà thân và tâm ngủ đó, nó không gục vầy mấy con không giật mình đâu. Bởi vì cái thân cái tâm nó ngủ nó không hay đâu. Nó đập cái đầu xuống dưới đất là một cái bốp ở cái trán của chúng ta nó đập xuống, ngồi vầy mà nó đập xuống cái bốp đó. Nghĩa là coi như mình ngồi ở trên bàn này là mình lộn cổ xuống dưới đất đó. Chứ không phải là giật mình vầy mình thức dậy liền đâu. Thân và tâm nó ngủ nó quên rồi nó không có nhớ được đâu. Cho nên khi nó gục xuống vầy nó đi luôn xuống nó, mình ngồi ở trên giường sẽ lộn cổ mình xuống đất. Còn mình ngồi xếp bằng ở dưới đất là nó đập cái trán mình xuống đất cái bốp mình mới hay. Tức là mới giật mình thức dậy. Đó là gọi là thân tâm nó ngủ.
Cho nên ở đây đó, khi mà chúng ta bị cái thân tâm mà nó ngủ như vậy đó. Thì chúng ta phải sử dụng cái hơi thở, cái hơi thở chậm và nhẹ và đồng thời năm hơi thở thì nó sẽ phá được cái hôn trầm. Nghĩa là cái thùy miên, hôn trầm thân và tâm chúng ta ngủ. Nó ngủ hết đó coi như là phải sử dụng cái hơi thở.
Vì vậy mà những cái phương pháp này là những phương pháp để giúp chúng ta phá đi những cái thùy miên cái hôn trầm, cả thân và tâm đều ngủ nó đều phá, nó rơi vào trong cái không hoàn toàn. Thì lúc bây giờ chúng ta nhờ nó mà phá được. Đó là những cái phương pháp để chuẩn bị chúng ta phá cái tâm si của chúng ta. Mà phá được cái tâm si chúng ta thì nó không còn ngủ nó thức.
Còn bây giờ, sự thật ra mấy con thấy mấy con tỉnh, nhưng mà nếu mà kéo dài trong khi mà các con hoạt động, các con tu tập như vậy các con thấy mình không có buồn ngủ. Nhưng mà tu một thời gian rồi mấy con sẽ thấy cái ngủ nó lòi mặt nó ra. Nó không có đơn giản đâu. Người ta rất sợ, ăn người ta không sợ, mà người ta ngủ thì người ta rất sợ.
Bây giờ mình phải chuẩn bị tất cả những cái pháp để phá hôn trầm trước. Phá cái si trước. Cái tham, sân chúng ta không sợ đâu. Cái tâm tham của chúng ta không sợ mà cái sân không sợ mà sợ cái si. Bởi vì mình có tham là tại vì si mình mới có tham, chứ mình không si là mình không tham đâu. Mình có sân là tại vì mình si mình có sân chứ mình không si mình không sân. Người ta chửi mình không giận là tại vì mình không si. Phải không? Mình si là mình mê mình mới nghĩ tưởng mình.
Ví dụ người ta chửi mình chó mình giận, là tại vì mình tưởng mình là chó, chứ sự thật ra mình làm sao chó được. Vì vậy mà khi mình không si đó, thì mình không có giận người nào hết. Đó là cái chỗ mình phá cái si. Mà cái tướng trạng của si là cái tướng trạng buồn ngủ. Cái tướng trạng buồn ngủ là tướng si.
(41:21) Cho nên chúng ta có những cái pháp, có những cái pháp để chúng ta phá được cái si. Vì vậy mà cái thời gian, bởi vì cái con đường của Phật pháp mà tu hành đó, nó có nghĩa là bây giờ chúng ta từ bảy giờ mà chúng ta tu tới tám giờ. Bảy giờ đến bảy giờ rưỡi thì chúng ta rất tỉnh. Mà từ bảy giờ rưỡi đến tám giờ chúng ta nghe nó buồn ngủ. Thì coi chừng, coi chừng cái giặc này nếu mà chúng ta để cho nó lọt vào buồn ngủ, nó rơi chúng ta gục xuống cái vậy thôi, một cái một thôi thì cái thời gian mà một giờ mà chúng ta tu kể như hủy bỏ hết rồi. Chúng ta trở lại mới tu lại trở lại đó.
Cho nên nó còn si là chúng ta không bao giờ, cho nó xen vô đó là chúng ta không kết quả. Trái lại từ bảy giờ đến tám giờ hoàn toàn chúng ta không có một cái niệm si xen vô, chúng ta không có gục chút nào hết. Không có buồn ngủ chút nào thì chúng ta mới có những cái kết quả. Mà hễ tới cái giờ mà chúng ta tu nhất định là chúng ta phải làm chủ. Chứ không thể được để mà nó xen vô buồn ngủ trong đó được.
Cho nên vì vậy mà khi chúng ta tăng từ cái thời gian mà từ bảy giờ cho đến mười giờ, khoảng thời gian mà ba tiếng đồng hồ này hoàn toàn là không để được niệm si trong đó. Mà không để niệm si chúng ta không có phương pháp là chúng ta bị gục. Cái thời gian mà nếu chúng ta không có phương pháp là chúng ta bị gục liền tức khắc. Không thể nào mà chúng ta chịu nổi với nó. Nhất là chúng ta tu Tứ Niệm Xứ mà chúng ta chưa hoàn toàn, cái tâm mà chưa hoàn toàn mà phá được cái si.
Bây giờ bắt đầu Thầy nói như thế này nè, các con đi kinh hành đi tới đi lui này kia cái phương pháp mà Thân Hành Niệm ngoại đó. Thì các con thấy ít có ngủ. Mà các con ngồi chơi ngồi trên ghế này chơi, rồi ngồi xếp bằng, mà các con ngồi quan sát Thân – Thọ – Tâm – Pháp của các con. Tâm mà nó vừa yên tịnh nó không có khởi niệm gì hết, thì các con sẽ bị rớt trong ngủ liền. Dễ lắm.
(42:55) Cho nên nó rất dễ, trái lại các con đi kinh hành thì nó không rớt. Nhưng mà các con phải có những cái giai đoạn ngồi tu mà ngồi chơi mà tu. Nghĩa là không có tu một pháp gì hết. Ngồi quan sát Thân – Thọ – Tâm – Pháp có chướng ngại thì đẩy lui. Không chướng ngại thì để tự nhiên nó mà thôi. Đó là cái giai đoạn tu Tứ Niệm Xứ trên thân quán thân để khắc phục tham ưu.
Tham ưu tức là chướng ngại ở trên đó, mà không có tham ưu thì không khắc phục. Không có tham ưu thì nó thanh thản, an lạc và vô sự nó giải thoát cho nên chúng ta không có khắc phục gì hết, chúng ta để tự nhiên đó. Mà hễ có, vừa có là chúng ta hoàn toàn là chúng ta đẩy lui liền. Cho nên nếu mà trong cái trường hợp đời này đó nó dễ bị rơi vào hôn trầm, nó dễ rơi vào thùy miên, hôn trầm.
Cho nên nếu mà chúng ta ngồi tu hít thở có phương pháp, có sự mà vận động, có cái sự mà làm việc ở trong cái chỗ tu tập của chúng ta. Thì coi như là chúng ta ít buồn ngủ. Nhưng mà chúng ta ngồi không mà không có làm việc gì hết, để cho tự nhiên của nó ngồi không đó, thì chúng ta dễ bị buồn ngủ. Dễ bị buồn ngủ nhất.
Thử ai cứ ngồi đi ngồi riết một hơi coi có buồn ngủ không. Nếu mà chúng ta ngồi xem tivi không buồn ngủ. Đã cái đầu chúng ta đang suy tư đang theo dõi thì không buồn ngủ. Mà chúng ta ngồi không có gì hết, mà chúng ta cứ ngồi đi, rồi chúng ta sẽ thấy nó buồn ngủ.
Cho nên chúng ta có những cái phương pháp để mà biết ngăn chặn nó. Mà chúng ta phải bắt đầu mà chúng ta biết ngăn chặn những cái ác pháp, tức là cái buồn ngủ nó cũng là cái ác pháp chứ đâu phải là cái không ác pháp đâu. Cho nên chúng ta có những cái pháp ngăn chặn. Sau khi chúng ta thấy chúng ta hoàn toàn được ngăn chặn nó và nó không bén mảng được đến với chúng ta thì chúng ta mới dám tu Tứ Niệm Xứ. Chứ không phải Tứ Niệm Xứ đụng ai cũng tu đâu.
Các con nghe trong kinh Phật dạy Tứ Niệm Xứ mà các con lôi ra tu… hết, không bao giờ đúng hết. Các con chỉ tu Tứ Chánh Cần mà thôi ngăn ác, diệt ác pháp thì thôi. Chứ không thể tu Tứ Niệm Xứ được. Cho nên cái phương pháp mà tu Tứ Niệm Xứ là cái phương pháp, nó, cái người, người ta sắp sửa người ta nhập định. Người ta mới thực hiện Tứ Niệm Xứ. Vì vậy mà cái nhập định là như thế nào? Người ta hoàn toàn là sắp sửa người ta ly dục, ly ác pháp hoàn toàn người ta mới tu Tứ Niệm Xứ.
Cho nên ở đây nó không phải dạy chung chung được. Mỗi một cái người đến đây được Thầy chỉ dạy từng phần. Thí dụ như bắt buộc vô đây dạy năm hơi thở đi kinh hành, Thầy dạy rồi bắt đầu ngồi đây phải thực hiện cho Thầy thấy. Rồi về đó mà tập luyện. Tập luyện cho thuần rồi mới xả ra. Còn bây giờ thí dụ như các con ở đây trong năm ba ngày Thầy dạy các con xong rồi tập rồi thì…
HẾT BĂNG
PHẬT TỬ PHAN RANG - HAI GIAI ĐOẠN QUAN TRỌNG TRONG TU TẬP
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời lượng: [1:32:24]
Tên cũ: Lý luận của Đại Thừa-Nguyên Thủy Phan Rang vấn đạo
https://thuvienchonnhu.net/phap-am/phat-tu-phan-rang-hai-giai-doan-quan-trong-trong-tu-tap
https://thuvienchonnhu.net/audios/phat-tu-phan-rang-hai-giai-doan-quan-trong-trong-tu-tap.mp3
(00:34) Câu trả lời thứ hai: Là đối tượng nghe pháp là những người tha thiết tu hành cầu giải thoát còn người mà tu danh tu lợi thì không nên cho nghe, nghĩa là những cái băng của Thầy thì các con muốn cho ai mà nghe băng của thầy, thì nên chọn cái người tha thiết tu hành để tìm cầu sự giải thoát, còn thấy người ta thí dụ như một vị tu sĩ mà họ ở trong một cái Chùa to họ sống danh sống lợi mà họ không có tâm tha thiết thì chúng ta không nên cho. Nhưng mà cái người đó cũng ở trong một cái Chùa to, Phật lớn, nhưng họ có cái tâm quyết muốn tìm cái sự giải thoát hơn là sống trong cái Chùa to Phật lớn đó, thì mình biết được cái tâm ý đó thì mình cho họ nghe băng để cho họ tìm thấy con đường Chánh pháp của Phật sống phải buông xả. Do vì vậy mà tìm cái đối tượng đáng cho nghe, thì cho nghe còn không đáng cho nghe thì không nên cho nghe. Vì mình cho nghe người ta đang sống và đang chấp cái danh cái lợi thì đương nhiên người ta sẽ khổ tâm cái thứ nhất. Cái thứ hai vì người ta khổ tâm cho nên người ta mới tìm cách chống đối lại chánh pháp của Phật.
Như vừa rồi thì các con được cô Út trao cho cái tập giáo trình tu tập ngắn gọn, rút ngắn gọn lại để cho các con thấy rằng cái phương pháp tu rất là ngắn gọn của Phật. Từ cái pháp ngăn ác, diệt ác, cho đến cái pháp Tứ Niệm Xứ là trên Tứ Niệm Xứ để ngăn các chướng ngại pháp, nó ngắn gọn mà Thầy đã thu ngắn lại còn một trang giấy mà thôi, nó không có nhiều nữa. Thế rồi chúng ta có hai pháp: Một cái pháp đầu tiên đó là Tứ Chánh Cần, một cái pháp cuối cùng để chứng đạo đó là Tứ Niệm Xứ.
(02:29) Thế mà có người lại bảo rằng Tứ Niệm Xứ không phải là niệm lực mà chính lời đức Phật thích ca đã dạy: “Niệm Lực chính là Tứ Niệm Xứ, Tứ Niệm Xứ chính là niệm lực, mà Tứ Niệm Xứ chính là Chánh niệm”, ở trong bát chánh đạo nó là Chánh niệm. Cho nên những cái điều này đức Phật thích ca đã xác nhận rất là cụ thể. Nhưng cái người mà không hiểu thì người ta lại lý luận, nếu mà cái sự lý luận của họ mà chúng ta không đủ trí thì chúng ta nghe có lý rồi chúng ta thấy dao động làm cho chúng ta không biết đúng hay sai.
Người ta ví dụ như Tứ Niệm Xứ là một đống rác, từ cái chỗ đống rác đó một con chó từ đó nhảy ra, rồi chúng ta cho cái đống rác đó là lực, là niệm lực của con chó thì đó là sai. Vì cái lực của con chó từ cái đống rác mà nhảy ra, thì là cái cơ của con chó nhảy ra chứ không chứ không phải đống rác. Cái lý luận như vậy chúng ta đâu hiểu, phải không? Nếu mà Thầy không luận để cho chúng ta thấy hiểu được Tứ Niệm Xứ nó có một cái lực rất lớn.
Chúng ta biết rằng trong các cơ từ cái cơ của chúng ta nó có cái lực, nhưng cái lực của cơ mà không luyện tập, thì cái lực đó rất yếu mấy con. Cho nên nói niệm lực là cái lực mạnh chứ không thể nói là cái lực yếu. Nhưng nói niệm lực của Tứ Niệm Xứ là lực của tinh thần, chứ không phải lực của cơ, mà cái người này họ lấy cái điều đó để họ bài bác Phật giáo, bài bác kinh sách Phật. Cho nên cái mục đích họ bài bác nói rằng Thầy giảng sai, không đúng nhưng không ngờ những lời Thầy giảng trong Đường Về Xứ Phật đều là những lời của đức Phật Thích Ca.
Như đức Phật Thích Ca nói không có thế giới siêu hình, chỉ là thế giới tưởng, thì điều đó căn cứ vào những cái bài kinh thật sự của Nguyên Thủy mà Thầy nói lại chứ Thầy không đặt ra một điều gì, khi mà người ta nói đức Phật cũng nói có cõi trời, cõi địa ngục, có này kia, thì không lẽ là đức Phật Thích Ca lại mâu thuẫn lại mình, trong khi cái bài kinh Pháp môn căn bản Ngài đã nói rằng cái thế giới siêu hình không có chỉ có thế giới tưởng, thì bây giờ Ngài lại nói có cõi trời này có cõi trời kia, thì dù Ngài có nói một ngàn cõi trời, một triệu cõi địa ngục đi nữa cũng vẫn là thế giới tưởng chứ. Tại vì Ngài xác định nó là thế giới tưởng thì dù Ngài có nói một ngàn lần đi nữa thì vẫn là thế giới tưởng. Bởi vì nó có cái thế giới tưởng đó thật chứ đâu phải không, nhưng thế giới tưởng đó là cái thế giới của mình tự lưu xuất ra, chứ không phải có cái thế giới khách quan ở bên ngoài, cho nên người mà nói rằng có thế giới siêu hình thì đã là phản lại với cái giáo lý, cái lời dạy của đức Phật Thích Ca.
(05:30) Cũng như người đó nói rằng Tứ Niệm Xứ là không phải là niệm lực, mà niệm lực thì ở cái cơ của chúng ta mới có cái sức lực chứ không phải Tứ Niệm Xứ. Thầy ví dụ như một môn võ học, nếu không có một môn võ học thì cái cơ của chúng ta không thể nào đánh như gió được, phải không? Cho nên nếu mà không có những môn điền kinh thì cái cơ đó không thể nào bay chạy nhanh nhẹn được, mà phải có sự luyện tập của cái pháp đó, cái môn điền kinh đó, mà các cái cơ của chúng ta mới có sự nhanh nhẹn và bay nhảy mới được, thì đó cái sự nhanh nhẹn và bay nhảy đó thì đó là lực. Đó là về cái lực của cơ bắp, của bắp thịt, nhưng cái lực của bắp thịt không thể nào làm chủ được cái sự sống chết của chúng ta. Cho nên cái lực của Tứ Niệm Xứ nó giúp cho chúng ta nó có một cái lực của tâm, cái tâm lực, cái tinh thần lực của chúng ta nó quá vĩ đại, nó quá siêu việt. Cho nên từ Tứ Niệm Xứ mà chúng tu thì chúng ta mới có một cái lực của tâm lực, cũng như bây giờ Thầy nói như hơi thở chúng ta đang thở, nhưng chúng ta nín thở thì không được, vậy mà chúng ta chỉ có cái tâm lực tức là cái ý muốn của mình thôi, muốn cho hơi thở ngưng để bỏ cái thân này đi, thì ngay đó cái hơi thở nó ngưng, cũng như cái ý thức chúng ta đang phân biệt, đang suy tư, đang nghĩ mà nó bảo: “dừng, diệt ý thức đi”, thì ngay đó tầm tứ nó diệt tức khắc nó ngưng hoàn toàn, lỗ tai nghe đang nghe âm thanh như thế này, mà cái tâm lực đó nó sẽ làm cho cái lỗ tai không còn nghe, âm thanh lớn như trời sét nó cũng không nghe, tiếng bom nổ nó cũng không nghe, thì chúng ta phải thấy nó có cái lực chứ, mà cái lực đó nó đâu phải là cái cơ làm, cái cơ của chúng ta làm không được, mà đó là lực của tâm, nó vô hình mà nó rất mạnh.
Mà từ đâu mà chúng ta luyện tập có cái lực đó, có phải Tứ Niệm Xứ không? Do Tứ Niệm Xứ mà nó có, vì vậy mà đức Phật xác định Tứ Niệm Xứ là niệm lực. Cho nên trong bài kinh Ngũ lực nếu mà ai không học kinh Ngũ lực thì người ta không biết lực. Đức Phật có xác định năm cái lực chứ không phải một lực, thì năm cái lực đó là: Tín lực, Tấn lực, Niệm lực, Định lực, Tuệ lực.
(07:51) Mà mỗi một cái lực thì đức Phật xác định cho nó mà, nếu muốn tu tập được cái lực đó thì phải tu tập cách gì? Tu tập cái pháp nào?
Cho nên nói về Tín lực thì đức Phật nói Tứ bất hoại tịnh, phải tu pháp Tứ Bất Hoại Tịnh.
Mà nói về Tấn lực thì đức Phật nói phải tu Tứ Chánh Cần, chứ không thể nào tu Tứ Bất Hoại Tịnh mà gọi là Tấn lực được.
Mà nói Niệm lực thì phải tu Tứ Niệm Xứ, thì cái niệm lực, cái tâm lực của chúng ta mới có, chứ không thể nào nói tu Tứ Bất Hoại Tịnh mà có được.
Mà nói Định lực thì phải tu Bốn thiền, tức là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền… mới có Định Lực. Nếu mà tu ngoài cái pháp môn này thì không có định lực, vì vậy mà chúng ta tu cái Bốn thiền này nó mới có cái định lực, vì cái định lực đó mà nó mới làm chủ được hơi thở chúng ta, bảo nó ngưng là nó ngưng, phải không? Chúng ta thấy rất rõ đức Phật đã xác định được cái pháp môn của mình rất cụ thể.
Mà nói Tuệ lực thì đức Phật nói Tứ Diệu Đế: Khổ, Tập Diệt, Đạo. Nếu mà cái trí tuệ của chúng ta có một cái lực, là chúng ta ngay khi biết cuộc đời là khổ là chúng ta đã nhàm chán nó liền rồi, vì chúng ta chưa có lực thì chúng ta biết khổ mà chúng ta chưa có bỏ được, còn nếu có lực là chúng ta ngao ngán quá. Thực sự thì đời khổ thật, nhưng mà chúng ta biết nhưng mà chúng ta chưa có lực, phải không? Cho nên vì vậy mà chúng ta cứ lằng nhằng mà không có dứt bỏ được, không có cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia sống không nhà cửa, không gia đình như đức Phật được. Cứ lo nghĩ rằng mình sống đây rồi rài đây, mai đó du Tăng khất sĩ như vậy, rồi lạnh, rồi lẽo, rồi không, mưa gió lấy cái gì mà sống được có ba y một bát như thế này làm sao sống. Mình cứ lo lắng, lo lắng ngờ ngợ mình không dám buông bứt. Vì vậy cho nên mình cứ lằng nhằng rồi vợ rồi con, rồi cha rồi mẹ rồi anh em, không biết giải quyết cách nào để cho mình dứt khoát, để cho mình được giải thoát hoàn toàn.
Do như vậy mình mới thấy rằng nếu một cái người mà có lực ở trong cái Tuệ lực, cái sự hiểu biết, cái trí tuệ hiểu biết của cái lực này thì ngay Khổ Đế, ngay cả cái nguyên nhân mà tập hợp những cái khổ, rồi ngay cả cái Niết bàn, cái cảnh giới, cái trạng thái mà giải thoát, ngay cả cái Bát Chánh Đạo tám cái nẻo Đạo Đế, ngay cả tám cái nẻo để vào đạo thì người đó đã có một cái Tuệ lực rồi, thì cái người đó ngay đó là họ đã chứng đạo liền tức khắc. Khi đức Phật sáng nói, chiều là họ đã chứng đạo rồi, nếu cái người có Tuệ lực.
Còn chúng ta sáng nghe chiều đâu có chứng đạo. Phải tu, tu hết sức mà còn bảy ngày chưa chứng, rồi bảy tháng chưa chứng, mà chỉ đến cuối cùng bảy năm chúng ta mới chứng, thì đủ biết chúng ta chưa có Tuệ lực, chưa có Tuệ lực chút nào. Nếu mà Tuệ lực chúng ta có thì sáng nghe thì chiều chúng ta đã chứng quả A la hán, chúng ta bỏ hết, đức Phật nói không sai đời khổ, thế mà chúng ta biết khổ nhưng bỏ không được. Còn cái người mà có Tuệ lực nghe biết khổ là ngay người ta bỏ hết, người ta thấy không còn muốn níu nó chút nào hết, đó là những cái bậc người ta sắp sửa chín mùi rồi.
(10:55) Cho nên ở đây người ta khéo lý luận rồi chúng ta không đủ cái sức tu tập cái trí tuệ chúng ta sẽ bị người ta che khuất đi, cũng như từ khi mà cái bộ sách Đường Về Xứ Phật chưa ra đời, thì những gì mà Đại thừa nói chúng ta không đủ trí tuệ mà phán xét cái sai của nó ở trong đó, cho nên chúng ta cứ tin tưởng rồi chúng ta cứ theo mà nỗ lực tu tập, nhưng cuộc đời của người này, rồi đến cuộc đời của người khác, từ ông cha của chúng ta cho đến con cháu và thế hệ mai sau, nhiều người sau nữa, cuối cùng chúng ta chẳng đi đến đâu, và càng ngày càng chồng chất thêm sự mê tín biến Phật giáo thành thần giáo, biến Phật giáo thành một cái tôn giáo mê tín. Mà bây giờ chúng ta nhìn lại, chúng ta mới giật mình mới thấy được cái sai của nó. Nếu Đường Về Xứ Phật không ra đời, chắc chắn chúng ta khó thấy được cái phi đạo đức của những giáo pháp này.
Nó ra đời là vì nó có đủ trí tuệ phán xét được, nó mới ra đời để giúp chúng ta có cái nhìn đúng. Và bây giờ hiện giờ người ta muốn đốt sạch cái bộ sách này để làm cho mọi người không còn thấy được cái sai của nó nữa. Thì thử nghĩ người ta sẽ làm như thế nào, người ta sẽ có những cái lý luận mà với cái trí tuệ của những người khác không thể nào so sánh được, như cái lý luận lúc nãy mà một con chó từ đống rác nhảy ra, chúng ta bảo rằng đống rác có cái lực thì chắc chắn chúng ta sẽ nghĩ rằng lời nói đó không đúng, mà như vậy rõ ràng người ta chứng minh như vậy người ta bảo rằng Tứ Niệm Xứ không có lực, mà chỉ có lực là nơi cơ bắp của chúng ta mà thôi, nghĩa là chúng ta phải nỗ lực tinh tấn tu. Nhưng mà không ngờ Tứ Niệm Xứ lại là một pháp môn có một cái lực vi diệu nếu chúng ta luyện tập đúng nó. Cho nên ở đây chúng ta phải thấy rằng những cái lời của đức Phật xác định là những cái lời rất đúng nếu không thì chúng ta sẽ nhầm lẫn và chúng ta sẽ phỉ báng đức Phật. Và khi phỉ báng đức Phật xem như là không đúng, thì lúc bấy giờ chúng ta không muốn đi để mà giải thoát.
(13:04) Những băng mà Thầy giảng hầu hết là trong cái giai đoạn này, thì mấy con phải cẩn thận cho những người khác nghe. Thật sự ra phải chọn những người xứng đáng mà cho nghe. Thứ nhất là không tạo cho họ tội vì họ nghe họ bị kiến chấp, thì tức là họ sẽ nổi sân lên mà tự họ làm khổ. Cho nên có một người Phật tử gửi một bức thư đến Thầy, khi họ ở tại thiền viện của Hòa thượng thì họ thấy rõ ràng, khi một cái điều gì trái ý với quý thầy tu mặc dù họ ngồi hai ba tiếng đồng hồ, họ ngồi thiền được hai ba tiếng đồng hồ nhưng mà trái ý thì thấy tâm tham, sân, si họ vẫn còn bột phát hiện rõ ràng, như vậy họ mới nghĩ rằng, họ mới gửi thơ đến nghĩ rằng, người mà tu mà được hai ba tiếng đồng hồ ngồi như vậy không phải là dễ dàng, chịu đau chịu đớn rất lớn là có tâm tha thiết tu hành, thế sao tâm tham, sân, si không hết mà lại giận?
Khi thí dụ như chẳng hạn là họ đã đọc ngay một trang sách của Thầy thôi là họ không dừng được, họ phải ném cuốn sách Thầy xuống đất liền tức khắc, thì chứng tỏ rằng họ không bình tĩnh được, như vậy trong khi họ ngồi tu hai ba tiếng đồng hồ đó cái kết quả ở chỗ nào? Tại sao họ không bình tĩnh để đọc suốt một cuốn sách của Thầy viết, mà họ không đủ can đảm để mà đọc hết, như vậy rõ ràng là Kiến kiết sử hay là kiến chấp của họ quá sâu dầy.
Cho nên sự tu tập là sự giải thoát, còn trái lại một người tu tập mà xả tâm dù là họ chửi mắng mình, mình vẫn bình tĩnh không giận hờn, thì như vậy mới biết rõ ràng là mình biết xả tâm. Còn nếu người ta mắng chửi mình, người ta mạ nhục mình, người ta nói nặng nhẹ mình mà mình không bình tĩnh, mình vừa đọc là ném, thì như vậy rõ ràng là mình có hết sân, hết phiền não chưa? Như vậy chính tỏ mình tu mà kết quả đi về đâu đây?
Cho nên cái người viết bức thư cho Thầy họ đã chứng kiến được điều này, và vì vậy họ nói như thế này: ở trong Chúng có những điều kiện gì mà xích mích hoặc trái ý họ đến thưa với Hòa thượng thì hòa thượng nói rằng: người nào thưa là người đó có lỗi, cho nên họ đành im lặng mà trở về để ức chế thân, ức chế tâm họ. Và như vậy họ có giải quyết được những gì đâu và cứ ôm ấp nén, càng nén càng chịu đựng, coi như ngoài mặt thì bình thường, nhưng bên trong nó là một lò lửa đang bừng cháy, đó là một cái sự ức chế tâm thực sự khi họ đã chứng kiến và họ đã tu tập ở nơi đó họ thấy, như vậy họ mới nghĩ rằng: nếu Vua nói không bao giờ Vua nói sai được và vì vậy thì nhân loại này quá thiệt thòi. Chúng ta thấy mà thấy một nhà Vua mà trong một lúc một nhà Vua ai dám nói một nhà Vua sai bao giờ, nhà Vua cái gì cũng đúng hết. Do đó thì con người sẽ khổ biết nhường nào, nhưng chúng ta nghĩ rằng đây là cái duyên thôi, nhân quả của chúng ta chưa đủ thì chúng ta phải gặp những điều không may, nhân quả chúng ta tốt, thiện đủ thì chúng ta gặp những điều may mắn. Trên bước đường tu học là một điều rất khó chứ không phải dễ, sống từ giới luật cho đến mọi thứ mà chúng ta không thực hiện được thì chúng ta không xả tâm được thì con đường thiền định chỉ là một danh từ suông chứ không thể nào đi đến được.
(17:00) Về cái khu đất mà các con dự định mua thì thầy cũng xin trả lời, nó phải về giấy tờ thì nó phải hợp và đồng thời nếu nơi đó có một cái ngôi Chùa cổ thì tốt là vì Nhà nước này không cho chúng ta lập một ngôi Chùa mới, chỉ những ngôi Chùa cũ chúng ta đến sinh hoạt, nhưng mà đã là ngôi Chùa cũ thì nó lại thuộc về Giáo Hội, mà thuộc về giáo hội thì các con sinh hoạt theo đường lối của đức Phật thì chắc chắn người ta không chấp nhận. Vì vậy thì cái khu đất của các con mà dự định mua, để thành lập một cái nơi để chúng ta tập chung thọ Bát Quan Trai tu tập để cùng nhau huynh đệ sách tấn nhau trên đường tu tập gieo duyên với Phật pháp. Thầy thiết nghĩ thứ nhất là giấy tờ cho hợp và người mua đất đó là phải người địa phương tại đó thì nó mới dễ, chứ người mà ở chỗ khác mà đến đó mà sinh hoạt thì không được. Vì vậy chúng ta chỉ ở những người ở nơi khác đến với một cái người tại địa phương đó là cái người chủ đất đó thì đó là mới hợp. Cái thứ hai là Giáo Hội ở đó người ta có, mình phải dò ý của họ trước, nếu ở đây thành lập một cái đạo tràng cho chúng tôi những người cư sĩ thọ Bát Quan Trai ở đây, thì Giáo Hội có giúp đỡ hay không? Nếu không, chúng ta tập chung mà tu tập thì coi chừng Giáo Hội sẽ làm khó dễ chúng ta, chứ không phải là Nhà nước chính quyền đâu. Thầy nói thực sự Nhà nước chính quyền khi mà người ta đọc sách Thầy người ta rất thông cảm người ta rất hiểu, còn trái lại Giáo Hội không thông cảm đâu họ sẽ làm cho các con bất an, rồi chừng đó các con bỏ tiền ra rồi các con cũng chỉ để một khu đất hoang vu không lợi ích gì hết.
Cho nên phải suy nghĩ cho kỹ thứ nhất là nơi đó được Giáo Hội người ta hiểu biết đường lối tu tập người ta giúp đỡ, thì chúng ta hãy mua đất mà chúng ta xây dựng cất sang nhà cửa làm nơi tu tập của chúng ta, đó là tốt nhất. Còn nếu mà giáo hội không chấp nhận thì chúng ta cần thận, dè dặt. Chứ không khéo rồi chúng ta tập chung sinh hoạt một ngày hai ngày người ta không nói đâu. Nhưng một tháng hai tháng người ta để ý rồi thì rốt cuộc rồi Công an nó sẽ đến đó nó làm cho quý vị không có chỗ ở đâu, rồi mất công, rồi rốt cuộc rồi nó cũng không gì.
(19:32) Chúng ta tốt hơn hết là chúng ta nên sinh hoạt như thế này:
Chúng ta đông, chúng ta chia ra làm nhiều nhóm, mỗi nhóm chúng ta chia thành tổ. Một nhóm ví dụ như chúng ta có chín người thì chúng ta chia làm ba tổ, một tổ vậy ba người, tổ tam tam. Rồi khi mà trong ba người này, trong gia đình mỗi người, bị gì trong ba người trong cái tổ này là có ba cái gia đình, thì cái gia đình nào mà thuận tiện nhất thì chúng ta tập chung về đó chúng ta trong một cái ngày thọ Bát Quan Trai, nghĩa là vợ chồng con cái trong cái nhà cái người đó đó, họ vui lòng chấp nhận thì chúng ta về sinh hoạt trong đó ba người thì chắc chắn Nhà nước không ai làm động mình được mà Giáo Hội cũng không quậy phá mình được. Chứ mình tập chung từ mười người, mười mấy người thì sớm muộn rồi họ cũng đến khi mình đang tu tập thọ Bát Quan Trai như thế này yên tĩnh, bắt đầu Công an vô cầm giấy đến hỏi cái người mà thường trú tại cái địa điểm đó, làm cho họ khó khăn vô cùng, rồi trong khi đó họ yêu cầu giải thể không có được về đây tập chung nữa. Thì đó là những cái điều mà các con suy nghĩ kỹ để không rồi sẽ tiền mất mà nó sẽ không có lợi ích gì cho mình.
Còn các con chia làm ba người, tại vì một mình mình không tự sách tấn cho mình nổi đâu, mình tu tập về con đường của Phật pháp này rất khó. Ba người mình có thể mình sách tấn được. Trong một cái khu nhà của mình, mình có thể có ba phòng hay hoặc là mình có thể cất một cái nhà nhỏ trong một khu đất cũng như là ở đồng quê như thế này, trong cái khu đất của mình mình hai cái nhà hay là ba cái nhà nhỏ, cái thất nhỏ vậy. Thì trong cái tổ của mình mình sẽ sinh hoạt anh em cùng nhau, mình cất những cái nhà nho nhỏ như tầm vông trúc tre của Thầy là đủ. Còn không thì trong một cái nhà mình cũng có thể sinh hoạt được, nếu mà trong nhà vợ con đều hòa thuận chấp nhận con đường tu thì mình sẽ sinh hoạt ở đó được. Còn nhà nào mà vợ con không đồng ý, thì đừng có đem cái sự tu tập này vào đó mà làm khổ cho gia đình mình, bạn của mình không nên. Chỉ có thuận thì mình mới đem được, vợ chồng đã có một cái hướng thiện, thì trong cái ngày thọ Bát Quan Trai cả vợ con mình cùng tu nữa chứ không phải riêng mình thì như vậy thì mấy con tổ chức thấy rất ổn, rất tốt đẹp. Và sự sinh hoạt đó coi như là sinh hoạt gia đình, vì vậy mà Nhà nước không đuổi mình được, Giáo Hội không làm gì được hết, chứ còn mình sinh hoạt đông hơn nữa thì không được.
Cho nên đối với Thầy thì cái tổ chức của chúng ta trong cái giai đoạn mà tu này là cái mục đích để tu tập giải thoát thật sự, tìm về con đường của Chánh pháp của Phật thật sự. Cho nên chúng ta không cần mà rềnh rang tổ chức như đạo tràng, đi chỗ này, chỗ nọ, chỗ kia. Ví dụ như các con về đây các con tụ tập, về như thế này thì các con phải tốn tiền rất nhiều, xe cộ rồi ăn uống đi tới đi lui cũng mệt nhọc nữa. Các con để cái thì giờ đó, các con chỉ cần gửi thơ, Thầy sẵn sàng chịu khó mà trả lời thơ mấy con khi gặp khó khăn. Trừ ra khi mà Thầy trả lời mà mấy con về áp dụng thấy chưa kết quả, các con tự đích thân vào đây ngay liền để được ở gần bên Thầy để được huấn luyện, để được tập luyện cho đúng cách để được xả những cái chướng ngại, mà các con đang gặp phải.
Thí dụ như vừa rồi thì Minh Trí gặp cái, Minh Trí là ở Phú Yên thì phải, cho nên vì vậy mà khi tu về hơi thở đó thì nó bị chướng ngại, nó bị căng thẳng cái đầu của mình, do đó thì có hỏi Thầy, Thầy bảo bỏ đừng có tu cái pháp hơi thở nữa, mà nó cứ hễ mình đi khinh hành vậy nó cũng tập trung vào hơi thở. Cho nên do đó vừa rồi Minh Trí có vào đây gặp Thầy ở lại đây ba bữa và đồng thời Thầy dạy cách thức tu Tứ Niệm Xứ để xả cho được. Vì đã từ lâu tới giờ mình tu nó quen rồi, cứ dùng hơi thở mà nhiếp tâm cho đến khi nó bị căng đầu căng óc của mình rồi. Cho nên bây giờ hễ vừa nhìn hơi thở là bị căng ngay liền, nó làm cho rất là khó. Do đó thì Thầy dạy cho cái pháp tu tập để cho nó không còn bị căng nữa.
Cho nên vì vậy đó khi mà ngồi mà tu Tứ Niệm Xứ thì mắt nhìn trời mây gió, không được để cho cái tâm nó tập chung vào hơi thở, không được nhìn vào hơi thở mà nhìn ra ngoài thì thấy nó an ổn. Do cái sự hướng dẫn thì Minh Trí sẽ phóng dật, cho tâm phóng dật nhưng mà không phóng niệm. Cái thứ nhất là chúng ta ngồi mà nó thanh thản, an lạc, vô sự thì tâm chúng ta nó sẽ định vô hơi thở, tức là nó quay vô hơi thở, tại vì từ lâu mình tu hơi thở mình bị ức chế nó, do đó mình làm tạo cho cái thế căng cái thần kinh của mình rồi. Cho nên bây giờ khi mà nó nhìn hơi thở thì nó bị căng, cho nên không thể nào để cho nó quay vào hơi thở được. Cái mục đích tâm của mình là nó định trên hơi thở là nó không phóng dật. Còn bây giờ mình phải cho nó phóng ra, nó phóng ra để cho nó không phóng niệm, chứ còn nó không phóng ra, thì nó sẽ bị phóng niệm, mà nó không phóng niệm thì nó sẽ bị tập chung trong hơi thở mà nó căng, cho nên bắt buộc tu Tứ Niệm Xứ là ngồi nhìn trời nhìn mây, nhìn gió, và nghe chim hót, rồi biết tâm được thanh thản, Thân-Thọ-Tâm-Pháp của mình không chướng ngại. Để rồi lần lượt tâm mình nó thanh tịnh được rồi thì sau khi đó cái thần kinh nó bớt căng, thì tự nhiên nó trở về nó biết hơi thở của nó.
(25:09) Thì lúc bấy giờ khi mà nó nhìn mây nhìn gió, thì Minh Trí có hỏi Thầy nếu mà con cứ tập như vậy thì nhỡ nó quen thì sao? Thầy nói thực sự ra thì đúng là con đã bị gặp khó khăn. Nếu mà một thời gian con tu tập mà nếu con ở ngoài đó, mà cứ tu tập như vậy thì con thành thói quen, mỗi lần mà tu Tứ Niệm Xứ là tâm con nó phóng ra các pháp nó không chịu, không phóng dật. Do đó thì con tu một thời gian, chừng nào mà con thấy rằng khi thỉnh thoảng con thử tâm con quay vô hơi thở coi trên đầu con có căng không, nếu không căng thì lúc bấy giờ con trở vào đây Thầy sẽ hướng dẫn cho con trở vào tâm không phóng dật, đó là phải đi từng bước, chứ bây giờ mà nói rồi con thấy con gom nó vô mà con bị căng trở lại thì nó nguy hiểm lắm. Con chỉ thử thôi, coi thử coi tâm mình nó tập trung trong hơi thở coi để tự nhiên nó vô biết hơi thở nó coi sao, mà nó biết hơi thở khoảng độ một phút hai phút nó không có gì thì con xả ra chứ con đừng tập trung nữa, con đừng có để cho nó ở trên hơi thở nữa, thì con cứ giữ bình thường mà tu. Thì tất cả những sự hướng dẫn này ý để giúp cho xả được cái chướng ngại.
Đó thì hôm nay Thầy nói như vậy để cho các con biết rằng khi mình tu, mình gặp những cái chướng ngại nào đó thì mình sẽ hỏi Thầy, và đồng thời khi viết thư Thầy trả lời ,mình về mình thực hiện được mình thấy mình thanh thản an lạc được thì thôi. Mà nếu không, thì các con sẽ vào đây gặp Thầy liền. Thì một người các con đi nó không tốn hao nhiều, các con tổ chức đi đông thì các con sẽ bị tốn hao nhiều lắm. Trừ ra khi nào có cái dịp gì thì các con về thăm Thầy thì các con về đông, còn nếu không có các con hãy lo tu tập tại nơi, nó không hao tốn và các con còn lo đời sống các con nhiều lắm. Thí dụ như chẳng hạn một ngày mà các con bỏ đi thì trong gia đình các con nó có những cái chỗ trống, cho nên vì vậy mà theo Thầy thiết nghĩ các con vì Phật pháp, vì đời khổ mà các con đi tìm đạo, các con mới bỏ, mới dành ra những cái thời gian của cuộc đời của mình, nhưng mà mình phải biết cái thời gian đó. Thay vì đến đây các con từ xa các con đến đây mệt nhọc trên những bước đường, thay vì ở tại nhà các con sẽ tu tập, cái thời gian đó nó sẽ thu ngắn lại cho các con rất nhiều, nếu mà các con tu đúng.
(27:37) Cho nên Thầy thấy hầu hết là người ta hay tổ chức hay đi nghe giảng pháp này kia nhiều, nhưng mà sự thực nó không bằng tu đâu các con. Nghe nhiều cũng như nghe hát mà thôi, chỉ có tu mới giải thoát, đọc nhiều kinh sách chẳng qua mình góp nhặt thêm những cái kiến thức để hiểu biết thôi chứ nó không giải thoát được, tốt hơn hết khi nghe rồi, khi hiểu rồi thì các con dẹp xuống hết chỉ lo ôm ấp mà tu để tìm lấy sự giải thoát thì nó mới đúng. Cho nên chẳng cần nghe nữa mà gặp tu mà gặp khó khăn, thì đã có Thầy, có Thầy thì thưa hỏi. Mà hiện giờ các con biết cái giao thông của chúng ta về tin tức thì nó nhanh chóng. Có khó khăn các con điện thoại hỏi xin cô Út cho con gặp Thầy liền, con gặp khó khăn trên bước đường tu thì ngay đó cô Út sẽ cho Thầy biết, Thầy sẽ đến nói chuyện với mấy con ngay điện thoại liền tức khắc, giải quyết con liền và đồng thời các con sẽ chỉ tốn một số tiền nhỏ của tiền điện thoại thôi đủ rồi, còn nếu nó thời gian mà nó chậm hơn thì các con viết một bức thư gửi vào cho Thầy để rồi Thầy trả lời mấy con. Đó là Thầy nói lên một cái lòng thương yêu của Thầy đối với các con, vì sợ mất thì giờ của các con, đời người chúng ta cái tuổi đời của chúng ta ngắn lắm mấy con, sợ e cái nghiệp lực của chúng ta nhiều quá, tạp khí chúng ta nhiều đời mà giờ phút chúng ta quá ngắn, chúng ta không đủ dẹp sạch thì chúng ta làm sao đi đến Niết bàn được?!
Nói Niết Bàn chúng ta thấy, nhưng mới thấy một phút một giây à, chứ chúng ta chưa sống được trong đó mà, nó còn xa lắm chứ không phải gần. Mà nếu sống được là cả một vấn đề mà chúng ta phải tu tập. Thanh thản - An lạc - Vô sự ai cũng biết được trạng thái đó, nhưng sống được với nó hai mươi bốn tiếng đồng hồ không phải dễ. Cho nên chúng ta cần phải còn tu tập, còn phải nhìn ra. Rồi các con là người cư sĩ, các con đâu được như quý vị tu sĩ, vì vậy các con còn đời sống còn phải làm, phải suy tư phải làm ra cuộc sống của mình nữa, phải nuôi vợ nuôi con nữa, chứ đâu thể nào là người vô đạo đức thiếu trách nhiệm bổn phận, cho nên các con còn nhiều lắm, nhiều công việc phải làm, và vì vậy mà các con cũng không bỏ cái thời gian để cứu mình thoát ra khỏi những sự đau khổ của kiếp đời của mình, sanh - già - bệnh - chết.
(30:02) Đó thì hôm nay Thầy nói như vậy để cho các con thấy được khi cần lắm các con mới về đây là vì các con không giải quyết được sự tu tập của mình, mới bỏ thì giờ mà về đây để mong nhờ Thầy gỡ những cái rối rắm đó, còn nếu không thì các con cứ trực tiếp thưa hỏi Thầy trong điện thoại, Thầy luôn luôn lúc nào cũng trực tiếp giúp các con. Số đệ tử của Thầy càng đông thì Thầy cực nhọc nhiều nhất, luôn luôn tiếp xúc. Cũng như hàng ngày các con biết Thầy hằng viết thơ trả lời cho mấy con liên tục, thơ từ chỗ này đến chỗ khác, rồi ngay cả trên email mà trên vi tính, trên mạng người ta gửi về cho Thầy, Thầy cũng luôn luôn lúc nào cũng phải đáp lời thơ.
Cho nên Thầy thiết nghĩ rằng cái thời gian của Thầy còn lại trong lúc này rất quý, quý là để giải quyết sự khổ đau của các con, quý là để viết lên những cái bài pháp đạo đức dạy con người có đạo đức. Thầy ước ao một điều nhất là cuối cuộc đời Thầy soạn thảo được bộ sách đạo đức làm người để cho mọi người đừng làm khổ cho nhau, nhưng vì trả lời thư của mấy con, không phụ sự thưa hỏi của mấy con thì thời gian Thầy mất rất nhiều, rất nhiều, vì không thể mà ngồi yên lặng mà viết được. Khi được bức thư của các con là Thầy biết nỗi lòng của các con đang gặp khó khăn những gì mới thưa hỏi Thầy, mà không trả lời cho các con thì Thầy không chịu được, vì lòng thương yêu của một vị Thầy đối với người đệ tử của mình. Làm sao khi con hỏi một điều khó khăn trên bước đường tu của mình mà làm ngơ không trả lời mà cứ ngồi viết đạo đức thì đạo đức gì đây?! Chính trả lời thơ của mấy con mới là nói lên đạo đức của một vị Thầy thương yêu đệ tử của mình hơn là đứa con của mình, như vậy mới xứng đáng chứ. Cho nên làm sao mà Thầy bỏ thì giờ mà ngồi viết sách được mà không trả lời, trừ ra nhận trả lời thư các con xong mới có được yên tĩnh mà ngồi viết.
(32:08) Thì như vậy các con biết rằng Thầy làm việc rất nhiều, làm việc vì các con, vì vậy mà các con đừng phụ lòng Thầy, mà hãy nỗ lực tu, tu để làm gì? Để giữ cho tâm mình thanh thản, an lạc và vô sự trước các ác pháp và các cảm thọ, khi những nhân quả đó đến với các con mà các con được an ổn, được thanh thản, không động tâm thì các con đã đền đáp ơn Thầy rồi. Chứ còn các con có đến đảnh lễ Thầy, có cúng dường Thầy tất cả những gì mà quý báu nhất trên thế gian này, không bằng là các con cúng dường Thầy tâm hồn thanh thản, an lạc. Đó là điều mà Thầy mong muốn nhiều nhất, đó là đạo đức nhất đời của loài người mấy con.
(32:56) Hôm nay vì vấn đề đạo tràng, về vấn đề khu đất của mấy con thì Thầy có những ý kiến, rồi các con tư duy suy nghĩ. Nếu có duyên tốt mà các con lập được thì có dịp Thầy về thăm khu nơi đó. Các con có vẽ cái bản đồ Thầy có nhìn xem thì cũng đẹp, cái khu đất như vậy cũng tốt, nhưng có cái điều kiện là sợ mình không yên tu mà thôi.
Cho nên các con hôm nay được gặp Thầy rồi các con trở về mà lo tu tập mà nghe lời Thầy, mình có thể tổ chức từng anh em nào mà gần gũi nhau thì ba người, bốn người, năm người là cao lắm mấy con, nghĩa là mình gần với nhau mình chọn lấy cái tổ của mình nho nhỏ ba người tổ tam tam hay tổ năm người, hay là tổ bốn người, thì như vậy đó thì do mà cái tổ chức nhỏ ra để cho mình sinh hoạt mà giáo hội không nhìn, rồi chính quyền không thấy, chứ con người ta thấy người ta cũng tìm cách người ta phá mình. Mình tu mình không làm rối trật tự, mình không phá trị an trong nước, mình chỉ tìm cái sự giải thoát, nhưng người ta có hiểu được mình đâu, người ta không hiểu, người ta làm động mình. Do như vậy thì các con khéo léo mình sử dụng mình tu tập, thỉnh thoảng lâu lâu thì các con có một cái chùa nào mà thuận duyên với mấy con, thì các con hẹn đến nơi chùa đó rồi các con gặp nhau rồi anh em trao đổi, những cái tổ rồi cùng tổ với nhau mà trao đổi, trên bước đường tu tập ai có những kết quả tiến bộ hơn đem những kinh nghiệm mình nói ra, để giúp cho những người khác người ta hiểu biết thêm để người ta tu tập cho đúng hơn, để người ta xả tâm.
(34:44) Nó thì như vậy nó có ví dụ như trong một tháng hoặc là ba tháng (một quý) thì tất cả các tổ mình sẽ tập trung lại thành một cái nhóm của mình, thì cái nhóm ví dụ như nhóm Nguyên Thủy II của mấy con, thì bắt đầu bây giờ trong cái nhóm đó nó có nhiều tổ, những cái tổ ba người, bốn người hay năm người tùy theo những cái người mà mình hợp với nhau, mình thành cái tổ để mình hợp ý hợp tình với nhau để mình tu tập, chứ còn nó nghịch ý nghịch lòng ở trong đó thì mình tu tập không được đâu. Cho nên mình phải tổ chức cho nó hợp với nhau. Rồi sau đó thì mỗi quý, nếu mà mỗi tháng mình không hợp với nhau một lần được, tức là mình họp nhóm đó, không hợp nhau được một lần để mà mình rút tỉa những kinh nghiệm với nhau, thì mỗi quý là ba tháng mình cũng phải gặp nhau một lần trong một nhóm Nguyên Thủy của mình, nghĩa là mình gặp nhau ở trong cái ngôi chùa nào đó, mà cái ngôi chùa đó thuận duyên với mình, họ biết mình tu cái pháp của Thầy thì người ta chấp nhận thì mình đến mình sinh hoạt trong chùa người ta thì Giáo hội không làm gì được, các con hiểu điều đó. Bởi vì giáo hội đã chấp nhận cái chùa đó rồi. Thì do đó giáo hội không có làm, vậy sinh hoạt coi như đó các con đến đó sinh hoạt dù một ngàn người đi nữa thì nhà nước cũng không có quyền, bị vì đó là tín ngưỡng mà chấp nhận người ta vào cái chùa rồi không có quyền đuổi người ta được, các con biết Thầy nói vậy các con hiểu không?
Đó là cách thức mình tổ chức khéo và mình tu tập rất tốt mấy con. Vì mình hợp nhau vậy lại bữa đó thì mình sinh hoạt, mình không phải thọ Bát quan trai ở đó, mà mình sinh hoạt, mình trao đổi kinh nghiệm với nhau. Trong cái tổ này, tổ thứ nhất cũng như thí dụ như mình nhóm Nguyên Thủy II, thì mình có tổ một, tổ hai, tổ ba, tổ bốn, tổ năm đi, mình tổ chức ra có từng tổ vậy. Bây giờ cái tổ một sau cái thời gian một quý là ba tháng mình tu tập như thế nào, cái người mỗi người ở trong cái tổ đó trình bày lên, rồi cái tổ hai trình bày lên, tổ ba trình bày lên, có những cái gì thắc mắc thì đóng góp lại mà mình giải quyết không được, thì viết bức thư gửi về Thầy. Thì đó là cái tổ chức để mình cho mình tu mình tiến bộ, mình sách tấn nhau mấy con.
Cái sự tu tập nào nó cũng phải có tổ chức như vậy. Rồi từ đó ví dụ như bây giờ có nhiều người người ta xin vô cái tổ cái nhóm của mình nữa thì mình cho, nếu mà cái nhóm của mình đông thì mình chia làm hai nhóm, nhóm Nguyên Thủy II, mà nhóm IIA hay là IIB, thí dụ bây giờ nó đông hơn thì mình chia làm hai nhóm, để cho nó dễ sinh hoạt, nó dễ hơn, chứ còn nó đông quá thì nó cũng động đó mấy con. Thì mình chia ra, mình khéo léo dù bây giờ mình chia ra bao nhiêu nhóm cũng được hết, nhưng mà Nguyên Thủy vẫn là cái gốc.
Bây giờ Nguyên Thủy II, Nguyên Thủy III ở tỉnh này Nguyên Thủy IV, ở tỉnh kia thí dụ vậy. Thì bây giờ trong cái nhóm Nguyên Thủy II này mình có thể chia ra làm Nguyên Thủy gì, Nguyên Thủy A, Nguyên Thủy B, phải không. Bởi vì nó là Nguyên Thủy II rồi thì ở tỉnh khác người ta Nguyên Thủy III hay ở tỉnh khác Nguyên Thủy IV rồi thì mình không thể nói là Nguyên Thủy Một, Hai, Ba trong này được nữa mà mình chỉ được A, B, C. Phải không, các con thấy như vậy là trong cái nhóm mình mình chia ra A, B, C rồi trong cái nhóm Nguyên Thủy Ba người ta cũng chia A, B, C thì người ta đâu có trùng với mình đâu. Đó là cách thức mình tổ chức cho nên Thầy nhắc nhở mấy con trong cái sự tổ chức ra thì để cho mình tu tập mà mình chia nhỏ ra mình tu tập thì kết quả rất lớn, chứ còn nếu mà tập chung mà đông quá các con tu nó bị động nhau hết mà không tu được. Cho nên chúng ta chỉ sinh hoạt mà coi như giải trí chơi vậy chứ còn không kết quả, còn chia nhỏ như vậy chúng ta thấy kết quả lắm, chúng ta đi tìm cái sự giải thoát chứ không phải đi tìm cái giải trí. Đây là tu tập là đi tìm cái sự tu tập thực sự, giải thoát thật sự trong tâm hồn, giúp cho tâm hồn chúng ta thanh thản, an lạc và vô sự, cho nên phải tổ khéo léo. Bởi vì Thầy bao nhiêu công việc chứ lẽ ra thì trong cái sự tổ chức này thì Thầy có ghi lại những cái điều tổ chức để cho mấy con theo đó mà tổ chức, nhưng Thầy gợi ý mấy con cũng biết tổ chức rồi.
(38:51) Do như vậy thì hôm nay về vấn đề mà mua đất hay không mua đất thì điều đó các con cũng tư duy suy nghĩ, đúng thì các con mua đất càng tốt để cho mình có cái vị trí, cái địa thế mình sinh hoạt, mà nếu tốt được như vậy thì có dịp mà Thầy về thì về cái nơi mà các con để mà tạo ra sinh hoạt, thì mình có thể sau này mình đưa một vị tu sĩ nào mà người ta giới hạnh nghiêm chỉnh người ta đến ở khu đất để người ta làm Trụ trì ở đó, để người ta sẽ làm cái nơi tu tập tốt cho mình, thì cái điều đó rất hay. Ví dụ như bây giờ các con ngoài đó cần một bậc A-la-hán để mà hướng dẫn cho nhóm của các con. Mà ở đây Thầy có một người tu chứng quả A-la-hán Thầy sẽ cho về đó, nếu mà các con có cơ sở, còn mấy con không có cơ sở thì đưa về đó làm sao vị đó dám ở chỗ này, phải không các con? Cho nên nó có cái điều kiện mà nếu được thì các con xúc tiến mà làm, mà nếu không được thì các con đình chỉ lại. Vì dù mình có muốn cũng không được đâu, họ sẽ phá. Nó thì những cái điều kiện đó, còn nếu mà thuận tiện thì biết đâu chừng mình có đủ duyên mình có những cái bậc mà chơn tu, người ta sẽ đến địa phương của mình trực tiếp người ta hướng dẫn cho mình dễ dàng hơn, thì nó đỡ Thầy hơn, đó là những cái điều kiện.
(40:08) Cho nên đối với Thầy, thì cũng phải bằng trí tuệ, mình chưa đủ duyên mà mình muốn được sớm không được. Đó, đó là những cái điều kiện. Thầy nói một cái ví dụ như Kim Tiên nó ở bên Mỹ, nó là một cái người Việt mà ở bên đó thì sau khi được pháp của Thầy thì nó nỗ lực nó tu tập, nó nghĩ rằng một ngày nào đó sau khi mà nó gom tất cả các cái vốn của nó thì nó sẽ mua đất, rồi nó mở một cái Tu viện, ở bên Mỹ thì nó dễ dàng hơn bên chúng ta nhiều lắm, chỉ có tiền mua đất muốn mở muốn cất chùa gì nhà nước bên đó họ cũng cho phép mình hết. Miễn là mình đóng thuế nhà nước là thôi, chứ không có gì hết. Do đó thì nó sẽ mở cái Tu viện cho người Việt ở bên đó người ta sẽ tu tập theo giáo pháp của Thầy, và đồng thời nó yêu cầu xin Thầy sẽ cho một cái người tu chứng quả A-la-hán về đó để giúp đỡ người ta tu tập, và nó sẽ bảo lãnh cái người đó sẽ qua bên đó ở luôn bên đó để hướng dẫn tụi nó.
Thì nó có tâm nguyện Thầy nói ở bên đó thì các con dễ rồi về giấy tờ xin phép tắc nhà nước bên đó người ta đối với cái sự tu tập dù là tôn giáo nào là người ta cũng cho chứ không phải là riêng Phật giáo đâu, người ta rất dễ, nhưng mà điều kiện là mấy con có đống thuế người ta hay không thôi. Thí dụ như bây giờ cất cái Tu viện đó, thì như vậy các con phải bỏ tiền ra mua đất thì nhà nước người ta bán đất, rồi bắt đầu cất cái Tu viện xong rồi, thì điện nước này kia đều các con cũng phải đóng thuế cho người ta hết chứ không phải là người ta cho mấy con chút nào hết đâu. Tất tất mọi cái đều là phải thuế này kia tất cả hết.
Đó thì như vậy thì lúc bây giờ đó thì các con, Thầy có đủ duyên thì Thầy sẽ cho cái người qua để giúp các con. Thì nó hy vọng rằng ngày nào đó nó xong rồi thì Thầy sẽ cho người đến đó trợ giúp cho chúng nó tu tập.
(42:03) Thì ở đây Thầy nghĩ rằng nó không phải là chúng ta hiện giờ mà lúc nào chúng ta cũng có những bậc A-la-hán. Bởi vì bậc A-la-hán là phải bậc…
(42:13) Thì các con nỗ lực tu tập để cho mình giải thoát những cái bước đầu. Thì cái bước đầu các con biết rằng chúng ta ly dục ly ác pháp, chúng ta sống đúng giới hạnh tập thọ Bát quan trai là những bước đầu, để tâm chúng ta bất động được trước các pháp.
Bước thứ hai là bước thiền định, bước đầu là bước giới luật, bước thứ hai là bước thiền định. Bước thiền định nó có khó khăn là khó khăn ở trong mười tám cái loại tưởng mà thôi, nghĩa là làm sao chúng ta vượt qua mười tám cái loại tưởng. Cũng như bây giờ mà cái khó khăn của chúng ta là ở cái giai đoạn đầu này làm sao mà chúng ta vượt qua các cái ác pháp và cái lòng ham muốn của chúng ta. Nghĩa là bây giờ mà các con thì vượt qua được cái lòng ham muốn, tức là ly dục đó và các ác pháp thì các con vượt qua được cái này đó, thì các con đã bất động tâm.
Rồi đến cái giai đoạn thứ hai là định đó, thì các con phải vượt qua mười tám cái loại tưởng, thì nó cũng không khó như chúng ta vượt qua cái dục là cái ác pháp, mà tạo cho chúng ta phiền não tham, sân, si, và các cảm thọ đau đớn ở thân của chúng ta. Đó thì chúng ta vượt qua được cái này, là đầu tiên chúng ta phải vượt qua được cái ý thức đau khổ này, ý thức dục, ý thức ác pháp, chúng ta phải vượt qua.
Rồi kế đó thì chúng ta vượt qua cái tưởng, ý thức chúng ta không còn chủ động điều khiển ở trên cái tưởng, mà chúng ta từ ở trong cái tưởng thức của chúng ta phải vượt qua tất cả những cái tưởng của nó. Cũng như trong ý thức thức của chúng ta bây giờ ý thức chúng ta có thiện và có ác và có dục có ham muốn, cho nên trong ý thức chúng ta phải dùng ý thức để mà phải vượt qua, đến khi chúng ta phải lọt vào tưởng thì chúng ta phải sử dụng tưởng để mà vượt qua, các con thấy nó khó. Bởi vì tưởng nó giống như là chiêm bao, mà trong giấc chiêm bao là chúng ta phải thực hiện, một cái điều mà chúng ta phải sống y như ý thức của chúng ta hàng ngày. Cho nên mỗi mỗi ở trong đó có trạng thái dục tưởng của nó xảy ra, thì chúng ta đều là phải xả, cũng như là chúng ta xả cái ý thức ác, ham muốn của chúng ta vậy. Cho nên nó cũng không khác gì như chúng ta đang tu như vậy, nhưng mà nó là cái thế giới siêu hình, nó vô hình rồi nó không có hình tướng nữa, nó nằm ở trong cái siêu hình rồi.
Cho nên khi mà chúng ta đóng lại mắt tai mũi miệng thân ý chúng ta thì chúng ta toàn diện chúng ta sống trong cái thế giới đó. Cho nên chúng ta phải ly sạch cái thế giới đó, thì ly tất cả những cái ác pháp của thế giới đó, thì chúng ta mới hoàn toàn mới làm chủ được sự sống chết của mình. Đó nó khó là khó chỗ đó, mà nếu mà khi mà ly được cái thế giới tưởng rồi thì bắt đầu chúng ta nhập tứ thiền, chúng ta làm chủ được sự sống chết của mình và thực hiện Tam minh để quét sạch những cái mầm tái sanh luân hồi của chúng ta.
(45:02) Đó là cách thức con đường đi nó cụ thể rõ ràng mà chúng ta phải qua hai cái đoạn đường khó khăn nguy hiểm nhất.
- Đoạn đường thứ nhất là cái đoạn đường ý thức của dục và ác pháp.
- Đoạn đường thứ hai là tưởng thức của dục là ác pháp của nó.
Cho nên chúng ta phải trải qua hai giai đoạn tu tập giai đoạn thứ nhất là giới luật, giai đoạn thứ hai là định.
- Còn cái Giai đoạn thứ ba là Tuệ để thực hiện cái quả của nó của cái giai đoạn của Ý thức và của giai đoạn Tưởng thức, tức là cái quả của nó là cái tuệ của Tam minh.
Đó thì các con thấy Giới- Định- Tuệ chúng ta đầy đủ, mà chúng ta biết rõ từng chặng chúng ta phải đi. Vì vậy chúng ta không lầm lạc con đường tu của chúng ta, không làm lại, cái ý thức chúng ta làm chủ được thì chúng ta mới có thể làm chủ được tưởng thức, chúng ta mới ly được các trạng thái dục tưởng. Còn nếu mà ý thức chưa làm chủ, chưa xả ly được dục, chưa xả ly được ác pháp thì tưởng thức chúng ta không thể nào làm chủ được. Đó là phương pháp tu hành của đạo Phật cụ thể và rõ ràng để giúp chúng ta thấy…
(46:10) Mà nếu chúng ta không cố gắng, không thực hiện được thì quá uổng một cuộc đời của chúng ta. Thầy thấy trong mấy con có người tóc đã bạc trắng hết rồi, thời gian còn ngắn lắm! Cho nên chúng ta phải dồn hết công phu tu tập, từng chút, từng giây, từng phút, từng giờ. Đây là sự khích lệ của Thầy để các con còn kịp lúc mà cứu mình chứ mất thân rồi, biết chúng ta có được thân nữa không. Mặc dù chúng ta đã gieo duyên đúng đó, biết rằng khi mà cái nhân chúng ta gieo thì chúng ta không mất, nhưng mà đời sau nếu mà được sinh lên làm người, rồi lớn lên để được biết phật pháp mà tu hành thì các con phải trải qua một thời gian khá dài, còn bây giờ trong cái thời gian này còn lại năm ba tháng, mười tháng, một năm, hai năm, mười năm nữa, chắc chắn các con có thể sống mười năm, mười lăm năm, hai chục năm nữa được. Thế rồi trong cái khoảng thời gian này là cái thời gian quý báu nhất của các con. Cho nên trong kinh Phật thường nói:
“Tấc bóng thời gian một tấc vàng
Tấc vàng tìm được không gì khó
Tấc bóng thời gian khó hỏi han”
Nhìn thấy tóc của con bạc Thầy biết thời gian còn lại của các con quý hơn vàng, hơn bạc, hãy ráng mấy con! Thầy không làm sao kéo lại cái thời gian cho mấy con trẻ được nữa. Mà giúp chỉ an ủi, sách tấn, khuyên lơn các con bỏ hết đi. Bỏ có nghĩa là phải bỏ trong đạo đức, chứ không phải là các con làm cho gia đình mình khổ thì không được, phải bỏ đúng cách đạo đức làm người, không làm khổ mình khổ người để rồi nỗ lực tu hành.
Ví dụ như: “Các con của con lớn khôn rồi, bây giờ ba chỉ còn lại thời gian ngắn, ba nỗ lực tu hành các con hãy cố gắng làm cho xứng đáng con của ba, làm xứng đáng là một người con, nếu mà các con làm một điều gì ba buồn phiền tức là con cản trở con đường của ba tu”. Thì các con hãy khuyên các con của con như vậy để cho nó đem hết sức lực nó làm cho xứng đáng, làm để nuôi cuộc sống nó, để giúp gia đình nó, để cho các con được yên ổn mà tu tập, chứ nếu không gia đình nó không yên, nói các con cũng không yên, làm cho các con không yên tâm mà tu tập, thì các con hãy đem những cái lời đạo nghĩa, đạo lý này mà khuyên lơn các con của mình khi nó là những đứa con đã trưởng thành. Chứ không khéo nó cứ dựa lưng vào cha mẹ, bây giờ còn cha mẹ, mỗi mỗi cái gì cũng về nói cha mẹ giúp, điều đó là một cái điều không đúng. Dạy cho nó phải tự lực, tự lực từng đó. Thầy có nghe có một nhà hiền triết ở bên Pháp, khi nhà Vua đến phong tặng cho ông ta vàng bạc châu báu thì ông từ chối, ông nói ông không nhận. Nhà vua nói ta tặng này để sau này cho con cháu của ông, thì ông nói: con cháu của tôi để cho nó tự lực, chứ tôi nhận cái này thì nó không tự lực, nó sẽ trở thành là người xấu.
Đó mấy con nhớ! Phải khuyên con của mình phải tự lực giúp vươn lên trong cuộc sống, để thay thế mình, đừng có đương tựa vào mình mà sống, phải tự làm lấy. Do đó con mình nó xứng đáng. Vì vậy cho nên mình mới an tâm mà tu hành giải thoát.
Chứ mỗi mỗi đều là đến tuổi mình thì coi như là mình thấy nó luôn luôn lúc nào cũng còn trẻ, còn thơ do đó mình sợ nó hư hao, nhưng lở không chừng mình chết rồi cái hư hao đó về ai? Chúng ta phải xem thấy như mình đã chết rồi, và vì vậy mà con mình nó trở thành một người lớn, tự nó lèo lái trên cuộc sống nó được rồi. Cho nên lòng thương của mình phải đặt đúng hướng mà không đặt đúng hướng thì mình phí thời gian của mình còn lại, mình cứ lo cho nó, mà cuối cùng thì có lo được những gì khi mà nhân quả đã chi phối.
(50:09) Hôm nay thầy khuyên lơn mấy con cố gắng mà thực hiện, còn những người mà các con còn trẻ tuổi, có được duyên nghe những lời Thầy dạy, phải thấy rằng không có nghĩa là người già thì chết mà người trẻ không chết đâu mấy con. Hôm nay chúng ta đang gặp nhau nhưng mà ra đường tai nạn giao thông tức thì chúng ta sẽ mất mạng tức khắc mấy con, chừng đó phật pháp không còn cho chúng ta tu kịp nữa. Cho nên vì vậy chúng ta nghĩ rằng cuộc đời này là vô thường, mọi sự vô thường, nay còn sống mai chết vô chừng.
Vì như vậy mà đức Phật trong kinh Phật dạy chúng ta hãy quán niệm chết. Có người viết thơ hỏi Thầy trong kinh Phật tại sao bảo chúng ta quán niệm chết để làm gì? Và niệm chết có nghĩa lý gì trong cái sự tu? Vì chúng ta quán niệm chết hôm nay sống ngày mai chết không chừng, do đó chúng ta mới năng nổ, mới siêng năng, mới chịu cực khổ, mới năm hơi thở, mới đi kinh hành hai mươi bước mới nổi, chứ nếu mà chúng ta không thấy niệm chết tức là chúng ta sẽ không tu tập nổi pháp môn này, các con thấy chưa?
Cho nên vì vậy mà đức Phật dạy chúng ta, biết từng tâm lý của chúng ta, thấy mình đang sống như là sắp chết vì vậy mà mình phải nỗ lực chứ, mình phải nỗ lực. Người già chúng ta cũng thấy, mà người trẻ chúng ta cũng thấy được vô thường đó, cho nên phải ráng, ráng hết mình! Vì chánh pháp đã đến với mình, vì đạo đức cứu mình thoát khổ, thì mình hãy cứu mình bằng những hành động, bằng những ý chí, bằng những nghị lực, bằng tự mình thắp đuốc lên mà đi, không ai đi được con đường này cho mình.
(51:47) Thì khi được phật pháp dù nam hay nữ chúng ta đều bình đẳng như nhau, nam cũng tu tập được, nữ cũng tu tập được, chứ không phải như người ta nghĩ, trọng nam khinh nữ. Trong kinh sách của Thầy, Thầy đã phá vỡ cái tư tưởng trọng nam khinh nữ. Thậm chí như kinh Giới mà nói rằng đức Phật đã chế Bát kỉnh giới bắt buộc cái người nữ dù chúng quả A-la-hán phải đảnh lễ một vị tỳ kheo mới vào tu, Thầy thấy bất công, điều đó bất công. Một người nữ mà thực hiện được chứng quả A-la-hán là một dày công vô lượng chứ đâu phải ít mới chứng được cái quả này. Thế mà một người mà chưa tu ra gì, mà một người nam mà chưa tu ra gì, mới có vào xuất gia thọ giới, chưa hành được điều gì mà bắt một người nữ chứng quả mà đảnh lễ thì điều đó là Thầy thấy quá sai.
(52:39) Bởi vì khi mà một người nữ mà chứng quả A-la-hán thì họ đồng như một người nam chứng quả A-la-hán họ cũng giải thoát như nhau. Cho nên đối với Thầy thì người nữ cũng như người nam đều là con người, người nữ cũng trí tuệ như người nam, người nam cũng trí tuệ như người nữ. Nhưng nghiệp người nữ có nặng hơn là vì phải mang nặng đẻ đau, là vì ôm ẵm con nuôi, còn người cha có cực khổ nhưng cực khổ nhưng cực khổ ít hơn người mẹ. Vì vậy mà luôn luôn chúng ta thương mẹ là vì biết người mẹ cực khổ hơn người cha nhiều. Nhưng người cha đâu phải sung sướng, nỗi lo lắng của người cha cũng đâu phải nhỏ. Cho nên:
“Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Là người chúng ta phải hiểu được những điều này, vì vậy chúng ta bao giờ quên công ơn cha mẹ của mình, nhưng chúng ta cũng phải hiểu người mẹ là cái người chịu cực khổ, vì vậy mà chúng ta phải xem người mẹ phải bình đẳng như người cha, không được xem người cha trọng mà khinh người mẹ, không được khinh người nữ mà trọng người nam mà phải thấy bình đẳng xem như nhau, mới đúng là đạo đức làm người.
Hôm nay mấy con được nghe Thầy thì từ đây về sau người nữ đừng vì tự ti mặc cảm mình là người nữ rồi mình coi người nam là trọng, mà mình cũng có đủ khả năng có đủ trí tuệ. Đứng trong xã hội người nữ người ta cũng học hành giỏi, người ta cũng làm nhà bác học, người ta cũng sáng chế cũng nghiên cứu, cũng đem lại lợi ích cho nhân loại, thì người nữ cũng tu chứng quả A-la-hán, cũng giải thoát như người nam, trong đạo Phật đã chứng minh những thánh Ni cụ thể rõ ràng. Cho nên đừng tự ti mặc cảm vì vậy mình không nỗ lực tu tập. Vì vậy hôm nay đến đây được nghe những lời Thầy khuyên dạy các con phải cố gắng nam cũng như nữ, phải tu tập theo con đường của đạo Phật, để cứu mình thoát khổ.
Vậy thì bây giờ các con trong những cái giờ phút còn gặp Thầy ở đây, các con có thưa hỏi Thầy gì thêm, những gì cần thiết cho sự tu tập, còn nếu không cần thiết thì thôi, mà cần thiết cho sự tu tập của các con thì cứ thưa hỏi. Có đọc những lời dạy gì mà chưa hiểu thì cứ hỏi ngay đây, hỏi để mà Thầy giúp cho mấy con có cái sự hiểu biết thực tế và cụ thể trên con đường tu tập, vì con đường của đạo Phật là con đường cụ thể thực tế chứ không có mơ hồ trừu tượng, không có hứa hão, mà tu là tìm thấy sự giải thoát liền.
Con hỏi.
(55:26) Phật tử: Kính bạch Thượng Tọa, con là người ở phương xa đến, con ở Bình Định, con phát nguyện, con vô đây với Phan Rang, bao nhiêu lần con đến đạo tràng thanh tịnh,… con tu hành phát một cái duyên lành gì cũng là bị trở ngại,… khi con phát một công hạnh thì phiền não nó thì vẫn… thì chưa có khả năng tu hành nữa,… con đã quy y Tam bảo mấy năm rồi. Nay con cũng đến đây… tu tập công đức pháp Phật nhiệm màu, con cũng kính thưa Hoà Thượng chỉ dạy cho con, qua con nghe những cái pháp Tứ Niệm Xứ, là Hoà Thượng để tu pháp nào giải thoát, thì con cũng biết sơ qua chưa rõ được, thưa Hoà Thượng chỉ dạy cho con.
(56:44) Trưởng lão: Bây giờ Thầy chỉ dạy cho ngắn gọn, mà không có lý thuyết lòng vòng, con cứ về cứ nhớ hàng ngày, lúc nào nhớ được là nhớ nhắc: “tâm như cục đất không có tham, sân, si nữa”, con căn dặn tâm con bao nhiêu đó thôi, không có tu gì nhiều, cứ hàng ngày nhớ nhắc, lúc nào nhớ là cứ nhắc. Tối trước khi đi ngủ là nhắc, nhắc được năm, mười câu như vậy để cứ nhắc, nhắc mãi cho đến khi nào mà gặp những cái chướng ngại mà con thấy nó nhắc “tâm như cục đất không có tham, sân, si”, tâm con không có tham sân si chừng đó con thấy an ổn, nên nhớ! Đó là con sẽ quét sạch những cái khổ đau của con, nhớ cứ luyện tập bao nhiêu đó thôi, đừng có tu tập pháp gì nhiều hết.
Mấy con còn hỏi Thầy gì thêm nữa không?
(57:26): Phật tử 2: Bạch Thầy, chúng con đọc sách Thầy, cái Tưởng chúng con chưa rõ, như đáng lẻ chúng con viết thư hỏi Thầy nhiều nhưng sợ phiền Thầy, chúng con ráng đọc cho hết những tập trong “Đường về xứ Phật”, vì vậy chúng con thấy là có lúc Thầy dạy tưởng rồi tâm, đó thì tưởng lực khác với tâm lực, như vậy cái tưởng và cái tâm chúng con còn bị nhầm đó, kính xin Thầy chỉ dạy.
Trưởng lão: Bây giờ cái tâm lực: Muốn nói cái tâm tức là nói cái ý thức của mình, nghĩa là lấy cái ý thức hàng ngày con thấy cái vật này, cái ca nước, cái máy này, cái nhà này, đều là cái ý thức của con thấy.
Bây giờ về cái tưởng mà nó không có cái máy này ở đây, nó không có cái ca nước ở đây, mà con đã nhìn qua cái tưởng con đã tưởng tượng ra thấy được cái hình ảnh của cái ca, cái máy, thì đó là tưởng thức, con hiểu không?
Cho nên nó không có vật, mà mình tưởng ra nó có vật, vì cái hình ảnh đó mình đã thu được qua cái ý thức của mình. Bây giờ từ ở trong cái nó lưu giữ vào, cũng như mình vừa nghe một cái người ta chửi mắng, người ta chửi lộn với nhau mình vừa nghe, thì nó huân vào ở trong cái tâm của mình rồi, rồi sau khi đó mình không nghe nữa, không nghe người ta chửi nữa, trong cái hiện tại đó bây giờ nó đã đi qua rồi, nó hết nghe rồi. Nhưng mà mình về lại thì bắt đầu ở trong tâm mình nó khởi ra, nó nhớ lại những cái lời người ta chửi mình, mắng mình đó, đó là tưởng. Con hiểu không? Đó là tưởng.
Cho nên vì vậy mà gọi là vọng tưởng, các con biết khi đó người ta dẹp vọng tưởng. Nhưng mà ở đây, chúng ta không có nghĩa là trong ý thức câu hữu với tưởng thức mà chúng ta dẹp nó được. Cho nên là hầu như người ta đã lầm tưởng các cái pháp môn khác người ta lầm tưởng là cứ dùng cái vọng tưởng đó là nó sẽ hết. Bây giờ chúng ta đang sống trong cái ý thức, chúng ta hãy dừng những cái đối tượng của *ý thức làm khổ mình, gọi là ngăn ác diệt ác,* phải không?
Còn cái đối tượng của tưởng thức đó là khi nào chúng ta dừng ý thức rồi chúng ta sẽ ở trong cái thế giới tưởng đó, rồi chúng ta mới dừng cái tưởng mới được. Còn bây giờ chúng ta cứ dừng cái vọng tưởng chúng ta, chúng ta ngỡ tưởng rằng hết vọng tưởng là ý thức mình thanh tịnh thì điều đó là nó lạc ở trong Không, Không tưởng.
(1:00:00) Cho nên tất cả những cái Tưởng lực và cái Tâm lực hay là Ý thức lực của chúng ta, Tâm lực là Ý thức lực, con phân biệt hai cái này. Một cái người mà dùng tưởng mà thực hiện có một cái lực như nhà khí công, các con thấy như cái tay chúng ta đưa như thế này bảo hãy tiếp nhận khí, thì tay chúng ta nó thúc vô, nó bảo khí nhả ra, thì bắt đầu nó từ từ nó tự tay nó đẩy có cái lực nó kéo cái tay chúng ta ra vô. Bây giờ Thầy nói như thế này thêm một lần nữa, để cho thấy cái tưởng của lực, cái tưởng lực của nó.
Một người mà người ta vẽ một cái con cơ như thế này, là mấy người cầu cơ, mấy con hiểu theo như các tôn giáo khác thì người ta cầu cơ để cho những cái linh hồn người nào đó nhập cơ vào đó, thì bây giờ một cái người để ngón tay vô đây, người ta tưởng cái cơ như thế này rồi người ta sắp một cái hàng chữ A, B, C, D đó. Rồi bắt đầu con cơ này nó sẽ lôi cái tay của họ chạy lại mấy chỉ chữ A, chữ B, C nó ráp lại thành một bài kệ, một bài thơ đó là cơ về báo.
Thí dụ bây giờ hỏi: Đất nước của chúng ta bây giờ chừng nào mà nó hòa bình? Thì con cơ này nó chỉ lại, nó nói ờ năm đó, năm đó vậy nó sẽ hòa bình, thì chúng ta thấy cơ báo cho mình biết cái năm đó thì nó hòa bình, người ta tin.
Như vậy là cái tưởng lực của chúng ta ở trong này nó lôi ra với cái tâm niệm của chúng ta tin tưởng cho nên vì vậy nó có một cái lực như vậy, thì chúng ta không phải lấy cái ngón tay mà chúng ta đẩy cái con cơ đó đi, mà tự nó lôi cái ngón tay chúng ta đi, thì đó ai mà có cầu cơ thì chúng ta mới biết thì đó là cái tưởng lực của chúng ta.
Rồi bây giờ những cái người mà lên đồng nhập cốt đó là cái tưởng lực của họ tạo ra cái thế giới siêu hình, nó biến nó hiện ra nó làm ra có cái linh hồn của người này, người kia đó là tưởng lực, tưởng lực của nó. Ví dụ chẳng hạn bây giờ mình nằm chiêm bao, mình thấy những ông bà mình chết, mình thấy những cái người con sống, mà trong khi đó mình nằm ngủ, mà mình thấy như mình đi mình gặp những người đó thì đó là tưởng lực của mình nó tạo ra những cái hình ảnh đó, chứ không phải nó có những cái linh hồn người đó mà gặp mình, đó là tưởng lực.
Còn bây giờ chúng ta tâm lực, là bây giờ cái ý muốn của mình muốn, bây giờ mình muốn như thế nào, mình muốn ngồi thì cái ý của mình nó muốn cái thân mình ngồi xuống, cho nên mình sử dụng cái thần kinh của mình nó bắt buộc nó sử dụng các cơ của mình ngồi xuống, thì cái ý muốn của mình gọi là tâm lực, con hiểu chỗ này được không?
(1:02:37) Còn cái kia tưởng lực đó, là mình ở trong tưởng nó làm ra, như bây giờ nhà khí công họ tưởng như ở trong tay họ đưa ra như thế này là một cái luồng khí, cái luồng khí vô hình chúng ta không thấy. Nhưng mà một con chim, Thầy nghe đọc ở trong những cái nhà khí công mà họ luyện khí công đó, họ thấy một con chim bay trên trời, họ đưa cái cánh tay lên như thế này họ tưởng ra một luồng khí bắn con chim, con chim rớt xuống liền, thì các con thấy. Bây giờ cái thân họ như thế này họ tưởng ra cái thân sẽ bay lên nè, mà cái trọng lượng của cái thân chúng ta nặng như thế này, mà cái tưởng lực nó sẽ đưa cái thân họ bay lên được như một con chim đó. Đó là chúng ta thấy rõ ràng là cái sức lực của tưởng nó có chứ không phải không.
Thì cái ý thức lực của chúng ta cũng có chứ đâu phải không. Cho nên chúng ta ám thị nó, chúng ta tự kỷ ám thị nó thì nó trở thành một cái lực, cho nên các con thấy như cái đầu mình đau nè, mình bảo: “Thọ là vô thường cái đầu không có đau nữa”, tự nó hết mấy con, nó là cái tâm lực của mình mà, chứ mình không có tưởng ra, mà mình bảo thật sự ý của mình muốn là không đau. Đó là cái tâm lực của mình.
Cho nên phân biệt được cái tâm lực và cái ý lực. Mà cái tâm lực của chúng ta tức là là Tứ Niệm Xứ. Niệm là cái niệm ở trong đầu của chúng ta, chúng ta bây giờ tác ý ra chúng ta niệm. Bây giờ cái hơi thở phải tịnh chỉ, tức là chúng ta tác ý ra, cái ý thức của chúng ta muốn hơi thở phải ngưng để bỏ cái thân này, thì nó là cái ý thức của chúng ta, chứ chúng ta không tưởng. Mà bây giờ nó làm được là chúng ta không tưởng, đó là cách thức cái luyện tập cái đó gọi là tâm lực hay hoặc là ý thức lực.
Còn bây giờ mà chúng ta cái khí chúng ta không thấy mà chúng ta tưởng ra một cái luồng khí, thế giới siêu hình không có nè mà chúng ta tưởng nè, bây giờ Thầy tưởng nè Thầy ngồi đây Thầy thắp cây hương Thầy tưởng là cái ca này nó sẽ linh thiêng nó sẽ phù hộ cho Thầy, hằng ngày Thầy đến Thầy lạy: Nam mô ông Phật Ca này phù hộ cho chúng tôi. Thầy đâu có biết Thầy chỉ biết nó tên ông cái Ca thôi Thầy cứ kêu nó là ông Phật Ca đi hay ông thần Ca đi thôi. Thì cuối cùng cái ông thần Ca này ông linh lắm nè các con, ông dám bắt người ta nhức đầu, ông dám làm cho người ta khổ. Thì từ đó cái tưởng của Thầy đó truyền qua một cái Ca này, nó làm cho cái năng lực của cái Ca nó có cái vi diệu ở trong đó cái mầu nhiệm, nó làm cho ai mà lơ mơ đi ngang qua là nó quở nó trách.
(01:04:54) Cho nên các con nghe thường mấy cái cây Đa hay đi mà người nào không có vẻ cung kính tôn trọng hoặc tiêu tiểu bậy bạ đó thì về bị bệnh đó. Đó là cái lối người ta đã từng gieo vào đó cái tưởng, người ta tưởng ở đó có cái ông thần cây đa. Do đó mà khi cái người này không biết, người ta tiêu tiểu đại ở trên cái gốc đa đó về cái người này bị bệnh. Chừng đó thì cái người mà tưởng khác đó, người ta giao cảm được người ta biết ông này tiêu tiểu tại ở cái gốc đa này cho nên ông thần cây Đa nó bắt ông đó, ông bây giờ phải cúng bái lạy đi nó hết. Đúng vậy, khi mà đem đồ ra cúng bái thì ông đó hết đau, thì đó là tưởng lực các con, hiểu không?
Cho nên cái đó là cái tưởng lực mấy con, từ cái tưởng lực của chúng ta truyền qua một cái vật, một cái cục đá, một cái cây, một cái gò mối đi mà chúng ta tưởng nó chúng ta thắp hương nó riết, cái tưởng của chúng ta đã tạo thành nó linh hiển thật, linh hiện mầu nhiệm.
Cho nên chúng ta thấy sao có cái thế giới linh hồn kỳ cục là lạ, thế giới siêu hình lạ? Cái gò mối thì làm sao linh được mà bây giờ nó linh nó bắt người ta? Cái cây đa làm sao mà nó linh mà nó bắt người ta được? Đó là cái do mình truyền cảm, mà nhiều người đều gieo cái tưởng thì nó lại mạnh hơn.
Cho nên coi vậy chứ người ta thắp hương tầm bậy tầm bạ coi chừng mình làm bậy bạ đó, tức là cái ý thức của mình nó hoàn toàn yếu, nó không có đủ cái lực để mà chống lại, thì những cái tưởng này nó sẽ làm cho mình bị bệnh khổ. Nhưng mà cái bệnh khổ đó nó không phải là vô tình đâu, cái hành động của mình nó không đúng cái đạo đức nó đã tự làm cho nó khổ đó, thì cái này nó cũng do cái chỗ mà cái tưởng này nó cũng do cái nhân quả của mình nó tạo ra cho mình.
Thí dụ bây giờ, nếu mà mình không có làm một cái điều mà sơ sót thì làm sao mình tiêu tiểu đại ở trên gốc cây Đa này? Thì như vậy rõ ràng người có đạo đức, còn cái người mà không có đạo đức mới làm cái điều này, mà làm cái điều này với cái người không đạo đức, tức là có những ác pháp rồi chứ gì?! Vô đạo đức rồi chứ gì?! Do đó cái tưởng của những người mà người ta tin tưởng đó, người ta không làm bậy mà trái lại mình lại là cái người thiếu đạo đức thì cái tưởng này nó sẽ tạo thành cái quả cho mình thể hiện được thấy cái nhân quả của mình, chứ không phải ai vô đó. Còn nếu mà mình đàng hoàn thì không bao giờ ai bắt mình được hết. Cho nên vì vậy một người đàng hoàng thì ai bao giờ mà lại gốc Đa mà tiểu bao giờ?! Người ta đâu có chỗ có nơi chứ, nó thì các con thấy. Mà cái người mà đàng hoàng thì người ta đâu có xấc xược, phải không người ta đâu có xấc xược, người ta đâu có nghênh ngang. Cho nên làm sao mà cây đa này quở ông ta được?! Còn mình nghênh ngang, mình vênh váo, mình uống ba chén rượu vô mình coi như trời đất không ra ai, thì từ cái tưởng mà người ta tưởng người ta có cái đạo đức ở trong đó, thì cái tưởng này nó sẽ do cái nhân quả mà nó hành phạt nó, do cái thành quả xấu của mình mà nó hành phạt mình, nó làm cho mình bệnh đau để cho mình hoảng sợ, để cho mình chừa cái tật ngang tàng của mình, đó là những cái nhân quả.
(1:07:45) Đó thì hôm nay con đã hiểu được cái tưởng lực và cái tâm lực, mà Thầy nói trong kinh sách Thầy nói thì các con biết cái nào là tâm lực, và cái nào là tưởng lực. Vì vậy mà một cái người mà tu tưởng lực, bây giờ Thầy không có xuất hồn được nè, mà Thầy ngồi Thầy thiền nè Thầy nghĩ rằng trong đầu thì nó sẽ nứt ra, linh hồn sẽ thoát ra Thầy ngồi đây để Thầy tu, Thầy cứ tập trung cho đừng có vọng tưởng, rồi Thầy ngồi im lặng Thầy cứ tưởng ra ở trong đầu Thầy nó nẻ ra nó bay ra, thì trong một ngày nào đó nó nẻ ra bay lên, coi như xuất hồn đi chơi chỗ này chỗ kia được. Nó đó là cái thiền xuất hồn là như vậy.
Cho nên ở đây chúng ta thấy rằng mình dùng tưởng mình tu thì mình lạc vào cái thế giới tưởng, cái thế giới tưởng mà trong đạo Phật người ta đã nói rằng mình phải vượt qua cái biển tưởng này. Mà Thầy rất sợ! Rất sợ như thế nào? Nó điên là người ta điên cũng ở cái chỗ này nè, người ta bị điên là nó cũng ở cái chỗ này, cái thần kinh chúng ta bị rối loạn cũng ở cái chỗ này, nó nguy hiểm vô cùng lận, cho nên nó có cái năng lực ghê gớm lắm chứ không phải thường đâu. Các nhà ngoại cảm, các người lên đồng cốt, tất cả điều này là ở trong cái thế giới tưởng đó, nó nguy hiểm lắm, cho nên vì vậy thấy người ta làm đồng cốt, chứ người ta làm một cái thời gian nào đó rồi người ta hết có linh, mới đầu thì linh lắm, nói đâu đúng đó, nhưng mà sau đó nó không linh nữa. Bởi vì nó đã phí phạm cái nhân quả của nó, thí dụ như bây giờ nói lên đồng cốt nói trúng quá cái ăn tiền, ăn bạc người ta, nhiều quá rồi cái hết phước rồi nó bắt đầu nói không trúng nữa, rồi dựa vào tâm lý nói trật người ta đâu đến nữa.
Đó thì các con thấy trong cái sự mà tưởng nó cũng phải là thiện pháp chứ nó ác pháp là nó tiêu. Có một ông sư ở trên núi họ tu tập họ rất là có thần thông, họ biết chuyện quá khứ vị lai, nhưng mà sau khi mà xuống, bởi vì họ tu tập tưởng mà, họ đâu có ly dục ly ác pháp. Cho nên khi xuống thế gian này họ coi như một giáo chủ, số đệ tử cũng tập trung đông cả hàng ngàn người đến nghe họ nói pháp rất hay, họ dùng thần thông thì ai cũng thấy nghê gớm, nhưng mà cuối cùng vì cái sự mến mộ người ta cúng dường tiền nhiều, rồi mến mộ người ta luôn luôn cung cấp những cái thực phẩm ăn uống nhiều, từ đó nó sa ngã trên dục lạc, nó sa ngã trên dục lạc rồi thì tất cả cái thần thông tưởng lần lần nó tiêu mất, nó không còn nữa. Cuối cùng thì làm những cái tội, có những cái tội lỗi, mà đầu tiên thì nó còn thần thông đó thì người ta còn che dấu được, nghĩa là công an đến bao vây là người ta biết liền, người ta báo liền là ở trong này phi tang hết. Nhưng mà sau đó cái đó nó mất rồi thì công an đến bao vây thì người ta không biết, chừng cuối cùng người ta bao vây thì người ta bắt trọn ổ. Tất cả điều là những cái điều phi pháp tất cả ở trong này.
(01:10:30) Thì các con thấy, khi mà thần thông hết rồi, thì nó là thuộc về tưởng nó không có thật. Cho nên cái người mà tu sai, không đúng, không ly dục ly ác pháp, mà cứ thực hiện để cho mình có thần thông thì đó là những thiền tưởng. Cũng như bây giờ người ta không sống đúng giới luật mà người ta cứ lo người ta tu thiền thì đều là người ta ở trong thiền tưởng, nó không đúng. Cho nên nó để lại biết bao nhiêu sự đau khổ mà tai hại. Như các con thấy các con tu nó chưa thấy nhiệt tâm tu thì các con chưa thấy mình điên, những người mà người ta có thể nhiệt tâm người ta tu người ta sẽ điên. Ở đây Thầy tiếp nhận một số người điên rất nhiều là do tu những cái pháp thiền sai, họ tu điên. Nhưng mà cái Thầy mà dậy tu thiền như vậy họ nói đúng chứ họ không bao giờ nói sai, nhưng mà cái hậu quả của những cái người điên đó ai chịu cho họ? Hay là bản thân của cái người tu đó họ chịu? Gia đình họ ôm con ôm cháu họ chịu, chứ ai chịu? Có ai đâu chịu! Bây giờ những người điên này ngơ ngơ ngẩn ngẩn như vậy thì gia đình họ phải chịu, chứ còn ông thầy mà dạy pháp tu này ông thầy không chịu, mà ai nói ông dạy điên thì người ta sẽ không chấp nhận, cho nên đâu có ai dám nói, mình điên mình chịu. Mà Thầy ở đây Thầy đã tiếp nhận một số lượng người về đây điên rất nhiều, Thầy chỉ có cái điều kiện là giải cho họ đừng có bị rối loạn thần kinh nữa thôi, bảo họ đừng có nhiếp tâm vô đó nữa, bảo họ đừng có diệt vọng tưởng nữa, mà hãy sống bình thường tâm thanh thản, an lạc vô sự, cứ nhắc tâm mình như vậy thôi, chứ đừng có diệt cái vọng tưởng, đừng có tập trung trong hơi thở, đừng có tập trung trong cái chỗ mà không niệm thiện niệm ác nữa, thì như vậy mới có thể giải trừ được những người đó ra. Mà mười người Thầy chỉ cứu được một hai người, còn bao nhiêu nó bị cái ngấn rồi nó rất khó! Hễ mà khi mà ngồi yên lặng cái nó vô, tự động nó vô liền, nó vô rồi nó lặng, nhiều khi nó nói bậy nói bạ.
Đó là những cái điều mà rất đau khổ mà rất đáng thương. Cho nên Thầy nghĩ rằng cái nghĩa vụ bổn phận của Thầy dạy mấy con là Thầy dạy xả tâm mà các con cứ sống ức chế tâm là các con cũng sẽ bị điên mất, nó không đơn giản. Bởi vì từ lâu tới giờ người ta cứ bị ức chế tâm, nhưng mà cái người ta quyết tâm tu thì người ta sẽ bị, còn cái người mà tu mà kêu là mình tu thường thường thôi thì nó không bị nhưng mà nó có những cái bệnh, nhưng bệnh nhẹ là nó có căng, đó nó có căng như là Minh Trí, nó là có tu đó nó cũng quyết tu đó cho nên nó bị căng đó. Cho nên bây giờ tập trung hởi thở là bị căng đầu. Có người người ta còn bị căng nữa là vì người ta làm cho cái mặt nó nặng ra nữa, nó căng đến nỗi mà mặt nặng gì, rồi không biết bệnh gì, rồi đi nhà thương nó mới lột cái mặt lên nó coi nó không có thấy gì hết, mà hễ cứ tập trung cái là nó nặng cái mặt xuống, rồi nó đau nhức trong, đó là nó căng các cơ của mình vì tập trung không vọng tưởng đó. Tập trung để hết vọng tưởng, để làm Phật nhưng mà cuối cùng thì nó bị bệnh, đó là cái điều kiện rất là đau khổ. Nhưng làm sao bây giờ? Không có làm sao được hết, chúng ta phải cố gắng tu tập đúng để mà chúng ta giữ gìn giới hạnh, đức hạnh, làm người không làm khổ mình khổ người. Cho nên Thầy nói khi các con ngồi hay chân đau là đứng dậy xả liền, nếu mà các con cố gắng ngồi mà các con vì thấp khớp, vì cái chân của các con xương của các con yếu, các con sẽ bị bại liệt luôn. Bởi vì các con chịu đựng và chịu đựng đến mức độ nào nó chịu đựng không nổi nó yếu quá nó sẽ không phục hồi lại được thì nó bị bại liệt chân mình luôn. Nó rất là khổ đau!
Cho nên do đó đạo Phật dạy: “Trên Thân - Thọ- Tâm- Pháp chúng ta có chướng ngại là đuổi nó ra liền mà không có chướng ngại thì nó là giải thoát”. Đạo Phật rất thực tế không có thời gian. Thì các con biết pháp như vậy, nó rõ ràng mà tại sao có chướng ngại mà chúng ta lại chịu ôm ấp ở trong chướng ngại đó? Ngồi hít thở mà căng đầu cứ để căng? Thì như vậy nó thành bệnh chớ sao!
(01:14:21) Đó thì như vậy các con thấy trong cái sự tu tập phải biết được cái chánh pháp của Phật có giải thoát là có kết quả. Cho nên Thầy bảo các con tu một phút một giây mà thấy kết quả, tìm kết quả của nó trong đó là cái lợi ích rất lớn cho chính mình, nó sẽ làm mình tinh tấn, còn nó có chướng ngại nó còn có đau khổ thì đây là một tu trật dù là pháp chân chánh cũng là trật. Cho nên đức Phật nói chúng ta đừng có tin ta, đừng có tin kinh sách, đừng có tin Thầy tổ, đừng có tin học thuyết nào, mười điều đừng có tin, mà chỉ tin điều đó mà chúng ta làm mà có giải thoát cho mình, có lợi ích cho mình, có lợi ích cho người, là tin.
Ông Phật ông bảo đừng có tin ông nữa, cái pháp của ông dạy đó, mà mình tu, mà mình thấy nó chướng ngại, nó làm khổ mình nhất định là sai, không tu, không tin nữa. Mà tu có kết quả giải thoát cho mình, giải thoát cho người thì mình tin. Cái lời đức Phật đã nói ở trong kinh quá cụ thể rõ ràng rồi. Cho nên ở đây chúng ta tu là phải có giải thoát liền, cái kết quả giải thoát đó là cái niềm tin bất tận để mà chúng ta tiến tới con đường giải thoát hoàn toàn. Nếu mà chúng ta không có được kết quả thì chúng ta không được tin. Ngay liền tức khắc, chứ không phải tu nói đợi để mà có kết quả.
Đó thì bây giờ các con còn hỏi Thầy gì thêm nữa không? để cho nó rõ ràng những cái mà không hiểu.
(1:15:40): Phật tử 3: Bạch Thầy, đa số Thầy dạy là thân Ngũ uẩn này khi chết là tan rã, còn cái nghiệp thiện nghiệp ác tái sinh, thì con chưa hiểu là cái nghiệp thiện ác là ai chịu? Thân ngũ uẩn này tan rã rồi, thì cái nghiệp thiện ác nằm ở đâu? Dạ bạch Thầy.
Trưởng lão: Bây giờ các con nghe đức Phật nói nhân quả, mà cái hành động nhân quả chứ không phải nói nhân quả suông. Bây giờ Thầy đưa một cánh tay ra Thầy đánh người thì cái đó là nhân ác thì Thầy phải trả cái quả đó chứ không thể nào Thầy trốn đâu khỏi hết, nghĩa là đánh người thì phải trả quả ác người khác đánh mình, hoặc là mình bị nhiều người đánh mình chứ không phải là không trả.
Bây giờ Thầy đưa cánh tay ra cầm một bát nước, một bát cơm cho một cái người đang đói khổ thì cái hành động đó nó vẫn có một cái hành động, mà Thầy từng nói các con khi mà chúng ta đưa ra một cánh tay ra như thế này phải có một cái từ trường, thì cái từ trường đó vẫn lưu ở trong không gian này, thì nó chỗ nào nó cũng có cái hành động ác, bởi vì mọi cái hành động ác nó sẽ gộp lại thành một cái lực. Thầy có hành động ác đánh người, người kia có hành động ác đánh người, những cái này nó là một chứ đâu là hai được, những cái từ trường này nó là một điểm như nhau.
Cũng như Thầy đã từng nói với các con ấy, bây giờ Thầy ở đây mà Thầy giữ cái tâm mà thanh thản, an lạc, vô sự, con ở ngoài Phan Rang con cũng giữ cái tâm thanh thản, an lạc, vô sự thì hai người này đồng một điểm chứ, đồng một nghiệp lực nó chứ, phải không?
Cho nên Thầy đưa tay đánh người, người khác đưa tay đánh người, người kia đưa tay đánh người mà bây giờ trên hành tinh này bao nhiêu triệu người cũng đều có hành động ác đó thì nó là một từ trường, và một từ trường đó có cái lực không mấy con? Một cánh tay của Thầy đánh chưa có lực đâu, mà một vạn người, một triệu người đánh thì phải có cái lực chứ gọi là nghiệp lực, nghiệp lực ác.
(1:17:25) Cho nên khi mà chúng ta tan hoại, thân tứ đại này tan hoại hết rồi, thì cái nghiệp lực cái hành động ác đó nó sẽ chiêu cảm, hoặc là nói rằng nó sẽ tương ưng với cái hành động ác của nó thì nó phải tái sanh đúng cái chỗ vị trí của nó để sanh ra làm một con người thứ hai hoặc là một chúng sanh để mà trả những cái hành động đó của nó. Cho nên nếu mà chúng ta làm thiện, mà thiện thì nó có hai cách: Thiện hữu lậu và Thiện vô lậu. Chứ nếu mà cái thiện, bởi vì đạo Phật nói là vô lậu mới giải thoát, mà còn hữu lậu thì làm sao giải thoát, mà giờ thiện thì nó có thiện hữu lậu chứ.
Cho nên nếu mà chúng ta tu về phước hữu lậu thì hoàn toàn chúng ta còn tái sanh luân hồi, nó thiện nhưng mà tái sanh. Cũng như bây giờ Thầy cầm bát cơm Thầy cho người khác ăn, thì cái đó thiện hữu lậu chứ làm sao vô lậu được, phải không?
Cho nên bây giờ tâm hồn Thầy thanh thản, an lạc, vô sự là nó vô lậu, phải không nó vô lậu bởi vì nó đâu có lậu hoặc ở trong này, nó đâu có tính toán, nó đâu có suy tư, nó đâu có thương ghét ai đâu. Còn cái kia Thầy có thương mà, thương nó cũng khổ mà, thương nó cũng là ác pháp mấy con, nhưng nó thiện, nhưng mà nó hữu lậu, cho nên thương người cũng khổ, bây giờ Thầy thương đứa con Thầy mới lo lắng cho nó đi ăn đi học để cho nó nên người, thì cái thương của Thầy nó cũng hữu lậu chứ, nó làm cho Thầy khổ chứ đâu phải là Thầy sung sướng đâu, phải không?
Cho nên do đó những cái từ trường mà gọi là thiện ác, mà thiện ác, thiện của hữu lậu, ác thì chúng ta không nói rồi, nó là lậu hoặc rồi thì chúng ta không thể nói được, mà thiện mà còn hữu lậu thì vẫn phải tái sanh, chỉ trừ ra có thiện vô lậu mới không tái sanh.
Cho nên Thầy mới bảo đảm với mấy con rằng khi tâm thanh thản, an lạc và vô sự nó là Niết bàn của Phật, Bất Động Tâm của chúng ta rồi thì nó là vô lậu rồi. Cho nên có người nói phải đạt tới Tam minh mới vô lậu, Thầy nói không, đức Phật đã nói “Bất Động Tâm Định là vô lậu” là vì nó có Minh, ở đây nó có một cái trí tuệ của cái ý thức của nó hiểu, người ta chửi nó không giận bằng cái hiểu của nó chứ đâu phải bằng ngồi đây như cục đá. Nếu mà Thầy nhập định thì đầu óc của Thầy nó hoàn toàn nó ngưng lại, Thầy không nghe không thấy, người ta chửi Thầy cũng như là nước đổ trên lá môn, lá khoai, phải không? Đó là sai không đúng.
Trái lại người ta chửi Thầy mà Thầy có trí tuệ, mà Thầy có trí tuệ cộng với giới luật vì giới luật là đức hạnh, cho nên trí tuệ cộng với giới luật là Minh. Cho nên vì vậy nó làm Thầy không giận, mà Thầy không giận thì Thầy không chửi người ta thì đâu có ác pháp, phải không?
(1:20:00) Do đó Minh ở đâu thì Vô minh phải quét sạch ở đó, vậy thì Vô minh quét sạch thì còn đâu mà tái sanh luân hồi?! Phải không, nó đâu còn tái sanh luân hồi nữa. Cho nên ngay Sơ thiền mà chúng ta giữ được tâm thanh thản, an lạc, vô sự, bất động tâm trước các ác pháp và các cảm thọ thì lúc bấy giờ chúng ta là nhập Niết bàn. Sống đang ở trong Niết bàn thì chết cũng phải về nơi đó , không thể đi nơi khác được.
Cho nên chúng ta thấy từ trường của chúng ta là từ trường vô lậu chứ không phải là từ trường hữu lậu. Còn bây giờ chúng ta còn thiện còn ác, còn thương còn ghét thì rõ ràng chúng ta đang ở trong ác pháp, mà thiện của chúng ta còn thiện hữu lậu chứ đâu phải là vô lậu được. Trừ khi nào chúng ta giữ được một phút một giây, một giờ một khắc thanh thản, an lạc, vô sự và kéo dài hai mươi bốn tiếng và bảy ngày đêm là người đó đã hoàn tất. đức Phật nói bảy ngày, bảy tháng, bảy năm, mà nếu chúng ta ở trong một trạng thái bảy ngày mà tâm hoàn toàn thanh thản - an lạc - vô sự tức là chúng ta đã sống trọn vẹn trong Niết bàn. Cho nên chết chúng ta cũng về đó mà sống chúng ta cũng về đó, vì vậy trong bảy ngày chúng ta đã chứng quả A-la-hán.
Đức Phật đâu có nói thiền định, nhưng mà khi mà cái tâm đến đó thì coi như chúng ta muốn nhập định nào thì dễ như trở lòng bàn tay, bàn tay úp, lật ngửa, lật ngửa, úp lại rất dễ dàng không còn khó khăn. Cho nên từ Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, Tam minh đâu phải là chuyện khó, chỉ khó ở chỗ cái giai đoạn là Sơ thiền là khó nhất, ly dục ly ác pháp là khó nhất!
Cho nên các con thấy giữ được cái tâm mình không phóng dật, tức là thanh thản - an lạc - vô sự là khó nhất. Có đúng không, mấy con thấy có đúng? Thì cái nhân quả đó không tái sanh luân hồi, và vì vậy mà trong khi đó chúng ta biết rằng cái từ trường của chúng ta thảy ra đó là thành một cái nghiệp lực của chúng ta. Cho nên chúng ta mất rồi nhưng cái đó nó còn ở trong không gian thì tức là tiếp tục nó phải tái sanh luân hồi chứ, nó đâu có mất được. Phải không, nó phải có cái thân khác thôi. Bởi vì nó còn, nó làm sao mất được.
Cho nên ông Phật ngày xưa đã giảng kinh, giảng pháp cách đây 2545 năm, hình ảnh và lời nói, hành động của ông Phật ngày đó, bây giờ chúng ta thực hiện Túc Mạng Minh chúng ta về chúng ta gặp tất cả những hình ảnh đó còn, như vậy nó còn ở đâu? Trong không gian chúng ta chứ đâu, vậy thì từ trường của ông Phật còn ghi lại. Cũng như hôm nay Thầy và các con đang ngồi nghe Thầy nói pháp, phải không? Thì cái từ trường hình ảnh này nó còn ghi mãi, nếu mà chúng ta không có tạo cái từ trường này, không có hành động hôm nay gặp nhau để mà nói chuyện, nói pháp như thế này thì không có, không có ghi, thì nó đâu có. Còn bây giờ đã có thì làm sao chúng ta xóa, chúng ta đâu có xóa được. Nó phải còn hoài, mà còn hoài thì một ngàn năm sau con cháu chúng ta thực hiện Tam Minh, nó trở về Túc Mạng Minh thì nó cũng gặp ngay cái chùa này một ngàn năm sau bằng tầm vông gốc tre đó nó không còn nữa mấy con, nhưng mà nó hướng về Tam Minh thì nó cũng vẫn thấy cái chùa này y như vậy nó không khác chút nào hết đâu, chúng ta những người của chúng ta một ngàn năm sau nó đã hủy hoại mất không còn cái gương mặt này nữa hết, nhưng nó vẫn thấy chúng ta y chang như thế này. Nó lưu lại chứ, như vậy thì cái đó là cái nghiệp lực của nó đó, cái lực của chúng ta còn lưu lại gọi là nghiệp lực. Nghiệp thiện hay là nghiệp ác hay là nghiệp Niết bàn mà thôi, các con hiểu chưa?
(1:23:25) Phật tử 4: Dạ con thưa Thầy… bát cơm đó mình cho người ta thì đó là hữu lậu, thì bây giờ một bát cơm đó khi mà mình cho khi người ta đói khổ… thì như vậy là….
Trưởng lão: Mình cho người ta ăn thì nó là phước hữu lậu các con, nghĩa là bát cơm đó mình cho người ta một bát cơm sau này mình sẽ được nhiều bát cơm các con, cái phước nó nhiều mà, con sẽ cho một bát cơm chứ sau này con sẽ trở thành nhà giàu, đó là nó hữu lậu, nhưng mà con giàu con có khổ không? Có khổ! Cho nên nó gọi là hữu lậu.
Cho nên nếu mà mình tu phước như vậy, mình cứ biết đi làm việc bố thí như vậy, nghĩa là đạo Phật không dạy chúng ta không biết thương người, không biết bố thí hữu lậu, chúng ta làm những cái việc thiện hữu lậu nhưng mà chúng ta còn biết làm việc thiện vô lậu nữa. Để cho mình chấm dứt, sự giải thoát, chứ nếu không bây giờ con có bố thí cho nhiều đi nữa sau này mọi người sẽ làm lính, sẽ làm người gác cổng cho con thôi, con làm nhà giàu thì có người gác có người hầu kẻ hạ con thôi. Bởi vì con bố thí cho họ thì họ phải trả cái nợ cái bố thí của con chứ gì, nó là hữu lậu. Cho nên vì vậy con trở thành nhà giàu hay hoặc nhà Vua đi nữa. Nhưng con cứ nghĩ nhà giàu, nhà vua có khổ không? Khổ chứ! Cho nên nó là hữu lậu.
(1:24:45) Phật tử 4: Dạ con thưa Thầy con không tu Định Niệm Hơi Thở mà con bố thí tâm con ly dục ly ác pháp, làm thiện hàng ngày, sau đó cái trường hợp là cái pháp ác hay thiện đến với con thì con luyện tập ý mật thì con ngăn diệt, còn pháp thiện thì con thực hành, sau đó thì con nhắc tâm, như lý tác ý là tâm con phải như là cục đất, và sau nữa là con buông xả hết, xả sạch là không có còn dính mắc gì trong tâm, Để cái tâm được thanh thản và an lạc, dạ bạch Thầy như vậy là tâm con là..?
(1:25:56) Trưởng lão: Tốt chứ không có gì đâu, bây giờ cuộc sống của con hàng ngày, thì con có thể gặp ai trong cái xã hội chúng ta bất hạnh, con có cái khả năng có thể giúp họ, một bát cơm con có thể chia ra mình sống nửa bát, còn nữa bát cho người, điều đó là điều tốt các con. Cho nên chúng ta làm nhưng mà chúng ta không cầu mong cái phước hữu lậu đó để sau này chúng ta sẽ làm vua hoặc giàu sang, chúng ta chỉ an ủi được cái sự đau khổ của người bất hạnh là chúng ta mừng rồi. Nó đó là cái tâm niệm của mình mà, để cho mình không có sự cầu mong làm phước để mà hưởng phước. Chứ còn cái sự cầu mong hưởng phước làm phước đó thì điều đó là, cũng như bây giờ chúng ta đi đến chùa cho người ta cúng dường cho người ta xây cất chùa để cho mình được phước báu thì cái điều đó nó sẽ là hữu lậu nó cũng là sẽ được các con, nhưng mà cái được đó nó sẽ khổ các con nhiều lắm. Cho nên vì vậy chúng ta không cầu mong là chúng ta vô lậu đó. Làm một điều thiện an ủi cái sự bất hạnh của xã hội, nhưng mà không cầu mong là vô lậu mà cầu mong là hữu lậu, nó còn cái ý ở trong đó con.
Cho nên vì vậy hôm nay vô lậu là nó toàn thiện, phải không, nó toàn thiện pháp của nó. Là nó thanh thản, an lạc, vô sự là nó vô lậu hoàn toàn. Nó làm cho chúng ta không có chỗ hướng cầu. Chứ còn ngầm ngầm trong tâm mình, mình làm cái việc thiện đó thì mình sẽ có cái cầu của nó, có cái ước ao của mình, nhưng mà mình phải căn nhắc tâm của mình như con dùng pháp như lý tác ý: “Tâm không được cầu mong phước báu mà chỉ biết an ủi đời khổ mà thôi” thì đó là con sẽ vô lậu, chứ còn không biết nhắc tâm của nó, tự nó ngầm đó thấy nó hãnh diễn nó làm cái điều đó coi như nó cầu cái danh của nó cũng là bị cái hữu lậu rồi các con. Nghĩa là mình làm cái việc đó cái nghe người ta khen mình: “Trời ơi Chị này tốt lắm mỗi lần có xã hội có gì đó Chị quyên góp người ta giúp đỡ, Chị là nhà đại từ thiện”, nghe hai cái từ thiện cái mình nghe nó nở ruột nở gan thì đó là mình bị hữu lậu. Còn người ta khen chê mình bình thường mình chỉ biết sự đau khổ của người ta mình giúp thôi chứ mình không nghĩ, thì nó là vô lậu mấy con, cũng từ cái chỗ mà hữu lậu hay vô lậu. Cho nên nghe người ta gọi mình cất chùa, mình đóng góp mình cất chùa để cầu cho được phước báu. Như trong kinh dạy mình nếu mà cất chùa, đúc tượng, đúc chuông đó thì sẽ được phước báu lớn, sẽ được giàu có, thì mình ham do đó mình cúng dường cho nhiều nhưng mà cuối cùng đó là hữu lậu, chứ không phải vô lậu.
(1:28:17) Phật tử 4: Làm từ thiện sau đó mình phải nhắc tâm mình…?
Trưởng lão: Mình phải nhắc tâm.
Thì Thầy nói con tu đúng, nhưng mà phải khéo áp dụng cho nó đúng đó, để mình nhắc tâm mình. Và đồng thời thì Thầy nói như mấy con thì gia duyên nhiều, con cái nhiều, nó nhiều cái khổ nó đến vây quanh các con, nó bao vây các ác pháp, các con nên nhắc một câu như hồi nãy Thầy đã dạy: “Tâm như cục đất không có tham sân si, mọi pháp điều là vô thường, đừng có để cho nó dính mắc” do đó thì mấy con thoát khổ. Miễn là cái tâm mấy con nhắc cho nó quen để rồi có chuyện gì mà nó khởi ra nó nhắc con được một câu là kể như Thầy nhắc con đó, tâm mình nhắc chứ mà Thầy nhắc con đó, thì các con sẽ cứu khổ mình đó.
Đó thì các con có hỏi Thầy gì thêm nữa không?
(1:29:10) Phật tử 5: Thưa Thầy là Thầy dạy là chú ý hơi thở ở nhân trung, hồi xưa vậy là con chú ý ở ấn đường là ở… mỗi lần mà con chú ý như vậy là cái ấn đường bắt đầu nó xoáy nó nóng lên, bây giờ Thầy dạy đó là phải chú ý nhân trung, con chú tâm thì con thấy là con nó nặng đầu, dạ bạch Thầy, Thầy chỉ dạy giùm con.
Trưởng lão: Bây giờ về vấn đề hơi thở nó cũng chỉ là một cái phụ ở trong những cái giai đoạn tu tập những cái pháp phụ thôi, vì Định Niệm Hơi Thở của đức Phật là mình nương vào hơi thở để tu tập để cho có lợi ích. Mà lợi ích của nó là lợi ích gì? Lợi ích chỗ xả tâm, nghĩa là cái hơi thở cũng như cái hành động đi của mình thôi, mình đi kinh hành mình biết mình bước đi hoặc mình làm đưa tay mình mặc y mặc áo hàng động mình làm cái gì mình biết cái nấy, thì cái hơi thở nó cũng là những cái hành động ở trong thân của mình thôi. Cho nên nó không quan trọng lắm đâu. Cho nên bây giờ con tập chung đó vậy là con đã có sức gom tâm. Chỗ nhân trung cũng được, mà chỗ ấn đường cũng được không sao. Nhưng mà có cái điều kiện là không phải chỗ đó để cho mình đi vào định, mà chỗ cái tâm ly dục ly ác pháp là đi vào định, con nhớ!
Vì vậy mà lấy cái chỗ mà tập trung này để khi mà khi nào mà con bị hôn trầm, bị buồn ngủ thì con hãy tập trung đây bắt đầu nó nóng lên thì bắt đầu con hết buồn ngủ, có vậy thôi mà hết buồn ngủ thì xả ra, chứ đừng có ngồi đó mà tập trung nó thì không tốt, nó quá sức thì nó sai. Cho nên chúng ta không có sử dụng nó đi đến cái đoạn cuối đường được, mà nó chỉ có một cái giai đoạn để mà xả cái tâm mê mờ của mình để cho nó tỉnh thức để gom nó thôi.
Còn bây giờ hàng ngày con đã tập trung được như vậy rồi, con không cần lo tu tập cái đó nữa đâu, trừ ra có bị hôn trầm, bị loạn tưởng thì con tập trung, còn không có thì thôi. Còn bắt đầu bây giờ thì con lo cái vấn đề con là xả tâm ly dục ly ác pháp. Hằng ngày thì con phải ngăn ác diệt ác, con sống chung đụng với mọi người có ác pháp thì ngăn, diệt còn không có thì thôi.
Còn ban đêm yên tịnh thì con tu Tứ Niệm Xứ, trên đó con quan xát Thân-Thọ chứ không tập chung trong hơi thở nữa.
Còn cái hơi thở thì nó muốn thở chỗ nào, cái tâm của con nó biết thở chỗ nào thì cứ để nó biết đừng có tập trung chỗ nào hết, nó biết chỗ nào cũng được, biết thở ra biết thở vô cũng được, không có lưu ý cái tựu điểm của nó nữa. Và vì vậy mà cứ quan sát Thân-Thọ-Tâm của con, xem coi thử coi nó chướng ngại không. Nếu không chướng ngại thì thanh thản, an lạc, vô sự. Mà có chướng ngại thì tư duy quán xét đẩy lui cái chướng ngại đó hay hoặc dùng pháp tác ý để mà đẩy lui chướng ngại đó. Thí dụ như bây giờ có một cái niệm khởi vô con hiểu ra ngay liền, nó là nhân hay là quả, thiện hay ác thì con đuổi nó liền. Nó là pháp hữu lậu hay là vô lậu, hay là vô minh lậu, hay là nó là ái kiết sử, hay là nó tham kiết sử, hay là hữu tham kiết sử thì do đó con thấy biết nó liền, con nói: “Đây là dục lậu hãy đi đi” thì con tác ý nó vậy thì cái tâm con nó trở thành thanh thản liền tức khắc, khỏi cần quán xét gì hết.
Mà nếu mà nó là ái kiết sử…
HẾT BĂNG.
PHẬT TỬ THAM VẤN 01 - BỐ THÍ CÚNG DƯỜNG ĐÚNG CHÁNH PHÁP
Trưởng lão Thích Thông lạc
Người nghe: Phật tử
Ngày giảng:…
Thời lượng: [45:50]
(00:00) Trưởng lão: Chúng ta phải dựa vào cái chỗ mà những cái lời của đức Phật dạy để mà chúng ta triển khai ra cái lập công bồi đức của cái người cư sĩ.
Cho nên vua Ba Tư Nặc mới hỏi đức Phật: “Chúng con là hàng cư sĩ mà khi cúng dường với bố thí như thế nào đúng chánh pháp?”. Thì đã có người hỏi trong cái thời đức Phật rồi, bây giờ con hỏi lại thì cũng cái ý đó mà thôi, nghĩa lập công bồi đức chứ gì? Nghĩa là muốn cúng dường đúng Chánh pháp nó mới có công đức, chứ còn nếu mà không đúng Chánh pháp thì nó đâu có công đức, nó không có lợi ích gì hết.
Cho nên do cái chỗ này con làm đúng cái Chánh pháp của nó đó thì mỗi cái con phải nhìn nó vào cái nhân quả. Cũng như bây giờ con muốn bố thí cho một cái người nghèo khổ, con không phải cần đi tìm cái người nghèo khổ đó mà giúp họ. Bởi vì nó là nhân quả mà, người ta đã nhân quả là người ta tạo cái nhân nào ác cho nên đời nay người ta mới thiếu hụt. Chứ tại sao có người đủ ăn, mà có người đói, mà có người rách, mà có người lại giàu có? Là cái do nhân quả rồi. Mà tại sao bây giờ mình đi tìm những cái người nghèo đói này mình cho? Như vậy là có làm trái lệch cái luật của nhân quả không? Người ta phải thọ lấy cái quả đó để mà ta trả cái nhân của người ta chớ. Sao lại bây giờ mình làm cái điều đó?
Nhưng cái nhân quả nó có cái duyên của nhân quả, bây giờ mình đi trên đường hoặc là ở gần bên cái nhà mình có một cái người đó, họ nghèo khổ quá thì đó là cái duyên người ta ở gần mình. Hoặc là mình đi trên đường mình gặp, thì đó là nhân quả, có duyên nhân quả với mình, mình mới gặp. Chứ còn họ ở đâu bên Tây, bên Tàu làm sao mình gặp được hoặc là mình biết được? Mặc dù mình nghe người ta nói chứ tôi không thấy, tôi không biết, đó là tôi không có duyên.
Còn bây giờ ngay ở đây bên nhà tôi có cái người quá khổ hay quá nghèo, mà vợ con đẻ không tiền đi bệnh viện hoặc là bệnh đau không có tiền đi bệnh viện mà tôi nỡ nào mà tôi không giúp. Nó có nhân duyên, tôi mới ở gần bên đó, vậy thì tôi phải giúp cái người này tại vì cái người này có duyên với tôi chứ.
(01:41) Cho nên vì vậy mà có duyên để cho tôi ngày xưa nó, họ cũng là tôi có cái duyên cho nên bây giờ sanh ra có duyên mới gặp ở gần nhau. Cho nên vì vậy mà trong hoàn cảnh nghèo này mà tôi bây giờ tôi khá, trong hoàn cảnh đau khổ này tôi có thể giúp được, tôi sẵn sàng giúp cho người này hết. Nghĩa gọi là có phước. Đó là cái nhân quả, nhìn trong nhân quả mà để làm cái việc bố thí, con hiểu chỗ đó chưa?
Cho nên vì vậy đó khi mà bố thí như vậy nó mới đúng pháp. Mình không đi kiếm cái người khổ, bởi vì cái người khổ là cái người nhân quả của người ta, mình kiếm nhân quả người ta thì bao cái khổ nó sẽ đến với mình. Miễn là mình gánh cái đau khổ của người ta thì nó sẽ đến với mình chứ sao.
Cho nên mình không có nhưng mà cái duyên đó có nhân quả với nhau, cho nên mới gặp nhau ở trong cái cuộc sống này. Do đó mà gặp nhau cuộc sống mà mình làm ngơ thì tức là mình nợ nhân quả. Cái người nghèo khổ bên nhà mình, mình làm ngơ mình không giúp đỡ đó là cái nhân quả mình chưa trả hết đâu, mình sẽ còn gặp nữa, chưa hết.
Cho nên mình sẵn sàng mình vui vẻ mình giúp đỡ với một cái nhiệt tình thương yêu người ta thực sự, đó là cái bố thí đúng Chánh pháp.
(02:40) Phật tử: Dạ bạch Thầy! Chỗ này Thầy cho con hỏi, những cái bố thí vậy, thì những người mà đi ăn xin, thì họ cứ ngày nào tự nhiên cũng người đó, mà ngày nào cũng đi cái con đường đó hay là có khi họ đi rồi họ đi đường khác vài ngày sau họ quay trở lại, họ bước vô nhà mình ăn xin. Thì như vậy cũng là cái nhân quả hay không Thầy?
Trưởng lão: Nếu mà trong cái vấn đề đó, nó tạo thành cái nhân quả thì nó có cái nối tiếp của cái nhân quả. Chẳng hạn bây giờ cái người ăn mày đó đó, mình không biết rõ họ cái hoàn cảnh họ nghèo đói nhưng mà cái hình thức họ bây giờ mình gặp họ thì mình thấy họ có cái hình thức nghèo, họ mới đi xin chứ. Nhưng mà sự thật ra mình chưa nắm chắc, nhất định là không cho.
Mình phải biết chắc chứ: “Tôi có duyên tôi ở gần bên anh, tôi mới biết, chứ không anh lừa đảo tôi sao”. Cho nên đức Phật nói như thế này nè, vua Ba Tư Nặc: “Tôi thấy mấy cái vị tu sĩ đi ngang đây thì tôi thấy người nào cũng mặc y, mang bát cũng giống như Phật thì tôi chắc chắn là đó là A La Hán”.
Thì đức Phật nói: “Đâu chắc được, mấy ông này chưa chắc là A La Hán, ít ra là nhà vua phải ở gần ông ta mới thấy được cái hạnh sống của ông ta như thế này, thế này mới biết chắc ông ta là A La Hán chứ. Nhìn cái tướng ông ta làm sao mấy… Bệ hạ vừa thấy mấy ông mặc y áo vậy Bệ hạ cho là A La Hán thì đâu có đúng được. Cho nên vì vậy thấy vậy Bệ hạ cứ cúng dường vậy là Bệ hạ tạo thêm cái tội đó”.
Mình phải sống gần, mình phải biết rõ ràng rồi mình mới giúp. Cho nên cái thằng ăn mày này mà nó đến đây nó lừa đảo con được rồi, nó đi ít bữa cái nó cũng lại nó xin con nữa. Nó lừa đảo con được, nó thấy thằng cha này nó bỏ tiền cho mình nè, thành ra nó cứ nó đi hoài nó cũng rốt cuộc nó tới kiếm tiền con. Như vậy là con không được phước mà con lại nuôi lớn cái thằng gian xảo. Có tội đó! Con hiểu không?
(04:11) Cho nên còn mình biết rõ ràng nó nghèo, cho nên mình giúp nó. Mình không có cho ngang xương vậy. Con đi đường gặp ăn mày không cho, nhất định không cho. Nhưng mà tôi biết rõ ràng anh, tôi đến nhà anh tôi cho. Còn tôi không biết nhất định là tôi không cho.
Anh đói anh ráng chịu, nhân quả anh chịu chứ tôi không có thương, cái tình cảm tôi không có lằng nhằng bậy bạ, tôi sống bằng lý trí, tôi không có để cái tình cảm, tôi thấy anh khổ như vậy là trước mặt thấy anh làm bộ khổ chứ chưa chắc anh đã khổ. Anh nhiều khi anh xin tiền tôi ra kia anh ngồi ăn, uống rượu, anh chơi bài bạc nữa khác nữa, chưa chắc. Bởi vì cuộc đời này không có người nào tốt đâu, anh lừa đảo, cho nên vì vậy tôi đâu có phải ngu. Con hiểu không? Như vậy rõ ràng là mình bố thí đúng cách.
Cho nên đừng có thấy cái người đi ăn mày hoài mình cho. Thà mình hãy cho những cái người mà mình biết rằng thật sự có nghèo, là tốt nhất. Còn cái thứ mà láng cháng ở ngoài, kệ anh làm gì anh làm, tại nghiệp của anh, ráng anh chịu, tôi chưa có biết rõ anh thì tôi không có duyên với anh đâu. Con hiểu không? Mà tôi có duyên với anh là tôi biết anh mới rõ. Con hiểu không? Có duyên mới biết rõ người ta.
(05:06) Cũng như bây giờ tôi nói phóng sanh chim. Mà tôi đi đường tôi gặp người ta bắt con chim nó đang… Người ta bắt, người ta bẻ cánh hay hoặc người ta cột giò nó vậy, nó tội quá. Tôi, bây giờ bao nhiêu tiền tôi cũng mua, tôi bỏ, tôi thả. Mà tôi không gặp, thì bây giờ anh bắt đâu anh bắt. Kệ! Tôi không có biết.
Con chim nó có nghiệp nhân quả cho nên nó phải trả nhân quả thôi, tôi không đi tìm nó phóng sanh, tôi tìm phóng sanh là tức là tôi nuôi anh làm cái nghề này. Anh còn bắt chim, mai mốt anh nói có người phóng sanh anh cứ bắt anh nhốt đó để chờ tôi, bán cho tôi. Thì như vậy rõ ràng là Phật giáo cái dạy điều này là dạy anh làm cái nghề ác. Mà tôi là người ngu, tôi là người mà gọi là làm phóng sanh mà lại là ngu. Tạo cho nó bắt bao nhiêu chim để nó nhốt lại đây nó chờ tôi để mua.
Cho nên Phật tử là toàn là theo cái kiểu mà Đại thừa đều là phóng sanh ngu. Nghĩa là nhân quả của con chim đó nó phải trả, nó không có duyên gặp tôi, thì tôi, trước mắt tôi đâu thấy nó khổ đâu. Anh bắt anh nhốt ở đâu, kệ anh tôi không có biết, tôi đâu có đợi nó tôi đi tìm.
Cho nên vì vậy mà bây giờ lỡ tôi đi trên đường thấy anh đương câu con cá lên, nó giãy giụa quá, tôi xin mua con cá này anh bán nhiêu tôi mua, nghĩa là mua rồi tôi thả. Nó có dại nó ăn nữa nó chịu. Rồi bây giờ tôi thấy trước mặt tôi nó khổ, nó giãy giụa nó sắp chết rồi, tôi cứu nó. Đó là nó có nhân quả với tôi, tôi mới gặp nó đang trong cảnh khổ, tôi giúp.
Còn nếu mà hoàn toàn anh bắt anh bỏ trong giỏ, tôi không thấy, kệ. Tôi không có lại mua giỏ anh, tôi thả nó xuống đâu. Cái nhân quả của tôi, tôi thấy cái khổ là tôi giúp mà không có thấy cái khổ thì tôi không giúp, có vậy thôi. Tức là mình phải biết bằng nhân quả con, tức là mình đúng.
(06:26) Còn đối với các sư, các thầy mà cúng dường, thì phải cúng dường những người giới luật thanh tịnh. Những người không giới luật thanh tịnh là ma. Cho nên tôi cúng dường tức là tôi nối giáo ma để diệt Phật giáo, tôi có tội.
Con thấy cái sự cúng dường đức Phật đã dạy rõ mà. Cho nên làm cái gì nó bằng cái lý trí của mình rõ ràng chứ không để tình cảm mình lấn át. Thầy tôi tu sai mà tôi cứ đem cúng dường hoài như vậy rõ ràng là tôi xúi giục ông thầy tôi sai thêm, làm cho tội ông thầy tôi thêm. Như vậy là tôi đâu phải là người tốt.
Còn bây giờ tôi không cúng dường, ông phải ra làm, ông phải… Mặc dù ông là thầy đó, bởi vì tôi không biết, bây giờ ông đã quy y tôi, ông là thầy, nhưng mà ông phải làm đúng, chứ ông không làm đúng tôi không cúng dường ông. Ông phải ra vác cuốc làm sống như người ta. Như vậy là tôi biến ông thầy tôi trở thành tốt. Sau đó ông thầy tôi mới xứng đáng với thầy của tôi.
Còn bây giờ tôi cứ cúng dường cho ông bởi vì ông là thầy tôi, tôi cúng dường ông ngồi không ông ăn, rồi ông lợi dụng người này người khác ông ăn ngồi sung mặc sướng như vậy mà hoàn toàn là ông sống không đúng. Lại là ông phì da, ông ăn đủ thứ hết, mà trong khi mà ông vét từng mồ hôi nước mắt mọi người ông ăn. Rồi chùa ông lớn sách đẹp rồi ông mặc lại sang, rồi lại nhà cửa ông sang, vật dụng thế gian, vật chất dục lạc thế gian đầy đủ hết. Còn nhà tôi thật sự ra tôi làm từng đồng từng cắc tôi không bằng ông chút nào hết.
Nhìn mấy ông thầy ngoài chùa giàu sang rõ ràng là mấy ông không phải là một cái người tu rồi. Nhưng mà tôi lỡ, trước kia tôi chưa biết tôi quy y ông cho nên ông là thầy tôi, bây giờ tôi không cúng dường để cho ông phải đi làm vậy để mà ông biết rằng phải, ông giữ giới luật thì tôi sẽ cúng dường lại. Mà ông không giữ giới luật nghiêm chỉnh thì ông không xứng đáng là thầy tôi. Tôi không cúng dường nữa.
Tôi muốn ông thầy của tôi phải trở thành người tốt, cho nên thầy nếu mà thầy giữ gìn giới luật thì, luôn luôn bây giờ tôi vét từng cái hạt thóc trong nhà tôi còn một hạt thóc, tôi sẽ cúng dường trọn vẹn, vợ con tôi nhịn đói. Tôi muốn thầy tôi là cái gương hạnh tốt, cho nên vì vậy mình mới giúp Phật giáo tốt chứ. Còn mình cứ nhắm mắt mình cúng dường cái kiểu này là coi như là Phật giáo nó suy đồi mất rồi.
Cho nên vì vậy mà trong cái vấn đề mà bố thí để có phước báu hay không phước báu là cái chỗ làm cho đúng đắn thì nó phước báu. Bởi vì nó phước báu, thí dụ bây giờ mình vì cúng dường ông thầy mà ông thầy phạm giới này, ông sẽ làm cho tất cả những cái tinh thần tư tưởng của mọi người đệ tử, tức là tín đồ Phật giáo nó suy bại.
(08:26) Còn bây giờ nó biến ông thầy trở thành cái gương hạnh giới luật nghiêm chỉnh rất tốt, thì nó làm cho cái tinh thần của những cái người mà tín đồ Phật giáo này nó càng sáng sủa ra, thì nó tốt cả cái Phật giáo. Thì do đó cái vấn đề cúng dường này nó có phước báu hay không phước báu thì cái hành động này mình biết rõ rồi. Cái này là phước báu chớ còn cái kia là không phước báu mà, rõ ràng là đem cái suy đồi mà sao phước báu được.
Đem cái ngu si của mình phục vụ cho một cái ông mà chạy theo dục lạc, mà hưởng dục lạc vậy, bây giờ ông mập ông béo mà gia đình mình vợ con ốm nhom ốm nhách mà cứ cung cấp cho ông mà, thì như vậy rõ ràng là mình quá ngu si. Đó như vậy là nó có phước báu chỗ nào đâu. Có nhiều người Phật tử cứ lo cúng dường cúng Phật, cúng dường cho chư Tăng rốt cuộc rồi gia đình mình ốm nhom, ốm nheo, ông thầy càng ngày càng mập ra, mà phước báu mình đâu không thấy.
Còn cái kia con thấy giữ gìn cho ông thầy mình giới luật nghiêm chỉnh. Nó tạo ra cái tinh thần, mọi người thấy buông xả người ta mới an lạc ở trong cái môi trường đó liền. Đó là cái phước báu chứ cái gì. Con hiểu cái chỗ mà cúng dường phước báu chưa?
Phật tử: Dạ con hiểu rõ.
(09:25) Phật tử: Dạ mô Phật. Bạch Thầy! Cho con hỏi thêm. Thí dụ như bây giờ trong sáu cái nghề mà đức Phật coi như cấm đệ tử của mình làm.
Thí dụ như gia đình huynh đệ của con có người làm như thế mà không từ bỏ được. Thì bản thân huynh đệ của tụi con đó cũng sử dụng cái tiền đó trong ăn, uống, mặc và tất cả các chi phí sinh hoạt hàng ngày. Thì như vậy là huynh đệ đó cũng bị cái ác nghiệp đó sau này nó chi phối phải không Thầy?
Trưởng lão: Nó chi phối, mà ngay trong cuộc sống nó cũng vẫn có những cái ác nghiệp đó, nó chi phối. Chứ chưa nói chi mà sau này cái thời gian mà tương lai nó xa. Nó cũng vẫn trong cái hoàn cảnh đó, trong cái nghề đó nó sẽ làm cho người ta không có thoải mái đâu.
(10:06) Phật tử: Bạch Thầy! Thí dụ như huynh đệ đó đã được Thầy chỉ dạy rồi. Rồi gia đình của huynh đệ đó đã vào gặp Thầy rồi. Nhưng mà…
Trưởng lão: Không có chuyển.
Phật tử: Coi như là không có đủ nhân duyên để mà Thầy chuyển họ ra khỏi ác nghiệp đó. Thì trong huynh đệ tụi con, trong cái nhóm mà tụi con thấy tụi con cũng xót xa lắm.
Nhưng mà bây giờ tụi con nếu mà góp ý huynh đệ đó thì tụi con thấy là tụi con, cái thứ nhất là không đủ lực, cái thứ hai là tụi con nếu góp ý thì làm cho huynh đệ khổ tâm. Cho nên là tụi con cũng đành là không có đề cập đến nữa. Rồi cứ để huynh đệ đó, thì như vậy là đối với huynh đệ đó tụi con có…
Trưởng lão: Theo Thầy thiết nghĩ, mà trong khi đã là huynh đệ thì mình nhắc khéo thôi, chớ không nhắc thì cũng như là mình không hết cái bổn phận đối với huynh đệ. Bây giờ mình nhắc sợ huynh đệ đó đau khổ, cái đau khổ này chứ nó sẽ hết đau khổ sau này. Còn hiện giờ thì nhắc nó trái ngược với cái việc người ta sống mà, thì người ta phải đau khổ vậy, nhưng mà mình mạnh dạn mình góp ý.
(11:08) Bởi vì Thầy nói thật sự ra, thay vì cái người đó họ tự họ phải chuyển cái nghiệp của họ, tức là họ phải chuyển cái nghề thì họ mới thoát khỏi cái khổ. Mà họ cứ chấp nhận trong cái nghề này, thì tức là họ không có chuyển cái nghiệp của họ thì mình làm sao chuyển được.
Nhưng trước cái tình trạng mà huynh đệ đã chấp nhận nhau huynh đệ thì không nỡ mà làm ngơ. Cho nên mình có những cái lời nói khéo léo, thì trong khi đó cái lời nói khéo léo đó không phải lúc nào mình cũng nói được. Nó có cái gì mà xảy ra ở trong cái gia đình này, nó có cái sốc hay gì đó mới nhắc: “Đây là nghề nghiệp không tốt, cho nên anh thấy khổ chưa?”. Mình khéo vậy đó, người ta mới bị cái sốc đó đó, mình nhắc cho người ta mới chợt tỉnh. Do đó người ta mới có cái sự thức, giúp đỡ cho người ta để mạnh dạn người ta chuyển.
Chứ người ta yếu đuối lắm, bây giờ thấy cái nghề này nó sống cũng thấy cũng tạm ổn. Từ đó cái ổn đó nó mang theo những cái quả mà người ta đâu thấy được. Mà mình thì không nỡ nhẫn tâm mà như vậy, để cho người này phải sống ở trong cái sáu cái nghề mà đức Phật đã cấm, đã không cho cái người cư sĩ làm.
Thế mà cái người này đã hiểu biết như vậy rồi mà vẫn làm, tức là trái lại cái lời của đức Phật dạy rồi, mà khi mình theo Phật mà không làm đúng lời dạy của đức Phật thì mình có xứng đáng là đệ tử Phật? Cũng như một đứa con mà nó cãi lời cha mẹ thì cái đứa con đó nó có hiếu không? Nó bất hiếu đó. Do đó nó sẽ thọ lấy những cái quả khổ của nó thì nó phải chịu rồi.
(12:24) Chứ điều mà nó bất hiếu thì nó phải chịu những cái quả khổ đó, chứ nó không chạy đâu nó khỏi, tránh khỏi cái nhân quả đó. Thì nó đang sống ở trong cái nghề này, mà nó khi mà có duyên được nghe cái lời của đức Phật dạy, thì coi như là đức Phật đã trực tiếp dạy nó mà nó không chuyển, tức là đứa con này đứa con bất hiếu.
Thì mấy con chỉ cần nhắc nhở khéo léo. Anh cứ nghĩ coi một đứa con mà nó cãi lời cha mẹ của nó như vậy, thì anh bây giờ anh đâu có nghe cái lời của Phật dạy là sáu nghề không có làm mà. Bây giờ cái nghề của anh nó nhè nhằm trúng cái chỗ mà lời Phật cấm rồi. Thế mà anh làm, thì anh có phải xứng đáng là đệ tử Phật không? Thôi mai mốt anh đừng có nghĩ anh là đệ tử Phật nữa đi, thì anh cứ làm, rồi anh quả nào thì anh chịu lấy.
Chứ không lý mà bây giờ anh là Phật tử rồi mà anh làm như vậy thì anh chị nghĩ như thế nào? Thà làm anh chị đừng có làm Phật tử đi, tôi không nói đâu. Mà là một cái người mà không có tôn giáo gì hết thì anh chị thọ lấy cái khổ gì thì anh chị chịu.
Bởi vì anh chị cứ nhớ rằng hai cái gia đình, một cái gia đình có tôn giáo và một gia đình không tôn giáo. Thì cái hoàn cảnh xảy ra nó đều là khổ như nhau. Cái gia đình nào, hễ con người là cũng có khổ trong đó hết. Nhưng mà cái gia đình không tôn giáo, cái tinh thần tư tưởng họ không có chuyển được, họ không có chuyển được cái đau khổ đó. Cho nên họ chịu ở trong cái sự đau khổ đó.
Cho nên coi vậy cái gia đình nó xảy ra cái tai nạn, cũng giống như cái gia đình này vậy. Nhưng mà cái gia đình này, thì nội tâm của những người trong gia đình mà có tôn giáo này, nó sẽ an ổn. Mà cái gia đình này nó xảy ra cái sự kiện như vậy, mà cái gia đình này không tôn giáo, cái gia đình này đau khổ, nội tâm đau khổ.
(13:47) Ở cái phần này là cái phần thuộc về tâm linh rồi, phần về tâm rồi, cho nên cái tâm nó giải quyết được. Còn cái hoàn cảnh nhân quả thì phải thấy rõ ràng nó vận chuyển, thì hai gia đình này đều là có cái sự hoàn cảnh nó xảy ra giống nhau, nhưng mà cái nội tâm của những người trong gia đình này nó an ổn hay không là an ổn là nó khác xa. Cho nên cái người có tôn giáo nó khác với cái người không tôn giáo.
Chứ mấy con cứ nghĩ rằng: “Tôi theo tôn giáo tôi cũng thấy nó cũng hoàn cảnh nó xảy ra vậy, cái người không theo tôn giáo nó cũng vậy”. Thì như vậy là rõ ràng là hai cái hoàn cảnh này là hai hoàn cảnh nhân quả, thì nó phải có những cái sự kiện xảy ra của nhân quả rồi. Chứ làm sao mà tôi theo Phật giáo mà cái nhân quả của tôi nó dừng lại được đâu, nó không có cái chuyện này đâu, không phải có cái chuyện này. Nhưng vì nội tâm của tôi biết chuyển nó, mặc dù nó có đến nhưng mà tôi vẫn an vui.
Cũng như bây giờ anh có cái nhà, tôi cũng có cái nhà đẹp như nhau, cái nhà anh bị lũ lụt nó sập đổ, nhà tôi cũng bị lũ lụt sập đổ. Nhưng mà vợ chồng của tôi sống trong cái cảnh mà màn trời chiếu đất nó an vui, còn anh lại sầu khổ nè, anh lại chết điêu chết đứng nè, phải không? Anh khổ hơn tôi nhiều.
Cho nên cái tâm trạng của anh bây giờ nó khổ, mà cái tâm trạng tôi, cái hoàn cảnh tôi thì nó cũng giống như anh nhưng mà gia đình tôi không khổ. Tôi chấp nhận được cái nhân quả, tôi đã hiểu được nhân quả, cho nên tôi an vui trong cái cảnh đó, cho nên tôi thấy thanh thản, an lạc tôi cố gắng tôi làm khác. Còn anh thiếu điều anh muốn tự tử anh chết luôn đó. Có phải không? Con thấy không?
(14:58) Cho nên có tôn giáo nó đỡ lắm, mặc dù bây giờ cái tôn giáo nó sai đi, nó không tự lực nó cứu nó, mặc cái nó nhìn nhân quả thì nó đến chùa này kia nó cầu khẩn, nó hy vọng rằng ngày nào đó nó mạnh giỏi thì nó sẽ làm ăn lại được, chư Phật hay hoặc là Thánh Thần phù hộ nó, nó cũng an ủi được cái tinh thần của nó, nó cũng an hơn. Còn anh không biết dựa ai lưng hết, cho nên trọn vẹn anh cái đau khổ, có đúng không?
Mặc dù đây là mê tín nhưng mà cái mê tín nó cũng là cái… Thầy nói cái tôn giáo sai đi, nó không tự lực nó, nhưng mà cái mê tín nó cũng giúp cho nó được an ổn tinh thần nó trong cái hoàn cảnh khổ của nó.
Anh, cái nhân quả, khi mà anh sanh ra trong môi trường nhân quả thì anh cũng như tôi, chứ tôi không khác anh đâu. Tôi theo tôn giáo thì tôi… Cái hoàn cảnh của anh sao thì tôi cũng vậy thôi. Nhưng mà cái phần mà giải quyết được tâm linh của tôi, cái tâm của tôi thì tôi có khác hơn anh. Tôn giáo có dạy tôi cái điều này, còn anh thì anh không được học ở trong cái tôn giáo cho nên anh thấy khổ.
Đó cho nên vì vậy, mà khi mà mình xác định anh thấy, mình có lúc phải quyết định mà, mình thấy người bạn mình vậy đó, mình cứ quyết định: “Anh làm như vậy, anh suy nghĩ anh có xứng đáng là đệ tử Phật không? Anh cãi lời Phật mà, anh đã đọc sách Phật, lời Phật dạy là sáu nghề không làm, anh còn làm tức là anh có phải xứng đáng lời Phật không?”. Đứa con bất hiếu rồi.
(15:58) Phật tử: Bạch Thầy! Riêng cái chỗ này là huynh đệ tụi con lại kẹt cái chỗ này. Tại vì khi muốn góp ý huynh đệ như thế, thì tụi con cũng đặt mình vô cái vị trí người ta, thì tụi con cũng có mạn đàm với nhau, tụi con đặt vị trí của tụi con hỏi là, thí dụ bây giờ mình đang sống bằng cái nghề như thế, gia đình đang sống một cách sung túc như thế, bằng cái nghề ác nghiệp như thế thì liệu mình có đủ dũng cảm mình từ bỏ hay không? Cái đó, tụi con đặt mình vô vị trí đó, rồi tụi con mới xem thử mình đủ dũng cảm chưa, thì nếu mà chưa đủ dũng cảm thì tụi con phải làm cái gì?
(16:27) Trưởng lão: Đó bây giờ đó, thì thay vì đó, mình phải dũng cảm, mình phải biết thiện ác ở trong này rồi thì mình phải nghị lực. Thà là tôi nghèo đói nhất định tôi không làm cái những nghề này. Chắc chắn là con người sanh ra làm gì đó, bao nhiêu người ta đâu phải làm nghề này mà người ta sống hay sao.
Cho nên mình đặt thành vấn đề là cái nghề này là nghề ác, nhất định là tôi phải dứt. Ngăn ác, diệt ác mà sanh thiện, tăng trưởng thiện. Dù tôi nghèo đói, dù tôi có một ngày một bữa cháo thôi chứ chưa nói có cơm ăn, nhất định tôi cũng không làm ác nữa. Đó là cái người của đệ tử của Phật mà, thà chết chứ không làm ác. Như vậy là có cái sự quyết định, cương quyết ở trong những cái này thì mới chuyển được cái ác chứ còn…
Nếu mà anh không chuyển được cái nghiệp này thì tham, sân, si anh làm sao anh chuyển nổi được trong nội tâm của anh. Ngay cuộc sống anh, anh chuyển không nổi mà, anh còn sợ đói sợ khát, anh còn thấy bây giờ hàng ngày anh làm ra tiền, ra này kia, đời sống anh sung túc như thế này, anh tưởng đó là hạnh phúc lắm sao? Cái nhân quả này kiếp sau anh bỏ được như vậy nữa sao? Anh sẽ trả bao nhiêu cái thân mạng của chúng sanh đó chớ. Cái điều đó anh phải nhận thấy, điều đó là cái điều mà đưa đến cái đau khổ.
(17:20) Phật tử: Dạ, con bạch Thầy! Thí dụ như con bây giờ, ví dụ gia đình con là đang sinh sống bằng cái nghề, con đang rang cà phê, để mà con rồi xay thành bột rồi con bỏ người ta, bỏ quán để người ta chế biến, rang xay chế thành cà phê ly cho khách uống. Thì trong cái vấn đề mà con sản xuất cà phê đó, thì ban đầu đó thì con cũng tìm cách là con hạn chế những cái gì mà dính với cái ác nghiệp trong đó.
Chẳng hạn như là bơ vậy, phải tìm cái loại bơ nào không làm từ động vật ra, thí dụ như không có giết hại chúng sanh chẳng hạn. Bây giờ hiện nay bơ trên thị trường, những cái chất mà nguyên liệu để mà kết hợp với cà phê, để nó thêm cái hương vị thì có một số nhiều trong đó là bơ, nó dùng mỡ động vật rất là nhiều.
Nhưng mà khi con phát hiện ra được đó, thì con, nghĩa là mặc dù cái hộp bơ nó rẻ thôi, thí dụ như một hộp bơ đó là nó năm chục ngàn, thì con cũng từ bỏ. Con phải mua cái loại bơ nào mà cho dù nó mắc gấp ba lần cũng được, mà không có dính dáng gì tới cái máu của động vật, thì con làm.
Thì tất nhiên thì con biết cái nghề sinh sống là cũng gây nhân quả cả. Nhưng cái nghề con làm thì mặc dù con cố gắng con tránh những cài gì mà dính dáng đến chuyện đau khổ của chúng sanh, nhưng mà con với trí tuệ của con, con không biết cái nghề của con tạo nghiệp như thế nào? Nó có nằm trong sáu nghề mà đức Phật cấm?
(18:31) Trưởng lão: Không! Nó không nằm trong sáu nghề đó. Bởi vì trong sáu cái nghề đó là sáu cái nghề sát sanh, sáu nghề đau khổ đó. Mà cái nghề con thì không sao cả, bây giờ nhìn lại thì con xét qua cái chất cà phê nếu mình đừng có nghiện ngập nó đó, đừng có bị ghiền nó đó thì nó cũng vẫn là có cái chất bổ, nó giúp tốt mà nó là cái thiện chứ không phải không.
Cho nên vì vậy mà con làm nghề đó mà con biết chọn được cái bơ để mà, cái loại bơ mà thực vật đó thì con tạo nó để cho giúp cho cái chất cà phê của mình cho nó ngon, để cho mình tiêu thụ cho nó dễ dàng. Còn mình dùng cái bơ mà có động vật ở trong đó có mỡ động vật thì con nên tránh thì nó hay. Con sáng suốt lắm, đó là cái sáng suốt của con, con làm đúng thiện pháp, không sao đâu.
Thầy xác định trong cái vấn đề đó, nếu mà con mà bán rượu là Thầy cấm đó, mà nếu mà con không có bán rượu thì được bởi vì rượu nó ảnh hưởng lắm. Cà phê thì thật sự ra con thấy, từ cái viên kẹo, từ viên kẹo người ta cũng vẫn cho chất cà phê trong đó mà, socola đồ con thấy, đó thì tất cả những cái điều đó là trẻ con đều là ưa thích ăn, mà nó đâu có độc, nếu mà độc thì người ta cấm người ta đâu có cho nó ăn đâu con. Nó sang cái chỗ mọi điều tốt chứ không có gì đâu, nhưng mà nó là thiện pháp.
Con biết tránh dùng những cái mỡ của động vật ở trong cái bơ để mà làm cho cà phê chất ngon thì một mặt thực vật thì mới sống thiện. Vậy là cái nghề nghiệp của con đúng không sai đâu, con khỏi lo.
(19:44) Còn cái này bây giờ mới… Từ cái chỗ mà cái nghề ác này chuyển toàn bộ qua cái nghề thiện đó, thì nó cả một vấn đề chứ không phải, nó thay đổi một cuộc sống của người ta. Bởi vì nó, người ta lấy ác nghiệp này người ta làm cái chánh nghiệp của người ta đang trong cuộc sống thì nó, để mà nuôi sống người ta trong tà nghiệp này, nó sẽ gây cái đau khổ. Mà đây là cái nghề nghiệp là nó nằm ở trong cái chánh nghiệp hay cái tà nghiệp.
Đó thì do đó khi mình xét được cái nghề nghiệp của mình rồi thì mình biết đây là tà hay chánh, mà hễ là chánh thì nhất định là duy trì mà làm, mà tà thì nhất định là chấm dứt. Dù là không có cơm ăn, dù là có chết đi nữa nhưng mà chết trong thiện pháp, chứ không thể nào mà ác pháp. Thì cái cương quyết của người đệ tử của Phật nó phải cái gan dạ và cương quyết như vậy, nó mới chuyển.
Cho nên từ một cái người mà bán cá mà Thầy đã dạy cho họ, họ chuyển qua bán cái bông, trái cây, thì Thầy thấy từ cái chuyển qua bây giờ người ta khá giả, người ta giàu lên được. Còn hồi bán cá nó vừa tanh hôi mà vừa này kia nọ, thế mà trong lúc đó muốn chuyển người ta thấy khổ lắm, nó mất bạn hàng của mình hết rồi.
Hàng ngày cái số mà người mà hôm mua cá mình quen đó, bây giờ đến đây thì coi như mình chuyển rồi, người ta sẽ mua người cho khác rồi, thì mình sẽ mất. Và đồng thời mình đi mở bán bông thì cái người mà khách hàng mà mua bông mình, mới thì nó chưa có nhưng mà lần lượt rồi sẽ có. Cho nên mới đầu thì họ vất vả lắm, họ thấy như là mình ở trên trời mình sụp xuống đó, trong cái sự thay nghề. Cho nên vì vậy mình chấp nhận.
(20:58) Cho nên khi mà thay nghề thì cái cô này cô lên cô có tâm sự với Thầy, cô mới nói: “Thiệt ra con đổi qua nghề này thì con thấy như chới với, gia đình con nó thiếu hụt, rồi con cái nó không có hiểu, nó đòi đồng bạc này kia, đi ăn học. Trời ơi con thấy nó rối! Bởi vì hồi đó cái đồng bạc của mình nó bán như vậy thì nó chi phí nó còn dư, còn bây giờ chuyển qua đây thì coi như nó thiếu”.
Cho nên trong cái thời gian đầu đến với Thầy than phiền. Thầy nói: “Thà là con chết, mà con giữ được thiện pháp hơn là con đi bán cá mà hàng ngày con phải đập đầu cá để cho người ta đem về thì con thấy như thế nào? Nó giãy giụa quá đau khổ mà con nỡ nhẫn tâm sao? Cho nên vì vậy mà con là một cái người mà đã theo Thầy, đã theo Phật thì con phải nghĩ cái điều thiện. Thà là bây giờ một ngày con không có cơm, con ăn cháo đi, nhưng mà con sẽ thấy sau này cái phước con đến”. Đúng vậy, sau này từ cái chỗ nó phát triển được, khách hàng bây giờ người ta thấy cái người này bán bông trái quá là thật thà, quá là tốt, cho nên từ đó mà người ta rất đông người.
Cho nên từ cái chỗ mà nó khó khăn thì người ta lại vượt qua cái khó khăn, bây giờ rất là khá giả. Cho nên những cái tượng Phật Quan Âm rồi này kia, là mấy cái người này mà khi mà họ bị chuyển cái nghề qua nó khổ quá đó, họ đến cầu Phật Quan Âm không à. Cho nên họ phát nguyện là: “Nếu mà tôi khá giả được, tôi sẽ thỉnh đức Phật Quan Âm về tôi thờ ở trên này”.
Cho nên cái cô đó, khi mà cô làm ăn được rồi bắt đầu cô thỉnh đức Phật, cô không nói Thầy, thỉnh lên cô thờ đó. Thôi Thầy nói: “Lỡ rồi thôi, chứ giờ không lẽ bây giờ đem đi đâu giờ”. Thôi Thầy nói: “Đó là cái hạnh nhẫn nhục thôi, con nhẫn nhục mà con chịu đựng để con qua chứ không phải Quan Âm phù hộ con đâu, con hiểu điều đó”. Nhưng mà hồi người ta tin tưởng là người ta tưởng Quan Âm phù hộ, con hiểu không? Chính cái nhẫn nhục mà chịu đựng trong cái khổ mà nhiều quá cũng tốt.
(22:31) Cho nên vì vậy mà Thầy cũng nghĩ tưởng là nó sẽ chuyển qua được rồi, ai ngờ đâu mà tới bây giờ nó chuyển không nổi. Chứ cái tâm nguyện của nó cũng muốn lắm đó, cho nên nó muốn đưa vợ nó vào đây, rồi gặp Thầy để mà Thầy giải quyết, nhưng mà cuối cùng thì nó không chuyển nổi vợ nó.
Thầy biết tâm nguyện của chú cư sĩ đó là muốn lắm. Nhưng mà nếu mà còn cái dịp mà gặp Thầy, mà Thầy thúc đẩy hoàn toàn Thầy thúc đẩy một trăm tám mươi độ, nghĩa là lật ngược qua, dẹp liền tức khắc. Bởi vì không có gì, bị xa quá, chứ nếu gần gần mà có gặp Thầy, kêu vô hàng ngày Thầy nhắc nhở, Thầy thúc đẩy riết dẹp qua liền, rồi chừng đó cái chịu cái cảnh khổ trong có mấy tháng, nó qua con.
(23:08) Phật tử: Dạ, bạch Thầy. Cái nó mê lắm. Thì gia đình con cũng tạo điều kiện, gia đình con cũng hợp đồng xe để rủ gia đình huynh đệ đó.
Trưởng lão: Được. Vậy là giúp huynh đệ của mình. Đó là cái, kêu là bố thí phước đó con. Tạo cho một người bạn mình sống trong thiện pháp, hành trong nghề thiện đó là cái phước rất lớn đó. Cả một cuộc sống người ta mà mình chuyển cho người ta qua cái nghiệp thiện mà nó khó chứ không phải dễ. Nhưng mà con tạo rồi Thầy cố gắng Thầy khắc phục để chuyển qua, rồi mình chuẩn bị, để mà mình chuẩn bị coi cái nghề gì mà cái người này nó sẽ chuyển qua, để mình gợi ý rồi người ta chuyển qua cái nghề đó.
Hồi mà cái cô kia mà không có bán cá đó, thì cô không biết là cô chuyển cái nghề nào. Thầy nói con sẽ bán mà trái cây, Thầy gợi ý thôi, chứ thầy đâu có bảo. Thầy bảo con bán trái cây, bán bông rồi cũng được vậy chứ đâu có gì đâu. Thì không ngờ, Thầy nói vậy mà nó về nó làm thiệt, nó đăng ký nó bán trái cây, bán bông ở đầu chợ.
Thì đó rõ ràng mình gợi ý thôi, thì tức là khi mà về Thầy mà… Lần sau này mà gặp Thầy, là Thầy sẽ gợi ý cho một cái nghề, tức là Thầy quan sát coi nó có thể sống ở trong cái nghề nào mà cho nó phù hợp để cho nó vươn lên được trong cái nghiệp quả của nó đang tạo cái khổ nó đó. Thì nó, Thầy sẽ gợi ý.
(24:19) Phật tử: Mô Phật. Dạ buổi hôm nay câu hỏi cuối cùng. Là không biết hôm nay là…
Trưởng lão: Con chờ Thầy chút.
Phật tử: Huynh đệ của con có đủ duyên hay không? Nếu mà đủ duyên thì con xin Thầy cho tụi con biết ngày mà thành đạo của Thầy. Là vì hôm trước con có thỉnh Thầy một lần, Thầy nói nếu có duyên nào đủ thì Thầy sẽ công bố để riêng cho người khách đó. Nhưng mà tụi con, cái điều này tụi con rất là thiết tha. Chắc có lẽ cũng không phải là riêng cái nhóm tụi con đâu, mà rất nhiều huynh đệ, không biết là có đủ duyên, xin Thầy cho tụi con biết. Nếu chưa đủ duyên thì…
(24:49) Trưởng lão: Cái câu hỏi này. Chắc có lẽ là cái câu hỏi này là nhiều người muốn biết, muốn biết cái câu hỏi này. Thì do đó thì chắc chắn là Thầy sẽ trả lời không có riêng gì cho một cái nhóm nào hết. Mà Thầy trả lời trong một cái tập sách nào đó, là về cái ngày đó.
Để rồi khi mà họ đọc tập sách đó thì mọi người cũng đều biết. Hay hơn cho bây giờ Thầy trả lời riêng cho một cái nhóm con, mấy con biết thôi, còn có những người khác họ không biết. Nhưng mà Thầy biết họ chưa có ngờ, và cũng khi mà họ biết họ rất mừng. Thì do vì vậy thì Thầy sẽ, cái tập sách nào đó, thì có thể là Thầy sẽ nói đúng cái duyên của nó.
Ví dụ như bây giờ cái tập sách mà Giới Đức Làm Thánh, mỗi vị Thánh thì khi mà tu tập mà có cái ngày mà chứng đạo như thế nào đó. Như đức Phật ngày nào, thì lúc bấy giờ nhân cái dịp đó mà Thầy mới nói ra. Chứ không khéo, mình nói ra, tới chừng mình nói ra không có hay chút nào. Nó phải có cái duyên, tạo cái duyên cho nó có cái duyên, rồi mình mới nói. Tức là mình muốn nhắc lại những cái lịch sử gì của chư Phật, chư vị A La Hán thì trong đó đó mình sẽ nói cái vấn đề đó. Như còn Minh Tông mà nói ra thì khoe khoang quá.
(25:54) Phật tử: Dạ bây giờ con có anh Minh Thiện, anh nhờ con là. Anh có người bạn là chị Nguyễn Thị Lan Anh. Năm ngoái đầu hè có vô gặp Thầy rồi xin quy y Thầy, mà chưa có pháp danh rồi cũng như có cái phái quy y.
Trưởng lão: Chưa có phái quy y hả con?
Phật tử: Dạ. Anh nhờ con thưa với Thầy cho chị cái pháp danh, cái phái quy y.
Trưởng lão: Rồi, Thầy sẽ cho cái pháp danh và cái phái quy y.
Phật tử: Dạ để con mang về. Lần trước hai vợ chồng anh có vô gặp Thầy. Lúc Thầy đang vừa mới phục hồi.
Trưởng lão: Dường như là có mấy cái tờ quy y rồi mà không biết của ai. Để Thầy soạn coi có phải không con. Con có ghi cái tên phải không con?
Phật tử: Dạ, chị là Nguyễn Thị Lan Anh.
Trưởng lão: Nguyễn Thị Lan Anh hả con?
Phật tử: Nhà ở Phú Yên.
Trưởng lão: Để Thầy coi lại mấy tờ đó chưa có trao trong cái nhóm ở Phú Yên mà không biết ai đây.
Phật tử: Dạ.
Trưởng lão: Để Thầy coi thử coi, rồi Thầy có thể…
(26:33) Phật tử: Nhưng bạch Thầy, hôm nay là con vô đây là có thêm một cái nhiệm vụ nữa. Là hôm trước Liễu Châu có vô là xin Thầy chụp hình những cái nơi mà làm việc, sinh hoạt của Thầy để sau này làm kỷ niệm, thì Thầy cũng đồng ý, nhưng mà Liễu Châu không thạo chụp hình, chụp không được, hư hết.
Cho nên là hôm nay con vô để xin Thầy chỉ dẫn cho con chụp từng nơi, những nơi hết, để sau này con làm những tư liệu. Rồi sau đó con chụp, tuyên bố con chụp hết cả Tu viện luôn, từng khu, từng khu, từng khu luôn. Để con làm cái tư liệu cho cả nhóm, nếu các huynh đệ được tụi con phổ biến, tập trung hết. Khi nào Thầy rảnh thì…
Trưởng lão: Rồi Thầy rảnh rồi Thầy…
Phật tử: Thầy đi. Dạ bây giờ. Có lẽ Thầy phải tiếp có nhiều Phật tử.
(27:14 - 45:50): Không có tiếng nói.
HẾT BĂNG
PHẬT TỬ THAM VẤN 02 - 12 NHÂN DUYÊN - ĐỊNH VÔ LẬU
Trưởng lão Thích Thông lạc
Người nghe: Phật tử
Ngày giảng:…
Thời lượng: [45:39]
(00:08) Phật tử: Thưa Thầy, trong cái Thức của Mười hai Nhân duyên, trong tập Đường Về Xứ Phật tập 1 thì Thầy dạy rằng: Vì Vô Minh không thấu rõ các pháp thế gian, lầm chấp chúng là thật có mà hành động chạy theo tâm ham muốn, sanh ra các ác pháp, tạo biết bao nghiệp khổ đau, và do thế kinh dạy là vô minh sanh hành, hành động theo ham muốn dục lạc, chạy theo ái dục sanh ra thức, nên kinh dạy “Hành sanh thức”. Thức kết hợp với noãn và tinh sanh ra danh sắc nên kinh gọi: “Thức sanh danh sắc”.
Và ở trang 212 Đường về xứ Phật tập 1, mục Tâm bất an thì Thầy đã dạy, nghiệp đi luân hồi, tức là nghiệp tạo duyên Vô Minh. “Ví dụ như một nam một nữ do đắm nhiễm tình dục nên tạo thành nghiệp ái dục, tức là sự ưa thích tình dục nên họ hành động gần gũi nhau, tạo ra thức. Họ không biết tình dục sau đó là một sự khổ đau, sự khổ đau tức là ác pháp. Họ không biết ác pháp khổ đau nên họ lấy nhau nên đó là vô minh của nghiệp ái dục, tạo nên duyên hành “lấy nhau”. Do hành động lấy nhau tạo duyên Thức, thức này là thức nghiệp ái dục, nên tất cả các loài vật sanh ra không ai dạy cũng biết dâm dục, vậy dâm dục tức là nghiệp. Thưa bạch Thầy, như vậy cái thức này là cái nghiệp ái dục, như vậy cái nghiệp ái dục này trong mười hai nhân duyên, thức này thuộc về cha mẹ hay là thuộc về con, thưa thầy.
(01:42) Trưởng lão: Đầu tiên mà Thầy giảng cái đầu tiên đó, là cái thức đó là do nhân quả tạo thành nghiệp và tạo thành thức, con hiểu không? Đó là con. Còn cái nghiệp mà một chú thanh niên và một cô gái này đó, mà họ vì vô minh cho nên họ tưởng lầm chấp cái ái dục, cái sắc dục đó là hạnh phúc của họ, cho nên họ mới ôm nhau, họ thương nhau, họ mới lấy nhau, đấy là do vô minh nó mới biến ra cái hành động đó mà tạo ra cái thức, đây là thức của cha mẹ. Cho nên hai cái này nó phải tương ưng nhau mới thành ra được chứ không phải có một chỗ.
Vì nghiệp của cái đầu tiên, là vô minh sanh hành, hành sanh thức, do vô minh mình mới tạo ra thức nên mình đắm chìm trong thức và mình tưởng cái thức đó là cái linh hồn của mình, lầm chấp cái đó cho nên mình mới tạo ra nó. Do đó bây giờ bên đây, cũng như cái, đây là cái môi trường, hiện trường của nó là hai cái người này họ thương nhau, họ mới lấy nhau. Họ cũng tạo ra, theo cái vô minh đó mà nó thành ra cái hành với cái thức. Còn bên đây đó, thì cái nhân quả mà cái người này, khi mà nó do một cái nhân duyên, nó tạo thành một cái nghiệp, thì cái nghiệp nó cũng nằm trong mười hai nhân duyên đó để mà nó phối hợp, cho nên hai cái nghiệp này nó cũng đứng ở trong cái mười hai nhân duyên. Cho nên vì vậy mà mười hai nhân duyên này nó hợp lại nó mới thành ra một con người như chúng ta, tức là cái duyên của quá khứ và cái duyên của hiện tại. Hai vợ chồng này là hiện tại, mà hai cái nhân duyên này ở trong quá khứ.
(03:18) Phật tử: Dạ bạch Thầy, như vậy thì khi tụi con đọc tới đây thì con thắc mắc ở chỗ, như vậy thì tụi con đi luân hồi sanh tử là do nghiệp đời trước, vậy nghiệp này có nằm ở trong duyên Thức của mười hai nhân duyên này hay không.
Trưởng lão: À cái thức, coi như là, trong khi đó tất cả một khi mà một người hoại diệt rồi, thì nó, trong cái hoại diệt, đều là cái thế giới nhân duyên, đều rã hoại ra, thì nó còn cái nghiệp của nó thôi. Cái nghiệp đó thì nó có cái từ trường của mười hai nhân duyên chứ không phải chỉ có một cái từ trường của nó đâu. Mỗi hành động nào nó phóng ra cái từ trường đó. Thí dụ vô minh, thì nó phóng ra cái từ trường của vô minh. Rồi cái hành, thí dụ đưa ra cái tay như vậy đó, có cái từ trường của cái hành. Rồi cái thức, thì nó có cái từ trường của cái thức. Cho nên nó có những từ trường của nó, mà những cái đó nó phối hợp lại nó thành một cái nghiệp. Do như vậy chứ nó không phải có cái linh hồn nào hết, không phải là ở trong đó nó có cái thức được nữa. Nhưng mà nó có cái từ trường của nó. Không thể nào cái từ trường của nó không thành một cái vấn đề, một cái từ trường nó không thành cái vấn đề gì hết, nó không thành đâu. Cho nên nó thành một cái nghiệp của nó, khi mà chúng ta chết rồi cái từ trường đó thành cái nghiệp thôi. Rồi cái nghiệp đó tương ứng với cái hiện tại của cái nghiệp nhân quả, cái vô minh sanh hành, hành sanh thức của cái người cha mẹ nó đó, thì do đó nó tương ưng thì cái người này làm cha mẹ nó. Cho nên nói đi đầu thai thì nó không phải, nó là cái nghiệp nó đi, chứ còn không ai đi…
(04:52) Phật tử: Thưa Thầy là tụi con thắc mắc ở chỗ, trong mười hai nhân duyên như thế, thì hồi tụi con đọc kinh sách của Đại thừa, dạ, cho rằng duyên thức này là hành thức linh hồn đi đầu thai. Và tới duyên sanh thì họ cho rằng sanh này là sanh đẻ, hồi đó tụi con đúng là ngu dốt, nên sau khi gặp Thầy khai sáng rồi thì con mới thấy là, như vậy cái danh sắc này là bắt đầu của sự sanh đẻ, thì cái sanh kia, là Thầy giảng tụi con sanh y là đời sống, rất hợp lý. Nhưng mà tới cái nghiệp mà dẫn dắt chúng con đi tái sanh luân hồi thì tụi con không biết là nó nằm ở trong cái duyên nào. Tụi con nghĩ là cái thức, thì là cái sự biết dâm dục, thì như vậy thì nó thuộc về cha mẹ, bắt đầu từ danh sắc thì mới thuộc về người con.
(05:47) Trưởng lão: Thật sự ra thì coi như là nó có cái liên hệ giữa nghiệp của người chết và cái người làm cha mẹ. Cho nên trong cái nghiệp của người chết nó vẫn chìm đắm ở trong cái dục lạc này, cho nên nó cũng nằm ở trong mười hai nhân duyên. Mười hai nhân duyên này nó kết hợp với nhau nó mới thành cái thế giới của nó rồi, thế giới quan của nó. Cho nên cái thế giới quan của quá khứ và cái thế giới quan của hiện tại, hai cái này nó tương ưng nhau nó mới thành ra một thế giới quan mới của nó, của cái luân hồi nhân quả, thành ra mới tạo cái nhân quả mới. Cho nên cái nhân quả cũ, cái nhân quả hiện tại nó mới tạo thành cái nhân quả tương lai.
Nhưng mà nói một cái chuỗi của nó, khi mà nó hợp nhau thành cái tương lai thì mình mới thấy rõ ràng đây là bắt đầu cho một thế giới quan của một con người. Bắt đầu mình thấy nè, vô minh sanh hành, hành sanh thức. Rồi danh sắc, rồi lục nhập, là mắt tai mũi miệng thân ý của mình, lục nhập, do đó đây nó mới thành cái nhân sinh quan. Bắt đầu vũ trụ quan là ở ngoài sáu cái nó vô, sáu cái vô tức là thế giới rồi. Cũng như là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, sáu cái ở ngoài nó tác động vô, mới sanh ra xúc, ái, hữu, thủ, rồi mới tạo thành đời sống gọi là sanh, chứ không phải tới đó mới đẻ đâu. Còn Đại thừa thì hiểu tới sanh rồi mới đẻ, cho nên nó nói có sanh rồi mới có tử. Không phải, có đời sống này cho nên vì vậy người ta mới có sầu khổ, mới có bệnh đau, mới có chết. Chứ nếu mà không có sầu khổ, không bệnh đau thì chắc không ai chết đâu.
(07:12) Vì vậy mà khi mà người ta cắt sanh y, người ta lìa sanh y thì người ta chỉ có cái mà thực hiện như đời sống của người tu sĩ. Cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, xuất gia sống không nhà cửa không gia đình, đời sống trắng bạch như vỏ ốc, tâm hồn phóng khoáng như hư không. Nghĩa là bỏ sạch hết rồi, thì đó là cách cắt đứt sanh y, nó không còn hữu thủ nữa, nó không còn ái hữu thủ nữa. Thì ngay đó thì cái chỗ mà sanh đó mình cắt đứt, mình đi vào đời sống giải thoát của một người tu sĩ. Thì ngay đó mình tuần tự đi lên thì nó sẽ phá dần vô minh. Nghĩa là từ chỗ xuất gia rồi mình tập tu và tới tuệ thì nó phá vô minh sạch. Chứ còn mình đừng vô ngay cái vô minh mà để mình dùng cái minh ngay đó thì không có được. Bởi vì mình chưa có định thì chưa có tuệ được. Mà chưa có tuệ làm sao mà vô đây mà phá vô minh. Cho nên ở chỗ cái vô minh để phá cái hướng vô minh thì phá không được. Người ta vô chỗ ái mà phá pháp cũng không được nữa. Vô chỗ ái là ngay đó mình đừng cho mắt tai mũi miệng thân ý của mình dừng dính mắc với sáu trần, thì không ai ngăn được nó hết. Hễ nó vừa thấy là dính vô liền không ai mà ngăn nó được.
(08:13) Cho nên nó khó, mà chỉ có mình dứt đoạn sanh y thì được. Mình lìa bỏ, bây giờ cái này tôi bỏ ra cái này, bỏ ra. Bây giờ ngày ăn ba bữa tôi ăn một bữa được. Bây giờ nó ham ngủ tôi tập tôi ngủ ít là được. Chứ còn mình dứt cái kia, dứt không được. Dứt một cái để đừng cho nó dính mắc theo kiểu Đại thừa, mắt thấy sắc đừng dính sắc, nói chứ còn thực sự ra tôi khó cái việc này quá. Nó lý luận thì nó nói hay, nhưng mà cái vấn đề đó mình làm không được. Còn trái lại, cái chỗ mà đức Phật dạy mình dứt sanh y thì làm được.
Còn bây giờ duyên luân hồi thì phải nói là cái nghiệp đi luân hồi. Trong nghiệp đó nó đủ, nó có cái từ trường mười hai nhân duyên chứ không phải mười hai nhân duyên thật. Cho nên nó gặp hiện tại này, nó gặp cái duyên của hiện tại, của mười hai nhân duyên này. Nó cũng do vô minh nó mới hành động này, hành động này mới tạo ra cái duyên để mà trở thành đứa con này. Đứa con này mới thật sự là kết quả của cái thế giới mới, cái giai đoạn thứ 3 của ba cái giai đoạn của nó. Giai đoạn quá khứ, giai đoạn hiện tại với tương lai mới có đứa trẻ này ra đời. Bai cái giai đoạn nằm ở ba cái thập nhị nhân duyên chứ không phải chỉ một cái nhân duyên được.
(09:15) Bởi vì vợ chồng người này cũng là nhân duyên nó mới có thế giới này rồi. Nó mới có xúc chạm mới có lục nhập, có lục nhập nó mới có hai người kết hợp với nhau, nếu không thì không kết hợp được với nhau. Gây ái dục làm cho hai người này thích, rồi vì trên nhân quả quá khứ của người đó cũng ở trong cái mười hai nhân duyên. Cho nên ái dục nó cũng ở trong này, nó cũng thích thú cho nên mới tạo cái từ trường này nó thành ra cái nghiệp. Cái nghiệp nó mới mang đủ mười hai nhân duyên, cái từ trường của nó mà, nó tương ưng với từ trường này, vợ chồng này mới làm cha mẹ nó này, sinh ra nó. Đó mười hai nhân duyên của nó khác nữa chứ, chứ đâu phải mười hai nhân duyên của nó giống cha nó đâu. Mà nó đâu có giống trước cái nghiệp của nó đâu, nhưng mà cái nào nó cũng là mười hai nhân duyên hết, con hiểu chưa?
(09:58) Phật tử: Bạch Thầy chỗ này con hiểu. Nhưng mà khi đọc cái chỗ này thì con thấy nó cũng dễ sinh ngộ nhận đó Thầy, tức là cái thức kết hợp với tinh và noãn, đọc tới đây thì con liên tưởng như vậy Đại thừa cho cái thức đây là linh hồn, hoặc là nghiệp, kết hợp với tinh, noãn tạo nên sắc.
(10:17) Trưởng lão: Cái đó không phải, bây giờ Thầy nói như thế này con. Bởi vì cái duyên nó phải hợp, nói cái thức không có nghĩa là lúc bấy giờ, cái thức là có một duyên, nếu một duyên mà cái thức thì nó hoàn toàn không có thức. Nó không có thức mà người ta tưởng nó độc lập, mình nó là có thức. Nó phải kết hợp với danh sắc bắt đầu nó mới có cái thức hiện ra. Bây giờ thí dụ như cái đầu của con mà không có óc của con, con sẽ không có cái thức đâu. Nó phải có ý căn của nó, cho nên con mới biết qua cái ý căn của con. Cho nên nếu mà cái đầu con chưa có, mà danh sắc chưa có cái thức đi trước rồi, thì họ cứ nghĩ cái thức này là một cái duyên, nhưng mà sự thật nó không phải là cái biết đâu. Nhưng mà không có cái này thì cái đầu nó cũng không biết nữa, con hiểu chưa?
Cho nên vì vậy mà khi nó thành danh sắc rồi, nó phải đủ cái ngũ uẩn của nó thì nó mới có cái biết, mà nó không có ngũ uẩn thì nó không biết đâu. Bây giờ mình lấy nội một cái uẩn rời ra thì không được, bây giờ con lấy sắc uẩn, con lấy cái thân con rời ra, bỏ cái hành cái thức, thì như cái thây ma rồi, nó đâu còn biết đâu. Mà bây giờ con lấy cái sắc, bỏ cái thức uần, cái tưởng uẩn, thì cái sắc này nó cũng đâu có biết đâu. Mà con lấy cái tưởng uẩn hoặc là cái thức uẩn này bỏ rời khỏi cái thân của con thì nó cũng đâu còn. Bởi vì cái này là cái khối của nó, cái duyên hợp của nó là một khối. Bởi vậy nói con người hoặc là vạn vật đều là duyên hợp, mà lấy ra một cái gì thì nó không thành vấn đề nữa rồi. Cho nên nếu bỏ bốn cái này ra còn cái thức, mà nói cái thức này biết thì nó cũng không biết đâu. Mà nếu thiếu nó mà bốn cái này hợp lại mà không có cái thức thì nó cũng không biết đâu. Nó không có làm được cái gì hết. Đó thì nó phải hợp cho đủ năm cái duyên này, gọi là Thân Ngũ Uẩn. Tức là nhân sinh quan mà đức Phật dạy cho ta biết là nói về ngũ uẩn là nhân sinh quan.
(12:00) Mà nói khi mà cái nhân sinh quan này, nó sáu cái căn tiếp xúc sáu trần ngoài thì nó mới mở ra cái thế giới quan. Mà cái thế giới quan ở đây là đức Phật nói nó mở ra thế giới quan của Thập nhị Nhân duyên là nó mở ra cái thế giới đau khổ. Khi nó hiệp với bên ngoài thì nó có đau khổ, mà bây giờ cái thế giới này nó đừng hiệp ở ngoài thì nó không đau khổ. Mà nó không hiệp sao được, khi mà tứ đại này thì nó phải tiếp nhận cái tứ đại khác. Thì nó tiếp nhận vô để nó sống thì nó phải có tiếp xúc rồi. Tiếp xúc thì nó sanh ái sanh thọ, xúc rồi thọ, ái thì nó phải sanh rồi nó phải sanh hữu thủ rồi. Thì như vậy cả một thế giới quan mở ngoài ra cho chúng ta biết, khi có cái nhân sinh quan thì phải có cái thế giới quan trên đó. Cho nên khi có Thân Ngũ Uẩn thì phải có Thập Nhị Nhân Duyên không thể nào chạy đâu khỏi hết. Mà xác định từ đầu vô minh sanh hành, hành sanh thức, đến khi mà cái danh sắc thì chúng ta thấy nó rõ ràng là nó nằm ở nhân sinh quan rồi, thân nó có rồi. Bây giờ nó mới lục nhập sáu cái nhập ở ngoài là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, nhập vào sáu cái căn của sắc uẩn rồi chứ gì, nó mới mở ngoài ra cái thế giới quan. Từ đó nó mới có xúc, xúc mới chạm nhau, nó mới sanh ra ái, rồi thủ, hữu. Các con thấy nó cả một dọc tạo ra cái nguyên nhân đau khổ.
(13:11) Cho nên vì vậy bây giờ mình ngồi tu mà mình bảo đừng nói xúc chạm, đừng cho nó thấy, đừng cho nó nghe thì chỉ còn nước mình điếc thôi, cho nên không làm được đâu. Bởi vì Thầy nói khi mình sống độc cư rồi thì con biết không nó thèm lắm, nó thấy cái cây cũng vui, còn nó ngồi một mình nó buồn lắm, độc cư đó. Cho nên nó phóng dữ lắm, cái tâm mình nó phóng dật đó. À nó đâu có phóng niệm gì đâu, nó nhìn mây nhìn gió, nó phóng ở trên mây trên gió, phóng trên ngọn cây, à người ta tưởng nó hoàn, nó phản bổn hoàn nguyên, nó hòa mình ở trên vũ trụ chứ gì. Như mà Thiền Đông Độ nói rằng ý của tổ sư trên đầu ngọn cỏ đó, mà nó kêu nó hòa trên đó, mà sự thật ra nó phóng dật trên đó, tâm mình nó phóng dật đó, nó sai, không có đúng.
(13:50) Phật tử: Mô Phật! Bạch Thầy như vậy là trong cái mười hai nhân duyên này, cái duyên cuối là cái duyên tử, thì nó cũng là sanh ra cái vô mình không Thầy?
Trưởng lão: Hễ nó tử là bắt đầu…Nó vô minh nó mới tử đó. Rồi bắt đầu nó tử cái nó vô minh rồi, nó không còn biết nữa rồi. Bắt đầu đó cái nghiệp nó đi, nó tự động chứ nó không có điều khiển được. Nó bắt đầu nó vô minh trở lại. Còn bây giờ mình còn đang biết, thì mình biết dục, biết ác, biết thiện này kia nọ đó, thì nó minh trong cái ác mà nó vô minh trong cái thiện, nó không biết cái thiện mà nó cứ biết cái ác. Do đó mỗi con người, người nào cũng biết ở trong cái ác pháp hơn là cái thiện pháp. Cho nên trong đó, khi đó chúng ta chấp nhận thiện, thì chúng ta triển khai cái đó là triển khai cái tri kiến, cái ý thức minh của chúng ta thôi, chưa phải là nó là tuệ đâu, mới triển khai cái tri kiến thôi. Cách thức đó là đi dần dần đến mà triển khai đó.
(14:49) Phật tử: Mô Phật, bạch Thầy, như vậy trong Mười hai Nhân duyên này nó là tiến trình luân hồi sanh tử của mỗi chúng sanh. (Trưởng lão: Nó là tiến trình của…). Như vậy khi Thế Tôn dạy về mười hai nhân duyên này, thì Thế Tôn chỉ riêng cho loài người hay tất cả các loài động vật thưa Thầy?
Trưởng lão: Không, chỉ riêng cho loài người thôi, cái loài động vật không thể nào. Bởi vì…
Phật tử: Nhưng mà tiến trình của mười hai nhân duyên này, nó diễn ra cho tất cả các loài động vật…
Trưởng lão: Nó diễn ra cho tất cả, nhưng chỉ có dạy cho loài người hiểu, cái người hiểu mà được cái mười hai nhân duyên này thì gọi là bậc Duyên giác, giác được Mười hai Nhân duyên. Cho nên cái người mà giác được nhân duyên thì người ta thấy cuộc đời người ta ngao ngán lắm rồi, cho nên người ta bỏ, người ta xuất gia. Nó là cái tiến trình chỉ cho tất cả các loài động vật, còn loài thực vật thì nó không có thức rồi. Nó có sự sống nhưng mà nó không có thức. Cho nên các loài động vật là chỉ chung hết thập nhị nhân duyên. Một con vật nào cũng có mười hai nhân duyên có đủ. Vì nó cũng có ái, có dục, rồi nó cũng tranh giành ăn uống, rồi cũng tranh giành, nó cũng có hữu, thủ hết rồi. Con vật nào nó cũng có hữu thủ hết. Thí dụ như con nó nó thủ dữ lắm, ai lại bắt con nó thì nó cắn mình. Nó thủ đó, nó chấp cái đó. Cũng như mình chấp cái gì mà ai lấy của mình là không được, cũng bị chấp cái chỗ đó, cho nên con vật cũng nằm ở trong mười hai nhân duyên. Cho nên nó thuộc về loài động vật, từ động vật cao cấp cho đến động vật thấp nhất, thì nó thuộc về mười hai nhân duyên hết. Đâu phải nói côn trùng không có, con kiến, con rệp không có đâu, nó có hết à, nó có mười hai nhân duyên của nó, có đủ nữa.
(16:21) Phật tử: Mô Phật! Thưa Thầy, Thầy cho con hỏi, trong cái tu tập các định, thì theo con thấy là cái Định Vô Lậu theo tụi con nghĩ là nó tu khó lắm là vì tụi con như thế này. Trong quá trình ngồi như vậy, ngồi xếp bằng kiết già như vậy, thì như có nghiệp nào nổi lên mà nó gây cho tụi con những niệm nó thuộc về ác pháp, thì tụi con tìm cách đuổi nó đi. Xóa nó đi, quán xét và xóa nó đi. Thí dụ như tụi con quán xét cũng như lời Thầy chỉ dạy. Ban đầu thí dụ tụi con đưa ra cái nhân quả, hay là tụi con đưa vô thường, đưa ra lý duyên khởi, thí dụ thế. Nhưng mà khi con khởi lên một vài niệm để con quán xét, thì ác pháp vừa mới nổi lên trong tâm, nó biến mất. Nhưng mà cái biến mất này chỉ một thời gian ngắn thôi, sau đó là nó quay trở lại. Quay trở lại sau đó là tụi con khởi, thí dụ tụi con đang ngồi như vậy, tụi con lại tiếp tục quán xét nó thì nó lại biến mất nữa. Thì như vậy con thấy là muốn cho nó vô lậu thì thật là rất khó.
Chẳng hạn như tụi con nhớ có lần Thầy chỉ dạy: khi tu tập Định Vô Lậu, thậm chí không cần phải ngồi, cũng có thể lấy giấy viết ra, làm như là một bài luận văn vậy. Nhưng mà tụi con thấy điều này cũng khó lắm, vì khi cầm viết, cầm giấy rồi viết thí dụ con có một niệm lo, thí dụ con lo về đứa con nó đang đau ốm như thế, thì con mới lấy giấy viết ra con ngồi, con chuẩn bị làm cái bài luận văn về đề tài đó, để con xóa cái niệm đó nhưng mà cái này là khó là không thể tập trung được.
(17:45) Trưởng lão: Thật sự ra Thầy nói vậy để cho con thấy này. Khi đề tài hiện ra về một đứa con bệnh đau, bắt đầu mình làm bài luận nói về bệnh của đứa con mình, thì đó là cái bắt đầu mình quán tư duy. Bây giờ mình tư duy, mình mới suy nghĩ để cho cái tâm của mình nó không còn lo cho đứa con nữa. Trước tiên mình quán nhân quả, à đây là nhân quả, con mình sanh ra đây là do nhân quả, nó gặp mình một là mình nợ nó, hai là nó nợ mình. Vậy thì bây giờ mình lo cho nó tức là mình đang nợ nó, vậy thì mình phải chuyển cái tâm lo này đi, bây giờ phận sự của mình đối với nó là bổn phận cha mẹ, mình phải làm hết bổn phận của cha mẹ. Bây giờ nó đang nghèo, mình gửi tiền ra cho nó uống thuốc, chứ không phải lo cho nó sợ nó chết, nó mất cái đứa con của mình. Mà nó có chết hay sống thì đó là nhân quả của nó rồi, cái luận của bài văn này để cho nó giải được cái ích lợi cho tâm của mình nó đừng lo, mà trách nhiệm bổn phận thì mình làm, con hiểu chỗ đó không. Tức mình vừa làm bổn phận trách nhiệm mà tâm nó lại lo, nó sợ thằng con này uống thuốc nó hết hay không hay nó chết. Thì mất đứa con nghe đau khổ quá, con hiểu chỗ đó chưa?
Bây giờ cái mà lo mà nó sống chết thì nó không còn lo nữa, mà nó lo sao bây giờ trả cái nhân quả. Bắt đầu bây giờ mình gửi tiền cho nó, rồi dạy nó phải đi bác sĩ này, nhà thương này, thì nó sẽ trị hết cái bệnh này, chứ mày đừng có đi điên mà nó hết tiền. Nói vậy rồi thôi, rồi cái tâm mình nó sẽ an ổn, đó là cách thức để nhìn thấy nhân quả. Còn nếu mà không, vừa là lo hao tiền tốn của cho nó, mà lại vừa sợ nó chết, sợ nó này kia nữa đủ thứ, nó làm cho mình bất an.
Cho nên cái vấn đề cần giải quyết đó là chuyển nhân quả trong tâm của mình chứ cái nghiệp này rõ ràng mình phải vay nó rồi. Cho nên trường hợp nó đau là bổn phận làm cha mình không thể làm ngơ với nó được. Cho nên vì vậy tâm nó lo này kia nó có rồi, cho nên mình giải quyết cho tâm mình không còn lo lắng nữa. Mà mình làm hết bổn phận của mình đối với đứa con, tức là đối với nhân quả. Vậy là chuyển cái quả này, chuyển được cái quả của nó, gọi là chuyển nhân quả. Còn nếu mình không chuyển, thì vừa lo lại vừa hao tốn tiền bạc này kia, và tối lại ngủ không được nữa, đó là cách thức nó bị nhân quả rồi. Còn mình chuyển nhân quả rồi thì vẫn ngủ ngon như thường, không còn nghĩ gì hết, nghĩa là mình làm hết bổn phận làm cha của mình, biết nó là cái chùm nhân quả, chứ không có gì.
(19:55) Đây là cách thức gọi là Định Vô Lậu, nó làm cái tâm mình trở về cái thanh thản an ổn của nó, đó là vô lậu. Vì vậy mà trong khi đó, khi cái người tu như vậy, đây là cái giai đoạn đầu, cái mà quán xét tư duy như vậy gọi là Chánh Tư Duy. Trong cái Chánh Tư Duy đó nó giúp cho chúng ta tâm chúng ta không còn lậu hoặc. Nhưng mà cái nỗi lo của chúng ta, tình cảm chúng ta làm ta mê mờ đi, cho nên nó lại hiện ra lần nữa. Chứ đâu phải mình nói cái như vậy rồi, mình làm bài luận này rồi là nó đi luôn đâu, nó không đi luôn đâu nó lại hiện ra nữa. Bởi vì cái vô minh của mình nó mê mờ, cái tình cảm nó lấn lướt, cái tình cảm thương con của mình nó lấn lướt đi. Cho nên bây giờ nó lại hiện ra lần nữa.
Cho nên vì vậy mình luận như thế này nó làm cho đầu mình nó sáng ra gọi là tri kiến. Thì hồi sáng ra thì mình thấy nó an, nhưng mà tình cảm nó bắt đầu che mờ lại cũng như đám mây, mờ qua như vậy, thì bắt đầu mình phải một lần mình vén cái đám mây lần nữa. Rồi mình cứ bê mình vén cái tri kiến của mình nó mới sắc bén, nó mới nhạy ra, gọi là Tri kiến giải thoát. Còn hồi đầu thì ở đây mình mới làm bài luận chỉ dùng cái tri kiến mà thôi. Để tri kiến của mình vén những cái đám mây này, mà khi tri kiến hoàn thành được Tri kiến giải thoát rồi, thì nó vừa đến thì tri kiến này nó sẽ hoá giải liền, và mình không cần làm bài luận nữa, tức là không có quán nữa.
(21:11) Phật tử: Dạ mô Phật! Như vậy là con hiểu như vậy. Ví dụ bây giờ con dùng nhân quả quán nó, thì tự nhiên con quán đâu một thời gian, thí dụ như vài phút à, tự nhiên cái niệm biến mất, thì thôi như vậy cứ để nó biến mất, cứ giữ tâm mình thanh thản, chứ mình không có tự gợi cái tâm mình lên nữa làm chi nữa phải không Thầy?
(21:31) Trưởng lão: Nó không phải, trong khi mà quán nhân quả, mà vừa khởi quán nó, cũng như con mới làm bài luận con mới nhập đề, rồi mình thấy nó mất rồi, thôi mình không có thèm làm thân bài với kết luận thì không được. Bởi vì mình có cái điều kiện để mình triển khai được cái tri kiến của mình thì mình phải thông suốt hơn, cho nên mình phải làm xong bài luận này rồi mới giữ cái tâm thanh thản. Còn giữ tâm thanh thản ngang xương cái kiểu này mới có vào đề, tôi mới viết mấy câu mà thấy nó mất rồi, thôi tôi không viết nữa, bây giờ thấy nó an rồi. Thì như vậy là con bị ức chế đó, vì cái phương pháp này nó chưa có tới cái rốt ráo.
(22:01) Cũng như bây giờ Thầy nói cái tâm của mình, sáng mình ăn, trưa mình ăn, chiều mình ăn. Bây giờ ăn một bữa, sáng thấy đói bụng, muốn cho nó phá được được cái trạng thái đói bụng này thì phải tu quán vô lậu, làm cho tâm tham ăn nó dừng lại đi.
Vậy thì phải quán như thế nào? À nói thực phẩm bất tịnh, nó dơ bẩn, nó thiu thối, thì cái đó hẳn nhiên nó phải có rồi. Nhưng mà bây giờ nó đâu có thấy bất tịnh đâu, nó thèm đây này, nó đâu có thấy bất tịnh. Cho nên mình phải quán bất tịnh, mà quán làm sao mình bình thường mình không tưởng ra thôi, hễ mình tưởng ra mình thấy cái món ăn nó thiu, mốc meo lên, nó chảy nước nhớt nó ra nước vàng ra, thì trong đó nó làm cho mình thấy gớm quá không ăn, nhàm chán đi. Thì như vậy rõ ràng mình tưởng ra cái nó nhàm chán liền. Còn bây giờ mình tưởng ra mà nó không ra hình dạng gì mà nó gọi là bất tịnh, mà nó cứ thấy nó ngon thì cái đó nó chưa, mình tu chưa tới.
Cũng như cái bài luận văn con chưa tới kết luận mà con sử dụng nó thì không có được đâu. Con tu phải tới nơi tới chốn, con hiểu chỗ đó chưa?
(22:56) Cho nên khi mà quán, khi mà cái đề tài nó ra rồi, mình thấy nó dừng rồi thì đừng có ngang đó mà tôi suy tới đây nó còn suy tư cho đến tới cùng của nó để thấu triệt. Khi thấu triệt rồi vừa dứt tri kiến đó một lần thì nó thấm nhuần được cái lý đó rồi. Mà con càng suy tư cái lý đó càng sâu sắc hơn, nó làm cho con có tri kiến hiểu biết sâu sắc, cái đó là thuộc về Chánh Tư Duy rồi.
Cho nên khi nó thấy tâm mình an rồi nhưng mà mình tiếp tục tư duy ở trên cái đối tượng đó cho nó rốt ráo, thật rốt ráo. Vì cái rốt ráo, thật rốt ráo đó, nó ít có đến nữa. Còn nó chưa có rốt ráo mà con thấy à bây giờ nó hết rồi, thôi dừng lại, thì lát nữa nó len vô đó, nó không có chịu yên.
(23:36) Phật tử: Tại vì, kính bạch Thầy, như vậy là con hiểu lầm ở chỗ này. Có lần con nghe Thầy dạy là giả dụ nếu tâm mình thanh thản thì cứ nghĩ thanh thản, chứ đừng có sinh sự mà tu. Cho nên là con nghĩ bây giờ, thí dụ như như khi nó khởi lên một niệm ác như thế, thì đó là cái ác pháp rồi, thì con cũng tu tập quán vô lậu như lúc nãy Thầy dạy con đó. Nhưng mà con khởi lên một, hai phút là nó lại biến mất à, thì con nói à thôi như vậy thì không lý bây giờ mình cứ gợi nó lại, thì thôi nó biến mất rồi cứ để nó biến mất. Nhưng mà sau đó nó quay trở lại, như vậy rõ ràng cái tu tập tụi con thấy là nó khó là nó khó ở cái chỗ đó.
Bây giờ con thấy Thầy chỉ dạy cho con là cứ làm hết bài luận văn, rồi thì tự động nó đi xa ra, có khi là một vài ngày sau nó quay lại. Dạ nó quay trở lại thì mình tiếp tục làm bài luận văn khác. Chẳng hạn như bây giờ đầu tiên là mình làm bài luận văn về nhân quả, bây giờ mình chỉ cho con cái uống thuốc, sau đi bệnh viện, mình lo tiền cho nó xong rồi, nhưng nó vẫn quay trở lại, thì như vậy thì vấn đề ở đây là vấn đề giải quyết được cái ái kiết sử.
(24:30) Trưởng lão: Ái kiết sử, mình làm cái bài luận về cái đề mục về ái kiết sử, chứ không có nhân quả nữa. Coi như nhân quả mày tao đã làm xong, tao thông suốt rồi mà mày chưa có giải quyết nổi mày, tao bây giờ giờ tao giải quyết về ái kiết sử. Thì bây giờ nếu mà ái kiết sử nó không hết, tao sẽ làm một cái bài luận về Thập nhị Nhân duyên. Cho nên nhiều bài này nó làm tri kiến của tao sáng suốt, mày ló mặt đâu nó chặn đứng mày hoạt động, không có vô đây được nữa, con hiểu chỗ đó chưa. Nó nói thông suốt hết. Cho nên phải siêng năng, chứ làm biếng không, mới có làm thấy nó yên, nó thanh tịnh, nói thôi để cho nó giữ thanh thản, thì coi như bị ức chế.
Phật tử: Dạ bạch Thầy, cái này là con mới thấy thêm một điều nữa đó là cái tâm mình nó lười suy nghĩ, và nó lười tư duy.
Trưởng lão: Đúng đó con, mình bắt buộc phải làm việc, chớ còn…
Phật tử: Nó lười nó buồn suy nghĩ nữa. Mà con thấy thí dụ bây giờ, khi mà tụi con thí dụ như là tư duy thường xuyên về một vấn đề gì, thì tâm tụi con nó thành thói quen. Mà không tư duy, thì một thời gian sau là nó lụi dần, muốn khởi lên tư duy thì nó làm biếng Thầy ơi.
(25:27) Trưởng lão: Đúng rồi, con nói cái đó đúng, bởi vì bản chất của mình là bản chất lười biếng. Nếu mình không chịu khó siêng năng thì nó không siêng năng, mà hễ siêng năng rồi thì bắt đầu nó bắt trớn được nó siêng năng. Cho nên vấn đề tu tập thì cái gian đoạn nào phải đi vào giai đoạn đấy. Bởi vì giai đoạn con phải tu Định Vô Lậu, quán xét như vậy thì con phải quán xét chín chắn, mà đến cái giai đoạn khác thì nó phải tu khác. Nghĩa là giai đoạn này con triển khai tri kiến để con sống cái nền đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình khổ người. Do đó là cái giai đoạn này con phải hoàn thiện trong cái sức tỉnh thức, tập cái tỉnh thức. Để rồi áp dụng trong quán xét của vô lậu, do đó hơi thở con.
À bây giờ trong cái hơi thở Thầy nói, tại sao mà Thầy dạy chuyên hơi thở mà có lúc Thầy dạy tổng hợp hơi thở. Nghĩa là bây giờ hít vô tôi biết tôi hít vô, mà đang hít vô như vậy bỗng nhiên có cái niệm, thì đem cái tác ý trên cái niệm đó để mà tác ý trên cái niệm đó. Hay là câu hữu với Định Vô Lậu quán xét chứ không có ôm cái hơi thở mà thở ức chế nó. Đó là tổng hợp tất cả các pháp lại, kết hợp lại tức là câu hữu đó, để mà tu trong cái giai đoạn mà để triển khai tri kiến của mình, lấy cái sức tỉnh mà triển khai cái sự hiểu biết, con hiểu không. Bây giờ con tỉnh trong hơi thở nè, hít vô thở ra, con biết hơi thở ra vô. Mà bây giờ có cái niệm, thì lấy cái sức tỉnh của hơi thở mà hồi nãy mình đang biết hít thở mình triển khai cái này ra. Thành ra cái này nó rất quan trọng.
(26:41) Rồi sau đó bây giờ đi vào chuyên thì nó khác rồi, nó tới cái giai đoạn thứ hai là giai đoạn chuyên rồi, chuyên sâu. Bây giờ hít vào thở ra tôi chỉ tu một cái này thôi, mà hoàn toàn có niệm khác kệ nó tôi không cần thiết. Cứ năm hơi thở tôi tác ý một lần. Bây giờ có niệm thì nó tới năm hơi thở tôi phải tác ý rồi. Mà hễ tác ý thì nó dừng, cho nên bây giờ nó cứ dừng ngay dừng ngay chứ không còn ngồi đó mà quán vô lậu nữa, tới cái giai đoạn khác.
Rồi tới cái giai đoạn thứ ba thì con thấy, từng cái lệnh nó đi trên từng cái hành động, cho nên cái hành động thí dụ như đưa tay ra, cái tay tôi đưa ra, còn cái lệnh của mình nói “Tay đưa ra”, thì mình thấy cái tay mình đưa ra một đường với cái lệnh của mình, với cái biết của mình trên cái, thì như vậy mới tỉnh thức thôi, chứ chưa phải định tĩnh. Còn bây giờ định tĩnh ấy, khi cái tay đưa ra, thì khi đó cái đầu của mình, cái ý của mình nó bảo “Cánh tay mặt đưa ra”, một cái lệnh như vậy thì lần lượt cái tay mặt của mình nó đưa ra. Thì khi mà ra lệnh như vậy rồi, thì mắt và ý, cái cảm giác của nó, nó nhắm vào cái cánh tay của nó hết rồi. Nó nằm trọn ở trên này hết, nó định trọn ở trên này hết. Bắt đầu nó mới đưa ra, còn mình chưa có trọn mình vội vàng đưa ra thì nó chưa có định đâu, nó mới có tỉnh thức thôi.
(27:37) Cho nên con đi con biết con đi là con mới tỉnh thức. Còn bây giờ tới cái lệnh nó rồi, cái hành động của con nó biết sau, cho nên nó rất chậm. Vì vậy nó biết rất là trọn vẹn từng cử chỉ của cái rung động của cái thân nó, tức là thân hành của nó, thì cái đó là Thân Hành Niệm. Cho nên pháp này là pháp định tĩnh, còn pháp kia là pháp tỉnh giác. Tỉnh giác để áp dụng vào cái tri kiến của chúng ta triển khai cái tuệ, cái Chánh Tư Duy của nó, để giúp chúng ta giải thoát tất cả các lậu hoặc thô, còn cái lậu hoặc vi tế nó không có hiện ra đâu, cho nên mình dùng cái này nó không bao giờ quét ra được. Cho nên bắt buộc dùng cái sức định tĩnh này nó mới quét ra cái này, nó mới (…)
À nó có nhiều giai đoạn tu tập ở trong này nó mới đi đến chỗ mà quét hết tham, sân, si mới nổi. Tham, sân, si tầng mới vô là tầng thô, dễ nhận ra lắm, rồi cái tầng vi tế, tầng trung trung của nó thì nó có khó nhận rồi nhưng cũng còn dễ. Còn tầng vi tế thì không thể nào mà cái ý thức của chúng ta nhận ra nó đâu, chỉ còn cái sức định tĩnh thì mới quét ra được cái này. Nó giống một ánh sáng nó xoẹt cái nó mất liền, nó xẹt liền nó mất à, đó là nó vi tế lắm rồi. Cho nên mình phải dùng cái sức định tĩnh này mình mới quét cái này ra được. Mà nếu ngay từ lúc đầu người còn thô mà dùng sức định này thì bị ức chế toàn bộ, nó phản ứng lại. Coi như không, mình không lọt vào tưởng thì mình sẽ bị phản ứng bằng cái thọ, nó làm cho mình rất khổ đâu không tu nổi đâu. Cho nên mình mới tu từng giai đoạn, có ba giai đoạn tu ở trên Tứ Niệm Xứ.
(28:59) Phật tử: Dạ mô Phật! Thưa Thầy ví dụ khi con tu tập Thân Hành Niệm, thì cái Thân Hành Niệm này là giai đoạn chuyên sâu rồi. Nhưng mà cái này tụi con tu tập Thân Hành Niệm như là tập thành cái thói quen thôi, để mình tập ra lệnh cho tâm và thân mình hoạt động. Thay vì trước kia là thân hoạt động chỉ dựa trên cơ sở là phản xạ thôi, có nhiều cái hoạt động là do phản xạ, bây giờ mình xen vô mình điều khiển cái phản xạ của mình để ra lệnh cho nó. Thì thưa Thầy con thấy có những trở ngại thế này. Thí dụ như bây giờ tụi con tu, quy định một thời tu là 30 phút, nhưng mà hai chục phút đầu tụi con có thể kiểm soát được nó, thí dụ ra lệnh nó làm thì nó làm. Nhưng mà mười phút sau hình như là tâm mình mệt mỏi không kiểm soát nổi, con hít vô con cũng không biết là hơi thở thứ mấy đây, dạ, đó đó.
(29:51) Trưởng lão: Đúng rồi, bởi vì khi mà con tu, cứ tu. Bây giờ cái sức của con, con biết là thay vì 30 phút, mà bây giờ 10 phút sau nó có cái trường hợp nó xảy ra, như vậy sức mình chưa đủ, không có nên tu tới 30 phút. Mình biết là tu rồi mình thấy cái chỗ là nó lười biếng là biết nó không làm việc cái lúc này rồi, cái thời gian này nó làm việc không nổi rồi. Thì biết sức nó làm việc không được cái chỗ này đâu, thì mình lui trở lại cho nó vừa sức thôi. Rồi bắt đầu mình tu với cái sức của mình đó.
Rồi bỗng dưng nó hiện ra cái sức định tĩnh, chứ không phải mình tập như vậy nó định tĩnh đâu. Nó hiện ra tức là 7 cái giác chi nó sẽ xuất hiện ra cho mình, để rồi mình thấy sao bữa nay tự nó tỉnh quá trời như thế này, đi nó cũng nhẹ nhàng như thế này, thân tâm gì nó cũng hoan hỷ, nó làm cho mình thấy thích thú chứ. Còn mọi lần mình tu thấy nó nhọc nhằn thiệt, nhưng mà hôm nay nó khác, tức là nó đã lọt vô. Mà nó lọt vô đó nó có thể kéo dài trong một giờ được. Nhưng mà nhất định là 30 phút tôi tu là tôi tới 30 phút tôi xả thôi chứ tôi không có ham nó nữa. Tức là mình lìa được, ly được cái tham, chứ còn không khéo nó dụ mình nữa. À thế cho nên à bữa nay ngon quá thôi ráng tu cho nó tốt, vậy mình chết rồi, không có được. Cho nên mình tu có tốt thì cũng đến 30 phút, còn không tốt cũng ôm chặt pháp mà tu thôi, cứ như vậy thôi.
Cho nên bây giờ con thấy căn cứ vào cái chỗ thời gian tu 30 phút mà có được có 20 phút à, còn có 10 phút sau coi bộ nó làm biếng rồi, thì mình biết cái sức của mình nó không có đủ cái chỗ này đâu. Mình ép nó thì coi như là sẽ không có kết quả gì đâu, phí uổng. Nghỉ đi, xả nghỉ đi để chút tôi tu lại.
(31:10) Phật tử: Bạch Thầy, như vậy tụi con chỉ tập cái tu, như bản con, thì con tu tập cái Thân Hành Niệm này là nó có nhiều mục đích. Tại vì cái mục đích thứ nhất là con phải rèn luyện cho mình cái ý chí. Cái thứ hai là mục đích là con phải tự ra lệnh cho thân của mình. Và cái thứ ba nữa là vì cái đầu gối của con bị viêm khớp lâu nay, nhưng khi con tu tập Thân Hành Niệm thì bắt đầu nó tương đối êm. Sau đó thí dụ con ngồi thêm mười lăm phút tu Định Niệm Hơi Thở thì dễ chịu hơn. Nhưng mà có một cái lấn cấn thế này, rõ ràng cái tu Thân Hành Niệm là ức chế hơi nhiều phải không Thầy? (Trưởng lão: Đúng rồi, ức chế cao độ mà). Ức chế nhiều cho nên nó kẹt, thỉnh thoảng nó bị kẹt vô hơi thở. Thí dụ như năm phút đầu thì không nói, năm phút sau hơi thở bắt đầu nó nặng. Nó nặng thì lúc này con khởi lên tác ý là hơi thở bình thường trở lại, như vậy thì nó có sai pháp không Thầy?
(32:05) Trưởng lão: Không sai pháp đâu. Con phải tác ý bởi vì trong khi mà tu như vậy đó, một là con dùng cái Thân Hành Niệm con ra lệnh mạnh. Thay vì con thấy mình không cán nát nó nổi bằng phương pháp Thân Hành Niệm, thì mình dùng phương pháp tác ý để cho trạng thái hơi thở nó giảm đi, chứ không khéo nó sẽ làm cho con rất là khó thở. Thí dụ như vậy con sẽ tác ý, nếu mà cán nát qua nó cũng vượt qua à, nó sẽ thông. Khi hơi thở nó như vậy, con cứ ôm chặt lấy cái pháp, phải nhiếp chặt cái hơi thở, ra lệnh từng hơi thở cái hơi thở một phải rõ ràng từng cái hơi thở một. Con cứ ra lệnh, kệ nó làm gì nó làm, con sẽ vượt qua thôi. Bỗng nhiên hơi thở con nó thông suốt, nó nhẹ vô cùng lận. Mà con sợ nó con tác ý thì nó nhẹ đó nhưng không bằng con cán nát nó được, bởi vì phương pháp Thân Hành Niệm là phải nhiếp phục tất cả những chướng ngại, mà nếu để chướng ngại cản trở mình thì bánh xe không chạy nữa.
Bởi vì nó là cái xe, mà cái xe bị chướng ngại không cho chạy, không chạy cán qua được thì cái xe phải đứng lại. Mà cái xe phải đứng lại thì bây giờ con tác ý cái xe phải đứng lại rồi, nó không đi ở trên thân hành nữa. Còn con thây kệ mình nhất định là chết bỏ, nhất định là tao phải cán nát mày, tao không sợ nữa. Do đó ý chí quyết định như vậy thì bắt đầu nó có xảy ra gì đi nữa cũng vẫn ôm chặt Thân Hành Niệm, ra lệnh rất là chặt chẽ, kỹ lưỡng. Tới hơi thở thì phải một, hai, ba, bốn, năm rồi bắt đầu đứng dậy liền. À cứ như vậy theo hành động đó sẽ cán sạch hết.
Mà khi nó cán sạch tức là khi bị chướng ngại đó nó cán cái đó rồi, nó qua được rồi thì xe nó có cái trớn nó đi rất là bon. Tức là sau khi gặp khó khăn, tu cái pháp Thân Hành Niệm mà con gặp cái khó khăn nào đó, mà con vượt qua khó khăn là nó đền bù cho con một cái hạnh phúc rất lớn phía sau. Bất kỳ khó khăn nào. Bây giờ con đang tu mà cái chân nó đau quá, nhất định là gãy bỏ thì thôi, nhất định là tao cũng đứng dậy đi này kia, gan dạ chứ không có nhiếp nữa, bởi vì nhiếp phục cái đau, thậm chí như đau điếng mà đức Phật nói đau điếng cũng phải nhiếp phục nó. Nhiếp phục được hết, thì ở phía sau đó nó sẽ trả cho mình một quả rất lớn.
(34:00) Phật tử: Mô Phật! Thưa Thầy bây giờ con làm thử một giai đoạn của Thân Hành Niệm Thầy xem thử. Thí dụ như bây giờ con ngồi ở ngoài, con bước vô chiếu, con ra lệnh: “Bước vô chiếu”, để chân ngồi lên ghế thì con ra lệnh là “Kéo hai quần lên, ngồi xuống, khoanh chân lại; cầm chân trái đặt lên đùi phải, cầm chân phải đặt lên đùi trái; tay phải để lên chân trái, tay trái để trên tay phải; ngồi kiết già, lưng thẳng, đặt niệm trước mặt, thở”, thì cái chỗ thở này bạch Thầy lúc con tác ý tới đây thì gặp lúc cái hơi thở con nó đang thở ra, thì con phải chờ cho hơi thở ra xong hết rồi con mới Trưởng lão: Mới lấy cái hơi thở đó mới đúng.
Phật tử: Lấy cái hơi thở vô, rồi con ra lệnh “Thở”, xong con bắt đầu thở vô. Thở ra, xong con đếm một là con cũng nhắc là: “Thở vô”, nhắc tâm là “Thở ra”, lần thứ hai, ba, bốn xong rồi thứ năm, năm thì con nói là lúc đang thở ra xong là con hơi thở gần như sáu, bắt đầu hít vô thì con mới tác ý là: “Buông hai tay ra, cầm chân phải bỏ xuống, cầm chân trái bỏ ra, chống hai tay đứng dậy, đi kinh hành”, là chân phải bước một, chân trái bước hai. Thì mô Phật bạch Thầy là giai đoạn đầu, cũng như vừa nãy con nói là, thỉnh thoảng là, thí dụ như ban đầu thì đúng là tạp niệm còn xen vô, nhưng mà lần lần là con thấy có giảm. Nhưng mà tới khoảng 20 phút, 25 phút thì tâm con bắt đầu nó đừ ra theo dõi hết nổi nữa, đến nỗi con cũng không nhớ là con thở hơi thở thứ mấy nữa.
(35:30) Trưởng lão: Bây giờ về cái phần mà tập như vậy, thì con đã tập thử cho Thầy xem rồi đó, cái đó là con đang tập ở phương pháp Chánh niệm Tỉnh giác, chứ Thân Hành Niệm không phải vậy con. Thân hành niệm phải tập như thế này, để Thầy làm cho con xem. Nó đi từng hành động rất chậm, chứ không nhanh như vậy đâu.
Bắt đầu bây giờ đây con thấy nè, Thầy để xuôi hai tay, bởi vì hoàn toàn nó chỉ chú ý vào một hành động rất là duy nhất của nó, nó kiên cố, chứ không thể nào hai hành động, hai tay như thế này, rồi hai chân nữa, nó chú ý cả như vậy thì nó bị phân tâm. Mặc dù nó biết tổng quát thì nó biết đó, nhưng mà cái chuyên chú vào một hành động thì nó không rõ.
(36:08) Cho nên bây giờ Thầy bảo hai cái tay, Thầy muốn trói cho nó chặt ra sau vậy đi, để cái chân Thầy còn bước thôi, cho nên Thầy bảo “Tay trái để ra sau lưng”, tức là Thầy ra lệnh rồi từ từ cái tay để ra sau lưng, rồi từ từ Thầy mới quan sát kỹ hành động đó, để tay ra sau lưng, nó chậm lắm. À bây giờ “Tay trái để sau lưng” đó Thầy tập trung cảm giác từ trên cánh tay Thầy xuống này, xuống tới bàn tay, cái cảm giác. Và nhiều khi mới đầu Thầy tu Thầy còn nhìn nó nữa, chú ý nó nữa chứ đừng nói chuyện. Thành ra Thầy phải biết nó này, do đó Thầy mới đưa cánh tay ra, Thầy thấy cái hành động nó đưa ra, nó để ra, cụ thể rõ ràng. Bây giờ Thầy nói “Tay mặt để lên tay trái”, thì bắt đầu khi mà cái lệnh của Thầy nó hối thúc vậy rồi, thì bắt đầu cái tay mặt của Thầy mới chưa có giơ cái tay mà mới cả cái cảm giác của Thầy trên cánh tay và cái mắt của Thầy nó liếc qua bên đây nó nhìn cánh tay nó nè. Bắt đầu Thầy thấy cánh tay Thầy nó đưa ra như vậy, cái cảm giác của Thầy ở trên cánh tay nó từ từ đưa ra.
(37:00) Đó là Thân Hành Niệm nó tập trung rất kỹ đó con, nó ức chế cao lắm chứ không phải thường đâu. Rồi bây giờ nó mới ra lệnh “Chân trái bước”, thì bước thì nó sẽ nhón cái gót lên, nó coi từng hành động của bàn chân nó nè, giở gót lên như vậy là nó lưu ý cái hành động của chân rồi. Rồi bắt đầu mấy cái ngón chân mới giở lên nè, thì nó lưu ý ở dưới giở lên, nó lưu ý cái đầu gối nó nè. Đó bắt đầu cảm giác của nó ngay từ ở bàn chân chạm đất, mấy con thấy, bây giờ nó giở lên thì nó lưu ý co cái đầu gối này lên rồi tới đùi này. Rồi bắt đầu nó mới để mấy ngón chân nó xuống rồi tới cái gót nó con.
Đó nó từ từng cái hành động nó rất cụ thể, rất rõ. Mà con tập kỹ như vậy từng cái hành động đừng có sơ ý. Bắt đầu thì nó khó, nhưng mà sau đó con tập, con đi rất chậm chứ đâu có lẹ được. Nó đi từng cái từng cái như vậy nó kiên cố lắm, con hiểu không?
Còn con đi mà như thế này thì nó biết nhưng mà ngược với cái hành động. Còn cái này hoàn toàn cái biết nó ra lệnh trước, rồi nó quan sát rất kỹ cái hành động của nó, nó đi từ từ, nó đi từng chút, thì đó là Thân Hành Niệm. Nó mới định tĩnh được chứ , còn kia chỉ là tỉnh thức thôi, mà cái này nó định tĩnh, bám chặt trên đó rồi nó mới làm, nó chưa bám chặt nó không làm.
(38:06) Phật tử: Tức là mình tác ý ra lệnh từng chút một, và mình theo dõi. Khi mình ra lệnh là nó cử động…
Trưởng lão: Rồi bắt đầu mình mới quan sát, nó đương bất động mình quan sát sẵn, nằm sẵn ở trên cái thân hành của nó. Như cái tay nó sẽ hành cái hành động đó, thì bắt đầu cái cảm giác của mình với quan sát nó nằm ở trên này rồi, nó nằm ở trong lúc nó bất động. Khi đó nó đưa ra thì nó quá cụ thể, rõ ràng. Nó không còn sót ở chỗ nào, con thấy chưa. Nó điều khiển một cách rất là kỹ lưỡng.
Như vậy con chỉ tu trong vòng chừng, đi trong vòng chừng 20 bước hoặc là ngồi hít thở năm hơi thở, thì nó xuất hiện cái định, cái giác tri của nó xuất hiện rồi. Nó có sự an lạc, nó có tinh tấn của nó xảy ra cho con rồi. Còn con tu như vậy nó không xảy ra cho con, tới 20 phút sau nó làm con hết muốn, nó lười biếng, nó mệt mỏi. Đó là mức tỉnh thức của nó thôi, nó không thể nào nó tỉnh thức để thực hiện cái tri kiến của nó thôi.
(39:03) Còn cái này nó thực hiện định tĩnh để nó thực hiện 7 giác tri. Mình tu đúng thì nó xuất hiện ra, tu không đúng thì không xuất hiện đâu. Mà nó xuất hiện ra con thấy cỡ nó lọt vô cái vòng này con đi suốt đêm không sao hết, nó khoẻ lắm, mà hai chân của con không bao giờ nó mỏi, nó an tịnh thân lắm, nó làm cho thân con an ổn vô cùng. Con thấy, trời ơi! Như vầy mình tu nó đâu có uổng công đâu. Hễ nó lọt vô vòng đó thì con thấy tu không có uổng công đâu, cái đầu nó trống rỗng không, nó không phòng dật ra ngoài đâu. Nó luôn luôn nó định trên cái thân hành của con, cái lệnh ra rồi nó bám chặt trên cái cánh tay, rồi bám chặt trên chân con. Rồi chân con nó động đậy như thế nào thì nó ở trên đó hết, không sai chút nào. Tự cái tâm của mình nó bám trên đó.
Bởi vì Thầy nói pháp Phật hay thiệt chớ, tu rồi mới thấy kết quả vĩ đại. Nhưng mà cái này là cái phương pháp rốt ráo. Đầu tiên mà đưa vô vào những người chưa tu bị ức chế cao lắm, chịu không nổi đâu.
(39:50) Phật tử: Dạ con biết, cho nên tụi con chỉ tập một thời là tụi con tập có 30 phút thôi, chứ không có tập liên tục kéo dài được.
Trưởng lão: À tập ít vậy thôi, để vừa với sức của mình, rồi sau đó tuần tự nó xuất hiện cái sức định tĩnh, cái tâm mình nó định trên thân hành của nó, tự nó xuất hiện nó định. Còn bây giờ mình tập cho nó định nhưng sự thật nó chưa định, tự nó xuất hiện nó định. Mà nó định rồi thì thấy rõ ràng là tâm định nó khác xa cái lúc mình tập, nó không giống lúc mình tập đâu.
(40:18) Phật tử: Mô Phật! thưa Thầy, thực ra lâu nay cách thức tu tập cho những người cư sĩ chúng con, nhân quả gia duyên, ràng buộc nhiều quá. Hồi trước cũng có những huynh đệ phải tham vấn Thầy, thì Thầy nói sau này có thời gian Thầy sẽ viết giáo trình tu tập cho tụi con, chứ hiện nay thì giáo trình chưa có. Mà tu tập người cư sĩ mà viết trên sách cô Diệu Quang phụ trách, thì con thấy gần như là một diễn đàn thôi, chứ cũng chưa có…
Trưởng lão: Đâu phải con, thay vì cái này là phải để tên như Thầy này mới đúng: “Tu sĩ và cư sĩ cần nên biết”, nên biết cái này ở trong đạo Phật thôi. Cái tên nó như vậy chứ không phải giáo án tu tập cho người cư sĩ đâu.
Phật tử: Cái giáo án thì con nghĩ như cái nội dung từ cuốn một đến cuốn bốn gần như diễn đàn trao đổi những tâm tư tình cảm, nguyện vọng của cư sĩ cũng như là tu sĩ thôi.
Trưởng lão: Giống như nguyệt san, đặc san nào đó thôi, chứ chưa phải đâu. Bởi vì cái diễn đàn này là để cư sĩ ở mỗi nơi, nói lên những điều kiện người ta nhìn thấy, hoặc là người ta tu những cái gì đấy được hay không được, để mình rút tỉa kinh nghiệm đó để mình tu ở trên đó. Đó là diễn đàn để trao đổi nhau cái sự tu tập thôi. Cho nên nhận xét của con rất đúng.
(41:31) Nhưng mà cái tên đó là do từ khi cái người gợi ý Thầy, thì Thầy không có thời gian để viết giáo án tu tập cho người cư sĩ, cho nên lấy tên đó mà đặt cho nó có thời gian mình học hỏi những cái sai cái đúng chứ còn chưa phải giáo trình đâu. Giáo trình phải đi từ người cư sỹ mới bắt đầu tu, phải tập tu cái gì, làm cái gì cái gì, từ cái dễ cho đến cái khó, trong giai đoạn của người cư sĩ thôi. Mà cái giai đoạn của người cư sĩ để chuẩn bị cho người tu sĩ chứ không phải gì. Nếu mà người tu sĩ mà không chuẩn bị cho cái giai đoạn mà người cư sĩ tu, thì người cư sĩ vào tu mất căn bản. Nó cũng là căn bản cho tu sĩ sau này, cho nên cái giáo trình của người cư sĩ là căn bản cho tu sĩ, sẽ tiến tới giai đoạn trở thành tu sĩ, thì cái người này phải tu hết những cái này, thì nó mới được.
Thì trong khi đó, thay vì viết bộ sách này ra, thì phải có một bộ sách đạo đức nhân quả, thì khi đó các con mới hiểu được nhân quả, thì nó là đạo đức của người cư sĩ. Vì vậy cho nên cái bộ sách đạo đức nhân quả này nó chỉ ra được cái cuốn một, mà nó còn 10 tập nữa. Thì sau khi 10 tập này rồi, thì lúc bấy giờ mới viết giáo trình tu tập cho người cư sĩ, thì nó mới có chỗ mà nói. Bây giờ nói mà bây giờ tôi chưa biết cái đạo đức nhân quả đây thì tôi làm sao tôi biết tôi giữ gìn đạo đức tôi được, cho nên nó chưa có. Vì thế Thầy đang lo cái vấn đề bộ sách Đạo Đức xong rồi, thì các con có giáo trình.
Nghĩa là bây giờ tiêu chuẩn của nó mấy con phải những cái gì, mấy con cần biết là cái đạo đức này mấy con phải học. Học để mà mấy con giữ gìn cái đạo đức này, giữ rồi thì đây là giáo trình mấy con phải tu tập cái pháp gì pháp gì, để giữ được đạo đức này. Chứ không phải nói giữ là mấy con giữ được liền đâu, có cái làm được, có cái làm không chứ đâu phải mọi cái làm được. Muốn làm được cho hết các đạo đức này, thì phải tập tu cái này. Đó nó phải vô cái giáo trình của nó rồi. Cái giáo trình của nó bắt đầu phải tập những cái gì cái gì, nó sẽ dẫn ra, để các con biết cách thức mà tập. Để cho áp dụng vào cái đạo đức này mà các con trọn vẹn, là coi như là cái bộ sách đạo đức nhân quả này, coi như là cái bộ giới luật của mấy con, nó không còn vi phạm nữa.
(43:31) Nhưng mà giới luật này là giới luật tự giác chứ không phải là, pháp luật tự giác chứ không phải là bắt buộc, không ai bắt buộc mình hết. Nhưng mà tự giác, tự giác bằng cái sức rất là thông minh sáng suốt của mình, chứ không phải bằng cái sự ngu muội. Đó là cách thức cái giáo trình tu tập của các con nó giúp các con có sự thông minh để áp dụng cái này. Rồi có những ý thức lực để các con sử dụng khi mà bị đắm chìm một cái gì trong ác pháp, mà mình không có thể nào mình ngăn, diệt nó được.
Thí dụ như bây giờ mình đang nghiện rượu, nếu mà nghiện rượu nghĩa là mình thiếu đạo đức chứ gì, muốn cai rượu phải dùng cái pháp gì để mà cai đây. Bởi vì mình đang bị đắm nhiễm nó rồi, mình ghiền nó rồi. Nghiền muốn bỏ ghiền này đâu phải dễ đâu. Cho nên phải có phương pháp để người ta cai cái này ra, diệt cái này ra cho được. Mà diệt cho được thì cái đạo đức này người ta mới giữ được. Nó khó chứ đâu phải dễ, cho nên phải có cái pháp hành nó kèm theo. Như vậy giáo trình của nó sẽ, khi mà cái bộ sách Đạo Đức này ra, thì cái giáo trình nó mới được ra.
Thì Thầy mong rằng, điều kiện thuận tiện, sức khoẻ Thầy cho nó khỏe, thì chắc chắn là cái bộ sách Đạo đức này trong vài năm nó mới hoàn tất được. Nó hoàn tất xong thì mấy con mới có bộ sách giá trị để xây dựng đời sống tốt đẹp của mỗi cư sĩ. Rồi bây giờ cái giáo trình để mấy con áp dụng được cái đạo đức, chứ không phải đạo đức nói xuông rồi chơi vậy không, nó không phải đâu, mà còn phải biết cách áp dụng, thì phải có giáo trình luyện tập mới áp dụng được.
Phật tử: Ví dụ đời cũng vậy, thí dụ người ta biết tác hại của rượu, tác hại của thuốc lá, biết hết. Nhưng phương pháp từ bỏ những cái đó khi người ta bị đắm nhiễm thì người ta biết nhưng người ta bỏ không được, nó đắm nhiễm rồi, nó không có phương pháp. Bạch Thầy, bây giờ người cư sĩ chúng con, trong quá trình tu tập có một phương tiện để hỗ trợ cho việc tu tập, tức là lập công bồi đức. Trước kia con nghĩ là tụng kinh, đi cúng dường tam bảo hoặc ấn tống kinh sách gọi là lập công bồi đức…
HẾT BĂNG
RÈN Ý THỨC LỰC - ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời lượng: [45:29]
(0:03) Trưởng lão: Cái lực đẩy cái chân con xuống, nó hút xuống, đó con hiểu không? Cái lực đó là cái từ trường. Cái lực đó, mà vì cái sự tập luyện của con, tập luyện cái tỉnh thức của con, thì cái lực đấy gọi là lực tỉnh thức. Còn bây giờ cái tâm con tham, sân, si thì cái lực đó, thì nó tham, sân, si. Còn cái lực này nó không có tham, sân, si. Con hiểu không?
Vì cái lực này nó không có tham, sân, si nó mới đối trị cái lực của tham, sân, si. Cái lực này nó càng lớn, thì cái lực tham, sân, si nó càng nhỏ. Nó không tác động được mình, làm cho mình làm chủ lại nó. Cho nên cái lực mà tỉnh thức này, nó càng lớn, thì nó làm chủ được cái hơi thở của nó, cho nên nó tịnh chỉ dễ dàng.
Còn mình chưa có cái lực này, thì nó không có ngừng được hơi thở. Cái lực tham, sân, si nó làm chủ. Cho nên nó bắt thở. Thở mà, nếu nó không bắt thở, thì mình nín thở mình chết. Có vậy thôi. Đó là cái lực của nhân quả. Con hiểu không? Cái lực của cái nghiệp nhân quả. Còn bây giờ mình tu tập là cái lực của mình, từ chỗ không có mà bây giờ nó có thành cái lực.
Nhưng mà cái lực thì nó vô hình, nhưng mà nó có sức rất mạnh. Bằng chứng khi các con tu Thân Hành Niệm, các con thấy lực nó hiện ra, nó mới rõ được. Nhưng mà nó nằm, bây giờ chúng ta chưa có điều khiển được toàn diện cái lực này, cho nên nó muốn đẩy, nó muốn lui, nó muốn làm như thế nào đó, cũng như Nguyên Thanh nó bắt nằm xuống vầy, nó cũng phải nằm xuống, nó bắt nằm ngửa, cũng phải nằm ngửa, nó đẩy sao cũng phải chịu. Nó đẩy bay ra cửa thất cũng phải chịu.
Thì các con thấy cái lực đó, mình chưa có làm chủ cho nên nó làm vậy. Mà bây giờ mình tập luyện, để mình làm chủ. Cho nên con thấy mỗi hành động của con, con ra lệnh, rồi con làm những hành động theo cái lệnh của con, để con làm chủ cái lực đó, chứ có gì. Còn con không làm chủ, con không ra lệnh, vậy bây giờ con muốn làm chủ cái lực này, con phải nỗ lực con tu cái này, để con mới làm chủ được cái lực của nó.
Con biết nó có rồi đó. Nhưng mà con phải làm sao làm chủ, con điều khiển nó. Cho nên vì vậy mà cái lực nó hiện ra quá thì con bảo "Dừng!". Nó nghe lời con nó dừng, thì đó là con làm chủ nó.
Phật tử: Mà con ra lệnh nó chưa dừng.
(01:55) Trưởng lão: Mà nó chưa dừng là chưa chịu nghe, tức là cái lực nó mạnh hơn cái sức mình bảo. Cái ý thức của lực của mình yếu hơn. Cho nên mình bảo nhiều lần, thì cái lực của mình nó mới dừng được. Nó dừng được tức là mình phải nhiều lần.
Còn nếu mà mình có cái lực mình mạnh hơn, thì khi mà nó hiện ra như vậy đó, mình bảo “Dừng”, cái nó dừng liền, thì đó là nó biết nghe lời mình, là tức là cái lực nó yếu hơn cái ý thức của mình rồi. Chứ mà nó mạnh hơn, nó chưa chịu dừng đâu, nó còn đẩy mình nữa.
Phật tử: Thầy nói là Thầy sẽ ẩn bóng, thì con cũng lo là mai mốt tu tập thì có gì không biết, không có Thầy chỉ dạy cho con. Cho nên tụi con xin phép là từ nay cho đến Thầy ẩn bóng, thì hàng tuần hoặc vào đầu buổi đó, thì Thầy đến đây, Thầy giảng pháp cho tụi con. Như vậy có được không thưa Thầy?
(02:49) Trưởng lão: Được chứ. Bây giờ mấy con tu là bữa nào mấy con cứ gặp Thầy, thì Thầy cũng đến hết. Cứ 7 giờ đó mấy con. Đến đây Thầy thường thường, sáng ở trong phòng làm việc, Thầy đi ra. Khi mà Thầy buổi sáng Thầy đi quét đó, Thầy nhìn có ai ngồi đó, thì lúc 7 giờ, thì Thầy cũng lại trở ra Thầy nhìn coi có người nào không. Nếu mà có người nào, Thầy biết rằng đang tu tập gặp cái gì khó khăn rồi. Thôi bây giờ mình phải đến, mình gỡ rối đi, không để nó không rối lên, nó chết.
Cho nên buổi sáng nào, thì Thầy cũng nhìn chừng mấy con hết, chứ không phải không. Do vì vậy mà có nhiều buổi sáng, thì Thầy thấy không có ai nhưng mà có nhiều buổi sáng thì có người. Do vì vậy mà mấy con biết là, lúc này là lúc mà mấy con tu tập thì cần gặp Thầy, chứ không gặp Thầy, thì mấy con biết đâu mà tu tập.
Có nhiều cách thiện xảo, để cho nó hợp với cái đặc tướng của mình đó, mình mới tu nó có kết quả. Chứ cách thức tu mà thiện xảo như thế nào để cho mình được an trú ở trong mỗi cái pháp tác ý của mình đó, câu mà tác ý của mình nó có ý nghĩ của nó, là mình phải an trú được cái ý nghĩ của cái trạch pháp đó, cái câu pháp đó.
Thí dụ như "An tịnh thân hành", mà bây giờ con cứ nhắc mà sao nó không an, thì tức là biết là mình tu trật, phải không ? Còn mình nhắc, mà sao lại mình an trú được, tức là mình có cái cách thức thiện xảo nào đó mà nó an được. Chứ không phải nhắc cứ nhắc cuối cùng kệ nó, còn nó an không an kệ nó, thì cứ như vậy tu làm cái gì đây, nó phải an được cho được.
(4:13) Mỗi một cái đề mục, một cái sự việc tu, một cách thức tu, mà khi nó không an, nó không an trú được trong cái đề mục đó, thí dụ như con đi kinh hành, mà giờ cái tâm của con nó không an trú ở trong bước đi, mà cứ đi một lúc yên, rồi một lúc nó lại khởi nghĩ nhớ cái này kia, hoặc là nó hơi buồn ngủ. Thì tất cả những cái đó, nó làm cho tâm của mình nó không an.
Mà như vậy thì bây giờ mình làm sao cho an? Các con nghe nói đạo Phật là đạo trí tuệ, nó không phải là cái giáo điều bắt buộc người ta phải làm theo đúng như vậy như vậy, mà phải thiện xảo cho hợp với cái đặc tướng của mình. Cho nên đạo Phật là đạo trí tuệ mấy con. Thầy dạy như vậy, nhưng mà tùy ở chỗ trí tuệ của mấy con, mấy con phải sáng tạo làm sao cho nó an trú được cái điều kiện mấy con cần thiết, mấy con phải làm, thì đó là cái đúng.
Chứ mấy con không chịu sáng tạo, thì Thầy cứ sáng tạo, chắc Thầy sáng không nổi. Bởi vì mỗi người phải có một cái trí tuệ để dẫn dắt mình trên con đường đi, chứ nếu mình mà không có trí tuệ, thì mình đâu có dẫn dắt. Cho nên có năm cái điều kiện, mà đạo Phật xác định một người mà tu theo đạo Phật đó, có năm điều kiện mà có thể tu chứng. Mà cái người mà không trí tuệ thì không, cho dù có tu gì cũng không chứng hết. Trí tuệ thì nó phải sáng.
Khi con, thí dụ khi Thầy dạy con cái đề mục thí dụ "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra". Coi vậy chứ, tuy rằng cái đề mục như vậy, nhưng mà sao con tu như thế nào để an trú ở trong cái đề mục đó cho được, chứ không phải là nói để mà nói. Mấy con hiểu như vậy.
Mà bây giờ mình tu mình không an trú được, thì mình cũng chưa tìm ra được cái lối nào để mà an trú, thì mình đến mình hỏi Thầy, rồi Thầy mới gợi ý, gợi ý rồi mình mới về mình tập thử. Không được rồi mình mới tìm mọi cách này hoặc cách kia, theo cái ý mà Thầy gợi ra đó, thì mình tìm qua, tìm lại thôi cái nó lọt vô được, coi như vậy là mình đã an trú được.
(6:02) Phật tử: Tui con ở xa Thầy, về bển thì cũng nghe lại mấy cái này để tu, thì xin Thầy gợi ýdùm con cái đường tu mới sẽ vấp váp vào cái điểm nào. Xin Thầy từ bi chỉ dạy cho tụi con. Với lại cái việc Thầy ẩn bóng, thì khi tụi con ở đây tu đó, rồi Thầy ẩn bóng là Thầy ở đây hay là Thầy đi đâu?
Vì con tới con dự trù là con sẽ ở tại đây sáu tháng, tối đa cái thời gian con được ở đó, thì trong sáu tháng đó, con nghe nói là Thầy tháng nữa Thầy đi. Rồi còn 5 tháng còn lại đó con ở đây, khi mà con gặp vấn đề gì trục trặc đó, thì con làm sao để gặp Thầy, không ấy thì Thầy cho con theo Thầy?
(7:02) Trưởng lão: Bây giờ Thầy nói để cho mấy con biết về cái phần mà ẩn bóng. Ẩn bóng có nghĩa là cái hoàn cảnh, nó đang có cái sự khó khăn. Có khó khăn là gì?
Cái kinh sách của Thầy dó, được phép nó phổ biến rộng ra, thì những cái người mà nó không có giữ gìn giới luật, như chẳng hạn là như quý thầy hay hoặc là các tu sĩ không giữ gìn giới luật, họ đang sống ở trong một cái tư thế không có thể bỏ được đó, buộc lòng họ phải giữ gìn những cái thế của họ, thì họ phải tìm cách họ làm khó khăn Thầy.
Do vì vậy cho nên vì vậy mà Thầy muốn ẩn bóng đó, là vì để cho nó không có cái chuyện mà xảy ra giữa cái hệ phái này hay hệ phái khác, mà nó tranh chấp nhau. Nó làm cho chúng ta có cái đoàn kết ở trong Phật giáo, mà để chỉnh đốn lại cho nó tốt Phật giáo lại thôi. Cho nên vì vậy mình tránh một chút xíu, và do đó mới ẩn bóng. Chứ còn hiện giờ mà Thầy ẩn bóng, đó là một điều rất là thiệt thòi cho cái sự tu tập của mấy con.
(08:12) Nhưng mà nói ẩn bóng, có nghĩa là ẩn bóng để đối với những người mà không có tu mà họ đến họ xin đó, để rồi nó làm mất thì giờ Thầy rất nhiều. Và ẩn bóng cũng là một cái điều kiện để hạn chế bớt cái, có một số người đến mà để mà tìm hiểu Thầy thôi chứ không phải là quyết tâm tu.
Chẳng hạn là bây giờ đọc cái bộ sách, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin ở Hà Nội người ta, khi mà người ta cho phép in cái bộ sách của Thầy, thì người ta có giới thiệu qua cái tác phẩm và giới thiệu qua cái tiểu sử của tác phẩm. Cho nên mọi người thì người ta từ lâu tới giờ người ta không biết, nhưng bây giờ người ta biết, không biết là cái người đó, họ mập, họ béo, họ ốm, họ lùn, họ sao cái ông đó, không biết sao mà ổng nói hay quá.
Cho nên người ta muốn đến người ta thăm Thầy để mà người ta chiêm ngưỡng thôi, nó cũng làm Thầy mất thì giờ nữa. Khi mà người ta không biết, khi người ta biết đó, thì hàng ngày người ta đến tấp nập. Tấp nập làm như Thầy là, cũng như ông Thánh mà họ đến họ chiêm ngưỡng vậy đó. Cho nên Thầy thấy cái điều đó là cái điều bất lợi cho Thầy. Nhưng khi mà người ta đến mà mình không tiếp, thì nó coi nó cũng không được, mà tiếp thì nó không có thì giờ.
(9:27) Cái tuổi đời của Thầy thì nó cũng, cái thân mà nhân quả vô thường này thì nó không lâu rồi, không thể kéo dài nữa. Do đó thì còn lại cái thời gian nó cũng không lâu. Cho nên Thầy còn phải soạn thảo một cái bộ sách, cái bộ sách Đạo Đức nhân quả làm người đó. Thì do đó cái quan trọng nhất là được đưa ra cái nền Đạo Đức của Phật giáo cho nó cụ thể rõ ràng. Đó là cái ước nguyện của Thầy phải làm.
Cho nên Thầy sống những ngày từ nay mà về sau đó, cho đến khi mà làm xong được cái nhiệm vụ này, thì nó đòi hỏi Thầy phải làm việc rất nhiều. Mà nếu mà để mà Thầy tiếp khách nhiều, thì nó mất thời giờ. Cho nên cô Út dự định là bàn với Thầy, thôi bây giờ chỉ có nước là Thầy ẩn bóng thôi.
Nghĩa là hoặc Thầy ở đây hoặc là ở chỗ nào đó, cũng phải có những cái điều kiện, phương tiện để mà Thầy in những cái cuốn sách, hoặc là in những cái bộ sách Đạo Đức cho nó kịp thời. Hoặc là Thầy có chỗ yên tĩnh để mà Thầy viết, không có tiếp khách nữa. Đó là cái phần để mà tránh duyên, chứ không phải là ẩn bóng thật sự. Con hiểu chưa? Tránh duyên.
(10:38) Bây giờ mấy con là những người quyết tâm tu để cho mình được giải thoát, thì cái quan trọng không phải là cái chỗ mà viết sách không của Thầy, không phải là viết đạo đức không, mà cái quan trọng hàng đầu của Thầy ấy, là đào tạo một người chứng quả A La Hán.
Nhưng mà mấy con có cái tâm tha thiết và quyết định để mà tu giải thoát, như con chẳng hạn, Kim Chi như con bên đó, con về bên đây tu, con bỏ hết cả sự nghiệp của mình quyết tâm để tìm một cái chân giá trị của sự giải thoát của mình. Và cũng là một cái điều mà quan trọng nhất là Phật giáo hôm nay để nói lên được tiếng nói rằng có người tu chứng, chứ không phải là không có người tu chứng. Và chính cái đường lối của Thầy là phải có người tu như vậy được.
(11:22) Nghĩa là bây giờ mấy con nhập định được, mấy con thực hiện Tam Minh được là mấy con đã có tiếng nói rồi. Chứ còn mấy con mà sống, bây giờ mấy con sống giới luật đức hạnh nghiêm chỉnh đi, không vi phạm đi nữa, mấy con cũng không nói được đâu. Bởi vì cái đó là cái giới luật, thì người ta không có được, người ta không tin lắm đâu.
Nhưng mà mấy con phải sống vừa đức hạnh giới luật, mà lại vừa có đủ cái sức định lực của mình, mình thực hiện được Tam Minh, như một bậc A La Hán, như vậy thì người ta mới tin rằng mình chứng quả A La Hán.
Còn hôm nay, tại sao mà Thầy không thực hiện những cái năng lực, mà người ta gọi là thần thông? Tại sao Thầy không thực hiện được? Thầy nghĩ rằng Thầy thực hiện như vậy, thì bao nhiêu người họ tập trung vào đây để tu tập thần thông, chứ không có phải đi vào con đường giải thoát.
Cái mục đích Thầy thực hiện cho họ biết làm chủ bệnh. Cho nên những cái trận bệnh mà các con nghe Thầy bệnh đó, mà Thầy thực hiện bằng cái pháp tác ý, mà Thầy không có bệnh đau gì hết, để chứng minh rằng Thầy làm chủ được bệnh. Mà cái bệnh mà làm chủ được, thì chắc chắn sẽ làm chủ được cái gì chớ ? Các con hiểu chỗ đó không?
Cho nên vì vậy đó, chỉ cần cái giờ phút mà Thầy ra đi, thì tức là Thầy làm chủ được cái chết. Nhưng mà Thầy đã ra đi rồi, thì khi mà Thầy chết, Thầy ra đi rồi thì mấy con đâu có làm sao réo Thầy lại. Nhưng mà Thầy làm chủ bệnh đó, Thầy mạnh khỏe như thường, thì mấy con thấy cụ thể, thực chất hơn.
Còn bây giờ mà Thầy thể hiện một chút chút gì mà thần thông, thì cái tâm mà tham đắm thần thông, thì người ta sẽ đến học tập Thầy nhiều, nhưng mà cái lợi thì không có lợi, nó không có lợi. Lại nhắm vào cái mục đích sai lệch của đạo rồi, nó không đúng. Cho nên Thầy không muốn làm cái điều đó. Thậm chí như Thầy biết, mỗi câu hỏi của họ hỏi ra, Thầy biết họ muốn biết Thầy có thần thông ở chỗ đó hay không? Thầy biết liền, nhưng mà Thầy giả vờ không biết.
(12:50) Nghĩa là người mà tìm thần thông đến với Thầy, thì không bao giờ mà gặp Thầy. Mà cái người mà tìm đến cái sự giải thoát, làm chủ được cái sự đau khổ của kiếp người của mình, sanh, già, bệnh, chết, thì vô đây Thầy dạy mấy con sẽ đẩy lui được những chướng ngại, những cái thân bệnh của mấy con, để mấy con thấy cái hiệu quả đó. Rồi nó tuy ít, nhưng mà nó có cái kết quả.
(13:10) Lần lượt rồi mấy con sẽ đi tới, thì cái lực của nó càng ngày nó càng đầy đủ trọn vẹn hơn. Để rồi mấy con sẽ nhiếp phục được, và từng đó thì các con sẽ thấy, mình làm chủ được bệnh. Mà mình làm chủ được bệnh đó, thì cái năng lực làm chủ được bệnh nó có đủ bảy cái Giác Chi, cái năng lực nó sẽ hiện đủ ra. Chứ còn mới đây nó chỉ phần nhỏ nó thôi, cho nên nó chưa có đủ.
Sau khi nó đủ rồi, thì mấy con đủ sức làm chủ sinh, già, bệnh, chết và thực hiện Tam Minh một cách dễ dàng. Nhưng mà cái giai đoạn này là giai đoạn khó, bởi vì cái tưởng thức lực đó, với cái ý thức lực, nó gần như là nó hai cái nó song song.
Như mấy con thấy trường hợp mà xảy ra, như một số người tu ở đây đó, thì nó xảy ra như vậy. Mà nếu mà không có Thầy trực tiếp bên, không có phá được, thì đó là một cái điểm rất là tai hại. Họ sẽ đưa đi đến vào cái bệnh Thiền, chứ không phải là tốt lành gì. Cho nên do đó cần thiết có mặt Thầy.
(14:12) Cũng như bây giờ mấy con không thiện xảo được, có mặt Thầy, Thầy giúp đỡ mấy con thiện xảo được. Đó. Thì vì vậy mà tới cái tập mà, người tu sĩ và cư sĩ cần cần biết những gì đó, thì tới tập vừa rồi là tập 5, tới tập 6 thì nó có thêm những cái kinh nghiệm thiện xảo. Ở trong đó có một cái số huynh đệ của mấy con, người ta cũng có cái thiện xảo.
Bởi vì khi mà Thầy giảng cách thức mà thiện xảo, với cái bản thân của Thầy, kinh nghiệm của Thầy, nhưng từ đó người ta rút tỉa qua bản thân của người ta, qua cái trí tuệ người ta phải sáng tạo ra. Thì cái thiện xảo đó, làm cho người ta được an trú được.
Cho nên vừa rồi thì có chú Nam ở ngoài Hà Nội vào đây tu đó, chú còn trẻ. Chú cũng là một cái nhà khoa học của đất nước mình. Nhưng mà chú còn trẻ tuổi mà chú ham tu. Chú vào đây thì chú cũng có trí tuệ. Khi mà Thầy dạy rồi, khi mà tu mà không an trú được, chú tư duy, chú suy nghĩ, rồi chú rút tỉa từng chút, từng chút của cái hành động tu tập của mình đó. Chú nghĩ ra cách này, nghĩ ra cách khác.
Khi nghĩ ra như vậy đó, thì chú đến, chú trình cho Thầy: “Con nghĩ như vậy, con an trú, thấy cái tâm của con nó an ổn nó dễ, như vậy có đúng hay là không? Nó có bị tưởng hay là không?” Bởi vì khi mình nghĩ ra một điều đó, mình chưa biết chắc là cái đó là tưởng hay là không tưởng. Chỉ có một người Thầy, người ta biết người ta xác định được, cái điều đó là do ý thức của mình hay là do tưởng của mình. Bởi vì cái tưởng và cái ý thức nó dễ lầm lắm.
(15:47) Cho nên thí dụ như Thầy nói, cái đề mục tu tập như cái "Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô" đó, "Cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra", không khéo các con sẽ nương vào cái hơi thở, thì các con sẽ thấy cái hơi thở chạy từ, hít vô, các con cảm như hơi thở nó chạy từ ở trên đầu nó đi xuống tới chân, rồi từ chân nó chạy ra khỏi lỗ mũi mình nó ra. Và cái hơi thở nó chạy ra, chạy vô, thì các con cảm nhận không khéo thì nó sẽ, một chút xíu nó sẽ thành tưởng đó con. Nó không dễ đâu.
Cho nên khi đó, thì chẳng hạn là bây giờ, thí dụ như con nói: "Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra". Thì cái cảm giác mà toàn thân đó, thì nó rất khó, nhưng mà các con sẽ tác ý ra một câu khéo, thiện xảo hơn một chút, thì nó sẽ dễ, cái cảm giác của mình nó dễ nhận hơn.
Thí dụ như bây giờ sửa lại câu đó một chút, để cho mình, cái đặc tướng của mình nó dễ nhận hơn, thì mình sửa lại cái câu đó một chút xíu: "Cảm giác thân hành tôi biết tôi hít vô, cảm giác thân hành tôi biết tôi thở ra".
Rồi khi mình hít vô, cái thân mình nó rung động, nó rung động từ ở trên đầu của mình, ở trên mũi của mình nó rung động, các cơ nó rung động, rồi nó đi dần dần nó xuống tới chân, nó đi nhanh lắm. Nhưng mà cái rung động của nó, có cái rung động của cái thân.
Cho nên cái thân mình nó rung động thì mình cảm giác theo cái cái rung động của nó, thì cái câu tác ý mà “cảm giác thân hành tôi biết tôi hít vô, cảm giác thân hành tôi biết tôi thở ra”, thì mình cảm giác theo cái thân hành là cái rung động của cái thân, thì khi mình hít vô nó có rung động, thì khỏi bị cái tưởng của hơi thở nó đi từ trên xuống dưới. Các con hiểu chỗ này. Đó là cái khéo léo.
(17:20) Còn mình nhắc nó "Cảm giác toàn thân" đó, thì bởi vì nó không có cái thân hành, thành ra mình quên cái động của cái thân hành, cho nên mình có cái tưởng nó theo đó. Nó chỉ mình tác ý, nó thay đổi cái câu tác ý một chút xíu thôi, thì mình thiện xảo rồi. Do đó thì mình đi tới nó dễ dàng. Phải không các con?
Đây là Thầy nhắc những cái thiện xảo, chứ đừng có cố chấp rằng Phật dạy mình cái câu "Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra", rồi mình cứ cố chấp ở trong cái chỗ cảm giác toàn thân đó.
Nhưng mà các con nhớ, khi mà qua cái Thân Hành Niệm, thì cái câu mà "Cảm giác toàn thân", thì khi mà khi tu Định Niệm Hơi Thở mà trong Thân Hành Niệm, thì đức Phật lại nhắc: "Cảm giác thân hành tôi biết tôi hít vô, cảm giác thân hành tôi biết tôi thở ra", chứ không phải ông Phật không nhắc.
Bởi vì cái thiện xảo thì ông Phật đã dạy mình thiện xảo, nhưng mình đọc sai cái bài, chỗ này là “cảm giác toàn thân”, mà chỗ này sao “cảm giác thân hành”? Đó thì rõ ràng là cái thân hành nó dễ cảm nhận hơn là cái cảm giác toàn thân. Con hiểu chỗ cái thiện xảo không? Cho nên Thầy thấy ông Phật thiện xảo ổng cũng có dạy mình chớ, nhưng mà tại ổng chết rồi, ổng không nói ra cho mình biết.
Cho nên mình thấy sao cái bài này lại nói vậy, bài này lại nói vậy? Nhưng mà mình so sánh là đây là cách thức thiện xảo. Cũng như cái tâm vậy đó thôi. “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô”, “cảm giác toàn tâm tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn tâm tôi biết tôi thở ra”. Thì tại sao lại có cái bài trong Thân Hành Niệm, thì đức Phật nói "Cảm giác thân hành tôi biết tôi hít vô, cảm giác thân hành tôi biết…”.
(18:51) Cho nên Thầy mới biết thân hành là cái chỗ mà động tĩnh của nó. Phải không ? Cái động của nó là nó có khởi niệm, mà không động thì nó không khởi niệm gì. Cho nên nó thuộc về “cảm giác toàn tâm tôi biết tôi hít vô”. Tức là cảm giác cái gì? Cảm giác cái động cái tĩnh. Qua cái đề mục này mà mình thiện xảo, mình biết.
Mà bây giờ mình nhắc câu mà "Cảm giác toàn tâm", thì mình cảm giác không nổi. Mình phải “cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô. Cảm giác tâm hành…“. Cái hành đó là cái động của nó. Cho nên mình biết cái động của nó, nó có niệm hay không niệm. Con hiểu chỗ này…!?
Cho nên đức Phật đã trang bị cho mình đủ, nhưng cái thiện xảo ổng cũng có sự thiện xảo thật cho mình. Nhưng mà cái người mà không hiểu, không tu, thì mới thấy "À, cái bài kinh này khác, bài này khác". Không phải khác đâu, nó giống nhau, nhưng mà cái này là thiện xảo, nó chỉ một chứ không hai đâu.
Đó thì, mấy con còn có thể mấy con sửa sao mà nó hợp với mình, để khi mà mình nhắc đến cái mình nhận ra được. Đó là cách thức thiện xảo đó con.
Phật tử : Tu khó quá Thầy ơi, không có Thầy con tu không được…(. . .)xin Thầy trụ thế xin dẫn dắt tụi con
Phật tử: Con cũng muốn xin hỏi Thầy đó là, về thầy Chơn Thành đó, bây giờ thầy Chơn Thành ở đâu, ví dụ như Thầy không có ở đây, thì tụi con có thể hỏi Thầy Chơn Thành không? Thầy Chân Thành có dạy tụi con được không?
(20:00) Trưởng lão: À, bây giờ thì thầy, nói chung là thầy bây giờ đó thì thầy chưa có dạy. Thầy nói để thầy tu cho xong đã. Thầy thì giữ độc cư trọn vẹn lắm, thầy không nói chuyện với ai đâu. Thầy mong rằng thầy chỉ cố gắng thầy chỉ tu, thầy nhập các định, thầy thực hiện được Tam Minh xong rồi, thì thầy sẽ phụ giúp với Thầy.
Thì khi mà không có Thầy, thì có thầy Chơn Thành trợ giúp cũng được, không có sao. Nhưng mà hiện giờ thì có Thầy thì thôi, thầy không giúp đâu, thầy quyết định thầy cố gắng thầy tu.
Cho nên bữa Từ Quang mà đồng hồ nó reo, mà Từ Quang không có thức dậy, nó quên đó, nó vô ký đến độ mà chuông reo, đồng hồ reo vậy mà nó quên, thì Chơn Thành nó nghĩ rằng đi đến kêu Từ Quang, nhưng nó không được, mình phải độc cư, chớ còn mình kêu thì không được. Nó vẫn còn phóng tâm đó, nó cũng nghĩ đến người bạn gần bên mình, nó cũng tính này kia.
Nhưng khoảng độ chừng 30 phút, 1 giờ sau đó, thì ở bên kia thầy Phước Thắng, thầy qua thầy kêu, kêu dùm cho Từ Quang. Bởi vì, coi vậy chứ nó không dễ đâu mấy con, nó cái đó nó bị lọt vào ở trong cái quên là cái vô ký. Trong khi mình ngủ mình say quá, nó mới quên. Tiếng chuông rất lớn mà không nghe, chứ không phải nghe đâu. Nhưng mà từ đó mình sẽ cảnh giác, mình nhắc trước khi ngủ, mình nhắc phải đúng giờ, phải nói tỉnh dậy đó.
(21:27) Thì do đó thì mấy con yên tâm đi, sẽ có nhiều người giúp đỡ chứ không phải không đâu. Trong cái số lượng, mà số người, mà còn lại đây đó, thì họ quyết tâm tu, họ cũng có những cái kinh nghiệm tu. Nhưng mà hiện giờ thì những người đó đang tu, cũng như mấy con đang tu vậy đó, chứ không có gì đâu. Mấy con cứ ráng đi.
Rồi Thầy nghĩ rằng khi nào mà Thầy ẩn bóng hoặc là Thầy thật sự mà Thầy vắng mặt ở đây, thì cũng có người mà hướng dẫn mấy con, chỉ mấy con đừng có rời đây thôi. Còn Thầy ẩn bóng thì coi như là, là một cái đời sống mà du tăng nay ở đây, mai ở khác. Người ta không có biết cái di tích của Thầy, lưu dấu của Thầy ở đâu.
Còn bây giờ Thầy đi mà bốn năm người nó lật đổ bể hết. Đi tới đâu mà đông người thì mình phải lo, bởi vì nhiều người nó phải lo chứ, còn mình Thầy thì đến chỗ nào, Thầy ở chỗ nào khỏi cần giấy tờ gì hết, không có lo. Còn bây giờ đi mà ba bốn người đi theo Thầy, thì coi như là bị lộ tung tích hết […]
(22:26) Thầy về Thầy thỉnh nguyện với Hòa thượng mà. Thầy nói nếu mà Hòa thượng tịch, mà không có người nào mà còn theo Thầy, thì nhất định là Thầy sẽ đi với Hòa thượng, chứ Thầy tin rằng ở trong cái thế gian này không có người nào đi với Hòa thượng được. Nếu Hòa thượng chết chỉ có Thầy đi được thôi chứ không có người nào đi đâu.
Nếu Hòa thượng đi tới đâu, Thầy đi tới đó. Nghĩa là trong cái cõi chết, chỉ có Thầy là người tự tại được đi như vậy thôi, chứ còn không có người nào đi, mà không có người theo Thầy. Còn bây giờ có người theo Thầy, mà Thầy đi với Hòa thượng như vậy, tức là Thầy sẽ bỏ mấy con.
Nói chung là Thầy ở đây Thầy cũng khuyến khích, thầy Chơn Thành thì cũng lớn tuổi rồi, nhưng mà cũng hết sức cố gắng tu. Nhưng dù sao thì thầy cũng có một cái nghiệp, kêu là cũng còn một cái tạp khí, cũng khó xả chứ không phải để. Nhưng mà cố gắng là thầy, cố gắng khắc phục cho thầy xả lần, thì nó mới vào dễ.
(23:24) Chứ cũng không phải là… nó cũng còn có cái rất khó, chứ không phải dễ, mà không đơn giản, mà chính Thầy, Thầy biết cái chỗ đó. Nhưng mà Thầy khéo léo nhắc, nhắc để cho xả cho được cái chỗ đó, rồi thì nó mới đi vào mới mau, chứ còn nếu mà xả chưa được nó cũng không vào nữa.
Thầy có một cái, là nó chỉ phóng tâm như thế này này. Là bởi vì thầy tu, giờ giấc thầy nghiêm chỉnh, rồi độc cư nghiêm chỉnh, nghĩa là không nói chuyện với ai hết, từ ba năm nay, suốt ba năm nay tu tập rất tốt, hoàn toàn. Nhưng mỗi người mà thất nào mà dậy sớm, bởi vì mình giữ giờ giấc nghiêm chỉnh đó, ai dậy sớm, dậy trễ đều biết. Do đó cái tâm mình nó phóng ở chỗ đó.
(23:58) Thầy nói họ tu kệ họ, đừng có để ý. Ai tu được, không được, đừng để ý, Thầy nhắc vậy thôi, nhưng mà cái tâm nó cứ phóng vậy. Đó người ta, chuông reo người ta không dậy, mình cũng biết. Rồi cái gì nó cũng phóng ra nó biết, Thầy nói, làm sao cho cái tâm nó quay vô vậy, đừng có để cho nó phóng ra. Thầy chỉ bấy nhiêu đó thôi.
Đó, người nào đi nói chuyện sao, thầy ngồi đó, thầy ở thất thầy, mà ở ngoài nói chuyện thầy biết hết. Xa thầy cũng biết nữa, bao xa cũng biết nữa. Thí dụ như ai nói chuyện chỗ nào, chỗ nào, thầy biết, thầy ngồi trong thất thầy mà cứ làm như cái tâm nó thanh tịnh rồi, bắt đầu nó cứ hướng ra vậy à. Thành ra cứ lôi cho nó vô, đừng có hướng ra nữa, chừng nào mà nó quay vô, nó không phóng dật nữa, thì lúc bấy giờ thầy dễ lắm con, nó thành tựu rồi, thầy chỉ còn có cái nhược điểm đó thôi.
Thầy nói bây giờ cái tâm nó trống vắng, nó sắp sửa thanh tịnh, nó thanh tịnh rồi, cho nên cái người nào sai, thì nó làm cho mình thấy hết. Mà thấy hết đó, thì là mình bị động tâm. Thế cho nên nó chỉ có chút đó thôi. Vì vậy mà Thầy khéo nhắc lắm. Chỉ có bấy nhiêu đó thôi, nghĩa là đừng có để ý ai nữa hết, nghĩa là đừng có để…nói con ráng con không có để ý, mà tại sao nó kỳ vậy, con cũng không có biết nữa.
Nó ngồi đó mà hỏi ai làm cái gì đâu, cái thất nào mà bật đèn lên nó cũng biết, mà không bật đèn lên nó cũng biết, nó biết người này ngủ không chịu tu, như vậy là người này tu không tới đâu, nó biết hết. Mà thậm chí như bên nữ, ở bên đó mà người nào mà tu như thế nào, có bữa tu hứng lắm tới 1, 2 giờ, còn có bữa thì ngủ suốt đêm, nó cũng biết nữa. Người nào rồi sao nó cũng biết.
(25:31) Cho nên thầy trình bày, Thầy nói đây cũng là cái chướng của con, cái chướng duyên, cho nên vì vậy mà con phải giữ gìn cái này, phải im lặng như vầy, phải nỗ lực. Tức là cái lỗ tai, cái con mắt, phải luôn luôn phòng hộ, cái này lôi nó trở vào, tác ý lôi nó vô. Thì hôm rày Thầy nhắc nhở.
Phật tử: …(. . .) bởi vậy con nghe con biết chớ con không dám ngủ.
(25:47) Trưởng lão: Bởi vì có người, người ta biết mình ngủ các thứ hết à. Hỏi sau này thầy Chơn Thành thầy biết hết à. Cho nên mấy con, Thầy không có ở ngoài đó, nhưng mà thầy Chơn Thành trình cho Thầy biết ông nào ngủ, ông nào thức biết hết à, ông nào tu kiểu nào cũng biết, hứng là tu dữ tợn, mà không thì ngủ, mà chừng đó ngủ luôn, không bật đèn, thức dậy, Thầy cũng biết hết à.
Cho nên nói vậy chứ nói thật sự ra thì cái người mà người ta tu suốt 3 năm nay, cái tâm người ta thanh tịnh lắm. Cho nên cái sự động dụng của mấy con sai đúng người ta biết hết à. Mà thầy thì bị chướng cái đó, mà thầy đi vô chưa được đó thôi, chứ còn nếu mà thầy đừng có phóng nữa thì chắc chắn là… Coi như đó cũng là một cái giai đoạn của ma đấy con à.
Nghĩa là tâm nó thanh tịnh rồi con, bắt đầu nó đón nhận hết mọi cái. Cho nên Thầy bắt đầu Thầy dạy về cách thức phòng hộ sáu căn, chứ mấy con thì Thầy chưa có dạy điều đấy. Thầy dạy cái điều phòng hộ sáu căn đó, phòng hộ mắt, tai, con mắt với lỗ tai của mình đó.
Để luôn luôn là lúc nào có mắt có tai chứ nó không thèm thấy ra ngoài nữa, mà nó chỉ thấy trong hơi thở của mình, nó thấy ở trên bước đi của mình. Con lưu ý cái này. Cũng tập khó mà con.
(26:59) Phật tử: Con kính bạch Thầy, con muốn hỏi Thầy ở đây, khi mà con thức dậy, thì con tìm một cái phương pháp để mà cho tâm con nó đừng đi ra ngoài, thì bằng cách đó là con nhìn cái trái tim của con. Rồi cái con nhìn cho đến mức độ mà con biết được cái sự chuyển động của trái tim như thế nào.
Thì một hôm trái tim của con ở trong lồng ngực, thường thường thì con nghĩ nó chỉ đập, đập theo nhịp nhịp nhịp nhẹ nhẹ nhỏ nhỏ vậy thôi, nhưng mà có một hôm đó, con nhìn một lúc thì con thấy như là trái tim con nó có một mình nó độc lập vậy đó. Và nó đập cái giống như là thà thầm cái nó giựt một cái đó Thầy, cứ thà thầm, thà thầm, thà thầm, nó đập vậy đó Thầy.
Cái con thấy trái tim làm việc rất là cực khổ, rất là mệt mỏi. Rồi cái con nhìn qua cái phổi, rồi con nhìn con thấy tới cái bao tử rồi cái ruột, cái gan vậy đó, thì cái tâm con nó không có đi ra ngoài. Nó không đi ra ngoài thì như vậy có được không, hay là như vậy là tưởng hả Thầy?
(28:18) Trưởng lão: Ừm, như vậy là con an trú theo cái tưởng. Nhưng mà khi mà con, khi mà nó dùng cái tưởng đó nó an trú rồi, thì con, khi mà thấy cái tâm mình nó an trú được thì con hướng nó vào cái pháp tu, chứ đừng có để nó ở trong các pháp tưởng đó nữa. Con hiểu không ?
Cái pháp, thí dụ như bây giờ con định là con sắp sửa con dậy để mà con tu cái Định Niệm Hơi Thở, cái đề mục nào đó, phải không ? Thì bây giờ con an trú bằng cách là con nhìn trái tim, rồi con nhìn toàn bộ trong nội tạng của con, sau khi nó an trú được ở trong những cái phần đó, nó bằng qua cái tưởng của con. Phải không !? Con nghe cũng bằng cái tưởng của con rất là rõ ràng cụ thể đó. Bây giờ thấy nó an trú được rồi thì con tác ý "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra". Thì lúc bấy giờ nó, cái chỗ nó an trú thay vì nó an trú trong cái nhịp tim của con, thì giờ bắt đầu nó an trú trong cái hơi thở của con, thì cái hơi thở của con là cái pháp. Con hiểu chưa?
(29:09) Thì lúc bấy giờ thì con an trú vô đó, thì bắt đầu con muốn dẫn dắt khi mà an, đầu tiên thì con ngồi con an trú theo trong cái tưởng của con, ở trong cái cơ thể, cái tim con, rồi từ phổi con, thấy nó an trú được rồi, thì bắt đầu con dẫn nó qua cái pháp, cái pháp tức là Định Niệm Hơi Thở. Thì khi mà con thấy nó an trú được trong cái hơi thở rồi, thì bây giờ con tu tới cái đề mục nào của cái hơi thở.
Thí dụ như đề mục thứ 6 là "An tịnh tâm hành", thì bắt đầu con nhắc "An tịnh tâm hành".Còn nếu mà con tu tới cái đề mục thứ 17, là “với tâm giải thoát, với tâm định tĩnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tĩnh tôi biết tôi thở ra”, thì con lại tác ý câu đó để cho nó an trú trong hơi thở mà, nó làm cho cái tâm con càng lúc càng định tĩnh lên. Nó tỉnh, tỉnh lần lần lần lần, thấy nó định tĩnh rất cụ thể, rõ ràng.
Con cứ nhắc, bởi vì mình an trú rồi thì mình nhắc nó hiệu quả lắm, nó càng đi tới, đi tới nữa. Cứ thỉnh thoảng con nhắc. Đó là con trở về pháp, nhưng mà con biết thiện xảo cái tưởng đó.
Phật tử: Con cũng dùng cái đó, con cũng làm như vậy đó. Thì sao có một hôm là con nghe toàn thân con nó có cái tiếng giống như là tiếng máu mà nó chảy ở trong thân đó Thầy. Cái con thấy vậy cái con ngưng, con nói không biết cái này có tưởng không?
Cái con ngưng, con không có nghe vậy nữa. Cái con nói giờ con để ý tới một cái ngón tay thôi hay là một cái chấm tay thôi, thì rõ ràng con nghe máu nó chảy ở trong cái mạch máu của con, nó chảy rất là …, khi mà cái tâm mà thật là thanh tịnh rồi đó, thì con cảm nhận được cái đó. Cái con nói thôi giờ con không có muốn nghe vậy nữa.
Bây giờ con muốn nghe bên này này, chớ không muốn nghe bên tay trái nữa mà muốn nghe bên tay mặt, thì cái bên tay trái nó ngưng nó không nghe nữa, mà nó nghe qua bên tay mặt. Rồi cái con nói như vầy, vậy thôi bây giờ con cũng không muốn nghe bên mặt nữa, bây giờ con muốn nghe dưới chân, thì nó lại cho con nghe ở dưới chân. Con nói không biết cái này có tưởng không, để con về con thưa với Thầy?
(31:22) Trưởng lão: Cái này là cái phần của tưởng, nó nghe nó giao cảm được. Chứ còn ý thức của mình thì nó không nghe đâu, nhưng mà cái tưởng nó nghe. Khi mà cái ý thức nó thanh thịnh rồi, thì cái tưởng nó hoạt động. Nó hoạt động thì con dùng cái tác ý của cái pháp tác ý, con tác ý bảo nó nghe tay này thì nó nghe tai này, bảo nó nghe chân thì nó nghe chân, bảo nó nghe đầu thì nó nghe máu chảy trên đầu, bảo đầu nó nghe đó. Nhưng mà đó là con tu về tưởng.
Nhưng mà mình biết sử dụng cái lực tưởng của nó để trở thành cái lực của ý thức ấy, thì mình cứ ôm pháp, mình tác ý cho nó ôm chặt pháp thôi, để cho cái pháp nó giúp cho mình để tạo thành một cái lực. Cái lực của nó trở thành cái lực của ý thức. Nhưng mà con tu đến chỗ này, thì coi như là, mình từ mà, con có nghe cái bài mà Thầy nói là "Lấy cái lực ma mà chuyển thành lực của ý thức của mình” không?
Tức là mình sử dụng cái lực đó, để mà trở thành cái lực của mình. Cho nên vì vây mà mình biết nó rồi mình dùng cái lực đó đó, mình đưa nó trở vào cái pháp. Như hồi nãy Thầy nói đưa vào cái pháp cho nó an trú được trong cái pháp đi. Lấy cái lực tưởng, đưa nó vào an trú. An trú rồi bắt đầu đó mình luyện cái lực của ý thức. Thì cái lực tưởng nó lần lượt nó tập trung, nó đưa qua cái lực của ý thức hết.
(32:25) Cho nên cái lực của tưởng mà đưa qua cái lực của ý thức của mình, sau này cái ý thức của mình muốn cái gì đó mình điều khiển, thì nó làm việc cho mình, nó làm được. Cũng như bây giờ, cái tai bên đây con nghe bên đây, bảo nghe bên đây nó nghe bên đây, bảo nghe chân nó nghe chân. Thật ra thì cái lực cũng mạnh lắm chứ không ít đâu.
Nhưng mà bây giờ cái lực đó đó, thì do mình biết sử dụng nó qua đây. Bởi vì mình bảo nó nghe ở trong thân mình đó, thì như vậy là rõ ràng nó nghe những cái động trong thân, động dụng của mạch máu của mình. Tất cả những cái này, thì nó quá là vi tế rồi, nó quá vi tế. Nhưng mà mình chuyển nó ra, để nó thành một cái lực, để mình sai nó đi đúng cái kiểu, chứ nó không nghe điên, nghe khùng, nó để nghe cái đó làm cái gì. Con hiểu không?
Để cho nó bảo, bây giờ thí dụ như con bảo nó phải là ngủ, thức cho đúng giờ, phải không, nó có lợi ích cho mình. Bảo nó tỉnh thức, bảo nó diệt tầm tứ, bảo nó phải không có chiêm bao, bảo nó phải tỉnh thức hoàn toàn, không có buồn ngủ, thì mình bảo những cái lực đó mình chuyển, mình ra lệnh cho cái thân, tâm của mình, nó làm theo, thì nó lợi ích biết bao nhiêu, để cho mình làm chủ được cái thân, tâm của mình.
(33:31) Phật tử: Con kính bạch Thầy cái vụ mà buồn ngủ đó Thầy, là thời con ở bên đây, con trở về bên Mỹ đó, thì con nói bây giờ thức trắng đêm, đêm nay là thức trắng đêm, thì mình thức trắng đêm, ngày hôm sau cũng tỉnh rồi thức ba đêm liền được. Rồi sau đó thì ngủ rồi thức bình thường, muốn ngủ thì ngủ, muốn thức thì thức thì nó bình thường.
Rồi thình lình vậy đó Thầy, có một cái chuyện gì đó xảy ra, giống như là con đi tới một cái tu viện con ở, thì có cái giờ giấc của Tu viện, rồi bắt đầu tự nhiên nó bắt con ngủ, nó bắt con là phải, giống như phải ngủ hơn như là cái giờ mà bình thường con ở nhà con tập được. Sau khi mà thay đổi cái điều kiện, thì con làm không được. Rồi cái nó lại trở lại, được, rồi không được, được rồi lại không được, sao nó cứ làm hoài vậy đó Thầy?
(34:29) Trưởng lão: Tức là con chưa có đủ lực của ý thức để mà điều khiển. Chứ mình điều khiển thí dụ như bây giờ đó, khi mà ở Tu viện này giờ giấc như vậy, con về nhà mình cái hoàn cảnh nó không có được giữ như giờ giấc ở trong Tu viện. Bắt đầu mình thay đổi theo hoàn cảnh nhà, thì nó phải nghe, mà đến Tu viện nó phải nghe, nó làm đúng ở đâu nó ra đó hết. Mình điều khiển nó lúc nào cũng được.
Thí dụ như bây giờ, ở Tu viện là phải từ 10 giờ đến 2 giờ mới thức dậy, thì con về nhà con, thì cái hoàn cảnh mà từ 10 giờ đến 2 giờ này thức dậy như vậy, thì cái hoàn cảnh ở trong gia đình của mình nó không thể mà ngủ như vậy được, thì nó phải sai khác. Thì mình bảo làm sao nó phải nghe như vậy hết, thì tức là mình chủ động mình điều khiển được cái ngủ của mình rồi.
(35:12) Còn con thì nó điều khiển theo cái tưởng của nó. Cho nên lúc ở đây thì nó vậy, mà khi mà có thay đổi cái điều kiện, cái hoàn cảnh của nó,thì bắt đầu nó theo cái hoàn cảnh kia được rồi, thì cái này nó lại khác xa, nó không có theo điều kiện cái này được. Thì như vậy là con chưa làm chủ nó được, mà nó đang ở trong cái chủ động của cái tưởng của con, cái cách thức của nó ở trong tưởng.
Phật tử: Bây giờ con phải làm sao để mà cho nó được trọn vẹn Thầy ? Tại vì con cảm nhận như là con biết cách để mà con phá cái ngủ.
Trưởng lão: Đúng rồi, bây giờ thì con phải tu cho tới cái đề mục thứ 17 rồi đó, nó mới phá trọn vẹn. Bởi vì cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở, cái đề mục "Với tâm định tĩnh" đó, nó sẽ phá con hoàn toàn, nó không có còn cái sức mê nữa, nó còn một chút. Cho nên nó là cái đề mục thứ 17 ở trong 18 cái đề mục, nó là cái đề mục thứ 17.
Sau đó nó mới, “với tâm giải thoát hoàn toàn”, nó là cái đề mục cuối cùng đó con. Mình chỉ còn có một chút xíu. Bởi vì nó chỉ còn sơ sót một chút, mình sẽ nhận được cái niệm si của mình nó còn một chút. Thì bởi vì, bắt đầu bây giờ đó thì con sẽ luôn luôn con tu tập, thì con dùng cái đề mục đó, con ngồi.
(36:07) Mặc dù là nó rất tỉnh, chứ không phải không tỉnh, nhưng mà con nhắc để nó vun thêm cái sức tỉnh ngầm bên trong của con, hoàn toàn để cho nó hoàn toàn nó rất tỉnh, mà từ đó con mới thấy cái chủ động của con trong cái ngủ, mà không còn bị một chút nào đó, nó mê. Đó, con chỉ còn chút xíu thôi, nhưng mà cũng phải tu tập cái này nhiều đó, cái đề mục đó.
Bởi vì đức Phật đã trang bị cho mình sẵn sàng những cái đề mục đó hết rồi, chớ đâu phải.. Thí dụ các con bây giờ hãy còn mê quá, mà các con dùng cái câu tác ý đó, thì không được đâu, nó đến mòn mỏi, rồi nó còn một ít, nó mới dùng đến nó, tới cái đề mục thứ 17 mới dùng nó chớ đâu phải.
Thì kèm theo là cái phương pháp Thân Hành Niệm đó, con lập tuần tự, con tập kỹ từng hành động của mình cho nó cụ thể rõ ràng, để cho cái ý thức của mình nó đi trước cái hành động của nó. Thì do đó nó sẽ tỉnh tất cả mọi cái, cái này nó hộ trợ cái kia, cái kia nó hộ trợ cho cái phương pháp tu của mình rất nhiều.
(36:59) Đó cho nên mình tu tập đều đặn, đều đặn để rồi mình giữ gìn trên cái Thân Hành Niệm, mình tu trên Thân Hành Niệm để khắc phục tham ưu đó, để mình đẩy lui các chướng ngại pháp đó.
Cái thời gian mà mình ngồi nó nhẹ nhàng, mà mình đẩy lui được chướng ngại pháp hết trên thân của mình, nó không còn cái chướng ngại gì nữa. Mà được kéo dài 12 tiếng đồng hồ, thì coi như mình hoàn tất được con đường tu của mình.
Mà nếu mà được 24 tiếng đồng hồ thì càng tốt nữa. Nghĩa là 24 tiếng đồng hồ, 1 ngày, 1 đêm thôi không có nhiều, thì các con thấy đó nó sẽ không có cái chướng ngại nào mà xảy ra trên thân. 24 tiếng đồng hồ mà không ngứa, không đau, không nhức, không niệm, ở trong đầu mình không niệm gì, hoàn toàn nó im phăng phắc, mà nó an lạc, nó “an tịnh thân hành, an tịnh tâm hành” đó. Hai cái trạng thái này nó hiện ra rất rõ ràng, mà nó kéo dài suốt 24 tiếng.
(37:51) Nói chung là đức Phật đã xác định nó 12 tiếng đồng hồ. Tức là Nhất Dạ Hiền, có một đêm đó, thì cái bài Nhất Dạ Hiền, nếu mà cho 24 tiếng đồng hồ, nếu mà một đêm 12 tiếng đồng hồ được thì 24 tiếng đồng hồ cũng dễ dàng lắm. Tức là một đêm mà thân tâm nó an lạc như vậy đó, nó không có một chút xíu gì mà bị, một chút xíu gì bị chướng ngại trong đó đó, thì coi như là mình đẩy lui chướng ngại pháp hết rồi.
Vì vậy mà nếu mà thân tâm được như vậy, là con hoàn tất con đường đi rồi. Chỉ có 12 tiếng đồng hồ thôi, đó Nhất Dạ Hiền đó. Nhưng mà làm sao mà 12 tiếng đồng hồ mà nó không xảy ra trên thân mình một cái cảm giác gì !? Nghĩa là luôn luôn an lạc, và tâm mình nó không có tạo, nó không khởi một cái phóng dật, phóng niệm gì, mà suốt 12 tiếng đồng hồ là hoàn tất đó con.
Cái điều đó là điều đã được xác định ở trong kinh rất rõ rồi, nhưng mà mình làm chưa được thôi. Mình thí dụ bây giờ 1 giờ, 2 giờ hay 3 giờ mình có thể an trú được, nhưng mà kéo dài nữa mình không an trú được. Cho nên vì vậy mà các con tu tập, các con nối riết cái thời gian lại, cho nó an trú được 12 tiếng đồng hồ, thì nó có chuyện với mấy con.
(38:57) Đó thì bây giờ thì nó có những cái phương pháp, con thấy những cái chỗ nào mà mình còn phải tu tập nhiều, thì mình phải tu tập nhiều cái phần đó. Còn cái chỗ nào mà mình thấy cái đó là mình đã làm được rồi, thì mình bớt cái đó đi, mình không có tu tập cái đó nữa, mà mình tu tập những cái mà cần thiết cho mình đang còn thiếu.
Đó thí dụ bây giờ con thấy sức định tĩnh con còn thiếu, cái sức phòng hộ của con nó còn thiếu, thì mình phải phòng hộ. Như Minh Thành đó, sức phòng hộ còn thiếu, phải tu về sức phòng hộ. Còn con cái sức mà tỉnh thức còn thiếu, thì phải tu cái sức tỉnh thức. Bởi vì mình có tỉnh thức, chứ không phải không có, nhưng còn một ít, chưa tốt.
Cho nên vì vậy mà qua cái phần trình bày của con, thì Thầy khuyên con nên tu cái đề mục mà "Với tâm định tỉnh". Để nhắc cho nó định tỉnh hoàn toàn, rồi nó sẽ đẩy lui. Rồi từ đó mình cũng tu những cái pháp như Thân Hành Niệm hoặc Tứ Niệm Xứ để khắc phục tham ưu của nó. Lần lượt mình thấy được rồi, bắt đầu mình kết hợp ở trên Tứ Niệm Xứ hoàn toàn, thì đương nhiên là mình thành tựu, nó tỉnh thức luôn.
Phật tử: Con có, giống như là khi mà con đi mà con để cái đèn thật là mờ đó, chỉ mà đủ để mà con bước đi thôi đó, thì con thấy nó dễ định tỉnh hơn là bật đèn sáng, lúc mà 2 giờ sáng, thức dậy bật đèn thiệt sáng đó, thì Thầy thấy vậy có được không?
(40:21) Trưởng lão: Được chứ con, tùy theo con. Khi nào mình an trú được, tâm mình định tỉnh mà an trú được, thì có lúc con cần đèn tỏ, thì con phải cần đèn tỏ, có lúc mờ thì con tạo cái hoàn cảnh, cái môi trường sống của mình cho nó phù hợp, để cho mình an trú cho được. Đó cũng là cách thức thiện xảo đó con.
Cho nên thí dụ như bây giờ trong cái nhà mình nó hơi chật, thì mình đi ra ngoài cũng là cách thức thiện xảo đó. Cũng đi kinh hành, mà trong cái chật này thì nó làm cho mình khó an trú. Mình đi rộng ra ngoài nó an trú dễ, thì mấy con phải thiện xảo hết. Từ cái hành động, mỗi cái mà nó không an trú được, là các con có quyền thay đổi cái vị trí.
Thay vì mình đi ở trong cái vòng hẹp này mình thấy an trú được, mà đi cái vòng rộng hoài, sao thấy cái tâm dễ phóng dật quá, thì mình vô cái vòng hẹp. Phải làm sao cho an trú được, làm sao mà có kết quả ngay liền trong khi mình ôm pháp mình tu, là có kết quả. Mà cái danh từ mà gọi là an trú, cái danh từ an trú, nghĩa là mình an trú được ở trong cái pháp. Mình an trú trong cái pháp đó.
Phật tử: An trú ở đây có nghĩa là tâm thì mình không có phóng, mình không có phóng tâm, mà mình cảm thấy thanh thản, an lạc, nhẹ nhàng, cơ thể mình càng lúc càng nhẹ nhàng?
(41:32) Trưởng lão: Càng nhẹ nhàng, đúng vậy đó con. Mà không bị ức chế.
Phật tử: Mà không có ức chế.
Trưởng lão: Đó, cái đó là đúng đó, an trú. Thành ra mấy con cứ tu mà mấy con an trú được, thì đúng pháp. Mà an trú không được thì sửa tới sửa lui, sửa chừng nào cho được. Dùng cả cái trí tuệ mình tư duy, suy nghĩ lớn lắm đó con. Cũng như làm cái bài toán mà đáp số đó, an trú được là đáp số được. Mà an trú chưa được thì chưa đáp số được cái bài toán đó.
Cho nên, tuy là cái pháp dạy mấy con tu tập, nhưng mà khi tu mà các con an trú không được, thì mình phải tư duy suy nghĩ, phải làm bằng cách nào đấy an trú cho được. Cũng từ trong cái hơi thở đó, các con có thể thay đổi ngắn, dài, chậm, nhẹ gì, tất cả, nhưng mà không được làm rối loạn cơ thể.
(42:12) Hễ rối loạn cơ thể, các con thử xem, năm, mười hơi thở, mà nghe nó mệt hoặc nghe có gì nó căng, thì nó trật, như vậy là không được, mình quá. An trú kiểu này không được, thành bệnh, không được, cho nên mình thay đổi lại.
Cho nên người ta, trong khi dạy rồi, mấy con tập luyện trong một ngày, hai ngày, mấy con rút tỉa rất nhiều kinh nghiệm mấy con. Chứ không phải là dạy đâu mấy con, cũng như là cuội dạy đâu làm theo đó, dạy đâu làm theo đó, làm riết rồi không có người nào đạt được gì, không an trú được. Mà cứ tập hoài tháng này qua tháng khác, thì nó, trời ơi tu như vậy mất thời giờ rất nhiều, mà nó không phát được cái trí tuệ của con thêm tí nào hết, cho nên nó không sáng suốt, nó không có sáng suốt
Còn cái này người ta, khi mà dạy rồi, các con về, bắt đầu dạy đi kinh hành. Mà đi kinh hành mình thấy an trú được, thì mình ôm cái pháp mình đi. Còn nó không an trú được, thì mình có quyền thay đổi để mà an trú được chứ. Nhưng mà mình vẫn đi kinh hành, chứ đâu phải là mình ngồi hoặc là mình làm cái chuyện khác đâu. Cho nên vẫn đi kinh hành mà vẫn an trú được con.
Nhưng mà thiện xảo cách nào, mà đi kinh hành để an trú được !? Đó bây giờ thí dụ như Thầy nói các con này, thí dụ như Thầy nói là cái đề mục đầu tiên "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra". Bây giờ con tác ý rồi, bắt đầu con hít thở một hơi thở nè, phải không ?
(43:29) Rồi còn, Thầy dặn các con 5 hơi thở chứ gì, rồi mới tác ý một lần. Nhưng năm hơi thở đó vẫn còn có niệm khởi, ta chưa an trú được trong năm hơi thở này trọn vẹn. Tức là nó còn phóng niệm ra. Thôi bây giờ khéo léo mình thiện xảo, mình bớt lại còn bốn hơi thở đi coi coi. Bốn hơi thở, bốn hơi thở một lần. Lần thứ nhất, lần thứ hai thấy an trú được, lần thứ ba cái nó đè nó lộn tới năm hơi thở. Như vậy là không được,nó chưa an trú được.
Bắt đầu bây giờ mình lui trở lại một hơi thở, còn ba hơi thở coi. Ba hơi thở, nhưng làm một hơi cái nó cũng tới năm hơi thở, nó nhớ lại. Như vậy là cũng chưa được. Do đó thì mình làm lui lại nhiều lần cho tới một hơi thở coi thử coi làm sao. Cứ một hơi thở ta tác ý một lần, hơi thở tác ý một lần, phải không?
(44:11) Bây giờ khi hít vô, nhắc "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra". À bây giờ mình phải làm cho kỹ cái hơi thở nghe. Hít vô, rồi thở ra, phải không, bây giờ ta nhắc lại phải không, ta nhắc cho kỹ đó. Mình tự mình độc thoại với mình, mình nhắc nhở mình, tức cái hơi thở một lần một hơi thở. Gọi là tu từng hơi thở mấy con.
Nghĩa là năm hơi thở mình thấy an trú không được, bắt đầu tui thay đổi cách thức này để mà tôi an trú cho được. Do đó bây giờ tôi an trú, tôi cứ mỗi lần tôi nhắc nó một câu rồi, thì tôi hít vô, tôi thở ra, tôi xem xét hơi thở. À như vậy là mình an trú được một hơi thở, phải không?
(44:46) Bắt đầu bây giờ đó mình nhắc nó lại nữa, ta nhắc cho kỹ đó nghe không, mày làm năm hơi thở thì mày làm không đúng đâu nha. Cho nên vì vậy ta nhắc lại lần nữa, cái nó làm hơi thở được nữa. Rồi cuối cùng đó mình thấy mình ngồi 30 phút mà có một hơi thở mà mình tu rất là tốt. Phải an trú được hơi thở mấy con.
Tôi nhắc nó hoài, mà tôi mỗi lần tôi nhắc nó vậy, mà nó làm rất kỹ chứ. Như vậy là tôi thấy tôi nhắc nó, cứ mỗi hơi thở tôi nhắc nó một lần, chứ mà nó an trú tốt, phải không? Như vậy cuối cùng mấy con thấy, mình thành công được rồi. Vậy thì bây giờ đó, tôi tập một thời gian sau đó cái tôi năm hơi thở cái tôi được. Có gì đâu, phải không?
Bây giờ tôi trở lại năm hơi thở tôi thấy an trú quá, không có gì hết. Hễ tôi nhắc: "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra”, bắt đầu cái hơi thở tôi, cái hơi thở bắt đầu nó thông suốt. Mới đầu con nhắc cứ từng hơi thở như vậy đó. Sau đó rồi con nhắc cái con thở, tự cái hơi thở nó thông suốt lắm mấy con, nó thông suốt hết. Cho nên nó an trú.
HẾT BĂNG
SƯ PHƯỚC NHẪN VẤN ĐẠO 01 - SƠ THIỀN
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 2000
Thời lượng: [17:24]
Tên cũ: Phước Nhẫn vấn đạo-Sơ Thiền
https://thuvienchonnhu.net/phap-am/su-phuoc-nhan-van-dao-01-so-thien
https://thuvienchonnhu.net/audios/su-phuoc-nhan-van-dao-01-so-thien.mp3
Trưởng lão: Đạo Phật đó, chứ còn thiền ra họ làm mất hết rồi.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ! Thưa Thầy, con không biết làm thế nào mà để kiểm soát được cái năm Chi Thiền đó Thầy: Tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm đó, mình có cần kiểm soát không Thầy?
Trưởng lão: Cần, mình kiểm. Mình cần chứ con!
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, bởi vì con không biết làm cách nào hết.
Trưởng lão: Mình cần đó, thí dụ như bây giờ con ngồi yên lặng rồi, nó không có cái niệm gì hết, con mới xét thử coi, thì mình thấy rõ ràng là mình đang biết hơi thở, cái tâm biết hơi thở đó.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Thì đó là nhất tâm.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Rồi mình ngồi đây mình thấy, mình tác ý ra thử coi có không, mình tác ý ra hơi thở, coi nó biết có hơi thở không, mình tác ý ra thì tức là tứ rồi, phải không?
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, còn tầm thầy?
Trưởng lão: Còn tầm nữa, bây giờ mình suy tư coi cái hơi thở của mình coi nó chậm nhẹ, nó dài ngắn hay như thế nào, hay nó bình thường, tức là mình tư duy cái hơi thở của mình, nội một cái hơi thở không là đã nhất tâm rồi thấy không, mà còn tầm tứ ở trong đó rồi, có không? Con thấy rõ rồi phải không?
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Cái mình truy ra. Nhưng bây giờ ngồi đây mà nghe nó an lạc, nó hỷ lạc, cái thân tâm của mình nó ở vậy mà nó kéo dài khoảng độ chừng mười phút, mười lăm phút thì nghe nó an lạc rồi.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Mà nó an lạc thì nó hỷ lạc chứ sao.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Thì nó tầm, tứ, hỉ, lạc, nhất tâm năm Chi Thiền ta.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, dạ.
Trưởng lão: Con xét thấy hễ, nó có kèm theo cái hỷ lạc đó, nó nhất tâm rồi, mà nó tầm tứ nó có rồi mà không có hỷ lạc thì nó chưa có Sơ Thiền đâu, nó còn.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Mà nếu mà nó có cái hỷ lạc an ổn, con ở đây con ngồi thấy con thích, nghe nó an quá, thì đó là nó đã nhập Sơ Thiền rồi.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Đó, nó dễ dàng lắm!
Tu sinh Phước Nhẫn: Con muốn biết trước vậy đó, chứ còn thiệt ra mình chưa được Thầy.
Trưởng lão: Chưa có hỷ lạc.
Tu sinh Phước Nhẫn: Có! Có hỷ lạc chút chút.
Trưởng lão: À, nó có là có Sơ Thiền vô rồi đó, nó có vô rồi.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, nó có chút chút nhưng mà nó chưa được lâu.
Trưởng lão: Có người ta nó kéo dài từ một, hai tiếng đồng hồ là nó nhập một, hai tiếng đồng hồ rồi đó.
Tu sinh Phước Nhẫn: Nhưng mà thí dụ mình ngồi như vậy đó, được như vậy mà nó lâu cũng được hả Thầy?
Trưởng lão: Lâu cũng được nữa.
Tu sinh Phước Nhẫn: Mấy tiếng đồng hồ cũng được?
Trưởng lão: Mấy tiếng đồng hồ là nó luôn luôn nó ở trong cái Sơ Thiền đó, nó mấy tiếng đồng hồ đó.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Nó hai mươi bốn tiếng lận.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Nghĩa là nó quay vô, cái tâm mình nó định vô cái Sơ Thiền đó, nó định vô nó biết hơi thở ra vô nhất tâm vậy đó, hai mươi bốn tiếng đồng hồ nó không có buồn ngủ con.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Nó không có buồn ngủ, tức là lúc bây giờ đó mình mới nhập Nhị Thiền à.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, lúc đó mới được nhập.
Trưởng lão: Mới được nhập, chứ còn Nhị Thiền không phải mà nó một hai giây, hay hoặc một hai giờ đồng hồ mà nó có vô Sơ Thiền vậy, nhập Nhị Thiền được, không được đâu.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, bởi vậy Nhị Thiền đó là mình phải diệt âm thanh Thầy ha?
Trưởng lão: Mình diệt, diệt tầm tứ đó, diệt cái âm thanh, cái nhĩ thức của mình đó, mình dừng nó lại nó không còn nghe nữa.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Coi như diệt ý thức là nhĩ thức nó cũng diệt luôn à.
Tu sinh Phước Nhẫn: Ở ngoài người ta làm gì thì làm, mình cũng không nghe?
Trưởng lão: Không nghe gì hết, bởi vì diệt tầm tứ. Diệt tầm tứ tức là diệt cái nhóm của ý thức, cái nhóm của ý thức nó là sáu cái thức: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức đó.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Mà diệt cái ý thức là sáu cái này nó diệt hết, cho nên âm thanh không nghe, mắt cũng không thấy mà ngồi đây nó tỉnh bơ, mà không thấy gì hết, trời sét mà không nghe nữa mà, dữ tợn mà? Cái Nhị Thiền chứ dữ lắm đó! Nó bị diệt, nó diệt nó làm cho không có hoạt động.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Cho nên mình ngồi nhập Sơ Thiền, mình kiểm lại năm Chi Thiền, mình thấy rõ lắm.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Tại vì chưa có hỷ lạc là chưa thấy, có hỷ lạc là có Sơ Thiền rồi.
(3:32) Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, con thấy bây giờ con ở đây tu thấy vui quá. Dạ, thấy vui, thấy thích!
Trưởng lão: Đó là một cái bắt đầu rồi đó.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, nhưng mà rồi cái chuyện cái việc mà mình độc cư trọn vẹn đó Thầy, mình phải làm sao Thầy? Con muốn biết trước để đặng con chuẩn bị đó Thầy.
Trưởng lão: À! Mình chuẩn bị là coi như mình lấy cái tiêu chuẩn của thọ Bát Quan Trai. Một tuần lễ vậy đó, mình chọn lấy một ngày, mình độc cư trọn vẹn không nói chuyện với ai hết. Rồi lần lượt mình tăng lên hai ngày, rồi ba ngày, rồi cho đến suốt một tuần lễ. Một tuần lễ được cái mình tăng lên hai tuần, hai tuần được rồi ba tuần. Chứ mình tập ngay luôn luôn không có được đâu, các pháp ác nó dữ lắm, nó luôn luôn nó xâm chiếm, nó đánh mình bạt đó, mà đức Phật nói Ma vương đó.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, cái đó là cái đại khái của những chi tiết như thế nào Thầy? Là mình làm như thế nào?
Trưởng lão: Cái chi tiết, cái đại khái là cho mình biết để mình chuẩn bị cái giờ giấc đặng một ngày mình độc cư đó.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Trong một ngày độc cư đó thì, mình phải tu, cái chi tiết mình phải tu, đó đó là “Mình giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, ăn uống nghiêm chỉnh, giờ giấc nghiêm chỉnh, ngủ nghỉ nghiêm chỉnh. Tức là giờ nào ngủ, giờ nào thức chứ không có được lộn xộn” đó là gọi những chi tiết về giờ giấc.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Tới cái chi tiết thứ hai là cái mình tu “Mình chia ra cái thời gian cho nó cụ thể, tu cái giờ nào cho phải chủ động đúng giờ nấy”.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Nghĩa là, thí dụ cái giờ này bây giờ tu Định Niệm Hơi Thở, thì nó là ba mươi phút thì phải tu cho suốt ba mươi phút, nhất định là tu ba mươi phút.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Trong ba mươi phút này, nếu mà nó có một cái niệm nó khởi ra, thì ngay đó là mình phải tu cái pháp Định Vô Lậu. Quán nó nhân quả, quán nó dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, ba cái lậu hoặc này. Hoặc là quán nhân duyên, hoặc là quán bất tịnh, tùy theo cái niệm đó nó thuộc về cái loại nào, thì mình quán theo cái nấy để mình đẩy lui nó.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Còn nếu mà nó không niệm, nó không niệm gì hết, thì mình giữ cái tâm ngăn ác, diệt ác nó. Luôn luôn mình ngăn nó bằng cái hơi thở của mình suốt quãng thời gian mình tu về cái hơi thở, là mình dùng nó mình ngăn. Mà hễ có thì mình diệt, diệt nó bằng Định Vô Lậu.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, không có thì mình để yên đó?
Trưởng lão: Để yên, để cho nó biết có hơi thở ra vô, chứ không phải dừng ngang không được. Đó, rồi trong cái Định Niệm Hơi Thở thì thỉnh thoảng mình lại nhắc cho mình để mà xả tâm.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Cứ thỉnh thoảng cứ mười hơi thở hay năm hơi thở con nhắc nó một lần, dùng cái pháp hướng nhắc nó một lần, cứ xả tâm “ Tâm như cục đất hay hoặc là tâm phải ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền đi”.
Tu sinh Phước Nhẫn: Cái đó là Như Lý Tác Ý đó hả Thầy?
Trưởng lão: Như Lý Tác Ý đó, là cái tâm hướng tâm đó, mình cứ kèm theo mà nhắc ở dưới cái hơi thở, chứ đừng có để hơi thở không thì không có được.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, nó lặng luôn.
Trưởng lão: Nó lặng luôn. Nó lặng luôn, nó lọt vào định tưởng, nguy hiểm. Còn mình nhắc vậy để cho tầm tứ của mình luôn luôn có cái tác ý ra, mà nó tỉnh táo, để mà nó luôn luôn nó tạo thành cái nội lực. Gặp cái ác pháp nó đến, cái tâm của mình nó làm chủ được, nó không có tham sân si, nó không có giận dữ, nó không có phiền não.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Đó là chuẩn bị cho nó cái tư thế của nó, đặng nó cắt đứt các cái Ngũ Triền Cái với Thất Kiết Sử.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Đó là cách thức tu trong cái giờ tu. Sau khi cái giờ Định Niệm Hơi Thở rồi thì mình thấy khỏe.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Hễ khỏe thì mình tiếp tục đi kinh hành, mà không khỏe thì ngồi nghỉ xả
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Xả nghĩa là ví dụ như mình nhất định cho nó xả ba mươi phút. Thì ba mươi phút đó đó, vọng tưởng đến hay không đến, nó nghĩ ngợi gì kệ, mình không có cần thiết mà dừng. Nó không cần, nó muốn nghĩ gì thì nghĩ.
(7:07) Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, mình cứ nghĩ là nghĩ?
Trưởng lão: Nghĩ là nghĩ, nó suy tư nó nghĩ gì, nó nhớ gì, kệ nó. Nó nhớ mình cứ nhớ thôi, không có cần mà phải dừng ngang, không có cần mà diệt nó.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Nhưng có điều kiện là nó luận gì luận, nhất định là không có bỏ độc cư trong cái ngày đó.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Nghĩa là nó luận bây giờ cái thân này bây giờ đau nhức, thôi để lại bác sĩ Trí coi, để ông để thuốc cho mình. Nhất định bữa nay chết thì chết, tao không có đi uống thuốc đâu. Bữa nay tao độc cư đó.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Bởi vì bữa nay mình thọ Bát Quan Trai mà, mình giữ gìn tám giới nghiêm chỉnh, sống trầm lặng, độc cư, không có đi lại thất ai. Nhất định hôm nay có chết thì chết, chứ tao cũng không có lại đằng đó, lại đẳng là phá độc cư.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Đó là mình nói chuyện vậy, chứ còn nó thúc đẩy mình đi cái này kia, nó làm cho mình coi như có chuyện để mà đi nói chuyện.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Đó, mình nhất định là phải giữ độc cư trọn vẹn trong ngày đó, coi như sống chết với nó. Bây giờ mày chết thì nằm đây chết, chứ nhất định tao không có đi đâu hết, tao giữ trọn vẹn độc cư.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Đó! Đó là quyết định như vậy thì mình sẽ chiến thắng. Và đồng thời mình tập dợt vậy trong một ngày được, thì hai ngày được, chất dần nó vô. Thì mình kéo dài được một tháng thì coi như là mình độc cư trọn vẹn, cái tâm không phóng dật rồi.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Phải tập, chứ còn khi không mình vô một tháng chịu không nổi đâu.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, đúng rồi đó Thầy.
Trưởng lão: Nó khó lắm.
Tu sinh Phước Nhẫn: Với cái đó đó Thầy, con thấy là mình phải từ bỏ cái hôn trầm mới được Thầy, mới vô đó được Thầy.
Trưởng lão: Mới vô đó được.
Tu sinh Phước Nhẫn: Từ bỏ hôn trầm là khó lắm đó Thầy.
Trưởng lão: Khó.
Tu sinh Phước Nhẫn: Hổm rày con cũng bớt, nó bớt được một chút. Nhưng mà nó cũng có hồi Thầy, có hồi đang ngồi đó vậy đó mà nó ngủ đâu trong bụng.
Trưởng lão: Nó ngủ mất đó! Nó ngủ mất.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ! Rồi trong lúc ngồi thiền cũng vậy nữa, mình đang theo dõi! Theo theo, đúng đúng đúng! Nhưng mà nó ngủ hồi nào không hay Thầy.
Trưởng lão: Nó ngủ.
Tu sinh Phước Nhẫn: Những lúc đó con phải đi kinh hành, đi thì nó đỡ đó Thầy.
Trưởng lão: Đó thì bắt đầu, đi đỡ, cho nên phải tập đi. Vậy khi mà mình tu, mình nghỉ khoảng độ ba mươi phút rồi bắt đầu mình đi kinh hành.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Còn nếu mà gặp hôn trầm buồn ngủ rồi, thì nhất định là không được ngồi, cứ đi kinh hành, đi hoài, đi hoài, đi riết.
Tu sinh Phước Nhẫn: Hoặc là mình đi kiếm công việc gì đó.
Trưởng lão: Hoặc kiếm việc gì làm, nó vậy đó!
Tu sinh Phước Nhẫn: Con đi làm công chuyện thì nó hết buồn ngủ, mà hễ ngồi xuống là buồn ngủ.
Trưởng lão: Không được!
Tu sinh Phước Nhẫn: Thành ra con phải ráng tập cái chuyện buồn ngủ.
Trưởng lão: Ta phá cho dữ, biết mặt nó rồi thì phải phá cho dữ.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Chơn Thành ở bên con đó, cái thất gần đó đó, nó cũng khổ sở về cái thứ hôn trầm này dữ lắm.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Đó là cái niệm si đó con
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, con thấy ông ấy cũng siêng năng quá Thầy ơi! Bởi vậy con cũng phải theo ông. Con thấy ông ấy đi suốt luôn Thầy, khuya đó Thầy, bởi vậy con thấy vậy con noi cái gương của ông ấy, con phải đi theo.
Trưởng lão: Đi chứ con, con phải đi kinh hành à.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, luôn luôn đi!
Trưởng lão: Cho nên nó còn phải là năm hơi thở đứng dậy đi kinh hành, hai mươi bước năm hơi thở đứng dậy đi kinh hành nữa, nếu mà nó nặng.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, đó thì con bớt lại Thầy, ví dụ nó nặng cái con bớt ngồi lại. Thí dụ con ngồi được mười bốn phút, sau này con ngồi chừng năm phút, rồi con đi, con ngồi mà con thấy, nhất định là phải tỉnh nha, không tỉnh không được à.
Trưởng lão: Đó! tập vậy đó, sau này nó mới có căn bản.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Nó mới có tiến bộ, chứ còn lơ mơ là nó dậm chân đó.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Tập vậy đó, tập có cái nhiệt tâm, quyết tâm ở trong đó đó.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Thầy nói, con mà ráng tu mà theo lời Thầy dạy đó, nội trong đời nay con làm xong công việc. Con quyết định phải làm cho được.
(10:35) Tu sinh Phước Nhẫn: Nhất định con muốn vậy Thầy.
Trưởng lão: Con sẽ làm được, con sẽ làm được! Thầy nói coi vậy chứ quyết tâm của mình thì sẽ tới.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Mà tu mà tu có căn bản, vậy tu từng chút, từng chút vậy, tu có kết quả như vậy đó. Hễ hôn trầm là phải chiến đấu với nó, chứ còn không có thua.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, nhưng mà con không chống lại nó, thí dụ nó hôn trầm thì con cứ đi, chứ còn con không có ngồi đó mà con nói “Mày hôn trầm, tao cố gắng để khắc phục mày”, không được!
Trưởng lão: Cái đó chống không được.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, chống không được, chống không nổi nó đâu Thầy ơi.
Trưởng lão: Chỉ đi thôi, đi thì nó lần nó hết.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ đi thôi, rồi mình tập lần lần hoặc mình làm công chuyện hay là mình đi riết.
Trưởng lão: Đó, làm công chuyện hay gì đó, bị hôn trầm là con cứ làm công chuyện là nó mau hết lắm.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, dạ! Làm công chuyện gì đó hoặc là đi kinh hành vậy.
Trưởng lão: Đi kinh hành, có mấy công chuyện đó là nó hết.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, chừng nào mình làm chủ được cái ngủ thì mới được Thầy ha?
Trưởng lão: Cái đó là nó thuộc về Si Triền Cái đó con. Cái màn si của mình nó hiện ra cái tướng trạng là buồn ngủ đó, nó thành ra lười biếng lắm đó. Hễ nó cái tướng trạng của nó là buồn ngủ là si, mà hễ si thì nó kèm theo với cái sự thiếu tinh tấn.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, chừng nào mình làm chủ được thì chừng đó mình mới định được?
Trưởng lão: Mới định được, mình chưa có làm chủ cái này, nên định không có được đâu.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Nó cứ nó che khuất hoài mà. Ngũ Triền Cái mà Si Triền Cái là một cái màn ngu si nó che mình.
Tu sinh Phước Nhẫn: Sơ Thiền là mình cũng định được rồi phải không Thầy?
Trưởng lão: Nếu mà định thì tới Nhị Thiền thì nó mới định, còn Sơ Thiền nó mới chỉ ly dục à.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Cái ly dục cái tâm nó mới định, còn cái thân nó chưa có định. Còn tới Nhị Thiền là cái thân nó mới có định. Còn cái Sơ Thiền cái tâm nó định, chứ cái thân thì chưa có định, cho nên mình chưa có nói định được.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Tâm nó mới ly cho nên tâm định, mà cái tâm nó vô tướng định, cho nên vì vậy mình không có thấy được. Mà cái thân của mình thì nó chưa có Nhị Thiền thì nó chưa định, còn cái thân mà có Nhị Thiền nó định, nó hết nghe, nó hết thấy.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, cái định nó có hai phần Thầy?
Trưởng lão: Hai phần: Phần tâm và phần thân.
Tu sinh Phước Nhẫn: Phần tâm thì nó dễ hơn hả Thầy?
Trưởng lão: Phần tâm nó khó hơn cái phần thân con!
Tu sinh Phước Nhẫn: Vậy hả Thầy?
Trưởng lão: Coi thì nghe nó dừng âm thanh, sắc tướng nó dừng hết, nó không còn nghe thấy gì. Nghe thì nó khó, nhưng mà cái tâm mà nó ly dục ly ác pháp nó thanh tịnh rồi, nó hành cái này nó dễ. Còn cái tâm mà ly dục ly ác pháp nó khó, nó khó thấy sợ luôn, tu gần cả đời mà không có ly được đó.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Bởi vì toàn bộ của nó nằm trong cái hệ thống của giới, mà mình còn phạm một chút giới là nó không chịu ly.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Khổ như vậy đó! Mà hễ nó ly được, cái tâm nó định được rồi thì cái thân nó theo đó nó định, cái tâm nó điều khiển cái thân nó định. Cho nên nói tâm định mà thân định, tâm định trên thân mà thân định trên tâm, khó lắm chỗ đó đó.
(13:31) Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, còn cái chữ tầm cũng như Thầy nói hồi nãy đó, là nó giống như là mình suy tư hả Thầy?
Trưởng lão: Suy tư đó, cũng như bây giờ mình quan sát, mình xem xét, mình tư duy cái hơi thở, mình coi nó chậm nhẹ như thế nào, bây giờ coi nó sao, đó là mình tầm đó.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, nó khác hơn cái phóng tâm phải không Thầy?
Trưởng lão: Khác hơn phóng tâm. Cái phóng tâm là thí dụ như tâm nó khởi ra cái vọng tưởng, rồi nó suy tư ở trên cái vọng tưởng đó.
Tu sinh Phước Nhẫn: Còn cái này mình có suy tư?
Trưởng lão: Mình có suy tư.
Tu sinh Phước Nhẫn: Mình làm chủ cái suy tư đó.
Trưởng lão: Mình điều khiển cái suy tư, còn cái kia nó phóng ra.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, cái kia tự nhiên nó phóng ra.
Trưởng lão: Tự nó, cái đó trật. Cái đó nó không phải tầm, mà cái đó là vọng tưởng.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, hai cái đó hơi khác chút Thầy ha?
Trưởng lão: Khác, không có giống nhau.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, nhờ Thầy nói con mới biết được. Thí dụ, trường hợp mà con đi kinh hành, con ngồi thiền đó Thầy, nó có phóng tâm đó, con nhắc mày không có phóng tâm, thì nó bớt Thầy.
Trưởng lão: Bớt. Con nhắc vậy cũng như là “tâm không có phóng dật nữa”, nó phóng tâm là phóng dật đó.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ Thầy, chưa có phóng dật, nó mới phóng tâm.
Trưởng lão: Nó phóng ra thôi.
Tu sinh Phước Nhẫn: Phóng dật thì mới thấy nó đỡ, bởi mỗi một lần mình đi kinh hành hoặc mình ngồi thiền, thì mình nhắc tâm không có phóng dật, thì cái đó mình phóng dật mình đã nói rồi thì nó bớt, còn cái phóng tâm tự nhiên nó phóng ra, thành ra mình nhắc nó luôn Thầy ha?
Trưởng lão: Nó nhắc luôn. Bởi vì nếu mà mình không có cảnh giác, mà mình để cho tâm mình phóng ra thì nó sẽ thành phóng dật.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Còn mình cảnh giác, mà đừng có phóng tâm thì nó không phóng ra nữa thì nó không dật. Chứ nó phóng tâm rồi cái nó phóng dật nó dính à!
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, nó đi theo
Trưởng lão: Nó đi theo luôn là nó dính đó, nó thành ra phóng dật.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Tu sinh Phước Nhẫn: Cái Sơ Thiền đó Thầy, hồi nãy con hỏi Thầy đó, như vậy thì thí dụ trường hợp mà con định Sơ Thiền, con ngồi định thì con phải làm sao Thầy?
Trưởng lão: À! Con ngồi mà định Sơ Thiền thì con, mới đầu con vô thì con khoanh chân lại, con ngồi bán già hay kiết già đều được hết.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Nó không quan trọng ở chỗ kiết già, đâu con. Mà điều hễ ngồi xếp bằng thì nó dễ gom lắm, nó dễ gom thân và tâm của mình.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Thì cái đó mình ngồi lại, rồi bắt đầu mình nhắc “Tâm phải ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền”, thì bắt đầu con ngồi con quan sát.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, con đổi câu pháp hướng?
Trưởng lão: Con đổi câu pháp hướng. Rồi bắt đầu con ngồi đó, con mới quan sát cái hơi thở. Hơi thở ra vô con biết hơi thở ra vô, ra vô như vậy, phải không? Thì bắt đầu bây giờ con tác ý, "Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra" hay hoặc là con"Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra" thì con tác ý như vậy thì con biết có tầm tứ rồi đó. Mà bây giờ nó biết hơi thở ra vô là nó nhất tâm, nó không có niệm gì xảy ra nữa, thì con biết nhất tâm. Nhưng nó chưa có nhập Sơ Thiền được, tại vì cái hỷ lạc nó chưa có. Nhưng mà con có tầm, tứ, nhất tâm rồi, con hiểu chưa?
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Nó hay đó, ba cái chi này đi trước, rồi sau đó nó mới sanh ra cái hỷ lạc của nó.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Chứ ba chi này chưa có thì hỷ lạc không có đâu, thấy không? Bây giờ con kiểm soát, con thấy có vậy thì bắt đầu con để đó, cứ lát cái con tác ý, lát con tác ý ra, cứ như vậy để cho tầm tứ con có, mà nhất tâm có nữa này. Mà nó không có khởi một cái vọng tưởng nào, cái niệm nào nó khởi hết, thì chừng khoảng độ mười phút, mười lăm phút thì con nghe nó có sự an lạc của thân và tâm con, thì như vậy rõ ràng con vào nhập Sơ Thiền.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, nhưng mà không nhập được lâu.
Trưởng lão: Nó không được lâu, chút nó hết.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ, cái cần nhất của mình đó. Hiện giờ, con bây giờ là con phải phá hôn trầm.
Trưởng lão: Phá hôn trầm đó.
Tu sinh Phước Nhẫn: Phá hôn trầm cho được cái đã, rồi kế đó mới tính được cái kia.
Trưởng lão: Mới tính được cái kia.
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Đúng rồi mới có vô được cái Sơ Thiền, chứ còn hôn trầm còn thì không có vô nổi đâu, khó lắm!
Tu sinh Phước Nhẫn: Dạ
Trưởng lão: Nhưng mà nó có, nó có Sơ Thiền, nhưng mà nó không lâu đâu, bởi vì nó còn si.
Tu sinh Phước Nhãn: Dạ
HẾT BĂNG
SƯ PHƯỚC NHẪN VẤN ĐẠO 02 - THIỆN XẢO TU TẬP - QUÁN TƯỞNG NHÀM CHÁN
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời lượng: [01:31:23]
Tên cũ: Sư Phước Nhẫn vấn đạo - Khéo léo tu tập giải thoát
https://thuvienchonnhu.net/phap-am/su-phuoc-nhan-van-dao-02-thien-xao-tu-tap-quan-tuong-nham-chan
https://thuvienchonnhu.net/audios/su-phuoc-nhan-van-dao-02-thien-xao-tu-tap-quan-tuong-nham-chan.mp3
(00:00) Sư Phước Nhẫn: Ban ngày, buổi trưa nó hôn trầm dữ lắm Thầy. Nên con hỏi thăm Thầy, nếu mà con hôn trầm như vậy đó thì con đi làm công chuyện hoặc con làm gì cái khác có được không Thầy? Trong cái buổi tu đó Thầy.
Trưởng lão: Được! Con làm mà con vẫn nhớ cái pháp hướng, mình vẫn thường nhắc tâm mình…, không có gì hết. Tức là mình làm sao mình động thân, rồi mình làm sao mình làm. Thay vì con làm công việc vậy chứ con ít có buồn ngủ hơn là con ngồi không, con ngồi con tu nó buồn ngủ lắm. Phải biết cái lúc nào mà nó buồn ngủ như vậy đó thì con động thân, con đi kinh hành nhiều hơn. Mà nếu mà đi kinh hành nó không hết được thì con làm cái gì đó đi, nhưng mà con giữ tâm đừng có cho phóng dật, đó là điều quan trọng nhất.
Mà con nên nhớ rằng, Thầy nhắc cho mấy con biết rằng. Cái tâm mình không phóng dật đó mới là giai đoạn đầu, chứ còn những giai đoạn sau. Bởi vì khi mà tâm không phóng dật, con ngồi con lao động mà tâm con không phóng dật, tức là nó luôn luôn nó biết hơi thở ra vô. Thì lúc bây giờ nó thể hiện những điều kiện rất đặc biệt. Để sau này Thầy giảng tới cái Thiền Căn Bản 2 con sẽ thấy nó hiện thần thông, nó hiện các cái sắc tướng. Con ngồi đâu con sẽ thấy những cái điều đó. Tâm thấy hết phóng dật, không phải hết phóng dật là nó xong đâu, mà nó hết phóng dật rồi nó xảy ra nhiều cái tình trạng, nhiều cái sắc tưởng nó hiện ra.
Có một bài kinh kêu là kinh…., ở trong Kinh Trung Bộ đức Phật có nhắc tới cái chỗ đó. Khi mà ba vị Tôn giả mà tu trong cái khu rừng Sừng Bò. Thì lúc bấy giờ các vị đó cố gắng mà giữ gìn tâm mình không phóng dật. Tức là nó không phóng ra một cái niệm nào nữa hết, nó không phóng theo cái việc gì hết. Thì lúc bấy giờ tâm nó không phóng dật rồi thì nó hiện ra ánh sáng hào quang. Nhưng mà hiện ra ánh sáng hào quang rồi kế tiếp đó thì nó hiện ra các sắc pháp khác nữa. Nhưng mà rồi nó không giữ, nên nó mất.
(01:52) Cho nên các vị không biết làm sao. Khi đức Phật đến thăm thì ông A Na Luật ổng mới trình bày với đức Phật: "Như vậy con không biết cái đó là cái pháp gì”….
Cái Thiền Căn Bản 2 là lúc chúng ta nhập định, là tâm hết phóng dật, nó không còn phóng dật rồi đó, thì lúc bây giờ là lúc giai đoạn như vậy, để mà nhập định đó, thì nó xảy ra những cái chướng ngại. Thì Thầy nhắc lại cho các con biết đây là cái giai đoạn đầu của các con cố gắng tu là giữ gìn tâm không phóng dật thôi, rồi tới kế đó Thầy sẽ giảng nữa. Nhưng mà nó còn gặp nhiều cái khó như vậy, chứ không phải là nói tới đây là nó dễ. Con nói dễ là nó dễ, chứ nó dễ theo kiểu nó, chứ không phải nó dễ. Nó còn nhiều cái giai đoạn khó lắm. Bởi vì nó hiện ra những cái tướng trạng đó mình cũng ngơ ngẩn lắm.
Chẳng hạn là bây giờ con đang ngồi như vậy, ánh sáng nó sáng trưng hết, hào quang nó hiện ra, trong người của mình nó phóng ra. Nhưng mà phải chi nó cứ luôn luôn nó kéo dài hoài thì không nói, đằng này nó phóng ra khoảng độ chừng năm ba phút rồi cái nó mất.
Sư Phước Nhẫn: Trong lúc mình cũng còn thấy như vậy hả Thầy?
Trưởng lão: Mình cũng còn thấy như vậy, mà sao nó mất tiêu? Rồi nó hiện ra các cái sắc pháp khác rồi nó cũng mất. Nhưng mà giữ nó lại không được, không biết cách làm sao giữ. Nhưng đức Phật dạy là tại nó còn cái gì đó, mà đức Phật chỉ cho chúng ta biết để chúng ta gạn lọc hết. Cái tâm nó thanh tịnh thì cái đó nó mới hiện, mình muốn là nó có, muốn nó có.
(03:19) Đó! Thì bây giờ trong cái giai đoạn của con, con đừng có nghĩ là ngồi, đừng có chấp ngồi. Mà khi nào mà thấy, bởi vì giai đoạn của mình không phải Định, mà nó là giai đoạn ly dục, ly ác pháp, giai đoạn tâm không phóng dật. Cho nên mình phải tập tỉnh thức nó mới có ở trong cái Chánh Niệm Tỉnh Giác mới được, nó ở trong cái Chánh niệm mới được. Chứ không nó mê mờ, nó hôn trầm thì nó mất rồi, nó không còn trong ở Chánh Niệm đó.
Vì vậy lúc bây giờ cần thiết là chúng ta đi kinh hành nhiều. Nhưng mà tùy theo sức của mình, chứ không phải là đi đến nỗi mệt nhọc, đi đến nỗi mệt mỏi quá thì con sai. Mình đi một cách thư giãn, coi như là mình đi như vô sự, thân thể nó nghe nó khỏe trong người. Mình đi như người mà mình đi ở nhà, chứ đừng có đi theo cái kiểu mà tu tập nó làm cho mình mệt nhọc, không được. Đó, thì nhớ!
Và đồng thời mình có thể mình ngồi nghỉ nhưng mà mình quan sát bốn cái chỗ: Thân - Thọ - Tâm - Pháp của mình xem coi có chướng ngại gì không mình đẩy lui, còn không có thì thôi. Thì cứ như vậy tu! Và đồng thời phải phòng hộ sáu căn của mình là: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình bằng cái cách là mình sống độc cư, không tiếp duyên, thì tâm nó sẽ không phóng dật, chứ không có điều kiện gì khác hơn được hết. Chỉ có độc cư nó mới không phóng dật. Mà nó không phóng dật thì đó là một cái giai đoạn đầu của nó.
(04:43) Nó hiện ra con sẽ thấy! Khi mà tâm nó không phóng dật, nó thanh tịnh rồi đó, thì lúc bấy giờ con sẽ thấy nó hiện ra thần thông, nó hiện ra đủ loại. Mình đang ngồi ở trong thất như vầy, bắt đầu nó hiện ra, cái thất của mình tối thui như vậy, nó sáng trưng, nó sáng trưng như ban ngày. Mà sáng xanh đẹp lắm, ánh sáng như đèn neon, chứ không phải là ánh sáng hồng. Mà nhiều khi là ánh sáng nó hồng, nhiều khi nó ánh sáng xanh, nhiều khi nó ánh sáng vàng, nó đủ loại hết. Nó phóng ra đủ loại hào quang, chứ không phải là một cái hào quang đâu.
Mà mình không ngờ là trong thân của mình nó phóng ra được như vậy. Thì khi mà tâm hết phóng dật rồi con sẽ thấy những hiện tượng đó. À! Mới thấy: “À! Mình như vậy là A La Hán rồi chứ còn gì. Hào quang chói trời”.
Sư Phước Nhẫn: Vậy là chưa hả Thầy?
Trưởng lão: Chưa đâu! Cái đó là ma đó! Chứ không phải đâu! Cái tâm đó là cái tâm… Để rồi Thầy sẽ dạy tới thì sẽ thấy được. Ông Phật ổng dạy cái bài kinh đó, ổng giảng cái bài kinh, ông Phật dạy kĩ lắm. Nhưng mà nó có nhiều cái bài kinh mà dạy chúng ta cái giai đoạn mà chúng ta nhập các Định từ Nhị thiền cho đến Tứ Thiền. Nhưng Thầy chưa có nói ra, Thầy nói ra một cái bài này để thấy được những chỗ mà. Nhiều người đọc tới chỗ này, lấy cái chỗ này để mà tu ở trong cái giai đoạn này thì không phải. Trật rồi! Nó có nhiều cái giai đoạn tu tập. Mà cái người đọc kinh người ta chỉ hiểu qua chữ nghĩa thì người ta hiểu trật đường.
(06:07) Sư Phước Nhẫn: Trong lúc con đi kinh hành thì con nhắc chẳng hạn như là Thầy dặn là mình hướng tâm, tâm không phóng dật nữa, phải quay vào trong để định vào bước chân đi. Thì con thêm một câu nữa, thêm ở đầu nữa là "không phóng tâm, không phóng dật”. Có được không Thầy?
Trưởng lão: Ừm, cũng được.
Sư Phước Nhẫn: Bởi vì mình nói không phóng dật thì còn phóng tâm, thì nó cũng còn hoài. Con làm như vậy thử một hai lần thì thấy nó đỡ thưa Thầy.
Trưởng lão: À! Thì cái đó. Thí dụ như bây giờ có một người, người ta nghĩ rằng phóng dật tức cái tâm nó phóng ra, thì phóng tâm đó. Còn bây giờ mình hiểu nó hai nghĩa thì mình phải nhắc hai lần, chứ không phải là một nghĩa được. Còn một người mà người ta hiểu một nghĩa thì người ta nhắc một câu được. Còn mình hiểu hai nghĩa, tức là mình thấy phóng tâm với phóng dật nó có cái khác, thì mình phải nhắc hai câu lận, để cho cái tâm mình nó biết.
Sư Phước Nhẫn: Như vậy là được hả Thầy?
Trưởng lão: Được! Không có sao. Cái đó là tốt thôi! Bởi vì dù sao đi nữa mình cũng phải cố gắng mình nhắc, mình dùng cái pháp hướng mình nhắc như một cái lý tác ý mình nhắc để dẫn cho nó đi vào cái chỗ không phóng dật là tốt nhất, không phóng tâm đó.
Cố gắng nhớ! Con nhớ khi nào mà nó hôn trầm nhiều thì con lấy chổi quét sân hay nhổ cỏ hay làm cái gì đó.
Sư Phước Nhẫn: Dạ, làm được hả Thầy?
Trưởng lão: Làm được! Hay hoặc mình ra mình kéo mấy cây sào mình gom lại chỗ nào đó.
(07:34) Sư Phước Nhẫn: Vì con sợ trong buổi tu đó Thầy mà mình làm công chuyện như vậy đó sợ không được.
Trưởng lão: Không phải đâu! Tu không nghĩ là cái buổi, mà tu ngày đêm, không có thì giờ nào mà không tu hết đó. Tu như vậy tâm nó mới không có phóng, chứ còn mình tu có giờ thì nó phóng bậy hết à.
Cho nên mình tu cũng kể như mình liên tục đó. Ví dụ như bây giờ mình ngồi mình tu mình giữ cái tâm mình quan sát trên bốn chỗ Thân - Thọ - Tâm - Pháp mình một hơi nó mệt nhọc, thì mình thay đổi liền cái vị trí đó liền, tức là cái tư thế đó liền. Mình thay vị trí bây giờ mình ra mình quét sân. Nhưng mà mình quét sân đâu có nghĩa là mình quét mà như người ta quét. Phải không? Mình quét cái kiểu khác. Mình quét là quét cái tâm của mình, mình đang coi nó đó.
Sư Phước Nhẫn: Cho nó tỉnh thức hả Thầy?
Trưởng lão: Cho nó tỉnh thức! Mình phải biết cách thức tu như vậy thì Thầy nói nó sẽ mau thôi, chứ không có gì.
Chứ không chẳng lẽ giờ mình sống ngày một bữa như thế này, cuộc đời mình bỏ hết rồi mà mình cứ để cho nó dậm chân như thế này sao? Phải tiến tới chứ! Phải tiến tới cái mục đích cuối cùng của mình trong đạo. Thì Thầy tin rằng mấy con có nhiệt tâm mà quyết tu và đừng có nghĩ một cái oai nghi nào đó bắt buộc nó phải tu ở trong cái oai nghi đó. Không!
Liên tục ở trong suốt một ngày, tức là 24 tiếng đồng hồ lúc thì tu cái này, lúc tu cái khác, nhưng mà tu sao cho nó thấy giải thoát, tức là thấy an lạc. Thì cái cách thức tu như vậy là mình khéo léo và linh động đó.
(09:03) Cho nên Phật dạy mình phải thiện xảo và khéo léo, thiện xảo. Chứ không khéo léo thiện xảo, làm sao cái đặc tướng cái thân của mình mà làm sao ông Phật ổng biết được. Thì mình phải khéo léo với mình. Mình khéo léo thì mình tìm thấy sự giải thoát ngay lập tức.
Cho nên đạo Phật nó cụ thể là vì nó có sự giải thoát thật sự. Mình tu thấy giải thoát, nó thanh thản an lạc, mà nó thấy thích thú, thì đó rõ ràng là giải thoát rồi chứ gì. Còn bây giờ mình tu nghe sao nó mệt nhọc quá, nghe nó lừ đừ, nó khổ sở. Như vậy là tự mình đã làm cho mình không giải thoát rồi. Mặc dù mình tu đúng pháp đó, nhưng mà mình tu như vậy là mình cũng đã tu trật pháp rồi. Tu là phải có giải thoát, tu là hân hoan, tu là sung sướng, tu là phải giải thoát, tu là thấy khỏe khoắn. Chứ tu sao mà lừ đừ mệt nhọc, tay chân nó rũ rượi hết trơn như thế này.
Đó! Thì con cứ nhớ rằng cái pháp Phật phải tu như vậy. Thì làm sao mình tu mà nó thấy hân hoan như vậy, làm sao mà nó còn hạnh phúc hơn cuộc sống ở ngoài đời nữa thì ai mà không ham tu. Còn mình tu sao mà coi khổ hơn người ta sống ở ngoài đời. Đời đã khổ mà mình còn khổ hơn họ thì thôi khỏi tu. Cho nên mình tu phải hạnh phúc, chứ còn tu mà nó khổ quá thì khỏi tu.
(10:17) Sư Phước Nhẫn: Có lúc con thấy nó hăng hái lắm, với khỏe lắm. Nhưng có lúc nó mệt mỏi, nó lừ đừ.
Trưởng lão: Đó là mình thay đổi liền. Lúc mệt nhọc là phải thay đổi liền. Chứ còn nếu mà mình cứ áp bức nó quá thì không được đâu. Phải thay đổi để nó hân hoan.
Sư Phước Nhẫn: Thì cái giai đoạn này con vô con thấy cái tâm con nó an lắm, nó thoải mái lắm. Nhưng mà bù lại cái thân nó quậy quá thưa Thầy. Con không biết làm sao nữa?
(10:50) Trưởng lão: Cái tâm thì nó hân hoan nó muốn tu, nhưng mà cái thân ví dụ nhiều khi nó bị bệnh, nó làm cho mình cũng nhiều cái trở ngại. Bởi vì coi vậy chứ thân tâm nó là một khối, nhưng mà nó ảnh hưởng với nhau. Nó là một khối nhưng mà nó ảnh hưởng. Cái thân mình đau thì cái tâm nó cũng buồn lắm. Rồi hễ cái tâm mà nó buồn thì cái thân nó cũng muốn bệnh theo. Đó! Nó lôi với nhau. Cho nên ví dụ như người ta buồn khổ, thì thay vì cái tâm buồn chứ cái thân nó ăn thua gì. Thế mà nó buồn nó không ăn, cái ít bữa là cái thân nó bệnh. Thì do đó nó ảnh hưởng với nhau lắm.
Vì vậy mà chúng ta phải biết rằng khi mà cái tâm mình hân hoan thích thú, mà cái thân nó bị bệnh, trong lúc mình còn yếu thì mình tu mình thấy cái môi trường mà mình chưa có đạt được cái chỗ đó thì mình khoan đã, mình đừng có vội. Mình tu theo cái thân của mình, thân nghiệp của mình nó còn mang những cái nghiệp nó nặng, nó chưa có giữ gìn được pháp Phật trọn vẹn, thì mình phải xả ra, mình nương theo cái thân của mình để cho thân và tâm nó hân hoan. Cho nên người ta nói hỷ lạc. Tâm thì hỷ mà thân phải lạc. Chứ mà nếu mà có hỷ không, cái tâm của mình nó vui mà cái thân nó không lạc thì chắc nó cũng không có hỷ đâu.
(12:13) Đó! Cho nên vì vậy mà phải khéo léo, thiện xảo trên con đường tu theo đạo Phật. Tuy rằng pháp môn dạy thì nó cụ thể như vậy, cái pháp hành cụ thể, nhưng mình phải khéo léo để nương vào cái thân tâm của mình mà dẫn dắt nó đi, để cho nó có cái sự giải thoát từng chút ở trong đó thì nó mới có an trên bước đường đi mà có hỷ lạc. Còn nếu mà nó có những cái chướng ngại khác thì mình phải tìm mọi cách mình trang trãi nó.
Ví dụ như bây giờ cái thân của mình mệt mỏi, mà cái năng lực mà định của mình chưa có, cái pháp hướng nó chưa có đủ, cái tâm thanh tịnh mình chưa đủ thì mình đẩy lui các chướng ngại đó trên thân của mình không được đâu. Mình phải uống thuốc, mình phải đi dưỡng bệnh, mình phải đi nghỉ ngơi, mình phải xả.
Tại sao đức Phật dạy người cư sĩ người ta thọ Bát Quan Trai? Mình, cái khả năng của mình coi như bây giờ mình chưa phải là một người tu sĩ đâu, mình đang còn là người cư sĩ thôi. Mình thọ Bát Quan Trai. Vậy thì mình vô mình tu, trong 1 tháng mình chọn lấy 5 ngày, 10 ngày mình tu, hay là 5 ngày, 3 ngày hay 1 ngày mình tu thọ Bát Quan Trai, ngày đó mình tu rất là miên mật, rất là kỹ lưỡng hẳn hòi đàng hoàng.
Rồi mình biết cái thân của mình nó chưa có phải là ngày nào nó cũng được vậy đâu. Thì mình vào mình tu mình thấy mới một ngày mình tu mình thấy thích lắm. Nhưng mà nếu tiếp tục thì coi chừng cái thân của mình nó phản ứng, cái tâm của mình nó phản ứng thì mình sẽ thấy khổ sở và không giải thoát.
(13:38) Cho nên khi mình vô mình tu rồi cái mình xả. Ngày hôm sau mình không tu nữa, mình đi làm công chuyện này kia, mình sống y như bình thường vậy thôi, thì cái thân của mình nó sẽ… Bởi vì nó là cái thân nghiệp mà. Cái tâm của mình nó cũng mang cái nghiệp nữa. Cho nên thân tâm của mình đang ở trong cái nghiệp nặng thì mình không thể nào mà thanh tịnh giải thoát liền được. Cho nên mình chỉ bắt nó vào trong một cái ngày cho nó thanh tịnh như Phật thôi, còn mấy ngày khác thì mình xả ra mình sống. Nhưng mà mình biết cách, mình biết cách mình giữ gìn đạo đức không đến nỗi mình để cho sa ngã, không để cho nó bị lôi cuốn, mình giữ gìn được cái đạo đức.
Đó! Thì coi như là trong cái ngày để mà làm Phật thì mình sống phải thanh tịnh thật sự, giới luật nghiêm chỉnh. Rồi cái đời sống tu hành các pháp đều nghiêm chỉnh, giờ giấc nghiêm chỉnh. Buồn ngủ mà chưa tới giờ ngủ thì nhất định là phá sạch. Nghĩa là đúng giờ thì đi ngủ, mà không đúng giờ thì không ngủ. Nghĩa là làm gì làm mình phải chiến đấu tận cùng với nó. Nhưng mà sau cái ngày đó rồi thì qua mấy ngày khác thì mình bình thường trở lại. Hễ nó buồn ngủ khi nào thì cứ đi ngủ đi, đừng có ép nó. Ép nó là nó thành bệnh đó!
Đó! Mình xả, mình tu cho đúng cách, đó là thiện xảo khéo léo. Trong một tháng mình chỉ chọn lấy một ngày coi như mình thọ Bát Quan Trai. Rồi ngày đó rồi, qua tháng sau mình thấy được thì mình tăng lên hai ngày, mà chưa được thì mình cũng giữ một ngày thôi. Nghĩa là mình thấy cái cơ thể của mình nó khỏe mạnh, nó không bị bệnh đau.
Cho nên khi mà sư vào đây, trong cái lúc mà sư vào đây sư nhiệt tâm tu. Cho nên cố gắng tu lắm, cố gắng tu thì cái thân nó phản ứng liền, từ đó nó sinh ra rất nhiều bệnh. Sư thấy rất rõ, sư Phước Nhẫn. Đó cho nên sư bị sụt cân xuống liền. Mà hễ khi mà đi ra sư thấy sư khỏe mạnh, mà ở trong này tu thì bị bệnh. Đó là cái nghiệp của mình! Thay vì mình ở trong cái môi trường mình thanh tịnh, mình cố gắng mình giữ gìn thì nó lại đưa mình thanh tịnh hơn chứ, trong sạch hơn. Mà cái nghiệp nó không chịu đâu, nó lôi mình, nó làm cho mình tu không vô nổi.
Thì cho nên vì vậy mà Thầy nói mình phải thiện xảo, khéo léo. Ví dụ như bây giờ mình chiều vào đây tu, nhưng mà mình chọn trong một tuần lễ mình lấy một ngày mình tu rất là chân chính, quyết định là ngày đó là mình sống chết phải làm y như Phật, sống như Phật vậy. Rồi sau cái ngày đó rồi thì trong một tuần lễ đó thì mình coi như bình thường, mình tu bình thường thôi, thì cái thân sẽ không bị bệnh đâu.
(16:07) Sư Phước Nhẫn: Vẫn tu như bình thường?
Trưởng lão: Tu như bình thường, tu ít đó. Tu ít tùy theo cái thân của mình. Mình cũng giữ gìn ngăn ác, diệt ác, không để nó đắm nhiễm, không để cái tâm mình nó lôi mình vào cái sự tham muốn chạy theo cuộc đời nhiều. Mình giữ gìn cho nó có cái mức độ, chứ không có tu. Thay vì bây giờ cái ngày mà thọ mà mình tu chân chính đó, thì ví dụ như tới 10 giờ mình đi ngủ, 2 giờ mình thức dậy, mình giữ gìn giờ giấc nghiêm chỉnh như vậy để phá cái si của mình. Còn qua cái ngày đó rồi thì tối 8 giờ mình có thể buồn ngủ thì đi ngủ, không cần thiết. Hễ tỉnh hồi nào tu hồi nấy, mà không tỉnh thì nó muốn buồn ngủ thì cứ ngủ, không lo gì hết, như người bình thường vậy đó. Hễ nó muốn thức thì mình thức, còn nó muốn ngủ thì mình ngủ, không có lo. Nhưng mà cái ngày mà quyết định trong một tuần lễ có một ngày mình tu thật sự đó, thì không được đâu. Rồi mình khép lần lần mình tăng dần lên, mình thấy nó, mình chiến đấu mình thắng nó từng ngày, từng ngày, từng giờ. Để rồi sau đó thì nó chiếm trọn hết những cái ngày giờ đó, thì mình thấy: “À! Bây giờ độc cư đúng rồi, được rồi!”.
Thì lúc bấy giờ cái thân một thời gian sau nó chịu đựng, nó chịu đựng nó không có bệnh nữa. Nó quen đó! Chứ còn nếu mà chưa quen thì nó phản ứng là nó bệnh. Nó bệnh thì tu không được đâu. Bữa nay thì nó đau chỗ này, mai nó nhức chỗ kia, mà cái tâm mình thì còn yếu mà đối với cái thọ thì kể như mình chới với đó, mình dao động đó. Không có được! Mà mình phải uống thuốc, rồi mình phải này kia đủ thứ. Rồi khi mình gặp phải những cái loại thuốc nó làm cho mình cồn cào, xót ruột, rồi phải uống sữa, phải này kia, nó đủ thứ hết. Thôi! Thà là mình tu một ngày làm Phật cũng tốt rồi. Một tháng làm Phật một ngày là cũng cũng quý rồi. Nhưng mà những ngày kia thì mình tu bình thường thôi. Đó, vậy thôi!
(17:53) Bác sĩ Trí: Như mấy tháng nay con cũng thức ngủ cũng giống như Thầy nói là 10 giờ ngủ, 3 giờ thức. Như vậy giờ mình cũng cứ giữ như vậy thôi?
Trưởng lão: Cứ giữ như vậy!
Bác sĩ Trí: Dạ! Nó cũng quen quen, đỡ đỡ rồi.
Trưởng lão: Cái nghiệp thân của sư mặc dù là có bệnh sẵn, yếu sẵn rồi. Nhưng mà nó không có đến nỗi mà như sư Phước Nhẫn. Cái nghiệp của sư Nhẫn còn nặng lắm. Cho nên vì vậy mà cũng phải tùy theo cái nhân quả nghiệp lực của mình mà mình tu, chứ không nó phản ứng lại một cái thì mình bỏ cuộc. Rồi mình đâm ra mình hoang mang, mình dao động. Mình phải biết rằng một tháng mình chỉ tìm một ngày mình giải thoát, mà mình thấy mình có làm chủ được trong ngày đó, mình có cái nghị lực mình làm chủ được trong đó. Còn những ngày khác mình để đừng có cho nó có cái phản ứng lại quá, thì mình sẽ tiến tu tốt dần dần. Thì như vậy sư phải cố gắng thiện xảo khéo léo.
Ví dụ như bây giờ, Thầy nói chung là cái công việc của Thầy, Thầy muốn sắp xếp cho cái công việc. Thầy sợ có cái điều kiện là sư Phước Nhẫn làm rồi cái say mê đi. Say mê công việc, coi vậy chứ nó làm rồi nó mê, rồi quên cái sự tu. Cho nên Thầy muốn để cho mình tự nhiên. Chứ sư Phước Nhẫn bây giờ mà cho làm việc gì thì sư không có bệnh đâu. Cái cơ thể như vậy là cái nghiệp đó! Cái nghiệp nó thích hoạt động thì nó không bệnh, mà ngồi không là nó bệnh đó. Thầy biết như vậy, chứ không phải không biết đâu.
Nghĩa là bây giờ Thầy đặt cho sư Phước Nhẫn làm một cái gì đó nó phù hợp, thì sư Phước Nhẫn có khả năng vừa làm rồi cho có một cái giờ tu, thì nó sẽ mạnh khỏe. Bác sĩ Trí cũng vậy, nếu mà không cho làm thì bác sĩ Trí cũng bệnh đó.
Bác sĩ Trí: Dạ! Thấy lúc sau này ổng cũng xả bớt ổng đi làm.
Trưởng lão: Xả bớt đó! Chứ còn mà nếu không xả bớt là kể như nó đánh tan nát, chứ không có phải dễ đâu, nhất là cái Thọ.
(20:00) Sư Phước Nhẫn: Mấy cái tháng mà con về Phước Sơn là con xả tối đa luôn đó Thầy. Con thấy sức khỏe nó bình thường lại. Tại lúc đó con vẫn thỉnh thoảng tu cũng như Thầy nói. Rồi sau này cái tâm nó muốn tu nên con quay lên đây.
Khi Thầy kêu quay lên. Thì quay lên đây, con vô đây con thấy cái tâm nó an hơn mấy đợt trước nhiều lắm. Thấy nó thoải mái, an nhàn lắm. Mình thấy không có lúc nào bằng như lúc này. Nhưng ngược lại thì cái bắt đầu cái thân nó quậy, nó bủn rủn, nó làm cho mình thối chí. Có nhiều lúc con run quá, con nói sao kỳ vậy nè! Tam thiền mới phá nổi, chứ mình phá không có nổi cái này rồi. Mà con cũng chịu đựng, con mạnh dữ lắm đó.
Thành ra nhiều lúc nó phá quá, nhiều lúc con muốn đầu hàng. Bởi nhiều lúc con muốn hỏi Thầy coi cái chiến thuật, con bây giờ là con muốn cũng như Thầy nói là thỉnh thoảng lên đây, thỉnh thoảng về dưới, rồi thỉnh thoảng lên đây, thỉnh thoảng về dưới, có được không?
(20:53) Trưởng lão: Cái đó là hay đó! Cái đó là cách thức hay! Kêu là thay đổi cái môi trường để cho nó bình thản đi. Tuy vậy chứ mình vẫn tu, vẫn xả, vẫn trực tiếp xả.
Đó, thì coi như là Mật Hạnh hồi đó Thầy bắt buộc kinh lắm à, Thầy khép chặt lắm à. Ba năm chịu đựng mà để cho tâm đừng phóng dật, nhưng mà Thầy thấy không có được. Thầy thấy trời ơi, cái thọ nó đánh đến tan nát nó. Thiệt kinh khủng lắm! Ép quá, cái thọ nó chịu không nỗi! Mà cái thân, cái thọ nó bệnh này cho đến bệnh kia, từ cái viêm xoang cho đến cái đi cầu mà không được, nó khổ sở hết sức. Tới chừng mà Thầy thả lỏng cái nó hết. Cái bệnh gì kỳ cục, khỏi uống thuốc. Còn hồi đó uống thuốc dữ lắm mà không hết, tới rồi mà Thầy thả lỏng là hết. Nhưng mà thả lỏng ra chứ xả dữ lắm đó. Trực tiếp ở bên ngoài vậy chứ mà xả tâm dữ lắm. Bởi vì Thầy bắt buộc vô tu mà khép như vậy là ức ổng, nên ổng quậy kinh khủng chứ không phải dễ!
Vì vậy mà Thầy tin rằng khi một cái người mà Thầy đã huấn luyện, đào tạo rồi thì chắc chắn cuối cùng là phải thành. Coi vậy chứ Thầy nghĩ rằng Mật Hạnh sẽ thành chứ không phải là không thành đâu. Thầy biết! Ra từ hôm đó đến nay là cũng cả năm rồi chứ gì, nhưng mà biết bao nhiêu cái sự lôi cuốn nhưng mà không lôi cuốn được. Bây giờ chỉ cần Thầy bảo bỏ chiếc áo cư sĩ trở lại tu sĩ thì nó bỏ liền tức khắc và nó cũng thấy nhàm chán rồi. Hồi đó vào tu thì chưa nhàm chán, còn bây giờ thì nó nhàm chán thật sự. Nhàm chán thấy được lòng người, thấy được cuộc sống nó rõ ràng hơn là trong lúc bị Thầy khép chặt vô tu. Bây giờ thấy rõ đâu là hạnh phúc, mà đâu là không hạnh phúc thấy rõ ràng. Bởi vì có một cuộc sống ở trong tu viện rồi mới thấy thật sự sung sướng. Còn bây giờ đi ra tiếp xúc với đời mới thấy thật sự thấy đủ thứ. Nếu mà mình không có đủ một cái trí tuệ sáng suốt thì bị người ta lừa đảo liền, nó khó muôn mặt. Ở ngoài đời nó xấu xa đủ thứ hết, nó không có đơn giản. Người ta lừa đảo mình mọi mặt"tình, tiền" hai thứ đó nó cũng đủ thứ hết.
(23:07) Đó thì các con biết rằng, Thầy biết được những cái điều của các con muốn mau cũng chưa được đâu. Tại cái nghiệp của mình nặng, thì mình phải tu theo cái duyên nghiệp của mình để lần lượt mà mình huấn luyện cho cái thân tâm của mình cho nó thuần hoá lại. Chứ nó mang cái nghiệp nó nặng.
Vì vậy cho nên sư thấy, khi nào mà vui thì thầy sẵn sàng cứ trở về tu tập trong những ngày ở đây. Thì trong khi những ngày ở đây mình tập những cái ngày nghiêm chỉnh hẳn hòi. Sau khi thấy nó quậy, nó phá cái thân của mình nó không chịu đựng nổi thì mình cứ đi về Phước Sơn ít hôm thì nó hết. Nhưng mà mình đi ra không có nghĩa là mình đi ra để đắm nhiễm đâu. Vì mình chiến đấu từng giới luật của mình nghiêm chỉnh đó, chứ không phải. Từng học những cái oai nghi, từng chung đụng với các sư, các thầy khác, các Phật tử khác đều là giữ mình rất nghiêm chỉnh, thì đó cũng là tu chứ không phải là không tu đâu. Cho nên mình tu hai mặt, để mà cho nó một mặt động và một mặt tịnh.
Sư Phước Nhẫn: Ở đây là tịnh hả Thầy?
Trưởng lão: Ở đây là tịnh! Còn cái mặt kia là mặt động. Cho nên khi đó mình tu cái mặt động như vậy mình xả nhiều lắm. Mỗi lần đó nó phát triển được cái tri kiến giải thoát của mình nhiều lắm. Bởi vì trước cái đối tượng đó mà mình không có hiểu biết thì mình sẽ bị dính rồi, nó bị lôi cuốn rồi. Buộc mình phải tư duy, mình quán xét, từ đó nó phát triển từng cái tri kiến.
Cho nên theo Thầy thiết nghĩ thì sư lúc nào mà thấy muốn trở về. Bởi vì sau khi nó động rồi thì nó muốn trở về yên tịnh. À! Nó muốn trở về yên tịnh thì lúc đó mình cứ trở về mình tu. Mà khi mà một thời gian yên tịnh rồi mà nó muốn động thì mình ra trong cảnh động để mà tu. Chứ không phải ra cảnh động để mà bị nhiễm, mà ra cảnh động để tu xả. Xả rồi một thời gian xả rồi bắt đầu nó muốn trong cái cảnh yên tịnh. Thì mình cứ tập giữa cái tịnh và cái động, thì lúc bấy giờ cái tịnh nó cũng xả tâm mà cái động nó cũng xả tâm. Chứ mình đâu có nghĩa là mình vô đây mình nhập định được đâu. Mình đang tập để mà cái tâm không phóng dật. Đó thì mình phải hiểu như vậy.
Thầy nói sư tu như vậy nó an ổn. Chứ còn bắt sư mà vô đây độc cư thì Thầy nói độc cư chừng 3 tháng, 1 năm là sư tiêu đó. Cái thân nó còn lại cái que diêm, nó ốm. Bởi vì nó khổ sở, ức chế quá, nó khổ sở lắm! Giữa thân và tâm đều bị ức chế trong cảnh độc cư thì nó sẽ không có còn cái sinh khí của nó. Bác sĩ Trí hôm đó mà mới vô độc cư. Con có thấy độc cư không? Coi như là con gầy xuống liền chứ đừng có nói chuyện. Kể như là phong độ của bác sĩ mất tiêu hết.
(25:50) Sư Phước Nhẫn: Ổng mặt cái quần tây mà ổng mới biết ổng ốm. Thì hôm đó con lên đây, con về bên đây thì cũng được năm mươi mấy kg, bây giờ còn có bốn mươi mấy kg. Ốm đi! Mà điều ốm mà khỏe Thầy!
Trưởng lão: Rồi Thầy mới nói: “Bác sĩ Trí như vậy đó, cô Út coi chừng coi bác sĩ Trí coi ổng tu như thế nào đó. Chứ để không thì ổng cố gắng ổng ức chế ổng riết rồi thì cũng như sư Phước Nhẫn nữa”.
Cô Út cổ mới hướng dẫn, cổ nói: “Ngồi vậy là nghiêng đó. Không có được! Bây giờ anh phải xả ra, anh phải đi ra phòng vi tính để mà làm công việc đi”. Rồi mới xả ra, xả ra rồi làm công việc này kia, rồi cô Út cổ cho ăn uống đồ thêm.
Đó! Rồi từ đó mới lấy phong độ trở lại một chút, chứ còn cứ ngày một bữa mà siết không cho ăn uống gì thêm hết thì chắc chắn là tiêu. Nhân cái dịp mà làm mấy cái thất, rồi bác sĩ Trí ra phụ quét vôi này kia. Cô Út, cổ cũng khéo léo.
Mà Thầy nói: “Nếu mà khéo léo mà cứ mà dựa theo cô Út riết rồi nó thành ngu hết ráo á”.
(26:58) Sư Phước Nhẫn: Dạ! Cái phần nhàm chán mà như nãy Thầy nói. Con đi ngoài đường, nhiều lúc con đi xe, con nhìn đứa con nít, con nhìn cảnh hoàn một gia đình. Chẳng hạn dưới chân núi, con thấy cái đường đi cuộc đời toàn là khổ không à. Người ta đã bị cái đường đi đó, người ta khổ từ nhỏ đến lớn mà người ta vẫn bị chìm đắm. Thì mình thấy cái đó mình cũng run mình đó chớ!
Đối với cái tâm con, nhiều lúc con trở lại con nhìn mình chưa có thật sự nhàm chán. Thì con định hỏi Thầy cái pháp nào tu để mà thật sự nhàm chán. Vì mình thấy thiệt như vậy, mình thấy nó vậy đó, nhưng mà cái tâm mình nó chưa thật chán, nó cũng còn, đôi lúc thật sự ra nó còn thích chứ không phải nó hết đâu.
Trưởng lão: Đúng Đó! Cái đó là cái mình tĩnh giác được mình đó. Chính Mật Hạnh nó cũng tâm sự: “Con, bây giờ con nhàm chán, nhưng mà tại sao cái tâm con chưa hẳn”. Nó đã hiểu được cái tâm nó.
À! Bây giờ thì con cứ tiếp tục để mà nhàm chán. Và đồng thời con cứ mỗi cái sự việc xảy ra con hãy tư duy quán xét nó đi. Bởi vì đức Phật dạy mình dùng tưởng nhàm chán, mình không dùng tưởng thì mình không nhàm chán thật sự đâu. Bây giờ mình nhàm chán mình biết đó, mình hiểu đó, mình hiểu đời khổ rồi đó, mình cũng nhàm chán đó. Nhưng mà nó nhàm chán mới phân nửa, còn phân nửa để dành nó dấu ở đâu. Cho nên vì vậy mình phải tưởng mình nhàm chán nữa.
Khi một cái sự kiện xảy ra như vậy, mình tưởng. Tưởng đúng chứ không phải tưởng sai đâu, không phải tưởng mà ảo tưởng đâu. Tưởng đúng. Mà tưởng đó mình soi thấu được cái sự nhàm chán của mình, mình thấy cuộc đời nó cay đắng như vậy, nó khổ sở như vậy, thật sự đó! Càng tưởng ra, chứ không mình thấy coi như mình biết khổ, nhưng mà khổ chưa có sâu đâu. Chỉ có mình quán xét mình tư duy nó mới thấy sâu được cái chiều sâu của khổ đó. Người ta biết khổ, người ta thấy khổ, người ta sống trong khổ, nhưng mà tại vì người ta không có quán, cho nên người ta không có thâm sâu được cái chiều sâu của khổ. Chỉ thấy khổ rằng họ biết khổ, họ khóc lóc, họ đau khổ vậy thôi, chứ họ chưa có biết cái sâu sắc của cái sự khổ đó.
(28:50) Còn mình nhờ mình quán xét, mình tư duy thêm nữa nên mình mới thấy sự khổ nó sâu sắc, từ đó mình càng nhàm chán. Và nhàm chán chừng nào thì cái tâm nó dễ ít phóng dật, nó không có lôi cuốn mình được, các pháp bên ngoài nó không lôi cuốn mình được. Chứ còn không khéo nó nhàm chán, nó chưa hoàn toàn mà sâu, thì nó còn núp, ở trong cái sự ham muốn nó còn thì coi chừng nó đúng cái đối tượng nó lôi mình.
Cho nên đối với Mật Hạnh Thầy cũng biết là cái duyên nghiệp như vậy, cho nên thật sự là gần đây Thầy trực tiếp nhắc nhở. Nó về nó thuật lại một cái gì đó thì Thầy bảo nó: "Con hãy quán đi, quán nhàm chán đi, con sẽ thấy thật sự nhàm chán. Khi nào mà con chán chê, con không thấy còn có một cái gì mà ham thích cuộc đời này nữa, một chút xíu gì hết, con không còn vui gì với nó một chút gì hết, thì chừng đó hãy quay trở lại đây! Chứ bây giờ Thầy biểu con là vì con thương Thầy, con muốn sống ở gần với Thầy con tu, chứ chưa phải thật sự con nhàm chán. Chừng nào thật sự nhàm chán thì vô đây thì con mới làm được. Con đã biết được con đường đi rồi, biết được cái tâm không phóng dật rồi, nhưng chưa phải như vậy là đủ, mà phải thật sự nhàm chán cuộc đời". Chứ không khéo mình chưa nhàm chán, mình biết được cái cách thức, phương pháp mình tu rồi chứ gì, mà mình không nhàm chán, mình vô mình tu là bị ức chế. Bởi vậy đạo Phật nó tuyệt vời, Thầy thấy nó tuyệt vời! Chỉ một chút xíu không là mình phải khổ hạnh với mình rồi.
Đó! Cho nên ví dụ sư thấy bây giờ mình buồn ngủ quá, mà mình cứ đi xiểng niểng rồi té mà mình không dám nằm ngủ, phải không? Thì tức là mình tự làm khổ lấy mình. Thì có gì, buồn ngủ thì thôi đi nằm ngủ cho khỏe chứ, cho thoải mái chứ gì. Nhưng mà mình phải nói rằng nếu mà mình cứ theo cái chuyện mà tham ngủ nó như vậy thì mình trở thành cái người mà chưa có nhàm chán.
(30:43) Sư Phước Nhẫn: Dạ! Mình phải quán xét nữa?
Trưởng lão: Mình phải quán xét chứ! Mình quán xét!
Rồi bắt đầu khi bị buồn ngủ như vậy mà quán xét cái buồn ngủ thì nó làm cho mình tỉnh lại, nó không có buồn ngủ. Chứ còn mình cứ mình chấp nhận: “Bây giờ phải ngồi mới được, ngồi hít thở mới được, dù mày như thế nào cũng hít”. Cứ ngồi là nó ngủ à!
Hay hoặc là giờ mình đi mà cứ lủi qua, lủi lại, mình cũng đi. Thay vì mình ngồi lại mình quán: “Tại sao mà mày ngủ như vậy? Tại sao mày ngu như vậy? Mày không có nhàm chán cái ngủ này, sao mày ham thích hay sao mày ngủ?”. Rồi mình mới suy tư, mình mới coi như mổ xẻ từng cái mạch máu, từng cái thớ thịt của nó ra để mình tìm coi thử coi nó ở đâu mà nó gây ra cái cảm giác này.
À! Chừng mình thấu suốt nó rõ ràng. Mà khi mình mổ xẻ như vậy, mà trong khi mình tu tập nó có cái sự tỉnh giác, nó phát ra cái trí tuệ. Tự mình tập trung mình mổ xẻ nó, mình quán xét nó, thì nó phát ra nó tìm hiểu. Tự nó tìm hiểu cái nó xả, nó nhàm chán cái nó xả, chứ không ai làm gì được. Nó xả thì nó tỉnh à. Còn mình đấu tranh với nó, mình chống lại với nó, thì nó lại đánh mình ngược về. Cho nên mình thắng với nó là mình vất vả lắm. Mà mình quán xét cái mình đẩy lui nó, nhàm chán nó. Rồi mình ghê tởm: "Đã là mê mờ, đã là ngu si, đã là vô minh mà còn ham ngủ nữa thì lại chồng thêm cái sự vô minh nữa". Thì mình suy tư, mình ngồi mình tư duy thì nó tỉnh à.
(32:08) Sư Phước Nhẫn: Con xin Thầy chỉ con cái kỹ thuật mà để con tu tưởng đó Thầy. Vì ở trong kinh có dạy 10 loại tưởng. Chẳng hạn như cái tưởng nhàm chán, thì đối với một đối tượng đến thì con đã nhàm chán, rồi mình tưởng nhàm chán trong lúc đó, nhưng mà một thời gian sau các đối tượng đó trở lại nữa thì mình vẫn bị vấp. Vì cái tưởng nhàm chán của mình nó chưa có đúng mức. Thì con cứ nghĩ như vậy, thành ra con mới xin Thầy chỉ con cái kỹ thuật tu như thế nào để mình có cái nhàm chán thật sự.
Trưởng lão: À! Bây giờ nếu mà đứng ở trong mỗi một cái sự nhàm chán của cái cuộc đời mình thì nó có những cái phương pháp, và nó có những cái tâm mà không nhàm chán của mình ở trong cái pháp gì, đối tượng gì. Ví dụ bây giờ đặt thành cái vấn đề như cái tâm ái dục, cái tâm tình ái của mình. Phải không? Mình thấy một người nữ, mình cũng quán, mình cũng thấy là bất tịnh, mình cũng quán mình thấy là khổ, mình cũng thấy như vậy. Nhưng mà nó chưa thật sự nhàm chán đâu, cho nên bây giờ mình ngồi mình mới tưởng ra. Mình tưởng ra đầu tiên mình thấy được cái bóng dáng của cái người nữ đó là rất đẹp, rồi mình quán qua cái lớp da thịt, xương của họ thành ra mình thấy là cái bộ xương, rồi mình thấy thịt của họ sình hôi thối. Rồi mình tưởng đến, có cái dịp nào mình đã thấy được cái thây ma chết. Mình mới tưởng cái người phụ nữ này họ là như vậy, như vậy. Mình tưởng cái bộ xương trắng của họ, rồi mình tưởng da thịt của họ sình hôi thối, nước vàng này kia. Mình ngồi tưởng cái này là cái sự thật nó có chứ không phải là không có, nhưng bây giờ nó không có cái thây ma nằm trước mặt của mình, nó không có một cái người phụ nữ mà như vậy, nhưng mà mình tưởng ra như vậy, thì đây là một cái tưởng thật. Cho nên vì vậy mình cứ nghĩ tưởng. Chừng nào mình nhìn mọi vật mình đều thấy cái bộ xương trắng, mình nhìn thấy một cái đống, kêu là một cái thây ma sình, hễ mình nhìn đâu mình cũng thấy thây ma sình, thì đó là mình đã nhàm chán thật sự. Chứ không khéo mình thấy người nữ là mình thấy nó vẫn gợi cho mình cái sự ham thích.
Đó! Thầy nói đây là một đối tượng, một cái pháp để mình quán nhàm chán, nó còn biết bao nhiêu v.v. Thí dụ như mình tham tiền, tham bạc, mình nhàm chán trên cái sự khổ của tiền bạc. Nó không phải là nhàm chán cái sự bất tịnh đó nữa mà nhàm chán cái sự tiền bạc, mình sẽ nô lệ cho nó, nó sẽ sai mình sắm sửa cái này, cái kia, nó đủ cách, ăn uống đồ nó cũng sai mình. Hễ có tiền có bạc là nó làm đủ thứ hết. Rồi chùa to, Phật lớn, xây cất này là nó sai mình. Hễ không có tiền thì nó không có xây cất, chứ có tiền là nó bắt mình phải xây cất. Cho nên mình nhàm chán, mình thấy cuộc đời mình nô lệ như thế này, thế khác. Mình tưởng ra, mà tưởng ra sự thật. Mình tưởng ra cái đồng bạc nó như là một cái ông chủ mập mà luôn luôn nó sai mình. Bởi vậy Mình tưởng ra.
Bây giờ Thầy nói cái giấy 50 ngàn đồng của nhà nước in, mà mình tưởng: "Đây là một cái ông chủ, cái mặt ổng quặm xà mâu, luôn luôn ổng sai mình làm cái này, làm cái kia, cái nọ".
(35:05) À! Mình tưởng cái đồng bạc đó nó trở thành một cái người chủ của mình. Rồi nó sai làm những cái điều tồi tệ, những cái điều xấu xa, những cái điều mà tệ bạc. Và mình quán xã hội bị cái ông chủ này mà sai mình đi làm: "Lấy vợ người ta cũng nó. Lấy cái này, cái kia cũng nó. Có tiền loè ra để mà dụ dỗ vợ người ta. Đây là cũng nó sai". Cho nên mình quán. Nhờ mình tưởng tượng ra nhiều thứ mình quán thì mình mới nhàm chán. Chứ còn không khéo mình cũng biết tiền bạc là này kia nọ, nhưng mà biết sơ thôi chứ chưa phải là nhàm chán thật sự.
Cho nên cái sự tu của đạo Phật nó không có rảnh rang chút nào hết. Mình chưa nhàm chán là mình phải quán nhàm chán rồi xem thế nào đã, chừng nào nhàm chán rồi mình mới tu cái khác. Ngồi đó mà tư duy, ngồi đó mà suy nghĩ nhiều cái để cho chúng ta đóng góp lại thành một cái sự nhàm chán thật sự của một cuộc đời.
Đó! Mình biết mình nhàm chán chưa sâu, tức là nó còn đó, nó còn ở trong cái ham muốn nó còn, thì mình phải quán xét. Quan trọng lắm, chứ không phải đơn giản. Ông Phật dạy cái gì nó cũng tuyệt vời và nó cũng quan trọng lắm. Tại vì mình tu chưa có thấu đáo thôi.
Sau này Thầy viết cái giáo trình, bắt đầu người muốn tu vào thì phải tu cái gì trước. Chứ còn bây giờ thì công chuyện nhiều quá Thầy chưa làm chưa có được. Mà đâu có ai biết đâu mà làm. Thầy nói bây giờ người ta soạn như vậy, chứ mà đi vào cái chi tiết thì họ không có soạn được đâu. Chỉ có Thầy soạn thôi! Rồi Thầy mới đưa ra những cái điều kiện quán, rồi cách thức tu tập tỉnh thức để cho cái trí tuệ của mình nó triển khai, nó phóng ra để cho nó có những cái chiều sâu để nó quán ra. Nó nhiều cái lắm, chứ không phải.
Thầy đưa ra một cái ví dụ thôi, nhưng mà người đó người ta sẽ tưởng tượng ra, người ta quán. Gọi là dùng tưởng pháp mà quán nó thì nó mới nhàm chán thật sự. Thầy nói cái giấy 50 ngàn nó đâu có phải là ông chủ đâu, mà mình quán ra ông chủ thì mình lúc nào cũng thấy nó là ông chủ thì thấy hết ham rồi. “Cái ông gì mà dữ dằn quá trời! Ổng cứ sai mình như thế này thì chắc chết, mình làm tôi tớ ổng suốt cái đời. Chưa có yên cái lưng thì nó đã sai mình đứng dậy rồi”. Thì như vậy là tức tối thì phải chống lại thôi. Đó! Thầy đang bảo phải quán là quán nhàm chán!
(37:16) Sư Phước Nhẫn: Mấy cái đó mình phải quán tới, quán lui hoài. Nhiều khi mình quán mình thỏa mãn cái đó rồi, mình thấy mình sợ nó rồi, mà sau một thời gian cái đối tượng trở lại cái là nó dính nữa: “Rồi mày vẫn tham nữa rồi. Trước đó mày thấy cái này biết rồi, mà bây giờ mày gặp mày tham nữa”, rồi quán nữa. Giống như con gặp cái máy con thích, con muốn kiếm tiền mua cái máy: “Rồi mày thích nữa rồi”.
Trưởng lão: À! Rồi cái mình bỏ qua đi, không phải! Ông Phật dạy mình lưu ý vậy nè. Ông Phật dạy cái người tu sĩ, cái vị Thượng tọa đó: “Bây giờ ông quán xương trắng đi”.
Rồi ổng quán xương trắng rồi tới chừng ổng gặp ai ổng thấy cũng xương trắng. Đó là đức Phật muốn nhấn mạnh cái chỗ mà chúng ta quán sâu. Còn ở đây mình quán là mình cũng hiểu rồi cái mình bỏ qua mình không có quán nữa. Thì do đó nó không có sâu. Tức là nó còn núp, chưa có nhàm chán cuộc đời thật sự. Còn mình quán mà mình nhìn đâu mình cũng thấy hết thì đó là nó đã sâu rồi. Thì chừng đó rồi biết.
Mà chính chừng đó nó có cái lực lớn lắm. Trời ơi, cái lực dữ lắm đó! Mình quán mà tới độ mà mình nhìn cái gốc cây kia mình cũng thấy bộ xương trắng nữa đó thì đúng là lúc bây giờ con mắt của mình nó nhìn đâu nó cũng thấy ghê gớm lắm rồi.
Sư Phước Nhẫn: Như thành người điên vậy hả Thầy? Thấy gốc cây thành ra bộ xương.
Trưởng lão: Bộ xương rồi đó! Đó là vậy đó, chứ không phải đâu! Coi như là mình sống ở trong tưởng không đó, như vậy là mới nhàm chán thật sự. Do đó bây giờ mới thật sự biết mình nhàm chán rồi thì không có dùng nó nữa. Mặc dù là nhìn đâu cũng thấy rồi, là nó nhàm chán, nó ghê gớm lắm rồi, thì bắt đầu bây giờ mình mới dùng pháp mình tu tập.
Bắt đầu mình dùng Pháp, chứ mình đã bỏ quán rồi, bởi vì cái quán này nó nhàm chán. Mình thật sự mình biết nó nhàm chán, mình nhìn là mình thấy đó. Hễ mình khởi niệm mình nhìn cái gốc cây là cái bộ xương là nó bộ xương liền à. Bởi vì cái tưởng mình phải khởi. Bởi vậy Thầy nói hễ khi mình dùng tưởng là mình thấy toàn bộ là xương trắng hết, xung quanh đây hết hà. Nếu là người quán xương trắng, dùng tưởng là thấy toàn là xương trắng, mà không dùng thì thôi.
Đó! Cho nên vì vậy mà khi không dùng là mình phải dùng cái pháp mình tu, tiếp tục ở trên con đường, chứ không phải nội cái nhàm chán là đủ. Mà phải tu như vậy nó mới sâu. Chứ còn mình không tu như vậy thì coi như là nhàm chán phân nửa, còn phân nửa để dành. Không có được!
(39:29) Sư Phước Nhẫn: Dạ, cái phần này xin Thầy phân biệt ra giữa Ý thức và Tưởng thức. Để Phân biệt được hai cái đó.
Trưởng lão: À! Cái Ý thức của mình là phân biệt rõ ràng. Bây giờ nhìn thấy cái máy, cái hộp này và những vật xung quanh đây, đó là Ý thức.
Cái mà không có là Tưởng thức. Nghĩa là bây giờ không có cái máy mà mình nói đến cái máy là mình tưởng ra đó. Thì rõ ràng thôi, cái đó là tưởng thức của mình đó. Cũng như bây giờ cái chuyện nó xảy ra hồi hôm qua rồi, nó không phải là hiện tại mà mình nhớ lại cái chuyện hôm qua là Tưởng thức, chứ không phải hiện tại.
Còn hiện tại, thì bây giờ cái Ý thức của chúng ta là cái hiện tại là Ý thức. Cái gì trong hiện tại này vừa thấy.
Như hồi nãy Thầy nói rồi, bây giờ chúng ta nhớ lại là Tưởng thức. Còn cái mà Thầy đang nói là Ý thức.
(40:17) Sư Phước Nhẫn: Cái giá trị giữa cái Tưởng thức và cái Ý thức, mình sử dụng cái nào thưa Thầy?
Trưởng lão: Cái giá trị của hai cái này đều có giá trị hết. Nhưng mà mình biết sử dụng đúng cái thời điểm của nó thì nó có giá trị. Như mình quán nhàm chán bằng tưởng thì có giá trị. Còn cái Ý thức của nó thì mình sử dụng ngay trong các pháp ở trong đối tượng hiện tại của nó để thực hiện thiện pháp. Tức là ngăn ác, diệt ác thì nó có lợi ích hơn. Còn cái sử dụng mà để quán để mà nhàm chán cho nó có chiều sâu thì dùng tưởng thức có giá trị hơn. Còn trong hiện tại mà dùng tưởng thức tu để mà ngăn ác, diệt ác thì nó bị tưởng thì không có giá trị.
Sư Phước Nhẫn: Vậy trong các pháp môn mình tu, thì mình nên chọn cái pháp môn thuộc Ý thức hay là pháp môn thuộc Tưởng thức?
Trưởng lão: À! Các pháp môn mà chọn tu thì nó còn tùy. Nó còn tùy.
Ví dụ như hiện giờ mình đang sống ở trong các đối tượng của mình thì mình nên dùng cái pháp môn ngăn ác, diệt ác bằng Ý thức. Còn bây giờ ngồi một mình mình, nó không có các pháp hiện tại, mà cái tâm nó còn chưa nhàm chán, nó còn tham đắm thì nên dùng tưởng mà quán nó, thì nó có giá trị.
Bởi vì có lúc mình đâu có các pháp xung quanh đâu. Tức là hiện tại nó không có mà bây giờ ngồi đây thì không khéo nó lại sống trong tưởng thì sao? Thì như vậy mình dùng Tưởng hơn là dùng Ý thức mà tu. Dùng Ý thức bắt buộc nó phải sống trong cái hiện tại, thì nó ức chế trong cái hiện tại của nó là thanh thản, an lạc, vô sự chứ gì. Mà ức chế quá thì nó không được.
Bởi vì mình ức chế nó tức là bây giờ tâm mình còn tham đắm mà mình không dùng tưởng để mà diệt cái tham đắm, mình không có nhàm chán được cái cuộc sống của thế gian, thì do đó mình không dùng Tưởng mà mình dùng cái Ý thức giữ cái tâm thanh thản, an lạc trong hiện tại của nó thì như vậy mình bị ức chế. Mình biết nó còn tham mà tại sao mình lại không dùng tưởng để mình nhàm chán nó đi, thì mình bị ức chế. Cho nên nó phải khéo léo và thiện xảo. Cho nên lúc nào dùng Tưởng và lúc nào dùng Ý thức.
Cũng như bây giờ sư bước ra khỏi Tu viện này thì sư phải dùng Ý thức để mà đối phó với các pháp xung quanh sư. Tức là ngăn ác, diệt ác đó. Còn nếu như sư ở trong Tu viện này là tưởng thức sư phải tu hằng ngày. Bởi vì nó là cảnh tịnh, nó không có đối tượng các pháp. Phải không? Nếu mà sư cứ bắt buộc nó phải giữ cái tâm thanh thản, an lạc, thì nó là hiện tại rồi, nhưng mà giữ ở đây là sư bị ức chế. Cho nên sư phải quán nhàm chán thì nó mới lợi ích. Trong cảnh tịnh này là phải quán nhàm chán.
Sau này cái giáo trình mà dạy về tu tập Thầy sẽ dạy kỹ cái này hết mà. Mình ngồi không mà mình không nhàm chán, thì làm cho cái hiện tại của mình nó sẽ bị lôi cuốn.
(43:00) Sư Phước Nhẫn: Thành ra các pháp môn tu tập ở ngoài như các tông khác, thì cái pháp môn Tưởng là nó đúng hay là pháp môn Ý thức nó đúng?
Trưởng lão: Nói chung là cái pháp Ý thức là đúng. Còn cái pháp tưởng là không đúng. Nó không đúng nhưng mà nó trợ giúp cho cái Ý thức của chúng ta. Cho nên Bốn Thiền nó là thuộc về Ý thức. Cái Hữu sắc nó thuộc về cái Ý thức của chúng ta tu, nó làm chủ bằng cái Ý thức. Còn cái Bốn Không - Tứ Không là nó là tưởng, nó là Thiền tưởng. Hoặc kêu thiền Hữu sắc, thiền này là thiền tưởng không à.
Cho nên cái Thiền tưởng nó không có lợi ích gì cả, nhưng mà nó trợ giúp chúng ta được nhàm chán, đi sâu vào chỗ nhàm chán để chúng ta không còn ham thích nữa thôi, nó giúp cho chúng ta có phần đó. Nhưng mà đi sâu vào nó thì nguy hiểm, nó lạc tưởng. Cho nên tu thì phải dùng Ý thức mà tu. Còn Tưởng thì để tưởng nhàm chán mà tu, chứ còn tưởng không có phải là…
Nếu mà mình nhàm chán mà mình không có Ý thức thì kể như mình loạn điên. Nếu mà mình không Ý thức thì ngay đó tất cả xung quanh đây là mình đều thấy là nguyên là bộ xương không thì chết rồi. Hết dám tới.
Sư Phước Nhẫn: Vậy mỗi pháp môn đó mình căn cứ vào đâu để mình biết cái pháp môn đó là pháp môn Tưởng?
Trưởng lão: À, mình biết chứ! Biết pháp môn Tưởng. Ví dụ như đức Phật nói: "Quán bộ xương trắng". Thì mình biết là pháp môn Tưởng.
Sư Phước Nhẫn: Không! Ví dụ như mấy cái pháp môn tu ở ngoài đó. Là mình làm sao mình đánh giá chỗ nào mà biết là họ tưởng hả Thầy?
Trường lão: À, biết chứ! Thí dụ như cái người đó họ đang tu một cái pháp nào, họ nói: "Ờ, bây giờ họ phải Kiến tánh thành Phật". Thì mình biết pháp Tưởng rồi. Bởi vì cái đó nó không có, mà họ tưởng ra. Phải không?
Thí dụ như bây giờ họ niệm Phật để cầu vãng sanh, thì mình biết đây là pháp Tưởng rồi. Bởi vì vãng sanh Cực Lạc không có, Tây Phương không có, mà bây giờ họ tưởng ra có để mà họ cầu, thì như vậy là Tưởng rồi. Đó! Còn bây giờ một cái người họ đọc câu thần chú, họ nói thần chú này đọc sẽ có những cái linh hiển như thế này, thế kia thì mình cái linh hiển này là do tưởng rồi, mình biết là pháp Tưởng.
Còn bây giờ mình biết cái pháp nào là cái pháp không Tưởng? À! Mình biết cái pháp Như Lý Tác Ý là cái pháp không Tưởng. Ngăn ác, diệt ác là pháp không Tưởng. Bởi vì ngăn ác, diệt ác là ngay cái chỗ tâm của mình làm những điều ác cho nên nó ngăn, nó diệt thì đó là pháp không Tưởng, bởi vì cái này nó thực. Cho nên mình biết cái pháp nào là Tưởng, cái pháp nào là không Tưởng là tại vì mình biết rất rõ. Cái không có mà mình tưởng ra cho có thì nó là pháp Tưởng. Đó là pháp Tưởng!
(45:34) Sư Phước Nhẫn: Cái ly tham mà nhàm chán đó con có thể tu với Định Niệm Hơi Thở rồi mình Tác ý cái câu đó được không Thầy?
Trưởng lão: Được!
Sư Phước Nhẫn: Cái đó nó có giá trị hay không? Hay là bây giờ chưa giá trị trong lúc này?
Trưởng lão: Trong lúc này…
Đó! Cho nên vì vậy mà phải nhớ lời Thầy nhắc pháp Như Lý Tác Ý là cái pháp rất mầu nhiệm. Tác ý khác mà Như Lý Tác Ý là khác. Phải phân biệt được cái chỗ này. Thiện xảo Tác ý là khác. Mà thiện xảo Như Lý Tác Ý là khác. Đó! Phải biết phân biệt được những cái điều đó.
Nhưng mà hằng ngày ít ra chúng ta phải có 1 lần hay 5 lần, 10 lần để mà Như Lý Tác Ý. Và luôn luôn lúc nào chúng ta cũng phải cần Tác ý. Bởi vì Tác ý để mà chúng ta làm chủ được. Muốn nói một cái gì thì Tác ý ra, nói cái đó phải suy nghĩ để cho nó tỉnh táo trước cái chỗ mình sắp nói. Còn nếu mình không Tác ý ra mình nói đại. Mình tập thành quen chứ không khéo mình sẽ nói đại, mình không có Tác ý ra.
Cho nên cái Tác ý là nó nhắc cho mình ngay liền một cái hành động làm gì đó để cho khéo léo và thiện xảo được cái việc làm đó. Còn Như Lý Tác Ý là cái Lý thật sự rồi không còn sai nữa, cho nên mình thường nhắc tâm của mình để cho nó đừng có làm sai. Còn cái Tác ý là làm cho tỉnh thức được ngay cái chuyện mình sắp làm, mình Tác ý. Cho nên phải phân biệt được cái chỗ Tác ý và Như Lý Tác Ý.
Chứ còn cái Tác ý và Như lý tác ý nó cũng giống nhau thì không được. Nếu mà như vậy thì đức Phật chỉ nói Tác ý thôi, chứ nói Như lý chi cho mắc công. Phải hiểu! Nghĩa là Như lý là không còn thay đổi. Mà Tác ý là có thay đổi. Con có hiểu được không? Thầy nói vậy quá rõ rồi chứ gì!
(47:27) Sư Phước Nhẫn: Cái tu mà bây giờ song song với cái tưởng nhàm chán, thì con tu cái Định Niệm Hơi Thở rồi con Tác ý nhàm chán luôn cũng được hả Thầy?
Trưởng lão: Được! Bởi vì Tác ý như một cái lý nhàm chán để cho mình nhàm chán, để nó làm cho có một cái lực. Còn mình quán nhàm chán để cho nó thấu suốt được cái đối tượng nhàm chán.
Sư Phước Nhẫn: Bởi vì trong sách Thầy có nói là: "Khi mà tâm thanh tịnh thì mình tu Định Niệm Hơi Thở mình Tác ý nó mới có giá trị". Còn bây giờ tâm con chưa thanh tịnh mà mình tu Định Niệm Hơi Thở rồi mình Tác ý là nó cũng chưa có giá trị hay sao Thầy?
Trưởng lão: Nó không có giá trị! Coi như là nó không có hiệu quả đó. Thầy muốn nói không có giá trị, tức là không có hiệu quả ngay liền.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra bây giờ con tu cái pháp đó cũng như không?
Trưởng lão: Không! Nhưng mà mình tu đó, để nó… Bởi vì mình tu là mỗi một mình tác ý một câu nói đó, bây giờ nó chưa có gì hết, nhưng mà mình nhắc như vậy, mình nhắc trong cái câu đó như vậy để nó trở thành một cái lực sau này.
Ví dụ như mình muốn đưa cánh tay có cái lực thì mình phải đưa như thế này thì nó có một cái lực đi xuống, mà mình không chịu đưa thì nó không có lực. Bây giờ mình đưa thì mình không thấy gì hết, nhưng mà nó có cái lực ở trong này, nó sẽ có một cái lực, cái lực của nó. Ví dụ như một câu mình nói ra nó có một lực của nó rồi, cái lực đối với cái tâm của nó. Bây giờ thì nó không có hiệu quả gì hết, bởi vì cái tâm mình nó chưa thanh tịnh. Còn khi mà nó thanh tịnh rồi thì bắt đầu nó khởi muốn thôi chứ chưa có nói, nó khởi muốn tịnh chỉ hơi thở là nó tịnh chỉ liền, là nó có lực. Thầy muốn nói cái chỗ đó đó.
Đó! Cho nên bây giờ nếu mà mình không luyện tập nó thì làm sao tới chừng khi mà mình nói nó được, ý mình muốn được. Tức là “khởi ý muốn” là Như Lý Tác Ý.
Đó! Nó như vậy, chứ không phải là như mình bây giờ mà phải tác ý nguyên một cái câu như vậy. Mình như một cái lý một cái câu đó mình tác ý ra. Còn cái này nó “muốn như vậy” là nó là tác ý rồi.
Và khi mà muốn được một cái lực mình như vậy thì bắt đầu bây giờ mình phải tu. Cái pháp này nó không hiệu quả ngay bây giờ đâu, nó không lợi ích ngay bây giờ, cái tâm mình không thanh tịnh nó không lợi ích ngay bây giờ, nhưng về sau là nó lợi ích. Còn bây giờ mình không tác ý, mình thấy nó không hiệu quả mình không tác ý, về sau thì nó làm sao nó có được. Cái Pháp này coi như là nó tạo thành một cái lực về sau chứ không phải là hiện tại. Nhưng mà trong ngay bây giờ mình thấy cái tâm mình chưa thanh tịnh, thôi mình không tác ý nó, đợi cho tới chừng nó thanh tịnh thì nó trở thành cái hiệu quả, mà nó trở thành hiệu quả thì không tác ý ngay bây giờ thì làm sao ngày mai nó có được cái hiệu này.
(49:54) Mà nhờ cái tác ý này, bây giờ mình phải tác ý cho đúng cách. Thay vì bây giờ mình tác ý: "Hơi thở phải tịnh chỉ. Hay Tầm tứ phải diệt", phải không? Thì nó trật! Nó không làm sao được hết! Nhưng mà mình tác ý như thế này thì nó đúng. À! Cái tâm mình nó ham muốn cái gì đó thì tác ý: “Cái tâm không được ham muốn cái đó”. Ví dụ như nó ham muốn cái xe Dream, hay xe Cub gì đó, thì mình nhắc: “Cái tâm không có được ham muốn, ham muốn là người thế gian, chứ người tu không có được ham muốn điều đó". Đó là mình nhắc nó thì nó có hiệu quả của cái pháp đó.
Bây giờ tôi đang hít thở bỗng dưng nó nhớ cái xe, nó phóng niệm cứ nhớ cái xe, bởi vì cái tâm mình ham muốn cái gì nó sẽ phóng ra cái nấy à. Đó! Bắt đầu mình mới nhắc cái tâm của mình, mình như một lý đạo đó mình nhắc: “Cái tâm không được ham muốn cái xe. Đời người ta ham muốn, còn người tu thì không được ham muốn, mày không được ham muốn”. Đó, mình nhắc nó vậy, rồi mình yên lặng ở trong hơi thở của mình. Bỗng dưng nó hiện ra nữa thì mình nhắc nữa, mà nó không hiện thì thôi, mà nó hiện ra là nhắc.
Rồi nó sẽ hiện cái thứ khác, chứ không phải nó hiện mỗi cái này không. Mà mỗi cái đều phải có Như Lý Tác Ý kèm theo để nó được hướng tâm. Nhưng mà không ngờ cái hướng thì ngay bây giờ mình thấy cái chuyện đó nó làm cho cái tâm mình nó chặn đứng lại, chứ sự thật chưa có phải là mình hết ham muốn cái xe đâu. Nó chặn đứng lại, bởi vì mình hướng tâm mình nhắc như vậy là nó chặn đứng lại thôi, chứ chưa phải thật sự nó hết ham muốn. Nhưng mà cuối cùng thì nó sẽ thành một cái lực sau này mà chúng ta muốn là được.
Còn bây giờ chúng ta phải quán mới nhàm chán cái xe, chứ không khéo mình chặn nó như vậy chứ ít bữa nó cũng thấy chiếc xe là nó ham à, chứ chưa hết, cho nên mình quán. Mình quán thật sự để nhàm chán không còn thích chiếc xe nữa, thì nó mới hết phóng ra, chứ không nó phóng hoài. Đó! Cách thức tu là nó phải như vậy.
Mà mình tu thì mình phải biết từng tâm niệm của mình, nó còn nhàm chán hay chưa nhàm chán. Ví dụ như bây giờ mình tu hành mà mình thích có cái túi bát thôi: “Bây giờ ở đây mà cần gì phải mang cái túi làm cái thứ gì, mà mày ham cái này để mày làm cái gì đây?”. Nhất định là cấm nó liền, tác ý ra liền để chặn đứng cái tâm đó. Nhưng mà rồi quán, quán cho đến khi mà nó không còn ham thích cái túi bát nữa. Chứ còn bây giờ nó ham thích cái túi bát, cái mình chạy xin người này, xin người kia, hay hoặc là đi thợ may nhờ họ may cái túi bát. Không có!
Khi mà có rồi thì nó đã thỏa mãn cái ham muốn của mình thì mình tưởng nó không ham muốn, sự thật là mình chồng lên cái sự ham muốn, mai mốt nó sẽ ham muốn cái khác đó, chứ nó không phải không! Bởi vì mình huân cái ham muốn thì nó phải chồng lên cái lực nó ham muốn. Mà mình ngăn chặn và mình đoạn dứt nó thì nó sẽ hết ham muốn. Mặc dù là mình chỉ còn ba y một bát thôi, mà thấy cái túi bát của người khác, mình thấy mình thích rồi, thì bắt đầu nó có tham rồi, mà mình không chặn nó thì nó sẽ sanh ra cái này, cái kia. Mình tưởng là khi mà mình có cái túi bát thì thôi mình sống để rồi thôi! Nhưng mà không ngờ cái tâm tham của mình nó nằm ở đó. Đó! Thành ra mình phải diệt ngay từng chút của cái tâm mình.
Bây giờ hiện có cái gì thì mình sống và nó chưa cần thiết cái chuyện đó thì mình không quan trọng mà đi xin nó đâu. Đừng xin để dành. Thầy nói không xin để dành, chừng mà tới đó rồi thì hẳn xin, còn bây giờ mà chưa cần thiết thì không xin. Cũng như bây giờ mình còn một chút xíu xà bông, thôi thì bữa nay giặt đi. Thôi để xin trước cái đã, để có đặng mai khỏi xin, thì kiểu này còn tham. Mà nếu mà xin không được thì giặt không cũng không ăn thua gì phải sợ. Cuộc đời tu sĩ không có cần dự phòng. Đó! Như vậy là diệt cái tâm tham chứ không có gì. Nó còn một chút xíu tham là nó lo lắng, nó dự phòng.
Sư Phước Nhẫn: Dạ! Tụi con nhiều tâm tham quá.
(53:32) Trưởng lão: Thầy nói từng chút thì tụi con sẽ thấy biết được. Cho nên Thầy nói thật sự, ví dụ như bây giờ mình có ba y một bát rồi, mà người ta cúng dường, nhất định là từ chối, mà không từ chối thì nhận rồi đem cho người khác liền, không có để.
Cho nên đức Phật nói trong giới luật nói 10 ngày còn cất giữ được, mà ngoài 10 ngày là phải xả, chứ còn không xả thì đọa đó. Tức là bị dính theo nó là đọa chứ sao. Cho nên xả hết, chỉ ba y một bát thôi, không cần gì nữa hết. Đời đã xả rồi mà còn chưa nhàm chán hay sao mà còn cất giữ? Hễ mình không nhàm chán đời thì mình còn cất giữ cái này, cái kia à. Mình thấy vừa đủ những vật dụng mình vừa đủ để sống cho một đời sống tu sĩ rồi, còn thấy có cái gì dư là xả hết. Như vậy là mới rốt ráo, mới là tâm nó không phóng dật, chứ còn không khéo là phóng dật.
Thầy nói chỉ sống đúng giới luật của Phật đi, nghiêm túc đi. Mình thấy rằng mình là một vị Phật trong cái thời hiện tại của mình phải sống đúng như Phật, thì mình sống làm sao cho đúng như Phật, thì lúc bấy giờ tâm nó mới chịu ly. Bởi vì giới luật là Thầy. Thật sự Thầy nói, đúng! Không có sai đâu! Quý sư mà làm đúng đi thì quý sư sẽ thấy. "Tôi chỉ cần một ngày làm Phật thôi. Nhưng mà làm phật được một ngày thì tôi leo lên ngày nữa, tôi leo lên suốt cuộc đời thì tôi làm Phật luôn. Mà chỉ có giới luật thôi, mà tôi sống đúng là tâm tôi ly dục, ly ác pháp". Bởi vậy đức Phật mới nói: “Ta nói ly dục, ly ác pháp là nói Giới luật”.
Đó! Bây giờ quý thầy cứ nghĩ bây giờ tại sao mình đi tu rồi mà mình còn lấy kiềm, lấy búa làm gì để ở trong thất mình? Nếu nó cần thì mình mượn mình đóng đồ xong đem trả đi, cất cái này làm chi cho thêm mệt, thêm mất công. Người tu sĩ thì chỉ ba y một bát thôi, chứ tại sao còn thêm búa kềm chi đây.
Sư Phước Nhẫn: Dạ!
(55:19) Trưởng lão: Rồi bây giờ ở đây, mai mốt đi chỗ khác cũng mang theo à? Nhiều khi có người còn sắm sẵn đồ đạc này kia đồ thêm để rồi đi đâu cũng mang theo. Làm chi vậy? Trời đất ơi! Đức Phật nói lấy gốc cây làm giường nằm, thì còn nghĩa lý gì nữa. Chúng ta xả như vậy tâm nó mới hết phóng dật, còn lơ mơ là nó phóng. Như vậy con đường tu của đạo Phật nó không khó thật sự. Nhưng mà khó thật, một chút xíu tâm chúng ta còn dính mắc, chưa nhàm chán một chút xíu, còn lo lắng cho nó một chút xíu là chúng ta chưa xả hết. Nó đơn giản như vậy!
Chứ mà Thầy thấy đúng là ngày xưa Thầy sống 6 tháng Thầy thực hiện được là Thầy sống đúng hạnh của Phật, hằng ngày Thầy sống như Phật. Bởi vậy Thầy mới biết được niệm Phật là chỗ đó, chứ còn nếu mà không thì ai mà giảng được cái chỗ này. Thật sự không kinh nghiệm này thì không ai giảng được hết. Người ta cứ nghĩ niệm hồng danh Phật, nhưng Thầy nói Thầy sống như Phật là Thầy Niệm Phật đó. Cho nên Thầy dặn con.
Sư Phước Nhẫn: Lúc nào cũng nhớ hết?
Trưởng lão: Lúc nào cũng nhớ hết! Bởi vì không được làm sai Phật, thì tức là mình niệm Phật, còn mình làm sai Phật thì làm sao gọi là niệm Phật.
Sư Phước Nhẫn: Mấy cái kia là trì danh Phật mà họ nói lộn là niệm Phật. Trì danh là mới đúng phải không Thầy?
Trưởng lão: À! Đúng là trì danh đó. Còn họ nói niệm Phật đó là cái sai rồi.
Sư Phước Nhẫn: Trì danh Phật mà họ nói lộn qua niệm Phật.
Trưởng lão: Thành ra cái ngôn ngữ thì nó hơi khó để người ta hiểu. Nhưng mà sự thật niệm Phật tức là trong cái bài kinh của Phật dạy: "Niệm Phật - Niệm Pháp - Niệm Tăng - Niệm Giới". Tức là mình sống như Phật, sống như Pháp, sống như giới luật, sống như Tăng.
Đó! Giới luật dạy sao thì mình làm y như vậy, đừng có phạm thì tức là mình đã Niệm giới chứ gì. Mình phải hiểu chỗ này. Chứ Niệm giới là mình cứ Niệm giới hay Tụng giới là Niệm đó, thì cái đó là sai rồi, đâu có đúng đâu!
(57:06) Trưởng lão: Các pháp môn tu của đức Phật là Giới - Định - Tuệ là pháp môn chánh. Còn có những cái con đường khác chẳng hạn như Chỉ hay Quán thì có phải là pháp môn của Phật không?
Trưởng lão: Không phải đâu! Họ đẻ ra đó! Họ đẻ ra rồi họ nghĩ tưởng ra, chứ sự thật là Giới - Định - Tuệ.
Thì trong Giới nó sẽ sanh Định, thì Chỉ chứ gì. Thành ra họ đẻ ra. Bây giờ mình chưa có giới luật gì hết, mình lo mình Chỉ à. Thì Chỉ cái gì?
Rồi Chỉ lại Quán nữa. Quán tầm điên tầm khùng, Quán tưởng tầm bậy tầm bạ, Quán tùm lum. Quán cái gì? Có Quán gì đâu? Hằng ngày sống trước các đối tượng của mình nó ham muốn gì thì ngăn lại, nó ác pháp thì ngăn lại hết, diệt nó hết thì nó ở trong thiện pháp chứ gì. Thì đức Phật dạy mình tu có bấy nhiêu đó, chứ mình có Chỉ, có Quán gì đâu. Nhưng mà trong khi mình muốn ngăn nó mình phải tư duy, mình suy nghĩ thì Quán chứ, không Quán làm sao được? Còn bây giờ không có gì hết mình cứ Quán, Quán tằm bậy, Quán chi đây?
Còn cái này rõ ràng là cái pháp đó nó đến nó làm cho tâm của Thầy phiền não, giận. Mà nếu mà Thầy không tư duy, không quán xét, thì nó cứ ôm ấp, nó phiền não hoài sao, cho nên phải Quán. Mà Quán hết cái tâm sân của mình rồi thì nó Chỉ chứ gì. Tại vì nó hết sân thì nó Chỉ chứ không lẽ bây giờ nó sân hoài. Thì nó Chỉ ngay cái chỗ mình Quán, Quán hết thì nó Chỉ.
Còn họ đặt ra Chỉ Quán, bây giờ họ Chỉ là làm cho đừng có khởi niệm ra. Trong khi tâm họ sân ầm ầm kia kìa mà họ kêu đừng có khởi niệm, là khởi sao? Còn bây giờ đức Phật dạy ngăn ác, diệt ác, mà giờ mình ngăn được các pháp ác rồi, hay diệt các pháp ác rồi, thì ngay đó là nó Chỉ các pháp ác chứ nó Chỉ cái gì? Còn bây giờ họ Chỉ cái tâm họ đừng có khởi vọng tưởng. Nó khởi Thiện thì mặc tình nó, chứ nó có làm gì khổ mình đâu mà không cho nó khởi, biểu nó Chỉ luôn à? Thành ra nó sai! Còn bây giờ mình không nhàm chán cho nên mình mới Quán nhàm chán. Còn bây giờ mình đã nhàm chán rồi mà bây giờ Quán cái gì bây giờ nữa? Thì cái Chỉ, Quán của họ đều là không đúng cách!
(59:06) Sư Phước Nhẫn: Cái Chỉ với cái Định nó có giống nhau không Thầy?
Trưởng lão: Cái Chỉ với cái Định nó không có giống nhau.
Bởi vì cái Chỉ, bây giờ Thầy đang sân, Thầy Chỉ, là Thầy ngưng lại chứ gì, không có sân. Thầy đang cuốc đất kia kìa, mà Thầy Chỉ là Thầy ngưng lại cuốc đất.
Còn cái Định nó khác. Cái Định là nó phải ngưng tất cả toàn bộ hết cả thân tâm của mình nó không hoạt động nữa, thì gọi là Định. Ví dụ như bây giờ cái định của Nhị thiền nó phải diệt Tầm tứ. Tầm tứ tức là ý thức của mình hoạt động đó, đều nó ngưng hoàn toàn, nó diệt, nó không có hoạt động nữa, thì nó gọi là Định.
Còn bây giờ mình Chỉ là mình không nghĩ thôi, chứ sự thật là nó còn hoạt động. Mình không suy nghĩ nhưng mà cái đầu của mình nó còn hoạt động, chứ nếu mà nó Chỉ như vậy rồi mình chết luôn sao.
(59:52) Sư Phước Nhẫn: Tại vì con đọc trong kinh Nikaya thì con thấy cái pháp môn đó là Giới - Định - Tuệ, chứ con không thấy dạy mấy cái pháp môn khác. Còn bây giờ ở ngoài thì họ nói là tu Chỉ, rồi tu Quán, rồi tu Định. Thành ra nhiều người họ nói Định với Chỉ là một. Rồi con không hiểu vì sao là nói tu Quán. Quán là Tuệ đó, thì con không biết có phải Quán là Tuệ không? Bởi vì Giới - Định - Tuệ.
Trưởng lão: Thì họ nghĩ như vậy đó con!
Sư Phước Nhẫn: Cái con nói mình không tu Giới thì làm sao nó sanh Định được. Bởi vì Phật nói Giới sanh Định, Định sanh Tuệ. Mà mình không tu Giới, khi không cái mình nhảy vô mình tu Tuệ, thì làm sao được?
Trưởng lão: Không có được đâu! Đúng là phải từ Giới mới sanh Định, Định sanh Tuệ. Rồi bây giờ họ quán, họ nói họ quán ra để cho họ có Tuệ. Hay hoặc là họ ngồi ức chế cho cái tâm họ không có niệm vọng tưởng rồi họ mới quán, thì như vậy là trật hết rồi! Không có đúng!
Sư Phước Nhẫn: Họ kêu là Tuệ quán, từ Quán. Cái đó là khi không mình vô đó là nó bỏ cái giai đoạn của đức Phật hết rồi.
Trưởng lão: Bỏ! Bỏ cái giai đoạn của đức Phật! Coi như cái đó là những cái pháp mới của người ta đặt ra thôi, nó không có đúng đâu. Nó không đúng ở trong kinh Nguyên thủy Phật dạy.
Giới: Bắt đầu mình vô sống đời giới của mình là đoạn dứt duyên Sanh rồi. Trong cái Thập Nhị Nhân Duyên, là mình phải là cái người phải thông suốt cái duyên Sanh và duyên Khởi. Mình phải thông suốt!
Vì vậy mình phải thấy từ cái chỗ mà mình bước vào cái cửa đạo là mình bước vào cửa Sanh rồi, tức là ba y một bát của mình rồi: "Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia sống không nhà cửa, không gia đình", thì ngay đó là cái duyên Sanh nó đoạn rồi. Mà đoạn duyên Sanh thì Ưu, bi sầu khổ hết.
Mà đoạn duyên Sanh thì nó mới thực hiện được cái Minh. Từ đó mình đi dần đến phá vỡ Vô minh luôn. Còn mình đi vào cái chỗ mình quán, mình xét để cho mình phá cái Vô minh, tức là Minh hơn nữa, mình Vô minh hơn nữa chứ không có Minh. Bởi vì cái ngã của mình càng lớn, mình càng học thức, càng hiểu biết bao nhiêu, thì mình tưởng mình quán xét như vậy, mình tìm hiểu như vậy, cuối cùng thì mình cũng Vô minh. Đời sống của mình nó còn ê chề, nó phạm giới, phá giới đủ thứ, nó không có sống cái đời sống mà trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không như một vị tu sĩ.
Đó! Thì cái đời sống Sanh nó bao vây mình nhiều quá mà mình không đoạn được cái gì hết, thì tức là mình không giải thoát rồi. Thì đó là mình bị Vô minh mà mình nghĩ rằng: “Tôi sẽ nói cái này là hết tham, sân, si, tôi sẽ tu Chỉ, tu Quán sẽ hết”. Nhưng mà thật sự ra mình bị cái vòng bao quanh của Vô minh. Tức là "Sanh y" nó bao vây mình lại. Mình nói là một lẽ, nhưng mà sự thật ra đời sống của mình chứng tỏ là mình không có giải thoát. Còn ông Phật vô thì giải thoát hoàn toàn, cắt đứt, ba y một bát, sống không nhà cửa, không gia đình, lấy gốc cây làm giường nằm. Đó là đoạn dứt Sanh y tất cả hết rồi. Nghĩa là vợ con, tất cả các cái đều là xa lìa hết, không còn gì nữa hết. Nghĩa là sống không nhà cửa và không gia đình, không có gia đình, không có vợ con thăm viếng. Thì như vậy thì rõ ràng là Sanh y mới đoạn dứt. Mà Sanh y đoạn dứt thì ưu bi mới hết, sầu khổ mới hết. Phải không?
(01:02:51) Do đó mà trở lại, đó là mình từ Sanh cho đến Ưu bi sầu khổ, bệnh chết. Thì Mình trở xuống, mình trở theo cái chiều xuôi của nó thì mình sẽ thấy hết ngay liền tức khắc, hết khổ ngay liền. Rồi bắt đầu mà trở lên thì nó là Minh, nó trở lên Minh nó phá Vô minh nó trở thành Minh. Nghĩa là từ Sanh rồi Hữu, rồi Thủ này kia trở lại Vô minh, thì nó sẽ phá sạch cái này hết. Hễ cái duyên Sanh mà đoạn rồi thì nó phá cho tới khi Vô minh.
Bởi vì cái đời sống của mình là cái đời sống giới luật rồi, phải không? Ba y một bát, phá được Sanh y là đời sống giới luật. Mà đời sống giới luật là Trí tuệ ngay đó rồi, Minh rồi đó, tức là nó phá Vô minh rồi. Nó đi một loạt, nó đi trở lại về cái chiều mà "Vô minh sanh Hành, Hành sanh Thức". Nó đi cái chiều ngược trở lại nó phá sạch hết. Mà đi chiều xuôi của nó xuống thì ưu bi sầu khổ hết. Thì vô cửa này là dễ nhất.
Vì vậy mà Thầy nói ai mà sống đúng như Phật là người đó giải thoát rồi đó, Thầy nói người đó sẽ sớm muộn cũng giải thoát. Còn sống mà như tất cả quý sư, quý thầy ở đây Thầy nói thôi! Ít bữa chạy về trên kia, ít bữa chạy kiếm cái bát kia, thì rồi rồi! Ở đây Thầy cho cái bát sành thì cứ ôm cái bát sành ăn, chừng nào mà có đi khất thực ôm bát thì Thầy cho cái bát khác, khỏi cần lo nữa. Không có cái túi bát thì Thầy sẽ sắm cho, khi mà khất thực Thầy sẽ sắm cho. Mà khởi tâm xin trước là ông Thầy nói Thôi! Ông này tu hết nổi. Dù một vật nhỏ thôi nhưng mà nó sẽ tích lũy cả một cái trời tham lam của nó ở trong đó. Cả một trời tham đó chứ không có ít đâu. Tham ở đây là tham lớn lắm, tham làm Phật đó, chứ không phải tham giải thoát, mà tham làm Phật.
Đó! Cho nên tu là Thầy nói thật sự, đối với Thầy, Thầy nói thiệt sự bây giờ là Thầy đang lo một cái vấn đề lớn là vì Thầy cố gắng là chỉnh lại cái bộ sách Đường Về Xứ Phật cho nó hoàn chỉnh từ cuốn 1 cho đến cuốn 10. Rồi Thầy lo cái bộ sách Đạo Đức. Rồi từ đó, khi mà Thầy soạn thảo cái giáo trình mà tu tập, thì tức là Thầy mà có duyên Thầy ra Phước Hải, Thầy sẽ khép chặt quý sư vào Thầy dạy từng bước một, rồi từ đó Thầy mới soạn thảo cái giáo trình này. Nghĩa là bắt đầu tu cái gì Thầy sẽ dạy tu rồi Thầy viết ra, rồi tới đó Thầy viết ra, viết ra. Sau này để lại cái bộ sách là cái giáo trình tu tập của Tu sĩ. Nghĩa là giới luật nghiêm chỉnh hẳn hòi đàng hoàng. Vô có nghĩa là cho cái gì rồi mà người nào khởi tham là Thầy đuổi đi đó. Muốn tu giải thoát hay là muốn làm ông Phật nhiều của? Nếu nhiều của thì đi theo Đại thừa đi mới nhiều của nhiều cải, chứ ở đây thì không có cái gì hết. Ở đây hễ bây giờ có đủ sống là thôi, chừng nào mà có cái duyên mà đi đâu thì Thầy sắm cho, chứ còn mà đòi hỏi thì không có được. Đó là tham!
(01:05:45) Sư Phước Nhẫn: Cái tác ý, mình có cấm nó phóng dật được không Thầy?
Trưởng lão: Được!
Sư Phước Nhẫn: Vì thường thường con hay tác ý "thanh thản, an lạc, vô sự" để nó đừng có phóng dật nhiều. Suốt ngày thì con hay biểu cái tâm đừng có phóng dật. Mà hễ mỗi lần phóng dật thì thường tác ý, mà không phóng dật thì không tác ý. Nhưng mà trong sách Thầy có nói là: "Tác ý từng giờ, từng phút, từng giây". Thì như vậy nó tác ý liên tục hay sao Thầy? Con không hiểu cái ý đó?
Trưởng lão: Nghĩa là Thầy muốn nói như thế này. Nghĩa là từng giờ, từng phút, từng giây, không có nghĩa là liên tục. Mà từng giờ, từng phút, từng giây phải nhớ thỉnh thoảng tác ý nó một lần, chứ đừng có quên. Nhiều khi mình quên, một ngày mình chưa tác ý lần nào hết thì không có được.
Sư Phước Nhẫn: Vậy là con hiểu lầm. Hôm bữa cô Kim có hỏi con cổ nói vậy là cứ giây nào cũng tác ý hết hay sao?
Trưởng lão: Giây nào cũng tác ý hết thì thành cái niệm thì sao. Bởi vậy phải nhớ là cái ý mà Thầy nói như vậy có nghĩa là đừng có quên thôi. Cái ngôn ngữ đó để diễn tả cho cái sự đừng có quên nó. Nghĩa là bây giờ mình tác ý thường thường nó phải có khoảng thời gian là 5 hơi thở hay là 10 hơi thở tác ý một lần, chứ không có được mà tác ý liên tục.
Sư Phước Nhẫn: Tác ý liên tục thành niệm.
Trưởng lão: Thành niệm rồi! Tức là mình thành đọc cái câu đó rồi, nó không có hiệu quả đâu. Cho nên ít ra thì nó cũng khoảng từ 5 hơi thở hay 10 hơi thở. Hay hoặc là 10 bước hay 20 bước mới tác ý một lần, thì đó là Thầy đã dạy rồi. Bây giờ đừng quên tức là: “từng giây, từng phút tác ý, tức là đừng có quên nó". Ý có nghĩa là nói như vậy.
(01:07:09) Sư Phước Nhẫn: Cái vấn đề Phóng dật, thì hồi nào giờ con cũng ráng giữ cái tâm đừng có phóng dật. Vì nó phóng dật nó sanh ra đủ chuyện hết trơn.
Trưởng lão: Đúng vậy đó con!
Sư Phước Nhẫn: Mà giờ muốn không phóng dật thì thường thường con tác ý. Với lại bữa hổm Thầy nói phòng hộ sáu căn thì lên đây Thầy dạy, con cũng muốn học cái kỹ thuật phòng hộ sáu căn. Vì thường thường hồi nào tới giờ người ta dạy tu lục căn, thì người ta nói chứ không có kỹ thuật dạy. Cái phòng hộ sáu căn thì cũng chỉ nói thôi chứ còn không có kỹ thuật thì làm sao mà phòng hộ sáu căn được.
Trưởng lão: À! Phòng hộ sáu căn thì bây giờ ở đây là Thầy tóm tắt lại, chứ còn nó là cái bài pháp của người ta. Cho nên đức Phật nói mình tu ngũ căn là mắt, tai, mũi, miệng, thân của mình. Mình phải tu nó. Nhất là mắt và cái lỗ tai của mình. Thì cái pháp mà đệ nhất để phòng hộ nó là cái pháp độc cư. Mình không có tiếp duyên thì tức là mình độc cư, mình không có tiếp duyên ra ngoài, không có nói chuyện với ai đó là mình phòng hộ nó dữ lắm. Nhưng nó rất khó! Cái pháp độc cư rất khó! Bởi vì nó tạo cho mình cô đơn lắm. Do đó cái ý căn của mình nó sẽ hoạt động, nó tuôn trào ra. Rồi cái si của mình nó kế tiếp đó nó làm cho mình buồn ngủ, nó tuôn trào, cho nên nó khó! Vì phòng hộ bằng độc cư thì nó khó hai cái phần đó.
Cho nên do đó chúng ta phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình bằng cách khi đi ra thì mình phải giữ mắt mình đừng có tập ngó qua, ngó lại. Vì mỗi cái hình ảnh nó sẽ đập vào mắt mình là nó dính vô liền. Cho nên mình tập cái hạnh của mình đi thì thường mình ngó xuống.
Nhưng tai của mình nó không dễ! nó không dễ! Cho nên đầu tiên thì mình tập mắt của mình trước, chứ chưa dám tập tai đâu. Tai thì làm sao mình đóng lại, vì con mắt thì còn ngó xuống được, không có cho nó ngó qua, ngó lại được, nhưng mà tai không có được đâu. Cho nên bây giờ Thầy dạy, nghĩa là cách thức mà chúng ta tu mắt, tai được, tức là tất cả những cái căn khác chúng ta sẽ dễ dàng. Bởi vì nó khó là mắt với tai. Cho nên khi đi thì chúng ta ngó xuống, nhưng mà ngó xuống chưa hẳn đã là chúng ta nhìn xuống đâu.
Sư Phước Nhẫn: Cái tâm nó còn nhìn xung quanh?
Trưởng lão: Nó nhìn xung quanh! Cho nên mình vừa đi và vừa dùng pháp hướng: "Hai con mắt phải nhìn xuống. Các pháp trần là ác pháp, nó sẽ làm khổ mình và con đường tu sẽ không bao giờ giải thoát". Cứ nhắc như vậy, luôn luôn nhắc, thỉnh thoảng cứ 5 bước, 10 bước nhắc một lần thì nó phòng hộ được con mắt. Chứ không nhắc là Thầy nói đi mà cứ ngó xuống như vầy chứ nó sẽ ngó qua, ngó lại. Cái tâm nó ngó, con mắt nó không chịu ngó chứ cái tâm nó ngó. Mà hễ có cái gì cái nó lén nó liếc nữa chứ không phải dễ đâu
Đó! Cho nên mình phải phòng hộ nó. Ví dụ mình ngồi trên xe thì mình ngó xuống, trong tâm mình luôn nhắc nó, tức là luôn luôn phải dùng tác ý nhắc nó để giữ chân nó, để đừng có cho nó ngó ra ngoài, tức là phòng hộ mắt. Đã hiểu phòng hộ mắt chưa?
Đó! Bây giờ phòng hộ mắt được rồi, cái tai mới dùng cái pháp đó mới là lôi nó vô mới được, chứ còn con mắt mà chưa phòng hộ thì cái tai. Con mắt hễ ngó qua vầy đó thì cái tai nó theo đó mà nó nghe.
(01:10:33) Cho nên khi mà con mắt nó đã thuần rồi bắt đầu mới tu tập tới Nhĩ căn, cái căn tai của mình. Cho nên vì vậy khi mà con mắt nó đã quen thì nó luôn luôn nó ngó xuống. Và đồng thời nó không có láo liên, nó lén nó liếc qua, liếc lại. Cái tâm nó không có lôi nó theo cái con mắt nữa. Mình thấy đã thuần, nó đã quen thì bắt đầu bây giờ mới tu tới căn tai, chứ không phải là tu một lượt hai ba thứ nổi đâu. Nó khó lắm chứ không phải dễ đâu!
Bây giờ tu căn tai là khi mình ngồi, hay hoặc là đi ra đường mình tiếp duyên với mọi người, thì mình nhắc: “Cái tai phải nghe cái hơi thở, phải biết cái hơi thở”. Cứ nhắc bảo mày phải nghe cái hơi thở. Thì nó nghe hơi thở ra vô thì nó không có lưu ý ở bên ngoài, nó không nghe bên ngoài. Chứ không nó không nghe hơi thở là nó lưu ý. Phải bắt nó, cột nó lại trong câu tác ý. Cứ nhắc, thường thường nhắc chứ hễ không là nó nghe ra ngoài. Hễ mình chừng bỏ xảy nó một chút cái là nó giảo tai nó nghe ở ngoài, ai nói gì nó cũng nghe hết.
Cho nên ví dụ bây giờ mình ngồi trong thất mà mình giữ tu tập cái căn tai của mình. Mình nhắc: “Cái tai mày phải nghe cái hơi thở, nghe coi hơi thở nó thở như thế nào". Thì đó mình luôn luôn mình lắng để nghe hơi thở của mình. Nó hơn là cả cái ý của mình nữa, nó bắt cái ý của mình tập trung cao lắm.
Đó! Bây giờ ví dụ như: “Bây giờ tao thở chậm thử coi mày nghe được không”. Cái bắt đầu mình thở chậm, chậm, chậm. Mình lắng nghe cái hơi thở chậm, thì lúc bây giờ mình tập dần để mà nghe cái vô trong. Đó! Thì đó là cách thức mà phòng hộ tai của mình.
Thì bắt đầu từ cái tai, con mắt mình tu tập được rồi, thì cái thân của mình: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, tất cả mọi cái này dễ! Con nhắc cái là nó quay vô hết. Gọi là Thầy nói gom sáu căn, tức là bắt đầu bây giờ mình đi đâu đó mình nhắc: "Sáu căn phải gom lại cái hơi thở. Lỗ tai thì nghe hơi thở, con mắt thì nhìn chóp mũi, cái mũi thì ngửi cái hơi thở, cái lưỡi thì phải nếm cái mùi vị của hơi thở". Bắt nó gom vô hết hơi thở. Mà khi sáu cái này nó gom vào hơi thở là phòng hộ.
(01:12:50) Sư Phước Nhẫn: Như vậy làm sao mình đi được Thầy? Mình đi đụng thì sao?
Trưởng lão: Không! Cái đó là ngồi chứ không có đi được.
Sư Phước Nhẫn: Tại đi thì mình gom vô cái là mình đụng rồi.
Trưởng lão: Bởi vậy cái này là không có đi được! Mình đi là mình chỉ gom…
Bởi vì mình đi là cái thân mình nó động thân hành rồi. Thân hành thì mình không có phòng hộ nó được, cái thân căn của mình được. Bởi vì thân căn thì chỉ có ngồi mới phòng hộ nó, nó mới gom thôi, chứ mình đi là nó động. Do đó vì vậy cho nên khi mà mình ngồi thì mình gom sáu cái căn của mình lại. Còn tu tập đó là phòng hộ trong khi ngồi. Còn khi mình đi thì mình phòng hộ mắt với tai được hết. Nhưng mà phải tu tập mắt trước để cho mắt nó quen, chứ mình phòng hộ luôn cả một lược tai, mắt thì không nổi.
Sư Phước Nhẫn: Cái mục đích của phòng hộ sáu căn để làm gì Thầy?
Trưởng lão: Phòng hộ sáu căn để cho tâm không phóng dật. Chính không phóng dật là nhờ mình phòng hộ sáu căn. Nghĩa là mình chuyên tu nó là nó sẽ không phóng dật.
Sư Phước Nhẫn: Mấy cái pháp môn gom gom này là vòng vòng cũng là…
Trưởng lão: Tu ở trong sáu căn đó.
Sư Phước Nhẫn: Không phóng dật luôn?
Trưởng lão: Không phóng dật! Nó giúp cho tâm không phóng dật là chính chỗ đó. Bởi vì mình gom nó vô, không nghe không thấy là hết phóng dật rồi. Đó! Mục đích nó đi vào cái chỗ không phóng dật. Cho nên ông Phật ổng nói: "Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật".
Mà không phóng dật nó chỉ mới chỉ có giai đoạn đầu thôi. Bước qua Thiền định nó mới chỉ giai đoạn đầu của giới luật thôi. Nó không phóng dật là nó không phạm giới rồi đó, nó mới có giai đoạn đầu của giới thôi. Nhưng mà bước qua Thiền định thì nó mới khởi sự, nó mới phóng hào quang đó. Bây giờ nó mới là Tưởng đó, nó phóng ra.
Đó! Bắt đầu bây giờ mới dẹp cho sạch hết cái tưởng, gọi là: "Ly hỷ trú xả nhập Tam thiền". Bắt đầu tới cái giai đoạn Tam thiền. Nó phải ly hết tất cả hào quang, ánh sáng, tất cả những cái loại thần thông tưởng, ly sạch ra hết rồi mới nhập Tứ thiền. Nó có từng giai đoạn mà. Tới đây mấy con thấy đặc biệt vi diệu lắm.
(01:14:47) Thầy nói, Thầy dạy đến mà nhập Định thì các con mới thấy nó. Thầy nói tất cả những cái thần thông cho mà xem. Mà tới đó rồi mấy con có thấy hào quang rồi mấy con mới tin Thầy, chứ còn bây giờ Thầy nói thì mấy con nói: "Chắc là tưởng thôi, ông Thầy này tưởng nhiều quá!" Phải không?
Nhưng mà tới chừng đó rồi các con sẽ thấy nó thực hiện được Thiên nhãn, nó thực hiện được Nhĩ thông, nó thực hiện được Tha tâm thông. Đó! Chừng đó rồi Thầy mới dạy các con để xả ly cái tụi này để mà nhập Định, chứ đâu phải được cái đó là quý báu gì đâu! Thứ đồ ma đó mà! Nhưng mà ngoài đời mà tu được Tha tâm thông là kể như là ngon rồi, ông Thầy này ngon rồi, biết bụng dạ người ta hết rồi thì ngon rồi.
Đó! Vì vậy sau khi mà Thầy dạy tới nhập Định rồi thì các con mới thấy "Tại sao mà Thầy không thực hiện thần thông". Chứ bây giờ thì các con nói: "Sao Thầy kỳ quá! Lẽ ra mình phải hàng phục người ta chứ, làm cho người ta sợ". Nhưng mà tới đó rồi mấy con mới hiểu được cái chỗ này.
Nghĩa là khi nào mà đọc đến cái cuốn Thiền Căn Bản 2, thì các con bước qua cái giai đoạn mà nhập Định, thì Thầy mới dạy tất cả những cái điều mà các con sẽ bước chân vào Định thì các con sẽ gặp những cái này. Bởi vì Thầy đọc theo cái Thiền Định Tướng của bên Nguyên thủy mà của các sư bên đó dạy, Thầy nói: "Kiểu mấy ông này tưởng ra chứ không có, nó không phải là cái kiểu đó đâu". Bởi vậy tu không đúng rồi nói tầm bậy tầm bạ.
Thầy dám nói, Thầy xác định mà! Bởi vì Thầy biết rõ mà! Cho nên bây giờ ai mà nói nhập Định bậy là Thầy biết liền. Ông đó tu sai, tu đúng là Thầy biết liền. Thành ra Thầy nói thật sự Thầy sẽ dẫn dắt mấy con đi đến nơi đến chốn, đến Tam Minh cho mấy con biết. Thầy hứa mà!
Đến chừng đó các con sẽ thấy rằng Thầy không có thực hiện thần thông chút nào hết, nhưng mà các con biết là Thầy có hay không là sẽ biết. Bởi vì Thầy dẫn các con, các con sẽ biết rõ nó. Chừng đó các con đã biết cái đó rồi, thì coi như là Thầy phải biết thì Thầy mới dẫn, chứ còn nếu mà không biết thì làm sao dẫn mấy con?
(01:16:48) Vì vậy mà cho nên các con cứ theo cái lời Thầy dạy. Thầy tùy theo căn cơ của mấy con mà Thầy hướng dẫn. Cũng như sư Phước Nhẫn hôm đó xin Thầy đi. Thầy thấy đó là cái đúng chứ không phải cái sai nên Thầy chấp nhận chứ sao. Bởi vì Thầy biết cái nghiệp nó như vậy rồi, hao thời gian mà uống thuốc này kia. Thầy biết sư Phước Nhẫn cũng cố gắng tu lắm, chứ không phải không, nhưng mà nó chưa đủ duyên.
Lúc bây giờ nó chưa chưa đủ duyên là cái thứ nhất. Nếu mà không có sư Phước Từ, hai người nói chuyện, không có con mà nói chuyện thì sư Phước Nhẫn chịu không nỗi đâu. Và các con cũng chịu không thấu đâu. Bởi vì con biết ở đây mà Thầy khép chặt, quý thầy những cái khoá trước mà Thầy khép chặt độc cư, 3 năm mà Thầy tuyên bố nhập thất mà Thầy hướng dẫn cho Mật Hạnh. Mấy ông đó Thầy cho vô chừng một tuần lễ là mấy ổng xin Thầy đi, rút lui đi, chịu không nỗi!
Nghĩa là Thầy khép. Nghĩa là 3 năm Thầy bảo là phải theo Thầy 3 năm Thầy sẽ dẫn tới nơi tới chốn. Mấy ổng thì cũng có ông thì cũng phát nguyện là nguyện nát xương con mới rời khỏi cái thất, nhưng mà vô được chừng một tuần lễ là… Thầy Chơn Tịnh hồi đó là cũng phát nguyện, nhưng mà vô một tuần lễ là thầy hoảng sợ rồi, chứ không phải đâu! Rồi từ đó là coi như là thầy bẻ ngang, thầy lén lút thầy nói chuyện tùm lum thế này, thế kia, không còn tu nỗi nữa.
Thành ra Thầy để cho mấy con tự do một chút xíu, chứ còn mà Thầy mà chặt quá thì mấy con chết. Tuần tự mình tu chứ đừng ức chế quá. Chính bây giờ mà Thầy mới rút tỉa từng những kinh nghiệm mà Thầy khép chặt Mật Hạnh mà Thầy mới biết được những cái này rất rõ, cái kinh nghiệm Thầy mới biết rất rõ, chứ không phải! Cái thọ nó đánh kinh lắm mấy con, sợ lắm!
(01:18:33) Sư Phước Nhẫn: Lúc con mới vô con cũng nói với Thầy con không sợ cái thọ, con chỉ sợ cái tưởng à. Nhưng mà bây giờ cái thọ thấy ghê quá!
Trưởng lão: Ông nào cũng bị hết! Thầy nói chính Minh Tông hồi trước nó tu tập Tịnh độ, rồi mới sang qua Mật tông. Tu tập đến Mật tông có thần thông đó. Nghĩa là nó đem một cái dĩa như thế này mà nó niệm thần chú là cái dĩa nó xoay tròn, nó chạy tròn tròn, vòng vòng vầy nè. Cái dĩa để trên bàn tay rồi đọc thần chú, bắt đầu cái dĩa nó nhúc nhích, nhúc nhích như vầy. Là mình thấy cũng linh rồi chứ gì? Thế mà nó tịnh tâm một hơi thì bắt đầu cái dĩa nó xoay, nó xoay rồi bắt đầu nó xoay lẹ lên. Làm cho người ta cũng sợ đó chứ đâu có phải giỡn chơi đâu. Cái dĩa để ở trên tay, có làm gì, mà có ai cục cựa đâu, mà sao ma quỷ gì bắt nó mà nó lại xoay dữ vậy. Đó là những cái thần thông, mà những loại thần thông kêu là lừa đảo, kiểu làm cho người ta sợ đặng cho mình lấy tiền cho dễ chứ không có gì hết.
Cho nên vì vậy sau khi mà Thầy bảo: "Phải độc cư một trăm phần trăm, đừng có tiếp duyên. Mà con tiếp duyên thì con sẽ bị những cái thọ nó sẽ quật ngược con chết được". Nó không nghe lời Thầy mà nó phải ói máu ra đó. Nó khạc ra máu đống đống đó con. Nó sợ mà nó chạy lại thất của Thầy. Cái thất của Thầy hồi đó Thầy đang ngủ ở đó. Nó chạy lại nó gõ cửa Thầy, nó nói: “Bạch Thầy! Bạch Thầy! Xin Thầy ra Thầy xem coi con sao mà nó kỳ vậy!”.
Thì Thầy mới đi theo nó lại thất, nó khạc ra máu ở vòng vòng đó. Rồi Thầy hỏi: "Con tu như thế nào mà con như vậy?"
Đó, thì nó nói: "Con ráng tịnh chỉ hơi thở để con nhập Tứ thiền cho được".
Thầy nói: “Con không nghe lời Thầy! Khi nào tịnh chỉ hơi thở là khi đó là mình hoàn toàn là mình phải ly tất cả các loại của tưởng. Mà con cứ nghĩ tưởng thần thông là con tu được rồi. Con cãi Thầy!".
Cho nên tại sao mà trước kia con nói với Thầy: "Theo con thì con đã thực hiện thần thông để mà con hàng phục các thầy của Đại thừa. Còn tại sao mà Thầy lại như vậy? Thì bây giờ con đã hiểu rồi!"
(01:20:56) Tại vì cái thần thông nó nguy hiểm! Đừng có tham nó, mà mình chỉ lo mình ly dục, ly ác pháp, ly hết thì tâm thanh tịnh thì cái thần thông nó sẽ có.
Sư Phước Nhẫn: Tự nhiên nó có hả Thầy?
Trưởng lão: Tự nhiên nó có! Bởi vì tâm thanh tịnh nó có. Bởi vì khi mà tâm thanh tịnh rồi mình bước vào mình nhập Nhị thiền, thì bắt đầu nó phóng hào quang, nó phóng ra những cái thiên nhãn, thiên nhĩ, nghĩa là Ngũ thông nó hoàn toàn nó đầy đủ cho mình hết rồi. Trong cái giai đoạn mà bắt đầu từ cái Nhị thiền mình bước sang cái Tam thiền là ngũ thông nó đủ hết. Ngoại đạo nó ở chỗ này, nó bị cái chỗ này mà nó Ngũ thông hết. Mà tu tới đó thì kể như là nó xem nó ngon hết rồi.
Sư Phước Nhẫn: Vậy là không tu nữa hả Thầy?
Trưởng lão: Nó không tu nữa! Mà nó cũng không biết đường tới nữa. Bởi vì nó bị dính ở đó rồi, nó không có xả ra được, nó bị dính cái đó. Cho nên ở đây Thầy biết rõ con đường này nên Thầy không có để cho mấy con rơi chỗ này được. Mấy con sẽ tu vững vàng hơn. Nghĩa tới rốt ráo hoàn toàn mà không bị dính gì cả hết. Cho nên Thầy không gợi ý cho mấy con tham thần thông đâu.
Ví dụ như bây giờ Thầy ngồi thiền Thầy phóng hào quang, đêm đó Thầy phóng hào quang thì sáng ra mấy con… Mặc dù mấy con nói ở ngoài mặt là mấy con không ham, nhưng mà tự nó huân ở trong đó đó, muốn mình tu cũng được như vậy. Mà hễ muốn như vậy thì các con không ly dục, ly ác pháp được. Đó là cái mục đích mà Thầy muốn dẫn các con đi vào con đường chánh cho nên Thầy không thực hiện thần thông, chứ không phải gì hết! Chứ Thầy thực hiện thần thông cái gì rồi thì mấy con cũng dính cái đó hết. Bởi vì cái đó nó đặc biệt quá, nó làm cho người ta say mê mà từ ngàn đời cho tới bây giờ chứ đâu có phải. Từ xưa đến giờ chứ không phải là mới đây đâu.
Người nào bây giờ Thầy nói thật sự ra người ta đến là người ta cũng ham thần thông hết. Mà Thầy mà thực hiện thần thông một cái là kể như là họ coi Thầy là ông Phật rồi. Và đồng thời từ đó họ theo Thầy dù cực khổ cách gì họ cũng mục đích nhắm vào chỗ đó chứ không phải là nhắm chỗ ly dục, ly ác pháp. Nó sai rồi! Thầy hướng dẫn cái mục đích sai rồi thì tức là sẽ giết người ta, chứ không còn tu. Họ cũng tu có Ngũ thông thôi, chứ không có Lục thông được đâu, nghĩa là Lậu tận thông không có đâu. Bởi vì Lậu tận thông là phải có Lậu tận minh thì nó mới có Lậu tận thông. Còn Lậu tận minh không có thì không có Lậu tận thông. Mà họ có Ngũ thông thì họ không có Tam Minh được. Họ không có thực hiện được Tam Minh.
(01:23:02) Sư Phước Nhẫn: Mấy cái chỗ này con cũng có một cái ý nghĩ như vầy. Tại vì mấy ông Lạt Ma ổng cũng thị hiện ra đó. Ở bên Thiên chúa, bên Âu Châu nó nói là không có luân hồi. Chết rồi chỉ có hai đường, một là xuống địa ngục, hai là về thiên đàng, vì họ theo Chúa quen rồi. Nên khi không mình Phật giáo mình qua mình nói có luân hồi thì họ đâu có tin. Mà cái xã hội bây giờ là phải làm, nói mà làm họ mới tin. Cho nên mấy ổng thị hiện ra để luân hồi tiếp theo là ở chỗ đó, chỗ đó để cho họ thấy biết vậy thì họ mới tin. Chứ còn mình nói mà mình không có làm thì nó không có tin. Thành ra bây giờ đối với cái chấn hưng Phật giáo thì con nghĩ là cái thần thông nó là ảo, nó là huyễn, nó không phải là mục đích. Nhưng mà đa số bây giờ trong các kinh Nguyên thủy cũng đề cập đến cái vấn đề thần thông mà đức Phật đã thị hiện, cũng như trong cuốn sách lịch sử đức Phật Cồ Đàm Gotama cũng nói. Toàn bộ cuốn sách là thị hiện thần thông không, mà đức Phật thị hiện nữa.
Đó! Mà cái đó con đọc con cũng thấy nó cũng có một hai chỗ chế ra chứ không phải là chuyện thật sự như vậy.
Trưởng lão: Đúng rồi!
Sư Phước Nhẫn: Nhưng mà có một cái. Thí dụ như bây giờ mình nói mà mình không có làm thì người ta nói mình không có thiệt. Đó, nó có một cái như vậy! Bởi vì cái xã hội bây giờ là cái xã hội không phải như ngày xưa của thời đức Phật. Xã hội đức Phật hồi xưa khác, xã hội bây giờ khác. Thành ra con nghĩ Thầy muốn chấn hưng thì Thầy cũng nên có một cái gì đó nó mới đánh thức người ta được. Còn không thì nó sẽ bị chìm.
Trưởng lão: Bởi vậy các con thấy nè, khi mà các sư Lạt Ma qua bên đó để chứng minh sự luân hồi. Nhưng mà sự thật ra thì các con thấy rằng các ông Lạt Ma này lại dẫn dắt người ra đi lầm đường. Người ta tin rằng có sự luân hồi theo kiểu ông Lạt Ma chứ gì, nhưng mà sự thật có phải người Âu Châu họ theo các ông Lạt Ma này không? Họ cũng vẫn bán tín, bán nghi ở trong này. Bởi vì những cái người mà tái sanh trở lại nó có những cái không có đúng, chứ không phải là toàn bộ đúng.
Đúng là như thế này nè! Thầy nói thật sự ra có sự tái sanh luân hồi, mà phải đúng. Nghĩa là thí dụ như trong năm, bốn, ba ông Lạt Ma như vậy, mà khi đến thì có ông như thế này, có ông như thế khác, có cái nói đúng, có cái nói sai. Người Tây phương họ đâu có chấp nhận cái điều này đâu. Nghĩa là cũng như một cái người mà ngoại cảm, nhà ngoại cảm mà thôi. Cho nên có khi đúng, có khi không.
Còn ở đây Thầy nói thật sự thực hiện thần thông một trăm phần trăm. Nhưng mà không thể dẫn dắt họ đi vào con đường này. Bởi vì người Tây phương họ cũng chú trọng thần thông ghê gớm lắm. Họ đưa từng cái phái đoàn của họ để đi qua nghiên cứu ở bên Ấn Độ để nghiên cứu cái gì? Nghiên cứu thần thông, người ta thấy mà! Những cái phái đoàn đó đi vào những đạo sĩ Yoga để nghiên cứu những cái cách thức tu tập của Yoga, những vị đạo sư của Yoga. Đó là đi tìm những cái thần thông của người Ấn Độ. Nhưng mà sự thật họ đã tìm, cái đó không đúng đâu.
Vì vậy mà hiện giờ Thầy thật sự ra Thầy nói: "Cái thật phải là cái thật, không thể lấy cái giả mà làm cái thật của họ để đưa họ vào cái thật họ được". Bây giờ họ đang cầu một cái giả mà mình lấy cái giả để cho dẫn dắt họ vào, thì họ cứ tập trung trong cái giả mà không có thật. Còn cái thật này nó sẽ khi mà họ nhận ra được cái thật thì cái thật nó sẽ phải hơn, còn cái giả chỉ là một cái điều lừa đảo mà thôi. Thầy sẽ dẫn dắt họ đi vào cái đúng, không thể dẫn dắt họ đi vào cái sai. Người ta đừng lấy cái giả mà sẽ sau này để đưa người ta đi vào cái thật, không có đâu! Huyền biến không có đâu!
Cho nên Thầy nói muôn đời cho dù người ta lấy cái mê tín để mà dẫn dắt họ đi vào cái chánh tín chứ gì, nhưng mà người ta làm sai! Thầy đã thấy rõ! Không bao giờ mà người ta đã cúng bái mà người ta bỏ cái này được. Cho nên bây giờ nếu mà Thầy dẫn dắt họ đi vào thần thông rồi, thì không bao giờ bảo họ bỏ thần thông được.
Thầy bắt đầu Thầy dẫn dắt họ đi vào đạo đức và cái đạo đức sẽ thấy cái lợi ích thiết thực cho họ. Chừng đó họ sẽ ly dục, ly ác pháp, và khi họ có thần thông họ thấy như không có.
(01:26:54) Sư Phước Nhẫn: Nhưng cái phát triển, cái mức độ phát triển nó không có. Con hiểu như vậy.
Trưởng lão: Cái của con nói phát triển, nó phát triển nhanh, chứ không phải không có phát triển.
Cái của Thầy phát triển chậm nhưng mà chắc ăn và đem người ta vào Chánh pháp. Còn cái kia phát triển ồ ạt, người ta thấy thần thông là ồ ạt rồi. Mà ồ ạt tức là nó sẽ có những cái coi như là những cái lúa lép. Người ta ham mê đó chứ người ta đạt thần thông không được bao nhiêu người? Cũng như bây giờ các ông Lạt Ma làm như vậy, thì bao nhiêu người làm được như các ông Lạt Ma? Có không? Thầy nói mấy ông đó chỉ một, hai, năm, mười ông thôi, nhưng mà bây giờ người Tây phương thì có người nào mà tái sanh luân hồi như vậy không? Không có! Nên nó là cái ảo giác mà.
Sư Phước Nhẫn: Người ta tin cái thuyết đó nó có Thầy. Chứ lúc trước người ta không có tin.
Trưởng lão: Thì bây giờ thật sự… họ sẽ không tin.
Ví dụ như bây giờ Hòa thượng Thanh Từ dạy người ta tu Thiền định, thì lý thuyết thì rất hay đó, nhưng mà cuối cùng hai ba chục năm sau người ta thấy không có được cái gì hết, thì người ta phải bỏ thôi. Còn mình bây giờ mình thực hiện ra, mình cũng thấy người ta cũng tin: "Ờ! có luân hồi". Phải không? Nhưng mà cuối cùng người ta không làm được thì người ta cũng vẫn không tin!
Bởi vậy Thầy nói cái chuyện mà thần thông không phải là chuyện dễ làm cho mọi người. Còn cái chuyện đạo đức là cái chuyện lợi ích chung cho mọi người thì cái này phải đem thực hiện cho người ta thì nó lợi ích. Và đồng thời trong cái điều mà đạo đức này nó còn cái chiều sâu của nó. Nhưng mà chiều sâu này để thực hiện cho một hai người mà thôi, chứ không thể hết nổi đâu. Không thể người nào mà cũng Tam Minh được hết đâu.
Sư Phước Nhẫn: Ngay thời đức Phật người ta còn làm không được nữa, huống chi bây giờ.
Trưởng lão: Bởi vậy Thầy đã biết rõ được cái này mà! Nếu một người mà không phải là một người gan dạ như Thầy thì không bao giờ đạt được. Thầy nói thật sự! Bởi vậy trong băng Thầy giảng, Thầy nói: "Cái nhà thiếc như thế này mà Thầy ngồi sừng sững, mà bom đạn bắn ào ào"
Không biết là mấy con biết cái trực thăng kêu là nó bắn rocket, nó bắn ào một cái, nhà cửa người ta cháy sạch hết, mà Thầy ngồi sừng sững đó. Gan dạ như vậy, coi như là mình đồng da sắt. Không có người nào nghe bắn như vậy là kể như người ta bò càn hết đó, xuống hầm đó, chứ còn chưa chắc dám nằm ở trên đất đâu. Mà Thầy vẫn ngồi thiền sừng sững, tập trung ôm chặt hơi thở, không có rời một bước ở trong hơi thở, chết là chết ở trên bồ đoàn, chứ không chết dưới bồ đoàn đâu, nhất định là không sợ hãi. Thì đủ biết rằng!
Thầy nói vậy chứ cái người nào mà có trực tiếp ở trong cái chiến trận như vậy mới thấy sự gan dạ của Thầy. Chứ còn mà lơ mơ Thầy nói người nào cũng đái trong quần chứ đừng nói chuyện, chạy chết đi chứ đừng nói chuyện. Nghĩa là mẹ Thầy với cô Út là phải tản cư. Nghĩa là tất cả cái xóm đó khi mà giải phóng cách mạng nó vô nó đào hầm rồi, để nó kích, hôm sau là mặt trận mở màn ở đó đó. Mà Thầy đã nói là: "Mình đã lỡ mình đã phát nguyện nhập thất, chừng nào tu chứng mới ra thôi, chứ không nhất định là không ra. Thì thà chết thôi chứ sao lại bây giờ sợ chết mà đi ra". Cho nên mẹ Thầy với cô Út khóc dữ lắm: “Không có chết đâu mà sợ. Mẹ với cô Út cứ đi đi, Mẹ với cô Út không có chịu nổi đâu, chỉ có con à. Yên tâm đi, không có sao đâu!”. Thì cô Út với mẹ Thầy mới chạy. Nghĩa là quải trên vai một cái gánh đồ ăn đồ này kia theo thôi, còn bao nhiêu của cải, tài sản mà ở trong nhà thì để lại đó. Còn Thầy ngồi trong thất Thầy, rồi bắt đầu Thầy nỗ lực tu.
Thầy nhắc như vậy mấy con sẽ biết rằng, trong cái cảnh như vậy đó mà Thầy là người gan dạ như vậy mới có đạt được. Chứ còn nếu mà cái người nhát gan thì không có đạt được đâu. Thầy ở trên Hòn Sơn, cheo leo ở trên đỉnh một mình mà Thầy không sợ, Thầy gan dạ kinh khủng lắm. Người ta nói Ma Thiên Lãnh mà Thầy dám ở trên Ma Thiên Lãnh một mình. Còn Thầy Thiện Nghĩa, Thầy lên ở ba bửa là Thầy chạy rồi, Thầy không dám ở. Đêm đầu Thầy run, Thầy nói mà: “Trời ơi! Nó sợ thấy ớn luôn”. Đêm thứ hai là ráng mà nằm trùm chứ mà không dám ló cái đầu ra. Đêm thứ ba là kể như sáng hôm sau là rút dù chạy, hết dám. Trời ơi! Ổng sợ, kinh khủng lắm! Mà ổng là tu Chuẩn Đề, ổng lên đó ổng cất cái thất để mà ổng ở trên Ma Thiên Lãnh đó.
HẾT BĂNG
SƯ THANH QUANG VẤN ĐẠO - TÙY THUẬN TRONG NHÂN QUẢ GIA ĐÌNH
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Ngày giảng:
Người nghe: Sư Thanh Quang
Thời lượng: [01:29:57]
(00:00) Sư Thanh Quang: Kính bạch Thầy! Con xin Thầy từ bi chỉ dạy, để tâm con hết dần những khúc mắc, và trí con ngày một sáng được ra.
Bạch Thầy, ngoài bốn thời khóa tu tập, thì thời gian rỗi còn lại, cái nết của con xưa nay là hay nghĩ liên miên. Bây giờ thì với con, thời gian rỗi ấy thì phải xử lý với pháp nào? Và giai đoạn này thì con tác ý câu: “Tâm như cục đất, đoạn trừ hết tham, sân, si, phiền não!” thì như thế có được không?
Trưởng lão: Được, cái câu đó dùng hằng ngày thì là tốt. Nó như là cái thực phẩm mình ăn, thành ra cái câu đó luôn liên tục nhắc nhở tâm mình là tốt.
Nhưng mà trong những thời gian ngoài những cái thời mà tu tập, cái giờ mà tu hành có những giờ mình nghỉ ngơi, thì lúc bấy giờ mình để tự nhiên bình thường, nó không có gì hết. Khi nó có những cái niệm nào khởi lên, có những phóng khởi niệm, hay niệm nào khởi lên, nhưng mà cái niệm bình thường, thì cũng để bình thường thôi, không có gì hết.
Nhưng mà trong những cái phút mà không có tu, trong những giờ không tu nó có những cái niệm đó, nó khởi ra nó nghĩ cái gì thì con cứ theo đó mà nghĩ ngợi. Rồi tự nó, nó có những cái tri kiến mà mình đã tiếp nhận được sự tu tập của sự giải thoát, thì tự nó, nó sẽ lý luận với nhau, nó diệt những cái tư tưởng đời.
Tự nó trong thời gian nghỉ, chứ không phải trong thời gian nghỉ mà mình cứ ôm pháp mình tu, là sai, nó không đúng. Thời gian nghỉ là mình cho nó trở về với trạng thái bình thường. Nhưng mà tự nó, nó có sự phản ứng với nhau. Hễ cái này nó nổi lên một cái niệm, thì có một cái niệm khác nó đến - tự nó, nó diệt với nhau. Tức là mình đã thấm nhuần được Phật pháp, thì nó có những cái tri kiến giải thoát. Vì cái tri kiến giải thoát nó diệt đi cái tri kiến không giải thoát, chứ không có gì hết.
(02:03) Cho nên mình tu tập là trong những cái giờ tu tập thì ôm pháp, ôm cho chặt pháp. Cho nên, khi mà ôm chặt pháp, đúng pháp. Còn nó có những cái trạng thái gì thì mình đừng có chấp nhận, dù là thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc, bất khổ.
Thí dụ như thọ lạc, bữa nay mình tu mình thấy nó không có niệm, mình nghe nó an lạc, nó dễ dàng. Còn ngày mai mình tu, mình thấy nó khó khăn, cái giờ tu mà thấy nó khó khăn, mình lại thấy sao mình tu không có tiến bộ. Do đó nó không phải tiến hay không tiến là do cái chỗ mình ôm có chặt pháp hay không - đó là cái chỗ tu.
Còn khi xả ra, mới chiêm nghiệm lại để thử coi tự tâm mình nó có áp dụng được những cái pháp này trong những khi mà mình ngồi bình thường. Nghĩa là mình không tu, mà nó có khởi cái niệm, thì coi thử cái niệm đó nó có thể dẫn dắt mình đi vào trong một cái dục lạc, cái đau khổ của thế gian, hay hoặc là nó có cái niệm khác nữa nó đối lại cái niệm đó, nó làm cho cái niệm đó phải dừng, thì mình sẽ thấy cái sự phản ứng của nó tự nhiên. Thì lúc bấy giờ đó, mình để xem được cái tâm của mình. Cho nên khi mà con ngồi tự nhiên, cái con để lắng tâm của mình, coi tự nó áp dụng coi như thế nào, thì cái đó là cái kết quả của sự tu của con.
Còn cái mà con vô ôm pháp con tu, thí dụ như con đi kinh hành, hoặc Thân Hành Niệm, hoặc tu Tứ Niệm Xứ đều là ôm pháp tu. Mà ôm pháp tu, mình phải biết pháp mình tu, cái kết quả của nó. Còn nếu mình tu mà dậm chân tại chỗ là mình không biết kết quả, không thấy kết quả, kết quả của nó như thế nào mà kết quả?
Thí dụ như con tu chuyên ròng một pháp như pháp Thân Hành Niệm, tức là mỗi hành động thì con tác ý ở trên đó: đi, đứng, nằm, ngồi, hít thở… nó đủ những hành động đó. Nếu mà con lại chuyên những cái hành động đó, con tu như vậy, thì nó có những cái niệm nó phóng khởi ra. Mặc dù là con tu rất kỹ, nhưng mà nó phóng khởi ra. Nó phóng khởi ra thì con cứ tác ý ở trên cái thân hành của con. Con tu, thí dụ như cái sức của con tu ba mươi phút, thì con tu ba mươi phút, rồi con xả nghỉ.
Rồi để khi mà nghỉ đó, thì nó có niệm này, niệm kia nó khởi lên lung tung, thì nó lại có cái niệm khác nó đối phó với cái niệm đó. Nó phải có cái niệm khác, tự nó nó phải có cái niệm khác, để nó đối phó. Khi mà cái niệm đó nó làm cho con phải lo lắng, phiền não hay đau khổ, thì có cái niệm khác nó đến nó làm cho con an ổn.
(04:15) Nó tự trong tâm, bây giờ trong tâm con nó có “hai người” hai cái niệm. Một cái niệm đem đến sự an lạc, một cái niệm đem đến sự đau khổ. Nó có hai cái niệm, khi mà con ngồi bình thường con chơi, con đừng có tu, thì con sẽ thấy được cái tâm của con nó có “hai người”, phải không?
(04:30) Còn bây giờ con ôm vào tu mà con để coi kết quả, thì dù bất cứ một cái pháp nào, thì cái thời gian - mình phải đạt được cái thời gian - nó phải ngắn, không được dài. Thí dụ như bây giờ con ôm pháp Thân Hành Niệm, mà con muốn chắc chắn để mà con tu tập, thì con cứ liên tục ở trên cái hành động, đừng có quên, mà con quên đó là con thất niệm. Tức là như đức Phật nói, “thất niệm” tức là quên pháp đó.
Thí dụ như bây giờ con đưa cánh tay ra con bảo: “Đưa cánh tay ra! Đưa cánh tay vào! Đưa tay mặt ra! Đưa tay mặt vào!” mà luôn luôn lúc nào con cũng có sự chú ý rõ ràng như vậy, nhưng ở trong đầu con nó vẫn có niệm khởi ra. Nhưng mà con không cần cái niệm khởi ra, đó là tại vì cái hành động của con tu trên cái hành động đó, mà nó làm cho cái niệm khởi ra để nó tuôn trào.
Cũng như bây giờ trong cái ly nước này, con để thì nó lặng vậy, nhưng cặn cáu thì nó lắng ở dưới này, chứ nó chưa có sạch đâu. Bây giờ con tu là con lấy cái này con quậy, thì tức là nó phải tuôn ra chứ sao? Mà con càng quậy thì con mới lấy được những cái cặn cáu của nó mới ra sạch. Còn con để lắng dưới này, thì nó nằm ở dưới đáy chứ không có sạch đâu.
Cho nên cái pháp Pháp Thân Hành Niệm con phải hiểu cái pháp đó là “quậy đục” lên. Tức là mình tác ý cho mình động lên chứ mình không có để nó yên, mà cái tâm nó động lên thì cặn cáu này nó tuôn ra. Con càng tu Pháp Thân Hành Niệm, nó tuôn ra. Nó tuôn ra cho đến khi một lúc nào đó thì nó hết tuôn. Là nó tuôn, nó trào ra hết những cái cặn cáu của nó ra hết, thì cái nước nó sẽ trong. Cho nên nó có đủ mười cái Thần lực.
Nhưng mà khi chúng ta tu như vậy, thì cái sức của chúng ta không có đủ, cho nên chúng ta phải tu ít, rồi lần lượt chúng ta tăng dần, tăng dần lên. Thì cái thời gian mà tăng dần đến khi mà ôm pháp Thân Hành Niệm mà tu, tăng dần lên cho đến từ 12 tiếng đồng hồ, hay là 24 tiếng một ngày một đêm thì nó mới lắng sạch cái cặn cáu này, nó mới tuôn ra hết. Còn bây giờ nó trong một, hai tiếng, hay ba tiếng đồng hồ, thì nó chưa sạch.
(06:23) Nó có những cái cặn cáu to thì nó nổi trước, nó tuôn ra trước. Rồi những cái cặn cáu vi tế hơn, lần lượt nó tuôn ra. Nó tuôn ra tức là nó có cái niệm nó khởi ra, trong khi mình đang tu vậy mà vẫn thấy nó có niệm. Có lẽ là con ôm pháp con tu, con cũng vẫn thấy nó có niệm chứ không phải không, tức là nó tuôn trào đó.
Còn những cái pháp khác thì nó khác, nó không phải như pháp Thân Hành Niệm. Pháp khác, thí dụ như bây giờ Thầy nói Định Niệm Hơi Thở, an trú trong hơi thở. Tức là con an trú làm sao trong hơi thở nó không có niệm, tức là ức chế hoàn toàn, nghĩa là: “Hít vô, tôi biết tôi hít vô. Thở ra tôi biết tôi thở ra.”. Lúc bấy giờ con chỉ duy nhất biết hít vô, thở ra. Do đó thì con mới kèm theo cái tác ý, để cho nó không có xen vô được. Mà nó xen vô được, tức là con đã lui trở lại. Con đừng có ở trong cái thời gian dài quá, con sẽ không có đủ cái sức con kiềm chế nó đâu.
Vì vậy mà khi đó con dùng cái pháp nào, nó cũng có cái riêng biệt, đặc biệt của nó. Như hồi nãy Thầy nói cái pháp Thân Hành Niệm là cái pháp quậy cho nó đục lên, quậy cho cặn cáu nó trào ra.
(07:20) Còn cái pháp Định Niệm Hơi Thở, thì nó đi vào, nó an trú vào, nó ép vào, nó tránh một bên. Thí dụ như bây giờ cái thân nó đau nè, nó nương vào cái hơi thở là nó tránh cái đau, để nó đẩy lui cái đau nó ra, đó là cái pháp. Cho nên vì vậy mình phải an trú cho được, chứ mình an trú không được, thì đẩy không được. Tức là bây giờ nó đau mà mình cứ ngay chỗ đau, thì không bao giờ đẩy được, mà phải tránh nó qua cái bên đau, rồi từ đó mình mới dùng cái cách thức mình đẩy nó ra. Đó gọi là an trú ở trong cái hơi thở mà đẩy lui những cái ác pháp, cái dục của mình ra.
Đó là cái phương pháp, cái đặc biệt của nó là như vậy. Con nhận ra được cái này, thì mới biết được cái pháp nó có những cái kết quả, cái vi diệu của nó ở trong cái phương pháp đó. Chứ còn mình tu sai, thì kể như không có kết quả.
(08:04) Còn cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác, đi mà mình biết mình đi, là cái mục đích mình là phá hôn trầm, đừng có cho cái thân nó ngồi một chỗ, nó ngủ.
Chứ còn cái pháp Thân Hành Niệm nó không phải phá hôn trầm, nhưng vì nó là cái pháp quậy, cho nên nó bị động quá, nó không ngủ, chứ thật ra nó không phải phá hôn trầm đâu. Nó chỉ quậy cặn cáu lên, trong đó có hôn trầm nó quậy lên nó tuôn ra cho hết.
Còn cái pháp đi Chánh Niệm Tỉnh Giác, đi kinh hành mình biết mình đi kinh hành đó, mình đi mình biết mình đi đó, cái pháp đó mới chính nó là phá buồn ngủ, phá hôn trầm, thùy miên.
Còn cái pháp Tứ Niệm Xứ mà ngồi chơi, mà có chướng ngại, thì cái đó áp dụng ở trên Tứ Niệm Xứ để khắc phục tham ưu. Là tại vì mình có pháp Định Niệm Hơi Thở, Chánh Niệm Tỉnh Giác, Thân Hành Niệm, mình có biết những cái pháp này, bây giờ mình ngồi mình chơi mình tu Tứ Niệm Xứ, là trên bốn chỗ này nó có chướng ngại, thì khắc phục đẩy lui ra, không có cho nó chướng ngại trên đó. Tức là áp dụng vào bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp - tức là áp dụng vào cái thân tứ đại của mình để đẩy lui chướng ngại trên thân, cái đó là cái pháp Tứ Niệm Xứ.
Còn cái Định Vô Lậu, cái Định Vô Lậu là để khai triển cái tri kiến của con, cho nên nó thành một cái người thứ hai ở trong con. Con nhớ không, khi mà con quán xét, con ngồi con quán xét, tư duy cái này cái kia, để mà tư duy Nhân Quả, tư duy Thập Nhị Nhân Duyên, tư duy Ngũ Uẩn, hay là con tư duy Thân Bất Tịnh, hay là Vô Ngã. Thì những cái tư duy suy nghĩ đó, con khai triển cái tri kiến đó để làm cho cái tri kiến đó nó trở thành cái tri kiến giải thoát. Vì vậy mà cái tri kiến tầm thường- nó còn mang cái sắc thái của nó là dục và ác pháp, nó khởi muốn cái này, muốn cái kia- thì có cái tri kiến này nó nổi lên, nó đánh đuổi cái tri kiến kia. Cho nên trong người con bây giờ có “hai người”, là nhờ con tu tập Định Vô Lậu, con hiểu không?
Cho nên áp dụng Định Vô Lậu là mình tạo cho mình có một cái người đúng và một cái người sai trong đó, một cái người tà và một người chánh. Một người hiểu theo kiểu tà, một người hiểu theo kiểu chánh. Mà người hiểu theo kiểu chánh là người sống đạo đức “không làm khổ mình, khổ người”. Mà cái người hiểu theo kiểu tà là nó hiểu về cái cá nhân, nó chấp nhận nó, cái gì nó cũng phục vụ cho cái bản ngã của nó. Đó là cái kiểu tà, nó làm cho mình đau khổ, và người khác cũng đau khổ. Đó, đó là cái Định Vô Lậu, con thấy chưa?
(10:26) Còn cái Định Thư Giãn là chẳng qua là mình nghỉ ngơi, mình thư giãn thôi. Nó là tiền thân của Tứ Niệm Xứ chứ không phải gì. Tất cả những cái phương pháp Phật đã dạy mà Thầy đã dạy lại cho mấy con, nó đều có công dụng, công năng của nó rõ ràng.
Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, cái sáng suốt đấy con thấy nó cũng vô cùng quan trọng đối với con. Cho nên nếu mà con không xen được cái đó vào, thì con sẽ mệt mỏi trong khi thực tập xong. Rất gay go.
Trưởng lão: Đúng vậy.
Sư Thanh Quang: Thế còn quán Định Vô Lậu, bạch Thầy, Thầy dạy là trong con nó có “hai con người”. Một con người nó biết hướng theo cái thiện pháp. Thế và, lúc mà con nghĩ, con tư duy ấy, thì nó vẫn giống như là con đang diễn thuyết, đang nói chuyện với những người khác.
Trước đây, con vẫn có làm công tác giáo dục của tuyên huấn trong quân đội, thì con nghĩ là con đang nói chuyện với họ về một đề tài ấy. Thế thì có những buổi con thấy là rất lưu loát. Quán xong thì con thấy nó nhẹ nhõm, mình nói ra những vấn đề, nó khúc chiết, nó mạch lạc, và nó có lý. Thế nhưng mà cũng có những buổi thì rất là… Khi ngồi vào một lúc rồi thì nó dễ trầm, vì đã quán một, hai, ba buổi cái đề tài ấy rồi, thì bắt đầu con thấy nó nhàm, nó chán, nó khó vào.
Trưởng lão: Coi như là con không cần quán nó nữa. Để khi mà nó có cái niệm gì nó khác, thì tự nó, nó phóng ra, nó phản ứng, rồi nó chống lại cái này liền. Khi mà con đã quán đã nhàm chán rồi, tức là nó đã thấm rồi. Nó không còn muốn quán nó nữa, tức là nó thấm rồi. Thì cái này, để cho nó khi mà nó có cái khác, thì tự nó nổi lên, tự nó khởi ra, nó đánh nhau.
(12:03) Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, những điều Thầy dạy thì hôm nay con thấy sáng tỏ, rõ ràng. Thế còn cái Thầy dạy: “Tu thì phải đúng pháp, đúng cách, đúng căn cơ và đúng đặc tướng”. Thế thì con thấy “đúng pháp, đúng cách” ở đây thì đã có Thầy. Chỗ nào mà chưa phải, thì con xin trình Thầy và Thầy đã chỉ đúng cho rồi.
Thế nhưng bây giờ còn cái “đúng căn cơ”, thì ngay cả nghĩa chữ “căn cơ” con cũng chưa thật hiểu cho nó thật chín chắn, thế và, tu cho đúng đặc tướng. Thế thì hai cái chỗ này: “căn cơ” và “đặc tướng”, xin Thầy chỉ cho, để con có thể rõ hơn về nó.
(12:39) Trưởng lão: Nói chung là cái căn cơ, cái đặc tướng của mình, thì phải hiểu nghĩa “đặc tướng” là cái năng lực của mình”. Mình tu cái sức của mình, mình tu tới cái mức nào đó thì mình hãy tu theo mức đó, đừng có tu hơn cái sức của mình. Vì tu quá sức của mình thì nó lại sai, nó không đúng. Cho nên mình tu theo cái đặc tướng của mình, cái khả năng của mình - cái đặc tướng.
Nhưng mà cái đặc tướng- cái khả năng đó- nó có những cái riêng biệt, chứ không phải cái khả năng của mình nó giống như cái khả năng của người khác. Nó có cái đặc biệt riêng của nó, cho nên gọi là đặc tướng. Cái khả năng của mình, mặc dù cái sức của mình, thí dụ đặt thành vấn đề cái cơ thể của mình nó có thể khuân năm chục kí lô đi. Cái đặc tướng của mình: Năm chục kí lô như vậy thì mình phải đi cách thức đó như vậy, chứ không thể đi giống cái ông kia được, nó khác. Mặc dù là ông kia cũng vác năm chục kí, mà mình cũng xách năm chục chục kí cũng giống ông ta, nhưng mà cái lối đi của mình nó không giống ông ta. Con hiểu không? Nó khác.
Cho nên vì vậy, khi mà mình ôm cái pháp mình tu theo đặc tướng của mình, thì nó không giống người khác đâu. Còn nếu mà giống người khác, tức là nó trật đặc tướng của mình.
Sư Thanh Quang: Dạ. Con cũng có lúc con thấy rằng, ở đây, nó phải theo cái đặc tướng của mỗi một người. Chứ nó không thể giống như kiểu tập múa, để tất cả đều theo một tiết tấu, theo một nhịp độ rồi ai cũng như ai cả, như thế là không phải. Thí dụ như ở trong cái buổi thuyết pháp, Thầy cũng nói như thế. Thế nhưng mà có thể có người nhận ngay ra được cái vấn đề này và thấm rất sâu sắc, và nó chuyển biến ngay. Nhưng mà cũng có người, sau cái buổi ấy, thì không thấy cái gì cả, thấy tất cả chuyện hôm ấy là bình thường. Thế thì đó chính là những sự phản ánh của đặc tướng riêng của mỗi một người.
Thế nhưng còn riêng cái chữ “căn cơ” thì con nghe nói rất nhiều rồi, nhưng mà con chưa hiểu cái chữ “căn cơ”.
(14:24) Trưởng lão: À bây giờ Thầy sẽ giải thích chữ “căn cơ”.
Căn cơ, thí dụ như tại sao người ta không có cái căn đi tu như mình, mà tại sao mình có cái căn tu. Con hiểu chữ căn chưa? Tại sao mình lại thích tu, mà người đó lại không thích? Cũng như bây giờ trong bè bạn của con, cũng hạng trí thức chứ đâu phải là không hiểu, nhưng mà tại sao mình lại thích tu, mà những người này họ cũng hiểu biết chứ, nhưng mà tại sao họ lại không thích tu?
Tức là cái căn. Cái căn tức là cái gốc, mà cái gốc mình ham tu, thì mới tu được. Còn cái gốc mà không ham tu, thì không tu được. Bây giờ bắt mấy cái ông đó vô tu, thì ông làm bậy bạ vài bữa thôi, chứ ông không có cái gốc tu đâu, con hiểu không? Căn là cái gốc, chữ căn có nghĩa là cái gốc, mà đây nói về căn tu, tức là cái gốc tu. Cho nên vì vậy mình đọc kinh là mình thích, còn người ta đọc kinh là thôi, người ta thấy chán quá, tức là cái căn người ta không có.
Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, cái căn, cái gốc ấy nó là một tập hợp gồm rất nhiều cái nhân duyên từ nhiều đời, nhiều kiếp?
Trưởng lão: Ờ đó đó. Tại mình huân cái đời, thí dụ như nhiều đời của mình, mình có cái ham tu cái đó, ham làm cái đó, cho nên nó trở thành cái gốc, gọi là căn. Còn cái đặc tướng thì nó khác.
(15:30) Sư Thanh Quang: Bạch Thầy là con thấy có người thì họ ngủ họ không có mơ mộng gì, nhưng mà con thì hôm nào ngủ cũng vậy, đêm ngủ là cứ mê. Mê thì không nhớ gì cả, nhưng mà lúc dậy thì mệt ghê gớm. Thế nên những cái buổi như thế là tập không có hiệu quả gì nữa, bị hôn trầm rất nặng. Thế thì cái mê mộng ở đây nó là cái gì? Nó có phải là do cái tưởng thức hoạt động mạnh không? Thế và, cái cách khắc phục ở đây mình làm thế nào?
Trưởng lão: Nói chung là cái phần hoạt động của tưởng của mình nó ở trong cái giấc mộng. Khi mình nằm ngủ mà mình chiêm bao đó, là nó là bị tưởng. Thường có người thì ít có chiêm bao, mà có người thì nhiều chiêm bao lắm.
Người nhiều chiêm bao là do cái tưởng nó hoạt động nhiều, chứ không có gì hết. Cho nên mỗi lần mình chiêm bao thì nó mệt. Có nhiều khi người ta ngủ người ta chiêm bao, người ta la, người ta hét nữa, hoặc người ta nói chuyện như là bình thường. Những người đó, coi như là cái tưởng nó rất mạnh, giống như là cái ý thức của họ vậy.
(16:30) Cho nên vì vậy mà muốn cho cái tưởng nó đừng có hoạt động như vậy, thì ban đầu mình lấy cái ý thức của mình mình tác ý, mình dẫn lần nó, thì lần lượt nó… Cũng là một cái nghiệp. Cái căn của mình nó huân về cái tưởng nó nhiều, cho nên bây giờ đời nay mình mang thân này cũng là cái tưởng nó hoạt động nhiều hơn là người khác. Cũng như cái người ngủ hay mớ đó, cái đó là họ cũng huân nhiều đời. Cho nên bây giờ, nó không phải là trong một bữa, hai bữa, hay trong một tháng, hai tháng, một năm hay hai năm, mà mình tạo cho mình hết ở trong cái mộng mị đó, không phải đâu.
Sư Thanh Quang: Thế là con lại phải chiến đấu thêm với cái khoản này nữa.
Trưởng lão: Phải chiến đấu thêm cái khoản về tưởng, tức là phải tu về cái phần đó nữa. Phải tác ý nhiều vô.
Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, khi ở thất bên không có người họ ở nữa, con thấy những cái đồ của họ ở đó để lại đấy mà con thì đang thiếu, thí dụ như là cái chiếu, hoặc chai nước rửa bát, hoặc cái cuộn giấy, cái việc con lấy con dùng như thế thì có phạm giới không? Vì là giới thì có nhắc đến, không được lấy từ cái nhỏ nhất, từ cái đinh, trong chỗ người khác mà không được phép của họ, hoặc họ không cho.
Trưởng lão: Đúng vậy. Khi mà ở trong thất người ta đi rồi người ta còn, người ta coi như là người ta bỏ đó, lẽ ra mình lấy mình xài thì coi như là đồ bỏ của người ta, bỏ mình lượm mà.
Nhưng mà sự thật ra thì không nên làm điều đó. Bởi vì khi mà người ta bỏ đi, thì mình đến thất của người khác như vậy, mình lấy vậy đó, thì cái người khác người ta thấy người ta cho mình “đi ăn cắp”, bởi vì ở trong cái nhà của người ta.
Cho nên khi đó, mình muốn lấy một cái gì đó, thì mình đến cái người mà lãnh đạo chung ở trong Tu viện, mình sẽ xin thì cái người đó họ đến họ lấy, họ trao cho mình, tức là họ cho mình. Thì như vậy là nó không có vi phạm nữa.
Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, con rất mừng. Con rất mừng là con đã làm một cái việc đó, sau đó thì con tỉnh thức, con giật mình, con thấy được việc làm ấy là không đúng, không nên, không minh bạch, không rõ ràng. Mình phải gặp cô Út để xin. Nếu đổi thử, được phép, thì những việc như thế nó mới sáng, nó mới rõ. Thế hôm nay Thầy dạy như thế, con rất mừng là con đã có tỉnh thức trong việc đó.
Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, cái lời nguyện thọ thực, thì có câu là hữu tình và vô tình. Thì hữu tình là những cái loài vật có tính tình và tính ái. Thế còn vô tình ở đây thì là loài gì? Có lẽ là nham thạch, rồi thảo mộc chăng?
(18:53) Trưởng lão: Thảo mộc, nham thạch, đất đá…
Sư Thanh Quang: Thế sao lại cũng được hưởng cơm này ạ?
Trưởng lão: À, coi như là tất cả mọi cái nó đều… bởi vì đây là trên cái môi trường sống. Đất đá nó cũng có sự sống của nó. Đất nó cũng có sự sống. Rồi nếu mà từ cái chỗ môi trường sống như vậy, mọi vật đều tựa nương với nhau, cho nên cái loài hữu tình và vô tình đều hưởng được cái này hết.
Nghĩa là bây giờ, thí dụ như con ăn, con thừa một cái vật gì đó mà con bỏ xuống, đất đá nó lại thêm một cái chất của nó, cho nên nó cũng thừa hưởng nữa. Chứ đừng nói chi là tới cỏ. Cái thực phẩm của con bây giờ bỏ, nó mục đi, nó hoại thành cái chất phân, thì cây cỏ nó vẫn ăn. Đó là cái nương tựa của nó. Đó là mình nói về cái loài thảo mộc.
Còn bây giờ nói về đất đá, nó lại thêm một cái chất trên đó nữa à thì coi như là nó cũng… mình nói, “mình ăn, mình nuốt, mình thấy tiêu hóa”, còn nó thì nó tiêu hóa theo kiểu khác, nó không giống mình, nhưng mà nó vẫn thọ hưởng được, con hiểu không?
Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, như thế là về mặt hoạt động vật chất thì đúng hoàn toàn như thế. Và ngay cả trong cái việc đó, thì nó cũng mang bản chất của lòng từ bi.
Trưởng lão: Lòng từ bi! Cái đất đá mình cũng vẫn thương mà.
Sư Thanh Quang: Con có nghe nói đến “loài không thân”, nhưng mà chắc đây là cái quan điểm của Đại thừa. Chứ không có thế giới siêu hình, thì làm gì mà có loài không thân ạ?
Trưởng lão: À, Đúng rồi. Chính xác.
Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, trong kinh Nhân Quả Ba Đời, thì nguồn gốc là từ đâu có, và như vậy có đúng như là kinh nói không?
(20:23) Trưởng lão: À trong kinh đó nói ba đời, chứ sự thật ra nó đâu phải.
Cái quy luật của nhân quả nó cả cái không gian, vô tận cái thời gian. Từ khi mà nó có cái không gian và cái thời gian, thì nó đã có quy luật của nhân quả.
Bởi vì Vô Minh sanh Hành, Hành sanh Thức…, cái quy luật của vũ trụ. Thì do cái Vô Minh, nó không có biết, cho nên nó mờ mịt. Mà thấy nó mờ mịt, nó là nhân quả- Vô Minh sanh Hành - do cái sự mờ mịt, cái sự không biết, thì nó là cái quy luật của nhân quả. Cho nên mình làm theo cái quy luật nhân quả là mình làm theo cái không biết. Con suy ngẫm coi có đúng không?
Còn mình biết, thì không làm theo quy luật nhân quả, cho nên nó đi ngược lại nhân quả, cho nên mình thoát ra.
Còn mình bị vô minh, thì chính cái quy luật nhân quả nó là vô minh. Cho nên nó quay cuồng, ở trong cái hành động quay cuồng đó mà nó tạo ra cái môi trường sống. Cho nên môi trường sống nó mới sanh ra muôn vật.
Muôn vật trong khi đó, cái loài vật mà nó có đủ trí thông minh nó đi ngược lại cái quy luật đó, mà nó phá vỡ cái quy luật của nhân quả, đó là loài người. Nó không bị, bởi vì nó phá vỡ đó, nó hết đó, nó “Minh”, nó không còn “Vô Minh” nữa.
Còn mình hãy còn bị vô minh, thì mình đi theo cái quy luật đó, chứ không chạy khỏi nó được.
Sư Thanh Quang: Dạ. Với cái nghĩa đó suy ra thì khi có nghiệp thì mới có con người, mới có được cái hành động đó?
Trưởng lão: … mới có cái hành động đó - hành động đi ngược lại cái quy luật đó. Còn nếu mà không có con người, thì kể như là mọi cái điều vô minh hết: Đất đá cũng vô minh, cây cỏ cũng vô minh, loài vật cũng vô minh. Mà không có con người thì coi như không đi ngược, cho nên nó cuốn hết.
Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, chỉ có con người thôi. Nhưng mà trong đó hàng triệu, hàng tỷ con người, thì mới lại có một con người thấu triệt được vấn đề này. Chứ còn thì có nhiều khi cứ hành đấy nhưng mà cũng không hiểu rồi sẽ ra sao.
(22:08) Trưởng lão: …Nó không có ra sao hết, bởi vậy.
Sư Thanh Quang: Dạ. Thế còn những điều ở trong kinh ấy nói là nếu phạm cái này thì phạt cái kia, tức là những cái điều đó là không đúng, đó là cách nói của Đại thừa?
Trưởng lão: Đúng, cách nói của Đại thừa.
(22:20) Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, có phải khi đức Thích Ca nhập diệt, thì sau hỏa thiêu thì ngọc xá lợi đã được chia cho các vương quốc ở vùng Ấn Độ thời đó?
Thế năm 2001 thì con có mặt trong một cái buổi rước xá lợi ở một Tu viện. Từng người một, Tăng, Ni, và một số Phật tử được chiêm bái ngọc xá lợi, và được nghe nói đó là xá lợi của đức Phật từ thời đó.
Thế Thầy thì dạy là xá lợi là những mảnh xương được trà tỳ còn sót lại.
Nhưng ở đây, hôm ấy con trông, trông độ hai, ba phút, thì con thấy có hai viên xá lợi để trong cái hộp, một viên là màu huyết dụ, thì nó nhỏ chỉ bằng hạt đậu xanh nhỏ thôi. Thì con thấy nó tỏa sáng ra bằng cái trôn chén của cái màu huyết dụ. Ngoài cái nhân màu ấy của viên ngọc ấy, thì còn cái màu hồng ở xung quanh. Còn một viên có cái màu bích ngọc, thì cũng hạt nhỏ bằng hạt gạo nếp thôi, nhưng mà nó có một cái màu xanh hồng ở xung quanh rộng bằng cái trôn chén.
Thế mà trông thấy cái màu ấy, thì trong năm người chúng con lại cũng chỉ có hai người trông thấy, tức là con, và một ông cốt cán ở bộ đội nữa. Chứ còn hỏi ba người kia thì họ không thấy.
Thế bây giờ cái màu trông thấy, và cái điều Thầy nói này, thì con không hiểu nó là thế nào?
Trưởng lão: Bởi vì, cái trông thấy những cái màu sắc đó bởi vì do cái ảnh hưởng mà con đã có cái niềm tin rằng nó là cái xá lợi của Phật, phải không? Tức là cái mảnh xương mà đã thiêu nó đã cháy đi, nó kết lại, nó thành cái viên đó. Từ lâu tới giờ thì con không biết như thế nào đúng, mà như thế nào sai.
Nhưng mà cái tưởng con rất mạnh, cho nên vì vậy, nếu một người nữa vẫn thấy, đó là hai người có tưởng mạnh, cho nên nó thấy được cái màu sắc của nó. Do cái tưởng, lòng tin mình mà nó xuất phát ra, cái tưởng nó hoạt động xuất phát ra.
(24:10) Còn mọi người, người ta không thấy. Người ta chỉ thấy hai cái viên gì nguyên màu như vậy thôi, chứ còn không có thấy tỏa ra ánh sáng, là tại vì cái tưởng nó không hoạt động thôi.
Nhưng mà sự thật ra không phải đâu mấy con. Bởi vì, người ta ngày xưa, người ta rất là mến, những cái nước mà được đức Phật đi qua mà truyền đạo, đem lại một cái nền đạo đức rất là lớn, lợi ích cho những cái dân tộc đó, cho nên họ rất biết ơn đức Phật.
Vì vậy mà khi đức Phật chết rồi thì khi thiêu, nếu mà cứ để cho lửa cháy, thì nó cháy rục hết. Cho nên trong khi mà trà tỳ lúc đó thì người ta dự định, trong cuộc trà tỳ đó người ta dự định để người ta lấy cái số xương vụn đó để chia cho mỗi nước một ít. Cho nên khi đó có một cái người đứng ở bên nói: “Lửa cháy dữ vậy thì thôi mình đem nước mình tạt cho tắt đi, để mà có xá lợi để mà chia ra”. Cho nên vì vậy mới có chia mỗi người một chum, vậy đó là những cái mảnh xương vụn. Chứ nó không có phải là những cái cấu kết của cái chất xương mà chúng ta cháy đi, rồi nó kết thành những cái hột như vậy, không phải đâu.
Bây giờ thì thật sự ra người ta đã huyễn hoặc trong cái vấn đề đó. Ở trong thân chúng ta không có cái gì mà vĩnh viễn đâu, nó là các chất bất tịnh. Bởi vì đức Phật đã xác định “thân bất tịnh” mà. Nó không có cái gì mà mình gọi là tốt, nó là các duyên hợp để tạo thành thôi, nó là các gien để hợp lại thành cái thân của chúng ta. Cho nên nó là tất cả những cái chất - cái chất nó không có trong sạch gì đâu, nó rất là tệ.
Cho nên đối với đức Phật, thì cái thân của đức Phật, nó già nó phải chết thôi, chứ không có phải là để duy trì nữa. Nhưng mà cái sức, cái khả năng đức Phật có thể duy trì cái thân nó sống cả ngàn tuổi được. Nhưng mà ông thấy rằng mình đủ rồi, khi mà thuyết pháp đủ cho chúng sinh hiểu biết rồi, thì mình có ở lại cũng chỉ bằng thừa mà thôi.
Cho nên cũng nói đi, nói lại, cũng lặp đi, lặp lại những cái bài pháp đó thôi, chứ không có hơn được. Bởi vì con người chỉ tu bao nhiêu đó thôi chứ không còn nữa, cho nên Ngài thấy là đúng hoàn toàn.
Chứ còn khi thiêu, người mà tổ chức thiêu, đức Phật thì cũng không có nghĩ rằng sẽ chia cho tám nước này tám phần này, không phải, nhưng mà cái người đứng thiêu đó, thì trong khi đó các nước đến tham dự đám tang của đức Phật, nó đủ tám cái nước của người ta, cho nên vì vậy mà khi thiêu thì bây giờ phải tạt nước, tắt để lấy những cái xương mà nó cháy còn chưa hết.
(26:16) Còn cái chỗ tro mà đốt đó, cái thịt mà nó cháy đó nó thành ra tro, với cây củi mà để đốt đó, nó thành ra một cái số tro, thì dân chúng người ta hốt nắm, nắm đem về họ làm cái mả. Họ lấy cả tro đó hết, trong cái buổi đó họ lượm hết.
Dân chúng, tức là cái người nó thuộc về… Thậm chí như cả quan, những ông quan mà họ mến Phật, người ta cũng lấy, hốt cái tro cái củi, với cái thân của Phật mà thịt cháy ra nó thành tro đó, họ hốt, họ lấy cái đó.
Còn cái xương, tạt nước mà nó còn những cái mảnh xương đó, thì họ lượm những cái đó họ mới chia cho mấy nhà vua, vua mới được đem về mà xây tháp. Còn quan này kia được đem về xây cái mả riêng đó thì kể như là lượm ba cái tro. Thậm chí như dân cũng lượm nữa. Thầy đọc đến cái bài kinh này, Thầy thấy họ ngưỡng mộ đức Phật đến cái mức độ cao.
Sư Thanh Quang: Ngưỡng mộ quá cao, tôn kính Phật mà thiếu trí tuệ, thì đến một lúc nó trở thành cái duy tâm.
Trưởng lão: Đó, vậy đó. Cho nên nó biến thành cái chỗ đó mà làm sai cái ý chơn chánh, cái Chánh kiến của Phật, đưa đến cái mê tín rồi.
Nó tạo thành, như bây giờ người ta coi cái đó thành ra cái vật mà do nghĩ, đức Phật tu Thiền Định nó mới kết hợp thành cái này, không phải.
Thậm chí như bây giờ người ta nói để lại những cái nhục thân này kia, người ta cũng cho đó là do sự tu. Sự thật thì đâu phải.
Ông Phật nếu mà Ông nghĩ rằng do cái sự tu tập để mà làm cái bảo vật như vậy, thì Ông để lại nhục thân Ông, chứ ông điên gì mà Ông để làm mất cái điều mà quý của nhân loại.
Còn bây giờ mình tu Thiền Định, hoặc là mình ướp xác bằng cách này, bằng cách khác, để lại cái nhục thân của mình để cho người ta chiêm ngưỡng bằng cách này, cách khác. Đó là cái tham vọng của người đời chứ, mình phải thấy rõ.
(27:56) Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, chúng con cảm thấy là khi vào Tu viện tu tập, thì trong thời gian đó thì mọi chuyện của mình và gia đình mình, nó lại tốt đẹp hơn, thuận lợi và suôn sẻ hơn.
Con nói cả gia đình là vì gia đình là một cái chùm nhân quả chung, đều có chi phối nhau. Thì phải chăng, vì do vào Tu viện, tập để giữ được Giới nghiêm ngay lập tức, thì thân, khẩu, ý chặn đứng cái ác, diệt ác và sanh thiện, nên là cái sự khổ biến thành sự vui, và việc thiện luôn luôn che chở, giải thoát cho chúng sinh khỏi cái cảnh đau khổ? Ở đây thì con còn cảm thấy là có từ trường từ bi vô lượng của trên khả độ cho. Con xin Thầy chỉ rõ cho con về cái này thêm.
(28:45) Trưởng lão: Bởi vì ở cái chỗ nào… Con thấy ở đây, hầu như có cái niệm nào ác, hay có cái gì đó, thì mấy con luôn luôn mấy con ngăn và diệt, chứ không có để cho tâm mình bị cái niệm đó nó chi phối. Cho nên khi mình ngăn, mình diệt những cái niệm đó, thì nó phóng ra những cái từ trường của nó. Cho nên cái môi trường ở đây là môi trường tu. Cho nên vì vậy mà nó rất là thanh tịnh, nó rất là trong sạch.
Cho nên mình luôn luôn mình ở trong cái hoàn cảnh này, để mình tiếp nhận cái điều trong sạch đó, con hiểu không? Cho nên rõ ràng ở xung quanh mình nó có những cái thiện chứ.
Nhưng mà con đi vào cái chỗ khác, thì con thấy nó khác. Nó có cảm nhận, tự mình, mình có cái cảm nhận cái bầu không gian chỗ mình sống nó không được yên tịnh như vậy. Có sự cảm nhận đó. Mà cảm nhận đó là do chính mấy con thải ra chứ ai mà thải.
Rồi bây giờ Thầy tu rồi, Thầy cũng cứ cái tâm mà nó toàn thiện, thì nó cũng y như vậy thôi. Còn các con là đang khắc phục những cái ác pháp để cho mình được toàn thiện, thì nó cũng phóng ra được những điều đó, chứ đâu có gì đâu. Cho nên cái môi trường tu là cái môi trường tốt nhất.
Nó có những cái ác pháp chứ không phải, ở ngoài kia người ta vào thì người ta có mang theo những cái ác pháp người ta vào, nhưng mà cái thiện của mình ở đây nó sẽ đánh bạt đi. Nó hiện ra rồi cái nó tan biến đi, nó không có để yên đó đâu, nó diệt.
(30:00) Cho nên cuộc đấu tranh nó không những đấu tranh bằng tư tưởng của mình đang hiện có, đấu tranh cả thân tâm mình, mà cả cái không gian của mình nó đang đấu tranh những từ trường đó nữa.
Tại vì mình không có đôi mắt mình thấy, chứ mình có đôi mắt mình thấy, cả cái không gian của Tu viện nó đang có cái sự đấu tranh. Ở ngoài kia mà mang ác pháp vô, thì ngay đó là nó có cái sự đấu tranh. Để nó bảo vệ cái môi trường của nó thanh tịnh.
Thầy nói thật sự ra, cái gia đình của mình nếu mà sống toàn thiện, nó tự nó có cái từ trường của nó. Cho nên những cái gia đình khác nó đến nó đấu tranh. Vì vậy khi mà nó đấu tranh- cái từ trường- mà nó thắng, thì trong lúc đó mà họ nói cái gì đó, thì mình dễ thắng lắm.
Còn cái từ trường của mình nó yếu hơn, mà cái ác pháp nó nhiều hơn, cái từ trường của họ nó mạnh hơn, nó át đi, thì trong khi đó, người ta nói lời nói, cái mình dễ sân hơn. Bởi vì cái từ trường của mình nó yếu quá, nó không có đủ cái tiếp nhận đó.
Cho nên cứ càng lúc mình càng tu, khi mà mình biết pháp mình tu, thì nó đem lại cái sự an lành chung cho cả cái chùm nhân quả của gia đình của mình. Rồi cái người này tốt, rồi kế người khác, người khác lần lượt nó tốt dần, tốt dần lên. Con thấy nó thay đổi lần lần.
Còn nếu mà mình làm không được, thì bắt đầu nó lộn xộn hết. Ác pháp nó hơn cái vấn đề tu tập của mình, nó làm đảo lộn, nó kéo chuyện này chuyện khác ở trong đó. Còn nếu mà thiện pháp nó mạnh hơn, nó cao hơn, thì nó át, nó đẩy ác pháp lui mất, thì nó càng thấy người ta, cái người mà hồi nào tới giờ họ cộc cằn, họ sân dữ lắm, nhưng bây giờ thấy họ giảm, thấy họ hiền lành xuống, nó thay đổi nhiều.
Sư Thanh Quang: Từ hôm con bước chân con đi vào trong này, con thấy mọi việc ở trong nhà vừa rồi con được biết tin là diễn biến rất suôn sẻ, rất tốt đẹp, ngoài cái sự tưởng tượng của con.
Trưởng lão: Nó chuyển biến đó con. Sự chuyển biến đó là do cái sự quyết tâm tu của con đó con. Chứ nếu mà con vô đây con chỉ tu chơi chơi, thì nó không chuyển biến đâu.
Chuyển biến là do cái nhiệt tâm, cái quyết tâm của mình.
(32:06) Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, con còn đang trong vô minh, chưa có Chánh kiến, Chánh tư duy. Vậy cái gì nó đã giúp cho con?
Tuy là đã đi đến rất nhiều nơi, rất nhiều chỗ, nhiều pháp môn, nhiều thầy, nhưng mà con đều không chấp nhận, con đều tìm thấy ở đấy những cái mà con thấy rằng không phải như vậy.
Rồi đến nơi Chánh pháp, đến đúng Minh sư, thì con tin ngay, và không còn có nghi ngờ gì hết nữa. Mà sức mạnh niềm tin của con càng tăng hẳn lên, và ở Tu viện vào gặp Thầy ở đây. Vậy thì cái gì đã đưa con đến?
Nếu bảo đấy là đến lúc mà đủ phúc duyên, vậy tại sao cũng có người được đến đây gặp Thầy, tức là họ cũng đủ phúc duyên. Nhưng mà rồi, họ đến một cái họ thấy đó là đúng là phải, nhưng rồi họ không thể ở được, không thể theo được, và họ chấp nhận phải ra đi. Thế thì cái gì đã đưa đẩy đến tới chỗ này, ngoài cái chuyện gọi là trọn đời về phúc duyên ạ?
Trưởng lão: Bây giờ Thầy giải thích cái chỗ này để cho con thấy rõ.
Mọi cái nó đều do cái căn của mình đã huân ở trong đời trước.
Họ cũng huân, con cũng huân, cho nên hiện kiếp này nó mới gặp nhau đây. Có huân gặp nhau, tức là họ có đến với Phật pháp, nhưng cái tu thì họ không tu, họ chưa tu. Cho nên bây giờ họ gặp Thầy, họ cũng tu không được.
Còn con, đã có huân và đã có tu, cho nên cái duyên đó nó do cái sự tu tập đó. Cũng như bây giờ con đến đây, con có cái sự tu tập. Còn họ đến đây, họ không chịu tu tập, họ về. Đời sau cũng gặp lại nữa, nhưng mà gặp lại như vậy rồi cũng đi qua thôi.
Tại vì mới đến đây mà con hỏi câu đó là hỏi về cái căn của mình. Mà cái căn của mình mình gặp, thì tức là sau này mình cũng gặp thôi. Mà cái căn mình, mình lại gặp, mình lại tu. Đời trước con có gặp, con có tu, cho nên đời nay nó lại tiếp tục cái này. Cho nên đời trước con chưa có làm được như vầy, bây giờ con lại làm được như vầy, nó lại khá hơn. Rồi bắt đầu bây giờ nhờ cái tu tập đó, nó tăng trưởng lên. Đời nay con tu chưa xong, đời sau con gặp, nó tiếp tục cái chỗ mà con đang tu, nó lại tăng lên, con tu nhanh hơn, con tu dễ hơn.
(34:21) Còn họ gặp rồi thì họ không tu, họ nghe đó thì họ cũng thấy đúng, nhưng mà rồi về gia duyên sao đó nó lôi họ trở ra y như con sóng. Thành ra họ cũng gặp, tức là cái phước duyên gặp thì có, nhưng mà cái phước tu thì không có. Tức là cái căn tu chưa có, mà cái duyên gặp thì có, cái căn tu chưa có. Họ phải gieo cái căn đó.
Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, nếu như con người đã giác ngộ về sự sinh, già, bệnh, chết là khổ, và họ không sinh đẻ nữa. Nhưng mà cái Vô Minh kia thì, nghiệp nó là hiện tại có, nên nó vẫn sinh Hành, và Hành thì sinh Thức. Đến đây Thức không gặp cái duyên, là vì người nam và người nữ không muốn sinh, cho nên nó không đủ duyên mà sinh ra Danh Sắc. Thế như vậy, đến đây dòng sinh tử bị chặt đứt. Thức là nhân, Thức không gặp duyên, thì rồi Thức sẽ mất, vì là “pháp khắc tự diệt”. Bạch Thầy, con hiểu như thế liệu có đúng không?
Trưởng lão: Đúng, nhưng mà điều kiện là, phải diệt cho tận cái gốc của nó là Vô Minh. Bởi vì chính Vô Minh nó mới đưa ra Hành, nó mới sanh ra Thức, nó mới đến hợp với Danh Sắc, nó mới thành cái thân của con người. Thành ra, thí dụ như bây giờ, nó từ cái Vô Minh nó sanh Hành, hành sanh Thức. Nó tới Thức, mình không có tiếp tục để mà cho nó… coi như là giữa nam và nữ không có giao hợp với nhau, thì cho nên nó không sanh ra một cái con người nữa. Nó không sanh ra, nhưng cái Vô Minh mình còn, thì chưa được. Nó còn tiếp tục ở trong Vô Minh nữa.
(36:01) Bởi vì, mặc dù là mình biết, cũng như bây giờ đặt thành vấn đề là mình có thể hạn chế về kế hoạch hóa gia đình - sanh đẻ, cho nên nó không sanh ra nữa, nó bị diệt. Nhưng mà cái tâm của mình nó còn dục chứ chưa hết. Mà nó còn dục, tức là còn Vô Minh, phải diệt, phải diệt cho sạch. Mà diệt sạch thì phải có Minh. Đó là diệt Vô Minh.
(36:26) Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, vài thập kỷ qua, và cũng chủ yếu là có một vài nước trên thế giới ngăn chặn cái sự tăng dân số bằng những biện pháp phá thai rất dữ dội. Hàng gần tỷ sinh mạng bị sát hại. Sự kiện đó là “quả đến lúc nó nổ” - là những cái nhân của con người đã tạo tác từ trước kia? Hay là, đó là những cái nhân mới tạo do biện pháp giải quyết của hôm nay?
Trưởng lão: Tất cả những cái đó đều là nhân sát hại chúng sanh hết. Nhân sát hại chúng sanh mà nó đưa ra tới cái kế hoạch hóa gia đình, nó đã trở thành hôm nay….
Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, chứ nó cũng không phải là cái quả mà nó nổ ra, mà vì do tất cả những cái nhân của nó đã từ trước, có phải không ạ?
Trưởng lão: Từ trước tới giờ, mà bây giờ nó phải chịu những cái quả đó. Mà coi như là, thay vì nếu không có cái kế hoạch hóa, không có sợ cái nạn nhân bản đó, thì người ta sẽ cho sanh ra đầy đàn, phải không, thì những người này nó sẽ sanh ra.
Bây giờ vì những cái tội sát hại chúng sinh, giết hại với nhau mà ăn thịt nhau đó, cho nên nó mới sanh ra bắt đầu nó kế hoạch hóa gia đình hết, nó diệt từ ở trong trứng nước. Biết bao nhiêu lần chết, biết bao nhiêu sự sanh diệt. Mà mình cứ vô tình, mình không ngờ là chính mình đã tạo những cái ác đó.
Con thấy đó, nó không phải là bây giờ nó tại cái nhân quả mới, cái duyên mới, không phải đâu. Nó là do cái nhân cũ, mà cái quả hôm nay mình phải gặt lấy cả một cái thế giới như thế này.
Ngày xưa thì con người ít, nó không có kế hoạch hóa, cho nên một gia đình có thể sanh ra năm, mười đứa con. Nó không có kế hoạch hóa, bởi vì đất nó rộng, phải không? Nhưng mà vì con người càng lúc càng giết hại chúng sanh, cho nên nó huân cái nghiệp giết hại, cho nên cái yểu tử nó phải có.
(38:06) Cho nên cuối cùng thì yểu tử nó có, đến lúc mà cái yểu tử có, thì cái kế hoạch hóa gia đình nó phải ra, để nó ngăn chặn cái sanh, để cho nó yểu tử chứ. Nó mới trứng nước nó đã diệt nó rồi, nó đâu còn để, nó chưa có thành hình để nó trả cái nghiệp yểu tử của nó cho trọn vẹn.
Biết bao nhiêu! Con người của mình khi mà từ nhỏ tới lớn lên mình giết hại biết bao nhiêu? Cho nên mình chết vậy chưa có đủ đâu. Nghĩa là chưa có gì hết mà chúng diệt ngay từ khi mà mầm mống, nó vào nó chết liền, nó chết từ ở trong tinh trùng. Nó giết ngay từ đó, con thấy ghê gớm chứ không phải đâu. Giết người từ ở trong cái tinh trùng. Đó là những cái thuốc mà bây giờ người ta ngừa thai. Nó chết ngay từ cái trứng nước của nó, cái mầm của nó đã giết chết rồi. Tại vì mình đã giết hại biết bao nhiêu chúng sanh? Một con người mà chúng ta sống tới bây giờ, cái thân của chúng ta là cái mồ, là cái nghĩa trang của loài sinh vật biết bao nhiêu không? Mà bây giờ mà chúng ta chết vậy chưa có vừa đâu.
Cho nên khi mà chúng ta thành người được, mà nếu mà nói chung là cái người mà sống gọi là từ nhỏ chí lớn mà sống để mà trở thành người, rất là khó. Bởi vì chúng ta phải chết biết bao nhiêu lần. Một sinh mạng một con vật mà chết, thí dụ như cái loài vật nhỏ, vật lớn, đủ loại hết, chứ đâu phải không. Cho nên nhìn trong cái quy luật nhân quả, chúng ta phải thấy cái Vô Minh nó đưa đi đến ghê gớm thật.
Người ta cứ nghĩ rằng sau này con người cứ sanh ra. Sanh ra mà trong bản chất hung dữ thì để mà trả những cái nghiệp đó, để mà vay trả với nhau, để tạo thành cái quy luật đau khổ cho nhau, chứ đâu có lợi lạc gì.
Con thấy nó tàn ác, con người bây giờ nó tham vọng, nó đủ loại hết. Cho nên vật chất càng tăng, thì nó lại giết nhau, nó chà đạp lên nhau. Khó lắm chứ không phải không.
Bởi vậy, Thầy nói quy luật nhân quả chỉ có đạo Phật mới chặn đứng nó được, chứ còn không có cái tôn giáo nào mà chặn đứng nó được. Mà nếu mà chúng ta chặn đứng được, thì chúng ta cứu được bao nhiêu người. Chính mình, mình chặn đứng là mình đã làm một cái gương sáng cho người khác để người ta chặn đứng những cái ác.
(40:08) Cho nên phải ráng, chứ Thầy biết làm sao được? Thầy thì thấy rồi, nhưng mà Thầy khuyên mấy con, mấy con chưa thấy thì coi như mấy con mờ mịt. Mấy con cứ nghĩ rằng cuộc đời là phải hạnh phúc là vậy. Không hạnh phúc gì hết! Khổ đau hết! Chẳng có hạnh phúc.
Một cái người tu rồi, người ta nhìn cái quy luật nhân quả người ta không dám ngó, người ta sợ. Ngán!
(40:31) Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, cái căn cơ, như Thầy dạy con, cái đó căn bản lắm, nó chi phối lắm. Giờ con mới ngẫm ra, là lúc con hai mươi tuổi, con đã chán trần thế, và con đã ra hiệu cắt tóc bảo người ta gọt đầu đi cho con. Người ta không dám làm, rồi con giơ kéo lên, con cắt gọt trọc đi, vì con chán đời. Tức là bấy giờ con chưa đủ cái duyên để có thể xuất gia tu hành.
Thế và đến lúc năm 58, 59 tuổi, con lại một lần nữa gọt tóc đi, con ra chùa con gọt tóc đi, rồi con… mau đi tu để thoát gia đình. Lần ấy cũng lại chưa đủ duyên để cho con có thể thực hiện được ý nguyện của con.
Thế giờ Thầy dạy rồi con mới ngẫm nghĩ, con thấy một điều là để con được như hôm nay, con đã tiến hóa đi qua hàng vạn, hàng triệu năm. Và con đã nợ Thạch Sùng, đã vay trả với Thạch Sùng từ lúc nào đó…
Thế bạch Thầy, liệu có những tình trạng đã tiến hóa đến mức độ cao, qua nhiều kiếp, để đến hôm nay có được những căn cơ, rồi có những sự tiến hóa khác. Có những trường hợp như thế rồi lại rơi tõm xuống của những loài cầm thú, ở cái mức độ rất mông muội không ạ?
Trưởng lão: Không, Thầy nói đó cũng khó lắm, bởi vì khi đó, hằng ngày mình đã từng ngăn diệt ác pháp. Mặc dù là mình có trải qua một thời gian mình chưa có, cái căn của mình chưa có đủ cái duyên gặp được Chánh pháp thì nó có những cái ác pháp mấy con.
(42:03) Nhưng mà cái căn của mình đã có, cho nên thường thường nó hướng, nó đưa đẩy cho mình đi đến cái chỗ thiện pháp. Cho nên, giờ đó là mình chuyển biến được, con thực hiện, một cái ngày mà chuyển biến những cái ác pháp ở trong con, con đẩy lui được là con chuyển được cái quả bên ngoài rồi. Nó đỡ biết bao nhiêu.
Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, đạo Phật là đạo thật, đạo giải thoát. Ai tu cũng đều được cả, và tu đến đâu thì được đến đấy, và thấy ngay liền.
Nhưng để tu đến giải thoát hoàn toàn làm chủ sinh tử, thì không phải ai tu cũng được.
Con xin Thầy từ bi chỉ đường cho con, kẻo con chỉ là một vận động viên của xã, mà lại lập chí để trở thành một vận động viên của cỡ quốc tế thì cũng tội.
Trưởng lão: Bởi vì, Thầy có vạch ra cho các con thấy rằng: ăn, ngủ và độc cư là ba cái hạnh. Mà nhất là cái hạnh độc cư này là tuyệt vời, để cho con người ta trong một cái đời nay có thể giải quyết được cái vấn đề này. Nghĩa là vận động viên quốc tế rồi, chứ không còn là một động viên trong một đất nước nữa. Cho nên vì vậy, con phải thấy cái tiêu chuẩn mà Thầy đưa ra. Thầy nói bí quyết thành công của sự tu tập giải thoát này - Thiền Định- đó là độc cư mà ra.
Mà hầu như là cái hạnh độc cư, thì hầu hết là khó có người qua. Đó là cái điểm cao nhất của cái pháp Phật tu. Cho nên mình sống mà mình ức chế, mình chịu đựng để mình độc cư, thì mình cũng sai. Mình vui ở trong cái độc cư mới đúng. Con vui ở trong cái độc cư, con sống một mình con thích hơn là đi nói chuyện. Gặp ai nói chuyện con thấy nó ngao ngán quá, nó chán quá, thì đó là cái căn duyên của mình nó sắp tới trong cái kiếp của nó rồi.
Còn nó chưa, thì mình phải cố gắng mình tập, thì nó sẽ gieo cái duyên đó để nó trở thành cái căn trong một kiếp này. Thì tới những cái năm cuối cùng của mình nó tròn đầy được cái duyên này, thì nó sẽ tới, nhưng mà nó có cái thời gian lâu.
(44:06) Còn nếu mà trong cái kiếp này, mà con giữ gìn, con tu tập mà con thấy nó dễ dàng và thích thú độc cư, thì trong kiếp này đã sanh. Nghĩa là thấy ngay cái tâm “mình thích một mình mình”. Không muốn chơi, không muốn nói chuyện với ai hết, cứ thích ngồi chơi một mình, thì cái người này trong một kiếp này là xong, không có lâu nữa. Cái người mà gọi là sống một mình trong rừng rú mà không thấy buồn bã gì hết, không thấy gì hết, thì cái người này là cái người sắp tới rồi. Cái căn của họ là trong cái đời này là cuối cùng, cái đời cuối cùng là nó hết.
Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, đến cái chỗ đó, tự ý chí, nghị lực của con, con có thể tự chủ, quyết định con đường của con được không ạ?
Trưởng lão: Được. Bây giờ nó chưa thích, nhưng mà mình biết cái này là cái bí quyết để cho mình thực hiện được cái sự giải thoát cuối cùng của đời này, cho nên mình tự chủ điều kiện… thì bắt đầu nó đã chín rồi, cũng như cái trái mình dú (rấm), nó chín.
Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, con từ xưa đến nay, là con chỉ thích ở cái chỗ non xanh nước biếc, ở chỗ rừng núi, bên bờ suối, ở chỗ vắng lặng và thích sống yên tĩnh một mình. Chứ những chỗ đông, đô hội là con không thích một tí nào cả. Và vì thế, nên là mấy năm vừa qua, con mới mua vườn đồi trên rừng, xong con ở bên bờ suối, là con ở đấy để con cho được tĩnh tâm, là vì như vậy.
Thế thì, còn những ngày về thực hiện sống độc cư, thì năm trước con về thì con thấy, con chịu đựng đến cái giờ ấy, cố để cho nó hết giờ, thế và con rất “giành” thời gian, từng năm mười phút một, tức là đối phó với giờ giấc.
Thế nhưng năm nay, thì con lại thấy con rất vui, rất thanh thản, và ở như thế con thấy rất thoải mái, rất thích, không có một chút nào cảm thấy chướng ngại ở trong tâm và trong thân con cả.
Trưởng lão: Cái đó là nó tốt rồi đó!
Sư Thanh Quang: Thế thì, ngay cả, thí dụ như ở trong tủ còn bánh lương khô, còn hộp sữa, nhưng mà bụng đói, nhưng không bao giờ con nghĩ đến chuyện mình lại làm cái việc ăn cả. Thế còn giờ giấc ngủ nghỉ, thì con chấp hành giờ giấc rất nghiêm, và cảm thấy nó tự giác, nó thoải mái, chứ không phải vì sợ điều này, sợ điều khác mà mình làm. Bạch Thầy, như thế, nếu lần mò suốt bao nhiêu thế kỷ để tới được cái mép của cái bờ, nơi bờ bên này, thế tức là hôm nay con đã đến được cái mép của bờ bên này. Chỉ còn có một điều, con phải cố gắng nỗ lực bằng tất cả những ý chí của con.
(46:37) Trưởng lão: Đó! Thì con sẽ được ở bờ bên kia trọn vẹn.
Sư Thanh Quang: Tạ ơn Thầy, con được Thầy chỉ cho như thế, con thấy đối với con có ý nghĩa rất lớn.
(46:52) Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, còn một điều này nữa con cũng nghĩ. Là trong cái Cẩm Nang Tu Phật của cư sĩ Tâm Quang Từ Đắc có soạn, đâu đó các lời dạy của Thầy hoặc ở trong các sách vở, nhưng trong đó có một chỗ nói là như cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm là sống yếm thế “một mai, một cuốc, một cần câu”, đấy cái cảnh như thế.
Con thì, con lại nhận thức… Về những ngày qua con lại nhận thức nó không đúng như thế. Con lại thấy nó là, cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là một danh nhân văn hóa của nước Việt ta. Thế và, cụ là một cây đại thụ tỏa bóng mát suốt năm thế kỷ vừa qua. Đã được người đời hiện nay người ta vẫn đánh giá và ca ngợi như thế. Cụ sinh vào lúc mà vận nước suy, rối ren, nào là Lê, rồi Trịnh, thế rồi Mạc, rồi Nguyễn xâu xé nội chiến, và dân tình rất là khổ sở. Thế cụ thì ở cái bậc đại trí, đại dũng, cụ rất thương xót dân, nên cụ ra làm quan, mãi cụ mới ra làm quan, làm quan rất muộn, để mong mang sức ra để cứu đời, cứu cho dân tình đỡ điêu linh khổ sở.
(48:14) Thế nhưng, khi phục vụ trong quan trường, trong triều chính, thì cụ Trạng Trình có dâng sớ để xin trị những quan lộng hành làm những việc hại nước hại dân, nhưng không được chấp nhận. Nên là cụ thấy cái điều rằng mình không còn hợp thời, và có ở lại thì cũng không thể thỏa nguyện được cái tâm trí của mình để mang ra cứu nước, giúp nước.
Nên cụ về, cụ chọn con đường dạy học để đào tạo ra những người có đức, có tài để cứu dân, để giúp cho dân đỡ khổ. Thế nên là tâm trạng của cụ là tâm trạng suốt đời vì nước, vì dân, và đau đáu nỗi đau ấy. Và cụ có lập cái văn bia ở Trung Tân Quán, có một bài bi ký nói lên ở đời con người ta phải biết sống thiện, không được làm ác, và hướng dạy về cái việc đó rất nhiều, nên là cụ đại thiện. Cái đại thiện của cụ như thế.
Thế thì, con có thấy có một bài thơ của cụ, thì con thấy là cái nỗi đau của cụ đau đáu vì nước, vì dân luôn thường xuyên như thế này. Cái bài ấy là: “Sổ gian giang quán phủ giang tân. Thủy quốc vi mang, lưỡng ngạn phân. Phong ổn phàm quy hàn phố nguyệt. Thiên tình long hiện viễn sơn vân. Ngư thôn trù ảnh tà dương quải. Dã tự chung thanh bán dạ văn. Kiểm điểm hành niên dư thất thập. Chi duyên suy lão khởi vong quân”. Hai câu ấy, con đã nhiều lần nghĩ về hai câu này. Trong một cái cảnh cụ sống như thế, về đêm sông nước, thế và, ban đêm ra cái chùa mà bà Ba, vợ của cụ tu ở đấy, cụ ra thăm về, và cụ thốt lên rằng: “Chi duyên suy lão khởi vong quân”. Tại sao ngoài bảy mươi tuổi rồi, sống cái cảnh như thế này rồi, mà lúc nào trong lòng cũng nghĩ về vua, nghĩ về vua tức là nghĩ về nước.
(50:24) Thế và, chính cụ là người đã can thiệp, để cho cuộc nội chiến giữa Nguyễn - Trịnh đỡ đi đổ máu, đỡ đi đến chỗ tang thương. Thế thì con nghĩ rằng, đối với bậc quân tử, bậc trí, thì người ta sống để vì mọi người. Thế còn chỉ có tiểu nhân thì mới sống cho chính mình chứ không biết nghĩ đến ai. Thế nhưng bậc đại trí thì người ta cũng chỉ làm những cái việc gì mà nó có ích, nó hữu ích, chứ không bao giờ người ta lại bỏ sức ra để làm những việc vô ích.
Nên trong cái tâm cảnh, tâm trạng của cụ Trạng Trình, thì hoàn cảnh nó rất đặc biệt. Thế con nghĩ như thế, mà nếu bảo rằng cụ sống yếm thế, thì ở đây phải hiểu cái “yếm thế” theo cái nghĩa như thế nào, góc độ như thế nào, thì xin Thầy khai thông cho con chỗ này để con được rõ.
Trưởng lão: Bởi vì, thơ của cụ, cái bài thơ của cụ viết ra đó, chứng tỏ cụ thấy cụ không có đủ khả năng mà xoay trở được cái thời thế. Cái khả năng của cụ. Cho nên yếm thế là vì mình thấy mình không có tài.
Nhưng mà cụ không có đứng ở trong cái góc độ của nhân quả mà cụ nhìn. Bởi vì cái nhân quả thuận- cái vận nước của mình- nó nằm ở trong cái quy luật của nhân quả. Cho nên vì vậy, cụ phải biết rằng bây giờ cái vận nước của mình như vầy không thể nào mình xoay.
Cho nên vì vậy mà câu thơ: “Một mai, một cuốc, một cần câu. Thơ thẩn dù ai như thế nào. Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ. Người khôn, người đến chốn lao xao”. Cái câu đó là cái câu yếm thế. Cái bài kệ đó là bài kệ ngao ngán mình không có đủ khả năng. Mà cái tâm nguyện của cụ thì tâm nguyện với nước, với non, với dân, nhưng mà mình không có đủ khả năng. Cho nên thôi mặc ai làm gì thì mặc, mình không có làm gì được nữa hết.
(52:10) Đó là cái “yếm thế” là như vậy, chứ sự thật ra, cái tâm niệm của cụ không yếm thế. Nhưng mà cụ thấy cuộc đời mình không làm điều tiêu cực, cho nên cụ mới về cất cái Bạch Vân Am cụ ở, thì coi như là cụ quá tiêu cực rồi, chứ không phải là gì.
Theo Thầy thấy yếm thế thì tức là tiêu cực ở trong giai đoạn mình thấy mình có tài, nhưng mà mình không có đủ cái duyên đem cái tài của mình để giúp nước, để giúp dân. Cho nên trong cái lúc đó, bấy giờ thì cụ quá đau khổ chứ không phải là gì. Cái câu thơ nó nói về sự đau khổ của cụ, cái tâm nguyện của cụ.
Nhưng mà, theo Thầy thiết nghĩ cụ không phải là người vô tài, nhưng mà chỉ vì cụ không thấy được quy luật nhân quả của đất nước quê hương chúng ta bao nhiêu năm, mà như vậy. Cho nên cụ chỉ là một cái người để mà làm cho đất nước chúng ta chia làm hai, mà trải bao nhiêu chục năm trời, để mà chịu cảnh đất nước lấy sông Gianh mà chia ra. Đau khổ lắm chứ không phải không. Đó là một cái nhục nhã cho quê hương chúng ta rất lớn.
Thí dụ như, trong khi đó, con biết khi mà đất nước của chúng ta gần đây, dân tộc chúng ta đuổi Pháp ra khỏi đất nước chúng ta, thì ngay đó người ta đã chia đất nước chúng ta, lấy sông Bến Hải mà làm chia đôi đất nước, thì coi như là cái dòng sông Gianh vậy.
Thế mà Bác Hồ lãnh đạo để mà thống nhất đất nước, Thầy thấy rất là tài. Nếu mà không khéo, là chúng ta cũng bị. Đâu phải ở trong miền Nam này nó không có quân đội quốc gia đâu, nó chống Cộng toàn bộ chứ đâu phải không đâu, ghê gớm lắm chứ, nhưng mà cái tài lãnh đạo khéo léo để mà thống nhất.
Còn cái này, Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn chia ra như vậy để mà kéo dài với nhau, mà cứ lấy dòng sông Gianh mà đánh với nhau. Dân Việt chết với dân Việt biết bao nhiêu, đau khổ lắm chứ. Nhưng mà cụ ấy không có xoay chuyển được cái chỗ này, mà còn hướng dẫn cái ông này đi ra chia rẽ. Có phải Nguyễn Hoàng đến hỏi: “Ông biết kiểu này rồi, mà chia đất nước mình ra là một cái nhục”. Cho nên cái tài ông có, nhưng mà không thấy ông xoay trở được, ông không làm được, mà đưa ra một cái mà Thầy thấy quá đau khổ.
Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, những cái cộng nghiệp lớn của toàn bộ chúng sinh ở trong phạm vi đất nước nó như thế, làm sao có thể xoay chuyển được tình thế?
(54:23) Trưởng lão: Cũng như bây giờ Thầy hỏi, đặt thành vấn đề như Thầy đang bây giờ ở trong cái vị trí của Thầy chứ gì, làm sao mà xoay chuyển nổi cái tình thế của Đại thừa? Con cứ nghĩ đi!
Nhưng mà có người hỏi Thầy: “Một con én có làm được nên mùa xuân không?” Người ta hỏi Thầy như vậy mà. Thầy nói: “Có con én là có báo mùa xuân”, chứ đừng có nói chuyện. Nhưng mà mình có quyết tâm hay không, hay hoặc là mình thấy cái khả năng mình yếu quá, mình ít quá, mình không thể xoay chuyển được?
Không! Thầy nói rằng, đời Thầy làm chưa được, con cháu Thầy làm! Chỉ làm sao Thầy giữ vững được tinh thần này.
Còn bây giờ mình yếm thế, như bây giờ cụ Trạng Trình đưa ra cái bài kệ đó là yếm thế rồi, con thấy không, tiêu cực rồi, còn ai mà tin tưởng nữa? Cho nên không có người nào mà người ta đứng, mãi cho đến khi cuối cùng sau này Quang Trung mới thống nhất được. Cả một vấn đề, con thấy không? Cho nên đến khi cuối cùng thì cái ông này là tự cái tài - bởi vì nhân quả, phải theo cái quy luật của nhân quả- đến ông Quang Trung ông ấy mới thống nhất được Trịnh - Nguyễn. Nó ghê gớm thiệt!
Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, những ngày qua con cũng nghĩ đến chuyện này, nhưng con cho đó là cái nghiệp lực của chúng sinh. Cái cộng nghiệp lực ấy nó đến chỗ ấy, nó chưa gặp những cái duyên để nó có thể bung phá ra để đi đến một cái duyên hợp mới.
Thế còn cái chuyện Thầy nói, thì con chịu lắm rồi. Nhưng vì thế này, vì con thấy là vạn vật thì luôn biến đổi, không có một cái gì gọi là thường hằng cả, và con người ta cũng là một vật thể trong vạn vật, nên nó vẫn nằm trong cái vòng biến đổi ấy. Nó như những cái hạt thóc trong một cái cối xay lúa. Cối nó quay, thì tất cả hạt thóc nào nó cũng phải quay cả.
(56:14) Nhưng lại có một người, trong số hàng tỷ người trong nhiều ngàn năm, con người ấy làm chủ được tâm của mình, để cho tâm bất động, làm chủ được, không chịu cái quy luật ấy chi phối.
Bạch Thầy, những chuyện như thế là những chuyện phải hàng nghìn, hàng nghìn năm, mãi mới có được những sự kiện phi thường ấy.
Chứ còn nếu nói đến chuyện bình thường ở đời thì con chịu rồi. Thầy nói thế thì con chịu rồi. Con không dám nói gì nữa, không thể ví như thế được.
(56:48) Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, con về Tu viện, được sống ở bên cạnh Thầy, đến hôm nay, bảy ngày nữa là được hai tháng. Như vậy cũng được bảy tuần.
Con xin Thầy chỉ thẳng cho con, trực chỉ cho con những sai, những lỗi lầm trong mọi việc, từ nói năng, suy nghĩ, và trong cái hạnh độc cư, để cho con biết, để con sửa. Con có được chỉ như thế, thì con mới biết cái chỗ đích ấy để con tập trung vào.
Trưởng lão: Thực sự ra thì con rút tỉa qua cái thời gian ở đây, thì cái hạnh độc cư nó chưa trọn vẹn, nó chưa trọn vẹn lắm.
Cho nên vì vậy đó, sau khi mình rút tỉa những kinh nghiệm đó ra, mình tập. Thí dụ như bây giờ con về ngoài đó con đặt thành vấn đề con tập một tháng để độc cư trọn vẹn. Bây giờ bất kỳ, quyết định là nhà cháy nhất định con cũng không ra, không chạy ra, nhất định là phải ở đó, chết bỏ!
Bây giờ thí dụ, bởi vậy con thấy cái độc cư đặc biệt lắm, bởi vậy Thầy nói cái gương hạnh của Thầy, hai bên đánh giặc với nhau, súng đạn nhiều như vậy, mà Thầy đã quyết định không chạy là không chạy. Đó là độc cư!
(58:00) Cho nên nhất định không tiếp ai là không tiếp. Bây giờ cha mẹ chết - bỏ luôn. Không có tính tới chuyện phải đập cửa đi ra giải quyết vấn đề này, không phải. Vấn đề này là vấn đề quan trọng chứ không phải là vấn đề tầm thường. Đám ma, hay cha mẹ chết đều là thường. Ai là không có cha, mẹ chết? Cho nên mình bây giờ đi ra làm cái chuyện này, cũng là thường thôi.
Còn cái chuyện làm chủ sanh tử này là cái chuyện phi thường rồi. Không thể bỏ cái chuyện phi thường mà đi đổi lấy cái chuyện tầm thường. Cho nên nhất định là phải giữ trọn vẹn độc cư.
Cho nên con tập một tháng, mà trong một tháng này nhất định là không phá. Sau một tháng rồi mình tiếp duyên, mình ra. Rồi sau đó mình tập dần dần, dần dần lên. Rồi nó tăng đến cái mức độ: “À tôi thích sống độc cư”, nhất định là cắt đứt hết các duyên, sống độc cư để giải quyết vấn đề sinh tử, thì nó mới yên.
Có vậy thôi. Đó là bí quyết. Cho
nên vì vậy sống ở tại Tu viện, Thầy nói như thế này con xét mình thì biết, bởi vì con chưa sống trọn vẹn độc cư cho nên nó chưa trọn vẹn. Phải chi từ hai tháng nay mà con sống trọn vẹn độc cư, tiến bộ xa lắm. Con hiểu không?
Mặc dù là bây giờ con cũng đã nếm được mùi vị thích thú ở trong cái độc cư, nhưng mà nó chưa trọn vẹn. Đó là một.
Còn những cái pháp thì Thầy nói con đã nắm được pháp, ôm chặt pháp mà tu thì không đến độ sai đâu.
Nhưng mà về cái hạnh ăn, ngủ và độc cư, nhiều khi cái ngủ nó vật con cũng dữ lắm. Phải chiến đấu đó. Đó là những cái lỗi mà có thể nói rằng mình sẽ sai ở trong những cái phần này. Còn cái ăn thì có thể nói rằng mình khắc phục cũng dễ chứ không có khó đâu. Nhưng mà cái ngủ này khó này, cái độc cư này khó này.
À bây giờ thí dụ như, mình thích sống một mình rồi, nhưng mà có người khác người ta lại nói chuyện với mình, nên mình thấy nó kỳ quá, không nói thì không được. Bởi vì, mình còn theo cái nếp cũ, cho nên mình thấy nó kỳ. Nhưng mà đó mới là cái chỗ tầm thường.
Còn cái chỗ phi thường, nhất định là người ta nói, đưa ngón tay vầy đi luôn, không cần. Đó là phi thường, làm chuyện khác. Cho nên người ta nói gì nói, mình bỏ đi, không nói nữa.
Người ta nói cái ông này làm vẻ, làm phách, tu hành chẳng ra gì. Họ nói mặc họ, nhưng mà cái việc tôi làm, đó là việc phi thường chứ không phải việc tầm thường.
Nếu mà tầm thường, tôi đứng lại tôi nói chuyện, hỏi cái này cái kia vài lời, thì cái đó ai làm cũng được.
(01:00:00) Còn cái chuyện mà bỏ đi như vậy, mà hiện bây giờ tôi là cái người như thế này mà tôi làm vẻ làm phách, tôi đâu có phải như vậy đâu. Nhưng mà tôi làm được như vậy là tôi đã vượt qua tâm tôi rồi, tôi làm, việc làm phi thường đó. Khó lắm chứ không phải dễ đâu, Thầy nói khó, cái chuyện đó khó. Cho nên độc cư nó thể hiện được cái sự phi thường của người ta, mà cái người không phi thường thì bao giờ cũng bị dính vào cái tầm thường này hết.
Cho nên nó là cái mục đích cao cả, mà nói không phi thường thì làm sao cao cả được? Cho nên, thí dụ như bây giờ bạn bè rất là thân thuộc của con, nghĩa là chiến hữu trong cái sự sống chết ở trên mặt trận, mà bây giờ hôm nay mục đích tôi là giải quyết sanh tử, thì bây giờ anh có đến, nhất định là anh cũng như người xa lạ thôi. Anh không có đến đây với tôi được cái chỗ này đâu. Cái dịp khác sẽ nói chuyện, chứ còn cái dịp bây giờ tôi không có nói. Thì đó là mình giữ tâm. Bởi vậy Thầy nói, cái này là cái quyết định của cuộc đời tu của mình. Chứ không khéo mình chỉ được phân nửa, còn phân nửa nó chưa tới đâu.
Cái đó là cái quyết định. Cho nên vì vậy mà những cái này là cái lỗi của mình, mình chưa có đủ cái nghị lực để mà thắng, để giữ được cái hạnh này. Cho nên mình sẽ còn giậm chân tại chỗ, mình sẽ đứng lại một chỗ, không tiến hơn được. Muốn đi lên nữa thì mình phải trở thành người phi thường. Đó là cách thức sống phi thường, mà chỉ có hạnh độc cư này mới thấy thật sự ra mình phi thường hay không phi thường.
Sống một mình, con ngồi một mình ở trong cái nhà một mình, không nói chuyện với ai. Con phải biết cái chuyện này là cái chuyện người phi thường, chứ không phải là chuyện người tầm thường mà làm được.
Họ cô đơn, họ chịu không có nổi. Rồi nó tuôn trào thôi cái này, đến cái kia, cái nọ. Rồi nó ngủ gục. Một mình ngồi chơi một mình mà không làm gì, thì nó gục tới, gục lui, chứ nó đâu có dễ gì.
Đây là những chuyện làm phi thường của những người phi thường.
Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, trong những buổi thuyết Pháp, rồi thì các đĩa, rồi băng, Thầy có nhắc nhiều đến cái độc cư, nhấn mạnh đến cái tầm quan trọng của nó.
Thậm chí đã có những lúc con phải thoáng trong đầu một ý nghĩ là tại sao chuyện này Thầy phải nhắc nhiều đến nỗi như thế này? Tức là cái mặt trái của nó đấy, con lại nghĩ về mặt trái, chứ con chưa thấy được ý nghĩa quan trọng của cái việc sống độc cư. Mà con lại thấy cái mặt trái của nó, có lúc con đã nghĩ đến như thế.
(01:02:13) Thế nhưng rồi dần dần con mới thấm dần ra là, độc cư là vô cùng quan trọng. Thế nhưng đã hiểu đến chừng mực đó rồi, nhưng vẫn không hiểu được như thật. Vì đã một lần Thầy nói, có một cháu gái hỏi Thầy, cái bí quyết của việc tu tập Thiền Định là gì vậy? Thì Thầy nói là hạnh độc cư. Thì sau tất cả những lần ấy con mới thấm lên dần, là độc cư vô cùng quan trọng. Nhưng mà con chưa hiểu được cái đó như thật.
Hôm nay cầu Pháp, Thầy lại bố thí cho con điều này nữa, thì lại thêm một lần nữa để cho con rõ hơn thêm nữa.
Trong những ngày vừa qua con cứ tưởng như là, sống độc cư con sẽ làm được, chứ không phải khó khăn gì lắm. Thế nhưng con mới biết rằng có những lúc rất kỳ lạ, là thế này: Suốt từ sáng đến chiều thì không sao, nhưng đến chiều tối thì tự nhiên con nảy ý nghĩ con xuống nhà bếp, xuống nhà bếp không để làm gì cả. Có nhiều khi con mới về con xem lại mình, thì hóa ra chỉ để trông người này, trông người kia tí rồi về thôi. Thì coi như nó có những lúc quái đản như thế.
Trưởng lão: Nó phá độc cư đó!
Sư Thanh Quang: Thế! Hoặc là con đã tâm tâm, niệm niệm là con không nói chuyện với người này, với người kia. Thế nhưng rồi tự nhiên hôm đó nó xui khéo từ lúc nào, vì những cái lý do nào đó, tự nhiên con bật đến tận nơi, con hỏi người đó về một cái việc. Thế sau khi xong rồi, con biết: “À, thì ra độc cư khó”. Nó có những cái gì đó, mình không gọi được đích danh nó ra, hình tướng nó như thế nào, mình không gọi được ra, nhưng nó ở đằng sau, nó tìm mọi cách nó phá mình ở chỗ này.
Thế thì, Bạch Thầy là, con sẽ tin rằng dần dần từng bước, con sẽ giữ được. Bởi vì con thấy rằng, đây là cái chìa khóa tối quan trọng để mở cửa, còn nếu không có chìa khóa này thì thôi, chỉ có đi dạo vòng quanh ở bên ngoài, không làm gì được cả.
(01:04:09) Bạch Thầy là, có lẽ trong những ngày tới nếu không có gì đổi thay, thì nếu con con mà nó đưa cả vợ con nó ở bên kia nó về, thì con sẽ về một số ngày để con gặp, và, tức là nói chuyện với tất cả mọi người thân ở trong gia đình về mặt tư tưởng, để cho họ hiểu thêm cái việc của con làm.
Và không những thế, con cũng muốn làm để cho họ cũng hiểu một phần. Mười phần con nghĩ, thì họ cũng nghĩ được lấy một, hai rằng những việc phải làm. Trong gia đình, như thế chính là thương nhau, chính là có trách nhiệm với nhau, chính vì thế là gỡ cho nhau, và đó là cái tình thương cao cả nhất.
Chứ không phải cái tình thương để cung phụng, để bù trừ, để báo hiếu, theo cái kiểu của cuộc sống thế gian. Tất cả những cái đó chỉ làm khổ nhau thêm, chứ không có cái gì thiết thực ích lợi.
Thế thì con cũng về, là để nói chuyện với con cái tất cả những việc như thế, và con cũng chuẩn bị cho những cái việc sắp tới của con. Còn ý nguyện của con là con tu tập. Ở đây mới có thể tu tập rốt ráo được, chứ còn ở nhà, trong cái môi trường ở nhà dù có thuận lợi đến đâu chăng nữa, thì con thấy cũng vẫn chướng ngại kinh khủng.
Trưởng lão: Đúng vậy con. Nó khó lắm, ở nhà khó, rất khó, không phải dễ.
Sư Thanh Quang: Thế Bạch Thầy, nếu như con mà về thì trong thời gian ấy, con phải sống như thế nào cho nó đúng? Nếu như đóng cửa mà để độc cư, thì con chắc là không được rồi.
Trưởng lão: …không được, nó không có hợp.
Sư Thanh Quang: Thế thì bây giờ con về như vậy, việc ăn hằng ngày nên như thế nào. Thế rồi chuyện đi lại, thậm chí nhu cầu của gia đình để phải về quê, gặp chỗ này chỗ kia. Thế rồi thì trong quan hệ xã giao, xã hội, phải gặp để giải quyết chuyện này chuyện khác… Thế thì tất cả để cho nó khỏi phí thời gian, và cho nó hiệu quả tốt nhất, thì Thầy dạy cho con xem trong cái thời gian khoảng một tháng, hoặc hơn một tháng ấy, con nên như thế nào?
(01:06:20) Trưởng lão: Trong cái thời gian con về quê mà bây giờ gặp tất cả những cái sự xã giao trong gia đình cũng như ngoài xã hội, đều là giao tiếp với mọi người bình thường hết, phải không? Đó là một cái cuộc sống bình thường.
Nhưng mà luôn luôn với cái hiểu biết của mình về nhân quả, luôn luôn thấy nó là nhân quả, không có thấy cái khác, không thấy đúng sai nữa. Thấy nhân quả, cái gì cũng thấy nhân quả hết.
Thuận cũng là nhân quả thuận, mà nghịch cũng là nhân quả nghịch, phải thấy nó là nhân quả hết. Cho nên phải giải quyết trong cái góc độ nhân quả. Phải nhìn thấu mọi sự kiện nó xảy ra.
Nghĩa là nó xảy ra tốt, tức là nó thuận hòa, nó êm ái, nó tình cảm, nó đầy đủ, thì nó cũng là nhân quả.
Mà nó nghịch, nó có những cái nó làm cho mình bất toại nguyện, nó làm cho mình bất an, nhưng mình phải thấy nó là nhân quả, thì nó sẽ giải quyết được cái tâm của con, sống nó sẽ bình an. Đó là cái thứ nhất.
Cái thứ hai, cái đời sống, thí dụ như, thay vì ở trong Tu viện con ăn ngày một bữa chứ gì, về đời con vẫn ăn ba bữa như họ như thường. Nhưng mà không phải vì đó để cho mình ăn no. Mình ăn để mà vì tùy thuận họ để mà cho vui vẻ, coi như là mình làm cho vui lòng mọi người, chứ đừng có nghĩ rằng tôi giữ như thế này. Khi nào mà tôi vào chỗ nào tu là tôi phải giữ trọn.
Bây giờ vấn đề xảy ra với mình, không phải vì cái lý do đó mình ăn như họ. Thí dụ, như bây giờ mình ăn lấy lệ, tức là mình ăn cái bánh, hoặc là một bát cơm nhỏ, hoặc là một chén cháo, hoặc là cái gì một ít thôi, nhất định không tham đắm gì cả. Dù là bây giờ có đói cách gì cũng không tham đắm, tới trưa thì ăn.
Đó nhớ như vậy, thì cách đối xử người ta sẽ thấy mình không sai khác họ chút nào, cũng giống họ.
À nhưng mà họ thấy mình sao ăn ít quá, thì nói: “Tôi thành quen rồi, sáng ăn chút vậy thôi, chứ không có ăn nhiều. Rồi chiều cũng vậy thôi”. Tại vì coi như là mình có hòa hợp với người ta. Nhưng mà mình ăn ít, thì người ta nói: “Sao anh / ba / bác sao mà ăn ít quá vậy?” thì nói: “Tại quen rồi, ăn ít nó quen rồi”. Thì mình cũng nói cái lý do thì không ai nói gì, tại vì thấy mình có sống khác họ đâu.
(01:08:16) Nên về cái đời sống, ăn uống là nguy hiểm lắm. Còn người ta thấy khác, người ta nghĩ mình ăn vậy là mình bị ốm, bị yếu, bị bệnh, bị tật, người ta có cái tư tưởng đó rồi. Cho nên làm cho người ta bất an, không tốt. Mình vẫn ăn như thường, nhưng mà mình ăn ít. Thay vì người ta ăn một ổ bánh mì vầy, thì mình ăn một miếng bánh mì thôi, có sao đâu, có gì đâu mà sợ, bình thường thôi. Nhưng mà mình không vì cái chỗ thích ăn.
Chỉ mình hỏi cái tâm mình có thích ăn buổi sáng này không? Không - mình biết mình không. Đó, không ăn không sao, nhưng mà vì tùy thuận để cho vui vẻ cả gia đình, cả những cái người bạn bè xung quanh xóm làng của mình, những người thân cận bên mình người ta thấy mình không có khác họ chút nào. Nhưng mà người ta có nhìn thấy mình ăn ít, thì mình cũng nói: “Tại vì quen rồi”. Đó thì mình lấy cái lý do đó, thì coi như mình ăn nó không có gì hết, không có sao.
Còn về vấn đề như trong cái dịp ngày giỗ, ngày Tết, hoặc gì đó, trong cái dịp mà có cúng bái chẳng hạn, thì mọi người người ta làm sao thì người ta làm, chứ mình đừng có cấm cản. Nhưng mình thấy những người thân của mình, thì khi đó, mình ngồi lại. Trong cái buổi lễ đó thì mình đừng có nói, đừng có cản người ta. Ai làm gì cũng được, mê tín kiểu nào cũng được hết, không có rầy rà gì hết, không có nói gì hết.
Nhưng mà sau khi cái sự kiện nó qua rồi, trong một, hai ngày thì gia đình mới tâm sự, mới nói chuyện với nhau, mình đem cái chỗ đúng, sai để mình dẫn dắt họ, chứ không phải làm thinh để cho họ làm cái điều mê tín đó, con hiểu không? Mình nói cái lý nào đúng, cái lý nào sai ở trên cái sự cúng tế. Chứ đừng có nói là không có cúng ai hết, thì không được.
Cúng tức là cái lòng của mình tưởng nhớ công ơn, chứ không phải là cúng đem cái vật thực đó để cho cái người chết người ta hưởng, rồi người ta phù hộ cho mình, không phải là cái điều đó. Mình nhớ ơn, hôm nay là cái ngày đó mất cha, mất mẹ, hoặc là cái ngày này là ngày của những người ân trong gia đình của mình đã chết đi rồi. Mình nhớ cái ngày này, là mình nhớ đến công ơn của những người đã từng sống để lại cho con cháu nó có cái này, cái kia, cái nọ, mình nhớ lại.
(01:10:15) Thì làm cái bữa ăn đó, mình để lên, để mà tỏ vẻ cung kính vậy, chứ sự thật có ai ăn đâu, mình biết rõ. Và để lên như vậy để tỏ vẻ cung kính của mình rồi dọn xuống thì cũng con cháu trong gia đình mình ăn mà thôi, chứ không có gì hết. Bày lên cúng thì mình cũng vẫn chấp nhận. Cái đó là cái lòng thành, lòng kính dâng mà, chứ sự thật mình biết không có ai ăn, nhưng mà để tỏ ra cái lòng cung kính của mình.
Chứ đừng có nói là đừng có cúng, đừng có này kia, thì như vậy là mình sai, không có đúng. Cúng, nhưng mà cúng ở trong cái lòng là đúng, hay là lòng mê tín thôi. Cái hình thức thì vẫn y như họ, nhưng mà cái tấm lòng nó khác, không có giống nhau, thì nó đúng.
Tại sau này khi mà cúng bái, thấy có những cái chuyện mà nó hơi sai, nó qua cái dạng mê tín, thì con cũng không rầy ngay đó, không nói gì, không chặn họ ngay đó đâu. Mà đợi cái lúc nào gia đình vui vẻ ngồi lại, mình mới bàn bạc. Trong cái ngày lễ cúng, theo học đạo như thế nào, hay hoặc là theo cái sự hiểu biết, thì với cái tinh thần mà cúng lễ, hay hoặc là ngày Tết, ngày giỗ, thì với cái tinh thần nó phải cúng như thế nào.
Theo… cũng như con bây giờ là người lớn ở trong gia đình thì: “Theo ba, hoặc là theo ông, ông đã nghĩ cái điều mà mình cúng ông bà của mình, tổ tiên của mình, phải cúng cái tinh thần này nó mới đúng hơn. Còn cúng cái kiểu mà chẳng hạn như mấy con, mấy cháu mà làm, thì nó là theo cái phong tục cũ, nó có vẻ mê tín, nó không có đúng sự thật, nó không có đúng với tính chất”.
Mình khuyên dạy cho nó, thì nó có cái trí tuệ, nó cũng nhận ra chứ đâu phải nó không nhận ra. Do đó mình dẫn dắt cái chùm nhân quả mình đi. Chứ còn mình gạt ngang, nhiều khi người ta không hiểu đó, người ta có cái sự tư tưởng không giống nhau, thành ra nó rắc rối lắm.
(01:12:00) Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, con ở chỗ này con đã mắc phải một cái mà do con tạo nên thì giờ con phải chịu hậu quả là thế này:
Trước khi con rời khỏi quân đội con về, thì lúc bấy giờ là con không tin là có cái thế giới vô hình nào. Thế nhưng rồi dần dần thì con bị đưa vào chỗ đó. Và đến lúc con nghĩ rằng, sống là phải có trời, có đất, chết không phải là hết, nên là ông bà, tổ tiên, thần thức người ta vẫn còn, người ta vẫn ở chung quanh với ta. Nên nếu thương, kính trọng cha mẹ, ông bà, thì lúc nào tâm niệm nghĩ đến, và coi như cha mẹ, ông bà mình luôn ở bên cạnh mình, để mình sống như thế nào cho nó đúng với cái đạo, với cái hiếu. Thế thì con đã tác động cái này vào toàn bộ gia đình, tác động rất mạnh cả dòng họ.
Con đã về từ lúc nhà thờ suy sụp, hư hỏng, nát, con về con cúng, rồi con động viên mọi người sửa sang lại nhà thờ, đưa các cháu đi tôn nhang thờ phụng, và rất nhiều người, toàn bộ trong gia đình lớn, là đều theo con hết.
Và bắt đầu mọi người đều hướng vào cái sự con dạy cho mọi người - cái duy tâm. Thế và gia đình được thành nề nếp về mặt đó, có thể nói là trong cả một chục năm dài như thế.
Thế thì đến một lúc mà con, từ năm ngoái về Tu viện đọc sách, đọc Pháp của Thầy dạy cho, thì con mới nhận được ra đấy là chân lý. Thế thì con đã tự tạo nên cái nghiệp kia, bây giờ tự con phải gỡ cái này đấy. Bây giờ lại đến chỗ con phải bảo mọi người rằng không có cái thế giới vô hình, nên phải làm sao để cho họ nhận ra được cái chỗ đó, chứ nếu không thì họ cứ tin con, từ trước đến nay là họ tin con.
Năm ngoái là con đã bắt đầu theo cái cách, là tự con, con tháo gỡ ra. Con để cho họ, họ thích làm thì họ cứ làm, tùy vào họ. Nên trong gia đình thì ban thờ Phật, rồi thờ gia tiên là vợ con tự cúng bái, con không ngăn cản gì cả, con bảo, tùy.
(01:14:10) Thế nhưng con nói với nhà con, rằng chúng ta học đã thấy rất rõ rồi, cái tưởng nó có thể dẫn ta đến tất cả những chuyện ghê gớm đến như thế đấy. Nó có thể, gần như nó hiện hành đến mức độ có thể chinh phục ta, cho ta phải tin rằng có chuyện ấy. Những cái chuyện từ trước đến nay ta thấy kỳ lạ như thế, thì chính là cái tưởng đấy.
Thế thì con mới nói trong phạm vi của vợ con, và trong gia đình, còn phải làm những chuyện này đối với các cháu. Còn nếu con mà không làm, thì tức là con đã để lại một cái hậu quả rất là tai hại, tức là cái sự mê tưởng trong đầu chúng nó.
Sư Thanh Quang: Thế thì bạch Thầy, còn một cái chuyện con cứ đăm đắm con nghĩ, là về ông thầy.
Ông thầy mà chính những ngày đầu tiên đã đưa con để biết đến với đạo Phật, có những giáo lý ban đầu mà con thu thập, con học hành, thì là ông thầy mà gọi là thuộc vai vế của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Thì về mặt trí tuệ của thầy, thì con cũng hiếm gặp được những người như thế, tức là thầy thông hiểu mọi vấn đề rất sâu sắc, thế và những lúc hầu chuyện thầy, thì thầy rất thích chuyện trò với con. Hôm về đến đấy thì thầy lại gọi người, sai người làm một cái gì đó nhắm: “Để tôi ngồi với bác Vệ, và chỉ có bác Vệ hôm nay tôi mới được cởi mở những cái sự che đậy, chứ còn ở đây thì tôi nói với ai?”, mà đệ tử của thầy thì ở các tỉnh rất đông.
Thế nên sau khi con rời đấy con ra đi thì thầy thương, thầy tiếc suốt mấy năm trời. Thỉnh thoảng thầy vẫn về chỗ nhà con, và tìm mọi cách động viên làm cho con quay trở về trước.
Con thì không bao giờ quên ơn của thầy, nhưng mà con tìm mọi cách để con lảng tránh, con không trả lời về những vấn đề ấy.
(01:16:00) Thế nhưng đến một lúc không trả lời không được, thì con tìm cách để con nói với thầy về cái duy tâm và cái duy vật, và cái đạo Phật, cái Duy Thức Luận, cái mà chúng ta vẫn thấy là linh thiêng ấy. Vì có những lần thầy nói với con rằng: “Phật Bà Quan Âm bay ở đằng trước, tôi với bác đang đi sau đây”. Và chính thầy đã đưa cho con một tờ giấy học trò giấy trắng tinh, bảo con đọc đi. Con nằm từ sáng đến mười giờ không trông thấy cái gì, vì một tờ giấy trắng mà lại bảo: “bác đọc đi, xem đi”, con khó chịu.
Đến một lúc gần mười một giờ, thì con trông cái tờ giấy ấy thì là không biết bao nhiêu là người, có cả Bác Hồ đứng hai tay chắp ở đằng sau như là chiến dịch biên giới năm 50, rồi thấy cả những người nón thúng quai thao, rồi người già, người trẻ, và thấy cả người nước ngoài.
Đến lúc ấy con mới thốt lên con hỏi thầy, thì chính cái tưởng đã tạo sâu trong con đến mức độ như thế. Trông vào lúc nào, ở chỗ nào, con cũng thấy Bác Hồ. Hoặc thậm chí đến gia đình người ta, con ngồi một tí là con trông thấy trên mặt đất, có khi hai, ba đứa trẻ con ở cái nhà này, và bảo luôn: “Dòng họ đã làm kế hoạch hóa gia đình đây, nên là có một đứa con trai hay con gái đang lẩn quẩn đây”, có lúc con đã… những cái việc như thế.
Thế thì từ ấy đến bây giờ, thì con đã nhận ra những điều này, và con muốn tìm mọi cách để nói chuyện với ông thầy của con về những vấn đề đấy, và con muốn thầy sẽ ngộ nhận được ra chân lý, nhận được ra những điều Phật dạy rằng không có thế giới vô hình.
Đã một lần con nói chuyện với thầy, nếu bình thường ra thì tầm hiểu biết của con không thể nào có thể tiếp thầy về nhiều phương diện được. Thế nhưng về một vấn đề này, thì từ khi con đã học giáo pháp ở đây, thì con đủ sức có thể nói một cách thẳng thắn và dồn cái suy nghĩ sai của thầy đến cái chỗ đường cụt. Thế nhưng con không dám nói. Cái đêm hôm ấy con dồn đến một mức độ nào đó thì con làm như thế thì con thấy con không đúng, không phải đối với thầy của mình, nên con dừng lại, con chịu thua, con lặng ngắt.
(01:18:13) Vì hôm ấy, lúc ấy thầy có bảo con là thế này: “Phật là thế nào? Tôi nói với bác. Đêm tôi ra tôi ngồi, con trâu cũng cột cạnh đấy. Tôi ngồi, tôi thương nó quá, và tôi nói với nó rằng:
- Mày khổ lắm. Mày ăn thì ăn giả, mày làm thì làm thật. Mày cày kéo, mày chịu bao nhiêu khổ như thế.
Và tôi cứ nghĩ tôi thương nó, tôi vuốt ve nó, tôi bảo nó ra đây, thì nó bò ra. Nó bò ra gần chỗ tôi, và nó xát đầu vào chân tôi.
Lúc bấy giờ tôi thấy một tình cảm ở trong tôi, nó lạ lùng, nó mênh mông, nó chưa từng có, đó là tình yêu thương vô tận, thì tôi biết “Phật” đấy, “Phật” là thế đấy”. Thầy đã nói đến như thế rồi, thế là con bảo, thôi con chịu rồi, con không nói gì nữa.
Thế bây giờ lần này về, con cũng muốn là một lần nữa cố gắng làm, có kinh sách, có giáo pháp của Thầy, xem ông Thầy của con liệu có đủ duyên, gặp cái duyên này liệu có nhận ra không, con không hiểu nữa. Bạch Thầy, con nên làm vậy không?
Trưởng lão: Thật sự ra thì đây cũng là cái căn duyên của đời trước, nó đã huân như vậy. Đó là đức Phật nói “Kiến kiết sử”.
Cái kiến chấp của người ta đã chấp, nó khó mà cởi bỏ chứ không phải dễ. Ngay cả thời đức Phật ngày xưa, một vị Bà La Môn kiến chấp như vậy, đức Phật nói gì nói họ cũng vẫn khư khư như vậy, không có xả bỏ được. Khó lắm, chứ không phải dễ. Nó là Kiến kiết sử, nó là cái sợi dây nó rịt chặt quá.
Như Thầy biết rằng bây giờ, cái số người mà theo Đại thừa, nó bị Kiến kiết sử của Đại thừa nó cột chặt. Con biết ở trên mạng, trang web Thư Viện Hoa Sen nó nói về Thầy rất nhiều. Số hạng này hoàn toàn là hạng trí thức, hạng đã học hỏi về kinh sách Đại thừa nó kiến chấp, nó đưa ra như vậy đủ loại, nó theo cái luận điệu của Đại thừa mà nói Thầy sai cái này, sai cái khác, nhưng mà sự thật ra nó đâu có đúng.
(01:20:21) Thậm chí như cả lịch sử của đức Phật nó cũng dựa theo những cái lịch sử của Đại thừa một cách mơ hồ, nó không thực tế, nó không có biết.
Còn Thầy thì căn cứ Thầy nói điều đó. Nó tưởng đâu Thầy nói chỉ đặt ra mình nói, sự thật Thầy có căn cứ đàng hoàng, hẳn hoi, mà chưa viết thôi. Nhưng mà khi mà lật ngược trở lại, thì kể như hoàn toàn những người này là số ‘không’ hết. Cho nên con biết hàng bao nhiêu bài nó viết nó đưa lên trên mạng, nó để cho mọi người đọc.
Sư Thanh Quang: Con có đọc, một hôm con thấy họ bắt bẻ Thầy về câu chữ, con cười quá con không chịu được, rằng họ lại ấu trĩ đến mức độ như thế này, tầm hiểu biết của họ lại lệch lạc đến mức độ như thế này, non dại đến mức độ như thế này.
Trưởng lão: Họ không hiểu đâu. Họ nói cái câu của Thầy viết nó còn thiếu cái túc từ, để chỉ cái thời gian Phật giáo có từ hồi đó tới bây giờ. Nhưng mà sự thật ra con thấy nó có tới bây giờ được không? Cho nên họ hiểu sai, họ không hiểu. Nghĩa là có Phật giáo có, mà nó đâu có cái thời gian mà tới hiện tại bây giờ được, nó đã sai hết từ…
Sư Thanh Quang: Quả là cái Kiến kiết sử nó ghê gớm thật, không có cái gì như đó được.
Trưởng lão: Nó dám chỉnh cái câu đó chứ. Câu người ta nói, ít ra nó phải hiểu Phật giáo nó chỉ có cái thời gian đức Phật ra đời đó thôi, có một thời gian ngắn đó thôi, rồi nó bị mất đi, nó bị dìm, nó đậy lại.
Bây giờ nó đưa ra cái này để làm gì con biết không? Nó phủ chụp lên cái của Thầy, để nó làm cho cái Đại thừa này nó sống. Chứ không có Thầy, thì nó dẹp, nó vạch ra, nó dựng cái của Phật lên, nó làm cái này bị chết đi. Cho nên nếu mà mấy ông này mà không có như vậy, thì nó bị chết.
Cho nên thậm chí như có người nói kinh sách của Thầy, đến đâu đừng có truyền thừa, đem bỏ đốt hết. Đưa ra những cái ý kiến đó mà, cái này nó nguy hiểm lắm, đó là những cái ý kiến. Bởi vì một cái người nó luận một bài thôi, nhiều người nó sẽ a dua theo, nó nói theo, chứ nó không có đủ cái sáng suốt mà luận. Cho nên khi mà đọc những cái bài này, Thầy thấy đúng là Đại thừa rồi, nó là cái tư tưởng của nó từ xưa đến giờ, nó nhai lại những cái này.
(01:22:23) Cho nên khi mà cô Diệu Quang cô đọc rồi, cô nói với Thầy, tụi con muốn trả lời, Thầy nói đừng có trả lời. Nhưng mà cô thì có những ý kiến, cô ghi những ý kiến, Thầy nói ý kiến này thì chỉ có Thầy là người trả lời mới chính xác, chứ còn mấy con cũng không có chính xác được. Bởi vì cái này Thầy nói, chưa có ai biết, thành ra rất khó. Bây giờ muốn trả lời đó, thì viết, cứ viết đi rồi Thầy chỉnh lại cho, Thầy nói thế. Chứ còn nếu Thầy không chỉnh, thì mấy con cũng chưa có hiểu nổi đâu. Thầy chỉnh lại có thời gian - cái lịch sử hẳn hoi: thời gian nào, thế nào, dựa vào chỗ nào mà nói ra. Nó có căn cứ đàng hoàng.
Thành ra nói chung là, nó cũng đưa ra như vậy, Thầy biết là họ đưa ra như vậy, nếu mình làm thinh mình không nói, thì nó cũng gây ra một số người, người ta cũng bị kiến chấp đó. Số đông, chứ không ít đâu. Bởi vì họ thấy cái đó, mà không ai nói gì, họ thấy cái đó hẳn rồi. Nhưng mà đưa ra một, trong khi mà họ luận mười bài, hay hai chục bài, hay một trăm bài, mình chỉ cần lấy một bài thôi. Trong những bài ai chọn một bài nào đó, đưa ra, để mình dẹp cái sai của họ, thì nó đổ nát họ xuống hết. Người ta sẽ thấy họ sai. Về lịch sử, về giáo lý của Phật, đều là trật hết, không có đúng, cái cách hiểu biết của họ không có đúng.
(01:23:46) Cho nên, thầy Từ Quang ông cũng dự định, ông hỏi ý của Thầy, để ông viết một cái bài ông trả lời. Thầy nói thôi, thà Thầy ẩn bóng. Còn bây giờ kệ họ nói gì nói, sau này mấy con thấy điều đó.
Khi mấy con đã hiểu được cái lý của Phật pháp rồi, mấy con tu chứng nữa, thì cái điều đó mấy con tự nói được rồi.
Còn bây giờ, thôi!
(01:24:07) Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, cũng có một hôm con nói với thầy Từ Quang là: “Những cái việc ấy, tôi xin có một đôi lời với thầy, còn nếu không phải, thì thầy bỏ qua. Là những công việc ấy là những công việc của những người tại gia, của những cư sĩ. Còn nếu đã làm người tu hành, thì công việc ấy không phải là công việc của người tu hành. Thầy, tôi nghĩ rằng, thầy cũng nên phải xem xét những việc này”. Có một hôm con đã nói với thầy Từ Quang về việc đó.
Con nghĩ là, nếu người đã hiểu, thì bạch Thầy, không cần phải đọc cả tập, chỉ đọc một trang, hai trang chỗ nào đó thôi, thì lập tức niềm tin được xác lập ngay, và người ta sẽ rũ bỏ hết tất cả những cái gì cần phải rũ bỏ ngay. Còn nếu đã không hiểu, thì bạch Thầy, có bao nhiêu cũng không hiểu.
Con nhận thấy có những điều như thế, bởi vì có những cái vô lý, thí dụ như ở những người bạn của con. Từ trước tới giờ họ là người rất thông minh, là giáo sư, tài năng cả, thế nhưng khi nói đến Thầy thì họ lại bảo rằng là Thầy đập phá cả từ Tổ Đạt Ma, thì không thể nào họ có thể theo được. Thế thì con nghĩ chỗ này họ còn khờ hơn cả con nít, nên họ mới chấp vào cái chỗ ấy. Bởi vì chính họ cũng đâu có hiểu được Tổ Đạt Ma là thế nào, mà họ lại dựng lên, họ lấy Tổ Đạt Ma làm cái tiêu chuẩn, tiêu chí duy nhất, để họ so sánh, họ coi đó là một chân lý.
Thế thì những cái đó con nghĩ ai hiểu thì sẽ hiểu ngay, còn người đã không hiểu được thì có bằng mọi cách gì chăng nữa, cũng vô nghĩa mà thôi.
Trưởng lão: Đúng vậy.
Sư Thanh Quang: Vâng. Thế nên là cái sự im lặng là vô cùng quan trọng, là tốt nhất. Thế nên, bạch Thầy, con cũng trông vào Thầy, con thấy những bài học. Đôi khi con cũng mới có ít ngày ngắn, nhưng mà con thấy có những bài học lớn. Còn giờ con đã được những bài học ấy.
Những bài học về sự tỉnh thức, những bài học về sự cái gì can thiệp, cái gì không can thiệp, cái gì nói, cái gì không nên nói, và nói như thế nào. Bạch Thầy, con đã nhìn con đã rút ra được những điều như thế cho chính con, rồi con cũng đã nói với người ta, con bảo đấy, học là chính ở chỗ ấy, phải như thế đấy. Như thế là đúng với giáo lý mà Thầy đã dạy: trong im lặng, chứ không thể trong sự ồn ào.
(01:26:36) Trưởng lão: Thầy thì bảo: “Im lặng như Thánh!” thôi.
Sư Thanh Quang: Bạch Thầy, con rất đội ơn Thầy đã chỉ dạy cho con. Do vô minh và do những cái giới luật con chưa học, nên là con có những sơ suất, có lỗi lầm gì trong việc thưa hỏi, thì cũng xin Thầy chỉ bảo cho con.
Trưởng lão: Không có gì đâu con. Con hỏi là đúng, bình thường, không có gì sơ suất đâu. Hỏi như vậy để học.
Thầy sắp sửa cho ra cái bộ Mười Giới Đức Thánh Sa Di, đã bổ sung thêm về cái giới hành, tức là những bài pháp mà đức Phật dạy về giới luật cho đứa con trai của mình, tức là La Hầu La. Mấy con sẽ học, rất tuyệt vời. Mà Thầy đã soạn xong rồi, bây giờ chỉ còn có phô tô mới đóng thành sách, mới gửi cho mấy con. Chừng khoảng độ năm mười ngày nữa thì bộ sách đó được ra, lúc đó mấy con sẽ đọc tất cả những cái giới luật của Phật, rất là đầy đủ.
Sư Thanh Quang: Thưa Thầy, con mới được đọc một trăm giới chúng học thôi, thì con đã đọc. Thế hôm nọ con mới thấy một người đi kinh hành trong hội trường đi dép, thì con nảy ra trong đầu là họ đang làm một việc không đúng, phạm vào giới luật- không được đi mang theo… ngày xưa thì không có dép - nhưng không được đi như thế trong hội trường. Thế con nghĩ, con đấu tranh lại, có nên nhắc không? Biết cái việc làm ấy là không đúng, không phải, mà mình lặng ngắt như thế thì như thế nào?
Thế con mới nhắc họ là trong giới luật có quy định không được mang giày, dép trong nhà Tổ đường. Thế xong rồi con đi. Con đi, nhưng trong lòng con cứ đấu tranh. Con nghĩ là có khi con mang đến cho họ một sự buồn bực, một sự khó chịu? Mặc dù việc làm ấy của mình là đúng, nói là đúng, để cho họ nhận ra cái sai, và từ đấy trở đi sẽ để cho họ nhớ mãi cái việc ấy.
Thế nhưng có khi mình lại gây cho họ một cái buồn bực, một cái khó chịu. Thế con tìm cách con lại quay trở lại, con nói một câu vui vẻ với họ, để xem họ thế nào. Thì bạch Thầy, ở trong con, giờ đây nó bắt đầu có những cái diễn biến theo cái kiểu như thế.
(01:28:42) Trưởng lão: Thật sự ra thì cái sự diễn biến đó rất tốt. Khi mà nó có cái niệm nào mà khởi lên, thì mình tư duy cái niệm đó, trước khi mà mình hành động cái điều kiện đó - mình nói ra.
Thí dụ như bây giờ mà con thấy cái người đó đi dép ở trong cái Tổ đường này, mang như vậy là sai, thì con hiểu rằng đó là cái mình tư duy, mình suy nghĩ, mình nói để cho người ta sửa lại tốt, để người ta sẽ không có mang như vậy nữa, tức là nó không đúng cái giới luật.
Mà cái đức hạnh - một cái người như vậy là không có mang dép, đi như vậy là không đúng rồi - mình nói để cho người ta sửa. Nhưng rồi mình tư duy: “Cái người này đáng nói hay là không đáng nói? Cái người này có thể nghe được, hay không nghe?” À, mình tư duy như vậy.
Nếu mình nghĩ rằng cái người này họ không nghe, chắc mình nói là làm khổ họ, tốt hơn là không nói.
Mà cái người này mình thấy thường nói chuyện với mình, mình thấy cởi mở. Mình hiểu, “người này đáng nói”, cho nên mình nói.
Con hiểu chỗ này không? Cho nên cũng một cái câu chuyện mà đáng nói, hay là không đáng nói. Đều là phải do qua cái sự kiểm tra, phản ảnh lại cái lời nói của mình cái đã. Sau đó mình mới chọn cái lời nói đó đối với đối tượng đó. Chứ nếu không thì mình nhầm. Mình nhầm là làm cho người ta buồn. Rồi có nhiều người tự ái quá, họ ghét mình nữa. Thôi khổ lắm. Cho nên phải khéo lắm, bởi vì sử dụng…(01:29:57)
HẾT BĂNG
THANH QUY TU VIỆN CHƠN NHƯ
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời lượng: [40:13]
https://thuvienchonnhu.net/phap-am/thanh-quy-tu-vien-chon-nhu
https://thuvienchonnhu.net/audios/thanh-quy-tu-vien-chon-nhu.mp3
(00:00) Trưởng Lão: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Hôm nay, là ngày thỉnh nguyện, mỗi tháng một kỳ, tuyên đọc lại bảng nội quy để toàn chúng nghiệm xét trong nửa tháng tu học, có phạm phải kỷ luật, nội quy hay không. Nếu ai, tự thấy mình, có phạm lỗi hãy can đảm mạnh dạn, quỳ trước đại chúng, phác lồ xin sám hối để tự răn, tự sửa mình hoặc có người khác thấy chỉ lỗi dùm. Thì cũng phải can đảm, mạnh dạn, quỳ trước đại chúng, xin sám hối và tự răn, tự sửa, đồng thời phải tỏ lòng biết ơn người chỉ lỗi. Chớ không được lý luận, che đậy lỗi lầm và còn sanh tâm thù hận người ơn.
Khi đã xin sám hối, ăn năn, chừa bỏ thì từ đây cố gắng sửa sai, không để tái phạm nữa. Nếu lỗi nặng, tự giác xin quỳ hương hoặc xin tự mình đánh phạt năm roi, mười roi cảnh cáo. Có như vậy kỷ luật của Tu viện mới nghiêm túc và sự tu tập của đại chúng mới có tiến bộ.
Bây giờ, toàn chúng lắng nghe thầy đọc nội quy:
(02:44) Trong xã hội, có nhiều tập thể, mỗi tập thể đều có một kỷ luật riêng, kỷ luật được đặt ra là để mọi người khép mình trong một khuôn khổ như: học tập, làm việc hay tu tập.
Nhờ đó sự học tập được tốt đẹp, sự làm việc được thành tựu, sự tu tập được viên mãn. Sự tốt đẹp, sự thành tựu và sự viên mãn này là nhằm đào tạo mỗi cá nhân có tài, đức và tâm hồn giải thoát, để đem lại sự lợi ích cho mình, người và xã hội. Mỗi cá nhân có đạo đức thì xã hội mới có tốt đẹp, đất nước mới phồn vinh và tôn giáo mới không còn mê tín, mơ hồ, ảo tưởng, viễn vông, v.v.
Muốn được vậy, mỗi cá nhân trong tập thể phải hết sức chấp hành kỷ luật, nội quy nghiêm túc xem đó là mạng sống của mình và lấy đó làm khuôn phép để sửa đổi tâm tánh mỗi ngày, mỗi tốt đẹp và đạo đức hơn.
Một tăng đoàn, tại Tu Viện Chơn Như trong đó có Nam và Nữ tu sĩ thì phải có một nội quy rõ ràng để bắt buộc mọi tu sĩ phải chấp hành nghiêm túc, thi hành đúng những kỷ luật mà nội quy đã đề ra. Nếu ai vi phạm:
Lần thứ nhất sẽ bị toàn thể tăng đoàn cảnh cáo.
Lần thứ hai người vi phạm kỷ luật phải tự giác xin quỳ một cây hương trước đại chúng.
Lần thứ ba toàn thể tăng đoàn phải chấp nhận mời người đó ra khỏi Tu viện để làm gương cho người khác. Đừng vì tình cảm riêng tư mà kỷ luật bị xem thường và nội quy chỉ đặt ra có hình thức. Cũng vì đó sự tu tập của mọi người sẽ dậm chân tại chỗ, hoặc bị lùi lại. Người phá kỷ luật là người làm “động” chúng, khiến cho toàn chúng tu hành bất an, khó tiến bộ. Vì vậy, toàn thể Tăng đoàn muốn yên ổn tu hành được tốt đẹp thì cần phải loại trừ những phần tử phá kỷ luật.
Một giờ yên tịnh trong tu viện là một giờ quý báu nhất của đời sống tu hành chúng Tăng. Kỷ luật càng gắt gao thì sự tu tập của mọi người càng tiến bộ, sự giải thoát càng rõ nét, nơi tâm hồn của mọi người
(08:03) Giới luật là nền tảng đạo đức, là cội gốc của thiền định, là bông trái của trí tuệ. Vì vậy tất cả tu sĩ ở đây lấy mười giới Sa Di làm giới trọng, lấy Lục hòa làm giới khinh, lấy ba đức, ba hạnh làm giới nòng cốt. Mười giới Sa Di làm giới trọng là:
Không sát sanh: Từ con người, cho đến loài vật nhỏ nhất như con kiến, côn trùng, con sâu, bọ, muỗi, mòng, v.v, tu sĩ không được giết hại hoặc dùng miệng xúi bảo người khác giết hại, hoặc thấy người khác giết hại tâm sanh vui mừng.
Không trộm cắp: Tiền bạc, vật dụng, thức ăn, nước uống của người, nếu người không cho tu sĩ không được tự tiện lấy, nếu lấy thành ra trộm cướp.
Không dâm dục: Tu sĩ không được dâm dục, không tạo phương tiện dâm dục và không khởi tâm nghĩ tưởng về dâm dục.
Không nói dối: Tu sĩ không được nói sai sự thật, không được nói lời độc ác, hung dữ, không được nói lời chia rẽ thù hằn nhau, không nói lời phù phiếm, vô nghĩa.
Không uống rượu: Tu sĩ không được uống các thứ rượu mạnh, nhẹ, không hút thuốc lá và các thứ nghiện ngập khác.
Không đeo tràng hoa, đồ trang sức và ướp nước hoa: Tu sĩ không được dùng mọi thứ trang sức làm cho thân sang đẹp, thơm tho giả tạo.
Không ca hát xướng và xem ca hát: Tu sĩ không được ca ngâm, vịnh hoặc nghe ca ngâm vịnh.
Không nằm giường cao, rộng lớn: Tu sĩ chấp nhận đời sống không nhà, không cửa, sống đạm bạc, không nên nằm giường cao, rộng lớn sang đẹp. Tủ, bàn ghế và tất cả vật dụng sang đẹp khác.
Không ăn phi thời: Tu sĩ chấp nhận đời sống thiểu dục tri túc, nên không ăn uống phi thời, ngày chỉ một bữa đủ sống để tu hành.
Không cất giữ tiền bạc, vàng ngọc: Tu sĩ chấp nhận đời sống buông xả, không có tài sản riêng tư ngoài ba bộ y áo, bình bát, thọ thực và những vật dụng cần thiết hàng ngày do Phật tử cúng dường.
(12:55) Lục hòa là nền tảng vững chắc cho toàn thể tu sĩ gắn chặt bền lâu với nhau để cùng sống, cùng tu.
Thân hòa đồng trụ: Về phần thân lao động, tu hành, ăn mặc, ngủ nghỉ, tu sĩ phải sống hòa đồng như nhau, thấy việc cùng làm, giúp nhau cùng sống.
Khẩu hòa vô tranh: Về phần miệng, nói, bàn, tranh luận đều trong tinh thần hòa nhã, đạo đức. Không được lớn tiếng, tranh đua, hơn thua và lời nói nặng, nhẹ nhau.
Ý hòa đồng duyệt: Tu sĩ phải có tâm ý vui hòa, không có tâm ý ngang ngạnh, chống đối, thù hằn, ganh tị nhau.
Kiến hòa đồng giải: Tu sĩ phải hòa hợp mọi ý kiến với nhau, làm theo ý muốn của người khác, không nên làm theo ý muốn của mình.
Giới hòa đồng tu: Lấy nội quy làm khuôn phép, sống hòa hợp đồng tu.
Lợi hòa đồng quân: Tất cả tài sản và phẩm vật trong tu viện là của chung, của các tu sĩ. Không có ai có quyền giữ riêng hay hưởng thụ nhiều hơn hoặc tự ý lấy cho người khác mà không được tập thể đồng ý.
(16:00) A. Ba Hạnh:
Ăn: Ngày một bữa vào giữa trưa, từ 10 giờ đến 12 giờ, ngoài giờ đó đều là ăn uống phi thời. Người tu sĩ thà chết chứ không ăn uống phi thời, vì ăn uống phi thời là nuôi tà mạng.
Ngủ: Người tu sĩ phải tập ít ngủ, ngủ nhiều sanh lười biếng, mê muội, hôn ám. Ngủ nhiều sanh mất nghị lực, thiếu bền chí, thiếu lòng gan dạ.
Độc cư: Người tu sĩ cần phải sống một mình, sống một mình là sống cho mình, sống nội tâm, sống tâm không bị phân tán, nhờ đó tu thiền định mới dễ dàng. Vì thế, phải hạn chế sự đi lại, không nên tiếp khách, dù là bà con thân thuộc, không nên nói chuyện phù phiếm với bạn bè đồng tu. Không nói chuyện chính trị, không bàn chuyện giặc giã, trộm cướp, v.v, chỉ có cần thiết thưa hỏi sự tu tập với Thầy.
B. Ba Đức:
Nhẫn nhục: Nhẫn nhục là một đức tính hòa hợp mình trong mọi người, mọi việc, nên cần phải tu tập, rèn luyện để cùng nhau chung sống, mà thân tâm được an vui, thanh thản.
Tùy thuận: Tùy thuận là một đức tính hòa mình trong mọi người, mọi việc, nên cần phải tu tập, rèn luyện để cùng nhau chung sống, tu hành mà thân tâm được an vui thanh thản.
Bằng lòng: Bằng lòng là một đức tính buông xả để cho chúng ta cùng sống tu hành chung nhau mà thân tâm được bằng an, thanh thản.
(19:38) Phần giới luật của Tu sĩ, nếu ai vi phạm một trong những phần giới luật ở nội quy, tùy mức độ nặng, nhẹ. Nếu nặng thì tự xấu hổ, xin rút lui khỏi tu viện, còn nhẹ thì cảnh cáo hoặc tự giác sám hối quỳ hương, dù lỗi nhẹ mà phạm ba lần thì cũng tự xấu hổ, xin rút lui.
Đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, mặc, nói, lễ, lạy: Người tu sĩ cũng như người cư sĩ đã xuất gia và đã Quy Y Tam Bảo, thọ giới đầy đủ thì phải hết sức giữ gìn oai nghi tế hạnh, khi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, mặc, nói chuyện, lễ, lạy cho đúng tư cách của người đệ tử Phật.
Đi: Đi phải phòng hộ sáu căn, luôn mắt nhìn xuống, không được ngó qua, ngó lại hoặc liếc xéo, liếc ngang. Đi phải nhẹ nhàng, khoan thai, không được chạy nhảy lăng xăng, người nam không được đi song song với người nữ, ngược lại cũng vậy.
Đứng: Đứng phải lựa nơi chốn phù hợp, tránh chỗ đông người, nam phải tránh chỗ có phụ nữ, ngược lại cũng vậy. Đứng phải tránh chỗ đánh lộn, chỗ có người say rượu, chỗ có người điên khùng, đứng phải tránh chỗ vắng vẻ, có một người khác phái.
Nằm: Nằm phải lựa nơi chốn phù hợp, không được nằm trên giường chõng, võng treo của người khác phái, người già, người bệnh và trẻ con, không được nằm ngửa, nằm sấp, phải nằm nghiêng theo kiểu kiết tường. Áo hoặc quần phải xếp ôm vào người kín đáo không được hở hang, bày da thịt. Không được nằm co hoặc nằm co một chân, không được nằm trong buồng ngủ hoặc thất của người khác phái.
Ngồi: Ngồi phải lựa nơi chốn cho phù hợp, ngồi không được tréo chân, ngồi không được gác chân lên bàn, ngồi không được lúc lắc chân, rung đùi, không được ngồi gần người khác phái hoặc ngồi chung một ghế, không được ngồi chỗ vắng, có một người khác phái.
Ăn: Trước khi ăn phải rửa tay cho thật sạch, phải ăn mặc tề chỉnh, phải ngồi xếp bằng ngay thẳng, phải thành tâm mặc niệm cúng dâng lên chư Phật, Tổ và Tổ tiên ông bà, cha mẹ, nhiều đời, nhiều kiếp. Và còn hết sức tỏ lòng biết ơn người đàn na thí chủ làm bằng mồ hôi nước mắt mới có thực phẩm này.
Ăn phải giữ gìn im lặng, không được nói chuyện trong bữa ăn, trong bữa ăn không được cao tiếng, hỉ mũi, nôn ọe, khạc nhổ. Ăn không được khua chén, bát, ăn không được nhai ngấu nghiến phát ra tiếng mà phải ăn nhẹ nhàng, êm ái. Ăn không được lật đật, vội vàng, phải từ tốn, khoan thai. Trước khi ăn, phải xá chào nhau để tỏ lòng tôn kính nhau, để diệt ngã xả tâm ganh tị, ích kỷ, nhỏ nhen của mình.
Ăn phải tùy theo đặc tính của mọi người, ai ăn xong trước, nên đem bát, chén, rửa, không chờ đợi nhau. Người ăn chậm, thì cứ tự nhiên mà ăn, không được vội vàng. Người còn sức ăn nhiều thì nên ăn no không được ăn ít, nhưng không được lấy nhiều bỏ phí thực phẩm hoặc trích thực phẩm cho chó ăn. Ăn không được bỏ thừa thực phẩm, thực phẩm nào ăn không hết thì nên để nguyên trả lại nhà bếp. Ăn không được lấy tay nạo, vét hoặc dùng lưỡi liếm.
Mặc: Y áo mặc phải ngay thẳng, tề chỉnh, không được xốc xếch, nút trên gài khuy dưới, không được hở cổ. Mặc y áo phải sạch sẽ, không được dơ bẩn, hôi hám. Y áo không được vò nùi, vắt ngang, vắt dọc mà phải được xếp ngay ngắn, cất có nơi có chỗ.
Người tu sĩ và cư sĩ đã tu theo đạo Phật không được ở trần, bày lưng, ngực, bụng, phải ăn mặc kín đáo dù trời có nóng bức, vẫn phải giữ gìn, không được ngang nhiên mặc áo lá, hoặc ở trần ngồi thiền. Người tu sĩ và cư sĩ tiểu tiện phải có chỗ kín đáo, phải ngồi xuống không được đứng. Người tu sĩ và cư sĩ tắm sông, suối, hồ phải mặc quần áo kín đáo mới tắm, không được trần truồng, tắm giặt như người thế gian.
Nói: Nói là một điều rất tai hại, người xưa dạy: “Họa tùng khẩu nhập”. Nói ra lời nói mà tai họa đến thân, nói ra lời nói mà mình khổ, người khác khổ, nên phải dè dặt, cẩn thận lời nói. Vì thế người đệ tử của Phật cần phải tập ít nói, nói ra phải suy nghĩ cho thật kỹ, không dùng những lời nói thô lỗ, tục tằng, không dùng những lời nói hung dữ, nguyền rủa, trù ẻo, thề thốt.
Không tranh luận hơn, thua với ai dù bất cứ việc gì. Không chỉ trích, khen chê tôn giáo này, tôn giáo khác. Không chỉ trích pháp môn này, pháp môn khác. Không chỉ trích khen chê thầy này, thầy khác. Không được đem giáo pháp, kinh điển của Phật ra tranh luận. Không được đem giáo pháp của Phật ra thuyết giảng không đúng chỗ.
Nói phải ôn tồn, nhã nhặn, êm ái, nhẹ nhàng, từ tốn. Nói không được cướp lời người. Nói không được tranh cãi nhau.
(29:33) 8. Lễ: Đối với các bậc Chân tu Thiền đức, Giới đức không phải lễ phép bề ngoài, nể vì trước mặt mà sau lưng trong lòng lại trái hẳn. Đối với những bậc này ta phải chào hỏi một cách lễ phép, xá thật sâu, phải đứng nép qua một bên, không được đứng ngay trước mặt, xưng hô phải nhỏ nhẹ, dịu dàng. Đang ngồi, nằm, hay đang làm việc khi thấy các ngài đi qua thì phải đứng lên và dừng tay lại, phải dạn dĩ, nhưng không sỗ sàng, nhút nhát. Khi các ngài nói chuyện không được lén nghe, hay làm ồn náo.
Người có lễ độ không bao giờ nói xấu người vắng mặt huống là các bậc Tôn túc. Người có đức độ lễ phép, dù ai có thế nào cũng không tỏ lòng khinh lờn, chê bai, bài bác.
Lễ phép dạy ta không được gọi hoa danh, pháp hiệu của các ngài khi có mặt cũng như lúc vắng mặt. Lễ phép là một cử chỉ lịch sự, không những đối với các bậc Tôn túc mà còn phải đối với tất cả mọi người. Không phân biệt sang hèn, có học, hay vô học, làm nghề hạ tiện, hay làm nghề thanh cao.
Muốn vào thất Thầy thưa hỏi một điều gì nên lấy tay gõ nhẹ vào cửa 3 lần. Phàm có việc, phạm giới, lỗi lầm không được che dấu, phải cấp tốc đến trước Thầy tha thiết xin sám hối. Thầy chấp nhận thì tận tình phát lồ chân thành hối cải.
Muốn lễ bái Thầy, nếu Thầy ngăn lại thì nên thuận theo mạng lệnh của Thầy, dừng lại. Khi rời khỏi Thầy phải ghi nhớ lời giáo huấn của Thầy, không được buông lung, tự chạy theo lòng ham muốn thế gian, mà làm việc trái đạo, phá giới luật Phật.
Khi đứng đợi tụng niệm hoặc lễ bái Phật, cũng như đứng đợi chào nhau, hai tay nắm lại, để trước ngực, trụ tâm, giữ gìn sáu căn gom lại, điều hòa trong hơi thở để tâm được thanh tịnh, trong sạch. Khi tụng niệm, lễ Phật, chào người, phải chắp tay ngay ngắn để trước ngực, khi chào phải cúi thật sâu.
9. Lạy: Theo Kinh Đại Thừa có bảy cách lạy:
Ngã mạn lễ.
Cầu danh lễ.
Thân tâm cung kính lễ.
Phát trí thanh tịnh lễ.
Biến nhập pháp giới lễ.
Chánh quán lễ.
Thật tướng bình đẳng lễ.
Bảy cách lạy này, chỉ dựa vào tánh, tướng mà dạy. Riêng Tu viện ở đây có bốn cách lạy, thực tế và cụ thể hơn:
Cung kính lễ.
Sám hối lễ.
Tôn trọng lễ.
Hối lỗi lễ.
Cung kính lễ: Hai bàn tay chắp lại để nơi ngực thành tâm, rồi đưa lên trán tôn kính. Cúi xuống lạy, hai lòng bàn tay úp xuống, ngón tay hướng về phía trước, lễ người đã chết.
Sám hối lễ: Hai bàn tay chắp lại để nơi ngực thành tâm, rồi đưa lên trán tốn kính. Cúi xuống lạy, lòng bàn tay lật ngửa, ngón tay hướng về phía trước lễ người đã chết.
Tôn trọng lễ: Hai bàn tay chắp lại để trước ngực thành tâm, rồi đưa lên trán tôn kính. Cúi xuống lạy, lòng bàn tay úp xuống, đầu ngón tay đối diện để ngang nhau, lễ người còn sống.
Hối lỗi lễ: Hai bàn tay chắp lại để trước ngực thành tâm, rồi đưa lên trán tôn kính. Cúi xuống lạy, lòng hai bàn tay lật ngửa, đầu ngón tay đối diện nhau, lễ người còn sống.
(36:39) Vì lợi ích chúng sanh, vì thắp sáng ngọn đèn Phật pháp và cũng vì sự giải thoát thân tâm của mình để được thanh thản, an vui, nên chúng ta, người tu sĩ của đạo Phật phải hết sức gìn giữ oai nghi tế hạnh để tu tập.
Tỉnh giác ý tứ từng hành động, mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý.
Để phòng hộ tâm, tránh ngoại duyên cám dỗ.
Để tránh mọi sự xảy ra khen, chê, chỉ trích của miệng đời thế gian, khiến tâm mình bất an.
Để tâm không bị phân tán, tu hành thiền định dễ dàng.
Để tạo duyên tốt, cho hàng Phật tử nương theo Phật pháp tu hành, đó là đền ơn Phật, Tổ, ơn sanh thành dưỡng dục, ơn đàn na thí chủ.
Bảng nội quy là một kỷ luật, nhu cầu thiết yếu của các tu sĩ tại Tu Viện Chơn Như. Kỷ luật giúp cho tu sĩ sống hài hòa, trong nếp sống đạo đức, khiến sự tu hành dễ dàng phát triển. Vì thế mỗi nửa tháng một lần tập hợp đầy đủ để nghe đọc lại nội quy. Tu sĩ cần ghi nhớ và kiểm điểm lại xem mình có phạm điều nào không, vì thiết tha tu hành, giải thoát các tu sĩ phải luôn luôn nhớ và giữ gìn cho trọn vẹn.
Đến đây, Thầy xin chấm dứt. Quý thầy đồng chắp tay niệm Phật ba lần.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
HẾT BĂNG.
THIỀN HƠI THỞ
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời lượng: 45: 47
(0:00) Trưởng lão:
Thầy giảng về Thiền hơi thở.
Quý Phật tử cùng Thầy niệm hồng danh Đức Phật.
“Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” (3 lần).
Hôm nay Thầy dạy Phật tử:
1- Ổn định một hơi thở.
2- Giờ giấc tu hành.
3- Cách thức nhiếp tâm.
Trong ba phần này tu tập sẽ dạy quý Phật tử phần thứ nhất, chừng nào quý Phật tử biết cách sử dụng và ổn định hơi thở thì Thầy sẽ dạy tiếp phần thứ 2 và phần thứ 3.
Trước khi muốn ổn định hơi thở để tu tập thiền định, quý Phật tử cần phải hiểu rõ pháp môn hơi thở mà quý Phật tử sắp chọn để thực hành thiền định, thì phải biết có những lợi ích gì.
Nếu không rõ như vậy mà cứ tu tập đến khi kết quả đem đến sẽ không như ý muốn của mình thì rất uổng công tu hành hoặc chỉ có kết quả nhỏ không nhằm mục đích giải quyết sanh tử luân hồi thì cũng uổng một đời tu hành.
Nói đến thực hành thiền định thì phải nói đến những đề mục mà mỗi pháp môn tu hành nào cũng đều phải có. Dù pháp môn Tri vọng, tuy nói rằng không có pháp môn nhưng quý Phật tử phải hiểu nó vẫn phải có.
(02:30) Nhưng quý phật tử phải hiểu dó dẫn phật pháp Ở đây quý Phật tử phải để ý những đề mục tu thiền định, có khi có những đề mục có hình sắc cụ thể, nhưng cũng có khi có những đề mục có hình sắc trừu tượng hư ảo v.v.
Đề mục là một đối tượng để tập trung tư tưởng nhiếp tâm, cho nên người tu thiền định mà không có đề mục thì không thể nào nhiếp tâm được và như vậy không thể gọi pháp môn đó là thiền định. Bởi vậy đề mục tu thiền là một vấn đề quan trọng cho con đường thiền định và sự lợi ích của nó đối với hành giả. Vì vậy quý Phật tử phải chọn rất kỹ lưỡng đề mục. Đừng đụng đề mục nào thì cứ nhắm mắt mà tu bừa thì điều đó rất tai hại và không lợi ích.
1- Thứ nhất là phải thích hợp với sức tập trung của hành giả, nhờ đó mới có thể nhiếp tâm dễ dàng.
2- Lợi ích đúng theo con đường giải thoát của Đạo Phật.
3- Kết quả tu tập đúng với nguyện vọng tha thiết của hành giả.
Ví dụ người tu theo pháp môn Tịnh Độ chọn lấy câu niệm Phật làm đề mục nhiếp tâm.
Người tu theo thiền Công Án lấy Công án khởi nghi tình làm đề mục để nhiếp tâm.
Người tu thiền Tứ Niệm Xứ lấy Thân hành niệm làm đề mục để nhiếp tâm.
Người tu thiền Tri Vọng lấy tuệ tri làm đề mục để nhiếp tâm.
Người tu thiền Bảo Nhậm lấy sáu trần làm đề mục để nhiếp tâm.
(05:10) Còn tất cả các thứ thiền khác đều có mỗi đề mục của riêng nó. Có những loại thiền lấy đất, nước, gió, lửa hoặc tử thi v.v. làm đề mục để thực hành thiền định.
Ở đây quý Phật tử cần phải hiểu rõ thêm phần này. Vì mỗi đề mục tu thiền có khác nhau nên sự chứng đắc cũng phải có khác nhau. Vì vậy khi hành giả nhập định cũng có những định khác nhau, có thấp, có cao có tưởng, không tưởng v.v.
Chỗ này Thầy xin nhắc quý Phật tử, đừng khéo lý luận theo kinh sách Đại Thừa rồi tự dối mình, dối người Vô sở đắc. Nếu Phật tử nói VÔ SỞ ĐẮC tức là Phật tử đã kiến chấp vào ĐẮC VÔ SỞ ĐẮC.
Người tu hành phải thấy được kết quả lợi ích dù chưa được rốt ráo vẫn phải có. Kết quả đường tu hành của Đạo Phật là sự thành tựu giải thoát thân tâm khỏi triền phược, thoát vòng sanh lão bệnh tử, chấm dứt tái sanh luân hồi. Mọi người ai cũng muốn hướng về với Đạo Phật là hướng về với mục đích này.
(07:18) Cho nên đứng trên mục đích của Đạo Phật thì mọi người ai cũng nhắm đến hướng này, nhưng trên bước hành trình để thực hành thì muôn ngàn người đều lạc hướng, tức là mọi người đã hành sai, nên kết quả thành tựu của nó lại trật mục đích, vì thế mà quý Phật tử thường thấy hiện giờ Đạo Phật sản sanh nhiều bậc học giả, nhiều bậc luận giả, nhiều bậc triết giả v.v và v.v.
Quý Phật tử không bao giờ thấy được các bậc A la hán giải thoát thật sự. Nghĩa là thời đại chúng ta không còn có bậc A la hán. Tuy biết rằng mỗi đề mục tu thiền chỉ là những đối tượng để tập trung tư tưởng mà thôi.
Ở đây quý Phật tử phải hiểu những đề mục tu thiền được chia làm 2 nhóm.
1/ Nhóm thứ nhất trừu tượng.
2/ Nhóm thứ hai cụ thể.
Đề mục hơi thở và đề mục 6 trần thì thuộc về nhóm cụ thể. Còn tất cả các đề mục khác đều thuộc về nhóm trừu tượng. Đề mục hơi thở thì gom tâm lại nhưng vì hơi thở thường di động nên dễ thay đổi, khiến người tập trung vào hơi thở rất khó khăn. Vả lại hơi thở có nhiều cấp độ nên tưởng tức dễ xen vào khiến lạc hướng hơi thở, do đó vọng tưởng đánh vào làm lạc hướng nhiếp tâm.
(10:14) Đó là cái khó của bước đầu người tu thiền hơi thở dùng hơi thở để nhiếp tâm là như vậy. Nếu không được có một bậc Thầy có kinh nghiệm về hơi thở để hướng dẫn thì không dễ gì nhập định và luôn bị tưởng tức đánh gạt khiến thối chuyển tu tập và đạo tâm.
Đề mục 6 trần thì tản mát tâm, hành giả mới tu thì xem như đề mục rất cụ thể. Sau khi tu lâu lại bị tưởng thức xen vào tạo thành tưởng trần, do đó tu lâu ngày đề mục 6 trần thành sáu tưởng. Cho nên kết quả của nó khi nhiếp tâm không có vọng tưởng thì phải có một trạng thái tưởng trần xuất hiện.
Ví dụ khi nghe tiếng niệm Phật trong tai, trong đầu nhầm tưởng đó là vô niệm, âm thanh Niệm Phật đó là thanh tưởng. Khi nghe tiếng nói trong tai hoặc nghe thuyết giảng kinh điển, hoặc nghe lời dạy của chư Phật, chư tổ, đó đều là thanh tưởng; hoặc nghe tiếng kêu se se rồi theo đó nhiếp tâm không vọng tưởng thì tiếng kêu đó là thanh tưởng; thấy cảnh giới là sắc tưởng; nghe hương thơm là hương tưởng; cảm giác vị ngọt trong cổ là vị tưởng; cảm giác khoan khoái nhẹ nhàng hoặc hỷ lạc là xúc tưởng; không đạt được định mà phát ra tuệ đó là pháp tưởng hay còn gọi là tưởng giả.
(12: 45) Người tu thiền mà rơi vào sáu thứ tưởng này là kết quả của những đề mục trừu tượng, vì thế mà họ không làm chủ được thân tâm, không giải thoát được sự đau khổ cuộc sống, không chấm dứt được sự tái sinh luân hồi, bởi tu sai thì kết quả không đúng con đường của Đạo Phật vì thế hầu hết các đề mục trừu tượng không đủ sức ức chế vọng tưởng nên thời gian hành thiền thỉnh thoảng xảy ra, có khi có mộng tưởng xen vào mà cũng có khi đang nhiếp tâm lại tưởng thức đánh lạc hướng khiến sự nhiếp tâm ở trong các tưởng trần rồi cho đó là miên mật hay pháp lạc.
Bằng chứng cụ thể cho những ai đã hành thiền lạc hướng sẽ nhận rõ trạng thái tưởng này vì là trạng thái tưởng nên khi có thì tự động có, mà lúc không thì không tìm được nó. Do đó thầy viện chủ tu viện Thường Chiếu dạy “Đêm 30 trời chớp lóe lên rồi mất”. Nếu người tu thiền định mà thường sống trong trạng thái hỉ lạc xúc tưởng thì pháp tưởng xuất hiện từ đó bắt đầu tưởng giải của họ thông suốt nghĩa lý kinh và công án.
Hình thức bên ngoài hành thiền, tọa thiền nhưng ở trong tâm thường quán tưởng, làm thơ, làm văn, thiền đạo và luận giải kinh điển. Người hành thiền này tưởng mình đã chứng đạo, trí vô sư xuất hiện.
(15:18) Mỗi lần thông suốt một câu kinh trong kinh sách Đại Thừa hoặc thiền ngữ thì họ cho đó là Tiểu ngộ hay Đại ngộ. Khi họ hiểu toàn diện các kinh điển Đại Thừa và tất cả các công án thì họ cho đó là Triệt ngộ mà cũng chính từ đó bản ngã của hành giả lớn dần lên, xem thiên hạ và các pháp môn khác chẳng ra gì. Họ thường luận giải, thích chống đối bài bác các pháp môn khác, dùng thiền ngữ và lý luận Bát Nhã tranh luận cao thấp hơn thua.
Những người tu những loại thiền có đề mục trừu tượng thì cũng giống như những người học Phật pháp vậy. Họ thích xây dựng kiên cố, thích chùa tháp đồ sộ như cung vàng điện ngọc của các vua chúa, tánh họ rất háo danh và đắm lợi nên thường luận giải viết nhiều kinh sách để quảng cáo những tài ba kiến giải của mình, vì thế những loại kinh sách này để lại cho đời sau là một lý thuyết tai hại rất lớn cho Phật Giáo và cho con người tu hành dở chết, dở sống. Những gì chỉ dạy trong đó không thể thực hành đến đích được mà còn phá giới luật, mất phạm hạnh của Đạo Phật, khiến cho người tu hiện giờ không có phạm hạnh, không có giới luật và đạo đức. Những loại kinh sách triết lý bác học của cấp tri thức và những loại kinh sách mê tín dị đoan của giai cấp bình dân đã làm mất chiều sâu của Đạo Phật. Vì vậy mà người tu hành Đạo Phật hiện nay không chứng quả A La Hán.
(18: 02) Người mới bắt đầu thực hành theo những lý thuyết của các loại thiền này tưởng như mình đã có lợi ích, cảm thấy như tham sân đã giảm bớt nhưng tu lâu ngày gặp những đối tượng nghịch ý thì tham sân hiện tiền, chẳng có giải thoát giảm bớt chút nào, dường như còn mạnh mẽ hơn.
Mới đầu đối với sự tu hành này cảm thấy sức khỏe, ít bệnh hoặc trị được bệnh nhưng tu lâu thì đâu cũng vào đấy bệnh tật trở về với bệnh tật. Với thiền này điều đặc biệt nhất không làm chủ và tự tại trong sinh tử. Vì thế họ giống như người ngậm hòn sắt nuốt không vô, nhả không ra, luận lý của họ thì trên mây xanh mà thực hiện thì ở dưới đất.
Bởi vậy do sự tu hành sai lệch này Phật giáo ngày nay chỉ còn biết cách đào tạo những nhà bác học, những học giả, giảng giả, luận giả v.v mà không đủ kinh nghiệm để đào tạo những nhà hành giả vì thế thời đại này các học giả ra đời quá nhiều thì kinh sách cũng theo đó mà tăng lên.
Con đường tu hành giải thoát đúng ý nghĩa của Đạo Phật ngày càng thưa dần và đến vắng bóng.
(20:17) Ở đây quý Phật tử đã quyết tâm chọn lấy hơi thở làm đề mục, nhưng quý Phật tử phải hiểu, chọn hơi thở làm để mục để tu thiền là một đề mục rất khó nhiếp tâm vô cùng, tức là tập trung tư tưởng rất khó khăn vì hơi thở thường di động và dễ thay đổi và luôn bị tưởng tức phá rối.
Nếu người tu thiền chọn lấy hơi thở làm đề mục để tu mà không có bậc thầy đầy đủ kinh nghiệm hướng dẫn thì dù có tu trăm muôn ngàn kiếp khó mà thành tựu được định. Đề mục hơi thở là một đề mục rất thông thường, nếu ai đã từng nghiên cứu kinh sách của Đạo Phật cũng đều biết về hơi thở, nhưng quý Phật tử phải hiểu, hiện giờ trên thế giới có hàng trăm hàng vạn và hàng triệu người đang thực hiện hơi thở, vậy mà chẳng có ai nhập định đúng cách được.
Do những suy tư này quý thật Phật tử mới thấy đề mục hơi thở rất khó nhiếp tâm, không phải đơn giản như người ta tưởng và đó cũng là một pháp môn khó tu hơn tất cả các pháp môn khác, chỉ vì nó là một pháp môn đem đến sự giải thoát chân thật đúng nghĩa của Đạo Phật. Nếu quý Phật tử có được sự hướng dẫn về hơi thở mà còn tự ý thay đổi theo kinh nghiệm và kiến giải riêng kiểu cách riêng của mình để nhiếp tâm tu hành sẽ không mang đến cho quý Phật tử một sức thiền định làm chủ.
(22:43) Ở đây Thầy dạy Pháp môn hơi thở như thế nào thì quý Phật tử phải tu hành như thế ấy không được thực hành sai, không được tự ý muốn tu cách nào là tu, phải thực hành đúng lời dạy của thầy 100%.
Khi thành tựu được thiền định quý Phật tử mới thấy được sự lợi ích rất lớn của nó:
Thứ nhất: thực hiện đúng con đường giải thoát của Đạo Phật nghĩa là quý Phật tử vượt khỏi vòng sanh lão bệnh tử.
Thứ hai: đầy đủ phạm hạnh giới luật nghiêm túc.
Thứ ba: làm chủ thân tâm chấm dứt ái dục, không còn tái sinh luân hồi nữa.
Thứ tư: tự tại trong sanh tử, muốn sống không khó, muốn chết ra đi dễ dàng.
Tại sao tu hơi thở có lợi ích lớn như vậy? Quý Phật tử ai cũng biết hơi thở là sự sống và sự chết của thân này, nếu quý Phật tử tu tập các đề mục khác thì không được bốn lợi ích như trên.
Mới bắt đầu tu tập hơi thở quý Phật tử chỉ tập làm quen một hơi thở, nhận rõ một hơi thở, và lúc nào thở cũng đúng hơi thở đó, đó là cách tập luyện thứ nhất.*
Cách tập luyện thứ hai: quý Phật tử tập luyện biết cách giữ được một hơi thở không thay đổi.*
Cách tập luyện thứ ba: quý Phật tử tập luyện cách sử dụng hơi thở.*
Ba cách tập luyện này phải được sự hướng dẫn cặn kẽ kỹ lưỡng thì quý Phật tử mới tập luyện được.
(25:30) Khi tập luyện ba cách này được thuần thục tức là quý Phật tử đã ức chế được vọng tưởng, bấy giờ chỉ còn đợi thời gian trong quá trình tu tập là quý Phật tử nhập An chỉ định đầu tiên. Do đó quý Phật tử sẽ thấy được hơi thở làm chủ thân tâm này trọn vẹn, cũng như con trâu rừng đã xỏ được sợi dây vàng bấy giờ quý Phật tử chỉ cần dắt nó đi đâu thì nó đi theo đó. Muốn bắt nó làm tất cả mọi công việc cày, bừa, trục, kéo nó đều làm theo. Thì khi chúng ta làm chủ được tâm chúng ta bằng sợi dây hơi thở thì chúng ta sai khiến tâm mình, thân mình như sai khiến con trâu vậy. Tất cả các đề mục khác để thực hiện thiền định hoặc thần chú Mật Tông thì không có kết quả lợi ích được như hơi thở.
Những đề mục trừu tượng mà hành giả chọn để thực hiện thiền định Mật Tông, Tịnh Độ, khi thành tựu đều có những lợi ích của riêng nó như sau:
1- Xây dựng một thế giới siêu hình thuộc tâm linh - thiền xuất hồn Tịnh Độ.
2- Tưởng giải siêu việt xuất hiện - thiền Đông Độ.
3- Chí lanh lợi, biện tài vô ngại - thiền Đông Độ.
4- Lý luận sắc bén, nhanh chóng - thiền Đông Độ.
5- Ngôn ngữ độc đáo kỳ đặc - thiền Đông Độ.
6- Thần thông tuyệt đỉnh - Mật Tông.
7- Đi trên lửa, chôn trong đất, dìm trong nước, phân thân, hiệp thân - thiền Yoga.
(28:06) Bấy giờ quý Phật tử đã hiểu rõ các đề mục tu thiền và những sự lợi ích của nó đối với đường tu hành giải thoát của Đạo Phật.
Tất cả quý Phật tử hôm nay tuy không có mặt ở đây nhưng được nghe qua sự ghi âm dạy về sự ổn định hơi thở, nhiều người nghe nói đến hơi thở thì cho rằng tu tập sẽ dễ dàng và xem thường pháp môn này. Nhưng sự thật pháp môn này không đơn giản, không dễ dàng, vì thế mà người đọc kinh sách không có kinh nghiệm cứ dựa theo kinh sách dạy, rồi đem ra thực hành, tưởng hơi thở nào cũng nhiếp tâm được không ngờ đụng phải hơi thở mới thấy được cái khó của hơi thở, di động thay đổi tưởng tức.v.v.
Bởi người tu kiến giải như vậy cho nên không có người nào đọc kinh sách tu hơi thở mà nhập định được.
Muốn ổn định được hơi thở thì phải lần lượt tập luyện theo ba cách dưới đây:
1- Phải biết rõ hơi thở nào của mình ức chế được vọng tưởng.
2- Làm cách nào để giữ gìn hơi thở không cho thay đổi.
3- Phải ổn định tư thế ngồi trước khi tu luyện hơi thở.
(30:08) * Muốn thực hành thiền định trong pháp môn hơi thở thì phải biết rõ hơi thở nào của mình ức chế được vọng tưởng. Ở đây có hai cách:
1- Phải biết rõ lực của hơi thở mình đang nhiếp tâm.
2- Phải biết rõ sức lực của mình nhiếp tâm, trong một ngày một đêm chia làm 4 thời mỗi thời 30 phút.
1- Muốn biết rõ lực của hơi thở của mình đang nhiếp tâm ức chế được vọng tưởng thì cần phải chọn hơi thở cho phù hợp với cơ thể của mình để luyện tập dễ dàng. Ở đây quý Phật tử cũng phải chú ý chỗ này. Hơi thở chọn là hơi thở phải đủ lực mới ức chế được vọng tưởng. Ức chế được vọng tưởng phải tính sức lực của hơi thở và thời gian tu tập hơi thở đó.
Tính sức lực của hơi thở để mọi người tu được bắt đầu, đó là một hơi thở. Một hơi thở là sức tối thiểu cho người yếu sức tập trung. Còn mức tối đa cho người có sức tập trung giỏi là 100 hơi thở. Muốn rõ được hơi thở của mình ức chế được vọng tưởng thì phải thực tập ngay hơi thở đã chọn trong một ngày, một đêm chia làm 4 thời công phu, mỗi thời 30 phút.
(32:36) Căn cứ vào thời gian trong mỗi thời công phu đều không có vọng tưởng thì mới gọi là đã chọn được hơi thở để tu tập sau này ức chế toàn bộ vọng tưởng và nhập định. Còn hơi thở nào suốt trong thời gian một ngày, một đêm tu tập chia làm 4 thời mỗi thời 30 phút, khi tu tập có thời không vọng tưởng, có thời có vọng tưởng thì hơi thở đó chưa được gọi là hơi thở có lực ức chế tâm. Vậy quý Phật tử phải chọn hơi thở khác. Theo kinh nghiệm hướng dẫn người tu thiền hơi thở, cách chọn lực hơi thở để cho phù hợp với cơ thể của hành giả thì cần phải có sự hướng dẫn trực tiếp của một vị Thầy có kinh nghiệm. Nghĩa là quý Phật tử thở theo sự hướng dẫn của Thầy, Thầy sẽ nghe hơi thở của quý Phật tử có thở đúng không, nếu đúng Thầy xác nhận cho nhận hơi thở đó tu tập.
Khi chọn xong hơi thở, quý Phật tử phải cố gắng tập luyện hơi thở đó cho thuần thục trong từng giây, từng phút rồi ngày hôm sau đến trình lại Thầy, nghĩa là quý Phật tử thở cho Thầy nghe lại có đúng hơi thở đó hay không. Chừng nào, lúc nào, giờ nào quý Phật tử thở cũng đúng một hơi thở mà không thay đổi thì lúc bấy giờ Thầy sẽ dạy tiếp cách thức nhiếp tâm cho quý Phật tử.
(35:01) 2- Muốn biết rõ sức lực của hành giả nhiếp tâm thì quý Phật tử phải:
Thở một hơi thở tập trung tâm rất kỹ trong hơi thở đó rồi đến “một”, đếm xong nghỉ nửa phút. Nghỉ xong nửa phút rồi tiếp tục thở một hơi thở nữa. Rồi nghỉ một nửa phút. Cứ thở và nghỉ như vậy cho đến khi đúng 30 phút mới xả thiền. Hoàn toàn trong 30 phút tu tập hơi thở cố giữ gìn không có một niệm vọng tưởng xen vào. Còn nửa phút nghỉ trong khi tu xong một hơi thở, lúc nghỉ có vọng tưởng cũng được, không vọng tưởng cũng được, nhưng phải cẩn thận lúc nghỉ không được kìm tâm trong hơi thở, không được thiếu tỉnh giác quên mất đến giờ tu tập kế tiếp, không được để hôn trầm bén mảng làm ngủ gục, không được quán tưởng để làm trễ giờ tu tiếp tục, phải cảnh giác cẩn thận chỗ này. Nếu không cảnh giác cẩn thận chỗ này hầu hết mọi người tu thiền đều bị rơi vào chỗ này do đó làm lệch lạc sự tu hành khó thành tựu thiền định.
(37:18) - Nếu quý Phật tử thấy sức lực mình kém tập trung thì nên chọn một hơi thở mà tu tập như Thầy đã dạy một hơi thở ở trên. Còn thấy sức tập trung của mình có khá hơn thì nên tu tập 2 hơi thở. Cách tập như thế này:
Hít vô, thở ra đếm “một”.
Rồi tiếp tục bắt đầu tiếp tục “hít vô, thở ra” đếm “hai”, đếm xong nghỉ nửa phút. Sau khi nghỉ xong một nửa phút bắt đầu tu trở lại.
Hít vô, thở ra đếm “một”,
Hít vô, thở ra đếm “hai”,
Đếm xong “hai” nghỉ một nửa phút.
Cứ như vậy mà tu tập cho đúng 30 phút rồi xả thiền nghỉ. Nhiếp tâm như vậy trong bốn thời công phu một ngày, một đêm thời nào cũng không có vọng tưởng xen vào thì biết đó là sức tập trung của quý Phật tử tu tập được hai hơi thở.
Nếu quý Phật tử thấy mình có sức tu tập khá hơn thì nên tu 3 hơi thở:
Hít vô, thở ra đếm “một”
Hít vô, thở ra đếm “hai”,
Hít vô, thở ra đếm “ba”,
Đếm xong nghỉ nửa phút.
Nghỉ xong nửa phút thì tiếp tục tu trở lại như trên. Nghỉ và tu phải suốt một thời gian 30 phút rồi mới nghỉ xả thiền.
Nếu thấy sức của mình tập trung khá hơn, thì quý Phật tử nên tu 4 hơi thở, cách thức đếm và tu cũng như tu 3 hơi thở vậy.
Nếu thấy sức của mình tập trung khá hơn, thì quý Phật tử nên tu 5 hơi thở, cách thức đếm và tu cũng như tu 4 hơi thở vậy.
Suốt trong bốn thời công phu mỗi thời 30 phút, mỗi đoạn thời gian nhiếp tâm là 5 hơi thở, hoàn toàn không có vọng tưởng thì biết đó là sức nhiếp tâm của mình trong 5 hơi thở.
(40:12) -Nếu 5 hơi thở thấy có vọng tưởng còn xen vào đó là sức nhiếp tâm trong 5 hơi thở chưa đủ sức. Quý Phật tử phải lùi lại 4 hơi thở.
Nếu 4 hơi thở còn vọng tưởng thì lùi lại 3 hơi thở.
Nếu 3 hơi thở còn vọng tưởng thì lùi lại 2 hơi thở.
Nếu 2 hơi thở còn vọng tưởng thì lùi lại 1 hơi thở.
Nếu 1 hơi thở còn vọng tưởng tu 1 hơi thở nghỉ 1 phút.
Nếu nghỉ 1 phút còn có vọng tưởng thì nghỉ 2 phút.
Đây là cách thức chọn sức nhiếp tâm của quý Phật tử đối với pháp môn hơi thở của mình.
Nếu sức mình nhiếp tâm được ở dạng hơi thở nào thì chọn lấy hơi thở đó mà tu tập.
Nếu tu từ 1 hơi thở đến 5 hơi thở thì nghỉ và xả tâm ức chế, tập trung trong những giây còn lại cho đến khi đúng 1 phút, nghĩa là vừa tu vừa nghỉ 1 phút. Và cứ tu như thế tiếp tục 30 phút rồi xả nghỉ. Buổi chiều cũng tu 30 phút như vậy. Buổi tối cũng tu như vậy. Buổi khuya và buổi sáng cũng tu đúng 30 phút như vậy.
Trong suốt thời gian tu 30 phút cố gắng hết sức và rất thận trọng chú ý không để cho 1 niệm vọng tưởng xen vào thì mới gọi là hơi thở đó ức chế được vọng tưởng.
(42:16) Muốn biết hơi thở nào ức chế được vọng tưởng thì quý Phật tử hãy căn cứ vào mức hơi thở bình thường lấy làm chuẩn, từ đó quý Phật tử thở hơi thở mạnh và nhanh hơn 1 chút, rồi thử nhiếp tâm trong 1 phút, nếu 1 phút mà ức chế được vọng tưởng thì tiếp tục tu phút thứ 2, nếu phút thứ 2 nhiếp tâm được nghĩa là không có vọng tưởng xen vào thì tiếp tục tu phút thứ 3, thứ 4, thứ 5 và thứ 6, và suốt 30 phút không có vọng tưởng.
(43:04) Kế đó quý Phật tử tiếp tục tu trong 4 thời công phu, sáng, chiều, tối, khuya, mà thấy không có một niệm vọng tưởng xen vào trong mỗi thời công phu, thì biết đó là hơi thở ức chế được tâm mình. Còn có khi có vọng tưởng, có khi không vọng tưởng thì quý Phật tử phải thở hơi thở mạnh hơn hơi thở đó một chút, chừng nào bốn thời công phu nhiếp tâm mà không có một niệm vọng tưởng xen vào thì lấy hơi thở đó tu tập cho đến chừng nào nhập Định an chỉ mới thôi, thì lúc bấy giờ Thầy sẽ dạy tiếp cách thức nhập định.
Trên đây Thầy dạy quý Phật tử đo lường sức nhiếp tâm của mình đối với hơi thở vì biết được sức nhiếp tâm thì quý Phật tử sẽ giữ gìn được hơi thở, còn không rõ sức nhiếp tâm của mình thì sự tu hành của quý Phật tử sẽ hoài công vô ích kết quả sẽ chẳng thành tựu được.
Muốn giữ gìn hơi thở không thay đổi quý Phật tử thường đến trình với một vị tu tập hướng dẫn để Thầy nghe lại hơi thở của quý Phật tử có đúng hay không. Bắt đầu quý Phật tử thở hơi thở cho vị Thầy hướng dẫn nghe, rồi vị Thầy xác định đúng thì quý Phật tử về tiếp tục tu tập. Thầy nói chưa được đúng hoặc thở nhẹ hơn một chút hoặc thở mạnh hơn một chút, hoặc thở ngắn hơn, hoặc thở dài hơn.
(45:06) Chừng nào Thầy bảo đúng thì quý Phật tử cố nhớ kỹ cách thở, âm thanh, cảm giác, hành động của thân hành khi thở và cố gắng giữ cho được duy nhất một loại hơi thở này thì sự tu tập mới có kết quả. Nếu không được sự hướng dẫn như vậy thì hơi thở thường thay đổi khiến cho người tu khó nhiếp tâm.
HẾT BĂNG
THIỀN ĐỊNH CỦA Ý THỨC
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Rơi vào loại tưởng không đúng đâu. Bởi vì khi nào chúng ta sống đúng nghiêm chỉnh theo giới luật hẳn hòi đàng hoàng rồi, thì bắt đầu chúng ta mới kiểm nghiệm từng cái chút, nghĩa là trước cái ác pháp tâm nó bất động, là người ta chửi mắng mình không có giận hờn phiền não, không có tham sân si nữa thì mình thấy rằng mình đã ly dục, ly ác pháp rồi. Bây giờ cho nên ác pháp không có tác động được nữa. Phải không?
Cho nên do vì vậy chúng ta biết rõ ràng thì bấy giờ chúng ta mới ngồi lại, chúng ta để cho cái tâm tự động ở trên hơi thở mà chỉ có quyền nhắc chứ không có được tập trung, mình không có tập trung trên hơi thở nữa mà chỉ có quyền nhắc.
Bây giờ chúng ta quan sát trên từng Thân-Thọ-Tâm-Pháp của chúng ta xong rồi, bây giờ chúng ta nhắc cái tâm định trên hơi thở, rồi bắt đầu mình nhắc thì tức là cái tâm nó sẽ biết hơi thở ra… Bởi vì trải qua cái thời gian mình tu Định niệm hơi thở, tức là mình tu hít thở năm hơi thở đi kinh hành đó, từ mình nhắc “Thở ra tôi biết tôi thở ra, hít vô tôi biết tôi hít vô” hay hoặc “Tôi thở tôi biết tôi đang thở” thì cái sự tu tập của các con nó đã thuần quen với hơi thở cho nên khi mà nhắc nó, khi mà quan sát Thân-Thọ-Tâm-Pháp xong rồi thì bắt đầu mình nhắc “Cái tâm phải định vô hơi thở, đừng có phóng dật ra ngoài”.
Do đó bây giờ mới thấy nó biết nó hơi thở ra vô, để tự nó biết chứ không có gom như hồi mình mới tu, 5 hơi thở đi kinh hành là mình phải gom cái tâm vô cái hơi thở. Còn bây giờ thì không gom, chỉ nhắc rồi tự động để cho nó biết, chớ không có. Bởi vì khi mà nhắc vậy thì tự nó định trên hơi thở, cho nên mình chỉ cần coi như mình chỉ là một người đứng xem coi cái tâm của mình nó định hơi thở chứ không phải là mình ngồi đó mình ôm ấp nó hoặc là mình tập trung gom cái tâm mình vô trong cái hơi thở, không phải. Mà mình chỉ đứng quan sát để coi cái tâm của mình nó quay vô hơi thở thôi.
Coi như mình là người thứ ba để đứng coi cái tâm nó quay vô hơi thở. Hơi thở là cái đối tượng của cái tâm, coi thử coi nó có định lên không, thì mình đứng đây mình xem thôi chứ mình không có tập trung.
Phật tử: Bạch Thầy là không chú ý vào tụ điểm mà chỉ xem hơi thở xem có ra vào không?
(2:00) Trưởng lão: Chỉ xem hơi thở ra vào không có gom tâm trong tụ điểm. Gom trong tụ điểm là khi chúng ta còn tu Định Niệm Hơi Thở, còn tu Tứ Chánh Cần thì chúng ta sẽ tập trung gom lại, còn bây giờ thì không có gom lại, mà chỉ nhắc nó rồi chúng ta chỉ quan sát coi thử coi nó có gom…
Phật tử: Quan sát có thở hay không chứ không có chú ý tụ điểm.
Trưởng lão: Coi thở hay không đó, nó thở nặng thở nhẹ thở chậm thở dài thì kệ nó, không có cần mà phải thở cho nó có vận dụng để cho nó tập trung đâu, không có vận dụng cái chút gì hết. Hơi thở sao cứ để vậy rồi coi thử coi cái tâm của coi nó có biết hơi thở hay không. Mình biết tu thời gian sau thì mình sẽ thấy rõ ràng là mình đứng mình xem hơi thở, mình xem cái tâm nó bám vô hơi thở hoặc là không.
Bởi vì Thầy nói thực sự ra khi mà mình niệm rồi thì nó có cái người thứ ba dưới mình, bây giờ mình hướng tâm “Tâm như cục đất” nè, thì mai kia mốt nọ có sự kiện xảy ra thì thật sự ra ở trong tai mình, trong tâm mình nó nhắc liền: “tâm như cục đất”, khi có chuyện nó tức giận cái nó nhắc liền, thì đó là mình đã tạo được người thứ hai của mình, ngoài mình ra còn có người thứ hai của mình tức là người Niệm Xứ rồi. Cho nên vì vậy khi mà tu Tứ Niệm Xứ thì ngay đó thì mình nhắc, cái lệnh của mình nhắc, thì mình chỉ nhắc nó là cái lệnh của mình là người chỉ huy rồi, thì mình coi thử coi cái tâm có quay vô không. Thì mình thấy rõ ràng cái tâm nó quay vô nó biết hơi thở. Cho nên mình không có tập trung không có gì hết, nó nhẹ nhàng ghê gớm lắm. Thầy nói thật sự ra tu tới đây là nó tới sự vi tế rồi.
Cho nên vì vậy nó không phải là còn như mình tập trung như các sư các thầy mà tu tập, nó quá thô rồi nó không phải đâu, ở đây nó khác, nó đến giai đoạn của cái tâm nó tự nhiên. Rồi bây giờ nó tự nhiên như vậy nhưng mà nó chưa hẳn đã hoàn toàn nó kéo dài được, cho nên thỉnh thoảng chúng ta lại nhắc. Bây giờ khi mà nó đương như vậy, đương như vậy không phải chúng ta để cho nó ở vậy hoài, mà chúng ta phải tác ý ra. Bây giờ phải quan sát lại Thân-Thọ-Tâm-Pháp xem có chướng ngại không, chứ không khéo nó cứ để cho nó biết hơi thở, thì cái xúc tưởng hỷ lạc nó xuất hiện ra liền.
Nó xuất hiện ra liền thì mình cảm giác như nó an ổn, chứ thực sự ra mình không có ý thức trên Thân-Thọ-Tâm-Pháp của mình. Mà mục đích Tứ Niệm Xứ là mình dùng ý thức, tức là Chánh Niệm mà, cái ý Chánh Niệm ở trên đó chứ đâu phải là cái tưởng, cho nên vì vậy mình cứ ngồi im lặng nó thành tưởng. Cho nên lúc bấy giờ chúng ta lại nhắc cái tâm, bây giờ phải quay trở lại, nghĩa là lìa hơi thở đó, phải quay trở lại quan sát Thân-Thọ-Tâm-Pháp lần nữa.
Rồi bắt đầu bây giờ nó quay lại quan sát y như vậy lần lượt lần lượt, cho đến Pháp xong rồi, thì bắt đầu nó ra lệnh, tự nhiên nó phản xạ một cách khi mà tu nó quen rồi nó ra lệnh nó nhắc “Cái Tâm định lên hơi thở liền”, thì bắt đầu cứ mình quan sát coi cái tâm nó quay vô nó biết hơi thở ra vô trên hơi thở của mình. Khi mình nhắc rồi thì cái hơi thở nhẹ chậm như thế nào thì mình vẫn, cái tâm nó bắt đầu nó quay vô thì nó vẫn thấy biết rất rõ. Còn mình ra lệnh thì mình thấy cái lệnh của mình hoàn toàn nó đứng ở ngoài cái góc độ để mà nó quan sát.
(4:45) Cho nên cái lệnh đó là cái lệnh của pháp Như Lý Tác Ý, cái đạo lực ở chỗ pháp Như Lý Tác Ý. Mình tu tập mà được cái người thứ ba mà ngoài cái đối tượng của tâm, với cái tâm rồi mà có người thứ ba nữa, tức là người thứ ba đó là cái đạo lực của mình. Khi nào nó hiện ra cái đạo lực thì nó mới đúng mà chưa có đạo lực thì mấy người phải tu tập Tứ Chánh Cần rất nhiều, chớ tu lơ mơ thì không được.
Cho nên vì vậy nhớ, là cư sĩ các con thì luôn luôn lúc nào những buổi tối mà trong gia đình mình, buổi tối thì nó sinh hoạt, nó phát ti vi này kia, chỉ có buổi khuya là tốt nhất cho quý vị tu. Không lẽ bây giờ mình lại còn ham ngủ nữa sao. Cho nên các con nhớ Thầy dặn con, khi mà về tất cả vợ con tối nó ngủ rồi kệ nó, khuya mình ngủ chừng một tiếng đồng hồ, cái mình thức dậy, lúc đó 2 giờ, 3 giờ cũng được miễn là mình thức dậy mình tập cho nó tỉnh táo cho đàng hoàng. Rồi bắt đầu vô ngồi, quyết định là ngồi tu một giờ Tứ Niệm Xứ, rồi tu rồi đi ngủ, không cần nữa. Tu một giờ thôi rồi đi ngủ, mà tu rồi đi ngủ khỏe lắm. Mà trước đi ngủ thì phải nhắc nó: “Tâm ngủ không có chiêm bao mộng mị gì hết, ngủ cho ngon, ngủ cho tốt ngày mai làm việc nữa”.
Cứ như vậy, rồi ban ngày sống ngăn ác diệt ác, ban đêm tu Tứ Niệm Xứ, rồi tới cái lúc mà tự cái tâm nó quay vô rồi thì bất kì ở nơi đâu cũng phải về đây hết để Thầy dạy nhập định, chứ còn cái tâm mà nó quay vô nó biết thở ra vô ra vô mà không có về đây, thì kể như là không biết cái cách phương pháp hướng tâm để nhập các định. Giai đoạn này là giai đoạn tu Tứ Như Ý Túc, bốn cái Như Ý Túc của mình, lúc bấy giờ Thầy mới dạy cách thức tu Tứ Như Ý Túc.
Chứ bây giờ mình hướng bậy thì không được, hướng bậy rồi tới chừng đó nó đi lạc rồi cái nó vô không được. Thí dụ mình thấy nó được vậy mình nhắc “Tịnh chỉ hơi thở đi, vô đi”. Trong khi đó nó tịnh chỉ bất tử nó vô đó mình không thở nữa, bà con xuống chôn mình đó, uổng của đó, tu đến đây rồi mà người ta chôn cách oan mạng đó. Phải không?
(6:48) Phật tử 2: Trong cái tiến trình thời gian mà ngồi tu Tứ Niệm Xứ đó, con đã sắp xếp ổn định rồi, con ở độc cư rồi, tiến trình tu như vậy là theo dõi tâm theo bốn pháp hết rồi, dầu là bao nhiêu phút cũng là coi như một tiến trình hả Thầy?
Trưởng lão: À một tiến trình của nó, rồi bắt đầu đó cái tâm để cho nó định lên hơi thở một thời gian bao lâu tùy theo nó. Khi nó muốn hướng ra, ví dụ độ khoảng chừng mười hay hai mươi hơi thở, thì bắt đầu mình phải tác ý ra.
Phật tử 2: …Nó thì cái đó con cũng thấy an lạc…
Trưởng lão: Thì nó an lạc nhưng mà con phải tác ý.
Phật tử 2: (…)
Trưởng lão: Không được, cảm giác đó là thuộc về tưởng rồi.
Phật tử 2: Vậy con bỏ cái đó, con phải theo Thầy, theo cái tiến trình Thầy dạy…
Trưởng lão: Tiến trình của ý thức, không phải tiến trình bằng tưởng thức, còn cảm giác đó là tưởng thức đưa đi.
Phật tử 2: Nhưng mà sao cái cảm giác đó nó làm cho cũng như là máu chạy cũng như là mình châm cứu á.
Trưởng lão: Ờ thì đó là cái năng lực của tưởng mà.
Phật tử 2: (…)
(08:06) Trưởng lão: Như vậy là con dùng cái pháp tưởng nó cũng hết, nhưng mà nó không phải. Bởi vì pháp tưởng nó chỉ hà hơi cho con thôi. Bây giờ có người nói bị bệnh ma tà, rước ông Thầy phù thủy đến ổng cũng vẽ bùa cũng đọc thần chú rồi ổng cũng tụng kinh tụng gì đó, ổng kể một hơi con ma nó xuất ra thì họ cũng thấy hết rồi. Bởi vì họ có năng lực của tưởng nó giúp cho hết, nhưng mà mai mốt nó trở lại. Còn cái này không, con nếu mà con trị bằng ý thức của con thì bất kỳ nó đau cái chỗ nào đó cái lưng con, bắt đầu con ra lệnh “Cái thọ là vô thường, cái lưng đau này phải rời khỏi cái thân này đi”.
Con ra lệnh vậy bằng cái ý thức của con thôi, cái năng lực ý thức của con nó sẽ mạnh mà nó thực tế hơn. Còn cái kia tưởng thức, khi con điều khiển nó vậy bằng cách con phải giữ tâm im lặng như vậy, mà con không có cái năng lực của cái pháp truyền lệnh, do đó con không thể nào mà làm chủ được nó đâu. Bây giờ nó trị hết, mai mốt nó sanh bệnh khác nữa. Và cứ như vậy nó chỉ chẳng qua là nhân quả của thiện ác của nó giảm theo cái năng lực của tưởng thôi.
Phật tử 2: Mô Phật thưa Thầy, còn trong lúc con ngồi như vậy đó thì nó cảm thấy như là nó…
Trưởng lão: À bởi vì dù là các pháp nào nó sinh diệt, vì nó ở trên cái tâm của con mà nó khởi ra thì lúc bây giờ nó là chướng ngại pháp của con.
Phật tử 2: Chớ không phải đó là thật hả Thầy?
Trưởng lão: Bởi vì hoàn toàn cái thật là thanh thản, an lạc và vô sự ở trên bốn cái chỗ này, mà nó có một cái gì mà nó khởi lên ở trên tâm con, nó sanh diệt trên tâm con là sai hết.
Phật tử 2: …Con trình Thầy coi thử…
(10:12) Trưởng lão: Cái đó con tu theo Thân Hành Niệm.
Phật tử 2: Dạ mà có đúng không Thầy?
Trưởng lão: Cái đó là đúng theo pháp Thân Hành Niệm chứ không phải Tứ Niệm Xứ.
Phật tử 2: Vậy hả Thầy?
Trưởng lão: Rồi bắt đầu bây giờ Thân Hành Niệm thì cái thân của mình hành cái động nào đó, mình theo dõi nó, bây giờ nó đau nó nhức là cái hành động thôi, mình biết Thân Hành Niệm. Không phải Tứ Niệm Xứ con. Còn Tứ Niệm Xứ là hoàn toàn ngồi đây quan sát bốn chỗ để đẩy lui chướng ngại pháp thì Tứ Niệm Xứ. Còn cái đó là Thân Hành Niệm.
Bây giờ thân nó đưa lên nó biết, hạ tay xuống nó biết, bây giờ cái mình cúi xuống mình lạy nghe nó đau cái lưng, mình biết. Thì đó là cái hành động của cái thân làm cho mình cảm giác thì gọi là mình biết từng chút từng chút cái động dụng của cái thân của mình trong đó, thì cái đó gọi là Thân Hành Niệm, nó vừa là hành động nội vừa là hành động ngoại, cho nên hành động nội và hành động ngoại của nó đó là nó thuộc về Thân Hành Niệm.
Thân Hành Niệm trên Tứ Niệm Xứ chứ không phải tu Tứ Niệm Xứ.
Phật tử 2: …
Trưởng lão: Bởi vì con không có hỏi rành, bởi vì ở trên Tứ Niệm Xứ nó thực hiện nhiều cái pháp, cũng như bây giờ con tu Tứ Chánh Cần con cũng phải thực hiện trên Tứ Niệm Xứ chứ ngoài Tứ Niệm Xứ thì con biết cái gì ngăn ác diệt ác ở đâu. Cũng phải là ngăn ác diệt ác ở tâm thân con chớ đâu, thì nó cũng là Tứ Niệm Xứ. Nhưng mà thí dụ như con tu Định Niệm Hơi Thở nó cũng là Tứ Niệm Xứ bởi vì nó là hành động nội của thân. Cho nên con tập trung ở trong hơi thở con nhiếp tâm ở trong hơi thở con cũng đều tu Tứ Niệm Xứ, gọi là tu Thân Hành Niệm trên Tứ Niệm Xứ chứ không phải là tu Tứ Niệm Xứ.
Phật tử 2: Thầy còn cái mà thầy con nói câu mà con về cái pháp tu, ở trường ta ai lại nói về hơi thở là con bát liền trong khi đó mấy trăm người có mình con lạ lùng kỳ cục hà, con mới đi tìm Thầy con hỏi coi, thầy con bểu con nếu mà trong thời gian ở nhà mà tu mà không thấy được tam tướng thì nó có đúng không, tam tướng của con đâu có làm sao mà con biết rõ được, Thầy hoan hỷ Thầy dạy giùm con cái tâm tướng cái thân con.
Trưởng lão: Cái tầm tứ phải không?
Phật tử 2: Dạ không, nói tam tướng á là: vô thường, vô…, vô ngã.
Trưởng lão: Tam ấn, tứ ấn theo con nói cái tam…
Phật tử 2: Theo thầy con gọi tam tướng: vô thường, vô…, vô ngã đó, mà thầy nói vậy thì con cũng mắc mò khổ lắm Thầy, tới mấy trăm người mà có một vị nào mà… thầy con nói ngồi đó mà quán trên thân giống như Thầy dạy vậy đó, thấy được cái khổ nó thay đổi đó Thầy, còn cái thọ đó nó đến với mình… đó rồi nó lại ra đi chớ đâu có ở hoài với mình đâu, đó cái gì nó… thôi.
(13:04) Trưởng Lão: Không phải, bây giờ Thầy nói như thế này này, Đức Phật xác định cho tam ấn và tứ ấn ở trên Tứ Niệm Xứ. Bây giờ Đức Phật nói thân là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã là tứ ấn, mà nói thân vô thường, khổ, vô ngã thì nó là tam ấn. Đây là xác định, gọi là “Ấn” tức là xác định chúng ta cái này là chắc chắn là hễ cái gì vô thường là cái đó khổ, mà cái đó khổ là vô ngã thôi, nó không có cái ngã. Cho nên đây là xác định thôi, vì vậy mà chúng ta nắm được xác định này chúng ta biết các pháp là vô thường, khổ, vô ngã thôi. Cho nên đó là để mà chúng ta xác định được cái pháp như vậy để mà chúng ta đừng có dính mắc.
Nhưng mà sự thật chúng ta chỉ học cho nó suông chứ nó không phải vậy. Mà cho nên con đường tu nó phải tu nó khác, nó không phải như con hiểu. Con hiểu ra như vậy nó thành ra tưởng. Cho nên phải biết cái pháp tu, thí dụ như bây giờ trong cái giai đoạn con phải tu về Tứ Niệm Xứ mà Tứ Chánh Cần, hoặc là Tứ Niệm Xứ và Tứ Bất Hoại Tịnh hay là Tứ Niệm Xứ mà tu Tứ Niệm Xứ. Hoặc là tu Tứ Niệm Xứ mà lại tu Tứ Thánh Định. Bởi vì trên cái thân này nó có định ở trên này thì cho nên nó cũng ở trên Tứ Niệm Xứ, cho nên vì vậy đó thì cái hiểu biết của con nó có cái hiểu biết tổng quát, mà nó kêu là nó tạp nhạp như ở trong cái bài kinh của kinh, thành ra nó lộn xộn lắm, nó không có thứ tự.
Phật tử 2: …bây giờ Thầy dạy cho con… theo sát Thầy được không? Giống như quán cái thân…
Trưởng lão: Còn bây giờ Thầy dạy cho các con, thì khi nào có điều kiện cần thiết thì hỏi thêm thì Thầy dạy cái đó để mà tu. Còn bây giờ dạy Tứ Niệm Xứ là trên thân này đẩy lui các chướng ngại pháp thôi. Cho nên vì vậy thứ nhất là thường xuyên tác ý ra, để dùng ý thức chứ không được dùng tưởng, nghĩa là đừng có dùng cái tưởng. Ví dụ bây giờ cái thở ra thở vô chỗ mũi này, mà mình thấy nó đi vô phổi của mình là mình tưởng. Thật sự ra con đường đi mình phải hít vô phổi rồi, nhưng mà đừng có tưởng theo nó. Như vậy cho nên mình biết ra biết vô ở đây thôi, một cách tự nhiên hơi thở ra biết ra hơi thở vô biết vô.
Phật tử 2: Con cũng nghe đây… thưa Thầy.
(15:13) Bởi vì Đức Phật không có dạy chúng ta dùng cái tưởng mà để đưa nó đi. Thành ra do vậy mà chúng ta theo cái lộ trình của Đạo Phật, thoát ra khỏi cái vọng tưởng, bởi vì cái tưởng nó sẽ dẫn chúng ta đi vào cái lệch. Cho nên chúng ta đừng có dùng tưởng trong cái bước đường tu. Nếu mà muốn không dùng tưởng thì luôn luôn phải tác ý, tác ý ra thì cái ý thức của chúng ta nó mới có. Chứ nếu mà không tác ý thì cái tưởng nó sẽ làm cái ý thức nó mất đi thì chúng ta tu không có đến đâu được hết đâu.
Cho nên ở đây mục đích của chúng ta là cái đường đi chúng ta thấy rất rõ, là tới cuối cùng nó phải là Định Hữu Sắc, Định của ý thức chứ không phải định của tưởng thức. Cho nên chúng ta phải thực hiện tới Tứ Thiền, từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền. Vì vậy cái Định này nó xác định cho con đường chúng ta đi một cách cụ thể rõ ràng, mà cái Chánh Định này nó nằm ở cái nẻo thứ tám của Bát Chánh Đạo. Cho nên vì vậy nó xác định Tứ Thánh Định là con đường của Đạo Phật là cái định đó mới đúng. Cho nên vì vậy chúng ta phải xả hết tất cả những cái tưởng của chúng ta ra thì chúng ta mới đi được vào cái Định Hữu Sắc này. Nói Định Hữu Sắc tức là Định của ý thức, mà nói Định Vô Sắc là định của tưởng thức, chúng ta phải hiểu như vậy.
Chúng ta bây giờ phải hoàn toàn lìa xa cái định tưởng cái định mà Vô Sắc, không có được mà để cho một chút xíu nào mà xen ở trong đó. Bởi vì nhiều khi chúng ta ngồi đây cái tâm không vọng tưởng mà chúng ta lại Định Vô Sắc, chứ không phải định ý thức. Còn ý thức chúng ta phải ly tham sân si nó mới thuộc về định ý thức, như vậy nó là Sơ thiền mới được. Cho nên vì vậy luôn lúc nào chúng ta cũng phải tác ý. Cho nên Đức Phật nói phải tác ý mà. Thiện xảo tác ý mà, khéo léo tác ý chứ không phải là dụng nó, thì cũng không giải quyết được, nó sẽ bị tưởng xen vô.
Cho nên phải khéo léo trên bước đường tu. Bây giờ Thầy nói hiện giờ Thầy dạy, thì các con cứ theo cái chỗ nào, hiểu chỗ nào tu, đừng có, bao nhiêu cái gì mà tới giờ hiểu, xả xuống bỏ hết đi, nó trật rồi, nó trật con đường rồi, không có nên mà tu theo nó. Không phải Thầy bác các pháp của các thầy đâu, nhưng mà vì nó không đưa các vị thầy của chúng ta đến nơi cuối cùng, nơi làm chủ, cho nên bây giờ chúng ta bỏ hết, chúng ta coi như là bắt đầu đi trở lại.
(17:24) Bây giờ bắt đầu đi trở lại, thì Thầy dạy sao cứ làm vậy. Bây giờ về biết là năm hơi thở đứng dậy đi kinh hành, ra lệnh từng hành động đứng lên ngồi xuống để chúng ta có cái quyền làm chủ nó. Đó là cách thức thứ nhất.
Cách thức thứ hai là hằng ngày chúng ta sống tiếp duyên với các pháp, thì chúng ta luôn luôn phải thấy bằng cái đôi mắt nhân quả, thiện với ác, không được thấy nó đúng sai. Đó là một cách thức để mà cứu chúng ta ngăn ác diệt ác, đó là cái phương pháp tu để mà sống trong các pháp gọi là phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình không bị dính mắc.
Cái thứ ba là trong những đêm khuya thanh vắng thì chúng ta phải tu, ngồi quan sát trên bốn chỗ Thân-Thọ-Tâm-Pháp có chướng ngại thì đẩy lui, không có chướng ngại thì để cho nó thanh thản, an lạc, vô sự còn một niệm gì khởi ra đều hoàn toàn tưởng hết, chúng ta phá hết. Có như vậy thì chúng ta mới tu được.
Và như vậy, thì coi như Thầy đã nói như vậy thì chúng ta về cần phải thực tập, rồi thực tập rồi thì còn phải thưa hỏi. Chứ không phải nói rồi về nó làm đúng được đâu, nó còn sai. Cho nên vì vậy bây giờ về thực tập, về thực tập rồi mới thưa hỏi lại. Còn bây giờ con chuẩn bị con về, thì lúc bấy giờ đó, thì sẽ trình lại Thầy, sau đó viết thơ gởi lên Thầy. Giờ con tu đêm như vậy, con tu con thấy nó thanh thản, an lạc rõ ràng. Bởi vì Thầy đã đặt cho các con những cái từ “Thanh thản, an lạc và vô sự”. Phải không? Mà cái tâm mà nó mất cái thanh thản, an lạc, vô sự, bốn chỗ Thân-Thọ-Tâm-Pháp này nó không có cái thanh thản, an lạc, vô sự thì nó sai. Mà có thanh thản, an lạc, vô sự là đúng. Con nhớ chưa?
Cứ như vậy rồi sau đó viết thơ trình bày, chớ không phải nói bây giờ cái mà làm được liền đâu, mà phải tu rồi mới rút tỉa từng kinh nghiệm mới thấy được, rồi có cái gì Thầy chỉnh lại hết. Bởi vì giờ còn Thầy, chớ nếu mà mất Thầy thì chắc chắn là không có ai chỉnh cho.
Phật tử 2: Con khổ, bây giờ con kiếm được Thầy con mừng rồi.
Trưởng lão: Chớ còn bây giờ mấy con hỏi lung tung đây rồi Thầy một mớ kêu là một mớ kinh sách, một mớ hiểu biết thì coi như các con rối nữa. Cho nên Thầy không muốn cho các con thêm rối. Bởi vì nó nhiều quá nó rối lắm. Tốt hơn các con cứ giữ đúng cái lời Thầy dạy, cái nào đã tập hôm nay thì phải làm cho đúng.
Phật tử 2: Dạ, con xin nhận với Thầy là con bắt đầu ngay từ đầu con không nuối tiếc cái quá khứ này nữa, không thấy cái tu sai tu đúng, mà bây giờ con quyết chí theo Thầy, bởi vì… Thầy tích cực, con muốn gì cũng được, còn cái kia là khổ quá Thầy ơi!
Trưởng lão: Rồi bây giờ mấy con chuẩn bị về. Lo về tu, nói nhiều quá.
Phật tử 3: Thưa Thầy con muốn hỏi là Thầy giảng lại cho con cái dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu a. Nhất là cái vô minh lậu con chưa hiểu.
(19:53) Trưởng lão: Bây giờ Thầy nói như thế này để cho thấy cái Dục lậu. Cái Dục lậu là khởi ham muốn, thí dụ giờ mình thấy cái bánh đó mình muốn ăn thì mình biết đây là cái dục lậu, phải không?
Còn cái Hữu lậu, một cái vật mà mình có mà người ta xin mình không cho là mình bị Hữu lậu. Mình tiếc đó là Hữu lậu đó. Hiểu không? Cũng như bây giờ Thầy có đồng hồ mà con xin Thầy không cho con tức là Thầy bị Hữu lậu, còn Thầy cho con thì không Hữu lậu.
Còn bây giờ Thầy cho con biết thêm, là cái Vô minh lậu, người ta nói cái gì đó mà mình phiền não tức là mình bị vô minh, còn mình không có vô minh thì không phiền não. Rõ chưa?
Ờ rõ rồi, khi nào mà có cái gì, thấy người ta đi đó mình sinh chướng, thì tức là vô minh. Mà mình không chướng thì tức là không có vô minh. Thầy giải thích thì rõ thôi.
Phật tử 3: Trong lúc tu Tứ Niệm Xứ mà có cái sáu cái tưởng, chẳng hạn như sắc tưởng, thanh tưởng nó tới thì có pháp hành nào để đối trị không ạ?
Trưởng lão: Mình đối trị cái pháp đó bằng pháp Như lý tác ý của mình. Mình biết đây là cái sắc tưởng: “Mày hãy lui đi, ở đây hoàn toàn tao sử dụng ý thức cho nên mày không được xen vô”. Mà nếu mà nó không chịu lui nó cứ hiện cái hình ảnh đó hoài thì tức là tao đứng dậy đi, cho mày hiện. Mình đứng dậy đi thì nó xả. Tao không thèm ngồi đó nữa, thì nó sẽ xả. Còn thinh tưởng nó cũng vậy, bây giờ cứ nghe âm thanh nói hoài, nhất định là “mày thinh tưởng mày phải rời khỏi đây, tâm phải thanh tịnh không nghe tiếng bậy bạ, vậy thì thinh tưởng này phải đi”. Nếu mà không đi tao đứng dậy tao xả, mày cũng phải đi.
Phật tử 3: Bạch Thầy ví dụ trong lúc tu, chưa đến bữa ăn cơm mà nó đói muốn ăn tức là Dục lậu, thì khi đó quán thế nào ạ.
(21:33) Trưởng lão: Thì quán mình nói: “giờ ăn thì phải đúng giờ ăn thì ăn chứ không phải mày đòi”. Bây giờ đây mà đòi là tâm tham của mình rồi, dục lậu rồi. Cho nên vì vậy đó, còn lậu hoặc thì còn thấy đói, cho nên mày phải đi đi tao nhất định là tao không có theo mày. Do đó tới giờ ăn ít bữa hôm sau con cứ đúng giờ con ăn nó quen, còn con ăn bây giờ đói, bây giờ mới mười giờ chưa tới mười một giờ mà nó muốn đi ăn con đi ra bưng cơm ăn thì nó sai con rồi đó. Tức là con bị Dục lậu, phải không?
Phật tử 3: Thưa Thầy cũng có lúc sáng hai giờ dậy tu nếu mà mình hai giờ dậy tu hành thì bắt đầu nó đói, mà nếu mà mình ngủ thì nó không có đói.
Trưởng lão: Thì vậy nó là bị Dục lậu. Cho nên mình ra lệnh nó: Dục lậu, mày là dục lậu mày làm tao khổ, nên mày đói mày cho tao muốn ăn nè, nó mới khổ, nó mệt hoặc này kia. Do đó mày nhất định mày không có được đói. Tao bây giờ tao chết nhất định tao cũng giữ giới luật. Cho nên mình hét mình ra lệnh nó, mình không làm theo nó ít bữa cái nó hết trơn mà nó không có đói. Mình là anh hùng mình chiến thắng mình chiến sĩ, mình chiến thắng mình là cái chỗ này nè. Nhất định thế nào nó cũng sai mình tầm bậy rồi. Thì do cái sai tầm bây đó là cái Dục lậu rồi, cho nên mình mình quyết định là cứ mặc mày, tao biết là mày là dục lậu rồi, mày làm khổ biết bao nhiêu đời rồi. Bây giờ tao đi tu mà mày còn muốn đến mày làm khổ nữa sao được? Tao nhất định tao quyết trật mày ra. Thí dụ nó luận gì đi nữa con không làm theo nghe nó thì tức là con làm chủ đó. Hiểu không?
Cho nên vì vậy gặp Thầy mà, trời đất ơi! Thứ đó mà Thầy quét nó ra chứ. Đói chết bỏ bây giờ mày cứ nằm đó mày chết chứ tao nhất định không ăn, đúng giờ ăn. Mà như vậy mà nó quen đó mấy con, mình phải làm chủ chứ. Bây giờ lý luận gì tao cũng không nghe nữa, bây giờ chết bỏ chứ nhất định tao không nghe lời mày đâu. Tao là chủ mày mà tao đâu có để mày sai tao.
(23:14) Phật tử 3: Con bạch Thầy năm hơi thở kinh hành là mình ước lượng năm hơi thở chứ không có được đếm ạ?
Trưởng lão: Ban đầu mình đếm, sau đó nó quen rồi thì ước lượng. Nghĩa là tới cái khoảng thời gian đó buộc cái pháp hướng nó quay ra thôi. Bởi vì mình tu tập quen rồi. Còn mới đầu mình đếm một hai ba bốn năm hơi thở, nhất định là phải hướng ra. Chớ còn bây giờ mới đầu mà con ước lượng, nhiều khi nó ngồi nó im quá mà tác ý ra cái nó động thôi, cứ ngồi luôn tức là nó mất pháp hướng rồi, phải không? Cho nên bây giờ mình đếm một, hai, ba, bốn. năm, tác ý ra. Nó muốn cãi lệnh, nó tác ý ra nó hướng tâm nó nhắc, rồi mình hít thở lại một, hai, ba, bốn, năm thì đó mình tác ý mình làm chủ mình điều khiển mà. Sau khi quen rồi con không ước lượng tới đó nó cũng nhắc nữa, con cứ hít thở tự nhiên con không có đếm, tới chừng đó nó nhắc ra, tự nó nhắc ra, tới đó nó nhắc ra nó giữ cái ý tứ của nó mà. Còn chừng nào cái tâm nó không phóng dật nó quay vô được rồi thì con không có cần nhắc gì đâu nó định rồi. Tới đó tại nó định rồi nó không có nhắc nữa.
Phật tử 3: Tức là nó có người thứ ba rồi đấy?
Trưởng lão: Ừ là nó có người thứ ba rồi.
Phật tử 4: Kính bạch Thầy, cũng như ngồi tổ chức cái môi trường thân cho ấm áp cho kín đáo đừng có bị muỗi cắn hay này kia, xong rồi cái môi trường đừng có tiếng ồn mới bắt đầu ngồi. Rồi cái mới để tâm khi mà xét thấy trên thân thọ tâm pháp không có gì chướng ngại rồi bắt đầu kêu hơi thở nó… phải định vô hơi thở.
Trưởng lão: Kêu nó định trên hơi thở, rồi mình ngồi quan sát coi nó theo hơi thở ra sao.
Phật tử 4: Mô Phật! Nghe hơi thở rồi mình hướng tâm nhắc tâm lần nữa coi thân thọ tâm pháp có trục trặc không.
Trưởng lão: Nhắc, quan sát lại nữa. Đó là tu Tứ Niệm Xứ, coi xem có trục trặc không, nó không trục trặc thì nó thanh thản, biểu nó định vô hơi thở.
Phật tử 4: Thí dụ nó tê giò tê cẳng thì mình ra lệnh đúng không Thầy?
Trưởng lão: Ừ ra lệnh. Bây giờ tê giò tê cẳng phải xả đi, cái thân thọ mà tê này phải xả. Mình ngồi mà thấy nó không hết tê, tao biểu mày xả mày không nghe tao đứng dậy tao đi coi mày còn tê không. Thì nó phải xả thôi, phải không con thấy không? Thì sau đó mình ra lệnh cái nó ngán mình rồi. Cái ông này nếu mà ổng bảo đừng có tê mà vẫn tê thì coi chừng ổng đứng dậy, cho nên vì vậy nó bắt đầu hết tê, mình ngồi nó cũng không tê. Bởi vì mình tập ra lệnh, sau đó nó có đau nhức cái chỗ nào mình ra lệnh tự nó đi chứ mình khỏi cần phải xả vậy. Nhưng bây giờ nó trù trì nó không nghe nó vẫn còn tê, mình đứng dậy đi là nó hết. Con hiểu chỗ đó không? Chứ đừng có để ráng ngồi chịu tê.
(25:32) Phật tử 2: Mô Phật! bạch Thầy, Cái Tứ Niệm Xứ đó Thầy, mình ngồi rồi mình đi, rồi mình kinh hành rồi bình thường trong trên bốn oai nghi, mình đều theo dõi thân thọ tâm pháp.
Trưởng lão: Thân-Thọ-Tâm-Pháp chứ không phải tu Thân Hành Niệm hoặc là Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Phật tử 2: Không đợi ngồi không hả Thầy?
Trưởng lão: Ờ nó không có cần. Thầy nói bây giờ đứng dậy đi, bây giờ thí dụ như mình tu Tứ Niệm Xứ mà đứng dậy đi cũng vẫn là quan sát Tứ Niệm Xứ đó. Hễ mà mình đi mà trong khi mình giữ hơi thở tâm nó quay vô, nhưng mà khi mà đi đúng cái khoảng thời gian năm hay mười hơi thở cái mình nhắc quan sát Tứ Niệm Xứ, vẫn đi mà quan sát Tứ Niệm Xứ đó. Chớ đâu phải, bởi vì Tứ Niệm Xứ là đi đứng nằm ngồi đều tu hết. Mà ngồi tư thế nào cũng được chớ không phải là đợi ngồi kiết già đâu. Nghĩa là tu Tứ Niệm Xứ nó không có đòi hỏi phải kiết già. Lúc nào cũng tu được hết, chỗ nào cũng tu được hết, nhưng mà phải yên tịnh, phải sống độc cư, cái điều đó là cái đặc biệt của nó, chỗ yên tịnh, không yên tịnh là không tu được.
Phật tử 2: Dạ, mô Phật bạch Thầy con xin ghi nhận.
(26:33) Phật tử 4: Kính bạch Thầy, con thì khi làm việc con buông hết việc cái con hay tập trung nghe cái hơi thở đó cũng được hả Thầy?
Trưởng lão: Cũng được. Coi như cái chỗ mà để cái tâm nó nghỉ ngơi là cái hơi thở đó, thì gọi là Định đó, là nó nghỉ đó.
Phật tử 4: Mô Phật, để ý cái hơi thở.
Phật tử 2: Mô Phật bạch Thầy, mà sao nó định hoài? Nó định nhiều lắm? Nó vô nó làm như có định đó, hễ vô ngồi nghe cảm thấy…
Trưởng lão: Nó bị bám vô hơi thở nó định đó.
Phật tử 2: Nghe hơi thở nó thoải mái hoài.
Trưởng lão: Nó thì biết rồi như vậy, nhưng mà cái định nhiều khi nó bị tưởng nữa. Con nên nhớ cái tâm mình chưa ly dục ly ác pháp, người ta còn nói mình còn tức giận thì mình biết là cái định này là định tưởng. Nó cũng bám hơi thở mà cái định tưởng là cái tâm chưa ly dục.
Phật tử 2: Có phải lúc đó là cái tâm nó khỏe nó đòi, nó tham, nó muốn mình tu, con quán hơn ít hơn cái định, có sao không Thầy?
Trưởng lão: Nó quán hơn đừng có để nó định bởi vì nó định là định tưởng. Thành ra nó cứ gây cho mình thích thú ở trong cái định, nó ham cái định thì cái đó là cái sai rồi. Ở đây nó không có ham mà nó ham ly dục ly ác pháp thôi.
Phật tử 2: Trong vòng năm hơi, mười hơi là bắt buộc nó phải quán?
Trưởng lão: Phải tác ý phải quán thôi, để cho nó giữ cái ý thức của nó chứ không khéo nó thích thú ở trong cái định. Mà cái định đó là định tưởng, Thầy nói định tưởng. Định của Phật là do ly tham sân si, cái tâm nó hết tham sân si là tự động nó quay vô thôi, chứ không phải bây giờ mình ngồi bắt đầu nó quen, bởi vì hồi nào tới giờ mình chưa có biết cách thức tu cho nên mình cứ lấy hơi thở để mình tập trung, cho nên bây giờ cái tâm mình nó quen với hơi thở, chứ sự thật ra chưa có ly dục ly ác pháp nó ức chế.
Cho nên bởi vì cái người mà hướng dẫn sai thì nó tu sai, tới giờ nó khó gỡ. Bây giờ cứ ngồi lại nó quay vô nó định mà nó định nó ức chế, nó không chịu xả. Cho nên nó tác ý ra nó cũng không có chịu nữa. Nó không chịu tác ý, nó tác ý ra bị động, cho nên nó cứ ngồi im vậy nó biết hơi thở ra vô ra vô thì nó thích, thế cho nên nó là cái bệnh, cái bệnh thiền. Mấy người tu thành cái bệnh thiền chứ không phải là thiền, không phải định.
Phật tử 2: Thầy nói con hiểu rồi, con tiếp thu được, bởi vì con… cái đó vậy đó.
(28:36) Trưởng lão: Cái bệnh thiền, cho nên nó thành bệnh nó mới thích. Còn cái này tự động nó không có thích. Cái ly dục ly ác pháp nó sanh hỷ lạc, cái hỷ lạc nó không phải cái thích của mình.
Phật tử 2: Tự nhiên nó đến với mình.
Trưởng lão: Nó đến với mình một cách tự nhiên nó do ly dục sanh hỷ lạc. Thành ra cái hỷ lạc nó nghe nó thanh thản an lạc nó không có thích. Mà tại vì cái tâm nó an lạc vậy chớ mình đâu có thích gì đâu. Nó không cái thích ở trong đó mà có thích là nó trật. Còn quý vị cứ ngồi thiền mà thích, thì tức là mấy người sanh dục.
Phật tử 2: Đúng rồi, nó tham.
Trưởng lão: Tham chứ gì. Bởi vậy Thầy nói nó sai. Mà kêu hoài Thầy bảo xả cái này đi, tu cho đúng, phải không?
Thôi bây giờ các con chuẩn bị về đi chớ, lo để tối rồi. Còn con bây giờ cần cái gì Thầy sẽ dạy cho.
Phật tử 3: Bạch Thầy con muốn hỏi cái trạng thái của ý thức hoạt động và của tưởng thức hoạt động, hai cái trạng thái nó khác nhau chỗ nào?
Trưởng lão: Khác nhau chớ con, đâu có giống nhau. Cái trạng thái của ý thức là có đối tượng trước mặt, còn cái trạng thái của tưởng thức là không có đối tượng. Con hiểu chỗ đó không? Nghĩa là không có vật trước mặt mà con lại nghĩ đến cái vật đó là tưởng nó hoạt động, còn có vật này trước mặt, con thấy cái máy này trước mặt con thấy nó rõ ràng cái máy này, cái này nó tròn, cái này nó sao là con thấy. Còn bây giờ không có mà con thấy nó tròn nó méo ở trong đó thì đó là con bị tưởng.
Phật tử 3: Bạch Thầy như Thầy nói, chẳng hạn mình đang đi kinh hành cứ mải đi rồi nó cũng rơi vào tưởng đấy là như thế nào ạ?
Trưởng lão: À nó cũng sẽ vô tưởng, bởi vì Thầy nói mình cứ có tác ý ra, cái ý thức của mình tác ý ra thì nó mới hết, còn mình cứ để mình giữ …
Phật tử 3: tức là ý thức mình tác ý ra mình phải biết môi trường đang đi chẳng hạn cái nền sân nó thế nào, sàn nhà như thế nào…
Trưởng lão: Ừ phải rồi nó là ý thức.
Phật tử 3: Thì nó là ý thức, mà mình quên đi chân mình cứ bước mình không biết được cái điều đó là tưởng thức?
Trưởng lão: Là tưởng thức. Đúng rồi.
(…)
(30:35) Đó thì Thầy nói như vậy con thấy, bởi vì cái ý thức cái tưởng thức chúng ta thấy dễ lắm. Nếu mà chúng ta ngồi mà yên lặng mà quên không tác ý là bị tưởng rồi, bị tưởng nó xen vô rồi. Cũng biết nó chớ mà tưởng mà không hay.
Phật tử 3: Tức là thân làm việc theo cái tưởng nó hoạt động, chứ còn cái ý thức không hoạt động nữa thì không có biết con kiến hay gì ở dưới chân mình nữa?
Trưởng lão: Đó, nghĩa là cái ý thức của mình, đi mà nó thấy con kiến biết liền là ý thức, mà đi mà không biết con kiến thì đó nó thành tưởng thức. Bởi vì Thầy nói ý thức là phải có vật trước mặt của mình, có đối tượng trước mặt là ý thức. Mà nó không có cái vật trước mặt của mình, thì nó không phải là ý thức. Bây giờ hơi thở mình có thấy được đâu, mình có nghe được cái hơi thở đâu, mà bây giờ mình cũng biết được cái hơi thở thì rõ ràng đó là bị tưởng. Cho nên vì vậy để mà tu hơi thở người ta phải nhắc “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, nhắc là ý thức, còn cứ không nhắc là tưởng. Phải không?
Phật tử 3: Cái câu nhắc tác ý của mình đó là đối tượng của ý thức…
Trưởng lão: Đối tượng của ý thức, còn cái kia nó đâu có đối tượng được. Bởi vì cái hơi thở đâu có thấy, mà nó chỉ có cái rung động của cái thân.
Phật tử 3: vì thế Thầy nói Thầy sợ cái tĩnh lặng đó, tại vì cái tĩnh lặng thì không có đối tượng để ý thức hoạt động.
Trưởng lão: Đó. Bởi vậy cái người mà không hiểu không có kinh nghiệm tu rồi cứ dạy chúng ta tu tưởng mà không biết. Trời ơi tới chừng mà Thầy biết được Thầy nói, đúng là thiên hạ tu sai rồi, ai cũng tu sai hết không có người nào mà tu đúng hết. Mà bây giờ mình nói mình đúng người ta nói mình thằng điên , ai cũng tu vậy hết, mà có mình không giống ai hết thì người ta nói mình điên chứ sao. Cho nên nó khổ cái nỗi, vì vậy mà Thầy sửa biết là bao nhiêu năm mà Thầy ở đây Thầy sửa chúng không, họ cứ cãi Thầy, rồi họ bỏ Thầy họ đi. Bởi vì Thầy là thằng điên nói không có giống ai hết, còn họ mới giống người này giống người kia thì nó mới đúng.
Phật tử 2: …Con Thầy dễ dạy tại vì con mới. Con cũng như hồi đó giờ con không biết gì, ở miền Tây đâu có biết, giờ lên đây biết có một chút từ nãy giờ con trình với Thầy đó, bây giờ Thầy dạy con cái pháp này con thấy nó chính xác, nó thực nghiệm trong cái hoàn cảnh thân con nè nó vừa với khả năng. Đâu để ngày mai đêm nay con làm, ngày mai nữa coi sao, mai con có được gặp Thầy nữa không?
(32:47) Trưởng lão: Cứ hễ có chuyện gì trục trặc thì cứ xin cô Út thì con gặp Thầy, còn không có trục trặc thì cứ phải tập. Nó không biết cái gì thì mình phải hỏi, còn nó có những cái gì mà nó không đúng thì phải hỏi thì nó mới biết được, chứ không có gì.
Đó cho nên hôm nay Thầy nói các con mình làm sao mình phân biệt được tưởng thức và ý thức. Mà Thầy nói các con nhận xét nó dễ quá mà. Mà vốn mục đích Thầy đã phân biệt cho các con thiền định của Phật là thiền định của ý thức, chứ không phải cái thiền định của tưởng thức, các con hiểu không? Khi Đức Phật theo ngoại đạo thì tu nó nhằm trong cái thiền định của tưởng thức, cho nên nó nhập từ cái Không Vô Biên Xứ cho đến cái Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ đó là cái thiền định của tưởng.
Cho nên Đức Phật đã bỏ cái này rồi, thế mà đi trở lại Tứ Thiền thì Đức Phật đã thực hiện Tam Minh để làm chủ rồi, mà bây giờ các tổ lại sắp cái định này vô trong này nói của Phật chứ Thầy nói trong kinh Phật bài kinh nào nó cũng có ba cái Tứ Không này hết. Thầy nói thiệt là, sao mà người ta ngu quá vậy ông Phật ổng đã quăng ra rồi bây giờ mình cũng xách vô đây mình cũng nói ông Phật nói. Bây giờ cho nên vì vậy nó rối ren, có một số tu sĩ họ rối ở chỗ cái Thiền Hữu Sắc cái Thiền Vô Sắc Này.
Con Thấy không, tức là họ rối dữ lắm chứ không phải không đâu, họ không biết tại sao kinh có bài kinh này nói Tứ Thiền thôi mà không có nói Tứ Không? Mà có những bài kinh là phải Tứ Không? Không biết sao! Mà không ngờ là các tổ đút vô hết, đưa vô hết chứ thực ra trong kinh điển của Phật hoàn toàn Phật quét ra hết, Phật không chấp nhận, cái ngoại đạo cái đó là không đúng rồi, là không giải thoát rồi. Thế mà bây giờ mình đọc những cái bài kinh trong đó Đức Phật đã xác định mình tu không có thấy nó chứng được đức Phật bỏ rồi, bây giờ lại đút vô mà may có những bài kinh mà Đức Phật bỏ ra đó bây giờ chúng ta còn chúng ta mới biết được, chứ còn nếu mà không có bài kinh đó Thầy biết nói làm sao giờ đây?!
Ông Phật ổng nói ổng chấp nhận đó ông đâu có nói bỏ cái đó đâu, mà tại sao Thầy bỏ? Còn bây giờ nó có những cái bài kinh Đức Phật bỏ, mà nói họ còn không nghe mà huống hồ là nếu mà không có những bài kinh đó thì Thầy làm sao Thầy nói. Khó cái lòng, mình thấy mình hiểu biết mà nói người ta không nghe. Nói thật sự như vậy, mình muốn dẫn họ đi đúng để cho họ giải thoát, họ không biết ơn mà họ còn trao oán cho mình.
(34:56) Phật tử 2: …Con nghĩ Thầy dạy cho con kỹ về cái chữ Chánh Niệm đó.
Trưởng lão: À Chánh Niệm, thì con thấy là cái Chánh Niệm thì là cái niệm thiện chứ không phải niệm ác, phải không? Bởi vì cái Chánh niệm là niệm thiện vì vậy mà luôn mình ở trong cái Chánh Niệm bởi vì nó Tình Giác Chánh Niệm, phải không? Thì luôn luôn cái chữ này, người Tàu họ phải lật ngược cái câu này họ nó Chánh Niệm Tỉnh Giác, thay vì Chánh Niệm nó mới Tỉnh Giác chứ gì không phải, tại vì người Tàu, thực sự thì người Việt của mình thì Tỉnh Giác rồi mới Chánh Niệm, mình có tỉnh mình mới được ở trong Chánh Niệm chứ mình mê thì mình làm sao mình ở trong Chánh Niệm được?!
Mà cái Chánh Niệm thì tức là niệm thiện chứ không thể niệm tà được. Bởi vì Tà niệm rồi Chánh Niệm phải không? Nếu mình ở trong tà niệm thì niệm ác nó có khổ mình khổ người. Xác định được cái niệm mà làm khổ mình khổ người nó là tà niệm, mà cái niệm mà không làm khổ mình khổ người nó là Chánh Niệm.
Cũng như bây giờ thí dụ như Thầy nói một cái điều mà người ta vui, người ta không có khổ thì đó là Chánh Niệm, mà Thầy nói một cái điều mà người ta buồn, thì cái này là Tà niệm. Cho nên Thầy viết sách Thầy nói cái đúng nhưng mà Thầy không cho người ta phổ biến ra là tại vì, phổ biến ra người ta đang ở trong cái sai người ta đau khổ người ta, người ta đang ở trong cái chùa đẹp người ta đau khổ không có ở được trong cái chùa đẹp, người ta ăn ngày ba bữa bây giờ nói ra người ta ăn một bữa người ta thấy khổ quá, cho nên Thầy không muốn làm khổ ai hết.
(36:20) Cho nên vì vậy mặc dù Chánh Pháp còn không muốn làm khổ người ta, huống hồ là tà pháp. Cho nên cái nói của Thầy, Thầy biết lúc nào phải nói và lúc nào không nói. Đó là cái Chánh Niệm. Còn nếu tà niệm mình được mình nói giải bừa ra cho người ta khổ mặc người ta, thì cái điều đó không có được.
Cho nên bây giờ thí dụ như Minh Điền con xin Thầy để đưa những cái bài kinh này lên đài truyền hình đài phát thanh phải không? Nhưng mà Thầy thấy giai đoạn này không được làm khổ thiên hạ. Đã là Chánh Pháp mà còn làm khổ thiên hạ thì nhất định là chưa được lúc. Bởi vì cái thời điểm nó chưa được, người ta còn đắm chìm ở trên đó rồi, thì từ từ mình sẽ đưa một cái nền đạo đức, từ cái nền đạo đức nó khẽ đi người ta bớt đi. Bây giờ người ta bớt khổ nhiều nhờ cái đạo đức rồi, bắt đầu mình đưa cái này ra người ta bừng sáng người ta xả bỏ người ta không có khổ. Chớ không người ta khổ người ta gây ác nữa. Người ta khổ người ta nghe những cái lời mà Thầy nói rồi, bắt đầu bây giờ ăn cũng không dám ăn nè, bởi vì mình ăn phi thời là Phật tử thấy không cúng dường, phải không? Mình ở chùa tốt thì cũng bị rồi thì do đó giờ không lẽ đập phá mấy cái chùa tốt này được sao?!
Cho nên vì vậy bây giờ mình phải xúm nhau lại mình phải diệt cái ông đó để cho ổng đừng có nói nữa. Thì tức là bắt buộc họ phải nghĩ ra cái điều ác, làm cho họ rơi vào cái ác pháp. Thì nếu mà mình không nói ra họ đâu có nghĩ giết người, mà tại vì mình nói ra người ta mới nghĩ giết người đó để người ta yên ổn người ta sống, thì do đó tạo cho người ta cái hành ác. Còn bây giờ đưa sách đạo đức ra lần lượt người ta thấm nhuần được cái đạo đức rồi, thì khi mà sách này đưa ra người ta thấy phải người ta không có khởi cái niệm ác nữa người ta xả.
Phật tử 2: (…)
Trưởng lão: Thì cái đó là cái chuyện một cái người như Thầy là Thầy tu thì mình phải làm cái điều lợi ích cho xã hội chứ, Thầy đâu có ghét mấy ông Thầy Đại Thừa. Nếu mà Thầy ghét Thầy bung ra nói tùm lum để cho mấy ông khổ chơi, còn cái này Thầy đâu có ghét. Cho nên Thầy phải làm sao cho có lợi ích cho mấy ông. Các con hiểu chưa? Cái lòng thương Thầy đối với cái người nào bây giờ họ nói Thầy gì Thầy vẫn thương họ. Bởi vì đối với Thầy nó là thiện pháp rồi. Cho nên luôn luôn lúc nào lòng từ cũng phải thương họ, giúp cho họ thoát khỏi cái nỗi khổ của họ. Mặc dù Thầy nói rát cả cổ nhưng mà Thầy vẫn nói.
Phật tử 2 : Mô Phật! Bạch Thầy, còn về cách thức ăn đó Thầy, ở bên Nam Tông người ta ăn một ngày chỉ một bữa, sáng chiều có khi ăn có khi không, còn ăn thì ai cho gì ăn nấy, người ta nói là không sát sanh hại vật, không nghe thấy tiếng kêu la nên có thể, như vậy là người ta vẫn ăn thịt ăn cá đủ thứ vậy rồi có phạm giới không?
(38:43) Trưởng lão: Phạm chớ, phạm tội đó. Bởi vì Đức Phật cấm cư sĩ mà, cấm cư sĩ không được cúng dường thực phẩm động vật cho Chư Tăng và Phật, nếu người nào cúng dường những điều này là có năm điều phi công đức mà. Cái bài kinh Jivaka đã dạy rõ ràng mà. Bây giờ Phật tử không làm thịt không làm cá cúng dường thì mấy ông này làm sao có ăn. Tại mấy ổng xui khiến người ta làm sao mà người ta mới làm cá thịt cúng dường mấy ổng nè.
Rồi bây giờ Đức Phật đã cấm cư sĩ như thế rồi thì coi như cái mầm mà cúng dường bố thí cho mấy ông đó, mà cư sĩ không dám cúng thì phải cúng rau cải cho mấy ông chứ làm sao dám cúng thịt cá được. Đức Phật đã dạy rồi mà.
Phải không, bây giờ mấy ổng nói ăn không thấy, không nghe, không nghi phải không? Thì rõ ràng là Phật tử làm chứ mấy ông đâu có làm, mấy ổng có bắt con vật đâu mà làm, nhưng mà ổng Phật ổng cấm Phật tử, cấm mấy người cư sĩ. Mấy ông cư sĩ mà làm thịt động vật mà thực phẩm cho chư tăng và Phật ăn, thì mấy người đó bị năm điều phi công đức. Đã không được công đức mà còn lại tội lỗi đó.
Phật tử 2: Cái bài kinh nó ở trong …
Trưởng lão: Trung Bộ, Kinh Trung Bộ, cái bài kinh Jivaka tức là thừa tướng Jivaka hỏi.
Phật tử 2: Quyển thứ mấy ạ?
Trưởng lão: Hình như là quyển một, nó có ba tập Trung Bộ hình như là nằm trong cái quyển một. Nó quá rõ ràng rồi, kinh Nguyên Thủy đó, mà các nhà sư Nguyên Thủy lại ăn thịt chúng sanh, thì đủ biết là họ đã bị lừa như thế nào mà họ ăn được đó Thầy nói.
Phật tử 2: Bởi vậy thưa Thầy, con có những cái đau khổ mà con buồn lắm, tại vì con không biết tu là gì. Con… tử một đưa con nít, con theo mẹ con ăn chay từ nhỏ tới giờ, coi như một giai đoạn đi học đó tới năm 68 tới giờ là con ăn chay, tới giờ con cũng giữ người ta cho con ăn chay, vô đó quy y ăn chay vậy đó, họ cho ăn chay con mừng quá con vô đó quy y xuất gia. Xong rồi cái thì con đi tới đâu con cũng mang đồ của con con ăn, cái người ta nói: “Cô tu giỏi quá ha, tu giỏi hơn Thầy hơn tổ”, làm khổ con quá hà.
Trưởng lão: Đó họ châm biếm con.
Phật tử 2: Dạ giờ con cảm thấy, tu bây giờ người ta cấm đoán đủ điều, thôi con suy nghĩ con nói, thôi vậy bây giờ họ cho gì ăn nấy đặng mình sống mình tu, lúc đó con chưa gặp Thầy con tu trật, từ lúc con gặp Phước Nhẫn tới giờ con nghe như Thầy là vị cứu tinh cuộc đời con, tại vì phù hợp từ thức ăn, phù hợp từ cái độc cư nè, Thầy dạy những cái con thấy thích hợp. Vậy từ nay về sau, Thầy cố gắng cứu con trong suốt cuộc đời còn lại của con.
(41:20) Trưởng lão: Cái cứu con thì con phải tự thắp đuốc, Thầy chỉ là người chỉ đường.
Phật tử 2: Dạ Thầy chỉ đường giùm con, con cố gắng đi.
Trưởng lão: Chứ Thầy không có nắm tay kéo con được. Ráng cố gắng!
Thì bây giờ Thầy nói, thật sự ra khi người ta làm cái điều gì đó thì người ta khéo lý luận, để rồi cái người mà không hiểu biết người ta chấp nhận cái lý luận đó thôi. Chứ còn cái người hiểu biết người ta thấy rõ ông Phật nói chung là ông đã dạy đủ cho chúng ta coi như là trang bị cho chúng ta một cái hành trang để đi trên con đường giải thoát, kinh điển của đức Phật là trong bốn bộ kinh từ Trường Bộ, Trung Bộ, Tăng Chi, Tương Ưng đó. Bốn bộ kinh này Đức Phật đã trang bị cho chúng ta cái hành trang để đủ đi trên con đường, không còn ai lừa đảo chúng ta được hết.
Những cái bài kinh của Đức Phật trong bộ kinh nguyên thủy, khi chúng ta thâm nhiễm những cái bộ kinh này là không có cái giáo pháp ngoại đạo nào mà có thể lừa đảo chúng ta được. Tại vì chúng ta không có chịu đọc những cái bộ kinh này. Cho nên chúng ta bị lừa đảo. Thậm chí các sư Nguyên Thủy cũng vẫn bị lừa đảo đó, bị Thầy tổ lừa đảo rồi các sư cũng theo đó mà sống, rồi sống trong dục lạc rồi cứ thích thôi. Ăn thịt ăn cá là phải ngon phải thích thôi, bây giờ ăn chay nó chay quá…
Phật tử 2: Mà con ăn không được. Con ăn con ớn lắm.
Trưởng lão: Tại vì con có cái duyên. Duyên đó là duyên Đại Thừa đó, con ăn như con bò ăn cỏ cho nên con ăn thịt không được.
Phật tử 2: Con ăn rồi cái con mới tìm cách ăn nhiều lúc nó…
Trưởng lão: Thì đó là tránh. Chứ không khéo con ở đó mà con không ăn thì con cũng không yên.
Phật tử 2: Con độc cư thì cũng khổ lắm, người ta đâu có chịu, cứ lôi ra. Tôi thấy đi mấy nầy hết trơn rồi còn ít người quá cứ lôi đầu con ra, du Tăng du hành mà con sợ quá, con mới quyết định không đi con ở, con còn tu, có cho thì con ở. Vậy giờ Thầy cũng hoan hỷ, con nghe lời Thầy lắm, Thầy dạy con nó ngắn gọn. Thầy rút kinh nghiệm trong suốt cuộc đời Thầy đọc kinh mà giờ Thầy đem dạy con thì còn gì nghi ngờ nữa mà không theo, con khỏi đọc nữa, con hành thôi.
Trưởng lão: Thì lẽ đương nhiên Thầy bảo làm sao thì làm vậy thôi, đừng có đọc làm cái gì, đọc nó càng rối nữa. Cái trí tuệ của các con không thể nào hiểu được lời của Đức Phật đâu,
Phật tử 2: Dạ con thấy đọc nó đúng.
Trưởng lão: Các nhà học giả người ta có Tiến sĩ Phật học, người ta đọc mà người ta còn không hiểu nổi ông Phật nói, chỉ có người tu người ta thực hiện được, người ta mới thấy được những lời Đức Phật nói.
Chứ còn nếu mà cái người không có tu hành thì kể chỉ là tưởng giải ra cho nó lý luận nghe cho vui tai chơi để cho người ta thấy ông đó đúng vậy chứ còn không có đúng. Nếu mà đúng thì hầu hết người ta đã thành Phật hết rồi. Còn bây giờ tại vì Thầy nói nó không có trúng ai cho nên vì vậy mà người ta chống Thầy thôi chứ còn cỡ mà Thầy hùa theo cái số người cứ giảng theo kiểu của họ thì chắc chắn là họ cũng nói Thầy nói đúng.
Còn tại vì Thầy nói theo cái kiểu tu của Thầy, kiểu mà Thầy đã giải thoát được mình, kiểu mà Thầy sống ly dục ly ác pháp được, cho nên vì vậy mà họ thấy Thầy không có giống họ, cho nên thường thường họ không ưa Thầy chút nào hết. Họ sợ Thầy khi mà Thầy đến Thầy nói họ khép cái mỏ họ lại họ không có luận được cái gì hết.
(44:26) Phật tử: Bị lời thật mất lòng đó Thầy.
Trưởng lão: Thì lẽ đương nhiên cái điều đó. Cho nên thôi bây giờ các con cố gắng các con tu cho được giải thoát thôi. Cái gì thì hỏi ngay trên những cái pháp hành của mình liền Thầy dạy, nó không có mất thì giờ của mấy con nhiều, mà nó cứ hành để cho nó đi tới thôi, cái đó là cái quan trọng nhất. Cho nên cố gắng mà hành thôi. Trên cái hành đó thì nhờ Thầy uốn nắn cho nó đi ngay thôi, chứ không nó lệch. Bởi vì con đường thiền tưởng luôn luôn nó kề bên, trật thì nó nhào vô trong thiền tưởng liền hà.
Phật tử 2: bạch Thầy bữa nay bắt đầu con Tứ Niệm Xứ Thầy dạy …?
Trưởng lão: Thử coi, thứ chứ giai đoạn của con chưa phải tu Tứ Niệm Xứ được, nó chưa được. Cho nên vì vậy khi nào Thầy xác định rằng Tứ Niệm Xứ được thì mới tu. Còn hôm nay Thầy dạy là tại vì Minh Điền nó sẽ về dưới, và trong những buổi khuya thanh vắng, trong những buổi đó thay vì tu Định Niệm Hơi Thở thì nghe nó uổng cái thời gian, bởi vì Định Niệm Hơi Thở nó chỉ nhằm để mà ngăn ác diệt ác mà thôi, còn bây giờ nó chuẩn bị trong những buổi khuya thanh vắng để mà nó thực hiện Tứ Niệm Xứ để nó ngồi đó mà quan sát thân tâm của nó, để coi như nó có một người một con người của nó đứng mà nhìn lại coi cái thân tâm của nó đang làm việc ở trên đó. Đó là cách thức dạy Tứ Niệm Xứ để mà quét sạch những cái tàn tích, những cái ô nhiễm ở trên Thân-Thọ-Tâm-Pháp của nó.
Phật tử 2: Con gần Thầy thấy… con cũng thực hành… có gì Thầy dạy.
Trưởng lão: Thì ở đây thì con thực hành được, nhưng mà thực hành rồi sau khi về rồi cũng những buổi khuya tối, chớ con ở chỗ người ta mà con sống độc cư không …
(46:04) Phật tử 2: Không có Thầy, con có một cái thất riêng độc cư,… nhưng mà tại người ta lôi con ra uổng lắm con tiếc, bây giờ con lì…
Trưởng lão: À thì như vậy ở trong thất của mình mình tự do mình tu thì mình tu Tứ Niệm Xứ được, chứ tiếp duyên ra ngoài là tu Tứ Chánh Cần chứ Tứ Niệm Xứ không được. Phải sống độc cư nè, cho nên phải nghe Thầy nè, nếu muốn tu Tứ Niệm Xứ thì phải độc cư, độc bộ, độc hành.
Phật tử 2: Dạ, con ở bển con tịnh khẩu hễ ai hỏi gì thì con im lặng, bởi từ chỗ đó con hơi chướng người ta.
Trưởng lão: Bây giờ Thầy giải thích về chữ độc bộ. Chữ bộ có nghĩa là đường đi, nghĩa là mình đi có một đường của mình chứ không có đi chung với đường ai, gọi là độc bộ.
Độc hành là không có đi hai người trên cái đường đó được, con hiểu không?
Độc cư là sống có một mình chứ không có sống chung với ai.
(46:55) Phật tử 2: (…)
Trưởng lão: Cái đó là cũng là một cái, bởi vì trên mình có cái nghiệp mình phải vui vẻ mình trả nghiệp. Còn bây giờ nó bỏ ăn nó không ăn nữa thì nó chết.
Phật tử 2: (…)
Trưởng lão: Cái đó cũng là một cái điều kiện không tốt đâu theo Đạo Phật tu của chúng ta, coi như là mình cái phần nào mình, coi như mình uống thuốc thử coi …
Phật tử 2: Uống hết cũng không được nữa, cái đó là ung thư gan, uống thuốc không hết.
Trưởng lão: Trong khi đó theo Thầy thiết nghĩ cái bệnh ung thư thì thế nào cũng chết thôi, còn có cái khổ hạnh hơn nữa, cứ sống bình thường vui vẻ. Bây giờ mình phải lấy cái tâm của mình để đối trị cái bệnh của mình, cái thọ là vô thường, cho nên khi mà Đức Phật các vị Tỳ Kheo mà bệnh đau thì Đức Phật hỏi ông có thấy cái thân này là vô thường không, cảm thọ là vô thường, phải không? Cái vị tỳ kheo nói: vô thường… Như vậy thì ông chết sống ông còn có ngại gì nữa? Có đau bệnh thì cũng không có ngại gì nữa, tức là ta chấp nhận cái điều đó.
Cho nên vì vậy trong cái vấn đề tu tập theo Đạo Phật khi có cái thọ mà biết cái bệnh của mình sẽ không có sống được nữa, vui vẻ chấp nhận hoàn toàn, thì cái bệnh của chúng ta, Đức Phật có nói mà, khi mà cái thọ nó đến tận cùng cái sức chịu đựng của thân chúng ta, thì cái thọ sẽ hoàn toàn không làm gì được, chúng ta đừng sợ. Tâm dao động thì bệnh nó tăng mà tâm không dao động thì bệnh sẽ giảm, dù là bệnh ung thư. Thầy nghĩ rằng khi một cái cơn đau mà nó đến, người ung thư khi mà họ đau, đau dữ lắm. Cho nên khi mà đến thì nhất định có những cái pháp hướng: “Thọ là vô thường, tâm không hề sợ” thì khi mà nhắc được cái tâm thì nó vững vàng nó không sợ.
Sống chết là cái sự vô thường không phải là, cái con người ai cũng có sống chết cả không có làm sao cản được sống chết. Cứ hướng tâm làm sao cho cái tâm nó bất động nó đừng có sợ, nó đừng có lo, đừng nghĩ là phải uống thuốc này phải ăn cái kia, bây giờ thấy nó không cần phải uống thuốc, thì cái tâm giữa chừng vẫn giữ cái tâm nó bình thường, và pháp hướng “Thọ phải đi”, cứ nhắc nó đi thôi. Nếu mà cái nhân quả của chúng ta nó còn, tất cả cái bệnh này đi, ung thư cũng đi. Thầy nói cứ về đây Thầy dạy mà nghe lời Thầy ấy, bây giờ bệnh ung thư nè cũng đi nữa, cũng hết nữa chứ không phải.
Bởi vì cái tâm lực của chúng ta, mà cái tâm không sợ hãi thì nó hết. Mà bây giờ chúng ta vừa sợ hãi vừa dùng tâm lực thì không hiệu quả, tại sao? Tại vì vừa uống thuốc để cho nó hết bệnh tức là sợ rồi, mà vừa dùng tâm lực thì tức là chúng ta kết hợp hai ba cái cùng nhau, nó không có hiệu quả. Nhất định là bây giờ sống chết nhất định là lấy tâm mình trị bệnh chứ không lấy thuốc nữa, bởi vì thuốc không thể trị nữa được, cho nên đừng có uống thuốc nữa, mà chỉ lấy tâm trị. Biết cái bệnh ung thư thì không thể trị hết, nhưng mà uống nó làm giảm đau hoặc là đỡ vậy thôi chứ thật sự vẫn chết thôi.
Cho nên vì vậy mà cứ dùng pháp hướng đi. “Thọ là vô thường, ta không sợ hãi nó”. Bởi vì nhắc như vậy để cái tâm mình nó vững vàng nó không lay động trước, và đồng thời “Thọ là phải đi khỏi cái thân này đi, ta sẽ chuyển hóa tất cả những cái nghiệp khổ này” nhất định là phải giữ giới luật, khi mà đau vậy bị bắt ăn nhiều bữa nhất định là không ăn. Ăn chỉ một bữa, giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Không nghe nghe ca hát không giải trí để cho nó quên cái đau đi, không nói chuyện với ai hết sống một mình, hoàn toàn im lặng độc cư thì bệnh nó hết. Thầy nói, nghe tin Thầy đi, bởi vì Thầy đã có những cái trường hợp mà Thầy trị thân của Thầy, Thầy biết.
(50:38) Phật tử 2: Dạ thưa Thầy, rồi cái khi đó nếu mà cái phút cuối cùng mà không có hết bệnh tật mà nó đi thì cái tâm của mình (…)
Trưởng lão: Tâm lúc nào cũng thanh thản thì tốt nhất.
Phật tử 2: Lở nó đau nhức quá thì nó làm sao mà thanh thản được Thầy?
Trưởng lão: Thì nó đau nhức mình có pháp hướng mà: “Thọ là vô thường, không có sợ hãi, tâm phải thanh thản an lạc”, cứ nhắc, cứ nhắc vậy.
Phật tử 2: Nhắc thầm hay nhắc lớn tiếng hả Thầy?
Trưởng lão: Ờ mình nhắc thầm, chứ không cần nhắc lớn tiếng.
Phật tử 2: Cứ dụng công coi như… làm theo cách đó thì đâu còn ngồi được nữa hả Thầy?
Trưởng lão: Lúc bấy giờ đó mình đâu có ngồi, mình bệnh. Đây nè các con xem mình đọc cái cuốn bốn, cuốn ba của Giáo án tu tập cho người cư sĩ thì có cô Liễu Kim ở ngoài Hà Nội, cô bị ung thư, mà bảy lần mổ đó. Mà mỗi lần mổ tâm cô rất bình tĩnh cô dùng pháp hướng của Thầy tâm không hề sợ hãi, con không hề sợ hãi, mà con cũng vẫn sống, vẫn tiếp xúc bình thường, chồng con nó thấy con sao mà gan dạ bình tĩnh.
Con nói thật sự ra nhờ pháp hướng của Thầy, mà con bình tĩnh trước mọi đau khổ sự sống chết của con như là sợi chỉ mành treo chuông. Bây giờ cô viết cái bài này ra cô gửi, bây giờ cô sẽ còn đi mổ một lần nữa, nếu nó hết là nó hết mà nếu không hết là cô vui vẻ mà cô sẽ bỏ thân cô đi. Cô nhắc lại cái quá trình mà cổ dùng cái pháp như lý tác ý đó, tâm cũng bình tĩnh, trước khi mà lên ca mổ thì ai cũng sợ, cô không sợ. Cô coi thường tất cả nguy hiểm.
Phật tử 2: Lên ca mổ nó còn đỡ hơn cái lúc mà sắp sửa ra đi cũng dùng pháp hướng ạ?
Trưởng lão: Thì cũng dùng pháp hướng, nó bình tĩnh. Cô nói coi như cổ chết mấy lần chớ không phải một lần.
Phật tử 2: Còn một cái giây phút mà tỉnh táo là cứ dùng pháp hướng hả Thầy?
Trưởng lão: Cứ dùng pháp hướng.
Phật tử 2: Đến khi nào hết biết thì thôi.
Trưởng lão: Hết biết thì thôi.
Cho nên thí dụ như cổ thiếp chết mất đi, thì trong khi cổ chết nhưng mà cổ vẫn ở trong cái tâm thanh thản. Cho nên mọi người trong nhà mới chở cô đi vào bệnh viện để mà người ta hô hấp người ta cứu cô sống lại, rồi cô sống lại, hỏi cô lúc bấy giờ tới cái giờ phút mà nó đau đến mức độ như vậy, thì cô vẫn giữ cái tâm thanh thản không hề dao động trước cái sự đau khổ đó, cô nhắc lại mà. Do đó đến bệnh viện mà cứu thì cô cũng thấy khi mà cô tỉnh lại cô cũng thấy thanh thản an lạc. Cô không có sợ mà thấy là mừng hay hoặc là cái gì.
(52:51) Phật tử 2: Là tự lực chứ không có còn tha lực nữa hả Thầy?
Trưởng lão: Không có còn tha lực. Nghĩa là bây giờ coi như là không có kêu vào ai cứu khổ nữa. Thì con sẽ thấy được cô Liễu Kim Thầy nói thật, đúng là Thầy bảo khi mà Thầy viết bức thơ ra Thầy khuyên, cô hãy sử dụng cái thanh thư hùng kiếm mà cô sẽ thoát sạch tất cả những cái thọ mà cô đang gánh chịu, cái nhân quả của cô. Bởi vì đây là nhân quả của cô rồi, không phải người nào gánh đâu, chính cô phải gánh. Mà chỉ cái thư hùng kiếm là cái pháp hướng tâm nó sẽ giúp cô an ổn đi trong cái sống chết của cô. Nếu cô sống thì cô cũng vẫn an mà cô chết cũng an và khi đó cô sẽ gặp Thầy. Nghĩa là lúc nào mà tâm thanh thản an lạc là lúc bấy giờ con sẽ gặp Thầy ở đó.
Cho nên vì vậy mà cô Liễu Kim này cổ rất vững tâm là cô cái giờ phút cuối cùng mà sắp sửa mà cô chết thì cô nói như thế này. “Cô kêu Thầy, con sẽ sống mãi bên Thầy, nghĩa là tâm con đang thanh thản an lạc trước cái thọ khổ nhất đời con mà con vẫn thấy an lạc là con sẽ sống bên Thầy”. Đó thì cô nói vậy cái cô thiếp mất, nghĩ là cô mất. Rồi là người ta đem cứu cô sống lại, cô bây giờ cô viết lại cô mới thuật, cô đang sống ở trong lòng chư Phật chứ không phải là riêng Thầy đâu. Thầy đã viết bức thư ra Thầy dặn cô mà. Từ cái giờ phút nào, chú không cần ai mà hộ niệm cho mình, tự cứu mình.
Phật tử 3: Thưa Thầy cái đó cũng là một phương pháp chuyển đổi nhân quả luôn.
Trưởng lão: Một phương pháp, và cái bài này của cô để giúp cho các con cách thức mà sống được trong cái lúc quá khổ đau, thì con biết cái bệnh ung thư mà. Mà cô bệnh ung thư ở tử cung, ở buồng trứng đó.
Phật tử 2: Mô Phật thưa Thầy, … con mổ hết, coi như là ung thư tử cung cắt bỏ hết… rồi con về… con ăn chay…đó Thầy, sao giờ con sống được tới mười sáu năm đó, bởi vậy giờ con gặp Thầy cái con quá vui mừng, để Thầy hướng dẫn cho con suốt cuộc đời còn lại của con.
Trưởng lão: Thầy nói bây giờ mấy con đừng có nghĩ gì hết mà cứ những cái từ cuộc sống các con giữ được tâm thanh thản, ly dục ly ác pháp không ai làm động được tâm con hết, không dễ giận hờn, mỗi mỗi dẫn dắt nó không gợi cho con ham muốn gì, con giữ được cái tâm đó, cho đến khi cái giờ phút chết con vẫn giữ được cái tâm thanh thản an lạc không hề sợ hãi trong tâm, thì lúc bấy giờ các con bỏ thân này các con cũng sẽ gặp chư Phật, sẽ ở nơi chư Phật đang ở.
(55:30) Phật tử 2: Ở mãi bên Thầy ?
Trưởng lão: Ở mãi mãi không còn tái sanh nữa bởi vì cái tâm đó là cái tâm không còn cái nhân mà đi tái sanh. Cho nên các con đừng có nghĩ rằng phải tu tới Tứ Thiền làm chủ được. Đúng là để chứng minh cho chúng ta biết là cái năng lực của Tam Minh chúng ta có sự mầu nhiệm làm chủ được sống chết như vậy, biết được Tam Minh như vậy, nhưng mà sự thật nó không có ích lợi thật. Mà chính ở cái Sơ Thiền là đủ ích lợi đó là tâm bất động.
Cho nên chúng ta chỉ cần giữ cái được tâm bất động, mà cái pháp hướng, cái pháp Như Lý, thì nó giúp cái tâm chúng ta bất động mà. Nó có cái gì đau khổ là chúng ta cứ nhắc nó thôi, khi nó nó giận dữ lệnh rất bình thường, nó không hề sợ hãi đâu. Mà nó không sợ hãi thì nó bất động. Nó bất động thì lúc bấy giờ chúng ta có chết đi chúng ta ở chỗ bất động đó. Tức là chết bất tử đó. Đức Phật gọi trong kinh đó là giới bất tử, cái chỗ giới đó mà mình giữ được nó là không có sống chết nữa rồi, gọi là giới bất tử. Các con nghe cái giới bất tử, thiên hạ hỏi Thầy “Giới bất tử là gì?”, Thầy nói “Tâm bất động”, có vậy thôi.
Giới mà, đã giới thì phải giữ, giữ được cái tâm vô đó thì nó bất động rồi, cho nên nó là bất động tâm định đó.
Phật tử 2: Dạ thưa Thầy rồi khi cái lúc cuối cùng mà nó đuối quá nó không còn dùng pháp hướng được nữa thì theo như Thầy… theo hơi thở con vô biết ra biết để mà ra đi, vậy có được không?
Trưởng lão: À nó sẽ lạc vào, coi như là đuối quá nó lạc. Tình thức mình phải tập tỉnh thức đến cái giờ phút mà khi mà hơi thở dừng.
Phật tử 2: Nghe hơi thở ra vô lại được không thưa Thầy?
Trưởng lão: Được nhưng mà điều kiện là luôn luôn phải có cái pháp hướng tâm.
Phật tử 2: Chứ nếu mà cái lúc mà hết hướng nỗi rồi còn nghe được hơi thở là…
(57:06) Trưởng lão: Thật sự ra thì theo đúng là cái phương pháp mà cái tâm bất động, thì đến khi mà hơi thở dừng, thì cái tâm thanh thản của nó vẫn biết, cái tâm bất động vẫn biết. Còn mình chỉ còn tập trung ở trong hơi thở thì nó là cái biết của hơi thở, mà biết duy nhất của hơi thở thì nó cũng tốt đó, nhưng mà nó không tốt bằng cái chỗ giữ tâm thức tỉnh. Nghĩa là mọi người xung quanh và đồng thời cái pháp hướng còn giữ được cái tâm của mình bởi vì đó là cái pháp giữ tâm của mình bất động. Mà mình lìa cái pháp đó, thì mình nương vào chỗ nào thì mình bám trụ vào chỗ đó, định cái chỗ hơi thở tức là định vào cái thân của mình chứ gì, cái tâm của mình nó nương vào cái thân của mình nó định trên hơi thở. Khi mà hơi thở mất thì nó mất định rồi, nó tan hoại.
Cái đó cũng tốt nhưng mà khi đó chúng ta thì còn cái giờ phút thí dụ như bây giờ chúng ta vừa hướng cái câu: “Tâm biết hơi thở” nhắc nó thêm vậy để cho nó không bấn loạn đó, hoặc là câu “Tâm bất động, không có dao động trước cái thọ” mình còn biết nhắc nó. Vừa nhắc rồi mình biết hơi thở ra vô chừng ba, hai hơi thở thì nó tắt thở. Thì đó là cái pháp hướng nó vẫn kèm theo với cái tâm đó thì nó hay nhất. Còn bây giờ mình kéo dài mình nằm một ngày hai ngày mình cứ biết hơi thở ra vô thì coi như là định tỉnh của mình nó còn trong hơi thở nhưng mà mình mê, mê là nó loạn vào trong định tưởng. Nó mê nó không còn nhớ tác ý ra nữa.
Phật tử 2: (…)
(58:52) Trưởng lão: Bởi vì Thầy căn dặn mấy con là cái chỗ để cho mấy con nhiếp được mấy con bám chặt đừng để cái tâm dao động. Sớm muộn rồi mình cũng chết. Cái đau nhức thì ai cũng đau nhức, mà vì cái nghiệp của mình, nó thọ cái đau nó quá tận cùng, còn cái nghiệp của người ta nó ít hơn, cũng như người ta bị cảm rồi cái người ta chết. Còn mình bị ung thư nó đau quá sức, nhưng mà đau tối đa cách nào nó cũng là thọ. Mà nó đau sơ nó cũng là thọ, cái đó là cái thọ thôi. Cho nên đau ít cũng thọ mà đau nhiều cũng thọ, nhất định là tâm bất động, coi như mình không có sợ hãi nó.
Thì như vậy Đức Phật đã xác định cho chúng ta biết thọ là vô thường mà. Mà vô thường là khổ, cho nên vì vậy chúng ta không có ngại không có sợ thọ. Do đó chúng ta lấy cái tiêu chuẩn đó để chúng ta biết cuộc đời của chúng ta đối với thọ chúng ta coi nó vô thường.
Thành ra thì bây giờ chúng ta yên tâm chúng ta ra đi với cái trạng thái tâm nó không còn tái sanh luân hồi, chấm dứt đi để nó khổ lắm. Nó còn tái sanh là còn khổ đó. Mà nó còn cái nghiệp thiện nghiệp ác của nó nó còn cái nghiệp mà ham muốn của nó thì tức là nó phải tái sanh. Còn mình bất động trước các cái ham muốn các cái đau khổ này thì nó không tái sanh. Bởi nghiệp tái sanh chứ đâu phải mình đi tái sanh. Mà cái nghiệp nó còn thì nó phải tái sanh sao. Mà bây giờ cái nghiệp đó nó hết thì nó làm sao tái sanh, mà bây giờ cái nghiệp đó nó hết thì nó còn cái nghiệp, nó tạo ra thành cái nghiệp không tái sanh là cái nghiệp không tham sân si, cái nghiệp tâm thanh thản, thì cái này nó vẫn còn cho mình chứ đâu phải cái thân hay là linh hồn của mình còn đâu.
Hai cái này, một cái nghiệp tham sân si thì nó luôn luôn nó mãi đi tái sanh luân hồi. Một cái nghiệp không tham sân si thì cái này nó chấm dứt tái sanh luân hồi thì cái này nó phải còn chứ. Cho nên Thầy tu mà Thầy cũng phải có chứ không lẻ Thầy tu rồi Thầy cứ ngơ ra. Mà có là có cái gì đây? Không lẽ giờ có Phật tánh được ở trong này sao? hay hoặc có cái kia?
Nhờ cái pháp hướng này mà Thầy huân thành cái nghiệp không tham sân si, phải không? Cho nên cái này nó còn.
Cho nên Đức Phật nói một cái cây mà chúng ta dạt vỏ, bỏ cái rác thì nó còn cái lõi chớ. Nhưng mà cái cây mới mọc có lõi được không? Nếu nó không do cái công phu mà đối trị với cái ác pháp thì làm sao có cái lõi này được. Phải không? Cái này là cái nghiệp đi tái sanh, còn cái này là cái nghiệp không tái sanh, thì bây giờ mình muốn cái nghiệp không tái sanh thì mình phải huân tập cái nghiệp không tái sanh thì nó không tái sanh chứ, thì cái nào nó cũng còn chứ. Cái này thì nó tái sanh nó khổ hoài, còn cái này nó không tái sanh thì nó không khổ, mà mình có tạo ra cái nghiệp này thì phải có cái nghiệp này. Hai cái, bây giờ hai con đường, nếu con đường tái sanh luân hồi thì cứ theo con đường này thì nó tái sanh luân hồi, mà cái đường này là không tái sanh luân hồi thì cứ huân cái nghiệp này thì nó không tái sanh luân hồi. Thì cái nào nó cũng còn chứ không phải nó mất. Cho nên tu cũng còn.
Phật tử 2: Mô Phật bạch Thầy, con có một cái… con thấy vầy sống thì do mình sống, sống thì tu, …nào bỏ xác thì vui vẻ ra đi chớ còn không có uống thuốc tốn tiền tốn bạc… con giờ đâu làm ra tiền nữa, con thấy vậy đó Thầy, giờ Thầy dạy pháp hướng nữa con thấy bổ sung cho con đầy đủ quá rồi.
(1:01:56) Trưởng lão: Bây giờ con nghĩ một điều, nhưng còn hiểu pháp là một điều, rồi còn tu là một điều nó đòi hỏi đó. Bây giờ mình hiểu không tu, tới chừng đó cái nghiệp của mình nó lôi, nó không có đủ năng lực mà chống lại nó đâu. Cho nên trong cái đời sống mình hiểu rồi mình nỗ lực quyết tu, thành ra từ cái nghiệp tham sân si nó sẽ trở thành cái nghiệp không tham sân si, mà cái nghiệp không tham sân si này có rồi nó mới đối trị được cái nghiệp tham sân si, do đó khi mà mình sắp sửa mình chết, cái nghiệp tham sân si này nó rất mạnh nó lôi mình, mà mình có cái lực của cái nghiệp không tham sân si này nó sẽ chống lại, do đó mình mới hoàn toàn giữ được cái này, còn cái này nó sẽ tan hoại, nó mất hết. Tức là nó chuyển hết cái khổ đau rồi.
Phật tử 2: Con định nói với Thầy là con nghe Thầy để con cố gắng con tu cho cái cuối cùng được tốt đẹp, như cái cô gì mà Thầy nói đó là mà mãi mãi ở bên Phật, bên Thầy.
Trưởng lão: Thì lẽ đương nhiên là Thầy nói giữ tâm bất động là mãi mãi rồi. Đó bây giờ thì các con thấy yên tâm rồi, có hiểu biết rồi, ráng lo tu, chớ đừng có cứ mở băng cứ đọc kinh sách Thầy hoài thì nó cũng không có gì đâu, Thầy nói thiệt ra thì chỉ là mình giải trí mua vui vậy thôi, để mình an ủi sách tấn mình. Trong khi đó mình thấy mình buồn buồn chừng nào thì mình tu lung chừng nấy mình đừng có nghe. Nói thật sự ra chứ ba cái băng này dẹp hết. Cho nên Thầy giảng có sáu mấy cuộn băng rồi giáo án tu tập của Phật giáo cho nó làm sống lại rồi thì Thầy không giảng nữa. Thầy giảng nữa ở đây là làm đào kép nó cứ thu băng nó nghe hoài.
Phật tử 2: Dạ, nãy giờ nghe để hiểu về tu.
Trưởng lão: Đó còn bây giờ các con nghe rồi hiểu rồi, tự mình thắp đuốc lên mà đi, còn ba cái này lỉnh kỉnh lắm, bỏ xuống. Đọc để hiểu, hiểu rồi dẹp hết không có đọc nữa. Nắm gọn được cái gì tu trước cái gì tu sau. Cho nên Thầy nói thật sự ra, nếu mà cái người nào tin Thầy đừng có thèm kinh sách gì hết lại đây Thầy dạy. Bây giờ đó, ra lệnh nè, ngồi xuống nè, ra lệnh đứng dậy nè, ra lệnh thân hít thở nè, ra lệnh đi nè. Cứ như vậy làm vậy đi rồi Thầy dạy kế, dạy kế thì chắc chắn là chắc ăn rồi. Còn bây giờ đọc kinh sách cho nhiều, cha Thầy nói thì hay quá, trời ơi cái này là tuyệt diệu đủ thứ hết, nó làm cho trong bụng này một bụng, cuối cùng không biết cái pháp nào tu hết. Có phải không mấy con?
(1:04:10) Phật tử 2: Dạ thưa phải, con có theo Thầy mấy ngày nay con biết kết quả Thầy nói, cái lúc sư Phước Nhẫn dẫn về gặp Thầy đó, cái sư Phước Nhẫn đi cái ở trong thất đó con còn tham lắm, con muốn gặp Thầy nhiều hơn đó, cái con nghe băng với con đọc kinh sách cái bắt đầu tự nhiên mỗi lần con đi kinh hành cái con ngồi… thì sư Phước Nhẫn về con cũng trình với sư Phước Nhẫn con nói… con quyết chí nghe lời Thầy không đọc, thì con có bị rồi con có bị là dụ băng với kinh này nè.
Trưởng lão: Thôi bây giờ thì mấy con phải ráng tập rồi thì ngày mai sáng bảy giờ gặp Thầy, Thầy sẽ dạy về cái Tứ Niệm Xứ. Con hiểu không? Thầy dạy về cách thức biết tu pháp Tứ Niệm Xứ, để rồi lúc nào mà tu Tứ Niệm Xứ đâu phải là nghĩ như mình về, cũng như bây giờ con về con sống trong gia đình nhà của mình thì mình tu pháp nào, rồi bắt đầu cái giờ phút nào, giờ nào mình tu Tứ Niệm Xứ chứ đâu phải là không tập, tập nó để rồi sau khi nó có đủ duyên, mình mới khép chặt mình trong cái khuôn khổ một tháng, nữa tháng nào đó, để mà thực hiện Tứ Niệm Xứ tức là như gà ấp trứng đó, hoàn toàn là đàn con sẽ được nở hết.
Phật tử 2: Mô Phật sung sướng quá! Thầy bổ sung con hoài, con đội ơn Thầy.
Trưởng lão: Thì mấy con nhớ là Thầy dạy ráng tập, bây giờ cứ tập cái này cho nó thuần. Rồi Thầy sẽ dạy từng cái pháp hướng sẽ thêm vào, từng cái giai đoạn nào mà sẽ thêm vào pháp hướng nào pháp hướng nào. Chứ còn mình chưa có tỉnh thức, mình lo mình hướng những cái tâm ly tham ly sân ly si, cái tỉnh thức nó chưa có đủ để mà nó tiếp nhận những cái ác pháp bên ngoài để ly tham sân si chưa nổi đâu. Cho nên mình tập tỉnh thức trước đã. Tập tỉnh thức tức là mình tập phá cho được cái buồn ngủ. Các con hiểu không?
Phá cho được cái buồn ngủ hôn trầm rồi, bắt đầu bây giờ mới có câu “Tâm như cục đất, quán ly tham, quán ly sân, quán ly si, quán vô ngã”, rồi nó mới biết thuận theo trong cái pháp hướng đó. Chứ bây giờ nó chưa có tỉnh thức nó còn gục tới gục lui đây mà biểu nó ly tham sân si sao được nó ngu quá làm sao nó ly, phải không các con hiểu không? Tu nó phải vậy chớ mình phải ly cái si của mình ra thì cái tham cái sân nó mới dẹp được. Chứ còn si nó còn thì sao mà tham với sân nó dẹp được. Cho nên tu tập nó phải có từng bước, cũng như lớp một phải học cho hết rồi tới lớp hai lớp ba lớp bốn. Còn này lớp một chưa rồi cái lên lớp bốn mà lớp ba.
Nhưng mà đại khái chúng ta phải biết rằng, khi chúng ta có những thì giờ mà chúng ta có thể học thêm để chuẩn bị cho mình bước lên cái lớp khác đặng mình có căn bản chứ gì. Đó là những cái học thêm mà. Vì vậy mà học thêm thì nó đâu phảỉ cái chuyên môn của chúng ta học tại cái lớp đó đâu. Xong bây giờ, Thầy phải học thêm cái gì cái gì, để sau này Thầy lên cái lớp hai này nó đỡ Thầy được bao nhiêu điều. Coi như là học Thầy giáo cho học cái bài đó để chuẩn bị, Thầy là học trò giỏi.
Thôi xá Thầy thôi, con còn hỏi gì nữa không con?
(1:07:07) Trưởng lão: Tập cho nó quen, còn đến phần mà tu Tứ Chánh Cần hàng ngày các con tiếp xúc với ác pháp bên ngoài, các con cố gắng ngăn ác diệt ác để sống suốt cuộc đời sống đạo đức không làm khổ mình khổ người. Thì luôn luôn nó phải sống bằng cái Chánh Kiến hay hoặc bằng cái đôi mắt thấy nó thiện ác đừng thấy đúng sai phải trái, mà thấy nó thiện ác thì các con sẽ được giải thoát. Còn bây giờ tới một cái pháp của tu sĩ tu chứ không phải cái pháp của cư sĩ nữa.
Đây là cái pháp Tứ Niệm Xứ, mà ở trong Bát Chánh Đạo thì gọi là Chánh Niệm. Cái này là quan trọng bởi vì nó còn cái nẻo thứ bảy và còn một cái nẻo cuối cùng là Chánh Định. Vậy thì Chánh Niệm là cái phương pháp dùng để cho người tu sĩ tu chứ không phải người cư sĩ. Cho nên cái pháp Tứ Niệm Xứ là cái pháp rất là tuyệt vời, nếu mà người tu sĩ biết tu. Còn nếu mà người tu sĩ mà không biết tu thì vào trong thất chừng ba bữa thì cái thất đó nó cũng đuổi đi lui ra chứ nó không có cho ở.
Cho nên cái pháp Tứ Niệm Xứ là một cái người im lặng như Thánh mới tu được, còn cái người không im lặng như Thánh thì không tu được. Cho nên các con nhớ kĩ những cái điều mà rất quan trọng, nếu mình là tu sĩ thì mình ôm pháp Tứ Niệm Xứ mình tu tức là chánh Niệm, còn nếu là cư sĩ thì chúng ta có những giờ tu chứ không phải là không tu cái pháp Tứ Niệm Xứ được.
Nghĩa là chúng ta không tu liên tục hàng ngày suốt ngày được, hoặc là ngày này qua ngày khác được nhưng chúng ta có giờ tu Tứ Niệm Xứ, ví dụ như buổi khuya, buổi tối trong gia đình yên tĩnh thì chúng ta có thể tu Tứ Niệm Xứ được, tất cả những cái hoàn cảnh mà thuận tiện coi như là trong cái cảnh yên tĩnh thì chúng ta tu Tứ Niệm Xứ, còn trong những cái cảnh động thì chúng ta tu Tứ Chánh Cần. Các con hiểu điều đó rồi?
Cho nên khi mà hiểu được những cái cách thức và phương pháp tu nó đúng, đúng cái thời của nó thì nó phải có kết quả, còn mình hiểu pháp mà tu không đúng thời và không đúng cái đối tượng tu nữa, cái thời tu như bây giờ ở giữa chợ mà đem Tứ Niệm Xứ tu thì chắc không được rồi. Cho nên vì vậy ở giữa chợ thì chúng ta chỉ có tu Tứ Chánh Cần là tốt nhất, cho nên nó hợp với pháp đó chứ không thể hợp Tứ Niệm Xứ được.
Mà Tứ Chánh Cần mà đem vô trong rừng thanh vắng một mình ngồi tu thì tu cũng không được nữa, nó cũng sai pháp rồi. Cái thời gian mà tu của nó phải hợp. Cho nên hôm nay Thầy nói như vậy thì các con phải biết cái phương pháp áp dụng pháp môn của Phật phải đúng cách, đúng thời. Cho nên Đức Phật nói, mình tu tập đúng thời thì có kết quả mà không đúng thời thì không có kết quả. Cho nên đúng thời của Phật muốn nói cái pháp đó phải áp dụng đúng thời điểm…
(1:10:04) Hôm nay các con sẽ học cái pháp Thầy dạy là Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ nó có bốn chỗ Thân- Thọ-Tâm-Pháp, nhưng cái pháp Tứ Niệm Xứ là cái pháp của Phật dạy Thân-Thọ-Tâm-Pháp. Bây giờ chúng ta học cái pháp đó rồi chúng ta mới quan sát lại cái Thân-Thọ-Tâm-Pháp của mình. Cho nên Đức Phật nói trên thân quán thân, trên cái thân của pháp mà Đức Phật dạy đó, là mình hiểu cái thân của pháp này, khổ là vô thường, bây giờ mình quán lại cái thân của mình, quán lại cái thân của mình xem coi có phải là khổ thật như vậy không, nó có phải là vô thường thật như vậy không. Khi mình đem nó mình quán xét thì mình thấy: À! Cái pháp Tứ Niệm Xứ nó nói rất đúng, đúng cái Thân-Thọ-Tâm-Pháp của mình đúng không có chỗ nào sai hết.
Vậy thì từ đây mình phải nương vào bốn chỗ thân thọ tâm pháp của mình đây, mà mình nương vào cái pháp Tứ Niệm Xứ, pháp Thân-Thọ-Tâm-Pháp của Phật dạy đó, để mình quan sát bốn cái chỗ Thân-Thọ-Tâm-Pháp của mình. Rồi hàng ngày hàng giờ hàng phút hàng giây, không có biếng trễ được. Nghĩa là phải Chánh Tinh Tấn, luôn luôn phải tinh tấn siêng năng, luôn luôn quan sát lại bốn chỗ này. Mà hễ thấy nó có một cái chướng ngại pháp nào thì chúng ta mau mau đẩy lui nó không để cho ở trên bốn chỗ này có chướng ngại pháp. Như vậy gọi là Tứ Niệm Xứ.
Chứ không phải ngồi đây mà quán bất tịnh, ngồi đây mà quán xương trắng, ngồi đây mà quán thân sình trương hôi thúi, hoặc là quán cái này quán cái khác, không phải đâu. Bởi vì trong cái bài Tứ Niệm Xứ của Phật nó có gồm chung, cho nên cái bài đó nó không có cụ thể làm chúng ta khó hiểu. Đức Phật bảo mình quán bất tịnh, thì nó cũng nằm trong Tứ Niệm Xứ mà quán bất tịnh, rồi quán hơi thở, đủ thứ hết, rồi quán Chánh Niệm Tỉnh Giác, đi kinh hành, Thân Hành Niệm đều tất cả dạy tùm lum trên đó gọi là Tứ Niệm Xứ, cho nên người ta đọc tới Tứ Niệm Xứ người ta rối.
Thật sự ra thì trong khi đó chúng ta trước khi mà chúng ta thực hiện Tứ Niệm Xứ thì chúng ta đã trở thành một con người rất là thanh tịnh, cái thô không còn nữa, cái tâm tham dục tham ái nó không còn nữa. Chứ bây giờ nếu mà cái tâm chúng ta còn tham ái mà ngồi mà quán bất tịnh thì làm sao mà chúng ta ở đây mà quét sạch những chướng ngại nho nhỏ trên thân của chúng ta Thân-Thọ-Tâm-Pháp của chúng ta được.
Cho nên Tứ Niệm Xứ không phải cái chỗ mà để cho các người còn thô pháp, còn tâm tham ăn tham uống, còn ham vui ham dục lạc, ham xe ham cộ ham chùa to Phật lớn mà tu Tứ Niệm Xứ thì không thể tu được. Cho nên quán gì cũng không được hết. Mà đây là cái tâm của chúng ta hoàn toàn thô tháo nó đã hết rồi, chỉ còn cái vi tế nhỏ lăn tăn nhỏ ở trong thân tâm của chúng ta, cho nên chúng ta ngồi tu Tứ Niệm Xứ được.
(1:12:50) Coi như là thời khóa của Đức Phật là cái thời khóa để dạy cho người ta tu Tứ Niệm Xứ chứ không phải tu Tứ Chánh Cần đâu,… không phải ngồi đây mà quán bất tịnh nữa. Mà đây gọi là quét, quét những cái rác rến ở trên Thân-Thọ-Tâm-Pháp của chúng ta mà đó đang bị nhiễm. Đó là cách thức tu Tứ Niệm Xứ.
Như vậy Tứ Niệm Xứ đó, lúc nào người cư sĩ như các con mà muốn tu, thì lúc đó là khuya, một hai giờ khuya trong gia đình ai cũng ngủ im phăng phắt hết rồi, chỉ có mình thức dậy rồi mình mới tập thể thao cho cơ thể nó giãn gân giãn cốt cho nó tươi tỉnh nó không còn buồn ngủ nữa, nó không còn lười biếng nữa. Thì lúc bấy giờ thấy nó tỉnh táo xong rồi, bắt đầu chúng ta mới vào ngồi kiết già hoặc ngồi bán già hoặc ngồi trên ghế, chúng ta đặt quan sát bốn chỗ Thân-Thọ-Tâm-Pháp của chúng ta.
Thứ nhất chúng ta quán thân. Chúng ta xem xét từ trên đầu chúng ta tới dưới chân coi nó có cái pháp gì cái chướng ngại pháp nào ở trên thân không. Nếu không có thì chúng ta tiếp tục chúng ta quán thân thọ. Bây giờ xem thọ của cái thân có không, hồi nãy mình quan sát từ đầu xuống chân rồi không thấy có một cái gì hết, không thấy có một cái vật gì, bây giờ thí dụ như bây giờ mình quan sát từ ở trên thân của mình tới cái chân mình không thấy một cái chướng ngại nào hết.
Bây giờ mình mặc cái áo rách, bây giờ gió nó lạnh thì tức là cái áo nó rách nó bắt buộc mình hay hoặc là mình mặc cái áo ngắn hay hoặc là mình ở trần đi, mình không có mặc áo nữa. Thì mình quan sát từ trên này, mình thấy trong khi này mình tu Tứ Niệm Xứ mình nghiêm chỉnh chứ không thể nào mà mặc cái áo thun, hoặc là mặc cái áo ngắn hoặc ở trần mà ngồi quán sát Thân-Thọ-Tâm-Pháp như vậy là thiếu đức hạnh về ăn mặc.
Bởi vì trong giới luật của Phật có dạy đạo đức về ăn mặc mà. Mình phải ăn mặc kín đáo. Trong khi mình ngồi tu như vậy, thân tâm mình thanh tịnh thì tức là mình phải ăn mặc một cách thanh tịnh, chứ không thể như một võ sĩ mà vận nội cộng hoặc luyện khí công bằng cách ở trần để mà gồng để mà vận công đâu, thì như vậy là mình là một võ sĩ chứ không phải một tu sĩ Đạo Phật.
Người tu sĩ của Đạo Phật khi quan sát thấy như thế này mình mặc cái áo này không hợp rồi, thân mình mặc như vậy không hợp rồi, thôi bây giờ mình phải mặc cái áo nào kín đáo, cái áo đơn giản như một cái áo bình thường như cái vạt miễn con mấy con như áo bà ba vậy, mặc cho kín thân đừng có để hở hang chỗ nào hết. Nhất là mình gần cái gió lạnh ngoài kia, thì do đó mình quan sát thì mình thấy giờ cần phải ăn mặc đàng hoàng.
Mình ăn mặc đàng hoàng cái vô mình ngồi lại, quan sát từ trên đầu chí xuống, mình thấy à như vậy là được rồi không có gì hết. Mà giờ nghe gió nó thổi lạnh, do đó mình lấy cái khăn mình quấn lại cổ, hoặc mình lấy cái nón mình đội lên cái đầu cho nó ấm áp đàng hoàng. Bởi vì quan sát mình mới thấy cái sự thiếu trên cái thân của mình, cho nên do đó gọi là tu Tứ Niệm Xứ.
(1:15:49) Phải không, cái hành động làm như vậy nghĩa là tu Tứ Niệm Xứ chứ gì, bảo vệ cái thân của mình nó không bị chướng ngại pháp. Chớ lát đây mình ngồi đây cái hơi cái gió lạnh quá chạy đi xách cái nón thì như vậy mình bị động nhiều rồi. Cho nên mình chuẩn bị được cái thân của mình cho nó yên ổn thanh thản được cho nó không bị động, cho nên gọi là tu Tứ Niệm Xứ.
Thế như bây giờ trên cái thân quán cái thân rồi, rồi bắt đầu cái thân nó yên áo y rồi này kia ăn mặc đàng hoàng ngồi nghiêm chỉnh rồi, thì bây giờ mới quán cái thọ coi nó có cái thọ chỗ nào, nó có đau nhức cái chân này nó có đau nhức cái chỗ kia mỏi chỗ nọ không, hoàn toàn không thấy cái thọ của nó nữa, phải không?
Thì bắt đầu bây giờ mình quán xét cái tâm, mình tiếp tục thân thọ tâm mà, bây giờ tới cái tâm. Quán xét cái tâm coi nãy giờ mình đã tác ý ra hay hoặc là nó tự phóng ra. À nãy giờ mình hoàn toàn mình chủ động mình tác ý ra để mình quan sát thì đây là đúng, mà nãy giờ tự động nó phóng ra cái niệm này nó phóng ra, thì cái tâm này nó phóng dật. Tự nó phóng ra, như vậy là sai, như vậy là mình phải cảnh giác, cái tâm nó còn lăng xăng lắm.
Cho nên vì vậy mình nỗ lực mình ngăn ác diệt ác hơn nữa, nghĩa mà mình tiếp duyên ban ngày đó bây giờ mình ngồi lại nó hay lăng xăng nè. Phải không, bởi vì cái người cư sĩ còn tiếp duyên mà bây giờ mình ngồi lại tu Tứ Niệm Xứ thì đâu có yên được cho mình. Bây giờ tu sĩ cũng chưa chắc yên nữa. Cho nên nó lăng xăng vì vậy mình thấy tâm mình nó lăng xăng như vậy, thì mình nói như vậy hằng ngày sống tiếp duyên với các pháp thì mình phải ngăn ác diệt ác rốt ráo hơn nữa. Vì vậy cho nên mình quan sát rồi mình thấy thì mình nhắc cái tâm từ nay về sau phải nỗ lực tu Tứ Chánh Cần nhiều hơn, nhắc nó vậy để cho nó nhớ.
Rồi kế đó mình tiếp tục mình quan sát mình thấy cái tâm của mình bây giờ, hễ khi mình biết nó phóng thì nó không phóng nữa, nó hết phóng rồi. Vậy thì bắt đầu bây giờ mình mới nhắc nó cái tâm mà nếu muốn không phóng ra nữa thì cái tâm phải định vô hơi thở, bởi vì cái chỗ nó định mà, mình kêu nó “cái tâm định vô hơi thở”, bắt đầu mình dặn nó “cái tâm phải định vô hơi thở”, nhớ kĩ nghe “cái tâm phải định vô hơi thở”, thì bắt đầu đó mình bảo nó định trên hơi thở của nó đi. Thì không phải là bây giờ như mình ngồi mình tu Định Niệm Hơi Thở mình nhắc nó biết hơi thở ra thở vô rồi bây giờ mình ngồi đó mình biết, không phải đâu. Bắt đầu mình lại nhắc nó rồi, mình không có chú ý hơi thở đâu, mà mình quan sát các pháp.
(1:18:00) Bây giờ các pháp nè, cái nhà nè có kín gió không nè, tất cả những cái âm thanh sắc tướng gì bên ngoài nè có coi có ai mà làm động không, hoặc nghe mọi người đều tiếng ngủ ngáy khò khò, im phăng phắc lặng lẽ, à vậy như vậy tốt giờ thanh tịnh, các pháp không làm động mình nữa rồi. Như vậy là các pháp đều rất tốt, không có tiếng động lớn không có tiếng động nhỏ, hoàn toàn là giúp cho mình yên tĩnh, được rồi các pháp nó không còn xâm chiếm mình rồi. Do đó, chứ bây giờ khi đương ngồi mình nghe người ta hát radio, nghe người ta hát ti vi nó la um sùm, thì tức là mình bị các pháp đánh mình rồi, thôi bây giờ mình không thể mình ngồi tu Tứ Niệm Xứ được, mình phải xả đi kinh hành chơi thôi, để mà tu tập Tứ Chánh Cần ngăn ác diệt ác pháp.
Tu Tứ Niệm Xứ khi mình quan sát nó không có tiếng động nó không có nó yên tĩnh… Bây giờ đó, thì khi bắt đầu bây giờ đó mình nhắc lại một lần nữa “tâm phải định vào hơi thở”, khi mình quan sát các pháp nó không làm động mình rồi, tức là không làm chướng ngại trên bốn chỗ Thân-Thọ-Tâm-Pháp của mình rồi, do đó mình mới nhắc “tâm định trên hơi thở đi”, thì bắt đầu bây giờ mình thấy nó thở ra thở vô. Thì trong khi đó thở ra thở vô mình độ chừng chứ không đếm. Mình độ chừng khoảng thời gian hoặc mười hoặc năm hoặc là hai mươi hơi thở, để cho nó yên tịnh, nhưng mà phải nhớ, nhắc bây giờ quan sát trở lại Thân-Thọ-Tâm-Pháp để xem coi.
Thì bắt đầu bây giờ mình cũng quan sát cái thân của mình từ đầu chí cuối, rồi cái thân của mình thấy hoàn toàn yên lặng, rồi bắt đầu bây giờ mình vừa quan sát thì nó có thọ và thân nó một lượt, nếu nó có thọ thì con muỗi cắn hoặc con kiến cắn hoặc con vật gì nó làm cho chúng ta đau nhức hay hoặc là ngứa ngáy gì đó thì nó hiện ra liền. Vì khi mà quan sát tới nó thì nó sẽ thấy được những cái vi tế ở trong thân của nó ngay liền, ngay liền nó có những cái chướng ngại pháp đó thì chúng ta quán, bắt đầu mở ra một cái mặt trận, mặt trận tức là mặt trận Định Vô Lậu, quán xét coi nó lậu hoặc gì, dục lậu hữu lậu vô minh lậu. Khi mà quán xét những cái lậu hoặc đó chúng ta đã biết cái này là hữu lậu, cái này là vô minh lậu rồi cái gì là nhân quả cái gì là không nhân quả, cái gì là duyên hợp cái gì không duyên hợp, chúng ta thông suốt được cái lý này rồi, thì chúng ta đẩy lui bằng cách nào?
Nếu thọ thì đẩy lui bằng cái kiểu thọ, mà bây giờ nó lỡ nó bị đau cái đầu hoặc là nhức cái tay, thì cái thọ nó nằm ở trong thân nó bệnh nó đau nhức, thì chúng ta phải dùng cái pháp hướng mà đẩy lui, rồi bắt đầu chúng ta cũng gọi cái tâm tập trung, tức là định vào hơi thở, khi mà cái tâm nó bám vào hơi thở thì cái thọ nó sẽ đẩy lui đi, nó không còn đó nữa. Nghĩa là chúng ta có cái mục đích là cắt ly khỏi cái thọ, cái tâm với cái thọ nó rời nhau bằng cách nó trụ vào chỗ khác, và đồng thời cái pháp hướng ra lệnh cho cái thọ rời khỏi cái thân, cái tâm của nó để hoàn toàn nó được trở về sự thanh thản, an lạc và vô sự của nó. Đó là cách thức tu Tứ Niệm Xứ.
(1:20:54) Cho nên nó rất khỏe, người mà biết tu Tứ Niệm Xứ rồi, suốt một ngày một đêm người ta ngồi người ta giữ bốn cái chỗ này thanh tịnh, nếu mà chịu khó mà quét Thầy nói thật sự trong bảy ngày là chúng ta đã chứng đạo. Nó không có khó! Bởi vì tu Tứ Niệm Xứ là nó sẽ sung mãn nó làm cho cái tâm của chúng ta ly dục ly ác pháp rất là trọn vẹn và đầy đủ rồi. Nhưng mà siêng năng hằng ngày siêng năng tập luyện thì nó có cái thời gian rất ngắn để mà chúng ta chứng được đạo quả giải thoát hoàn toàn.
Cho nên Đức Phật nói tu Tứ Niệm Xứ là bảy ngày bảy đêm, bảy ngày bảy tháng bảy năm, thì nó sẽ viên mãn nó sẽ thành tựu. Mà đúng lời Đức Phật nói, Đức Phật nói bảy ngày chứ không có nghĩa là bảy ngày. Bây giờ chúng ta ngồi tu mà tới chiều tới sáng, ngày hôm nay nội ở trong cái vòng thời gian là bảy ngày, một ngày hai ngày ba ngày là chúng ta thành tựu chứ đâu phải là bảy ngày mới giải thoát được sao, mới chứng đạo được sao.
Nó chỉ trong thời gian đó có chuyên cần hay không chuyên cần thôi. Mà chuyên cần mà suốt cái thời gian hai mươi bốn tiếng đồng hồ, hoàn toàn không có một cái chướng ngại gì mà xảy ra trên thân của nó được hết, thì lúc bấy giờ nó đã chứng đạo, chớ không phải gì. Cho nên vì vậy mà đâu phải tu tới bảy ngày, chỉ cần hai mươi bốn tiếng đồng hồ là chúng ta tạm đủ chúng ta sẽ chứng đạo rồi. Mà nếu mà trong suốt bảy ngày mà chúng ta vẫn còn bị chướng ngại pháp ở trên bốn chỗ Thân-Thọ-Tâm-Pháp đó, thì chúng ta sẽ tiếp tục tu nữa, thì không có nghĩa là bảy tháng, mà chỉ cần có mười lăm ngày hoặc là một tháng là chúng ta đã xong. Chứ đâu phải là phải căn cứ vào tu phải bảy tháng mới được sao.
Mà nếu suốt bảy tháng mà chúng ta chưa làm xong, thì cái người này mà có tệ nhất đi nữa là cũng phải bảy năm, nhưng đâu có nghĩa là bảo là phải đúng bảy năm mới thành tựu. Nghĩa là có thể một năm hay là chín, mười tháng, một năm nó hơn cái bảy tháng thì nó cũng có thể thành tựu. Đó là cái điều mà Đức Phật đưa ra cái điều kiện để mà chúng ta thấy, nhưng mà chúng ta có tệ thế nào đi nữa là bảy năm là quá sức tưởng tượng rồi, quá lâu rồi.
Vậy mà người ta tu bây giờ hai ba chục năm mà chưa làm chủ, mà vẫn tu mà vẫn hy vọng, thiệt là nuôi hy vọng ảo. Bởi vì cái thời gian xác định của Đức Phật có bảy năm hà, nghĩa là tối đa chúng ta bỏ ra bảy năm. Thế mà có vị tổ tu hai chục năm, ba chục năm, như ngài Diệu Cao Phong là phải tu ba chục năm, mà ba chục năm không biết là đúng không nữa. Thật sự ra cái tu của ngài là tu tưởng rồi thành ra đâu có chắc gì đúng, bởi vì ngài đâu có làm chủ sinh già bệnh chết được. Ngài đâu có thực hiện được Tam Minh, cho nên đâu có chắc gì ngài đã được mà phải ba chục năm trời tu như vậy. Ngài Đại An phải mười hai năm mới gọi là kiến tánh thành Phật, mười hai năm ổng chỉ có kiến tánh không, thì thiệt ra Thầy chỉ dạy một chút xíu là quý Thầy kiến tánh liền tức khắc, cũng thấy được cái tánh biết rồi. Nhưng mà cái tâm tham sân si chúng ta còn hay hết?
Cho nên vì vậy thật sự ra, tu thì rất vất vả cực khổ, mà cuối cùng thì trở về hai bàn tay không chẳng có gì. Còn cái này đằng này chúng ta tu, thật sự ra nếu mà chúng ta giữ gìn được cái tâm mình thanh thản, an lạc, vô sự như vậy là ly tham sân si là tham sân si phải hết chớ. Thì tham sân si hết thì tức là giải thoát chứ còn gì nữa. Chứ đòi cái gì nữa, bây giờ Thầy có đòi thiền định gì đâu, mà thiền định ngay chỗ tâm không tham sân si chứ đâu phải thiền định ngoài tham sân si mà được. Tâm tham sân si ly hết rồi thì thiền định ngay tại đó, cho nên nó quá đơn giản và quá dễ, và cái thời gian cũng đâu có phải kéo dài mấy chục năm. Bảy năm là tối đa, nhưng mà bảy năm đó thực sự ra Thầy nói, cái người đó chắc vô đấy chơi chứ còn thiệt ra không phải tu.
Chứ còn thiệt tu thiệt quyết tu thì Thầy nói, dốt đặc như ông Bàn Đặc ổng chẳng biết cái gì hết, ổng dốt ổng đọc câu kệ hoài bốn câu kệ mà không thuộc, thiệt là ông tối thật tối đó. Thế mà ông Phật dạy ông Tứ Niệm Xứ tức là ổng ngồi quét tâm chứ gì. Các con đọc đến cái bài kinh mà nói về ông Bàn Đặc, thật sự ra khi ổng quét sạch cái tâm ổng không phóng dật nữa, tới chừng đó người ta thỉnh mọi Thầy mọi vị tỳ kheo với Phật đi thọ trai, còn ổng là cái người tu không ra gì có ai thèm mời ông ăn đâu.
(1:24:55) Cho nên ổng ở lại cái khu rừng đó, hôm đó ổng quét sạch cái tâm ông rồi, cho nên ai cũng đi vắng hết, bắt đầu ông ra lệnh cái thân ổng biến ra cả ngàn ông Bàn Đặc ngồi khắp rừng. Nhưng mà chỉ có ông Phật ổng đi thọ trai là ổng biết mà thôi, cho nên ổng mới bảo, bảo ông chủ nhà đó, “gia chủ hãy đến rừng kêu ông Bàn Đặc đến đây thọ trai, nói đức Phật bảo” Thì ông chủ nhà ông mới đến khu rừng mà chỗ Đức Phật ở đó, sao mà dòm chỗ nào cũng thấy có một cái mặt ông tỳ kheo giống nhau ở dưới gốc cây ngồi đầy rừng hết trơn. Biết ông nào là ông Bàn Đặc mà kêu.
Cho nên ông này ông mới trở về nói với Phật, bây giờ con vào cái khu rừng thấy thôi tu sĩ ngồi đặc hết gốc cây nào cũng có hết, như vậy biết kêu ông nào bây giờ. Thì Đức Phật nói bảo gọi tên ông nào là ông nào là ông Bàn Đặc thì ôm bát đi xuống thọ trai, Đức Phật mời thì ngay đó ông nào mà đi khỏi rừng thì ông sẽ hướng dẫn ổng về đây. Thì lúc bấy giờ ông ta đến đầu rừng ổng đứng kêu “Vị tỳ kheo nào là Bàn Đặc thì Đức Phật mời đi thọ trai”, thì tất cả những ông Bàn Đặc đều mất hết chỉ còn có một ông ôm bình bát bước ra.
Đó thấy như vậy rõ ràng cái năng lực của người ta khi quét sạch cái tâm tham sân si rồi thì nó có năng lực màu nhiệm, một thân biến ra hàng vạn thân mà. Thế mà sao chúng ta không tu, để cái tâm tham sân si này nó khổ chứ làm gì. Thôi bây giờ giả dụ bây giờ ông Bàn Đặc ổng tu được như vậy đó, ổng nói thôi giờ mình ra lệnh cho cái khu rừng này nó có một cái chùa đẹp nhất, đẹp hơn các lầu đài vua chúa, làm được không? Các con thấy cái năng lực đó nó làm hơn cái gì nữa chứ đừng có nói. Phải không?
Cho nên vì vậy đó, cái khả năng đó có thể nó làm được tất cả hết, tại sao chúng ta không tu mà chúng ta cứ ôm áp cái tâm tham sân si, mà nó trôi lăn ở trong lục đạo. Bởi vì cái tham sân si nó còn thì nó phải còn cái nghiệp của nó, nó phải đi tái sanh luân hồi, nó làm chúng ta khổ đau. Mà cái pháp rất là tuyệt với, ngồi đây để mà xả những cái vi tế của tâm mình để nó hết tham sân si chứ đâu phải là xả cái gì. Bởi vì nó chướng ngại là nó có tham sân si chớ. Mà nó không chướng ngại, bây giờ con muỗi nó cắn ở đây, mà biết ngứa là chướng ngại, mà chướng ngại là do tham sân si nó mới có ngứa chứ còn cở không tham sân si làm sao ngứa. Vậy thì phải xả cái tham sân si ra, thì xả cái ngứa ra thì nó sẽ hết, chứ có gì đâu. Như vậy là rõ ràng là chúng ta xả riết xả riết nó phải sạch thôi.
Tới con muỗi mà nó còn ghét mình còn cắn mình là mình vay nợ nhân quả nó như thế nào rồi.Cho nên một người tu người ta ngồi đám muỗi nó không có lại cắn là tại người ta hết nhân quả rồi nó đâu có nợ mà nó đòi. Còn mình ngồi thử coi. Mấy con cứ ngồi đi, thân nhân quả nó còn hay hết là mấy con biết liền. Hết mà sao muỗi nó đòi máu mấy con, đòi nợ máu đó. Phải không, các con thấy rất rõ mà. Chứ nếu mà các con hết nợ rồi làm sao nó đòi. Tự nhiên cái từ trường của các con cái thiện đó, nó bảo vệ các con.
(1:27:46) Bởi vậy Đức Phật nói, giới luật là thần hộ mạng của chúng ta mà. Cho nên thiện pháp nó bảo vệ các con, cái từ trường nó bảo vệ vầy, làm sao có cái nghiệp gì của ai mà đến đây đòi nợ nó được nữa. Phải không, nó nợ nhân quả mà, rõ ràng mình ngồi đây, muỗi cắn tôi, rồi nói con muỗi cắn chứ không ngờ là nó con nợ của mình nó đến nó đời nợ máu mình đó. Nó chích mình dù một chút máu đi nữa cũng là nợ máu.
Nợ máu sao? Mình ăn thịt nó, biết bao nhiêu máu người ta mình ăn trong bụng mình bây giờ có chút xíu mình rên à. Chà chút xíu cái là ngứa. Người ta lấy có chút xíu à. Mà nhiều con vậy nó đòi nợ máu mình bao nhiêu không. Rồi lại dùng cái này dùng cái kia để tạo nhân quả giết hại nó thêm, để tạo nhân quả ác thêm chứ làm gì. Có phải không? Các con nào là dùng thuốc dùng này kia đủ thứ ngừa con muỗi giết con muỗi vậy, nhưng mà không ngờ tạo cái nhân quả ác. Không ngờ con muỗi là hiện thân để đi đòi nợ máu của chúng ta.
Đó bây giờ Thầy nói để mà thấy rõ bởi vì, khi nào các con có cái đôi mắt nhân quả, suốt rõ cái đường đi nhân quả các con sẽ thấy chúng ta là những cái người vay nợ của nhân quả, mỗi mỗi đều có vay nợ. Nếu mà chúng ta sống toàn thiện thì chúng ta chuyển hết nhân quả, thì không có ai đòi nợ mình nữa thì không có con kiến lại cắn mình nữa. Mình hết nợ rồi nó đâu có lại nó đòi. Tự cái từ trường của mình nó đã làm cho con kiến nó không có đến nó cắn được mình. Cái từ trường thiện mà. Nó có cái sự bảo vệ của cái từ trường đó. Cho nên vì vậy một người sống đúng giới luật nghiêm chỉnh thì nó sống hoàn toàn an ổn không có một cái pháp trần nào có thể xâm chiếm họ.
Cho nên Thầy nói cái người mà nhập Diệt Thọ Tưởng Định cái từ trường nó bao bọc như cái lồng kiếng, mưa không ướt nắng không nóng họ, làm như là có một cái lồng nó che. Cho nên đời nay Thầy dễ gì có người mà nhập Diệt Thọ Tưởng Định mấy ông nói chuyện, đâu phải dễ. Chuyện người ta có một cái từ trường như vậy, như một cái lồng kính mà nó giữ gìn cái nhục thân của người ta trong này, thì mấy ổng phải biết là làm gì có bụi bặm mà dính trong người ta được, làm gì có mưa gió gì mà hủy hoại được cơ thể của người ta được. Giữ gìn cái đó ngàn đời nó không hư hoại.
Nhưng mà đây là cái trò ảo thuật thôi, như vậy mà nó còn màu nhiệm, huống hồ là cái tâm chúng ta hết tham sân si là nó đã mục đích của chúng ta đạt rồi, chúng ta đâu có cần cái thứ đó. Cái đó là cái trò ảo thuật để cho người ta biết cái màu nhiệm của đạo Phật như vậy, cái lực nó như vậy mà chúng ta không phải cái gì đó mà chúng ta ham, mà vì cái mục đích giải thoát, vì cái sự làm chủ chấm dứt luân hồi, nó không còn mang cái thân khổ đau này nữa, đây là cái mục đích chính. Cho nên chúng ta tham thần thông. Thầy muốn nói thần thông để rồi Thầy bác thần thông là cái mục đích đó, để không là chúng ta cứ chăm chú vào cái sự thần thông, thấy nó huyền diệu màu nhiệm, nhưng mà sự thật cái huyền diệu màu nhiệm chỉ là cái ảo, một cái trò ảo thuật mà thôi.
Còn cái chính của chúng ta là làm sao cái tâm nó hết tham sân si nè, làm sao chúng ta ly dục ly ác pháp nè, để cho chúng ta bất động trước các pháp, trước các cám dỗ của dục lạc thế gian, thì đó là chúng ta giải thoát. Mà giải thoát rồi thì tức là cái tâm của chúng ta nó sẽ ở chỗ nào chúng ta biết rồi, nghĩa là chết chúng ta biết đường chúng ta về, sống chúng ta biết đường chúng ta về. Còn bây giờ chúng ta chưa tới đó thì chúng ta thấy, nghe Thầy nói thanh thản, an lạc, vô sự nhưng mà nó có chỉ chút nó mất. Còn người ta sống hàng ngày người ta sống ở trong đó hoài hoài người ta sống trong đó, người ta không có mất cái chỗ đó, cái niết bàn của người ta nó thường hằng vĩnh viễn đó mà.
Tâm nó không có tham sân si thì nó phải có trạng thái không tham sân si chứ, mà cái trạng thái không tham sân si thì cái trạng thái không nghiệp lực, thì nó đâu có làm sao mà tái sanh luân hồi được. Cho nên chúng ta chấm dứt luân hồi, mà chấm dứt khổ đau ngay liền, chúng ta ở trong trạng thái đó là chấm dứt khổ đau rồi không còn giận hờn phiền não hết, không ai làm gì mình được.
(1:31:12) Phật tử 2: (…)
Trưởng lão: Vầy nó là tưởng rồi, bởi vì hoàn toàn nó ở trong tâm thức của chúng ta bởi vì có những cảm giác gì nó rần rần ở trong này thì nó sai hết. Nó luôn luôn phải thanh thản, an lạc, vô sự. Bởi vì cái cảm thọ của mình bây giờ nó sinh ra cái trạng thái hỷ lạc, cái hỷ lạc này nó hoàn toàn nó không thể chấp nhận được. Bởi vì Đức Phật nói ly dục ly ác pháp, do ly dục sanh hỷ lạc, chừng nào mình ly dục được rồi, ly cái lòng ham muốn của mình được rồi, còn bây giờ mình chưa hoàn toàn giới luật của mình chưa nghiêm chỉnh tức là dục chưa có ly, mà nó có những cái trạng thái gì nó cũng đều là ma, nó giả, nó không có đúng đâu.
Bởi vì mình phải xét thấy cái điều của mình. Tu tập mình biết cái tâm ly dục mình ly hết chưa, mà nếu mình ly hết thì cái tâm tự động nó quay vào chứ không cần nhắc nó, nghĩa là nó quay vào nó định trên hơi thở, chứ không phải bây giờ mình tập trung trong hơi thở rồi khi mà cái hơi thở đó cái tâm nó …
(HẾT BĂNG)
THIỆN XẢO TRONG TU TẬP HƠI THỞ - ĐI KINH HÀNH
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời lượng: [54:43]
(00:00) Trưởng lão: Con ngồi xuống đi con. Con ngồi để Thầy kiểm cái ngồi như thế nào, xem con ngồi như thế đúng hay sai đó.
Tu sinh 1: Con ngồi kiết già mọi lần được, nhưng bây giờ chân con đau.
Trưởng lão: Thôi con cứ ngồi bán già đi con, khỏi kiết già, ngồi như vậy cũng được, không có gì đâu. Rồi con giữ tư thế đó là tướng ngồi rất đẹp đó, đừng có sửa gì hết, sau này cứ nhìn xuống như vậy là đúng. Rồi, con ngồi đi, ngồi thẳng, sửa cho thẳng đi, rồi con!
Khi mình ngồi, mình nhắm chừng mắt mình nhìn xuống trước mặt mình khoảng độ bốn tấc là vừa đó con, nó sẽ không cúi mà không ngửa; chứ không là nó ngửa, phần cổ mình nó ngửa hoặc là mình nhìn sát quá cúi xuống. Tập cho nó quen cái tư thế ngồi. Rồi khi nó ngồi, thì các con đợi cho cái thân của mình nó yên ổn đã, chứ khi mà cái thân nó chưa có yên vô ngồi các con lo hít thở liền thì nó không hay đâu. Ít ra mình ngồi im lặng một chút để cho cái thân của mình coi nó (ngay thăng chưa). Bởi vì khi mình tréo chân lên mình ngồi, nhiều khi mình ngồi kiết già nó chưa có yên đâu, mình để một lúc nó mới yên, chừng khoảng độ một phút sau nó yên rồi các con mới tác ý. Nhớ tác ý nhắc: “Cái tâm đó phải chú ý thật kỹ cái hơi thở, biết cái hơi thở cho rõ ràng”. Con nhắc tác ý cho nó như vậy thì bắt đầu con thấy cái tâm của con nó chú ý cái hơi thở đàng hoàng rồi thì con sẽ theo cái pháp của Phật dạy trong mười tám cái đề mục đó, thì cái mục đầu tiên đó dạy là: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”.
(02:12) Thì khi con dẫn cái tâm của con, lấy cái ý đó con dẫn cái tâm của con, con bảo: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Lúc bây giờ khi mà tác ý rồi thì con mới hít vô, thở ra; con hít vô rất kỹ rồi con thở ra rất kỹ. Nghĩa là với cái độ hơi thở của mình, mình thở cái hơi thở của mình dài thì thở nó chậm chậm; nếu mà hơi thở ngắn thì nó hít vô lẹ, nó thở ra lẹ, thì nó là ngắn. Do đó mình để cho nó tự nhiên chứ mình đừng có sửa cho nó dài hoặc sửa nó ngắn. Nhưng mà mình cũng có cái sự vận dụng của hơi thở của mình theo cái đặc tướng của hơi thở. Nhưng mà cái vận dụng đó để cho nó kỹ lưỡng để cho mình chú ý trong cái hơi thở cho nó kỹ lưỡng thôi chứ không có gì hết. Các con tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, Thở ra tôi biết tôi thở ra”, và cứ như vậy.
Cho nên khi nhắc rồi, thì con hít vô, con hãy hít vô, hơi thở vô; rồi con thở ra, xong thì con thấy hoàn toàn nó đã an ổn, tức là không có một cái niệm gì, mà nó rất biết kỹ lưỡng hơi thở ra vô. Biết kỹ lưỡng thì thứ nhất là con thấy hơi thở thứ nhất là mình nói “một” hoặc là con nói “tốt”, tức là mình thở ra thở vô nó rất tốt, rất đúng. Mình hít hơi thở thứ hai mình nói “tốt”. Hơi thở thứ ba mình nói “tốt”.Tức là mình khen cái tâm của mình nó làm việc tốt đó, nó không có bị sao lãng cái hơi thở.
Như vậy là con sẽ thấy năm hơi thở rất tốt, rồi thì bắt đầu con trở lại tác ý một lần nữa “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, rồi bắt đầu con hít vô, thở ra. Con nói “tốt”, rồi hơi thở thứ hai cũng tốt, hơi thở thứ ba cũng tốt. Như vậy suốt thời gian con tu đó năm phút hay là mười phút hoặc là ba mươi phút, nó sẽ hoàn toàn không có một niệm nào xen vô trong đó. Mà luôn lúc nào nó cũng làm con nhớ được năm hơi thở, mà con không tác ý lộn. Còn nếu mà con không nhắc cái chữ “tốt” đó, không có khen nó đó, thì coi như một lúc sau nó làm biếng, nó lơ đãng; nó lơ đãng là nó làm cho lấy có đó; thì nó sẽ có niệm khác nó đánh vô hoặc là nó sẽ quên, nó sẽ lộn đi. Nó sẽ vô ký, nó quên đi, nó sẽ đếm đến sáu bảy hơi thở rồi nó mới tác ý. Thì như vậy là không có tốt.
(04:27) Cho nên vì vậy mỗi một hơi thở, mình tu từng hơi thở mà, hễ hơi thở này xong tốt là phải chú ý cho kỹ lưỡng. Rồi mình nhắc nó “tốt, tốt” như vậy, luôn liên tục cái hơi thở hít vô, thở ra, con tập từng hơi thở con cứ khen nó tốt, vì cái tâm của mình nó thích khen lắm: “ Tu tốt, được! Tao khen mày”. Con cứ vậy đó, con dụ nó, dụ nó. Bởi vì cái tâm của mình thì mình phải dụ, chứ mình không dụ, mình bắt nó làm một hơi là nó làm biếng, nó tu lơ là.
Cho nên người ta tu mà không có cách thức, không có thiện xảo thì coi như an trú trong cái hơi thở không có được. Còn mình thiện xảo là mình sẽ an trú trong hơi thở được, các con có hiểu chỗ Thầy muốn nói gì không? Đây là Thầy nói về cách thức thiện xảo, tùy các con thiện xảo theo cái đặc tướng của mình thì các con sẽ thành tựu. Bởi vì đức Phật bảo: Mình phải thiện xảo an trú hoặc là thiện xảo nhập vô cho được. Bây giờ là mình dẫn nó vào cái hơi thở là mình thiện xảo để mình nhập vào trong cái hơi thở. Cho nên cái đó phải thiện xảo, mà không thiện xảo thì nhập không được.
Cho nên vì vậy, thí dụ mà ai cũng biết hít thở chứ, nhưng mà hít thở rồi mình chú ý một hơi cái bắt đầu nó không có kỹ đâu, cái tâm nó không có chú ý kỹ đâu, chút nó quên, nó đếm lộn hoặc là nó khởi một cái niệm khác nó xen vô. Nói: “Sao tôi ngồi tu sao cứ có niệm?” Là tại vì mình tu không thiện xảo, chứ không có gì hết. Còn người ta thiện xảo đó, người ta vô đầu người ta tu thiện xảo thì nó sẽ không niệm, các con có hiểu chỗ Thầy muốn nói chưa? Mình thấy mình tu mà nó có khởi niệm đó hoặc nó lộn nó quên đó, là mình biết rằng mình tu không có thiện xảo. Vậy bây giờ, mình tu mình tìm mọi cách để mình thiện xảo. Mình tìm mọi cách để thiện xảo, để mình an trú cho được cái tâm của mình trong cái hơi thở. Đó là cái lối thiện xảo.
(06:06) Đó là cái bài pháp đầu tiên mà các con tập ngày hôm nay về cái: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Đó là cái đề mục đầu tiên các con tập, nếu mà ngày mai tập mà thấy nó tốt thì các con sẽ tập tới cái đề mục thứ hai. Các con hiểu chưa? Không có dạy nhiều, dạy ít thôi. Rồi Thầy cũng dạy cách thiện xảo để mình tu tập vào cái đề mục thứ hai, rồi cái đề mục thứ ba, nó có những cái điều thiện xảo của nó trong đó, nhưng mà cái thiện xảo đó là theo cái đặc tướng của Thầy; nhưng mà Thầy nói các con cũng tương tựa theo đó mà các con có thể làm thì các con cũng phải sẽ có kết quả. Chứ mà nếu Thầy không nói thiện xảo thì các con cứ hít thở, cứ hít thở hoài, Thầy nói rốt cuộc rồi cứ tu hoài mà có vọng tưởng hoài, tới khi nào mà nó hết vọng tưởng coi chừng các con bị ức chế, bị ức chế tâm của mình, nghe không?
Cho nên vì vậy đó là cái bài pháp bữa nay các con tu tập khéo thiện xảo nó. Thì Thầy nói rằng: mình chỉ tu từng hơi thở, hơi thở này tốt thì kế tiếp hơi thở. Cho nên, nó tốt luôn cái thời gian mà cứ từng hơi thở tốt đó thì nó sẽ nối tiếp từng hơi thở đó nó thành cái chuỗi thời gian dài. Ví dụ như ba mươi phút, ba mươi phút hoàn toàn nó rất là an tịnh, nó rất là an trú được ở trong cái hơi thở, nó sẽ trở thành tốt do đó mình có cái thiện xảo; thì mình sẽ đạt được cái kết quả ngay liền khi mình vào tu; mà mình không thiện xảo thì nó sẽ không có kết quả.
Còn về vấn đề mà khuya mấy con dậy đó, thì đầu hôm các con vào ngủ, mười giờ đi ngủ thì các con nhắc mình: “Cái tâm phải đúng hai giờ dậy, không có được lười biếng, phải ngay lúc bây giờ phải dậy”. Thì con nhắc một hai bữa thì bắt đầu nó theo cái lệnh của mình mà nó thức rất đúng. Có khi nó thức sớm, có khi nó trễ chừng ba bốn phút thôi, không có chuông đồng hồ reo nó cũng thức đúng nữa, chứ không phải (nó quên đâu). Còn có đồng hồ nhiều khi nó lại không nghe nữa. Còn có khi nó nghe, nó nghe mà nó khôn lắm, nó giơ tay, nó bấm cho đồng hồ tắt, nó ngủ thêm, nó khôn lắm. Cái tâm của mình nó nhiều cái nó xảo lắm chứ không phải là thường đâu.
(08:15) Tu sinh 1: Thưa thầy có một cái là con dậy cũng hai giờ, nhưng mà sáng tới gần sáng là con lại nhức đầu, nghe nó lần sần.
Trưởng lão: Bây giờ nó cái điều kiện đó. Ví dụ như hai giờ con thức dậy mà lúc gần sáng đó lúc năm giờ thì con đi nằm lại đi. Con đi nghỉ lại là nó sẽ bình thường lại. Chứ còn không nằm là coi như tới cái bảy giờ sáng con tu coi chừng con sẽ thấy con mệt nhọc lắm. Con đi nằm lại một chút xíu chừng khoảng ba mươi phút thôi, rồi con dậy, con đi quét, thì sẽ thấy nó phục hồi. Bởi vì mình thức khuya tu tập là mình có dụng công, nó sẽ phải hao tốn cái năng lực của mình cũng nhiều. Do đó, khi mình nằm nghỉ thì nó sẽ phục hồi lại. Bởi vì bây giờ mấy con chưa đủ sức cho nên còn cần phải nằm nghỉ để phục hồi trở lại, chứ bắt nó thức khuya mà lại thức luôn nữa thì coi chừng đó, tới chừng bảy giờ tu đến mười giờ nó lừ đừ lắm, nó không có tỉnh, nó uổng. Cho nên mình nằm lại nghỉ lại một chút xíu, nằm nghỉ lại một chút. Bởi vì khi mà hai giờ thức dậy thì khoảng năm giờ thì con nằm lại đến sáu giờ không có sao hết.
Mình phải biết, cái đó thì cũng là cách thức thiện xảo. Bây giờ là mình đang tập quân sự chứ mình chưa có đánh trận đâu mà.
Tu từng cái hơi thở thì kết quả nó rất tốt, các con cũng khéo léo mình khen cái tâm của mình: “Tốt, mình tu vậy là tốt lắm; cái hơi thở này là tốt lắm nè, hơi thở hai tốt, hơi thở ba tốt”. Rồi bắt đầu đó con tu cho tới khi mà con thấy cái sức của mình tu ba mươi phút thì mình tu ba mươi phút, còn mà sức của mình tu chừng mười phút thì mình tu mười phút, đừng có tu hơn cái sức của mình thì nó không tốt. Mình tu nhiều cũng mỏi mệt lắm, cho nên phải vừa với cái sức của mình thôi. Nhưng mà cứ lấy đúng ba mươi phút thôi chứ không được tăng lên một giờ. Vì một giờ nhiều khi nó dài quá thì mình sử dụng nó mình sẽ bị ức chế cái tâm mình nhiều. Mặc dù là mình có ức chế nhưng mà ức chế trong khoảng thời gian ba mươi phút nó chưa có đến nổi, nó chưa có quá sức ức chế của nó. Nhưng mà ức chế trong một giờ như vậy là nó quá.
(10:16) Tu sinh 1: Rồi sau ba mươi phút đó thì làm sao?
Trưởng lão: Sau ba mươi phút đó thì mình xả ra mình tu cái khác con, chứ không phải là mình tu một thứ.
Tu sinh 1: Dạ.
Trưởng lão: Rồi bây giờ, con xả ra con nghỉ một chút, con nghỉ khoảng độ một phút, hai phút hay năm phút con xả nghỉ. Xả nghỉ như thế nào? Tức là con phải tu tập cái phương pháp thư giãn. Thí dụ như con tu cái hơi thở rồi con xả ra, con ngồi hai chân con thẳng, con dựa. Con ngồi trên ghế hoặc con ngồi dựa vách; dựa vách con duỗi chân thẳng ra, con để tay thõng xuống, con bảo: “Các cơ buông thõng xuống thư giãn đi, tâm cũng thư giãn chứ không có tập trung đâu nha!”. Con thư giãn thì con mắt của con nhìn cái này cái kia; con đảo mắt nhìn cái này cái kia thì nó thư giãn đó. Đừng có chú ý một chỗ, chú ý một chỗ nó gom lại. Bởi vì hồi nãy mình tu nó gom lại, nó tập trung lại. Bây giờ mà mình ngồi thư giãn mình nhìn nó thì coi chừng nó gom lại hơi thở hoặc mình nhìn đối tượng nào đó nó sẽ gom lại. Nhưng mà mình nhìn cái này, cái kia nó sẽ thư giãn ra. Cũng như bây giờ con tập trung con làm cái gì mệt, con thư giãn ra, con đi bách bộ, con nhìn trời, nhìn mây, nhìn gió gì đó thì nó thư giãn ra. Thầy quên dặn các con, khi mà các con ngồi như thế này, rồi con hít thở vậy đó thì nó sẽ có cái sự gom cái tâm của con; nó gom tâm thì nó bắt buộc các cơ của mấy con nó phải gồng. Hoặc bình thường là mình như thế này chưa có gì hết thì nó chưa có, nhưng mà khi mình tu tập thì một lúc sau mình để ý thì thấy hai hàm răng cắn chặt lại, tự nhiên nó cắn lại, nó cắn lại để nó tập trung trong cái hơi thở cho nó biết hơi thở thì nó cắn lại; hoặc trên trán của mình cái cơ này nó nhăn lại, nó gồng lại, tự nó gồng lại nó tập trung. Cho nên khi đó, mình ngó lên như vầy thì nó phải giãn ra; mình ngó mình ngó lên vầy đó.
Chẳng hạn cũng như bây giờ các con ngồi mà thấy nó hơi có gồng ở trên trán mình hoặc răng mình cắn chặt thì các con ngó lên các con buông thõng ra, hễ ngó lên là nó buông thõng ra nó không có gom lại, rồi bắt đầu tiếp tục hít thở thì như vậy nó không có bị căng, chứ còn con cứ gầm gầm con ngó xuống như vậy là nó bị căng, nhức đầu con lắm. Các con lưu ý cái phần này khi nào mà nó như vậy thì là các con chỉ cần ngó con mắt lên vầy là nó thư giãn lại liền. Đó cũng là cái kinh nghiệm tu tập, thiện xảo người ta nhận ra được những cái điều mà đưa đến chúng ta quá căng, có thể nó sẽ lần lượt nó sẽ tập trung nó gom lại, nó căng.
(12:38) Do vì vậy mà tự nhiên nó như vậy, bởi vì khi cái tâm của mình nó gom vào đâu đó thì các cơ xung quanh cái thân của nó phải căng cái đó lại, nó gom cái đó lại, nó gồng lên, nó căng lại. Do đó mà mình biết cách để mà mình thư giãn thì một phút mình cố gắng mình nhìn lên, rồi mình ngó lên như vầy mình thư giãn nó rồi mình nhìn xuống thì mình thấy nó nhẹ nhàng nó tự nhiên hơn, nó làm cho mình thấy thoải mái dễ chịu hơn. Đó là các con hãy lưu ý về phần đó, thì Thầy đảm bảo rằng các con sẽ không gặp những khó khăn nữa.
(13:15) Trưởng lão: Còn bây giờ về cái phần về đi kinh hành thì Thầy sẽ chỉ dạy thêm về cái phần đi kinh hành đúng; nối tiếp khi các con thư giãn rồi, các con ngồi các con thư giãn xong rồi tới cái phần đi kinh hành. Đi kinh hành thì có rất nhiều cách, các con lưu ý. Đi kinh hành đây là Chánh Niệm Tỉnh Thức, đi kinh hành như thế này mới là Chánh Niệm Tỉnh Thức. Bắt đầu các con đứng dậy các con bảo: “Cái tâm hãy chú ý cái bước chân đi”, các con phải tác ý trước. Bởi vì luôn luôn lúc nào mình cũng dẫn nó: “Cái tâm phải chú ý dưới bước chân đi đó. Bước!” thì mình mới bước. Đó! Bắt đầu bây giờ mình chú ý cái chân mình đi, mình đi rất bình thường như một người đi bình thường vậy thôi. Các con cứ chú ý rồi các con nhắc: “Tôi đi tôi biết tôi đang đi”, các con cứ đi như vậy đi; rồi các con cứ đi.
(14:19) Tu sinh 1: Khỏi đếm bước hả Thầy?
Trưởng lão: Khỏi, các con cứ đi vòng vòng như vậy, các con cứ tập như vậy đi, coi đi như thế nào, mình đi kinh hành mình khỏi cần đếm gì hết. Còn khi nào đếm thì Thầy sẽ dạy tới đếm, còn đây là đi bình thường, đi là để tỉnh thức thôi. Cứ đi một chút các con nhắc: “Tôi đi tôi biết tôi đi”. Nếu mà nó thuần biết rồi mà nó không có niệm nào khởi ra nữa thì con không nhắc: “Tôi đi tôi biết tôi đi”, mà con lại nhắc: “Tâm như cục đất hãy ly tham, sân, si hết đi! Tôi đi tôi biết tôi đi”. Đó là con nhắc thêm một cái câu tác ý đó nữa để cho cái tâm tham, sân, si của mình lìa ra. Đây là cái giai đoạn đi thứ nhất, nghe không?
Nhưng mà bây giờ con đang ngồi như vậy đó mà con buồn ngủ, nó mắc hôn trầm thùy miên rồi thì con biết làm sao bây giờ? Cách thức mình phải đi, không thể nào mà mình đi cái kiểu này mà nó hết ngủ được đâu. Cho nên mình phải đi để mà phá buồn ngủ. Thì con bảo: “Cái tâm phải chú ý cho kỹ ở dưới bước chân nha. Cái chân thì phải đi cho thẳng”, thì con để nó vầy, đạp cho mạnh, đạp cho mạnh như lính đi vậy đó. Hoặc là con để hai cái tay đằng sau này, con bước rất mạnh, rất mạnh, đó như vậy đó, thì con sẽ hết buồn ngủ. Đó là cách thức phá buồn ngủ.
Rồi bây giờ tới cái phần mà con đi để mà nó định tỉnh trên cái bước đi của con, thì đây là cái phần mà tu tập Thân Hành Niệm. Nhưng mà cái này thì chắc chắn là không biết, nhưng bây giờ các con cũng tập thử, để các con biết cái phương pháp đi Thân Hành Niệm. Thì khi đi Thân Hành Niệm các con sẽ để hai tay ra sau lưng như thế này, các con bảo, hễ ra lệnh rồi thì cái thân hành con phải làm theo.
Thí dụ như bây giờ bảo: “Tay trái để sau lưng”, thì bây giờ nó còn đang đứng đây chứ nó chưa đâu. Nhưng mà khi con nhắc rồi thì con nhìn xuống cái tay trái của mình thì bắt đầu đó mình mới đưa tay trái để sau lưng của mình đi chầm chậm đó. “Tay mặt để sau lưng”, rồi bắt đầu mình ngó qua tay mặt của mình, rồi bắt đầu từ từ mình để qua, để (ý) rất kỹ theo từng cái hành động của cái tay mình để cho mình quan sát rất kỹ cái hành động của nó, phải không?
“Chân trái bước”, thì nó chưa có bước đâu nó còn đứng đó, thì bắt đầu nó nhón gót lên mình lưu ý rất kỹ. Tức là khi mình bảo “chân trái bước” thì con mắt mình ngó xuống cái chân của mình, rồi bắt đầu mình thấy cái chân của mình, cái gót dở lên, rồi nó dở lên, nó đưa lên rồi để cái gót xuống. Rồi “chân mặt bước”, thì do đó mình nhìn xuống cái chân mặt của mình thì đó là nó dở cái gót lên, nó dở cái chân lên, rồi đưa tới, để xuống, hạ gót xuống.
Khi mà con làm nó chậm như vậy đó, cái thân của con nó sẽ bị chậm đó, nó sẽ bị chao đảo, nó không có đứng vững được. Mà con muốn cho nó đứng vững được thì con phải tập như thế này thì nó mới đứng vững. Mới đầu thì chắc ai cũng khó đứng vững, nó cứ nghiêng qua nghiêng lại hoài, thì con sẽ tập như thế này con sẽ đứng vững được, Thầy sẽ chỉ dạy cách thức. Khi mà thấy nó đứng vững thì thôi, mà nếu nó không đứng vững (thì tập), bởi vì con đứng một chân mà con đưa từ từ như vầy rồi con để xuống, rồi con mới để đây, có một chân này thì nó không có trụ vững, cho nên mới đầu thì con phải đứng tại chỗ. Con đứng tại chỗ mà con bước chân cho cao lên, 100 bước như vậy, con đưa chân lên. “Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười…”, như vậy đến một trăm rồi con nghỉ một hơi, rồi con tập nữa. Sau đó con đứng một chân con đưa lên như vầy, con đưa tới, đưa lui cho nó vững vàng, không có lắc qua, lắc lại được chút nào nữa đâu. Cũng là cái kinh nghiệm, cách thức để chúng ta giữ được cái thế thăng bằng. Khi chúng ta làm một cái hành động của cái chân nó không bị dao động, để chúng ta chú ý từng cái co chân lên xuống của chúng ta mà nó không bị cái chân bên đây dao động thì chúng ta mới chú ý nó kỹ.
(18:52) Cho nên con tập một vài lần đưa lên, đưa xuống vậy đó, chừng một trăm lần vậy đó thì con sẽ nghỉ. Nghỉ rồi, con tập nữa, rồi sau đó con tập đi Thân Hành Niệm này thì con đi rất vững vàng chứ không có gì hết. Đó, Thầy dạy các con làm.
Rồi bắt đầu bây giờ các con đi, đứng dậy các con đi kinh hành Thầy xem thử coi. Đi cái đầu tiên, rồi đi phá buồn ngủ. Hễ thấy coi mình phá được không? Cách thức mình phá nó. Thầy nói tu hành là tập luyện dữ lắm! Các con cứ đi tự nhiên thôi con. Rồi, đi thì cứ thỉnh thoảng các con nhắc.
Các con đi thấy chú ý cái bàn chân được không? Đi như vậy đó, đi tự nhiên như vậy đó. Chậm chậm vừa như vậy đó, đừng tập trung quá để cho nó tự nhiên! Rồi bây giờ các con tiếp tục các con đi theo kiểu để mà khi buồn ngủ đó thì các con gồng cái chân lên cho mạnh, các con để xuống cho mạnh, để cho mạnh. Đó, đi như vậy đó. Đi như vậy.
Tu sinh 1: (Không nghe rõ)
(20:35) Trưởng lão: Không, con đi trước, con đi cho mạnh trước đi, đi cho thẳng cái chân, bước cho mạnh, đặng cho phá hôn trầm bị buồn ngủ đó.
Tu sinh 1: Dạ.
Trưởng lão: Đó làm như vậy đó, làm vậy đó. Đó, các con đi chú ý kỹ dưới bàn chân nha, mà đạp cho mạnh. Đó, thì nó sẽ tỉnh mau lắm, nó không có buồn ngủ nữa. Rồi các con tập vậy được rồi con. Thầy dạy tới chừng để các con rút tỉa từng kinh nghiệm, các con sẽ phá buồn ngủ. Thầy chuẩn bị cho các con ở trong mọi cái tư thế để khi các con gặp không biết cách thức nào phá hết đó.
Rồi, bắt đầu bây giờ các con mới tập thử cái Thân Hành Niệm coi. Để tay, coi thử coi, ra lệnh để tay coi sao? Để chậm chậm đó con, để nhanh quá là nó theo không kịp đó.
Tu sinh 1: Tay trái để ra đằng sau.
Trưởng lão: Từ từ để chậm chậm nó, cho nó quen. Đó! con để chậm chậm đó, rồi tay mặt để chậm chậm chậm chậm. Nói chung là cái thói quen của mình, cái hành động nó nhanh lắm, nó nhanh hơn cái ý thức của mình, cái ý thức biết nó chậm hơn. Do đó bây giờ mình tập cho nó chậm lại.
Tu sinh 1: Mình nắm lại.
Trưởng lão: Rồi hai tay nắm cho cứng, coi như nó ôm chặt để cho cái chân động địa có một cái chân thôi, nó không có cái hành động khác của cái thân nữa.
Tu sinh 1: Chân trái bước!
Trưởng lão: Chân trái bước đi, dở gót lên chậm chậm để lưu ý. Rồi con để cái ngón chân xuống, bởi vì hồi đó con dở cái gót lên con giữ cho nó thẳng như vầy để đưa co cái chân lên, rồi con mới đưa tới, rồi con mới để cái ngón chân xuống, con hạ gót xuống thì nó mới đúng. Chứ không nó mất cái động tác của con hết.
Tu sinh 1: Vậy thì con dở cái gót trước?
Trưởng lão: Dở cái gót trước đi, rồi con mới dở lên, rồi mới đưa tới, rồi mới hạ xuống, rồi mới hạ gót xuống.
Tu sinh 1: Rồi chân mặt bước, dở gót lên.
(22:33) Trưởng lão: Dở gót lên, rồi dở chân lên, đưa tới.
Tu sinh 1: Đưa tới.
Trưởng lão: Con giữ thế cái bàn chân, Đó! Để ngón chân xuống, hạ gót xuống!
Tu sinh 1: Chân trái bước!
Trưởng lão: Rồi dở gót lên, dở chân, rồi đưa tới.
Tu sinh 1: Rồi mới dở chân lên, rồi đưa tới.
Trưởng lão: Đưa tới, con lưu ý con làm chậm chậm, con lưu ý từng cái hành động của cái bàn chân; của cái chân mình đưa lên, đưa tới, để xuống.
Tu sinh 1: Dở chân lên.
Trưởng lão: Chậm chậm.
Tu sinh 1: Rồi đưa xuống.
Trưởng lão: Thành ra con lưu ý cái bàn chân. Khi mà nó dở chân lên vầy rồi, tại mình quen thì nó có cái động tác mà mình không hay; là nó đưa cái gót xuống mà cái bàn chân, ngón chân không có giữ thẳng, nó không giữ cái bàn chân. Khi mà gót nó dở lên rồi, nó đưa cái chân lên, nó co cái đầu gối, nó đưa lên rồi nó đưa tới là do cái bàn chân. Chứ còn cái bàn chân của mình giữ đứng, chứ không khéo thì cái này, cái co chân, rồi cái bàn chân của mình nó làm hai động tác của nó một lượt, cho nên khi đó mình hạ xuống thì cái gót nó xuống trước.
(Bên ngoài có người hỏi Trưởng Lão.
Người hỏi: Dạ, thưa Thầy chút nữa có đi không? Bảy giờ mấy hả Thầy?
Trưởng Lão: Có chứ con! Tám giờ.)
Tu sinh 1: Dạ con bước lại. Chân trái bước. Dở chân lên, đưa chân thẳng lên.
Trưởng lão: Dở chân, dở thẳng chân lên chứ chưa đưa tới. Rồi! dở lên, đưa tới. Đó con thấy không, cái bàn chân con phải giữ cho đứng, Lúc con dở gót lên, rồi con dở lên thì bàn chân con đừng uốn vầy, mà con dở lên như vầy.
Tu sinh 1: Chân trái bước, dở gót lên.
Trưởng lão: Con dở lên, con giữ cái bàn chân y cái động tác, rồi đưa tới.
Tu sinh 1: Rồi đưa tới.
Trưởng lão: Rồi để ngón chân xuống.
Tu sinh 1: Rồi để ngón chân xuống, rồi con nhớ rồi.
(24:27) Trưởng lão: Về tập nó mới quen.
Tu sinh 1: Chân trái bước nối gót dở lên.
Trưởng lão: Đưa tới, đưa tới thì con cũng giữ cái bàn chân chứ con đừng có uốn lại. Rồi, con về con tập con đừng có uốn cái bàn chân lại, giữ bàn chân cho xuôi vầy. Về tập hai tuần lễ.
Tu sinh 1: Dạ. Tập ngồi thiền. Cũng như bữa nay con về con tập.
Trưởng lão: Con tập ngồi thiền (ngồi hít thở) rồi thư giãn, rồi tập đi kinh hành.
Tu sinh 1: Rồi đi Thân Hành Niệm?
Trưởng lão: Đi rồi vô ngồi thư giãn, thư giãn một chút rồi mới đi tập cái kiểu đi mà phá hôn trầm.
Tu sinh 1: Phá hôn trầm.
Trưởng lão: Rồi, mới nghỉ một chút xíu, vô nghỉ một chút, rồi mới đi lại tập pháp Thân Hành Niệm. Sau này, cái này là cái phần đi, rồi tới chừng sau nó kết hợp lại với cái phần ngồi. Cái phần ngồi - khi mà cái chân đi như vậy đó, mình đứng lại rồi bắt đầu mình ngồi xuống như thế nào, rồi mình mới hít thở. Kết hợp ba cái giai đoạn của nó ở trong một cái pháp Thân Hành Niệm, khi kết hợp được rồi nó sẽ thành một cái cổ xe, lúc bây giờ mình tu mới được. Rồi, bây giờ các con tập.
Còn về cái phần đó, các con về cái phần mà đi kinh hành thư giãn, Chánh Niệm Tỉnh Thức thì các con đi như vậy, đi tự nhiên như vậy thì nó rất tốt rồi. Nhưng mà nó thường là ở trong đó, sau này Thầy sẽ thay đổi những câu pháp hướng. Từ cái pháp hướng “Tôi đi tôi biết tôi đi” hay “Tôi đi kinh hành, tôi đi tôi biết tôi đi kinh hành”. Rồi khi mà thấy cái tâm của mình nó yên lặng ở trên cái bước đi mình được rồi thì mình tác ý: “Tâm phải ly tham, sân, si hết đi” hoặc là “Tâm như cục đất ly tham, sân, si”, hay hoặc là “Tâm ly dục ly ác pháp”. Tức là những câu pháp hướng đó mình đều nhắc, mình đều nhắc nó. Trong khi mình đi, mình nhắc những điều đó để cho cái tâm mình nó ly cái tham, sân, si ra.
(26:26) Đó thì tất cả những cái điều này, sau này Thầy sẽ lần lượt dạy cho các con. Bây giờ các con chỉ tu có cái: “Tôi đi, tôi biết tôi đi” thôi chứ đừng có nhắc gì nữa. Rồi sau này tu tập cho nó thuần rồi đó, thì tới những cái pháp hướng khác để mình nhắc cái tâm mình trong khi mà mình đi đó, thì Thầy sẽ dạy thêm.
Thôi bây giờ xong rồi các con về tập, về ráng mà tập vì thời gian ở đây không có dài lắm.
(Từ phút (26:58) đến (28:09) băng bị lặp lại đoạn từ phút (25:45) đến 26:57)
(28:12) Tu sinh 2: Đi kinh hành Chánh Niệm Tỉnh Giác nếu có một cái diện tích nhỏ cũng như là trong phòng hay là cái sân hẹp hoặc là cái đường gồ ghề hoặc là ban đêm mình không thấy rõ đường đi thì mình không thể đi tự nhiên thì mình đi chậm, đi rất chậm như vậy có ức chế tâm, có ức chế thân không?
Trưởng lão: Chánh Niệm Tỉnh Giác thì coi như là mình đi rất là tự nhiên cũng như là bình thường mình đi ở ngoài đường rộng vậy đó, vậy mới là tự nhiên, gọi là Chánh Niệm Tỉnh Giác. Nhưng mà mình chỉ đi mình biết mình đi thôi một cách rất là nhẹ nhàng nó không bị ức chế. Còn mình đi hơi chậm lại là nó bị có sự chú ý, chú ý thì nó bị ức chế. Cho nên trong khi ban đêm đó, thì coi như là mình đi để ức chế, để phá hôn trầm thôi. Chứ không phải đi như người mà đi thư giãn, đó mới chính là Chánh Niệm Tỉnh Thức, đi ở trong cái hành động rất là tự nhiên. Như vậy khi có hành động nào mà nó hơi bị gò bó chút xíu là tâm mình chú ý trong đó là bị ức chế, vì mình gò bó cái hành động đó rồi. Cũng như bây giờ mình để hơi thở của mình tự nhiên như vầy mình thở thì nó không gò bó, còn mình chú ý vô cái bắt đầu nó gom lại là nó gò bó rồi.
Tu sinh 1: Dạ thưa Thầy! Mình đi kinh hành thì mình có đếm, mình có nói chân mặt, chân trái không thưa thầy?
Trưởng lão: Coi như là từng bước đi mình đếm: Một, hai, ba, bốn… cho đến hai mươi bước vậy đó, rồi mình tác ý một lần rồi thôi.
Tu sinh 1: Dạ, chứ mình không có đếm mặt, trái hả thầy?
Trưởng lão: Không, đó là Thân Hành Niệm. Chân trái, chân mặt cái đó là Thân Hành Niệm đó là kiểu khác rồi, hành động tu nó khác rồi. Nó không có giống như Chánh Niệm Tỉnh Giác. Cho nên trong cái khéo léo, linh động, thiện xảo khi mà tâm của mình nó an trú thì mình đi rất tự nhiên, còn tâm của mình không an trú thì mình phải đi chậm lại, mặc dù là ban ngày như thế này. Tâm con an trú cứ đi (tự nhiên). Khi nó phóng niệm, các con lưu ý nó phóng niệm thì mình đi chậm lại để bắt buộc cái tâm của mình nó chú ý cho nó an trú được, khi nó an trú được các con đi lại tự nhiên thì nó không bị ức chế. Chứ lúc nào các con cũng bị gom tâm ức chế thì nó không được, các con có hiểu không?
(30:33) Trưởng lão: Cho nên con thấy như trong mười tám cái đề mục của hơi thở. Vô đầu thì đức Phật dạy cho mình tập trung trong hơi thở phải biết trong cái hơi thở ra vô chỗ mũi, “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Phải không? Nhưng mà tới đề mục thứ hai thì gần như là đức Phật không có để cho mình biết cái chỗ này nữa mà lại biết hơi thở dài ngắn - nó thay đổi rồi. Rồi tới cái hơi thở đề mục thứ ba đó thì nó lại khác, nó hít vô như vầy đó thì coi như là mình cảm tưởng như là cái hơi thở của mình nó đi từ trên đầu tới dưới chân, thở ra rồi từ dưới chân nó lên trên đầu. Thành ra cái điểm mà bám chặt một chỗ thì nó không còn có nữa. Mà giờ cái tâm biết của mình, nó chạy lên chạy xuống theo cái hơi thở.
Tu sinh 1: Cái đó ý thức hay là tưởng?
Trưởng lão: Cái ý thức của mình, mà không khéo thì mình tưởng như hơi thở chạy lên chạy xuống, còn trái lại mình nương. Bởi vì thay vì cái câu mà mình tác ý “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra”. Thay vì mình thay đổi cái câu đó thì nó dễ hiểu hơn. Nhưng mà vì ở trong kinh sách Phật để cái câu như vậy cho nên Thầy để, chứ thật ra thì khi tu Thầy có thay đổi, thay đổi cái câu pháp hướng “Cảm giác thân hành tôi biết tôi hít vô, cảm giác thân hành tôi biết tôi thở ra”. Khi đó con hít vô con nghe cái độ rung động của cái thân thể của con, con dễ cảm nhận hơn.
Tu sinh 1: Dạ.
Trưởng lão: Có đúng với cái câu tác ý này nó dễ nhận hơn, phải không?
Tu sinh 1: Dạ.
Trưởng lão: “Cảm giác thân hành tôi biết tôi hít vô”, cảm giác thân hành thì con hít vô thì con nghe cái hơi thở của con không bị tưởng, mà nghe cái rung động của cái thân của mình từ trên đầu xuống dưới chân.
Con thử có phải có đúng không? Rồi con thở ra thì con nghe nó rung động từ dưới chân nó đi lên đầu, phải không, có đúng không?
Tu sinh 2: Để cho ý thức dẫn chứ không để tưởng?
(32:18) Trưởng lão: Không để tưởng dẫn, tưởng dẫn nó sai, cho nên mình đổi lại câu đó một cái là mình thấy nó dễ nhận. Còn “cảm giác”, có nhiều người không biết thay đổi cái câu pháp hướng đó, cứ để “Cảm giác toàn thân tôi biết”, mình cảm giác nó khó lắm nhưng mà “cảm giác thân hành” thì dễ, mà cảm giác cái thân cứng ngắt khó quá, có phải không? Thân hành thì có cái sự động của nó chứ gì? Mình cảm theo cái sự động của nó thì dễ, mình hít vô thì thế nào cái thân của mình nó cũng có sự rung động nhẹ ở trong đó, thì nó không bị tưởng đâu. Chứ không khéo con ngồi mà con cảm giác toàn thân, con theo dõi cái hơi thở, theo cái hơi thở con luồn ở trong thân con đi tới dưới chân, thành ra như cái hơi thở chạy lên, chạy xuống đó thì coi chừng nó cũng trật; nó trật nó bị tưởng. Các con thấy nó thiện xảo ghê gớm không? Nếu mà không thiện xảo thì kể như là không biết.
Tu sinh 2: Thưa thầy, cảm giác thân hành thì cái ý thức của mình nó cũng thấy hết cả toàn thân hay là thiếu cũng được?
Trưởng lão: Nó thấy toàn thân, bởi vì cái thân nó rung động đến chỗ nào mình cảm nhận hết chỗ đó. Các con lắng nghe cái rung động của cái thân đó, thì nó từ trên đầu xuống tới chân toàn thân của mình hết. Bởi vì cái rung động, mình hít vô nó có sự rung động, chứ nó không phải luồn theo hơi thở mà đi theo hơi thở. Mới đầu thì nó cũng hơi khó một chút nhưng sau đó mình thấy dễ nhận ra.
Thầy nói rồi, các con thiện xảo một chút xíu thì các con sẽ tu cái đề mục này rất tốt. Mà ngay đó, các con tu ngay đó thì không có niệm vô nữa, hết niệm. Tức là không có niệm xẹt vô được, mà không ức chế. Bởi vì cái tâm không ức chế là tại vì cái ý thức của mình nó không có tập trung có một chỗ, mà nó cảm nhận cái rung động từ trên đầu xuống tới chân, chứ nó không có sự cảm nhận có một cái rung động nào.
Cho nên Thiền Mahasi đó nó dạy cho chúng ta ở trên cái thân mà rung động của nó là phình xẹp của cái bụng, nó lấy cái động của cái bụng thôi, nó không có toàn thân cho nên nó bị cái rung động của cái bụng mà nó có một niệm, cho nên vì vậy mà nó bị ức chế.
Còn cái này nó hít vô cái mình thấy rung động cả thân cho nên nó không có bị ức chế cái chỗ nào trên thân của mình hết, mà nó theo cái thân hành, nó cảm nhận theo cái thân hành của nó, cho nên cảm nhận tất cả toàn thân mình không bị ức chế, các con có hiểu không? Đó là cái khéo léo của những cái đề mục. Nhưng mà không có người mà giảng thuyết cho chúng ta hiểu đó thì chúng ta lầm, chúng ta cứ ức chế có một chỗ, gom tâm có một chỗ, thành ra (sai).
Tu sinh 1: Cái này nói rõ một chút, con nghĩ rằng cái đường hơi thở xuống.
(34:38) Trưởng lão: Thì đó, thí dụ mà Thầy không nói rõ thì con sẽ bị tưởng.
Tu sinh 1: Dạ.
Trưởng lão: Thì như cái hơi thở đó nó sẽ chạy, mà nó chạy xuống tới dưới chân mình lận. Đó là bị tưởng rồi, cái tưởng nó dẫn đi. Bởi vì cái hơi thở làm sao đi xuống dưới chân mình được? Nhưng mà cái thân của mình rung động được, con hiểu chưa? Nó thực tế hơn cho nên nó không bị tưởng. Còn cái mà mình không thực tế đó tức là hơi thở đó nó đi tới phổi thôi mà mình thấy nó luồn đi tuốt tới chân lận thì như vậy nó sai mất rồi, cái mà nó không đúng cái sự thật đó gọi là tưởng; mà cái đúng thì nó không thể tưởng. Đó, Thầy phân tích, Thầy giải thích cho các con hiểu rõ cái chỗ này; cái nào tưởng và cái nào không tưởng. Do đó mình tu cho đúng cách thì không bị tưởng, mà tu không đúng cách thì bị tưởng, nó xê xích chỗ này.
(35:22) Tu sinh 2: Kính bạch thầy, con “Hít vô dài thì con biết hít vô dài”, thì cái hơi thở đó mình dẫn nó đi một đường hay là toàn thân?
Trưởng lão: Không, mình chỉ quan sát cái hơi thở của mình dài hay là ngắn. Tùy theo cái đặc tướng của mình, nếu cái hơi thở của mình dài thì mình cứ tu theo dài. Nhưng phải thiện xảo nữa. Đức Phật nói: Tất cả những cái pháp của Phật phải thiện xảo để an trú. Bây giờ mình hít vô cái hơi thở đặc tướng của mình là hơi thở ngắn đi, hít vô nhanh, thở ra nhanh phải không? Nhưng mà nó cứ lát nó có cái niệm khởi, cứ lát thì có niệm khởi nó không có an trú được. Không an trú được tức là nó có niệm khởi. Còn hễ mà mình cố gắng mình nhìn chăm chăm hơi thở để mình tập trung đó thì nó bị ức chế.
Cho nên nó khó ở cái chỗ này, cho nên mình phải thiện xảo. Bây giờ cái hơi thở tôi thở nó ngắn, bây giờ tôi phải thiện xảo để cho nó được an trú, cho nên tôi thở chậm chậm nhẹ nhẹ dài theo cái đặc tướng thở chậm nhẹ của tôi mà nó không bị rối loạn. Con nhớ không? Mình chậm quá là rối loạn, nó mệt, con hiểu không? Mà nó chậm vừa cái mức của cơ thể của mình đó thì nó không rối loạn. Nhưng mà con thở chậm chậm nhẹ nhẹ vừa với (đặc tướng) thì cái tâm con an trú được trong hơi thở.
Không, Thầy nói thiện xảo bằng cách này là cách thiện xảo. Nếu mà không dạy cho người ta biết thiện xảo thì người ta không thiện xảo đâu. Thầy không nói ra các con không biết cách thức thiện xảo mà tu đâu. Nói hơi thở hít ra hít vô, chứ thiện xảo thì an trú được mà không có thiện xảo thì các con thấy thỉnh thoảng cũng có vọng tưởng, thỉnh thoảng cũng không có an trú đâu.
Nó an trú là nó nhiếp được ở trong hơi thở thì thân con nó ngồi rất an ổn; tâm con nó an ổn; nó không có niệm nữa, thì gọi là an trú. Cho nên đức Phật nói: “Thiện xảo nhập định”, tức là thiện xảo an trú trong Định, rồi thiện xảo nhập định. Cách thức vô mới đầu là những đề mục đó, là những cái đề mục thiện xảo nhập cho được, an trú cho được. Rồi bây giờ mới thiện xảo kéo dài, nó còn cách thức thiện xảo kéo dài, chứ không một chút nó bung ra, nó không có nằm ở trong đó được.
Thì lần lượt Thầy dạy từng cái đề mục thì các con sẽ thấy an trú. Các con thiện xảo, con về con thiện xảo, con nghe lời Thầy. Bây giờ con tu tập mấy bữa rày con đã có kinh nghiệm rồi. Bắt đầu thấy sao nó còn niệm, mình tu trong ba mươi phút, mà nó còn có niệm khởi, nó chưa được an trú. Mà nghe Thầy dạy cách thức an trú, con về con làm thử cách thức này, cách thức kia rồi rồi con an trú được. Như vậy rõ ràng là ba mươi phút mà ngồi nghe nó an ổn là mình thấy kết quả rồi chứ gì; còn mình tu không có kết quả thì làm sao mà tu được.
Tu sinh 2: Kính thưa Thầy, như vậy là cái hơi thở phát xuất là từ nhân trung đi ra, nghĩa là từ nhân trung đi ra chứ không phải toàn thân?
(38:00) Trưởng lão: Thấy nó ra vô chỗ nhân trung thôi tức là tụ điểm của nó mà. Rồi bắt đầu cái đề mục thứ nhất với cái đề mục thứ hai thì coi như là cái hơi thở nó ở chỗ này, mà cái biết của nó thì nó ở chỗ này, thấy biết ra vô đây thôi, phải không, con thấy không? Bây giờ dài thì cái hơi thở cũng ra đây mà thấy nó chậm, cũng thấy nó ra đây, chứ không phải dài, mình hít vô, mình thấy nó dài theo kiểu mình hít vô mình tưởng tới dưới bụng của mình thì nó cũng trật rồi. Hít vô chậm, mình thấy hơi thở nó chạy chậm chậm chậm chỗ này, chứ mình không có thấy nó đi xuống bụng mình đâu. Mình thấy chậm chậm chỗ này, rồi thở ra chậm chậm chậm đó là hơi thở dài.
Còn cái hơi thở ngắn đó, thì nó chạy vô nhanh, nó thở ra nhanh gọi là ngắn. Có dài, ngắn thì mình phải biết là cái dài là cái hơi thở nó phải chậm, nó chậm chậm chậm chậm thì nó mới dài. Chứ còn nó thở chạy tuột, nó nhanh quá thì nó không dài được, nó phải ngắn, các con hiểu không? Con thấy nó phải chạy chậm chậm như vầy, mà khi mà con an trú được cái hơi thở chậm này. Nói chung là phần nhiều cái người mà tu tập an trú được trong hơi thở thì là hơi thở hoạt động chậm hết, nó không có nhanh được đâu, tự động nó cũng chậm nữa. Nhưng nó chậm mà tự động nó chậm thì nó đúng cái đặc tướng của mình, cho nên nó không có làm sai.
Còn mình khéo léo mình thiện xảo thì mình chậm, nhưng mà chậm theo đặc tướng, cho đúng cái đặc tướng, nếu mà chậm quá thì nó làm mệt mình. Con cứ thở chậm quá coi có thấy mệt không? Do đó nó khéo léo thì con chậm hơn cái hơi thở của con một chút để cho nó nhiếp đúng cái đặc tướng của nó thì con thở rất khỏe không có sao hết, mà dễ an trú. Các con hiểu chỗ Thầy muốn nói chưa? Thầy nói trong đạo Phật thì ông Phật nói: “Thiện xảo”, thật ra hai cái chữ “thiện xảo” rất khó cho mọi người. Mà nếu mà không có kinh nghiệm của một cái người tu thì người ta không biết cách thiện xảo.
(39:47) Tu sinh 1: Thưa Thầy mấy cái đề mục để con thực tập, con thấy đề mục năm hơi thở đó Thầy, để con trình bày, Thầy coi sửa giùm con. Con hít vô, con ngồi kiết già hay là có khi con ngồi bán già, con thẳng lưng xong con thấy an ổn rồi con hít vô, thở ra năm hơi thở, trước khi đó thì con tác ý trước, con tác ý là: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, xong con thở ra thấy an ổn rồi, con tác ý con đếm: “Một, hít vô” con nói trước rồi con mới hít vô, thở ra. Rồi con đếm tới năm rồi con tác ý trở lại là: “Hít vô, tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, có khi an ổn con thở con ngồi được ba mươi phút, có khi thì chưa được ba mươi phút con bị tê chân rồi, cái đó thì làm sao Thầy?
Trưởng lão: Khi mà ba mươi phút đó mà con bị tê chân đó là.
Tu sinh 1: Chưa được ba mươi phút.
Trưởng lão: Chưa được 30 phút, chỉ khoảng chừng 25 phút thôi còn 5 phút nữa hoặc là chỉ được 20 phút thôi còn 10 phút nữa. Chưa được ba mươi phút mà con bị tê chân. Con muốn nó hết tê chân thì con nhắc: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tinh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Lúc bây giờ nó có cái cảm thọ nó tê chân con. Tức là nó bắt đầu nó có cái chướng ngại pháp ở trên đó rồi, thì thay vì con nhắc: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” chứ gì. Thì bây giờ con lại thay thế cái câu tác ý đó bằng cái câu tác ý: “An tịnh thân hành”, thì con cứ nhắc nó vậy để sau này, bây giờ thì nó chưa hết đâu, nhưng mà con tập trong vòng nửa tháng, một tháng cái bắt đầu nó có hiệu quả. Con nhắc con không thấy nó tê nữa, nó mất.
Bắt đầu con thay đổi câu tác ý liền. Hễ khi con bị tê đó, bây giờ con ngồi nó không có bị tê gì hết phải không? Thì con tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, cứ đúng năm hơi thở là con tác ý thì bây giờ nó bắt đầu nó tê; có bữa thì nó không có tê, có bữa nó tê; có bữa có thời con tu nó tê có thời con tu nó không tê. Nhưng mà cái thời tu nó tê thì con thay cái câu tác ý liền. Để con sử dụng cái câu tác ý này đối (trị) trước với đối tượng của nó đang bị tê đó, con tác ý để mà con luyện tập, chứ còn ngồi tê đó thì cỡ mười phút không sao đâu.
Nhưng mà con tác ý lúc bây giờ thì nó chưa hết đâu. Nhưng mà nhờ trước cái đối tượng đó thì con cứ tác ý, con nương vào, an trú vào trong hơi thở rồi con tác ý thì thời gian sau nó đâu mất, nó không còn tê. Khi đó sức của con có thể chưa có ngồi được một giờ đâu. Nếu mà con ngồi được một giờ thì nó vẫn an ổn, nó không tê không nhức nữa.
(42:30) Tu sinh 1: Thầy dặn có ba mươi phút thôi?
Trưởng lão: Bây giờ chỉ tu có ba mươi phút chứ không được ngồi thêm. Nghĩa là bây giờ nó có cái trường hợp nó có cảm thọ như vậy rồi, thì con nhớ con thay đổi cái câu tác ý liền. Thay vì: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” chứ gì? Thì con nhắc nó liền: “An trú thân hành tôi biết tôi hít vô, an trú thân hành tôi biết tôi thở ra”, thì con an trú nó.
(42:51) Tu sinh 2: Dạ kính bạch Thầy, mình nói rằng: “An Tịnh Thân Hành” thì lúc đó mình có phải tưởng để cho nó được an ổn không?
Trưởng lão: Không, không tưởng gì hết, cứ nhắc để tự nhiên nó hiện ra, chứ mình đừng tưởng. Tưởng cái nó bị tưởng.
Tu sinh 2: Mình không tưởng để cho an ổn?
Trưởng lão: Đừng tưởng an ổn. Mình chưa an ổn mà mình tưởng như nó an ổn thì mình bị sai rồi. Cái tưởng nó ra, nó ra nhưng mà nó cũng làm cho mình an ổn, nhưng mà sau này nó dẫn mình đi bậy. Bây giờ tưởng nó có cái lực, nó không có chủ động ở trong ý thức mình được. Còn mình cứ nhắc ý thức của mình, lâu chừng nửa tháng hay một tuần lễ, bỗng dưng thấy nó có chứ mình không tưởng ra, thì cái này là cái đúng của mình tập luyện nó có đó.
(43:31) Tu sinh 2: Dạ thưa Thầy! Nhất là ban đêm mà con tréo chân lên con ngồi kiết già thì chừng năm phút là nó buồn ngủ, nhiều khi mắt nó làm thinh vậy, nhưng mà xả ra thì nó tỉnh, nó không buồn ngủ nữa. Còn mấy hôm rồi thì ban ngày con ngồi khoảng chừng hai mươi lăm phút thì có cái hiện tượng này xảy ra: là con nhìn sâu vào cái vân vách thì con thấy vân vách nó nổi rõ ra, nó đi sâu vào cũng như người ta nhìn vào một bức tranh nổi vậy. Những vân vách nó nổi rõ ra, mà nó sâu hàng dặm sâu ở trong. Thì con thấy lúc đó con tỉnh là cái hơi thở thì con vẫn đếm, nó vẫn theo dõi đúng năm hơi thở vẫn đúng. Nhưng mà thì con buồn ngủ. Khi mà hiện tượng mà con chuyên chú vào một điểm đó, thì hiện tượng nó nổi sâu vào thì mọi cảnh vật rất là rõ, mà con tỉnh, hơi thở đếm con thấy rằng con theo dõi rõ được, như vậy có phải là ức chế tâm không?
(45:00) Trưởng lão: Ức chế đó con, ức chế thì cái tưởng hiện ra; cái tưởng hiện ra thì nó tỉnh; nó tỉnh bằng cái tưởng của con. Bởi vì khi nào mình tập trung mình gom, mình ức chế như vậy thì cái hiện tượng nó như vậy. Nếu khi mà nó không có hiện tượng đó xảy ra thì mình bị căng đầu nặng đầu mình, mà nó có hiện tượng xảy ra thì nó không căng đầu, nặng đầu. Nhưng mà hiện tượng đó nó khác, con nhìn cái nan liếp đó nó sâu hơn, nó khác lạ, nó không giống như bình thường của mình thì nó bị tưởng rồi; nó bị tưởng thì con xả ngay, đừng có theo nó; mà con phải trở về với cái vị trí bình thường.
Bây giờ con ngồi con bị con buồn ngủ thì con nên lấy cái đề mục thứ mười bảy con phải tập ngay liền. Con bảo cái tâm, con thấy nó buồn ngủ rồi thì con mới tu, con hít thở có chừng năm phút hay ba phút mà thôi. Nó dễ lắm; khi mà con nhiếp tâm trong cái hơi thở rồi, mà thấy nó không có niệm nữa thì nó dần dần nó đi vào cái ngủ dễ lắm, nhất là buổi tối. Do đó khi nó thấy buồn ngủ rồi thì do con ngồi, con ngồi chứ con không đi kinh hành. Con xả ra, con đứng dậy con đi thì nó hết, nhưng mà con ngồi thì nó dễ thiu thiu thì nó muốn ngủ. Thì lúc bây giờ đó con lấy cái đề mục thứ mười bảy đó con nhắc: “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra”, con tác ý cứ như vậy lần lần sẽ hết.
(46:25) Có cái đối tượng của nó thì phải dùng cái câu đó để mà tập luyện lần để cho (tỉnh); nó có cái đối tượng để cho nó giúp cho con tỉnh. Nếu mà thật sự nó chưa tỉnh thì con chỉ tu nó trong vòng một phút hai phút hoặc là ba phút hay năm phút thôi, thấy nó còn buồn ngủ, nó chưa hết nó chưa tỉnh, con đứng dậy đi kinh hành một vài vòng cho nó tỉnh. Con tỉnh rồi con ngồi lại; ngồi lại nó cũng còn buồn ngủ thì con lấy cái câu đó, con tu nữa. Con tu chừng nào mà con nhắc nó không còn có nữa thì như vậy nhờ cái pháp này có hiệu quả. Còn con đi kinh hành nó chỉ phá chứ nó không có đúng cách của nó đâu, nó không đúng pháp. Còn cái pháp của Phật thì nó có đề mục nó dẫn vô, dẫn cái tâm mình cho nó định tỉnh, nó không có buồn ngủ nữa. Đó là cái đề mục để mà phá cái buồn ngủ của mình chứ không có gì. Còn bây giờ con đi kinh hành là tại vì mình chưa có pháp để phá, vả lại cái pháp nó chưa có hiệu quả, mà ngồi đây sử dụng nó thì mình không có chịu nổi đâu.
Cho nên vì vậy mà trong cái giai đoạn này Thầy nói nó có ba cái điều kiện rất quan trọng ở trong mười tám cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở. Đề mục thứ nhất mà nó quan trọng - Đó là cái đề mục: “An tịnh thân hành”; làm cho cái thân của mình an ổn trở lại, nó không bị đau nhức tê hoặc ngứa ngáy ở trong thân của mình đều đẩy lui được hết. Đó là cái quan trọng của cuộc đời mình, tức là cái đề mục làm chủ bệnh.
Cái đề mục thứ hai là làm chủ tâm. Cái tâm mình tham, sân, si phiền não; chấp ngã rồi nhớ thương này kia. Thì đề mục thứ hai với cái câu tác ý của nó là: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra” đó, nó là quan trọng. Cho nên tập được những cái này mình mới làm chủ được cái tâm tức là làm chủ được đời sống. Khi mà người ta chửi mình, mình nhắc “An tịnh tâm hành” là nó sẽ an liền, nó không giận hờn. Đó các con nhớ đó, nó quan trọng lắm.
Với cái đề mục mà thứ mười bảy, thì cái đề mục này nó quan trọng ở chỗ chúng ta bị buồn ngủ, nó làm cho chúng ta tỉnh, cho nên “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra”. Cho nên nó có ba cái đề mục rất quan trọng. Tu tất cả các đề mục khác để trợ giúp cho ba cái đề mục này, để nó hoàn thành được cái xứ mạng của Định Niệm Hơi Thở. Đó là cái chỗ của nó.
(48:30) Nhưng khi mà Định Niệm Hơi Thở mà hoàn thành được thì Tứ Niệm Xứ tu rất dễ. Bởi vì trên Tứ Niệm Xứ nó khắc phục được tham ưu; tức là đẩy lui chướng ngại pháp trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp của mình. Mà Định Niệm Hơi Thở mà nắm vững rồi thì các con tu không bao giờ còn chướng ngại trên thân của con nữa, buồn ngủ con cũng có cách phá, con không cần đi kinh hành đâu. Hay là thân con đau nhức chỗ nào con phá cũng được, mà tâm của con mà nó khởi ra niệm gì con cũng phá được hết, con chỉ cần nhắc nó cái nó im, nó im lặng liền tức khắc. Cho nên cái quan trọng về cái cái bài mà “Xuất nhập tức”, tức là Định Niệm Hơi Thở đó, nó quan trọng lắm.
Đó, còn cái pháp Thân Hành Niệm đó chẳng qua mấy con tu tập để cho bảy giác chi nó xuất hiện cho đủ. Buộc lòng để bảy cái cái trạng thái giải thoát của một người tu theo đạo Phật, gọi là Thất Bồ Đề đó. Nó xuất hiện đầy đủ để chúng ta sử dụng nó để chúng ta nhập các định, để chúng ta thực hiện Tam Minh thôi. Còn bây giờ mình chỉ có tu tập những cái này thôi. Cho nên các con tu kỹ mười tám cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở, để các con có đủ phương tiện mà các con sẽ làm chủ được thân tâm của mình rồi.
(49:41) Tu sinh 2: Kính bạch Thầy, chúng con đến với Thầy chỉ có hai tuần lễ thôi Thì chúng con không tu tập được nhiều. Con chỉ mong Thầy chỉ cho con biết qua những cái yếu chỉ, rồi con trở về rồi con ôm đó con tu tập. Có Thầy chỉ nói tường tận thì con dễ hiểu hơn là nghe băng, nghe đọc sách của Thầy. Thì con cũng không biết chừng nào con sẽ trở qua được, thời gian ở bên thì lâu, con mong Thầy chỉ cho con để con lấy yếu chỉ đó để con lấy cái khẩu quyết của Thầy để con về con tu tập. Khi có cái thắc mắc gì thì con xin viết thơ qua Thầy, hỏi lại Thầy.
Trưởng lão: Cái cơ bản nhất mà các con đang tu tập, thì bây giờ Thầy dạy cho các con về tập những cái hơi thở, để mà tập cách thức làm sao các con nhập được vào trong hơi thở, tức là an trú được vào trong cái hơi thở. Rồi Thầy dạy cách cho các con thiện xảo được; an trú, thiện xảo được ở trong cái hơi thở kéo dài ra, phải không? Rồi Thầy dạy cái căn bản để cho con sống cho được thiện xảo, sống được ở trong cái trạng thái an ổn của con. Nghĩa là bây giờ con không có tu pháp gì mà ngồi chơi mà con an trú, thì trong cái thời gian này thì con tập kỹ cái này, có cái gì Thầy dạy cho. Đó là nãy giờ Thầy chỉ cái hơi thở để các con biết cách thiện xảo chứ gì. Đó là các con nắm được những cái căn bản này thì các con về bên đó thì các con cũng dễ lắm, chứ không có khó gì. Đây là các con đã nắm được cái cơ bản chắc chắn mà chúng ta sẽ làm chủ được. Thì cái cơ bản mà đã nắm vững rồi, các con biết cách thiện xảo an trú rồi, thiện xảo nhập, rồi thiện xảo an trú, rồi thiện xảo kéo dài cái định đó ra, cái trạng thái đó ra, thì các con biết cách rồi thì các con tu các pháp khác rất dễ dàng.
Ví dụ như pháp Thân Hành Niệm các con không tập thôi chứ con tập thì nó sẽ nhịp nhàng, nó sẽ đúng, lần lượt nó sẽ đúng cái đó nó dễ rồi. Nó khó, nhưng mà nó dễ. Còn cái đầu tiên này, cái thiện xảo mà để đi vào từng hơi thở các con để tu; nội cái hơi thở mà Thầy dạy các con mà được thiện xảo những cái điều, những cái đề mục căn bản và những đề mục quan trọng nhất của nó rồi thì các con ở đây có hai tuần lễ, phải không? Các con ở đây có hai tuần lễ, Thầy dạy căn bản rồi sau đó các con về thì các con cứ theo đó mà tập cho thuần thục, cho thật thuần thục thì nó phải kết quả hẳn hòi đàng hoàng. Bởi vì các con biết cách rồi, phải không?
Các con nhớ tập ở đây là tập cho biết cách thôi, chứ còn chưa có kết quả đâu. Nhưng mà biết cách để thiện xảo thôi, các con thiện xảo nó chưa có kéo dài được, thiện xảo cho nó vào an trú được thôi. Đó, cho nó an trú trong hơi thở mình được thôi. Thì Thầy dạy cách thức cho các con tu tập kỹ, trong mấy ngày nay thì các con tu tập kỹ, vì cái thời gian nó ngắn quá, các con không có ở đây dài, nắm cho được cái căn bản này rồi các con về biết cách thiện xảo này rồi các con yên tâm đi, các con sẽ tu tới nơi tới chốn. Nhớ chưa, mấy con nhớ chưa?
(52:44) Hồi nãy tới giờ Thầy nói những cái căn bản mà thiện xảo để các con vào định, phải lưu ý! Rồi các con tu tập, nói vậy chứ mỗi người nó có một đặc tướng riêng, Thầy nói là theo cái kinh nghiệm của Thầy mà, còn các con phải tu tập theo cái đặc tướng riêng của các con mà. Như hồi nãy con trình bày cách thức con tu đúng rồi. Nhưng mà các con phải nhớ lưu ý về những cái phần mà Thầy dạy về thiện xảo, các con thấy nó không an trú thì thiện xảo; con khéo léo, con thay đổi cách thức của con một chút thì nó sẽ được an trú. Các con nhớ chưa? Nhớ kỹ!
Còn ở đây, để mà Thầy dạy cách thức để mà thiện xảo cho được cái tâm, tức là mình phải linh động khéo léo ở trong cái hơi thở của mình mà mình an trú được, thì đó mới là cái quan trọng. Và đồng thời bây giờ, ví dụ như: “An tịnh thân hành”, mà các con nhắc nhưng nó chưa có an tịnh thì các con đừng có tưởng ra, mà con cứ để tự nhiên. Sau đó con về nhà, con cứ thiện xảo, rồi con cứ an trú cho được cái hơi thở ở trong đó rồi, thì lần lượt các con nhắc là nó hiện ra đủ. Còn mình an trú không được cái hơi thở thì mình nhắc gì nó cũng không được đâu, các con hiểu chỗ đó. Khi nào mà Thầy dạy an trú được cái hơi thở mà nó không bị ức chế, còn bây giờ con an trú trong hơi thở mà con ức chế để con an trú thì nó không đúng. Đó các con hiểu nãy giờ Thầy muốn nói. Nghĩa là mình làm sao mình không ức chế hơi thở mà mình được an trú. Đó là cái khéo léo thiện xảo của mình.
Đó như hồi nãy giờ Thầy nói cũng như hơi thở mình ngắn mà bây giờ nó không có an trú được. Thì bắt đầu đó, mình tìm mọi cách, tìm mọi cách để mình thở cách nào đây? Thì mình thở hơi chậm chậm một chút xíu. Chậm một chút xíu thôi đừng có chậm quá, chậm quá nó trật. Bởi vì nó quá sức của mình, chậm quá thì trật, mình chậm chút xíu hơn hơi thở bình thường của mình đang thở đây, chậm hơn chút xíu. Rồi coi nó có được không? Được, thì mình thấy nó an trú được thì thôi, còn nó chưa an trú được thì mình chậm hơn một chút nữa. Thầy nói thật sự cái đặc tướng của mình nó khó là mình phải mò, mò dần theo cái tướng của mình, chứ nếu mà không, ai cũng giống như ai hết thì Thầy nói dễ lắm.
HẾT BĂNG
THẦY CHƠN QUANG VẤN ĐẠO - THIỀN ĐỊNH - HẠNH CỦA NGƯỜI TU
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
(0:00) Thầy Chơn Quang: Bạch Thầy! Phật giáo Việt Nam hiện tại còn thiếu những cái gì, cần những cái gì để (…)
Trưởng lão: Phật giáo Việt Nam hiện tại còn thiếu sự đào luyện trong việc thực tu thực chứng, đó là điều cần thiết cho Phật giáo Việt Nam. Nếu mà đào luyện được người thực tu thực chứng thì chấn hưng Phật giáo rất dễ dàng, mà nếu không thực tu thực chứng thì chấn hưng Phật giáo rất khó khăn. Vì thế muốn chấn hưng nó thì cái người Tu sĩ phải có công nỗ lực, phải có công học tập, thật sự giáo điển của Phật pháp thấu rõ tất cả những gì lời của Phật dạy, của Tổ dạy.
Trong thời đại của chúng ta không phải là thời đại của Bồ Đề Đạt Ma, mà cũng không phải thời đại của Đức Phật mới thành lập Phật giáo, mà thời đại chúng ta là thời đại khoa học. Cho nên mọi vấn đề đều phải có sự phân tách rõ ràng, dù một lời của Tổ nói. Cho nên chúng ta biết cái lời đó, nói để làm gì, nói để làm cho chúng ta bật lên một sự suy nghĩ, bật lên tất cả các kinh nghiệm hay hoặc là lời nói để giúp chúng ta có một phương tiện gì để làm chủ lại được tâm hồn của mình, làm chủ được sinh tử.
Như vậy chúng ta phải phân tách và quan sát từng lời nói của Tổ dạy, ngữ lục của Tổ như thế nào để rồi chúng ta biết đó mà con đường chơn chánh để chúng ta đi tìm đến mấu chốt giải thoát cho tâm hồn chúng ta. Muốn vậy thì những bậc thực chứng mới có thể tìm được điều này, mà những bậc không thực chứng thì chỉ kiến giải mà thôi, chứ không thể tìm ra được những điều đó.
Cho nên muốn biết một lời của Tổ nói, lời đó là lời ý có ý nghĩa gì, để giúp cho một đệ tử ngài để thành tựu được Phật pháp giải thoát. Giả dụ như câu công án: "Chẳng nghĩ thiện, nghĩ ác, bản lai diện mục hiện tiền". Thí dụ như câu nói đó là câu khai ngộ để chúng ta nhận cái đó để làm gì ?
Khi chúng ta nhận ra đâu có nghĩa là chúng ta sống được ở trong cái đó, mà nếu chúng ta lấy nó để mà tu thì điều đó lại lọt vào ở trong hành động định của Tiểu Thừa. Bắt đầu chúng ta dẹp các Tu viện của chúng ta hết, thì trái lại với con đường thiền của Tổ, là con đường thiền tư tưởng không biết đặt đâu cạnh tâm chúng sanh.
(03:01) Như vậy ngồi mà lặng lẽ như Tiểu Thừa, tức là chúng ta chỉ có làm chủ được cái thân, chứ không thể nào làm chủ được cái tâm. Nghĩa là người mà ngồi nhập định như Tiểu Thừa có xuất, có nhập, thì nhờ một trạng thái tâm hồn an ổn, một phút lạc của tâm hồn, thế rồi chúng ta nhìn thẳng vào bản thân của chúng ta, tức là thân tứ đại. Do đó chúng ta thấy nó không có đau đớn, nó không có nhức nhối, nó không có mỏi mệt, ngồi suốt từ năm này đến năm khác, thân của chúng ta vẫn an nhiên tự tại. Do đó nhờ đâu mà chúng ta được như vậy, nhờ một tâm hồn chúng ta yên lặng trong phút lạc, nếu không có phút lạc chúng ta vẫn thấy đau, thấy mỏi, thấy nhức, thấy tê.
Như vậy chúng ta nhập định của Tiểu Thừa tức là có xuất, có nhập chúng ta chỉ làm chủ được thân không thể nào làm chủ được tâm. Cho nên trong Tứ Thần Lực Tỳ kheo Ni có một đoạn nói như thế này.
Có một vị Tu sĩ đắc được quả A La Hán, sau khi đi ngang qua một cái ngôi tháp mới xây, vị Tu sĩ đó cùng 500 đệ tử của mình đi nhiễu quanh tháp rất nhiều vòng, cuối cùng đi nhiễu quanh tháp nhiều vòng như vậy rồi tất cả thầy lẫn trò đều ra đi. Khi đến bìa rừng đó có một vị Tỳ kheo đang ngồi nhập định, vị Tỳ kheo này thấy vị kia đi nhiễu quanh tháp đó mới nói rằng: "Ông hãy về nhập định xem coi tháp đó là ai?".
Thì vị Tu sĩ này mới về chỗ mình ở, mới ngồi lại nhập định: "Quả chăng tháp này là một vị Tỳ kheo Ni vừa chết".
Cho nên vị Tỳ kheo Tăng này nổi giận, cùng với 500 đệ tử của mình mới đến đập phá cái ngôi tháp này. Do đó hai vị Tỳ kheo Ni giữ tháp này chạy về báo cho bên Ni chúng biết. Do đó thì có một bà Tỳ kheo Ni lãnh đạo Ni chúng, mới dẫn dắt Ni đem dao, gậy gộc để đi tìm cái vị mà đập phá cái bảo tháp của mình.
Khi đến bìa rừng thì cái người mà đập phá đã đi mất mà chỉ thấy có một vị Tỳ kheo ngồi ở bìa rừng tu cho nên dùng dao, gậy đập vị Tỳ kheo này, tất cả y áo của vị Tỳ kheo này đều rách nát. Trong khi vị Tỳ kheo này nhìn xa thấy có một đoàn Tỳ kheo Ni gậy gộc, dao mát hung dữ, vị Tỳ kheo này không thể nào mà dùng thần thông mà có thể tránh kịp, cho nên nhập vào Diệt Tưởng Định, làm cho cơ thể của mình cứng như đồng, như sắt. Cho nên khi mà đám Tỳ kheo Ni này đến đâm, đập, đánh, chém cái thân của vị Tỳ kheo này, tuy rằng y áo đều rách nát nhưng thân của vị Tỳ kheo không bị thương tích gì hết.
(06:12) Sau khi đám Tỳ kheo Ni này, khi thấy vị này không có thở nữa và bị đâm chém như vậy tưởng là đã chết cho nên rút đi. Sau khi các vị Tỳ kheo Ni rút đi, vị Tỳ kheo Tăng này mới xả định, đồng thời chạy về nơi chỗ Phật báo các vị Tỳ kheo Tăng biết rằng sự kiện xảy ra như vậy. Mà do đó các vị Tỳ kheo Tăng mới họp với nhau, mới kiết giới, cấm không cho các vị Tỳ kheo Ni đến nơi Chùa, Tu viện, Tịnh xá của Tăng, không cho Ni đến.
Đây Thầy thuật lại một đoạn để ý nghĩ rằng một vị tu đã chứng quả A La Hán vẫn còn sân hận, vẫn còn phiền não chưa có hết. Mặc dù làm chủ thân rất dễ dàng, ngồi nhập định thân lìa tâm ở trạng thái rất là phút lạc. Nếu như vậy cái trạng thái của người tu Tiểu Thừa chỉ ở trong một trạng thái làm chủ thân chứ chưa hẳn làm chủ tâm.
Nếu một người tu Đại Thừa là pháp định của Đại Thừa không xuất, không nhập, nghĩa là người đó không có nhập định, mà không xuất định mà ở trong thường ở trong Đại định. Như vậy tu Đại Thừa có lợi, nhưng có lợi cho những bậc đã trải qua những định trụ của Tiểu Thừa.
Nếu chúng ta muốn tu Đại Thừa mà không đủ sức tĩnh giác của Tiểu Thừa thì không ngồi giữ tâm chúng ta được bền lâu. Nếu chúng ta cố giữ được một thời gian nào đó, thì chúng ta cũng sẽ rơi vào hôn tịch, hôn trầm.
Nếu chúng ta không đủ cái nhân duyên ngồi lại điều thân thì thân của chúng ta ngồi lâu sẽ rung động, sẽ bị khom, bị ưỡn, bị nghiêng, bị ngã, đủ loại. Nếu chúng ta tu tập mà thân của chúng ta được điều khiển bằng cách này, bằng cách khác mà không để được tự nhiên thì lâu ngày thân của chúng ta cũng không làm sao làm chủ được nó.
Do đó cho nên trong nhà Thiền có phương pháp điều thân, có phương pháp điều hơi thở, có phương pháp điều tâm, chứ không tự nhiên chúng ta bước vào với một tâm hồn lặng lẽ mà rất hồn nhiên thì chắc chắn điều đó không thể được. Nếu chúng ta còn một chút giữ tâm, một chút kiềm tâm thì điều đó cũng không đúng là pháp môn của Đại Thừa.
Nhưng chúng ta nói rằng các vị Thiền sư khai ngộ cho chúng ta để rồi chúng ta ngồi lại giữ tâm mình không khởi một ý niệm, một ý tưởng, một ý niệm nào đó chắc chắn điều đó phải được khai ngộ. Khai có nghĩa là mở ra cho chúng ta ở trong một trạng thái không khởi ý. Nhưng muốn như vậy thì Thiền sư hầu như các ngài, chúng ta phải xét trong những hành trạng của các vị. Cũng như từ Bồ Đề Đạt Ma cho đến Lâm Tế thì chúng ta thấy các Thiền sư có giảng cái tâm đó rõ ràng, các người có chỉ cho chúng ta rõ ràng. Nhưng kèm bên đó thì các vị xây dựng, luyện tập cho chúng ta có một trình độ bén nhạy đến cái độ cùng cực bằng cách phản ứng như xem như được rất tự nhiên.
(09:40) Nhưng sự luyện tập đó đòi hỏi vị Tu sĩ, đệ tử của mình phải được ở gần bên Thiện Tri thức, bên Thầy để Thầy thường hỏi tới, hỏi lui, trắc qua, trắc lại thường trình kiến ngữ, kiến giải, điều này thế kia qua ngôn ngữ thiền. Để tạo cho chúng ta có một sức tỉnh lực, để khi gặp đối tượng, đối cảnh hoàn cảnh nào chúng ta cũng sáng suốt tĩnh giác để chúng ta đối phó, làm cho tâm hồn chúng ta không phiền não.
Chúng ta phải biết con đường thiền của Tổ sư hay hoặc là con đường thiền của Tối Thượng Thừa, là con đường thiền tu hạnh nhẫn nhục chớ không phải con đường thiền tu vào hạnh tịch lặng. Nhưng vì chúng ta thấy tạp khí, ái kiến chúng ta nhiều quá, cho nên chúng ta phải vào núi tìm một nơi vắng vẻ nào đó để ngồi lại giữ tâm mình yên lặng mãi mãi cho đến khi chúng ta hoàn toàn nhập vào trong Đại định.
Nếu chúng ta thấy ái kiến của mình, những tạp khí của mình ít, do đó mình chỉ tu trong các hạnh nhẫn nhục mà thôi là mình cũng sẽ hoàn toàn được Phật pháp. Nếu mà chúng ta thấy thân tâm của mình nhiều nghiệp lực khó tu Định trụ, thì chúng ta hãy dụng tu hạnh nhẫn nhục thì chúng ta cũng đạt được Phật pháp.
(11:15) Nhưng tu hạnh nhẫn nhục phải được khai ngộ bằng một trí Bát nhã. Nếu không được khai ngộ trí Bát nhã thì chúng ta không thể nào mà tu hạnh nhẫn nhục được. Vì sự sân khởi của chúng ta nó rất bén nhạy và cũng như là điện chớp, khi nghe một lời nói trái tai tự nhiên trong tâm chúng ta bừng dậy như một loàng điện chớp, không thể nào chúng ta làm chủ kịp.
Muốn được vậy chúng ta nhờ Thiện Tri thức tìm cách hỏi tới, hỏi lui, trắc qua, trắc lại, lúc nào gặp chúng ta cũng đều có sự hỏi làm cho chúng ta lúc nào cũng phải tỉnh để nhận ra pháp môn Bất nhị. Và như vậy thì chúng ta mới đủ sức tỉnh, rồi chúng ta có đủ sức tỉnh thì chúng ta mới có thể ngồi lại.
Chúng ta có sức tỉnh thì chúng ta mới có đủ khả năng ngồi lại mà không khởi niệm tưởng, không khởi một ý niệm nào. Nếu chúng ta chưa đủ sức tỉnh thì chúng ta bây giờ, hiện giờ chúng ta đang tịnh tỉnh ở trong mê chứ chưa hẳn là tỉnh. Vì cái tỉnh đó chỉ trong vòng 5 phút là chúng ta không đủ cái khả năng mà để tỉnh nữa.
Vì vậy mà ngoài 5 phút thì chúng ta bị vọng tưởng, lâu hơn nữa thì chúng ta sẽ bị hôn trầm. Và nếu chúng ta có kiềm tỉnh đi nữa thì chúng ta cũng không đi sâu vào, vì thường xuyên có những vọng tưởng, có những trạng thái thân động đậy làm chúng ta không thể giữ tâm được. Vì như thế nào ?
Người điều thân, tạo cho thân chúng ta ngồi suốt ngày, suốt đêm, từ tháng này, năm này, năm khác, ngồi bất động không rung chuyển. Thế mà người tu thiền Đại Thừa, tu trong hạnh nhẫn nhục thì chúng ta bất cần sự ngồi, bất cần thân động, chỉ làm sao giữ tâm mình đừng phiền não, mình đừng đau khổ mà thôi.
Trái lại nếu giữ Định trụ để cho tâm hồn mình được yên lặng trong tịch lặng thì do đó thân phải bất động, nếu thân động thì tâm sẽ bị động liền. Và như vậy nếu chúng ta ngồi lại mà giữ tâm bằng cách này, bằng cách khác thân chúng ta một lúc sau đó bị mỏi mệt, chúng ta sẽ động đậy. Và sự động đậy làm chúng ta biết được sự động đậy đó, cho nên chúng ta nhập sâu vào Định trụ không thể được.
(13:33) Vì không phải chúng ta ngồi đây mà luôn luôn còn ở trong cái biết của cái thức này mà gọi đó là sự Định trụ, điều đó điều sai. Chúng ta còn phải khi mất cái biết này, để rồi chúng ta nhận ra cái biết mới, cái biết của trí Bát nhã, do đó không phải cái biết của cái thức nữa, như vậy mới đúng. Mà nếu không được cái thân bất động thì làm sao mà chúng ta nhận ra được cái biết của Bát nhã.
Hiện giờ chúng ta có ngồi đây còn biết thân động, còn biết ở trong sáu căn của mình nghe tiếng, thấy vật thì như vậy điều đó là còn tiếp xúc sáu căn, sáu trần. Thì do đó cái biết đó là cái biết của sáu thức, như vậy không phải. Cái biết của Bát nhã là cái biết nghe thì bằng tâm, mà thấy cũng bằng tâm chứ không phải nghe bằng mắt mà thấy bằng tai nữa. Thì cái biết của Bát nhã không phải là cái biết của một cái thức như chúng ta hiện giờ.
Cho nên từ ở trong cái thức mà được lặng lẽ không khởi một niệm tưởng, một ý tưởng nào kéo dài mãi thời gian đó, ít ra cũng từ 7 ngày, 10 ngày, 1 tháng, 2 tháng, cho đến khi chúng ta còn một cái biết của trí Bát nhã thì chính lúc bấy giờ đó mới là trí Bát nhã. Nếu chúng ta cứ nhận cái biết này là trí Bát nhã thì chúng ta quán mãi suốt đời chúng ta cũng không bao giờ bứng sạch gốc tham, sân, si. Tại sao ? Vì chúng ta sẽ ngồi đây mà giữ nó, một lúc nữa có đối tượng xảy đến làm chúng ta phiền não. Dù là một giây phiền não thì cũng là có phiền não trong tâm hồn, vì thế không phải là trí Bát nhã.
Trí Bát nhã là một chất cứng rắn như Kim Cang, cho nên Kinh Kim Cang Bát Nhã gọi là Kim Cang. Trí Bát nhã còn là chất Kim Cang cho nên mọi vật đụng vào trí đó đều tan rã thành bụi cát, không thể nào mà tác dụng vào tâm hồn chúng ta có phiền não, như vậy mới gọi trí Bát nhã, mới gọi người Kiến tánh. Còn hoàn toàn nếu chúng ta hiểu cái trí Bát nhã đó bằng cách nào, mà khi có một vật gì, có một ngôn ngữ nào, có một lời mạ nhục nào làm chúng ta có một khởi phiền não một chút xíu, một sự sân khởi nào một chút xíu trong đó, cũng đều không phải là trí Bát nhã. Trí Bát nhã là một chiến tuyến, là một thành lũy chắc chắn kiên cố bảo vệ Đức Phật của chúng ta hoàn toàn không có đau khổ, không phiền não. Nếu không phải trí Bát nhã thì không bao giờ bảo vệ Đức Phật chúng ta toàn vẹn trong ngai vàng của Đức Phật.
Như vậy người Tu sĩ của chúng ta muốn được trí Bát nhã thì chỉ có Thiền sư đào luyện hay hoặc là luyện tập cho chúng ta từ giây, từ phút, làm chúng ta ngày ngày phải tỉnh, lúc nào Thầy đi ngang qua gặp mình cũng hỏi câu này, câu khác, câu nọ để làm cho mình sống trong những kiến giải, để đem những kiến giải đó biến trở thành một sức phản ứng rất tự nhiên mà không kịp suy nghĩ. Thì đó chỉ là một cái giai đoạn để chúng ta nhận rõ ràng bằng một cái thức, để rồi từ đó chúng ta sống để không phiền não, đau khổ chứ chưa phải trí Bát nhã.
(16:56) Trí Bát nhã khi nào được Thiền sư dồn chúng ta vào chân tường, chúng ta suy nghĩ mà không suy nghĩ gì được nữa hết, chúng ta suy nghĩ mà không hiểu được gì nữa hết. Chừng đó cái thời gian kéo dài ít ra cũng từ 1 tháng, 2 tháng hay hoặc là 3 tháng, 1 năm không chừng, để kéo dài cái sự suy nghĩ mà không hiểu được nghĩa lý của sự suy nghĩ đó. Để rồi một ngày nào đó ở trong sự yên lặng đó, ở trong sự tịch lặng suy nghĩ mà không suy nghĩ được thì bắt đầu bừng sáng lên cái trí Bát nhã chúng ta soi sáng muôn vật. Như vậy mới gọi là chúng ta Kiến tánh, như vậy mới gọi chúng ta thành Phật, còn nếu không thì không bao giờ chúng ta thành Phật được.
Vì thế người Tu sĩ chúng ta có những pháp môn đi vào. Nếu một vị Thiện Tri thức trắc nghiệm xem coi căn mình ở trong pháp môn nào rồi mới trao cho vị đệ tử của mình tu. Một người kiến giải lanh lợi thì Thiền sư phải dùng những sự lanh lợi tạo cho sự lanh lợi đó đúng Chánh pháp, để cho người đó được một sức tĩnh giác, đứng trước các đối tượng của vị đó được sự giải thoát. Chứ không phải trong cái sự kiến giải này để cho chúng ta đi ra nói thiền, nói đạo, giảng kinh, giảng luật, để đem ba cái ngôn ngữ ra mà phô trương cái tài hùng biện của mình. Như vậy mà để chúng ta hiểu biết, để làm chủ tâm hồn giải thoát sự đau khổ của con người, chứ không phải sự rèn luyện đó để chúng ta đem ngôn ngữ đó mà làm Thầy thiên hạ. Đem sự hiểu biết nhanh nhẹn sắc bén đó để kịp thời chúng ta làm chủ tâm hồn mình không phiền não.
Muốn được vậy phải có Thiền sư hướng dẫn, phải có Thiền sư thường thường chọc tức, phải có Thiền sư thường thường làm cho mình tĩnh giác, nếu không có Thiền sư thì không bao giờ làm được. Và cái mà quan trọng nhất cho con đường Thiền này, là vị đệ tử phải đặt hết niềm tin với bậc Thầy của mình. Thầy bảo mình một câu sống chết cho đến khi nào mà mình thành công, thành tựu thì mới thôi. Nếu mà không thành công thành tựu quyết chẳng bỏ câu nói của Thầy, đó là niềm tin Thầy hơn là mục đích giải thoát của mình. Nhưng mục đích giải thoát của mình chính ở niềm tin đối với Thầy, nếu thiếu một niềm tin mà tu thiền, e rằng đó không bao giờ thành tựu được Phật pháp.
Muốn tu hành được vậy người Tu sĩ phải được sự trắc nghiệm của bậc Thầy. Nếu mà mình thấp quá thì bậc Thầy sẽ cho mình tu từ cái định của Tiểu Thừa để nhập dần vào được tông chỉ. Sau khi ở tông chỉ sẽ được nuôi dưỡng ở tông chỉ cho đến khi bừng sáng ra trí Bát nhã. Nếu không được sự hướng dẫn đó thì chắc chắn không bao giờ đạt được đạo.
Nếu người cao hơn mà được sự hướng dẫn bằng Tham công án Nghi tình thì cũng được Thầy trắc nghiệm qua căn cơ của mình, thì Thầy mới trao cho mình một Công án bằng cách vô tình Tham công án chứ không phải hữu tình. Nếu hữu tình, thời nay sợ e chúng ta không đủ khả năng mà thành niệm Công án chớ không thể nào khởi Nghi tình.
Nếu một người có lanh lợi, có trí lanh lợi thì nhiều kiến giải rất sâu sắc, vị Thiền sư cần phải đào luyện vị này bằng sức tĩnh giác của họ, chứ không trao Công án cho họ tu.
Nếu vị này là một bậc có thể một nghe mà ngàn ngộ, thì ngay đó bảo vị đó ngồi lại mà tu.
Nếu vị này mà còn ở trong tình trạng chưa đủ nhân duyên tu những Định trụ, thì vị này phải tu Thập thiện và Năm giới.
Đó là những bước đường của Phật giáo dạy chúng ta rõ ràng mà ngày xưa mà có phân ra làm năm loại thiền.
(21:11) Năm loại thiền, nhưng sự thật không phải năm loại mà năm giai đoạn thiền.
Giai đoạn thứ nhất gọi là thiền Phàm Phu, tức là tu Ngũ Giới.
Giai đoạn thứ hai, tức là thiền Cõi Trời, tu Thập Thiện.
Giai đoạn thứ ba, tức là thiền Tiểu Thừa nhập từ Định trụ do hơi thở đi vào.
Giai đoạn thứ tư, tức là thiền Đại Thừa do hạnh nguyện Bồ tát mà đi vào Định trụ.
Giai đoạn thứ năm là thiền Tối Thượng Thừa, tức là thiền Tổ Sư đi vào sự khai ngộ chứ không có tu pháp môn nào hết.
Đó như vậy năm giai đoạn thiền là năm giai đoạn để tùy căn cơ của chúng sanh có cao, có thấp mà tu. Nếu người nào chưa tu giai đoạn thứ nhất thì phải tu Năm giới. Khi Năm giới xong thì chúng ta mới tiến tới Thập thiện. Khi Thập thiện xong thì chúng ta mới được vào Định trụ.
Giả dụ bây giờ một người Cư sĩ thích tu hành giải thoát, mà gia duyên rất nhiều chuyện thì không thể nào ngồi lại mà nhập Định trụ của Tiểu Thừa được. Nếu một người không nhập được Định trụ của Tiểu Thừa mà còn mang một cái thân này thì lớp thì lo thân sẽ bị nay đau, mai ốm hoặc là sự sanh tử đến thình lình. Do đó chúng ta không thể nào làm chủ được vì quá sợ hãi mà hành pháp Đại Thừa Bồ tát Hạnh.
Tuy rằng hạnh nguyện của Bồ tát, nhưng kèm đó chúng ta cũng phải ít ra cũng phải làm chủ được thân của chúng ta. Để rồi chúng ta lăn lộn trong chúng sanh, đem đạo pháp của chúng sanh mà dạy chúng sanh tu hành, đem tất cả tâm hồn nhẫn nhục của mình mà tìm đến sự giải thoát qua hạnh nguyện của Bồ tát. Như vậy nếu chúng ta chưa hẳn là một bậc tu được định Tiểu Thừa mà đi vào hạnh Bồ tát, e điều đó là một cái điều tu khó có thể thành công được.
Vì thân chúng ta là có vật chất, có hình tướng mà chúng ta trói còn chưa được, làm chủ chưa được, thì há gì tâm chúng ta là vật không hình bóng. Vật không hình bóng mà đem ra tu lấy cái gì trói, lấy cái gì cột. Ngồi đây một lúc có vọng tưởng xen vào, thử hỏi điều đó làm sao chúng ta đi vào trong Đại định của Đại Thừa. Tâm của chúng ta tu như thế nào để làm chủ nó, chứ đâu phải ngồi lại yên lặng ở trong Định trụ gọi là tu thân.
Tâm vốn là yên lặng, vốn tịch diệt, thế mà còn tu tịch diệt làm gì? Vì do thân của chúng ta có nghiệp lực, có đau đớn, có khổ, có chết, cho nên chúng ta dùng tâm yên lặng để mà làm chủ thân. Trái lại ta muốn tu cái tâm thì chúng ta phải tu trong đối tượng, khi có người khởi mắng chúng ta, chúng ta thấy tâm mình có phiền não, có đau khổ, thì ngay trong phiền não, đau khổ đó mà tu chứ giữ tâm làm gì, kèm tâm làm gì.
Cho nên Lục Tổ Huệ năng nói:
"Tư tưởng không dứt bặt
Đối cảnh tâm vãng sanh
Thấy là thấy lỗi mình, không thấy lỗi người".
Đó là những phương pháp của thiền Tổ sư của Lục Tổ Huệ Năng, phải tu vào ở trong cái hành chứ không phải tu ở trong cái tịnh. Cho nên Tứ tổ Đạo Tín nói: "Dự tịnh ngăn động, hết dự động lại theo".
Nếu tu con đường thiền của Tổ mà chúng ta cứ ngồi lại nghiền ngẫm ở trong yên lặng, thì thật sự đó là một điều không đúng.
(24:23) Thầy Chơn Quang: Thưa Thầy cho con xin phép con hỏi điều này. Cái thời khi thuở ban đầu mà khi Phật còn tại thế, thì lúc đó chưa có chia đôi ra làm Tiểu Thừa và Đại Thừa, cho đến sau Phật nhập diệt 100 năm thì chia làm 20 bộ phái. Trong đó có những vị như Sứ Viện họ nhận mình là "A La Hán", họ chưa đủ tư cách của A La Hán. Chính vì những cái vị này, như là Giác Thiên đồ vậy đó v.vv, họ có một cái số còn khuyết người ta còn thấy được hết mà ổng nhận ổng là "A La Hán".
Rồi khi người ta hỏi: "Tại sao A La Hán còn những cái khuyết như thế này ?".
Ổng nói: "A La Hán vẫn còn những cái đó".
Do đó nó phát sinh ra cái Đại Thừa kiểu như Bồ tát…. công kích A La Hán là tịch lặng. Phải chăng đây là một cái điều mà, cái chia rẽ bắt đầu từ cái chỗ này ? Riêng tụi con, thì một số huynh đệ tụi con có cái điều nghi, thì con nghĩ rằng Phật pháp không thể có hai lối.
Ví dụ như là bên là Đại Thừa thì nói rằng, công kích rằng: "A La Hán là được định mà chưa thấy được cái chân thật".
Còn mà Phật thì tuyên bố rằng: "A La Hán là hết vô minh".
Mà Đại Thừa thì nói rằng: "Phật tánh là cái có sẵn, quan trọng là ngộ cái có sẵn này để tu, chứ còn đi lòng vòng hay đi định, đi gì cũng không có đến được cái đích". Tuy nhiên đây là cái lý luận phản đề mà con đặt ra để thấy rằng nó không có hai lối.
Ví dụ như chúng ta nói rằng: "Mặt trời là có sẵn". Thì như vậy khi mà mây tan hết thì mặt trời phải hiển lộ. Mặc dù không nói mặt trời hiển lộ, chỉ cần nói "Mây tan thôi" tức là đã ngầm nói mặt trời.
Còn nếu rằng: "Mây đã tan hết rồi mà vẫn không có mặt trời, phải đợi tu thêm một thời gian nữa mặt trời mới xuất hiện". Thì như vậy mặt trời nó không có sẵn, nó trái với cái tiêu đề chúng ta là "Mặt trời có sẵn".
Như vậy nếu chúng ta, Đại Thừa nói: "Mặt trời có sẵn". Và Kinh Nguyên Thủy Phật nói là: "Hết vô minh". Thì như vậy hai cái này chính là một, tuy bằng hai cách nói khác nhau.
Bạch Thầy! Với cái nữa là do vị họ hết vô minh, lậu hoặc, cho nên phiền não của họ đã vĩnh viễn chấm dứt. Chứ trong cái phong thái của họ nó có một cái gì, cái u tịch lặng lẽ. Tuy nhiên trong cái u tịch lặng lẽ đó có một cái sức sống tích cực, tràn đầy mà người ngoài không thấy được, ma không thấy được hay Phật cũng không thấy được. Chỉ nhìn nơi cái hình tướng u tịch lặng lẽ của họ mà đánh giá rằng: "Một vị chứng A La Hán phải làm tiêu cực hoặc làm tích định". Thì e rằng cái điều này nó sẽ đánh giá vội vàng và hơi chủ quan.
Nếu, nếu nữa, là nếu chúng ta nhìn ra được những điểm này thì cái sự không sai biệt giữa cái quả vị đã đến chỗ tột cùng mà Phật đã công nhận cái chỗ đến A La Hán. Còn đời sau này thì chúng ta ca ngợi Bồ tát Vị hoặc là chỗ triệt ngộ của Tổ Sư Thiền, thì phải thấy rằng tuy hai cách nói khác nhau nhưng mà nếu mình suy kỹ thì nó đồng lại một chỗ, thì như vậy Phật giáo mình có thể thống nhất được. Sở dĩ ngày nay Phật giáo chia rẽ bởi vì bên nào cũng thấy mình hay mà bên kia khuyết, không thể hàn gắn được.
Bên Nguyên Thủy thì: "Các nhà Đại Thừa là ngoại đạo Bà La Môn, tại vì những kinh điển Đại Thừa là thời Phật, Phật không có nói". Và chỉ như những cái như Vãng sanh Tịnh độ hoặc là Trì chú Mật Tông, nó hoàn toàn giống như những phong cách tán tụng, tế lễ, trì chú của Bà La Môn hoặc là của cái đảo Bon của bên Tây Tạng. Nên họ nói rằng: "Đại Thừa là ngoại đạo".
(27:52) Còn ngược lại thì Đại Thừa nhận mình là "Ở chỗ đến cao, chê Nguyên Thủy là Tiểu Thừa" thì giống như là chê Phật.
Nhưng cái chỗ này mà không có, cứ chia cách mãi, thì ngày hôm nay mà chúng ta có thể nhìn lại để thấy rằng, tuy rằng hai cách nói khác nhau nhưng chỉ là một vấn đề chung thôi, như lưng và lòng của một bàn tay thì điều này Phật giáo mới có thể thống nhất được một cách thực sự, chứ không phải là thống nhất trên những ngôn từ nữa, đây là điều thứ nhất mà con có cái nghi nêu ra.
Hôm rồi thì có một buổi nói chuyện với quý Thầy, thì Thầy Viện chủ có nói ra cái vấn đề này, có tiết lộ Thầy đọc trong cái tạng của Thiền, Thầy nói như vầy:
Như ngài Bạch Vân làm người truyền pháp chính thức của ngài Diêu Trì, mà tông Diêu Trì là cái tông chánh của Thiền Tông Trung Hoa thời đó. Thì ngài Bạch Vân có một đệ tử lỗi lạc là ngài Pháp Diễn. Hôm đó ngài Bạch Vân mới giao cho ngài Pháp Diễn giữ một trang trại dưới núi. Cái nghe người dèm pha thế nào, nên ngài Bạch Vân mới gọi ngài Pháp Diễn lên hỏi: "Ông có uống rượu hay không ?".
Ngài Pháp Diễn nhận: "Có".
"Ông có lấy tiền cho gái hay không?".
"Dạ có".
Ổng xáng ông kia bạt tai, biểu: "Lấy sổ sách lên coi".
Cái ngài Pháp Diễn lấy sổ sách lên coi: "Giờ con uống rượu và lấy tiền cho gái còn nhiêu đây". Mà lật ra sổ sách coi không sót một đồng nào hết.
Qua cái câu chuyện đó rồi cái Thầy Viện chủ mới nói rằng: "Cái chỗ đến của một người tu thiền, mà nhất là cái thiền, thiền mà thời Tống bên Trung Hoa, thì các ngài được nhận ra là triệt ngộ rồi đó. Nhưng mà còn có những cái chỗ này, còn có những cái chỗ để ở chỗ này người ta thấy được ngay".
Còn con hỏi: "Mà tại sao ngài Pháp Diễn lại nhận?"
Thì Thầy Viện chủ trả lời: "Bởi vì Thầy không hiểu mình nên ngài nhận, chứ sự thật là ngài không có cái chuyện đó".
Rồi cái lúc thì Thầy mới lại ca ngợi: "Các vị A La Hán là hết phiền não, chỗ đến A La Hán bảo đảm hơn là chỗ hết phiền não".
Rồi thì anh em tụi con sau khi nghe và suy nghĩ câu chuyện đó xong thì tụi con mới bàn nhau thế này: "Bây giờ mình chê người ta là Tiểu Thừa, thì ví dụ mình chê một người nghèo, bởi vì họ chỉ có một ngàn đồng, thì nếu mình nói mình giàu thì mình phải có một ngàn đồng và có tới mười ngàn đồng mới gọi là mình giàu. Còn ở đây, cái người ta có một ngàn đồng, còn mình chưa có tới một ngàn đồng mà mình vẫn ngồi đây chê người ta nghèo, đâm ra điều quá vô lý. Bởi vậy chỗ đến với Tiểu Thừa là người ta dứt sạch phiền não, lậu hoặc, vô minh. Mình chưa hết được mà mình ngồi đây vẫn chê người ta là Tiểu Thừa mình là Đại Thừa, thì làm điểm lên là hết sức là vô lý đi, nó quá vô lý".
Cho nên điểm này nên con cũng có cái gì đó ngờ ngợ, nó phải có một cái gì. Nếu mà người, ví dụ như chỉ nói về khía cạnh tiêu cực, thì mình hết vô minh. Nhưng mà thật không muốn nói khía cạnh tích cực của họ là đã đến cái chỗ nó tràn đầy thắng trí bằng trí tuệ Bát nhã. Nhưng mình không nói tới thôi, nhưng nó phải có chứ không phải là không được. Đó, qua cái chỗ này rồi cái tụi con có cái nghi ngờ và không muốn có cái sự chia rẽ mãi mãi như vậy.
Mới nãy vừa rồi thì Thầy có nói cái vấn đề là, cái cách mà nhiếp được những cái ái kiến, tế. Như những cái mà cái phiền não thô, thì mình có thể đối duyên tiếp cảnh mà đối diện với nó để may nó thấm nó. Nhưng mà những cái phiền não quá tế, thì như là ngài Khuê Phong mà như Thầy nói, thì phải dùng đến định sâu mới dứt được nó, mà điều này con thấy phù hợp trong kinh Nguyên Thủy. Là người nào mà đến được Diệt Tưởng Định thì chính cái định này phá tan hết vô minh, lậu hoặc, phiền não mà không cần phải dùng những phương tiện khác như là đối duyên tiếp cảnh gì nữa hết. Cứ đi sâu trong định, chính cái định này nó phá tan được vô minh, lậu hoặc của mình.
(31:12) Như vậy là, thì thấy là nếu mà như vậy điều này mà thấy được rõ ràng là hai khía cạnh như vậy thì Phật giáo mới có hi vọng thống nhất được. Mà thống nhất là không phải là thống nhất gượng gạo, gán ép, mà đây là chính là một sự duy nhất, nơi cái bản chất của nó, phải không Bạch Thầy, cho tụi con biết điều đó.
Trưởng lão: Thật sự ra qua cái kinh nghiệm nãy giờ Thầy nói là nó cũng chưa có đúng vào trong cái kinh nghiệm của Thầy.
Thật sự khi mà Thầy thực hiện tu thì cũng đi vào từ trong cái hơi thở mà vào, đạt được định cũng nhờ cái hơi thở mà đạt được. Sau khi đạt được cái hơi thở rồi làm chủ được hơi thở, rồi đi vào trong định, rồi ở trong mãi tông chỉ để trước khi mà thấy được trí Bát nhã. Thì cái điều đó quá là quả là, từ cái chỗ mà Tiểu Thừa mà đi sang Đại Thừa, chứ đâu phải nhập từ Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền rồi Bát định đâu.
Thầy thấy rõ ràng, rất là rõ ràng qua kinh nghiệm, mà cũng không ai dạy trong cái vấn đề này hết, nhưng mà cứ tu mãi, cứ hành động mãi trong trạng thái rất là phút lạc của mình. Để rồi từng đó, mình sẽ thấy hoàn toàn từ cái bước giai đoạn của Tiểu Thừa, mà nhập vào trong định của Tiểu Thừa được rồi đi sang qua cái trí tuệ Bát nhã, cái tuệ, cái định của Đại Thừa rất rõ ràng, đâu có gì đâu là phải nói rằng: "Đại Thừa với Tiểu Thừa là hai". Đó là cái kinh nghiệm của Thầy đã thấy rõ ràng.
Một cái giai đoạn Tiểu Thừa chỉ là một giai đoạn của Phật pháp trong những giai đoạn, chứ đâu phải là Tiểu Thừa là một cái pháp môn riêng rẽ hay Đại Thừa là một pháp môn riêng rẽ. Mà đây giai đoạn của Phật pháp, người mà thể hiện được Định trụ. Cho nên Thầy nói mới làm chủ được thân, mà người thể hiện được trí Bát nhã mới làm chủ được tâm.
Như vậy khi mà, nếu mà chúng ta mới nhập từ Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thì chúng ta chưa hẳn đã là diệt hết những cái vi tế của ái kiến. Cho nên chúng ta phải đi sâu vào ở trong định, nó mới quét sạch được và quét sạch được thì Bát nhã mới hiện tiền. Mà Bát nhã hiện tiền thì không một vật gì mà tác dụng vào được trí Bát nhã. Cho nên tâm hồn chúng ta bây giờ không còn phiền não, dù tất cả những cái gì chúng ta cũng không còn giận, không còn hờn nữa, đó là cái chỗ trí Bát nhã.
(33:33) Thầy Chơn Quang: Thưa Thầy, nếu mà nói như vậy thì tụi con rất là vui mừng, hình như nó chỉ là một giai đoạn, như là. Nếu mà nói đây là chính cái lớp định, thì trước khi đến Diệt Tận Định, tức là Diệt Tận Định là cái định mà hết sạch vô minh, phiền não. Đây là cái chỗ mà Phật gọi là: "Thắng trí khởi lên, đây là người này thắng trí, là liễu tri và thắng tri chứ không còn trong thức nữa".
Nhưng mà dưới cái Diệt Tận Định, trước khi tới Diệt Tận Định, thì trong kinh Tịnh Bất Động Đạo có gọi Phi Phi Tưởng là chỗ chấp thủ tối thượng, còn chút sót lại. Tức là qua nhiều cái lớp định rất sâu, sâu mãi, nhưng mà đến Phi Phi Tưởng thì Phật gọi nó là chỗ "Chấp thủ tối thượng". Thì con thấy nó có một cái điểm tương đương với nhà Thiền gọi là" Đầu sào trăm trượng". Tức là đến đầu sào trăm trượng rồi nhưng mà phải nhảy một lần nữa. Thì nhảy một lần nữa tức là cái chỗ này đã đến cái chỗ mà, chỗ mà thắng trí khởi lên một đời sống mới.
Thường thì, đây có một điều con xin phép hỏi Thầy là. Thường thì khi nhìn thấy cái tư cách một vị ngồi mà nhập định. Ví dụ như vị A La Hán nhập định tới Diệt Tận Định chứ không còn phải nhập những cái định thấp thấp như là Phi Phi Tưởng trở xuống nữa. Thì trong cái định này, cái hình dáng của họ thì rõ ràng là khô khan, gần như một người chết, hơi thở không còn, chỉ còn một chút hơi ấm thôi, thì ai cũng nghĩ là nó khô khan. Và nếu trong cái định này mãi như vậy thì không có gì gọi là ích lợi, là hay ho hết vì nó quá khô. Tuy nhiên có cái điều là chính trong cái định này, thì vị này có được đại dũng ở trong đó mà người ngoài không nhìn thấy.
Ví dụ như họ có thể biết được những điều khó biết nhất. Hoặc là có những cái mà họ thầm trợ được lực cho những người từ nơi xa khác, mà cái điều này người ngoài không thể nào nhìn thấy. Như vậy chính trong cái hình dáng bất động khô khan đó, nó có cái sức sống phi thường mà những người khác không nhìn thấy, mà mình chỉ nhìn trên hình tướng mà chê bai đó là cái định khô khan, thì con e rằng đây cũng là một điều chủ quan.
Với lại trong kinh Đại Bát Nhã, có cái đoạn là: "Khi ngài Thường Đề Bồ tát tìm đến học Bát nhã với ngài Bồ tát Đàm Vô Kiệt, tức ngài Pháp Thượng. Thì nghe được ngài Pháp Thượng giảng ở pháp hội đầu tiên, sau đó ngài Pháp Thượng vào nhập Định bảy năm, rồi mới trở ra giảng lại cái pháp hội thứ hai. Và trong pháp hội thứ hai này thì ngài Thường Đề Bồ tát chứng ngộ".
Thì như vậy trong cái Đại Thừa rõ ràng Bồ tát Đại Thừa cũng có những lần xuất nhập định một cách tự tại, chứ không phải nói rằng cái việc làm xuất nhập định đó mà hành động của Tiểu Thừa.
Với con có một cái nghi nữa, con xin Thầy dạy tụi con. Là ví dụ như trong một người mà đã chứng ngộ, tức là hết sạch vô minh, lậu hoặc sống đời sống mới hoàn toàn rồi. Thì dù lúc nào họ cũng sống được với Mặt trăng thứ nhất, tức là Niết bàn rồi, hiện hữu rõ ràng, Phật tánh hiện hữu rõ ràng. Tuy nhiên lúc mà không phải nhập định, thì cái biết của họ còn có chút gá vào cái Mặt trăng thứ hai, tức là sáu căn, là vẫn nghe, vẫn thấy, vẫn biết như người thường. Mà nhướng mắt thì nghe, thì thấy, mà bịt…. nghe thì nghe, theo sáu căn rất bình thường. Đến khi người đó nhập Diệt Tận Định, tức là bỏ cái biết của sáu căn, bỏ cái biết của Mặt Trăng thứ hai để mà dùng hoàn toàn cái biết của Mặt Trăng thứ nhất, thì như vậy là họ sáng suốt cùng cực hơn là lúc không nhập định. Do đó vị này có thể biết được những cái mà khó biết nhất, phải không bạch Thầy?
Trưởng lão: Thật sự ra thì Thầy phải dạy cho thấy cái chỗ này.
Khi một người mà đã nhập định được rồi thì tâm hồn của họ, dùng cái danh từ thì thấy như là nó có sự gôm và có sự…, chứ sự thật nó không phải vậy. Nhưng mà không có cái danh từ nào để chỉ cho một cái trạng thái tâm hồn của một người, mà đang ở trong một cái Định Trựu của một trí tuệ. Nó không phải là một cái gương, mà như chúng ta nghe trong kinh ví dụ như là một cái gương mà có vật thì soi, không vật thì không soi, điều đó cái tâm của chúng ta không phải như cái gương chết đó đâu.
(36:52) Cái gương tâm nó cũng soi vật vậy, nhưng mà khi có vật đến thì nó vẫn có hình bóng trong đó, nhưng mà vật đi rồi thì hình bóng không lưu lại, không lưu bằng cách nào? Bằng cách nó ở trong một cái trạng thái hòa tan trong vũ trụ, nó không gôm lại trong thân tứ đại của nó. Cho nên thường thường là các vị ở trong Đại Thừa thì họ đã được định, thì họ luôn luôn là họ ở trong cái Định Trựu chứ không lúc nào là họ phải có xuất nhập.
Thí dụ như bình thường có người đến hỏi Thầy thì ngay đó nó có cái sự gôm lại, đây là cái danh từ gọi gôm chứ không phải gôm, nó sẽ phản ứng những cái câu hỏi của những người đó, đáp họ bằng cách này, bằng cách khác. Khi mà mọi người không còn hỏi nữa và đi về, thì tâm hồn của vị Tu sĩ này không cần phải khoanh chân ngồi lại, nhập vào một cái trạng thái không vọng tưởng nào đó, tự nhiên tâm hồn của họ trải rộng ra hòa tan trong vũ trụ, coi như họ sống rất rộng rãi bao la trong cái thế giới này.
Vì thế cho nên tâm hồn của họ thường, nhỏ mà thường lớn, chứ không phải luôn luôn lúc nào cũng là ở trong một cái vật cứng như cái gương thì không thể được. Bởi vì nếu mà cái tâm nhị biên của chúng ta mà chưa có phá được hay hoặc là chưa có triệt, chưa có chuyển được thì do đó thì chúng ta đặt mọi vật gì, thì mọi vật đó vẫn lưu lại ở trong đó mà không bao giờ xoá ra được.
Trái lại cái trạng thái của một người tu chứng, thì khi họ đã chứng rồi thì họ không phải cần xoá, cần gì hết, nhưng mà tự nhiên tâm hồn của họ nó ở trong cái trạng thái phút lạc trải rộng ra vô cùng trong vũ trụ. Cho nên rồi họ cũng không có gì ở trong đó, khi trải rộng ra thì không có. Nhưng mà khi ai nhắc lại bắt đầu nó có cái sự gôm lại, để rồi tất cả những cái gì nó đều rõ ràng không quên một cái gì hết. Chứ không phải nói "Tôi tu lâu rồi tôi quên hết, không biết gì hết", không có.
Nhưng như thế này, ví dụ như bây giờ Thầy đang làm một cái chuyện gì đó, Thầy để một cái rựa, một cái dao nào đó rồi mải mê Thầy làm, rồi Thầy bỏ Thầy đi vô luôn, nói như vậy là Thầy đã động, không phải vậy, một người rất trí tuệ, bỏ đâu cũng không bao giờ quên hết, nhưng mà khi gôm lại thì cái gì cũng nhớ hết, mà trải rộng ra thì cái gì cũng không có trong đó hết. Đó là một trạng thái của người tu chứng như vậy.
(39:38) Thầy Chơn Quang: Bạch Thầy! Cho con hỏi. Tuy nhiên như Thầy nói là cái bản thể nó linh hoạt như vậy, nó thường tại như vậy. Tuy nhiên có những trường hợp như là chính Thầy, là trong kinh điển vẫn nói có những trường hợp mà để cần biết một điều gì, là quán sát một cái căn cơ nào thì Thầy hay là những vị, nó cũng nhập định để xem. Thì như vậy cái nhập định để xem đó, nó khác với cái Niết bàn thường tại trong đời sống hằng ngày như thế nào?
Trưởng lão: À, cái nhập định để xem là nếu mà có một người ta muốn biết được những cái chuyện mà xa xôi như. Bây giờ trên núi Hy Mã Lạp Sơn có mấy vị Tu sĩ, họ đang tu những pháp môn gì? Do đó thì Thầy phải nhập định ở trong một cái định để xem những người đó họ đang nhập đồng một cái định của Thầy. Do đó Thầy sẽ được giao cảm với họ, nói chuyện với họ mới biết trong cái số người đó được bao nhiêu nhập định ở trên núi Hy Mã Lạp Sơn, thì đó phải nhập định. Còn trái lại với cái người mà có trí tuệ, một người vừa bước vào vẫn biết được căn cơ của họ, vẫn biết được tâm trạng của họ, vẫn soi thấu được tất cả những gì của họ. Nhưng đối với một vị tu thiền không thể làm như một ông Thầy bói, cho nên họ biết là họ biết chứ họ không nói.
Tại vì cái nhân duyên mà có đủ nhân duyên, thí dụ như Sư đệ đến, vừa nhìn thấy Sư đệ, Thầy biết Sư đệ sẽ chừng khoảng 12 giờ trưa nay sẽ có một cái tai nạn xảy đến, nhưng ngay đó Thầy cũng không nói. Nhưng mà có cái nhân duyên với Thầy, tại vì thấy gương mặt là đều biết hiện là cái nghiệp quả nó đã đến, chứ không cần phải nhập định. Vì với cái trí Bát nhã, nó là cái trực giác, nó xem được thấu suốt được mình mà người nữa, chứ không phải riêng một người nào hết.
Cho nên thậm chí cái vị mà đã đạt được cái đạo quả, họ có sự soi thấu vô cùng lận, không thể nào lường được với cái trí Bát nhã của họ. Nhưng họ không thể nào mà soi căn bằng cách dùng cách đó đâu, họ chỉ trắc nghiệm cái người đệ tử của mình bằng những cái hành vi của người đệ tử của mình, có thiện chí, có cái sự quyết tâm tu hành hay không. Và cái trình độ hiểu biết Phật pháp bằng cách nào, để rồi họ hướng dẫn cho người đó, chứ họ không bao giờ nói cái điều mà quá khứ, vị lai hay hoặc nói cái điều gì khác.
Nhưng mà ngầm trong đó là họ đã biết người đó có nhân duyên với mình, tức là có đồng quan điểm với mình hay không họ cũng biết. Người đó sẽ đến đây tạo nên những cái nghiệp gì mà ở đây phải do một cái nhân duyên gì mà người đó sẽ đến đây trong bao lâu ngày, rồi sẽ ra đi để trả một cái duyên nghiệp do tiền kiếp nào đó. Cũng có thể phá phách ở trong này, trong năm, bảy ngày, nhưng mà vị Thiền sư chấp nhận, chứ không phải thấy biết như vậy rồi không cho vị đó vào. Để ở đây hoàn toàn trả sạch những cái nghiệp đó.
Ngày xưa Đức Phật, bên Đức Phật còn có Đề Bà Đạt Đa, luôn luôn lúc nào cũng đã kích Phật, cũng phá phách Phật. Thì trong một cái đạo tràng nào, trong một nơi nào thì cũng có những kẻ phá, nhưng mà vị Thiền sư điều biết người đó.
Giả dụ, biết người đó đến đây để cùng ở, để rồi tìm cách để thuốc mình cũng vẫn biết nữa, nhưng vẫn chấp nhận cho ở, chứ không phải là do đó mà sợ mà không cho ở. Đó là đã biết tất cả những cái điều kiện rất sâu sắc như vậy, chứ không phải là không biết. Nhưng đối với Thiền sư thì ai hỏi gì thì đến vấn đề đó đều hoàn toàn không biết, nhưng tâm họ đều biết chứ không phải không biết, nhưng hỏi họ biết, họ không biết.
Thầy Chơn Quang: Bạch Thầy! Ở đây chỗ này là con hỏi là, đó là trường hợp mà không cần nhập định vẫn biết. Còn cái trường hợp mà như Thầy phải nhập định để mà biết tất cả những vị Tu sĩ trên Hy Mã Lạp Sơn, thì khi (44:12 Không có tín hiệu )
(43:47) Trưởng lão: Con đem thân mạng mà cúng dường Phật đi nữa cũng không bao giờ được Định tựu. Định tựu là do một cái công phu của mình thực hiện sự giải thoát này không phải mua bằng một cái sự gọi là phước báo nào được, mà do chính mình phải tự đốt đuốc cho mình. Nhưng cái phước đó nó tạo cho chúng ta được thuận tiện trong hoàn cảnh, ngồi lại yên ổn tu hành, còn nếu không phước thì nay chuyện này, mai chuyện khác.
Bởi vì nghiệp ác, tức là tội nó sẽ đem đến những cái nghiệp mà chúng ta không ngồi được yên tu hành, thì không bao giờ đạt được định. Cho nên vì thế tại sao có giai đoạn thiền Phàm Phu, có giai đoạn thiền Cõi Trời, là những giai đoạn thiền đó để làm gì?
Không phải ngài Khuê Phong Tông Mật phân cấp thiền để làm năm loại thiền, để làm chúng ta có sự thống nhất đâu, mà còn có một cái ý nghĩ của nó là năm giai đoạn. Để biết rằng căn cơ của chúng ta phải rơi trong giai đoạn nào đó mà để thực hiện, mà thực hiện được cái giai đoạn đó thì chúng ta mới có thể nhập định.
Cũng thậm chí có người nói: "Tôi trong cái hoàn cảnh là không cơm ăn, không nhà ở, thiếu đủ thứ hết mà bây giờ tôi muốn tu thiền, tôi muốn ngồi nhập định, tôi muốn tu làm Phật".
Thật sự người đó nói như vậy thì người đó không thấy mình, không biết mình. Vì mình thiếu cơm ăn, áo mặc, tức là mình thiếu Thập thiện, mình thiếu Năm giới cho nên cơm ăn, áo mặc mình không có. Vì vậy mình phải tu ở trong cái đó để cho mình được đầy đủ cơm ăn, áo mặc chứ đâu phải mình cầu để phước báo, để mình hưởng làm Vua, làm Chúa, tiền bạc cho nhiều làm chi. Mình đây đi tìm con đường giải thoát thì được cơm ăn, áo mặc, được nhiều thì giờ rảnh rang thì ngồi lại mới tu hành được. Đó là cái điều của Phật pháp, đó là giai đoạn để chúng ta thực hiện được hoàn cảnh tốt trong phước báo.
(45:23) Thầy Chơn Quang: Bạch Thầy! Có cái trường hợp thế này, như có người, ví dụ như là theo Thầy Viện chủ tu Pháp môn Tri vọng. Thì có những người không biết họ duyên phước thế nào mà khi vọng khởi lên họ rất nhanh chóng biết nó. Nhanh chóng biết nó để nó không theo nó nữa, do đó lắng được tâm mình nó sớm hơn. Còn có những người cũng cố gắng tu đó, nhưng mà rất khó biết, tức là vọng tưởng nó lừa gạt những người này rất nhiều. Vọng tưởng khởi lên là che mất, che mất, họ không thể kịp thấy, nhưng mà còn có người thì lại kịp thấy liền, kịp thấy liền. Bạch Thầy nó có cái duyên phước sai biệt nào không?
Trưởng lão: Cái đó nó không phải duyên phước sai biệt, mà cái người mà chợt lên thấy, chợt lên thấy tức là tĩnh giác. Còn cái người mà chợt hiện lên mà không thấy thì cái sức tĩnh giác không có, tức là mê nhiều, chứ không có gì hết. Mà phá mê thì phải đi vào ở trong Định trụ, người mà chợt hiện lên thấy được liền, tức là người tĩnh giác. Người tĩnh giác thì người này có sức tập trung, có sức chú ý, cho nên hôm nay mới định tỉnh như vậy.
Vì vào con đường thiền định mà nhập được định là cái người mới bắt đầu vào, phải bắt đầu vào trong cái chỗ chú ý của mình. Tức là có chú ý, từ cái chú ý đó nó mới chuyển thành cái tĩnh giác, nếu mà cái chú ý đó còn thiếu mãi mãi thì nó không phải là tĩnh giác. Cho nên cái tĩnh giác là một cái sức tự nhiên ở trong tâm hồn chúng ta nó rất tỉnh. Cho nên ngày nay có người mà Sư đệ vừa hỏi tu pháp Tri vọng…
(46:48) Con đem thân mạng mà cúng dường Phật đi nữa cũng không bao giờ được Định tựu. Định tựu là do một cái công phu của mình thực hiện sự giải thoát này không phải mua bằng một cái sự gọi là phước báo nào được, mà do chính mình phải tự đốt đuốc cho mình. Nhưng cái phước đó nó tạo cho chúng ta được thuận tiện trong hoàn cảnh, ngồi lại yên ổn tu hành, còn nếu không phước thì nay chuyện này, mai chuyện khác.
Bởi vì nghiệp ác, tức là tội nó sẽ đem đến những cái nghiệp mà chúng ta không ngồi được yên tu hành, thì không bao giờ đạt được định. Cho nên vì thế tại sao có giai đoạn thiền Phàm Phu, có giai đoạn thiền Cõi Trời, là những giai đoạn thiền đó để làm gì?
Không phải ngài Khuê Phong Tông Mật phân cấp thiền để làm năm loại thiền, để làm chúng ta có sự thống nhất đâu, mà còn có một cái ý nghĩ của nó là năm giai đoạn. Để biết rằng căn cơ của chúng ta phải rơi trong giai đoạn nào đó mà để thực hiện, mà thực hiện được cái giai đoạn đó thì chúng ta mới có thể nhập định.
Cũng thậm chí có người nói: "Tôi trong cái hoàn cảnh là không cơm ăn, không nhà ở, thiếu đủ thứ hết mà bây giờ tôi muốn tu thiền, tôi muốn ngồi nhập định, tôi muốn tu làm Phật".
Thật sự người đó nói như vậy thì người đó không thấy mình, không biết mình. Vì mình thiếu cơm ăn, áo mặc, tức là mình thiếu Thập thiện, mình thiếu Năm giới cho nên cơm ăn, áo mặc mình không có. Vì vậy mình phải tu ở trong cái đó để cho mình được đầy đủ cơm ăn, áo mặc chứ đâu phải mình cầu để phước báo, để mình hưởng làm Vua, làm Chúa, tiền bạc cho nhiều làm chi. Mình đây đi tìm con đường giải thoát thì được cơm ăn, áo mặc, được nhiều thì giờ rảnh rang thì ngồi lại mới tu hành được. Đó là cái điều của Phật pháp, đó là giai đoạn để chúng ta thực hiện được hoàn cảnh tốt trong phước báo.
Thầy Chơn Quang: Bạch Thầy! Có cái trường hợp thế này, như có người, ví dụ như là theo Thầy Viện chủ tu Pháp môn Tri vọng. Thì có cái người không biết họ duyên phước thế nào mà khi vọng khởi lên họ rất nhanh chóng biết nó. Nhanh chóng biết nó để nó không theo nó nữa, do đó lắng được tâm mình nó sớm hơn. Còn có những người cũng cố gắng tu đó, nhưng mà rất khó biết, tức là vọng tưởng nó lừa gạt những người này rất nhiều. Vọng tưởng khởi lên là che mất, che mất, họ không thể kịp thấy, nhưng mà còn có người thì lại kịp thấy liền, kịp thấy liền. Bạch Thầy nó có cái duyên phước sai biệt nào không?
Trưởng lão: Cái đó nó không phải duyên phước sai biệt, mà cái người mà chợt lên thấy, chợt lên thấy tức là tĩnh giác. Còn cái người mà chợt hiện lên mà không thấy thì cái sức tĩnh giác không có, tức là mê nhiều, chứ không có gì hết. Mà phá mê thì phải đi vào ở trong Định trụ, người mà chợt hiện lên thấy được liền, tức là người tĩnh giác. Người tĩnh giác thì người này có sức tập trung, có sức chú ý, cho nên hôm nay mới được tỉnh như vậy.
Vì vào con đường thiền định mà nhập được định là cái người mới bắt đầu vào, phải bắt đầu vào trong cái chỗ chú ý của mình. Tức là có chú ý, từ cái chú ý đó nó mới chuyển thành cái tĩnh giác, nếu mà cái chú ý đó còn thiếu mãi mãi thì nó không phải là tĩnh giác. Cho nên cái tĩnh giác là một cái sức tự nhiên ở trong tâm hồn chúng ta nó rất tỉnh. Cho nên ngày nay có người mà Sư đệ vừa hỏi tu pháp Tri vọng…
(49:56) Có người ngồi lại có vọng đến thì biết liền tức khắc, có người đến thì mê mệt không biết nó, tuông một đoạn thời gian nào đó rồi mới chợt tỉnh lại, thì người đó sức định yếu, tức là sức chú ý yếu, thì cho nên vì thế tĩnh giác không có. Người kia tuy rằng hiện thời nay, đời nay họ không có tu ở trong cái Định trụ bằng sức chú ý, nhưng mà họ có tĩnh giác, tức là đời trước họ có đã tu Định trụ. Tức là họ có "Niệm Phật nhiếp tâm bất loạn" nào đó hay hoặc là họ có dùng một cái phương pháp chú ý nào đó làm cho tâm của họ bây giờ có được sức tỉnh, chứ không phải tự nhiên mà họ được như vậy, mà cũng không phước báo gì mà có thể làm cho họ được cái tĩnh giác đó, do cái công phu tu mà có nó.
(50:41) Thầy Chơn Quang: Dạ! Con cũng thấy có những người nhiều khi không lanh lợi, không lanh lợi, nhưng mà họ vào Thiền rất là đắc lực. Và có những người thì kiến giải dữ lắm, làm thơ, làm kệ rồi nói văn mà vào thiền vất vả, cứ hôn trầm kéo hoài mà chữa không ra. Có những trường hợp sai biệt đó là vì sao hả Thầy?
Trưởng lão: Vì cái sự hôn trầm, mà vì cái sự mà loạn tưởng nhiều, là người này từ tiền kiếp không có tu Định trụ cho nên nó không có sức tỉnh. Do đó nó bị hôn trầm nhiều là bị mê muội, vọng tưởng nhiều là bị mê muội chứ không phải là gì hết. Vì mê thì cũng bị vọng tưởng, vì mê thì cũng bị hôn trầm cho nên người này không có sức tỉnh. Do đó người này phải bắt đi từ cái chỗ trụ, để rồi họ nương vào chỗ trụ nào đó, để tâm họ có sức chú ý. Sức chú ý đó lâu ngày nó mới chuyển thành được cái sức tĩnh giác, từ tĩnh giác đó họ mới tu cái pháp Biết Vọng Liền Buông, thì chắc chắn là sẽ thành tựu rồi.
(51:54) Thầy Chơn Quang: Dạ! Con muốn hỏi cái điều này. Có những trường hợp, có một người. Bây giờ có trường hợp có những người họ tu hành, thì cái đức hạnh nó thoát ra, càng lúc càng thoát ra. Thì như vậy là có thể đánh giá là họ tiến về thiền định phải không Bạch Thầy ?
Trưởng lão: Cái đức hạnh họ, nếu là một người mà tu Định trụ thì khi mà họ đạt từng định, thì nó sẽ lìa đi những cái dục, tức là nó nếu mà đạt được.
Thí dụ như bây giờ bên Tiểu Thừa mà chúng ta tu được, nhập được Sơ thiền thì nó ly dục được những cái phần nào của trong cái Định trụ đó. Nó ly rất hồn nhiên lắm, chứ không phải do chúng ta tìm cách để mà ly nó, mà tự nhiên chúng ta ở được trong cái trạng thái định đó thì nó ly. Nếu rơi Nhị thiền thì nó ly được những cái dục gì ở trong Nhị thiền, ly rất hồn nhiên. Thậm chí cho nên về sắc dục, thì bản thể của chúng ta sinh ra trong hai chất dâm dục, do đó khi mà chúng ta tu ở trong Định trụ tới cái định nào đó nó cũng tự nhiên nó lìa.
Rồi trong thâm tâm của chúng ta rất là thanh tịnh, mà chúng ta khỏi cần phải nghĩ thế này, thế khác, tìm cách này, cách khác diệt nó. Hay hoặc dùng tới phương pháp tập luyện thân mình để cho nó lìa nó, thật sự không phải vậy. Mà do tâm hồn, cái thân tâm chúng ta tu ở trong định đạt được thì nó sẽ lìa được. Mà rất hồn nhiên làm như chúng ta cũng không còn nhớ, không còn nghĩ đến vấn đề đó. Mà đối trước mặt chúng ta những vấn đề đó, chúng ta thấy rất làm chủ rất hồn nhiên, mà không thấy nó là có cái sự mà lôi cuốn hay hoặc là gợi cảm cho một cái vị Tu sĩ đó được.
Vì thế cho nên chúng ta tu ở trong định thì nó phải đạt được những cái chuyện đó, tức là ly dục. Nhờ có sự ly dục đó nó cũng đưa đến cho con người rất hồn nhiên, hơn là trong khi chúng ta phải thực hiện bằng cái pháp đè nén nó bằng cách này, bằng cách khác, điều đó là điều không tốt.
(53:37) Thầy Chơn Quang: Bạch Thầy, trong một bài kinh Nguyên Thủy Phật có nói điều này. Khi Phật nhìn thấy người nào còn chút hắc pháp, có nghĩa là tánh xấu gì đó, thì Phật nói rằng: "Như Lai biết người này, trong đời này chưa đạt được Niết Bàn. Còn khi Như Lai nhìn một người nào mà thấy họ đã hết hắc pháp, thì Như Lai biết trong đời này họ sẽ đạt được Niết Bàn".
Thì như vậy là trong cái đoạn kinh riêng, trong cái đoạn kinh này nó có nói đến một khía cạnh là một người có đức hạnh từ trước, là nó dễ tiến đạo hơn một người chưa có đức hạnh từ trước, bạch Thầy!
Trưởng lão: À, lẽ tự nhiên là từ trước đã có cái công tu hành, thì từ cái công tu hành đó, nó đã chuyển được những cái ác pháp. Do đó nó còn được cái thiện pháp và cái thiện pháp đó là cái phước báo của cái vị đó. Cho nên khi mà Đức Phật nhìn các vị đó, thì biết các vị đó sắp sửa trong đời nay sẽ quét sạch được, sự giải thoát trong đời nay. Còn nếu mà nó chưa có hiện được cái hạnh đạo đức, thì trong đời nay vị đó có tu thì nó cũng còn một đời hay một kiếp, hai kiếp nữa, chứ không thể nào mà hoàn toàn sạch trong.
Như vậy người tu nhiều nhưng mà cái hành động và cái cử chỉ của cái người tu thường thường nó cũng lộ ra được cái hạnh của nó, chứ không phải là không lộ. Cho nên vì thế mà cái đôi mắt bằng nhục nhãn của chúng sanh, của chúng ta mà nhìn vào một cái vị Tu sĩ hay một cái người Cư sĩ nào đó, chúng ta biết người đó qua cái hành động của họ ở trong cái thiện pháp thì cũng nhận ra họ đã, căn cơ của họ bằng cách đó chứ đâu phải bằng cách khác. Đây là không dùng thần thông, không gì hết nhưng mà nhìn qua.
Cho nên trong các nhà tướng số, người ta cũng vẫn nhìn qua một con người, qua cái tướng mạo, qua đôi mắt, qua mũi miệng, người ta cũng đoán được tâm lý của cái người đó như thế nào. Huống hồ là một người Tu sĩ theo Phật giáo, thì chúng ta đôi mắt rất tinh nhuệ chứ không phải tầm thường, mặc dù là nhục nhãn chứ chưa phải huệ nhãn, nhưng chúng ta cũng vẫn soi được cái người đó như thế nào. Vì cái hạnh nó phải bao giờ, nó cũng phải hiện ra những cái hành vi của cái hạnh. Còn cái ác pháp, thì nó cũng bao giờ nó cũng phải hiện ra những cái hành vi của những cái hành vi ác của nó.
Cho nên một người Tu sĩ mà thiếu oai nghi, mà theo trong giới luật mà Phật đã dạy, thì cái sự nhìn cái oai nghi của vị Tu sĩ đó, biết cái vị Tu sĩ đó có hạnh hay không. Nếu chúng ta có cố gắng cách gì đi nữa, chúng ta cũng không có che giấu được cái hạnh xấu của chúng ta. Mặc dù là chúng ta đi cứ ngó xuống như thế này mãi, nhưng rồi chúng ta cũng không giấu được cái đôi mắt của một Thiện Tri thức, người ta nhìn ở trong cái người đó người ta biết là ác pháp nó vẫn còn chứ chưa có hết.
(56:17)
Thầy Chơn Quang: Bạch Thầy, có một điều mà con rất đau lòng, nhất là cái tình trạng chia rẽ của Phật giáo. Có đôi khi chúng ta không phải chia rẽ vì khác đường lối, khác giáo lý, không phải vì khác màu áo, khác tông phái. Có những người cùng tông phái, cùng giáo lý, nhưng chỉ vì mà, họ cũng là những người mà kiến giải ngất trời, hiểu biết rất nhiều, tu hành cũng rất lâu.
Nhưng mà tại sao khi thấy một người khác tu hành đắc lực hơn, tiến bộ hơn, có uy tín hơn, thành tựu hơn thì họ bị cái tâm đố kỵ che mờ, không tùy hỷ được với cái người thành công kia. Mà vẫn tìm cách soi mói, gán ép cho những lỗi lầm, kiểu như là không bao giờ muốn có người khác được thành công khi mình chưa thành công trước họ.
Coi như sự đố kỵ này làm cho Phật giáo nó bị chia rẽ. Trong Phật giáo thì chia thành các tông phái, trong tông phái chia thành nhiều nhánh. Rồi ngay cả những người đệ tử cùng một ông Thầy, cuối cùng cũng phải chia rẽ với nhau vì những cái sự đố kỵ nó quá đáng như thế này.
Bạch Thầy, tại sao cái trường hợp mà họ cũng là tu lâu, cũng có kiến giải, mà sao vẫn còn bị cái tâm đố kỵ chi phối. Trường hợp này thì phải làm sao để giải quyết được cái trường hợp này, Bạch Thầy.
Trưởng lão: Ngay trong thời của Đức Phật cũng điều kiện đó, chỉ có những bậc mà tu chứng thì mới không có tâm đố kỵ đó. Hầu hết là từ con đường thiền của Trung Hoa, tuy rằng người ta không nói nhiều, nhưng chúng ta cũng có một vài nét nho nhỏ chúng ta cũng vẫn thấy tâm đố kỵ đó. Và tâm đố kỵ đó chứng tỏ rằng, chúng ta cũng không vì đó mà phải lo lắng lắm, nhưng chúng ta hãy cố gắng thực hiện cho mình được giải thoát, điều đó điều quan trọng nhất.
Theo Thầy thiết nghĩ Phật giáo còn là còn sự chứng của mình, mà Phật giáo mất là mất sự chứng của mình. Còn cái tâm đố kỵ của những người phàm phu mà tu chưa chứng, dù kiến giải ngất trời, dù hiểu biết sâu sắc cách gì Phật pháp mà không chứng được, thì cái tâm bỉ thử, cái tâm ganh tị đó vẫn còn không bao giờ mất được.
Do đó cho nên Thầy thấy điều đó cũng rất rõ lắm, nhưng đối với Thầy thì nghĩ cái chuyện lớn, không nghĩ cái chuyện nhỏ. Làm sao cho Phật pháp thống nhất, làm sao cho mọi người đều có sự giải thoát và xã hội con người còn đang đau khổ. Những bậc Thiện Tri thức, những bậc Thiền sư, chúng ta còn phải băng mình lăn lộn trong thế gian, để đem Phật pháp dạy cho những kẻ ăn cắp, những kẻ trộm cắp, những kẻ ăn mày không được Phật pháp soi chiếu.
Chúng ta còn phải sống trong từng giai đoạn của xã hội đau khổ đó, để mà đem Phật pháp giảng dạy. Có đâu mà chúng ta ở trong cái vị trí được sự cung cấp của Phật tử, được sự đàn na lo lắng tất cả mọi tứ sự cho chúng ta, thêm rồi ở đó mà nghĩ điều này, thế kia lợi lạc mà làm gì.
(59:32) Danh lợi thế gian là gì, người ta làm Vua chúa còn chưa có gì, huống hồ là mình làm một ông Thầy ở trong Chùa. Thì theo Thầy thiết nghĩ chỉ lo cho mình giải thoát, các Sư đệ cũng ráng mà lo tu hành giải thoát. Còn mặc người nào, ai có tranh gì thì mình tùy hỷ tha thứ họ, thương yêu họ với một tâm từ bi mà không thấy đó là một cái trở ngại.
Vì chánh bao giờ nó cũng chánh, mà tà thì bao giờ nó cũng tà. Nhưng trong pháp hội nào, trong một thiền viện nào thì vẫn cũng có những số người đó, không thể nào không được, nhưng số người đó họ chưa làm hư hoại Phật pháp đâu, vì Phật pháp còn những Bậc tu chứng.
Chúng ta đọc lại trong Thiền Lâm Bảo Huấn, chúng ta nghe lại những cái gương của các bậc Thiền sư. Ngoài cái hành trạng của các ngài để hướng dẫn các đệ tử, còn những cái đời sống của các ngài, còn những cái lối tổ chức của các ngài mà chúng ta phải học.
Chúng ta học những cái lối lãnh đạo của các ngài rất là, vừa đời sống của các ngài để chúng ta noi cái gương của các ngài mà sửa mình cho đúng là một bậc Thiện Tri thức hướng dẫn mọi người. Và đồng thời còn phải biết những cái sự tổ chức như các ngài, để tạo cho Tùng Lâm được sung mãn, để tạo cho Phật pháp hữu trụ thế gian, đó là chúng ta phải học ở các ngài rất nhiều.
Chúng ta còn thì giờ đâu mà suy tư, lo lắng những cái chuyện mà nho nhỏ đó, nhưng chúng ta không tránh khỏi điều đó, chúng ta cũng biết điều đó không tránh khỏi. Nhưng ráng chúng ta hãy nỗ lực tu hành, để rồi một số Thiền sư ra đời, một số người chứng đạo ra đời, niềm tin thì đã có sẵn cho mọi người chắc chắn từ chính hệ phái Phật giáo. Rồi từ trong nội bộ của chúng ta cũng đều có sự thấy rõ ràng, thì điều đó là một cái điều rất chính đáng.
Cho nên khi mà cô Cảnh về đây nhập Thất thì Thầy Viện chủ cũng nhắn nhủ những đôi lời. Là tuy rằng Cô về nhập Thất thì cũng là một điều rất quan trọng đối với Thiền Tông, đối với con đường Thiền của Thầy Viện chủ. Vì thế đầu tiên cô đến đây xin chỉ nhập Thất tu hành giải thoát cho riêng mình, chứ không nghĩ như hôm nay trái lại Cô thấy rằng cái trọng trách của Cô rất lớn. Do đó Cô cũng phải nỗ lực làm sao cho xứng đáng với lời của Thầy căn dặn, lời của Thầy khuyên nhủ, vì thế mà về đây Thầy sẽ khuyên Cô. Nếu niềm tin của Huynh đệ ở dưới Viên Chiếu đặt trọn vào Cô, Cô hãy nỗ lực tu, Thầy sẽ đem hết về tinh thần, vật chất, Thầy sẽ giúp đỡ cho Cô tận lực để thành tựu được sự giải thoát sanh tử, chừng đó niềm tin Phật pháp sẽ sâu sắc hơn.
Do đó, Thầy trước kia Thầy không dám nghĩ rằng, Thầy sẽ nhận một vài vị ở thiền viện, trong các thiền viện về đây. Vì sợ e nó có những chuyện xảy ra không may cho Thầy Viện chủ, là một bậc Thầy của chúng ta, là một người có công lao chấn hưng lại con đường thiền. Thầy còn tại thế mà có điều gì đó là một cái điều làm cho chúng ta không phải là đệ tử của Ngài.
(01:02:36) Cho nên Thầy chưa dám nhận một vài vị ở các chiếu về đây, sợi e có những sự nói ra, nói vào làm giảm uy tín của Thầy chúng ta, cho nên Thầy không dám. Nhưng cuối cùng thì Thầy Viện chủ hoan hỷ cho về đây, thiệt ra thì một cái niềm phấn khởi và một sự hân hoan rất là sung sướng cho Thầy mà từ lâu Thầy ao ước, hôm nay được thể hiện như thế này.
Thầy nguyện cùng Mười phương Chư Phật, đem hết kinh nghiệm bản thân của mình để phục vụ cho Phật pháp. Và những vị mà được về đây, Thầy đem hết sức lực của mình làm cho Thiền Tông sáng tỏ, làm cho Thầy chúng ta hân hoan vì công lao của Thầy gầy dựng lại Phật giáo Thiền của Dân tộc Việt Nam.
Như vậy hôm nay các Huynh đệ đừng nghĩ, đừng nghĩ, đừng lo, Thầy có nghe Sư đệ gửi thơ về, Thầy có điện về. Thầy biết tâm của Sư đệ rất lo lắng, nhưng không sao đâu Chư Phật gia hộ. Từng cái ngày mà Thầy phải lên xuống đi về Thường Chiếu nhiều lần, những trường hợp xảy ra nằm ở trong đó có những điều kiện rất khó khăn, thế mà đã giải quyết xong. Giải quyết xong với một tinh thần Thầy trò biết nhau, Thầy trò hiểu nhau, tương trợ cho nhau, Thầy Viện chủ đã nói những lời nói, cho nên Thầy không ngao ngán chút nào đối với Huynh đệ của Thầy mà chỉ biết nhìn vào Phật pháp, làm cho Thiền Tông Việt Nam sống lại, điều đó là điều ước muốn của Thầy Viện chủ và cũng là ước muốn của Thầy.
Hôm nay Thầy còn ở lại không nhập diệt là vì ơn của Thầy Viện chủ, là vì lời yêu cầu của Thầy Viện chủ. Cho nên hôm nay Thầy làm tất cả những gì là làm cho Thầy mình, chứ Thầy không làm cho ai, làm cho một người nào hết. Cho nên Thầy thậm chí rằng những vị ở nơi khác về đây tu hành, Thầy không thể nào lấy những vị đó để sau này điều khiển các Tu viện của Thầy mình. Mà Thầy chỉ muốn nhận những vị Tu sĩ trong các Thiền viện của Thầy, để những vị đó được khả năng đến mức để lãnh đạo con đường thiền của Phật giáo, của do Thầy mình chấn hưng lại.
(01:04:38) Thầy Chơn Quang: Nãy giờ Thầy nói tụi con rất là cảm động. Các Huynh đệ của con, thật ra khi tìm đến Thiền Viện Thường Chiếu, có những người thì đã đến Thầy Viện chủ từ ban đầu từ bữa Quy y. Cũng có những người đã có Thầy Tổ rồi mới tìm đến, thì ai cũng có cái khát khao của việc tu hành. Nhưng qua cái sự hướng dẫn trực tiếp của Thầy Viện chủ, thì ngó tới tấm gương trong đời sống của Thầy Viện chủ, thì các Huynh đệ họ đều tăng trưởng được cái thiện pháp hơn, đều có sự tinh tấn hơn. Tuy nhiên trong hiện tại, vì cái nhìn xa xôi của Thầy Viện chủ, cho nên Thầy bắt phải học trước. Và Thầy nhìn thấy những cái hay, cái dở, cái lợi hại của toàn thể Phật giáo thế nào, nên Thầy đặt cái vấn đề phải học trước, chứ lúc này Thầy chưa có vội cho tụi con tu gắt. Nhưng mà tuy nhiên tụi con cũng biết ý của Thầy là tương lai sẽ tạo điều kiện cho tụi con về đây tu. Còn nếu mà ai có duyên lên đây có lẽ là Thầy cũng hoan hỷ mà cho, như vậy tụi con cũng mừng. Thì có cơ hội mà có nhiều người được thành tựu, thì Phật pháp được vững bền hơn.
Con lại hỏi riêng cái vấn đề này nữa. Trong cái lúc này thì thiền các nơi cũng nhiều, mỗi ông thì nói thiền mỗi cách, cũng rất là nhiều Thiền sư ra đời.
Bạch Thầy! Lúc này cũng có nhiều cái phái thiền, đi đâu cũng nghe nói thiền đầy trời, đầy đất hết trơn. Rồi con cũng có gặp vài người họ tu thiền, họ cũng tin cái này, tin cái kia. Nghe qua cái lời của họ thì mình thấy họ không sai, cứ như là họ đã nhận được rồi, có được cái sức tỉnh giác hồn nhiên đó rồi, để từ đó sống mà có thể tiến lên phía ngoải cho vuông tròn đạo hạnh, thì mình thấy nó hoan hỷ quá Thầy. Thoạt nhiên gặp được những người đó con mừng, con nghĩ rằng là Tam Bảo không câu phụ, còn có những con người mà có được niềm tin vững chắc như tâm mình như thế này để mà tiến tu.
Nhưng qua một thời gian dài thì, thì nói nó rất là phũ phàng, con cũng thất vọng ê chề. Họ đầu tiên họ có những cái kiến giải là thấy đúng như vậy, nhưng rồi càng ngày thì cái đức hạnh nó càng đổ vỡ. Họ không đủ Chánh kiến và xem thường Giới luật hoặc là thay vì tinh tấn họ càng lúc càng trở nên giải đãi, thay vì càng lúc càng khiêm hạ, họ càng trở nên tự mãn. Cái sức tĩnh giác của họ, họ không dùng của nó để mà dựng lại cái đức hạnh của mình, tăng trưởng lại cái đức hạnh của mình. Trái lại họ dùng cái sức tĩnh giác họ có được, để tăng trưởng kiến giải, để trang điểm cái bản ngã để tranh hơn, tranh thua với nơi này, nơi kia, nên cái điều này con lấy làm lạ không biết tại sao ?
Cũng cái sức tĩnh giác đó, mà được sự hướng dẫn chính đáng của Thầy Viện chủ, thì những Huynh đệ kia dùng sức tĩnh giác để tiến sâu vào đức hạnh, họ càng lúc càng vững chắc, không có bị thiên lệch. Còn cũng cái sức tĩnh giác đó, nhưng mà làm cho người kia họ tăng trưởng ngã kiến, điều rất là lạ, mong Thầy từ bi chỉ dạy.
Trưởng lão: Thật sự thì nó cũng không lạ gì, nếu mà các Huynh đệ không được ở gần Thầy Viện chủ, thì cái sự mà kiến giải của các Huynh đệ thông suốt tuyệt đối như vậy thì vẫn phải là phá giới, vẫn phá cái hạnh tu hành của mình. Trái lại các Huynh đệ được nương vào Thầy Viện chủ, cho nên từng đó các Huynh đệ đã nhận ra được và cũng cũng từng đó các Huynh đệ thấy càng ngày càng tiến sâu trong đạo, là vì đang sống dưới chân Thầy cho nên các Huynh đệ không xa được cái hạnh của Thầy, vì thế mà các huynh đệ sẽ thấy mình.
(01:08:00) Có thể đối với cái người khác ở ngoài đó, họ nói được thao thao bất tuyệt, họ hiểu biết được như vậy, cũng qua những kiến giải của Thầy mình, qua những kinh sách của Thầy mình, đã làm cho họ hiểu. Nhưng họ hiểu với tính cách để mà hiểu, chứ không phải hiểu để mà tu. Họ nói được như vậy rồi, từ đó khi cái ngã của họ nó lớn lên, nó lớn dần lên thì cái đức hạnh của họ sẽ tiêu ma và tiêu ma mãi. Do đó thì hầu như người ta nói được mà người ta không sống được.
Thì nó cũng không lạ gì, nếu mà trong con đường thiền ngày xưa các bậc Thiền sư, họ cũng kiến, họ cũng giảng ngộ ra được như Thầy mình, nhưng tại sao họ không giảng? Là vì họ biết được cái bệnh của chúng sanh như vậy đó, nếu giảng ra, giải ra như vậy. Tại sao trong từ Bồ Đề Đạt Ma, cho đến Lâm Tế thì các Thiền sư có giải cái tánh đó ra như vậy, giải ngộ ra như vậy. Nhưng kèm trong đó người ta còn dùng những cái ngôn ngữ, phi ngôn ngữ, tức là ngôn ngữ Bát nhã.
Trái lại trong thời sau, người ta lại có những cái lối kiến giải và học hỏi bằng cách ngã như vậy, do đó người ta lại không dùng những cái lối giảng giải nữa. Mà người ta bắt đầu, người ta khoét vào cái Nghi tình, để người ta chết đứng ở trong cái nghi mà thôi. Đó là cũng là cái bệnh của thế gian, bệnh của thời đại.
Thời đại chúng ta được kinh điển của Thầy Viện chủ, được những lời giảng dạy thu băng của Thầy quá nhiều, người ta hiểu được, người ta biết được. Nhưng người ta biết ở trong ngôn ngữ, cho nên vì đó mà giới luật người ta phá đi, cho nên hạnh nguyện của người ta bỏ đi, người ta không cần thiết. Người ta tưởng là người ta sẽ sống được với cái đó, nhưng sự thật ra người ta không sống được. Do đó bắt đầu chúng ta nghe nói chúng ta thấy cũng mừng, nhưng cuối cùng chúng ta nhìn, thì chúng ta sẽ thấy được cái hành vi của các vị đó hoàn toàn không có gì hết, cũng còn là người phàm phu mà thôi.
Cho nên các Sư đệ, cũng không nên vì đó mà lo lắng lắm, vì bên các Sư đệ còn có những bậc đang âm thầm ở trong Cốc, ở trong Thất để nỗ lực, quyết tâm làm chủ sanh tử. Chừng nào mà cái người đó họ có những hành động, làm chủ được sanh tử thì không nói về đức khiêm hạ vẫn thấy họ là khiêm hạ. Không nói về hạnh từ bi, họ vẫn là hạnh từ bi, không nói về thống nhất, đoàn kết họ vẫn là thống nhất, đoàn kết. Rõ ràng trong hành động của họ luôn luôn lúc nào cũng sống trong lục lạc, luôn luôn sống lúc nào cũng ở trong tình đoàn kết Phật pháp, chớ không có bao giờ chia rẽ phá hoại Tăng Già.
Còn ở đây họ kiến giải nhiều, họ sẽ chia rẽ, họ nói người vầy, kẻ khác, họ tìm cách này, cách khác làm để cho mình nổi bật lên bằng cách này, bằng cách kia để hạ người khác xuống. Thậm chí ngay cả Thầy Viện chủ mình cũng vẫn bị điều đó, thậm chí họ dùng cả những lời ly gián làm cho cả Thầy và Thầy Viện chủ, có khi cũng có thể chia rẽ với nhau nữa, chứ chưa nói.
(01:11:00) Lời Thầy không nói như vậy họ cũng dám bịa ra nói "Ờ như vậy". Để cho có những lời xúc chạm Thầy Viện chủ đối với Thầy như thế này, thế khác. May là Thầy và Thầy Viện chủ ý thức được điều này không khéo sẽ bị sự lừa bịp của kẻ khác, làm cho Thầy trò cùng tan rã nữa chứ chưa nói gì. Đó là những trường hợp đã xảy ra mà đã có nhiều người nói như thế này, thế khác. Thậm chí như Thầy cũng được biết như ở Thủ Đức, một vài vị nào đó họ dám bịa ra điều này, thế khác nói rằng "Thầy nói Thầy Viện chủ cách này, cách kia. Hoặc là Thầy Viện chủ nói cách này, cách kia". Đó là những cái ly gián bằng các ngôn ngữ của họ.
Để làm gì ? Họ làm như vậy để thấy được Phật pháp chia rẽ thì họ lại là cái người mà đứng ở giữa này, họ sẽ nói thiền của họ là hay, là dở để ca tụng họ. Thì trong thời Đức Phật chắc cũng không có thể nào mà không xảy ra điều này, huống hồ là trong thời của chúng ta. Cho nên chúng ta biết cảnh giác, chúng ta biết hiểu được thì chúng ta hãy đoàn kết, hãy lo lắng, hãy xây dựng lại một Phật giáo thống nhất hoàn toàn, thì điều đó là điều mong muốn của Thầy Viện chủ, cũng như của Thầy. Và Thầy tin rằng các Sư đệ ở Thường Chiếu, các tâm niệm đó chắc cũng không khác gì Thầy và Thầy Viện chủ và mọi người đâu.
(01:12:23) Thầy Chơn Quang: Bạch Thầy đúng như vậy đó, có những cái loại thiền mà, khi mà họ kiểu như là một pháp môn của họ rồi, họ cực lực công kích tất cả những cái, kể cả những giáo lý của chính Đức Phật nói, của hệ phát triển Đại Thừa, của chư Tổ, của Thầy Viện chủ, của đủ thứ hết, họ chỉ nói một mình họ thôi, phỉ báng tất cả hết. Con thấy thiệt mình nói là nói Phật pháp mà không khác gì không hoan hỷ, đây là điều cũng thật sự là đáng trách.
Còn đây là có một điểm trong cái sự tu hành con xin hỏi Thầy. Có một số nơi họ tu thiền, thì nếu mà không được Chân sư hướng dẫn chân chính trong lúc mà họ lắng được tâm, có những xuất hiện như thần thông. Những thần thông nho nhỏ, rồi sau này luyện thần thông lớn lớn, thì nghe cái thần thông này, bắt đầu có những cái tà kiến của ngoại đạo, con nghĩ nó xuất hiện luôn lúc đó. Như vậy Thầy cảnh giác mà Thầy dạy cho tụi con trước, nếu sau này và trong tất cả những người tu thiền về sau, có những cái bắt đầu có những thần thông, nhỏ thế nào, lớn thế nào, mình phải dứt khoát thế nào, tránh thế nào, để có thể không có bị rơi vào cái sự mê hoặc của nó, Bạch Thầy.
Trưởng lão: Người tu Thiền mà nhập được Định trụ, đầu tiên thì có vị khai mở được Nhãn căn của mình, có vị khai mở được Nhĩ căn của mình.
Nhĩ căn khi khai mở, thì nghe tiếng động từ côn trùng đi trên mặt đất đều nghe rõ cả và nghe cả tiếng nói xa, rất trong một khoảng không gian nào đó rất xa, chúng ta cũng có thể nghe được.
Còn Nhãn căn, thì bắt đầu khai mở được nó thì bắt đầu ngay từ lúc nó bừng sáng lên trong lúc tỉnh, thì đôi mắt rất sáng. Sáng mãi, sáng mãi cho đến khi chúng ta nhìn, ngồi đây mà tất cả sông, núi rừng, cây cỏ cách vách mà chúng ta vẫn thấy được ở bên ngoài vạn hữu, thì do đó, đó là mình khai mở, những cái đó là gọi là thần thông.
Nhưng chúng ta đừng ngồi đó mà chiêm ngưỡng những cái thấy xa xôi, làm cho chúng ta phấn khởi được cái niềm tu hành của mình gọi là chứng đạo đó, thì chúng ta sẽ mất đi Định trụ. Do đó chúng ta phải luôn luôn, dù thấy thì chúng ta nhắm mắt lại không cần thấy nữa, dù nghe như vậy chúng ta không cần nghe nó nữa. Chứ nó luôn luôn nó làm chúng ta có cái phấn khởi để nghe, cho nên chúng ta mất đi Định. Chúng ta phải ở trong pháp môn mình đang tu, ôm chặt pháp môn đang tu dù tất cả những thần thông hiện ra. Vì khi mà nó hiện ra là nó làm cho chúng ta say mê trong đó.
Ví dụ như bây giờ nó khai mở được cái Nhĩ căn. Bước đầu chúng ta nghe một cái âm thanh văng vẳng xa xôi nào đó, khi mà cái âm thanh đó chúng ta cứ theo dõi và nghe, nghe, nghe mãi, nghe mãi khi âm thanh đó càng ngày càng xa, xa nghe tiếng luôn luôn xa lắc. Nhưng mà cuối cùng chúng ta nghe một thời gian nào đó, thì bắt đầu chúng ta nghe rất rõ tiếng bước chân của loài côn trùng đi trên mặt đất. Rồi chúng ta lại, khi mà nghe được tiếng côn trùng đi trên mặt đất như vậy, thì chúng ta lại nghe được một cái tiếng của những người xa, rất xa khoảng độ chừng một ngàn, hai ngàn thước nói. Khi mà cái tâm chúng ta trú vào trong một, trụ vào trong cái nghe đó, thì bắt đầu khởi một cái niệm nào đó.
(01:15:26) Ví dụ như bây giờ Thầy có một người anh ở Thành phố, mà Thầy đang chú tâm ở trong Định, ở trong cái chỗ nghe đó thì bắt đầu Thầy khởi niệm về một người anh, nhớ người anh mình. Thì đây bắt đầu mình nghe được anh mình nói chuyện với các cháu mình như thế nào, nghe rõ ràng. Hay hoặc là ở Thành phố anh mình với chị mình đánh lộn như thế nào, ở đây mình nghe hết. Đó là những cái mà nó khởi sự những cái thần thông.
Và như vậy chúng ta sẽ thấy thích thú, chúng ta cứ khởi niệm để mà trong cái nghe đó mà nghe. Cho nên lúc một thời gian chúng ta sẽ mất Định và mất Định thì chúng ta cũng sẽ mất luôn cái thần thông đó. Tiếp tục chúng ta không nên nghe trong cái đó, mà chúng ta hãy nghe lại cái pháp môn của mình, hãy giữ cái Định ở trong pháp môn của mình. Trừ ra có một trạng thái tâm hồn rất lạc, an lạc, khinh an thì chúng ta đừng mất cái trạng thái đó mà thôi. Còn tất cả những trạng thái khác có hiện ra như thế nào, có phóng hào quang sáng trong khắp nhà cũng đều bỏ hết, tất cả những cái đó đều bỏ xuống hết.
Những khi chúng ta có những cái lạ lùng, nếu chúng ta đi sâu vào trong Định, khi mà nhập vào lìa trên thân tứ đại, thì chúng ta sẽ thấy nhiều cõi vi diệu vô cùng, làm chúng ta quên đi ở trong một cái pháp đang tu.
Ví dụ như bây giờ Thầy lìa thân tứ đại, thấy như mình đi ở trong một cái cõi ngàn cây đẹp đẽ, có nhiều vị tu hành, có nhiều Đức Phật, thậm chí Đức Phật Di Lặc chúng ta cũng thấy. Mà thậm chí tất cả điều kiện làm cho như chúng ta được chu du ở trên cái cõi giới của chư Phật, cả thậm chí địa ngục chúng ta cũng đi đến được. Như vậy nếu mà chúng ta thích thú, chúng ta cứ nhập vào định rồi chúng ta cứ đi chu du như vậy, thì ngàn năm sau chúng ta không giải thoát được.
Tại sao? Tại vì chúng ta nói như là mình xuất hồn mình đi, sự thật không phải. Đó là cảnh giác do tư tưởng của chúng ta tạo dựng để dụ chúng ta lìa khỏi cái cảnh Định trụ của chúng ta. Khi mà chúng ta lìa hơi thở, tức là lìa thân tứ đại, thì chúng ta hoàn toàn ở trong cái cảnh giới vô cùng rất là đẹp đẽ, nếu mà chúng ta say mê trong đó, thì chúng ta sẽ chết luôn ở trong đó mà không bao giờ ra khỏi.
Như vậy chúng ta phải ôm ngay cái pháp chúng ta đang tu, đúng là chúng ta phải ở trong khinh an thay vì chúng ta thấy mình lại đi chu du trong cảnh giới như vậy. Rồi cứ đi mãi, đi mãi như vậy để rồi chúng ta không bao giờ đạt được cái trạng thái sâu mầu của khinh an.
Như vậy nói chung tất cả những cái gì mà chúng ta tu, là chúng ta phải giữ cái pháp của chúng ta, từng cái pháp một cho đến khi thay đổi trạng thái tâm hồn hoàn toàn ở trong một trạng thái nào đó. Cho được một vị có kinh nghiệm, người ta cho rằng mình phải nhập ở trong trạng thái đó. Nếu không được một vị có kinh nghiệm, thì mình không nên nhập dù bất cứ trạng thái nào ngoài cái pháp môn của mình.
Nếu ví dụ như bây giờ mình đang ở trong hơi thở, hay hoặc là đang ở trong tánh biết, bỗng nhiên cái tánh biết đó nó mất đi, mà nó thay đổi vào một cái gì đó nó quá lạ lùng. Chúng ta phải mau đến thưa với Thầy, để xin Thầy được trắc nghiệm điều đó có đúng hay sai, được ôm cái đó tu, chứ để lìa cái tánh biết này. Bây giờ biết không vọng tưởng, nhưng kéo dài một thời gian cái biết này nó sẽ tiêu hao đi, nó thay thế vào trong một cái khác.
Và cái khác đó, thì nếu một người có kinh nghiệm đi qua người ta biết, cho nên người ta mới dạy cho mình phải ôm cái đó mà tu tiếp, bỏ cái biết này thì sẽ ôm cái đó. Còn trái lại nếu không có kinh nghiệm, thì người ta không biết cái đó là cái gì nữa. Người ta chỉ còn biết với cái biết của người ta hiện người ta dạy mình, rồi bắt đầu cái khác nữa người ta không biết. Do đó mình không bước tới nữa rồi mình cứ dậm chân tại chỗ, mình tu hoài không đạt.
(01:18:58) Thay vì mình phải ôm một cái trạng thái mới, mà do công phu giữ cái tâm của mình để rồi bây giờ nó có cái trạng thái mới đó, mà biết cái trạng thái đó đúng hay sai. Nếu đúng thì đã có người đã đi trước rồi, mà sai thì chưa có ai đi, cho nên chúng ta chưa dám ôm nó mà tu.
Vì thế cho nên trong cái bước đường tu mà nhập được Định trụ, là một điều phải có Thiện Tri thức. Không có Thiện Tri thức, nhiều cảnh giới ma hiện ra làm cho chúng ta lầm lạc, để rồi chúng ta tưởng đó là Chánh pháp ôm nó đi vào, nhưng cuối cùng chúng ta lại chơi vơi trong những cái ảo giác của tư tưởng của mình.
Thầy nói ở đây là khi mà còn ở trong cái. Thí dụ như phương pháp biết vọng liền buông, không vọng tưởng, không hôn trầm, ngồi tĩnh giác suốt ngày này qua ngày khác. Thì chúng ta coi chừng sẽ hiện ra một trạng thái mới không phải ở cái đó hoài. Vì cái tánh biết này là cái tánh biết của thức trong khi đã không còn cái sự nuôi dưỡng của cái thức, thì tức là không có tư niệm lăng xăng nghĩ gì nữa, thì cái thức nó sẽ lần mòn, lần mòn nó chuyển đi và nó chuyển đi trong một khoảng thời gian nào đó, thì nó sẽ mất. Do đó chúng ta trở thành một cái mới, con người mới, nếu không có được một Thiện Tri thức ấn chứng cho một trạng thái mới để chúng ta tiếp tục tu, thì chúng ta không nên lìa cái pháp, mà không nên lìa cái pháp thì cứ đứng một chỗ, không thể tiến.
Vì thế cho nên tu pháp nào cũng phải nhờ Thiện Tri thức hướng dẫn, chứ không thể nào mà chúng ta tự tu đến chứng đạo được. Trừ ra chúng ta đủ cái nhân duyên, căn duyên như thế nào, trong một cái thời mạt pháp nào đó, một vị Bồ tát phải thể hiện. Cho nên các ngài phải thể hiện sự tu hành của mình mà không Thầy, không bạn hay hoặc là không ai mà nương tựa, nhưng mà họ đã là những bậc Bồ tát đã tu nhiều đời. Cho nên hạnh đời nay họ thị hiện, để họ lấy cái đó làm kinh nghiệm và làm niềm tin cho mọi người tu hành. Còn nếu không thì chắc chắn chúng ta sẽ bị lạc nẽo trong đường ma mà không bao giờ thoát ra đi đến chỗ giải thoát.
(01:20:56) Thầy Chơn Quang: Trường hợp đó, khi xưa cũng Phật, cũng gọi là Bích Chi Phật cũng đã nói.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Hôm nay tụi con có duyên lành đến đây được thưa hỏi Thầy những cái đạo lý mà tụi con đã gặp uẩn khúc. Thầy đã từ bi vì chúng con giảng rõ mọi điều, tụi con rất lấy làm cảm kích và biết ơn Thầy. Những cái điều Thầy nói hôm nay, nó không phải là một cái điều mà Thầy làm trên sự dễ dàng, mà chính Thầy đã vất vả từ bao nhiêu năm tháng. Cô độc trong cái Thất lắng, ăn uống thì kham khổ, trong cảnh là không người sách tấn, chỉ nắm một pháp tu vỏn vẹn từ ban đầu được học ba tháng từ Thầy Viện chủ. Mà Thầy đã dày công, vượt qua bao nhiêu là khó khăn, bao nhiêu là trở ngại, tránh hết những cái cảnh giới lạ lùng, đi thẳng một đường để đi đến nơi đến chốn. Thầy đã, đã đến tận cùng của cái chết của tâm, rồi để rồi Thầy sống lại một đời sống mới, mà từ nơi cái đời sống này Thầy đã làm niềm tin cho những người mai sau này.
Hôm nay tụi con được học hỏi những cái lời của Thầy, phải biết rằng những lời này Thầy không phải trả nó một cái giá rẻ, mà Thầy đã đổi lấy cả cuộc sống của mình, là một mất, một còn mới có được như ngày hôm nay. Cho nên tụi con cũng nguyện, hôm nay được nghe lời giảng dạy của Thầy, tụi con cũng biết rằng nó không phải rẻ, tụi con cũng phải hết sức mà cố gắng tinh tấn, tạo điều kiện có thể được để một hôm nào tụi con noi theo cái gương của Thầy, dồn hết sức lực của mình tiến tu cho đến ngày viên mãn, ngày thật sự giải thoát.
Và cái việc thành tựu của cá nhân của Thầy mà Thầy đã dạy, cũng như là tụi con noi theo Thầy, thì cái việc tụi con hướng đến sự giải thoát cho mình, cũng không phải là vì cái cá nhân của riêng mình, mà chỉ nghĩ đến cái tất cả chúng sinh đang đau khổ. Cái nỗi khổ của sinh, lão, bệnh, tử không có chấm dứt được. Tình trạng Phật pháp bị nhiều tà kiến lọt vào, rồi tình trạng chia rẽ chống bán giữa các tông phái, rồi trước những cái chúng sinh như người cần phải được hóa độ.
Mà vì những cái sự kiện như vậy mà tụi con phải cố gắng cho chính mình, không phải là tụi con tu chỉ để vì tụi con, đây là một bài học mà tụi con học được như Thầy. Bởi vì Thầy khi Thầy tu Thầy đã có cái tâm nguyện là "Sở dĩ Phật Pháp còn vì còn có người tu chứng". Mà Thầy đã, cái câu đó đã thúc đẩy Thầy đưa đến ngày thành tựu, thì tụi con cũng phải vậy. Tụi con mai sau này phải noi gương Thầy để tu, tụi con cũng phải được thúc đẩy bởi một cái đại nguyện chung của Phật giáo, chứ không phải bởi cái tâm vị kỷ của mình.
Thầy Chơn Quang: Con thưa Thầy, những lời Thầy dạy tụi con nguyện khắc ghi trong lòng, để cố gắng tinh tấn mà tu cho trọn. Tụi con cũng kính chúc Thầy, sức khoẻ được dồi dào, pháp thể khinh an, đạo tràng được hưng thịnh, để mãi mãi cho Phật giáo được sáng tỏ giữa thế gian, con xin kính chào Thầy.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(01:24:05) Thầy tên gọi là Lê Ngọc An, sinh năm 1935 tại quê Mẹ là Hóc Môn.
Mẹ Thầy cũng là Phật tử tên Nguyễn Thị Nhung pháp danh Diệu Đức.
Cha Thầy là Thầy tu phái Lục Hoà tên Lê Văn Huấn, pháp danh Thiện Tài.
Ông cố Thầy tên thật là Trần Quang Sáng dòng dõi với tướng Trần Quang Diệu triều Tây Sơn.
Khi Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi, ông cùng người em gái trốn vào Nam và đổi thành họ Lê, xong giả nhà sư để che mắt triều đình. Có tài xem bói, bấm độn rất giỏi nên quần chúng thán phục, ông lấy bốn vợ. Ông nội Thầy và các anh em cũng nối nghiệp ông cố nhưng có đi học thêm kinh kệ, tụng táng.
Ông thân Thầy trốn lên núi Bà Đen tu, chứng kiến một vị chứng đạo đứng mà tịch nên khắc khoải bỏ chùa trốn đến vùng đất lạ tu chung với mấy ông Thầy Bùa. Một ông Thầy Bùa về báo cho ông nội lên bắt ông thân Thầy về ép lấy vợ, nhưng lòng ông vẫn còn ray rứt về chuyện tu hành cho đến khi nhắm mắt. Ông hạ sinh sáu người con, Thầy là người thứ ba. Khi sinh ra Thầy, ông bác và ông thân xem số nói rằng: "Thầy đã ba đời làm Hoà thượng, nên định trước cho Thầy đi tu"
Lên 8 tuổi Thầy xuất gia với Hòa thượng Huệ Tánh ở chùa Phước Lưu. Vào học với Hòa thượng đến năm 25 tuổi mới rời ra đi. Thời gian học Tiểu học và Trung học Thầy là học sinh xuất sắc, năm nào cũng được lãnh thưởng. Đến năm 25 tuổi Thầy mới học xong Trung học đệ nhất cấp, do đây ta biết Thầy đi học phổ thông rất muộn. Rồi 25 tuổi Thầy nhờ thầy Quảng Chánh đưa về Ấn Quang để học hết tú tài. Tại đây Hòa thượng Thiện Hòa đặc biệt thương mến Thầy, gửi Thầy ở tại chùa Giác Ngộ để yên tu, khỏi phải tham gia các cuộc đấu tranh biểu tình ồn náo.
Xong tú tài Thầy vừa ghi tên học ở Đại học Vạn Hạnh, vừa đi dạy thêm pháp văn tại Trường Bồ Đề ở Chợ Lớn, để tự túc kiếm sống và gửi tiền về nuôi ông bà thân ở tại chùa Am quê nhà, khi mà chiến tranh đã tàn phá làm chùa nhà đổ nát. Thầy xong chương trình cử nhân Phật khoa Đại học Vạn Hạnh năm 1969. Là cũng năm đó Thầy có đi làm Hiệu trưởng Trường Trung Học Bồ Đề ở Định Tường Mỹ Tho.
Hòa Thượng Thiện Hòa định gửi Thầy đi du học Nhật để lấy Tiến sĩ, nhưng Thầy mang nỗi đau khổ mất cha, cha Thầy mất vào năm đó. Nỗi đau khổ đó Thầy ray rứt không biết cha mình bỏ thân này sanh về nơi nào, lại thêm câu chuyện vị Tu sĩ đứng tịch mà ông thân thường kể lại, khiến Thầy chỉ muốn tu cho chứng đạo không còn muốn gì khác nữa.
Ngay thời điểm đó thì có tin Thượng tọa Thanh Từ mở Thiền viện dạy tu thiền, Hòa thượng viết thư giới thiệu Thầy ra Chơn Không xin nhập viện. Lên núi yết kiến Thượng tọa. Thầy chưa trình thư của Hòa thượng ra vội, chỉ tự mình xin lấy mà cũng được Thượng tọa chấp nhận, sau đó Thầy mới trình thư của Hòa thượng, mà điều này làm Thượng tọa hài lòng. Từ khi được chỉ dạy pháp tu Tri vọng, với niềm tin vững chắc rằng hết vọng tưởng là thành công, Thầy nỗ lực tinh tấn không phút giây lơi lỏng, đến nỗi Thượng tọa viện chủ phải khen là người đại tinh tấn.
Nhưng sau 3 tháng ít ỏi bị thầy Thiện Ấn, Thiện Đăng kích động Thầy từ giã ra đi lên Hòn Sơn Hà Tiên ngồi tu một năm. Thấy bất tiện Thầy trở về Trảng Bàng nhờ mẹ và em nuôi để nhập thất tu hành. Thời gian này Thầy ăn uống rất thiếu thốn, khoai củ nhiều hơn cơm và vì thiếu chất bổ gan bắt đầu suy thoái.
Trong những lúc cam go nhất thì câu nói của Thượng tọa Viện chủ lại vang lên sách tấn Thầy "Phật pháp sở dĩ còn tồn tại vì còn có người tu chứng". Thầy miệt mài âm thầm tu mãi, tóc râu quên cạo, áo quần mục rách. Ngồi trong chiếc am nhỏ chung với bức tượng Phật lớn treo trên chiếc bệ thấp. Không bồ đoàn, tọa cụ, chỉ trải chiếc túi ni lông dưới đất mà thôi, xung quanh vùng bàn tán gọi Thầy là "Ông Thầy điên".
(01:27:18) Thầy vượt qua nhiều cảnh giới tâm linh, bỏ lại những thần thông giữa đường vào sâu trong những Thiền Định. Có những khi Thầy nhập định suốt bảy ngày, gặp gỡ cảm ứng với những người cùng trạng thái định với Thầy. Thầy vượt lên mãi cho đến khi Thầy gặp được, cảm ứng được với những vị Tu sĩ trên núi Hy Mã Lạp Sơn, họ cũng là những người đến được cái định của đầu mút, thấy trong mười phương ba đời nằm chung một chỗ rất là vi diệu như Niết Bàn. Tuy nhiên Thầy không kẹt ngang đó.
Năm 1980 thì Thầy nhảy khỏi đầu xào về đến tận nguồn, tận cội. Thầy nhớ lại vô lượng kiếp quá khứ với từng chi tiết nhỏ. Tìm thấy được những người thân đã sinh về nơi đâu. Từ đó tam giới tử sinh không còn ràng buộc được nữa, đại bi thắng chí đã viên mãn.
Cuối năm 80 mẹ Thầy mất. Sang năm 1981 Thầy về núi trình Thượng Tọa Viện chủ qua hai câu hỏi, hai câu đáp được Thượng Tọa ấn chứng. Huynh đệ gặp lại Thầy lúc này rất là bi cảm vì hình dáng tiều tụy, áo quần rách rưới, thân thể gầy ốm vàng vọt của Thầy.
Đến năm 1983 thì Thượng Tọa Viện chủ mới tuyên bố về Thầy cho mọi người biết. Sau này Thầy xem lại kinh điển liền biết rõ những bản kinh đó đã được dịch sai hay đúng. Thầy cũng xem qua các tác phẩm nổi tiếng đều biết rõ ai sẽ là học giả, ai mới thật là hành giả có thể đắc. Thầy có dịch lại toàn bộ kinh Hoa Nghiêm và kinh Niết Bàn và riêng một số luận giải về Thiền Tông.
Bây giờ Thầy vẫn ngụ nơi Chùa Am quê nhà thuộc ấp Gia Lâm xã Gia Lộc huyện Trảng Bàng tỉnh Tây Ninh với cô em út, người đã (cách xưa ) nuôi Thầy từ bấy lâu. Bây giờ đã có nhiều người tới lui để tham học với Thầy, Thầy dùng nhiều phương tiện để tiếp người, có khi dùng phương pháp sổ tức, có khi dùng phương pháp quán, có khi dùng hoạt ngữ để khai thị.
Ai đến với Thầy cũng đều ra về với sự phấn khởi tinh tấn và niềm tin mạnh mẽ. Những kẻ lanh lợi, tự mãn đến nạn vấn, thì một hai câu của Thầy họ liền ngậm miệng mà cút mình. Thầy cũng chỉnh đốn lại Pháp môn niệm Phật cho những người có duyên với phương pháp này. Tuy nhiên Thầy đã thấy trước có những sự đố kỵ và công kích đối với Thầy, nhưng điều này không làm Thầy bận lòng. Thầy chỉ mong mỏi có những người thực tu thực chứng để đem lại sự đoàn kết và trường tồn trong Phật pháp. (01:29:18)
HẾT BĂNG
THẦY DẠY MINH ĐIỀN-MỸ CHÂU - PHẦN 1
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời lượng: [01:29:25]
Phật tử Minh Điền: Bạch thầy, Mỹ Châu con kính bạch Trưởng lão từ bi chỉ dạy cho con thiện xảo cách nào để tập trung cao độ sự tỉnh giác?
Trưởng lão: Cái sự tập trung của đạo Phật, là cách thức thiện xảo để dẫn cái tâm thôi, chứ không phải mình tập trung vào cái đối tượng để mà ức chế tâm, cho nên cái đó gọi là thiện xảo. Còn cái mình tập mà trung ức chế thí dụ như mình nương vào hơi thở, mình cố gắng mình tập trung trong hơi thở để cho đừng có cái niệm khởi, thì cái đó là không phải thiện xảo mà ức chế tâm. Còn cái thiện xảo của đức Phật rất khéo léo, đức Phật đã dạy ở trong cái Định Niệm Hơi Thở.
Thí dụ như muốn cái tâm cho nó đừng có một cái, nó yên tịnh, nó thanh tịnh, đừng có cái niệm khởi. Muốn cho cái tâm nó được như vậy, nhưng mà nếu mình muốn như vậy thì mình phải làm đúng cách của nó thì nó sẽ không có niệm. Nhưng mà cái gốc của cái niệm nó khởi ra thì nó còn chưa có hết. Do mình sống hằng ngày, mình ly được cái tâm tham, sân, si của mình, ly dục ly ác pháp, thì cái đó là cách thức tu để ly.
(1:09) Còn bây giờ cái thiện xảo để làm cho cái tâm của mình nó tập trung, để nó không có cái niệm. Cho nên trong cái đề mục thứ sáu của Định Niệm Hơi Thở, thì đức Phật có dạy cách thiện xảo, có dạy cách thiện xảo. Ví dụ như mình muốn cái tâm của mình an tịnh nó không có niệm, thì mình có cái phương pháp mình làm cho cái tâm mình nó được an ổn mà nó không có niệm.
Thì cái phương pháp đó đức Phật nói mình lấy cái ý thức của mình, mình nhắc cái tâm của mình, nhắc: "An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra". Mình cứ, cứ năm hơi thở hay là mười hơi thở mình nhắc một lần. Mình cứ nhắc, nhắc cái thời này nó chưa hết, thời sau đó nó sẽ hết, hoặc thời sau nữa nó sẽ hết.
Nó sẽ không niệm, nhưng mà không phải là mình dẫn cái tâm mình vào chỗ không niệm đó để rồi nó hoàn toàn nó ly dục ly ác pháp. Mà chính cái chỗ không niệm đó đó để cho mình, cái tâm của mình, cái thân của mình nó an tịnh được, không có niệm thì mình mới dùng, khi mà cái tâm nó thanh tịnh, nó không niệm thì mình mới dùng cái phương pháp tác ý: "Quán ly tham, quán vô ngã".
Thì lúc bấy giờ ngầm ở trong đó, cái phương pháp mà tác ý nó ngầm, cái lực nó làm cho cái Ngũ Triền Cái, tức là cái tham, sân, si, mạn, nghi của mình. Năm cái màn che á nó bị phá nát, làm cho đổ vỡ cái cái màn che đi. Để làm cho cái tâm mình nó thanh tịnh hoàn toàn, nó không bị năm cái màn ngăn che này gọi là Ngũ Triền Cái.
(2:40) Cho nên khi mà dẫn cái đề mục thứ sáu ở trong Định Niệm Hơi Thở, nó dẫn cái tâm nó đến không có vọng tưởng. Nghĩa là một cái người mà mới tu, thì chúng ta hơi khó. Nhưng mà cái người mà tu có lâu rồi chúng ta chỉ nhắc nó một chút xíu thì nó sẽ không có và đồng thời cái thỉnh thoảng mình nhắc, thì suốt cái thời gian mình tu nó không có niệm đâu, nó không có niệm. Cái đó là cách thiện xảo bằng cái phương pháp dẫn tâm.
Cho nên thí dụ như Thầy ngồi lưng thẳng, ngồi kiết già mà Thầy muốn không niệm, còn bây giờ Thầy lại muốn không niệm mà Thầy cứ tập trung trong hơi thở, thì Thầy dùng cái đối tượng đó, thì bị ức chế. Còn trái lại mình cứ nhắc thôi, Thầy không có ức chế nó để cho tự nhiên cái hơi thở ra, vô mình biết một cách rất tự nhiên chứ không có tập trung gom vô. Con hiểu không? Do như vậy mà mình chỉ nhắc: "An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra". Chữ tâm hành là cái tâm của mình nó có hai cái hoạt động, cái hoạt động tịnh và cái hoạt động động. Cái hoạt động động là nó có cái niệm. Còn cái hoạt động tịnh thì nó không niệm.
(3:45) Cho nên mình bảo nó an tịnh tức là nó phải thanh tịnh, nó không có niệm mà nó phải an ổn, nó không có lăng xăng. Cho nên vì vậy mới bảo: "An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra". Thì cái hít vô và thở ra nó là vấn đề phụ, mà chính cái phương pháp tác ý mà an tịnh, đó là chính.
Cho nên mình luôn luôn mình phải nhắc, mình nhắc, nhắc đến khi nó, nó thuần thục, chỉ nhắc nó một lần, hai lần thôi. Bắt đầu nó không có niệm, con ngồi suốt 30 phút hay một giờ, không có bao giờ có cái niệm vô. Cái đó là cái thiện xảo để cho cái tâm nó không có niệm. Nhưng khi mà chúng ta thiện xảo được rồi, được rồi thì bắt đầu bây giờ đó chúng ta mới, chúng ta mới: "Quán vô ngã tôi biết tôi hít vô, quán vô ngã tôi biết tôi thở ra". Cái ngã của mình ngầm nó chấp chặt lắm, cái thân kiến của mình nó chấp chặt lắm.
(4:36) Cho nên vì vậy đó, chỉ khi mà cái tâm của mình hoàn toàn nó không có niệm, nó hết niệm rồi, bởi vì cái đề mục thứ sáu nó làm cho cái tâm của chúng ta nó định, không có niệm nữa. Thì lúc bấy giờ chúng ta mới quán ly tham, quán ly sân, quán vô ngã, quán thân này không phải của ta. Thì lúc bây giờ nó mới có hiệu quả, còn cái tâm mình nó còn lăng xăng thì nó không có hiệu quả. Con hiểu chỗ đó, cái đường đi của đạo Phật mình như vậy.
Cho nên những cái đề mục này, khi mà những cái đề mục này cho tới khi mà đề mục thứ mười bảy, tức là quán ly tham, quán ly sân, cho nó ly tham, sân, si, vô ngã. Tất cả, tất cả những cái đều là vô ngã, đều là không còn cái gì mà mình dính mắc ở trong cái thân kiến của mình nữa hết rồi. Thì lúc bây giờ cái tâm nó sẽ định tĩnh, cái tâm định tĩnh thì trong cái đề mục thứ mười bảy, đức Phật dạy với: "Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra". Thì cái hiện tượng mà tâm định tỉnh nó có hiện ở trên cái trạng thái lúc cái đề mục đó.
(5:35) Nhưng khi đó chúng ta lại chuyển nó qua cái Thân Hành Niệm, cái Thân Hành Niệm là ra lệnh, một cái lệnh truyền thì cái hành động nó làm theo cái lệnh. Và cứ như vậy mình tập, tập cho nó quen từng cái hành động để cấu kết nó thành một cái cỗ xe. Do đó cái tâm nó sẽ bám chặt ở trên cái thân hành đó, nó định tĩnh trên thân hành đó. Vì vậy mà Bảy Giác Chi nó xuất hiện ra đủ. Còn cách thức thiện xảo mình tu là khéo léo mà thiện xảo cho đừng có niệm, để cho mình quán ly tham, quán ly sân, quán vô ngã cho ngầm ở trong đó nó tạo thành cái ý thức lực, ý thức lực nó ngầm nó quét ra.
(6:09) Cho nên cái người tu khi người ta bền chí, người ta bền chí, người ta không có lo nó có niệm. Thí dụ như bây giờ con dẫn: "An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô". Nhưng mà nó vẫn còn niệm chứ chưa phải hết, nhưng mình cứ bền chí đi, mình sẽ nhắc rồi nó sẽ hết. Mình tin rằng đức Phật dạy cái pháp này, là giúp cho cái tâm của mình sẽ không còn niệm chứ không có ức chế. Cho nên mình cứ thiện xảo ở trên cái pháp mình cứ nhắc hoài, nhắc hoài. Ngày nay mình tu, ngày mai mình tu, nó bỗng dưng sao lại nó rỗng rang, cái đầu óc nó rỗng rang.
Bởi vì mình nhắc cái bắt đầu nó an tịnh rồi nó rỗng rang, cái tâm nó không phóng dật ra. Thì lúc bấy giờ đó con mới tác ý con: "Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra". Thì lúc bấy giờ cái năng lực mà ly tham, con thấy nó nó rất mạnh, nó rất mạnh. Vì lúc bấy giờ cái tâm nó thanh tịnh rồi, bởi vì nó không có niệm thì nó đang ở trong cái dạng mà vô niệm rồi, nó thanh tịnh thì mình quán ly tham, quán ly sân thì nó có cái lực, cái lực hơn tâm mình còn niệm. Thì như vậy cách thức đó gọi là thiện xảo.
(7:15) Phật tử Minh Điền: Bạch Hòa thượng, khi tập trung cao độ sự tỉnh giác thì bị thọ ấm ma, cách xử trí như thế nào. Mỹ Châu bị thọ ấm ma là đang ngồi cái có một bầy kiến vàng nó bu, nó cắn, nó rứt nó rứt da, xé thịt trên cái tay của Mỹ Châu. Rồi kính bạch Thầy chỉ cho con vượt qua thọ ấm ma.
Trưởng lão: Cái trường mà hợp bị thọ ấm ma nó đến, nó phá, nó làm cho mình cảm thấy đau đớn, nhức nhối ở trong cái thân của mình.
Thí dụ như bây giờ mình đi Thân Hành Niệm mà khi đó, cái lệnh cái ý thức của mình lệnh bảo: "Chân trái bước" thì mình dở lên mình bước, nhưng khi để chân xuống cái nghe nó thốn, nó đau, đó là thọ ấm ma nó đánh rồi. Thì lúc bấy giờ đó chúng ta không phải sợ, không phải sợ. Lúc bấy giờ chúng ta có một cái tâm nguyện, một là chết, hai là chứng quả A La Hán. Vì lúc này là lúc phải chiến đấu tận cùng với thọ ấm ma chứ không thể đầu hàng nó. Thí dụ đầu hàng cái nó đau quá, cái mình xả ra, tức là đầu hàng.
Bây giờ mình ngồi mình thấy kiến vàng cắn mình đau quá, mà kiến vàng cắn mà con biết nó đau ghê gớm chứ, còn thôi mình xả ra thì như vậy là mình đầu hàng, một là tao sống, tao chiến đấu với thọ là không thua. Tuy rằng nhất định là ngồi chết, còn nếu mà đi mày cắn đau nhức, tao cứ ôm chặt ở trong cái thân hành thôi, hoàn toàn là không lìa ra pháp.
(8:35) Thí dụ như bây giờ mình đang ngồi mình hít thở, nhất định là tao ôm chặt cái hơi thở chứ tao không có lìa khỏi hơi thở đâu, cho mày cắn chết bỏ. Thì lúc bấy giờ nó chỉ là một cái gan dạ của mình, chỉ mình cần gan dạ đừng có dao động tâm, thì tất cả những con kiến vàng này nó cắn, nó chạy mất hết. Cái lực của nó, cái từ trường khi mà cái tâm nó bất động rồi, cái lực nó rất mạnh, nó rất mạnh. Nó phóng ra cái từ trường, nó làm cho các loài vật này nó giãn ra hết.
Như bây giờ mình ngồi kiết già, mà kiến, kiến gì nó lại nó cắn mình, nó ngứa, mà lúc bấy giờ mình nhất định là tu Thân Hành Niệm định tỉnh rồi thì nhất định là không có xả, không có xả ra đó, chết bỏ chứ còn nhất định là không đuổi kiến. Tao sử dụng cái pháp, cái pháp: "Thọ là vô thường, kiến cũng là vô thường, tất cả những cái này đều do nhân quả, nếu quả chăng đời trước tao có gieo nhân quả, thì tao cho tụi bây ăn thịt tao, tao trả lại, tao không sợ chết đâu".
Bắt đầu cái tâm nó vững vàng, khi mà tâm vững vàng, một là tao chết, hai là tao chứng quả A La Hán, có hai con đường này, chỉ phải chọn hai cái này thôi. Khi mà gặp thọ ấm ma thì đừng có sợ hãi, một là chết hai là chứng quả A La Hán có vậy thôi. Nhưng mà khi mà mình quyết định như vậy thì con sẽ thấy sau lưng cái trận mà đau đó đó, kiến cắn nó đó, nó sẽ chạy mất hết, hoàn toàn nó chạy hết và nó để lại cho mình một cái trạng thái hoàn toàn đặc biệt, đặc biệt vô cùng không thể nào mà lường được.
Mà đức Phật đã nói, khi mà cái sức tận cùng chịu đựng cái cảm thọ khổ đau tận cùng của sức sinh mạng của mình thì nó sẽ mát lạnh. Đúng vậy, khi mà một cái người mà người ta vượt qua rồi người ta mới thấy, đúng là mình vượt qua cái cái cảm thọ của mình rồi. Thì phía sau cái cảm thọ đau đớn đó, nó sẽ bồi đắp lại cho mình một cái, một cái sống, một cái trạng thái an lạc vô cùng không thể tưởng tượng được. Đó là, đó là phải đánh chiến đấu với thọ ấm ma là như vậy, đừng có sợ.
(10:36) Cho nên vì vậy mà con biết khi mà cái người tu, mà nếu tu tới cái giai đoạn gọi là Thân Hành Niệm. Đức Phật nói nó nhiếp phục được sự đau đớn. Con đọc lại cái bài Thân Hành Niệm, có mười cái điều kiện mà nó nhiếp phục, có năm điều kiện đầu tiên nó nhiếp phục tất cả những cái đau mà đau đến tận cùng nó nhiếp phục đều được, ôm cho chặt trong cái pháp hành ấy.
Nghĩa là thân hành con đang đi, bởi vì con đang đi phải không? Mà mỗi bước đi con để chân xuống nghe nó thốn đau, mặc mày chết tao vẫn để chứ tao không đầu hàng đâu. Chân này bước rồi cái ôm chặt chân kia, lệnh chân trái bước, chân trái để lên bước, chân mặt bước, cũng đi chậm chậm chứ nó đau, không có lật đật, không có vội vàng.
Thì khi mình chiến đấu với cái thọ ấm ma đó, là chiến đấu rất là vững vàng và tinh thần của mình, mình phải tạo: “Một là chết, hai là chứng quả A La Hán, cho nên tao không sợ đâu!” Cho nên đi vẫn không có vội vàng mà đi đúng với cái tánh cách của Thân Hành Niệm, cho nên nó chậm chạp để xuống vững vàng chứ không phải sợ đau mà để nhẹ nhẹ, không có đâu, để cũng đàng hoàng, rồi chân này cũng vậy. Vì vậy mà cuối cùng thì trong vòng chừng năm, mười bước cái tâm không dao động là thọ ấm ma chạy mất hết.
(11:46) Cho nên bảo Mỹ Châu, khi mà gặp thọ ấm ma là một là mình tới cửa đạo, hai là mình đầu hàng nó, có vậy thôi. Mà nếu mà còn sợ chết thì đầu hàng mà không sợ chết thì tao chứng quả A La Hán có vậy thôi. Ở đây cái chỗ này nó chỉ có chớp nhoáng thôi. Con hiểu không?
Lúc đó bây giờ cái tâm nó sẽ không còn phóng dật nữa, nó vẫn ôm cho chặt rồi bắt đầu nó bị cái thọ đó, nó khép chặt cái thọ thì cái tâm nó lại bám chặt ở trên thân hành. Do đó nó càng bám chặt bao nhiêu thì cái sức định tỉnh nó càng bấy nhiêu. Mà cái sức định tỉnh, hễ mà khi mình bị cái thọ rồi mà mình bám cho chặt, thì lúc bấy giờ cái từ trường ở trong người của mình nó phóng ra, nó phóng ra một cái luồng từ trường mình cảm thấy cái thân của mình nó đang đau vậy mà cái từ trường nó phóng ra, nó nghe nó mát, mát lạnh à. Nó không còn nhức nhối, không còn chỗ nào, cái thân nó an mà nó nhẹ nhàng như một cái thúng bông gòn. Nó lạ lắm, chứ không phải đâu.
Bởi vậy Thầy nói tu hành nó có nhiều cái mình cũng thấy nó lạ. Chỉ có người gan dạ thì mới có, mới có được chứ còn cái người nhát gan thì chỗ này thì chắc ai cũng sợ. Cho nên hầu hết là hầu như mọi người mà tu đến cái giai đoạn này mà gặp thọ ấm ma rồi thì người ta phần nhiều đầu hàng, bỏ cuộc, tức là sợ quá. Còn cái người mà không sợ thì họ lại hưởng được, họ lại hưởng được cái mùa xuân vĩnh cửu.
(13:03) Phật tử Minh Điền: Mỹ Châu nói nó cắn, nó rứt, nó rứt, nó rứt. Cho nên mấy ngày đầu thì thua mà sau này cũng tiếp tục tu lại, cũng vững vàng.
Trưởng lão: Thôi như vậy là được rồi, nó chiến đấu được.
Phật tử Minh Điền: Mỹ Châu không có chịu thua.
Trưởng lão: Rồi, được rồi.
Phật tử Minh Điền: Nhưng mà mấy ngày đầu thì phải chịu thua nó bởi vì không biết đó bạch Thầy, nó cắn đau đớn quá rồi cái không dám ngồi thiền. Cái con nói thì bà quyết làm hay là bà xả nó ra sao rồi. Bởi vì cần phải về hỏi Thầy.
Trưởng lão: Lên hỏi Thầy phải không?
Phật tử Minh Điền: Rồi sau đó về con nói đi tu cũng dữ.
Trưởng lão: Nỗ lực.
Phật tử Minh Điền: Mỹ Châu tu khá mà lại hay thấy những cái dè dặt ở trong cái không gian đó mà Thầy, cái đó là có niệm gì ạ Thầy?
Trưởng lão: Cái đó là những cái, thứ nhất là cái cảm nhận. Bởi vì khi mà con nhớ, con nhớ khi mà mình tu về Định Niệm Hơi Thở: “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô”, Cảm giác toàn tâm là cảm giác vũ trụ trong con, còn thân là cái không gian của nó, mình cảm giác được cái thân của mình là cảm giác cái không gian. Còn cảm giác cái vũ trụ của nó là cảm giác cái tâm của mình, nó mênh mông.
Cho nên vì vậy đó, thì lúc bấy giờ khi mà mình tu hai cái pháp này rồi, thì lúc bấy giờ mỗi một cái từ trường mình phóng ra, mình cảm nhận được cái từ trường của mình, từ trường thì nó vô hình con. Mà mình cảm nhận được, cảm nhận được trong người của mình nó đang phóng ra một cái từ trường rất là mạnh. Nghĩa là nếu mà mình, mình dùng cái tưởng của mình, mình nghĩ rằng những cái từ trường này nó sẽ trở thành cái ánh sáng, thì ngay đó là cái ánh sáng nó tỏa rộng ra như cái hào quang. Còn nếu mà mình không có dùng thì người ta không thấy đâu, nhưng mà mình cảm nhận được từ cái từ trường trong người của mình nó phóng xuất ra, nó phóng xuất liên tục. Như là những cái ánh sáng ở trong người mình nó phóng ra vậy.
(14:44) Thì do như vậy mà cái tâm mình nó định tỉnh thì nó sẽ phóng, nó phóng rất rất mạnh con. Cho nên con muỗi, con mòng, tất cả những cái loài vật gì xung quanh nó bị từ trường nó phóng ra, không con vật nào mà vô được. Mà mới cái tâm nó định tỉnh thôi, chứ chưa phải là mình Nhập Định đâu nghen. Đó nó có định tỉnh à, nó không phóng dật thôi đó mà nó còn có cái lực từ trường nó như vậy.
Nó y như là cái, nếu mà mình, nếu mà ban đêm mình thấy ngọn đèn mà đốt lên, mình thấy ánh sáng nó tỏa ra, thì cái ánh sáng mà mình thấy sáng ra tại vì cái đêm tối mà thấy sáng, cái chỗ mà ánh sáng của ngọn đèn nó tỏa ra thì mình thấy sáng chứ còn sự thật nếu mà nó không có đêm tối như ban ngày thì mình không thấy sáng được. Con hiểu không? Thì cái từ trường đó chỉ có cái người đó người ta nhận thôi. Còn cái người khác thì muốn nhận được nó thì phải ở trong đêm tối mà nhận ra cái ánh sáng chứ không có cách nào khác hơn hết.
(15:29) Cho nên vì vậy mà một cái người mà tâm bất động rồi thì cái từ trường nó sẽ phóng ra, nó phóng ra. Mà tâm bất động thì tức là nó phải định tỉnh, nó không định tỉnh thì nó không bất động được. Con thấy như bị thọ ấm ma, những con kiến vàng nó cắn mà cái tâm mình bị dao động rồi, thì cái từ trường nó mất. Còn mình không dao động, không sợ chết gì hết cái từ trường nó phóng ra, thì bao nhiêu cái đau đớn đó nó sẽ bị diệt đi. Nó làm cho mình sống trong một cái trạng thái an lạc rất lâu của đạo. Đó là cách thức chiến đấu.
(16:03) Phật tử Minh Điền: Kính bạch Thầy, muốn thực hiện đủ Bảy Giác Chi thì phải tập trung sự tỉnh giác trên mười hai tiếng đồng hồ, trong Thân Hành Niệm Ngoại hay Thân Hành Niệm Nội?
Trưởng lão: Về cái Thân Hành Niệm Nội và cái Thân Hành Niệm Ngoại thì trong bài Thân Hành Niệm thì nó kết hợp nội và ngoại. Không thể, cái lực của nó, nó phải có nội và có ngoại. Mà nội, Thân Hành Nội là hơi thở mà Thân Hành Ngoại là cái hành động mình co tay, co chân, đi tới đi lui. Đó là Thân Hành Ngoại, thì Thân Hành Ngoại nó có cái lực của ngoại thôi. Mà Thân Hành Nội thì nó có lực của nội nhưng mà hai cái này nó kết hợp lại nó gọi là Thân Hành Niệm.
Nó kết hợp nội và ngoại nó tạo cái lực nội và cái lực ngoại. Cho nên nó mới trở thành Bảy Giác Chi. Còn nếu mà nó có cái ngoại không thì nó không có thành Bảy Giác Chi được. Mà có nội không thì nó cũng không thành Bảy Giác Chi được. Bởi vì Bảy Giác Chi là bảy cái trạng thái giải thoát, bảy cái năng lực mầu nhiệm. Do đó khi một cái người tu thì phải lấy thân hành của nó mà kết hợp lại nội và ngoại thì nó mới tạo thành bảy cái năng lực đó.
Cho nên vì vậy mình phải tu đủ chứ không thể tu thiếu được. Thí dụ đi kinh hành không thì nó có cái năng lực, cái lực của ngoại thôi. Thì thay vì nó Bảy Giác Chi thì nó có xuất hiện có Năm Giác Chi, nó còn Hai Giác Chi nữa nó không xuất hiện. Còn nếu mà mình tu cái nội nữa thì do đó cái giác chi nó sẽ xuất hiện đủ. Thì nhớ phải tu cho kỹ về Thân Hành Niệm mà đức Phật nói là: “Cấu kết như cỗ xe”.
Thì cỗ xe thì nó phải có bánh xe, có thùng xe. Mà nếu mà có bánh xe nó chạy mà không có thùng xe thì nó đâu có chứa gì được đâu. Cho nên cái thùng xe coi như là nội, mà cái bánh xe mà cái trục, cốt để mà chạy, đó là ngoại. Con hiểu được như vậy thì mấy con thấy cái pháp của Phật cấu kết nó rất là hay, để làm cho mình có cái nội lực và có cái ngoại lực.
(17:54) Một cái người mà luyện võ công, thì họ luyện nội công thì nó có cái lực nội thôi, mà không có cái lực ngoại. Còn trái lại một người tu theo đạo Phật nó có lực ngoại mà có lực nội, nó cả hai bên. Mà nó đồng thời nó phải luyện tập, chứ nó không phải là, hai cái phương pháp này phải cấu kết nhau. Còn cái kia võ công, nó luyện, nó luyện tập những cái lực những cú đấm của nó, những cái đòn võ. Thì cái lực ở bên ngoài nhưng mà nó không cấu kết ở bên trong được, cho nên vì vậy khi nó ngồi nó vận công, thì lại nó ngồi nó vận công mà không cấu kết được.
Còn cái phương pháp của Phật nó cấu kết nội và ngoại công của nó, nó tạo thành một cái lực, cho nên Bảy Giác Chi nó xuất hiện. Còn cái người mà luyện võ công, khí công, nó không có Bảy Giác Chi xuất hiện là tại vì hai cái này nó luyện rời ra, nó không kết hợp lại được. Cho nên đức Phật nói: "Kết hợp thành một cỗ xe". Do như vậy là mình phải chiến đấu.
(18:50) Phật tử Minh Điền: Kính bạch Hòa thượng từ bi ban bố cho con được tu thêm đề mục Định Niệm Hơi Thở.
Trưởng lão: Đề mục Định Niệm Hơi Thở nó có mười tám cái đề mục. Bây giờ thì không biết là con tu tới cái đề mục thứ mấy rồi?
Phật tử Minh Điền: Cái này Mỹ Châu Thầy.
Trưởng lão: Mỹ Châu hả con, không biết nó tu tới cái đề mục thứ mấy rồi?
Phật tử Minh Điền: Tu cũng, con thấy cô đi tới điểm muốn gần hết đó rồi Thầy.
(19:14) Trưởng lão: Gần hết nhưng mà mỗi một cái cái đề mục nó có mang kết quả của cái đề mục. Bởi vì mười tám cái đề mục, khi một người mới tu tập nó thì người ta tu tập tất cả những cái đề mục này đều có tu tập hết. Nhưng mà nó không có đợi kết quả, còn khi mà chuyên sâu để đi vào cái Thân Hành Niệm, để bước vào cái Tứ Niệm Xứ mà chuyển qua cái Thân Hành Niệm, thì bắt đầu người ta trở lại cái Định Niệm Hơi Thở, người ta chuyên sâu.
Cho nên mỗi cái đề mục của nó là phải đạt được cái kết quả. Thí dụ như bây giờ cái đề mục: "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra". Thì lúc bấy giờ cái thân của chúng ta, nó bị cảm thọ, cảm thọ nó đau, nó nhức hoặc nó tê. Bởi vì mình ngồi hai cái chân nó tê. Bây giờ tôi sẽ dẫn cái cái thân của tôi sẽ hết tê, bằng cái phương pháp Định Niệm Hơi Thở này, cái đề mục này.
Cho nên bây giờ tê tôi ngồi, tôi không đứng dậy, tôi xả đâu. Mà tôi vẫn ngồi bình thường, tôi nhắc :"An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra". Tôi cứ nhắc thôi còn nó tê mặc nó, nó hết tê thì cũng mặc nó mà tôi chỉ dẫn cho cái thân tôi nó an. Do đó cái kết quả người tu mà có kết quả của cái đề mục này, thì khi nhắc nó lần thứ nhất, lần thứ hai, lần thứ ba là nó không tê nữa, hết tê.
Nghĩa là cái chân của mình ngồi đang tê nhắc lần thứ ba là an ổn vô cùng, cái thân nó nhẹ bưng lên, cái đầu óc nó rỗng rang liền, cái thân này nó cảm giác khinh an vô cùng, nó không còn thấy tê nhức đau chỗ nào nữa hết, đó là như vậy. Thì do cái đề mục này, chúng ta mới thấy ngay cả khi mình ngồi mà hai cái chân bị đau hay tê mà mình còn dẫn nó hết đau, nó không còn đau tê.
(20:54) Thì bắt đầu bây giờ trong cái trường hợp như có một con muỗi cắn ở đây, nó ngứa thì mình thử để cho mình dùng cái phương pháp này coi để mình đối trị coi cái ngứa này hết không, mình nhắc, biết nó đang cắn ngứa nè, nhưng mà nhất định là không đuổi con muỗi đâu để cho nó ngứa mặc nó đi. Mà bây giờ đó mình nương vào hơi thở, bắt đầu (nhiếp) cái tâm mình.
Bởi vì mình tu, mình tu nó quen rồi phải không? Phải mình nương vào hơi thở thì cái tâm nó bám vô hơi thở, nó không có bám vô chỗ con muỗi đâu. Do đó mình nhắc: "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra". Rồi cứ năm hơi thở mình cứ nhắc vậy, nhắc lần lần lần lần. Một hơi sau không biết nó hết ngứa mất đâu, mất tiêu hết. Như vậy là đuổi được cái ngứa của con muỗi rồi, mình đuổi được cái tê của cái chân rồi.
(21:35) Nhưng bây giờ mình thử, hôm nào đó mình đau bụng hay nhức đầu hoặc là nó nhức cái tay, hoặc là nó thấp cái khớp, cái chỗ nào đó mà nó đau đớn. Được rồi tao dùng cái pháp này tao đẩy lui cái thọ này coi. Do đó mình cũng ngồi ngay ngắn, không có sợ đâu, ngồi ngay ngắn mình nhắc: "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra".
Khi mình nhắc như vậy thì cái thọ, cái cảm thọ nó không có đánh trên cái thân của mình được là mình đã tu có kết quả của cái đề mục này rồi, cũng làm chủ được cái bệnh. Rồi cái tâm cũng vậy con, cái tâm mình lăng xăng niệm này niệm kia mình dẫn nó vô, nó cũng không có niệm nữa. Nó hay như vậy, cho nên vì vậy bây giờ mình dẫn được cái thân nó an, cái tâm nó an rồi.
Thì những cái điều kiện mà những cái đề mục khác, đi chuyên sâu là mình phải quán vô ngã, quán ly tham, quán ly sân. Là mình phải tu chuyên của nó. Thì tu chuyên nó để làm gì? Để nó tạo thành một cái nội lực. Mỗi lần mình nhắc là nó có cái hiệu quả. Thí dụ như trong khi mình tu rồi, mình tu cái đề mục thí dụ như: "Quán vô ngã tôi biết tôi hít vô, quán vô ngã tôi biết tôi thở ra". Phải không?
Bây giờ đó mình ngồi tu thì mình như vậy, nhưng bình thường mình xả ra, có một người nào nói cái gì mà mình nghe cái tâm mình nó vừa muốn khởi chướng nó thấy là ác pháp. Rồi mình nhắc, tự mình nhắc nó, mình nhắc cái tâm của mình, để cho nó hoàn toàn nó an ổn, để nó không bị gì hết, thì mình nhắc nó: "An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra". Chỉ nhắc nó một cái, cái tâm nó im phăng phắc mà nó an ổn, nó nhẹ nhàng, nó không có phiền não, nó không đau.
(23:01) Bây giờ có cái chuyện gì xảy ra cho gia đình, nó phải bắt buộc mình phải lo chứ gì? Chuyện gì nó xảy ra thí dụ như một đứa con nó bị bệnh đau, nó đi nhà thương đi. Nghe cái tin đó, bây giờ mình thử cái tâm của mình coi nó an nổi không? Trong cái hoàn cảnh này thì chắc chắn là phải lật đật đi nhà thương coi nó đau bệnh như thế nào. Nhưng mình thử coi nó có an không? Mình nhắc: "An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra".
Bỗng dưng nó quên hết, nó không còn nhớ cái chuyện con đau hay gì nữa hết. Rõ ràng nó thấy nó có cái trạng thái an lạc của cái tâm hoàn toàn im phăng phắc, nó nương vào hơi thở ra vô nhẹ nhàng. Mà hơi thở lúc bấy giờ con biết nó thông suốt luôn, nó thông suốt nó làm rỗng rang, nó tự động mà nó ra vô, chứ không phải là còn mình dụng cơ hít ra, hít vô đâu.
Cũng như bây giờ con tập trung nó rồi, con hễ tập trung vô nó là con có dụng cơ, con hít ra hít vô. Còn cái này không vậy con, nhắc vậy đó thì tự động cái hơi thở nó ra vô. Cũng như một cái người mà nhạc sĩ mà họ nhịp nhịp xăn vậy đó. Hễ cái nhịp của nó, nó nhịp cái, nó nhịp thì nó tới đúng nhịp nó nhịp, thì cái hơi thở ra nó cũng nhịp đúng cái như vậy, rồi nó vô nó cũng nhịp đúng cái như vậy. Nó tự động nó ra vô, ra vô nó làm cho cái tâm của cái người mà tu nó nhẹ nhàng nó an ổn, nó không còn biết cái chuyện gì bên ngoài của nó nữa hết.
(24:11) Đó là cái chỗ kết quả của mười tám cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở, rất là tuyệt vời. Nhưng mà đây là thuộc về chuyên sâu, chuyên sâu. Còn cái người mới tu thì không được. Họ tu mà nếu một người mới tu mà tu như vậy họ bị ức chế. Cho nên trải qua một cái thời gian tu coi như là họ có tập cho họ quen với mười tám cái đề mục này, quen với mười tám đề mục. Tức là cái đề mục nào họ cũng có tu, tu sơ sơ rồi họ tới cái đề mục khác.
Cũng như trong ba mươi phút thì họ tu mười sáu cái đề mục này, họ tu hết mười sáu đề mục này. Cứ một chút cái họ nhắc cái đề mục này, một chút cái nhắc đề mục khác. Họ nhắc hoài như vậy. Nhưng mà cái đó là đi vào trong cái chỗ mà mình phải thông. Tức là mình biết được tổng quát hết được những cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở.
Nhưng mà khi chuyên sâu rồi, để mà thực hiện khi mà bước vào Tứ Niệm Xứ để khắc phục tham ưu rồi đó. Thì đây là mình phải chuyên sâu, chuyên sâu nhờ cái Định Niệm Hơi Thở mà mình mới khắc phục được tham ưu ở trên cái Thân - Thọ - Tâm - Pháp của mình.
Thí dụ cái thân bây giờ đang đau nhức, nó có chướng ngại là phải có pháp để đuổi, chứ còn nói không pháp đuổi làm sao mà gọi là khắc phục tham ưu ở trên đó được. Cho nên nó, cái tâm của mình cũng vậy, nó không thanh thản, an lạc mà nó cứ niệm này tới niệm kia khởi, hoặc là nó bị hôn trầm, thùy miên. Thì ngay đó mình phải lấy mười tám cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở này mà quét nó mới được, chứ không có mười tám cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở này mà tu tập, mà mà chuyên sâu nó, thì mình không có cái phương pháp mình đối trị nó. Thì đó mình bị, mình đầu hàng chứ không thể nào mình ở trên Tứ Niệm Xứ mà khắc phục tham ưu được.
(25:38) Cho nên khi mà Thầy dạy tới cái pháp Thân Hành Niệm để biết thực hiện Bảy Giác Chi, thì chúng ta trở về chuyên sâu vào cái Định Niệm Hơi Thở. Từng cái đề mục, cái nào mà nó đã có kết quả rồi thì thôi mà cái nào mà chưa có kết quả thì phải chuyên trở lại, chuyên trở lại cho đạt được kết quả.
Và cứ như vậy lần lượt mỗi cái kết quả đó mình thấy rõ ràng là mình làm chủ được. Khi mà trở lại chuyên sâu con mới thấy cái năng lực của người ta làm chủ được bốn sự đau khổ Sinh - Già - Bệnh - Chết, cụ thể rõ ràng lắm. Nếu lúc nào mà nó xảy ra cái gì mình làm chủ được cái nấy hết, mình có cái phương pháp để mà làm chủ. Đó là cách thức trong bài Định Niệm Hơi Thở.
(26:14) Cho nên sau này tới cái điều kiện mà bây giờ thí dụ như bây giờ: "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra". Thì lúc bấy giờ Thầy biết là cái này nó sẽ chuyên sâu nó có kết quả rồi, nhắc nó là nó dẫn cái tâm nó được rồi nó không có còn lộn hơi thở, không còn này kia. Rồi đến cái hơi thở mà khi nó thở, nó thở cái tâm nó an tịnh được thì cái hơi thở nó thông suốt. Nếu nó dài thì nó cũng thông suốt, mà nó ngắn thì nó cũng thông suốt à. Thì cái này nó cũng là kết quả rồi thì mình khỏi cái đề mục này.
Bây giờ tới cái đề mục: "An tịnh cảm giác toàn thân". Thì cái cảm giác này nếu mà nó đã cảm nhận được cái thân của nó rồi, thì cái đề mục này nó cũng thông qua được rồi. Thì bây giờ bắt đầu: "An tịnh thân hành".
Mà nếu mà nó nhắc cái thân nó được an ổn rồi, nó phá được những cái thọ của nó rồi thì nó đã thông qua được cái đề mục này rồi, thì nó đi tới "Cảm giác toàn tâm" để mà nó nhận được cái động và cái định của tâm nó. Rồi khi mà nhận được cái định của tâm nó rồi, thì cái đề mục này nó thông qua rồi thì coi như là có kết quả rồi. Thì nó đi tới cái chỗ mà: "An tịnh tâm hành", "An tịnh tâm hành'' nó dẫn cái tâm nó vào cái cái sự an ổn đó thì nó sẽ không có niệm. Nó sẽ không niệm, nó thanh thản, an lạc và vô sự.
(27:24) Do cái tâm mà nó thanh thản rồi. Thì lúc bấy giờ đó nó chỉ còn có những cái đề mục quán vô ngã, quán ly tham, quán ly sân. Thì trong khi hằng ngày mình sống. Coi cái ngã mình còn hay không. Nếu còn cái ngã thì nó còn phiền, nó còn cái ngã thì nó còn lo, có chuyện gì thì nó lo thì tức là cái ngã của nó chứ không ai đâu. Bởi vì nó lo là nó lo, nó có cái ngã thì nó phải lo cho nó, nó lo cái ngã sở của nó là những cái xung quanh của nó. Những cái gì?
Ví dụ như con cái hay là nhà cửa, tài sản có hư hao gì thì nó lo. Đó là nó bị còn cái ngã. Vì vậy mà khi còn cái ngã, thì hằng đêm mình ngồi tu, mình chia ra nhiều thời trong một buổi vậy đó. Một buổi vậy thì mình chia ra, buổi tối thì mình chia ra mình quán vô ngã. Để cho cái quán thân vô ngã hay quán tâm vô ngã, hay quán pháp vô ngã. Thì mình quán những cái này để cho nó đi sâu vào nó phải vô ngã hoàn toàn. Nhưng mà khi nó vô ngã nó không có nghĩa là hoàn toàn mình trơ trơ như cây như đá, nó rất là sáng suốt nhưng mà nó không có, nó không có móng tâm, nó phiền não, nó lo lắng, nó bận bịu cái gì hết.
(28:25) Mỗi thứ vậy chứ nó có trí tuệ tức là tầm tứ của nó. Sự kiện gì xảy ra thì nó sử dụng ở trên cái sự tư duy của nó, thì nó biết cái này phải giải quyết như vậy là nó sẽ ổn, chứ nó không còn buồn lo, nó không còn sợ. Vì vậy mà trong khi đó nó hoàn toàn là nó vô ngã, là nó làm cho cái người đó bất động tâm, nó không có dao động trước ác pháp.
Đó là vô ngã là vô ngã chỗ bất động, chứ không có nghĩa là cái người đó nó mất đi hoàn toàn là họ không còn biết gì họ hết thì đó không phải. Nó không phải lọt vào ở trong cái Không Tưởng như mà Thầy lọt vào trong cái trạng thái của Thiền Tông mà Tưởng Không đó. Hai tháng mà Thầy hoàn toàn Thầy làm những cái hành động của Thầy nó theo như cái thói quen mà Thầy không biết. Thì như vậy là Thầy rớt ở trong cái Không Tưởng. Nhưng mà chỗ đó là chỗ vô phân biệt của Thiền Tông, cái ý thức nó không hoạt động rồi. Cho nên bây giờ nó không phân biệt mà nó rớt vào ở trong cái đó là cái Không rồi. Rồi nó hoạt động theo cái thói quen của nó thôi. Ăn thì nó hoạt động theo cái thói quen. Thì đó là mình đã đi sai.
Vì cái chỗ này, sau này các con đọc Người Chiến Thắng phần thứ hai. Mà khi tu về cái vấn đề mà Tứ Thánh Định, Tứ Niệm Xứ và Tứ Thánh Định thì cái chỗ này sau này thì mấy con sẽ thấy Thầy nói, Thầy nhắc lại cái chỗ này rất nhiều.
(29:35) Là vì những cái trạng thái tưởng này mà khi mà Thầy tu vào cái Tưởng Không, rớt vào mười tám cái loại tưởng của Thiền Tưởng của bên Đông Độ đó. Thì lúc bấy giờ nó cứ nó xuất hiện ra những cái trạng thái này, nó làm cho con đường tu của Thầy nó rất là khó khăn.
Cho nên cái người mà đã rơi vào cái chỗ này rồi thì tu rất là khó. Còn cái người mà không có rơi vào chỗ chỗ này rồi tu rất dễ con. Cho nên mấy con mà chưa có rớt vào cái Không Tưởng này thì mấy con sẽ dễ dàng. Còn người nào mà có bị trạng thái của tưởng thì rất khó khăn.
(30:15) Khi mà Thầy, bị vì trải qua Thầy tu Thiền Đông Độ, Đại Thừa rồi Thiền Đông Độ, cho nên nó lọt vào cái thế giới tưởng. Nó sau này nó trở về Nguyên Thủy nó có những cái khó, rất là khó. Thế mà Thầy còn vượt qua được. Còn mấy con bây giờ chưa có gì hết mà, chỉ khi mà các con tu sai một chút thì nó có cái trạng thái tưởng nó hiện ra thôi. Còn Thầy nó đã thâm căn rồi, mỗi lần mà vô thì bắt đầu nó hiện ra rồi. Còn các con thì bây giờ một cái mà ức chế tâm, mà gom tâm cho chặt rồi cái bắt đầu nó thấy có những cái trạng thái, trạng thái này kia nọ.
Nhưng mà mình có cái phương pháp của Phật tác ý rồi, nó đâu có làm sao nó trật được. Vì nó vừa mớm ra cái hỷ lạc nào đó thì các con nói mình không dẫn cho nó hỷ lạc mà nó có hỷ lạc đây là ma hỷ lạc rồi, là tưởng rồi. Còn bây giờ khi dẫn cho nó an lạc: "An tịnh thân hành". Ta dẫn cho nó an thì nó an thì nó đúng, mà cái này không dẫn nó an mà lại nó an, thì đây là ma an chứ đâu phải là của mình. Cho nên mình biết rõ rồi.
(31:15) Cho nên bây giờ mấy con có Thầy mấy con đỡ. Còn khi hồi Thầy tu không có ai hết. Cho nên nó an là ý thức thôi chứ không biết đâu mà tránh. Vì vậy mà sau khi trở về Nguyên Thủy là đã từng sống trong những cái an ổn của của ma nó quá nhiều rồi. Cho nên mỗi lần có cái gì nó không biết đúng sai, cứ cái gì mà thấy nó tưởng ra là kể như là mau mau dừng lại chứ không có cho nó thể hiện ra. Nó khó vì vậy mà Thầy phải sáu tháng, Thầy phải sáu tháng để mà tu tập nó mới nhập được Tứ Thánh Định và thực hiện Tam Minh. Còn đức Phật có bốn mươi chín ngày, tại sao đức Phật lại có bốn mươi chín ngày mà Thầy phải sáu tháng mấy con?
Cái vấn đề này thật sự ra mấy con biết rằng. Thầy thì chưa có nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, còn ông Phật ông nhập Phi Tưởng Phi Tưởng Xứ rồi, ông vượt qua được cái tưởng. Còn Thầy thì chưa có vượt qua tưởng cho nên Thầy bị kẹt. Còn ông vượt qua tưởng, cho nên vì vậy ông bốn mươi chín ngày là tại vì ông vượt qua được Phi Tưởng rồi. Còn Thầy chưa có vượt qua Phi Tưởng.
Con thấy không Thầy lọt trong cái Không tưởng rồi đến cái Thức Vô Biên Xứ Tưởng thôi. Phải không? Rớt trong cái Không, rồi chừng mà nó, chừng mà nó tỉnh lại. Rõ ràng là các con đọc Người Chiến Thắng con thấy không? Thầy tỉnh lại là do cái chân Thầy nó đụng vào cái bàn Phật chứ gì? Thầy mới tỉnh lại, Thầy tỉnh lại thì lúc bấy giờ cái thức của Thầy nó ở trong cái trạng thái của tưởng Thức Vô Biên Xứ Tưởng mà. Phải không? Nó phủ trùm vạn hữu hết rồi. Cho nên bây giờ Thầy cứ ngỡ là mình chứng rồi, rõ ràng là kết thúc của mình rồi. Do đó các con thấy rõ ràng thầy chưa có nhập Phi Tưởng mà.
Còn ông Phật ông chơi ông nhập vô Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, ông vượt qua cái tưởng rồi. Cho nên ông vô, khi mà ông vô đó rồi ông có các trạng thái tưởng, ông vượt qua Phi Tưởng liền, ông biết cách. Thầy đâu có biết, nó cứ nó dính vô hoài. Cho nên Thầy mới gỡ, tháo gỡ nó mà để cho mình tu cho được Thầy phải dùng cái pháp Như Lý Thầy tác ý Thầy đuổi nó đi chứ Thầy đâu có biết cách nào khác hơn. Cho nên do đó mà đức Phật có bốn mươi chín ngày Thầy phải sáu tháng, Thầy phải cực khổ hơn là Thầy phải đấu với con ma tưởng này quá nhiều. Các con hiểu chưa?
(33:13) Các con thấy chưa, sau này các con mới đọc, các con mới thấy trời ơi tu sai mới là chết được chứ. Còn ông Phật ông nhanh hơn là tại vì ông đi tới cái chỗ mà cái bốn cái định tưởng của ông. Thì ông lại đến cái tưởng Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định. Ông nhập vô được cái đó rồi. Cho nên khi đó mà cái tưởng nào ông nhập vô cái Phi Tưởng là nó mất rồi, nó đâu còn bị tưởng nữa. Cho nên ông dùng cái pháp tác ý ông tác ý ông đi luôn được, nó dễ dàng nó không bị cái trạng thái tưởng nó vô. Còn Thầy mỗi lần nó hiện ra tưởng rồi mới tác ý dùng cái pháp Như Lý Tác Ý tác ý để đuổi nó thôi. Nhiều khi nó không chịu đi nữa chứ đừng nói, nó khó lắm chứ. Còn ông ta vô cái Phi Tưởng cái nó đâu còn, nó chạy mất rồi. Các con thấy chưa?
Cho nên ông Phật nhờ vậy mà bốn mươi chín ngày ông mới chiến thắng. Vậy mà thọ ấm ma nó đánh ông, cái ngũ ấm ma mà cái giờ phút cuối cùng mà chứng đạo đó, ngũ ấm ma nó đến nó đánh tan nát hết chứ đâu phải dễ đâu. Mà chỉ còn có cái mà gan dạ nhất chiến đấu nhất là mới có thắng được. Chứ còn lơ mơ thì đâu có thắng được. Đó thì mấy con thấy trên con đường tu, đi sai một chút là nó khổ ghê gớm lắm chứ không phải không đâu.
(34:11) Còn bây giờ mấy con có người được hướng dẫn. Cho nên đệ tử của Phật ngày xưa: Ông Mục Kiền Liên, ông Xá Lợi Phất, đệ tử của đức Phật. Những cái vị mà tu như ông Ca Chiên Diên, ông La Hầu La. Tất cả những đệ tử Phật là đều là nhờ đức Phật hết. Còn ông Phật thì không biết đường, chỉ có cái sáng suốt của mình? Còn Thầy thì không ai dẫn đường rồi.
Do đó thì pháp Phật có đó, nhưng mà cái kinh nghiệm người ta dẫn, chứ còn cái chữ nghĩa thì chắc chắn nó bị ba cái tưởng này, trời ơi ma này nó dẫn mình đi tùm lum hết, nó không có còn cái chỗ nào mà biết đường đâu hết. Cứ hết cái trạng thái này rồi, nó hiện ra cái tướng này rồi, nó hiện ra tướng khác. Khi mà cái tâm của mình, cái ý thức của mình nó hoàn toàn nó không có niệm nữa rồi, thì cái thế giới tưởng nó phải hiện ra.
Khi nó hiện ra ông Phật này, nó hiện ra ông thần kia, nó hiện ra con quỷ nọ, đó là sắc tưởng rồi. Rồi nó hiện ra nào là âm thanh sắc tướng trong lỗ tai mình, có khi là tiếng nổ, có khi là nó làm như cái đầu của mình nó sôi lụp bụp ở trong. Thì các con biết những cái này đều là nó làm cho mình rất là khổ chứ đâu phải dễ.
Nó đâu là phải bây giờ nó yên như thế này, nó không có gì hết. Các con cứ bịt cái lỗ tai nghe nó ù ù ù ù là các con cũng thấy khó chịu rồi, huống hồ là nó sôi nghe ầm ầm ở trong đó thì mấy con nghĩ sao. Mà mình ngồi vầy mình không có bịt lỗ tai, mà nó phát ra cái thinh tưởng nó làm nghe ầm ầm ở trong cái lỗ tai mình như vậy các con nghĩ sao? Ở ngoài thì người ta không nghe tiếng gầm, tiếng thét đó mà bây giờ ở trong lỗ tai mình, mình nghe như cọp rống ở trong đó thì các con nghĩ như thế nào, mà cứ ngồi đây mà chịu đựng nổi nó ha. Đâu phải dễ đâu, nó là thinh tưởng mà đâu phải dễ nó đâu.
(35:37) Cho nên khi mà tu mà tới chỗ mà mười tám cái loại tưởng mà nó xuất hiện ra là cả cái vấn đề người ta chiến đấu chứ đâu phải dễ đâu. Một là chết, hai là sống với nó chứ đâu phải dễ. Cho nên mấy con yên tâm là vì có Thầy dẫn con đường mấy con không có sợ lạc. Hở hở ra cái gì đó có Thầy chặn đứng lại liền, nó không có còn mà bị lạc nẻo. Còn lúc bấy giờ Thầy coi như là không có biết gì hết, chỉ có tự mình cứu lấy mình thôi. Có vậy thôi mà đi cho tới cuối cùng mà để mà thực hiện được cái sự làm chủ sanh, già, bệnh, chết của mình. Bất động tâm đổi bằng máu và nước mắt chứ đâu có phải thường đâu. Kể như là chết mà chưa chôn.
(36:17) Cho nên bây giờ các con hở ra chút mà có bị thọ ấm ma là có Thầy rồi, chiến đấu đánh tận cùng nó ôm chặt vào pháp Thân Hành Niệm. Nhất định chết bỏ không có lìa, thì ngay đó các con vượt qua một cách nghe mát mẻ vô cùng. Phải không? Còn Thầy hồi đó không biết nó có đau tới mức đó, rồi nó đau nữa hay không nữa? Nếu mà mình gan, nó tới đó rồi nó đau quá rồi chịu sao nổi đây. Có lẽ mình điên chết hay sao?
Cũng như bây giờ hai chân ngồi đau quá trời mà nếu mà ráng nữa không biết chừng nó gãy giò mình nó lọi luôn đây rồi làm sao. Rồi chừng đó mình tàn tàn tật rồi làm sao mình đi được. Nó đủ thứ lo trong này. Khi mà nó đánh cái thọ như vậy thì nó đánh cái vọng tưởng, nó nghĩ cái này, nó nghĩ cái kia. Nó làm động tâm mình hết sức, nó đâu có phải dễ đâu.
Còn mấy con có gì Thầy nói cái mấy con an tâm liền. Không có sợ nó. Thầy nói vậy chứ không có bao giờ chết đâu mà sợ. Có Thầy nói vậy chắc chắn là cái niềm tin nó làm cho mình vững vàng, cái ý, cái lực của mình bắt đầu nó hiện ra nó chống lại liền tức khắc, nó không sợ. Như Thầy thì đâu có được. Con hiểu chưa?
Chỉ khi mà nó thật sự ra cái vọng tưởng nó đánh các con biết đó, nó đánh cái vọng tưởng thì nó đánh cái thọ. Khi mà bị đau rồi thì bắt đầu cái vọng tưởng nó đánh ra. Nó đánh ra cái vọng tưởng, nó luận, nó luận cái thọ như thế này, thế khác. Cho nên nó luận các con ăn, các con uống cho nó mạnh đặng tu chứ nó có luận cái gì hơn. Do đó các con ngã lòng, các con ăn.
Bây giờ nó đánh cái thọ rồi thì nó đánh cái cái vọng tưởng nó luận, nó luận để cho mình xiêu lòng theo cái điều kiện của nó. Mà nếu không xiêu thì bắt đầu nó đánh hôn trầm. Nó đánh con gục tới gục lui, nó nói đi nằm một chút cho nó khỏe đặng tu. Nó dụ mình đủ cách rồi nó đánh mình đủ cách, các con biết nó khó lắm. Còn có có Thầy, nhất định chết bỏ nhất định là cứ đi kinh hành đi thì mình sẽ phá hết cái buồn ngủ. Phải không? Có Thầy thì nó vững rồi. Thầy nói cái niềm tin nó bắt đầu nó sống dậy liền, cái nghị lực của mình nó mạnh mẽ liền, chiến đấu liền.
(38:07) Còn hồi đó như Thầy không có ai hết. Cho nên cuối cùng Thầy phải tự mình chiến đấu với mình mà Thầy còn vượt qua đó thì các con biết không? Nó còn khó khăn vô cùng mà phải không? Cho nên bây giờ, các con đỡ. Cho nên khi mà gặp những cái thọ ấm ma, khi mà bảo các con tu lại cho kỹ hẳn hoi đàng hoàng. Vì đây là con đường mà chúng ta sẽ sắp sửa đi vào cái sự làm chủ sanh, già, bệnh, chết rồi. Chúng ta phải nỗ lực đi tận cùng, thì như vậy chúng ta phải ôm chặt pháp. Thầy bảo ôm cái pháp nào thì ôm chặt pháp nấy thì mấy con vượt qua được.
(38:46) Phật tử Minh Điền: Kính bạch Thầy như Mỹ Châu bây giờ trở về cái đề mục “An tịnh tâm hành, an tịnh thân hành”.
Trưởng lão: Hai cái đề mục đó là quan trọng nhất để mà dẫn cái thân và cái tâm, để khi nó có cái chướng ngại gì đó rồi bắt đầu ôm hai cái đề mục này mà dẫn thân tâm cho nó an tịnh. Rồi khi mà nó an rồi thì coi như là nó phá vỡ những cái cái thọ ấm ma. Cho nên đó là những cái phương pháp để mà đối trị được cái thọ ấm ma. Nếu mà không có cái phương pháp đó thì khó mà mình có thể mà vững tâm mà mình có thể mà chiến đấu với nó được.
Cho nên Mỹ Châu bây giờ mình trở về với cái đề mục "An tịnh thân hành” và “an tịnh tâm hành". Mỗi lần mà nó có cái gì chướng ngại trên thân của mình gọi là thân thọ đó, cái cảm giác đau, ngứa, nhức ở trên thân của mình, nó tê đó, thì sử dụng cái đề mục này, đề mục "An tịnh thân hành". Còn nếu mà cái tâm của mình nó lo lắng, cái tâm của mình nó khởi niệm, cái tâm của mình nó bị kiết sử hay hoặc là gì đó thì tức là thuộc về tâm thì "An tịnh tâm hành".
Hai cái đề mục này phải nắm cho vững. Để rồi đi vào trong cái pháp nào thì hai cái đề mục này nó cũng là những cái loại vũ khí tối cần thiết cho một người chiến đấu trong cái mặt trận nội tâm. Đó là hai cái loại vũ khí rất cần thiết. Cho nên tu phải cho nhuần nhuyễn, cho thấm nhuần, cho có hiệu quả thì nó sẽ thắng trận.
(40:08) Phật tử Minh Điền: Kính bạch Thầy như tu Tứ Niệm Xứ, Thân - Thọ - Tâm - Pháp rồi tâm nó dẫn qua định trên hơi thở. Rồi hơi thở ra vô nó ở yên lặng trên đó có phải là ức chế tâm không Thầy?
Trưởng lão: Như nếu mà mình chỉ dẫn nhắc nó, rồi dẫn nó vào thì nó không bị ức chế. Mà mình không có nhắc nó, mà luôn luôn cứ lo tập trung gom vào ở trong cái hơi thở của Thân Hành Nội của thân mình. Mà mình lo luôn luôn lúc nào mình cũng quên cái ý thức mình nhắc đi đó, thì đó là bị ức chế. Còn có cái ý thức, thường xuyên cứ mình dùng ý thức để mình dẫn nó vào trong cái mục đích gì đó. Thì cái kết quả của nó dẫn đi đó là cái chính của nó, nó không bị ức chế đâu.
Phật tử Minh Điền: Mô Phật, vậy là đúng phải không Thầy?
Trưởng lão: Đúng đó. Tức là nhớ rằng cái pháp Như Lý Tác Ý của Phật luôn luôn lúc nào, cho đến khi cái pháp Như Lý Tác Ý đó nó trở thành cái Trạch Pháp Giác Chi. Cái pháp Như Lý Tác Ý đó nó trở thành cái Trạch Pháp Giác Chi. Từ cái Như Lý Tác Ý đó nó thuộc về ý thức lực, đến khi mà nó trở thành Trạch Pháp Giác Chi nó là tâm thức lực. Cho nên lúc bây giờ chúng ta sử dụng nó, thì cho nên từ đầu mà chúng ta vào tu cho đến khi cuối cùng mà chúng ta nhập tới Bốn Thiền mà thực hiện Tam Minh. Đều hoàn toàn, đều hoàn toàn do hai cái lực này.
Lực đầu tiên là ý thức lực, cái lực kế cuối cùng là Trạch Pháp Giác Chi, đó là tâm thức lực đó. Thì cái tâm thức lực này nó là Trạch Pháp Giác Chi nó sẽ giúp chúng ta nhập các định và thực hiện Tam Minh. Cho nên luôn luôn lúc nào chúng ta đâu có lìa nó đâu, phải ôm chặt nó mà đi hoài. Mà chúng ta bỏ cái phương pháp Như Lý Tác Ý là chúng ta đã bỏ một cái phao. Mà đi trên biển mà bỏ phao thì kể như là chìm thôi chứ không còn gì hết. Bởi vì cái biển này là cái biển tưởng. Con biết không?
(41:53) Bắt đầu từ cái đầu tiên chúng ta vào tu, nó là cái biển dục - Cái tâm dục của lòng ham muốn của con người là cái biển dục. Sau khi mà chúng ta dùng cái ý thức mà chúng ta vượt qua cái biển dục đó thì nó rớt vào cái biển tưởng dục, lọt vào cái biển tưởng. Một lần nữa đi vượt qua cái biển thế tục, cái biển dục là biển thế tục. Bây giờ nó được vượt qua cái biển này rồi thì nó lại rớt vào một cái biển nó còn đen tối hơn nữa. Đó là cái biển tưởng. Nếu mà không có cái ý thức lực, không có ý thức mà tác ý - cái phương pháp tác ý thì coi như là không có cái phao.
Đầu tiên mình nói: "Tâm như cục đất, ly tham, sân, si". "Tâm ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền". Thì cái tác ý đây nè, đó là cái phao của chúng ta ôm mà nhắc mình phải giữ gìn hoàn toàn. Khi đó mình mới lìa được cái tâm dục của cái ý thức dục của mình. Bắt đầu bây giờ cái ý thức của mình bắt đầu nó ngưng đi, cái ý thức nó ngưng đi. Thì bắt đầu nó hoàn toàn nó không có còn mà tác ý, ý thức nữa. Thì nó rớt mình hoàn toàn ở trong cái tưởng, trạng thái tưởng. Mà lúc bấy giờ nếu mà không có dùng cái tưởng thức lực của nó để mà tác ý ra đó. Thì coi như là chúng ta bị chìm ở trong cái biển tưởng mất đi.
(43:06) Do đó thì luôn luôn lúc nào cái ý thức của chúng ta khi mà nó còn mới tu, thì cái ý thức rõ ràng là ý thức chúng ta dẫn. Nhưng mà khi mà chúng ta lọt vào một cái trạng thái nào, an lạc nào đi nữa. Nó làm cho chúng ta thấy thân tâm chúng ta cứ nhẹ nhàng, khinh an thì coi chừng chúng ta luôn luôn cũng nhớ tác ý.
Bởi vì đây không phải là ý thức lực nữa, mà nó ở trong cái tưởng thức, để mà dùng cái lực của tưởng để mà dẹp cái tưởng chứ không thể nào mà khác hơn được nữa. Sau khi cái tưởng nó vượt qua được cái biển tưởng rồi, thì lúc bấy giờ đó cái tâm thức lực chúng ta nó mới hiện ra. Cho nên chúng ta mới thực hiện Thiền Định, nhập các định và thực hiện Tam Minh.
Chứ còn nếu mà trong khi đó cái ý thức của chúng ta, con người đang sống bình thường như thế này mà không có ý thức, thì chúng ta đâu có làm sao mà chúng ta dẫn cái tâm của mình đi vào cái chỗ thanh tịnh của nó ly dục ly ác pháp được. Cho nên bình thường bây giờ mình sống như thế này mình bảo: "Tâm như cục đất ly tham, sân, si hết đi. Tham, sân, si, là đau khổ". Đó là mình tác ý ra.
(44:04) Bây giờ ở trong giấc mộng này mà thấy Cọp dí mình nè, nó bắt đầu mình nói: "Các pháp thế gian á…". Mình cũng nghĩ ở trong giấc mộng thì nó cũng như là mình sống như thế này thôi nhưng mà nó là giấc mộng rồi, ở trong cái thế giới tưởng rồi. Thì lúc bấy giờ: “…Cọp nó là một cái loài động vật hung ác đối với cái nhân quả. Nếu mà có nhân quả cọp ăn thì mặc tình cho nó ăn để mà mình trả nhân quả, có gì mà phải sợ, mà phải chạy mà phải la”. Do đó bình tĩnh không la gì hết cho nên tối ngủ không thấy ác mộng.
Còn trái lại mình thấy cọp dí mình, mình hoảng hồn la quá chừng, giật mình lại thì cọp không có, mà trái lại đó là cái hình ảnh ảo của tưởng thôi. Do đó trong tưởng mình cũng có thể sử dụng được cái ý thức lực tưởng của mình chứ. Cho nên mình cũng tác ý ra: “Cọp là cái loài vật hung ác, nó là ác pháp. Và như vậy nếu mà chúng ta có cái nhân duyên với ác pháp thì bây giờ Cọp ăn mình cũng được có gì đâu phải sợ”. Do đó không có la, do đó vượt qua. Thấy Cọp dí mà không sợ, tới chừng đó Cọp nó nhả ra, không có dí mình được nữa. Do đó mình tỉnh bơ không có thành ác mộng.
(45:07) Cho nên đối với cái ý thức ban ngày mình sống mình tu tập như thế nào thì ban đêm nó cũng thực hiện ra được như vậy. Cũng như bây giờ con ngồi con hít thở phải không? Thì tới chừng con nằm chiêm bao, con ngủ con cũng thấy hít thở rõ ràng rồi con ngủ cũng hít thở đó. Thì như vậy là trong tưởng cũng tu được chứ đâu phải là không được. Vì mình huân nó thành cái thói quen, cho nên trong cái thế giới tưởng, chúng ta cũng ở trong cái thói quen của nó. Cho nên bất cứ ở trong cái cuộc sống chúng ta hằng ngày, chúng ta huân tập cái gì thì chúng ta dù là chúng ta có ở trong cảnh giới nào, cái thế giới nào thì chúng ta cũng có cái sự huân tập đúng. Con hiểu không?
Cho nên vì vậy mà cái ý thức mà tác ý - cái Như Lý Tác Ý, nó là cái vấn đề quan trọng của đạo Phật. Cho nên chúng ta không có lìa nó được. Cho nên vì vậy bây giờ hít thở là cứ năm hơi thở là mười hơi thở, cao lắm là mười hơi thở phải nhắc ý, phải nhắc một lần, chứ không thể nào không. Mà nhắc nó thành cái thói quen.
Cho nên bây giờ con hoàn toàn con ở trong cái thế giới tưởng. Thì con cũng còn cái nhắc đó chứ không có mất được, mà không ngờ cái nhắc đó nó thuộc về tưởng thức lực chứ không phải là ý thức lực nữa. Rồi khi mà cái tưởng thức lực nó đã phá vỡ đi cái thế giới tưởng rồi thì bắt đầu cái tâm thức lực của con tức là cái phao. Không được buông nó, ở bất cứ ở trong cái trường hợp nào thì chúng ta cũng vẫn ôm pháp đó mà chúng ta đi.
Đó là cái pháp Như Lý Tác Ý mà Thầy gọi là dẫn tâm vào đạo, chứ đừng dẫn đạo vào tâm. Luôn luôn mình dẫn cái tâm của mình đi vào trong cái đạo của nó, thì cái tâm của mình dẫn cái tâm của mình vào thiện pháp. Thì bây giờ ác pháp, mình gặp ác pháp thì mình dẫn nó vào thiện pháp thì nó sẽ thoát khổ. Còn mình dẫn nó vào ác pháp thì mình sẽ khổ. Bởi vậy cho nên cái phương pháp của Phật, mình nhờ mình dẫn nó cho nên vì vậy mình ngăn và diệt. Ngăn ác và diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện. Cho nên luôn luôn lúc nào mình cũng đem cái tâm của mình vào cái chỗ cõi thiện chứ không để cho nó cõi ác. Thì cuối cùng thì mình thành tựu. Con nhớ chưa?
(47:10) Vì vậy cho nên về cái đề mục mà dẫn hai cái tâm của mình với cái thân của mình: "An tịnh thân hành” và “an tịnh tâm hành". Là hai cái đề mục này phải tu rất nhiều và tu phải đạt được cái kết quả là không nhắc thôi mà nhắc là thấy rõ ràng là an ổn. Thì cái đó là cái cần thiết, do cái sự mà tu tập của mình rất là cần.
Nghĩa là hằng ngày mà nỗ lực tập mà nhắc: "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra". Vì ba mươi phút nếu mà thân không an thì mình coi như ngồi cả tiếng đồng hồ. Mà khi nhắc nó an rồi, ba mươi phút mình thấy nó coi như cái thời gian của nó chừng năm phút, nó phải còn ngắn hơn năm phút nữa. Nghĩa là cái thời gian ba mươi phút mà thấy nó có chút xíu, nó mau, rất mau. Bởi vì nó an rồi nó không có còn lâu.
Mà khi dẫn được rồi thì con ngồi ba mươi phút con thấy như chớp mắt, như mình nháy mắt vậy, sao nó mau quá. Thí dụ như bây giờ con dẫn được cái thân con an rồi, con ngồi hai tiếng đồng hồ mà con thấy như nó mau, quá mau. Mà nhìn lại đồng hồ thì hai tiếng. Ở ngoài thì người ta thấy hai tiếng rất lâu nhưng mà mình ngồi trong đó thấy có chút xíu, cái thời gian nó không có.
Cho nên khi mà dẫn vô được cái thân mà nó an rồi thì các con thấy không có thời gian. Cái thời gian nó đi mất rồi. Lúc bấy giờ đó, con ở trong cái cõi Trời nào đâu đó, cái thời gian nó quá dài. Rồi coi như hai tiếng đồng hồ mà nó chỉ có chút xíu, chứ nó không có lâu đâu.
Thành ra trái lại ở cái tâm trạng của thế gian, hai tiếng đồng hồ thì con thấy nó dài, thời gian nó dài ra. Nhưng mà ở trong cái cảnh giới mà trạng thái mà an tịnh của nó rồi. Thì cái thời gian của nó không có dài nữa. Ví dụ như người ta nói ở trên Trời một năm bằng ở dưới thế gian một ngàn năm bằng trên Trời một năm thí dụ vậy. Thì rõ ràng là trong lúc đó mình đặt ở trong cái trạng thái đó là rõ ràng là mình ở trên Trời rồi. Ở thế gian một ngàn năm mà mình ở trên đó có một năm. Thì cái thời gian nó không có còn dài.
(49:10) Cho nên cái lúc mình ngồi thiền, cái tâm nó không an, cái thân nó không an, ngồi ráng ngồi cho hết giờ, nó lâu quá. Phải không? Mà nhất là hai cái chân mà đau mà tê rồi, lại ngồi cho chừng năm phút hay ba phút mà cho nó hết, hết đau đặng cho hết giờ đặng xả. Sao mà năm phút nó đi sao mà lâu quá, nó nhức gần chết mà nó lâu quá. Trái lại khi mà chúng ta tu mà dẫn cho được an rồi thì một giờ, hai giờ chúng ta coi như là một tích tắc, một chớp mắt nó đi qua quá nhanh. Cái trạng thái an đó nó không có thời gian.
Cho nên thí dụ như bây giờ cái tuổi thọ của Thầy năm nay là bảy mươi mấy tuổi rồi thì người ta nghĩ rằng, nghĩ mình già chứ gì. Không ngờ là Thầy chỉ cần nhập định thôi, một ngàn năm sau Thầy mở mắt ra Thầy nhìn người ta già lủ khủ, người ta chết hết cả đám nhau, Thầy thì còn trẻ nhăn. Thì các con thấy không? Một ngàn năm mà Thầy còn trẻ nhăn là Thầy không có già. Còn mấy con ở ngoài cái thời gian, một ngàn năm mấy con thay đổi mất, không biết chết bao nhiêu kiếp rồi. Là tại vì cái thời gian của Thầy nó cô động nó không còn có, còn mấy con có cái thời gian cho nên nó vô thường nó chi phối mấy con.
(50:18) Cho nên thí dụ như bây giờ Thầy muốn một ngàn năm sau để xem lại con cháu của mình ra sao, tu ra sao? Thầy chỉ cần vô trong cái Định Thầy nhập Định một ngàn năm sau, Thầy ngồi dựa gốc cây nào đó một ngàn năm sau đừng có ai động địa gì đến. Thân Thầy đừng động đậy gì đến hết. Thầy ngồi đó một ngàn năm sau. Chừng một ngàn năm sau không biết cái thế giới này nó biến đổi tới cái chế độ nào nữa chứ đừng nói. Phải không?
Nó thay đổi toàn bộ hết. Mấy con bây giờ đó chết mất hết rồi, Thầy ra hỏi thăm hồi đó con tu hành tới đâu? Nó chết hồi nào rồi bây giờ có cháu chít nó không chứ còn không nghe nói tới cái ông đó, nó kêu ông cố ông sơ không hà. Mà Thầy thì ở trong cái Định đó thầy mở mắt ra thì một ngàn năm mà Thầy thấy như có chút, có chớp mắt hà. Con thấy không? Thời gian, nó không có, thực sự là đúng như vậy.
(51:05) Cho nên bây giờ mấy con mà dẫn được cái tâm mình an ổn rồi, cái thân an ổn rồi, mấy con không thấy thời gian. Thật sự ra ở đây thầy Chơn Thành nè. Ở đây mấy con tu mà thấy tới lúc mà nó an rồi, các con thấy sao cái thời gian nó nhanh quá, nó không có lâu nữa. Tức là cái thời gian nó không có dài ra nữa. Mà đúng là thực sự đúng như vậy mấy con, có tu rồi mấy con mới biết được cái trạng thái, cái trạng thái an ổn đó. Là cái thời gian của chúng ta ở trong cái thế gian này nó không chi phối mấy con được, nó không còn dài ra nữa, nó chớp mắt. Ngồi một giờ đồng hồ mà thấy sao nó mau quá, nó không còn có cái thời gian lâu. Cho nên nó thật sự, nó thật sự có như vậy chứ không phải là không có như vậy.
Cho nên ngày xưa người ta nói nhập Định một ngàn năm sau, xuất Định ra nhìn lại mọi người họ chết đâu mất hết rồi. Người ta nói cái đó là người ta tưởng tượng ra nhưng mà sự thật, khi mà chúng ta vào Định rồi, cái này không phải tưởng nữa, nó thật, nó thật là như vậy. Cái thời gian đối với cái người nhập Định nó không còn có nữa.
(52:08) Như các con nghe cái câu chuyện hồi chuyện đời xưa mà hồi Thầy đọc lại cái chuyện Từ Thứ mà đi vào cái động Tiên, rồi khi mà trở ra đó thì hỏi thăm bà con người ta thấy ai cũng già chết hết mất, không còn ai biết nữa. Mà mình vô mới có chút xíu mà trở ra thì ở ngoài này họ chết mất hết rồi. Thì rõ ràng là người ta muốn nói cái cảnh giới Tiên, nói với cảnh giới phàm phu, với thế gian của mình nó khác xa chứ gì. Đó là cái như vậy, là đúng như vậy.
Bởi vì cảnh giới Tiên thì các con biết rằng cái trạng thái mà ở trong một ngày, một đêm ở trên cảnh giới mà người ta gọi là Tiên. Thì cái trạng thái đó là cái trạng thái gì của chúng ta ở đây. Có phải là Thập Thiện không mấy con? Cho nên khi mà chúng ta lọt vào ở trong cái Thập Thiện rồi thì nó toàn là nó có sự an lạc của nó mà không có cái thời gian mà nó kéo dài như cái thế gian của chúng ta nữa. Cho nên nói nó là cõi Trời.
Vậy mà người ta còn nói mấy ông Trời, mấy ông Tiên uống rượu thì Thầy nói thiệt là không đúng rồi.
(53:09) Giới luật của Phật đã nói là người là có năm giới là còn tới rượu là còn cấm, huống chi mà nói Tiên uống rượu thì chắc là Tiên này chắc là Tiên đọa chứ đâu phải là Tiên Phật. Cho nên gọi là Tiên tửu đó thì như vậy là rõ ràng mấy ông uống rượu là mấy ông Tiên đó chứ gì? Mà Tiên này Tiên ở thế gian chứ không phải là Tiên trên Trời. Họ nghĩ rằng ở trên Trời mà Tiên uống rượu, cho nên Thầy nghe nói những cái chuyện thần Tiên mà người ta nói những ông Tiên mà uống rượu huỳnh đào rồi này kia rồi đó, đều nói dóc mấy con. Giới luật của Phật đã xác định điều đó mà.
Nghĩa là làm Tiên thì đâu còn uống rượu mà còn uống rượu thì không làm tiên. Mà làm người, người ta còn không uống rượu, mà làm người uống rượu là đâu phải là người mấy con. Bởi vậy năm giới của Phật có cái giới không uống rượu mà, mới làm người chứ. Mà giờ ông, ông chỉ là ông nói ông làm người chứ ông còn uống rượu, tôi biết ông không phải người rồi.
Bởi vì cái tiêu chuẩn làm người tôi biết phải có năm điều kiện. Mà ông còn thích nhậu là ông không phải, ông là động vật rồi, một con thú vật nó đụng cái gì nó ăn cái nấy, nó ngu quá trời, đâu có biết cái thứ rượu là độc. Còn con người người ta phải thông minh người ta biết chứ. Cho nên người ta đâu có uống tầm bậy tầm bạ. Con người thôi, còn huống hồ là ông Tiên thì không phải là thông minh hơn nữa chứ, ông tiên gì mà lại ham uống rượu, thì như vậy là còn sai nữa phải không?
(54:23) Cho nên vấn đề mà người ta đặt ra nói về Tiên uống rượu là sai. Mà Tiên còn đánh cờ là trật. Phải không? Tiên gì mà còn ham cờ. Vậy chứ còn ham cờ bạc, còn tranh hơn, tranh thua nhau. Thì cái đó là sai. Cho nên trên núi mà Thầy nói có những cái cái tảng đá vầy, họ gạch cái bàn cờ tướng phải không? Họ nói ngày xưa Tiên sướng hơn đánh cờ. Trời đất! Tiên này chắc bộ Tiên đọa rồi chứ không phải là Tiên Phật.
Nếu mà Thánh nè, rồi mới Tiên rồi mới Phật phải không? Tiên nó phải hơn Thánh chứ phải không? Nhưng mà ông Thánh đó đức Phật cấm phải không, không uống rượu chè, không bài bạc, không đánh cờ, đánh tướng gì hết mà, thế mà ông Tiên còn bị dính thì ông này ông, ông còn thua ông Thánh rồi.
(55:03) Cho nên bậc thánh Tăng con biết không? Hành động không xem ca hát, không đánh cờ, đánh cờ tướng, cờ gì cũng không đánh, không chơi gì hết. Tức là không có còn dục lạc của thế gian. Thì như vậy mới gọi là Thánh Tiên chứ. Thánh Tiên gì mà còn ham quá vậy thì đâu phải là Tiên. Cho nên những cái này là những cái tưởng tượng của chúng ta chứ chúng ta chưa biết Tiên là cái gì hết. Có phải không?
Bây giờ Thầy biết đứng ở trong giới luật của Phật, Thầy biết là những cái giới đức Thánh chứ gì? Bây giờ một ông Thánh là phải sống như thế nào, thì qua cái giới đức này thì nó xác định được một vị Thánh Tăng, Thánh Ni. Mà nếu những người này làm không đúng thì đó không phải là Thánh Tăng, Thánh Ni. Phải không? Mà không đúng nữa thì đó là không phải được làm con người nữa. Phải không?
Bởi vì đệ tử của Phật là cư sĩ, mà cư sĩ thì có năm giới. Mà nếu cư sĩ mà không giữ gìn đúng năm giới thì người này không phải là cư sĩ của đệ tử của Phật. Phải không? Bây giờ nói tôi cũng là Phật tử nè, tôi cũng theo Phật tôi tu nè, tôi phải giữ gìn trọn năm giới tôi mới là người đệ tử của Phật, người cư sĩ đệ tử của Phật.
(56:07) Còn bây giờ Thầy là một tu sĩ nè, nếu mà Thầy là tu sĩ thì Thầy phải giữ Thập Giới Sa di chứ chưa nói về Cụ Túc đâu nha, Thập Giới Sa di. Mà Thập Giới Sa di thì các con biết là đâu phải dễ đâu. Phải không? Giới uống rượu cũng không có nè mà cái ông Sa di mà còn uống rượu thì ông này đâu có phải là, ông cũng không được cư sĩ nữa chứ đừng nói chi là Sa di. Phải không? Ông này còn cất tiền bạc, còn ăn phi thời thì như vậy làm sao Sa di, phải không? Thánh Sa di làm sao sống cái kiểu đó được.
Cho nên tất cả những cái này nó xác định được là một người đệ tử của Phật đúng hay là người đệ tử sai. Chúng ta nhìn hoàn toàn nhìn vào cái giới này, chúng ta nhìn hoàn toàn vào cái cái giới luật này thì chúng ta xác định được đệ tử của Phật là cái hạng người nào. Bây giờ nói ông là Phật tử mà tôi thấy ông uống rượu như vậy là ông không phải Phật tử đâu. Ông nói chứ ông không phải Phật tử đâu, ông Thọ Tam Quy, ông làm cái sống giống như Phật không?
Bởi vì ông Thọ Tam Quy là ông phải sống như Phật, như Pháp và như Tăng. Phải không? Mà như Pháp thì trong Pháp nó có giới. Phải không? Mà giới xác định cho ông là người đệ tử của Phật là người cư sĩ đệ tử của Phật hay là người cư sĩ không phải đệ tử của Phật. Ông Thọ Tam Quy Ngũ Giới, vậy thì năm cái giới xác định cho ông nè, tôi bây giờ nói là giới ăn trộm, ăn cắp nè, giới tà dâm nè tôi không biết. Nhưng mà tôi thấy ông còn hút thuốc, còn uống rượu là tôi không chấp nhận rồi. Không lẽ người cư sĩ đệ tử của Phật mà như vậy là làm sao mà gọi là đệ tử Phật. Ông quy y với ông Thầy nào, ông đó còn hút thuốc phải không? Còn uống rượu phải không? Truyền giới cho ông kiểu này là không được. Ông về ông sửa lại mới là đệ tử của Phật, chứ mà ông không sửa lại thì ông đệ tử của ngoại đạo chứ không phải là của Phật đâu.
(57:48) Cho nên năm giới nó đã xác định cho đúng là người cư sĩ đệ tử của Phật. Phải không các con, thấy không? Mà bây giờ đó Mười Giới Sa di nó xác định cho người đệ tử tu sĩ của Phật rồi. Mà nếu tu sĩ của Phật mà sống không đúng Mười đức hạnh, Thánh Hạnh này thì làm sao gọi là Thánh Tăng, Thánh Ni được. Không thể nào gọi là Thánh Tăng, Thánh Ni. Người ta còn gọi cư sĩ là Thánh cư sĩ.
Bởi vì giới Thánh của nó ở trong giới cư sĩ là Đức Thánh Hiếu Sinh. Người cư sĩ mà biết thương tất cả sự sống của loài vật mới là đệ tử của Phật chứ. Đó là gọi là tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả của người ta mà. Cho nên vì vậy mà giới đức hiếu sinh là giới không sát sanh chứ gì. Đâu có phải cấm mấy ông đừng có sát sanh mà mấy ông không có lòng thương yêu sự sống thì cái không sát sanh của mấy ông có nghĩa lý gì.
Cho nên ở đây nó xác định được đức Thánh của mấy ông là một người cư sĩ Thánh đệ tử mà, đã nói Thánh đệ tử của Phật chứ đâu phải là nói đệ tử phàm phu của Phật đâu. Bao giờ ông Phật mà nói là không Thánh đệ tử. Cho nên mấy con, thí dụ cư sĩ là đệ tử của Phật là Thánh cư sĩ đệ tử của Phật chứ đâu phải là phàm phu. Năm giới này mấy con phải giữ gìn năm đức hạnh của nó. Cho nên năm đức hạnh này nó mới lên được Thánh cư sĩ đệ tử chứ.
Mà Mười Thánh Đức của Sa di thì nó xác định cho được một tu sĩ vừa mới bước chân vào đạo Phật, vẫn có mười cái Đức Thánh của người ta sống. Thì như vậy mới là Thánh Sa di chứ. Còn mình Sa di gì mà sống không có đúng những cái giới đức Thánh này, làm sao mà gọi là Thánh Sa di được.
(59:24) Cho nên ở đây kê ra những cái giới đức Thánh ra thì từ cái ông nào dù là Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức. Tất cả những vị dù là có trình độ học thức tiến sĩ Phật học đi nữa mà ông sống không đúng, ông chỉ là ngoại đạo thôi chứ không thể nào được chấp nhận ông là đệ tử của Phật. Vị đệ tử của Phật được gọi là Thánh Tăng và Thánh Ni, Thánh cư sĩ. Vì nó xác định được những đức hạnh Thánh của nó. Nếu mà ông sống sai thì ông không phải là Thánh đệ tử Phật.
Thì do như vậy khi mà cái bộ Giới Đức Thánh mà ra đời thì xác định được cái chỗ mà chúng ta rõ người cư sĩ nào là đệ tử của Phật mà người cư sĩ nào đệ tử của ngoại đạo. Cũng cư sĩ mà đệ tử ngoại đạo chứ đâu phải là cư sĩ nào cũng của Phật hết đâu phải không? Đệ tử của Phật là phải Thánh cư sĩ, sống phải đúng năm giới. Phải không? Đệ tử mà tu sĩ của Phật là phải sống tệ nhất là phải sống mười giới. Thánh Sa di mà, mười giới người ta hẳn hòi mà, làm sao phạm mười giới này, làm sao gọi là Thánh được.
Cho nên mục đích những cái Thánh Đức này nó giúp cho người tu đó, người cư sĩ đó ly dục ly ác pháp làm cho họ sống đúng Giới Hạnh là họ có ly, họ có cái sự giải thoát của họ rồi. Có phải không? Các con lấy giới mà kê ra thì các con thấy các con có giải thoát không? Không có còn làm đau khổ mình, mà không có làm đau khổ người thì đó là giải thoát chứ sao. Có phải đúng vậy không?
(1:00:47) Bây giờ thí dụ như Thánh Đức Hiếu Sinh, biết thương yêu sự sống của muôn loài, thì mình nỡ nào mình là thương yêu mà mình làm khổ người khác được sao? Cho nên đó là giải thoát phải không? Không làm khổ mình, không làm khổ người thì như vậy là nội cái Thánh Đức đó - Một Đức Thánh này cũng là thấy được giải thoát rồi. Còn bây giờ không tham lam trộm cắp là Đức Thánh Buông Xả. Rồi không tà dâm là Đức Thánh Đạo Nghĩa. Không vọng ngữ là Đức Thánh Thành Thật. Không uống rượu là Đức Thánh Thông Minh.
Năm Đức Thánh này của người cư sĩ phải là những người mà sống đúng cái này, có phải là Thánh cư sĩ không? Nghĩa là cái người mà sống đúng năm giới này Thầy nói thật sự là người Thánh cư sĩ của Phật rồi. Đệ tử của Phật là Thánh rồi chứ không còn phải là phàm phu nữa.
(1:01:33) Họ nhìn lại đi, bây giờ cư sĩ mà theo đạo Phật bây giờ tu gọi là tín đồ đạo Phật thì Năm Giới Đức Thánh này có sống trọn đúng không? Không! Cho nên mấy người này chỉ là cư sĩ ngoại đạo chứ chưa phải là cư sĩ của đạo Phật. Có đúng không? Nếu mà cư sĩ của đạo Phật là phải như vậy mà Năm Giới Đức Thánh này nó đã xác định được người này ly dục ly ác pháp hoàn toàn cho nên họ không còn đau khổ nữa, họ không làm khổ mình, khổ đau người.
Còn Đức Thánh của tu sĩ là Mười Đức Thánh Sa di của nó thì các con thấy nghiêm chỉnh vô cùng lận thì làm sao ai dám chê nó được. Nó là Thánh A La Hán rồi, nếu mà nó chấp nhận Mười Đức Thánh này thì nó ly dục ly ác pháp hoàn toàn, cho nên nó thực hiện các pháp thì nó sẽ chứng quả A La Hán chứ sao. Các con thấy chưa? Đi từ cái giới mà phải thấu suốt được cái lý của cái giới rồi thì lúc bấy giờ chúng ta mới xác định đạo Phật có mấy người? Còn lại được mấy người?
Bây giờ nhìn thì đông đó, ai cũng mang y mặc bát, ai cũng vỗ ngực xưng mình là Thọ Tam Quy Ngũ Giới hết. Nhưng mà xét lại cho cuối cùng bây giờ đạo Phật còn được mấy người. Phải không? Còn bao nhiêu là ngoại đạo hết đó. Như vậy là sai, là ngoại đạo chứ gì? Không đúng là ngoại đạo chứ gì?
Mấy ông đừng có vỗ ngực xưng tên mấy ông là đừng nghĩ là mấy ông là đệ tử của Phật đâu. Phật không có chấp nhận những đệ tử mà phạm giới, phá giới này đâu. Đức Phật đã xác định mà, giới luật còn là Phật pháp còn, giới luật mất là Phật pháp mất mà. Mấy người đã phạm, mấy người đã phạm giới làm hư hoại giới là mấy người đã làm Phật pháp chết rồi. Cho nên Phật pháp đâu còn mà gọi là đệ tử của Phật. Còn một người còn sống đúng giới luật, sống đúng Thánh hạnh, thì do đó là Phật pháp chỉ có một người. Cho nên Phật pháp còn là còn có một người chứ đâu phải còn nhiều người được.
(1:03:13) Cho nên trên con đường tu mấy con nên nhớ rằng Thánh Hạnh rất là quan trọng. Thì trong vài hôm nữa thì các con sẽ đọc được bộ Mười Thánh Đức Sa Di. Nghĩa là Mười Đức Thánh của Sa di trước kia mấy con đọc, khi bộ giới Thánh Đức Sa Di này ra đời thì coi như là các bậc Tôn túc, Hòa thượng ở trong cái hàng giáo phẩm của Phật giáo của chúng ta đều là bị đổ vỡ xuống. Chứ chưa nói đến mà một trăm mấy chục giới Thánh của một vị Tỳ kheo, vị thọ Cụ túc. Đó là mới có Sa di thôi nhưng mà nó xác định được cái tầm vóc của của Phật giáo là như vậy.
Để chấn chỉnh lại toàn bộ Phật giáo nó phải - thà là một người tu mà tu cho đúng pháp của Phật, tu cho đúng giới của Phật hơn là nhiều người tu mà Phật pháp không còn. Sau khi bộ giới đó, nó sẽ xác định rõ được để mà chấn chỉnh lại Phật giáo hoàn toàn đem lại cho đạo Phật và xây dựng lại nền đạo đức của đạo Phật để làm tốt lại.
Người cư sĩ là phải sống như thế nào cho đúng. Nếu mà tôi chấp nhận tôi sẽ là đệ tử của Phật thì tôi phải làm đúng như vậy. Còn nếu mà tôi không dám chấp nhận thì thôi tôi cứ sống ở ngoài đi. Đức Phật đâu có dụ, không có dụ dỗ người ta theo đạo mình cho đông đâu. Nghĩa là không bao giờ dụ dỗ ai hết. Anh muốn vào đạo tôi anh phải là sống cho đúng, để đem lại lợi ích cho bản thân của anh thứ nhất và đem lại lợi ích cho những người xung quanh anh. Còn nếu mà anh vào đạo Phật tu, anh đến với đạo Phật, anh là đệ tử của Phật mà anh làm khổ người, làm khổ anh thì anh không phải là xứng đáng.
(1:04:44) Mục đích của nó là sau này nó phải chấn chỉnh như vậy đó, nó làm tốt lại như vậy đó. Tôi nguyện cuộc đời tôi vào đạo Phật là tôi đem lại hạnh phúc cho mọi người và đem lại hạnh phúc cho chính tôi, cho chính bản thân tôi thì tôi mới vào đạo Phật. Còn nếu mà tôi muốn làm khổ thiên hạ, tôi muốn làm khổ tôi, tôi muốn làm khổ thiên hạ thì tôi phải ở ngoài cái hàng rào của Phật giáo đi, đừng có vô trong cái hàng rào Phật giáo. Đó là cách thức của cái mục đích và cái cách thức đời sống của một vị tu sĩ, cư sĩ của đạo Phật là phải như vậy.
(1:05:17) Như hôm nay thì trên cái bước đường mà các con theo Thầy các con tu, lần lượt Thầy sẽ chỉnh đốn mấy con lại hết. Để mấy con xứng đáng là một người đệ tử của Phật. Rồi bắt đầu từ đây về sau các con mà đã sống đúng như vậy rồi thì các con tu thấy không còn khó khăn. Nghĩa là chứng quả A La Hán rất dễ dàng. Bây giờ các con sống ê chề như trên đống rác mà các con muốn làm một bậc Thánh à, A La Hán à? Làm sao mà Thánh được phải không?
Các con hiểu mình phải sống cho trong sạch, cho đúng cách của một Thánh đệ tử. Thì lúc bấy giờ đó thì cái con đường mà tu để mà chứng quả A La Hán đâu phải còn khó khăn. Cho nên trải qua một cuộc đời tu hành của Thầy rồi, Thầy thấy rõ ràng đạo Phật không phải là khó khăn.
Cho nên hồi sáng này có một người Mỹ họ nói khó quá, làm nói thì vậy chứ làm khó quá. Tại vì họ chưa hiểu thôi chứ đâu phải khó đâu. Mình tập sẽ thành quen. Nghĩa là bây giờ hồi nào tới giờ Thầy đâu có ăn ngày một bữa. Bây giờ Thầy tập Thầy ăn ngày một bữa Thầy cũng quen như thường. Mấy con về đây mấy con tập ăn ngày một bữa, có ai bắt mấy con chết bao giờ đâu mà sợ, thành ra bây giờ cũng quen rồi. Tới trưa mình ăn, sáng cũng đâu có đói. Mọi lần ở nhà dễ gì, sáng ra mà không ăn được miếng chắc chắn là cồn cào bụng rồi. Chiều mà không có ăn, có uống gì đó thì chắc cũng chịu không nổi rồi. Nhưng bây giờ các con thấy bình thường rồi không còn gì nữa. Rõ ràng là mình sống quen chứ, đâu có cái gì đâu khó. Phải không?
Bởi vì con người ta tập thành cái thói quen mà thói quen tốt, chứ không tập thành thói quen xấu. Còn một ngày mình tập ăn ba bốn bữa là tập thành cái thói quen xấu chứ đâu phải là thói quen tốt. Ăn cho nhiều hao tiền, hao của mà rốt cuộc rồi tiêu ra, bỏ ra phí ra ngoài chứ có lợi ích gì đâu. Không có lợi ích gì hết.
(1:07:01) Cho nên trong cái vấn đề tu theo Phật các con phải biết sống cho quen, tập cho quen đừng có vội vàng. Hồi nào tới giờ mình sống nó không có đúng, bây giờ mình tập sống cho đúng. Đừng có muốn mau mà phải sống cho đúng cách. Từng đó mỗi một cái tâm niệm, đức Phật đã bảo mình ly dục ly ác pháp, đừng có vội vàng mà hàng ngày mình sống cái tâm niệm của mình khởi lên nó muốn cái gì? Thì lúc bấy giờ cái muốn đó mà thực hiện cái muốn đó, nó đúng hay là nó sai.
Nó đúng thì như thế nào gọi là đúng? Nếu nó đúng là nó không làm khổ mình, khổ người. Mà nếu nó không đúng là nó sẽ có làm khổ mình, khổ người trong đó. Thì hễ không đúng thì nhất định là không làm theo mà đúng thì làm. Thì các con làm sao mà suy nghĩ không làm khổ mình, khổ người thì nó mới đúng. Mà có làm khổ mình, khổ người là không đúng.
Bây giờ thí dụ như con khởi muốn có cái chiếc xe để mà lái đi làm công việc phải không? Nhưng bây giờ tiền nó không có nè, bây giờ phải ráng lo làm cái này cái kia cho nhiều để mà có tiền. Thì đây là nó sai, nó không đúng. Là tại vì sao mấy con biết?
Tại vì nó sai mình, nó làm cho mình phải cực khổ tức là ác pháp. Bây giờ mình chỉ cái phương tiện của mình dùng thôi, đừng có theo cái ham muốn đó. Thì tức là nó không làm khổ mình rồi. Do đó mình cứ cố gắng mình làm đến khi mà nó có đủ điều kiện mà sắm cái xe thì cứ sắm ai cấm, ai cản mình. Còn bây giờ nó không đủ mà mình khởi ra tâm ham muốn thì phải lo làm cái này, phải lo ăn trộm, ăn cắp cái kia để mà làm cho có để sắm cái xe thì như vậy là lần lượt đưa mình đến cái ác pháp nhiều rồi. Tức là sai. Phải không? Các con thấy chưa?
(1:08:42) Cho nên trong cái vấn đề tu, chúng ta tu, cứ ngồi mà xem xét, cho nên đức Phật nói: "Trên Tứ Niệm Xứ để mà khắc phục tham ưu". Bây giờ nói về tâm của mình thì nó niệm này, nó khởi cái kia. Ai biểu ngồi đây đừng niệm, có niệm nhưng mà biết cái niệm này là tốt, cái niệm này xấu, cái niệm này phải, niệm này trái. Cái niệm này dừng lại không làm theo, cái niệm này cần phải làm theo, vì làm theo mà không làm khổ mình, khổ người thì nên làm chứ, chứ đâu phải niệm nào cũng diệt hết đâu.
Thì như vậy là hàng ngày các con ngồi trong thất này, bây giờ ngồi tu chứ gì, tu Tứ Niệm Xứ nè mà cái tâm nó khởi, bây giờ nó nghĩ là thấy mấy cái ngọn lang kia thôi để ngắt ngày mai luộc ăn. Như vậy là cái tâm mình còn tham ăn rồi. Ngày mai người ta không ngắt lang, người ta cũng ăn, người ta cũng sống mà tại sao giờ này còn đòi thêm rau nữa, thì như vậy là rõ ràng mày còn tham rồi. Như vậy là chỉ cái mặt của nó tham đi. Thì do đó nó tham là phải dừng không có được. Cuối cùng thì nó dừng cái tham của nó đi. Thì đó gọi là ly dục chứ cái gì?
Cho nên mấy con tu mấy con ly là ly cái gì bây giờ. Nghĩa là chặn đứng cái lòng ham muốn của chúng ta là ly. Hằng ngày nó biết bao nhiêu cái mặt của nó hiện ra để mà nó sai chúng ta trong cái dục mà chúng ta không thấy mặt. Cho nên vì vậy mà nó bảo cái gì chúng ta cũng đi làm theo hết.
Bây giờ ngồi đây mà nó thấy đống rác dơ kia, thôi đi quét cái đống rác đi. Thì cái này là cái dục chứ gì, chứ có gì: “Giờ này đâu phải là giờ mày quét rác đâu, sáng sớm là mày xách chổi mày quét là tao cho mày sáng đó mày đi quét. Chứ đâu phải giờ này giờ đi hốt rác đâu, giờ này mày ngồi chơi chứ. Tao cho mày ngồi không mà mày không chịu, mày thấy đống rác kia hoặc cây cỏ kia mày ra nhổ. Bộ mày muốn cái được điều đó hả? Mày muốn không? Vậy tao cho mày làm mày chết”. Như vậy là không có đúng, mình làm như vậy là mình làm theo dục.
Dừng lại cái dục này đi gọi là ly, còn chạy ra hốt đống rác, nhổ cọng cỏ kia thì như vậy trật. “Sáng sớm là cái giờ tao lao động thì không phải là do tao muốn, mà đây là cái nhiệm vụ trọng trách tao phải quét cái sân cho sạch. Cho nên sáng sớm tao thức dậy tao cầm cây chổi tao đi quét mà cái trách nhiệm bổn phận của tao không phải ham sạch đâu”. Phải không? Bây giờ mình quét cái sân của mình rồi, rồi bắt đầu cái giờ tu,ngồi thấy cái đống rác đó, bắt đầu để hồi đi hốt rác cho sạch. Như vậy là cái dục chứ cái gì đâu, cho nên mình phải diệt nó đi. Phải không?
(1:10:59) Cho nên bây giờ mình ngồi đây cái mình thấy: "Cha! Có con mối nó bò lên cây cột nè nó ăn? Thôi để, để diệt nó đi!. Giờ này đâu phải là giờ đi diệt mối. Phải không? Buổi sáng là buổi mày chăm sóc quét dọn thì có mối thì mày trừ, còn không mối thì thôi buổi sáng chứ sao giờ này. Giờ này ăn sập cột tao cũng không thèm nói tới đâu. Phải không? Mày sai tao làm cái gì cũng không được hết, nhất định là tao ly dục rồi”, các con hiểu không? Có chút chút vậy chứ mà nó sai mình.
Cái chút nhìn thấy: “A một cái con thằn lằn, nó bắt cái con thiêu thân gì đó. Thấy nó đập con kia chết tội nghiệp quá. Trời tâm từ bi mình phải thương xót thôi, thôi để cứu”. Mặc nó, nhân quả của nó làm ác kệ nó, giờ này đâu phải mà giờ đi cứu chúng sanh đó đâu. Phải không? Còn cái giờ mà đi cứu chúng sanh thì mày làm. Còn cái giờ không phải giờ mày ở đây mày tu cái tâm của mình, mà mày cứ ba cái chướng ngại này thì trong cái xã hội này biết bao nhiêu là pháp chướng ngại, mà mày ngồi đó mày cứ lo cái chuyện thiên hạ không thì cái tâm mày làm sao thanh tịnh? Mày chạy theo dục hết rồi. Có đúng không?
Mấy con thấy không? Nội mình ngồi mình xét cái tâm của mình, mình thấy mình có ly hay không ly thôi. Mà vì vậy mà gọi là tu Tứ Niệm Xứ để khắc phục tham ưu, những cái này là những cái tham ưu của mình mà mình không khắc phục được thì mình còn tu cái gì mấy con.
(1:12:10) Mấy con tu cho nhiều chứ sự thật ra gom lại thì mấy con chưa có ly dục, ly ác pháp thì mấy con bị ức chế chứ cái gì. Thầy nói thật ra Thầy ngồi tu, khi mà Thầy trở về pháp của Phật Tứ Niệm Xứ, Thầy thường ngồi chơi Thầy nhắc: "Tâm ly dục, ly ác pháp, như cục đất, ly tham, sân, si hết đi". Nhắc nó vậy thôi, thì nó đâu phải cái tâm của mình nó như cục đất liền được đâu?
Bắt đầu nó nghĩ, nó nghĩ là nó sai mình đi làm nữa chứ. “Ờ mày chết cái dục của mày, rõ ràng là tao bảo mày ly dục, mày phải ly, chứ sao mày lại sai tao làm. Như vậy là mày muốn đó chứ, chứ đâu phải là mày không muốn, như vậy là tao không làm”. Hơi rồi bắt đầu mình ra lệnh nó mình không làm, mình ngồi chơi. Cái lát, cái nó kiếm chuyện khác nữa chứ không phải là nó chuyện đó thôi đâu, chuyện này rồi tới chuyện kia.
Để coi một ngày mà khi mới tu, các con sẽ thấy nó nhiều chuyện lắm, nó sai mình nhiều chuyện, nó dục nhiều thứ lắm chứ không phải một thứ. Còn có thanh thản, an lạc nó ít lắm. Nhưng mà ngồi riết rồi, nó sai không được rồi bắt đầu nó thanh thản. Trời ơi, thanh thản sao cái đầu nó trống rỗng vậy! Trời ơi, thanh thản sao cái thân mình nó nhẹ nhàng quá vậy!
Thì vậy là sướng quá rồi! Phải chi mà đi hốt rác đồ này kia chắc cái thân của mình nó như cục đất nặng chứ làm gì. Đúng không mấy con? Lúc đó làm riết rồi cái thân của mấy con Thầy nói y cục chì chứ đừng nói cục đất. Nó nặng như cục đá vậy.
(1:13:25) Còn Thầy nó sai Thầy không được bắt đầu cái thân Thầy nó nhẹ lên, cái đầu Thầy nó trống rỗng, cái tâm nó không phóng dật. Thầy có ngồi thiền, Thầy có nhiếp tâm ở đâu. Còn hồi mà Thầy tu Thiền Đông Độ Thầy nhiếp, trời, kinh khủng lắm mấy con đâu phải dễ đâu. Mà Thầy nhiếp không có vọng tưởng vô được mà, Thầy tu kinh lắm chứ. Nhưng mà cuối cùng có lợi ích gì đâu. Này Thầy ngồi chơi, tâm Thầy sai Thầy không được, nó bảo Thầy muốn gì cũng không được hết. Cuối cùng Thầy thắng nó, Thầy ly mất hết. Có phải Thầy sướng không? Có bao nhiêu đó thôi chứ gì?
Thầy nói bây giờ Thầy ở trên ghế này Thầy ngồi Thầy chơi. Thầy ngồi trong cái thất này nè, cái nhà này Thầy ngồi chơi nè, từ sáng đến bây giờ. Nó bảo Thầy đi, Thầy nói Thầy không đi. Còn mấy con nó nói mỏi chân mà nó kêu đi, cái các con rề chân đi, tức là nó sai mình nó dục rồi chứ gì. Bởi mấy con thua nó rồi, còn Thầy luôn luôn Thầy thắng nó. Phải không? Cuộc đời Thầy tu hành là Thầy làm chủ nó, Thầy thắng nó. Liên tục nó sai Thầy không được gì hết.
“Bây giờ, giờ này là giờ ngồi chơi nè, ngồi chơi Tứ Niệm xứ nè phải không? Mày sai tao không làm nè!” Con nhắc nó vậy rồi, vậy mà một lát nó chuyện này hết chuyện kia. Rồi bắt đầu nó làm gì các con biết không? Ngồi một hơi là nó bắt đầu nó làm cho cái thân mình mỏi chứ gì, nó bắt đứng dậy đi là cái khoái rồi chứ gì. Nhất định là mỏi chết bỏ tao ngồi đây tao không đi thì như vậy là mình ly dục chứ gì. Còn nghe hơi mỏi mỏi cái bắt đầu đi, nó làm cho mình nhìn cái này, kia thoải mái, trời ơi sướng! Sự thật ra mấy con đã chạy theo dục hết rồi.
(1:14:47) Còn vô ngồi tu thì mấy con cứ hít thở ức chế nó, cuối cùng lúc mà ức chế không vọng tưởng nhưng mà xả ra các con cũng không làm chủ được nó gì hết, không có ly được nó gì hết. Cho nên Thầy nói thật sự Thầy tu ba ngày là chứng đạo liền, nó sai Thầy không được Thầy chứng chứ gì. Còn mấy con nó sai lia lịa hà. Lát cái rờ tóc, nó dài thôi để cạo cho nó trống. Trời đất ơi! Còn đẹp đẽ gì nữa các con biết không?
Các con đọc trong Người Chiến Thắng, râu Thầy ba dai vầy nè, tóc Thầy nó phủ dầy nè. Thầy chẳng bao giờ Thầy cạo tới nó nữa. Nó cũng muốn chứ, nó nói cái đầu ngứa quá, bây giờ không có xà bông thôi để cạo cho nó sạch đừng ngứa. Nó cũng sai Thầy, Thầy nói ngứa chết bỏ tao không có sợ đâu, tao không cạo đầu đâu. Ai nói tao Tiên, nói gì kệ, tao không cạo đâu, tao bây giờ ở trong thất tao biết tu chứ tao biết xả tâm tao, không có sai nữa. Cho nên râu Thầy ba dai nè phải không? Tóc Thầy nó phủ xuống nè, Thầy kệ nó, nó muốn làm đàn ông, đàn bà gì thôi kệ, Thầy chả cần nó.
Còn mấy con hơi hơi vậy cái, nay là 12 rồi, còn ba bữa nữa là rằm phải cạo tóc rồi. Trời đất ơi! Chưa tới cạo tóc mà nó lo nó nhớ nó dục vậy rồi. Như vậy mấy con tu làm sao cho tới, các con thấy cái tâm mình nó sai. Trời đất ơi! sao lại nó cứ, nó lựa chừng gần tới ngày đó, nó sai chuyện này đến chuyện kia, nó làm đủ thứ.
(1:16:00) Khi mà tu rồi, mình thấy mình ngồi mình mới tu Tứ Niệm xứ, mình mới sáng suốt, mình mới quan sát được. Không ngồi thiền đâu, không có cần ngồi kiết già đâu mà ngồi. Thường thường trong thất Thầy không có cái ghế vầy đâu, Thầy ngồi dựa lưng vô vách chơi vậy thôi. Không thèm mở cửa ra, nó bảo “mở cửa ra đặng dòm ở ngoài thấy chút cho sáng.” “Nhất định tao đóng cửa không thèm mở đâu. Mày đừng có sai tao được đâu.”
Coi như là mình, mình độc thoại với mình. Mình nói chuyện với mình luôn luôn lúc nào cũng đấu tranh với nó hết. Nó bảo gì cũng không được hết, nó bảo mở cửa sổ, cũng không mở. Nó bảo mở cửa cái, cũng không mở. Nó bảo nhìn ra ngoài, không nhìn. Nó bảo nhìn ra, mình nhìn xuống. Mình làm cứ ngược lại nó, làm riết cái bắt đầu không được, nó đi mất thì mình chứng đạo. Có vậy thôi, có gì đâu.
Các con thấy cái này nó dễ thôi chứ đâu có gì đâu khó đâu. Mình làm ngược lại mình đi, nó bảo gì cũng không được hết, ngồi chơi là ngồi chơi. Nó bảo mỏi thôi đứng dậy đi! Nhất định là không đi! Nhất định nó làm cái gì Thầy cũng không đi. Nghĩa là chỉ có mình làm thôi chứ còn nó sai không được. Và cứ như vậy thì mấy con sẽ…
(1:17:01) Cho nên thầy Mật Hạnh nói với Thầy: Con thấy cái pháp nó kì cục, khi mà Thầy bắt con vào trong thất tu ba năm với Thầy. Thì con thấy cuối cùng cái tâm nó sai con đủ thứ hết mà con biết là nó sai con không được, vì con biết mặt nó quá rồi. Nó hễ nó hiện ra cái tướng gì nó sai con, con không làm theo nó.
Cuối cùng thì nó đánh con bằng cách này, nó nói: “Nếu mà thành Phật thì như vậy là nó sai mình không được rồi, thì tức là cái tâm ham muốn của mình nó hết. Mà mình hồi nhỏ tới lớn mình chẳng biết gì đời hết, rồi nó không làm ham muốn thì nó uổng quá. Thôi bây giờ để ra đời cho mình biết chút ít, để coi thử coi nó sao, rồi bắt đầu mình vô tu chắc ăn, chứ để không nó mất hết muốn sao? Thành Phật rồi đâu còn muốn nữa!”.
Nó nghĩ rõ ràng là nó hết muốn được, cứ mình bảo nó, cứ nó sai gì cũng không được hết thì tức là nó hết muốn chứ gì? Thì như vậy rõ ràng là thành Phật chứ gì? Phải không? Như vậy là không được. “Mình từ hồi nhỏ tám tuổi theo Thầy tu tới bây giờ, chẳng biết gì ngoài đời hết trơn, hết trọi vậy. Không biết ở ngoài nó sao đây? Bây giờ nếu mà nó hết muốn luôn rồi, chắc chết luôn, rồi có biết gì nữa?"
Rồi đó nó bắt đầu nó lý luận, nó cũng là lý luận như vậy chứ đâu phải không. Nó lý luận nó đánh anh này cũng tan nát chứ không phải vừa. Con biết không? Cho nên nó xin phép Thầy mặc chiếc áo đời. "Con mặc chiếc áo đời ra để cho biết đời rồi, mai mốt nó làm sao nó dụ con được, con biết nó mà, nên đâu có sai."
(1:18:17) Thì hôm nay mấy con đã hiểu biết đời rồi, đời là khổ rồi. Ông Phật đã xác định và mình cũng đã hiểu biết rồi. Nghĩa là thí dụ như mấy con cư sĩ mấy con đã biết đời khổ nhiều rồi. Thế mà bây giờ để cái tâm mình sai mình sao? Nhất định là không được sai nữa.
Cho nên thí dụ như mấy con về đây ở hai bữa, ba bữa, bốn bữa. “Sai cái gì tao cũng không làm hết, tao là người vô sự nè, thanh thản, an lạc, vô sự. Thân thì an lạc, tâm thì thanh thản mà vô sự không làm điều gì hết. Sáng sớm tao xách chổi, tao đi quét là tại vì buổi sáng phải làm công việc.” Phải không? “Tao sai mày làm, chứ mày không có sai tao. Còn trưa tao phải xách bình bát tao đi xin cơm ăn, tao sai mày đi xin cơm chứ không phải mày đói bụng đi xin. Bây giờ, 5 giờ chiều mày bảo tao đi xin cơm, nhất định là tao không đi, chết bỏ.” Phải không? “Sáng mày bảo tao bưng bình bát đi xin cơm ăn, tao nhất định không đi, không, mày không có chống tao được.”
Như vậy là nó sai mình được không? Nhưng mà tới giờ, “đúng 11 giờ là tao đi xin cơm. Mày không sai tao cũng đi nữa chứ đừng nói.” Phải không? Cái giờ nào mình làm ra giờ nấy, “sáng ra đúng giờ tao đi quét sân, không khéo mày mới sáng ra bây giờ mày không chịu quét sân cái mày nằm, mày cứ nằm ì, ì đây mày làm biếng, mày nằm ở trên giường. Mày nói mày rảnh rang mày vô sự, mày làm biếng đâu có được. Sáng sớm ai cũng xách chổi quét thì mày cũng phải đi quét chứ mày đâu có làm biếng cái kiểu đó được!”
Thì do đó mình sai nó chứ nó đâu có sai mình. “Còn giờ này đâu phải giờ quét mà mày bày đặt, tao xách chổi ra đó quét. Mày sai tao như vậy là trật giờ là như vậy là mày dục. Cho nên tao không có làm theo dục!” Thì như vậy là cuối cùng mình là người thắng nó chứ gì? Tức là ly dục, các con hiểu cách thức ly chưa? Học ly là học như vậy chứ sao, chứ đâu phải là ly tâm như cục đất, ly tham sân, si hết.
Cái này là các con luyện cái pháp ý thức lực để thành nội lực thôi chứ các con làm sao ly. Ly là mình không làm lại nó, theo cái lệnh của nó, theo cái ý muốn của nó thì tức là mình ly nó. Rồi cuối cùng thì nó ly ra, nó ly ra thì mình giải thoát chứ có gì đâu. Các con thấy chưa?
(1:20:18) Thầy muốn nói cái kinh nghiệm để cho chúng ta biết tu Tứ Niệm Xứ là như vậy. Cho nên cái ngày xưa mà ông Châu Lợi Bàn Đặc ổng dốt, ổng học có bốn câu kệ mà anh ổng dạy ổng không thuộc. Đọc hoài mà ông anh ổng dạy không được: "Mày ngu quá mày đi về đi, chứ mày tu cái gì mà mày học có bốn câu kệ mà không có thuộc. Ở đây tao mắc công tao quá, tao dạy mày có bốn câu kệ không thuộc”. Ông này thì ổng ham tu mà bắt ổng phải học thì ổng làm sao ổng học được. Cho nên ổng khóc. Ông anh nói kỳ: "Chiều nay là mày phải đi về chứ mày không có được ở đây nữa. Mày học mày dốt quá như vậy làm sao được mà tu". Đuổi ổng như vậy, ổng tức quá ổng cứ ngồi ổng khóc.
Ông Phật ông đi ngang qua ông thấy ông hỏi tại sao khóc? Nói: "Anh tôi chiều nay cho về, đuổi tôi không có cho tôi ở, tôi tu nữa, tôi học bốn câu kệ không thuộc". Ông Phật ông nói: "Thôi, đến thất của Phật đi, Phật dạy cho cách thức tu”. Ông dạy ngồi quét tâm tức là tu Tứ Niệm Xứ, trên Thân - Thọ - Tâm - Pháp mà quét ra cho sạch, cứ quét đi không học câu gì hết.
Về nói với ông anh: “Nếu mà đuổi lần nữa thì đức Phật không chấp nhận nghen. Đức Phật đã chấp nhận con là đệ tử của Phật rồi thì bây giờ phải lo quét cái tâm cho sạch". Thì ông cứ ông ngồi, ông tối ngày ông ngồi trong thất ông quét không có đi đâu hết. Tới giờ đi xin thì đi xin về ăn mà hết giờ thì thôi, không có làm gì nữa hết, cứ ngồi đó quét.
Tới chừng mà cái ngày mà người ta đi thọ trai hết. Tất cả mọi người đều được mời đi thọ trai, thậm chí như đức Phật cũng được mời đi thọ trai. Còn ông Châu Lợi Bàn Đặc này không ai thèm mời ổng hết. Người ta cũng có mời nhưng mà ông không thèm đi, ông cứ ngồi ông lo ông quét hà, quét cái tâm ông cho sạch. Và cuối cùng thì khi mọi người đi hết rồi, ông nói: “Hôm nay cái tâm của mình nó sạch rồi, nó không có sai mình được nữa rồi. Vậy thì mình sai thử coi nó làm được không?”
Nghĩa là bây giờ ai cũng đi vắng hết: “Cái rừng này thì phải có một ngàn ông Bàn Đặc, phải ngồi đầy mọi cái gốc cây này cho tao”. Thì lúc bấy giờ ông Bàn Đặc, ông ngồi đầy hết một ngàn ông, ngồi đầy cái rừng hết. Ông nói “như vậy là tao sai mày được rồi. Hồi nào tới giờ mày sai tao làm theo mày đủ thứ. Phải không? Bây giờ mày sai không được, bây giờ tao mới sai mày!” Thì do đó ông sai bây giờ nó biến ra một ngàn ông Bàn Đặc ngồi khắp rừng hết.
Thì lúc bấy giờ ông Phật ông đang thọ trai tức là ông đến nhà của người thí chủ, ông biết ông Bàn Đặc đã chứng đạo rồi mấy con. Tất cả quý thầy thì không biết nhưng mà ông Phật ông biết, ông mới nói với người mà thí chủ đó, người chủ nhà: “Ông hãy đến cái khu rừng mà chỗ đức Phật ở đó, gọi ông Bàn Đặc đến đây thọ trai. Bây giờ chỉ còn một ông tu sĩ đó thôi”.
Ông này ông đến cái khu rừng ông thấy sao mà ngồi đầy hết mà có một ông thôi, ông nào cũng giống ông nào, cũng y như vậy hết. Ông không biết ông Bàn Đặc là ông nào. Ông mới lật đật về ông nói sao mà trong khu rừng chỗ ông Phật ở bây giờ có một ông Tỳ kheo, có một gương mặt y như nhau mà ngồi ở gốc cây nào cũng có hết.
Thì ông Phật ông nói cứ đến đó, ông gọi: “Ông nào là ông Bàn Đặc, hãy vâng lệnh Phật mang bát mà đi thọ trai”. Thì lúc bây giờ, ông nào mà bước ra rừng mà mang bát thì ông đó là ông Bàn Đặc. Thì lúc bây giờ ông cư sĩ đó, ông đến đầu cái cửa rừng đó, ông đứng ông mới gọi: “Ông nào là ông Bàn Đặc, lệnh của Phật mời ông đi thọ trai”. Rồi lúc bây giờ tất cả những ông Bàn Đặc khác mất tiêu hết, chỉ còn có ông Bàn Đặc mang cái bình bát, giống cái y như con vậy đó, ôm bình bát đi ra. Thì lúc bây giờ đi theo ông cư sĩ đến thọ trai.
(1:23:32) Thì các con thấy, cái tu nó đơn giản chứ đâu phải là khó khăn, đâu có ngồi thiền, đâu có nhập định, đâu có làm cái gì cho nó cực khổ đâu. Chỉ có ngồi trước cửa thất của mình chơi cái thất của mình thôi, vô sự hoàn toàn không chơi với ai thôi. Tức là sống độc cư chứ gì? Đúng là cách thức Phật dạy chứ gì? Ngồi đó mà quét tâm của mình, tức là trên Tứ Niệm Xứ chứ gì?
Ông ngồi suốt, nó mỏi hay nó sai ông đi ông cũng không đi nữa. “Sai tao không được nữa, mỏi chết bỏ!”. Đâu có bao giờ ai mà ngồi mỏi chết bao giờ đâu? Cho nên ông không thèm đứng dậy đi, ông cứ ngồi đó ông chống lại với tâm ông. Cuối cùng ông xả ly sạch trống không.
Bởi vậy mình đang bị cái tâm mình sai mình cho nên mình không có làm được chuyện gì hết. Trái lại nó sai mình không được, cuối cùng mình lại sai nó. Thành ra nó biến được một ngàn ông Bàn Đặc, có phải không? Bây giờ cái chuyện tu nó đơn giản như vậy mà sao lại tu? Mọi người làm không được chứ. Thầy nói sao tu lâu quá vậy. Các con thấy không? Cái người tu theo Thầy hai năm, ba năm. Có người hai tháng, ba tháng. Có người năm tháng, sáu tháng rồi mà bây giờ không làm được như ông Bàn Đặc chút nào hết.
Còn ông Bàn Đặc ổng dốt hơn mình nhiều phải không? Còn mấy con bây giờ chữ nghĩa đứa nào cũng cả bụng hết rồi, còn ông Bàn Đặc viết chữ không được. Có phải không? Lẽ ra một cái người dốt như vậy đó là phải tu khó chứ, thế mà người ta không khó. Còn mình là người biết chữ mà tại sao mình tu lại lâu.
(1:24:49) Cho nên theo Thầy thiết nghĩ tu phải tu đúng, bây giờ nói như vậy là tới cái giờ, tại vì cái giờ đó là cái pháp đó. Mình ôm pháp mình tu, là mình ôm cái pháp mình tu, nó có vọng tưởng, không vọng tưởng hay kệ nó, miễn là tôi tu cho đúng cái pháp này thôi.
Thầy bảo tôi bây giờ Thân Hành Niệm là phải đứng lên, ngồi xuống như vậy, hành động như thế nào, thế nào tôi làm đúng. Tới cái giờ mà đi Chánh Niệm Tỉnh Giác, đi kinh hành tôi cũng làm cho đúng. Tới cái giờ ngồi hít thở tôi cũng làm đúng. Tới cái giờ mà ngồi chơi trên Tứ Niệm Xứ tôi cũng làm đúng nhưng mà cái tâm tôi sai không được. Giờ này giờ mày tu cái này thì mày phải làm cái này chứ mày không được làm cái khác. Rồi giờ mày ngồi chơi thì mày ngồi chơi, tức là mày cũng không có sai được.
“Bởi vì tao ngồi chơi chứ tao đâu phải đi làm, sao mày sai?”, phải không? Còn bây giờ thí dụ như con thấy cái nền nhà con dơ, con lấy cái cái thùng nước con đi lau. Như vậy là rõ ràng nó sai con đi làm lau cái nhà. Như vậy là các con đâu có xả, nhất định là không xả. “Ngày mai đó sáng buổi sớm tao đi quét sân, còn thì giờ vô tao lau chứ bây giờ mày sai tao không được”. Phải không?
“Hổm rày nó dơ sao lại không làm mà bữa nay lại phải đi muốn làm. Thì đây là mày sai, sai tao làm chứ đâu phải được”. Cho nên tất cả những cái chuyện nhỏ nhặt này, các con phải đều quan sát kỹ cái tâm của mình, để cho mình ly. Mà ly sạch rồi nó sai mình không được là nó hết. Nghĩa là hoàn toàn nó phải hết thôi.
(1:26:13) Thì hôm nay Thầy nói để cho con biết cách thức tu tập, sau này mà có một cái duyên, chỉ trong vòng ba bữa đến một tuần lễ mà như đức Phật đã nói bảy ngày, bảy tháng, bảy năm. Nếu mà trong bảy ngày mà ngồi quét tâm của mình mà theo kiểu ông Bàn Đặc đó thì bảy ngày có thể là mình sẽ bảo ông Bàn Đặc phải ngồi khắp rừng cũng được nữa con, đâu có gì đâu cái chuyện đó. Bởi vì khi mà cái tâm nó định tinh, nó không có sai mình được. Nó ly dục rồi thì nó thanh tịnh rồi thì nó thanh tịnh thì nó có bảy cái năng lực của nó, tự nó xuất hiện.
Như hồi nãy con hỏi Thầy là mình phải tu suốt cái thời gian mà 12 tiếng đồng hồ thì bảy cái năng lực đó nó mới xuất hiện hay là như thế nào? Không phải? Bởi vì cái sức mà định tỉnh của chúng ta nó tuy rằng nói Nhất Dạ Hiền là 12 tiếng đồng hồ là cái tiêu chuẩn, là phải đạt được cái sức định tỉnh đó là 12 tiếng đồng hồ. Đó là trong kinh nói nhưng mà hằng ngày chúng ta tu chỉ có hai tiếng hay là ba tiếng trong một buổi mà thôi. Nhưng mà cái sức định tỉnh của chúng ta mà được định tỉnh rồi thì Bảy Giác Chi này nó không cần phải mà chúng ta tu suốt 12 tiếng đồng hồ.
Nhiều khi các con cố gắng mà ôm suốt 12 tiếng đồng hồ để mà tu tập thì trong khi đó tâm các con nó chưa hoàn toàn định tỉnh. Còn bây giờ Thầy chỉ tu mỗi một buổi, Thầy tu có hai tiếng thôi. Phải không? Nhưng mà Thầy xả tâm Thầy tu tập kỹ cho đến hai tiếng đồng hồ này, Thầy thấy hoàn toàn nó định tỉnh. Sáng cũng vậy, trưa cũng vậy, chiều cũng vậy, tối cũng vậy. Bốn buổi, mỗi buổi Thầy tu có hai tiếng chứ Thầy không có tu nhiều. Nhưng mà thời nào Thầy cũng tu thấy nó định tỉnh rõ ràng phải không?
Mà khi thời nào nó cũng định tỉnh được rõ ràng thì Bảy Giác Chi nó sẽ xuất hiện chứ không phải đủ 12 tiếng đồng hồ. Các con hiểu chưa? Nghĩa là bây giờ sáng thì tu buổi sáng hai tiếng, buổi chiều hai tiếng, buổi tối hai tiếng, buổi khuya hai tiếng. Mà hai tiếng đồng hồ này nó vẫn định tỉnh, rõ ràng là nó định tỉnh nó ở trong một cái trạng thái đầu óc rỗng rang, không phóng dật hẳn hòi, đàng hoàng.
Hai tiếng đồng hồ rõ ràng, buổi sáng, buổi chiều, buổi tối, buổi khuya bốn thời nó cũng y vậy mà Thầy tu có hai tiếng, Thầy đâu có tu cần gì phải 12 tiếng đồng hồ. Nhưng mà suốt trong một ngày, một đêm như vậy mà mỗi thời tu chỉ có hai tiếng. Mà nó định tỉnh như vậy rồi thì Bảy Giác Chi nó cũng xuất hiện đủ.
Tại vì nó định tỉnh, cái mức định tỉnh của nó thì nó phải xuất hiện đủ. Còn bây giờ các con có ôm ráng bây giờ thức suốt đêm, nghĩa là tu suốt 12 tiếng đồng hồ mà nó chỉ có định tỉnh có hai tiếng đồng hồ, còn bao nhiêu nó không định tỉnh. Lát nó xẹt cái này, lát nó buồn ngủ hôn trầm, nó vô ký, nó đủ loại ở trong này hết. Thì như vậy là cái đêm 12 tiếng đồng hồ này, các con không có chất lượng chỗ nào thì Bảy Giác Chi nó cũng không xuất hiện. Mấy con hiểu chưa?
Cho nên có nhiều người nói tôi ráng thức một đêm, tôi tu Nhất Dạ Hiền một đêm làm Thánh Hiền. Sự thật ra một đêm mà cái chất lượng nó không có. Còn Thầy thì tu tuần tự, tu cho đến khi có thể buổi sáng Thầy tốt nè, buổi chiều Thầy tốt nè, buổi tối nó không tốt, nó có niệm rồi, nó phóng dật rồi, buổi khuya nó phóng dật. Như vậy là Thầy phải tu tu sao mà…
HẾT BĂNG
THẦY DẠY MINH ĐIỀN-MỸ CHÂU (PHẦN 2)
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời lượng: [01:27:57]
Nếu mà mình tỉnh thức mà suốt ngày vậy đó không có được đâu. Bởi vì thứ nhứt, là mình không thể nào đủ cái sức tỉnh thức mà kéo dài suốt cái thời gian một, hai tiếng đồng hồ liên tục được. Mà nếu mà nó có liên tục được thì mình rớt trong trạng thái khác. Mình sẽ rớt trong trạng thái Không Vô Biên Xứ hay hoặc là Thức Vô Biên Xứ.
Từ đó thí dụ bây giờ nó kéo dài cái thời gian từ một giờ hay hoặc đến từ sáng cho đến chiều, mình ở trong cái hành động mình đi tới đi lui mình vẫn biết đó, thì cái tâm của mình nó sẽ rớt trong những cái trạng thái khác, nó không thể nào mà nó, kinh Phật xác định rất rõ là ngoài kinh Tiểu Không mà xác định.
Mình sẽ, nếu mà mình, thí dụ như bây giờ mình ngồi, mình giữ tâm mình biết, luôn luôn lúc nào nó cũng không có cái niệm, hoàn toàn nó không có niệm thiện, niệm ác. Thì lúc bấy giờ nếu mình không giữ được cái biết đó đó, cái biết đó nó mất đi, thì nó rớt mình vào trong Không Vô Biên Xứ, tức là cái không.
Cho nên, nếu mà người mới tu họ hay rớt trong cái không giống như ngủ, chớp mắt cái trong đó, rồi choàng cái tỉnh dậy, tưởng như, trời giống như mình nhập Định, nhưng mà giống như định ngủ thôi. Thì đó gọi là Không Vô Biên Xứ. Cái không không có biên xứ, không có ranh giới.
Mà nếu mình thường mình giữ cái biết, đừng có để cho rớt trong cái không, thì cái biết đó nó có. Thì cái biết này nó rớt vô Thức Vô Biên Xứ. Bắt đầu từ cái âm thanh, hoặc là mọi người, nó làm như là ở trong tâm mình lưu xuất ra.
Nó thấy, thí dụ như con chim kêu hay con tắc kè kêu, nó kêu ngoài đó chứ mọi lần thì mình thấy nó ở ngoài đó nó kêu, chứ không phải là ở trong tâm mình. Mà bây giờ mình ở trong cái trạng thái nó kéo dài, thì bắt đầu nghe nó như ở trong tâm mình nó lưu xuất ra tiếng kêu đó. Nó gọi là Thức Vô Biên Xứ, nó không còn cách nhau. Âm thanh, sắc tướng nó không còn cách nhau gọi là Thức Vô Biên Xứ.
Cho nên, các vị tổ sư Thiền mà tu tới đó, họ thấy như phản bổn hoàn nguyên, trở về vạn hữu. Coi như là phủ trùm vạn hữu. Mình là vạn hữu, vạn hữu là mình. Tới đó nó rớt trong cái Thức Vô Biên Xứ. Còn nếu mà không rớt, không giữ được cái thức, cái biết mình mất đi thì nó sẽ rớt trong Không Vô Biên Xứ.
(2:17) Bởi vì mình ức chế tâm chứ không phải xả tâm, cho nên nó đâu hết tham, sân, si được. Còn trái lại khi mình tu phải không, mình muốn hết tham, sân, si, thì như đức Phật dạy đó, mình bắt đầu mình tu tỉnh thức trước. Thì như cái mười sáu đề mục Thiền Định Niệm Hơi Thở đó: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra. Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài, thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài”.
(2:38) Rồi “Hít vô ngắn tôi biết tôi hít vô ngắn, thở ra ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn”. Tức là nó kèm theo cái pháp hướng, chứ không phải ngồi đó để mà mình tự động im lặng mà cái thức mình biết, cái thức mình biết là Thức Vô Biên Xứ đó. Còn cái Phật dạy thì mình luôn luôn mình hướng tâm mình nhắc. Như Lý Tác Ý mà, để cho cái tâm nó tỉnh thức.
Thì đồng thời khi mà nó biết nó tỉnh thức rồi thì không phải nhắc “Tôi hít vô tôi biết tôi hít vô” nữa đâu, mà là nhắc “quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Bây giờ phải xả tâm, xả tâm trong chỗ mình tỉnh thức hơi thở.
Các con thấy không? Các đề mục Phật dạy rõ mà tại mình không nghiên cứu kỹ. Cho nên mình không biết, mình cứ ngồi, mình giữ tâm cho hết vọng tưởng, thành ra nó sai. Mà khi xả tâm được rồi gọi là ly dục ly ác pháp là nhập Sơ Thiền chứ không phải ngồi. không phải ngồi thiền mà nhập Sơ Thiền, mà cái tâm mà ly dục ly ác pháp thì cái tâm không có bị động.
Cho nên cái danh từ mà gọi là Sơ Thiền, nó còn một cái danh từ gọi cái định đó nữa gọi là Bất Động Tâm Định. Tâm mình bất động trước các pháp, ai làm gì không giận không hờn hết bởi vì nó ly dục ly ác pháp rồi. Cho nên gọi là Bất Động Tâm Định. Thấy chưa? Nếu mà mình Bất Động Tâm Định rồi thì con người có giải thoát không? Có ai làm cho mình giận?
Mình thấy như đâu có ham muốn hết, vì ly dục đâu còn muốn. Có bấy nhiêu đó cái tâm được giải thoát rồi chứ mình chưa nói đến Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền đâu. Cái đó nó còn cao hơn nữa.
Mà khi nhập được Sơ Thiền, thì nó mới có thể nhập được Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền. Nó không phải như cái Thiền Đông Độ mà ngồi ức chế hết vọng tưởng, rồi nó rớt trong Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, nó đi vào cái ngả của Định Tưởng, của bốn cái loại Thiền Định Tưởng. Chứ không phải là mình nhập bốn thiền này rồi, mình mới nhập bốn Thiền Tưởng. Bốn Thiền Tưởng gọi là Định Vô Sắc.
Thấy không, người ta sắp xếp nó đó. Còn bốn cái thiền mà từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền thì người ta gọi là Thiền Hữu Sắc. Bốn cái Thiền Hữu Sắc, người ta cho nó là Thiền phàm phu, nhưng mà không ngờ đó là cái đường lối của đạo Phật đã thực hiện được con đường giải thoát.
(4:27) Cho nên khi mà đức Phật tu nhập đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, thì người ta tưởng chắc có lẽ đức Phật nhập từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền, rồi mới nhập tới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ chứ gì. Tức là bốn Định Hữu Sắc đến bốn Định Vô Sắc chứ gì?
Nhưng mà đức Phật đã nhập đến cái định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ thì không thấy giải thoát, đức Phật mới nhập trở lại cái định Bất Động Tâm Định, thì lúc bấy giờ mới là, mới thấy được ba cái lậu hoặc là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, nó mới dừng.
Bởi vì tâm mình bất động rồi thì nó đối tượng nó không còn tham, sân, si ham muốn nữa thì nó mới hết lậu hoặc, gọi là Bất Động Tâm Định. Cái tâm, cái Định đó, cái tâm nó bất động rồi, thì lúc bây giờ nó sẽ giải thoát. Chứ không phải ở chỗ Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định mà nó giải thoát.
(5:14) Nhưng mà đâu có, ở trong kinh sách của Phật không có, các vị mà ngoại đạo không có dạy đức Phật nhập từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền. Nhưng mà cái mà đức Phật nhập được cái Sơ Thiền này, là lúc đức Phật còn nhỏ mà đi với vua cha xuống làm cái lễ hạ điền đó. Thì ngài ngồi dưới cái cây jambu đó, ngài ngồi đó Ngài chơi, thì ông vua cha xuống ruộng cày.
Thì ngày đó Ngài ngồi chơi thôi, con nít mà ngồi chơi, thì Ngài ly dục ly ác pháp, tức là Ngài xả cái tâm của mình. Lúc bấy giờ Ngài nhập vào cái định gọi là Sơ Thiền. Chỉ có ly dục ly ác pháp ngồi chơi chứ đâu phải ngồi thiền như mình đâu. Ngồi chơi nhưng mà xả cái tâm, xả cái tâm gọi là ly dục ly ác pháp mà nhập.
Cho nên khi mà đức Phật tu mà thấy không kết quả, thì đức Phật mới hồi tưởng lại. Lúc bấy giờ cái cơ thể đức Phật bởi vì ăn ít quá, đức Phật có tu về hơi thở, nó có năm cái giai đoạn hơi thở. Mà năm cái giai đoạn hơi thở đó, là do cái sự của ngoại đạo hướng dẫn đó, cho nên ức chế hơi thở gọi là ức chế tâm. Cái ức chế đầu tiên là nó rơi vô Không Vô Biên Xứ, cái ức chế thứ hai, nó rớt vô Thức Vô Biên Xứ đó, nó có rõ ràng.
Ức chế tới cuối cùng mà đức Phật nín thở đó, mà gần sắp chết. Cho nên đức Phật tìm thấy cái chỗ mà tu mà ức chế cái tâm mình như vậy, nó không đạt được giải thoát, mà ức chế. Cuối cùng thì đức Phật day qua ức chế thân, ức chế thân là ăn ít. Mình nói khổ hạnh đó, ăn ít.
Đầu tiên thì ức chế tâm, tu về pháp hơi thở ức chế tâm. Sau đó thì đức Phật lại tu về cái ức chế thân là ăn ít. Coi như là một ngày mình ăn một bữa, bây giờ đức Phật ăn một bữa mà lại ăn có bảy hột mè, hay hoặc là ăn có một chén cháo thôi. Cháo đậu xanh ăn một chén thôi, ăn ít quá ít, cơ thể hết đi nổi, đức Phật còn nằm thôi chứ đi không nổi nữa vì kiệt sức rồi, gọi là khổ hạnh tối đa.
Nhưng mà trong khi đó đức Phật mới nằm đó cái trí của mình thôi, cái thân đi không nổi là tại vì nó không có đủ thực phẩm rồi. Nhưng mà đức Phật suy nghĩ, từ cái chỗ ức chế cái tâm của mình thì cũng không giải thoát. Bây giờ tới ức chế cái thân, tưởng là làm như vậy, nó khổ hạnh như vậy là nó sẽ giải thoát chứ gì? Cuối cùng không giải thoát.
Đức Phật thấy mình vẫn còn tham chứ, vẫn còn muốn sống đó chứ nó đâu phải sợ, đâu phải sợ chết, vẫn còn ham sống đó. Cho nên đức Phật thấy không giải thoát. Cho nên đức Phật bây giờ mới nghĩ lại cái lúc hồi còn nhỏ, mình ly dục ly ác pháp mình nhập Sơ Thiền, do ly dục sanh hỉ lạc. Đức Phật nói: “Còn dục mà sao gọi là, còn hỉ lạc làm sao mà gọi là giải thoát được?” Thì đức Phật mới lập lại một lần nữa.
Bởi vì đọc trong cái bài mà Saccaka của cái bộ trong Trung bộ đó, tức là cái bộ kinh Pali mà Hòa thượng Minh Châu dịch đó. Cái bộ Trung bộ đó, thì mới thấy cái bài kinh đó. Thì lúc bấy giờ đức Phật mới hồi tưởng lại lúc bé của mình mới thấy, rồi đức Phật mới lặp lại. Có hỉ lạc làm sao gọi là giải thoát được?
(8:07) Nhưng mà đức Phật mới lặp lại. Ly dục sanh hỉ lạc, ly dục không còn dục, nó có hỉ lạc. Hỉ lạc này nó không phải là do dục. Còn bây giờ, cái dục kia là cái dục của cái dục, cái hỉ lạc đó nó theo dục, cái này mình chỉ ly dục nó mới có. Không biết chừng con đường này có thể là đạo lộ giải thoát, đức Phật suy nghĩ mà.
Nhưng mà cơ thể ta bây giờ làm sao mà ta tu được cái này? Ta tu làm sao được. Nó mệt, nó nằm như vầy, nó làm sao được? Cho nên đức Phật mới suy nghĩ, mới ăn trở lại đó. Ăn lại đầy đủ là ăn một bữa mà ăn lại đầy đủ, ăn no đó, không có còn ăn ít nữa, không có tiết thực nữa.
Lúc bấy giờ đức Phật mới ăn trở lại thì năm anh em Kiều Trần Như nói: "Ông này hết khổ hạnh rồi". Hồi ăn có bảy hột mè hay hoặc ăn chén cháo nhỏ đó, thì mấy ông đó chờ cho ông này gần chứng đạo được là mình theo ông tu liền. Cũng chịu khó, cũng tiết thực, cũng khổ hạnh đến mức tối đa đó, mà chờ cho ông tu cái đã, được đã. Phải không. Nhưng mà cuối cùng ông này ông lại bỏ, ông lại ăn trở lại.
(9:19) Thôi kiểu này thôi! Thôi mình không có chơi ông này nữa. Bởi vì, người ta dạy cái đó là cái đường giải thoát mà ông ăn trở lại làm sao ông giải thoát, cho nên chạy theo dục rồi. Nhưng mà đức Phật suy ngẫm, bây giờ mình phải đi cái lộ trình này, đức Phật chấp nhận ăn trở lại.
Là khi mà cái người chăn dê, họ đổ cho đức Phật được cái bát sữa đó, đức Phật tỉnh lại, mới hồi tỉnh lại, mới nhớ tất cả mọi cái. Sau đó mấy người đó rời đi rồi thì đức Phật đi khất thực, mới trở về gốc cội bồ đề đó. Mới hồi, mới ăn uống trở lại để mà phục dưỡng cái cơ thể mình mạnh khỏe trở lại. Rồi mới bắt đầu, mới tu từ Sơ Thiền đó, mới đi vào, mới đạt được chứng đạo, 49 ngày.
(09:55) Đọc lại cái giai đoạn đó, nhưng mà phải nói là cái khắc khoải khi một người, người ta nỗ lực tu mà không có đạt được. Lúc đó là lúc sắp chết đó, chứ không phải là lúc thường. Mà trong lúc mình không biết pháp, không biết đường đi nữa. Mà bỏ hết cuộc đời, bỏ ngai vàng như đức Phật, thì chúng ta phải hiểu được cái tâm trạng đó. Bởi vì mình chưa có tới cái chỗ đó, chứ còn mình tới cái chỗ đó thì thấy đau khổ lắm.
(10:18) Cũng chẳng hạn bây giờ các con là tu sĩ các con tu này, các con theo cái pháp môn nào đó tu, mà đến giờ này xét lại mình cũng vẫn chưa được giải thoát, thì mình thấy đau khổ. Mình cũng hết sức, chứ đâu phải không.
Nhưng mà tại vì mình thấy mình vẫn còn hy vọng. Bởi vì mình không có cái quyết liệt của mình đó, thành ra mình hy vọng là có lẽ mình tu chưa tới, thành ra mình bám mình tu. Chứ còn thiệt ra thì nếu mà được, thì trong cái thời gian chừng 5 năm, cao lắm là 10 năm là phải được. Mà không được, mà mình hết sức tu mà không được là cái pháp đó không tu được. Bằng chứng là tu không được.
Người ta luyện võ, ít ra 5 năm, 10 năm người ta cũng phải giỏi. Còn mình tập luyện Thiền Định tới 5 năm, 10 năm rồi bây giờ, cũng xuỵt xạc, cũng ngồi cỡ đó hai, ba tiếng đồng hồ, thôi rồi! Nhìn lại cái tâm nó thì nó cũng giảm bớt, chứ không phải không hết, thì tức là không được, xác định cái pháp không được. Chứ đừng có cố chấp rồi nói chắc mình tu chưa tới.
Đừng có nghe các miệng mấy ông tổ nói phải tu nhiều kiếp đó. Họ tu không được, rồi họ cũng dạy mình kiểu phải nhiều kiếp đó. Đời nay tôi biết trong đời nay, có được thân người là khó mà được Phật pháp là khó hơn mà. Được thân người đâu phải dễ, mà bây giờ tôi nỗ lực tu, tôi bỏ hết, tôi xả hết. Cái cuộc đời tôi, tôi đâu còn nghĩ gì hết, mà tu không được gì hết thì tu làm gì đây nữa? Tôi bỏ.
Cho nên đau khổ lắm. Thầy cũng nghĩ cái đời Thầy, Thầy bỏ hết, cho tới bốn mươi mấy tuổi ở trong thất chín năm trời tu mà không được, kể như muốn chết, chứ ai mà sống làm cái gì đây? Nhìn ai? Cho nên chừng đó mình mới thấy khổ.
Nhưng khi mà đúng pháp rồi nhanh, đúng pháp là tu nhanh. Nghĩa là quyết tâm xả là nhanh lắm. Bởi vì Thầy nói như thế này, tại vì mình không quyết tâm xả, mình nửa đời nửa đạo. Cho nên cái cuốn “Đường Về Xứ Phật” Thầy nói rõ mà, đời ra đời, đạo ra đạo, chứ đừng có lướt ướt vừa tu, mình vừa sống đời, mà vừa tu nữa, thì người đó tham quá độ! Muốn làm Phật mà cũng muốn làm chúng sanh nữa thì đâu có đủ.
(11:59) Đời ra đời đạo phải đạo, dứt khoát. Cái đạo Phật nó rõ ràng nó cụ thể. Bây giờ mình là một cái người cư sĩ đi, đệ tử của Phật có giới cư sĩ mà. Nhưng mà cái đạo đức phải hẳn hòi chứ đâu phải người cư sĩ mà nói chuyện bộp chộp sao được, không được đâu, phải đạo đức đàng hoàng. Mà đạo đức của đạo Phật nó hẳn hòi lắm chứ đâu phải. Đọc giới luật của đức Phật, chúng ta thấy đạo đức rất kỹ lưỡng.
Nếu một trăm giới chúng học mà không biết, các con không biết có đọc chưa, một trăm giới chúng học. Thầy nói bây giờ, khạc nước miếng hay là nhổ nước miếng, mình nhổ trên bụi cỏ là không được đó. Cái vệ sinh của đức Phật thời đó kinh khủng lắm. Thí dụ như cái dòng nước vầy đó, mình khạc mình nhổ dưới nước không được, Phật cấm liền, đó là vị Tỳ kheo phạm giới đó. Mà cái đó là cái đạo đức của đạo Phật đó. Con thấy không?
Cái hành động đó là hành động thiếu vệ sinh đó, chứ đừng nói đái ỉa. Thầy nói như vậy đủ biết là đạo Phật, cái kỷ luật của nó mà giữ cái môi trường sống của con người. Trên cái cỏ vầy không được nhổ nước miếng trên đó, không được đi trên đó giậm chứ đừng nói. Đó là cái giới luật của Phật hẳn hòi nó còn đi như vậy đó.
Nhưng mà cái người cư sĩ mà giữ được như vậy là ly dục ly ác pháp đó. Mình giữ được như vậy là ly dục ly ác pháp, tức là không làm khổ người khác. Mình làm khổ, mình nói nặng người ta, người ta giận đó là khổ trực tiếp rồi đó. Nhưng mà mình phun nước miếng, mà nước miếng mình rủi bị vi trùng lao gì mình phun, truyền nhiễm người ta thì đó là mình làm khổ người ta bao nhiêu không?
Đó nó rất là rõ ràng là hành động nhân quả mình làm khổ mình. Cho nên đâu có. Ví dụ như bây giờ mình ho hoặc là mình khạc đàm vậy đó, thì mình phải lấy cái giấy, mình gói rồi bỏ nó. Rồi đi đến cái chỗ nào đó, mình mới bỏ có chỗ nơi chứ không phải bỏ bậy. Giới luật của Phật một trăm giới chúng học, trời, những cái oai nghi tế hạnh hết sức là kỹ lưỡng.
Thí dụ như bước vô trong cái phòng giảng, là dép phải bỏ ngoài chứ không được bước vô nữa đâu. Đó là cái oai nghi chứ. Bởi vì mình cung kinh pháp mình mới được pháp, chứ mình không cung kính pháp là không được pháp. Cái oai nghi.
(14:11) Cho nên người cư sĩ, người ta phải học một trăm giới chúng học, đó là giới chúng học của con người, tức là đạo đức của con người. Còn nói về đạo đức của bậc Thánh, là tất cả những cái giới khác nó là đạo đức của bậc Thánh. Mình có đạo đức con người rồi mình sống với đạo đức của bậc Thánh mới được chứ.
Đạo đức con người không được, đi đâu cũng phun khạc, giấy ăn gì cũng quăng tùm lùm ra đó thì môi trường sống dơ bẩn như vậy thì đâu có nghĩa là đạo đức đâu. Chứ đâu phải đó là cái hành động vệ sinh đâu, mà cái đó là hành động đạo đức. Mà không học đạo đức thì còn học cái gì? Tu không có đạo đức mà tu cái gì?
Từ cái đạo đức đó nó mới đi vào chỗ ly dục ly ác pháp. Từ cái ly dục ly ác pháp nó mới có được Thiền Định. Bởi vì đức Phật nói: "Giới thanh tịnh thì tâm nó mới thanh tịnh. Tâm thanh tịnh mới là Định". Cho nên Giới sanh Định. Còn mình chổng khu cứ ngồi thiền mà Định cái gì?
Đi ra đường ăn mía thì quăng cùng đường, còn muốn khạc nước miếng thì muốn đâu cũng nhổ được hết. Rồi hễ trên xe mà chỗ nào đi đường xa, mà xe mà đậu xuống đi tiểu, chỗ nào cũng tiểu được hết. Đâu phải vậy, đâu có đúng cái kỷ luật như vậy. Tức là cái đó là cái thiếu đạo đức.
Mà cái thiếu đạo đức đó, tức là cái thiếu xả tâm. Mình đừng nghĩ rằng những chuyện đó không phải xả tâm, xả tâm là do mình. Nhưng mà mình làm được cái này, cái tâm ly dục ly ác pháp của mình nó mới xả.
Bởi vậy khi mà Thầy dạy về giới luật để mà ly dục ly ác pháp để đạt được sự giải thoát, là giới phải thanh tịnh. Giới thanh tịnh nó không phải mình khép nó vào trong cái kỷ luật giới, mà mình phải dạy người ta tu. Tu giới nó mới dạy người ta sống hành động đạo đức, nó mới ai nghi chánh hạnh nó mới đầy đủ.
(15:56) Mà từ cái oai nghi chánh hạnh đầy đủ, do cái tâm tu tập đó mà nó đầy đủ thì cái tâm ly dục ly ác pháp nó tới. Cho nên không bao giờ mà họ phạm giới. Mà không phạm giới thì giới thanh tịnh, giới thanh tịnh thì tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh thì tâm định, thì lúc bấy giờ muốn nhập Định đâu có khó gì? Cái tâm thanh tịnh thì nó dễ lắm.
(16:15) Bây giờ muốn nhập định chứ gì? Thì cái người đó họ chỉ có hướng tâm họ Như Lý Tác Ý thôi. Tâm thanh tịnh họ tịnh chỉ mà, Phật nói tịnh chỉ. Tịnh tức là cái tâm thanh tịnh nó sẽ chỉ được các cái khác. Bây giờ mình muốn chỉ cái gì? Chỉ Tầm Tứ là vọng tưởng, đầu óc của mình khởi niệm chứ gì, mình muốn chỉ cái đó, thì mình ra lệnh mình nói: "Tầm Tứ phải tịnh chỉ, ngưng, không có được khởi niệm nữa".
Thì ngay đó mình ngồi đó, nó không khởi. Chứ mình ngồi đây, mình ức chế nó để rồi nó lọt vào Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ để làm gì đây? Còn cái này mình ra lệnh nó thôi, nó không có khởi nữa đâu. Đó thì, đức Phật nói khẩu hành ngưng nghỉ đó, là cái chỗ mà tịnh chỉ Tầm Tứ.
Còn bây giờ mình muốn tịnh chỉ hơi thở để mình nhập Tứ Thiền, thì mình cũng hướng tâm mình nhắc, mình Như Lý Tác Ý, mình nhắc nó thôi. Thì mình nói, thí dụ như mình ngồi lại yên lặng, mình muốn mình nhập Tứ Thiền chứ gì? Chứ đâu phải nhập Sơ Thiền rồi mới nhập Nhị Thiền, rồi Tam Thiền mới nhập Tứ Thiền. Không phải đâu!
Bởi vì đức Phật nói Tứ Như Ý Túc mà, Định Như Ý Túc mà. Mình muốn Định nào thì nó phải vô Định đó chứ đâu phải, phải nhập tuần tự rồi mới vô được đâu? Bởi Như Ý Túc mà, Định Như Ý Túc, mình muốn cái Định đó nó phải vô thôi. Phải không?
Cho nên bây giờ muốn nhập Tứ Thiền, thì ngay đó tôi ra lệnh ngay liền, tâm nó phải vô đó liền. “Hơi thở phải tịnh chỉ, các hành trong thân ngưng, nhập Tứ Thiền". Ra lệnh vậy, hồi cái nó nhập, hơi thở không còn. Phải không?
Mình tu, tâm mình thanh tịnh, không tham, sân, si thì nó làm được. Mà tâm còn tham, sân, si nó đâu làm được. Nếu mà cỡ tâm nó không tham, sân, si mà nó làm được, thì nó là bá chủ hoàn cầu. Bởi vì nó ra lệnh được, thì nó bảo cái thân bay nó bay, bảo cái gì nó làm cái nấy, cái đó cái lệnh của người ta mà. Người ta gọi là đạo lực, đâu phải chuyện dễ đâu. Mà tâm tham, sân, si thì ai làm được cái này?
Còn tâm tham, sân, si thì không làm được đâu, hết tham, sân, si mới được. Mà hết tham, sân, si thì phải ly dục ly ác pháp. Mà ly dục ly ác pháp thì Thầy hay là anh hay là cư sĩ các con cũng phải sống đúng giới luật. Phạm giới luật là không được. Bởi vì đức Phật nói Tam Vô Lậu Học phải không? Giới - Định - Tuệ nó mới vô lậu. Mà giới mình không được mà mình biểu mình hết vô lậu, để cho mình được cái lệnh như vậy thì làm sao có được?
(18:11) Phật tử Mỹ Châu: Nếu ly dục ly ác pháp là phải giữ giới, phải không Thầy?
Trưởng lão: Phải giữ giới. Giới nó mới ly đó. Bởi vì giới là…
Phật tử Mỹ Châu: Theo như tụi con là phải giữ mấy giới, để được cái đó hả Thầy?
Trưởng lão: À có năm cái giới thôi. Nó ba cái giới đầu tiên là Phật giới, Pháp giới và Tăng giới. Mình sống mình thường đến chùa, mình nương theo các vị Thánh Tăng, mình nương theo pháp Phật dạy rồi mình nương theo gương hạnh của Phật. Mình tập sống, chứ mình chưa có hoàn toàn được ba cái giới này đâu. Ba giới gọi là Tam Quy đó.
Mình Thọ Tam Quy tức là thọ ba cái giới sống đó, là Phật pháp Tăng đó. Phải không? Ba cái giới này rồi, kế đó là năm giới. Năm giới chứ nó độc lắm. Năm giới là không sát sanh nè, không trộm cắp nè, không tà dâm nè, không vọng ngữ nè, không uống rượu nè, có năm giới thôi.
Nhưng mà kèm theo mà để giữ gìn cho năm giới này trọn vẹn, thì mình phải tập Bát Quan Trai. Phải Tập Bát Quan Trai nó mới giữ được cái này chứ sao không, nếu mà muốn mà được năm giới này trọn vẹn, mà nghiêm chỉnh đó, thì phải tập thọ Bát Quan Trai, tức là tập sống đời sống của tu sĩ đó, thì nó mới giữ được năm giới này trọn vẹn.
Chứ mình học, mình nghe nói năm giới của cư sĩ, chứ nó khó lắm á, giới gốc đó, tu sĩ người ta còn phạm năm giới đó, chứ không phải gì hết. Cho nên tập thọ Bát Quan Trai. Một tháng mình vô, mình thọ Bát Quan Trai là năm cái giới đó mình gốc đầu tiên rồi, kế bốn cái giới nữa.
Bốn cái giới nữa nó cộng lại thành ba giới, tức là không trang điểm tức là mình vào ba cái giới đó. Lấy bốn cái giới của Sa di, nó cộng vô nữa, thì nó làm cho còn có ba giới thôi. Là không trang điểm phải không, không nằm giường cao rộng lớn là một giới, không trang điểm là một giới, là hai giới mà cộng lại làm một là một giới gọi là Bát Quan Trai đó. Rồi không ăn phi thời, nghĩa là ăn ngày một bữa y như tu sĩ vậy đó.
(20:09) Rồi không nằm giường rộng là một giới nè, không trang điểm là một giới nè, không nghe ca hát, không ăn phi thời. Cộng lại bốn cái giới của Sa di nó dồn lại ba cái. Còn năm cái là cái không cất tiền, không cất giữ tiền bạc, bởi vì Sa di nó không cất giữ tiền bạc, bởi vì nó tu sĩ rồi. Còn mình cư sĩ, mình còn cất giữ tiền bạc, cho nên cái giới đó thì khi mình vô thọ Bát Quan Trai, mình vẫn cất giữ tiền bạc được.
Còn mười giới, Thập Giới Sa di đó, thì nó chỉ có một giới là người cư sĩ mà thọ Bát Quan Trai, nó chỉ có một giới là không cất giữ tiền bạc, không có giữ tiền bạc trong túi của mình nữa đó, thì cái giới đó người cư sĩ còn giữ được. Nếu mà bỏ cái giới đó nữa là thành tu sĩ rồi đó.
Phật tử Minh Điền: Bạch Thầy, giả tỷ như trong ngày đó con có tiền, con để trong tủ, nhưng con hoàn toàn không mua cái gì hết. Con giữ Bát Quan Trai Giới rồi con không mua gì hết. Như vậy là con có phạm giới không Thầy?
Trưởng lão: Không cái đó là thuộc về cái giới của Sa di rồi, vậy là tốt nữa. Nghĩa là một ngày đó đừng có dùng tiền nữa.
Phật tử Minh Điền: Không mua, không xài tiền nhưng mà tiền mình vẫn có trong tủ?
Trưởng lão: Mình có, nhưng mà mình không xài nữa.
Phật tử Minh Điền: Không xài thì cũng như giữ…
Trưởng lão: Cũng như mình giữ được mười giới đó. Nhưng mà Phật không cấm cái điều đó, tại vì mình thọ Bát Quan Trai, mình cư sĩ đó thì ai cúng dường mình? Tu sĩ người ta cúng dường. Thành ra mình còn lấy tiền, mình bỏ ra mình mua đặng mình ăn, mình tu. Hiểu chỗ đó chưa?
Cho nên ông Phật ông không cấm cái giới đó được. Nói tui cư sĩ, mà bây giờ tôi vô chùa ai cúng dường tôi? Nếu cúng dường tôi, tôi đâu dám thọ lãnh, tôi đâu dám ăn của người ta. Bởi vì tôi còn cư sĩ chứ chưa phải xuất gia mà. Có xuất gia mới là khất thực, mới ăn của người cúng dường được. Còn chưa tu sĩ mà ăn của cư sĩ thì không được.
Phật tử Minh Điền: Con thấy như con tiếc cái giới. Bạch Thầy có khi con mua đồ ăn hai, ba ngày nhiều luôn. Thành ra ngày đó con hoàn toàn không mua gì, nước đá con không mua luôn, con mới giữ được giới đó. Mà con sợ con phạm. Con không biết là mình để tiền trong tủ có phạm không?
Trưởng lão: Nó không có phạm. Nhưng mà điều kiện là tại vì mình tập thôi. Sau đó rồi mình phải bỏ luôn. Không có mua nữa, đi xin ăn thôi. Chứ còn có mua là còn phạm. Thì bây giờ mình tập, thì coi như là mình mua, chứ giờ mình đi xin ai? Cư sĩ mà xin đâu được. Xin là sai đó. Pháp Phật là đạo đức lắm.
Nghĩa là một cái người cư sĩ mà đi xin người cư sĩ, người ta cho thì được đó. Mà một lần, chứ mà đi xin nữa là không được. Tu sĩ thì xin được, bởi vì đời sống người ta buông hết rồi. Còn mình còn tích lũy, còn cuộc sống, mình phải làm ra. Không xin được.
Phật tử Minh Điền: Bạch Thầy nhưng giả tỷ như mà con ở chung với bảo mẫu con là tiền con đưa bả cất, bả mua hết rồi như vậy con có phạm không Thầy?
Trưởng lão: Không, con làm con đưa cho bả, con không xài phí. Nhưng mà con cũng còn ở cư sĩ đó. Chừng nào mà con không có làm cái nghề nào mà ra tiền nữa hết thì được, đúng người tu sĩ. Bởi vì nghề nghiệp của Phật chỉ có lấy đệ nhất nghề nghiệp của Phật là đi xin ăn. Cho nên không có làm ra tiền.
Mà ông Thầy nào mà làm nghề này nghề kia ra tiền là ông Thầy đó bậy hết. Trật! Giới luật của Phật kỹ lắm. Bởi vì chỉ có cái nghề đó là nghề giải thoát mà, nghề đi xin mới giải thoát. Còn mình làm ra tiền là không giải thoát đâu, nó dính. Dứt khoát.
(23:11) Bởi vậy Thầy nói tu là tu mà không tu là thôi. Đạo là đạo mà đời là đời, đừng có lộn xộn. Mà đời thì phải đạo đức cho ra đạo đức, chứ đừng có lấy đạo đức Nho giáo, nói tui có đạo đức tam cang ngũ thường tui giữ. Không phải đâu, đạo đức của đạo Phật nó khác, không có làm động ai hết. Bởi vì đạo đức của đạo Phật gọi là đạo đức không làm khổ mình khổ người. Nó khó hơn đạo Nho dữ lắm.
Bởi vì đừng có làm người ta, mình nói lời nói mình phải suy nghĩ, chứ mà mình nói bậy, người ta buồn cũng không được rồi. Mà người ta chửi mắng mình, thì mình coi chừng tâm mình giận là không được đó. Nó khó là khó chỗ đạo đức đó.
Cho nên con người mà học đạo đức của đạo Phật là con người phải có một cái trí tuệ nhân quả. Biết cái lời nói của người ta tạo cái nhân nào, quả nào, đem đến như thế nào? Từng đó cái tâm nó mới được an.
(23:52) Cho nên ở đây Thầy có viết cái câu, Thầy nói: "Đừng nhìn cuộc sống bằng sự đúng sai phải trái" mà. Mình thấy đúng sai phải trái là coi chừng nó ác pháp ở trong đó đó, mà hãy nhìn nó bằng đôi mắt thiện ác đó.
Phật tử Mỹ Châu: Là sao Thầy? Thầy giảng cho tụi con nghe?
Trưởng lão: Nghĩa là bây giờ mình thấy mình đúng, mà người đó làm sai, nhưng mà người ta khổ sở người ta. Phải không? Mình nói anh như vậy là trật, nhưng mà người ta buồn kia kìa, thì tức là chưa hẳn đã là đúng đâu.
Phật tử Mỹ Châu: Mình nói vậy là đâu có đúng?
Trưởng lão: Đâu có đúng. Bởi vì đứng ở trong, ai mọi người xung quanh đây, ai cũng thấy là cái chuyện đó của mình đúng, ai cũng thấy là đúng hết. Bởi vì con người có cái luật sống của nó mà, thấy nó đúng. Nhưng mà người ta buồn. Người ta buồn, chứ không phải là người ta vui. Phải không? Mà có người ta buồn thì luật nhân quả không đúng đâu. Cái này luật nhân quả, cái đạo đức nhân quả nó như vậy mà.
Cho nên khi hành động đó thì không có làm cho người ta buồn. Mà người ta có làm mình buồn thì mình phải giữ tâm mình không buồn. Thì cái đó là mình phải trang bị cho mình có một cái trí tuệ nhân quả. Cái cuốn nhân quả mà con vừa nói, đó là cái cuốn nhân quả của tưởng. Nó không đúng với nhân quả đâu. Nó còn ở trong cái tưởng mà, nó không đúng đâu.
Còn cái trí tuệ nhân quả của người ta bằng trí tuệ, ý thức của chúng ta đàng hoàng. Cái đó là ác thiện, chúng ta biết là khổ hay vui trong đó, hễ vui là thiện, mà có ác có buồn ở trong đó là ác. Mặc dù là bây giờ pháp luật không chấp nhận, đúng cái đó là đúng, mà có khổ, có người khổ trong đó là không đúng rồi, đối với đạo Phật không đúng.
(25:08) Cái đạo đức nó độc đáo, mà nó hay lắm, nó làm cho chúng ta giải thoát mà, làm cho chúng ta sống chung đụng. Cái người mà hiểu biết đạo đức của đạo Phật rồi, mà sống đúng, trong gia đình không bao giờ có tiếng to. Người nào cũng sống tuỳ thuận, nhẫn nhục vui vẻ với nhau, bằng lòng nhau hết. Không có người nào mà làm người nào khổ. Không ai nói tiếng cho người khác khổ. Đó là học đạo đức của đạo Phật là vậy.
Mà muốn học vậy thì một trăm giới chúng học, phải học những cái hành động của chúng ta, gọi là oai nghi tế hạnh của một con người đó, từ cái nhỏ đến cái lớn. Vì cái oai nghi tế hạnh đó nó mới toát ra được cái nhân quả. Còn chúng ta không học oai nghi tế hạnh, chúng ta đâu biết, do đó hở chút là chúng ta bị đụng chạm với nhau hết. Mà động chạm nhau thì nó sanh ra ác pháp hết, nó làm khổ nhau.
(25:51) Tu theo đạo Phật là phải thấy được cái đạo đức. Bởi vì, trước khi chưa có đạo Phật thì ông Phật đi tu, thì ông bỏ cha bỏ mẹ, vợ con, phải khổ sở không? Nhưng mà ông đi tu rồi, mà người nào mà cha mẹ không cho, ông không cho đi tu đâu, ông không nhận đâu. Đọc trong kinh coi, không bao giờ ông nhận.
Một cái cô đó hai mươi lăm tuổi gặp đức Phật, nghe pháp rất hay, xin đức Phật đi tu. Đức Phật hỏi cha mẹ con đâu, "Có chồng rồi". Đức Phật nói về hỏi chồng cho đi tu thì ông Phật mới chấp nhận. Về hỏi chồng, chồng không cho tu, đợi chồng chết, bảy mươi mấy tuổi rồi mới tu. Ông Phật ông già khú rồi mới đi tu, thì đủ biết là như thế nào chưa?
(26:40) Cái đạo đức của Phật hẳn hòi mà. Đâu có nói chuyện mà cái người mà không được, cũng như bây giờ Minh Điền con nè, vợ con không đồng ý mà xin Thầy lên tu Thầy không cho đâu. Đúng đạo đức mà. Bởi vì nếu mà con không vợ thì được mà con có vợ thì bây giờ vợ con phải đồng ý, mới vui vẻ, chứ còn không đồng ý thì không có được, mà quảy gói lên ở đây được, Thầy không chấp nhận liền. Y như Phật mà.
Còn một người mà thanh niên, còn cha mẹ mà cha mẹ họ không chấp nhận, không cho đi tu mà lại xin thì không được. Chứ không phải là vô chùa người ta muốn tu, không được. Bởi vì phải sống đạo đức đúng mà, cha mẹ bằng lòng rồi thì mới đi tu, không bằng lòng thì không được. Nó có cái đạo đức của nó hẳn hoi.
Nhưng mà hồi nào tới giờ, thì đạo Phật không ai mà khai triển cái đạo đức đó. Cho nên người ta cứ khai triển thiền, khai triển cách tu để mà làm Phật sớm thôi, chứ không chịu làm người.
Cho nên cái người mà theo đạo Phật thì người ta dường như không biết đâu là đạo đức. Mà hễ nói đến đạo đức của đạo Phật thì đạo đức mê tín. Như xuống địa ngục rồi quỷ sứ cắt lưỡi này kia làm ác này kia, cái đạo đức kiểu đó Thầy không khai nổi. Hù dọa không. Phải không?
Thầy nói thật. Cho nên bởi đạo Phật có đạo đức hẳn hòi, mà các Thầy các tổ đã quên mất cái đạo đức đó. Rồi đút cái đạo đức gì biết không? Đạo đức Nho giáo vô, rồi gọi là Dung Tam Tế, như Thiền sư Vạn Hạnh nói Dung Tam Tế đó. Nghĩa là dung ba cái tôn giáo lại làm một cái tôn giáo đó, tức là Khổng rồi Tiên rồi Phật hợp lại, hợp ba cái tôn giáo trở thành một cái nền đạo đức đó.
(28:05) Nói về đạo đức con người thì lấy Khổng giáo mà làm đạo đức, mà nói về tu tập để mà trường sinh bất tử thì lấy Lão tử, lấy Tiên đạo, mà nói về tâm không tham, sân, si thì lấy đạo Phật để tạo cảnh Niết Bàn, coi như Phật cao nhất. Còn mấy ông này là từ con người rồi lần lượt rồi đến Tiên rồi mới Phật, họ đi từng giai đoạn.
Họ lấy ba tôn giáo họ ghép lại làm cái tôn giáo của Việt Nam. Cái đó là Phật giáo Việt Nam đó. Chứ như ông Phật, đạo đức của, một cái tôn giáo nào phải nói rằng nó có cái đạo đức của nó chứ đâu phải là không có. Đạo Phật nó phải có cái đạo đức của nó chứ.
(28:41) Phật tử Minh Điền: Kính bạch Thầy, pháp môn Tịnh Độ có phải do kim ngôn ngọc ngữ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra?
Trưởng lão: Thật sự ra thì, Thầy nói rằng nếu mà nói đức Phật nói ra thì coi như là phỉ báng Phật. Bởi vì chính đức Phật ra đời là đức Phật nhằm phá cái thế giới siêu hình. Cuộc sống của chúng ta có thế giới, chúng ta có thân người, có này kia, đức Phật nói đều là tưởng tri mà, chúng ta đều là tưởng tri. Thân này đâu phải là của chúng ta, thật sự của nó đâu? Nó là do duyên hợp mà có mà.
Bây giờ cứ nghĩ cái thân này của mình, cái tâm này của mình, nhà cũng của mình, cái này của mình, tất cả không phải. Nó là duyên hợp, có sao được mà có? Mấy người có mang được đi theo chỗ nào đâu mà mấy người cứ có? Nó đâu có có. Nó tan, nó hoại, nó mất tiêu hết, không còn cái gì hết.
Cho nên Thập Nhị Nhân Duyên, bài mười hai nhân duyên đức Phật đã chỉ xác định cho cuộc sống của Phật chúng ta, thì nó rõ ràng là, từ cái thân này cho đến các cái duyên hợp để mà tạo thành cuộc sống thế giới đó, thì nó toàn là thứ khổ. Mà chết rồi thì mười hai duyên này không còn cái gì hết.
Còn nói về ngũ duyên, tức là Ngũ Uẩn, thì chỉ cái thân của chúng ta, nó không có chỉ cái môi trường sống ở ngoài, Thập Nhị Nhân Duyên là nó chỉ luôn cái môi trường sống ở ngoài. Tức là sáu căn tiếp xúc sáu trần. Sáu trần là sắc thanh hương ở ngoài, thì nó là Thập Nhị Nhân Duyên rồi. Còn nói về cái Ngũ Uẩn là cái thân của chúng ta là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức đó, nó năm cái uẩn này đó, thì nó chỉ cho cái thân của chúng ta.
(30:35) Nhưng mà khi người chết rồi, Ngũ Uẩn nó không còn cái gì hết. Thế mà rồi chúng ta cứ cho nó là thật, thế giới này là thật, hữu hình là có thật. Rồi bắt đầu nghĩ ra, tưởng ra cái thế giới siêu hình, rồi cho nó có cái linh hồn nữa. Trời đất ơi đâu có chuyện đó. Bày ra đủ thứ để giờ nó cúng kiếng tùm lum hết.
Rồi bắt đầu bây giờ đẻ ra thêm nữa một cái thế giới nữa là thế giới Cực Lạc. Có ông Phật Di Đà rước mình về trên đó, ở trên cõi Cực Lạc cho sướng. Họ đẻ ra đủ thứ hết. Đạo Phật ra đời trong khi đó có nhiều tôn giáo đã xây dựng thế giới siêu hình, mà chính những thế giới siêu hình đã làm cho con người ta mê tín, lạc hậu. cho nên đức Phật đập phá nát, cho nên gọi là tưởng tri chứ không phải liễu tri.
Coi lại cái bài kinh căn bản, mà Phật dạy trong bài kinh Pháp môn căn bản đó, Phật nói tất cả những thế giới đó đều là tưởng tri. Cho nên Phật nói ba mươi ba cõi Trời. Ba mươi ba cõi Trời, đức Phật đều nói hết, cõi Trời này cõi Trời kia đó, ba mươi ba cõi Trời đều là tưởng tri, chứ không phải là liễu tri đâu. Đều là cái tưởng của mình tưởng ra thôi, nó đâu có thật.
Nhưng mà các con đọc ở trong kinh, thì các con nghe đó, có cõi Trời nào là Đâu Suất, nào là trời Tha Hoá, nào là Tứ Thiền Thiên này kia nọ. Nghe đủ thứ cõi Trời chứ gì? Quang Âm Thiên rồi này kia rồi đủ thứ hết. Đức Phật nói vậy đó. Nhưng mà đọc cái bài kinh căn bản đức Phật dứt khoát đập xuống hết.
Đức Phật còn có bài kinh như thế này nè. Đức Phật nói có nhà vua đó. Đức Phật đêm một cái câu chuyện để chúng ta nhận thấy. Ngày xưa có một cái ông quan hay làm ác. Nghĩa là ổng lãnh cái chức vụ là hàng ngày giám sát người nào mà ăn trộm ăn cắp là ông cứ chém đầu hết. Nghĩa là đưa đến ông đó là ông chặt đầu hết.
Thì ông mới nói: "Từ hồi nào tới giờ khanh lãnh cái chức vụ này là khanh ác, giết người dữ lắm, chắc chắn là khanh thế nào cũng bị đọa địa ngục. Vậy thì nếu mà khanh chết đi thì khanh nhớ làm sao khanh về, khanh báo có địa ngục thật sự. Bởi vì thế nào khanh cũng bị hành hạ thôi, bởi vì khanh giết người. Mặc dù là ta ký tên, nhưng mà nhà ngươi trực tiếp giết người ta, chắc chắn là phải đọa địa ngục. Thế nào thì cái tội của nhà ngươi cũng phải đọa địa ngục thôi, không thể nào trật được".
(32:32) Cho nên dặn ông quan này, dặn dò hết sức. Cuối cùng ông quan ổng này chết, mất tiêu luôn từ năm này đến năm khác, không thấy ông về ổng báo tin có địa ngục hay không. Đó là cái câu chuyện đức Phật đặt ra để mà cho chúng ta hiểu mà.
Thì lại trong triều đó lại có một ông quan rất thiện, không có làm điều ác mà bố thí làm lành đủ thứ, không có làm chọc ghẹo ai hết. Thì ông này được nhà vua chấp nhận là ông rất thiện, vậy thì chắc chắn ông sẽ sanh cõi Trời. Bởi vì các tôn giáo khác người ta nói mình làm thiện mình là phải sanh cõi Trời chứ gì? Mình làm ác là đọa địa ngục chứ gì?
Vậy thì cái ông quan đó sắp sửa chết, thì nhà vua đến căn dặn ông: "Nếu khi nào mà ông chết, ông về được cõi Trời thì ông về ông báo cho ta biết có cõi Trời thật sự. Nhớ, ta dặn, nhớ!". Nhưng mà cuối cùng ông này chết cũng không thấy về báo luôn.
Thì trước kia nói địa ngục, thì ông nọ bị xuống giam địa ngục người ta không cho về, thì đúng rồi, thì các tôn giáo, các Giáo chủ khác họ luận, họ nói tại ông đó ông làm ác, ông mắc người ta bỏ tù chứ làm sao mà về được. Nhà vua dặn thì dặn chứ người ta bị người ta còng, bị gông trói ở dưới thì làm sao mà về được?
Thì sau đó, thì cái ông quan đó chết, thì nhà vua cũng dặn ông đó, thì mấy ông kia không có lý luận được. Bây giờ mấy ông nói là bị tội thì người ta cột, người ta trói, người ta bỏ tù, chứ người ta không cho về. Còn ông này sanh lên cõi Trời thì lẽ đương nhiên là ông ta muốn đi đâu cũng được chứ, tại sao tui dặn ông vậy mà ông không về báo? Như vậy rõ ràng là không có.
Con thấy cái bài kinh đó xác thực chứ, để xác định là không có thế giới siêu hình. Đó là cách thức phá cái thế giới siêu hình. Mà con người từ xưa, có con người trên hành tinh này rồi thì trước cái cảnh thiên tai hỏa hoạn, trước cái núi non hùng vĩ, trước cái thời tiết nó vĩ đại quá, người ta sợ hãi. Những cái cây cô thụ nó lớn hàng bao nhiêu, mình thấy mình cũng ghê, như mấy cây đa, con biết nó lớn dữ tợn.
(34:12) Thành ra mình thấy mình nhỏ bé quá, mình khiếp đảm. Mà mình khiếp đảm thì tức là tư tưởng, cái tưởng của mình nó tưởng có Thần trong đó. Mà từ cái tưởng đó nó sẽ linh. Bởi vậy cái cục đất có gò mối thôi, mà mình cứ đốt nhang mình vái phù hộ được cho mạnh giỏi. Chứ không, trời ơi, ai đi ngang qua mà ỉa đái bậy bạ là quở liền đó chứ. Ai quở? Cái tưởng của mình chứ ai.
Phật tử Mỹ Châu: Như vậy là cái cuốn kinh này theo như lời Phật nói hay là cái gì? Em Sáu này muốn hỏi Thầy đó.
Phật tử Minh Điền: Mình không có để "như thị ngã văn" hả Thầy?
Trưởng lão: Cũng như bây giờ Thầy viết kinh, Thầy cũng để "Như thị ngã văn" được, chứ ai làm gì. Đâu phải chữ "Như thị ngã văn" là ông Phật nói.
(34:46) Phật tử Minh Điền: Với lại ở trỏng để đức Phật nói, đức Phật dạy mà có một cư sĩ, cư sĩ Diệu Nguyệt đó, ông hỏi đức Phật: "Có cái pháp nào mà có thể là giải quyết cái sanh tử trong đời này không?” Đức Phật mới nói. Thành ra chúng con không biết là nó có phải Phật nói hay không?
Trưởng lão: Chu cha, bây giờ đây là nó thuộc về cái các pháp Đại Thừa. Thành ra Thầy nói thật sự nó cũng nói thì nó đụng chạm, chứ các pháp Đại Thừa là do sự phát triển mà ra, do cái người sau, các tổ sau phát triển. Bởi vì khi đức Phật tịch rồi đó, thì lúc bấy giờ đó, thì những người chuyên tu, người ta đâu có tranh luận.
Mà những người mà tu chưa tới, đâu phải toàn bộ 1250 vị Tỳ kheo đức Phật đã chứng hết đâu. Nó chưa chứng hết, nó chứng có con số ít thôi, chứ đâu phải chứng hết. Thì cái số mà còn lại chưa hoàn tất mà quyết giữ gìn giới luật, thì thấy mấy cái ông này họ, bởi cái người mà tu chưa chứng họ dữ lắm, họ danh lợi dữ lắm. Thành ra họ chia, bắt đầu nó chia làm hai bộ phái là Đại Chúng Bộ với Thượng Toạ Bộ.
Thì trong khi nó chia ra rồi, thì hai bộ phái này chia ra rồi, thì những người mà bậc chơn tu, là người ta thấy chia ra rồi là người ta rút đi hết. Bởi vì chia rẽ mà, Tăng đoàn mà chia rẽ thì ai còn ở đó, bởi vì chia như vậy là nó có chống đối nhau rồi, nó mới chia ra, chứ còn nếu không chống đối làm sao chia ra? Thì lúc bấy giờ mấy cái ông mà danh lợi, mới do đó nó còn nằm ở trong những cái khối chia rẽ này.
(36:26) Mình phải hiểu, khi mà chia là nó phải có danh lợi trong đó nó mới chia, chứ không có danh lợi là nó phải hoà hợp Tăng rồi. Mà Tăng già mà chia rồi thì nó là rạn nứt rồi đó. Thì khi mà chia ra rồi thì cái Thượng Toạ Bộ này, bắt đầu nó ôm cái bộ kinh Nguyên Thủy nó đi. Nó sợ ba cái ông Đại Chúng Bộ này sẽ là làm sai lệch hết đi. Phá giới mà, trong khi đó nó đã phá giới rồi.
Thì lúc bấy giờ từ cái Đại Chúng Bộ này nó lại chia làm hai mươi bộ phái nữa. Bởi vì ông nào cũng muốn chủ quyền cái giáo hội của mình, quyền mình nắm cái nhóm của mình mà. Thành ra chia hai chục bộ phái nữa. Hai chục bộ phái nữa thì bắt đầu nó đẻ ra giới luật, nó viết sai giới luật ra để mà, nó sống theo cái kiểu mà dục của nó như thế nào, nó viết nó bẻ vụn ra giới hết.
Bây giờ Thầy nói giới, cũng như con, con có biết giới. Thí dụ giới về ăn uống đi, Phật nói ăn ngày một bữa. Thế mà mấy ông dám bẻ ra như thế này. Buổi sáng thì chư Thiên ăn buổi sáng, Phật ăn giờ Ngọ, chúng sanh ăn sau giờ Ngọ, ngạ quỷ ăn đêm. Phải không? Nó bẻ một cái giới ăn không đó ra làm bốn cái, để sáng quý thầy ăn đâu có tội, vì chư Thiên ăn, phải không?
Trưa ăn được mà còn chúng sanh, còn buổi chiều ăn là còn chúng sanh, chứ chưa phải là ngạ quỷ, chỉ có ăn đêm. Vậy mà bây giờ tới ăn đêm nó còn ăn nữa mà. Thì nó bẻ vụn giới như vậy, đủ biết là nó phá giới. Còn giới, Thầy nói thiệt ra đọc cái bộ kinh giới, Thầy nói nó đặt đủ thứ ở trong đó.
Phật chưa chết mà cái giới cấm rằng không có được xách dép đi vào tháp Phật. Phật chưa chết mà sao có tháp mà cấm? Bởi vậy mấy ông tổ viết mà ló đuôi, người mình đọc giới cái mình thấy rõ ràng, phải không?
Cấm, nghĩa là cấm không có cho xách dép vô tháp Phật. Mà ông Phật, ông còn mà ông chế giới kiểu đó, ông bộ ông làm cái mả ông trước sao, đâu có điều đó đâu. Chết rồi đó mới chia ra tám phần phải không, tám nước mới xây tháp thờ.
Chứ đâu có cất cái tháp nào của Phật hồi nào đâu? Thầy đâu có thấy ở trong kinh nói Phật xây cái tháp của Phật chưa chết để chờ đem vô đó chôn bao giờ đâu, đâu có điều đó đâu. Thế mà ở trong giới luật, đức Phật lại chế giới ra cấm không có được xách dép vô tháp Phật. Là sao vậy? Có đúng không?
(38:24) Phật tử Minh Điền: Kính thưa Thầy! Thầy nói như vậy đó, địa ngục, thiên đường là do cái tưởng. Rồi như vậy mình, cái mà mình đang tu, kêu gọi là cái gì hả Thầy?
Trưởng lão: Bây giờ cái địa ngục và thiên đàng thì đức Phật đã xác định rất rõ. Một hành động ác nó sẽ có cái quả khổ, quả khổ đó là địa ngục. Mà hành động thiện nó sẽ đem lại cái sự an lạc, cái sự phước cho mình, thì cái đó là thiên đàng.
Cho nên làm thiện, thì Phật nói cõi Trời, mà làm ác là địa ngục. Nó rõ ràng trong cuộc sống này, nó địa ngục hay thiên đàng ở đây. Cho nên mình mở cửa thiên đàng hay địa ngục mà thôi.
Cho nên có một vị Thiền sư, có một vị ngự lâm quân là một vị theo hầu nhà vua, một võ quan theo hầu nhà vua. Do đó đến mới hỏi, bữa đó thì ông ta đến mới hỏi vị Thiền sư, hỏi: “Vậy có địa ngục thiên đàng hay không?” Thì ông Thiền sư đó ông không có giải thích hẳn đâu. Ông mới hỏi như thế này: "Tôi nhìn ông là cái thằng chẳng ra gì hết mà bày đặt mang gươm đến đây hỏi địa ngục, thiên đàng!".
Thì cái ông võ quan này thì ông phải tức chứ gì? Ông tức, ông rút cái thanh gươm ra. Ông đưa coi: "Nè! Thanh gươm như thế này mà ông nói tui cái thằng không ra gì. Tôi là một ngự lâm quân của nhà vua mà". Thì ông Thiền sư mới nói: "Đó là địa ngục. Khi một vị tướng mà rút thanh gươm ra thì phải có đầu rơi máu đổ, thì có sự đau khổ, đó là địa ngục chứ còn gì? Có người chết thì phải địa ngục chứ gì".
Thì ông này nghe vậy cái giật mình, cho nên mới đút cái thanh gươm vào vỏ, thì vị Thiền sư mới trả lời tiếp: "Đó là thiên đàng". Nghĩa là gươm mà đút vô vỏ thì không có người chết, thì tức là thiên đàng chứ gì. Nó xác thực được cái điều cụ thể mà. Cho nên đâu có địa ngục, đâu có thiên đàng đâu? Đâu có thế giới siêu hình đâu?
(40:21) Phật tử Minh Điền: Bạch Thầy, con muốn hỏi là bây giờ hiện tại, Thầy nói như vậy, bây giờ cái mà mình đang tu như vầy, cái này gọi là cái gì? Ngã hay là Phật Tánh hay là cái gì?
Trưởng lão: Cái đó hả? Bây giờ muốn hỏi về vấn đề tu, cái ngã phải không? Bởi vì, vốn con người nó do từ nhân quả sinh ra, mà chết đi cũng trở về nhân quả. Phải không? Thì bắt đầu trong nhân quả này nó đâu có gì? Nó luôn liên tục, nó theo cái nghiệp lực của nhân quả mà nó tiếp tục tái sanh luân hồi chứ đâu có cái gì của mình, hay cái gì không của mình.
Phật tử Minh Điền: Như vậy người ta gọi là linh hồn phải không bạch Thầy?
Trưởng lão: Không phải! Không phải đâu. Nó là nhân quả mà. Bây giờ thí dụ như một người mà ghiền rượu đi, phải không. Họ đi ngang quán rượu, nghe mùi rượu thì họ muốn vô. Phải không? Đó là cái nghiệp lực, thói quen của mình. Nếu mà nói cái ngã thì sao lại cái người đó, người ta nghe mùi rượu, người ta không vô? Người ta cũng có cái ngã mà sao người ta không vô, mà lại mình vô?
Thì cái nghiệp lực nó mới do cái ông này uống rượu ông quen rồi, ông nghe mùi rượu ông thèm. Còn cái người không uống rượu thì làm sao mà thèm? Nhưng sao lại nói chung được, đâu được, phải không. Đó là cái nghiệp. Cho nên có nghiệp ác, nghiệp thiện, nó không đồng đều. Cho nên con người chúng ta sống không có người đồng đều, gương mặt người nào cũng khác, không giống người nào được hết.
Phật tử Minh Điền: Bạch Thầy, con xin hỏi là, Thầy nói như vậy, cái ngã nó có tri giác hay không? Không tri giác làm sao nó biết?
Trưởng lão: Bây giờ Thầy nói như thế này nè. Nếu mà nói nó có tri giác, thì sao lại Phật nói vô minh? Bởi vì trong Thập Nhị Nhân Duyên Phật nói Vô Minh sinh Hành, Hành sinh Thức, mà tại sao mình nói tri giác? Mình đừng nói cái biết của mình đang biết, mình tưởng tri giác. Mình biết ở trong cái ngu, cho nên mình mới khổ, mình mới tạo nghiệp. Sao mình lấy cái đó mình gọi là tri giác?
(41:55) Phật tử Mỹ Châu: Bạch Thầy sau khi mình chết đó Thầy, cái thức nó làm sao để mà mình đầu thai làm cái người mới?
Trưởng lão: Nó đầu thai cái người mới, Thầy xin trả lời đó cho. Nó đầu thai người mới, là mình sống trong cuộc sống mình huân cái hành động gọi là nghiệp lực, nghiệp tức là ác thiện đó. Thì khi mình bỏ cái thân này, hết cái nhân duyên của nhân quả của cái thân này thì nó bỏ, thì cái nghiệp đó nó thiện thì nó tương ưng với cái chỗ nào mà như nó đã làm.
(42:16) Thí dụ như bây giờ ông cha mà đời sau của mình, thì nó cái nghiệp đó nó thiện thì nó tương ưng với cái ông cha đó, nó phải tương ưng với nhau. Thì ngay đó mình bỏ thân này, thì nó tương ưng ngay đó là nó sẽ, người đó sẽ là cha mình rồi. Cái thân thứ hai của mình rồi. Nó tương ưng mà, chứ đâu phải nó đi.
Bởi vì đối với cái nhân quả nó không có cái không gian và thời gian mà nói nó đi thì nó sai lắm, nó tương ưng thôi. Bây giờ mình ở đây, mình làm cái điều gì, kệ nó không biết. Mà trong cái không gian này, bao nhiêu con người mà nó tương ưng với cái hành động nhân quả thiện ác của người ta, cái thiện ác này nó tương ưng với kia thì nó tái sinh đó.
Phật tử Mỹ Châu: Thì nó trở thành con người đó?
Trưởng lão: Con người đó. Hiểu chưa? Chứ nó không có đi, mà không có phải mang linh hồn hay cái thần thức gì theo vô đó hết. Tại vì cái đó là cái nhân quả của người đó, nó tương ưng với cái nhân quả này, nó tiếp tục, nó trả cái nhân quả của nó, nó phải thành con người để nó trả.
Phật tử Mỹ Châu: Vậy là khi mình chết, hồn mình vừa từ lúc…
Trưởng lão: Ở đây mình bỏ là mất. Nó coi như tương ưng liền, tiếp tục liền chứ không có mà bốn mươi chín ngày hay cầu siêu cầu an gì hết.
Phật tử Mình Điền: Dạ! Ý muốn hỏi là có linh hồn không bạch Thầy, hay là chỉ có nghiệp thôi?
Trưởng lão: Lẽ đương nhiên là hàng ngày mình tạo cái nghiệp thì có nghiệp, chứ nó không có gì nữa hết. Bởi vì Phật nói Ngũ Uẩn này không còn có cái gì hết. Nếu còn có một chút xíu gì còn của cái Thân Ngũ Uẩn này thì đạo Phật không ra đời, đức Phật đã xác định rồi. Nghĩa là còn một chút xíu cái thức hay một chút xíu gì của cái Thân Ngũ Uẩn này thì đạo Phật không ra đời, vì không thể cứu khổ.
Vì nó có một cái vĩnh viễn rồi thì không thể ra đời. Do nó nhân quả, do nhân duyên hợp, cho nên vì vậy mà nó ra đời để mà chỉ cho người ta biết, để mà người ta thoát khổ.
(43:48) Phật tử Minh Điền: Bạch Thầy! Như vậy là có Niết Bàn không bạch Thầy?
Trưởng lão: Lẽ đương nhiên là cái Niết Bàn là cái chỗ nào, Phật nói Diệt Đế là Niết Bàn chứ gì? Nhưng mà Diệt Đế là cái gì? Nó hết cái tâm dục là Niết Bàn. Tức là mình hết tham, sân, si nè, mình hết ham muốn, thì cái chỗ cái trạng thái tâm đó đó là cái Niết Bàn. Cái chỗ đó là hết cái nghiệp cho nên nó chấm dứt tái sanh luân hồi, gọi là Niết Bàn. Chứ mình nói Niết Bàn có cái cõi thì không.
(44:25) Bây giờ Thầy hết tâm tham, sân, si, Thầy hết ham muốn rồi, thì bây giờ Thầy đang mang cái thân nhân quả này, thân nhân quả nó vẫn còn chứ, nhưng mà Thầy luôn luôn “Tự tại Bồ tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không” chứ gì? Điều đó là bịa đặt, lý thuyết suông.
Mà bây giờ muốn cho nó “giai không” thì bắt đầu đi từ giới nè. Bây giờ muốn “không” thì ăn phải ngày một bữa, mà ăn ba bữa nó là cái ngã rõ ràng rồi, mình tích lũy cho nó ăn, mình nuôi nó nè. Còn mình ăn ngày một bữa, mình giảm mà bây giờ nó thèm ăn là cấm nó không ăn thì đó là “không” lần đó. Bây giờ nó muốn cái gì thì cấm nó “không” lần, bây giờ thấy chiếc áo đẹp nó muốn, hay thấy cái xe tốt nó muốn, cấm nó lần thì nó “không” lần đó.
Phật tử Minh Điền: Như vậy là theo Thầy dạy là, cái ngã nó có phải là mình giữ giới để mình không có tham mê theo cái ngã?
Trưởng lão: Đúng rồi. Đó là diệt lần nó đó. Diệt lần cái ngã. Cái đó là diệt lần.
Phật tử Minh Điền: Còn cái lý Đại Thừa chỉ nói là cái lý thuyết thôi ạ? Vẫn mê hoài?
Trưởng lão: Lý thuyết, đúng đó. Nó vẫn mê.
(45:16) Phật tử Mỹ Châu: Như pháp của Thầy Thanh Từ nói biết vọng liền buông đó Thầy. Sống vẫn sống trong ngũ dục như thường.
Trưởng lão: Vậy cho nên nó đâu có xả tâm. Bởi Thầy nói thiền đó thiền không xả tâm.
Phật tử Minh Điền: Bạch Thầy, xin Thầy giảng cho con rõ thế nào là ức chế tâm thế nào là xả tâm?
Trưởng lão: Bây giờ thí dụ như mình ngồi đây mình niệm Phật “Nam mô A Di Đà Phật”, mình niệm được nhất tâm, không bao giờ loạn, thì cái người đó cũng bị là ức chế tâm. Bởi vì cái tâm mà dùng nó ức như vậy, là nó không có khởi một cái niệm ra thôi. Tức là nó không niệm thiện niệm ác gì hết. Nhưng mà cái tâm tham, sân, si nó đâu có xả. Phải không?
Cho nên bây giờ, khi mà nén ức chế nó, nó ra nó đụng nó coi, nó còn giận dữ hơn ai nữa chứ đừng nói, nó còn tham hơn ai nữa. Cho nên tu riết rồi, cái người mà tu, mới đầu tu như vậy chứ, tu sau rồi riết rồi, họ có chức danh đụng tới họ coi. Trời, không dễ đâu, không phải dễ đâu. Họ chưa có danh thì còn đỡ chút, chứ họ mà có danh, họ làm lớn rồi thử coi, đâu có dễ đâu. Khó lắm!
Cho nên ở đây, do cái chỗ xả tâm. Mà thiền ức chế tâm là như là câu Niệm Phật, như là hơi thở, tu sổ tức này, tôi đếm 1, 2, 3, 4, 5, 7 là tôi ức chế tâm đó.
(46:17) Còn bây giờ, tôi hít vô nè tôi biết tôi hít vô, tôi thở ra tôi biết tôi thở ra nè. Rồi tôi kèm theo cái sự xả tâm: "Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra", thì cái ly tham này là xả tâm, tâm chúng ta là tâm tham, sân, si mà. Chúng ta phải xả nó, thì xả nó thì tức là ly rồi.
Phật tử Minh Điền: Như vậy đó, con nghĩ như vậy phải không Thầy? Thầy dạy như vậy á, coi như ức chế tâm có nghĩa là thấy cái tâm điểm của mình, nhưng mà không có quán để xả.
Trưởng lão: Không có tìm quán để xả.
Phật tử Minh Điền: Quán buông xả nó mới gọi là xả. Còn cái này chỉ biết đơn thuần không đó, thì bị ức chế?
Trưởng lão: Ức chế. Cho nên nó chỉ có tu được tỉnh thức, tỉnh thức ở trong cái niệm đó thôi. Thí dụ như niệm Phật hay hơi thở, cái niệm hơi thở mình tỉnh thức đó thôi, chứ còn cái Chánh Niệm không có.
Phật tử 3: Bạch Thầy, trong cuốn “Con đường mây trắng”, thầy Nhất Hạnh nói về cái thấy hơi thở, nói là đạo Phật là đạo tỉnh thức. Như vậy cái đó phải là ức chế tâm không Thầy?
(47:06) Trưởng lão: Sao, thầy Nhất Hạnh nói sao?
Phật tử 3: Thầy Nhất Hạnh trong cuốn “Đường xưa mây trắng” đó, thầy nói về vấn đề là đạo Phật là đạo tỉnh thức, tức là mình biết hơi thở, mười sáu cái pháp hơi thở đó, thở ra thở vô, mình biết vậy, phải là ức chế tâm không Thầy?
Trưởng lão: Ức chế tâm. Ức chế tâm, không phải xả tâm. Cho nên thí dụ như mình biết mười sáu cái đề mục như vậy là ức chế tâm. Nhưng mà trong cái pháp đó là tại vì thầy Nhất Hạnh, ổng tưởng theo cái kiểu của pháp Đại Thừa ảnh hưởng thôi, cho nên ngài triển khai ra vậy.
Chứ còn trong cái bài pháp đó, mười sáu cái đề mục thiền thì Phật kèm theo như quán ly tham, quán ly sân, quán vô ngã, quán vô thường, đức Phật có dạy luôn để cho cái Chánh Niệm của mình luôn luôn liên tục ở trong. Cái Chánh Niệm là cái niệm không khổ mà, cái niệm xả tâm. Nó luôn luôn nó Chánh Niệm tỉnh giác mà, tỉnh giác thì phải ở trong cái Chánh Niệm.
Cho nên vì vậy mà luôn luôn mình kèm theo cái Chánh Niệm chứ không phải. Cái kia là mới là cái niệm tỉnh thức, chứ chưa phải là cái Chánh Niệm. Mà mình thất niệm là mình thất niệm cái Chánh Niệm, còn cái niệm tỉnh thức thì mình có. Cho nên cái niệm tỉnh thức là niệm ức chế tâm.
Bởi vì mình cứ tỉnh thức mình giữ đó mình không xả tâm, thì cái Chánh Niệm này đâu có. Mà Phật nói Chánh Niệm là cái niệm nó làm cho mình không tham, sân, si, nó mới Chánh Niệm, chứ đâu phải là cái chỗ hơi thở là Chánh Niệm đâu, mà hơi thở chỉ là cái niệm tỉnh thức. Lấy cái hơi thở mình thở ra biết ra biết vô, đó là tỉnh thức ở trong hơi thở, chứ không phải là Chánh Niệm.
Mà Chánh Niệm là phải kèm theo quán ly tham, quán ly sân đó là sai Chánh Niệm. Bởi vì niệm đó là niệm ly tham, sân, si mà, nó mới Chánh Niệm được chứ. Nó là niệm giải thoát mà, nó không tà niệm.
(48:32) Phật tử Minh Điền: Bạch Thầy, còn như là Hoà thượng Thanh Từ, thì Hoà thượng dạy là, cũng như là khi lục căn mình tiếp xúc với lục trần, tỷ như mắt thấy sắc biết mình có tính thấy, sống với cái Phật Tánh thấy đó. Thầy dạy như vậy, là sống với cái Phật Tánh. Thấy biết mình thấy, ăn biết mình ăn, làm biết mình làm, nhưng không dính trong đó. Coi như không thấy, không nghe, không ăn thì như vậy có phải là sống, nhiều người gọi là kiến tánh không bạch Thầy?
(48:59) Trưởng lão: Không! Cái đó chỉ là luận để cho mình sống cái kiểu nén tâm, nén tâm xuống chịu đựng. Nhưng mà đụng rồi thì nó dính. Bởi vậy, cho nên cái người mà tu giải thoát phải thấy được cái chỗ này. Mình nói thì được nhưng mà mình sống không được đâu. Nếu sống được thì mọi quý thầy, thời gian Hoà thượng dạy người ta, người ta giải thoát hết rồi còn đâu mà ở đây mà gọi là. Xả tâm hết rồi còn cái gì.
Bởi vì, cái này phải, cái người ta luận người ta nói ra, thì mình chưa có xác định rằng đúng hay sai, nhưng mà mình xác định được cái thời gian tu thì nó sẽ đúng hay sai. Đức Phật dạy như thế này nè, người ta nói cái gì đó, mình khoan tin đã. Mình hãy thấy được cái chuyện làm của người ta có làm được hay không.
Thì dụ bây giờ ông thầy đó dạy vậy, mà ông còn ăn ba bữa thì tức là ông chưa có xả ly đâu. Ông nói vậy chứ, ông nói ông thấy đừng có dính, phải không? Nhưng ông thấy bữa ăn ông còn ăn mà làm sao? Thì vậy có dính hay không? Mình phải thấy ông thầy, cái ông dạy mình á, rồi mình mới tin.
Cho nên đức Phật dạy, Thầy nói như thế này này: "Đừng có tin ta nói nữa, mà hãy về thực hành được mà thấy nó giải thoát liền, thì đúng, mà không giải thoát là không đúng". Phải không? Đó là cái thứ nhứt.
Cái thứ hai, phải xét lại cái người đó, cái người mà dạy mình. Cái pháp họ có nói vậy, mà họ có làm đúng không? Y hành phải hợp nhất chứ. Ông ta nói một điều mà ông ta làm một ngả mà mình cũng tin nữa. Ông ta không làm được mà dạy mình, bắt mình làm chuyện đó. Cũng như bây giờ Thầy dạy mấy cô ở đây, mấy thầy ở đây ăn ngày một bữa, mà Thầy ăn ba bữa họ chịu không? Họ chấp nhận Thầy không?
Mình phải làm cho đúng chứ. Thầy dạy độc cư mà Thầy nói chuyện hoài thì thử hỏi. Cho nên, có lúc Thầy không thèm nói chuyện với ai hết. Cho nên Phật tử đến đây họ riết họ cũng chán nữa, họ không muốn. Nhưng mà Thầy dạy người ta phải độc cư thì Thầy phải sống độc cư chứ. Mình phải làm gương cho người ta chứ. Mình làm thầy mà mình nói một chuyện, mình làm một ngả thì sao được?
Phật tử Minh Điền: Bạch Thầy, như trong kinh Đại Thừa nói, nhứt thiết chúng sanh có Phật Tánh. Thầy có công nhận là có Phật Tánh không, hay là không có Phật Tánh?
Trưởng lão: Nếu có Phật Tánh thì đạo Phật là đạo hữu ngã rồi. Bởi vì đạo Phật là đạo vô ngã mà. Bây giờ mình nói có Phật Tánh thì mình đã chấp. Dù là chấp một cái gì, mình nói còn có cái một gì trong đó Phật Tánh.
(51:06) Cho nên cái câu kinh mà, Thầy nhắc lại bốn câu kệ của Phật:
“Thiên thượng thiên hạ
Duy ngã độc tôn”
Các tổ ăn mất hai câu kệ sau của người ta, để chỉ cái gì? "Thiên thượng thiên hạ. Duy ngã độc tôn" chỉ trên trời dưới trời, chỉ có ta duy nhất là chỉ có Phật Tánh mình chứ gì? Là hơn hết chứ gì? Cho nên gọi là Tối Thượng Thừa chứ gì? Phải không? Nhưng mà cái bài kệ của người ta rất rõ ràng.
“Thiên thượng thiên hạ
Duy ngã độc tôn
Nhứt thiết thế gian
Sanh lão bệnh tử.”
Trên trời, dưới trời, ta là người duy nhất vượt qua sanh già bệnh chết. Có phải đức Phật xác định được cái điều đó không?
Vậy mà mấy ông đó đẻ ra nữa. Mấy ông đẻ ra như thế nào? Trước đức Phật có bảy đức Phật quá khứ. Nếu có bảy đức Phật quá khứ thì làm sao đức Phật nói câu kệ đó? Bảy đức Phật quá khứ, làm sao đức Phật đi tìm một cái giáo pháp do mình vạch ra?
Nếu có giáo pháp mà mỗi đức Phật đều có một số chúng rất đông, phải không? Có những cái chúng tới một ngàn hai trăm năm chục vị Tỳ kheo cũng như đức Phật Thích Ca vậy chứ đâu ít. Nhưng mà tại sao có chúng đông như vậy mà giáo pháp khi đức Phật ra đời lại không có đạo Phật?
Có không? Hay là đức Phật tu tầm bậy tầm bạ, rồi bây giờ mới gần chết, mình mới tìm ra cái đường giáo pháp đó? Bởi vì cái người đầu tiên mà lập ra như vậy, người ta mới gọi là giáo chủ của tôn giáo đó chứ. Chứ nếu mà cỡ có đức Phật, làm sao ai mà gọi đức Phật Thích Ca là giáo chủ? Phải không?
Phật tử Minh Điền: Bạch Thầy, như Thầy dạy thì trước đức Phật Thích Ca Mâu Ni là chưa có Pháp?
Trưởng lão: Chưa có! Cho nên đức Phật nói ta cung kính Pháp vì Pháp đó giải thoát. Vì vậy mà sau này, người sau này cũng hãy cũng kính Pháp này và Pháp này là Thầy của các vị, chứ ta đâu có là Thầy.
Phật tử Minh Điền: Bạch Thầy, như người ngoài người ta luận là Phật có trước hay Pháp có trước, bạch Thầy, theo Thầy Phật có trước hay Pháp có trước?
Trưởng lão: Lẽ đương nhiên là khi mà con người có là phải có Pháp rồi, hễ con người có là có Pháp rồi. Thì đức Phật là đã sanh bao nhiêu con người rồi mới có đức Phật mà. Phải không? Cho nên đức Phật tìm Pháp là Pháp phải có trước nhưng mà không có người chứng cái Pháp đó. Pháp thì nó… nhiều, phải không?
(53:21) Nhưng mà người ta tìm ra được. Cũng như bây giờ mình thấy những cái điện thoại nè, như những cái máy này, nếu mà không có cái nhà khoa học thì làm sao người ta tìm ra những cái điều kiện, mà người ta chế ra được những cái máy cho chúng ta? Nó có phải không? Đó.
(53:41) Phật tử Minh Điền: Theo con nghĩ cái chỗ là mình tu tập như thế nào để mình thấy lục trần là xong. Cũng như mình không dính vô lục trần đó là mình ly ác pháp hả Thầy?
Trưởng lão: Thật sự ra thì đức Phật dạy chúng ta, nếu mà lục trần không dính, sáu căn không dính mắc lục trần, thì phải theo đúng cái đường lối của đạo Phật là phải, thứ nhứt nè, thiểu dục tri túc nè, phải không, phòng hộ sáu căn nè, Chánh Niệm Tỉnh Giác nè, Định Niệm Hơi Thở nè, Định Vô Lậu nè, Tứ Niệm Xứ nè, Tứ Chánh Cần. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo nói chung.
Thì do đó, chúng ta phải thực hiện cho đầy đủ thì chúng ta sẽ không dính mắc sáu trần. Chứ còn không thể nào mà đơn giản một pháp mà có thể thực hiện sáu trần được.
Phật tử Minh Điền: Thành ra luận lý Đại Thừa nói là, lúc mà mình thấy mà mình không nhiễm, lục căn tiếp xúc với lục trần mà không dính mắc đó là chỉ cái luận lý?
Trưởng lão: Cái luận lý, cái nói, cái danh từ của nó, coi như cái lời nói suông. Chứ còn cái lời nói mà đúng, thì phải là cái hành chứ không thể suông. Mà giới luật là cái hành, chúng ta phải sống đúng giới luật. Nghĩa là cái giới luật đó đặt ra vậy, thì chúng ta cố gắng đừng có vi phạm cái giới luật đó thì chúng ta đã sống. Đó.
Mà nếu mà chúng ta sống cái đó, mà chúng ta không có biết pháp hành, thì chúng ta bị giới luật ức chế, trói buộc, từ đó chúng ta làm lén, chúng ta bẻ ngang giới luật. Cho nên chúng ta phải biết cách hành của giới luật, chứ còn không biết không làm được. Nói thiểu dục tri túc, thì tôi chỉ thiểu dục chừng một tháng, hai tháng, sau đó tôi chịu hết nổi rồi. Bởi vì nó thiếu đủ thứ hết.
Ba y một bát, thì quý cư sĩ mới thấy rằng, có một bộ đồ mặc ở trên người như thế này, cái y trung là một cái, cái y hạ là một cái là cái chăn chứ gì, và cái y thượng là choàng, có ba y như vậy. Thử hỏi khi chúng ta rất bất tiện là, đến đi, một cái đường đi mà đến chừng một, hai cây số thôi, mồ hôi nó ra ướt hai cái y rồi, thì bây giờ, phải giặt cái nào trước, mà cái nào sau? Chứ đâu phải loã thể được.
(55:34) Đức Phật cấm mà, không có cho để hở tay, hở chân nữa mà. Để tránh dục mà, tránh những cái tâm dục của kẻ khác, mà tránh được cái tâm dục của mình. Bởi vì người ta dục, người ta sẽ tìm đến mình, và từ đó người ta gợi mình, mình sẽ cũng không thắng nổi cái dục của mình.
Cho nên, khi mà muốn giặt cái bộ đồ như vậy đó, thì mình giặt cái y hạ và y trung, và y thượng phải choàng kín, phải chịu mặc đồ dơ đó. Rồi giặt cái đó khô rồi, mới mặc cái y trung và y hạ rồi mới đem y thượng mới giặt. Rồi mới sẽ bắt đầu mình có đi được, thì nó phải đồ đạc phải sạch sẽ rồi mới đi. Vệ sinh lắm, chứ không phải là mang cái đồ dơ cũng như là Tế Điên Hoà thượng thì không được. Không phải vậy.
Phật tử Minh Điền: Kỳ đó hỏi là Pháp có trước, con cũng nói là, Pháp có trước hay Phật có trước, thì con cũng nói là Pháp có trước, để rồi Phật chứng rồi cho nói lại
Trưởng lão: Chứ đâu phải Phật đẻ Pháp. Pháp có trước, cho nên từ đó đức Phật chỉ là một con người đi tìm ra cái pháp, thực hiện để giải thoát được. Bởi vì nói nhân quả thì nhân quả nó sanh ra các pháp mà. Nhân quả sanh ra con người mà.
Cho nên nói con người từ đâu sanh ra? Vậy mà tôn giáo thì xây dựng cái điều đó sai rồi. Nó là do nhân quả, mà nhân quả thì từ vô minh mà sanh ra chứ gì. Do cha mẹ mình vô minh mới đẻ ra mình, chứ còn cỡ ông không vô minh, ông đâu có thèm cưới vợ cưới con thì chắc bây giờ đâu có mình. Mình đâu có khổ như thế này.
(56:40) Phật tử Minh Điền: Bạch Thầy! Cái gì sanh ra Vô Minh bạch Thầy?
Trưởng lão: Cái gì sanh ra Vô Minh? Sự thật ra vạn vật đều vô minh. Cái môi trường sống, cái đống rác của chúng ta đó, là nó vô minh chứ gì? Bây giờ đống rác nói nó có minh được sao? Nhưng mà từ đống rác đó nó nảy sanh ra loài vật. Bởi vì nó đủ cái môi trường sống của nó, thì trong cái đống rác ẩm nó sẽ sanh ra loài vật. Những ký sinh trùng nó cũng từ đó nó sanh ra.
Chứ đâu phải khi không mà nó không có cái đống nước ẩm này, nó đâu có con vật đó đâu? Nó đủ cái môi trường sống nó sinh ra. Thì con người chúng ta sanh ra cũng đúng cái môi trường sống, cho nên nó từ vô minh. Cái đống rác mà, đâu có thể nào nói nó là minh được.
(57:014) Phật tử Minh Điền: Bạch Thầy, xin Thầy giảng cho con rõ về vấn đề cái Ngũ Uẩn Thầy. Quan sát như thế nào để thấy nó là không, để trong khi tu tập con xả ly nó, đặng mà từ từ đi đến cái chứng ngộ thấy Ngũ Uẩn là không?
Trưởng lão: Nếu mà giải thích nó thì coi như là mình lý thuyết mất, mà hãy tin, bởi vì Phật nói tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, tin ta là người đã làm được cái này. Thì bây giờ muốn đi nó, đừng có nên nghe, hiểu cái gì nhiều. Phải không? Mà hãy thực hành, phải sống, ta bảo sao, sống vậy.
Cho nên lúc bấy giờ các vị Tỳ kheo nói: "Các con sẽ tin Phật, Phật dạy sao các con làm vậy. Chứ không hiểu thêm gì nữa". Cho nên ông Bàn Đặc là người dốt nhứt mà đức Phật bảo quét tâm đi. Thì ông tối ngày “Tâm như cục đất”, ông cứ “tâm như cục đất”. Ông cứ nhắc vậy, nhắc riết thì ông chứng đạo.
Cho nên khi mà chứng đạo rồi thì, ngày hôm đó thì đức Phật đi thọ trai. Thì ông ở trong rừng đó không ai hết, thì ông thể hiện thần thông, gốc cây nào trong khu rừng đó cũng ông Bàn Đặc ngồi đầy hết. Lúc bấy giờ đức Phật đang thọ trai, đức Phật mới nói biểu ông cư sĩ ở cái nhà mà cúng trai Tăng đó: "Ông đến đó kêu ông Bàn Đặc thọ trai, ông chứng đạo rồi".
(58:18) Bởi vì đi vắng rồi, ông mới thực hiện thử coi cái lực đạo của mình coi thử như thế nào? Cho nên cái ông cư sĩ đến cái khu vực đó, thấy toàn là ông Bàn Đặc ngồi đầy rừng hết. Gốc cây nào cũng ông Bàn Đặc ngồi hết. Thì ông ta không biết ông Bàn Đặc nào mà đi thọ trai, cho nên mới trở về ông xin Phật. Thì đức Phật nói đến đó cứ gọi: "Ông nào là Bàn Đặc, thì hãy đi thọ trai, Phật mời, thì ông sẽ mang y bát ra, ông đi". Thì vô gọi vậy, thì bao nhiêu ông Bàn Đặc mất hết, chỉ có một ông ôm bình bát đi.
Mà người ta chỉ tu có một pháp quét tâm thôi. Còn mình học hỏi cho nhiều, rồi mình rối đầu rối óc. Bởi vậy Thầy giảng cái giáo án rồi, đường lối của đạo Phật mà Thầy vạch trở lại hết. Kinh Nguyên Thủy mà Thầy vạch ra rồi, người ta rối người ta hết.
Bởi vì rối hết, cái pháp nào nó cũng hay. Như thí dụ như Tứ Bất Hoại Tịnh nè. Tứ Bất Hoại Tịnh chỉ cho chúng ta tu cái pháp, nó làm cho thân tâm chúng ta nó không hoại diệt cái sự thanh tịnh. Là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, tin Giới, phải không? Gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh.
Thầy giảng cái đó rồi thì người ta thấy hay quá, tu thấy hay quá, đó là một. Rồi bây giờ bắt đầu Thầy dạy Tứ Chánh Cần ngăn các pháp ác nè, diệt các pháp ác nè, sanh trưởng các pháp thiện nè, tăng trưởng các pháp thiện, nó là Định Tư Cụ, dụng cụ Thiền Định. Thầy dạy rồi, cách thức tu, người ta nói: "Hay quá! Có pháp tu hay quá rồi".
Thành ra ngay từ cái pháp đầu tiên thì người ta thấy cái pháp này còn hay hơn nữa, người ta tu quá rồi, thành ra rối lên hết. Cho nên tuỳ căn cơ của mọi người muốn học tu. Thì Thầy nói: "Nói lung tung vậy chứ rồi tu không có ra gì hết". Bây giờ về Thầy dạy mình ngồi, ngồi, đi, đi. Thầy dạy đi thì đi, Thầy dạy ngồi thì ngồi thôi. Cứ làm, tin Thầy đi, Thầy dẫn cho tới nơi tới chốn thôi. Còn không tin thì bây giờ Thầy có giảng gì, đi về cũng tu tầm bậy tầm bạ hết.
(1:00:06) Phật tử Minh Điền: Bạch Thầy, trước tiên con cũng giống như mới sơ cơ mới bước vào tu, Thầy dạy thế nào, mà con tu như thế nào?
(1:00:15) Trưởng lão: Bây giờ đâu có gì đâu. Bây giờ muốn vô tu, Thầy bảo bây giờ lại đây, Điền lại gần đây, ngồi xuống. Bây giờ hít hơi thở như thế này. Thầy dạy bảo hít một hơi thở, hít. Rồi Thầy dạy phải thở loại hơi thở nào? Rồi bắt đầu bây giờ đứng dậy đi kinh hành làm sao, Thầy dạy cách thức đi. Đi như thế nào gọi là xả tâm? Hướng tâm như thế nào? Nhắc tâm thế nào? Thầy dạy sao cứ làm vậy.
Làm quen rồi về tập. Tập một tuần lễ đến trình Thầy coi thử coi tu tập được cái gì? Hay là chưa được? Vậy thôi! Rồi chừng nào mà tu được cái đó rồi hãy tính. Chứ không phải là chưa được mà dạy thêm đâu. Không dạy đâu.
Bây giờ một tuần lễ về tập. Tập tại sao mà tập không được? Xét lại coi thử coi tập trật hay đúng? Bây giờ ngồi lại xem lại, xét lại. Có vậy tu mới kết quả chứ. Chứ còn cái mình lý thuyết suông, về tu bậy bạ, trật lất hết. Từ cái chỗ xả tâm lại là ức chế tâm.
Phật tử Mỹ Châu: Thầy ơi! Một chút nữa Thầy dạy pháp tụi con, dạy con bước đầu đi, một bước một.
Trưởng lão: Đâu phải dạy pháp là nói pháp đâu. Dạy pháp là dạy người ta tu, … rồi (Nghe không rõ). Thì khi nào, chứ bây giờ thì dạy. Bây giờ có thì giờ đến đây nghe thuyết pháp, chứ không phải là dạy pháp. Không phải dạy học.
Phật tử Minh Điền: Coi như đến đây là phải có thực hành. Thầy dạy phải có thực hành chứ không phải là nghe cái này
Trưởng lão: Nãy giờ là nói nghe chơi đó.
Phật tử Mỹ Châu: Tụi con ở dưới đó lâu lắm mới được gặp Thầy. Giờ Thầy chỉ cho con, cái kiểu của con, con làm được cỡ khoảng ba tháng, bốn tháng rồi trở về học.
Trưởng lão: Hiện giờ, thí dụ nãy giờ Thầy nói nó làm cái tâm con nó động rồi, con không có thể nào yên đâu. Con muốn bữa nào đó, thì thí dụ bữa nào con vô, trưa hay bữa nào con vô, hoặc sáng con vô, thì bây giờ con lên Chánh điện ngồi đi. Rồi Thầy dạy từng cái. Rồi về tập. Tập một tháng, hai tháng lên kiểm tra lại. Thì cứ như vậy mới được. Chứ nãy giờ nghe Thầy nói.
Phật tử Mỹ Châu: Để con ngồi chút nữa Thầy dạy cho con?
Trưởng lão: Rồi con. Muốn tu không có nghĩa là vội vàng được. Thí dụ như bây giờ ngày mai con còn ở lại đây, thì ngày mai vô Thầy dạy. Chứ bữa nay mà con đòi tu, thì không có được.
(1:02:12) Phật tử Minh Điền: Kính bạch Thầy, mỗi con người sinh ra trên đời này, một khi có thân, trước đó đã có cái vòng nhân quả.
Trưởng lão: Vòng nhân quả chứ con.
Phật tử Minh Điền: Dạ, khi đã hiểu được nhân quả, thì biết người ta khổ mình không cứu hay là không cứu khổ cho người ta thì mình có tội không hả Thầy?
Trưởng lão: Nếu mà mình thấy cái sự khổ của người ta mình làm ngơ thì nó có…
(1:02:31) Trưởng lão: …Đại Thừa mà không đi vào cái kinh sách của Nguyên Thủy. Kinh sách của Phật phải đi vào cái đạo đức. Từ học cái đạo đức của con người, đạo đức không làm khổ mình khổ người, rồi tiến dần đến cái đạo đức Thánh Tăng, tức là những cái bậc Thánh Tăng.
Bởi vì có ai mà có, trong cái thời đức Phật, người ta gọi các đệ tử của Phật, người ta gọi là Thánh Tăng không, chứ người ta có gọi là Phàm Tăng bao giờ? Những bậc Thánh thì tức là phải có hành động đạo đức Thánh chứ.
Thì các con phải biết. Từ đó chúng ta đi từng cấp, từ những cái này đến những cái kia để mà chúng ta xây dựng mình, sửa mình trở thành những con người đạo đức, là tu chứ đâu phải là vô chùa gõ mõ tụng kinh, ngồi đó tụng kệ. Tụng hoài mà con người không có đạo đức, hành động không có chút nào gọi là đạo đức.
(1:03:12) Cho nên ở đây, không phải là chỗ mà tu theo đạo Phật mà ngồi đó, mà đến lạy Phật thắp hương thắp này kia, không phải đâu. Không có ông Phật nào mà cứu mình đâu. Đức Phật bảo mình đốt năm cái thứ hương: Giới hương, Định hương, với Dữ huệ hương, Giải thoát, Giải thoát tri kiến hương, năm cái thứ hương đó.
Mình thì lấy hương vỏ cây đốt lên, nói cúng Phật. Ông Phật ông hưởi ba cái hương đó, ba cái khói đó ông ngộp, ông thở chịu không nổi, chứ đừng nói. Cái đó là cái mê tín, cái sai, không có đúng mà tốn tiền vô ích nữa, tạo cho bao nhiêu nhà kinh doanh làm nhang.
Mà trong khi Phật dạy chúng ta đốt cái tâm hương, năm cái loại hương tâm của mình, đốt lên. Hương đạo đức, giới hương mà, đạo đức mà, đạo đức của mình mà, hàng ngày mình sống ở đời là mình thắp hương cúng Phật rồi. Thế mà mình không thắp hương đó, mà mình đốt cái hương kia, mình lạy cho khói cái đầu của mình. Tụng kinh, ngày nào cũng tụng kinh. Mà có giải thoát không? Có đạo đức không? Hở ra chút là này nọ một chút, thì cái đó là không được.
Cho nên trong cuộc sống thì các con phải, theo đạo Phật thì hàng ngày phải trau dồi, sửa lại thân tâm những cái hành động của chúng ta phải có đạo đức, thì cái đó là cái giải thoát. Các con cứ sửa tới đâu các con thấy giải thoát tới đó. Cho nên, đạo Phật nói pháp của ta không tu thì thôi, tu có giải thoát liền.
Bởi vì hành động mình sống có đạo đức mà, nó làm sao không giải thoát? Chứ mình tu, mình chờ tới chừng nào thành Phật mới giải thoát sao? Đâu phải, giải thoát biết liền, chứ đâu phải vô sở đắc.
Còn bây giờ thí dụ như mình chấp có Phật Tánh thì tức là mình chấp cái ngã rồi. Ờ bây giờ tôi uống rượu cũng có ông Phật Tánh tôi cũng còn, nó đâu có mất. Bởi vì người nào cũng có Phật hết. Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh mà. Ông ta uống rượu, ông ta cũng nói Phật, ông ta cũng không mất đâu.
Mà ông uống rượu thì ông tạo nghiệp, thì có Phật ông cũng trốn nữa ông đâu có dám ngồi đó. Mà sự thật ra, nếu mà có Phật thì nó không có phải, không có trí tuệ. Thật sự ra con người không có Phật gì hết, Thầy nói không có Phật. Tại vì người ta nghĩ vậy, người ta tưởng ra vậy. Bởi vì khi mà người ta tu đến cái trạng thái mà hồi nãy Thầy nói Thức Vô Biên Xứ, người ta thấy đó là cái bản tánh, cái bản thể của vạn hữu chứ gì?
(1:05:19) Người ta nghĩ như vậy, người ta tưởng. Cho nên từ các tôn giáo đều xây dựng cái thế giới siêu hình có cái bản ngã. Cho nên từ đó đi dần cái sai. Rồi bây giờ chấp thì người nào cũng hết, bây giờ có uống rượu nè, có dâm dục nè, có làm những cái điều gì phá giới phạm giới đi nữa Phật Tánh mình cũng còn. Chỉ bây giờ mình giữ được ông Phật của mình thì nó hết cái đó. Tại vì mình chưa giữ được nó thôi. Sự thật nó không phải vậy.
(1:05:44) Phật tử Minh Điền: Kính bạch Thầy, Tứ Thiền Vô Ký là sao?
Trưởng lão: Tứ Thiền Vô Ký là bốn cái loại vô ký, bốn cái loại Thiền Vô Ký, chứ không phải là bốn Thánh Định vô ký mà bốn cái loại vô ký. Nó có bốn cái loại vô ký. Thí dụ như bây giờ nó vô ký như hôn trầm là vô ký hôn trầm, thuỳ miên vô ký, vọng tưởng vô ký. Bây giờ mình ngồi đây mà mình quên một chút xíu thì có một cái niệm vô, gọi là vô ký vọng tưởng. Phải không?
Rồi hôn tịch, mình ngồi tỉnh tỉnh mê mê, đó gọi là vô ký hôn tịch. Rồi vô ký ngoan không, mình ngồi lại nó không ngơ, nó ngoan không, thì đó là vô ký ngoan không. Bốn cái loại vô ký. Cho nên tứ thiền vô ký, đó là những cái loại thiền vô ký.
Mình vừa ngồi đây cái bắt đầu có cái vọng tưởng niệm xen vô, tức là có một cái lúc vô ký, một chút xíu, nửa giây thôi, tức là một sát na đó, mình quên đi, cho nên cái sức tỉnh nó quên đi thì cái niệm nó xen vô, thì gọi là vô ký vọng tưởng. Người ta phân biệt rất rõ về những cái trạng thái vô ký.
(1:06:47) Phật tử Minh Điền: Kính bạch Thầy! Thế nào là Như Lai Thiền? Cái Thân Ngũ Uẩn… (Nghe không rõ)
Trưởng lão: Như Lai Thiền, đó là những cái sự phân biệt của các cái loại thiền của ngài Thông Mạch mà thôi. Thí dụ như, bốn loại thiền là từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền thì gọi là Phàm Phu Thiền hay là Tiểu Thừa Thiền. Còn cái thiền mà của kinh sách Đại Thừa dạy mình đó, gọi là Đại Thừa Thiền. Còn cái thiền mà Đông Độ mà tu, gọi là Tối Thượng Thừa Thiền. Còn cái thiền mà tu mà để làm Phật, gọi là Như Lai Thiền.
(1:07:23) Cho nên bốn cái tên gọi của thiền. Người ta chia làm năm loại thiền lận, chứ không phải là bốn loại thiền. Nhưng mà mình bốn thôi. Ở đây Thầy kể cho chúng ta thấy đó là những cái thiền mà người ta đặt ra từng cái giai đoạn. Chứ sự thật ra cái thiền nào mà tu giải thoát, mà cái thiền nào tu không giải thoát, thì cái đó là kinh nghiệm của những người mà người ta thực hiện được.
Chẳng hạn bây giờ nói Tối Thượng Thừa Thiền là Thiền Đông Độ là chỉ kiến tánh thành Phật thôi, khỏi cần tu cái gì nhiều hết. Nhưng mà nói như vậy, nhưng mà nhìn lại cái quá trình thời gian từ khi mà có cái thiền này cho đến giờ, thì những người nào mà đã là giải thoát, làm chủ được bốn cái sự, chấm dứt được bốn cái sự sinh tử luân hồi? Chưa thấy, chưa thấy một vị Thiền sư nào, chưa thấy một vị Tổ sư nào được.
(1:08:10) Còn, bởi vì trong các cái pháp môn, thì Thầy thấy, như một cái người mà tu Thiền Đông Độ đi, là Tối Thượng Thừa Thiền, thì người ta, mục đích là người ta ngồi lại, người ta giữ cái tâm người ta không có niệm vọng tưởng, thì từng đó người ta tiến dần ở trong cái trạng thái không vọng tưởng đi sâu hơn nữa, thì nó sẽ đạt được những cái trạng thái như thế nào mà người ta gọi đó là Tối Thượng Thừa Thiền?
Coi như là người ta nhận ra được một cái gì, bốn cái đức Niết Bàn của nó gọi là thường, lạc, ngã, tịnh đó. Bởi vì bốn đức Niết Bàn tức là chỉ Phật Tánh, nó có thường, lạc, ngã, tịnh. Đó thì người ta nhận ra được cái trạng thái, khi ngồi thiền người ta nhận ra được cái đó, người ta cho nó là thiền tối thượng.
Nhưng mà trong kinh điển Nguyên Thủy, thì Phật có xác định những cái trạng thái đó để chúng ta biết đó là những cái trạng thái của cái loại Định nào. Cái bài kinh đó rất có giá trị. Hiện giờ thì rất có giá trị nhưng mà người ta không dám khai triển ra.
Cho nên trong kinh giới mà Bồ tát giới đó, không biết các con có đọc không biết? Cấm không có cho tu sĩ và cư sĩ đọc kinh Nguyên Thủy, tức là kinh Tiểu Thừa đó cấm không cho. Nó cấm, Bồ tát giới nó cấm không có cho đọc Kinh A Hàm, kinh Nguyên Thủy, coi như là nó cho là cái đó là ngoại đạo đó, chứ không phải là.
Kinh sách Đại Thừa mới là kinh sách của Phật giáo mà kinh sách Tiểu Thừa - kinh Nguyên Thủy là kinh sách của ngoại đạo, nó cấm. Ở trong cái giới của Bồ tát giới nó cấm, nó không cho người tu sĩ này đâu.
Phật tử Mỹ Châu: Là mấy ông đó nói sai chứ đâu phải … sai đâu?
Trưởng lão: Họ đặt ra như vậy, họ nhận Phật giáo xuống. Họ nhận giáo pháp của đức Phật xuống. Chứ không phải vậy đâu. Cho nên Bồ tát giới là Đại Thừa nó chế ra cái giới Bồ tát, nó cấm không có cho người ta.
Cho nên năm 1952, lúc mà Hoà Thượng Minh Châu, con biết Hoà thượng Minh Châu là cái người mà làm viện trưởng Đại học Vạn Hạnh, ông dịch cái bộ kinh Nguyên Thủy thì ông có nhắc lại cái vấn đề mà hồi đi tu, là trong chùa các Hoà thượng cấm, không có cho được đọc kinh A Hàm.
(1:10:17) Nó có, nhưng mà không cho đọc, mà cũng không giảng, giảng kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Bát Nhã, Pháp Bảo Đàn vậy chứ còn không có dạy kinh A Hàm, không có dạy kinh đó. Đó, cấm bặt à. Gần đây, sau này thì Hoà Thượng Minh Châu dịch ra rồi bắt đầu người ta mới có đọc, mới có nghiên cứu được kinh Nguyên Thủy.
Từ khi mà Hoà Thượng Minh Châu đi học về rồi rồi mới triển khai dịch cái bộ kinh Nguyên Thủy. Từ đó mới có đi vào cái con đường giải thoát của đạo Phật, chứ còn bị kinh điển Đại Thừa đậy bít. Cho nên cuốn này cũng là thuộc về kinh Đại Thừa. Tổ nó đẻ ra hết, nó đẻ ra, nó phải "Như thị ngã văn".
Chúng ta cứ ngỡ đó là ông Anan nói nhưng mà không phải, mấy ông tổ của chúng ta nói chứ không ai. Địa Mẫu Chân Kinh cũng là kinh Phật, nó đẻ ra. Rồi thậm chí như các con biết đẻ ra, ngay cả đức Phật Di Lặc mà nó cũng đẻ ra nữa để mà nó cách mạng Phật giáo luôn. Tàu nó thâm, thâm ý.
Cho nên Hoà Thượng Minh Châu viết cái lời tựa của cái bộ kinh, Hoà Thượng nói, thâm ý của các đạo chủ Bà la môn là thâm ý rất ác độc. Nhưng mà không thể nào diệt được Phật giáo, không thể nào mà diệt được chân lý. Vì mặt trời là mặt trời không thể ai mà làm cho tắt mặt trời được. Chân lý vẫn là chân lý. Nhưng tiếc vì nhân loại chưa có đủ duyên phước cho nên nó bị che mất mà thôi.
Phật tử Minh Điền: Thưa Thầy! Phật giáo mình… (Không nghe rõ).
Trưởng lão: Khó lắm con! Con biết cái tập Đường Về Xứ Phật Tập I của Thầy, nói thẳng không. Mà đi đem giấy xin phép để mà in ra đó, … (Không nghe rõ) là giáo hội cấm bặt. Nếu mà đưa ra thì không có ông Thầy tu nào mà còn ngồi yên hết. Phật tử người ta đọc, người ta biết rồi thì còn cái chỗ nào mà mấy ông ngồi yên, giới luật trật hết rồi.
Phật tử Minh Điền: Kính bạch Thầy! Như vậy là cái việc đó nó cũng ích lợi… (Không nghe rõ)
(1:12:17) Trưởng lão: Thì nó cũng có được cái phước báu, bởi vì nói chung là các tôn giáo nào nó cũng dạy chúng ta làm thiện thôi, nó cũng có y báu, và phước báu của các Hoà thượng làm, thì chúng ta thấy biết rõ.
Nhưng mà nó sai cái ý của Phật pháp thì phải thọ lấy cái địa ngục. Cho nên các bậc Tôn túc, các Hoà thượng khi chết họ đều là khởi những cái trận đau, bệnh tật. Không có ông nào là không có đau. Phình lên xọp xuống…
(1:12:38) Phật tử Mỹ Châu: Con nghe cái cuộn băng thứ bốn, cuốn bốn đó Thầy…(Không nghe rõ)
Trưởng lão: Nó sẽ có cơ hội con. Bắt đầu khi mà cho in, Thầy sẽ cho in cái bộ kinh giới trước. Bởi vì kinh giới thì coi như là quý thầy cũng phạm, nhưng mà điều kiện Thầy vạch rất rõ, nhưng mà người ta có thể cho. Nhưng mà cái điều kiện là con đã đưa cho Thầy Thông Vân mà cái cuốn mấy rồi?
Phạt tử Mỹ Châu: Dạ cuốn bốn rồi.
Trưởng lão: Cuốn bốn rồi, là một cái điều rất là tai hại đó chứ không phải là thường đâu. Con nên biết rằng Hoà thượng, là trước khi mà Thầy trợ giúp cho Hoà thượng đó, là Thầy đã thu hai cuộn băng.
Cuộn băng đầu tiên là Thầy để cái tựa là “Phật Môn Bảo Huấn”, lời dạy quý báu ở trong cửa Phật. Là nói những cái sai, cái này kia của mọi Thầy tu mà phá giới, phạm giới. Rồi cách thức mà làm những cái điều kiện không đúng với Chánh Pháp phá giới đó, thì nói với chúng tăng. Lời dạy quý báu tức là nói những cái đạo đức, cái phạm hạnh của người tu, là quý thầy nó không có. Thầy gởi cho Hòa thượng cái cuốn băng đó.
(1:14:36) Rồi “Trở về đạo Phật”. Trở về đạo Phật tức là Thầy so sánh cái bốn thiền, tức là từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền đó, so sánh với Thiền Đông Độ tức là thiền Hoà thượng đang dạy đó, để thấy cái kết quả của nó như thế nào, để cho Hoà thượng nhận xét ra cái chỗ đó. Mà khi Hoà thượng nhận xét được như vậy, hiểu được cái tâm như vậy thì Thầy sẽ trợ giúp Hoà thượng, với một số người mà đang theo Hoà thượng tu.
Cái mục đích của Thầy mà, Thầy không bao giờ cầu danh đâu. Thầy chỉ ẩn sau lưng của Hoà thượng thôi, để mà Thầy giúp cho người tu cho đạt được cái kết quả. Đó là cái mục đích của Thầy thôi. Bởi Thầy không có nghĩ rằng.
Nhưng mà, khi mà hai cuộn băng đó thì Hoà thượng nghe rồi, thì Hoà thượng nói đức Phật tu bốn thiền không có giải thoát được đâu con. Trong cái cuốn "Ba vấn đề trọng đại của đời tu hành của tôi" Hoà thượng nói trong đó, có mục đích nói cái chỗ, bác cái bốn thiền của Phật.
Đó, thì khi mà Hòa thượng viết như thế này, Hoà thượng nói khi mà: "Ly ngũ dục”, chứ không phải ly dục ly ác pháp đâu. Trong kinh Phật thì nói "Ly dục ly ác pháp". Dục là cái tâm ham muốn của mình. Ác pháp là tham, sân, si hay là ác pháp là thập ác đó, Thập Ác đó, là ly ác pháp mới ly cái tâm dục. Thì hoà thượng sửa lại chút, Hoà thượng để ly ngũ dục.
Phật tử Mỹ Châu: Ly ngũ dục thôi ạ?
Trưởng lão: Ly ngũ dục mới sanh hỷ lạc, cho nên do đó mà đức Phật tu không giải thoát. Thêm chỗ đó ngũ dục. Ngũ dục là cái gì? Ngũ dục là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp hay là sắc, danh, lợi, thực, thuỳ, năm cái dục. Cho nên cái đó là cái đối tượng dục chứ không phải tâm dục, mà đức Phật nói cái tâm dục.
(1:16:21) Cho nên nói, bây giờ ly ngũ dục mà được hỷ lạc, làm sao có ly ngũ dục mà được hỷ lạc? Bây giờ Thầy ăn ngày ba bữa này, Thầy có lạc hơn là Thầy ăn ngày một bữa chứ. Mà nói ly ngũ dục thì có lạc làm sao đúng?
Mà ly dục, bây giờ ăn một bữa mà ly được cái tâm dục nó mới có lạc. Phải không? Mới ly dục mới sanh hỷ lạc, mà ly cái tâm dục. Chứ còn ly ngũ dục, mình ăn một bữa mà cái tâm dục nó vẫn còn muốn ăn nè. Nói như vậy sai.
Đó cho nên vì vậy Hoà thượng mới bác cái ý của Thầy nói, để giữ vững cái lập trường của Thiền Đông Độ của Hoà thượng chứ gì? Không ngờ đây là Thầy thấy một số người tu vậy mà thời gian quá dài, mấy chục năm trời mà không kết quả. Không giải thoát thật sự mà, phải thật sự chứ, đâu phải lý thuyết suông, nói suông được.
Thầy đưa cuộn băng đó cho Hoà thượng, Hoà thượng nghe, nghe rồi để mà Thầy trò bàn bạc nhau trong vấn đề mà thấy những điều lợi ích chung cho Phật pháp mà. Chứ đâu có riêng cá nhân của ai đâu?
Phật tử Minh Điền: Có thành công không?
Trưởng lão: Không thành công. Bây giờ con đưa cái bộ đó ra đủ rồi. Thầy choảng, Thầy đập hết thảy mấy ông Đại Thừa, đập luôn cả Tổ Sư Thiền xuống, đập hết, Thầy đập mấy ông Tổ, Thầy không có đập ai hết. Nghĩa là sai chỗ nào Thầy đập xuống hết, mà con đưa Thầy Thông Vân đọc cái kiểu đó, mà đưa ra Hoà thượng đọc nữa.
Phật tử Mỹ Châu: Thưa Thầy, tại con thấy chân lý. Thầy có lý. Chân lý là con chịu.
Trưởng lão: Con chịu nhưng mà người ta đang chấp thì làm sao? Con biết làm sao? Người ta không chịu sao. Cho nên.
Phật tử 1: Thôi, chị về lấy lại đi
Phật tử Mỹ Châu: Thôi, không có lấy lại. Lỡ đưa rồi không có lấy lại. Thầy nói là biểu con đợi tới mừng hai đi, thì con sẽ chỉ đường cho thầy đi, tại cái miếng đất của thầy cho con mượn rồi thầy… (Không nghe rõ tiếng)
Phật tử Minh Điền: Kính bạch Thầy! Có nghĩa là thầy Chơn Quang viết theo cái ý của Thầy?
(1:18:19) Trưởng lão: Nói chung là thầy Chân Quang đã viết cái cuốn "Luận về nhân quả" rồi. Nhưng mà khi mà về đây, lúc bấy giờ Hoà thượng mà tính đuổi ông về, Thầy cho ông về đây với Thầy. Sau khi thầy Chân Quang mang cái bộ "Luận về nhân quả" này về thì Thầy đọc, nhờ Thầy đọc. Thầy đọc, Thầy thấy thầy viết tưởng nhiều quá. Cho nên Thầy góp ý với thầy thôi, bảo thầy sửa lại.
Vì vậy mà coi như là thầy sửa chung hết, còn tưởng nhiều lắm. Nhân quả mà nói tưởng không thì đâu đúng được. Nhân quả là hành động ý thức của chúng ta. Con bây giờ, con nói một lời nói đó con phải ý thức chứ, con không ý thức là con bị nhân quả đó. Có phải không? Còn cái này tưởng không à. Toàn là đưa ra.
Phật tử Minh Điền: Bạch Thầy! Vậy quần chúng đọc có hại gì không Thầy?
Trưởng lão: Tại vì bị sống trong tưởng rồi.
Phạt tử Minh Điền: Vậy là cái quyển này nó chưa có gọi là…
Trưởng lão: Bây giờ Thầy nói, viết nhân quả là như thế nào? Con biết phải viết, viết nhân quả, phải viết như thế này nè, người ta mới hiểu được cái đường đi của nhân quả. Bởi vì từ con người sinh ra từ nhân quả, sống ở trong nhân quả, rồi chết cũng về nhân quả.
Cho nên bây giờ muốn mà dạy người ta đạo đức nhân quả đó, viết nhân quả tức là viết đạo đức của đạo Phật. Viết, soạn đạo đức của đạo Phật thì soạn đạo đức của đạo Phật phải soạn từng cái tuổi như thế nào? Bởi vì mỗi cái tuổi, con người mỗi cái tuổi là nó có cái hành động đạo đức của nó đó.
Chẳng hạn bây giờ một đứa trẻ bảy tuổi, phải soạn cái giáo trình của một đứa trẻ bảy tuổi phải học cái đạo đức đó. Rồi bây giờ, từ mười hai, mười ba, mười lăm tuổi, nó phải có cái tuổi đó, nó sẽ thực hiện theo cái sự tăng trưởng, cái sự phát triển của cơ thể, cái tâm tư của nó đó, thì phải dạy cái đạo đức của nó.
Bây giờ một người lớn tuổi, người trung niên lớn tuổi, phải cái tầm vóc đó, phải dạy cái đạo đức trung niên để người ta đối xử, người ta được giải thoát. Rồi cái người già cả. Cái người già rồi cũng phải học cái đạo đức, chứ không phải nói: "Tui già rồi, tui không biết đạo đức đâu". Không phải đâu.
Từ cái cách đối xử của người già đó, trung niên đến bây giờ cái người già, người ta không có đi làm được, người ta ở trong nhà, người ta cô đơn, thì dạy người ta cái đạo đức để cho tâm hồn người ta được an lạc. Nó phải, dạy đạo đức người ta phải từng như vậy, nó mới áp dụng vào từng cái lớp người, từng cái tuổi của con người chứ.
(1:20:15) Còn bây giờ đạo đức kiểu chung chung như thế này, mà nói tưởng không như thế này thì giết người ta, sai nữa. Cái đạo đức đó, nó đi riết rồi thành ra tưởng bậy bạ. Thành ra cái này chỉ là mình nghĩ, rồi mình đọc, rồi mình tưởng cái này mình viết ra như thế này.
Thật sự ra hồi đó, Thầy nói, Thầy có viết cái lời trong này nè, Thầy bảo thầy Chân Quang cần phải sửa lại, sửa lại, dẹp bớt cái tưởng đi. Nhưng mà dẹp không được. Bởi vì con người sống tưởng rồi, bây giờ có nói sao cũng không được.
Phật tử Mỹ Châu: Tại vì chưa có chứng, thành ra viết theo tưởng phải không Thầy?
Trưởng lão: Viết theo tưởng, bởi vậy khó lắm con. Cho nên bây giờ Thầy nói thật sự, khi mà thầy Thông Vân này mà thầy mà xách về, thầy mà xách về đưa Hoà thượng đọc là cả một cái vấn đề lận. Khi mà đọc sách Thầy rồi, cả cái cái…
Phật tử Minh Điền: Bây giờ phải về thu lại hả Thầy? Về thu hồi lại.
Trưởng lão: Thu lại thì cũng được mà lỡ rồi thì thôi, thì kệ nó, tới đâu hay đó. Để Thầy nói cho mấy con nghe. Nếu mà trong vấn đề mà, khi mà chúng mà ở Trúc Lâm, Thường Chiếu, các chiếu mà đọc kinh sách Thầy rồi, kể như là nó dao động hết. Nó dao động, rung động hết đó. Cho nên sách Thầy không ra là tại vì Thầy không muốn làm dao động ai hết.
Bởi vì lúc này là lúc Thầy nói thẳng, bởi vì Thầy biết Thầy không còn sống bao lâu nữa, phải nói hết. Cho nên, những kinh sách Thầy viết là Thầy nói thẳng hết. Thầy còn có lo cái đạo đức nhân quả để mà sau này con người có những cái giai đoạn mà tu tập về đạo đức, xây dựng cho con người có cái đạo đức. Cho nên buộc lòng Thầy viết cái đạo đức nhân quả.
Các con biết khi mà ở tỉnh Tây Ninh này, người ta mời Thầy ra. Người ta mời Thầy làm Ủy viên Giáo dục Tăng Ni của tỉnh. Mà khi về họp, mà đưa ra cái đề án, cái phương án để mà học tập, Thầy nói bây giờ không học tập gì hết, quý thầy ở trong ban đại diện của các huyện và trong ban trị sự tỉnh về học đạo đức trở lại hết, học giới luật hết tôi mới soạn, chứ còn không học tôi không soạn đâu.
(1:22:18) Mấy ông ghi biên bản, mấy ông đưa về Giáo hội, nhờ Thầy, bảo Thầy như thế này: Bây giờ soạn Tịnh Độ này, soạn Mật Tông này, soạn Thiền Tông này, soạn Pháp Hoa Tông này, soạn những cái giáo trình đó để mà dạy Tăng Ni. Thầy nói Thầy không soạn.
Những thứ đó như thế nào, Thầy nói luôn. Tịnh Độ Tông như thế nào? Mê tín như thế nào? Ông Thầy tu hành theo Tịnh Độ Tông làm sao, có vợ con như thế nào, Thầy vạch ra hết. Mật Tông thầy bùa, thầy chú như thế nào Thầy cũng đập luôn. Rồi Pháp Hoa Tông tu thế nào? Phi đạo đức như thế nào? Cầu cúng Quan Âm như thế nào? Tụng kinh như thế nào? Đó là phi đạo đức, không có đúng cách.
Rồi Thiền Tông là cái đạo thiền là hữu ngã, vậy là phản lại với cái đạo Phật vô ngã, không đúng. Thầy vạch ra hết. Mấy ông không nói gì, mấy ông lập biên bản đem dưới đưa giáo hội, đưa thầy ở dưới. Rồi mấy ông không dám xài Thầy nữa, thôi cho Thầy nghỉ. Nhưng mà mấy ông biết không, mấy ông không biết Thầy Thanh Từ đâu.
(1:23:11) Ông Từ nói lại với Phật tử, Phật tử về đây nói. Thầy Thanh Từ nói như này nè: "Thông Lạc nó còn không kể tui", nói vậy. Bởi vì Thầy đập luôn, Thầy nói Phật Tánh là cái chấp ngã rồi, nó không có đúng cái cách của đạo Phật. Đạo Phật là vô ngã chứ không phải chấp ngã. Chấp ngã là không bao giờ hết, không bao giờ hết danh lợi hết.
(1:23:32) Phật tử Mỹ Châu: Thầy ơi, bữa đó con qua gặp thầy Thông Vân, con nói như thế này. Lúc đó thầy Thông Vân có điều kiện tu quá vậy đó, mới chỉ ra Thầy vậy đó. Cái nói ý con là con muốn kiếm một vị đắc đạo để hiểu căn cơ con tới đâu rồi thầy ra, vị đó đưa ngay con nhảy ra Thường Chiếu. Cái thầy Thông Vân nói: " À như vậy là cô muốn kiếm một vị mà đắc đạo phải không"? Thì gật đầu.
Cái Thầy nói: "Thôi để mùng 2 đi, cô dẫn thầy đi ra ngoải với Thầy Thông Lạc cho biết". Cái rồi nói: "Đi với thầy không được, tại vì mùng 9 mấy vị ra ngoài rồi. Nếu thầy muốn đi, thì nói với ông Minh Điền điện thoại chỉ cho thầy đi, dễ lắm". Thầy nói: "Mùng 2 có thể là thầy ra rồi, từ bữa mùng 7 tới bữa mùng 2 là thầy Thanh Từ sẽ đi về Châu Đốc.” Rồi con cũng hỏi là: "Ngày mùng mấy thầy về nữa"
Trưởng lão: Giờ thầy Thông Vân ở đâu? Ở Châu Đốc hả con?
Phật tử Mỹ Châu: Dạ, ở Châu Đốc. Ông ở trên một cái cốc Thầy. Cái cốc của ông khang trang lắm, có điều kiện lắm Thầy.
Trưởng lão: Thật ra, uổng quá! Không đúng pháp là không bao giờ thành.
Phật tử Mỹ Châu: Thành ra con thấy vậy, con mới đưa cái cuốn băng đó cho thầy nghe. Đưa luôn 17 cuốn đó Thầy, gần 20 cuốn băng đó.
Trưởng lão: Nghe rồi thôi.
Phật tử Mỹ Châu: Rồi cái con mới thấy thầy vậy, con mới chỉ cho thầy đi đó, thành ra thầy cũng chịu đi nữa Thầy, muốn đi ra Thầy. Biểu con dẫn thầy đi nữa, thầy sợ không được, thầy tự đi …
Phật tử Minh Điền: … Phật giáo … bị cản. Để như vậy thì tội nghiệp cho chúng sanh … Cuốn kinh … (Không nghe rõ)
Trưởng lão: Không phải con! Coi vậy chứ nhân duyên rồi phải tùy theo, để rồi mình lần lượt. Bởi vì khi nào mà có một người mà tu đúng cái chánh pháp, giữ gìn giới luật của Phật thì Phật pháp nó sẽ còn. Bởi vì Phật có nói mà, "Giới luật ta còn thì đạo Phật còn, giới luật ta mất thì đạo Phật mất".
(1:25:23) Nhưng mà hôm nay, Thầy giữ giới luật còn đúng rồi thì đạo Phật đâu mất con. Vì vậy mà những cái bài pháp của Thầy, bây giờ có ai đốt sạch được đâu? Mấy con làm gì, mấy con để cho mất được đâu. Thầy nói, khi mà đưa ra rồi, thì các con cứ giữ, rồi truyền, rồi bắt đầu mấy ông Thầy tu bậy bạ, mấy con thấy mặt hết. Không có làm sao không thấy được. Thấy cái sai nữa, thấy những cái mà từ lâu tới giờ người ta không có ngờ được.
Như các con biết là, các con đọc tới những cái bài vấn đạo. Bởi vì họ hỏi độc lắm, chứ không phải không. Thầy trả lời. Hỏi tới ngày tận thế, rồi Di Lặc này kia. Thầy đập xuống hết ba cái thứ mà bậy bạ. Đạo Phật mà đâu có. Đạo Phật dạy: "Quá khứ không truy tìm, vị lai không ước vọng, chỉ có Chánh Niệm tỉnh giác", tức là sống trong hiện tại mà thôi.
Thì đâu có biết chi mà cái chuyện mà vị lai, mình là tận thế mà làm chi cho khổ? Ngay bây giờ đang sống trong cuộc khổ mà không giải quyết khổ còn nghĩ đến cái chuyện khổ, tận thế của vị lai đặng cho ngồi quán vị lai, đặng bây giờ mà ngồi đây mà rầu khổ. Nhiều khi không chịu làm nữa, nói: "Năm 2005 này tận thế", rồi bây giờ làm chi đây, cất nhà chi rồi nó sập đổ hết, uổng. Nó bày đặt.
Thiệt là mấy ông này nói tầm bậy, tầm bạ. Tất nhiên đạo Phật đâu có dạy cái điều mà đau khổ cho người ta, nhận ra những cái sự đau khổ đó, để rồi người ta cứ đau khổ trong cái đó. Rồi "Thôi ráng tu để cho được Phật rước đặng thoát khổ".
Đó là ao ước. Cũng như làm ác, rồi bây giờ tới giờ phút này rồi. Năm 2005, còn có năm nữa. Mà rồi bây giờ làm sao nhảy cho kịp không? Bây giờ kẹt ở trong lưới rồi, bây giờ làm sao mà ra được không? Bây giờ bảo: "Ráng tu! Ráng tu". Tu cái gì? Hồi nào tới giờ tham đủ thứ hết, bây giờ tu cái gì kịp?
Tu là phải ngay từ cái lúc nào đó, mình tu thì bây giờ nó có sụp đổ đi nữa, mình mới giải thoát chứ gì? Còn bây giờ mà, bây giờ lửa cháy nhà rồi, bây giờ biểu chạy vô ôm đồ ra cho nó hết, làm sao mà hết được? Muốn chuẩn bị thì ít ra thì mình cũng phải là trước một, hai ngày chứ gì?
(1:27:17) Cho nên ở đây bây giờ Thầy nói không có nghĩ gì tương lai hết. Hiện bây giờ tu thì cái nhân quả của chúng ta, mà tu thì ngày mai chúng ta sẽ vượt được qua. Mà bây giờ có thân người là khó, được thân rồi thì hãy nỗ lực tu. Đừng có nghĩ vơ nghĩ vẩn, như mấy con nãy giờ là cái chuyện nghĩ vơ vẩn khổ đau, xả bỏ hết. Lo ngay bây giờ mình giải quyết.
Còn một tấc hơi, còn được thân người không phải dễ đâu. Chết rồi mấy con chưa chắc đã được thân người. Cái lời đó lời đức Phật xác định mà đâu có phải là. "Được thân là khó mà được pháp còn khó hơn”.
Các con biết, có bao đời mà các con được nghe những cái lời mà dạy như thế này không? Phải không? Như mấy con đó, nghe Đại Thừa rồi, cái gì các con, pháp gì các con bây giờ cũng nghe hết rồi. Nhưng mà cái pháp mà đúng Giới Định Tuệ có ai mà nói không?
Phật tử Mỹ Châu: Dạ không có. Con nghe mỗi Thầy nói.
Trưởng lão: Như vậy thì các con biết rằng từ tất cả các chùa không nghe thì như vậy…
HẾT BĂNG
THẦY THANH QUANG VẤN ĐẠO - THÂN HÀNH NIỆM - TỰ SÁM HỐI
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời lượng: [1:04:11]
(00:01) Cô Trang: Đó là pháp chứng, nhưng mà sau đó … (không nghe rõ)
Trưởng lão: Không có sao hết! Bởi vì trong pháp Thân Hành Niệm nó đã có hơi thở trong đó rồi con. Hơi thở nó đủ ở trong cái thân hành nó.
Cô Trang: Dạ!
Trưởng lão: Rồi! Con trình đi, con thưa đi con!
(00:48) Tu Sinh: Mô Phật, kính bạch Thầy và các sư! Từ khi con đến đây tu tập con có những lỗi lầm gì thì con đến đây trình sám hối với Thầy. Thì con muốn hỏi là nếu sau này con có lỗi lầm gì xảy ra thì con phải làm sao? Kính xin Thầy chỉ dạy giùm con!
Trưởng lão: Khi mà có những lỗi lầm nào mà trong giới luật thì không có Thầy, thì con nghe ở tại thất của con, con cũng quỳ xuống chắp tay hướng về cái hình ảnh của Thầy nếu mà có, thì con hướng vào hư không mà con xin Thầy chứng minh cho con vì hôm nay con đã lầm lỗi. Phạm những cái giới gì, giới gì, xin Thầy cho con sám hối để cho con tiếp tục tu tập cho giới luật con thanh tịnh. Thì lúc bấy giờ, khi mà con đã tác ý, con đã phát nguyện như vậy, phát lồ như vậy rồi thì lúc bấy giờ con cố gắng khắc phục giữ gìn đừng cho phạm nữa thì con đương nhiên là con đã sám hối rồi. Đồng thời cái thành tâm của con thì bất kỳ ở đâu Thầy cũng sẽ nhận được cái phát lồ của con hết và đồng thời nếu mà con giao cảm được thì con nghe được tiếng nói của Thầy qua cái tưởng của con bắt gặp được cái nội lực của Thầy, Thầy đã hoan hỷ chấp nhận cho con sám hối cái lỗi lầm đó. Nếu không thì con cũng thấy rằng con rất là nhẹ nhàng khi đã được sám hối với Thầy, cũng như khi mà Thầy chưa ẩn bóng cũng vậy thôi chứ không có gì hết. Nhưng mà phải thành tâm phát lồ sám hối như hiện Thầy có mặt thì nó mới có tác dụng tốt, còn nếu mà không có như vậy thì nó không có tác dụng tốt thôi. Thành tâm, thành kính hẳn hoi, nếu mà có hình Thầy thì chắp tay trước hình Thầy xin Thầy cho con sám hối những lỗi lầm của con ngày hôm qua, mong Thầy hoan hỷ giúp cho con để con giữ gìn được giới luật thanh tịnh. Thì con phát lồ hết những lỗi lầm của mình, coi như cái hình ảnh Thầy mà coi như Thầy có trước mặt con. Rồi con sám hối rồi thì nỗ lực khắc phục cố gắng đừng để vi phạm nữa.
Ví dụ: Như bây giờ lỡ ngủ phi thời, lỡ ngủ phi thời thì các con cũng quỳ xin sám hối Thầy hôm nay giờ đó con không được tỉnh, con đã lỡ mà ngủ phi thời năm phút, mười phút, xin Thầy từ bi trợ giúp cho con và cho con sám hối lỗi lầm này, ngày mai con biết giờ này con sẽ cố gắng khắc phục, con đi kinh hành nhiều, con không dám lơ đễnh ngồi như vậy để cho nó ngủ. Thì con phát lồ như vậy thì Thầy sẽ nhận và hoan hỷ chấp nhận cho cái sự phát lồ sám hối của con. Thì đương nhiên con không còn lỗi lầm nữa và con sẽ vượt qua những cái hôn trầm, thùy miên của con, không có lỗi lầm!
(3:53) Tu Sinh: Dạ, con cảm ơn Thầy!
Thưa Thầy! Khi tu pháp Thân Hành Niệm. Nhưng mà con tu Pháp Thân Hành Niệm … (không nghe rõ)
Trưởng lão: Không buông bỏ pháp, mà mình quan sát coi chỗ nào không có kiến thì mình đến đó mình thực hiện pháp Thân Hành Niệm.
Đặt thành vấn đề: Như nhìn xuống cái nền nhà của mình chỗ nào cũng thấy kiến bò ngập hết rồi. Thôi bây giờ đứng lên trên giường của mình, có cái đơn mấy con nằm, mấy con đứng lên trên đó, đi mà mình đứng lại một chỗ bước đi, thay vì mình bước tới, nhưng mình cứ giở chân lên rồi mình để ngay tại chỗ. Khi mình đứng tại chỗ, đi mà đứng tại chỗ, đứng cũng đếm đúng 10, 20 bước rồi ngồi xuống tại chỗ, bởi vì chỉ trên giường.
Mà bây giờ nói trên giường kiến nữa, thì bây giờ bắt đầu bây giờ mấy con muốn phòng ngừa nó thì xin dầu nhớt của thầy Mật Hạnh đem lấy vải lấy dầu nhớt xong quấn theo xung quanh cái chân giường. Thì cái này nếu mà ở dưới này không kiến thì mình cứ đi Thân Hành Niệm. Có kiến rồi thì cứ ở trên giường này vừa đi, vừa thở ở trên đó vẫn dễ dàng như thường. Đâu đòi hỏi chúng ta phải có một không gian rộng để mà chúng ta đi. Chỉ cần bằng cái giường của chúng ta là đủ đi, đứng, nằm, ngồi trên đó đủ hết rồi.
Các con chưa từng thấy cứ đi đứng tại chỗ mà đi không?
Cứ dở chân lên, đưa chân tới, hạ chân xuống. Thay mình hạ sole gì? Nhưng mình hạ chân xuống lại hạ ngay cái chỗ chân này. Thì làm sao mà không đi, rõ ràng mình đang đi mà, đi một chỗ. Con thấy không? Cái không gian hẹp mà chúng ta vẫn thực hiện pháp Thân Hành Niệm. Đấy là thiện xảo mấy con! Phải không?
Cho nên con đừng, yên tâm không sợ kiến. Cho mày đi dưới đất, tao ở trên giường. Bây giờ không lẽ mình, bước tại chỗ chớ đâu mình bước tới đâu mà nó thụt xuống đất, dưới giường. Đấy, đâu có sợ đâu! Yên tâm! Không có gì đâu con, đó là cách thức thiện xảo khéo léo của nó cho con. Con tu tập vậy tốt không có gì đâu.
(6:29) Tu Sinh: …(không nghe rõ)
Cô Trang: …(không nghe rõ)
Trưởng lão: Trước, rồi nó làm theo. Nó rất là chậm nhưng mà cái điều kiện là mình lưu ý để cái tác ý của mình nó có cái hiệu nghiệm là cái thân nó phải làm theo đúng. Nên nó chậm để mình chú ý, mày làm cho đúng thôi. Mày làm chậm, chớ mày làm nhanh quá tao theo không kịp, mày làm dối hả? Cho nên buộc lòng làm chậm để cho mình quan sát cái hành động cái thân hành của mình cho nó kỹ lưỡng. Thì cái đó nó tốt thôi!
Cô Trang: … (không nghe rõ)
Trưởng lão: Y như vậy đó con!
Cô Trang: …(không nghe rõ)
Trưởng lão: Ừ, đúng rồi con! Cái chỗ pháp Thân Hành Niệm.
Cô Trang: Nhưng mà trong khi đó con vừa tỉnh thức trên Thân Hành Niệm, vừa tỉnh thức trên ý thức của con.
Trưởng lão: Ừ, phải rồi con! Nó gọi là kiên cố như cỗ xe đó con. Pháp Thân Hành Niệm mình tu tập phải kiên cố như cỗ xe. Vậy là mấy con biết cách thức hết rồi. Khỏi cần cái nhà rộng, chỉ cần một chỗ nhỏ này cũng được, tu tập cũng được. Không có gì hết.
(7:46) Tu Sinh: … (không nghe rõ)
(08:17) Trưởng lão: Mà chưa! Bởi vì còn niệm thì đâu có tăng được. Bởi vì pháp Thân Hành Niệm nó phải kiên cố như căn cứ địa, kiên cố như cỗ xe. Mà trở thành căn cứ địa, không có giặc xâm chiếm vô cái căn cứ địa đó được. Mà giờ có vọng tưởng rồi, cái căn cứ con nó lỏng lẻo quá rồi, giặc nó chui vô trong nó do thám hết rồi, còn cái gì nữa, nát hết rồi. Có một niệm trong đó là không được. Đối với pháp Thân Hành Niệm là phải tu kiên cố lắm đó. Cho nên cái bánh xe Thân Hành Niệm nó như cỗ xe, kiên cố như cỗ xe, mà trở thành như căn cứ địa.
Con nghe những cái danh từ Phật dùng mà. Cho nên là phải biết sử dụng cái pháp Thân Hành Niệm, còn một niệm thì không được. Nhưng mà nó không câu hữu với pháp môn nào khác hết được. Nghĩa là bây giờ có cái niệm nào đó thì cán nát qua. Bây giờ cái thân đau cán nát luôn, chớ không có nói: "Thọ là vô thường phải đi đi". Thân này không có nhiêu như cái pháp kia được đâu, không có tác ý nó đâu mà. Cái thân này, cái tay đưa ra thì đưa ra, cái chân co lên co xuống thì cứ cái chân co lên co xuống thôi. Hoàn toàn không tác ý cái khác ở trong đó, cái lệnh của nó là lệnh thân hành chớ không có lệnh mà biểu đuổi bệnh đi trong đó được. Trừ ra các con tu Tứ Niệm Xứ thì các con tác ý đuổi bệnh được. Thân Hành Niệm là cán nát chớ không có đuổi: “Do mày ở trong thân tao, tao cán nát”. Cho nên nó không có được câu hữu, cái pháp Thân Hành Niệm không được câu hữu được với pháp nào hết, không kết hợp được pháp nào hết, duy nhất có mình nó.
Mà nếu một giờ đồng hồ mà đi Thân Hành Niệm còn một niệm thì nhất định không được tăng. Bởi vì nó kiên cố, mà nó như căn cứ địa, căn cứ địa là cái căn cứ, cái nơi mà giặc không có vào trong đó được, căn cứ địa của người ta mà. Con hiểu chưa?
Mà cái bánh xe nó phải kiên cố, cái xe Thân Hành Niệm nó kiên cố lắm, nó không có được chạy một hơi rồi nó nghiêng qua lắc lại, nó lỏng lẻo như thế này không được, nó phải đúng cái nhịp của nó. Như vậy mới gọi là cái xe kiên cố. Nó chắc chắn, nó kiên cố; nghĩa là chắc chắn lắm.
(10:11) Cô Trang: Như vậy là chúng con đi không có niệm nào … (không nghe rõ)
Trưởng lão: Ừ! Mới được tăng lên. Thí dụ một giờ, tăng lên một giờ rưỡi. Rồi còn coi cái đặc tướng của mình nữa, coi một giờ rưỡi đó coi nó phản ứng mỏi mệt gì không? Mà nếu nó phản ứng mỏi mệt, đầu óc nó ù hay hoặc là căng đầu thì lùi lại. Cái sức của mình chưa đúng, chưa đủ, lùi lại. Tập ít lại, thay vì bây giờ tập một giờ rưỡi thì tăng lên mười phút, như vậy mới được. Thì bắt đầu bây giờ mấy con hiểu hết các phương pháp rồi chứ gì? Cách thức tu tập hết rồi!
(10:51) Tu Sinh 2: Con kính bạch Thầy! Trước đây con được Thầy dạy về Thân Hành Niệm. Thì con nghe, con nhớ rằng: "Trong khi đi Thân Hành Niệm thì nó có những cái niệm nó khởi lên, thế mà khi nó khởi lên như thế thì nó giống như là lấy cái que khuấy vào cốc nước để cho tất cả cái bụi bẩn nó nổi lên thì đấy là điều rất tốt. Thế thì việc nó có niệm ấy là tất yếu, ta chỉ cần tác ý cái lệnh ấy nhắc lại một lần nữa mạnh mẽ hơn." Thế thì trước kia con nghe Thầy dạy thế. Thế tới nay thì lại được nghe là: "Trong Thân Hành Niệm thì phải giữ tuyệt đối, không có một niệm nào được nổi lên thì bấy giờ mới tiếp tục tăng giờ." Thế thì bạch Thầy! Thế có phải là khi con nghe lần đầu đấy thì là ở giai đoạn đầu của Thân Hành Niệm.
Trưởng lão: Đúng đó con! Lúc đầu mình khuấy, mình khuấy mà nó cứ còn hoài đó, thì khuấy hết cho nó hết cặn cáo hả, thì nó hết rồi mới tăng lên chứ con. Con hiểu không? Đó! Bây giờ nó trở thành căn cứ địa rồi đó mấy con. Hồi đầu là cái xe, chạy cái xe cho kiên cố, chạy lần quậy, quậy cho nó lên, nó lên hết, cho nên nó có vọng tưởng mặc nó, cứ ở trên cái bánh xe đó cho chạy thôi, chạy hoài, chạy cán nát nó hết, cuối cùng nó hết rồi bắt đầu về trạng thái nó hết mình dứt sạch ra rồi, bắt đầu thanh tịnh rồi mới biến thành căn cứ địa rồi, giặc hết vô rồi. Đó, phải hiểu vậy!
Tu Sinh 2: Thưa Thầy! Ở giai đoạn này con hiểu pháp Thân Hành niệm ấy, thì cứ tự ở trong đầu cái tưởng nó hoạt động trong vòng cái niệm rất mạnh mẽ; tức là nó suy tư sâu sắc hơn những mức bình thường, con thấy rất nhiều. Ngay buổi hôm qua con được đảnh lễ Thầy, thưa Thầy về thế thì trong khi con tập đêm ở đấy thì nó ra hẳn sáu cái vấn đề. Trong lúc tập con không có đả động gì nó.
Trưởng lão: Ghê gớm thiệt!
Tu Sinh 2: Nghĩa là sáu vấn đề con ghi lại trong sổ sách, thì con thấy đó là những vấn đề nó rất sâu, giống như trong cái Định Vô Lậu mà quán xét đấy. Thế thì những lúc như thế này thì phải giải quyết như thế nào hả Thầy?
Trưởng lão: Nếu mà nó, con tu pháp Thân Hành Niệm mà nó nổi lên đó, con nói: “Mày là tưởng, mày là ma tưởng, mày lui, tao không có ngồi đó mà suy tư mày đâu, tao cán nát mày”. Cho nên vì vậy mà con cứ tác ý liên tục trên thân hành của con, hành động này rồi tác ý. Mà nếu mà nó cứ hiện ra, tác ý hơn nữa để nó động, quậy nó ra cho hết ba cái pháp tưởng này. Nó ghê gớm lắm! Con cứ ôm pháp Thân Hành Niệm con cán nó đi, cho cái xe của con nó kiên cố, nó chạy mà không có vật gì mà phang vô nó được. Đầu tiên nó là cái xe, bánh xe kiên cố, cũng như cái xe nó quay vầy, mà nó quay với tốc độ nhanh đó, thì con ném những vật gì, cái bánh xe nó chạy, nó tán ra hết nó không còn vô. Chớ còn mà con ngồi con suy tư như Định Vô Lậu nữa thì thôi rồi, con thấy trời ơi nó hay quá! Thì cái đó nó trật, không được! Đừng có quán. Cán nát, cứ ôm chặt cái thân hành mà cán nát, nó vô, nó nhiều cái nó phang vô lắm, nhưng mà điều kiện là nó phang đâu thì bánh xe con tán nó ra hết. Đó là cái bánh xe kiên cố con, xe Thân Hành Niệm.
(13:38) Tu Sinh 2: Bạch Thầy! Xin Thầy dạy cho con chỗ này để con rõ ra, là trong khi tập Thân Hành Niệm thì vừa rồi Thầy có dạy con là hôm con biết, con nhớ có đúng tinh thần không, hay là con nhớ lầm, thì Thầy dạy: “Tác ý, cái này không được câu hữu, Thân Hành Niệm là không câu hữu với bất cứ một pháp nào cả”. Thế nhưng mà vẫn có tác ý một lần vào đầu buổi tập, thế sau đó thì cứ như thế tập thôi, cứ một vòng tập thì không tác ý nữa. Có phải vẫn được không hả Thầy?
Trưởng lão: Đúng đó! Bây giờ, đầu tiên vì con mang cái bệnh. Phải không? Con chưa có tập cái hành động nào hết, chưa có ra lệnh lần nào hết. Bắt đầu bây giờ tác ý cái bệnh này phải đi. Xong rồi, bắt đầu tác ý thân hành, tiếp tục đến cuối cùng xả thôi chứ không xen nó vô nữa. Cái xe nó chạy cuối cùng để cho mình dùng cái phương pháp này mà vẫn cán luôn cái bệnh chớ không phải cán sơ sơ đâu, nó cán luôn cái thời gian đó, mà nó không có cái bệnh mà nó, lúc bây giờ cái bệnh của con nó khởi lên một cái bệnh, hiện ra cái tướng đau gì đó là con cán luôn nát, con không nhớ cái bệnh đó.
Tu Sinh 2: Dạ, bạch Thầy! Như thế tức là sẽ tác ý của cái lúc mà mình chưa tập một động tác nào cả?
Trưởng lão: Đúng đó con!
Tu Sinh 2: Thế mấy hôm vừa rồi con lại xen kẽ nó vào sau khi năm hơi thở thì con tác ý một lần và từ đó trở đi đến hết buổi thì thôi. Thế như thế là con làm chưa đúng?
Trưởng lão: Chưa đúng! Cái đó là con câu hữu với pháp tác ý để đẩy lui bệnh giống như Tứ Niệm Xứ.
Tứ Niệm Xứ thì trên thân quán thân để khắc phục tham ưu đó, chỉ khắc phục nó, nó con cái pháp khác, pháp tác ý nó khắc phục vô. Còn cái Thân Hành Niệm nó không khắc phục tham ưu, mà nó cán. Nó nhiếp phục, ở trong kinh Thân Hành Niệm nó nhiếp phục tất cả các chướng ngại pháp. Nó nhiếp phục cho nên nó không tác ý nữa, tự nó nó nhiếp phục cho nên mình cứ nhớ cái thân hành đó mà nó nhiếp phục hết mọi vật. Vậy thì mới đúng! Chỉ vô đầu mình chưa có tập nào đó, mình tác ý ngay cái bệnh của mình đi, rồi bắt đầu mình ôm pháp đó rồi thì kể như cán nó, cán tiêu hết bệnh, một cái gì xảy ra trong cái pháp Thân Hành Niệm là cán hết, diệt hết.
(15:32) Tu Sinh 2: Dạ con đội ơn Thầy!
Bạch Thầy! Con thưa chuyện này nữa ạ! Là sách của Tu viện của ta lâu nay kích cỡ của nó là không đều nhau, không thống nhất theo một cái quy ước chung của cái ngành xuất bản. Bởi vì ta làm thủ công mà, thế thì kích cỡ của nó có khi là 13 x 12 x 20,5, có khi là 14 x 20, chẳng hạn cứ như thế nó liên tục nối tiếp nhau. Thế bây giờ để cho nó có một cái quy chế chung của cái này phát hành. Thế thì có nghĩa là cuối cùng những cái tập mà Văn Hóa Truyền Thống, thế bắt đầu in sẽ có nhiều tập sau này với nhau, đến lúc mà nó cùng một cái phách, cùng một cỡ thì khi xếp vào giá nó đều thống nhất một loại. Tuy những việc nhỏ ấy nhưng mà nó cũng sẽ diễn ra những cái phức. Thế việc này đến giờ, con xin Thầy là cho phép để cho cái kích thước của nhà in. Thí dụ: 24x22 hoặc là 24x20 chứ thì để cho nhà in để họ quyết định việc ấy tùy theo các kích cỡ của giấy. Thưa Thầy như thế có được không ạ?
Trưởng lão: Được chứ con! Bây giờ theo kích cỡ của Nhà In rồi. Còn ở đây, Thầy từ lâu Thầy làm theo cái kích cỡ cũ đó, thì cái cỡ của nó Thầy thấy nó không gọn. Mà gần đây Thầy có nghiên cứu về cái kích cỡ cho nó vừa gọn thì nó thuộc về loại sách của ngoại quốc. Cái sách này mà hiện Thầy có đây là cái kích cỡ này sách của ngoại quốc. Nhưng mà sách ngoại quốc cái này nó dài hơn một chút. Cỡ giấy, cái này nó dài hơn, A4 nó phải ngắn hơn, cho nên cái kia nó dài hơn một chút. Do như vậy bây giờ Thầy cũng lấy cái bề ngang này nó nhỏ hơn cái A4 cho nên do đó cái kiểu này là kiểu sách ngoại quốc không thôi, nó nhỏ nhỏ, nó con con. Thành ra nó bây giờ ở trong nước của mình thì nó không có loại giấy đó đâu, chỉ có loại giấy đó của ngoại quốc. Có một kỳ thì cô Kim Tiên ở bên đó, cô mua một số giấy ở ngoại quốc đem về. Thầy lấy, thì cái giấy như thế này thì in cuốn sách nó đẹp. Từ đó Thầy có làm cái loại sách nó không có giống nhau đó. Bây giờ nó có cái loại này đó, tức là cái loại mà Thầy đã lấy cỡ giấy của ngoại quốc mà Thầy làm. Cho nên cái giấy này thay vì kia nó A4 thì mình mua một cái gram lớn, thì mình cắt nó được mười cái gram nhỏ đi, thì cái cỡ này nó được 12, 13 gram, nó lời giấy hơn. Nhưng mà bây giờ cái kích cỡ, kích cỡ của nhà in đó, thì nó làm theo kiểu giấy A4, cho nên cái bề ngang này nó hơi lớn con, thành ra nó lớn ra. Tại vì bắt đầu mình nếu mà in trong nhà in đó, thì mình sẽ in theo kiểu của nó chứ không sao. Nhưng mà cái kiểu thủ công của mình, thì mình làm theo cái kiểu này nó đẹp hơn nó gọn hơn con. Còn cái sách kia là sách in rồi, nó thuộc về loại sách in. Còn cái sách này để nói lên cái thủ công của Thầy, ngày mai người ta tìm cái này người ta thấy công lao của Thầy. Chính cái này, cái giá trị lắm mấy con, cái lịch sử đó, cái này nó thuộc về lịch sử rồi. Còn cái kia là nhà in nó làm, nó không có thuộc về lịch sử đâu.
Tu Sinh 2: Bạch Thầy! Cái tập Văn Hóa Truyền thống, thứ nhất là cái bìa của nó thì bây giờ con muốn lấy cái cỡ theo của Việt Nam.
Trưởng lão: Của Việt Nam mình con.
(18:44) Tu Sinh 2: Thưa Thầy! Thầy tạm thời đi ẩn sau rồi, thì trước mắt những cái việc về giấy phép in sách, xuất bản sách, in ấn này khác rồi con hỏi cô Út ạ?
Trưởng lão: Con cứ hỏi cô Út. Thì coi như cô Út cổ làm công việc đó hết, thay Thầy, không có gì hết. Về in ấn con cứ liên hệ, có gì đó con cứ nói cô út. Còn có một cái sự gì rắc rối đó, cứ gọi Thầy, Thầy về liền. Chớ không có gì đâu.
(19:15) Tu Sinh 2: Bạch Thầy! Về việc bản thân con thì một năm trời tu tập Thầy đã dạy nhiều lắm, Thầy đã dùng nhiều phương tiện, nhiều thiện xảo để chỉ dạy. Con chỉ ân hận đáng tiếc rằng, con chưa nhận được ra hết và chưa làm được bao nhiêu để đền đáp lại tấm lòng của Thầy. Con thấy điều đó như một cái sự xót xa, đến cái lúc xa Thầy rồi thì lại càng thấy rõ điều đó. Trong lúc này thì con lại ý thức được rằng, như đức Phật đã dạy: "Các con phải tự thắp đuốc lên mà đi", con đường tu là con đường độc bộ, độc hành. Nên là xa Thầy rồi, chúng con càng phải cố gắng nỗ lực hơn nữa. Con cũng hứa với Thầy như vậy, nhưng mà trước phút này thì con xin Thầy dạy cho con đôi điều để con coi nó như là một cái kim chỉ nam để con tôn trọng đến những ngày xa Thầy.
Trưởng lão: Hôm nay trong thân con có một cái nghiệp quá nặng. Vậy thì con phải ôm những cái pháp mà con đã từng tu tập, mà đã đẩy lui nó được những cái bệnh của con. Con phải ôm pháp, con phải triệt hạ cho được những cái cảm thọ đó. Hoàn toàn con trở lại bình thường không còn lo lắng về cái bệnh đó nữa thì mới an tâm, chứ còn không khéo nó sẽ tái đi tái lại, nó sẽ trở đi trở lại cho con nhiều lần như vậy thì cái sức khỏe con bị kém đi. Bây giờ con phải ôm chặt cái pháp nào mà con đã đẩy lui được cái bệnh thì cái pháp đó là con sẽ tu cái pháp đó và đồng thời cũng từ cái pháp đó mà con đi đến chỗ chứng đạo. Con nhớ kỹ Thầy dặn con, đó là cái đặc tướng của con rồi, cái thân của con nó hiện ra cái tướng bệnh đó để con sử dụng cái pháp đó để đẩy lui được cái bệnh, mà đẩy lui được cái bệnh tức là cái pháp đó sẽ dẫn con đi đến cái chỗ cứu cánh cuối cùng của con. Con nhớ cái điều đó mà con hãy tập nó kỹ lưỡng, cẩn thận cái pháp đó, đừng có biếng trễ. Khi mà xa Thầy thì con phải nỗ lực, nhất là cái phần giới luật nghiêm chỉnh thì các con sẽ đạt được kết quả rõ ràng. Và đồng thời thì trong Tập Hai bộ mới của Đường Về Xứ Phật Thầy đã chỉnh lại với một lời của một vị Thầy khuyên người đệ tử của mình với một tâm tình rất thật sự mà không có cái sự sai. Và đồng thời Thầy chỉnh lại tất cả những cái trang đó lại hết để mới thấy được cái tình của một người Thầy làm hết nhiệm vụ của mình với đệ tử của mình. Và đồng thời Thầy gởi cho con cuốn này, để rồi con sẽ đổi lại cuốn kia cho Thầy, Thầy đã chỉnh sửa hết rồi, nghĩa là cái trang giấy đó Thầy sửa rất tốt rất đẹp và đầy đủ ý nghĩ chớ không có một cái sai sót gì nữa, con sẽ giữ cái tập này.
Tu Sinh 2: Con đội ơn Thầy! Thầy sửa lại như thế thì nghĩa là Nguyên Thanh sẽ làm sai? Sẽ thấy rõ ràng mình đã làm sai!
Trưởng lão: Không phải sai con!
Tu Sinh 2: Vì nếu không sai thì không phải sửa! Nhưng mà con thưa Thầy đây là cái nghiệp của con thì con cũng chịu, nghĩa là cứ để nó như thế. Con nghĩ rằng nếu nó không ảnh hưởng gì tới sâu xa thì điều đó không sao cả.
Trưởng lão: Không! Theo Thầy thiết nghĩ thì cái điều đó cũng chỉ là nhắc nhở cho con thôi. Mà theo Thầy nghĩ qua cái điều kiện của một người đệ tử của Thầy, Thầy cũng không muốn để những cái điều đó nó làm ảnh hưởng cái tâm khi mà con chưa vững vàng. Sau khi vững vàng thì con sẽ tu tới một vài năm nữa thì con sẽ thấy cái chuyện đó là cái chuyện thường, không có gì hết, bình thường! Cho nên đối với chuyện đó là cái chuyện khéo léo nhắc nhở để mình tu tập. Một cái chuyện nó quá bình thường chớ nó không có gì hết. Mà cái chuyện đó đúng, chớ không phải sai đâu con. Bởi vì mình đang ở trong các ác pháp bao vây quanh, hở ra một chút là mình bị ác pháp tác động liền. Cho nên Thầy thấy điều đó, nhưng mà Thầy không muốn, bởi vì đối với Thầy, Thầy không muốn như vậy. Cái ái ngữ của một cái người Thầy không nên dùng những cái điều đó, mà nên dùng ái ngữ với đệ tử của mình. Nhưng mà cái điều đó là cái điều mà phải nói thẳng nói thật với những cái người khác để người ta có cái nhìn nhận cho nó chính xác hơn thì cái đó rất hay, nhưng mà đối với con thì Thầy thấy phải như thế nào cho nó đúng. Bởi vì dù sao đi nữa Thầy cũng quan sát đây là một cái nhân quả để chúng ta có cái vay trả cho nó xong mà thôi. Nó có cái duyên nhân quả, thì trong nhân quả phải có những điều kiện để mà vay trả chớ không có gì hết. Không phải do cái sự mà oán ghét hoặc là cái này kia, mà điều đó hoàn toàn là do cái nhân quả. Coi như là cái sự vô tình của trong nhân quả mà chi phối, chớ không hoàn toàn không có gì hết.
(24:21) Tu Sinh: Mô Phật, bạch Thầy! …(không nghe rõ)
Trưởng lão: Bây giờ thầy Chân Thành thì mấy con noi được cái gương giờ giấc nghiêm chỉnh, tu tập rất tốt, giờ giấc không biếng trễ. Noi những cái gương đó là tốt, còn những cái khác thì khoan đã. Bởi vì người được cái này, người mất cái kia chứ chưa hẳn là hoàn toàn. Con hiểu không?
Cho nên do như vậy, ví dụ: Như nương theo cái hạnh của thầy Chân Thành thì giờ giấc cho nghiêm chỉnh, giờ nào ra giờ nấy, pháp hành thì ôm chặt chẽ, không sai. Nhưng mà về cái phần mà hạnh thì khoan đã, bởi vì cái đó là thầy còn đang chỉnh sửa cái hạnh của thầy nhiều, chứ chưa phải, cho nên không có nghĩa là lấy cái gương hoàn toàn của thầy Chân Thành mà làm cái gương tu của mình được. Con hiểu chỗ đó không?
Mà lấy một cái phần, một cái phần thấy cái tốt người ta mình lấy để mà sửa mình. Nhưng mà những cái xấu mình đừng có theo đó. Bởi vì con đường tu mình chưa ai hoàn tất được. Cho nên chừng nào mà một người hoàn tất được, thậm chí như Thầy nói Đức Phật ngày xưa đã tu chứng, Thầy tu chứng, nhưng mà cái ý thức mà vẫn nó còn cái thói quen của nó; có nghĩa là những cái hạnh của chúng ta nó còn thô tháo, nó chưa phải hoàn tất, đức Phật còn dùng cái không ái ngữ, đức Phật nói, dùng cái danh từ: "Ông ngu si quá" đó là cái lời nói nó thô tháo, nó nghe không có ái ngữ. Vậy mà đức Phật còn nói, thì thử hỏi thì chúng ta như thế nào?
(26:28) Cho nên vì vậy mà Thầy cũng có những cái lỗi lầm mặc dù Thầy không nói điều đó, nhưng nó cũng có những cái ngôn ngữ cũng không khéo và những cái hành động nó cũng do cái ý thức nghiệp thức của chúng ta, nó điều khiển, nó đã thành cái thói quen, nó không phải là trừ ra cái thân này nó đã dừng hết, nó đã diệt đi, nó không còn cái đó nữa. Còn cái thân này nó đã có cái nghiệp thức ở trong này rồi, cho nên nó phải làm theo cái nghiệp của nó, chớ không phải là nói, bởi vậy Thầy tập cho mấy con từng chút, từng chút để cho cái nghiệp thức của nó giảm bớt. Nhưng mà thành tựu rồi người ta cũng vẫn lưu ý từng chút, người ta biết được cái sai, cái trái của người ta chớ đâu phải người ta không biết. Nhưng mà nó là cái nghiệp thức của người ta.
Cho nên nó là nhân quả rồi, cho nên vì vậy mà Thầy khuyên con thì chỉ mình nhìn vào cái nghiêm chỉnh mà nương tựa theo thầy Chân Thành thì qua cái pháp mà thầy tu thì các con nương vào đó cho đúng thầy Chân Thành thì hay lắm, nó không sai. Nhưng mà qua những cái phần khác thì thầy cũng đang sửa soạn cho mình được thanh tịnh hoàn toàn chớ không phải là thầy muốn mình như vậy đâu, nhưng mà cái nghiệp thức của thầy nó còn chưa hoàn toàn. Cho nên mình bắt chước theo cái nghiệp thức thì coi chừng mình lại lầm. Cũng như mình đừng có bắt chước nghe ông Phật nói như vậy. Thầy nói ông Phật nói như vậy, Thầy nói có làm sao đâu! Đó là Thầy bắt chước cái sai của Phật rồi. Phải không? Cái nghiệp thức của Phật rồi. Cho nên mình phải biết được cái sai, cái đúng và đồng thời mình chỉnh mình lần, cái nghiệp thức của mình nó mòn dần, nó mới sạch hết đâu phải dễ. Khó lắm!
(27:58) Cho nên vì vậy mà mình phải tu tập noi gương gì, cái nào đúng cái nào sai thì dựa vào những cái đức hạnh và cái giới luật thì mình mới nói là Thầy của mình. Cho nên ông Phật đâu có bảo mình phải nương vô ổng mà tu, mà ông bảo nương vào giới và pháp của ổng mà tu, làm thầy. Chớ ổng có bảo nương vào ổng đâu, bởi vì ổng biết cái nghiệp thức ổng còn: “Rồi bắt đầu người nương vào tôi, bắt đầu bây giờ mấy người nói lời nói nào đó do cái nghiệp thức của tôi, tôi nói lỡ mà mấy người bắt chước tôi, giờ mấy người chửi người ta vậy sao được!”. Phải không con?
Cho nên trong cái vấn đề tu mình phải biết. Bởi vì Thầy hiểu rất rõ cho nên Thầy biết rất rõ, dù là mình biết là bất động tâm nhưng cái nghiệp thức nó vẫn có chớ đâu phải không. Cho nên yên tâm con, con phải nương vào chỗ nào, mà chỗ nào không nương thì phải kỹ. Cho nên không khéo mình trật hết. Thầy Chân Thành làm cái gì? Không lẽ ông vác cuốc, ông đi rẫy cỏ, mình vác cuốc đi rẫy cỏ, ông quét sân, mình cũng quét sân, làm tùm lum, ông làm gì mình cũng làm đấy hết, ông nói gì mình cũng nói, ông nhìn thất người ta, ông nói: "Mấy người sao giờ này không chịu thức", con cũng bắt chước con nói kiểu đó phóng dật tùm lum thế sao? Phải không?
Ít ra mình phải biết cái gì mình sẽ bắt chước được, cái gì không bắt chước. Trong huynh đệ chúng ta có nhiều người, người ta mới tu người ta có hạnh tốt, mình cũng nên bắt chước cái hạnh của người ta. Lấy cái tốt mà đi sửa sai của mình, chớ không phải là chê cái người mới tu, không phải đâu. Cái người nào nó cũng còn cái nghiệp thức, chứ chưa hết đâu. Mà cái người tu, cái nghiệp thức người ta vi tế, người ta nó rõ ràng. Thời gian người ta sống, người ta làm phật sự từng chút, người ta có chung đụng, lần lượt do cái tâm bất động đó người ta điều khiển mọi thứ, nó mới trở thành thanh tịnh hoàn toàn.
(29:42) Tu Sinh: Mô Phật, bạch Thầy! … (không nghe rõ)
Trưởng lão: Cái đó là cái tự nhiên của sự phóng dật của mình rồi. Cho nên vì vậy đó, mình nhìn ngó thất người khác là mình sai rồi, không đúng. Ai làm gì thì làm, đừng ngó người ta, đừng có nhìn người ta gì hết, đó là mình gọi là phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Cho nên mình còn nhìn, mình còn thấy, mà lẹ quá con mắt cứ liếc, cái lỗ tai mình lẹ quá, không biết sao mà nó nhanh quá. Mở con mắt ra là bắt đầu nó nhìn thất người ta trước, coi người ta ngủ thức trước đã. Nó khổ cái nỗi đó chứ, mình thì không muốn rồi, nhưng mà nó nhanh quá, nó mở con mắt ra thì nó lo ngó nhà người ta rồi, khổ nỗi!
Không, sự thật mấy con! Nó kỳ cục chớ, cho nên mình nhắc nó như vậy chớ mà, mấy con phải khắc phục nó hết sức. Khi mà mình biết nó như vậy rồi đó, thì mà mỗi lần mình thức dậy nghe chuông reo thức dậy đó, mình nhắc nó trước để mình bước ra khỏi ra khỏi nhà, mình bước xuống cái giường: "Mày ngó xuống đất, chớ không được mày ngó đi đâu bậy bạ." Con căn dặn như vậy nó mới quen, chớ không khéo nó vừa mở mắt, nó bước xuống giường nó dòm thất người ta, hoặc là nghe thất người ta chuông reo: "Trời! Sao mà cái thất này sao mà chuông reo vậy mà không dậy." Con hiểu không? Nó thính cái tai ghê gớm lắm. Cho nên mình, khi đó mình biết là những cái giờ đó sắp sửa chuông họ reo mà có nhiều người vì người ta ngủ say, người ta dậy không có nổi. Có nhiều người họ tắt chuông rồi họ ngủ tiếp, do đó: "Trời ơi! Cái ông gì mà lười biếng ghê gớm". Nó bắt mình phóng dật, nó nói người ta vậy. Thì cái đó là cái sai mấy con, sai hết rồi không đúng đâu. Cho nên khi đó mình phải phòng hộ mắt tai, phải hàng phục những cái tâm phóng dật đó: "Người ta tu được không được, mình tu chắc gì mình tu được sao mình nói người ta. Lỗi của mình không đi nhìn, đi nhìn lỗi người ta". Mình rầy mình rất nhiều lần, cuối cùng mình mới phòng hộ được mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý chớ không phải dễ đâu. Cho nên đừng có bắt chước mà nhìn thất người ta. Thức dậy nhìn thất người ta là không có được, cái đó cái lỗi lớn đó.
Tu Sinh 2: Kính bạch Thầy! Con, nó nhìn thất người khác, con mắng nó, nó bảo con: "Không nhìn thì biết đâu mà học".
Trưởng lão: Trời ơi nó khôn đó! Con trả lời nó: "Mày học cái kiểu đó hả? Mày học phóng dật!”.
(32:10) Tu Sinh 2: Thế, nó cứ làm con rất khó chịu là cứ thức dậy lúc nào thì là khạc nhổ, mà cứ khạc nhổ lúc nào là biết đúng giờ thức dậy. Nhưng về sau con phải định nhiều hôm tác ý những cái việc đấy thứ nhứt, cái nữa là sống phải yên lặng trật tự tu hành trong… (không nghe rõ)
cái cảnh như thế này mà cứ lúc nào thức dậy là khạc nhổ lúc đấy mà mình cứ ở lâu thì còn đâu là tinh thần tập thể .. như thế (nghe không rõ)
Trưởng lão: Tự nó đang… (không nghe rõ) bản thân mình đó con
Tu Sinh 2: Bạch Thầy! Với cái bệnh của con hiện tại như thế thì có nghĩa là nếu nó đến nữa thì cũng vẫn như vừa rồi, dứt khoát không uống thuốc và cứ ôm hành cho đến cùng, sống thì sống, chết thì chết là do nghiệp. Chứ không nghĩ đến sự sống nữa
Trưởng lão: Đó, Thầy nhắc con như vậy đó, không có sợ hãi, không có rung động.
Tu Sinh: Bạch Thầy! Có cái con vẫn để nhớ, cứ tiến lên …(không nghe rõ)
(33:08) Trưởng lão: Đó thì cố gắng thực hiện những lời mà Thầy dạy con. Con giữ như vậy cái pháp đó mà con tu, con đối trị cái nghiệp thọ của con thì tất cả các nghiệp khác nó đánh con, con đều quét nó bằng cái phương pháp đó được hết. Quét cái kia được thì tất cả các pháp đều quét được. Nói con có hợp duyên với pháp tu cỡ đó, phải nỗ lực tu.
Thì hôm nay những cái điều kiện gì đó thì các con đã được nghe Thầy dạy từng cái chi tiết hết rồi, bây giờ còn cái nỗ lực mà thôi. Nhưng mà nó không phải nó bình yên như vậy đâu, nó sẽ có những cái pháp khác mấy con, chớ không phải nó yên ổn. Nhưng mà Thầy dặn rồi, có cái gì mà khác lạ thì gọi, mau mau gọi Thầy đi, chớ đừng có làm thinh không có được đâu.
(33:52) Tu Sinh: Thầy bảo ở ẩn, cũng chẳng ẩn được vì suốt ngày bị gọi.
Trưởng lão: Lẽ đương nhiên rồi, Thầy lại sung sướng, ẩn mà không có nghĩa là mà không làm việc, ẩn mà lúc nào cũng nhận tiếng kêu các con của mình để cho mình để cho mình cứu giúp nó. Thành ra ẩn để mình yên, để làm một công việc, nhưng mà sự thật luôn luôn phóng tâm của mình ra từng nơi các con hết để mà theo dõi từng nó, bởi vì mình có trách nhiệm, trách nhiệm bổn phận của mình đối với mấy con hết rồi. Cho nên mấy con, bởi vậy Thầy là nguồn an ủi mấy con, khi Thầy ẩn bóng cũng là vẫn là nguồn an ủi mấy con, nếu là Thầy nói khác là mấy con sẽ mất nguồn an ủi mất, mấy con sẽ chới với liền tức khắc. Còn bây giờ mấy con không có Thầy nhưng mấy con vẫn thấy có Thầy, đó là nguồn an ủi của Thầy đối với mấy con, cho nên mấy con yên tâm không có gì mà lo hết. Ở bất kỳ ở đâu trên hành tinh này, mà nếu có niềm tin nơi Thầy thì lúc bấy giờ dù xa xôi bao nhiêu Thầy cũng ráng lôi chân mà chạy. Nói chạy chớ Thầy có chạy gì đâu, ngồi tại một cái hang, cái hốc nào đó chứ chạy đâu. Nhưng mà Thầy sai cái từ trường Thầy phải mau mau trợ ấn chớ không có chậm trễ được, các con yên tâm, cái vấn đề đó là vấn đề Thầy sử dụng được, nó như là một cái cây bút Thầy viết chữ vậy thôi không có gì là khó khăn đối với Thầy.
(35:15) Tu Sinh: Mô Phật, bạch Thầy!… (không nghe rõ)
Trưởng lão: Đúng đó con! Con hãy làm như vậy. Mà cứ ôm pháp Thầy dạy, thì giờ giấc mình nghiêm chỉnh, các con còn quên một điều, các con hỏi. Không biết con tu pháp Thân Hành Niệm rồi con đặt đồng hồ, cứ lát con liếc nhìn nhìn, liếc nhìn coi nó hết giờ chưa. Coi nó tới giờ chưa để con xả. Coi nó tới giờ chưa để con xả, con quên hỏi cái vấn đề đó, sự thật ra mấy con bị bận tâm về vấn đề đó.
Ôm pháp Thân Hành Niệm, đầu tiên mấy con nhớ là mình ôm pháp Thân Hành Niệm mình nhớ tác ý ra. Bây giờ mình cho nó như thế này nè, “tao tu một giờ đồng hồ đó”, đó ví dụ một giờ đồng hồ. Thì bắt đầu con cài cái đồng hồ cho tới nó reo, các con nghe reo con xả mà ngặt con mới tu ba mươi phút mà cài thì cũng khó. Thầy đặt thành vấn đề mình không có cài được cái đồng hồ reo, thì mấy con cứ tu, “cho mày phải đúng ba mươi phút là nghỉ nghe”. Chừng nào con tới giờ đó, trong bụng nó muốn nghỉ, thì con cứ nghỉ coi thử xem đúng ba mươi phút không. Lỡ nó có trễ thì nói: “Mày chết, đúng bây giờ mày còn năm phút nữa mới ba mươi phút mà bây giờ mới hai mươi lăm phút mày muốn nghỉ sớm hả. Tao bảo mày phải tu lại cho kỹ lưỡng đàng hoàng, nhớ mày ngày mai phải đúng vậy đó”.
Con tập, con răn cái tâm con của con đi, rồi con sẽ tu, con bảo ba mươi phút, con không có đếm, không có gì hết, con cứ tu đi tới đó trong bụng nó muốn nghỉ, tới chừng con nghỉ nó đúng giờ luôn, con tập tới như vậy đó con. Tập như vậy rồi mấy con sẽ thấy cái hiệu quả của pháp Thân Hành Niệm nó hay lắm. Tại vì mình không rèn luyện mình thôi, chứ rèn luyện mình nó sẽ vững. Nhưng mà ban đầu thì nó trật, có khi thì nó lố, có khi thì nó không có lố, nó lại thiếu, cho nên lúc lố, lúc mà thiếu, cho nên mới đầu thì như vậy, sau thì nó đúng y như vậy, hễ trong bụng nó muốn nghỉ là biết là tới giờ rồi, đó nó bảo động đó, bây giờ nó đúng giờ rồi nó nghỉ đó, thì mình xả nghỉ.
Còn mình bảo thêm nó làm thêm mấy con. Con tu tập như vậy thì mấy con mới thấy pháp Phật nó hiệu nghiệm, cái pháp lệnh đó, cái lệnh của ý thức của chúng ta, cái lệnh đó. Bởi vì đạo Phật hoàn toàn do cái ý thức, ý thức lệnh này mà chúng ta giữ gìn được Đạo Đức Nhân Bản - Nhân Quả không làm khổ mình khổ người là nó đó mấy con. Còn dùng tưởng, hoặc dùng cái gì đều sai hết. Bởi vì nói tri kiến giải thoát mà, có những sự giải thoát bằng tri kiến của chúng ta, bằng ý thức đó. Chớ còn mà diệt ý thức đừng có cho nó khởi niệm thiện, niệm ác là chắc chết mấy con rồi, mấy con đi lạc đường rồi, đi qua Thiền tông rồi, cái điều đó mất cái sự điều khiển rồi, nó bị lọt vô tưởng mất.
(38:53) Tu Sinh 3: Thưa Thầy, bạch Thầy! Con ở thất con ở xa…
Trưởng lão: Bây giờ thất con ở bao xa, mà con nói: “Thầy ơi! Con tu cái pháp, bây giờ gặp những cái khó khăn, Thầy cứu con”. Con ở bao xa, con ở trong cái hốc, cái hang nào Thầy cũng tới hết, chỗ nào có không khí chỗ đó có Thầy tới.
Tu Sinh 3: …(không nghe rõ)
Trưởng lão: Con chỉ kêu thôi, thì con khỏi cần nói tên, Thầy cũng tới chớ không phải cần sớ điệp phải nói tên mà phải biết tên để độ. Ở đây không cần, chỉ cần gọi ngay đó là giao cảm nó biết liền, chớ không cần nói tên nói tuổi gì hết. Làm như mấy ông thầy mà tụng đám thì phải làm điệp sớ rồi viết tên họ, chớ viết trật ra rồi ông Diêm Vương ổng lộn tên mới chết đó chứ.
(38:47) Tu Sinh 4: Bạch Thầy! Người đó ở nơi tu viện. Ví dụ như các con xa, ở Hà Nội chẳng hạn, khi gặp khó khăn, kêu Thầy, kêu cứu, có phải gọi xưng tên hay chỉ gọi Thầy thôi?
Trưởng lão: Gọi Thầy thôi, khỏi cần gọi tên tuổi gì Thầy hết. Gọi Thầy là ngay đó Thầy cảm thông liền, giao cảm liền: “Thầy ơi cứu con”, đủ rồi! Khỏi cần tên, mà khỏi cần xưng tên con là pháp danh gì, tên gì, ở xã nào, làng nào khỏi cần, để cái đó ra đi, Thầy khỏi cần, chỉ cần kêu là được. Cái tâm của chúng ta, cái tưởng của chúng ta nó giao cảm rất dễ, khi các con gặp khó khăn thì khi mà các con gọi thì cái tưởng các con phóng xuất ra liền, nó phóng xuất ra thì cái từ trường thanh thản, khi mà ở đây con giữ thanh thản, cái từ trường thanh thản con nó sẽ đẩy, tải chuyển cái ý của các con đưa kêu gọi đó đi thì nó bắt gặp từ trường thanh thản của Thầy, cái tưởng của Thầy bây giờ nó bắt gặp ngay liền, nó phát xuất liền ngay, nó phản ứng lại liền nó trợ giúp mấy con, ở đâu nó cũng nhanh chóng như thường, một lần mấy con kêu mười người một lượt thì cái từ trường Thầy nó phóng một lượt mười lần, mỗi ý nào nó ra ý nấy, chớ không phải bây giờ khoan để tao giải quyết người này rồi tao mới giải quyết người này. Không! Nó không như vậy đâu. Một lần mà nó giải quyết mười người, một trăm người, cái từ trường nó vi diệu lắm mấy con. Đừng có nghĩ tưởng là như cái thân của Thầy là cái thân có không gian và có thời gian cho nên cho nên nó giải quyết từng phần, bây giờ mấy con hỏi người này rồi tới người kia. Còn cái kia nó không giải quyết như vậy đâu, nó giải quyết một lần mấy con cứ hỏi một lượt với nhau đi rồi nó giải quyết một lần, ở chỗ nào nó cũng nghe riêng biệt hết. Còn ở đây Thầy giải quyết cho người này thì người kia mắc rảo lỗ tai nghe chuyện người này, chuyện của mình không nghe được, nó như vậy.
(40:42) Tu Sinh 5: Con bạch Thầy ạ! Bạch Thầy là chúng con thì ăn chay, gia đình con thì ăn mặn thịt chúng sinh nhiều quá. Thế có chị em bạn mới bảo con để càng ngày càng giảm ăn thịt chúng sinh (40:58) thì ước nguyện chư Phật chư Thầy độ cho gia đình giảm ăn thịt chúng sinh. Cách làm như thế có đúng không, con bạch Thầy?
Trưởng lão: Không! Cái đó là cái chùm nhân quả của con mà kêu Thầy độ, chắc Thầy không dám độ. Thầy độ Thầy gánh ba cái chúng sinh chắc chết. Bây giờ con làm như này nè, Thầy bày cho. Khi nào con Thọ Bát Quan Trai, con giữ gìn giới đó, cái ngày mà con giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, con ước nguyện: “Ước nguyện cho gia đình tôi đều ăn chay được hết”. Con ước nguyện nhờ công đức của con, con mới chuyển được gia đình con, chớ Thầy chuyển không nổi, bởi vì gia đình con là cái chùm nhân quả của con. Kêu Thầy, Thầy chỉ biết dạy pháp cho con chuyển thôi, chớ Thầy còn không chuyển được. Con hiểu không? Mà cái ngày Thọ Bát Quan Trai con chuyển con…
(41:42) Tu Sinh 5: Con cứ như thế, thì hôm nay con hỏi Thầy thì con mới dám làm.
Trưởng lão: Con chuyển, con chuyển cái nghiệp con như vậy đó con. Con nhớ những lời Thầy dạy, đây là một trong những bài kinh của đức Phật khi mà ước nguyện một điều gì cho những người khác, cũng như bây giờ con ước nguyện cho những người thân mình ăn chay chứ gì? Phải không? Thì đức Phật nói: “Giới luật phải nghiêm chỉnh, đừng có vi phạm những lỗi nhỏ nhặt thì ước nguyện nó sẽ viên mãn thành tựu”. Ông Phật dạy vậy mà chớ có phải Thầy dạy đâu.
Cho nên Thầy dạy đúng bài bản những lời của đức Phật dạy còn trong kinh Nguyên Thủy hẳn hoi, sau này các con sẽ đọc về giới luật, bởi vì cái đó là cái lợi ích của giới luật, cho nên nó mười bảy, mười tám cái điều lợi ích của giới luật, cho nên khi một người muốn ước nguyện cho thân nhân của mình đang bệnh đau, hay như là cha hay mẹ mình, nhất định là cái người muốn ước nguyện được viên mãn cho cha mẹ mình mạnh thì cái người đó phải thọ Bát Quan Trai, giữ gìn tám giới nghiêm chỉnh, rồi hằng ngày sống ước nguyện thì cái sự đó sẽ thành tựu, cha mẹ sẽ hết bệnh. Các con hiểu không?
Chớ còn vô lạy Phật, cầu Phật phù hộ cho cha tôi mạnh giỏi. Thôi! Cúng một đống tiền, ông Phật ông không xài đâu, mấy ông thầy chùa xài hết, nhưng mà điều kiện cái bệnh hết hay không hết là do nhân quả chớ không thể ông Phật nào cứu độ mình được hết. Các con hiểu chưa? Đó! Nhớ như vậy mới hiểu biết đó là cái thực tế, do mình là một cái nhân quả, mình là đứa con của mẹ mình, của cha mình, mà cha mẹ mình đang đau, do mình giữ giới, cái ngày giới thanh tịnh đó, mình mới ước nguyện cho cha mẹ mình bệnh tật nó tiêu trừ. Thì do cái công đức thiện pháp của mình làm mình sống giới, nó mới chuyển cái nghiệp cho cha mẹ mình, vì cha mẹ mình là cái nhân quả với mình, bởi vì cha mẹ sinh mình ra mà không nhân quả với mình còn ai hơn? Cho nên cha mẹ đau khổ là mình đau khổ, cha mẹ khổ đau là mình khóc. Các con hiểu không?
(43:30) Cho nên vì vậy bây giờ mình mới thọ giữ gìn cái giới luật nghiêm chỉnh để mình ước nguyện. Cũng như bây giờ mấy con ước nguyện nhập định này, mấy con ước nguyện Tam Minh này đều là giới luật hết, đức Phật đã nói rõ những cái điều kiện đó mà. Mấy con không giới luật mấy con không giới luật thì mấy con không làm được cái chuyện này đâu, cho nên người nào mà Thầy nói, bởi vì do cái bài kinh mày mà Thầy xét thấy Đại thừa không có người nào làm đúng đâu, nguyên là tạ định không trong ở đó, bởi vì giới luật nó đã xác định trong cái bài kinh này rất rõ rồi. Sau này mấy con đọc cái giới mà Thánh đức Tỳ kheo Tăng, Tỳ kheo Ni mấy con thấy đưa vô cái bộ, cái Tập thứ nhất này Thầy đưa những cái lợi ích của Giới để biết lợi ích mình muốn gì, mình muốn cho ai, mình nhập định, mình muốn mình tu được cái gì, mình muốn mình ly dục, ly ác pháp như thế nào thì ở trong đó dạy mình đủ hết. Nó cụ thể, nó rõ ràng, nó có bài bản chớ không phải. Cho nên giới luật của Phật là tuyệt vời mà.
Con có gì nữa không con, hết rồi hả?
Tu Sinh 2: Kính bạch Thầy! Bây giờ lúc nào đó con có một ý tưởng gì, có một vấn đề gì khi viết bài thì vậy trao đổi trên diễn đàn…(không nghe rõ)
Trưởng lão: Trong cái thời gian mà đang nỗ lực miên mật tu thì con không nên làm gì hết. Khi con thấy mình cần phải xả ra một thời gian; có nghĩa là mình xả mình không tu, không phải! Để cho mình tu cái vô lậu, để mình dùng quán. Sau cái thời gian tu ấy, nó có cái phần mà nó phát triển cái tưởng tuệ, thì bắt đầu đó mình xả mình nghỉ, “Bây giờ tôi sẽ tu về cái Định Vô Lậu”, tức là con sẽ viết những cái bài văn xuất sắc, nó đúng, lúc bấy giờ là con sử dụng Định Vô Lậu đó. Nó phải có hướng đàng hoàng để mình quan sát kỹ, những cái bài đó là những cái bài viết. Cũng như bây giờ mà Thầy cho Nguyên Thanh ra viết đó là để cho nó tu Định Vô Lậu, để nó vững tư tưởng tri kiến của nó, sau đó mới khép nó vô nữa thì nó mới tu. Bởi vì đức Phật dạy: “Thỉnh thoảng tu định, thỉnh thoảng thì lại tu quán chớ không phải tu định không, mà cũng không phải tu quán không”. Cho nên Thầy là một người thầy phải khéo léo lắm, Thầy biết áp dụng liền.
(45:46) Tu Sinh 6: … (không nghe rõ). Trước đây, cách đây hơn ba tháng thì con tưởng con được vào bên Thầy, được chiêm ngưỡng Thầy. Trong khi đó thì con có chuyện con phải đi bệnh viện mổ, ngày đấy con cứ thấy nó …(không nghe rõ) trong con người nó rất là khó chịu ạ …(không nghe rõ)
Con bạch Thầy! Là từ khi Thầy cho con được đuổi bệnh, thì tuy rằng con không giữ được mười giới luật, vẫn vi phạm ngày ăn một bữa rưỡi ạ. Thì con quyết tâm tác ý đuổi bệnh thì con thấy giảm đi rõ rệt. Chỉ có điều, là con bạch Thầy! Là con làm sao cứ bị vọng tưởng nhiều ạ.
(46:34) Trưởng lão: Cái đó con tu như thế này nè. Con muốn không vọng tưởng đó, con tu từng hơi thở, con nói bây giờ tu năm hơi thở, nhất định con tác ý trước, con nói: "Bây giờ tu năm hơi thở mà có vọng tưởng mày chết, mày có niệm gì xen vô không được". Bắt đầu tu cho kỹ, con hít vô, con kỹ lưỡng, thở ra kỹ lưỡng từng hơi thở, năm hơi thở nghỉ không có được tu nhiều. Bởi vì vốn con tu nhiều nó lỏng lẻo, cho nên con tu ít, tu kỹ lại thì nó không vọng tưởng. Rồi lần lượt con tu, cứ tập nó quen kỹ lưỡng từng hơi thở, mà đức Phật gọi là: "Nhiệt tâm ở trong cái thân hành của mình". Khi nhiệt tâm thì con nhiếp phục được tâm mình, mà nhiếp phục được tâm thì không vọng tưởng.
Tại vì mấy con chưa biết cách nhiếp tâm, cho nên vì vậy mà khi mà nhiếp tâm như vậy, nếu mà nó còn vọng tưởng thì bắt đầu con dùng hơi thở như thế này: con thở ra, con thở chậm chậm chậm chậm ra, rồi con hít vô chậm chậm chậm chậm, con thở một hơi thở rồi con nghỉ. Đây là nhiếp tâm một hơi thở, mà nhiếp kỹ đó là phải thở chậm, con thấy khi mà cái tay thân hành niệm đó, con đưa chậm chậm vầy nó kỹ hơn con đưa vầy. Con hiểu không?
Cho nên cái hơi thở mà con thở ra thở vô nó bình thường, nó không kỹ đâu, mà con thở chậm chậm, con sự tập chung nó kỹ. Nhưng mà con làm nhiều là nó rối loạn hô hấp con liền tức khắc, con chỉ thở một hơi thở rồi con xả nghỉ. Tập cho nó quen rồi bắt đầu bây giờ con mới thở bình thường, nó mới tập, nó quen cái kỹ đó, cãi kỹ nhưng mà con tập hơi thở chậm. Cho nên có lúc mà Thầy dạy hơi thở chậm nhẹ đó, là hơi thở của cái người tập nhiếp tâm, mà nhiếp không được, cứ vọng tưởng hoài, buộc lòng Thầy phải dạy như vậy để cho các con nhiếp tâm được. Chớ có lúc mà sao Thầy dạy chậm nhẹ dữ vậy?
(48:04) Có người như con biết Minh Tâm đó, nó thở một cái hơi thở của nó, một hơi thở thôi mà năm phút, ghê gớm như người ta lặn dưới giếng đó. Năm phút một hơi thở, Minh Tâm mà chở Thầy đi đó, là ông đó đó, nó thở năm phút, thở chậm lắm, chậm ơi chậm chậm chậm. Cũng như là mấy cái người mà hôm đó mà chú Quang chú gì mà tu Thân Hành Niệm đó, trời ơi! Năm phút mà chú đưa cánh tay ra chít chít vầy, cả lâu, cả năm phút đồng hồ mới đưa ra được cái cánh tay, nó lâu quá chừng lâu. Con biết không? Đó là cách thức cứ mà nhìn nó đưa chậm chậm, nhít nhít cũng như con rùa bò vậy đó, nó quá độ, nó quá độ chậm, nó sai rồi mấy con. Nhưng mà điều kiện tập đó là tập để nhiếp tâm thôi. Con hiểu không? Thì con bây giờ, con nói con bị vọng tưởng hoài, thì bắt đầu con phải tập cái đó để cho nó quen cái sự tập chung của con ở trên cái đó gọi là nhiếp tâm, thì luyện tập cái này rồi, luyện tập cái hơi thở này rồi, hoặc luyện tập cánh tay chậm rồi, sau đó mình làm lại bình thường nó có sự chú ý nó quen rồi. Cái gì cũng luyện tập mới được chứ.
Tu Sinh 6: Thưa thầy! Định niệm hơi thở của con chậm chậm nhẹ nhẹ vậy là xả xong trong quá trình con tu các pháp khác vậy.
Trưởng lão: Vậy đó con! Nhất định là cái chỗ đó là cái chỗ tập nhiếp tâm mình, sau này nó sẽ không có vọng tưởng. Dần dần nó quen.
Tu Sinh 6: … (không nghe rõ)
Trưởng lão: Mai thì đi rồi. Thôi, bây giờ cứ hỏi đi, có gì thì hỏi đi, hôm nay là hết giờ. Có gì không con, có hỏi gì nữa không? Mấy mà bây giờ cỡ hỏi tới tối cũng còn chuyện hỏi nữa chứ, đâu có hết.
(49:51) Tu Sinh 7: Dạ, con kính bạch Thầy! … (không nghe rõ)
(51:46) Trưởng lão: À, không có đâu, con giải quyết chùm nhân quả của con để cho nó ổn, bởi vì nó đã nghĩ là làm cái chuyện đó rồi thì bây giờ còn một chút ít con phải bán hết. Phải không? Thì bây giờ đặng nó chuyển tiếp qua một cái một cái việc làm của nó, thì cái đó hay thôi. Đó là cái chùm nhân quả của con đi vào thiện pháp. Mình nói là mình không có uống, mình không có nghiện, mình không có hút nhưng mình bán cho người ta để người ta nghiện, người ta khổ đau thì cái phần đó nó cũng ảnh hưởng đến cái sự đau khổ của họ cũng do mình buôn bán nữa. Bởi vì mình lấy cái tiền đó rồi mình sống, nhưng mà rút cuộc rồi người ta khổ đau. Cho nên mình tránh những cái nghề đó đi, nó làm cái việc tốt mà con hay, con đã chuyển được gia đình con là tốt lắm, cũng là cái sống của kinh tế của gia đình mà, bây giờ dừng lại cái điều này là cũng ngặt nghèo lắm. Mà thà nghèo chết chứ không làm điều ác, nói vậy thì đúng.
Chết bỏ chứ không làm điều ác. Cũng như ở đây Thầy nhất định chết chớ không đầu hàng giặc sinh tử, nghĩa là thà là chết trong giới luật chứ không có chịu phạm giới mà chết đâu, người đệ tử của Thầy là vậy. Cho nên các cư sĩ đều là đệ tử của Thầy thà là thiện pháp mà chết đói cũng là thiện pháp chớ không có mà làm có tiền nhiều trong ác pháp, ăn no mà lại ở trong ác pháp nhất định là không làm. Quyết định như vậy thì chúng ta sẽ, cái xã hội này nó sẽ tốt biết bao nhiêu. Nghĩa là ra chỗ nào nó cũng không bán rượu hết thì không có người nào say. Đệ tử của Thầy không bán rượu thì cả hết một cái chợ Trảng Bàng này mà người nào cũng đệ tử của Thầy thì chắc là quán rượu dẹp hết rồi. Họ có đi xuống thành phố họ uống chứ chớ ở Trảng Bàng này không uống. Bởi vì ở Trảng Bàng này đệ tử của Thầy không cho nên đứa nào cũng không bán rượu, do đó thuốc lá rượu không có. Còn như bây giờ đâu có đệ tử Thầy hết được, cho nên họ vẫn bán vẫn sống, nhưng mà họ không nghĩ tai hại của người khác, cho nên thậm chí như thuốc phiện mà họ còn bán được chứ huống hồ mà thuốc lá, rượu mà sao họ không bán. Thầy nói thiệt ra họ biết cái sống của họ chớ họ đâu có biết cái khổ của người khác. Cho nên con về như vậy là cái duyên tốt con chuyển được gia đình của con với cháu, hay lắm!
Tu Sinh 8: Dạ, kính bạch Thầy! Cho con hỏi.
Trưởng lão: Rồi! Con hỏi đi con.
(53:51) Tu Sinh 8: Thưa Thầy con có một điều … (không nghe rõ)
(55:39) Trưởng lão: Đó là thuộc về nhân quả con. Về nhân quả của gia duyên. Để cho Thầy sẽ trả lời cho. Cái đó là vấn đề đó, khi hiểu được nhân quả, biết rõ được nhân quả của nhân quả đó, của người mẹ cản trở cho cái tình duyên này thì cái vấn đề đó là cái vấn đề hiểu rõ nhân quả rồi, thì hai đứa của tụi nó đồng vượt qua cái nhân quả, vui vẻ đừng buồn phiền, bà ta chửi thí dụ như cái nghiệp nó phải bị bà làm khó nó trong cái khoảng thời gian nào, và cố gắng bền chí thì lúc bấy giờ, Thầy nói: "Đá còn phải mòn mà" thì tất cả mọi cái nó đều ổn định là khi mình phải chịu đựng, tức là vượt qua tất cả những cái nhân quả đó thì cái nhân quả đó nó sẽ chuyển biến, chớ đừng vì cái chuyện đó mà mình thối lui thì tức là mình bị cái nhân quả chi phối rồi, hai đứa nó giờ phải chia rẽ nhau không có thể lấy nhau được vì bà mẹ vậy thì không thể nào được hoàn toàn là không chấp nhận được, thôi bây giờ ai đi đường đấy. Do như vậy là bị nhân quả chi phối, cho nên mình phải chuyển nhân quả để cho hai đứa này nó sẽ gần gũi nhau bằng cái chiến thắng với bà già đó, và chiến thắng bằng một cái chuyển nhân quả, chớ không phải chiến thắng đem cắt cổ bà ấy thì không được, hoặc là làm uy quyền với bà thì không được. Mà phải bà chửi gì thì chửi nhưng mà bà bảo ưng người nào thì không ưng. Bây giờ chắc chắn là mình phải kiên trì chấp nhận, bà chửi bà mắng, bà nói như thế nào thì nói. Bây giờ con chỉ có một đời, con chỉ thương người nào đó thì duy nhất người đó bây giờ dù mẹ có rầy thì con với người đó con không sống nhau thành vợ thành chồng, nhưng cái tình của con bây giờ con bỏ được. Đó là cái đứa con gái đó nó phải nói và cái thằng con trai này cũng đừng có vì buồn bà già đó mà luôn luôn lúc nào thấy bà cũng vui vẻ và luôn luôn lúc nào mình cũng niềm nở, mình mua bán trái cho bà ấy chứ đừng nói bà già này ác ôn quá, con hiểu không? Đó là cách đối xử rất là thiện xảo để trả cái nhân quả, bà ấy làm khó khăn chừng nào thì mình lại tìm mọi cách gần gũi bà chừng nấy. Hôm nào bà bị bệnh đau gì đó, dắt bà đi đem nhà thương làm đàng hoàng chăm sóc kỹ lưỡng thì chừng đó bà cảm hóa rồi, thì chuyển hóa nhân quả bằng cách đó. Thầy sẽ viết thơ Thầy trả lời, bởi vì nhân quả đừng có chồng lên nhân quả tức tối nữa, mà chuyển ngay từ cái lòng của mình, rồi chuyển ngay cái người bà mẹ của mình thì nó sẽ trở thành tốt. Có gì khéo léo bền chí, nói nhân quả thì phải chờ đợi phút bền chí, chờ đợi phút cuối cùng mà chuyển nó. Chớ mình đừng có đổ vỡ ngang thì coi chừng là mình bị nhân quả chi phối.
(58:10) Tu Sinh 8: Dạ, con kính bạch Thầy! Mọi người cứ bảo là thôi vào trong này … (không nghe rõ)
Trưởng lão: Đúng vậy con! Chuyện mà nhân quả mà chuyện mà chồng vợ thì nó không có sợ cái đời nay nó trả không hết đời sau nó dính mắc nữa, nó cũng khổ nữa, thôi tốt hơn đời nay trả cho xong đi. Chịu khó vượt qua những cái đợt này đi, chớ đừng có nghĩ muộn màng gì, không có muộn màng gì hết, cỡ nói chín mươi tuổi tôi cũng cưới con nhỏ đó tám mươi tuổi cũng được chớ đừng có nói. Đó là nhân quả mà, khuyên con con bền chí đi. Tình con đã đặt ngay đó rồi thì cái nhân quả đó rồi thì phải bền chí, thì bây giờ mà chín mươi tuổi nó bây giờ tám mươi tuổi cũng cưới nhau mẹ cũng vui lòng, cưới nhau rồi cái đem chôn cũng được, đó là cái bền chí của mình để chuyển nhân quả mà chứ đâu phải đâu con. phải biết nhân quả nó nghẹt nghèo lắm.
Tu Sinh 8: Con kính bạch Thầy! Con còn một việc nữa, tức là …(không nghe rõ) con không có bỏ được con nói nếu mà con bỏ nó ở nhà bán hàng thì cái công ty con làm hôm nay đã nhiều năm rồi … ( không nghe rõ) đi làm cái tâm si của con sao mà đã nhiều năm rồi. Nếu mà bỏ … (không nghe rõ) cho nên chuyện của con là thế này … (không nghe rõ) tất cả nhà cửa con mua rồi, con yêu cầu mẹ giải quyết cho con. Năm 2008 thì … (không nghe rõ) cho con …(không nghe rõ) thì sau đó con cũng xin nếu mà con tu như vậy, cái giai đoạn trước kia thì con tu nhiều lắm con tu hơi thở hoặc là đi kinh hành; con tu Thân Hành Niệm nó ít phóng dật … (không nghe rõ) chiến thắng được nó như vậy đó thì con thấy là muốn diệt cái hôn trầm, thì con phải nhiếp tâm trong Định Niệm Hơi Thở, nhiếp tâm vào cái hơi thở, con thấy là có cái vọng tưởng, xong rồi con còn đi Thân Hành Niệm đó thì con thấy con đi 30 phút đến 1 tiếng, nó chỉ có tập trung vào những cái hành động ở thân của con, thì con bạch thầy là con cũng lo lắng …(không nghe rõ)
Trưởng lão: không bây giờ theo Thầy thôi thì theo Thầy góp ý như thế này để con thấy : bây giờ cái vấn đề đó là vấn đề nhân quả rồi, thì khoan nói về vấn đề pháp đã. Bây giờ nhân quả để giải quyết cái vấn đề nhân quả này để giúp cho con của con, đây là nhân quả theo Thầy thiết nghĩ mặt dù tuổi con cũng không còn bao lâu. nhưng mà nó cái nhân quả rồi thì phải trả nhân quả cho xong, chứ không thể nào mà nói dứt khoát để cho mình lo tu. còn về cái phần tu đó thì hiện giờ con tu thì được, con về con làm thì con tu thì được, nó bởi vì cái thời gian của con bận làm con tu con nhiếp tâm nó chín chắn lắm. Bởi vì còn cái kia lúc mà con tu mà nó không được chín chắn lắm là tại vì con dồn hết công phu toàn công phu không, cho nên nói sao nó có vọng tưởng nhiều. Còn bây giờ con tu kiểu đây nó đâu có giống, nó thừa cái sức của con rồi, con hiểu không? còn cái kia cái sức của con nó không có đủ, cho nên nó không có đủ mà nhiếp tâm đó, cho nên nó hay có vọng chứ sự thật ra con tu mà con tu liên tục, con tu suốt ngày như vậy đó, nó có cái thời gian mà tu vậy đó thì coi như là cái sức của con nó phải bằng với cái sức mà con tu mà trong khi mà con làm công việc, con hiểu không? Còn cái này cái sức con tu đó, cái sức con tu liên tục đó, nó cái sức của con nó không đủ nhưng mà bởi vì con nghĩ con làm công việc rồi con tu đó thành ra nó nhiếp tâm được, là cái sức con nó thừa trong cái thời gian mà con tu đó, con hiểu không? Do bây giờ về cái vấn đề nhân quả thì con phải trả cái nhân quả, con cứ vui vẻ làm và đồng thời tu chứ không phải là. Bởi vậy Thầy nói như vợ Minh Tâm đó vừa làm vừa tu mà, dù 1 phút cũng tu mà đó, không bỏ, nhưng mà mình phải chuyển nhân quả của mình, cho nên con giúp mấy cháu đi không có sao đâu, rồi sau khi giúp xong rồi đó thì mới xin đứng vào vị trí mới bắt đầu tu. Bởi vì con tu liên tục mà trong Tu viện mà con thấy con nhiếp tâm không được đó, nó có vọng tưởng ra vô đó chứ không phải là nhiếp tâm không được, nhưng mà nó còn có một phần vọng ra vô, thì cái điều đó không sao hết, mà mình xét lại coi cái pháp nào mà mình đã quá sức nhiều mà cái năng lượng chưa sinh ra, thì mình giảm cái pháp đó bớt đi thì mình tu sẽ tốt chứ không có gì hết, thì nó sẽ tốt. Nhưng bây giờ thì phải lo giải quyết cái nhân quả cái đã, đã cái chiến trường nó đã hiện ra như vậy rồi thì không có từ chối được, để giúp con mình để làm xong cái nợ, nhân quả mình đã nợ nó chưa dứt hết, nó mới còn đó nó mới nảy sinh ra, con hiểu không?
(1:03:25) Tu Sinh 8: con cũng xin hứa với Thầy là con cũng rất ngưỡng mộ … (không nghe rõ 1:03:45)
Trưởng lão: Được rồi
Tu Sinh 8: … (không nghe rõ) ngưỡng mộ.
Trưởng lão: Không có sao con cứ lo hiện tại đi, còn ngày mai để ngày mai trả lời không có lo cái chuyện xa xôi đó nữa, cứ lo chuyện hiện tại thôi.
(1:04:07) Tu sinh: Con kính bạch thầy! Trong trường hợp … (không nghe rõ) con đạt được mục đích, trong thời gian tu tập được ngắn nhất.
(1:04:20) Trưởng lão: À, trong thời gian tu tập này con chỉ còn có dùng pháp này để đối trị cái bệnh thôi con, chứ còn không có đọc kinh sách gì hết; lúc này lúc bệnh rồi mà còn đọc kinh sách để làm gì. Mạnh hãy đọc, giờ đau ốm thì không có đọc nữa, coi như đương nhiên là con chỉ lo ôm pháp mà đối trị được cái bệnh. Chừng nào hết bệnh đã. Cũng như cái gánh nặng mà mình để xuống rồi, thì bây giờ đọc sách nó mới ra, còn bây giờ mà con đọc sách thêm thì coi như cái gánh nặng nó chưa có bỏ xuống được. Con đang ở trong cái thế bệnh con; phải nỗ lực đối trị cái bệnh đó, ôm chặt pháp để mà nhắm vào cái đối tượng đó, cũng như một người đi đánh chiến trận mà đem theo tiểu thuyết đọc thì chắc chắn là không đọc đâu, khi súng nổ rồi thì không còn đọc nỗi đâu, chỉ còn có nước là bắn nhau thôi chứ còn con bây giờ là chiến trận nó đang mở để đánh con từng giờ, từng phút. cho nên vì vậy mà con không thể nào mà đọc sách được, con bây giờ đừng đọc gì hết, coi như là đừng đọc gì hết. Thay vì bây giờ Thầy sẽ trao cho con cuốn sách để đọc, nhưng mà đọc để làm gì đây. Mình đang là trong cái mặt trận sanh tử nó đang đánh con quá ngặt nghèo, phải diệt cái bệnh thừa hơi của con cho thật sạch. Con như cái bình gas vậy, hễ lúc lắc cái nó lên hơi, cho nên phải diệt cho sạch hết cái bình này đi thì như vậy mới được, thì cứ ôm pháp mà tu thôi. Chừng nào mày hết bệnh thì chừng đó tao sẽ đọc kinh sách còn bây giờ chưa hết bệnh là chưa đọc. Thậm chí như bộ Giới Luật mà Thầy viết rồi mà nhất định tao cũng không đọc, tao trì độn công phu. Như ông Châu Lợi Bàn Đặc: “Tao ngu quá tao học không thuộc, thôi tao không thèm đọc nữa. Bây giờ tao chỉ quét đầu mày cho sạch thôi”. Còn con thì quét bệnh cho hết. Như bây giờ Thanh Quang đó, nó đối trị được bệnh nó thì bắt đầu bây giờ nó còn đọc sách được, chứ còn con thì đọc sách không được.
(1:06:05) Tu sinh: Kính bạch Thầy! trong trường hợp của con tu tập pháp Thân Hành Niệm, thì có thể con đi suốt hai tiếng đồng hồ, trong đó có vọng niệm khởi lên, thì con thấy đi suốt hai tiếng đồng hồ, để ngăn chặn cái cơn đau … (không nghe rõ)
Trưởng lão: Không, bây giờ trong khi con cái cơn đau của con nó như vậy đó, mà nó còn niệm chứ phải chi nó không niệm thì khoảng hai tiếng đồng hồ thì bệnh con nó cũng đã hết rồi, thấy không? Bây giờ đó con thấy khoảng thời gian ba mươi phút mà con có niệm không? Ba mươi phút đó, rồi từ đó mới tăng dần lên một giờ. Bây giờ chuẩn bị mặt trận này đánh là kỹ lưỡng lắm đó con, chứ không phải! Đánh mặc trận này là phải nhiếp tâm cho được trong thân hành, rồi nhiếp phục cho được, rồi an trú cho được trong thân hành này, trong cái pháp thân hành này rồi mới đánh bệnh. Tức là tăng giờ lên liền tức khắc đánh, còn bây giờ mà mình nhiếp tâm chưa được, mà an trú chưa được mà đánh giặc thì khó mà thắng nó lắm, mình đánh nó vậy chứ nó hao quân mình nhiều. Cho nên vì vậy mà bây giờ con thử bây giờ ba mươi phút tu tập kỹ trong pháp Thân Hành Niệm, hoàn toàn thấy không niệm tạp, một vài bữa thấy nó không niệm nữa tăng lên một giờ, tăng lên một giờ được rồi không niệm nữa tăng lên một giờ rưỡi. Mặt trận của mình vừa tập mà vừa đánh chứ không phải là đang đánh giặc đâu; đang đánh giặc mà súng của con là loại súng cây thì chắc bắn không ai chết đâu; súng phải súng đồng đại bác chứ còn súng cây đó thì bắn thứ gì. Người ta đánh xì hơi thì con chết luôn với nó, không được! Cho nên mình phải tập cho kỹ, tập cho rất kỹ cái pháp Thân Hành Niệm lại. Thứ nhất cái pháp Thân Hành Niệm nó sẽ cán nát cái bệnh của con đó; con tập kỹ lại nó cho ba mươi phút xem coi: bây giờ buổi tối, buổi khuya, buổi sáng, buổi chiều, bốn cái thời công phu mỗi buổi vậy đó tu ba mươi phút, xem coi ba mươi phút mình có đạt được cái chất lượng không.
Rồi bây giờ con thay đổi, thí dụ như ba mươi phút này con tu một giờ đồng hồ Thân Hành Niệm, tu cái pháp kia nhiều hơn chút. Con tới một giờ rồi, bắt đầu con tu lại cái pháp Thân Hành Niệm, rồi thay đổi cái Tứ Niệm Xứ. Cứ như vậy mà con tu tập, cứ ba mươi phút của pháp Thân Hành Niệm để xem coi nó có niệm không. Nếu ba mươi phút mà không niệm thì con sẽ tăng lên; mà tăng lên đó là mặt trận con vững vàng với cái khẩu súng của con rồi đó, nghĩa là ba mươi phút là vững vàng với khẩu súng rồi đó, nó nổ là chết người ta đó, chứ không phải! Mà nếu mà ba mươi phút mà còn niệm đó, còn niệm xen vô là nó nổ trật đó, nó bắn trật, nó nhắm không đúng đó. Cao xạ mà bắn máy bay bay bên nay, mà bắn bên này thì không trúng, uổng đạn!
Nó phải hoàn toàn, nó phải chính xác, nghĩa là không có niệm khởi trong đó, kiên cố như cỗ xe mà, con nhớ kỹ cái câu của phật dạy mà, đâu phải thường đâu. Cho nên vì vậy mà phải tập cho kỹ, Thầy nói ba mươi phút mà tập rất kỹ rồi bắt đầu đó mới tăng lên, tăng lên như căn cứ địa rồi đó; bắt đầu mới mở mặt trận đánh với chúng đó. Bây giờ cái bệnh tui, tui thấy tui đánh được rồi, bây giờ con như sĩ quan mới tập trong trường chưa dám vác súng bắn bậy bạ đâu, phải cho thiện xảo, bắn cho thiệt chính xác đường hoàng rồi thì lúc bây giờ mới tăng giờ lên mà đánh nó.
(1:09:30) Tu sinh: Mô Phật! cho con hỏi cái thời gian tu và nghỉ nó tương đương hay sao?
Trưởng lão: Đúng rồi tương đương đó con, hễ mình tu một giờ thì mình nghỉ, ba mươi phút thì nghỉ ba mươi phút mà một giờ thì nghỉ một giờ, nó tương đương với nhau.
(1:09:46) Tu sinh: Mô Phật, kính bạch Thầy! Con xin được thưa một chuyện nữa ạ! Cái cụm từ “nhiếp tâm và an trú tâm” thì thường hằng ngày mọi người đều nhắc tới. Thế thì các thầy đã rành rất nhiều rồi; thế nhưng hiểu về nó đó thì con thấy như là hình như ở mức độ mỗi người mỗi khác nhau. Nói chung là có một điều gì đó nó hơi mơ màng, cứ tưởng như mình hiểu rồi nhưng thật sự có khi là vẫn chưa hiểu. Có những lúc có khi chưa an trú tâm được mà tưởng là mình an trú tâm rồi; có khi nó ở cái trạng thái không có niệm nữa, nó sắp sửa vào hôn trầm, vậy mà tưởng đó là mình đã bắt đầu an trú.
Thế thì bạch Thầy! Hôm nay một lần nữa xin Thầy, Thầy chỉ rõ nó ra ở cái chỗ định nghĩa của nó đó, để cho thấu rõ cái đặc trưng của cái Nhiếp tâm, của cái An trú tâm; cái đặc điểm của nó, rồi cái trạng thái của nó xảy ra . Khi nó xảy ra thì nó sẽ như thế nào để chúng con chịu khó ghi âm ở đây, bạch Thầy! Thầy chịu khó dạy thêm cái điều này nữa để cho nó rõ ra, con chắc là trong đó nó thiết thực cái đường này 1:10:58.
(1:10:58) Trưởng lão: Cái Nhiếp tâm là cái tâm mình được nhiếp phục vào cái thân hành gọi là nhiếp tâm. Bây giờ cái hơi thở hoặc là cái hành động thân của mình đưa tay ra hay đưa tay vô, hay co tay đưa tới, cái hành động đưa tới đưa lui gọi là cái niệm, cái Thân Hành Niệm. Còn cái nhiếp tâm là tâm mình đặt vào cái chỗ thân hành, cho nên bây giờ Thầy chú ý Thầy tập trung rất kỹ ở trong cái tay của Thầy đưa ra mà Thầy biết nó đưa ra như thế này, kỹ lưỡng, luôn luôn chú ý rất là kỹ trong cái cánh tay Thầy đưa ra thì đó gọi là Nhiếp Tâm.
Còn mình đưa ra lấy có vậy nè: "tôi đưa tay ra tôi biết tôi đưa tay ra" rồi đưa ra; "tôi đưa tay vô tôi biết tôi đưa tay vô" tôi đưa vô, tôi đưa tôi cũng biết, nhưng biết với một cách nó không có nhiệt tâm. Cái đó là không có được gọi là nhiếp tâm, mà tập có cầm chừng chứ không phải nhiếp tâm.
Nhiếp tâm là nhiếp phục cái tâm mình trong cái thân hành của nó, đem cái tâm này đặt trọn trong này mà đức phật gọi là nhiệt tâm; nhiệt tâm là hết sức nhiệt huyết với cái hành động của mình, đó là Nhiếp Tâm.
Thật sự ra mấy con tu nhiều nhưng mà mấy con không có nhiệt tâm, tức là không có quyết chú ý cái hành động đó. Cho nên Thầy nói tu tập kỹ, Thầy dùng cái danh từ tu tập kỹ từng cái thân hành. Cho nên Thầy nói Thầy không có tu tập nhiều, Thầy cần chỉ tu tập một hơi thở mà thôi, mà tu tập cho kỹ.
Thầy nói Thầy không cần tu tập nhiều ở cái thân hành; mà chỉ cần đưa cánh tay ra như thế này nè! một lần thôi mà đưa cho kỹ hẳn hoài. Nhưng mà mấy con đưa ra như thế này, mấy con biết mấy con tưởng là đủ rồi, nhưng mà nó chưa có nhiệt tâm, thấy không?
Nhiếp cái nhiếp của nó đó, nhiếp phục là nhiệt tâm hết sức vô trong đó. như vậy mấy con tu mà vọng tưởng đồ đó là Thầy biết là mấy con tu chơi, tu cái kiểu là tu lấy có, mà mấy con cứ nghĩ là tui cũng ráng tui tu. nhưng mà sự thật là không phải! cái ráng của mấy con không phải cái ráng kiểu đó đâu; mấy con ráng cho nhiều chứ ở đó ráng! Thầy nói ráng một cái hành động của Thầy thôi, Thầy đưa ra như vầy mà Thầy ráng sức của Thầy tập trung ở trong này đó gọi là nhiếp tâm, hay gọi là nhiệt tâm trên thân hành của Thầy, các con hiểu chưa? Cho nên Thanh Quang hỏi đó là để cho chúng ta biết cách nhiếp tâm, cho nên người mà nhiếp tâm kỹ đó mà đúng là không bao giờ có một niệm nào xen vô được hết; mà cái pháp Thân Hành Niệm nó truyền lệnh, rồi nó bước đi mà mấy con còn để vọng tưởng vô thì Thầy chẳng biết mấy con tu làm sao Thầy không biết nữa. Phải nhiệt tâm! Tu một lát một hơi coi bộ mỏi mệt rồi cái thả lỏng tu lấy có; rồi cũng tác ý: "bước, dỡ gót lên, dỡ chân lên”, làm tùm lum nhưng mà cái tâm nó ở đâu, nó ở ngoài chợ chứ nó không ở đây nữa, thì do đó làm sao nhiệt tâm. Cho nên thật sự ra mấy con con tu mà Thầy nói thà là không tu, mà tu là thật sự tu đó gọi là nhiếp tâm.
(1:13:40) Rồi bây giờ bắt đầu An Trú đây. Mấy con nghe kỹ cái An Trú nè! Bây giờ nhắc an trú, nhiếp tâm được rồi là không vọng tưởng rồi, tức là không đưa tay ra, không thở thôi chứ thở ra rất kỹ rồi, đó đó là nhiếp rồi đó. Bây giờ những cái kỹ lưỡng từng cái hơi thở, nhiệt tâm từng hơi thở, từng hành động của chúng ta kỹ rồi, không bao giờ có vọng tưởng. Biết rồi, mình tu không có vọng tưởng rồi. Bây giờ mới nhắc: "an tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”, thì bắt đầu lúc bây giờ đó chúng ta đã quen cái sự tập trung ở trong cái thân hành này rồi, mà khi mà thân hành đưa cánh tay ra hoặc hơi thở ra đó, chúng ta nghe nhắc nó an tịnh đó thì chúng ta vừa thấy cái thân hành của chúng ta, mà cả cái toàn thân của chúng ta nó đều có cái cảm giác như có sự an ổn rất lớn, yên ổn, không có nghe ngứa ngáy động đậy chỗ này, chỗ nọ, tê cứng chỗ kia gì hết, hoàn toàn một cái thân là an lạc vô cùng, không có gì hết.
Mà bây giờ nó còn cái chỗ này ngứa ngứa, chỗ này mỏi mỏi, cái chỗ này rác rác, chỗ này đau đau thì như vậy chưa được, nó còn cái chỗ này nghe ngồi sao mà hai cái chân nó tê tê thì không có được, cái đó là chưa an tịnh đâu. Cho nên siêng nhắc nó mà phải an, không an thì không được, mà nhắc một hơi đó thì nương vào cái nhiếp tâm của chúng ta ở trong cái đó. Bắt đầu nó nhắc rồi, cái bắt đầu nó thực hiện thì an ổn, an ổn ngồi không biết mệt, không biết đau. Còn thầy ngồi một hồi cái thấy nó đau cái chân tôi quá! Cái đó có an trú được không? An trú cái kiểu gì mà an trú trong cái đau, cái tê chân rồi? Thầy nói an trú mà mấy con bây giờ, cái sức của mấy con ngồi có nửa tiếng à; nó mà an trú rồi, mấy con ngồi một giờ mấy con chưa có đau, chưa có gì hết. Thật sự bởi vì mấy con tu trật, tu sai cho nên nó không an trú được, cho nên nó cứ thấy đau thấy tê à, còn tu kỹ, tu thiệt kỹ thì không bao giờ thấy đau, thấy tê. Bởi vì ngay từ cái lúc đầu đó tu tập cho kỹ lưỡng, tu ít tu kỹ rồi mấy con mới thấy cái kết quả nó vĩ đại vô cùng đó. Cho nên cái pháp hơi thở nó hay lắm, nó hay rất là nó hay: "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra", nhưng mà trước khi an tịnh các con biết không, "cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra", nó tập cho chúng ta có cái quan sát của khi mà hít vô, toàn bộ cái thân của chúng ta nó tràn trề cái hơi thở; nó tràn trề cái sự rung động của nó, rung động toàn bộ ở trong thân chúng ta. Để làm gì? Để cho sự an ổn từ trên đầu này nó an ổn xuống. Cái hơi thở hít vô là một cái an lạc vô cùng lận, như vậy gọi là An Trú. Chứ không phải là mình trú không có vọng tưởng là mình nói an trú, mới có nhiếp tâm được hô an trú, an trú gì mình chưa mà nói an trú. Còn bây giờ nhiếp tâm vô được cái bắt đầu nghe sao cái thân mình nghe nó thỏa mái nó dễ chịu quá; chu cha bữa nay tu ngon quá! Không vọng tưởng mà nghe nó an, nó hỷ lạc quá hay là nó an trú như vậy quá, nó khinh an như vậy cái mấy con cho nó là!
Ba cái tưởng nó hiện ra chứ cái gì!? Mấy con có an tịnh chưa bao giờ nó hiện ra; mấy con có nhắc nó bao giờ chưa? Còn bây giờ mấy con nhắc mà nó không vô, như vậy là mấy con sai.
Mình nhiếp tâm được rồi, không vọng tưởng mình thấy rồi thì bắt đầu mình mới tạo cho nó cảm giác toàn thân của mình được rồi, biết cái thân của mình mỗi khi hít vô là mình nghe hơi thở ở khắp cùng ở trong cái cơ thể của mình, tràn trề sự rung động của nó, toàn bộ là hơi thở. Rồi bắt đầu bây giờ nó mới an trú: hít vô một cái thì nghe từng cái thớ thịt nó an ổn, nghe nó mát mẻ, nghe nó.. trời nóng nực cũng không nghe nóng nực nữa. Như vậy mới gọi là An Trú. Cho nên Thầy nói mình nhắc an trú là cái bệnh không có bệnh nữa; còn mấy con phải một thời gian chịu đựng rồi nó mới hết bệnh. Đó cho nên tu kỹ mấy con thấy nó nhanh. Cho nên đức phật nói có bảy ngày, phải không? mà bây giờ mình làm bảy năm mà chưa rồi thì như vậy là mình tu không kỹ, cho nên Thanh Quang hỏi Thầy nhiếp tâm và an trú tâm rất cần thiết mấy con. Bởi vì mình không tu pháp thôi chứ tu cái pháp là phải nhiếp tâm cho được và an trú tâm cho được, hai cái vấn đề quan trọng. Nó quan trọng ở chỗ tu (đó là hai vấn đề này quan trọng) cho nên đức phật mới chia chẻ nó ra, cái phần mà nhiếp tâm có mấy phần.
Phần thứ nhất là: "hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”.
Phần thứ hai hơi thở dài.
Phần thứ ba hơi thở ngắn.
Phần thứ tư cảm giác toàn thân
Phần thứ năm nó mới tới an tịnh lận.
Nhưng mà hơi thở dài, hơi thở ngắn thì gồm nó lại một phần mà thôi, một đề mục mà thôi. Bởi vì nếu mình hơi thở dài thì mình bỏ hơi thở ngắn, mà mình hơi thở ngắn thì mình bỏ hơi thở dài, thì nó còn có một đề mục. Nhưng trong khi đó đức phật lại dạy kỹ cho chúng ta biết là cái hơi thở dài để rồi tập tới cái hơi thở ngắn, nhưng mà hai cái này mình tập rồi thì mình bỏ một cái chứ mình đâu có lấy cho nên mình tính nó thứ ba mà thôi (ý Thầy muốn nói thứ 2?). Cái cảm giác là thứ tư (ý Thầy là thứ 3?); cái an tịnh thân hành là thứ tư, con thấy chưa? đức Phật dạy mình đi từng bước, từng bước, từng bước chứ đâu phải!
(1:18:25) Cho nên Thầy nói cái lớp dạy mấy con tu tập về cái Chánh Niệm, về cái Thân Hành Niệm của mình đó, tức là cái Chánh Niệm, cái Tứ Niệm Xứ đó: bắt đầu mà dạy về Định Niệm Hơi Thở là nó nằm ở trong cái Chánh Niệm rồi. Cho nên cái niệm hơi thở người ta dạy cho mấy con mà trong cái lớp Chánh Niệm mấy con ôm, là Thầy dạy kỹ lưỡng đàng hoàng, không có người nào mà không nhiếp được tâm, không có người nào mà không an trú được tâm.
Cách thức đào luyện người ta vô bắt buộc người ta bắt buộc cái người đó phải ngồi thở như thế nào, như thế nào, người ta kỹ tra hết, không có chạy đâu khỏi hết, thở trật là khỏ đầu cái bốp, thở tầm bậy. Như vậy nó mới sửa lại được, chứ còn để mà mấy con thở như bây giờ đó là mấy con thở trật hết à. Bây giờ tám cái người học trò Thầy dạy về hơi thở, bắt ngồi thở, bây giờ thở nè! Bây giờ đó "hít vô tôi biết tôi hít vô" rồi tập trung như vậy như vậy rồi, bắt đầu Thầy kiểm tra từng đứa phải thở như thế nào, thế nào xong rồi, bây giờ được hãy tập, tập như vậy đó bây giờ tập năm hơi thở nè, năm hơi thở mà Thầy thấy tập thời gian một giờ đồng hồ được rồi Thầy cho xả nghỉ. Nghỉ rồi tới giờ Thầy đánh kiểng vô tập lần nữa. Trong một buổi vậy tập bao nhiêu lần, Thầy dạy cho tập, tập đúng rồi thì bắt đầu qua ngày khác sẽ luyện tập tới cái gì nữa. Nghĩa là được rồi, cái đó rồi mới tăng lên năm hơi thở, rồi mới tăng lên mười hơi thở rồi lần lượt hai mươi hơi thở, rồi ba mươi hơi thở rồi tới nửa tiếng đồng hồ, một giờ đồng hồ nhiếp cho được. Tới ba mươi phút là nhiếp được rồi Thầy chuyển qua cái đề tài khác liền. Trong cái lớp người ta dạy về cái Chánh Niệm để mình Chánh Niệm mà nhiếp tâm đó là người ta huấn luyện kỹ lưỡng chứ người ta không để mấy con tu ầm tu ì như thế này. Bây giờ Thầy làm sao có thì giờ mà theo dõi từng đứa mà hướng dẫn . Cho nên một cái lớp Thầy chỉ nhận tám người học sinh hay hoặc là mười người học sinh thôi. Tới giờ đó đi vào trong cái phòng này là của tám học viên này, thì bắt đầu ngồi thiền cách ra hết, rồi tách ra bên nay bốn, bên nay bốn nè. Rồi bắt đầu Thầy kiểm tra cho bốn cái người này rồi, dạy bốn người này rồi, qua kiểm tra bốn người này rồi được thì bây giờ tu tập cho đúng Thầy ở ngoài kia mà ngó ngó mà cười là chết đó; mà nói chuyện là bị liền đó. Khi mà Thầy huấn luyện như vậy rồi đó, thì Thầy nói học viên của Thầy đào tạo như vậy rồi sau khi họ ra là họ nhiếp tâm và an trú tâm rất dễ dàng. Còn bây giờ thả lỏng cho mấy con tu thì thiệt ra như là bỏ bèo mà trôi sông vậy, nó trôi, nó tấp đâu được nó tấp chứ không có đúng cái cách mà giáo dục đào tạo theo cái chương trình của đạo Phật, cho nên nó không có chắc. Mà, bây giờ làm sao Thầy có cái chương trình được như vậy nữa đâu, chỉ còn có nói chung chung vậy thôi, để rồi lo soạn thảo những cái điều kiện cần thiết.
(1:21:01) Cho nên muốn thành một cái lớp học vậy đó, bộ giáo dục nó chuẩn bị cho một cái giáo trình như thế nào nó mới dạy được chứ không phải! Rồi ông Thầy giáo đó cũng phải đào luyện nữa, một ông giáo viên đó phải nằm cái lớp đó nó phải biết cách thức rành rẽ để mà nó dạy chứ không phải là đem cái ông nông dân mà vô lấy sách dạy được, hay hoặc là cái ông giám đốc của cơ quan xí nghiệp nào đó vô đó dạy cái lớp đó được sao, đâu có được. Phải đào luyện cái ông đó ở trong cái chương trình đó, họ mới biết rành cách thức đó để mà họ huấn luyện, họ đào tạo cái người học sinh ra. Đâu phải cái chuyện mà nói đùa, nói chơi được đâu, cái chuyện Phật Pháp là cái chuyện giáo dục đào tạo nó rõ ràng chứ, cho nên Thầy nói nếu đưa ra cái chương trình Giáo Dục Nhiếp Tâm và An Trú Tâm trong Chánh Niệm trong cái lớp Chánh Niệm rồi, Thầy nói không có đứa nào sót đâu, dạy đứa nào cũng đạt hết. Thầy nói tám người chứng quả A La Hán là tám người chứ không có rớt người nào hết, trừ ra cái đứa nào đó mà tu không nổi là đuổi ra liền, chứ tu như vậy không được là đuổi ra à, chứ không có chấp nhận. Người ta kiểm tra như vậy.
Còn bây giờ mấy con tu không được cũng thôi kệ nó, chứ bây giờ không biết làm sao hết. Cho nên cái số người mà người ta chọn vô cái lớp đó các con biết không, người ta ký tên vô lớp là tám người là tám người rồi người ta đào luyện. Sau tám người trở thành tám vị A La Hán mấy con thấy không? Đó là cái chương trình giáo dục đào tạo mà.
Còn bây giờ mấy cái lớp học người ta học chương trình giáo dục như vậy lớp học nó thi đậu mấy đứa? Nó không kỹ đâu, giáo viên nó không kỹ đâu. Cái lớp của Thầy tám người vô đó mà nếu mà ngay từ cái giờ đầu mà Thầy đã dạy rồi, thì học được thì ngay cái giờ đầu Thầy đã chọn lấy, không được là đuổi ra hết, đó vậy đó. Đâu có phải để cái công chúng ta đào tạo mà cuối cùng lại không được, không được. Bởi vì chúng ta phải đào tạo, phải nói là đào tạo cái người mà được đào tạo là cái người đó phải theo cái kỷ luật của người ta; phải chấp nhận cái kỷ luật hẳn hoài đàng hoàng, người ta đào tạo cho trở thành con người đó. Bởi vậy Thầy nói thí dụ như chương trình giáo dục của Nhà nước, chương trình đó mà nếu mà đào tạo cho ông đó thành Tiến sỹ đi. Mà cái lớp đó tám người thì đào tạo ra tám ông Tiến sỹ. Nếu mà thằng nào mà học dốt là đuổi ra liền chứ đâu có ai cho, phải không? đâu có ngu ngơ quá nó học không nổi mà mở ra cho nó học mất công mình dạy chứ gì!? Để chi cả lớp như vậy mà cuối cùng có ra gì. Đó cách thức đào tạo như vậy đó.
(1:23:17) Chẳng hạn bây giờ mấy con vô đây bắt đầu thở hai hơi mà Thầy thấy không được là mấy người đi ra ngoài kia đi chứ không có ở đây học, người nào được thì ở đây, người nào thở coi bộ không được thì đi ra, cái lớp này không chịu cho cái người thở như vậy được, con hiểu không? mấy con thấy không? thà là cái người nào người ta học được thì được, người nào không được thì cho người ta biết người ta cũng không có mất cái công của người ta nữa, để cuối cùng cả một năm học của người ta mà rút cuộc người ta không nhận ra được cái gì hết, người ta không kết quả gì tội cho người ta chứ. Thà là người ta đi làm cái nghề nghiệp khác người ta sống, không ấy người ta đi làm nông dân người ta cuốc đất người ta còn sướng hơn chứ ở đây học mà cuối cùng cực khổ không được ra gì hết. Bởi vì Thầy biết cái chương trình giáo dục của Phật giáo là nó thực tế lắm mấy con, nhưng mà có cái điều kiện là một mình Thầy làm không được. Rồi mấy con thôi bây giờ nghỉ mấy con.
(1:24:06) Tu sinh: Chỗ Thầy giảng nhiếp tâm đó con không hiểu thế nào cho đúng, khi mà nhiếp tâm mà nó đúng được yêu cầu là khi đó cái tâm và hơi thở của mình nó trở thành một phải không?
Trưởng lão: Phải rồi, nó phải nhập một đó con. Bởi vì nhiếp tâm mà, nhiếp tâm là cái thân hành lúc đó là cái tâm của mình rồi đó, chứ không có còn sao, đó phải hiểu như vậy. Cho nên chú ý kỹ quá mà cái tâm nó thành cái hành động rồi, con hiểu không? nó chuyển rồi.
Tu sinh: Con thấy nó nhập lại một luôn.
Trưởng lão: Nó nhập lại đó, đó gọi là nhiếp tâm cho nên nó đâu có niệm khởi khác vô được. Các con không nhập một nên nó còn hai nên nó mới xen vô được.
Tu sinh: Con kính bạch Thầy! Con còn non kém lắm … (không nghe rõ) con có sức để tu hơi thở thì một tiếng xong thì cứ thế là con tu "thanh thản, an lạc và vô sự".
Trưởng lão: Đúng rồi.
Tu sinh: Con tu nửa tiếng hay là bạch Thầy! con tu một tiếng ạ.
Trưởng lão: Cái “thanh thản - an lạc - vô sự” đó thì con tu nửa tiếng đi còn về cái hơi thở thì con tu một hơi thở thôi, rồi lần lượt con sẽ tăng dần lên hai hơi thở rồi tới năm hơi thở, thì con sẽ nhiếp tâm không vọng tưởng nữa.
Tu sinh: Con tu thì là cái Vô Lậu thì như thế nào?
Trưởng lão: Nói chung là cái vấn đề Vô Lậu đó thì con giữ tâm thanh thản của con, rồi con tác ý con đuổi chứ con không có quán Vô Lậu như cái Định Vô Lậu nữa.
KẾT THÚC
THỌ BÁT QUAN TRAI 01 - GIỮ TÂM THANH THẢN CHẤM DỨT TÁI SANH
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian: 03/09/2009
Thời lượng: [01:28:11]
(00:00) Trưởng lão: Bây giờ tôi cứ ôm một cái pháp đó, tôi tu cho tăng trưởng, thì tôi được cái gì? Tôi ở trong sức tỉnh này nó được cái gì? Nó đâu có được gì đâu!
Mà trái lại tôi tu tập như vậy để tôi đối trị được ác pháp, tôi xả được cái ác pháp đó. Những ác pháp đó nó nằm ở trong bốn cái khổ của kiếp người: Sinh, già, bệnh, chết, có phải không?
Mà tôi tu tập những pháp này, để làm cho những ác pháp này không còn tác động trên thân, tâm tôi nữa. Mà tôi gọi là giải thoát, gọi là làm chủ. Mà bây giờ tôi có đủ những pháp này, tôi đẩy lùi những chướng ngại này rồi thì tôi là giải thoát chứ có gì đâu! Phải không? Tôi có cách thức, tôi làm mới được, cho nên tôi là giải thoát. Cách thức tu như vậy, chứ đâu có gì đâu mà khó khăn đâu!
Cho nên chỉ cần siêng năng, chuyên cần mà tu tập được. Và mình tu như vậy là đúng như lời Phật dạy: "Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành". Có phải không?
Và đồng thời Tứ Chánh Cần thì đức Phật nói: "Ngăn ác diệt ác, sinh thiện tăng trưởng thiện".
Thì như vậy rõ ràng là mình đã tu tập được những cái này thì bây giờ mình mới đẩy lùi được chướng ngại trên: Thân, Thọ, Tâm, Pháp thì tức là Chánh Niệm. Mà chánh Niệm hoàn chỉnh được thì nó có bảy cái năng lực của giác chi. Từ đó chúng ta mới dùng bảy năng lực này mà chúng ta nhập các định. Cho nên, chúng ta nhập tới Tứ Thiền, chúng ta tịnh chỉ hơi thở, chúng ta làm chủ được sống chết.
Cho nên chúng ta thực hiện Túc Mạng Minh, Lậu Tận Minh. Lậu Tận Minh là lậu hoặc nó không còn nữa, cái mầm tái sinh nó không còn nữa. Cho nên, khi chúng ta thực hiện Lậu Tận Minh. Trong Tam Minh thì có Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh và Lậu Tận Minh. Lậu Tận Minh là cái Minh cuối cùng, cho nên khi đó mà chúng ta dùng năng lực của Trạch Pháp Giác Chi. Chúng ta dẫn tâm của chúng ta vào Lậu Tận Minh, thì chúng ta quán xét, chúng ta thấy tất cả lậu hoặc đều hóa giải hết rồi, nó không còn. Tức là chúng ta biết rõ rằng mình không còn tái sinh luân hồi. Tức là cái mầm tái sinh nó đã hết, tức là đám mây nghiệp của các con nó đã hoá giải hết không còn một chút xíu nào. Tức là không còn tái sinh, mà chính mình đã nhìn thấy thật sự bằng cái Minh đó, chứ không phải như Thầy nói mà các con không thấy.
(02:07) Còn cái này chính bản thân các con tu đến đây, các con nhìn thấy cái đám mây của các con bây giờ nó không có nữa. Cũng như tại sao mà Thầy nhìn các con, Thầy thấy đám mây đen bao vây quanh mà các con lại không thấy các con, phải không?
Còn Thầy lại thấy, cái đám mây đen của Thầy cũng không còn nữa. Tức là Lậu Tận Minh, dùng cái Lậu Tận Minh đó mà thấy đám mây đen - cái nghiệp của mình nó không còn nữa, tan biến hết rồi, nó để lại một lớp gọi là cái lớp không Tham, Sân, Si. Một cái ánh sáng tươi, nó hoàn toàn.
Còn bây giờ mấy con có thấy Thầy có ánh sáng đó đâu, phải không? Nhưng mà Thầy nhìn mình thấy Thầy hoàn toàn không còn cái lớp nghiệp. Mà toàn là trong sáng, toàn là sạch sẽ, cái lớp bao vây Thầy là cái lớp từ trường thiện không còn chút nào tham, sân, si trong đó, tức là dùng cái đó mới thấy được. Mới thấy được, mới biết là mình chấm dứt tái sinh luân hồi, gọi là Lậu Tận Minh.
Cái tên Lậu Tận Minh là chỉ cho chúng ta nhận xét được nghiệp chúng ta hết rồi. Mà chính mình, mình thấy. Còn bây giờ mấy con đâu có thấy Thầy, bây giờ mấy con cũng không thấy của mấy con nữa. Chính cả, cái đám mây đen nghiệp thì mấy con thấy nó Sân, nó tham, nó muốn này kia vậy thôi. Nó hiện cái tướng mấy con thấy, chứ mấy con đâu thấy nó bao vây mấy con đâu. Nhưng mà Thầy lại thấy nó đang vây quanh mấy con, các con đi đâu nó theo đó, nghĩa là các con đi đâu cái đám mây đó nó theo con, nó không có bao giờ nó rời.
(03:34) Cho nên, các con thấy cái bài “Kinh Pháp Cú”, nếu tâm của mình làm điều ác thì nó như bánh xe theo chân con vật. Mà tâm mình làm thiện thì nó theo mình như hình với bóng, có đúng không? Các con đi đâu nó theo đó, cái lớp nghiệp của các con nó bao vây các con, các con đi đâu nó theo đó. Nó không rời các con nửa bước.
Đó! Cho nên vì vậy mà, chúng ta biết rất rõ nó cụ thể, và cái gì nó đi tái sinh chứ không phải là cái tâm của mình, cái linh hồn của chúng ta ở trong cái thân này đi tái sinh, mà lớp nghiệp này nó tương ưng, nó giống người ta nó đi tái sinh.
Cái lớp nghiệp đó, nó không bao giờ mất đâu. Các con làm ác hay làm thiện, nó cứ tăng lên lớp nghiệp này. Cho nên, nó giống với ai thì nó làm con của. Xung quanh chúng ta, người nào cũng có tham, sân, Si hết thì chắc chắn là trong cái lớp nghiệp này thì có giống một người. Nếu có sai khác chút, nó chưa làm con họ được đâu, mà nó giống nhau hoàn toàn.
Cho nên, ví dụ chẳng hạn bây giờ cái lớp nghiệp của con, nó chưa tương ưng được với người nào, con còn nằm trên giường con hấp hối. Mà hấp hối kéo từ mỗi giờ, mỗi khắc là nó phóng ra từng cái nghiệp. Nếu là thiện, thì nó tăng thêm cái thiện nó giống ai đó, miễn nó giống rồi, nó tương ưng rồi thì ở đây con tắt thở, ở kia có thân khác, con sẽ lìa đời. Con hiểu không?
(04:56) Cho nên, ví dụ bây giờ nó chưa tương ưng thì con nằm đó con chờ, nó thôi thóp, thôi thóp nó thở hoài mà nó không chịu chết. Con thấy nhiều người họ cứ nằm đó họ chờ, cho đến khi đó có người thân nào đó họ về, bắt đầu cái nghiệp của họ, tức là cái tình cảm, cái nghiệp thương yêu nó chưa trọn, nó chưa đúng cho nên nó chưa tái sinh. Khi có người thân về, kêu là nuối người thân mình đó, thì khi người thân về đó vừa mở tiếng nói, cái họ mở mắt ra, họ đang nhắm vầy mà họ mở mắt ra họ gặp, hoặc là họ nghe tiếng nói bắt đầu họ thở cái khì cái họ đi luôn. Tức là nó đủ cái nghiệp thương của nó, nó bằng cái nghiệp, cái từ trường này nó thêm cái nghiệp đó nó mới đủ cái duyên của nó với một cái người nào đó là cha, mẹ của nó nó tương ưng. Thì nó tăng thêm cái lực này rồi, cái tình cảm mà thương yêu nó nó tăng lên cái lực này rồi thì nó tương ưng rồi thì cái người này tắt thở. Trên cái sự mà tái sinh luân hồi nó như vậy.
Cho nên, chúng ta thấy có người họ đau cái họ chết liền, có lúc là tắt thở, là vì nó không có thiếu. Còn mình còn thiếu là nó chờ. Cho nên, có nhiều người một hai ngày, họ cứ nằm đó thở, cứ như vậy chờ con cháu của mình, tức là cái tình cảm nó còn quyến luyến như thế nào đó mà nó chưa đi được, tức là nó chưa đủ cái nghiệp. Nhân quả này nó chưa đủ để tương ưng với cái người đó. Cho nên, vì vậy mà khi nó đủ rồi cái người này chết, đằng kia nó sanh.
(06:25) Đó, hôm nay Thầy chỉ cho mấy con thấy trong cái cuộc mà tái sinh luân hồi, nó do cái nghiệp lực này mà nó tương ưng nó tái sinh luân hồi, chứ không phải mình có linh hồn, hoặc là Thần thức, hoặc Phật tánh của mình chui qua bào thai kia, không phải đâu!
Trong mỗi thân người chúng ta nó có đủ cái thức của nó, nó có ba thức của nó rồi. Cho nên, không có cái thức nào mà đi xen vô trong đó được hết. Khi nó hợp duyên là nó phải đủ nó mới hợp thành con người, mà nó không đủ thì nó không có chờ được ai hết. Mà chỉ cái nghiệp lực này nó giống nhau thì nó mới tương ưng. Cho nên trong kinh “Tương Ưng”, Phật nói rất đúng. Là vì, chúng ta tương ưng được thì chúng ta tái sinh, không tương ưng được thì không tái sanh.
Đó, thì như vậy các con đã rành, đã hiểu rõ được cái sự luân hồi rồi, không có nghĩa là linh hồn chúng ta đi luân hồi, mà đó là nghiệp chúng ta, cái nghiệp lực, cái nghiệp tham, sân, si đó nó ít hoặc nó nhiều tham, sân, si thì nó tương ưng với ai, nó giống ai thì nó phải làm con cái của họ. Đó là luân hồi.
Mà bây giờ mấy con còn luân hồi không? Mấy con biết chứ sao. Bởi vì, mấy con biết mấy con còn tham, sân, si trong này nè, thì mấy con còn luân hồi. Còn mấy con thấy mình không tham, sân, si là hết luân hồi. Rõ không mấy con? Rất rõ! Người nào cũng dễ biết mình mà.
(07:40) Chắc chắn là tôi sẽ còn đi tái sinh, là tại vì tôi còn phiền não, tôi còn thương ghét ở trong này. Còn bây giờ tôi thấy tôi không thương ghét, không giận hờn, không buồn phiền ai hết, hoàn toàn tôi không tham, sân, si nữa, thì mình biết rõ ràng mình không luân hồi rồi. Cho nên, đạo Phật nó thực tế chứ đâu phải nó mơ hồ sao! Chứ đâu phải chuyện nói mù mờ đâu, đây là sự thật. Bởi vì, nó có giống nó mới đi tái sanh, nó không giống nó không sanh.
Cho nên, cái mục đích mà tại sao Thầy bảo các con giữ “thanh thản, an lạc, vô sự”? Là cái chỗ này!
Bởi vì, lúc bấy giờ là lúc nó ngặt nghèo lắm, nó làm cho các con dễ đau khổ. Lúc bây giờ bỏ cái thân này sắp sửa chết thì thương con, thương cháu, rồi tiếc của, tiếc cải nó chưa chịu bỏ. Rồi nó sợ chết nữa, nó đủ thứ, nó lăng xăng ở trong đầu nó sợ đủ chuyện, mà cái thân nó lại đau nhức nữa, chứ nó đâu phải thường!
Cho nên, vì vậy mà nhớ cái phương pháp tác ý là cái thanh gươm hùng kiếm của mấy con, nó sẽ giữ gìn cho các con không bị dao động, nó không bị những cái nghiệp này nó làm cho con bị dao động. Cho nên, vì nó mấy con tập cho nhu nhuyến, tập cho thanh thản, an lạc, vô sự, luôn luôn lúc nào cũng có Thầy bên, không sợ! Thì như vậy, nó làm cho mấy con vững vàng, trong khi đó tất cả mọi cái nghiệp này nó đến nó lôi con, nó lôi không được thì con sẽ bỏ thân, con sẽ vào giải thoát hoàn toàn, chấm dứt luân hồi. Nhớ chưa?
(09:02) Còn nếu mà nó còn cái duyên để mà con tu tập thì lúc bấy giờ các con chết, thì gia đình đừng đốt. Khi mà giữ thanh thản như vậy rồi, thì đem chôn cái thân đó đi, rồi nó sẽ nằm ở dưới đất đó, rồi bắt đầu con mới dùng tưởng của con, bởi vì cái thân nó chưa có hoại đâu, nó nằm đó nó dùng cái tưởng, như chiêm bao con tu tập vậy. Và đồng thời tới chừng đó con sẽ ly dục, ly ác pháp trong tưởng. Cuối cùng con chứng quả A La Hán ở trong cái trạng thái không có thân, cũng chứng quả A La Hán được, các con nhớ!
Cho nên cái này Thầy nhắc mấy con, bởi vì mấy con tu mấy con chỉ muội được, và mấy con cố gắng giữ được cái cận tử nghiệp của mình trong cái thanh thản đó thôi, chứ còn cái tham, sân, si mấy con còn chứ đâu hết, phải không?
Cho nên vì vậy đó, các con cứ đem chôn đi, rồi bắt đầu cái người đó họ sẽ dùng cái tưởng họ tiếp tục tu. Bởi vì họ giữ được cái thanh thản, cho nên họ không tái sinh luân hồi đâu. Bắt đầu bây giờ đó, họ ở trong cái tưởng họ tiếp tục tu những cái pháp Thầy dạy. Nó sẽ nhớ lại nó tu hết, nó không có trật đâu. Rồi chừng đó nó tu xong rồi, thì cái thân này nó hoại thì nó đi vào Niết Bàn luôn. Tức là nó ly hết tham, sân, si mấy con.
Phật pháp chuẩn bị cho chúng ta từ bắt đầu chúng ta tu cho đến khi mà chúng ta hoàn tất được, mà khi bỏ thân này, cái xác thân này không còn nó vẫn còn tu được, nó chưa mất. Nhưng mà mấy con đừng đem đốt, nếu đem đốt thì nó tiêu rồi, tức là cái duyên mà đốt nó bắt buộc mấy con phải tiếp tục tái sanh. Nhưng mà tái sinh làm người rồi mấy con tiếp tục tu. Bởi vậy, khi mà làm người mấy con phải trải qua sự vui, sự khổ. Mấy con hiểu không?
(10:30) Bởi vì sinh ra đứa bé nè, thì các con phải ăn, uống dơ, bẩn; phải ỉa, đái; phải cha mẹ bồng ẵm, rửa ráy, cho đến khi mà đi đứng vệ sinh cho nó sạch sẽ được là mấy con phải lớn chứ đâu còn nhỏ, cho nên cha mẹ rất cực khổ.
Và đồng thời con phải ăn uống ở trên dơ, bẩn đó. Nếu mà cha, mẹ kỹ lưỡng thì mấy con mới được sạch sẽ, còn nếu không thì mấy con chỉ nằm ở trên cái vũng nước đái, nước phân bẩn mà thôi.
Nếu gia đình mà cha, mẹ bận công việc, để con không ai mà chăm nom thì mấy con sẽ thấy nó rất khổ!
Mà khổ thứ nhất là khi ở trong bào thai của mẹ, là nó rất là chật chội, nó khổ lắm mấy con. Tại vì, bây giờ lớn rồi mấy con biết hồi còn ở trong bụng mẹ sao mà tui biết, quên mất rồi. Chứ ở trong đó là như bị nhốt trong tù á, nằm mà co chân vầy nè.
Khi bà mẹ mà muốn sinh thì nó bung ra nó đạp bà mẹ muốn chết luôn vậy. Cho nên, đau muốn chết! Nên khi mà nó trở đầu nó đi ra đó, thì mấy con thấy cả một vấn đề đau khổ lắm chứ không phải không. Khi mà sinh ra được thì đứa bé cũng nhất tử, nhất sinh. Nó cũng đau đớn lắm chứ đâu phải là sung sướng đâu!
Cho nên mình được thân này sinh ra làm người, thiệt ra mình qua bao nhiêu cái khổ. Khổ từ ở trong bụng mẹ, rồi khổ khi mà sinh ra. Sinh ra rồi đâu có đi đứng được, nằm lăn qua, lộn lại đó, ai ẵm, ai bồng muốn quăng đâu cũng được hết, ỉa đái thì một chỗ. Không có bao giờ mà sạch sẻ được hết.
Thế rồi lớn khôn đến bây giờ mình biết được rồi, mà mình không nỗ lực mình tu. Thầy nói mấy con thiệt là phí uổng thiệt! Để một lần mà làm đứa bé nữa thì thiệt ra mấy con quá là ngu si đó! Có phải không mấy con?
Trời đất ơi! Lần nữa mà làm đứa bé nữa thì trời ơi, nghĩ lại sợ chứ. Bây giờ mấy con muốn mấy con làm đứa bé nữa không?
Phật tử: Dạ, không!
(12:22) Trưởng lão: À, không thì phải ráng nổ lực nghe lời Thầy, chứ không làm sao mấy con chạy khỏi nó đâu. Đâu có thể nào mấy con làm chủ nó đâu, cho nên nó dẫn mấy con.
Nhớ kỹ! Chúng ta biết được Phật pháp rồi nhất định là một đời nay không tái sinh luân hồi nữa, bằng mọi cách chứ không có đầu hàng, hiểu chưa?
Phải hiểu như vậy, mạnh mẽ như vậy, chứ đừng có để ba cái nhân quả nó cứ lôi cuốn. À, bà bà, hay mẹ mẹ, má má đồ, trời đất ơi! Cứ kiểu này nó lôi mình hoài, nó đi xuống để cho mình tái sinh luân hồi. Cái tình cảm của Ái kiết sử này nó ghê gớm lắm!
Mình thương thì mình cũng thương chứ không phải mình ghét nó đâu, nhưng mà sự thật ra thương cái kiểu thương của mình phải khác. Đừng có thấy nựng nịu nó, rồi ôm ẵm nó, bồng nó, xa nó chút cái mình nhớ, thì đừng có làm cái chuyện đó. Thầy dặn mấy con nhiều lắm rồi, nhớ chưa?
Phật tử: Dạ!
Trưởng lão: Bây giờ Thầy đã nói rồi, bây giờ các con muốn hỏi Thầy gì không? Thầy đã nói cái quả A La Hán cho mấy con biết là nó cụ thể như vậy rồi, phải không?
(13:29) Bây giờ về cái phần mà tiếp tục dạy cho mấy con, là như trong sách của Thầy đã nói về cách thức lạy. Mấy con biết cách thức lạy chưa?
Lạy Phật nó có ba lạy, chứ không phải lạy như Nho giáo bốn lạy. Bởi vì Tam Bảo có ba lạy thôi, chứ không có lạy bốn lạy.
Mà cách thức lạy nữa, Thầy thấy có nhiều khi mấy con lạy mấy con chưa biết cách thức. Từ ở chỗ cái tâm của mình, tức là mình chắp tay để ngang ngực của mình trước đã, phải không? Rồi mình mới đưa lên trán, tức là cái lòng cung kính của mình mới đưa lên cái trán, cái đỉnh cao của trán của mình chứ gì. Rồi sau khi mình muốn lạy, mình để xuống ngực của mình, chứ đừng có để vầy cái rồi để xuống vầy lạy. Trời đất ơi!
Từ chỗ cái tâm của mình, mới dâng lên ở trên cái trán của mình, để cung kính cái đấng mình lạy. Rồi mình mới đưa trở về cái lòng thành của mình. Nó có nghi thức của mình rồi mới cúi xuống để tay.
Nhưng mà cái người chết thì mấy con để hai cái ngón tay đưa tới. Mấy con thấy sao có người để vầy, có người để vầy, không biết kiểu nào đây. Cho nên, phải biết, đưa hai cái tay tới là cái người đã chết như Phật. Còn như Thầy còn sống mấy con lạy, mấy con cũng đưa tới như vầy, chắc chắn mấy con rủa Thầy cho mau chết, có phải không? Mấy con không biết gì hết, Thầy chưa có chết, mà lạy cái kiểu này, mấy con lạy như vầy là mấy con chưa có biết Thầy dạy, mấy con đến chùa thấy ai lạy sao mấy con bắt chước lạy vậy, mấy con không chịu hỏi nữa, phải không? Cho nên, đến cái lạy nó cũng phải có những cái ý nghĩa của nó trong đó chứ!
(14:59) Cho nên, khi mà người chết tức là lạy như lạy Phật đó, chúng ta phải đưa tới. Mà lạy như mà Thầy còn sống, mấy con để úp, nó ngang. Bởi vì, Thầy cũng mang cái thân như mấy con, mấy con cũng mang cái thân như Thầy, cho nên vì vậy mà cái lạy này nó phải ngang như thế này.
Rồi bây giờ tại sao bây giờ người ta lạy để bàn tay ngửa như thế này? Có người để ngửa phải không? Các con thấy chứ?
Các con biết lạy, ví dụ các con ngày mà lạy sám hối. Nhiều con cũng đi lạy sám hối, tụng hồng danh lạy sám hối, lạy Phật cũng úp là sai. Sám hối là xấu hổ, mà xấu hổ không đậy cái mặt mình lại, mà cứ úp vậy không đậy mặt, coi như mình có xấu hổ không? Cho nên, do đó mà lạy sám hối đứa nào cũng bị phạm lỗi hoài! Có đúng không?
Ờ, mình biết xấu hổ rồi thì mình mới chừa. Do đó, mình lạy mình phải để cái bàn tay ngửa lên, úp đặng đậy cái mặt, tôi xấu hổ với Phật quá! Tại tôi làm lỗi, bữa này tôi ăn phi thời tôi xấu hổ quá, tôi đậy cái mặt tôi lại, phải không?
Hồi hôm này tôi lỡ tôi ngủ 2 giờ, mà tôi ngủ tới 3 giờ tôi xấu hổ quá cho nên tôi lạy sám hối. Tôi đậy cái mặt tôi lại chứ, tôi xấu hổ tôi phải đậy, chứ tôi dám ngó ai? Phải không? Mấy con hiểu không?
Đó! Còn nếu mà lạy sám hối với Thầy bây giờ con phát lồ, con nói: “Hôm qua con phạm cái giới đó, như vậy, vậy bây giờ Thầy cho con sám hối”. Bắt đầu bây giờ đảnh lễ Thầy, thì phải lật cái bàn tay ngang vầy chứ, Thầy còn sống mà chứ đâu phải Thầy như Phật đâu mà lạy vầy đâu có được. Phải không, các con thấy chưa? Phải đúng cách nhe! Từ đây về sau lạy cho đúng. Không khéo lạy sai hết!
(16:31) Trưởng lão: Các con đọc thư Thầy, các con sẽ thấy, có người hỏi Thầy hỏi Thầy như thế này: “Tại sao con là con của Thầy mà lại Thầy để kính gửi?”
Con của Thầy mà sao Thầy để “kính gửi”? Các con quen không? “Kính gởi Liễu Tâm”, phải không? Mà sao cuối thư Thầy lại để “Kính thư”, phải không?
Bởi vì, mấy con cũng như Thầy, Thầy cũng như mấy con, cái lòng tôn kính của Thầy đối với mấy con Thầy cũng tôn kính. Bởi vì, nhiều khi một đứa con của mình sinh ra, mà mình không kính nó đâu mình cho nó là con của mình cho nên mình la, mình hét nó. Sự thật ra, cái người cha đó chưa đúng cách mấy con. Chính con của mình là một đứa con nhưng mà biết đâu chừng, trước kia nó là người nào, mình có biết được không?
Cho nên, vì vậy bây giờ tuy là nó mang cái thân nhỏ bé, cũng như bây giờ Thầy là người đi trước, nhưng mà sự thật ra có nhiều bác, nhiều người lớn tuổi hơn Thầy nữa, họ cũng vẫn đáng cung kính chứ. Họ cũng mang cái thân giống như Thầy chứ, Thầy vẫn cung kính. Mặc dù, bây giờ một đứa bé Thầy cũng “kính thư”, Thầy cũng “kính gửi con” tên gì, tên gì… Phải không? Đó là cái thứ nhất, chúng ta phải nói đây là cái lịch sự của người Đông Phương chúng ta, tôn kính trọng lẫn nhau. Không phải mình làm Phật rồi mình không tôn kính ai hết. Thì như vậy ông Phật ngang quá vậy rồi (không nghe rõ).
(17:51) Cho nên, Thầy tu trước là Thầy biết được giải thoát, Thầy giúp cho mấy con. Mấy con cũng như Thầy thôi, cũng bình đẳng như nhau, cho nên Thầy viết thư Thầy để “Kính gửi các con”, phải không? Kính gửi, tức là Thầy coi các con cũng như Thầy, rồi các con gửi thư, các con cũng “Kính gửi Thầy”, phải không?
Như vậy rõ ràng là người Đông Phương chúng ta có tinh thần tôn trọng lẫn nhau, biết tôn trọng lẫn nhau. Cho nên, những điều kiện Thầy mà viết ra thì mấy con cần học cái đó hết.
Cho nên, đâu phải là “Con là con của Thầy, là đệ tử của Thầy sao lại Thầy kính?” Ờ, cho nên Thầy ghi. Thầy viết thư thì Thầy viết đại thôi Thầy đừng có kính”. Thầy dạy kiểu đó, thì Thầy dạy kiểu nào: “Mình làm lớn rồi, làm cha rồi, thôi không có cần nó đâu, không phải đâu mấy con!
Cái lịch sự, lễ độ, cung kính là cái đạo đức của mỗi con người. Dù Thầy là một vị Thầy mà nếu mà Thầy nói: “Mày”, là Thầy không phải là một vị Thầy. Mà Thầy kêu “các con” là những gì mà các con chưa biết, là các con là con của Thầy. Còn những gì mà các con biết, mà các con chỉ lại Thầy là các con là Thầy của Thầy, chứ đâu có ai mà hơn nhau, phải không các con?
Chỉ có cái biết với nhau mà trao đổi với nhau để mà chúng ta trên con đường đời chúng ta mới đem lại an vui cho nhau. Đấy là cái lý. Cho nên, cái lòng cung kính chúng ta luôn luôn lúc nào cũng cung kính với nhau. Các con hiểu chưa?
Cho nên, sau này mà lỡ mấy con có làm thầy đi nữa, thì cũng kính nhe đừng nói tôi làm Thầy rồi, không có kính ai hết thì không được! Đó là những cái học về đạo đức. Bởi vì, sau này mấy con học tới những cái sách Đạo Đức khác, dạy về cái sự xưng hô, về sự cung kính với nhau, thì cái này Thầy sẽ nói.
Đó! Hôm nay, Thầy dạy mấy con cung kính cái lễ thôi. Các con nhớ kỹ, mình lễ cho đúng cách, không ai dám cười. Mình lễ không đúng cách, người ta nói: Ờ, cái người này Phật tử mà sao họ không biết gì hết vậy! Đó cái người biết! Còn người không biết thì họ không biết ở đâu họ nói, con hiểu chưa? Còn người ta biết thì người ta rõ ràng, người ta sẽ chê mình đó, mình học đạo mà không biết cái lễ như thế nào hết, người ta chê mình.
(19:58) Cho nên, những điều này Thầy sẽ viết ra thành sách để lưu lại, để cho con cháu chúng ta sau này làm một người Đông Phương, nó phải có lễ nghĩa, phải có đạo đức hẳn hoi. Nó phải biết xưng hô tôn ti, trật tự! Các con biết không? Tây phương chỉ gọi anh em nó chỉ có tiếng một hà, còn mình: Anh, em, cô, bác, chú, bác, dì… nó có nhiều cái danh từ xưng hô với nhau, nó rất là tuyệt vời!
Phải không, các con thấy học chữ Việt của mình, về danh từ xưng hô nhau mình Thầy thấy rất là hay!
Còn những danh từ mà xưng hô một cách phách lối cũng có chứ phải không: Mày, tao… Các con nghe những danh từ nghe không có ngọt ngào chút nào. Những cái danh từ này có nhưng mà chúng ta không dùng đâu, để cho những người du côn, du đãng họ dùng, chứ còn mình là người đạo đức là nhất định không dùng. Dùng những lời nói, đáng con thì nói con. Lúc mà có tức giận gì đi nữa, vẫn là nói tiếng con cái mình nghe cái ruột của mình nó cũng giảm xuống cái giận, phải không mấy con hiểu?
Khi mình gọi con mà mình tức nó, mình gọi nó: “Con lại đây ba biểu!” Nghe nó cũng nhẹ nhàng nữa, thay vì mình đánh nó 10 roi chứ mình đánh nó có 1 roi. Còn không: “Mày lên đây tao biểu, cái thằng đó lại đây!” Thì con biết không, quất nó chục roi mà còn quất thêm nữa, cho nên cao lên. Từ cái tiếng nói của chúng ta nó làm giảm cái tâm đau khổ của chúng ta xuống. Cái tình thương của chúng ta ban rải lại cho đối tượng của chúng ta, làm cho đứa con chúng ta nó có cái tình thương sâu sắc đối với mình. Con hiểu không?
(21:27) Bởi vậy, dạy đạo đức là phải dạy các con hành động nó như vậy đó. Vì Thầy nghĩ rằng những sách Đạo Đức của Thầy sẽ đem đến cho mấy con có một cuộc sống rất là êm ái. Đó! Thì hôm nay những cái điều nhỏ nhỏ thôi, bây giờ nhớ chỗ nào Thầy dạy mấy con chỗ đó thôi chứ Thầy đâu có… Có ai mà hỏi Thầy Thầy mới nói.
Cho nên, có những người, các con thường thường thấy Thầy đề thơ thì mấy con cũng thấy thường thôi, nhưng mà có người họ lưu ý con, cho nên những người lưu ý là những người mà Thầy thấy người ta lưu ý thì mình phải nhắc nhở. Do đó, mình nói lên cái tâm của mình, cái hành động của mình như vậy là đức hiếu sinh của mình, như vậy là đạo đức hẳn hòi, để làm cho mọi người hiểu.
Có nhiều khi chúng ta có một cái mà chúng ta không để ý đâu, chúng ta lướt qua thôi. Cái đó là cái chúng ta cần phải được học hỏi, phải được hiểu biết. Cũng như bây giờ, lạy, lễ như vậy mấy con cũng thấy bỏ qua thôi chớ mấy con cũng không lưu ý, cho nên cuối cùng mấy con không biết. Trái lại có người thì người ta lưu ý, trước khi lạy người ta hỏi, do đó Thầy mới hướng dẫn chứ sự thật ra nếu mà không có, thì coi như là mình đụng đâu lạy đó cũng được hết, cứ nghĩ có lạy cũng tốt rồi, chứ không biết lạy cách nào.
(22:56) Mấy con phải gan dạ hỏi, có nhiều cái cần hỏi lắm mấy con. Mà hỏi như vậy, chứ còn thật sự ra mấy con thấy Thầy viết sách Đạo Đức Thầy có viết cái nào cao siêu đâu? Những cái mà nó gần gũi bên mấy con lắm, có phải không? Nhưng mà Thầy nói ra mới thấy: “Ờ, thiệt ra đúng là mình không biết”. Có hết! Hằng ngày, sống đó chứ mà Thầy không nói ra thì không để ý lắm. Nhiều cái mình thấy nó thường quá mình không lưu ý, nhưng mà coi vậy chứ nó thiếu đạo đức ở trong (không nghe rõ).
Cho nên, Thầy viết tưởng tầm thường, cái tầm thường của Thầy chứ là cái rất gần gũi mọi người, mà rất gần gũi mọi người mà cái cao thượng nhất. Các con thấy không? Nó rất tầm thường mà nó rất cao thượng. Khi mà chúng ta thực hiện được nó, nó đem lại sự hạnh phúc cho mình cho người khác là cao thượng chứ sao!
(23:45) Đó, những cái mà tầm thường, Thầy thường hay Thầy viết những cái tầm thường lắm, chứ Thầy không có viết cái cao đâu, nhưng mà cái tầm thường là cái chúng ta ai cũng dễ hiểu, không có khó hiểu, phải không?
Cho nên, những điều mà Thầy viết thì thường là Thầy dùng những cái văn nói hơn. Là tại sao mấy con biết không? Văn nói nó lặp đi, lặp lại cho mấy con nhớ. Còn nếu mà văn viết người ta cô đọng cái bài văn, người ta văn chương mà, thành ra người ta viết như vậy, cho nên vì vậy mà làm cho mấy con suy nghĩ nhiều. Còn cái mà khi đọc sách Thầy mấy con dễ hiểu, là tại vì nhắc đi, nhắc lại nhiều lần làm cho mình dễ thấm nhuần. Đó là lối viết văn của Thầy.
Cho nên, các con đọc lại kinh sách của Phật, như kinh sách Nguyên Thủy, mấy con thấy đức Phật cứ lặp đi, lặp lại, nhiều khi mình đọc thấy chán quá, có đúng không mấy con? Nhưng sự thật ra đó là cái văn nói, nhưng mà đời sau người ta có dám sửa không? Người ta dựa theo đó mà người ta sửa lại rất hay đó, nhưng mà ai dám sửa những lời đó?
Các con thấy, đâu có ai mà đem bộ kinh, tạng kinh Pali ra mà sửa bao giờ đâu. Hòa thượng Minh Châu dịch thì dịch y những cái danh từ ở trong đó chưa dám mà sửa cái gì ở trong đó. Nghĩa là chữ nghĩa như thế nào thì Hòa thượng Minh Châu dịch (như thế nấy). Ngày xưa, khi mới đầu dịch, Hòa thượng để 2 loại chữ, bên đây chữ Bali, bên đây đối chiếu chữ Việt, chứ không có dám tự ôm mà sửa bậy được.
Cho nên, do chính xác như vậy, cho nên hôm nay Thầy có bài kinh chính xác của Phật. Chứ không khéo mà chúng ta cứ người dịch ra sửa một chút, người dịch ra sửa một chút đó thì toàn bộ kinh bây giờ nó thành Đại thừa hết ráo rồi, không còn Nguyên Thủy đâu.
Như vậy mà Kinh Nguyên Thủy vẫn còn sai mấy con, chứ chưa phải là (đúng hết). Bởi vì, nó nhiều lần kết tập, mà nhiều lần kết tập thì có nhiều lần tam sao thất bổn. Nhưng cái người mà tu chứng, người ta mới lọc ra được những cái đúng của Phật, còn những người mà không tu chứng thì bây giờ đâu có dám sửa cái bài nào, đâu có dám nói cái đó sai đâu. Lời nào cũng nói đây lời Phật, chứ đâu có dám đâu!
Cho nên, cái người tu chứng người ta mới biết được cái sai, cái đúng người ta chỉnh. Rồi người ta giải thích ra nó mới có rõ được cái nghĩa, có được những cái pháp hành, chứ không khéo mình hành theo kiểu tưởng của mình, thì nó không đúng pháp.
(26:00) Bây giờ hôm nay, đây là có một câu hỏi Thầy: “Ra khỏi thất mà phòng hộ 6 căn”, nghĩa là mình bước ra khỏi thất mình phòng hộ.
Ra khỏi thất phòng hộ 6 căn chỉ có pháp Như Lý Tác Ý mà thôi. Các con biết sao khi mình ra khỏi (thất thì mình phải phòng hộ không?) Ở trong thất, mình ở trong cái riêng của mình thì mình sống độc cư mình phòng hộ 6 căn. Mà mình ra khỏi thất thì mình nhắc: “Mắt phải nhìn xuống bước đi”, con mắt mình nhìn xuống bước đi, mình đừng ngó qua, ngó lại. Tức là phòng hộ mắt. Mình bảo: “Tai nghe trên bước đi” hoặc là mình bảo: “6 căn lắng nghe hành động bước đi”. Lúc bấy giờ vừa tai, vừa mắt mình lắng nghe, tức là phòng hộ đó. Đó là khi ra khỏi thất nên phòng hộ như vậy.
Còn câu hai: “Đôi mắt luôn luôn nhìn dưới, không nhìn dáo dác hai bên”. Thì đúng rồi, chỉ có đôi mắt là nhìn xuống thôi. Nhưng mà khi mình nhìn xuống, mình tập trung nhiều thì có quyền ngó thẳng để xả bớt, các con hiểu không? Mình ngó thẳng, chứ đừng ngó qua, ngó lại. Và ngó thẳng với cái nhìn của mình là nhìn thẳng, chứ không có nhìn người này, người kia.
Do đó, khi mình nhìn thẳng mà thấy nó không bị mỏi mệt, nó không bị căng mình thì mình lại nhìn xuống dưới chân mình thì tốt hơn, tức là phòng hộ mắt. Cho nên, mình không có ngó qua, ngó lại tức là mình phòng hộ mắt. Mà phòng hộ mắt không đủ, mình phải phòng hộ tai, rồi phòng hộ luôn cả sáu căn của mình. Do đó, mình nhắc luôn cả sáu căn của mình. Tức là phòng hộ 6 căn.
(27:36) “Đi khất thực từng hàng một”
Không, mình đi khất thực như thế này. Khi mà mình đến đoạn đường nào mình đi khất thực, mình đi chậm. Mình đi rất chậm, để làm gì? Để cho cái người người ta muốn cúng dường mình, người ta đến người ta chào mới kịp. Còn mình đi mà lẹ lẹ, người ta phải chạy theo mình. Bởi vì, người ta muốn vượt hơn mình để người ta cúng dường mình, mà mình đi lẹ buộc lòng người ta phải chạy.
Cho nên ở đây, sau khi mấy con muốn đi khất thực, thì tức là phải có một khóa học để dạy các con cái hành động đi như thế nào, từ đi khất thực.
Đi khất thực thì không được đứng trước cửa nhà người, không được đứng trước gian hàng buôn bán của người. Mình đứng trước, tức là mình bắt buộc người ta phải cho mình, vậy là mình ăn mày chứ không phải là mình đi khất thực. Mình đi hóa duyên độ chúng là tùy duyên của người ta, người ta muốn cúng dường để gieo duyên với mình, cho nên mình không đứng trước cửa nhà, đó là người đi khất thực. Và đi chậm, để cho người ta kịp người ta đi nhanh hơn một chút để người ta thỉnh mình đứng lại, để cho người ta đổ bát của mình đi. Và khi đi khất thực, chẳng hạn mình đi 10 bước rồi mình đứng lại, đứng lại khoảng 1 phút, 2 phút, rồi mình đi 10 bước nữa. Và đó là cách đi khất thực, chứ còn mình đi luôn luôn, luôn luôn vầy đó thì người ta cũng không biết đâu mà cúng dường mình.
(29:01) Câu số 4: “Khi đi khất thực không được đi hàng ba, hàng bốn”. Đó lẽ đương nhiên trong giới luật đức Phật, hai người đi song song là không được rồi, chứ đừng nói đi hàng ba, hàng bốn.
Cho nên, trong khi đi khất thực thì đến cái nơi mà chúng ta khất thực thì đi chậm, và đi khoảng 10 bước đứng lại một lần, và đứng lại khoảng 1 phút hay là cao lắm là 3, 2 phút chứ không được đứng lâu. Cứ thỉnh thoảng đi rồi đứng, nhưng mà không được đứng trước cửa nhà người khác, không được đứng trước gian hàng buôn bán của người khác. Không được đi hàng hai, hàng ba, hàng tư, hàng năm, nghĩa là đi người trước, người sau. Ví dụ người này đi cách người kia khoảng độ chừng 3 bước hay hoặc là 5 bước là cao. Nghĩa là cách khoảng nhau, đi vậy như vậy cách nhau khoảng độ chừng 2 thước hay 3 thước, 3 thước cây đó.
Mặc áo dài, im lặng, không nói chuyện. Ví dụ như bây giờ mấy con đi khất thực đến nhà bếp cô Út, cô Út cho mấy con mỗi người một mâm cơm, cho cơm thì mấy con sẽ mặc áo dài đàng hoàng, bởi vì tướng đi xin ăn là tướng người phước điền, chứ không phải là cái tướng đi ăn xin. Cho nên, chúng ta mặc y, áo đàng hoàng, để mà xin bữa cơm của người đàn na thí chủ, người ta cho mình. Do đó, mình ăn mặc đàng hoàng, và im lặng, không được vừa đi, vừa nói chuyện với nhau thì không được!
(30:36) Cũng như bây giờ, ở trong Tu viện mấy con đến mấy con xin cơm thì mấy con phải mặc áo tràng, đi đến mấy con bưng mâm cơm của mình về. Rồi cách thức mình ăn, mình cũng nên mặc áo tràng mình ăn nữa, chứ đừng có nên ăn mà mặc áo ngắn như ở gia đình của mình. Bởi vì, ở đây là oai nghi, cái hạnh của một người tu, cho nên rất nghiêm chỉnh, luôn luôn chúng ta khi ăn, khi đi khất thực đều là mặc áo dài hết, không có được mặc áo ngắn.
Còn khi mình đi khất thực thì không được nói chuyện. Bởi vì, mục đích chúng ta đến đây là chúng ta đến tập sống không nói chuyện. Cho nên, đi không nói chuyện, không được đi hàng ba, hàng tư. Người đi trước cách người đi sau 2 thước, 3 thước mà thôi, cứ đi như vậy.
Và đồng thời đến, khi cái chỗ mà khất thực chật, thì chúng ta đứng bên ngoài chúng ta chờ. Chờ người đó đi rồi thì người tiếp tới, người tiếp, người nào đi trước thì người ta tới trước người ta khất thực, người đi sau thì kế tiếp, cứ như vậy để có trật tự. Và đồng thời, cũng là nói lên được cái hạnh của của một người tu. Chứ không phải như người đời, chúng ta chen lấn như thế này, thế khác. Rồi nói chuyện ầm ĩ với nhau, tức là giữ im lặng.
Các con nghe khi mà vua A Xà Thế mà đến thăm đức Phật ở trong khu rừng không? Thậm chí như cái lá rơi xuống còn nghe cái tiếng lá rơi. Cho nên, vua A Xà Thế mới nói vị quan đó, ông bộ ông dẫn tôi vô cái chỗ này đặng người ta làm thịt tôi sao? Nghe sao mà yên lặng như thế này?
Cho nên vì vậy đó, thay vì một ngàn mấy trăm người như thế này, nó phải ồn náo chứ? Sao lại vào chỗ này nó im lặng như thế này? Cho nên, vua A Xà Thế mới hỏi vị quan đó, vị quan nói chỗ này là chỗ mà đức Phật ở cho nên hoàn toàn không có động, mà người nào làm động là không được.
(32:32) Cho nên, các con thấy cả đông một số người chứ đâu phải một số người như mấy con như thế này. Bây giờ, mấy con về đây mấy con cũng tập những hạnh như những người tu sĩ như đức Phật ngày xưa vậy. Cho nên khi đi, khi đứng, khi ngồi, hoặc này kia nọ không được nói chuyện ồn náo, chúng ta tập làm một cái hạnh.
Cho nên ở đây là độc cư mà, các con thấy độc cư là không nói chuyện mà. Cho nên chúng ta về đây chúng ta tập cái hạnh. Khi chúng ta muốn nói chuyện thì chúng ta đến ngay cái người nào chúng ta muốn nói chuyện đó, thì chúng ta mời cái người đó ra nhà khách, cái chỗ mà chúng ta nói chuyện. Cho nên nó có nơi, có chỗ hẳn hoi, đàng hoàng. Còn đụng đâu mấy con đứng nói chuyện, đụng đâu đứng nói chuyện đó thì người ta thấy cái Tu viện mình cái tổ chức nó luộm thuộm, nó không có kỷ luật. Các con hiểu? Mình muốn nói chuyện với một vị nào thì lại ngay người đó, xin phép nói chuyện với người đó, dẫn đến nhà khách có chỗ ngồi đàng hoàng nói chuyện. Như vậy mới đúng cách!
(33:33) Cho nên, tất cả những điều kiện này, thì mấy con nên nhớ rằng khi mình vào Tu viện phải lập những cái hạnh để người ta không đánh giá. Chứ không khéo, người ta đánh giá Tu viện của mình. Cho nên, khi mà đi khất thực cũng vậy, mấy con đi từng hàng một thôi. Mình chờ, còn nếu mà không mình chờ đi cho hết rồi, mình đi sau cũng được. Rồi mình thấy không có thì mình đi, còn nếu có thì mình thỉnh thoảng mình đi không sao hết. Trong khi đó, mình lập cái hạnh tập nhẫn nhục, chờ đợi, đừng có vội vàng. Thậm chí như đến giờ này sắp sửa ăn rồi, mà thấy người ta còn đi khất thực, mình vẫn nhường người ta. Nhường người ta đi, đi xuống hết rồi mình mới đi. Thì đó là cái hạnh của mình.
Đó, thì nhắc nhở cho mấy con thấy cách thức từ cái đi khất thực bưng cơm, cho đến khi mình đi đường, đừng có đi hai ba người, mình đi hàng chiếc với nhau. Thì người ta thấy cái oai nghi của mình như vậy, người ta thấy kính trọng cái người tu hành. Và mấy con là những người đã được làm con của Thầy, mấy con phải cố gắng tập luyện cho nó đúng cách!
(34:44) Hôm nay, là cái duyên mấy con về đây, là cái duyên để tập luyện, mà mấy con không tập luyện thì không biết chừng nào mới tập luyện được. Cho nên vì vậy mấy con phải nhớ kỹ mà tập luyện, Thầy tin rằng mấy con mỗi người đều có cái áo tràng hết, khi muốn nói chuyện gì đó, đó là sự cung kính với nhau mà. Cho nên mấy con cũng mặc áo tràng ra mời người đó nói chuyện. Các con thấy, có bao giờ Thầy mặc áo ngắn mà Thầy tiếp chuyện với mấy con đâu. Luôn luôn lúc nào Thầy tiếp chuyện với mấy con đều hoàn toàn là Thầy mặc cái áo rộng tay, cái áo tràng Thầy tiếp mấy con, tức là luôn luôn lúc nào Thầy cũng cung kính mấy con. Còn mấy con muốn tiếp chuyện với Thầy, nhớ Thầy, mấy con cung kính Thầy, thì bằng cách là mấy con mặc chiếc áo…
Cho nên, thậm chí như Phật, Thầy nói đức Phật nói cung kính pháp, mà chính đức Phật đã đảnh lễ pháp. Các con đọc lại những lời đức Phật dạy, khi đức Phật tu chứng rồi đức Phật quỳ xuống đảnh lễ pháp mà. Thì lúc bấy giờ cái sự cung kính pháp, thực sự ra mấy con tu, mấy con chưa cung kính pháp, tại sao vậy? Tại vì mấy con tu không cung kính pháp, rõ ràng mấy con mặc cái áo ngắn mấy con ngồi trong thất tu. Vậy mấy con có cung kính pháp không? Mà cái lòng không cung kính pháp thì mấy con có đạt được pháp không? Không bao giờ!
(35:57) Mấy con đi kinh hành, mấy con thấy mấy con mặc cái áo ngắn mấy con đi chứ mấy con có mặc áo dài đâu, mà kinh hành là pháp môn tỉnh thức để giúp chúng ta phá được tâm si. Thế mà mấy con coi thường nó quá, mấy con mặc cái áo ngắn như thế này mấy con đi kinh hành như một người đi chơi, thì như vậy mấy con có cung kính pháp đâu?!
Pháp bảo chứ đâu phải pháp thường! Cho nên, khi mà tu tập đối với Phật, đối với Tăng mấy con cung kính, mà đối với Pháp mấy con không cung kính. Hầu như là Thầy đã nhìn thấy những cái điều đó. Đó là những cái sai! Các con hãy cố gắng sửa!
Mặc dù trời nóng nực, mình rất nực, chúng ta vẫn mặc cái áo tràng. Lòng cung kính của chúng ta lúc khó khăn nhất mà chúng ta vẫn cung kính, đó là mới đúng được cái giá trị lòng cung kính. Nhờ cái lòng cung kính đó, nó mới khép mình trong cái khuôn khổ đúng pháp, ôm chặt pháp. Mà đức Phật bảo: “lấy pháp làm chỗ nương tựa”, phải không các con? Bảo lấy pháp làm cái phao, mà thế mình không ôm chặt pháp, mình coi thường pháp làm sao nó làm cái phao cho mình được?! Các con hiểu điều đó?
Cho nên, tu hoài mà mình thấy kết quả của mình rất nhỏ mà không có đạt được kết quả lớn. Còn cái lòng cung kính, rõ ràng ngồi thiền nực gần chết mặc cái áo ngắn. Có nhiều người như thế này nữa mấy con, lột trần ra mà ngồi thiền cho nó mát. Trời ơi! Tu tập như kiểu này, Thầy nói y như võ sĩ á, có phải không mấy con?
Cho nên chúng ta ăn mặc hẳn hòi, bị vì đức Phật gọi là tướng phước điền. Tướng phước của mọi người, mà mình không nghiêm chỉnh, cái tướng phước như vậy làm sao mà làm gương hạnh tốt cho người ta?!
(37:22) Đó là tất cả những cái gương hạnh, hôm nay mấy con được về đây, Thầy nhắc nhở mấy con biết từ cái đi xin, từ cái ăn. Rồi trước khi mà ngồi ăn, các con đâu phải ngồi ăn như người đời đâu. Ăn tuần tự để mà lắng nghe từng tham vọng của mình trên miếng ăn, như vậy mình mới khắc phục được ly tham chứ. Tu hàng ngày để mà ly dục ly ác pháp, thế mà từ cái ăn, từ cái ngủ, từ cái hành động đi đứng mà mình không chủ động điều khiển nó thì coi chừng mình bị tham, sân, si của mình lôi mình.
Đó, hôm nay Thầy nhắc hết như vậy các con biết, khi mà tu tập thì kính pháp - pháp bảo, lòng tôn kính. Vì nó giúp cho mình làm chủ được đau khổ của chính bản thân của mình, mà mình không cung kính nó sao được, mình nương tựa nó như là nương tựa với cha, mẹ của mình, có phải không? Khi mà Quy Y Tam Bảo. Chữ Quy y là gì? “Nương tựa”, mà mình nương tựa pháp mà với cái nương tựa không cung kính thì mình có thành thật mình nương tựa không?
Cho nên, khi nương tựa pháp là phải lòng cung kính, không có được coi thường nó. Phải không, các con hiểu không?
(38:26) Cho nên vì vậy, khi ôm pháp tu là mình phải ăn mặc tề chỉnh, nghiêm trang. Mỗi một hơi thở là một pháp, cho nên các con tu từng hơi thở thì chất lượng nó rất cao, mà các con tu hít thở cho lấy có thì các con chất lượng có đâu!
Khi không ôm pháp thì thôi, mà ôm pháp tu mỗi bước đi của các con là một pháp, để giúp các con thoát ra sự đau khổ. Thế mà các con đi để mà lấy có thì làm sao mà gọi là cung kính pháp!?
Tất cả những cái sai này, cố gắng phục sửa lại, để cho chúng ta đừng quá dễ dãi với chính Phật pháp thì chúng ta sẽ đạt được kết quả lớn.
Bởi vì, ba ngôi Tam Bảo: Quy Y Phật, quy Y Pháp, quy Y Tăng; nương tựa Phật, nương tựa Pháp, nương tựa Tăng. Chữ Quy y là nương tựa, vậy thì nương tựa như thế nào đúng, mà nương tựa như thế nào sai?
Mà Pháp Bảo, Phật Bảo, Tăng Bảo đó là những cái nơi cung kính. Thầy bây giờ là một vị Tăng Bảo, là một vị cha lành của mấy con. Có một cái gì mấy con đau khổ, thì các con gọi Thầy, Thầy luôn luôn Thầy lo lắng, yêu thương, quan tâm mấy con. Dù bất kỳ, mấy con ở đâu vẫn có Thầy ra ở gần bên, an ủi trong lúc đó. Cha, mẹ mấy con không thể nào chịu thay cơn đau của mấy con được, nhưng mà ông Thầy vẫn ở bên con, để cho các con không còn đau nữa.
Bởi vì, ông Thầy là một cái thanh thản, an lạc rồi, mà các con chấp nhận được cái thanh thản, an lạc này thì các con sẽ hết đau rồi. Bởi vì, nó còn đau là làm sao mà thanh thản, an lạc được phải không mấy con?
Cho nên, các con biết rằng một vị Thầy là một vị cha lành của mình, khi mình gọi người thì sẽ đến bên mình liền tức khắc, để giúp đỡ cho mình vượt qua những cái nghiệp khổ đau của mình mà mình chưa có đủ sức qua được.
Cho nên, các con tìm lấy một vị Thầy, là một vị cha của mình, cái người đem lại chỗ nương tựa cho mình, để cho mình thoát ra những cái đau khổ của cái đời, kiếp đời của mình. Thế rồi, thì mấy con hãy đem hết lòng tôn kính đó, đặt trọn những cái hành động mà tu tập thì mấy con sẽ chính xác một trăm phần trăm, nó không có sai sót một cái nào hết. Mà mấy con không tôn trọng thì mấy con sẽ bị ác pháp đánh.
(40:35) Bây giờ, các con đã nhớ hết rồi phải không? Cố gắng đừng quên lời Thầy dạy! Bởi vì, một lời người cha mà dạy, mà người cha là một vị Tăng, là một cái chỗ nương tựa để cho mình cứu cánh được bốn sự đau khổ của chính mình: Sinh, Già, Bệnh, Chết.
Thì mình nương tựa cha mẹ mình chắc không được, nương tựa với ai cũng không giải thoát được mình. Nương tựa với Phật - Pháp - Tăng, là mình sẽ giải thoát được bốn chỗ đau khổ này. Vậy thì sự nương tựa này, thì các con phải nhớ những lời mà Thầy dạy, rồi các con sẽ thấy hiệu quả, kết quả để giúp cho mình thoát khỏi đau khổ của kiếp người.
Rồi đến đây bây giờ đã xong hết rồi, bây giờ mấy con có còn hỏi gì thêm nữa không mấy con? Hay là mấy con nghỉ?
Phật tử: Dạ, nghỉ.
Trưởng lão: Rồi! Bây giờ mấy con nghỉ.
Phật tử 2: Thầy cho con hỏi một điều Thầy… (không nghe rõ).
(41:49) Trưởng lão: Bởi vì, mấy con khi đã là một người mà chỉ đến đây để mà nghe học pháp chứ chưa là người vào đây để sống độc cư, các con hiểu chưa?
Cho nên, những sự lỗi lầm đó nó chưa phải là lỗi lầm, mà đây là cuộc sống mình mới tiếp xúc với cuộc sống của Tu viện mà thôi. Cho nên mình thấy: Ờ, bây giờ như vậy, nhưng mà cái nghiệp của mình, cái thân của mình nó chưa có ăn uống một ngày một bữa được. Thì các cô, các bác và các chú đều có thể ăn thêm một cái gì đó để cho nó đỡ, trong khi mình chưa quen.
Mà nếu mình ức chế thì trong khi ở đây chưa về tới nhà, mà nó bệnh hết rồi làm sao? Còn nguy hiểm hơn! Tốt hơn là cứ ăn uống cái gì đó cho nó dễ dàng, nó nhẹ nhàng hơn, như mình ở nhà mình ăn bữa ăn nó quá nhiều, để mà nó cực khổ hơn. Cho nên, mình tạm ngưng mình uống 1 ly sữa, hoặc ăn cái bánh hoặc cái gì đó thì nó được hết không có sao hết, không lỗi lầm gì hết. Đó là mình mới tiếp nhận, mình mới tiếp cận với môi trường tu tập thôi, cho nên nếu mà người nào khắc phục được ăn ngày một bữa thì mình vui vẻ, mình chấp nhận. Người nào chưa thì mình có thể uống một ly sữa, ăn cái bánh đều được hết, không có gì phạm lỗi gì hết.
Còn nói chuyện thì mình cũng hạn chế, mình ít nói nhưng mà có điều kiện cần hỏi, cần nói thì mình cứ nói, còn không cần thì thôi, chứ không phải là như những người mà chuyên tu ở đây. Đã là vào ở đây quyết tâm tu rồi, còn đi nói chuyện thì không được. Còn các con về đây để học pháp chứ chưa phải là chuyên tu, chưa phải là chuyên nhất về một cái sự tu tập giải thoát, mà đây mình học để rồi sau này mình mới chuyên tu đó.
(43:38) Hỏi: “Xin Thầy giảng rõ cho tất cả các cư sĩ chúng con được hiểu về cách thức tu tập của người tại gia”.
Đáp: Đây là cái phần mà quan trọng nhất đó! Tại gia tức là mình sống tại nhà của mình, mà mình tu tập sao mà cũng như con thì đối với cha mẹ, rồi vợ chồng đối như thế nào? Rồi con cái trong gia đình của mình đối xử như thế nào? Đó là những sự cụ thể.
Nhưng những bài vở này, những bài học về bổn phận của người tại gia tu tập theo đạo Phật. Thật ra nó là những giáo trình tu học như Thầy đã nói cho mấy con đã nghe rồi đó.
Thì đạo Phật có những lớp để mà tu tập, để mà từ sống trong gia đình của mình. Đó là lớp Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng đó là những lớp học tu, sống ở trong chiếc áo của người cư sĩ, sống trong tập thể gia đình, xã hội. Đó là những cái lớp người ta, sống cái đạo đức “không làm khổ mình, khổ người” đó là những cái lớp học.
Vì vậy, cho nên nó không phải là nói cái bài học về đạo đức, đối với người cư sĩ mà học về đạo đức nó có từng lớp rõ ràng chứ không phải là nói mình muốn tu phải học cái đạo đức như vậy, vậy, vậy. Không phải! Nó có từng lớp.
Nó uốn nắn cho mình sống có một cuộc sống, có một cái nhìn, có một sự suy tư, nó không giống như cái nhìn, cái suy tư của mình hiện giờ. Vì vậy, nó có từng lớp học của nó, nó mới rèn luyện mình.
Cho nên trong vấn đề hôm nay, thì đại khái như các con biết rằng Thầy có soạn thảo bộ sách đạo đức Nhân bản - Nhân quả. Tức là đời sống trong gia đình của mình, là sống ở trong quy luật của nhân quả. Cho nên, mình thoát ra cái quy luật nhân quả, đang sống trong quy luật mà thoát ra nhân quả là phải có cách thức sống, cách thức suy nghĩ, cách thức thấy nó như thế nào thì chúng ta mới sống trong nhân quả mà không bị nhân quả chi phối.
(45:38) Trách nhiệm như thế nào? Ở đây, qua những điều mà thưa hỏi Thầy: "Xin Thầy giảng rõ cho tất cả cư sĩ chúng con được hiểu về cách thức tu tập của người tại gia, bổn phận, trách nhiệm phải như thế nào? Để ngày mai sau khi rời khỏi Tu viện, để biết cách thức tu tập mà không phải phí uổng thời gian công sức, để làm sao gieo trồng được nhân duyên thiện cho tốt. Vì con sợ e nếu không biết phương pháp, thì tất cả sẽ rơi vào tình cảnh cư sĩ không xong mà tu sĩ thì cũng dở. Con xin Thầy từ bi hoan hỉ, bố thí dạy bảo cho chúng con!"
Thì đây là lời xin Thầy dạy cho các con phần nhiều là dạy về đạo đức Nhân bản - Nhân quả. Như cuốn sách Đạo Đức, bộ sách đạo đức Nhân bản - Nhân quả mà Thầy đặt tên là Đạo Đức Làm Người, thì các con thấy như tập 1 thì mình nói về ba cái đạo đức của xã hội. Và tập 2 mới đi vào đạo đức của con người của bản thân con người. Và tập 3, tập 4, tập 5 cũng còn nói về đạo đức bản thân của mọi người, chứ chưa đến gia đình.
Vì vậy thì các con biết rằng cái giáo trình học về đạo đức nhân quả thì nó là một bài vở, cái phương pháp cho nên nó rất nhiều điều. Và chúng ta cũng thấy rằng cái hành động từ suy nghĩ, lời nói, từ cái hành động của thân chúng ta nó cũng vô lượng hành động. Vì trước cuộc sống của chúng ta nó có nhiều chuyện để mà chúng ta có những hành động trong những chuyện đó.
(47:28) Cho nên, nó không phải là có một cái hành động này là đúng hay hoặc hành động kia là đúng, hay hành động nọ là sai, nó không phải chỉ có một vài hành động, năm mười hành động. Mà nó vô lượng hành động, hễ nó tiếp duyên thì nó có một cái hành động mới khác hơn nữa cho nên nó là vô lượng.
Mà vô lượng như vậy cái nhìn, cái suy nghĩ của chúng ta nó phải vô lượng sự nhìn thấy, và sự suy nghĩ chúng ta đúng Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Mạng. Do cái sự suy nghĩ như vậy, nó trở thành một cái môn học. Nếu mà chúng ta không học thì chúng ta không biết.
Cho nên hiện bây giờ, thì chúng ta không có thời giờ để mà chúng ta giảng rộng ra đường lối này, vì ngày mai thì quý Phật tử cũng biết rằng cái chương trình của Phật giáo nó sẽ có những cái lớp học này, mà mỗi lớp học thì nó phải kéo dài 1 năm, ví dụ như vào một lớp Chánh Kiến thì chúng ta học, có một cái nhìn qua một cái góc độ nhân quả, không còn qua góc độ đúng sai, phải trái như xưa nữa. Cho nên, chúng ta phải học một năm.
Trong sự học tập đó thì nó có sự rèn luyện, tu tập để làm cho chúng ta sống quen đi cái nếp sống mới. Nó không còn nếp sống cũ nữa, không theo lối phong tục cũ nữa, cho nên nó có khác.
(48:40) Và đồng thời, thì chúng ta cũng học đến lớp thứ 2 thì chúng ta học suy nghĩ. Hồi nào chúng ta có sự suy nghĩ, nhưng mà sự suy nghĩ chúng ta hầu hết là đem lại đau khổ cho chúng ta, còn cái sự suy nghĩ hiện giờ gọi là Chánh Tư Duy, nó đem lại chúng ta một niềm sống an vui và hạnh phúc.
Do cái chỗ mà chúng ta có học tập, có rèn luyện thì chúng ta mới thông suốt được. Còn bây giờ vì một cái lớp học nó như vậy, nó cả năm như vậy mà cô đọng trong một buổi học thì không thể hết được. Cho nên vì vậy mà Thầy sẽ tóm lược lại để chúng ta biết cách mà chúng ta nương theo tu tập cho rõ ràng.
(49:21) Bây giờ giả dụ, chúng ta sống ở trong gia đình, như Thầy sáng có nói, như đức Phật tóm lược lại dạy cho cái người đệ tử Sa di của mình đầu tiên, tức là La Hầu La.
Thì ông dạy La Hầu La như thế nào? “Mỗi lần muốn nói một cái điều gì thì chúng ta suy nghĩ những lời nói đó, nếu nó không làm hại mình, hại người, không hại cả hai thì mình nên nói”. Như vậy, thì hàng ngày chúng ta muốn làm một hành động gì, muốn nói một điều gì, muốn suy nghĩ một điều gì thì chúng ta xét cái đó nó có hại mình, hại người, hại cả mình mà hại người không. Nếu mà không, thì mình sẽ nói. Và như vậy rõ ràng nó là nhân quả, bởi vì cái đạo đức nhân quả nó không làm khổ mình, mà giờ mình suy nghĩ lời nói đó mình nói ra nó không làm người ta đau khổ, không làm cho mình khổ, không làm cả hai đau khổ thì mình sẽ nói. Thì hiện giờ chúng ta nên tập suy nghĩ cẩn thận thì chúng ta nói, lỡ mà chúng ta có nói ra mà làm khổ người, khổ mình hoặc là khổ cả hai, thì mình nên cố gắng khắc phục, mình mới nhắc nhở mình: “Từ đây về sau không được nói lời nói đó nữa!”. Từ đây về sau phải chừa, không được nói lời nói như vậy nữa; hay hoặc là những hành động như vậy nữa; hay hoặc là suy nghĩ như vậy nữa.
Đó là cách thức chúng ta đối xử trong gia đình. Thì đối xử như vậy trong gia đình thì nó biến ra những cái đức hạnh của nó. Cái hạnh của nó sống như thế nào? “Nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng”. Bởi vì, khi mình suy nghĩ như vậy thì ngay mình làm được những cái điều này, cái đó là cái hạnh nhẫn nhục. Bây giờ, người ta chửi mình, mà mình suy nghĩ để mình nói một lời nói gì đó, mà làm cho người ta khổ thì nhất định là mình không nói.
Cũng như bây giờ người ta chửi mình, mình biết là tâm mình nó sân lên rồi, nhưng mà bây giờ mình muốn chửi người ta lại, nhưng mình suy nghĩ bây giờ mình nói người ta lại, mình chửi người ta chó, trâu, hay là chửi đồ này, đồ kia. Mình suy nghĩ: “Bây giờ mình nói ra lời nói như vậy thì mình không thua gì họ, và như vậy mình nói như vậy là làm khổ người ta, tốt hơn là mình không có nói”. Do đó, cho nên vì vậy mình ngăn cái ác pháp đó đi, cho nên cái lời nói nó không hung giữ nữa. Và cuối cùng thì mình thấy mình không có nói ra lời nói hung dữ. Do đó mình không tạo nhân ác, cho nên cái quả người ta chửi mình, thì một chút thì người ta không chửi nữa, người ta bỏ, người ta đi vào. Không lẽ người ta chửi suốt ngày sao?!
Cho nên, cuối cùng thì coi như mình học về cái đạo đức Nhân bản - Nhân quả, tức là cái cơ bản của con người chúng ta đi vào đạo Phật thì phải sống như vậy. Cho nên các con nhớ kỹ!
(52:09) Vì vậy mà chúng ta thấy, thường khi mà Thầy viết ở trong cái bảng, khắc vào bia đá mà Thầy nhắc ở phía trước, gần ở bên điện Phật, thì Thầy có nói: “Đừng nhìn mọi vật đều đúng sai, phải trái, mà hãy nhìn nó bằng thiện ác”. Mình nhìn nó thiện thì nó sẽ đem lại không có sự khổ đau cho mình cho người, còn ác là nó có sự khổ đau. Cho nên, khi mà nó đúng như vậy thì mình dừng lại, mình không có làm những cái điều ác. Đó là cách thức của chúng ta tu tập, mà không ngờ làm những điều đó là nó có ba cái đức, tức là: “Nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng”, nó làm cả vui.
Cho nên, mấy con nhớ rằng cuốn sách “Thiền Căn Bản” mà Thầy dạy thì nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng nó nằm ở trong cái chỗ tư duy, suy nghĩ này, nó biến ra cái phương pháp mà chúng ta tu tập, làm cho gia đình chúng ta càng ngày càng vui vẻ, mọi người càng ngày càng thấy hạnh phúc. Trước kia thì mình không dằn được mình giận giữ, mình nói thế này thế khác, mình bỏ ăn, bỏ uống. Nhưng nay mọi chuyện nó có xảy ra mình cũng vui vẻ, ăn uống cũng vui vẻ không có buồn rầu, không có làm cho người khác khổ tâm, mà mình cũng không khổ tâm. Thì như vậy rõ ràng là con đường của đạo Phật, nó thực tế ngay trong gia đình chúng ta mà chúng ta biết tu căn bản như vậy, thì chúng ta sẽ được giải thoát.
(53:31) Cho nên tóm lược lại, là chúng ta nên tu tập bằng đạo đức không làm khổ mình khổ người, bằng những hành động suy tư, từng hành động, từng lời nói, từng suy nghĩ của chúng ta trong tâm chúng ta, thì như vậy chúng ta sẽ có kết quả giải thoát hoàn toàn. Chứ đừng nghĩ rằng bây giờ tôi vào đây là phải thọ Bát Quan Trai, phải giữ gìn 8 giới, phải ăn chay, phải ăn một bữa. Về gia đình ăn ba bữa, mình cũng tự nhiên mình ăn ba bữa có gì đâu, chưa phải lúc mình ăn một bữa thì đừng có vội vàng. Mình vội vàng mình tu là làm chướng ngại cho gia đình của mình, làm cho khổ cả gia đình mình thì không có hay ho gì hết!
Cho nên, mình phải biết cách vừa tu giải thoát cho mình mà vừa làm cho những người thân của mình được giải thoát nữa. Đó mới chính là phương pháp tu của đạo Phật. Cho nên, đạo Phật là một nền đạo đức Nhân bản - Nhân quả. Cho nên, đức Phật có nói một đoạn kinh, đức Phật nói như thế này: “Mục đích của đạo Phật đến với con người là không làm khổ mình, khổ người mà người nào đã không làm khổ mình khổ người đó là đạt được mục đích của đạo Phật rồi”, đâu cần tu những pháp gì khác đâu. Nếu mà chúng ta không làm khổ mình, khổ người thì luôn luôn tâm hồn chúng ta thanh thản, an lạc; luôn luôn nó vui nó hạnh phúc, nó có gì đâu mà khổ nữa đâu?!
(54:51) Các con thấy, bây giờ mình ngồi đây, mình thấy mình buồn buồn, tức là tự mình đã làm khổ mình rồi, thì mình đâu có để tự làm khổ mình, tức là đạo đức không làm khổ mình, phải không?
Rồi có người chửi mình, mình không giận, không gì hết, tức là đạo đức không làm khổ mình. Thực sự ra nói về đạo đức mà không làm khổ người thì nó dễ, mà không làm khổ mình thì nó phải sáng suốt, mà sáng suốt thì mới không làm khổ mình, phải không?
Cho nên vấn đề mà tu ngay ở trong đạo Phật thì các con tu rất bình thường. Gia đình mình sống như thế nào, con cái sống như thế nào, sao mình cũng tùy thuận nhẫn nhục được hết, đó là mình tu rồi. Mình không làm khổ một người nào nữa hết. Hồi nào thì mình còn to tiếng, hôm nay mình nói ngọt ngào, nhẹ nhàng, làm cho người ta mến phục mình liền. Và như vậy từ mình mới lôi cuốn họ vào cái nền đạo đức.
Cũng như bây giờ mấy con thấy rằng, khi mà nghe Thầy nói như vậy Đại thừa sai, đồ này kia. Mấy con hồi nào tới giờ tập trung chị em mình đi chùa này kia. Bây giờ mấy con không đi: “Thôi, tôi học theo Nguyên Thủy rồi, tôi không có đi cúng bái nữa, tôi không đến chùa nữa”. Mấy con sai mấy con! Các bạn con còn đang đau khổ, chưa hiểu biết người ta mới lầm lạc, người ta đi chùa, người ta cúng bái, người ta làm những chuyện mê tín, mình cũng đi mình nhưng mà mình không làm điều đó nữa. Nhưng mình đi, may đâu cái chị nào đó mới hỏi: “Sao hôm nay chị sao lại không có tụng kinh, không có sám hối nữa mà chị đến đây chị ngồi chị chơi vậy? Chị ngồi ở gốc cây, tụi này vô tụng kinh ró ré”. Tụng xong rồi ra hỏi mình, mới nói: “Ngồi chơi khỏe hơn là tụng kinh mệt. Tại sao vậy? Tại vì tôi có học Thầy có dạy như thế này, thế này; Phật có dạy như thế này, thế này, cho nên tôi ngồi nãy giờ tôi khỏe hơn mấy chị, mấy chị tụng kinh mệt quá, thôi đi uống nước đi” ví dụ chẳng hạn.
(56:32) Nhưng mà các con đã đánh thức người ta một cách rất rõ ràng. Rồi từ đó người ta (từ từ thay đổi). Còn bây giờ mấy con theo Thầy, mấy con không thèm đến chùa nữa: “Thôi mấy ông chùa Đại thừa này tôi bỏ, tôi không đi nữa”. Như vậy là mấy con bỏ qua một cái dịp tốt, để vừa lợi ích cho mình, vừa lợi ích cho người. Lấy tất cả những người tu sai đó trở thành những bạn tốt của mình.
Còn bây giờ mấy con chia ra những người tu theo Đại thừa thôi đừng chơi với nó. Mấy con thấy như vậy là mấy con sai rồi mấy con, không đúng đâu! Cho nên mấy con sửa lại, mình cũng đi chùa, mấy Thầy cũng không biết cô Phật tử này hồi nào tới giờ cũng đi chùa bây giờ cũng đi chùa, nhưng mà cô này lại không tụng niệm, làm cách khác hơn. Cô này cũng không đến mà mua hương, đăng, hoa, quả, giấy, tiền, vàng, mã gì cúng nữa. Cô này không làm chuyện mà cúng bái như ngày xưa nữa, mà cô này đến thăm quan đồ xem, rồi ngồi chơi ở ngoài tảng đá hoặc là nơi nào đó, bóng cây, bóng mát ở chùa chơi thôi, chứ không có đến mà lễ Phật mà lạy ông này đã rồi tới lạy ông kia, không có làm như vậy.
Nhưng người ta thấy mình có lối sống mới, có cách thức sống rất là an ổn. Cho nên, có nhiều chị em người ta thấy vậy, người ta mới hỏi thăm. Do cái duyên mình tạo vậy người ta mới hỏi thăm mình mới hướng dẫn người ta được. Rồi mình dẫn nhẹ nhẹ, chứ đừng có nói: Đại thừa sai, mê tín này kia. Đừng có chửi người ta như vậy! Mà mình đừng có nói động người ta, mà mình nói: “Ờ, tôi tu thấy tu theo cái này nó an ổn lắm”, chứ đừng có nói cái sai người ta. Từ cái an ổn của mình, người ta mới thấy sao nó hay quá. Cho nên, người ta theo dần dần, đừng có chỉ trích gì hết, đừng có nói.
(58:01) Tại sao sách của Thầy lại nói Đại thừa sai? Là tại vì từ lâu tới giờ không có ai dám nói. Mà không nói thì ai biết sai, cho nên Thầy phải nói. Còn bây giờ mấy con biết rồi thì đừng có nói. Các con không có nói được, mà Thầy nói để cho những người đó biết. Và đồng thời bây giờ các con cứ lấy cái đúng mà theo. Còn những cái sai mấy con không nói. Mấy con nhờ Thầy nói mấy con biết sai. Nhưng mà khi người ta theo được cái đúng, lần lượt người ta hướng về mình rồi, thì mình mới nói: Đó! Như vậy, như vậy… Còn bây giờ dục không, người ta cố chấp cái đó, các con nói là các con có chuyện với họ, phải không?
Cho nên, khéo léo mà giúp đỡ nhau. Trong một xã hội loài người đông đảo, đâu phải riêng có một mình mình sống. Con tu tập theo đạo Phật riết rồi, mấy con tu cho con thôi chứ còn không có nghĩ gì đến ai nữa. Cho nên, sự thật đâu phải là đạo Phật ích kỷ đâu! Nhưng mà tại sao Thầy nói như thế này nè: “Mình tu chưa xong thì mình đừng hướng dẫn người khác!”. Bởi vì, tôi hướng dẫn người khác là cái bản ngã của mình muốn làm Thầy, chứ không phải là cái gì hết. Mình tránh cái này, chứ không phải là không hướng dẫn họ đi theo con đường tốt của mình. Mình sống đạo đức được thì mình hướng dẫn, cái hành động của mình mình hướng dẫn người ta rồi chứ đâu cần mình phải nói.
Cho nên, con đến chùa mà con làm cái kiểu của con thì người ta sẽ theo con nhiều. Mà chính đó là con đã hướng dẫn người ta bằng cái không tham vọng. Còn con thuyết giảng, con nói cái này, cái kia, cái nọ,… con khoe khoang con tu được cái này, cái kia,… điều đó đều sai mất hết!
Các con hiểu điều đó? Cái đó là cái tham vọng, bản ngã của mình. Nó lộ ra cho cái thấy của mình là mình mới có hiểu biết mà thôi cho nên trong kinh sách Phật nói: “Khi tu chưa xong thì đừng có dạy ai!” Miễn mình đến mình chơi chung với họ, mình tu theo mình thôi, họ thấy mình hay là họ dựa theo mình hà, chứ mình không dạy ai hết. Các con nên nhớ, đó là mình sống trong một cộng đồng, mình đừng có làm cho mình có cái vẻ riêng rẽ, mà cái cách riêng rẽ của mình nó cũng mang cái bản ngã. Nghĩa là mình riêng rẽ là mình đã mang cái bản ngã: “Tôi đúng, các anh sai!”. Thì ai lại cũng nói của mình đúng, chứ bao giờ có ai nói mình sai, thì cái bản ngã của mình là như vậy. Cho nên vì vậy, mình lấy cái đúng là mình thực hiện qua cái hành động đúng của mình, để ảnh hướng đến những người khác người ta sẽ làm tốt được.
(01:00:07) Như vậy là lời viết bức thư này, xin Thầy để dạy cho mấy con đạo đức. Tóm lại, thì các con hiểu đạo đức, đạo đức đó là mình phải tìm cái lời nói, từng cái hành động thân của mình, từng suy nghĩ của mình, thì mình phải suy nghĩ chín chắn những điều kiện đó trước khi mình nói mà không hại mình, hại người và hại cả hai, tức là hại mình hại người nữa thì mình sẽ nói ra, mình sẽ làm ra tất cả những cái này. Hành động mà tu tập như vậy gọi là sống đời sống đạo đức Nhân bản - Nhân quả không làm khổ mình, khổ người. Hành động suy nghĩ đó là hành động sống đạo đức Nhân bản - Nhân quả không làm khổ mình khổ người.
Vì sau một ngày nào đó các con có đọc sách Đạo Đức làm người, Thầy cũng dạy mấy con ở chỗ này để mà suy ra, nhìn rộng ra, từng cái hành động nhân quả đối xử với nhau rộng rãi ra, nhưng nó cũng nằm trong phương pháp, từ hành động, suy nghĩ của chúng ta đúng sai ở này đó ở trong chỗ không hại mình, hại người, hại cả hai thì chúng ta sẽ thực hiện lời nói, hành động, của chúng ta hay hoặc suy nghĩ này.
Đó thì tóm lại cái bài pháp, đó là đạo đức bằng cách tư duy, suy nghĩ trên ba hành động: Thân, khẩu, ý của chúng ta mà thôi. Các con nhớ chưa?
Nhớ được như vậy thì các con sẽ về sống gia đình. Nghĩa là trong gia đình mình ăn ba bữa, mình vẫn ăn ba bữa, nhưng mình biết pháp, mình không bị lôi cuốn tại vì mình tùy thuận mình ăn, mình biết ăn nhiều nó không tốt đâu. Cho nên trưa mình ăn no, nhưng mà sáng mình ăn cũng vui vẻ, mình uống 1 ly sữa, hoặc ăn cái bánh chút xíu nào thôi chứ mình không ăn như người khác. Đó là mình thay đổi rồi. Như vậy là mình đã vừa tùy thuận làm cho vui lòng, mà mình không bị lôi cuốn trong cái ăn uống phè phỡn, ăn uống nhiều, ăn uống cho tức bụng thì mình không có làm điều đó.
Cho nên do đó là mấy con đã khéo léo, đã làm cho gia đình vui vẻ. Mọi người trong gia đình mình thấy mình cũng vui vẻ, tu hành theo đạo Phật sao nay coi vui vẻ, luôn luôn lúc nào cũng không thấy có giận hờn, tức giận gì hết. Rồi ăn uống cũng bình thường.
Còn giờ mình làm khác, mình về ăn ngày một bữa. Nhờ ăn một bữa mà giờ cũng giận, thì tức là người ta cũng nói ăn một bữa thấy sao ốm quá. Do đó người ta nói: Trời! Ốm quá, vậy mà tu tập cái gì. Cho nên vì vậy mình cũng vẫn bình thường. Bình thường, mình ăn ít thì nó cũng sẽ ốm nhưng mà cái ốm người ta cũng vẫn thấy mình ăn nhiều bữa người ta không trách mình. Cho nên mấy con phải khéo léo. Cho nên đức Phật nói là thiện xảo trong sự tu tập của mình. Thì ngay từ cái đầu mà đạo đức mình biết tu tập như vậy cũng là rất giải thoát rồi, đâu cần đòi hỏi gì thêm nữa.
Tiếp theo bức thư này thì Thầy sẽ trả lời thêm một số vấn đề của câu hỏi.
(01:02:50) Hỏi: “Liễu Thiện con xin đặt ra một số vấn đề, nhờ Thầy giảng rõ cho mọi người hiểu, cho thông đạo đức nhân bản không làm khổ mình khổ người. Tất cả mọi người đều sinh ra từ môi trường nhân quả cho nên phải vui vẻ sống trong môi trường đó, không được phép trốn chạy”.
Đây là ý của Liễu Thiện. Từ lâu, khi nó rút tỉa qua những bài học đối xử trong gia đình, nó gặp rất nhiều khó khăn. Cuối cùng nó biết cách thức xả cho nên nó có ghi nhận lại những điều này. Trong cái tập “Diễn đàn Chơn Như- tập 7”, thì có kinh nghiệm nó viết, nó nói ra. Thầy thấy rằng cái sự tu tập như thế này là nó đúng cách của đạo Phật. Căn bản của đạo Phật, khi vào đạo thì phải là làm con người cho đúng cách của con người. Chứ chưa phải là mình chưa có làm cho đúng đạo đức của con người mà vội vào chùa mà tu cái này hoặc tập cái kia, ngồi thiền, hít thở… Nhiều khi cái sự xả tâm, sự tùy thuận, nhẫn nhục này chưa trọn vẹn mà đi vào chỗ tu tập mà cao hơn thì chắc chắn là mình mất cơ bản, mất nền tảng vững chắc của con đường tu của đạo Phật.
Cho nên, đạo Phật lấy giới luật mà làm pháp đầu tiên chúng ta tu: Giới- Định- Tuệ. Vậy thì giới luật là gì? Là đạo đức! Mà đạo đức từ trong gia đình, trong xã hội cho đến khi mà vào chùa. Để thực hiện được đạo đức ở trong chùa, thì cái đạo đức trong chùa đó là những đạo đức của bậc Thánh.
Cũng như bây giờ, các con thấy các con ăn ngày ba bữa, sống biết suy nghĩ, từng lời nói, từng hành động của mình để không làm khổ mình, khổ người thì các con sống Đạo Đức Làm Người. Mà bắt đầu bây giờ, mấy con thọ Bát Quan Trai, tức là các con sống một đời sống của những bậc Thánh rồi. Cho nên, các con vội vàng làm bây giờ cho gia đình mình buồn phiền, mà ngồi làm Thánh thì ông Thánh này nó trật mất rồi! Có phải không? Thánh gì mà chồng không cho ăn ngày một bữa, mà cố gắng tôi cãi, tôi ăn ngày một bữa, tức quá trời! Có phải không? Như vậy là Thánh sai rồi, có phải không?
Người mình chưa có làm cho mọi người vui lòng mà mình muốn là Thánh mình ngồi đó mà bao nhiêu người, con cái nó tức quá: “Bà đi tu sao mà bây giờ bà để cho mấy con ăn ngồi có một mình như thế này?”. Mấy con hiểu điều đó chưa?
Cho nên, làm người chưa được mà đòi là Thánh. Cho nên vì vậy, thọ Bát Quan Trai là muốn làm Thánh rồi chứ gì? Thì như vậy mấy con đã sai mất rồi!
Cho nên chúng ta phải thực hiện được cái đời sống, để kéo hết cả một chùm nhân quả của chúng ta, cả gia đình chúng ta điều hiểu Phật pháp. Khi chúng ta ăn chay là chúng ta làm sao mà chúng ta thực hiện như thế nào để cho gia đình mình ăn chay hết. Cái đó là cái hay! Đừng có nghĩ rằng tôi sẽ giải thoát, còn con cái nó đọa địa ngục kệ nó! Các con có nghĩ điều đó không? Nếu mà các con nói tôi thương con, thương cháu, thương chồng mà tôi đi tu, như vậy thì tôi có thương không? Sự thật ra tôi nói thương, thiệt ra tôi thương cho cái gì tôi, Thầy cũng chẳng biết nữa!
(01:05:57) Thương thì mình phải hòa hợp, mình làm sao lôi hết cái nhóm này đi. Mình biết cái này hay mà tại sao đi một mình hà! Những người này xuống địa ngục, kệ họ. Thì như vậy là chưa phải hay đâu!
Cho nên mình cố gắng, mình khắc phục gia đình của mình, bằng cách như thế nào để mình làm cho được cái đạo đức làm người trước đã. Đó là những điều, bởi vì mình còn ở trong vòng nhân quả, mà mình muốn thoát ra cái vòng nhân quả đâu phải dễ! Cho nên khi hở một chút, mình đụng một chút thì bắt đầu nhân quả nó tác động liền, nó làm mình khổ đau hơn nữa.
Cho nên, có nhiều người khi nghe được Phật pháp rồi ham quá. Không ngờ đụng tới nhân quả cái bắt đầu trời ơi, cái gia đình của mình nó như là cái địa ngục, nó khổ đau hết sức khổ đau, chỉ còn nước mà muốn trốn chạy thôi. Nhưng mà các con trốn chạy khỏi không? Bây giờ các con có về Tu viện Chơn Như, các con ngồi tu, ngồi một mình, cô đơn buồn bã, bắt đầu nó nhớ con, nhớ cái, rồi nó nhớ những hình ảnh này các con có chịu ngồi đó nổi không?
Cuối cùng, các con cũng xách gói về hà. Cho nên, mình giải quyết được ổn định hết gia đình của mình đều hoàn toàn có một hướng về đạo Phật, thì bắt đầu bấy giờ các con có đi đến chỗ mà các con tu tập để giải thoát, các con ngồi trong Tu viện, các con ngồi nghe an ổn. Gia đình của mình người nào người ta cũng biết về cái hướng đó rồi, mình tu được người ta còn mừng nữa, người ta lo mà người ta theo mình chứ gì! Cho nên, hằng ngày nhờ cái hình ảnh gia đình của mình nó sách tấn mình rất lớn, trên cái sự tu tập.
Các con đừng có nghĩ rằng khi tu tập, mà mình thọ Bát Quan Trai: “Ờ, chủ nhật này tôi đi Thọ Bát Quan Trai, ông ở nhà nấu cơm, làm gì làm, tôi không biết à”. Tu kiểu này, chắc chắn là cái Địa ngục nó tới mấy con, chứ chưa chắc là Thiên đàng nó mở cửa đâu!
(01:07:36) “Tất cả mọi người đều sinh ra từ môi trường nhân quả, cho nên phải vui vẻ sống trong môi trường đó, không được phép trốn chạy”. Nghĩa là chúng ta không được trốn chạy nó. Chúng ta trốn chạy là ví dụ bây giờ: Một tháng tôi sẽ thọ Bát Quan Trai, mà gia đình của mình chưa chấp nhận, mà mình vội mình làm như vậy, thì tức là mình trốn chạy nó. Mình trốn chạy nó thì nó sẽ phản ứng lại mình đó. Cho nên, cách thức đó mà làm cho mình rối thêm. Rồi trong những ngày mà thọ Bát Quan Trai chưa hẳn đã thanh tịnh, vì gia đình của mình như vậy không bao giờ thanh tịnh cho mình được hết. Nó là cái khó!
“Ví dụ: Từ trước ta chưa có hữu duyên được gặp chánh pháp, ta vẫn sinh hoạt vui vẻ cùng chị em, bạn bè, ta vẫn đi chùa cầu kinh, lễ Phật cùng họ trong sự hiểu biết. Nhưng giờ đây được gặp chánh pháp, được hiểu đâu là thiện, đâu là ác, điều gì có lợi ích, điều gì không lợi ích, nên ta buông bỏ, không theo nữa. Nhưng không có nghĩa là ta vứt bỏ tất cả mọi quan hệ bà con, bạn bè trước đây”. Nghĩa là bây giờ mình biết rồi, thì các con có cái sai là khi biết rồi thì mình không có quan hệ với bạn bè nữa. Nghe nói độc cư rồi bắt đầu bây giờ mình làm Thánh độc cư luôn. Không chơi với ai nữa hết, đóng cửa lại không có chơi người nào nữa hết.
Cuối cùng, các con thấy các con buông bỏ hết tất cả những sự quan hệ thân tình của mình đối với những người bạn bè, tất cả những người thân của mình cũng bỏ hết. Mình nghĩ là mình làm Phật liền, sao được!
Cho nên vì vậy, các con thấy Liễu Thiện nói rất đúng! Và rất đúng chỗ mà từ bản thân suy nghĩ, từ chỗ nó tu tập, nó đã làm đúng. Cho nên, Thầy thấy rất hay, là nó biết đi vào nền đạo đức Nhân bản- Nhân quả, nó không vứt bỏ cái điều này. Nghĩa là chúng ta vứt bỏ tâm trạng ham muốn của chúng ta, chứ không phải chúng ta vứt bỏ những quan hệ của xã hội, quan hệ của gia đình, của tất cả những người xung quanh chúng ta. Chúng ta không vứt bỏ những sự quan hệ đó.
(01:09:46) “Nhưng không có nghĩa là ta vứt bỏ tất cả mọi quan hệ bà con, bạn bè trước đây. Cho rằng ta được gặp chánh pháp rồi, còn tất cả người kia là tà pháp. Từ đó sẽ sinh ra sự chống trái nhau, thì thử hỏi như thế có đúng tinh thần của đạo Phật không?”
Đó, mình tự hỏi mình làm như vậy có đúng không? Đạo Phật là đạo đem đến sự giải thoát cho mình, cho người, tức là không làm khổ mình, khổ người. Thế mà mình bỏ hết những sự quan hệ đó thì tự hỏi mình tu tập như vậy, mình có đúng không?
Sự thật ra, Thầy muốn nói độc cư là chỉ cái người đi vào chuyên sâu, để mà người ta thực hiện Thiền Định người ta mới độc cư. Còn mấy con bây giờ, nào là chăm con, chăm cái, nào là ôm cháu, giúp đỡ cho con cái mình công việc này, công việc kia. Mà bây giờ đó mình cũng muốn độc cư cái kiểu này thì nó chưa có thuận, nó làm cho mình trở thành một cái nghịch cảnh. Vì vậy mình phải thực hiện đúng, rồi lần lượt cái duyên nó tới đâu thì mình thực hiện tới đó. Mình đã biết được con đường đi từ thấp đến cao. Do đó, mình phải tu cái gì trước và tu cái gì sau.
“Ngược lại, ta phải suy nghĩ và thương lại bạn bè. Trước đây ta cũng như họ, cũng bị vô minh ngăn che nên cũng hao tiền, mất thời gian mà không được ích lợi gì, nên ta vẫn vui vẻ, sống hòa đồng với mọi người. Đừng tự mình tách riêng ra, vì chúng ta sinh ra từ nhân quả, hiện nay đang sống giữa cộng đồng nên phải hòa mình vào cộng đồng. Nhưng ta có trí tuệ hơn, ta được học đạo đức nhân bản, nên ta không bị lôi cuốn theo ác pháp làm những điều vô nghĩa, mất thời gian kiếm tiền. Ta phải sống làm sao để mọi người nhìn vào bằng con mắt thán phục, để mọi người hiểu rằng, con người này từ ngày không đi lễ chùa cầu kinh, cúng bái với mình nữa mà sao họ sống thanh thản, an lạc quá; họ sống hiền lành, hiền hoà có đạo đức quá. Từ đó họ sẽ lân la làm quen với ta để hỏi về kinh sách, hỏi về cách thức tu. Thì từ đó, bằng khả năng của mình ta sẽ nói cho họ biết, đồng thời cho họ mượn sách để họ đọc, chứ chúng ta đừng coi thường, đừng tranh luận đúng sai với họ. Nếu có dịp đi chùa ta vẫn đi bình thường, nhưng giờ đây ta đi với trí tuệ chứ không phải bằng sự vô minh. Vì thực ra ngôi chùa hoàn toàn không có lỗi, mà đó là nơi ghi lại công ơn của các bậc tiền bối”.
(01:13:03) Đó là lời của Liễu Thiện nói. Như vậy, nó đã nghĩ và đã làm được như vậy. Thì ở đây Thầy thấy qua bức thư nó gửi đến Thầy, thì Thầy cũng đem cái này để chúng ta học theo cái cách này là tu đúng đạo đức của đạo Phật, không làm khổ mình, khổ người mà còn lợi ích. Đừng nghe Đại thừa nói rằng chúng ta tu theo Tiểu thừa là ích kỷ, tu cho mình không có tu cho ai hết, không phải!
Qua cái lời này của Liễu Thiện, nó còn hơn những người Đại thừa nữa mấy con. Nghĩa là chúng ta tu cho mình, mà tu cho mọi người nữa. Vì cái hành động làm đúng thì người ta thấy được mình tu sao mà bây giờ mình được giải thoát, được thanh thản như vậy. Thì mọi người mình gần gũi người ta, mình thấy vui, không có bỏ những cái sự cộng đồng chung nhau, cho nên người ta mới nhìn thấy được. Người ta nhìn thấy được thì người sẽ hỏi, từ đó cái duyên mà người ta hỏi đó thì mình mới có điều kiện mình giúp đỡ họ. Từ những lời nói, cho đến những kinh sách mình có được, mình cho họ mượn, từ đó giúp cho họ cũng thoát khổ như mình. Như vậy rõ ràng là người tu Nguyên Thủy đâu có nghĩa là ích kỷ, đâu có không làm hạnh Bồ Tát,Cho nên ở đây, Thầy thiết nghĩ rằng từ chỗ mà sơ khởi đầu tiên mà chúng ta tu theo đạo Phật là đạo đức Nhân bản- Nhân quả. Mấy con nhớ kỹ, chúng ta phải thực hành cho nó cuộc sống của chúng ta đem lại hạnh phúc cho gia đình chúng ta. Để rồi người trong gia đình chúng ta, từ chồng, con cái của mình, từ vợ con của mình thấy được. Từ đó họ sẽ hướng với mình một hướng với nhau. Và đồng thời mình sẽ có đủ duyên, mình mới sống một mình độc cư trọn vẹn, để mình đi sâu hơn nữa. Và mình là người cầm ngọn đuốc để dẫn cả gia đình mình đi, chứ không phải mình đi cho một mình.
Các con nhớ, đây là căn bản nhất mà chúng ta cần học và tu. Vì mọi người cư sĩ chúng ta ở đây đều là những người có gia đình tất cả. Trừ ra những người còn tuổi nhỏ, chưa có gia đình mà quyết đi tu thì chúng ta hãy bước vào chùa để mà chúng ta học hỏi những điều… đó là người chưa có gia đình. Còn người có gia đình là họ bị nhân quả trói buộc, thì chúng ta cần phải sống, ở đây tu hành một thời gian mà người ta xem thấy được cái phạm hạnh của mình sống ở đây được thì người ta chấp nhận.
(01:15:27) Ví dụ bây giờ, Thầy cho các con vào ở đây bốn tháng, như đức Phật nói là khi vào 4 tháng mà Phật và chúng Tỳ kheo thấy được thì cho xuất gia. Thì bây giờ các con là những người chưa có gia đình, chưa có lập gia đình gì hết, cái duyên tốt còn trẻ tuổi, nó không có ràng buộc của Ái kiết sử, thì những người đó đến đây xin đều được chấp nhận ở đây tu. Nhưng mà xuất gia thì chưa cho, là vì còn trắc nghiệm coi thử coi cái đời sống phạm hạnh có thích hợp với họ không? Họ đến, họ sống ở đây trong 4 tháng, mà thấy hoàn toàn họ sống độc cư. Ăn, ngủ họ không có còn phi thời nữa. Rồi họ biết nhẫn nhục, tùy thuận bằng lòng trong mọi sự kiện.
Bây giờ ví dụ như, bữa nay cô Út cho ăn cơm muối, họ cũng vui vẻ ăn, mai cho ăn đồ rất ngon họ cũng bình thường, là biết cái người này đã tùy thuận được trên sự sống của họ rồi. Do đó, họ được quyền xuất gia hẳn hòi. Và ngay đó Thầy là người đứng ra làm lễ xuất gia cho họ, truyền những giới luật cần thiết cho họ. Khi đó mới là chấp nhận họ, chứ còn bây giờ họ còn nói chuyện, họ còn sống phi thời, ăn uống phi thời mà xuất gia cho họ, họ thành tu sĩ rồi tu sĩ này ra sao mấy con? Mấy con thấy tu sĩ này có đúng không?
Họ sống không đúng phạm hạnh rồi, không đúng giới luật này rồi, thì như vậy làm sao mà xuất gia cho họ? Thì xuất gia thì có cái hình thức mặc cái áo, cạo cái đầu trọc, đi ra họ nói: “Trời, cái ông Thầy này sao giống đời quá! Ông ăn uống cũng như đời, rồi ông sống ông nói chuyện bu lu ba la”. Thì như vậy rõ ràng là người ta phỉ báng Phật pháp, chớ ích lợi gì!
Cho nên, khi mà xuất gia thì mấy con phải biết. Muốn xuất gia không phải đến đây xin xuất gia là Thầy cho xuất gia. Vì vậy, mà mấy con xuất gia là trở thành vị tu sĩ chứ gì, dù tuổi mấy con lớn hoặc là nhỏ, đều hoàn toàn mấy con được ở đây Thầy trắc nghiệm 4 tháng. Như đức Phật ngày xưa cho một người vào tu, phải 4 tháng ở đây, sống được đúng phạm hạnh. Tức là phạm hạnh ngày xưa đức Phật gọi là phạm hạnh đó, là giới luật đó. Đúng những tiêu chuẩn giới luật, thì chừng đó thấy cái người này sống đúng vậy là cho họ xuất gia.
(01:17:36) Còn mấy con muốn xuất gia mau quá, mấy con thấy Thầy chưa cho xuất gia, mấy con lật đật cạo cái đầu này đi, rồi coi y áo ai đó xin cái mặc vô. Thôi thiên hạ thấy tưởng ông Thầy thật, chắp tay xá lia lịa. Nhưng cuối cùng mình có ra gì mấy con! Lôi thôi học đâu ba mớ gì kinh Đại thừa cũng có, những lời Phật dạy Nguyên Thuỷ có, gặp ai cũng thuyết giảng tùm lum, mà còn nói thiền nói đạo nữa.
Trời ơi! Cái vấn đề này là vấn đề đau lòng nhất. Giới luật không biết, không hiểu phạm hạnh, đức hạnh ra sao hết, mà dám coi như là mình là người xuất gia. Thiệt ra thì, coi như hành động đó là hành động phỉ báng Phật pháp, chứ không phải là hành động đúng! Bởi vì, đức Phật nói trùng trong lông sư tử là cái hạng người này.
Cho nên, khi mà muốn xuất gia tu trở thành tu sĩ, trước khi mặc áo như Thầy, thì được một vị giới luật nuôi dưỡng mình, trắc nghiệm mình, thử thách mình, để xem coi mình sống đúng đời sống phạm hạnh đó chưa? Nếu sống được thì người ta sẽ làm một cái lễ, người ta cũng không làm cái lễ gì như ở bên Đại thừa rườm rà đâu. Người ta đến đó, thì người ta nói, người ta tuyên bố rằng hôm nay là những phạm hạnh mà Phật tử đã sống được như vậy hay hoặc là con đã sống được như vậy, con xứng đáng là một người đệ tử của Tu viện này, hay là người đệ tử của Phật, trở thành một vị Tăng, vị Ni xứng đáng. Người ta chỉ cần nói như vậy là đủ rồi, người ta sẽ xuống tóc, người ta trao y bát cho người đó. Người ta truyền cho cách thức, người ta dạy những hành động sống, đi xin ăn như thế nào? Ôm bát như thế nào? Ăn uống trong bát như thế nào? Cách thức của một người tu sĩ như thế nào? Rồi lần lượt người ta dạy cách thức vấn y, đắp y như thế nào? Để rồi mình trở thành hoàn chỉnh là một người tu sĩ. Chứ còn khơi khơi cái rồi mặc áo rồi đi vô, Thầy nói nhiều người là một tu sĩ mà chưa có oai nghi tế hạnh gì hết.
Cho nên, ở đây có một vị xin Thầy xuất gia, tức là ham muốn, nhưng mà cái hoàn cảnh gia đình có gia đình, thì chắc chắn cái điều này Thầy sẽ xét lại, để rồi Thầy sẽ coi, rồi trong khi đó muốn xuất gia thì xem coi trong gia đình, coi nó tốt hay là xấu.
“Từ trước đến nay đêm nào con cũng cầu nguyện cho con gặp được vị minh sư và cho con được xuống tóc xuất gia, con nguyện sẽ cố gắng!”
(01:20:13) Trưởng lão: Do đó thì mấy con biết, tập trung vào cái hơi thở thì vừa biết hơi thở nhưng mà mình vừa có sự tập trung ở trong cái xúc giác, cái miệng của mình, tức là nó có những hạch mà tiết ra nước miếng, mình tập trung ngay những cái điều kiện đó không ngờ là, ví dụ như mình vừa biết hơi thở ra vô mà mình vừa chú ý ở trong cái miệng của mình. Tức là mình, phải nói rằng mình phải có sự nhìn qua cái miệng của mình xì hơi, cho nên do đó mà nó tác động ra. Cho nên nếu mà ngồi ngậm miệng lại mà Thầy tu, mà Thầy chú ý ở chỗ cái lưỡi Thầy ngậm nó, thì tức là một hơi nó có nước miếng nó tác động ra.
Do cái chỗ mình tu sai như vậy đó, là do chỗ tu tập trung không đúng nơi vị trí của nó cho nên nó bị sai, nó mới ra nước miếng. Như vậy thì bắt đầu bây giờ chúng ta tu như thế nào?
Thì chúng ta phải nhắc như thế này, đừng có để chúng ta hít thở một cách thường, mà chúng ta phải nhắc: “Hít”, là phải tập trung ngay chỗ nhân trung, cảm giác như hơi thở từ đây mà ra, thì do đó hít vô thì chúng ta cứ tập trung ngay chỗ này, chúng ta nghe cái hơi thở từ đây xuất phát đi vô. Đừng có để ý cái lưỡi chúng ta nữa, thì nó không có ra nước miếng nữa, nó sẽ hết liền. Do như vậy, đừng có để ý trong cái miệng của chúng ta nữa, thì nó sẽ không có tác động những cái hạch tiết nước miếng, có nghĩa trong miệng của mình nó có những hạch tiết nước miếng. Khi mình bỏ một miếng đồ chua hoặc đồ ăn ngọt gì đó nó sẽ tiết ra nước miếng, nó làm cho nước bọt của mình tiết ra. Còn bây giờ, do tập trung ngay chỗ này, cho nên nó trật là trong khi mình tập trung hơi thở mà cảm nhận nơi những cái hạch tiết nước miếng trong miệng của chúng ta.
(01:22:04) Đó là một cái sai, cho nên vì vậy mà chúng ta phải tập lại. Tập lại như thế nào? Bởi vì nó quen cái này rồi, cho nên chúng ta bảo: “Hít” là chúng ta nhớ rằng mình ở nơi cái nhân trung của chúng ta đây, là mình cảm nhận hơi thở của mình nó từ đây nó hít vô, và cũng thấy từ đây nó xuất phát ra hơi thở. Cứ tập trung nơi chỗ đó, thì một thời gian sau thì con sẽ không còn có tiết nước miếng nữa. Đó là những điều mà tu tập cho nó đừng có sai. Còn nếu mà thấy nó cứ như vậy hoài mà nó không được, thì thôi không tu hơi thở này nữa. Coi như là con dẹp hơi thở không tu.
Bây giờ tu dưới bước chân coi nước miếng nó ra không? Bởi vì con tập trung dưới chân làm sao nó ở trong miệng nó biết đâu nó ra. Cho nên vì vậy, mà tập trung dưới bàn chân chúng ta, chúng ta tu thân hành ngoại. Tu thân hành nội không được thì chúng ta tu thân hành ngoại. Sau khi tu những cái pháp khác rồi chúng ta thấy nó an trú được rồi thì chúng ta trở về với pháp hơi thở thì nó không có sao hết, nó hết rồi. Bởi vì, nó quen rồi thì mình hít vô thì nó vô hơi thở, mà nó không tập trung ở chỗ khác nữa.
(01:23:09) Câu thứ hai: “Khi ngồi kiết già mắt hành giả nhắm lại hay mở mắt?”
Đó là câu hỏi mình nhắm lại hay là mình mở mắt khi mình ngồi kiết già để mình tu như hơi thở hay hoặc là một phương pháp Định Vô Lậu đặt đề mục ra mình tu, thì mình nên nhắm mắt hay là mở mắt.
“Nhắm mắt lại thì tâm con nó an, còn mở mắt ra thì tâm nó dao động và nước miếng chảy, như vậy thì phải làm sao, thưa Thầy?”
Thì ở đây cái câu này Thầy trả lời, người tu theo Phật thì chúng ta không nên nhắm mắt, mà cũng không nên mở mắt to, mà chỉ nhìn xuống cho đôi mắt mình mở một phần ba mà thôi, nghĩa là trong ba phần mắt mình mở có một phần đó là đúng cách. Nhưng vì chúng ta không nhiếp phục được tâm, không an trú được tâm, cho nên tuy rằng mở con mắt như thế này, mà nhìn xuống như vậy nó vẫn còn cái sự dao động, nó còn cái niệm khác nó xen vô, cho nên buộc lòng chúng ta phải nhắm mắt lại. Khi mà tâm nó tỉnh táo hẳn hòi, thì chúng nhắm mắt lại thì nó dễ nhiếp tâm trong hơi thở hoặc là dễ nhiếp tâm trong pháp hơn thì nhắm mắt lại. Mà khi mà đã quen nhiếp tâm rồi thì chúng ta nên tập mở một phần ba mắt, chứ không được mà mở to, mà cũng không được nhắm mắt, vì nhắm mắt nó dễ bị đi vào hôn trầm.
Cho nên ở đây khi mà tỉnh, nó hay có niệm cho nên buộc lòng chúng ta phải nhắm mắt lại để thu nhiếp tâm của mình nó dễ hơn. Mới đầu tu thì nhắm mắt được, nhưng mà sau khi tu mà thấy nó hôn trầm, thùy miên thì chúng ta không nên nhắm mắt, phải mở mắt để mà phá đi những cái hôn trầm, thùy miên.
Đó! Như vậy thì trong cái vấn đề nhắm mắt hay mở mắt thì Thầy đã giải quyết cho, khi mà bị hôn trầm, thùy miên thì nên mở mắt. Mà khi tu mà bị dao động, tức là tâm bị động, tức là nó có niệm khởi xen vô xen ra, do đó chúng ta nên nhắm mắt. Nhắm mắt để mà chúng ta lắng, dùng cái sức tưởng chúng ta như cái hơi thở ra, vô cho nó rõ ràng.
(01:25:24) Và đồng thời thì khi đó mình muốn cho hơi thở ra, vô mà nó không tập trung ở trong cái miệng của mình nữa, thì do đó mình nên tác ý: “Hít”, thì mình hít vô; “thở”, mình mới thở ra. Do đó, nó có hướng dẫn trước, cũng như có một người hướng dẫn trước, cũng như có một người nhắc tuồng, mình làm theo sao, mình nhắc: “Hít”, đó bây giờ cái đó là người nhắc mình rồi, thì bắt đầu đó mình hít vô. Rồi bây giờ thở, mình nhắc: “Thở”, có người nhắc rồi mình mới thở ra. Làm như vậy nó rất cứng cáp cho cái hơi thở của chúng ta.
Và đồng thời chúng ta cứ tập như vậy thì tùy theo, chứ nếu mà chúng ta không có…(không nghe rõ), thì chúng ta tập 10 phút, 20 phút, 30 phút thì nó sẽ nặng đầu, bởi vì cái đó là cái sức tập trung cao. Mình tác ý từng hơi thở của chúng ta.
(01:26:11) Cho nên, trong khi mà các con tu Pháp Thân Hành Niệm đó, các con biết khi ngồi xuống không có nghĩa là hít thở mà tự hít thở 5 hơi thở rồi im đâu, im re vầy đâu. Mấy con ngồi từng cái hơi thở, cũng như từng cái hành động đưa cánh tay ra thì mấy con phải nhắc: “Đưa tay ra”, thì tay ra; “đưa tay vào”, thì đưa tay vào. Vì vậy cho nên hít thì mình cũng phải nhắc: “Hít”, hít vô; “thở”, mới thở ra. “Hít”, “thở”, “hít”, “thở” cho đúng 5 hơi thở thì mình xả ra, mình đứng dậy mình đi kinh hành. Chứ không phải là tới hơi thở rồi làm thinh đó hít thở 5 hơi thở như mình tu Định Niệm Hơi Thở thì mấy con đã tu sai.
Còn bây giờ vì cái trường hợp tu Định Niệm Hơi Thở mà nó có những cái tập trung sai, cho nên mình sử dụng hít thở có những cái loạn động, có những vọng tưởng mà nó hay xen vô, cho nên mình an trú tâm mình trong hơi thở không được, buộc lòng mình phải nhắc, phải dẫn nó từng hơi thở, từng hơi thở. Cho nên cuối cùng mình tu không có vọng tưởng đâu. Các con hiểu chỗ đó chưa?
Cho nên, có nhiều người ngồi tu hơi thở mà vọng tưởng quá trời. Rồi sau nó hết vọng tưởng thì nó lại hôn trầm. Cho nên các con nhớ, các con nhắc như vậy là hôn trầm nó cũng không vô được nữa. Bởi vậy, cho nên hôn trầm, thùy miên là do cái phương pháp tác ý theo hành động của nó thì nó sẽ phá đi, nó không còn hôn trầm, thùy miên. Đó là tất cả những kinh nghiệm mà ở đây nói ra để cho con biết cách thức mà con tu tập. Hầu như cái người mà người ta an trú người ta nhiếp tâm được là người ta nhờ người ta dẫn cái tâm người ta vào từng chút, từng chút như vậy. Các con nhớ rõ rồi phải không? Vậy là không bao giờ mấy con còn tu sai nữa đâu.
(01:27:38) Câu hỏi thứ ba: Tu Định Niệm Hơi Thở trong năm 2003. Hai tháng đầu tác ý: “An tịnh thân hành; an tịnh tâm hành”. Căn cứ tu đề mục được 30 phút, đuổi bệnh được 30 phút, tổng tu là 60 phút ngồi. Thế mà tháng 3, thì tác ý trơ trơ tại chỗ.
HẾT BĂNG
THỌ BÁT QUAN TRAI 02 - QUÁN TƯỞNG - SƠ LƯỢC CHƯƠNG TRÌNH HỌC TU
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Thời gian: 13/05/2012
Thời lượng: [01:25:30]
(00:00) Trưởng lão: Liễu Kim hỏi Thầy cách thức mà tu tập qua đặc tướng của mình. Trong khi tu tập thì nếu mà muốn biết đặc tướng của con, thì tức là con phải trình bày cái vấn đề tu tập của con. Trong khi ví dụ như con tập về cái hơi thở, con ngồi con hít thở thì kiểm tra lại coi cái hơi thở của con nó có hợp với con không? Tức là hợp là hợp với đặc tướng, mà không hợp là không hợp.
Rồi bây giờ con đi kinh hành, con đi cái kiểu này, Thầy thấy con nhiếp tâm không được. Thì tức là biết nó không hợp. Mà nhiếp tâm được là nó hợp, chứ không có gì hết. Còn nếu con tự xét thấy bây giờ mình tu cái này sao mà nghe nó chướng, nó không hợp. Tức là nó làm cho con chướng ngại, nó mệt, thở không được, thì tức là biết là tu sai, không đúng rồi, không đúng đặc tướng mình rồi.
Mình đi kinh hành mình thấy thanh thản, an lạc. Mình hít thở, mình nghe nó nhẹ nhàng, khoan khoái thì đó là con tu đúng. Tức là hợp với đặc tướng của mình. Trong cái hơi thở đó hoặc trong cái bước đi đó thì nó là hợp. Mà tu mà thấy nó không an ổn mình, thì tức là sai. Mà tức là sai thì mấy con phải cần gặp riêng Thầy, thì Thầy mới dạy cho chứ bây giờ đông người thì con ra đây, mà con trình bày thì nó không có chỗ trình bày. Con hiểu không?
Cho nên muốn hợp với đặc tướng của mình, thì mình xét qua mình coi mình có hợp không? Bây giờ nói về hơi thở, các con hít thở các con có thấy an lạc không? Nếu mà có an lạc mà nó không có niệm, nó an ổn cho mình thì đó là nó hợp với cái hít thở đó. Còn nếu mà hít thở đó, nó không hợp, thì nó sẽ có chướng ngại, nó làm cho con khó thở, làm cho con mệt, con tức, đó là sai. Mà bây giờ mình không biết cách nào mình sửa, không biết cách nào mình tu tập cho được. Bắt đầu bây giờ đó gặp Thầy, thì do đó mà Thầy kiểm lại coi con thở cách nào mà nó mà nó xảy ra như vậy, và đồng thời Thầy hướng dẫn cách thức thở trở lại, hoặc là cái đi, hoặc là tập những cái pháp khác cũng vậy, gọi là đúng đặc tướng của mình. Nghĩa là đúng đặc tướng của mình thì nó sẽ đem đến cái sự giải thoát an lạc cho mình liền, mà không đúng thì nó xảy ra những sự chướng ngại cho mình.
(02:07) Thì khi gặp những chướng ngại đó mà mình muốn biết cái pháp đó nó có hợp với mình không, tức là đúng đặc tướng của mình không mà mình tu hoài không được, mình tìm cách này cách kia không được thì cứ đến đây mà tìm Thầy mà hỏi thì Thầy sẽ hướng dẫn cho cách thức tu tập thì nó sẽ hợp với mình, nó sẽ đem lại sự an lạc giải thoát cho chính mình, gọi là đúng đặc tướng. Đó nhớ chưa, chứ còn bây giờ mà đi mà đứng ra đây thì con không có đường vô đây rồi. Nghĩa là mọi người, người ta đã ngồi hết làm sao con có đường vô. Cho nên vì vậy mà để chờ cái lúc nào mà được cái dịp mà rảnh thì con cứ gặp Thầy, thì Thầy sẽ hướng dẫn cho đặc tướng. Khi nhận xét cái pháp mình tu nó thấy chướng ngại thì cứ đến hỏi Thầy.
(02:51) À hôm nay có người gởi cho Thầy, để báo cho Thầy biết, rằng tất cả mọi người các con biết. Mặc dù nước mình bơm dưới hồ lên, nhưng vẫn phải tốn điện, mà mình xả như vậy phải bơm hoài. Cho nên khi mình vào đi cầu, hoặc là tắm giặt, hoặc là rửa bát, khi đó mình xả ra rồi thì mình đóng lại, đừng có để nước như vậy, phí quá nhiều. Bởi vì các con biết khi mà Thầy uống một ly nước như thế này, mà chưa hết nhất định cái cặn cũng không được đổ nữa, bởi vì nó là cái sự sống. Thầy đã dạy cho mấy con đạo đức hiếu sinh mà, thương yêu sự sống. Nước là cái sự sống cho ai, cho mình, cho vạn vật, mà nếu mình phí, là mình phí sự sống mấy con. Cho nên mình đừng có xả láng cho nó như vậy.
Ngày mai này, trên hành tinh này nó không có nước, thì chỉ trong vòng một thời gian ngắn mấy con sẽ chết sạch không còn một người sống, mà không có loài cây cỏ nào mà sống được ở trên cái hành tinh này hết. Cho nên chúng ta quý nước là quý sự sống, yêu thích sự sống, là chúng ta giữ gìn bảo vệ từng giọt nước để bảo vệ sự sống của chúng ta mấy con, đó là đạo đức hiếu sinh, thương yêu sự sống. Chứ không phải thương yêu sự sống là thương yêu nội cái loài vật không đâu, mà cả cỏ cây, đất đá của chúng ta nữa, cả bầu không khí, khí quyển của chúng ta nữa.
(04:03) Cho nên Thầy thấy rõ ràng mấy con thấy, người ta nói đất nước chúng ta hôm nay là sống văn hóa thế này, văn hóa thế kia, đi ra đường mà rác rến thảy cùng mà văn hóa thì Thầy chẳng biết là văn hóa gì, phải không? Các con hiểu đây là chúng ta chưa có văn hóa gì đâu, chưa có văn minh nữa, chưa có văn hoá gì đâu. Đi ra đất nước của chúng ta nhìn theo đường các con thấy rác rưởi quăng cùng, không có chỗ nào.
Vậy mà nếu mà cái người đất nước mà văn hóa người ta đến, đất nước người ta đi từ chỗ nào đến chỗ nào cũng không thấy rác, không thấy bẩn, tức là chúng ta thương yêu sự sống. Chúng ta bảo vệ cái môi trường sống, bằng cách vệ sinh, rác rến bỏ có nơi có chốn, rồi đem đốt những chất gì mà không thể hoại được thì chúng ta đốt cho nó hoại. Nó làm cho cái bầu khí quyển của chúng ta sống, gọi là thương yêu sự sống. Còn đằng này chúng ta rác bên đây quăng nhà người ta à, nhà mình quét hất qua nhà người ta à. Như vậy là mình có thương yêu sự sống không? Mình không có thương yêu sự sống chút nào hết.
Do đó cho nên ở đây mình là cái người học theo Phật giáo là mình phải giữ gìn cái sự sống. Cho nên trong những giới luật của Phật mà dạy cái hành động sống đó, một nắm rác không được ném, không được bỏ, mà phải đào lỗ chôn, không được để cho nó bẩn thỉu, làm cho cái hơi hôi thối nó lan tỏa khắp bầu khí quyển của chúng ta. Bây giờ chúng ta không học theo Phật thì ta học theo ai? Cho nên cái hành động vệ sinh tức là hành động thương yêu sự sống, tức là hiếu sinh, hiếu sự sống.
Cho nên đến đây, những cái nước mà chúng ta dùng, khi mà chúng ta dùng vừa đủ thì chúng ta vặn đóng lại, để giữ gìn. Ở đây không có hao như là ở thành phố phải mua từng giọt nước. Các con ở thành phố Hồ Chí Minh người ta phải mua từng giọt nước, phải đóng tiền chứ không thể nào mà khi không mà có nước uống được. Còn ở đây mình bơm lên. Nhưng mà mình muốn bơm lên được như vậy, thì mình phải tốn tiền điện nó mới bơm lên, còn nếu không thì mình phải dùng cái sức của mình để quay được cái thùng nước. Các con nghĩ cái sức lực của chúng ta, ăn một ngày nó tiêu hao bao nhiêu mà phải phí đi những cái điều kiện không cần thiết mà chúng ta lại xả như vậy. Phí như vậy là cái điều không đúng.
Cho nên ở đây Thầy muốn nhắc nhở các con khi mà chúng ta ra khỏi thất mà dùng ống mà xả nước, thì chúng ta nên đóng. Có những người người ta phải đi người ta đóng lại cho mình, người ta đóng người ta giữ lại cho mình thì thiệt ra mình phải nhục nhã. Tại sao mình là con người mình không biết thương yêu sự sống, lại để cho người khác làm dùm mình? Đó là cái sai mấy con. Mấy con nhớ kỹ, dù bất cứ chúng ta ở hàng vạn, hàng triệu người, chúng ta mọi người đều như nhau, đều giữ gìn cái sự sống của nhau, cho nên vì vậy mới là con người, mới là đệ tử của Phật chứ.
(06:43) Hôm nay Thầy nhắc chung cho tất cả các con. Cho nên từ cái điện các con biết ở đây thường thường người ta mở đèn người ta tu, rồi người ta tới chừng ngủ người ta sẽ đi ngủ. Người ta để đèn để đuốc sáng đêm, người ta không ngờ rằng mỗi đồng bạc mà chúng ta làm ra bằng nước mắt, bằng mồ hôi chứ không phải khi không mà có được. Cho nên khi mà hết cái giờ tu của mấy con rồi, mười giờ tới mười rưỡi rồi, thì Thầy đi từ chỗ này đến chỗ kia đều là Thầy đi tắt đèn. Bởi vì Thầy biết rằng cái đồng bạc của mấy con mà đóng góp về tu viện để mà cho mọi người tu, đều là mồ hôi nước mắt của từng người. Các con thấy các cụ già, Thầy đọc lại tập mà ghi lại của cô Liễu Tâm ghi lại cái công đức mà in kinh, những người già cả như vậy mà người ta bỏ tiền ra bằng cách là những cái tiền dành dụm. Thậm chí như có một cô, cô có cái đôi bông thôi, mà cô lột ra cô đem bán cái đôi bông đó để mà cúng dường in kinh sách, thì mấy con biết những đồng bạc của mấy con mà cúng dường vô tu viện là cả mồ hôi nước mắt của những người già, những người trẻ chứ không phải là nó dễ dàng lắm đâu.
(07:56) Cho nên nếu mà chúng ta không biết giữ gìn, bảo vệ như vậy, chúng ta phí như vậy, thì nó rất là phí của đàn na thí chủ. Rồi ai gánh vác cái chỗ này? Mấy con thấy!
Cho nên mỗi đêm khuya khoắt mấy con ngủ, thì có Thầy đi tắt đèn để cho mấy con ngủ yên, để cho mấy con tu, để mà tiết kiệm. Rồi do đó có những người hiểu được như vậy cho nên khi đúng mười giờ thì họ lại đi tắt đèn hết những cái nơi mà để mở sáng ra. Còn chỉ riêng ở trong thất của mấy con, thì Thầy đâu có đến được, và những người khác người ta tắt đèn người ta đâu có đến được, thì đành chịu để mà khoảng thời gian một tiếng hai tiếng đồng hồ mấy con ngủ mà để đèn cũng là phí rồi mấy con. Chúng ta có thể nói rằng chúng ta trong bóng đêm chúng ta ngủ không được, chúng ta cũng mở một cái bóng đèn mờ thì thôi. Nếu mà mở cái bóng đèn lớn thì nó rất hao nhiều. Cho nên ở đây chúng ta cần phải có học cần kiệm, để mà tiết kiệm từng chút từng chút, để mà giữ gìn cho cái sự sống của chúng ta, tức là chúng ta thương yêu sự sống mấy con. Chứ chúng ta phí quá thì chúng ta không thương yêu sự sống chúng ta chút nào.
(09:06) Cho nên nhiều khi chúng ta lãng phí một cách vô ích. Nhiều khi chúng ta chỉ có một nắm rác mà chúng ta không yêu sự sống mấy con, chúng ta chỉ có cái tánh lười biếng, ăn đây cứ ném kia à. Trên đường cũng ném, hàng rào cũng ném, bụi cũng ném. Một cái bọc ăn rồi quăng luôn chứ không bao giờ…Thay vì mấy con mỗi người chịu khó một chút xíu, bây giờ những món ăn người ta đựng trong bọc mình ăn rồi thì mình bỏ vào trong một cái túi nào đó, rồi mình đem đến cái chỗ thùng rác, hoặc là về nhà mình có một cái thùng rác, mình bỏ vào đó. Thì hôm sau ở trong nhà cái người nào người ta làm cái việc đó, thì người ta sẽ coi vật nào mà nó có thể chôn, có thể đốt, người ta lựa ra thành ra những cái rác bẩn nó không còn có nữa. Còn trái lại mà chúng ta cứ bừa bãi mà quăng, thì cái môi trường sống của chúng ta nó không trong sạch đâu. Và nó gây ảnh hưởng bệnh đau quá nhiều.
Cho nên Thầy nói mấy con hằng ngày mấy con không hiểu, chứ sự thật ra vì cái hành động ác của chúng ta mà làm cho cái bầu khí quyển chúng ta nó không có ôn hòa, cho nên mưa không thuận, gió không hòa. Có nơi này thì lạnh, nơi kia thì bão tố, nơi nọ thì khô hạn. Tất cả những cái này do chúng ta chứ không phải do ai hết. Chúng ta ác quá làm cho cái bầu khí quyển chúng ta dơ bẩn. Rác rến nhiều làm cho chúng ta thải ra những từ trường ác, hung dữ đánh lộn nhau, chửi mắng nhau. Những cái hành động đó nó thành ra những cái từ trường, nó phóng xuất trong cái bầu không khí của chúng ta, nó làm cho rối loạn tất cả những cái thời tiết. Cho nên lúc thì mưa nhiều, lúc thì nắng nhiều, tưởng đó là tại thời tiết nó thay đổi. Không ngờ là chúng ta đã làm cho cái môi trường sống của chúng ta thay đổi mà chúng ta không biết. Chính chúng ta đã làm cho nó rối loạn, mất quân bình, đó là chúng ta.
(10:52) Hôm nay chúng ta biết được Phật pháp chúng ta hãy nói một lời nói êm dịu, nói một lời nói đẹp đẽ, nói một lời nói an lành cho mọi người. Thì cái từ trường đó phóng ra nó làm cho cái bầu khí quyển của chúng ta thời tiết không bị rối loạn. Cho nên ở đây chúng ta không có đôi mắt nhìn được những cái từ trường đó, cho nên chúng ta cứ bừa bãi mà thôi. Thì ra khi mà cái đống rác, khi một cái chất bẩn mà phóng ra bụi bặm thì chúng ta thấy chúng ta mới la lên thôi, còn khi mà không thấy gì hết, chứ thật ra trong không khí bây giờ trong lành như thế này các con biết ở trong đó có bao nhiêu chất bẩn không? Rất nhiều. Hít thở để mà sống, thế mà chúng ta không làm cho cái không khí trong sạch của chúng ta hít thở, thì cái đó là cái sai. Rồi cái nước này chúng ta, như hồi nãy Thầy nói, nếu khoảng một tuần lễ mà không có nước thì phỏng chừng mấy con có sống được không? Mà vậy mà mấy con phí nước thì thực là mấy con phí sự sống rồi, mấy con sai rồi.
Cho nên từ đây về sau nghe lời Thầy mà hãy sống, mà hãy thương yêu tất cả những sự sống đang giúp cho mình sống. Sống để mà giải thoát ra khỏi sự đau khổ của cuộc đời này, thì chúng ta lại càng thương yêu cái sự sống trên hành tinh này nhiều hơn nữa. Lời kêu gọi của Thầy rất tha thiết, mong các con thực hành đúng những điều này, tức là các con đã tu theo Phật giáo. Bây giờ các con còn hỏi Thầy gì thêm nữa không con?
Ở đây là cái danh sách xin quy y. Thì sau này Thầy sẽ viết những cái lồng phái kế tiếp, Thầy sẽ gửi cho cô Liễu Tâm, rồi sau đó con coi xem thử.
Trưởng lão: Rồi con cứ hỏi
Phật tử: (. . .) thưa hỏi cảm nhận trong lúc đi kinh hành. Mình tu đến mức độ nào để có sự an định.
(14:33) Trưởng lão: Bây giờ các con lắng nghe trong cái câu hỏi này nó rất là quan trọng cho cái sự mà an trú tâm, hay hoặc gọi là nhiếp tâm, trong cái hơi thở, hoặc là trong bước đi. À nó là một cách thức nhiếp tâm mà hoàn toàn không có một niệm khởi mà bằng cách là an trú được thân tâm của mình, bằng cách là không còn cái tâm động ở trong cái phương pháp, nghĩa là không còn một cái ác pháp khác, một cái pháp khác chen vào trong cái pháp mình đang tu.
Thì do đó mấy con lưu ý, bây giờ khi mà Thầy ngồi Thầy hít vô rồi Thầy thở ra, phải không, thì bắt đầu nó có thay vì mình hít vô thở ra, thì một hơi mình biết hít vô thở ra, thì một lúc nó lại có một cái niệm khác chen vô. Mà mình cố gắng mình khắc phục chừng một phút hai phút mình thấy nó không có, nhưng mà từ mười phút trở lên, thì vẫn thấy có cái niệm nó xẹt ra xẹt vô. Mà cố gắng tu hoài mà sao không hết, mà đồng thời nếu mà ráng cố gắng nữa, tập trung cho chặt thì chúng ta thấy hết nhưng mà bị căng đầu.
Cho nên có những phương pháp làm chúng ta trú cái tâm được trong cái hơi thở hoặc là trên bước đi mà ta không bị căng đầu, thì trong khi đó đức Phật có dạy chúng ta những cách thức tưởng, tưởng ly tham, tưởng ly sân, tưởng ly si đó. Cho nên trong Định niệm hơi thở, thì chúng ta thấy có những đề mục “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Vậy thì chúng ta chỉ nói suông hay là chúng ta như thế nào? Như hồi nãy Nguyên Hạnh có trình bày cho mình biết, là khi từ một cái hơi thở mà chúng ta hít vô, thì chúng ta phải thấy rằng cái tâm tham của chúng ta nếu mà quán ly tham thì mình phải cảm nhận khi mình hít vô thì mình lắng nghe cái hơi thở của mình, lắng nghe và mình tưởng như toàn bộ cái tâm tham của mình, ở trong lòng của mình đó, nó theo cái hơi thở vô này, nó sẽ đẩy ra hết. Nghĩa là cái hơi thở này nó vô tới đâu, nó đẩy cái tham của mình đi ra hết, các con hiểu điều đó không? Đó là cái dùng tưởng, dùng tưởng để mà tu.
(16:35) Cho nên cái người mà ngồi từng hơi thở có cái tưởng tham, sân của mình đi ra như vậy, thì không có cái niệm nào mà xen vô được. Trừ ra chúng ta không tu tập như vậy, thì chúng ta sẽ bị những cái niệm khác, cho nên nó không có nhiếp tâm được ở trong cái hơi thở, nó không nhiếp tâm được, không an trú được trong cái hơi thở. Còn nếu mà mình dùng từng hơi thở của mình, mình hít vô, mình tưởng như là tất cả cái hơi thở này nó đẩy cái tham ở trong lòng của mình đi tuột xuống dưới chân, đi ra ngoài hết. Mà thở ra thì mình cảm tưởng như là tất cả cái tâm tham của mình nó theo cái hơi thở này mà nó tống ra, từng hơi thở rất kỹ. Tu từng hơi thở chứ không phải là tu lấy có, đó là cách thức tu kỹ, chứ còn tu lơ mơ mấy con làm thế này không được. Là hít thở hít vô biết hít vô, thở ra biết thở ra, một hơi có vọng tưởng à. Còn bây giờ từng hơi thở hít vô tôi cảm nhận như nó đang đẩy, cái hơi thở vô đẩy ba cái tham ở trong bụng tôi nó đi ra khỏi cái chân tôi. Rồi bây giờ tôi hít vô tôi thấy cái tham nó theo cái hơi thở tôi nó đi ra hết, cái tham nó không còn có trong này nữa. Và cứ từng hơi thở chúng tôi tu như vậy đó, sau một thời gian, thì theo cái pháp tác ý nó tạo thành cái lực vô hình. Còn theo cái cảm tưởng của chúng tôi nó làm như vậy là nó đẩy thật sự cái tham của chúng tôi sẽ ra hết.
(17:51) Đó là cách thức tu tập như vậy. Cái thứ nhất là kết quả của nó, chúng ta phải thấy được cái kết quả. Cái phương pháp này kết quả chúng tôi tu 30 phút chúng tôi sẽ thấy không có vọng tưởng ở trong này, mà cũng không có hôn trầm ở trong này lọt vào trong này nữa. Còn nếu tôi ngồi tôi hít thở như vậy như vậy nó tỉnh thì thôi, nó tỉnh thì nó sẽ có vọng tưởng, nó không tỉnh thì nó lại gục, các con hiểu không? Thế nào mấy con không có vọng tưởng một hơi thì mấy con gục à, không có trật. Còn tôi luôn luôn tôi vận dụng cả cái ý thức của tôi, cả cái sự hiểu biết, cả cái tưởng của tôi, tôi thấy nó đi ra, rồi đi vô như vậy nó có ngủ được đâu, nó quá đà mà nó làm sao nó ngủ, phải không, nó làm sao nó ngủ được. Cho nên nó quá làm việc mà làm sao nó nghĩ chuyện khác được. Các con có thấy cái tâm mình nó đang làm việc ghê gớm lắm, cái người tu như vậy gọi là tu rất chính xác, tu rất đúng.
(18:40) Vậy là mấy con cũng nên bắt chước theo và nó có cái hiệu quả là mục đích mình tu để ly tham, ly sân si, phải không. Cho nên vì vậy mà khi tu hơi thở thì nó nương vào tu hơi thở để nó ly tham, sân, si bằng một cái sức tưởng của mình. Rồi bây giờ tu mà đi kinh hành cũng vậy, nương vào cái thân hành của mình.
Thí dụ như bây giờ mình muốn cái thân của mình an tịnh, cái thân của mình an và cái tâm của mình thanh tịnh, đừng có một niệm khởi. Thì bây giờ bước đi, thì mình khi mình giơ chân lên thì mình tưởng như là cái sự an ổn của cái thân của mình hoàn toàn theo cái bước đi đó. Và đồng thời khi mà mình bước một bước khác, thì mình nghĩ cái tâm mình nó thanh tịnh, thấy toàn bộ cái bước đi kế đó cái tâm nó yên lặng, nó thanh tịnh, thanh thản vô cùng. Có cái cảm tưởng luôn luôn lúc nào mình cũng tưởng ra cái trạng thái đó. Mặc dù bây giờ nó chưa có, nhưng mình cứ tưởng ra đi, rồi nó sẽ có thật sự. Bởi vì đó là cái phương pháp mà Phật đâu có cấm chúng ta tu tưởng, nhưng mà tu tưởng đúng cách. Còn tu tưởng sai nó khác, mà tu tưởng đúng cách nó khác.
(19:44) Cho nên đúng cách là chúng ta ngồi đây mà chúng ta ngồi mà quán như Định vô lậu, chúng ta quán Thân bất tịnh, có cái thân sình hôi thối ở đây đâu mà mình nhìn mình thấy cái thân nó sình lên, nó nứt nẻ nó chảy nước vàng, bốc mùi thối, đó là mình tưởng ra chứ. Làm sao ai mà dám đem cái thây ma mà để trước mặt mình, mà mình dám mình ngồi đó không? Các con thấy bây giờ mà nếu mà có một cái người nào mà chết, mà sình hôi thối rồi, thôi Thầy không đặt cái người đi, coi người thấy ghê gớm lắm. Bây giờ chúng ta đem một con chuột mà chết đi, hoặc là con gà mà chết để trước mặt bảo mình ngồi đó mình quán chắc mình quán không nổi đâu, cầu đi chỗ khác, nó thối quá mà chịu sao nổi.
Còn ở đây mình tưởng ra cho đến khi mà tưởng ra nó thối, thì thiệt ra nó thấm nhuần. Nghĩa là cái hương tưởng mà nó bốc ra thật, ở trước mặt nó không có mà mình đặt cái con gà hoai, mà bây giờ nó thối nó hôi như vậy đó, thì chắc chắn là hết muốn ăn rồi, phải không, nó sợ quá rồi. Cho nên cái sự tu mà quán tưởng đó, quán mà tưởng ra, đó là cái tu quán tưởng.
Còn bây giờ quán tưởng để ly tham, quán tưởng để ly sân, quán tưởng để an tịnh, quán tưởng để thanh tịnh, cũng đều nhằm vào cái đề tài của đức Phật, để dạy chúng ta tu tập về tưởng. Nhưng mà tưởng ly tham, ly sân si, tưởng để cho tâm chúng ta hết ác pháp, cái đó là cái đúng mấy con. Để chúng ta nhàm chán đi những cái không thật mà chúng ta cho là thật. Như là chúng ta nhàm chán thực phẩm chứ không khéo chúng ta lại ưa thích ăn, ưa thích ngủ, cho nên nó quán tưởng những cái điều đó sẽ giúp chúng ta mau thành tựu cái sự nhàm chán, cái sự ly tham, sân, si.
Đó thì các con nhớ từng hành động chúng ta mà nếu luôn luôn lúc nào chúng ta cũng dùng cái tưởng đó mà chúng ta tu thì nó nhanh, nó ly mau hơn. Còn nếu mà chúng ta không dùng như vậy mà chúng ta tu thì nó rất lâu và đồng thời tu dường như dậm chân tại chỗ và lấy có. Nó không có kết quả đâu.
(21:40) Đó thì các con thấy khi mà tu nhàm chán như vậy rồi thì chúng ta ngồi lại mà tu Tứ Niệm Xứ, tự nó thanh thản mà không phóng dật, không phóng niệm. Cho nên vì vậy mà chúng ta tu tập nó mau thành tựu, mau giải thoát chứ không có gì hết. Cho nên Nguyên Hạnh hỏi, tức là qua kinh nghiệm tu tập của mình, không biết đúng sai, sợ mình dùng tưởng sai, cho nên hỏi Thầy để cùng đó mà rút tỉa cái kinh nghiệm cho anh chị em, để lấy cái kinh nghiệm đó mà chúng ta tu tập. Để mà chúng ta sử dụng cái sự tu tập đó nó có kết quả như nhau.
Vậy thì hôm nay Thầy khuyên các con nên cũng lấy đó mà nỗ lực mà thực hiện cho nên Thầy dạy, mình tập thử. À bây giờ đó mình hít vô mình tưởng như cái tâm sân của mình, nếu bây giờ mình là cái con người dễ sân lắm, ai nói gì cái tức giận liền, thì nên tu tập ngay cái tâm sân trước. Cho nên mình hướng dẫn từ tác ý rồi bắt đầu mình hít vô, bắt đầu hít vô thì mình thấy cái tâm sân của mình nó được cái hơi thở đẩy nó ra hết. Và đồng thời mình thở ra thì mình thấy cái tâm sân của mình theo hơi thở nó đi ra. Cái tưởng của mình như vậy và đó là tu hơi thở.
Còn nếu mà đi kinh hành thì từng cái hành động đưa hoặc là pháp thân hành niệm từng cái hành động, thì mình tưởng từng cái hành động nó đưa ra là cái tâm sân của mình theo cái cánh tay nó đi ra hết. Hoặc là đưa vào thì theo cánh tay này nó sẽ đi ra. Vậy thì đưa vào đưa ra đều là thấy cái tâm tham, tâm sân, tâm si của mình theo đó mà nó đi ra ngoài hết, nó đoạn diệt hết. Đó là cách thức mà chúng ta tu, để mà câu hữu với cái tưởng của mình thì nó sẽ nhanh chóng hơn, và nó đem đến cái lợi lạc hơn.
(23:26) Đó thì hôm nay mấy con nhớ phải học thêm cái này. Cho nên mấy con nhiều khi hít thở mấy con biết hít thở đó là cách thức tập an trú mà thôi. Nhưng mà an trú ở trong ly tham, ly sân si thì coi như là mấy con nếu mà an trú được trong cái hơi thở rồi, tức là đi tôi biết đi, đứng biết đứng, ngồi biết ngồi. An trú trong hơi thở, thở ra biết thở ra, hít vô biết hít vô thì lúc bấy giờ mấy con sẽ áp dụng vào cái pháp này để mà dùng cái tưởng, tưởng ly tham, tưởng ly sân trong hơi thở, trong bước đi, thì mấy con sẽ thành tựu nhanh chóng hơn.
Đó thì do những cái sự đặc tướng, nhiều khi mấy con tu tập như vậy mà nghe nó có những cái nó mệt nhọc, hoặc là nó có những cái chướng ngại gì, thì mấy con mau mau trình bày cho Thầy, để Thầy tìm cái đặc tướng của mấy con, để mấy con hợp với cái phương pháp tu. Chứ không khéo người đó tu được mà mình tu không được, rồi mình cũng bắt chước mình tu.
Phật tử: . . .
(24:27) Trưởng lão: Nó làm cho cái ý thức của con nó đứng ở trên cái hành động đi của con nó thiếu chính xác, cho nên vì vậy con thấy nó cứ đi nhanh đi nhanh lên. Con cũng thấy, cũng cảm nhận nhưng mà nó có một cái tổng quát hơn, mà đi chậm mình thấy từng cái cử chỉ của mình nó rõ ràng hơn. Cho nên muốn mà cho nó đi chậm lại, thực ra ra tu hành phần nhiều là chúng ta tự biết chúng ta phải tập chậm, đừng có tập nhanh. Trừ ra có cái hơi thở thì chúng ta đừng có thay đổi tự nhiên của nó thôi, còn cái hành động, hành động thân của chúng ta nó đi hoặc là co tay co chân này kia chúng ta tập chậm để chúng ta làm chủ cái thân nghiệp của chúng ta.
Bởi vì hầu hết là từ lâu đến giờ chúng ta điều khiển thân của chúng ta bằng cái nghiệp lực, bằng cái thói quen, cho nên mình làm là làm, chứ chưa có ý thức, chưa có chủ động được cái hành động của mình đâu. Khi ý thức vừa muốn, ở trong bụng vừa muốn thì cái hành động nó làm liền, không có kịp mà chủ động. Cho nên do như vậy hiện giờ mình tập lại cái thân hành của mình, tức là thân nghiệp, thì mình phải tập chậm lại. Để cho cái ý thức hoàn toàn nó chủ động, nó điều khiển cái thân nghiệp của mình thì nó mới làm chủ được cái nghiệp.
(25:36) À bây giờ Thầy dạy mấy con cái phương pháp để cho con đi chậm trở lại. Khi mà mấy con thấy cái dạng của nó đi nhanh một hai bước thì con bảo “Đi chậm lại”, con hiểu không? Con tác ý ra thì nó chậm lại liền. Cho nên do đó nếu nó không chậm thì con đứng lại, “Tao cho mày không đi, bây giờ là mày đi cho tao chậm lại”, con tập huấn luyện nó lại, thì nó không có làm sao nó đi nhanh được hết mấy con. Bởi vì nói chung cái hành động đi của mình đều là do sự điều khiển của mình, cho nên tất cả những hành động trong thân của chúng ta hoàn toàn nó do cái sự điều khiển chủ động của chúng ta, bằng ý thức. Tất cả người nào cũng điều khiển được hết. Cho nên nó chậm nhanh gì chúng ta làm sao nó cũng được hết. Con giờ con muốn đi chậm là nó đi chậm, mà con muốn đi nhanh thì nó đi nhanh, điều đó là điều khiển cái ý muốn của con. Mà bây giờ nó tự động nó đẩy con đi nhanh, là con biết là cái nghiệp của con nó đẩy chứ không phải chính con điều khiển.
Cho nên ý con thì con muốn đi chậm chứ con đâu muốn đi nhanh, sao lại đẩy? Thì cái này con phải bảo nó dừng lại, đi chậm lại, mày không được điều khiển như vậy. Thì khi mà con ra lệnh như vậy thì tức là ý thức con nó chủ động rồi, thì bắt đầu con đi chậm lại. Mà đi một hơi nó đẩy con nữa, đi nhanh nữa, thì bắt đầu con dừng lại, thì nó sẽ dừng lại. Thì con nhớ ý thức là chủ động. “Ý làm chủ, ý tạo tác, ý dẫn đầu các pháp” mà, do đó ý mà làm chủ thì bảo đảm cái sự tu tập của các con sẽ tốt.
Phật tử: (. . .)
(27:14) Bây giờ bắt đầu ý thức mà đúng thì nó bảo bây giờ phải thức dậy giờ giấc phải nghiêm chỉnh. Con phải huân cái đó nó thành cái ý thức ở trong con rồi, phải không, nó bảo là phải giờ nào phải tu, phải giờ nào không được có cái ý thức lười biếng. Cũng là ý thức của con mà nó có cái lười biếng, cho nên nó nói bây giờ mệt quá thôi để nghỉ cho nó khỏe một đêm nay, bây giờ nó lỡ mệt khuya nay ngủ luôn, sáng ra tu chứ. Không lẽ không ngủ cho nó lấy sức khỏe lại, nó cũng lý luận được những cái điều đó. Con cũng thấy nó nói hay hay cho nên rồi cũng thẳng chân mà ngủ luôn, đó là cái ý thức, cũng là cái ý thức của con chứ không phải tưởng đâu. Cũng là ý thức. Cho nên trong chúng ta nó có hai cái ý thức, một cái ý thức ác, một cái ý thức thiện. Ý thức thiện thì nó luôn luôn đấu tranh với cái ý thức ác, và cái ý thức ác nó luôn luôn đấu tranh với cái ý thức thiện. Trong người con nó có hai cái ý thức đó.
Cho nên chúng ta không hiểu Phật pháp thôi, mà chúng ta hiểu Phật pháp rồi, thì là một nỗi khổ của chúng ta đó mấy con. Nó có một cuộc đấu tranh tư tưởng bằng ý thức của nó đó, chưa nói đến cái tưởng của nó đâu. Mà đây là cuộc đấu tranh tư tưởng. Tư tưởng thiện với tư tưởng ác đánh đấy. Đó con hiểu chưa, cho nên những cái điều mà con trình đó là cái phần về tư tưởng. Nó nói, cũng con, mà nó nói cái đúng; cũng con mà nó nói cái sai, chứ không phải đâu. Nó sai tầm bậy cũng là con, nó cũng toàn là cái ý thức của con. Nó là phân biệt, rồi bây giờ mấy con phân biệt được ý thức sai và ý thức đúng. Cho nên những cái gì đúng là nó đã liệt kê ra những cái bài pháp Phật đã dạy, phải không. Cho nên chúng ta dựa vào những cái lời của đức Phật dạy chúng ta làm cái tiêu chuẩn thuận, thiện để mà chúng ta diệt những cái tư tưởng ác. Còn cái tư tưởng ác, là những cuộc cám dỗ, vật chất cám dỗ xung quanh ta, làm chúng ta ham muốn cái này, ham muốn cái kia. Đó là cái tư tưởng của chúng ta, cũng cái tư tưởng của ta, nhưng mà nó dựa vào cái lưng nó đứng nó ham nhà, ham cửa ham tiền ham bạc đó, là nó dựa lưng vào đó. Còn bây giờ chúng ta muốn đấu tranh mà cái cuộc đấu tranh mà dẹp những ham muốn này thì chúng ta đứng dựa lưng vào những cái thiện pháp mà Phật đã dạy.
Đức Phật dạy như thế nào? Đức Phật dạy các pháp là vô thường, nhà cửa, xe hơi, con cái, chồng con gì, tất cả mọi cái này đều là vô thường hết, không có vật gì là của mình hết. Do đó mình dựa lưng vào chỗ này, thì mình mới đấu tranh được cái này. Con của tôi nè, nhà của tôi nè, tiền của tôi nè, mấy thứ nó cứ nhận của nó không à. Thân này cũng của tôi này, không phải của ai hết, tôi phải bảo vệ nó mà. Cho nên vì vậy mà tôi khổ cũng vì chỗ này. Bây giờ mình dựa lưng vào những lời Phật dạy mình đánh bạt nó ra, cho nên khi mình đánh bạt nó ra thì mình thấy nó giải thoát. Đó là mặt trận tư tưởng của chúng ta. Các con thấy đây là mặt trận tâm lý chiến ở trong tâm của chúng ta, nó đánh nhau dữ lắm, ghê gớm lắm.
(29:55) Khi mà các con chưa đọc kinh sách Phật, thì nó có một dòng đời, nó đi theo cái dòng đời, nó ham muốn gì nó chạy theo, nó không có đấu tranh lại. Còn bây giờ, nó đấu tranh với nhau để mà nó thắng cái thiện với cái ác của nó, tức là cái dục với cái không dục của nó đấu tranh với nhau. Còn dòng đời mà nếu chúng ta chưa hiểu Phật pháp thì chúng ta chạy theo cái dòng đời, thì chúng ta chà đạp lên nhau, chúng ta diệt nhau để mà chúng ta đạt được cái mục đích, tham vọng của chúng ta. Coi vậy chứ chúng ta cũng muốn làm vua hết.
À làm vua mà cỡ sức chúng ta làm vua được thì bắt dân thu thuế đầy hết để mà chúng ta làm giàu, ít có khi nào mà ông vua thấy thiếu, bắt mình đóng thuế hoài, chưa thấy hết, chưa thấy đủ. Thật sự là ông vua nào cũng vậy chứ không có ông vua nào… Nhưng mà người ta đóng thuế mà người ta làm lợi cho dân, thì cái đó đúng. Người ta đóng thuế mà người ta ăn sài nhậu nhẹt, mà đi nhà hàng rồi thì cái này quá sai rồi, không đúng, phải không. Chứ còn người ta đắp đường người ta làm cho dân đi, người ta làm cho dân không có nghèo nữa, cái đó là cái đóng thuế nên đóng.
Thật sự ra có nhiều người lo cho dân, nhưng mà có nhiều người không lo cho dân. Thì do đó chúng ta thấy cái đúng cái sai. Đây là những cái dòng đời, dòng đời về tư tưởng đời nó như vậy. Còn về dòng đời và dòng đạo thì hai cái này đấu tranh nhau lắm, cho nên trong người chúng ta có những cái tư tưởng nó đấu tranh nhau. Cho nên trong cuộc sống chúng ta cũng là cuộc đấu tranh của tư tưởng, bởi vì mình muốn vươn lên cho cuộc sống mình hơn người thì phải có cuộc đấu tranh. Đó là cái dòng đời. Còn dòng đạo, có khi mà thêm cái dòng đạo vào, thì đạo với đời nó đấu tranh, để nó xả đời. Mà đời mà nó xả thì nó đi vào đạo thì nó nhẹ nhàng, nó giải thoát, nó thấy thanh thản hơn. Còn nếu mà đời nó kháng được, nó dẹp đạo xuống, thì kể như là mình chạy theo dục vật chất, nhục dục cho nên mình rất là khổ đau.
(31:43) Đó thì bây giờ nói về phần ý thức rồi, về phần tư tưởng rồi. Bây giờ nói về phần tưởng, phần tưởng khác mấy con, nó giao cảm khác nữa. Bây giờ trong khi đó, con bước đi mà con đang bình thường như thế này, mà con đang tu mà con thấy ở trong tai mình nói pháp, nói này kia, là ma nói, là tưởng nói, tưởng của ma của con nói. Tại vì con hằng ngày con huân những cái pháp gì đó, nó sẽ lải nhải nói ở trong tai con, chứ không phải cái ý thức. Còn cái ý thức nói nó khác, nói lý luận à, hẳn hoi đàng hoàng bằng ý thức. Còn cái này, nó làm như có ai nói trong tai mình á, có người nói lải nhải ở trong đó.
Chẳng hạn như bây giờ có nhiều khi các con ngồi như vậy, các con nghe ví dụ như chẳng hạn bây giờ cô Út không có đây, mà nghe cô Út nó kêu mà nghe kêu rõ ràng ở trong tai, kêu tên mình rõ ràng. Ờ cái người đó kêu mình rõ ràng, đây là tưởng kêu chứ không phải cô Út kêu đâu. Mình nhìn kiếm cô, ủa, hình như là cô Út ở đâu đây kêu mình. Nhưng mà nhìn hoài, kiếm hoài không được, tức là biết cái này là tưởng của mình nó kêu mình chứ không phải.
Đó, thì chẳng hạn như bây giờ con đang nằm ngủ, bỗng dưng con nghe trong tai con kêu dậy dậy dậy dậy, cái giờ này không dậy hả? Đó là cái tưởng con nó kêu con. Bởi vì hàng ngày con huân tu bằng ý thức của con, nó huân vào trong cái tưởng của con, cho nên khi mà con không dậy nó kêu con dậy, thì không phải là Phật, ma, hay là Thầy kêu con đâu, mà cái tưởng con nó kêu con.
(33:01) Còn bây giờ trong khi mà con gặp cái khó khăn, con gặp qua, bởi vì con đã sử dụng được cái tưởng của con, con đã tu tập bằng cái tưởng. Con tưởng quán ly tham, quán ly sân, quán ly si đó, con đã huân tập được cái đó rồi. Bây giờ bắt đầu con gặp những cái khó khăn, như bây giờ cái thân con đau quá mà con dùng pháp con đẩy ra không được, con nói “Thầy ơi Thầy cứu con, con sao bây giờ con gặp cái trường hợp này quá ngặt nghèo”, phải không? Bắt đầu bây giờ con cố giữ cái tâm bất động, thì từ cái từ trường bất động của con nó sẽ gặp những cái từ trường bất động bên ngoài nó tác động vào, thì lúc bấy giờ cái thân bệnh của con nó giảm đi, nó qua từ trường mà nó không hiện ra cái tướng.
Còn bây giờ cái thân con bị đau quá đi, cái ý thức của con nó không có hoạt động nữa, mà bắt đầu, trong lúc đó coi như là con đang bình tĩnh, chứ không phải nhưng mà con đang ở trong tưởng của con, nó giao cảm liền, thì nó thấy Thầy đến, đứng trước mặt con bảo phải như vầy như vầy, thì con thấy cái bệnh con nó giảm xuống liền. À đó là cái tưởng của con, cái tưởng uẩn của con nó bắt gặp trên cái từ trường đó mà do cái niềm tin của con đối với Thầy cho nên nó thấy được cái hình ảnh Thầy, nó nghe được âm thanh Thầy nói, đó là nó qua cái tưởng, cái niềm tin, cái tín lực, mà nó thấy nó thể hiện qua. Chứ nó không phải là Thầy đến đó, Thầy không có đi đâu hết, bởi vì chúng sanh khổ thì ráng chịu, chứ Thầy đến Thầy cũng không làm gì được hết, các con hiểu chưa. Chỉ có tự mình cứu lấy thôi, rồi cái tưởng của con nó hoạt động, nó giao cảm, nó làm ra như vậy, để cái niềm tin nó tăng trưởng, cho nên cái cơn đau của con nó giảm xuống, các con hiểu không. Chứ nó không có gì hết. Đó là những cái tưởng lúc mà con tu tập nó tưởng.
(34:37) Còn bây giờ về cái phần mà con hỏi Thầy, một cái tưởng nữa, để Thầy giải thích. Chỗ mà bây giờ con quán cái thực phẩm bất tịnh, mà bây giờ nó đã bất tịnh rồi, nó đã nghe thúi rồi mà cứ hoài hoài vậy tôi ngồi tôi ăn không được nữa. Tôi ớn tôi không ăn cái này rồi bây giờ ngồi đây tôi hết muốn ăn nữa rồi. Thì như vậy là cái sai con, đây là cái sai. Khi con dùng tưởng thì con sẽ thấy, con sẽ nghe mùi thối, con sẽ thấy cái miếng ăn đó nó có hôi thối. Nhưng mà con hết tưởng rồi, thì nó mất hết, thì nó đúng. Còn bây giờ con tưởng rồi mà bây giờ nó cứ tưởng hoài nó ngồi đó nó thấy hoài chắc chết rồi, cái kiểu này món ăn của mình, cơm mình ăn mà cứ thấy thiu hoài chắc chết rồi, không có được, con phải xả ngay liền. Tác ý nó bị dính tưởng, nó không chịu xả qua thì chuyển qua ý thức, cái ý thức con nó kẹt ở trong tưởng rồi nó không hoạt động rồi. Cho nên con biết đây là mình sai rồi, mình không có chủ động điều khiển, bị tưởng điều khiển con rồi. Đó cho nên vì vậy bảo “Dừng lại, phải thấy bình thường”, để quán thực phẩm mà tưởng bất tịnh hoặc quán thân bất tịnh mục đích nhằm diệt cái tâm tham ăn của mình, diệt cái tâm sắc dục của mình, chứ không gì hết.
Còn bây giờ mình quán tưởng mình ghê gớm rồi, thì nó hết rồi thì mình xả ra chứ ai biểu cứ ở đó ngồi đó tưởng hoài kiểu đó nó cứ hiện hoài. Ở đây mâm cơm tôi đem về mà tôi thấy thịt cá nó thơm quá, tôi tưởng nó thiu thối, tưởng nó mốc meo, tưởng nó hôi thối làm tôi ớn, mà khi ớn rồi thì mình xả ra mình ăn chứ không thấy gì mà hôi thối nữa hết. Gọi là tưởng, còn khi ở trong tưởng thì nó mới thối chứ còn ra tưởng mà vẫn còn thối nữa chắc đây còn con chuột nào chết, con hiểu chưa. Đó là cái sự thật. Cho nên tu nó khác con, mình sử dụng nó, mà mình hết sử dụng nó thì nó phải dừng. Chứ không lẽ bây giờ tôi xuất định ra rồi mà bây giờ tôi cũng còn ngồi trên định hoài rồi tôi đi đâu tôi cũng nghe an lạc hết, trời đất ơi cái đầu óc tôi nó không chịu suy nghĩ gì nữa hết, chết tôi rồi, đi xe đụng tôi sao? Bởi vì mình cứ mang cái định đi hoài à, đâu có được. Khi xả thì phải ra khỏi, vì tôi sống trở lại bình thường.
(36:32) Cho nên cái mục đích của người tu theo thiền định của đạo Phật là ở chỗ tâm bất động, chứ không phải ở chỗ nhập định. Cũng như bây giờ Thầy vô định mà Thầy nhập tứ thiền Thầy ngồi bất động như thế này, cái thân nó không nhúc nhích, không cục cựa gì các con hỏi Thầy biết đâu Thầy trả lời, bởi vì nó thành gốc cây cục đá rồi, còn đâu mà hỏi. Trái lại Thầy ở trong cái tâm bất động, tại sao người ta chửi Thầy không giận tức là tâm bất động chứ gì, nhưng mà Thầy đối xử với mấy con cái gì Thầy cũng trả lời được hết, có phải không. Như vậy là chỗ giải thoát của Phật, chứ đâu phải giải thoát của Phật để làm cho mình thành cây thành đá, thành con người, con người thật chứ. Nhưng mà con người làm chủ được mình, phải không. Bây giờ Thầy cũng bình thường này, nhưng mà cái thân đau là Thầy đuổi nó được à, chứ đâu phải Thầy cứ nhào vô định là nó hết đau, đâu phải biến cái thân mình ngồi như gốc cây thì còn gì đau. Như vậy là đâu phải đạo Phật. Đạo Phật làm chủ ngay khi chúng ta bình thường, nhưng mà người ta chửi không giận, bình thường mà tôi không giận là tại vì tôi có cái nội lực gì ở trong này.
(37:25) Cho nên vì vậy mà bây giờ cái thân đau tôi có nội lực tôi tác ý bảo đi liền thì nó lo nó xách gói nó đi ra. Cái bệnh mà nó xách, ba cái vi trùng mà nó xách, ở trong thân mình không còn con vi trùng nào hết, tại nó xách gói nó đi. Nó nghe cái lệnh nó hoảng rồi, đó là cái định của Phật. Cái định này là cái lực định của Phật, chứ không phải định mà ngồi xếp bằng đó lim dim hoặc ngồi như cái tượng này à trời ơi tôi tu mà ngồi như này chắc mỏi chết.
Hỡi ôi này thiết nghĩ ngồi như này chắc Thầy không làm Phật đâu, Thầy không thèm tu đâu. Thầy tu sống như mọi người, nhưng mà không ai làm động được tâm Thầy, mà thân Thầy bệnh đau không làm động được tâm Thầy nữa. Thầy không sợ hãi gì hết, Thầy không cần đi bệnh viện, bác sĩ uống thuốc gì hết, vì Thầy đã có cái nội lực, Thầy bảo đi là đi chứ không có được ở đây, nhân quả không tác động được Thầy chút nào hết. Tức là Thầy làm chủ nhân quả mà.
Cho nên nó gọi là đạo đức nhân quả, không làm khổ mình khổ người. Bây giờ thân đau, Thầy là khổ, làm cho nó không khổ tức là Thầy có đạo đức, mà Thầy không có đạo đức, tức là Thầy làm cho thân hết khổ, các con hiểu chỗ đó chưa. Như vậy mới là pháp Phật chứ, pháp Phật nó thực tế, chứ không bao giờ pháp Phật mà biến hóa tàng hình đâu, không phải là pháp Phật rồi ngồi đó tưởng mà cứ dính hoài, cái miếng ăn mà nó thối hoài chắc chắn là mình hết ăn nổi.
Người ta tưởng để người ta đối trị với cái tâm mình đã thèm đó, khi mà nó hết thèm rồi nó sợ quá nó không thèm nữa rồi thì bắt đầu mình xả nó ra đi, đừng có để, con hiểu chưa. Chứ con cứ nhập hoài ở trong tưởng chắc chết, tối ngày thối quá, đi đâu cũng thối chết. Quán một lần nó dính luôn thì nguy hiểm, nhớ chưa. Khi nào như vậy thì mình tác ý, mình xả liền, xả ra, không có được trong tưởng nữa. Thì nó lần lượt nó hết liền đi, bình thường, phải tập làm chủ.
Cũng như tập làm chủ của cái ăn cái ngủ cũng vậy, mình bảo ngủ, là đi ngủ, mà bảo thức, là thức, đó là cách thức làm chủ. Bởi vì Phật pháp có cái phương pháp Như lý tác ý đó, là cái phương pháp làm chủ chứ không có gì hết, nếu mà cái phương pháp mà không có cái Như lý tác ý là không làm chủ được. Mình tác ý là ý mình muốn cái gì nó làm theo cái ấy, đó là làm chủ.
Rồi hé mấy con, tưởng đó có hơn cái ý thức của mình đâu. Đó, rồi bắt đầu bây giờ còn gì nữa không? Bắt đầu bây giờ Thầy đọc cái bức thư này để mà Thầy trả lời.
Phật tử: (. . .)
(39:46) Trưởng lão: Đây là Thầy chỉ cho mấy con để mấy con đọc cái bài Sa môn hạnh, cái hạnh tu của người Sa môn. Đó là những cái bộ giới kinh, mà nó nằm ở trong kinh Trường bộ, tập 1 trang 93, mấy con lật cái bài kinh đó thì mấy con sẽ thấy. Cái người nào mà sống đúng như vậy đó, thì đó là A la hán, mà sống không đúng như cái lời dạy này thì đó không phải là A la hán. Bởi vì đức Phật đã xác định, cho nên những cái quả A la hán nó như thế này nữa mấy con. Cái cuối cùng trong cái bộ kinh Sa môn quả người đó sẽ nhập được Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và thực hiện tới Tam minh rồi. Đó là cái Sa môn quả của người ta, tức là cái quả của người Sa môn người ta tới Tam minh rồi, chứ không phải không. Mà Tam Minh thì mấy con biết người ta biết chuyện nhiều đời nhiều kiếp, quá khứ bây giờ người ta muốn gặp Phật lúc nào người ta gặp cũng được hết.
(40:29) Cho nên người ta chỉ nhắm vào cái thần thông để người ta gặp Phật chứ không nhắm vào cái giới luật đầu tiên của cái người đó không nói vọng ngữ, không tham lam trộm cắp, không sát hại chúng sinh. Người ta không nhìn cái đầu tiên đó, người ta không nhìn cái mà ngăn ác diệt ác đầu tiên mà người ta nhìn cái cuối cùng, cái quả cuối cùng của nó là Tam minh, thì người ta cứ nhìn cái đó mới chứng quả A la hán. Đâu cần, mà người chứng quả A la hán người ta có thị hiện cái đó cho mình xem đâu, bởi vì người ta biết cái đó đâu có lợi ích gì đâu, nhưng mà cái người tu mà theo đạo Phật là phải đi tận cùng đó. Nghĩa là chứng quả A la hán là chúng ta có đủ chứ không phải chúng ta thiếu. Nhưng mà hiện bây giờ trong một phút giây mà chúng ta chưa ngăn ác diệt ác được thì chúng ta đừng có mong, phải không, cho nên cái quả A la hán ngay đầu tiên là ngăn ác diệt ác, mà chúng ta nắm được trong tay thì chúng ta nắm được. Bây giờ trong tâm chúng ta không có tham, mà hễ nó có tham, nó muốn ăn thì chúng ta ly nó đi, thì cứ như vậy thì cái quả mà chúng ta sẽ nắm được là chúng ta có đủ Tam minh, các con hiểu chưa.
Cho nên ở đây Thầy không nói rằng cái Tam minh như vậy mà Thầy chỉ nói cái mà tâm không giận hờn và cái giới luật, đó là sống đúng giới luật, mà người nào sống đúng giới luật thì người đó sẽ có đủ. Còn người nào phạm giới rồi thì không biết bao giờ mới có đủ. Bây giờ mình cứ giả dối mình cứ che đậy gì đi nữa thì cái quả vị cuối cùng nó không có được đâu. Cho nên ở đây Thầy chỉ cho mấy con biết bộ kinh đó để mà con đọc lại những cái hạnh của một vị tu sĩ, đó là Thánh hạnh của những người tu. “Trước mặt cũng như sau lưng không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt”, đó là để xét qua cái người chứng quả A la hán.
(42:09) Câu thứ tư, ở đây câu này là câu rất là quan trọng đối với người tu sĩ. Câu thứ tư làm sao để ta có thể đắc quả A la hán chỉ trong một đời người, chỉ trong một kiếp này mà thôi. “Và điều này có thể thực hiện được không, nếu người này vẫn tiếp tục đời sống bình thường, nghĩa là đời sống không phải xuất gia như Thầy, không phải trở thành tu sĩ, mà chỉ là đời sống cư sĩ mà vẫn thực hiện được quả A la hán?” Cái câu hỏi như vậy.
À không hoàn toàn thoát ly khỏi thế sự đa đoan ta đang sống, nghĩa là cũng còn làm việc, tính toán, cũng tính tiền tính bạc, cũng tính làm ăn kiểu này kiểu kia, nghĩa là đa đoan công chuyện, thì vẫn ở trong cái cuộc sống đa đoan như vậy mà chứng quả được A la hán, cái ông này tham vọng dữ lắm, mới đặt câu hỏi này. Muốn đời không muốn bỏ mà đạo vẫn muốn giải thoát đó, người ta hỏi cái câu này Thầy thấy rõ là cái tham vọng lớn lắm đó, đời không bỏ mà đạo vẫn cần.
Đây mấy con nghe câu trả lời của Thầy. Câu bốn, ngăn và diệt hết tham sân si, chắc chắn đắc quả A la hán chỉ trong một đời người. Nghĩa là mấy con trong một đời người muốn chứng quả A la hán, thì mấy con ngăn và diệt hết tham sân si thì mấy con sẽ chứng. Đó là cái quyết định bởi vì tam độc nó hết rồi thì mấy con sẽ chứng quả A la hán, chỉ trong một cái đời này thôi. Như vậy là hằng ngày mấy con phải tu tập, trong khi tuổi đời của mấy con, dù là bây giờ mấy con còn sống một năm thôi, mấy con cố gắng ngăn và diệt nó trong một năm. Đức Phật, đạo Phật đã nói mà, Nhất dạ hiền chỉ trong có 12 tiếng đồng hồ mà các con nỗ lực các con tu 12 tiếng đồng hồ là kể như là thành tựu rồi, nhưng mà cái sức của mấy con có nổi không? Có mới có hít thở hít thở khoảng độ chừng 30 phút mà nghe cái đầu nó căng quá trời rồi, thì như vậy rõ ràng là mấy con chưa chắc gì 12 tiếng đồng hồ nổi, phải không? Cái nghiệp của mình quá nặng rồi, cái thân mình mang cái thân nó không có đủ cái phước cho nên mình nhiếp tâm trong hơi thở 30 phút là căng đầu rồi. Mà nhiếp mà nó không vọng tưởng nó mới căng đầu chứ cỡ mà có vọng tưởng chắc nó không căng mà nó loạn tưởng ở trong đó nữa thì thôi mấy con còn xa nữa đó, các con hiểu không?
Cái sức mà người ta nhiếp mà đến căng đầu mà không có niệm khởi trong đó là cái sức tập trung cao lắm đó, chứ còn tập trung ít không được đâu. Nhưng mà ức chế đến mức độ vậy là người đó có cái sức tập trung, và như vậy mà bị căng đầu là cũng thấy là mình chưa có đủ duyên thành công rồi, trong 12 tiếng đồng hồ mà chứng đạo đâu, tức là Nhất dạ hiền. Chưa chứng, bởi vì nó có cái trạng thái. Còn bây giờ con nhiếp như vậy mà hoàn toàn nó không nhức đầu không gì hết, mà nó không lọt vào trong cái tưởng thì rõ ràng là tâm không phóng dật rồi chứ gì, thì Nhất dạ hiền. Tức là quá khứ không truy tìm, vị lai không ước vọng, chỉ có hiện tại, mà hiện tại ở trong cái hơi thở của con thì đó là cái hiện tại rồi. Thì như vậy là chỉ 12 tiếng đồng hồ chứng đạo. Trong 12 tiếng đồng hồ là các con đủ cái năng lực mà các con có thể thực hiện Tam minh rồi. Các con thấy không?
(45:02) Chắc có lẽ là mình hạ căn chứ không phải là mình thượng căn đâu. Còn cái bậc này là cái bậc ở đâu họ chứng đạo từ cái hồi nào rồi, họ tu đâu mòn mỏi rồi bây giờ họ ra họ thị hiện mà thôi. Cho nên họ mới tập trung như vậy. Bây giờ Thầy nói như thế này này, mấy con ngồi lại để mà hít thở. Nếu mà dạy cái phương pháp của Thầy bảo các con từng hơi thở, hít mấy con hít vô, thở các con thở ra. Nhắc như vậy mà nó còn có vọng tưởng vô, huống hồ là các con đừng nhắc, phải không? Mấy con ngồi hít thở hít thở đi, mấy con đừng có nhắc nó đi, mấy con sẽ thấy, khoảng chừng độ một phút thôi nó cũng có vọng tưởng xẹt vô nữa chứ đừng nói, phải không. Mấy con thấy nó khó lắm chứ không phải dễ đâu.
Thế mà các con thấy khi mà Thầy hồi mới vào tu thiền với Hòa thượng Thanh Từ đó, Thầy dạy biết vọng liền buông đó, thì ngồi mà biết vọng liền buông thì nó không có cái pháp, cho nên nó không có cái vọng lắm. Cho nên vô các Thầy cũng ôm hơi thở, Thầy cũng tùy tức, biết hơi thở ra biết hơi thở vô như vậy, mà 30 phút không vọng tưởng, thì biết cái sức của Thầy cũng tập trung cao lắm chứ không phải không. Mà thuở giờ có tu thiền bao giờ, chỉ có chuyên môn đi ăn học thôi.
Cho nên bây giờ Thầy mình cũng có cái duyên. Hồi nào mình cũng tu dữ lắm đó, cho nên do như vậy mình cũng thấy mình tu có cái sức tu, cái cơ thể không bị nhức, không bị căng. Chứ còn cỡ mà không có cái phương pháp mà xả tâm như bây giờ mà Thầy dạy mấy con đó, thì Thầy mà tu cái sức mà Thầy yếu, thì Thầy sẽ bị loạn thần kinh rồi. Bởi vì Thầy ham tu, Thầy tu ghê gớm, Thầy tu dữ lắm, cho nên là căng đầu căng mặt Thầy.
Còn trái lại như mấy con, bây giờ mấy con tu thì mấy con thấy nó có được thì được, không được thì thôi chứ không tìm ra cái người mà nỗ lực mà quyết tâm tu, phải tu ghê gớm lắm. Mà hầu như cái người mà nỗ lực tu đều là bị điên, bị ức chế. Bởi vì cái phương pháp đó nó đi đến chúng ta quá căng thần kinh. Bởi vì mình cố gắng mình giữ không có cho niệm mà, vậy mình phải tập trung nhiều chứ mình tập trung ít không được. Đó là cái tai hại rất lớn, mà Thầy nói ra thì không phải bài bác họ mà rất thương yêu những cái người mà nhiệt tâm tu mà gặp phải. Cho nên có một số người mà về đây họ bị loạn thần kinh, họ bị điên đó, thì họ cái trường hợp đó. Và bây giờ có nhiều khi xả đó mà họ chưa lấy lại bình thường.
(47:13) À cho nên ở đây thì chúng ta thấy người chứng quả A la hán là khi nào mà tham sân si hết, điều này có thể thực hiện được trong chiếc áo người cư sĩ. Nhưng mà các con không cần cạo tóc, không cần mặc áo như Thầy, các con vẫn mặc áo như vậy, nhưng mà các con phải sống đúng như người xuất gia. Chứ mấy con mà sống không đúng như người xuất gia mấy con không làm được đâu. Cho nên khi đó điều kiện mấy con, cái hình tướng của mấy con từ cái ăn mặc, từ cái tóc tai của mấy con vẫn là người cư sĩ, nhưng mà đời sống của mấy con là đời sống của tu sĩ, phải giới luật nghiêm chỉnh, mấy con mới thực hiện được hết tham sân si, mới chứng quả A la hán được, chứ không phải dễ.
Cho nên ở đây Thầy trả lời cho quý vị đó điều này có thể thực hiện được trong chiếc áo người cư sĩ mà không cần phải xuất gia, nhưng những công việc đa đoan trong cuộc sống của người cư sĩ mà không chịu buông xả hoặc giao lại cho người khác, cứ kê vai gánh vác, thì cũng giống như người đời không muốn bỏ, mà đạo lại muốn thêm thì quả A la hán sẽ không bao giờ có được. Đó là câu trả lời xác quyết của Thầy như vậy. Nghĩa là bây giờ mấy con tối ngày cứ ôm cháu ru cho nó ngủ thì chắc chắn là Thầy nói không tập được, phải không. Các con phải bỏ nó xuống đi, giao cho nó, nó sanh ra bây giờ nó phải ráng nó nuôi, tao ít bữa chết rồi mà cứ ôm cháu mà nuôi đâu có được. Không Thầy nói thật mà, hầu như tuổi mấy con là tuổi ôm cháu không à, chứ hết ôm con rồi. Mà bây giờ cứ thương nó, cứ ôm nó thì mấy con cũng sẽ có ngày mấy con cũng bỏ cháu mà đi. Mà đi tái sanh làm con cháu người ta mới chết chứ, rồi đó người ta sẽ ôm người ta nuôi lại. Bởi vì nó vậy đó, nhân quả mà, nó bù trừ, mình ôm nuôi thì sau này người ta ôm nuôi lại, chứ có làm sao đâu.
(49:01) Đó, đó bây giờ để trả lời cái điều kiện này, có người hỏi Thầy trong tu viện mình có ai tu chứng quả A la hán không? Đó là cái ông Chiên Tuân, hình như trong này cũng có trả lời ông thì phải. Thầy nói mấy con vô tu viện là Thầy đã dẫn cho các con biết qua bờ bên kia hết rồi, tại mấy con muốn ở bờ bên đây mấy con chịu chứ thực sự mấy con vô cái tu viện Chơn Như này thì ăn ngủ độc cư là Thầy đã dẫn cho con ở bờ bên kia hết rồi, bờ giải thoát hết rồi, tức là quả A la hán hết rồi. Nhưng mà mấy con cứ không chịu ở bển mà cứ nhảy qua bên này, vậy là sao? Phải không? Phải chứng quả A la hán không? Thì Thầy nói tu viện Chơn Như thì vô đây là phải chứng quả A la hán chứ sao, nhưng mà mấy con không chịu mấy con cứ nhảy trở lại bờ bên đây thì làm sao chứng được. Tại mấy con chứ bộ tại Thầy sao.
(50:06) Rõ ràng bảo mấy con ăn ngày một bữa này, sống độc cư, phá hôn trầm mà mấy con không chịu, mấy con cứ nhảy qua bờ bên đây mấy con nói chuyện thì mấy con phải chịu chứ sao, phải không. Chứ còn nếu mấy con chịu, mấy con cứ ôm đi. Một tháng chưa rồi thì bảy tháng nó sẽ rồi, bảy tháng chưa rồi thì bảy năm, Thầy bảo đảm với mấy con, đức Phật đã xác định là bảy năm mà. Chót của mấy con là bảy năm. Mà bây giờ mấy con cứ ở bờ bên kia, mấy con cứ ở hoài bảy năm mấy con có chứng quả A la hán sao? Rõ ràng từ cái bước đầu tiên là chứng quả A la hán rồi đó. Vô đây mấy con giữ có một ngày à, còn ngày sau mấy con nhảy qua bờ bên đây hết đó. Cứ chờ bờ bên đây mà hỏi Thầy có chứng quả A la hán không. Thật sự cái tu viện này là cái nơi để chứng quả A la hán, có phải không. Mấy con vô đây Thầy khép mình cho mấy con trong khuôn khổ này đi, rồi hàng ngày có ác pháp gì mấy con độc cư một mình thì cứ tâm mình, mình xả ra thôi, thì luôn mình ở bờ bên kia rồi, bờ giải thoát rồi. Có đúng không?
Bây giờ tới cuối cùng mấy con chứng quả A la hán cuối cùng, chứ quả A la hán đầu tiên mấy con đã nắm vững ở trong tay mấy con rồi. Nhưng mà mấy con cứ buông ra. Trời đất ơi cái viên ngọc đẹp mà mấy con không nắm, mấy con lại cứ nắm cái cục đất không à. Tại mấy con buông bỏ chứ đâu phải tại Thầy không dạy. Cho nên hỏi có ai chứng quả A la hán không Thầy nói có chứ sao không. Người mà chứng quả A la hán đây có người chứng một ngày, có người chứng một giờ, nhưng mà có người chứng luôn chứ, phải không? Có chứ sao lại không. Bởi vì nó là cụ thể thực tế, phải không, các con thấy không, nó giải thoát thực sự mà, đâu phải còn mơ hồ đâu. Chứ đâu phải bây giờ người nào cũng thực hiện thần thông, ngồi đây mà biến cả trăm ngàn người mình mới chứng quả A la hán đâu, ngoại đạo nó cũng làm được chuyện đó mà nó có chứng quả A la hán đâu. Có phải không?
(51:44) Cho nên ở đây thật sự là người ta chứng quả A la hán là tâm không còn tham, sân, si, phiền não nữa. Nó ở bờ bên đây, nó giữ gìn đúng giới luật là nó chứng quả A la hán như hồi nãy Thầy xác định mà. Muốn biết người đó chứng quả A la hán không thì nhìn giới luật. Mà bây giờ có ba giới à. Lẽ ra Thầy đưa sáu cái giới lận, “Nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng”, các con thấy không, nếu mà ai nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng được thì người đó cũng chứng rồi chứ gì. Rồi “Ăn, ngủ, độc cư” rõ ràng là có sáu cái thôi, thế mà người nào mà sống đúng sáu cái này thì chắc chắn là A la hán ngay tại chỗ đó rồi.
Có đúng không, mấy con thấy nó có còn tham, sân, si được chỗ nào đâu. Các con biết “Nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng”, bằng lòng tức là vui vẻ chứ gì, nó đâu còn buồn phiền não nữa, người ta chửi mình mình nhẫn nhục, mình đâu có chửi lại, rồi mình tùy thuận, mình vui vẻ, mình bằng lòng thì như vậy là mình giải thoát rồi. Tức là ly dục, phải không. À bắt đầu bây giờ ăn ngủ, độc cư, những cái tướng này là những cái tướng như là nằm ở trong bụng mình đó, nó ham ngủ ghê gớm lắm, nó lười biếng ghê gớm lắm, thức khuya muốn dậy nhưng nó không có dậy đâu. Các con cứ thử coi, hai giờ thức dậy coi nó còn ráng ráng nó nằm thêm. Lấy roi mà quất coi nó dậy, cho nó mấy phát cho nó đau rồi nó dậy. Còn nếu mà mấy con không chịu mà khắc phục như vậy, thì làm sao mà A la hán mà lười biếng đến mức độ vậy, có đúng không. Rõ ràng mình biết mình hơn ai hết à, đó bây giờ còn thích nói chuyện làm gì đây? Nói chuyện là cái chuyện ở ngoài chứ đâu phải chuyện mình, còn mình mình ngồi mình chơi nó sướng hơn. Còn nhiều khi người ta nói chuyện ấy, người ta không nó gì chứ người ta nói động tới mình mình cũng sân lên.
(53:12) Cho nên trong cái sự tu tập mấy con thấy cái giới luật của Phật nó đem lại cái lợi ích cho mình rất thực tế, cụ thể mà nó thực hiện được chứng quả A la hán ngay tại chỗ giới luật đó. Vậy thì mình phải ráng. Bây giờ mình bỏ hết cuộc đời, các con thấy tâm các con có tha thiết không. Cho nên từ đường xá xa xôi kia mà các con bỏ vô đây để thăm Thầy, để học hỏi những cái điều cần thiết. Thế mà bây giờ mấy con lại không dám bỏ sao? Thầy nghĩ rằng các con của Thầy đứa nào cũng gan dạ hết, nó là dòng dõi của Trưng Vương Triệu Ấu mà, nó gan ghê gớm lắm. Thì không lẽ bây giờ nó đầu hàng giặc sinh tử sao, nó phải giải phóng quê hương nó chứ. Các con biết giặc sinh tử nó đang xâm chiếm cái đất nước của mình mấy con, nghĩa là mỗi đứa đều có một cái đất nước, nó đang xâm chiếm mấy con. Thầy thì giải phóng được đất nước của Thầy rồi, thì thanh bình rồi, còn mấy con chưa giải quyết thì mấy con chưa giải phóng nó đâu. Nó còn lôi mấy con đó, nó bảo chết là mấy con phải chịu chứ mấy con không có nói là tôi sống thêm không có được đâu.
(54:05) Cho nên mấy con nhớ phải ráng để mà giải phóng quê hương của mình. Đất nước của Thầy nó thanh bình rồi, cho nên Thầy làm chủ rồi. Thầy có vua chúa của Thầy rồi. Còn mấy con chưa có vua chúa được đâu, mấy con bị giặc sinh tử nó ngự trị trên nước của mấy con đó. Nó sai mấy con ăn thì mấy con ăn, nó sai mấy con ngủ thì mấy con ngủ, đó là nó sai mấy con, mấy con thấy chưa? Mấy con nô lệ nó chứ, nó sai đi chợ mua cái này, sai đi chợ mua cái kia, sai đi chợ sắm cái áo đẹp, mấy con làm theo không à. Có phải không? Tức là mấy con bị nó sai. Còn Thầy nó sai được không? Áo rách cũng mặc, có ăn thua gì đâu. Cho nên Thầy làm chủ được rồi, cho nên bây giờ nhìn đây ai, người nào làm chủ như Thầy đâu. Chưa có phải không?
Cho nên ngày xưa Thầy thấy ngài Huệ Viễn, khi nhà vua mời ngài đi đến kinh thành để mà giảng cho các quan và vua nghe những cái bài pháp, vì ngài là người tu rất là có tiếng. Do đó thì lần đâu tiên thì ngài không đi, lần thứ hai ngài cũng tìm cách ngài từ chối không đi. Nhưng mà lần thứ ba, kỳ này nếu mà ông không đi thì tôi đem lính bắt nhốt ông hết, cả gia đình ông nữa chứ đừng nói chỉ riêng mình ông. Thì ổng thấy kiểu này không xong, ông mới hỏi chúng, họp chúng như mấy con ngồi đây: “Vậy người nào đi với ta được?” Trong chúng nói: “Con đi được với hòa thượng”. Thì ngài Huệ Viễn hỏi: “Ông đi được bao nhiêu thước một ngày? Con đi trăm thước một ngày”, thí dụ như vậy, hoặc một trăm trượng một ngày, hoặc là mười cây số một ngày. Thì ông nói: “Không được, ông đi không được đâu, đi với ta mà đi như vậy không được”. Thì có một người, một thị giả đứng lên: “Con đi với hòa thượng, Ông đi một ngày được bao nhiêu thước? Bao nhiêu cây số?” Thì ông thị giả nói: “Hòa thượng đi tới đâu, con đi tới đó”. Khỏi cần thước gì hết, à thầy đi tới đâu con đi tới đó.
Bây giờ mấy con đi với Thầy được không? Có phải không con. Bây giờ Thầy đi được con đi được không? (Có ạ, có ạ…) Chắc không? Bây giờ con học thử coi, xong thầy coi xem con có được không. Bây giờ thí dụ như Thầy tịnh chỉ hơi thở, con tịnh chỉ được chưa? (Chưa, chưa…) Như vậy thì đâu có được, (Mấy con đang cố ạ…), phải không?
Thì Thầy nói như thế này, khi mà Huệ Viễn nói “Rồi, ông đi được phải không”, thì ông kia nói “Được, thầy đi tới đâu con đi tới đó”. Thì ông tịch, và thị giả kia tịch theo liền. Nghĩa là hai thầy trò người ta tịnh chỉ hơi thở người ta dừng người ta đi luôn. Các con thấy không, như vậy người ta mới đi được chứ. Cho nên nhà vua ổng chết rồi còn ai bắt tội ai nữa đâu. Tức là người ta không chấp nhận người ta đến đó làm quốc sư mấy con, người ta không có làm. Phải không. Như vậy rõ ràng là người ta không chấp nhận chứ gì. Nhưng mà cái huyền thoại như vậy nó hay như vậy, nhưng mà thật sự ra không biết cái ông thiền sư này ông nhập cái định gì mà ổng đi lẹ, các con thấy không? Còn ông Phật ông nói ông làm chủ cái thân, mà ông nhập định để mà ông chết đó, thì ông nhập tứ thiền, tịnh chỉ hơi thở. Còn Thầy ở đây mà muốn chết chắc Thầy cũng phải nhập tứ thiền chứ Thầy mà chết ngang xương như vậy chắc Thầy nín thở chắc bể ngực Thầy chứ, nó không chịu nổi đâu, phải không?
(57:11) Cho nên vì vậy mà mấy con tập luyện làm sao mà mấy con đủ cái năng lực, mà các con ra lệnh bảo hơi thở tịnh chỉ mà nó nhập vào tứ thiền. Tứ thiền là một cái trạng thái hỷ lạc khinh an, nó tuyệt vời. Nó làm cho thân tâm của chúng ta nó an ổn, rất là an ổn, trong khi hơi thở ngưng.
Còn bây giờ mấy con thử mấy con nín thở coi, cái thân nó bừng bừng bừng bừng. Nó toát mồ hôi, nó rũ ra, mà ráng nín nữa trời ơi nó nghe mấy lỗ chân lông mình nó muốn hở hết. Mà ráng hơi nữa nó đứt nó đi luôn. Nó đi luôn mà nghe nó đau khổ, mà nghe nó khó chịu, nghe nó khổ sở. Nó bắt mình thở ra, nó thúc thúc mình thở ra, cho nên không ai mà tự tử mà nín thở được hết. Bởi vì nó thúc hơi chịu không nổi, cái bắt đầu khó chịu quá mình phải thở cái phì ra. Thành ra không nín được. Buộc lòng người ta muốn tự tử, là người ta phải thắt cổ người ta chết. Hoặc là người ta nhảy xuống sông, để nước hít vô không được, thì người ta mới chết được. Còn trái lại thì cái người ngồi mà nín thở mà chết thì không có người nào. Nhưng mà cái người mà tu thiền định, tại vì mức thiền định đó nó giúp cho cái thân của chúng ta không thở. Tức là các hành trong thân nó hoàn toàn không hoạt động.
(58:22) Đó, hôm nay như vậy thì các con thấy cái Phật pháp nó vi diệu như vậy. Cái quả vị A la hán người nào cũng có thể nắm được trong bàn tay. Hôm nay mấy con được nghe Thầy chỉ dạy, nhưng chúng ta phải đi từng bước đầu như thế này. Tức là đầu tiên chúng ta phải đi vào cái đạo đức nhân quả, đạo đức nhân bản nhân quả, đạo đức làm người. Chúng ta phải học những cách thức học để mà làm người, không làm khổ mình khổ người. Học không làm khổ mình, khổ người thì đạo Phật nó có tám cái lớp học mà Thầy sắp sửa sẽ soạn thảo cái giáo trình của từng cái lớp học đó. Bởi vì đạo Phật là một cái chân lý, nó không phải là những cái triết lý ảo tưởng, mù mờ, mơ mộng. Mà đây là cái thực tế của loài người, cho nên nó trở thành những cái môn học, cái sự tu tập thực sự. Cho nên nó có tám cái lớp học.
Cái lớp Chánh kiến: Chánh kiến là bắt buộc chúng ta phải nhìn vào một cái góc độ nào đó để thấy nó luôn luôn nó có cái sự giải thoát, có cái sự an ổn trong thân tâm của chúng ta. Hồi nào tới giờ chúng ta sinh ra từ cha mẹ sinh ra, được nuôi lớn, chúng ta truyền thống qua một cái nhìn đúng sai phải trái. Cho nên cái đúng của mình vẫn thấy khổ, mà cái sai của mình, mình vẫn thấy khổ. Cho nên cái đúng sai nó vẫn là nằm trong ác pháp, nó làm cho chúng ta khổ. Còn bây giờ người ta dạy cho mình cái lớp Chánh kiến, để mình nhìn mọi vật, nhìn sự kiện xảy ra, mình nhìn bằng cái góc độ nhân quả, làm chúng ta thấy thiện và ác. Thiện thì giải thoát, mà ác thì nó đau khổ. Cho nên luôn luôn mà thấy đau khổ là ngăn, là diệt, không có được để đó.
Và đồng thời những cái phương pháp mà chúng ta tập luyện để mà biết cách ngăn và diệt nó để cho ác pháp nó không tác động được. Cho nên cái nhìn của chúng ta, cái nhìn bằng cái hướng khác. Mấy con phải nhìn thấy từ xưa đến giờ mà ông bà cha mẹ mình đã dạy cho mình nhìn bằng cái nhìn đó. Cho nên khi mà học cái lớp này trong một năm, các con ra các con có cái nhìn khác, cái hướng khác và trở thành một cái thói quen khác, nó không còn cái thói quen giận hờn phiền não nữa. Do đó mọi sự kiện xảy ra, tâm mấy con bất động, nó không còn phiền não, tham, sân, si nữa. Đây là cái giai đoạn đầu để chúng ta tu tập, gọi là lớp Chánh kiến.
(01:00:31) Đến cái lớp Chánh tư duy. Trong một năm mấy con học lớp Chánh tư duy, thì khi đó cái sự suy nghĩ của các con luôn luôn nó giúp cho các con không còn đau khổ nữa. Do đó người ta dạy cách thức cho các con biết cách suy nghĩ. Còn hồi nào tới giờ mình suy nghĩ theo cái kiểu ham muốn, à tôi suy nghĩ tôi phải làm cái này cho có tiền, hoặc là bây giờ tôi không có cách nào tôi làm cho ra tiền được hết, tôi chỉ bây giờ mấy con nó cho tôi năm ngàn, mười ngàn mà bây giờ tôi muốn kiếm một triệu, hai triệu, cho nên vì vậy tôi bỏ năm ngàn mười ngàn ra tôi mua cái vé số để rồi tháng này tôi hi vọng tháng sau nó trúng, tôi có tiền nhiều. Như vậy rõ ràng là cái muốn của mình, cái suy nghĩ của mình nó biến mình trở thành một cái người tham, không có tốt. Cho nên vì vậy mà cái suy nghĩ của chúng ta là cái suy nghĩ như thế nào để cho chúng ta hoàn toàn ở trong cái Chánh tư duy đó. Nó làm cho chúng ta được an ổn mà không có hi vọng một cách mơ hồ, một cách ảo tưởng, một cách tham lam như vậy, nó làm chúng ta rất là an ổn.
Đó là chúng ta sẽ học những cái lớp như vậy. Và sau khi học xong tám cái lớp này thì chúng ta sẽ chứng quả A la hán. Nghĩa là lớp thứ nhất như thế nào, lớp thứ hai như thế nào… cho đến lớp Chánh định thì chúng ta nhập định, chúng ta thực hiện Tam minh tức là Tuệ, xong rồi thì lúc bấy giờ chúng ta chứng đạo.
Nhưng mà có những người đứng lớp, có những bài vở học, thì chỉ cần mấy con vào mấy con tu học theo các lớp này, từ lớp thấp đến lớp cao thì mấy con sẽ đạt được kết quả. Bởi vì nó là cái môn học mà, nó là cái môn học thực tế chứ đâu phải tu cầu may, không phải cầu may. Cũng như bây giờ Thầy dạy mấy con là ngăn ác, diệt ác này, hàng ngày người ta chửi mình, mình quán tâm mình như đất, ly tham sân si hết đi. Thì khi người ta có nói nặng nói nhẹ mình, mình nhớ “Tâm như cục đất, ly tham sân si. Tham sân si là ác pháp, không có được chấp nhận nó”, thì do đó tâm mình nó thấy nhẹ nhàng, nó xả đi, nó không còn đau khổ. Thì rõ ràng là cái phương pháp nó giúp cho tâm mình không còn sân, cho nên nó được giải thoát. Mà bây giờ mấy con cứ hàng ngày mấy con cứ rèn luyện, mấy con tu tập vậy, thì tâm mấy con giảm.
(01:02:30) Bắt đầu bây giờ không lẽ cứ năm nào, ngày nào cũng tu hoài đó sao. Khi mà tu một thời gian thấy tâm mình nó vững vàng rồi, thì bắt đầu mình đi tới những cái pháp khác nữa. Nó có nhiều pháp. Cho nên từ đó, từ cái thấp cho đến cái cao, cho đến khi mà cái mình làm chủ toàn bộ bốn cái sự đau khổ của thân tâm của mình. Khi mình làm chủ xong coi như là mình hoàn toàn giải thoát rồi thì thôi, đâu còn tu nữa, đâu còn cực khổ nữa.
Cho nên mấy con hôm nay được về được nghe Thầy thuyết giảng, và sau này con cháu chúng ta, nếu mà điều kiện Thầy soạn thảo xong cái giáo trình, và Tu viện Chơn Như đào tạo cho được tám người đứng lớp, tức là tám vị A la hán đứng lớp, thì chúng ta sẽ có một cái cơ duyên may, là con cháu của chúng ta sau này nó có một cái chương trình tu học để trở thành vị A la hán. Thì cái đất nước, cái con người ở trên hành tinh nó có những cái lớp học như vậy thì chắc chắn ai cũng ham học hết.
Bởi vì mình có học, có đậu tiến sĩ, có trở thành những cái người danh tiếng hoặc là cái vị lãnh tụ của đất nước nhưng vẫn nằm trong quy luật sanh tử luân hồi, không thể nào thoát ra cả. Ông ta cũng còn giận hờn, mặc dù ông ta có làm một vị tổng thống đi ông cũng giận hờn, ông cũng còn tức giận, ông cũng còn phiền não, thân ông cũng vẫn bệnh đau, ông không làm sao làm chủ được. Bây giờ cái người đó là nhà bác học sáng chế ra cái này cái kia để phục vụ đời sống chúng ta, nhưng ông cũng vẫn nằm trong quy luật này, ông cũng phải thoát ra. Bây giờ có những cái lớp học để thoát ra, xá gì ông bỏ hai ba chục năm để ông trở thành một nhà bác học, thì bây giờ ông chỉ có bảy năm, mà ông đã làm chủ được cái sự sống chết của ông, thì cái giá trị này nó hơn gấp mấy lần cái bằng mà tiến sỹ, trở thành nhà bác học như ông. Trở thành nhà bác học ông vẫn xuôi tay trước cái quy luật sinh tử luân hồi này, ông không làm sao làm chủ được.
(01:04:16) Còn bây giờ, cái trường này mở lớp để chúng ta làm chủ được bốn cái sự đau khổ này, do đó cái quy luật này nó không còn chi phối chúng ta được nữa. Thì cái lớp học này nó có giá trị hơn là các lớp học kia. Các con thấy chưa. Mà như vậy vừa người nhỏ, người trẻ học cũng được, người già học cũng được, người sắp sửa chết học cũng được, những người nào học cũng được hết. Hễ vô đây người ta dạy cách thức để cho mình sống, chứ đâu phải học bài để trả bài đâu. Học để rồi tập luyện, tu tập hàng ngày, mình tập.
Như bây giờ mấy con thấy Thầy dạy mấy con pháp Thân hành niệm chứ gì, đưa tay, đưa chân, giở gót rồi mấy con co chân ngồi xuống, tất cả những cái này đứa nào cũng làm được hết. Có người nào mà không biết co tay co chân đâu, trừ ra có người cụt tay cụt chân hết thì không đưa thôi chứ, nhưng mà thật sự nếu mà cụt tay cụt chân hết Thầy dạy hít thở cũng được, cần gì, mình còn thở là mình tu tập được rồi, và đồng thời cái đầu mình còn lắc qua lắc lại là mình tu được rồi. Đâu phải mình tu thân hành mà, cái thân mình còn động đậy chỗ nào mình tu được hết, chứ đâu có cần phải có tay chân đâu. Mình chỉ chuyên cần tu tập, thì tất cả những cái phương pháp này dù là những cái người nào cũng tu tập, chứ không phải là cái người mà cụt chân thì không có tu tập được, hoặc cái người cụt tay hết không có tu tập được. Thầy nói tất cả những người khuyết tật nào vô đây cũng tu tập được hết.
(01:05:30) Nghĩa là tất cả những người nào cũng có sự đau khổ như nhau, dù cái người đó có tật nguyền gì đi nữa họ cũng có sự đau khổ như chúng ta hết. Cho nên pháp Phật nó ban giải, ban rải khắp cùng mọi người hết chứ không có nói. Còn các con thấy đạo Phật gì mà cái người đó cụt tay, người đó chột mắt là không có cho vô, nói là ông không có phước, cho nên ông sinh ra như vậy. Người ta thiếu phước thì người ta cần được Phật pháp ban giải người ta hơn chứ, an ủi người ta hơn chứ, tại sao mình không cho người ta vào người ta tu, không cho người ta thọ giới người ta tu, bộ người ta là cái gì sao, bộ người ta ma quỷ sao, là chúng sinh gì sao?
Cho nên đối với Thấy tất cả những cái con người, tàn tật, khuyết tật gì vô đây Thầy cũng coi là đệ tử của Thầy hết, mang lại tất cả những tình thương của mình, đem cái chánh pháp của Phật, làm cho họ, dù tàn tật, vẫn là họ an ủi được tinh thần của họ, họ thấy họ vẫn tu tập được, họ vẫn an ổn được tinh thần của họ, thì các con thấy đây là cái lợi ích chung của cái đạo Phật như vậy, chứ đâu có phải là cấm đoán người ta. Cho nên có nhiều người khi bị tàn tật bị cụt cái tay như vậy, có một cái thầy bị cụt tay, cho họ thọ giới Sa di thôi, chứ không cho họ thọ giới Cụ Túc đâu. Các con thấy pháp luật gì mà ngặt nghèo quá vậy. Người ta là gì, cụt cái tay, mà tai nạn xảy ra, người ta thiếu cái duyên phước, trả cái nghiệp thì mình đem Phật pháp cho người ta an ủi. Bắt đầu vị này không giữ giới được sao, họ vẫn giữ giới được chứ, mà họ lại chứng quả A la hán trong khi họ vẫn tàn tật được chứ đâu phải không chứng quả A la hán, quyết chí công tu thôi.
(01:06:58) Đó thì hôm nay mấy con thấy cái pháp của Phật nó thực tế như vậy, mà mấy con đủ duyên, từ đường xá xa xôi mấy con đến đây nghe, thì Thầy chỉ ước ao có một điều là mấy con nỗ lực mấy con tu, đem lại lợi ích cho mấy con mà thôi. Nhưng mà đem lại lợi ích cho mấy con, mấy con được giải thoát là mấy con không phụ ơn Thầy. Mặc dù Thầy cặm cụi Thầy viết từng cuốn sách như thế này, các con thấy Thầy cặm cụi Thầy viết từng cuốn sách.
Hôm nay có những cuốn sách mà các con đọc, là Thầy đem hết sức của mình ra mà làm, vì thương xót, thương xót mấy con là tại vì Thầy nghĩ mình cũng đau khổ. Cũng như Thầy, ngày xưa chưa biết sự giải thoát này, cho nên thường phiền não, thường đau khổ, thường bệnh tật. Bây giờ đã được sự giải thoát này, muốn đem lại cho tất cả các con có một cái cuộc sống như Thầy, được bình an như Thầy, thì Thầy mới cặm cụi Thầy viết. Nhưng mà Thầy không bao giờ Thầy viết cái của Thầy, cái này của Phật chứ không phải của Thầy. Công ơn của đức Phật rất lớn mấy con. Sáu năm khổ hạnh Ngài không có đi được, Ngài ăn quá ít, Ngài nằm, da Ngài xám xịt, Ngài ốm còn cái bộ xương.
(01:08:01) Còn Thầy không có như vậy, cho nên ngài để lại cái giáo pháp, công ơn Ngài rất lớn. Cho nên khi mà Thầy tu tập Thầy nhớ đến đức Phật, Thầy không làm sao mà Thầy, không có khổ hạnh được. Đức Phật còn khổ hạnh, mình bây giờ chưa có được nhằm nhỏ xíu gì đối với Phật. Cái công ơn của Ngài quá lớn, mà mình không có, mình không nỗ lực mình tu thì mình lấy cái gì đền đáp ơn Phật. Cho nên nỗ lực đem hết cái sức sống của mình ra mình nỗ lực. Cũng như bây giờ mấy con nghe Thầy dạy, Thầy đem hết cái sức lời nói của Thầy khích lệ mấy con, đem hết công sức của mình viết ra từng trang giấy, từng trang sách để cho mấy con tu.
Mà mấy con nỗ lực mấy con tu tức là mấy con biết ơn Thầy, mấy con không phụ ơn Thầy. Mấy con luôn luôn nhớ đến Thầy là mấy con xả cái tâm, đừng giận hờn, đừng phiền não. Ai làm gì mấy con vui vẻ, biết nhẫn nhục, biết tùy thuận, biết vui lòng, thì mấy con đã đền đáp ơn Thầy rồi. Còn bây giờ mấy con có cúng dường Thầy bao nhiêu đi nữa, Thầy thấy toàn bộ ở thế gian này là vô thường, không có gì là thường còn đối với Thầy. Cũng như thân của Thầy, một ngày nào đó Thầy cũng bỏ nó, trở thành đất cát chứ không ra gì hết đâu.
(01:09:06) Cho nên Thầy thường nhắc mấy con, khi mà Thầy chết rồi, không có xây mồ xây tháp gì hết, chỉ đem cái hột xoài trồng ngay chỗ cái mả của Thầy, đào một cái lỗ đất đem Thầy lấp nó đi. Đừng có mua hòm mua rương tốn một triệu mấy cũng uổng nữa, cứ đào cái lỗ Thầy ngồi xuống đó Thầy bảo nín thở, thì nó nín thở, thì bắt đầu ở trên lấp đất xuống đi, nó không thở thì cứ mặc tình lấp. Lấp rồi làm chi biết không, mấy con đem cái hột xoài mấy con ghim lên đó đi, cái mả cây xoài. Sau đó nó có trái, thì nó ăn cái xương thịt của Thầy đó mà nó ra trái, nó ngọt lắm, thì cho mỗi đứa một trái. Và mỗi trái mấy con ăn vô thì mấy con không có còn tham sân si nữa. Nó lợi ích, phải không, đừng có xây mấy cái mả, cái tháp nó tốn tiền lắm. Các con biết cái tháp bây giờ xây cả tỉ bạc, nó đẹp lắm, cả tỉ bạc lận. Mà bây giờ mấy con đi lượm cái hột xoài người ta ăn, người ta bỏ đi, mấy con ghim nó thì mấy con khỏi tốn tiền mua nữa. Rồi nó lên được trái xoài nào thì mấy con đem chia nhau mà ăn.
Vậy thì cây xoài mà mấy con trồng như vậy nó ra sẽ rất sai, nó ăn cái xương thịt của Thầy nó rất tốt. Rồi bắt đầu nó ra trái, mấy con chia mỗi người một trái ăn, mà ăn thì mấy con nhớ ăn thì đừng có tham sân si, phải không, thì như vậy mấy con hết tham sân si chứ gì, được giải thoát. Chờ hết tham sân si thì nên mua mà ăn chứ, mà cái này Thầy cho chứ không bán đâu. Nhất định là con về Tu viện Chơn Như, mà Thầy chết ở đây chôn ở đây rồi, thì khi đó ở đây có xoài là cứ phát cho mấy con ăn. Nghĩa là cái cây xoài của Thầy, thì mấy cứ đến xin mỗi người một trái mà về ăn. Mà nhớ ăn là phải hết tham sân si, thì như vậy là mới xứng đáng ăn trái xoài này. Các con nhớ chưa.
(01:10:45) Bây giờ có lỡ mà Thầy có chết rồi, thì mai mốt thì một năm sau nó thành cây xoài, Thầy thành cây xoài, cây xoài đó sẽ làm cái bóng mát, mấy con ngồi đó mấy con tu thì mấy con thấy nhiếp tâm, nghe nó không vọng tưởng đâu. Thật sự mà, ngồi dưới tán cây của Thầy mà làm sao mà mấy con còn giận hờn được. Nhưng mấy con nhớ một cái điều này, nếu mà ngồi dưới gốc xoài Thầy mà mấy con đi nói chuyện, là các con sẽ xa Thầy, không có ngồi dưới gốc xoài đâu. Mà các con ăn phi thời cũng là các con đi xa Thầy, các con ngủ phi thời là các con bây giờ có ngủ dưới gốc cây xoài của Thầy đi chăng nữa, mấy con cũng xa Thầy. Các con nhớ như vậy. Cho nên vì vậy mấy con nhớ, cái lòng thương của Thầy, đến mức độ cuối cùng mà Thầy nói như vậy, Thầy di chúc như vậy, Thầy sẽ hướng dẫn cho những người thân cận Thầy nên làm những cái điều này, chứ đừng có làm gì tốn hao.
Bởi vì bây giờ Thầy có xây cái tháp đi nữa Thầy có làm được bạc nào ra đâu. Thì mấy con cũng góp chứ. Nghe xây tháp Thầy mấy con mừng lắm chứ, bỏ mỗi đứa trăm, hai trăm chứ đâu phải ít, xây cái tháp Thầy tỷ bạc đi, coi nó đẹp không. Bây giờ Thầy nói thật ra Thầy mà chết mà xây tháp, mà đẹp là mấy con sẽ là giang tay mấy con làm đó. Nhưng mà Thầy đâu có cho mấy con hao tiền một cách vô lý gì đâu. Bà con mình ở ngoài kia người ta còn nghèo. Đem cái tiền đó mà giúp cho những người bất hạnh. Còn cây xoài này nó lên nó lại giúp đỡ thêm chứ xây cái tháp này để làm gì đây. Làm cho Thầy nằm ở dưới đó hoài, làm cho Thầy không ra cũng như tù, nhốt Thầy ở trong đó sao, phải không, mấy con hiểu không. Chừng nào, bởi vì Thầy có cái đoạn kinh nào đó Thầy nói, chừng nào những cái pháp này mà nó tan hoại, thì cái nghiệp của quý vị này mới đi. Bởi vì cái nợ của người ta mà. Cho nên còn cây xoài này Thầy lại làm công đức cho mấy con nữa, Thầy có tiêu tốn, Thầy còn làm phước báu thêm, thành ra Thầy đâu có bị ràng buộc.
(01:12:26) Cái thấy của Thầy là cái thấy đúng, còn cái thấy kia là cái thấy bị giam cầm. Nhưng mà người ta nhìn thấy ông Thầy này ông ấy tu hành phước báu quá, cái tháp của ông như cái lăng vua à. Ừ bộ ông vua ông ấy sung sướng, ông vua ông nhốt ông ở trong đó, biết đời nào, ông làm vua ông biết làm bao nhiêu cái tội lỗi không. Cho nên nhốt ở trong đó mà tưởng là hạnh phúc đó sao. Mình thì mình, với cái đôi mắt tầm thường của mình, thì mình thấy mấy cái điều kiện đó là hạnh phúc, nhưng mà sự thật đâu phải. Cái giải thoát là cái buông xả hết là giải thoát, không có cái gì mà còn lại đó là giải thoát. Cho nên chúng ta tu hành rồi chúng ta không còn lo nữa.
Cho nên ở Miền Bắc có tục lệ là chết rồi, ba năm họ cải táng, thôi cái này dẹp đi, sau này Thầy xin mấy con chôn một lần thôi, đừng có làm mất công tốn tiền, phải không, chôn rồi. Bây giờ cái người nào họ giữ tâm thanh thản được đừng có đem đốt mấy con, đốt thì nó lấy đâu mà nó tu nữa. Đem chôn để cho nó nằm dưới đất để mình tiếp mình tục tu nữa. Mình tu xong rồi cái bắt đầu nó rũ rục cho nó thành đất luôn, có gì đâu. Rồi mình xây luôn ở trong đó luôn. Mình để mình xây nhỏ nhỏ, đừng có xây lớn mấy con. Cái thân của mình nó mục hết rồi, cái thân của mình nó mục hết rồi, nó chỉ còn cái miếng đất nhỏ nhỏ thôi có gì đâu. Cho nên mình xây cái mồ nhỏ nhỏ, đừng có xây lớn, choán nhiều đất, nhớ lời Thầy. Đó là mấy con để lại cái di tích cuối cùng của cái người thân của mình, ông bà cha mẹ mình chết cũng làm nhỏ nhỏ, để làm sao cho con cháu mình nó “Ờ, đây là ông, là bà, là cha mẹ mình chết như thế này, để cái di tích như thế này”, nó đến nó thăm viếng, để nó có cái tình cảm với nhau, đó là cái hay nhất. Nghĩa là sống xây nhà, thác xây mồ, mà cái mồ để cái di tích cho con cháu của mình biết ông bà tổ tiên của nó ở đâu.
(01:14:07) Còn chúng ta đừng có làm hũ hũ như vậy, đem vô chùa mai mốt không có tiền, con cái mình không có tiền cúng nó đem nó quăng ra đằng sau đó, vứt ở đâu. Không Thầy nói thật mà, có tiền nó để đằng trước mặt, nó để trên cao này, còn không tiền nó đem nó ném xuống đất hết, nó để cái hũ khác vô, chứ đâu phải đâu. Cho nên mấy con đừng có điên, mình muốn mình xây cái mồ nho nhỏ như vậy đi. Mình không có tiền, mình mua một cái cục đá về, khắc cái tên ở trên đá, cắm lên thế đủ rồi. À mộ ông bà tôi có vậy thôi, tôi không có cần, để tiền này tôi cho bà con người ta nghèo người ta bất hạnh, xây cái mồ cho lớn vậy này, mà cái số tiền như vậy tôi để tôi cho người khác đi. Biết đâu chừng tôi để tôi xây cái mồ này mà tôi cho người khác là ông bà tôi lại được hưởng phước, không phải sướng sao. Các con cứ nghe nè, mình làm thiện thì bao giờ nó cũng phải được cái phước báu thiện chứ, còn mình làm cái chuyện riêng tư cá nhân mình như vậy, tốn hao mà nó không thiện đâu. Mà nó cũng giữ vậy thôi chứ cục đá làm sao nó mòn được, nó cũng lưu niệm được, cái di tích được rồi, đủ rồi. Cho nên mấy con nhớ, mình tiết kiệm từng đồng.
Cho nên mấy con chưa thấy, bữa hôm qua Liễu Tâm đến Thầy chỉ, Thầy tiết kiệm từng cái giờ phút điện. Thay vì Thầy ngồi Thầy bật đèn chứ gì, Thầy làm việc chứ gì, không ngồi trong nhà nóng quá mấy bữa nay có mưa nó mát quá, còn mấy bữa kia nó hầm hập chứ gì, nên là Thầy mở cánh cửa bếp nè, Thầy đem mấy thùng giấy của cô Liễu Tâm với mấy con cúng dường giấy đó, Thầy để cái thùng giấy đó Thầy ngồi, xếp bàn ở bên cái bậc cửa, ngoài cửa mở cánh vậy, thì ở trong cánh thì nó không sáng, nó có ánh sáng nhưng mà nó mát, khỏi tốn gì hết, mình lấy cái ánh sáng của trời có phải tiện không, ngồi đó viết hoài cũng không có sao hết. Đấy mấy con thấy Thầy tiết kiệm từng chút chứ, bởi vì mồ hôi nước mắt mấy còn làm ra của đâu phải dễ, rất khổ mấy con. Cho nên khi mà nói chung ta tiết kiệm hay làm gì, chúng ta không xài phí vì xung quanh chúng ta còn những người đói mấy con. Chúng ta để dành cái đó chúng ta cho mọi người. Rồi bây giờ mình tiết kiệm để làm gì, để chúng ta có những cuốn sách như thế này, để chúng ta đọc những lời mà đức Phật dạy, những lời vàng ngọc ở trong này để giúp chúng ta có một cách thức sống, một cái đường lối sống, đó là những cái điều kiện mà chúng ta cần phải tiết kiệm, không được lãng phí.
(01:16:18) Cho nên ở đây tất cả những cái gì mà các con được về đây học thì các con học được những cái rất là tuyệt vời. Thầy nói tuyệt vời là tại vì mình không có làm tiêu hao, mà mình làm lợi ích cho mình và cho người nữa, các con thấy không. Từ cái chỗ tu cho đến cái đời sống của mấy con, mấy con cứ theo Thầy mấy con sống đi, Thầy nói mấy con sẽ hiểu, không có cái gì mà nó làm cho mấy con hối hận, lầm lạc ở thân tâm của mấy con nữa hết. Đó các con hiểu chưa?
Bây giờ, hôm nay được về đây gặp Thầy và đồng thời những cái điều mà Thầy còn nợ mấy con là cái bộ sách Đạo đức làm người, phải không. Đạo đức làm người làm gì mấy con biết không? Là trong gia đình mình à bây giờ cha mẹ dạy con như thế nào, rồi con cái vâng lời cha mẹ như thế nào, vợ chồng đối xử như thế nào, vợ đối với chồng sao, chồng đối với vợ sao, những cái điều này Thầy phải dạy. Khi mà đọc bộ sách này rồi mấy con đối xử sao thì Thầy nói hạnh phúc gia đình của mấy con tràn trề, phải không. Bây giờ thì chưa có mấy con có biết đâu mà nói. Hồi nào tới giờ đụng cái chuyện gì cứ cãi cọ rầy rà, không có nhịn được. Nhưng mà hôm nay đọc sách Thầy thì nhịn được. Cho nên mấy con đọc cái bộ Đạo đức tập 2 mà Thầy dạy về, có nhiều người họ đọc rồi họ bỏ thuốc bỏ rượu luôn, đem lại cái lợi ích cho họ chứ. Bởi vì Thầy nói uống rượu tai hại, à bây giờ đọc sách Thầy họ thấy nó rõ ràng. Có nhiều người họ thường hay đi quán uống cafe này kia nọ, nay họ không thèm đi nữa. Các con thấy? Từ đó Thầy thấy cái bộ sách đạo đức cũng đem lại lợi ích nhiều và nó đem lại hạnh phúc cho con người rất lớn mấy con.
(01:17:48) Cho nên Thầy nghĩ rằng cái sự sống của Thầy là cái sự sống của mấy con rồi. Nó không có riêng của người nào hết. Cho nên Thầy cố gắng Thầy làm tất cả những cái này là vì mấy con hết. Cho nên Thầy không có nghỉ là vì vậy. Cho nên mấy con hôm nay về đây được nghe Thầy nói là những lời khích lệ, khi nào mấy con có những cái gì khó khăn mấy con nhớ gọi tên Thầy đi “Thầy ơi bây giờ con gặp khó khăn xin Thầy giúp đỡ con”, thì hãy nghe trong tai mấy con nói “Hãy thanh thản, an lạc, vô sự, tâm bất động, đừng sợ”, hãy nghe nói ở trong tai mấy con, nghe tiếng nói của Thầy như vậy thì mấy con sẽ an ổn, rất an ổn. Rồi mấy con cứ gọi Thầy đi, rồi các con sẽ lắng nghe cái lời nói ở trong tai của mấy con, lời của Thầy sẽ nói ở trong tai của mấy con.
Còn nếu mà mấy con gặp khó khăn như thân con đau nhức sắp sửa mấy con chết chứ gì, phải không, cái thân mà sắp sửa chết nó rã rời lắm, làm khổ sở lắm, các con bảo “Thầy ơi bây giờ con đang sắp sửa chết, Thầy hãy đến giúp con”, thì khi mà nói kêu Thầy giúp con, thì con hãy giữ cái tâm bất động của con thanh thản, an lạc, vô sự. Thì lúc bấy giờ con lắng nghe trong tai con sẽ có tiếng nói của Thầy nhắc nhở “Con hãy thanh thản, an lạc, vô sự, đừng sợ hãi gì hết, có Thầy ở bên đó”. Thì lúc bấy giờ có Thầy ở bên thì các con nương tựa, các con đâu có sợ, đau mặc nó, lúc bây giờ các con thấy an ổn quá, không còn thấy đau nữa. Cho nên cuối cùng con tắt thở cái bắt đầu các con thấy an ổn, có phải không. Đó Thầy lúc nào cũng ở bên con, mà các con kêu gọi, là phải giữ tâm thanh thản, chứ mà các con không giữ tâm mà cứ loạn động hoài thì sao Thầy dám đến đó. Ở chỗ đó sóng gió ba đào ai dám đến. Nhưng mà cái chỗ đó cái tâm bất động của mấy con thì mấy con sẽ gặp Thầy liền. Các con nhớ chưa. Nhớ cái tâm thanh thản, an lạc, vô sự hem.
À lúc nào mà giữ cái tâm đó là mấy con gọi Thầy là có Thầy, Thầy sẽ đến đó mà giúp con, phải không, hiểu chưa? Nhớ lời Thầy căn dặn, mấy con là con của Thầy hết, con đông quá, cho nên vì vậy mà mỗi đứa mà nó réo thì chắc chết, thì lo bỏ chạy trối chân, có phải không? Đứa này cũng gọi, đứa kia cũng gọi thì làm sao chẳng chạy.
Cho nên trong khi đó tại sao đạo Phật lại quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, tại sao không quy y Phật không? Các con thấy quy y Phật, là Phật chết rồi, thì mình nương theo cái hạnh của Phật mình ráng mình nỗ lực làm giống như Phật, phải không, thì đó là quy y Phật. Bây giờ quy y Pháp là theo Pháp đừng có phạm giới, bởi vì giáo pháp của Phật nó là giới luật chứ không có gì, là đức hạnh, đức hạnh giải thoát mà. Cho nên giới luật các con ôm chặt rồi. Nhưng mà bây giờ xả ra, ôm chặt nó bây giờ cái đầu mình nó nhức quá tôi biết hỏi ai bây giờ đây? Phải không, các con thấy nó đâu phải dễ đâu, bây giờ mới chạy lại mấy ông Tăng, cái ông mà còn sống đó chứ ông Phật ông chết rồi mà hỏi ông làm sao ông nói được. Cho nên quy y Tăng là rất cần thiết mà con phải chọn ông Tăng nào để mà quy y chứ.
(01:20:36) Đụng ông Tăng mà phạm giới quy y chắc thôi ông biểu thôi con về ăn uống lại đi, đừng có ăn ngày một bữa, thì chắc chắn mấy con phải chết. Thấy không, cho nên mấy con muốn gặp ông Tăng mà giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì mấy con đến hỏi, thì ông mới nói à bây giờ con ăn như vậy đó, con phải tu như thế này, xả như thế này thế này, thì nó sẽ hết, các con hiểu không. Mà bây giờ con ở xa quá, như Hà Nội, mà bây giờ muốn gặp Thầy đâu phải dễ, con chạy lại mấy chùa khác hỏi mấy ông thầy phạm giới thì làm sao mấy ông này chỉ cho con, con hiểu chưa?
(01:21:05) Cho nên bây giờ chỉ còn giữ cái tâm thanh thản mà thôi, thì khi giữ tâm thanh thản mà gọi Thầy thì các con sẽ nghe trong tai có tiếng nói. Thật sự ra Thầy không nói đâu mà các con biết ai nói không? Cái tưởng của con sẽ giao cảm được với Thầy và nó nói lại cho con chứ Thầy làm gì mà Thầy chạy qua đó Thầy nói, phải không? Hoặc một đống bao nhiêu đây làm sao Thầy chạy kịp, nhà này chạy qua nhà kia làm sao chạy kịp, có một mình Thầy làm sao chạy kịp. Đâu phải Thầy thị hiện thần thông biến ra hình dạng, các con hiểu không, nhưng mà mỗi cái tưởng của các con sẽ giao cảm được những trạng thái thanh thản đó, giữ cái tâm nguyện của mình thì nó sẽ phát ra thinh tưởng mấy con, nó sẽ nói trong tai, các con hiểu điều đó không. Mà khi mà nó phát ra nó nói, thì tâm con nó bất động chứ gì, nó có cái niềm tin tức là tín lực nó thực hiện ngay cái chỗ đó, nó giữ gìn làm cho tâm không dao động, bây giờ nó nghĩ có Thầy ở bên nó đâu còn sợ đâu.
(01:21:57) Cũng như mình đau quá mà có mẹ mình ôm mình, “Có mẹ đây con, con đừng có rên nữa, có mẹ chịu hết những cơn đau”, đứa con nó thấy nó an ổn nó nằm trong lòng mẹ không có đau, các con hiểu chưa. Còn nếu mà bỏ nó nằm một mình nó đau luôn nữa, còn mẹ nó lại một mình nó ôm hết đau. Thì rõ ràng là khi có Thầy ở bên mấy con mà khi rõ ràng là khi tôi đã nghe thấy tiếng nói Thầy nói rõ ràng là mấy con ở xa mà nghe cái tiếng nói của Thầy, nhưng mà không ngờ cái thinh tưởng của con nó bắt gặp ở trên cái từ trường thiện, với cái tâm thành của con, nó phá tan cái ác pháp. Do đó nó làm cho mấy con có cái tín lực, nó rất là tin tưởng. Bây giờ mình rõ ràng là có tiếng Thầy nói, cũng như bây giờ các con nghe có tiếng Phật Thích Ca nói trong tai mình, trời ơi còn cái gì mà hạnh phúc bằng, cho nên lúc bấy giờ sắp chết mà mình không sợ. Phải không, các con hiểu chưa? Cho nên phải nhớ là mấy con đứa nào cũng lớn rồi, có nhiều người sắp sửa chết rồi thì nhớ những lời Thầy dạy, ghi những lời này để khi mà sắp sửa lìa đời là luôn luôn lúc nào mấy con cũng nhớ là giữ tâm thanh thản, thì lúc đó bấy giờ ở gần bên Thầy. Mà Thầy nói ở gần bên Thầy tức là ở gần bên chư Phật mấy con, chứ không phải ở riêng có mình Thầy đâu. Nghĩa là đức Phật Thích Ca cũng ở chỗ đó, mà mọi người cũng đều ở chỗ đó hết.
Đó thì nhớ kỹ những lời mà Thầy nói để mà mấy con biết, để mà mấy con không dao động. Cho đến giờ phút cuối cùng mấy con không có đau khổ chút nào, nghĩa là nó đau mà mấy con có niềm tin rồi mấy con sẽ thấy nó hết đau liền, tức là tâm mấy con không dao động, ngay chỗ đó là giải thoát. Cho nên chúng ta không cầu ai hết, mà chúng ta chỉ nơi tự lực của mình, Thầy nói bằng cái sự thật, mấy con phải, bởi vì chúng ta tu hành chúng ta vẫn nghe thinh tưởng nói trong tai, mà cái lòng tin của chúng ta thì tự thinh tưởng của chúng ta nó sẽ nói ra trong đó, nó sẽ bắt gặp những cái thinh tưởng của nó, ở xung quanh nó.
(01:23:48) Bởi vì con biết cái từ trường thiện của những người mà tu với đức Phật họ phóng ra khắp cùng ở trong không gian này, nhưng mà chúng ta không thanh thản chúng ta không bắt gặp được cái từ trường lực này. Nhưng mà khi mà giữ được cái thanh thản, cho nên ví dụ như cái thân Thầy nó đau, mà Thầy ngồi giữ bất động, thanh thản, chẳng sợ, thì cái thanh thản đó nó tiếp nhận được cái sự thanh thản ở bên ngoài, nó tạo thành cái lực rất lớn. Do đó cái đau giảm xuống liền, hết liền tức khắc. Cho nên đức Phật có nói, khi mà sức sinh mạng tận cùng chịu đựng của sự đau khổ đó, nó sẽ mát lạnh mấy con. Lời nói ông Phật không nói dối, khi mà cái người nào làm được rồi thì thấy lời nói nó rất đúng.
HẾT BĂNG
THỌ BÁT QUAN TRAI 03 - BỀN CHÍ TU ĐÚNG PHÁP
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời lượng: [01:31:42]
Tên cũ: BQT-Thầy dạy trong kỳ thọ BQT 3
https://thuvienchonnhu.net/phap-am/tho-bat-quan-trai-03-ben-chi-tu-dung-phap
https://thuvienchonnhu.net/audios/tho-bat-quan-trai-03-ben-chi-tu-dung-phap.mp3
(00:00) Trưởng lão: An trú được, nó không có chướng ngại, nó không có khó khăn thì đó là đặc tướng của chúng ta thở theo cái kiểu đó, thì nó là hợp. Còn nếu mà thấy mình thở nghe nó nặng đầu, nghe nó tức ngực, nghe nó khó chịu thì đó là đặc tướng của mình thở như vậy không đúng, thì mình thay đổi. Cũng như bây giờ mình đi kinh hành, mình an trú trên bước đi một cách dễ dàng thì cái đặc tướng của mình đi như vậy là đúng, nó không sai. Cho nên nói về đặc tướng thì chẳng qua là mình thấy cái pháp đó tu đem lại sự an lạc, nó có sự giải thoát, thì đó là đặc tướng của mình nằm ở trong cái phương pháp đó.
Còn nếu mà mình tu thấy mà khó chịu, nó có chướng ngại trên thân và tâm mình, nó có xảy ra những trạng thái làm cho mình không có chịu được, thì lúc bây giờ mình biết là cái đặc tướng của mình chưa có hợp với hành động tu tập đó hoặc là mình đã tu sai. Cho nên mình thưa hỏi lại, thì coi như là tu theo đặc tướng của mình là khi mình thực hiện cái pháp đó mình thấy nó an lạc, thì nó là đặc tướng của mình, tu vậy là đúng. Còn tu mà thấy không an lạc, không an ổn, không an trú được, thì đó là cái đặc tướng của mình nó không có hợp với đó. Cho nên mình tu khác, mình tu lại, mình sửa lại và khi mình không biết sửa, thì mình hỏi Thầy: “Bây giờ con tu như vậy nghe nó mệt, tu như vậy nghe nó chóng mặt. Nó không hợp? ” Hỏi lại Thầy, thì Thầy sẽ hướng dẫn cho cách thức để cho mình sửa cái pháp tu đó lại, cho nó hợp với mình, mình không còn bị cái chướng ngại đó nữa. Mình được an trú được, được tốt được, nhưng mà bây giờ mình tu cái pháp đó mà nó loạn tưởng hoặc bị hôn trầm nhiều quá.
Bây giờ nói về vấn đề đó, nó xảy ra như vậy thì khi đó, cái pháp đó mình cứ ôm vô thì mình bị gục tới, gục lui, do đó hỏi Thầy cái đặc tướng của mình theo pháp đó nó bị vậy. Cho nên Thầy sẽ dạy cho mình ôm cái pháp khác hoặc là tu tập cái pháp đó bằng cách làm cho nó không có hôn trầm, thùy miên nữa, để cho hợp với đặc tướng của mình.
(02:06) Cho nên mọi người mà hỏi Thầy, cứ bắt Thầy cũng như soi căn, mà ngồi coi đặc tướng của mình mà soi căn thì chắc chắn là Thầy soi không hết đâu, phải không mấy con ? Bởi vì mình tu là mình biết cái chướng ngại của cái pháp mình ôm tu, nó trật trúng là mình biết liền. Thì lúc bây giờ mình sửa được. Mình thiện xảo sửa được thì nó tốt, mà mình không biết thì mình mới hỏi Thầy. Chớ mỗi chút, mỗi chút mấy con hỏi Thầy không, thì chắc chắn là mấy con không có kinh nghiệm gì hết. Mà tự mình tu cái này mình thấy nó chướng, mình sửa lại. Cũng như bây giờ con thở ngắn mà thấy nó tức ngực thì các con thở chậm chậm dài lại coi thử coi nó ra sao. Cách thiện xảo, khéo léo của mình, cái đó mới chính là kinh nghiệm bản thân của mình, do đặc tướng, do cái cơ thể của mình, do cái tâm của mình mà mình tu tập. Đó là cách thức của người hướng dẫn. Nếu mà có Thầy, còn nếu không có Thầy thì mấy con lấy ai hỏi ?
Cho nên mấy con đừng có dựa Thầy mà hãy dựa mình. Cho nên Đức Phật nói, lấy mình làm chỗ nương tựa, lấy mình làm hòn đảo. Cái này không lấy mình, mà cứ lấy Thầy à, phải không ? Cho nên cứ hỏi Thầy đặc tướng hoài, biến Thầy làm ông thầy bói rồi. Soi căn mấy con rồi, mất rồi. “À cái căn tôi phải tu cái pháp đó”. Cho nên làm như giống Thầy soi căn rồi. Thành ra mấy con nghĩ chắc Thầy có đôi mắt nhìn cái căn của mình tu vậy. Không phải đâu mấy con, sự thật ra Thầy có biết đặc tướng của các con, Thầy cũng dựa vào chỗ các con tu mà nó không đúng mà Thầy sửa lại thôi, chứ Thầy cũng không phải là dùng cái căn gì mà soi hết.
Bởi vì thân mấy con là thân nhân quả. Mà cái nhân quả của con nặng nhẹ là do nghiệp của mấy con tạo ra nó mới có cái thân vậy. Người có thân tu cái này được, người có thân tu cái kia không được là nghiệp nhân quả của mình có sai khác trong đó, chứ không phải là căn cái gì hoặc là đặc tướng là cái gì. Đặc tướng là cái nghiệp của mình sinh ra cái thân, cái tâm nó có những cái khác, không giống người ta.
(04:03) Ví dụ có người lùn, có người cao, thì đó là đặc tướng của mình do cái nghiệp. Chứ không lẽ cái người nào cũng bằng bằng nhau hết? Có lẽ như vậy chúng ta chặt giò nhau hết để cho nó bằng thì như vậy không được, muốn làm giống nhau sao được? Bây giờ ngồi đây chúng ta nhìn cả bao nhiêu cái gương mặt, có gương mặt nào giống nhau đâu, phải không? Hay chớ, nhân quả nó hay, nó nắn sao mà người nào cũng có khác, không có giống nhau. Thậm chí như hai chị em, nó cũng không giống nhau, chớ đừng nói, cả cái thân, cái tướng nó cũng như vậy. Rồi cái tâm nó cũng không giống nhau, các con thấy nó khác. Cho nên hai người giống nhau cùng một tâm thì chắc không có rồi. Nó vừa nó giống cái này, vừa nó giống cái kia tương đối thôi, chứ không thể mà toàn bộ giống, thật giống. Thật ra hai chị em, hai anh em mà sinh đôi, gương mặt có giống nhau nhưng tâm tánh chưa giống nhau, đó là cái phần mà để Thầy nhắc nhở mấy con.
(05:05) Rồi (…) về cái phá hôn trầm thì việc thứ nhất về cái giờ giấc của mình, mình phải giảm cho nó đúng với thời gian mình quyết định, bây giờ 7 giờ cho đến 10 giờ mới đi ngủ, biết là mình bị hôn trầm (…) Cho nên mình sẽ lui trở lại, mình cho từ 7 giờ tu tới đến 9 giờ mình tu. Còn nếu mà mình dở nữa thì mình bị hôn trầm nặng quá thì mình không tu tới 9 giờ mà tu 7 giờ tu đến 8 giờ, một tiếng rồi ngủ và đồng thời khuya dậy đó, thay vì mình dạy 2 giờ thì mình dậy 3 giờ. Nếu 3 giờ mà dậy không nổi thì mình cho 4 giờ, nhưng nhất định là 4 giờ phải dậy, mà tu từ 7 giờ đến 8 giờ phải đi ngủ. Mặc dù ngủ hay không ngủ kệ nó, chớ đừng nghĩ trước gì hết, miễn làm sao mà tu có chất lượng trong thời gian đó hoàn toàn là không cho hôn trầm thùy miên xen vào.
(06:21) Thì do đó mình nghĩ rằng trong khi thời gian mình chọn thống nhất như vậy, chiến đấu với hôn trầm, sau khi mình tu tập theo giờ giấc của mình nghiêm chỉnh, không vi phạm thì nó đâu đến nỗi mà gục tới, gục lui đâu, không đến nỗi đâu. Lần lượt mình sẽ tăng lên và đồng thời là cái cách thức chọn giờ giấc nghiêm chỉnh, đây là cái thứ nhất.
Cái thứ hai là đời sống ăn uống phải nghiêm chỉnh, không được phi thời. Nghĩa là cái người ăn lặt vặt là hay ngủ gật. Lúc ngủ vầy, lúc ngủ khác, nghĩa là không ăn phi thời cũng như khi ngủ. Cho nên giờ giấc nghiêm chỉnh, ăn ba bữa là ăn ba bữa, đúng ba bữa, đừng ăn lặt vặt, đó là cũng quý lắm rồi đó. Rồi kế đó mình ăn ngày một bữa nữa, thì đó nó lại giảm xuống cái hôn trầm. Cho nên cái này nó hỗ trợ cái kia. Từ cái pháp tu nó giúp hỗ trợ cho nữa, nó phá cái si của mình, bởi vì cái si của mình ngàn đời nó khó phá lắm.
Bởi vì tham, sân, si - người ta rất sợ cái si. Người ta không sợ tham, không sợ sân, mà người ta sợ cái si. Bởi vì do cái si mà nó mới có tham, sân. Mà phá được hôn trầm, thùy miên là phá được cái si thì tham, sân nó sẽ biến mất, nó diệt hết. Cho nên ly được cái si thì nó cũng sẽ ly được cái tham, sân. Cho nên các con đụng đến cái si, các con sẽ thấy nó đánh các con gục hết, không phải chuyện dễ với nó đâu. Cho nên chúng ta tập dần để nó ly dần dần cái si, tăng lên dần cái tỉnh thức của nó thì bằng mọi cái phương pháp, chứ không phải bằng một cái pháp nào mà diệt được nó hết. Các con có đi tắm, có lấy roi đánh đập nó tan nát thân nó cũng ngủ. Mà càng đánh nó đau, nó ngủ luôn nữa, nó đâu có sợ đâu, tới chừng nó ngủ nó không sợ gì nữa hết. Do cái sự tu tập chúng ta phải biết huấn luyện từ từ, huấn luyện cái thân tâm của mình, lần lượt nó sẽ làm được hết, chứ không phải làm sao mà được
Cho nên ở đây các con, theo Thầy thiết nghĩ, bây giờ sự tu tập, các con, giờ giấc, các con phải tập cho đúng với sự mới tu của mình, chứ đừng có quá tu nhiều. Thay vì một buổi tu ba tiếng, các con tu một tiếng thôi, cho mình đi ngủ đi. Lát nữa tới giờ mình tu thì chắc ăn rồi, đâu làm sao nó buồn ngủ nữa, ngủ quá ngủ rồi còn gì nữa. Rồi lần lượt mình tăng dần lên, mình đuổi dần. Cái sức lực mình nó còn yếu, chưa có chiến đấu với cái buồn ngủ này được đâu. Cho nên nó rất khó mấy con.
(08:42) Cho nên trong cái sự tu tập phải biết, phải biết mình, phải biết được giặc thì mình mới thắng nó. Chớ mình biết mình, mình nói à pháp này hay, tôi sẽ tu, sẽ dẹp nó. Sự thật không có pháp nào hay hết. Thầy nói không có pháp nào hay, chỉ có bền chí là hay nhất. Nghĩa là mình tập cho đúng pháp và bền chí thì bắt đầu những cái tham, sân, si bắt đầu ly dần. Chớ có nhiều người: “Con bây giờ lớn tuổi rồi, thưa Thầy dạy cho con pháp nào rốt ráo, tu nhanh cho mau, để không chết tu không kịp.” Thật sự ra không có pháp nào nhanh hết, mà chỉ có bền chí mấy con, bền chí, bền chí nhất. Khi mà Thầy dạy pháp nào đó tùy theo tuổi tác của mấy con thì mấy con hãy ôm cái pháp đó. Nghe, đặt trọn niềm tin ở Thầy rồi, mấy con ôm cái pháp đó mình luyện tập, thì đảm bảo mấy con sẽ đi tới sự giải thoát.
Nó không giải thoát cao hơn, cao hơn nghĩa là mấy con không có làm chủ được sự sống chết của mấy con trong hiện tại, nhưng nó vẫn chấm dứt được tái sanh luân hồi của mấy con. Là tại vì con giữ được cái tâm bất động, thì cái này cũng quý rồi. Còn bây giờ mấy con tới sức lực mà Thiền định để mấy con làm chủ được cái thân, cái nghiệp này là cái vấn đề các con phải tập luyện cho đúng cách. Nó đủ thần lực của nó, nó mới có làm chủ được sự sống chết.
Bây giờ mấy con muốn làm chủ được sự sống chết của nó, thì mấy con phải tu như vậy nó mới được. Nhưng mà cái sức các con già yếu rồi, mấy con chỉ cần làm sao cho mình đừng tái sanh làm con người nữa, được đó là phước của mấy con lớn rồi. Và như vậy chỉ còn có giữ tâm mình bất động để cho cái nghiệp lực nó không tác động được. Buộc trong khi nó làm rối loạn để cho khi mình bỏ cái thân này, cái nghiệp lực đó nó hoành hành, nó tiếp tục nó tái sanh. Mà trái lại nó hoành hoành mình không được do mình bất động.
(10:40) Do đó cái lực bất động đó- cái từ trường bất động đó nó đánh bạt đi cái tham, sân, si- cái từ trường tham, sân, si. Nó làm cho cái nghiệp lực đó tan biến đi, bởi vì mình bất động. Cũng như bây giờ theo quy luật nhân quả là mình phải có nhân thì phải trả cái quả, mà bây giờ cái quả đến, người ta chửi tan nát mà mình ngồi bất động thì cái quả nó có tác động mình được không? Cho nên nhân quả nó bị hóa giải, nó bẻ ngang đó rồi, nó bẻ ngang đó thì tức là nó không còn cái nhân quả mới nữa. Cho nên nó bị gãy, gãy đi, hết tái sanh chứ gì, các con thấy chấm dứt chỗ đó chứ gì!
Còn bây giờ mình cứ theo nó, mình tức giận, buồn phiền. Con mình là nhân quả, tối ngày cứ khóc, mình bảo thế này, thế khác, thì như vậy rõ ràng là mình bị nhân quả, mình phải chuyển. Mặc dù biết nhân quả con mình, dù thế nào đi nữa, mấy con bình tĩnh, đây là nhân quả không buồn, phải bất động, không sợ. Mình phải lo hết cái nhiệm vụ của người mẹ đối với những đứa con nhân quả này. Do đó các con giữ cái tâm mình bình thường, không giận hờn, không lo, không buồn, không rầu. Đừng so sánh, con người ta sao nó ngoan, nó giỏi, nó hiền, còn con mình sao rượu chè say sưa, nói nó chửi mắng mình không ra gì hết. Mình buồn rầu, mình khổ sở, cứ so sánh. Đừng có so sánh, cái nhân quả mình khác, nhân quả người ta khác. Cho nên mình không so sánh vậy, mà mình thấy nhân quả, vui vẻ chấp nhận. Như thế nào cũng được hết, không có buồn rầu, không có gì hết. Như vậy là các con đã chuyển nhân quả, mà chuyển nhân quả thì mấy con đâu còn tiếp tục trong nhân quả này nữa.
(12:07) Cho nên tâm của mấy con dù hoàn cảnh rất cay đắng, rất là khổ, nhưng mấy con vẫn giữ an nhiên, thanh thản, không có còn buồn rầu lo lắng. Thì Thầy bảo đảm cho mấy con rằng cái tương ưng đó, thì các con sẽ hoàn toàn chấm dứt, không còn luân hồi, không làm người thì hạnh phúc lắm. Đâu phải sanh làm người để rồi tôi tu làm chủ được cái thân này. Thân này đã chết bỏ còn làm chủ chi nữa, chỉ cần vào Niết Bàn, không phải sướng sao? Phải không, mấy con thấy phải không? Mình hiểu biết nó rồi. Bây giờ tại vì mình tu là mình còn mang thân này, mình tu cho tới nơi, tới chốn để cho mình làm chủ nó.
Chứ sự thật ra Thầy nói giữ được cái tâm bất động của mình, hoàn toàn thanh thản, an lạc, vô sự, thì bỏ thân này rồi thì bây giờ nó chết, thì mình bỏ nó rồi, thì mình vào Niết Bàn rồi, thì mình cần cái thân xác chi nữa? “Để cho tôi ráng nỗ lực, tôi tu như vậy để kiếp sau tôi sanh làm người tôi tu sớm hơn chút nữa.” Để mang thân nữa, tu làm chủ cái thân nữa có phải cực khổ không? Bây giờ thân này sao chúng ta không sống, tu nó để chúng ta tu làm chủ nó?
Bây giờ nó chết rồi, thì nó hết làm chủ của nó, thì chúng ta ở trong trạng thái giải thoát này, luôn luôn vĩnh viễn không còn thân nữa. Không phải sướng sao? Phải không các con? Bây giờ bỏ được cái thân này, mình gần chết rồi, để cho mình tập làm chủ làm gì ? Nhưng bây giờ nó chưa chịu chết, thôi mình để mình tập làm chủ nó, chớ không lẽ bây giờ mình còn lại thân để làm gì? Tập cho nó đừng có hoành hoành mình chứ gì? Mình muốn bảo đừng đau, bảo nó đừng chết, hoặc bảo nó chết, nó nghe lời mình thì nó sướng hơn một chút chứ cũng không có gì hết. Còn bây giờ mấy con, bởi vì mục đích của Đức Phật dạy cho chúng ta là đạt được mục đích cao hơn, chứ đâu có dạy mình làm chủ thân này thế khác. Chứ sự thật tâm bất động rồi thì nó lại làm chủ, các con hiểu không? Tâm mà bất động rồi thì nó lại làm chủ, tâm mà bất động rồi thì nó có 7 năng lực của giác chi. Cho nên Trạch Pháp Giác Chi, nó trạch đến đâu thì nó nghe lời đến đó. Bảo nó chết là nó chết, bảo nó sống là nó sống. Còn trái lại, mình cố gắng giữ được cái tâm bất động của mình, trong khi nó quá ngoặt nghèo, mình tu chưa tới nơi để cho nó thực hiện được cái chỗ mà bất động hoàn toàn.
(14:20) Cho nên do đó mình cố gắng mình giữ bất động. Nó đau đớn mình biết rõ ràng đau đớn, nó rõ ràng đó, khổ sở ghê gớm. Tâm bất động, giữ gìn, đừng có dao động, đừng có sợ hãi, chết bỏ! Do đó nó vẫn bất động được. Khi bất động được như vậy thì nó sẽ tương ưng với cái lực của bất động ở bên ngoài, do đó cái cảm giác đau đớn nó hết, nó không còn đau nữa. Trong khi cái nghiệp không còn đau đớn là nhờ cái lực của bất động của bên ngoài và bên trong. Chứ mình chưa tu trọn vẹn cái lực bất động của chính mình, còn mình tu mà cái lực bất động trọn vẹn của mình rồi thì Thầy nói cái gì mà nó làm chủ không được? Bởi vì nó đủ cái lực rồi.
Còn bây giờ mình chưa đủ. Nhưng mà mình nhờ giữ bất động của mình, nhờ cái bất động bên ngoài, nó mới dẹp đi những cái nghiệp đau khổ, nghiệp quả đau khổ này. Nó làm chúng ta chết rất êm thấm. Chúng ta lại bỏ thân này lại rồi, thì cái trạng thái mà cố giữ bất động đó nó sẽ tương ưng với bất động khác, nó sẽ không tái sanh luân hồi. Có phải sung sướng không mấy con?
Cho nên các con tu, các con đâu có mất phần đâu, mặc dù chưa làm chủ, nhưng mà không mất phần. Người nào mà có khả năng, người ta tu tới làm chủ, người ta chưa có chết, cũng như giờ chưa có chết, các con nói: “Thôi tôi giữ bất động, tôi nghỉ tu” thì cái đó mấy con uổng phí. Còn mình chưa chết, thì mình cứ tu nữa. Tu chừng nào mình làm chủ được nó thì xong, chưa làm chủ lỡ chết thì bất động, nó cũng đâu mất phần của mấy con đâu, các con hiểu chỗ đó chưa?
Cho nên do đó mà chúng ta tu theo pháp Phật, chúng ta không sợ lạc đường chỗ nào hết. Tôi ở bờ bên đây nhưng tôi không ở bên đây mà tôi ở bờ bên kia, mà tôi bám riết bờ bên kia hoài, chịu không được, tôi cứ bám hoài bờ bên kia, thì bắt đầu cái thân tôi nó rã thì bỏ đi. Nhân quả không tác động được gì, tôi vẫn ở bờ bên kia luôn, tức là quả Niết Bàn giải thoát ở chỗ đó. Cho nên các con nghe những lời Phật dạy trong đó: “Bờ bên đây, bờ bên kia. Có hai lộ trình: Lộ trình thiện, lộ trình ác”. Tôi dại gì tôi đi lộ trình ác, tôi đi lộ trình thiện chớ. Các con thấy rõ ràng Đức Phật đã xác định cho chúng ta cái lộ trình chúng ta ở rồi, như vậy khi chúng ta hiểu được pháp, nhận được pháp, như vậy Đức Phật gọi là Pháp Nhãn Thanh Tịnh. Các con nghe Thầy nói: “Tôi hiểu rồi, tôi đâu có sợ nữa. Bây giờ tôi chỉ cần giữ tâm bất động là tôi đủ rồi.” Phải không mấy con? Chỉ cần giữ tâm bất động là đủ rồi. Nếu bất động mãi mãi, mấy con còn sống giữ mãi, giữ mãi cho đến khi mấy con bảo chết thì nó chết, bảo sống thì nó sống, có đúng không ? Các con có thấy không ?
(16:52) Còn bây giờ nó lỡ, bây giờ chưa có tới cái chỗ, các con bảo chết nó không chịu chết, nhưng mà tôi vẫn bất động được chớ. Tôi vẫn ở bờ bên kia được chứ, tôi đâu có rời bờ bên kia đâu, tôi vẫn giải thoát, có đúng không mấy con? Đâu có mất phần, mấy con. Nhưng mà hồi đó mấy con lại như thế này, hồi cái thân con rã rời muốn chết rồi, thì các con nhớ, con nhớ cái này kia: “Trời ơi! Di chúc cho nó. Hồi đó tao chôn hũ vàng chỗ này, để chỉ cho nó lấy! ” Lúc bấy giờ mấy con bỏ đi, chớ đừng có nghĩ nhớ thứ đó, nó còn kệ nó, nó mất kệ nó, tự nó làm ăn thôi. “Trời ơi! Ba cái giấy đất đai không biết, bây giờ tụi bây đem giấy tờ lên đây tao làm, chia, không nữa kiện cáo nhau là chết.” Lúc bấy giờ mình lo cho mình đi, đừng lo chuyện đó. Con cái sau này thì anh lớn nó thì nó chia cho em nó, trong đám con mình không có đứa nó biết chuyện sao? Cho nên mình lo cái gì ?
Đó cho nên vì vậy mà trước khi mình tu tập, trước khi theo Thầy tu tập, mấy con phải sắp xếp cái này hết, để khi đó cái tâm con sẽ bất động. Chứ không khéo còn vướng mắc gì đó, thì con không giải quyết được. Nhớ chưa? Bởi vì mình còn yếu mấy con, mình chỉ thấy biết thôi, gọi là Pháp Nhãn Thanh Tịnh - mới nhận ra được cái pháp, chứ chưa phải sự tu tập mình có sự kiên cố, nhưng nó vẫn giúp cho mình giải quyết được cái nhân quả mình đâu ra đó hết rồi, thì mình an ổn mình, nó rất là dễ dàng.
(18:20) Cho nên mấy con già chứ thực sự ra Thầy ra dạy mấy con rồi, thì bờ bên kia thì cứ bám cho Thầy đi! Con cái nó làm gì: “Tao cứ bám bờ bên này, tao không trở qua bờ bên kia. Tao không trở qua bờ bên kia nữa. Mấy con làm gì thì làm, mẹ già rồi, chỉ bám chặt bờ này thôi. Bờ buồn khổ, bờ mà lo lắng này, bờ mà thương ghét này, thì thôi mẹ rời nó đi.” Thì như vậy các con lìa khỏi thế gian này, không còn tái sanh luân hồi nữa. Các con nhớ chưa? Nhớ kỹ những cái lời này chứ không mấy con quên rồi tới chừng đó mấy con rối loạn đó.
Cho nên trong sự tu tập thì nó đơn giản lắm, nó không có khó vì vậy mà những người lớn tuổi nghe những lời Thầy dạy chỉ duy nhất: "Tâm thanh thản, an lạc và vô sự". Nhớ bám chặt tâm đó và thường nhắc tâm. Trước khi đau đớn, trước khi mà khởi cái tâm niệm gì, thì các con nói: "Tất cả đều là nhân quả, phải buông xuống. Các pháp ở trên thế gian đều là vô thường, đừng dính mắc một cái gì cả, chỉ xả cho hết !" Cứ nhớ tác ý câu nói đó, nó sẽ thuần thục, một ngày con thuần cho một chút, hai ngày thuần một chút, cho tới khi con chết, nó sẽ thuần thục. Nhưng nó chưa đủ lực, là tại vì nó chưa trọn vẹn thanh tịnh. Cho nên các con chưa đủ lực như Thầy, như những người khác. Nếu mà còn cái thời gian, mấy con cứ giữ gìn như vậy, các con đủ lực để làm chủ sống chết của mình. Nhưng cái vấn đề đó không quan trọng, mà vấn đề giữ gìn cái tâm bất động thì mới là quan trọng, trước các ngặt nghèo mà các con vẫn giữ bất động. Cũng như riêng cô Liễu Kim, thì chắc chắn cô Liễu Kim hoàn toàn không tái sanh luân hồi nữa. Bởi vì bất động, cô không dao động trước cái đau đớn của cô trước khi sắp chết, cô rất tự tại trong khi mà cô chết.
Đó là gương hạnh của người cư sĩ mà mấy con hiện giờ mấy con mình biết mình cũng đi trên con đường đó, mà nếu mình không chuẩn bị cho sự bất động, thì tới đó làm sao bất động được. Cô cũng là người gan dạ và đồng thời niềm tin cô rất sâu, cho nên cô ôm chặt pháp. Ôm chặt cái pháp đó tức là ôm pháp mà Thầy đã trao cho cô. Do đó cô đã vượt qua sóng gió ba đào của nghiệp lực cô.
(20:37) Cho nên trong cái điều kiện mà trực tiếp trong gia đình của cô và những người bạn bè của cô, nhìn thấy gương hạnh cô, thì biết cô sẽ ở đâu. Nghĩa là người biết Phật pháp là họ biết cô sẽ ở chỗ nào, nghĩa là cô sanh ở chỗ nào biết. Nó thực tế, Đạo Phật nó xác định hiện tại của chúng ta như thế nào thì tương lai của chúng ta sẽ ở chỗ đó. Cho nên khi mà các con chết, người ta đến nhìn các con, trong khi mấy con trước giờ chết, người ta biết các con sẽ ở chỗ nào, sanh chỗ nào. Còn làm người hay … đó thì Thầy nhắc nhở như vậy đủ biết rằng nó thực tế chứ không phải nó mơ hồ. Phật pháp không mơ hồ mà nó thực tế, nhận được hiện tại của nhân quả hiện tại, đang sống trong hiện tại này, làm được cái gì, thì tương lai sẽ là ở đó.
Cho nên chúng ta thanh thản, chúng ta an ổn, chúng ta bất động thì cái trạng thái đó nó sẽ tương ưng với cái chỗ mà giải thoát, không tái sanh luân hồi nữa. Như Thầy cũng đã nói, thường nói mấy con, chúng ta xung quanh, mọi người xung quanh chúng ta ai cũng sợ hãi, ai cũng sợ đau, sợ khổ, thế mà cái người này đang đau khổ mà không sợ hãi, không rung động thì cái người này có giống những người khác xung quanh chúng ta không? Không có giống. Mà không giống thì không thể nào làm con cái của họ được.
Cho nên đó là cái mục đích rõ ràng của Đạo Phật không tái sanh luân hồi. Chấm dứt. Mà không tái sanh luân hồi, không làm người, chúng ta không làm con người rồi. Không làm con người thì nó tương ưng với hạng người nào? Tức là phải tương ưng với chư Phật chứ sao, thì vậy là giải thoát rồi. Mà mấy con theo Đạo Phật là mục đích của mình là chấm dứt luân hồi, không còn sanh làm lại con người nữa. Vì con người, sanh làm con người khổ. Đó là cái mục đích các con phải đạt được. Thầy dạy mấy con ở đây, mấy con tu ít nhưng mà mấy con đạt được cái mục đích cao quý đó. Còn nếu mà cái người còn tuổi trẻ, còn sức khỏe, còn một ngày thì mấy con cứ tiếp tục tu. Tu thì nó thêm cái lực cho mấy con, nó lợi ích cho mấy con, chớ nó có gì đâu mà mấy con sợ ?
(22:40) Còn những người tu xong rồi, họ ngồi chơi. Nghĩa là khỏi ngồi thiền, khỏi nhập định gì hết, khỏi cần gì hết. Tại sao vậy ? Muốn nhập định thì nó nhập, mà mấy ngày thì nó ngồi thiền, ngồi nhập định mấy ngày. Bởi vì cái lực của người ta đủ rồi, người ta muốn được là nó làm theo. Còn bây giờ mình chưa thì mình phải tu cho tới khi đủ lực đó. Còn nó chưa đủ thì mình vẫn ở trong Niết Bàn, chứ đâu cần gì nữa? Thì các con thấy, bởi vì Thiền định nó chỉ giúp cho chúng ta làm chủ cái thân. Còn cái tu mà để cho chúng ta mà được cái tâm bất động, để không tái sanh luân hồi, thì cái này khó mấy con. Còn cái Thiền định thì nó dễ. Cái tâm mà khi bất động rồi thì nó có đủ lực để nó nhập định cho nên nó làm chủ cái thân nó, do cái tâm thanh tịnh. Còn cái tâm mà tập thanh tịnh thì cái tâm khó, cái tâm mà hết tham, sân, si, thì cái tâm đó khó.
Cho nên các con đang tu là tu ở chỗ tâm không tham, sân, si. Ly tham, sân, si. Bây giờ các con hiểu mục đích của Đạo Phật là nhắm vào chỗ ly tất cả các ác pháp, bất động. Cho nên mục đích chúng ta tu tập là như vậy. Đến đây các con đã không còn thưa hỏi gì nữa không? Hết rồi, Thầy sẽ hướng dẫn các con thọ Bát Quan Trai. Buổi sáng và buổi chiều, chúng ta tập thọ Bát Quan Trai, trong phương pháp tu tập mà như ở trong nghi thức thọ Bát Quan Trai. Về phần truyền giới cho mấy con thọ giới, nghi lễ thì hôm nói tới đó Thầy sẽ làm lễ và truyền Bát Quan Trai cho các con. Hầu như cuộn băng này Thầy đã thu vào để cho các con ở xa xôi, các con mở ra, để nghe cái lời Thầy truyền dạy, truyền tám giới cho các con.
(24:23) Bây giờ về pháp tu tập, thì đầu tiên các con nhớ rằng phương pháp mà thực hành tu tập, đầu tiên chúng ta tu bốn pháp: Chánh Niệm Tỉnh Giác, rồi tu đến pháp Định Vô Lậu, rồi tu pháp thư giãn- Định Sáng Suốt, rồi tu pháp Định Niệm Hơi Thở.
Trong Định Niệm Hơi Thở có 18 đề mục ở trong này, thì ở trong cuốn nghi thức thọ Bát Quan Trai thì nó không có thời khóa, có những bài dạy của nó thôi để mà tu tập. Bây giờ chúng ta sẽ lập lại thời khóa tu tập, để Thầy hướng dẫn cho mấy con trong buổi sáng và buổi chiều ở đây cũng không có thời khóa.
Ở trong tập này thì từ 7 giờ cho đến 7 giờ 30, thì đây cũng có trong thời khóa này rồi. Thọ bát quan trai bắt đầu buổi sáng vào tu, thì bắt đầu 7 giờ mấy con tu, thì bắt từ 7 giờ đến 7 giờ rưỡi, tức là tu 30 phút buổi sáng. Buổi chiều mấy con sẽ tu từ 2 giờ cho đến 2 giờ rưỡi khuya thức dậy. Thì bắt đầu tu từ lúc 7 giờ đến 7 rưỡi, thì tu pháp gì? Đầu tiên Thầy hướng dẫn mấy con rèn luyện nghị lực của mình, như Thầy đã dạy cho mấy con cách thức rèn luyện nghị lực của mình thì mấy con thấy như cách thức tu tập 5 hơi thở đi kinh hành 20 bước.
(26:43) Bây giờ mấy con biết pháp đó chưa? Biết rồi hết rồi thì như vậy đi kinh hành, đi rất bình thường, đi tự nhiên chứ không đi pháp thân hành niệm hay đi chậm. Đặc tướng của ai (…) đây là người mới tu, không phải người tu lâu rồi, còn tu lâu rồi thì coi như là không tu tập cái pháp này nữa. Còn cái người mới tu thì những cái người này phải lưu ý cái pháp căn bản đầu tiên để chúng ta rèn luyện nghị lực của chúng ta. “Vị giới tử này đang tu tập rèn luyện nghị lực trong tỉnh giác. Cách tập là ngồi hít thở 5 hơi thở rồi đứng dậy đi kinh hành 20 bước”, đó là người mới tu mấy con. Vậy thì trong khi mới tu như vậy thì phải đi 20 bước, ngồi hít thở 5 hơi thở, vậy như thế nào? Đây là cái lời nói thôi chứ chưa thấy hình ảnh, hành động đi 20 bước và hít thở 5 hơi thở thì chưa có thấy phải không? Thì bây giờ mấy con thấy thì ở đây có ai đi được thì đi cho mọi người đây thấy, còn nếu mà không ai thì Thầy đi giùm cho. Rồi bây giờ con, con đi cho mấy người đó thấy…
(…) Ai là cái người chịu những cái đau khổ này? Chính là hành giả, mà cái người dạy không hiểu mà đưa cho người ta đến chỗ bệnh đau, làm người ta gánh chịu khổ đau.
(28:49) Đó, cho nên vì vậy mà Thầy cảnh giác cho mấy con biết rằng khi đi như vậy không cần chuyên nhất vào hành động chúng ta để không có niệm khởi, làm sao đừng cho có niệm, thì như vậy chúng ta thanh thản. Để tự nhiên tâm có niệm sau này chúng ta sẽ câu hữu với Định Vô Lậu. Vừa đi chúng ta hễ nó có cái niệm vô, thì chúng ta vừa đi vừa đem Định Vô Lậu, chúng ta tư duy về niệm đó, để chúng ta hóa giải làm cho nó tan biến đi, tức là chúng ta làm cho nó ly đi. Chứ chúng ta không có ức chế nó đâu, chúng ta hóa giải. Chúng ta thấy niệm đó, nó thuộc về cái niệm gì? Ái kiết sử hay hoặc là niệm sân, niệm tham, niệm si, hoặc niệm lo, niệm lắng, cái niệm gì đó… Tất cả những cái gì có mang những cái nhân quả của nó, do đó chúng ta đã quán sát, tư duy suy nghĩ, dùng chánh tư duy chúng ta suy nghĩ nó, chúng ta hóa giải.
Lúc bây giờ chúng ta đi Chánh Niệm Tỉnh Giác câu hữu với Định Vô Lậu, tức là hai pháp kết hợp lại chúng ta đánh nó chứ không phải chúng ta dùng một pháp mà diệt nó. Dùng một pháp mà diệt nó tức là ức chế tâm. Cho nên chúng ta diệt vẫn có phương pháp để đối trị được những cái tâm loạn động, cái tâm mà vọng tưởng. Chúng ta có pháp, nhưng mà cái pháp chúng ta rất nhẹ nhàng, chúng ta dùng tri kiến để ly nó, ly dục ly ác pháp. Mà dục với ác pháp ly hết thì nó thành không niệm chứ có gì?
Chớ không phải chúng ta ngồi đây dùng đối tượng là bước đi của chúng ta để làm cho nó không có niệm, thì như vậy chúng ta bị ức chế. Cho nên khéo léo của Đạo Phật là biết dùng câu hữu, tức là kết hợp pháp này với pháp kia. Đồng thời trong khi chúng ta thọ Bát Quan Trai, mục đích của chúng ta như ở quân trường chúng ta tập luyện thôi, chứ chưa phải ra chiến đấu. Cho nên ở đây mình tập luyện những cái pháp này cho nó thuần, rồi nó thuần rồi thì mình không tập nữa. Nếu tu tập như vậy là tu tập ở trong trường sĩ quan rồi, tu tập cái lớp này rồi, cái lớp một này rồi, tôi phải qua lớp hai. Lớp hai rồi mà nếu tôi cứ tu tập hoài lớp một vậy thì tôi đi tới đâu? Đi đánh giặc được không? Không có được, các con có hiểu không?
(30:52) Cho nên khi tu tập hết trong lớp sĩ quan, người ta dạy tôi những cái lớp học, tu như thế nào? Trườn, bò như thế nào? Bắn như thế nào? Dùng phi, dùng pháo như thế nào? Tôi học hết. Bây giờ mới ra chiến trường tôi áp dụng vào đây, phải không? Cho nên bây giờ mình học, chớ đâu phải là mình chống giặc đâu, cho nên đâu phải ôm một cái pháp nào để đi tới cuối cùng đâu, mà giải phóng được giặc sinh tử đâu.
Cho nên vì vậy đây là tôi học những cái pháp, cho nên thọ Bát Quan Trai chẳng qua là các con tập giữ giới để mà luyện tập phương pháp này cho nó chính xác. Rồi từ đó chúng ta biết cách nó rồi, sau khi mà chúng ta ở trên chiến trường Tứ Niệm Xứ, Thầy nói chiến trường là Tứ Niệm Xứ - Thân, Thọ, Tâm, Pháp của chúng ta là Tứ Niệm Xứ đó, bây giờ ở trên chiến trường mở mặt trận đánh giặc sanh tử. Nó sẽ đánh chúng ta đủ mặt, chúng ta cũng có đủ pháp, chúng ta học trong những ngày mà chúng ta thọ Bát Quan Trai, tập luyện cho nó thuần thục những pháp này. Bây giờ ra mặt trận này, bắt đầu trên Tứ Niệm Xứ mà đánh, đánh thẳng tay với nó, không đầu hàng, đánh tận cùng, đánh cuối cùng giải phóng được. Giặc sanh tử chạy mất hết, chúng ta làm chủ được thân muốn chết giờ nào, muốn sống giờ nào. Là chúng ta giải phóng quê hương của mình rồi. Mấy con hiểu đây là một mặt trận, thật sự chiến đấu nội tâm của mình. Đó là rõ ràng chúng ta giải phóng được thân tâm của mình, không còn nhân quả, làm chủ thân tâm này nữa. Mà chúng ta làm chủ nó, chúng ta phải học tập những phương pháp này, cách thức sống như thế này để mà chúng ta mới chiến đấu.
(32:22) Chứ còn các con không chịu chui hang, núp ở dưới hầm hố thì làm sao đánh giặc. Cho nên khi chúng ta ôm giới luật là chúng ta đã chịu khó tập luyện ở dưới hầm hố, qua những cái đường hầm để mà chiến đấu, ở đó chật chội, nó hẹp.
Cho nên giới luật hẹp hòi, nó làm cho chúng ta gò bó ghê gớm lắm, bây giờ ăn ba bữa thì chúng ta thấy thoải mái chứ gì, ăn ngày một bữa nó đâu có thoải mái phải không? Cho nên luyện tập mình và sống đúng, cực khổ vậy, phải mang súng đạn vậy, nặng nề trèo đèo, qua suối phải như vậy, cực khổ vậy đó. Đó là cái Giới luật của chúng ta, là người lính, giống như người lính ngoài mặt trận, người ta mang những vật dụng xung quanh thân người ta. Cho nên chúng ta phải trọn vẹn giống như người chiến sĩ, người lính, để rồi chúng ta mở trận chúng ta đánh.
Thì ở đây, nãy giờ chúng ta đang được học phương pháp, cái pháp đầu tiên là pháp tiền thân của Thân Hành Niệm tức là Chánh Niệm Tỉnh Giác. Cái pháp tiền thân của Thân Hành Niệm thì chúng ta đã học được hai pháp rồi. Hai pháp chúng ta thấy có những cách tu tập của nó trong đó rồi, thì chắc các con không quên rồi. Cho nên trong cuộc về đây học tập, các con không có lẫn lộn nữa rồi, phải không ? Chứ không khéo các con lẫn lộn. Việc tu tập các con hôm đó như vậy, mà hôm nay lại vậy, các con đã thấy rõ ràng ra rồi.
Phật tử: Con thưa Thầy, con xin Thầy giảng rõ cho chúng con cái pháp này, tức là ngoài cái rèn luyện nghị lực thì còn công năng gì?
(34:10) Trưởng lão: Ngoài rèn luyện nghị lực thì nó còn công năng để giúp chúng ta phá hôn trầm, thùy miên mấy con. Các con hiểu hai cái pháp vừa rồi, nó ngoài rèn luyện nghị lực của nó, nó còn có cái giúp cho chúng ta phá được hôn trầm, thùy miên. Một người mà đi như vậy thì nó khó ngủ lắm mấy con. Vậy chớ mà sự thật ra hôn trầm, thùy miên mà đến đánh mấy con, vậy mà chân này nó đá chân kia, nó lủi bên đây, nó lủi bên kia, nó ngủ một cách rất tài ba. Mình đang đi như vậy nó mất tiêu à, rồi mình đang đi chứ đâu có đứng được.
Cho nên nó lủi nó mất tiêu. Nó lủi chứ sao, nó lủi bên đây, nó lủi bên kia. Đó là nó có công năng để phá hôn trầm, thùy miên mấy con, chứ không phải rèn luyện nghị lực đâu. Nó có rèn luyện nghị lực, mà nó có công năng phá hôn trầm, thùy miên. Cho nên chúng ta cứ bền chí mặc dù nó lủi qua, lủi lại, cứ bền chí. Cho nên lúc bấy giờ chúng ta câu hữu pháp Như Lý Tác Ý nữa, mình phải rầy la dữ tợn một hơi nó mới tỉnh. Mình làm thinh, nó lủi qua lủi lại riết, nó lủi vô bụi nó nằm ngủ luôn, nó hổng chịu đi đâu, nó lười biếng ghê gớm.
Cho nên mình la, mình hét nó dữ lắm ! Cho nên khi mình gặp như vậy bảo: “Đi! Cái tâm định tỉnh, phải sáng suốt. Không được nằm ngủ, không được thùy miên!" La nó như vậy, mình tác ý như vậy, là mình biết trong khi đó mình chiến đấu tận cùng với nó. Nó đánh mình, coi như mình lủi, qua lủi lại thôi, chứ mình lủi vô bụi kiếm cái chỗ mình nằm, tức là mình sẽ đầu hàng nó.
Trong khi có pháp, mà nhiều khi chúng ta đi hoài mà thấy buồn ngủ, chúng ta đi tắm hoặc này kia, các con dùng như vậy là dùng sai pháp, dùng không đúng. Các con làm như vậy là không đúng. Hoặc là mình lấy sách, lấy kinh ra đọc hoặc này kia cũng không đúng. Mình làm tất cả các pháp ở ngoài pháp, không đúng, mình áp dụng trong pháp đó để lấy cái pháp đó mà làm điều kiện chiến đấu. Chứ còn mình áp dụng sai, thì mai mốt đến tiết mục khác là chết với nó, nó không thể được. Cho nên thí dụ bây giờ buồn ngủ quá, thôi bây giờ đi rửa mặt, đi này kia… thì Thầy thấy trong kinh Đức Phật có dạy cho cái pháp để phá, chứ đâu có dạy ta đi tắm, đi rửa mặt đâu và nhảy xuống sông tắm bao giờ? Không có dạy điều đó, nhưng mà có điều kiện là chúng ta dùng cái pháp để phá.
(36:32) Cho nên có những cái pháp để phá mà đi kinh hành là đệ nhất và pháp Thân Hành Niệm. Mà hầu như rút tỉa qua kinh nghiệm ở đây thì Thầy thấy một số người tu tập ôm pháp Thân Hành Niệm kiên cố như cỗ xe, rồi người ta tác ý từng hành động đó mà người ta phá hôn trầm, thùy miên. Bây giờ mình có pháp mình ôm mình phá thì nó ngủ không được. Còn ngồi chơi nó dễ ngủ, mà nếu nó không ngủ thì nó nghĩ cái này, nghĩ cái kia, chớ nó không chịu ngồi không đâu, nó khó cái chuyện thanh thản lắm.
Cho nên khi mà nó không thanh thản thì nó có những cái chướng ngại ở trong thân và tâm mấy con. Do đó mấy con sử dụng những cái pháp mấy con đã tu rồi, mấy con đẩy lui nó ra để cho nó trở về thanh thản. Cho nên pháp Tứ Niệm Xứ là pháp để giữ tâm mình, thân tâm bất động, nó không có động nữa.
Cách thức của nó là, bây giờ coi như mấy con đã tu những năm nay, đã theo Thầy rồi, thì những người đã tu lâu rồi thì mấy con còn cái pháp Thân Hành Niệm và pháp Tứ Niệm Xứ mà thôi, chứ còn không có tu mấy cái pháp kia nữa. Các con dẹp đi chứ không khéo cứ tu hoài. Cũng như bây giờ thời gian mấy con tu kết hợp để ly tham, sân, si mỗi bước đi các con bảo: “Đưa cánh tay ra, ly tham. Dở chân lên, ly tham”. Các con kết hợp với sự ly tham, tu một thời gian sau tất cả những cái tâm tham, sân, si nó có ly, nhưng mà chưa phải ly hết những cái vi tế của nó.
(38:04) Bắt đầu con mới ngồi lại yên lặng, nếu nó ly hết, con ngồi thanh thản nó kéo dài hoài, nó không có gì hết, mà nếu nó còn có tức là nó ly một phần thôi. Nó còn đây, cho nên nó hiện ra tướng của nó. Bây giờ cái tướng nó như thế nào, rồi cái thân nó đau nhức chỗ nào? Đó là cái tướng chưa ly tham, sân, si. Rồi bắt đầu bây giờ cái tâm con chưa ly tham, sân, si thì nó phải có niệm, mà nếu tướng nó hết thì sẽ hết. Bây giờ con ngồi yên như vầy, bắt đầu không có niệm gì, thân con an ổn không có đau, thì nó là niệm gục, niệm hôn trầm, thùy miên, niệm si nó cũng hiện ra những niệm này. Thế nào tham, sân, si nó cũng hiện ra cho mấy con hết, nó hôn trầm. Cho nên trong khi đó bây giờ các con chỉ còn tu Tứ Niệm Xứ và pháp Thân Hành Niệm, tại sao vậy? Tại vì Tứ Niệm Xứ là mình ngồi chơi để cho mình thấy giặc đến cái chỗ nào, mình đánh trên chỗ này, tại vì mình ngồi đây chứ là mình ngồi canh gác cái thành của mình rồi.
Cho nên cái thành của mình không cho giặc vô được, hễ nó vô là đánh chết bỏ, đánh không cho nó vô chiếm thành mình. Do đó cái thành thân tâm của mình tức là cái thành ngũ uẩn này, giặc không chiếm được. Nhân quả nó chiếm không được, nó vô nó sai không có được, cho nên hễ nó vô mình đuổi, nó vô mình đuổi. Cho nên nó sai không được, nó không làm chủ cái thành được. Tức là tu Tứ Niệm Xứ là giữ thành đó, coi như là mình bảo vệ thành, không cho giặc xâm chiếm vô. Nó là cách thức và đồng thời pháp Thân Hành Niệm để tập nó, để cho mình… Cũng như là bây giờ đánh giặc rồi mà giặc không có xâm chiếm, bắt đầu bây giờ tập pháp này, để cho mình vận chuyển, cái pháp này là vận chuyển nội lực, tức là vận chuyển quân nhu quân cụ, quân dụng cho đầy đủ trong cái thành này, để cho giặc đến là mình đánh.
Các con hiểu pháp Thân Hành Niệm thường thường tập là vận chuyển lương thực, súng đạn cho mình đầy đủ, để mình củng cố cái thành Tứ Niệm Xứ mình, để khi giặc đến là mình đủ lực lượng để mình đánh là mình tập Thân Hành Niệm. Bởi vì Thân Hành Niệm, mỗi lần tác ý là nó tạo thêm cái lực, mà nó có đủ lực là khi giặc đến thì mình đuổi mới mau, mà mình không đủ lực thì mình đuổi nó lâu, mà đuổi nhiều khi không đủ lực, mình hết súng đạn thì nó cướp thành mình liền. Các con hiểu chỗ đó chưa ?
(40:24) Cho nên mình tập còn hai pháp, một pháp là giữ thành và một pháp là vận chuyển quân dụng quân nhu vào trong thành của mình đầy đủ, có đúng không? Mấy con có thấy đúng không? Như vậy là mấy con có pháp đàng hoàng mà, luôn luôn lúc nào cũng chuẩn bị cho cuộc chiến tranh thì phải đủ súng đạn chớ, phải có đủ thực phẩm cho quân đội nó ăn chớ! Mà nếu mà không có pháp vận chuyển này thì thành này đói làm sao đánh giặc? Có đúng chưa ? Nếu không vận chuyển đủ súng đạn thì làm sao đánh. Cho nên nó càng ngày, các con tu pháp Thân Hành Niệm thì nó tăng lên cái nội lực, cứ tăng lên, tăng lên tới khi mà giặc vô thành, thằng giặc nào đánh vô cũng chạy bung ra hết. Thùy miên, hôn trầm, bệnh thọ cách nào các con cũng đuổi ra hết, thì như vậy nó đâu dám tới nữa, mà không dám tới nữa thì thành này thanh bình, có đúng không ?
Cho nên phương pháp của Phật dạy chúng ta giống như chuẩn bị như một cuộc chiến tranh giải phóng quê hương của nó, giải phóng sanh tử, đuổi giặc sanh tử. Thì như vậy ai cũng có một cái thân tứ đại, tức là có thành, nhưng luôn luôn thành này bị giặc xâm chiếm. Hôm nay chúng ta củng cố lại, giữ gìn thành lại, không cho nó vô xâm chiếm nữa. Vậy thì các con phải tập luyện cho đúng cách, đó là cách thức mấy con tập, như vậy là những điều mà các con vừa tập, vừa hỏi Thầy là các con ghi nhớ cho kỹ.
Bởi vì tu tập của chúng ta phải có mục đích gì, bài pháp đó chớ đâu phải tu chơi. Đâu phải bài pháp đó để các con tu cho nhập định hoặc là thành Phật đâu. Đâu có lý do đó đâu! Mình đâu có thành Phật làm gì, mình chỉ cần làm chủ thành của mình, mà giặc sanh tử nó vô đây, nó làm chủ mình - mình muốn chết thì chết, muốn sống thì sống. Tâm nó không sân, không phiền não, đó là mình làm chủ nó chớ. Mục đích của mình tu là như vậy đó.
(42:13) Cho nên đạo Phật có nói, Ta không dạy các con làm Phật đâu? Mà dạy các con làm chủ bốn sự đau khổ: sanh, già, bệnh, chết. Có phải đúng không? Ông Phật đâu có dạy mình làm Phật. Tại mình nói mình làm Phật chớ sự thật ra đâu có thành Phật. Nó quả Vô Lậu, tức là cái tên của nó là A La Hán, rồi mình nói người đó chứng quả A La Hán. Chứ sự thật, tâm mình không lậu hoặc không phiền não, giặc sanh tử không chiếm được thì mình chứng quả A La Hán chứ gì. Mà Quả A La Hán, chứng quả A La Hán nghe nó lớn quá, chớ sự thật ra không phải. Đó là chỗ Vô Lậu, cái chỗ làm chủ được thân tâm của mình, chớ không còn có nhân quả làm chủ nó được nữa. Đó là mục đích như vậy. Chứ đâu có làm Phật, làm Thánh, làm Tiên gì ở chỗ này đâu? Nghĩa là mình làm chủ được mình là hạnh phúc lắm rồi, đủ rồi, giải thoát rồi. Đó thì đường lối của đạo Phật là như vậy. Chứ ai tu muốn làm Phật là chắc chắn là sai mấy con!
Cho nên mấy con cứ kêu Thầy, xưng Thầy là A La Hán, Thầy thấy Thầy A La Hán chỗ nào? Thầy cũng giống mấy con, chứ có khác chỗ nào mà A La Hán. Thầy chỉ khác mấy con có chút, người ta chửi mấy con còn giận, còn Thầy thì hết giận. Có khác chút thôi, chứ có đâu có gì, mấy con làm riết mấy con cũng không giận.
Hồi đó mấy con giận mười, bây giờ mấy con giận có năm, có ba, khiến các con cũng gần Thầy, cũng kịp thôi chứ đâu có gì mà khác Thầy. Hồi đó mấy con ăn ba bữa, bây giờ mấy con về đây ăn một bữa, mấy con cũng sống nhăn chứ có chết đâu. Vậy các con ăn một bữa gần như Thầy rồi, có khác chỗ nào đâu, mà gọi Thầy là A La Hán? Nào là Chơn Sư, nào là A La Hán, nào là Ứng Cúng, Chánh Biến Tri. Những danh từ nghe ghê gớm quá vậy, mà sự thật Thầy cũng là con người như mấy con không khác gì hết.
Mục đích của đạo Phật là thực tế lắm, mấy con đạt được bất động tâm của mình thôi chứ có làm gì đâu! Cho nên Thầy cũng còn ăn, cũng còn ngủ, cũng còn như mấy con gì hết. Thầy cũng sống biết suy tư, cũng hiểu này kia chứ Thầy đâu phải cục đá không biết phân biệt. Cho nên tu vô phân biệt, nó sai mất rồi. Thầy cũng phân biệt mà mọi phân biệt Thầy nằm trong thiện pháp, không bị ác pháp tác động thôi, nó vậy thôi. Tri kiến của Thầy cũng hiểu như mấy con, mấy con cũng hiểu như Thầy.
(44:28) Cho nên Thầy viết sách, Thầy viết, thì các con thấy Thầy viết cái rất tầm thường chứ có viết cao siêu đâu? Nhưng mà mấy con cứ đọc lại cái tầm thường mà mấy con không để ý. Phải không ? Cái đạo đức mà Thầy viết mấy con không để ý. Chứ sự thật mấy con để ý, chứ sự thật có gì đâu không hiểu, phải chi Thầy nói cái gì mà không hiểu đâu, ở trên trời đâu.
Thầy nói có cái hành tinh đó, cái người đó có ba cái sừng, có năm cái sừng, có mười cái sừng thì là nói cái chuyện mà mấy con đâu có biết phải không? Đó là mấy con không lường được. Nhưng mà sự thật Thầy không nói cái chuyện đó. Mà Thầy nói cái lời ra, Thầy nói lời nào ra mấy con thấy đúng, mấy con biết như thật, nó không có sai. Cho nên cái mà Thầy nói ra là cái đơn giản, rất đơn giản, nó gần gũi mấy con lắm. Nhưng mà không nói ra thì mấy con làm như biết đó mà không có thấy biết đó, không lưu ý tới nó mà thôi, chứ khi mà lưu ý tới nó, cái cần nói ra đó là thật, nó đơn giản, rất đơn giản, không có gì hết.
(45:28) Cho nên trong sự tu tập chúng ta đơn giản lắm, nó không có gì hết, Thầy nói thay vì mình chưa tỉnh thức thì mình tập tỉnh thức. Thay vì mình chưa có nội lực thì mình tác ý cho có nội lực. Còn thật sự ra thì mình biết rồi, nó sanh ra đủ thứ, rồi bắt đầu trong đầu nó suy nghĩ, có lẽ tại mình ăn ít, thiếu sức khỏe đây, nó mới vậy, rồi thân nó bệnh, rồi bắt đầu nó sụt cân. Ráng ăn tuần lễ thấy nó xuống mấy chục ký, hoảng hồn rồi. Thôi kệ hết bệnh, ráng tuần lễ. Trời ơi! Tuần lễ sụt 5 ký, 6 ký cái hoảng hồn, nó ốm nhom, ốm nhách. Rọi kiếng thấy cái mặt ốm nhom, hoảng hồn, sợ, chắc là bệnh chết. Do đó mấy con, thôi, bây giờ ăn trở lại. Rồi ăn trở lại sao ngon quá trời, thành ra cái gì cũng ăn nhiều, nó bắt đầu phình ra, mập ra. Cứ như vậy là rõ ràng mấy con không thấy lợi ích của cái pháp này. Cho nên muốn cho nó đừng bị ức chế và khi ức chế như vậy thì nó phát triển rất mạnh cái tham ăn của mình con.
(46:41) Cho nên phải có pháp tu tập, cho nên pháp tu tập đó là cái pháp Định Vô Lậu, làm cho lậu hoặc là tham ăn, nó ly ra gọi là vô lậu. Bây giờ Thầy đặt thành vấn đề, là Thầy muốn cho nó đừng có tham ăn nữa, Thầy lén để đĩa đồ ăn nào đó năm ngày, mười ngày. Nó thiu mốc hết, nó nhớt nhao, mùi chua, mùi chát, rồi thậm chí như cái món ăn nó thúi nữa. À được rồi ta để năm ngày, mười ngày ta lấy ra ta dòm lại coi. Vậy cái món ăn này hôm đó, hôm đầu tiên dòm thấy ngon lắm, hôm nay hết muốn ăn rồi, thấy dĩa đồ ăn bốc lên thúi nữa. Ui cha cái này là ăn không được. Bắt đầu mới dẹp cái đĩa đồ ăn này, đem đổ, rửa đĩa cho sạch sẽ đi.
Rồi ngồi đây cứ tập tưởng tượng dĩa đồ ăn bữa lấy ra nãy giờ, bây giờ đĩa này như thế nào? Mới đầu lờ mờ nó không thấy đâu mấy con, mình tưởng chưa được đâu: “Đĩa đồ ăn nó hiện ra rõ cho tao! Nó thiu thúi như thế nào? Bốc hơi lên như thế nào? Mày bốc hơi lên cho tao xem!” Mình ngồi đây mình chiêm nghiệm cái đĩa đó nó bất tịnh như vậy đó. Bắt đầu nó hiện cái đĩa rất rõ ràng, bởi vì mình dùng tưởng tu bất tịnh mà nó hiện ra rõ ràng rồi bắt đầu nó chưa có thúi. Bữa đó mình nghe mùi thúi nó ăn, thúi ghê gớm nhưng mà chưa thúi thì: “Bắt đầu mày phải bốc ra mùi thối cho tao nghe, mày thiu thối phải bốc chứ!” Mình tưởng tượng ở dưới nó bay mùi, thoảng thúi thúi, chứ chưa thúi đâu. Nhưng tưởng tượng ra nó thúi thiệt: “Vậy mày tu như vậy được rồi!” Vậy tu vậy được rồi vậy thì mày nhàm chán cái ăn không? Thì chừng đó nó thấy cái đồ ăn nó không dám ăn, không thèm ăn nữa.
(48:36) Như vậy các con có phương pháp đối trị chứ gì, cho nên nó không muốn ăn, chứ không phải tự mình ép đâu: “Rồi bây giờ mày không muốn ăn chớ tao không có ép. Tại vì mày nhàm chán nó cho nên vì vậy tao không ức chế mày nữa!”
Do đó không ức chế như vậy thì tới giờ ăn đừng có quán tưởng, quán tưởng nó không thèm ăn nữa thì chết mình rồi. Bởi vì cái pháp mà các con quán hết muốn ăn thấy gớm quá, cơm gì mà thấy ghê quá, nó thúi không dám ăn.
Cho nên mấy con khi mà ăn thì đừng có quán tưởng nữa. Dẹp cái quán tưởng của mình, dẹp cái pháp đi, ăn cho no đi: "Nhưng tao cho mày ăn một bữa mà mày ăn bậy, tao quán tưởng thì mày chết". Mình nhờ pháp đẩy lui chứ gì, ly dục ly ác pháp mấy con.
Phương pháp người ta dạy, chứ tu như vậy gọi là quán, quán thực phẩm bất tịnh. Chứ mấy con quán bất tịnh rồi mà vẫn còn thèm ăn. Mà bây giờ vẫn còn thèm ăn, không biết làm sao cho nó đi, có phải không? Đó cách thức tu như vậy, và tu làm sao cho có hình dáng, cái sự thiu thúi đó thật sự bằng mắt, thấy tai nghe rõ ràng. Bây giờ mình dẹp cái đó qua đi, mùi thúi bốc lên, bây giờ Thầy nói các con hổng tin, các con pha một ly sữa đi, rồi các con để 7 bảy ngày ly sữa, hay ba ngày ly sữa, rồi các con sẽ nghe mùi thúi của ly sữa, nó thúi ghê gớm lắm mấy con. Chừng đó về sau mấy con thấy sữa, mấy con ớn, hết dám uống.
Cho nên Thầy thường nói như thế này, mình là con người mà cứ uống sữa bò thì chắc chắn sau này thành con bò, tại vì mình uống sữa bò thì thành con bò chứ sao. Cho nên tại vì vậy mà nó không muốn uống sữa bò nữa con, cho nên vì vậy theo cái nghĩ tưởng của mình vậy. Chớ mà nó đi sâu vào, nó ấn tượng trong đầu của mình mấy con, thành ra khi ly sữa đó mình không thèm nữa, mặc dù nó bổ gì thì bổ, chớ nó cũng không thèm nữa.
Đó là cách thức tu của đạo Phật nó làm cho mình nhàm chán, nhưng mình biết dừng lại chỗ nhàm chán, chứ không khéo nó diệt mình. Pháp tự mình diệt luôn cả ăn uống. Cho nên pháp diệt cả tham, sân, si thì nó diệt tất cả các thiện pháp chứ không phải không. Pháp nó rất là tuyệt vời, cho nên chúng ta biết sử dụng nó để mà ly tham, ly sân, si, để diệt tham, sân, si chớ không phải sử dụng nó, để diệt cái đời sống của chúng ta.
(50:47) Các con hiểu chưa? Bởi vì pháp nó hay, mà mình sử dụng đúng là nó hay. Rồi bắt đầu, bây giờ con ngồi tu là về vấn đề tu Định Vô Lậu, về thực phẩm rồi, nó còn mọi cái, bây giờ hằng ngày người ta đụng tới mình là tham, sân, si, phiền não, ai nói tới mình là không được, thì rõ ràng, mình còn chấp ngã chứ gì. Vậy cho nên mình đặt ra cái thân, cái thân của mình như thế nào để cho mình quán thấy sự vô thường của nó. Cho nên mình phá cái ngã của mình chứ gì!
Cho nên mình phải đặt thân mình vô thường, mình ngồi xét về vô thường như thế nào ? Mình thấy từ nhỏ cho đến lớn thay đổi như thế nào ? Đó là cái hình dáng vô thường. Bây giờ mình quán thân vô thường rồi, thì mình quán tất cả các pháp xung quanh mình coi nó có thường hay không. Chứ không khéo mình quán thân vô thường, mà cái nhà này còn thật, nhà này là nhà tôi à, cho nên ai lại nó xâm chiếm nó bị tui liền. Thì cái ngã này nó cũng lớn ra, cho nên vì vậy mình quán cái nhà, cái nhà vô thường rồi, mình quán đất đai, rồi ruộng vườn tiền bạc, tất cả mọi vật đều vô thường, cái gì cũng không phải của mình hết. Thôi, vậy thì còn cái gì của mình đâu, mà mình chấp, cho nên cái ngã của mình cũng đi luôn, có đúng không mấy con ?
Khi mà quán thật sự mình thấy vô thường, đúng là mình quán sâu chừng nào mình thấy cái sự vô thường thật sự, nó không còn. Mình mới nhìn tất cả cái mồ mả nghĩa địa, tất cả những con người, hồi đó cũng như mình, bây giờ còn nắm đất. Nó có gì đâu là của người đó, của người này nữa đâu, nó mất hết. Rồi cái nhà này, trước kia ông bà có cái nhà, bây giờ đập nát hết, không còn gì hết, bây giờ nó cất ba cái lầu đài gì không? Do đó mình thấy hoàn toàn là sự vô thường chứ đâu có cái gì là thường đâu mà thích mà ham, nó đâu có gì đâu mà giữ. Mình quán cha mẹ mình hồi đó đã nuôi con lớn khôn như vậy, rồi cất nhà cửa ruộng vườn, đất, bây giờ ông bà còn có gì? Hay hoặc là còn nắm đất hôi thúi nằm dưới mồ đó, thấy có mang theo được gì đâu? Không có gì mang theo được, tất cả đều như vậy, đều là vô thường, đều là hoại diệt, không còn cái sự vật gì thường hằng.
(52:49) Đó là Định Vô Lậu, quán để vô ngã, để làm cho chúng ta không chấp ngã. Khi mà quán sâu như vậy thì cái ngã không có. Cho nên người ta chửi không giận, không tham đắm vật này, không tham đắm vật kia. Cho nên cuối cùng chúng tà xả được cái tâm tham, xả tâm tham chứ gì ! Mục đích của nó là ly tham chứ gì ! Cho nên chúng ta yểm ly được cái tâm tham của chúng ta, do ta tư duy và quán xét.
Bây giờ chúng ta đặt một cái niệm nữa, đó là cái thân bất tịnh. Bây giờ trong thân của chúng ta, nào là máu mủ, rồi đờm nhớp, rồi phân phẩn, nước tiểu, nước dãi, tất cả những cái này nó bất tịnh. Rồi bây giờ thấy chúng ta chặt ngón tay, chúng ta để ba bữa, ngón tay này sình thúi, chúng ta có thấy ngón tay này của mình không? Dám bốc nó không. Ôi! Của mình mà bây giờ không dám rờ nó nữa, phải không? Thôi bây giờ thấy cái thân bất tịnh là người chết đi, chứ sình lên để ba hoặc năm bảy ngày, hoặc một tháng, ai dám đứng gần thây ma này không, đó là bất tịnh không? Bất tịnh! Cho nên chúng ta suy nghĩ như vậy. Thấy rõ ràng thân người dù nam hay nữ, người nào cũng thân bất tịnh, cho nên với sự tu mà thân bất tịnh như vậy để làm gì? Để thấy được bất tịnh của cái thân mà chúng ta nhàm chán, chúng ta không còn sắc dục nữa chứ gì, mục đích trị được cái tâm sắc dục, các con thấy không ? Khi mà nó khởi sắc dục, quán thân bất tịnh ghê gớm quá, thôi thôi sợ quá.
(54:14) Cho nên vì vậy mà nó phá đi tâm sắc dục của mình. Cho nên trong sự tu tập thì các con sẽ thấy rằng lợi ích thiết thực của mỗi bài pháp, giúp cho chúng ta có sự tu tập, nó đối với pháp đó, nó đối với chữ ly thế nào? Chớ không phải pháp này mà ly cái kia. Cho nên hôm qua có người hỏi Thầy quán về bất tịnh. Mà bây giờ con đứng trước quan tài con lạy, không muốn lạy phải không? Như vậy là chúng ta áp dụng sai cho nên ở đây áp dụng vào tâm sắc dục của chúng ta về quán tâm bất tịnh mà thôi. Còn về phần ma chay thì nó là cái vấn đề khác rồi, cho nên nó là nghi lễ của mỗi dân tộc, nó có nghi lễ ma chay của nó, tùy theo nghi lễ đó mà chúng ta thực hiện cho nó hoà hợp với tinh thần tình cảm, hình ảnh tôn kính nghiêm trang của nó đối với nghi lễ ma chay. Cho nên mình áp dụng sai thì nó trật pháp rồi, nó không đúng.
Cho nên ở đây, thì chúng ta phải biết cái của Phật nó có những cái đối trị, đối trị như thế nào? Thí dụ như chúng ta tu tập quán về tâm từ bi, tâm từ của chúng ta. Thì cái tâm từ nó sẽ có công năng của nó đối trị với tâm sân của chúng ta, cái lòng sân của chúng ta. Khi mà lòng sân của ta phát khởi, chúng ta nghĩ thương cái người làm cho mình giận, thì mình nghĩ mình thương, thì cái lòng thương nó hóa giải ra liền, nó không còn sân nữa. Còn mình không thương thì nó có giận hờn trong tâm của chúng ta. Cho nên cái mục đích mà quán tâm từ thì cái mục đích đối trị với tâm sân.
Nhưng mà quán tâm bi đối trị với tâm hại. Khi chúng ta nghĩ cách này để mà giết cái người đó, nghĩ cách này để mà cướp đất người đó, cướp của người đó, nghĩ cách này cách kia, đó là hại người. Mà khi hại người thì chúng ta khởi cái tâm bi của chúng ta thì cái tâm hại nó sẽ bị hóa giải đi, không còn nghĩ mưu cách này cách kia. Chúng ta tu tập như vậy nó làm cho chúng ta vô lậu bằng tri kiến, bằng cái ý thức của chúng ta, bằng sự tư duy của chúng ta.
(56:34) Cho nên cái sự tư duy suy nghĩ như vậy, thì chúng ta tu tập tới sự tư duy như vậy gọi là Định Vô Lậu. Mà cái Định Vô Lậu này nằm trong cái lớp mấy? Lớp Chánh Tư Duy mấy con. Cho nên khi mà dạy mấy con học trong lớp Chánh Tư Duy, thì người ta dạy mấy con có sự tư duy quán xét, bằng sự suy nghĩ của các con gọi là Chánh Tư Duy. Cho nên trong khi các con học tư duy, người ta có nhiều đề tài, người ta đưa ra mấy con, để mấy con tư duy suy nghĩ. Thứ nhất là người ta bắt buộc mấy con làm bài y như bài luận văn, người ta đưa ra đề tài ví dụ như quán thân bất tịnh, các con phải suy nghĩ, rồi mấy con làm bài đó ra. Mấy con viết, trình lên người ta đọc bài này, người ta thấy các con quán như vậy, viết ra như vậy nó chưa đủ, người ta giúp cho các con sẽ có sự tư duy hơn nữa, rộng hơn nữa, để các con quán sâu hơn nữa. Như vậy mấy con đọc cái đề tài đó, một lần các con quán như vậy, lần sau con quán cho tới khi thấm nhuần được đề tài đó, là có thể nói rằng con thuộc làu cái đề tài đó thì con mới thấm nhuần cái pháp đó, làm cho con nhàm chán với cái tâm ham muốn ở cái đề tài đó.
Cho nên cái sự này trong lớp Chánh Tư Duy các con phải học một năm tư duy như vậy. Cho nên khi một năm tư duy và tập luyện như vậy các con mới thuần, cho nên mọi pháp tác động đến con thì con có sự tư duy đến pháp đó, nó phải hóa giải, làm cho không tác động vào tâm con được nữa, các con tu giải thoát. Cho nên khi có Phật giáo mà ra đời mà có những lớp học, mà nó có giáo trình mà học và tu tập như vậy thì mấy con rất nhẹ nhàng, các con rất dễ dàng, vì nó có lớp học, từng lớp học. Thầy nói bây giờ các con là công chức, các con đi làm việc trong ngày chủ nhật mấy con không có nghỉ, khi nghỉ đó mấy con ở nhà làm gì, mấy con sẽ đến vào xin học cái lớp đó trong một năm, một tháng có bốn ngày con học về lớp Chánh Tư Duy.
(58:37) Do đó trong một năm mấy con ra trường rồi thì mấy con sẽ thấy cái sự giải thoát của mấy con rất là cụ thể, bởi vì trong công việc Chánh Tư Duy của mình, để cho mình đối với ác pháp xung quanh mình mà nó hóa giải, không làm cho tâm hồn các con đau khổ phiền não. Các con thấy lớp của Phật thực tế như vậy. Cho nên bây giờ chưa có mở cái lớp đó, mà điều kiện chuẩn bị sau này con cháu chúng ta có học lớp đó, nó làm cho, đưa con người chúng ta có chương trình học. Học như vậy là Đạo Đức Làm Người- không làm khổ mình khổ người. Tức là mình có Chánh Tư Duy thì nó không làm khổ mình rồi. Mà hễ có Chánh Tư Duy không làm khổ mình thì không bao giờ có hành động mà làm khổ người khác.
Cho nên đó là chương trình học Đạo Đức Làm Người, chứ không có gì hết. Nhưng mà có những cái lớp học, lớp Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ… cho nên tất cả những lớp học này được dạy sau này trong Phật giáo. Nhưng mà nói về Phật giáo thì nó không đúng, bởi vì nói về Phật giáo thì nó cô đọng trong cái tôn giáo của Phật giáo.
Mà đây là lớp học đạo đức cho mọi người chứ không phải tôn giáo. Nghĩa là Thầy sẽ đưa cái nền đạo đức này, bắt đầu đi vào lớp học thực tế cho con người, chứ không phải là còn ở tôn giáo. Cho nên Thiên Chúa giáo vẫn qua học được. Tôn giáo nào đến đây học đạo đức này vẫn được hết, chứ không phải riêng, người không tôn giáo người ta cũng vào học đạo đức. Cho nên không thể nào nói đạo đức riêng của Phật giáo, mà chính nó là người đưa ra nền đạo đức này, chính là Đức Phật chứ không ai hết. Thầy chỉ là người có công triển khai lại thôi, chứ Thầy cũng không có mới mẻ trong này vì Thầy không đặt ra, mà chính người mà đầu tiên đưa ra nền đạo đức này, phải nói công lao của Đức Phật Thích Ca, người đã làm được cái này.
(1:00:27) Cho nên Người đã nói: “Không làm khổ mình, khổ người ” chính là danh từ này của Người nói chứ Thầy không đặt. Nhưng mà Thầy muốn lập lại cho nhiều lần để cho mấy con nghe là đạo đức không làm khổ mình, khổ người chính là đạo đức Đức Phật Thích Ca.
Cho nên từ lâu người ta học về Đức Phật thì đạo Phật, người ta không có nghe danh từ này bao giờ, nhưng mà trong kinh sách Nguyên Thủy vẫn có danh từ này. Nhưng người ta cũng chẳng hiểu danh từ này muốn nói gì, cho nên họ không triển khai, và không giảng cho mấy con nghe. Đến hôm nay thì mấy con được nghe nó là chính là Định Vô Lậu, nó làm chúng ta vô lậu và lớp Chánh Kiến tức là lớp Vô Lậu để mà chúng ta tư duy cho nó vô lậu, các con hiểu chưa ? Đó là phương pháp Định Vô Lậu, cái danh từ gọi là Thiền Định, nó là Định Vô Lậu.
Bây giờ các con đã hiểu rồi khi mình muốn tu Định Vô Lậu thì đừng có ngồi trên ghế dựa lưng vầy, không phải đâu mấy con, mấy con phải ngồi kiết già hẳn hoi như mình ngồi thiền định, bởi vì nó Định Vô Lậu mà, chứ đâu phải ngồi ghế vô lậu sao. Nếu mà ngồi ghế vô lậu, Thầy ngồi ghế vô lậu chứ Thầy cần gì phải nói Định Vô Lậu.
Cho nên nói Định thì phải ngồi khoanh chân xếp bằng ngồi kiết già, không được thì ngồi bán già, tay để lên bắp đùi mình hẳn hoi nghiêm chỉnh như người ngồi thiền định. Rồi bắt đầu đặt đề tài nào đó trước mặt của mình rồi mới tư duy, tư duy suy nghĩ. Suy nghĩ lần thứ nhất nó chưa rộng, mình đặt nó lại lần thứ hai suy nghĩ, suy nghĩ nữa. Rồi mình suy nghĩ nữa, rồi lặp đi, lặp lại nhiều lần của đề tài đó, mà mình thấy sau mỗi lần suy nghĩ như vậy chỉ năm phút là nó hết, mặc dù mình tu ba mươi phút. Năm phút này qua rồi mình đặt đề tài trở lại tu quán, từ đầu chí chân mình thấy sự vô thường thay đổi vậy nhưng mà hết rồi. Bắt đầu mình tập trở lại mình quán lần nữa, coi nó ra những gì nữa không ? Nếu tìm không ra nữa, làm ơn lại hỏi Thầy: “Con sao con quán nó sạch bóng, nó vô thường, sao mau quá vậy”. Bắt đầu Thầy hướng dẫn các con, chia những chi tiết hơn để thấy được những vô thường nữa, phải không? Khi thấy càng nhiều sự vô thường trong đó thì nó thấm nhuần chớ, các con nghĩ hồi bây giờ cha mẹ sinh ra, nhỏ rồi lớn lên, rồi mặt nhăn tóc bạc, hồi đó tóc đen, nghĩ nhiêu đó. Bây giờ hồi đó răng mọc, bây giờ răng rụng, nghĩ nhiêu đó giờ hết rồi, hổng biết gì nữa rồi, nó vô thường nhiêu đó, bắt đầu mình đâu tìm ra sự vô thường nữa.
(1:03:04) Cho nên nhờ những thiện hữu tri thức, nhờ bậc thầy của mình, người ta mới giúp cho mình có tư tưởng tri kiến để mình phát triển ra, tư duy sâu ra nữa, tìm hiểu sâu về sự vô thường đó nữa. Từ những thân vô thường, tới bàn, tới ghế, tới nhà, tất cả vật chung quanh mình đều vô thường. Do đó nó xóa cái ngã, không còn dính mắc, bởi vì người ta nói ngã, còn ngã sở nữa. Ngã là vô thường rồi, còn những vật chung quanh mình phải vô thường nữa.
Bây giờ mình quán xét nội thân mình nó chưa thấu, người ta dạy cho mình quán xét thêm những đề tài vô thường trong đó nữa. Rồi người ta mới dạy cho mình quán xét thêm những quần áo mình mặc nó thay đổi như thế nào? À năm rồi tôi may bộ đồ, nó cũ, nó rách thì là nó vô thường chứ sao? Hồi nãy tới giờ tôi quên quán nó là vô thường. Thầy nhắc tôi mới nhớ tới, áo quần tôi vô thường mà tôi quên, tôi mặc nó cũ mà tôi quên đi. Tôi cứ nhớ cái thân vô thường mà tôi quên áo quần tôi vô thường. Rồi tới cái lược của mình, hôm nay nó cũ rích rồi mà cũng còn chải thì thấy nó vô thường là nó thay đổi. Hồi tôi mới mua nó mới. Bây giờ nó gãy mấy cái răng rồi, vậy là vô thường chứ sao!
Các con hiểu từ vật chất chung quanh của mình tức là ngã sở đó, đều là trong thân của mình, rồi quán dần ra ngoại thân của mình nữa, thì tất cả những cái vô thường này nó trùng trùng vô thường, chứ đâu phải một thứ vô thường. Các con hiểu chưa? Một pháp nào nó cũng muôn vàn cái trùng trùng cái pháp của nó tùy theo hết. Nhưng chúng ta biết cách thì chúng ta quán nó sâu, nó làm cho chúng ta thấm nhuần. Càng thấm nhuần thì nó sẽ ly cái tâm tham của chúng ta, phải không các con hiểu vậy là cái phương pháp đó là Định Vô Lậu.
Bây giờ đã hiểu Định Vô Lậu nó có công năng, có lợi ích vậy rồi thì về mà ráng tu. Nhất là bây giờ quán cái thân mà bất tịnh thì các con chưa đủ hình ảnh của nó đâu. Làm ơn coi cái người nào mà hốt cốt, mình lại mình xem cái đã. Người ta hốt ba năm, người ta lại người ta quật cái mồ lên người ta lấy hài cốt ra, ráng chạy lại xem coi ra sao. Làm ơn ráng chạy lại xem, mà khi xem rồi quán thân bất tịnh.
(1:05:32) Khi mình tu hơi thở mà thấy không được đó, các con đừng có tu hơi thở mà hãy tập đi kinh hành. Chẳng hạn bây giờ mình đi kinh hành mỏi chân rồi thì mình vận dùng hai cánh tay của mình, mình vẫn tu được. Ở đây Thầy nói như thế này, những người khuyết tật tàn tật mà bị hai cái chân cụt mà bị tai nạn hay chiến tranh phải hy sinh một phần cơ thể mình, những cái người này họ ngồi trên xe lăn họ vẫn tu được mấy con. Theo cái phương pháp của Phật dạy chúng ta nương vào cái thân hành của chúng ta làm cái niệm để mà chúng ta tu, cho nên họ vẫn tu được mấy con, vẫn tu được. Cho nên những cái người ngồi trên xe lăn họ vẫn tu được, họ đâu có đi kinh hành, họ vẫn ngồi dùng 2 cái tay họ làm, họ vẫn tu được, cứ mỗi hành động ra thì mình để ý.
Nhưng mà sau khi mấy con tu tập trên hơi thở thì nó bị mệt như vậy thì mấy con đừng có tu nữa. Cho nên Đức Phật có dạy chúng ta tu tập cái hơi thở cũng giống như cái người mà se chỉ, nhanh quá thì nó (…), mà chậm quá thì nó (…) . Ngày xưa thì ông bà của chúng ta cũng dệt vải bằng se chỉ như vậy, cho nên cái lối se chỉ đó thì người xưa người ta rành lắm thì cái hơi thở của chúng ta vận dụng cũng giống như cái sự se chỉ, đừng có quá vội vàng cũng đừng quá lâu, do đó nó vừa thì hơi thở mình không bị mệt chứ không có gì.
(01:07:22) Nhưng mà bây giờ chúng ta không biết được, nên chúng ta bỏ cái hơi thở đi, chúng ta sẽ tu cái thân hành, thân hành ngoại. Nhưng mà sau khi tu cái thân hành ngoại mà nó đạt được rồi mình trở lại mình tu hơi thở. Vì cái sự tập trung của chúng ta nó có cái vai trò tập trung vào hơi thở, rồi cái hơi thở bắt đầu vận dụng, nó tự nó vận dụng theo cái sự (…) của nó cho nên nó hết tự nhiên nó làm cho… rối loạn hô hấp nó làm cho chúng ta mệt, chứ không có gì. Do đó trường hợp thở 5 phút, 10 phút mà mệt, chúng ta không tu hơi thở, mà chúng ta tu cái đi kinh hành.
Trong cái vấn đề tu về đạo Phật, mục đích của hơi thở hoặc đi kinh hành, mục đích nó giúp cho chúng ta tỉnh thức, tỉnh giác mà thôi, chứ nó không phải là đi về đâu được hết, nó chỉ giúp chúng ta tỉnh giác. Cho nên ta nương vào hơi thở, nương vào cánh tay đưa ra, đưa vô. Cho nên chúng ta có thể ngồi, đưa tay ra vô thì chúng ta đứng lên đi tạo ra thân hành của mình để mình tu tập. Đó là cái tốt, các con đừng cố chấp quá trên hơi thở. Tuy rằng nương vào Định Niệm Hơi Thở, người ta tu có cái (…) nương vào chỗ đó tự động cơ thể hoạt động, không có sự hoạt động. Bây giờ con đi thì nó mới đi, con không đi thì nó không đi. Cũng như con đưa tay ra thì nó đưa tay.
(1:09:00) Còn bây giờ hơi thở của con, con bảo, không làm sao nín thở được hết, nó tự động rồi. Đó là cái niệm tự động, nếu chúng ta tu được cái tự động đó, thì nó lợi ích, chúng ta không vận dụng mà nó có sẵn. Cho nên nó dùng hơi thở, nó lợi ích lớn như vậy, vì nó mà niệm có sẵn.
Bây giờ cái thân chúng ta ngồi yên thì nó ngồi yên, nó không hoạt động được, nó không có niệm sẵn. Cho nên thân hành ngoại buộc lòng chúng ta phải có sự hoạt động nó mới hoạt động, còn cái thân hành nội tự động nó hoạt động. Khi mà (…) chúng ta bây giờ nó hoạt động chứ không thể nó ngưng, mà nó ngưng thì bị ức chế. Cho nên vì vậy tự động, như tim chúng ta nhẩy, nó tự động nó nhẩy, không thể nào chúng ta bảo nó dừng.
Cho nên nó ngồi yên vậy nè, tự động cái thân chúng ta hoàn toàn im lặng, cho nên thân hành ngoại im lặng được, nhưng mà thân hành nội thì nó không im lặng. Do cái sự tu tập chúng ta nương vào hoạt động của thân chúng ta, chúng ta tu tập gọi là pháp Thân Hành Niệm, lấy cái niệm của thân hành làm cái niệm để tu.
(1:10:15) Cũng như bây giờ các con thấy mình niệm: “Nam mô A Di Đà Phật”, đó là mình tạo ra cái niệm. Như bây giờ giờ Thầy đưa cánh tay ra, tạo ra hành động cánh tay, thì đó là tạo ra cái niệm, nhưng tạo ra cái hành động, tạo ra ý thức niệm, cái này tạo cái niệm. Cho nên đối diện với thân hành nó gần gũi hơn, tạo ra hành động của thân, còn cái này tạo ý thức niệm. Trong đạo Phật, không có nói tạo ý thức niệm, cho nên có thân hành tự động- thân tự động cử động. Cho nên với hơi thở mình tu không được, mấy con đừng tu hơi thở liền, mà tu thân hành ngoại để cho mình chủ động điều khiển thân hành theo cái ý muốn của mình, từ đó tâm mình được rồi mình tu hơi thở. Thì không sao.
Đó là Thầy khuyên cô Diệu Đạo nên tu tập bỏ hơi thở này đi, rồi lần lượt mình sẽ trải qua tất cả 18 đề mục Định Niệm Hơi Thở đều được hết, chớ có gì đâu. Bây giờ mình ôm hơi thở tu, mình bị rối loạn hô hấp, nguy hiểm, nhớ kỹ chưa? Thì phải ráng giữ gìn, ai có trường hợp tu hơi thở bị chướng ngại thì bỏ hơi thở, dừng lại, đừng có cố chấp mà cứ ôm hơi thở tu thì không được, không tốt.
Buổi chiều nay Thầy tiếp tục để hướng dẫn cho cái pháp kế tiếp trong buổi thọ Bát Quan Trai cho cái ngày mai, hồi sáng chúng ta đã học Định Vô Lậu rồi, bây giờ chúng ta học đến cái Định Niệm Hơi Thở.
(1:12:07) Định Niệm Hơi Thở, nó riêng cái phần Định Niệm Hơi Thở có tới 18 đề mục. Coi như về hơi thở không, nó có 16 đề mục của nó. Đọc qua bài Thân Hành Niệm, trong đó có dạy hơi thở có thêm 2 đề mục nữa, để cho nó gộp lại hết. Vừa tới bài Thân Hành Niệm và bài Định Niệm Hơi Thở gộp lại chúng ta có 18 đề mục. Cho nên ở đây cái bài thuyết trình này thì nó có nói như thế này, Định Niệm Hơi Thở có tất cả 18 đề mục.
Người mới tu tập chỉ nên tu tập từ một đến sáu đề mục đầu mà thôi, tức là biết hơi thở ra, hơi thở vô, cho đến đề mục an tịnh, đề mục an tịnh tâm hành theo hơi thở. Mỗi đề mục phải tu tập cho tới khi đạt được kết quả, nghĩa là mình tu từ đề mục thứ nhất cho tới đề mục thứ sáu này, tu khoảng mỗi đề mục, mình phải tu cho thuần thục sau đó mình mới đi sang những cái đề mục khác. Cho nên trong khi đó mình đừng vội tu luôn cả 18 cái đề mục, tu tuần tự tu các đề mục.
Trước khi mình tu Định Niệm Hơi Thở, thường thường trong kinh Phật đều nhắc là mình phải tập ngồi kiết già. Thứ nhất Đức Phật bảo tìm nơi vắng vẻ, người tu Định Niệm Hơi Thở không thể nào ngồi giữa chợ mà tu được, ngồi chỗ ồn náo mà tu được. Bởi vì hơi thở nó không chấp nhận cho mấy con tu cái chỗ mà động, chỗ nhiều người, mà nó chấp nhận chỗ tu yên tịnh, thanh vắng. Phương pháp đó nó bắt buộc các con phải tu chỗ yên tịnh, thanh vắng. Định niệm hơi thở thì nó phải như vậy.
(1:14:01) Cho nên trước khi Đức Phật truyền dạy, chúng ta phải tìm nơi vắng vẻ khu rừng, gốc cây, bên bờ suối hoặc tới nơi yên tịnh, gò mả nghĩa địa nơi vắng vẻ. Để rồi khi mà tìm nơi vắng vẻ rồi, Đức Phật dạy kế tiếp chúng ta làm cái gì nữa ? À bây giờ đi khất thực, ăn cho no một bụng đi, chớ còn đói thì ngồi tu không tu được đâu. Nói cho rõ ràng, một bài pháp Phật dạy quá rõ, đi khất thực về ăn một bụng. Rồi nghỉ một chút cho tiêu cơm cái đã. Rồi khi được nghỉ một chút rồi bắt đầu lại tìm nơi chỗ vắng vẻ tập ngồi kiết già. Tập ngồi kiết già không có nghĩa là ngồi tréo chân lên rồi bắt đầu ngồi hít thở theo kiểu mấy con. Đức Phật tập ngồi kiết già, nghĩa là ngồi kiết già lưng thẳng, tréo chân đàng hoàng, ngồi coi thân thể mấy con có yên chưa. Còn ngồi, chưa ngồi chưa yên gì hết đã bắt đầu lo hít thở rồi, thân chưa yên thì tâm làm sao nó nhiếp vô hơi thở được, nó không trọn vẹn được.
Cho nên tập ngồi kiết già lưng thẳng, bắt đầu mình ngồi kiết già lưng thẳng, mình nghe coi thử coi mình ngồi coi nó bao lâu. Mới đầu thì chúng ta tu hơi thở đó, nhưng mình tập ngồi kiết già theo cái chỗ yên tịnh. Chúng ta tréo chân lên, chúng ta nghe thân bao lâu mới được yên, hai chân này ngồi như thế nào? Bắt đầu mình ngồi nghỉ như vậy coi thử coi từ 5 phút đến 10 phút coi có thay đổi gì không? Coi có tê nhức gì không? Cái thân tu được, mình ngồi mình quán 15 phút coi được không? 15 phút coi được không, nếu mà được thì mình tăng lên 20 phút. 20 phút mình ngồi thử, xem xét thử coi, mình quan sát cái thân của mình ngồi có đau, có tê, có nhức? Mình thấy à 20 phút này mình thấy nó (…) như vậy là không được, hoặc là nó ngứa, bắt đầu nó tê, bắt đầu mình ngồi cho đến 30 phút thử coi nó tê đến mức độ nào?
Do đó mình biết bây giờ mình ngồi chừng khoảng độ 10 phút thì nó không tê, bắt đầu từ 10 phút trở lên bắt đầu nó tê, bắt đầu mình lấy 10 phút tiêu chuẩn, bởi vì đó là mình tập ngồi kiết già mà, các con hiểu không? Còn không, sau đó mình ngồi tréo chân, đau quá cái tháo chân ra, phải không? Cho nên Đức Phật thường dạy mình đi tìm nơi thanh vắng mà ngồi, ngồi kiết già lưng thẳng, vậy bây giờ tập ngồi kiết già cho được. Cho nên những phương pháp khác mình ngồi bán già, phương pháp này mình ngồi hít thở, mình ngồi kiết già cho nên mấy con ngồi tréo lên. Có người kéo lên. “Trời ơi! Đau quá chịu không nổi!” thì do đó mình phải tập. Bây giờ mình bắt đầu ngồi, Thầy dạy cho cách thức ngồi kiết già, ai ngồi được rồi thì thấy dễ, còn ai chưa ngồi được thấy khó chứ không dễ đâu.
Bắt đầu hai chân, vào mình đừng có tréo, mình ngồi xếp bằng như vầy, mình ngồi một lúc cho nó êm, ở bên đây, bên đây nó êm rồi đó. Bắt đầu lôi chân tréo lên, nó cũng đau đó mà đau ít hơn. Mình tréo lên cái mình để thử đó, để cho một hơi nó êm luôn, bắt đầu tháo nó ra, rồi để ngồi trở lại. Bắt đầu ngồi trở lại nhiều lần, tập luyện kéo lên, kéo xuống như vậy thì các con sẽ ngồi kiết già được. Chứ đừng có vô, mới ngoài kia vô ngồi tréo chân lên thì cái người đó người ta quen rồi, còn mình chưa có quen, kéo lên một cái là kể như là mình ngồi nó đau ghê gớm lắm. Vì vậy mình phải ngồi trước, ngồi bán già như thế này, để hai cái chân trên, chân dưới ngồi một lúc nó êm rồi, cho nó dịu mấy khớp xương chứ không có gì hết.
(1:17:39) Sau khi nó êm dịu được rồi, bắt đầu mình bung ra mình mới kéo trở lại, kéo nó lên mình thấy nó đau ít chứ không đau nhiều đâu, rồi một hơi nó hết đau, nó quen nghe khi mình ngồi yên. Nghe cái lực trong người nó thấm, coi như nó đi lên thấm lên. Coi như cái sức nóng nó tỏa lên đầu, nghe cảm giác có lực nóng ở trong người của mình, tức là thấm nó bốc lên.
Đó là sự tu tập của cái cách kiết già, nó làm cho chúng ta gom tâm rất là chính xác và rất là kỹ lưỡng khi mà tập ngồi kiết già được rồi. Bởi vì tu tập mấy con đừng có vội vàng. Như hơi thở đi vô mình ngồi hít thở, tuần tự chậm chậm nhưng mà chất lượng cao. Tập cho nó ngồi cái thân yên rồi bắt đầu lần lượt thấy thân yên rồi tác ý: "Hít vô, tôi biết tôi hít vô. Thở ra, tôi biết tôi thở ra." hoặc là: “Thân tập trung ngay nhân trung. Biết hơi thở ra, biết hơi thở vô, không được quên nghe không?” Nhắc nó vậy đó, rồi bắt đầu hít, rồi thở hoặc là: "Hít vô, tôi biết tôi hít vô. Thở ra, tôi biết tôi thở ra." Theo cái phương pháp tác ý sẵn có ở trong 18 đề mục.
Mà bây giờ mình muốn đặt ra đặt ra một câu trạch pháp, mình vẫn sai nó được chứ đâu có không. “Cái tâm phải tập trung tại nhân trung. Biết hơi thở ra vô nha! Mày không được phóng dật! Không được ngó qua, ngó lại! Không được khởi niệm nha! Không được hôn trầm buồn ngủ nữa!” Nhắc, mình sợ ngồi nó ngủ thì sao, cho nên mình nhắc một loạt, bắt đầu nó ghi nhận rồi nó để đó. Cho nên vì vậy mà nó không hôn trầm.
(01:19:27) Còn mấy con ngồi sao không nhắc, nó bắt đầu gục tới gục lui, mấy con không dạy cái tâm mình. Bởi vì Đức Phật nói mình huấn luyện tâm, cũng như huấn luyện một con vật, huấn luyện một con voi, có phải không? Trong kinh Đức Phật nói huấn luyện con voi, cho nên huấn luyện thân tâm mình là mình huấn luyện con vật. Người mà huấn luyện con thú vật, cho nên mình dạy nó, mình bảo nó, nó biết nghe chứ không phải là không biết nghe. Thầy nói tâm và thân của mình nó biết nghe, mình phải hướng dẫn nó, mình phải dạy.
Từ lâu đến giờ các con, cha mẹ sanh được cái thân ra, nhưng mà nó muốn gì mình phải làm theo nó, chứ mình chưa huấn luyện nó chút nào hết đâu. Có phải không mấy con, có đúng không? Thầy nói có đúng không? Tức là cái thân và tâm muốn là các con làm theo, chớ ít khi mà các con răn dạy nó, bảo nó sửa cái này cái kia. Chớ mấy con sáng suốt, mấy con răn dạy, bảo nó sửa, nó sửa theo đúng cái ý muốn mấy con chứ nó không có làm bậy đâu. Nó rất là dễ dạy chứ nó không phải là khó dạy đâu, coi vậy chứ thân tâm mình nó một phần của vật chất, vật lý cho nên nó điều khiển được nó.
Nhưng mà mình phải biết huấn luyện nó, chứ mình ức chế nó phản ứng lại, tức là nó chịu đựng không nổi, nó đau bệnh. Cho nên vì vậy mình vận dụng hơi thở sai nó cũng làm cho mình mệt. Cho nên trong sự tu hành, mấy con lần lượt mấy con tập luyện, huấn luyện. Mấy con nhìn thấy người làm xiếc không? Họ dụ một con khỉ, con vật, con gấu, con cọp, nó làm được cái chuyện gì đó, họ cho nó ăn bánh, nó mừng quá, vậy là nó làm nữa để cho chủ nó cho nó ăn. Còn mình cũng dụ nó, mày ráng làm vậy được thì mày hết khổ chứ gì, mày xả cái tâm mày đừng có sân thì mày hết khổ chứ gì, nó nghe nó cũng mừng.
(1:21:21) Cho nên vì vậy mà nó vẫn làm theo mình, còn cái này mình cứ biết pháp mình tu tập, nhưng thật ra tức là, nhưng phương pháp đó huấn luyện tâm chứ không phải gì hết. Hôm nay Thầy nói để mấy con biết được. Cho nên vì vậy mà phương pháp lấy ý thức của mình dẫn đi vào chỗ giải thoát của nó. Cho nên trong kinh Pháp Cú: "Tâm làm chủ, tâm tạo tác, tâm dẫn đầu các pháp". Mà dẫn đầu các pháp, cho nên dẫn vào chỗ mà mình muốn cho đừng có khổ nữa. Các con cố gắng dùng pháp Như Lý Tác Ý dẫn tâm mình. Mình ngồi hít thở, mục đích hít thở là để an trú trong hơi thở chứ gì? Mà an trú trong hơi thở thì đừng có nhắc. Nó xảy ra cái gì, hôn trầm, thùy miên, nó sanh ra cái niệm này, niệm kia, nó không an trú được, cho nên mình nhắc nó, bảo nó: "Đừng có khởi niệm! Tập trung trong đó, biết hơi thở ra vô cho rõ ràng. Đừng hôn trầm, thùy miên, mày phải nghe lời tao!" Do đó mình dặn nó được như vậy rồi, bắt đầu hơi thở thấy ba mươi phút im re, nó làm theo ý muốn của mình.
Khi các con thấy tu tập mà cái pháp Như Lý Tác Ý có hiệu quả, mấy con nhắc cái tâm đâu là nó làm đó. Mà nhắc cái thân: "Mày đừng có đau nữa! Đau tao khổ lắm, mày đừng có đau, mày phải mạnh đi! Cái thọ là vô thường, mày đừng có đau nữa!". Nhắc nhở nó vậy. Bắt đầu nương vào hơi thở, cái đau nó đi mất, đó là cách thức dụ dỗ thân mình.
Còn những cách thức truyền lệnh, cũng có khi mình phải căng thẳng với nó, nó cứng đầu mình phải căng thẳng với nó: "Mày dừng lại không được sân nữa! Sân là chết!” Hoặc: “Mày dừng lại không được ngủ! Phải tỉnh táo! ”.
Đó là những cái pháp, cái phương pháp truyền lệnh và cũng là phương pháp dụ dỗ. Cho nên các con có lúc nhẹ nhàng dụ dỗ nó, mà có lúc phải căng. Lúc nào biết dụ dỗ, lúc nào lấy roi đánh nó, các con phải biết chớ. Lúc mà nó chưa có bệnh, chưa có đau, chưa có bệnh tật gì hết thì các con cứ quất nó. Còn lúc bệnh đau, yếu đuối, ăn ít nó mệt nhọc thì các con dụ dỗ nó, chứ các con đánh nó riết, nó chết luôn.
(1:23:37) Cho nên phải biết lúc dụ dỗ, lúc không dụ dỗ. Đó là thân tâm chúng ta qua sự tu tập như vậy. Cho nên đạo Phật có những phương pháp rèn luyện, khi mà cái thân chúng ta đã ngồi kiết già được rồi, ngồi yên thấm rồi, bắt đầu mới nhắc, mới tác ý đâu cho rõ ràng, rồi bắt đầu hít thở. Mà hít thở như vậy vẫn còn thấy vọng tưởng ra vô, chúng ta lại đổi hơi thở, tác ý một câu: “Hít!” rồi bắt đầu hít vô, “Thở!” bắt đầu thở ra. Tại sao mà mình hít thở năm hoặc mười hơi thở hoặc một phút, năm phút, ba mươi phút mà nó còn vọng tưởng? Là tại vì nó chưa có quen an trú, cho nên vì vậy thấy cái tâm chưa có quen, cho nên mình phải nắm hai cái tay nó, nương như một đứa bé nhỏ chưa biết đi. Nương, mình dẫn nó đi từng bước, từng bước xịu bên đây, xịu bên kia, nhưng mà mình nắm bằng hai tay cho chặt.
Thì phương pháp huấn luyện cho nó đi cho vững trên hơi thở bằng cách hít, nắm cái tay nương cho nó biết bước đi chứ gì! Thở là bước một bước nữa chứ gì? Và hít, thở: hít, thở, mình cứ nương. Các con có con cái rồi, tập cho nó đi các con mới biết điều mà Thầy nói. Thì bây giờ mà các con tập cho nó thở, cái thân của con thở cho nó đúng để cho tâm trú cho được. Mấy con dạy cho một đứa bé, đứa nhỏ chưa biết đi để cho nó biết đi, đi trên hơi thở của nó, đó là cách thức như vậy.
(1:25:15) Còn bây giờ mấy con cứ chổng khu hít thở, làm sao tui cứ tu hoài không đúng, tại vì mình không tập mình, mà mình ép buộc làm như vậy. Cố gắng chổng khu tập trung, trợn trắng mắt lên mà nhìn, nhìn hơi thở chứ gì, tới chừng nhức đầu quá. Trời ơi, nhức đầu quá! Như vậy là mấy con quá tập trung. Các con nhớ chưa?
Cho nên trong sự tu tập mấy con khéo léo thiện xảo nhắc. Thầy nhắc vì có tu tập rồi, mấy con mới biết cái sai của mấy con đã đi qua. Còn nếu mà hôm nay Thầy không nhắc thì mấy con nghĩ tu đúng chứ gì, nhưng mà đi qua rồi thì mấy con mới biết cái sai. Cho nên hôm nay mấy con vào đây tu, mấy con được dạy, huấn luyện kỹ lưỡng. Cho nên khi tu một pháp gì đó, mình phải tu cẩn thận kỹ lưỡng.
(1:26:03) Cho nên thậm chí như Thầy đã nói: “Cung kính Pháp” mà. Các con nhớ! Mình cung kính Pháp, mình ăn mặc áo tràng, áo dài đoàng hoàng khi mà mình ôm một cái pháp, mặc dù là hơi thở. Mặc dù trời vẫn nóng nực, nhưng mình vẫn ngồi hẳn hoi đàng hoàng, vẫn mặc áo đàng hoàng. Mình cung kính nó từng hơi thở, mình vẫn giữ gìn nó rất kỹ lưỡng, do đó kết quả rất lớn mấy con. Còn mình mặc áo ngắn, có nhiều người bên nam phái, họ nói nực quá, họ cởi áo, họ ở trần họ ngồi thiền. Trời ơi! Họ hít thở kiểu này giống như võ sĩ chứ đâu phải cái người tu theo Phật đâu ? Họ kính trọng Pháp đâu ?
Cho nên ở đây, tất cả những điều mà các con coi thường Pháp là không đúng cách. Cho nên nhớ những điều Thầy nói, khi chúng ta không muốn tu thôi, mà muốn tu dù đi kinh hành cũng phải mặc áo đàng hoàng mới tu. Bởi vì đó là Pháp của Phật, pháp mà Đức Phật đổi bằng xương bằng máu của Đức Phật, chớ đâu phải pháp thường, Pháp để cho mình làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Mà bây giờ làm chủ đời sống mình như vậy mà mình coi thường nó, thì mình tu tới đâu. Cho nên mỗi lần mà ôm Pháp đi, theo Thầy nghĩ không được mắc áo ngắn phải ăn mặc tề chỉnh như mình đến gặp chúc mừng cha mẹ mình, chúc mừng tuổi thọ cha mẹ mình vậy.
(1:27:20) Cho nên các con đến chùa lạy Phật, các con ăn mặc đàng hoàng. Nhưng mà lạy Pháp các con không ăn mặc đàng hoàng, đó là các con nhớ kỹ trong việc tu tập, do sự cung kính như vậy mấy con mới có đủ niềm tin ôm chặt Pháp mà mấy con tu đến nơi đến chốn. Chứ không khéo mấy con không thể nào mà đạt được, thậm chí như Đức Phật khi tu xong Ngài còn quỳ xuống mà đảnh lễ cái Pháp, quá tôn trọng và cung kính, nếu không có Pháp này phỏng chừng Ngài làm chủ sinh, già, bệnh, chết không? Không thể được! Cho nên khi mà tu xong rồi, Ngài mới thấy tuyệt diệu. Do chính Ngài, Ngài đã làm ra Pháp này mà Ngài còn quý trọng, còn huống hồ chúng ta có làm ra được cái Pháp này đâu, có biết cái Pháp này đâu ? Thế mà sao chúng ta không kính trọng nó, phải không các con?
Cho nên vì vậy mà nhớ kỹ khi mà chúng ta tu hơi thở, chúng ta phải đi lần lượt, bây giờ nhiếp về đề mục thứ nhất: "Hít vô, tôi biết tôi hít vô!" như Thầy dạy kỹ lưỡng. Bây giờ về Pháp này thì chúng ta ngồi tu tập, thì hiện giờ mà nói để cho chúng ta nghe để tu tập, thì ở đây, có người nào mà có thể làm đúng Pháp này thì hãy ra đây ngồi, tập làm cho mọi người xem thấy. Ai làm được ? Có người nào làm được việc Định Niệm Hơi Thở này không? Trong cái ý của mình làm, chớ có ai biết được đâu, cho nên đâu có diễn tả được cái hành động nào đâu.
Bây giờ cũng ngồi như quý vị ngồi vậy thôi, chứ còn không biết gì hết. Cho nên bây giờ chúng ta có làm gì đi nữa, chẳng qua là cái sự cẩn thận của mình mà thôi, chứ không thể biểu diễn qua hành động, qua cái chỗ ngồi mà hít thở vậy được, phải không các con? Người nào cũng ngồi theo đặc tướng của mình rồi, nhưng mà mình phải nhớ ngồi kiết già, đừng ngồi bán già. Nếu mà chúng ta, Đức Phật nói, tìm nơi vắng vẻ, khi tìm được vắng vẻ rồi phải ngồi kiết già, lưng thẳng. Bây giờ phải tập cách thức ngồi kiết già, lưng thẳng, ngồi cho nó yên rồi, bây giờ mới vô hơi thở.
Vô hơi thở phải tập từng hơi thở, phải kính trọng từ chỗ ngồi kiết già, kính trọng từ nơi yên tịnh. Bây giờ mấy con đụng chỗ nào ngồi yên tịnh, mình đâu có kính trọng tôn trọng cái nơi, vị trí yên tịnh mình đâu, cho nên mình hít thở cầm chừng, chứ không bao giờ mình hít vô một cách trọn vẹn hơi thở cả. Sau khi mình tu Định Niệm Hơi Thở cái đề mục thứ nhất rồi, an trú được rồi, nếu mà người nào nghe lời Thầy tu hơi thở đúng như vậy, thì mấy con tu trong vòng cao lắm là một tuần lễ là thuần thục, rất thuần thục cái đề mục này. Không bao giờ mấy con tu mà có một cái niệm nào xen vô, không bao giờ có hôn trầm, thùy miên nào xen vô chỗ mấy con đang ôm hơi thở này. Tu, mà mấy con tu có thời gian 30 phút thôi, chứ không phải tu đến 1 giờ, tại sao vậy? Tại vì kết quả của Định Niệm Hơi Thở này nó chỉ an trú tu 30 phút là chúng ta làm những công việc khác rồi.
(1:30:20) Nghĩa là làm những công việc khác rồi, không cần an trú nhiều. Chúng ta ngồi 30 phút được, chúng ta tăng lên một giờ hay hai giờ, ba giờ… thừa quá, mà lại xảy ra những điều kiện không hay của chúng ta, tức là rơi vào những trạng thái ức chế tâm, trạng thái tưởng rất nguy hiểm.
Cho nên lưu ý, chỉ 30 phút thôi, không được tăng lên trên 30 phút. Vì nếu có một hơi thở nào mà vào không niệm, không gì hết là lọt vào trạng thái tưởng. Bởi vì ý thức, thường thường ý thức là nó phải có sự tư duy, có sự suy nghĩ, khoảng thời gian từ 30 phút trở lên mà không suy nghĩ nó sẽ lọt vào trạng thái tưởng, tức là tưởng hoạt động, không phải còn ý thức hoạt động nữa.
Cho nên các con nhớ rằng khi mà tu sai để tưởng hoạt động, nó sẽ làm cho chúng ta điên. Cho nên người ta bị rối loạn thần kinh chỗ đó. Cho nên hầu hết mấy con tu sai, nó mới sanh ra trạng thái tưởng này. Cho nên nhiều khi mấy con không tác ý, suy nghĩ được, nó không suy nghĩ được.
Bây giờ tới đề mục thứ hai là hít vô dài hoặc hít vô ngắn, đó là điều hòa của hơi thở, bây giờ mấy con dẫn được được… (01:31:42)
HẾT BĂNG
THỌ BÁT QUAN TRAI 04 - CHỌN PHÁP TU PHÙ HỢP
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời lượng: [46:29]
Tên cũ: BQT-Thầy dạy trong kỳ thọ BQT 4
https://thuvienchonnhu.net/phap-am/tho-bat-quan-trai-04-chon-phap-tu-phu-hop
https://thuvienchonnhu.net/audios/tho-bat-quan-trai-04-chon-phap-tu-phu-hop.mp3
Trưởng lão: Con chỉ giữ tâm thanh thản của mình, thanh thản trong lúc mình ngồi bình thường, cũng như trong lúc làm các công việc, các con hiểu không?
Khi công việc mình làm, có những sự việc gì xảy ra với gia đình của mình, con cái hoặc là những người thân thuộc của mình hoặc là những người hàng xóm có những điều gì mà làm cho mình phiền não thì mình cố gắng nhắc: "Tâm thanh thản, tất cả đều là nhân quả có nhân duyên gặp nhau. Trong nhân quả thì có buồn phiền, nó có vui, có buồn”. Do đó đều thấy nhân quả thôi!
Tức là giữ tâm thanh thản lúc mình làm công việc - sống. Lúc đối với mọi người - sống. Cho đến khi mà không có việc gì hết, con ngồi con lắng nghe sự thanh thản của tâm can con. Còn cái kia con lắng nghe cái tâm con thanh thản trong công việc của (cuộc) sống. Bấy nhiêu đó là một pháp thứ nhất.
Pháp thứ hai mà con tu tập đó là con tập chắc con cũng biết pháp Thân Hành Niệm rồi chứ gì? Đi kinh hành biết không?
Phật tử: Kính bạch Thầy! Hôm qua Thầy dạy Thân Hành Niệm, thì con biết.
Trưởng lão: Biết rồi phải không? À con chỉ tập chừng độ cao lắm là 30 phút pháp Thân Hành Niệm thôi. Chỉ khi con ngồi con giữ tâm thanh thản mà buồn ngủ. Con thấy muốn buồn ngủ, đứng dậy tập pháp Thân Hành Niệm, thì mình sẽ phá buồn ngủ đi. Có hai pháp đó thôi.
Những pháp kia nó phá cái tham, sân, si của mình. Còn pháp nọ, nó phá buồn ngủ, tức là phá cái si. Nhớ hai pháp đó thôi, đừng tu pháp gì. Đừng tu hơi thở. Đừng tu gì hết, ba cái đó dẹp hết đi cho Thầy, nhớ chưa?
Phật tử: Con bạch Thầy! Từ trước tới nay, đúng ra con chỉ xem kinh sách Thầy dạy. Con chưa được trực tiếp Thầy dạy con, cho nên cứ thế con tu, con không biết đầu đuôi như thế nào ạ. Vậy thầy hoan hỉ hướng dẫn cho con.
Trưởng lão: Thật ra không có đầu đuôi gì hết. Bây giờ, con ngồi xếp bằng như thế này, hai chân ngồi xếp bằng. Nếu ngồi kiết già được thì tốt, không ngồi kiết già được thì ngồi bán già, con ngồi xếp bằng vầy. Con tác ý, con bảo tâm:"Tâm thanh thản, an lạc, vô sự. Tất cả các ác pháp đều buông xả hết"! Rồi con ngồi im lặng, con lắng nghe sự thanh thản tâm con, của thân con, rồi một lúc con nhắc lại một lần nữa. Cứ như vậy, con thấy nó.
(2:27)Ví dụ như con định chừng khoảng độ chừng một phút, rồi cho đến khi năm phút, rồi mười phút con mới tác ý một lần. Chừng nào nó tua ra hết hoàn toàn, con ngồi vẫn thanh thản toàn bộ trong một giờ hay nửa giờ, một giờ hay hai giờ thanh thản đó là con đã đạt được kết quả rồi.
Còn nếu trong một phút hay hai phút có những niệm khởi lên. Lúc bấy giờ cứ khoảng độ chừng một phút hay nửa phút, con tác ý:"Tâm thanh thản, an lạc, vô sự". Đó là lúc con ngồi tu.
Còn lúc con làm việc đó, con nhớ con nhắc; làm bất kì việc gì, nhớ nhắc. Trước mọi người nói chuyện con cũng nhớ con nhắc "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự". Biết người ta nói chuyện, nói chuyện gì đây, mà làm phiền mình. Cho nên mình nhắc nó, khi người ta nói chuyện gì đó, tâm con xả ra. Hiểu không? Có vậy thôi!
Con phải tu nhân quả nhiều để giữ tâm thanh thản đó hoài. Chỉ việc giữ nhân quả thôi, đó là đem sự giải thoát cho con, chứ đừng có tu lung tung như thế này. Con tu nhiều quá cái nào con cũng không áp dụng được, rồi nó đau khổ, nó vẫn hoàn đau khổ thôi. Mặc dù nó có giảm, con vẫn biết Phật pháp, biết lời Thầy dạy rồi, nó có giảm sự phiền não nhưng mà nó không hết. Còn con tu như vậy (2 pháp kia) nó sẽ hết thôi.
Con nhớ chưa? Cố gắng! Có vậy thôi chứ không có gì hết, con nhớ hai pháp thôi. Một pháp Thân Hành Niệm và một pháp con tu Tứ Niệm Xứ. Tức là ngồi quét chướng ngại pháp trên thân tâm, hoặc là đối xử với mọi người cũng đều là quét chướng ngại rồi đó.
Trưởng lão: Con lớn tuổi rồi con không có tu gì nhiều.
Phật tử: Kính thưa thầy, mọi khi con tu Định Niệm Hơi Thở với lại tu Định Vô Lậu.
Trưởng lão: Thôi! Bây giờ con bỏ đi, không lậu nữa. Bây giờ chỉ quét nó ra thôi, chứ không lậu. Đó, nhớ chưa? Hễ có cái gì mà chướng ngại cái thân và tâm con thì con chỉ tác ý và con quét nó ra, chứ bây giờ không nói lậu hoặc gì nữa. Chứ bây giờ nói lậu, con quán vô lậu, quán hoài con lộn xộn, con không biết đâu mà lậu hoặc.
Bây giờ con quán thân bất tịnh, hoặc con quán xương trắng, hoặc quán vô thường - khổ - vô ngã… con quán lung tung, không biết gì hết. Cho nên, đối với con chỉ ít thôi thì nó biết. Con hỏi Thầy, Thầy thấy con hỏi lung tung rồi, con không biết cái nào? Bởi vì tu cái đó, con người mình phải còn sức khỏe, vả lại người ta có trí tuệ thì người ta như thế nào, con biết không? Người ta biết áp dụng, khi có ác pháp gì đó, người ta áp dụng trong Định Vô Lậu nào để người ta đưa đề tài đó ra, người ta quán, hóa giải cái niệm đó đi. Con bây giờ thì không được, con hiểu không?
(05:01) Con bây giờ thì không cần như vậy, con chỉ cần quét nó đi, còn cái gì chướng ngại trong người con, trong thân con, tác ý: "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự. Các ác pháp này rời khỏi ngay đi, tao không chấp nhận mày đâu!" Thì do đó tâm con an ổn vô sự. Đó cũng là Vô lậu - Vô Lậu bằng cách quét, chứ không phải Vô Lậu bằng cách tư duy suy nghĩ. Các con hiểu rồi phải không? Nhớ chưa? Chứ không thôi về ngoài đó quên mất hết. Cũng không biết quét bằng cách nào đây nữa.
Phật tử: Con thưa Thầy! Con tu Định Vô Lậu, khi ác pháp đến con dùng Thân - Thọ - Tâm - Pháp để đẩy lui nó ra. Thế thì chẳng hạn như nó đau thì con lại quán thọ ra, con đẩy các chướng ngại ra khỏi. Nhiều khi là con hay nhiều bệnh lắm, thế con dùng Định Vô Lậu, con đẩy lui bốn chỗ Thân - Thọ - Tâm - Pháp thì bệnh con khỏi.
Trưởng lão: Con quán mà con nghĩ nó là Vô Lậu, chứ sự thật đó là đẩy lui chướng ngại pháp chứ đâu có ngồi quán. Bây giờ đau con ngồi, đau nó cũng đau à, con chỉ đẩy lui chứ nói quán đẩy lui cái bệnh đó là con lộn Định Vô Lậu. Chứ thật ra không phải Định Vô Lậu đâu? Mà quét ra cái đó là quét Vô Lậu. Hiểu chưa?
(6:45) Phật tử: Con hỏi chút xíu. Rồi lúc nào con sắp về, con gặp riêng Thầy?
Trưởng lão: Con nhớ nha, lúc nào mà con sắp về đó, ra gặp riêng thầy, thầy sẽ dạy riêng ra. Con của Thầy có đứa này, đứa khác, phải thương hết. Đứa nào u tối quá phải gần gũi Thầy, Thầy dẫn dắt nó nhiều hơn, để cho nó biết cách, chứ để tu bậy bạ không có kết quả. Nguyên Phúc, con muốn gặp Thầy thì lúc nữa, sau khi làm lễ thọ Bát Quan Trai cho các con xong rồi thì Thầy sẽ gặp riêng con. Muốn thưa hỏi Thầy sẽ hướng dẫn con, muốn trình gì cũng được hết.
Trong khi làm lễ thọ Bát Quan Trai xong rồi, thì những người nào còn ở lại để thọ Bát Quan Trai. Còn những người nào muốn gặp Thầy, thì có những việc cần thiết gặp Thầy. Còn những cụ lớn tuổi rồi thì Thầy sẽ cho những số sách có hứa với hôm qua rồi. Vì công việc nhiều quá Thầy không có rảnh, nếu rảnh thì Thầy đem sách để gửi các cụ rồi. Con nhớ chút rảnh, thì giờ nào mà Thầy rời khỏi đây rồi, con đến gặp Thầy ở phòng vi tính làm việc thì sẽ gặp Thầy. Có việc gì thắc mắc thưa hỏi Thầy.
(9:00) Còn cái này là những người xin quy y. Thầy sẽ viết cho phái điệp. Rồi sau những buổi mà thọ Bát Quan Trai xong, thì Thầy sẽ làm lễ thọ Tam Quy Ngũ Giới, và đồng thời Thầy truyền Tam Quy Ngũ Giới cho mấy con. Thì trong khi có mặt ở đây cũng vậy, mà không có mặt cũng vậy, Thầy cũng làm lễ chứ không có gì đâu. Nghĩa là có mặt thì nghe. Mà không có mặt, Thầy cũng làm lễ truyền Tam Quy Ngũ Giới chứ không có gì mà ngại hết.
Nhưng mà sau đó thì cố gắng mà giữ gìn năm giới, luôn luôn sống như Phật, như Pháp, như Tăng thôi! Chứ không có gì. Hết rồi phải không mấy con? Bây giờ là điều kiện, không có gì hết. Thầy xin nhắc nhở cho mấy con thấy, vì hôm nay, một lúc nữa là giờ thọ Bát Quan Trai. Thì trước khi thọ Bát Quan Trai để quay lại băng hình làm tài liệu học tập về cách thức thọ Bát Quan Trai, trước khi làm lễ thọ Bát Quan Trai, thì bây giờ Thầy xin khuyên các con - những người già lớn tuổi rồi, các con đừng có tu theo pháp Định Niệm Hơi Thở hoặc là quán Vô Lậu, hoặc tất cả mọi cái, như các con đã biết, là đã thông suốt rồi. Người nào cũng hiểu, mặc dù như thật hay chưa nhưng cũng biết thân này là vô thường, là khổ đau; cũng biết thân này không phải của mình rồi; cũng biết mọi vật, các pháp xung quanh mình: nhà cửa, tài sản, của cải… không có vật gì mà của riêng mình hết. Nó là của quy luật của nhân quả.
Cho nên, như vậy các con cũng biết, nhưng mà biết để buông xả, và không còn dính mắc nữa. Chắc chắn nó như xương, như thật vì cuộc sống của chúng ta còn, chúng ta không thể buông như vậy được, cho nên chúng ta biết cố gắng chúng ta tu. Tu cách khác, nhưng mà quán là quán vô thường, các pháp vô thường, vô ngã, thì chúng ta quán thì được. Nhưng mà nó không có như thật, vì cuộc sống chúng ta còn đang ở trong môi trường đó, ở trong các vật chất đó, thì làm sao chúng ta quán để buông xả liền.
(11:27) Cho nên chúng ta bị trói buộc, còn bị dựa trên sự sống của chúng ta. Cho nên nói là một lẽ, mà làm là một việc làm không phải dễ. Cho nên khi một người cư sĩ chỉ còn "Ba y - một bát" sống một cuộc sống thiểu dục tri túc, tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không. Không còn gì hết, chỉ còn một bộ đồ. Như Thầy chỉ còn một cái quần và cái áo; và cái y vấn như thế này, đó là ba y - một bát.
Thử hỏi đời sống cư sĩ sống như thế này, con sống được không? Và đồng thời đi xin ăn, ai cho gì ăn nấy, không đòi hỏi, mấy con có thể làm được không? Chưa được. Phải nói rằng: "Nó là mình!" Phải hiểu các pháp là vô thường thật, nhưng nó chưa vô thường. Nếu nó vô thường thật thì mình buông hết, buông hết như một tu sĩ. Còn bây giờ mình làm sao buông được? Nào là chồng con, nào là vợ con, nào là sự sống của cả bao người xung quanh nữa, mà làm sao mình buông? Còn một vị Tu sĩ - như Thầy - không vợ, không con, không nhà, không cửa, còn có thể buông được. Nhưng như vậy chứ đâu phải dễ, coi như vậy chứ chưa phải dễ đâu. Cho nên chúng ta học tu quán Vô Lậu nhưng sự thật chưa Vô Lậu.
Cho nên vì vậy Thầy khuyên người lớn tuổi đã chồng chất trong cuộc đời của chúng ta rất nhiều sự đau khổ của cuộc đời này rồi, chúng ta biết nhưng chưa có cách thức nào buông ra được. Vậy mà cách thức hôm nay, Thầy nhắc nhở cho mấy con để buông ra được là chỉ nhớ tác ý"tâm thanh thản, an lạc, vô sự". Và mọi vật đến với mình đừng để tác động, làm cho mình thương, ghét, giận hờn.
Và mọi vật nó tác động lên thân mình đau bệnh, nhức nhối khổ sở. Các con nên tác ý câu: "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự - đừng sợ hãi. Các pháp đều vô thường." Mình nói như vậy để nó cảm thấy vô thường, nó đừng dính mắc thôi, Cho nên mình giữ được cái tâm thanh thản của mình, đó là phương pháp thứ nhất. Và các cư sĩ lớn tuổi hãy giữ gìn, luôn luôn bám chặt các pháp đó.
(13:34) Kế đó thì, nếu mà có trong cái khoảng thời gian, cái giờ giấc cũng phải nghiêm chỉnh, đừng có nói rằng: "Tui già rồi, tui ngủ hồi nào, tui ngủ ít quá, tôi muốn buồn ngủ rồi tui đi ngủ”. Đừng nghĩ như vậy. Mà giờ nào mình cho ngủ đúng giờ nấy. Cũng như ăn uống giờ nào, mình cho ăn, thì ăn giờ này đừng ăn uống phi thời. Vì người ăn uống lặt vặt xấu lắm, không có tốt.
Nó xấu là như thế nào? Ăn uống mà lặt vặt, cơ thể nhiều bệnh. Bởi vì nó hoạt động hoài. Chút ăn cái này, chút ăn cái kia, cơ thể hoạt động. Thì như vậy, nó hoạt động nhiều như vậy, nó sẽ suy yếu nhiều, bệnh đau. Cho nên mình ăn uống có điều độ, có tiết độ hẳn hòi, đàng hoàng, cơ thể dễ mạnh mẽ hơn, nó ít bệnh đau hơn.
Đó là một phương pháp. Phương pháp không phải tu, mà nó giữ gìn cơ thể chúng ta ít bệnh tật, mà ít bệnh tật là ít khổ đau. Cho nên ăn uống, ngủ nghỉ đừng có phi thời, đó là cách thức sống. Cho nên quý Phật tử nhớ kỹ, dù là người già cũng như người trẻ, khi tới giờ ngủ thì đi ngủ. Mà giờ chưa ngủ mà nó buồn ngủ, nhất định mình phải chiến thắng, mình phải chống lại bằng cách đi kinh hành. Nhưng mà các cụ già rồi đừng đi pháp Thân Hành Niệm mà đi bình thường. Một chút nữa, về dạy Chánh Niệm Tỉnh Giác, tức là cách thức đi kinh hành, mà bình thường thì Thầy sẽ hướng dẫn cho quý vị đi như thế nào là bình thường, thấy qua hình ảnh Thầy đi, để mà bắt chước kinh nghiệm đó.
Chỉ có hai pháp, một cái pháp giữ tâm thanh thản, an lạc, vô sự, và nhớ mỗi khi có chướng ngại trên đó thì dùng pháp Như Lý Tác Ý để đẩy lui các pháp chướng ngại đó ra. Đồng thời có buồn ngủ phi thời thì mình nên đứng dậy đi kinh hành, đi tới đi lui cho nó đừng có buồn ngủ. Cố gắng mà dùng hai pháp này để giữ gìn cho thân tâm mình được an lạc và vô sự. Tâm hồn được thanh thản thì như vậy mới là biết Phật pháp mà tu, mà không cần tu pháp nhiều. Vì tu nhiều quá nó rối, nó không biết như thế nào.
(15:58) Chẳng hạn như 18 đề mục Định Niệm Hơi Thở không biết tu cái nào? Rồi Định Vô Lậu? Rồi Định Sáng Suốt? Rồi Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, cứ lung tung rồi nó nhiều quá! Rồi nào Thất Giác Chi rồi nào Thân Hành Niệm, nó nhiều quá! Cho nên bây giờ mình gom lại cho sự tu tập, cho nó dễ dàng. Còn những người mà còn tuổi trẻ buộc lòng tu Định Niệm Hơi Thở, nghĩa là 18 đề mục Định Niệm Hơi Thở - là 18 phương pháp rất căn bản cho chúng ta để đẩy lui tất cả chướng ngại pháp trên Thân - Thọ - Tâm - Pháp chúng ta. Còn trẻ chúng ta nên tập từ căn bản, tập ít.
Bắt đầu chúng ta tập đề mục thứ nhất, chúng ta đạt được thì chúng ta tu tập đề mục thứ hai. Còn những người khác thì người già không nên tu tập, vì nó sẽ có nhiều cái khó khăn. Còn cái Định Niệm Hơi Thở, mà người trẻ đâu phải người nào cũng tu được. Nhiều khi chúng ta tập trung hơi thở chúng ta tu thì nó sẽ bị chướng ngại. Như nó làm cho chúng ta tức ngực, nó làm cho chóng mặt hoặc nó căng đầu, căng mặt. Ngay đó phải vào thưa hỏi vị hướng dẫn, rồi người ta xem hơi thở mình như thế nào, người ta giúp cho mình điều kiện khác tu tập. Hoặc người ta dạy mình vận dụng hơi thở như thế nào để cho phù hợp với cơ thể của mình. Chứ hơi thở là một hành động nội của thân chúng ta, rất đặc biệt, nó rất hay.
Nó rất đặc biệt, cho nên rất khó chứ không phải dễ. Chứ không phải người nào cũng tu hơi thở là đạt được hết đâu. Không phải đâu, có người có duyên với nó, có người không có duyên. Cho nên vì vậy chúng ta không cố chấp phải tu hơi thở. Nhưng chúng ta, người có duyên chúng ta tu hơi thở, chúng ta nương hơi thở thì chúng ta tu dễ dàng.
Cho nên Thầy nhắc lại để quý Phật tử thấy khi Thầy tu Thiền Đông Độ bị tưởng nhiều quá. Do đó ức chế tâm, không còn niệm thiện, niệm ác thì bị 18 loại tưởng. Cho nên lúc bấy giờ Thầy trở về pháp Nguyên Thủy, chỉ có câu tác ý và ngồi chơi, chứ không ngồi thiền. Do đó tác ý: "Tâm như cục đất, ly tham, sân, si", có nhiêu đó, hoặc "Tâm ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền". Đó là những câu tác ý đó mà giữ tâm thanh thản.
(18:22) Cho nên bây giờ Thầy dạy tâm thanh thản, câu tác ý "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự". Vậy mà cuối cùng trong 6 tháng Thầy thấy tâm mình thanh tịnh hoàn toàn, và đồng thời không còn tham, sân, si nữa. Tức là ly toàn bộ.
Cho nên Thầy đem cái niệm này dạy cho các cụ, những người lớn tuổi cũng như Thầy, tu mức cuối đường đời tu hành của Thầy. Trong lúc đó tuổi đời cũng lớn rồi mà đạo chưa tới, chưa làm chủ được. Cho nên chỉ còn pháp Như Lý Tác Ý mà ngồi tựa cửa, mà nhìn trời mà Tác Ý, không dám ngồi tu Thiền Định nữa, vì sợ tu Thiền Định nó lọt vô tưởng. Cho nên xả hết toàn bộ, không dám xếp chân ngồi kiết già nữa, trừ khi nào bệnh đau mới khép chân mà ngồi. Còn khi bình thường không dám ngồi; ngồi sợ nó thu tâm, thân tâm thu vào, nó nhập vào Định Tưởng rất là lo ngại. Vì vậy Thầy không dám ngồi thiền nữa, mà Thầy ngồi tựa cửa, rồi nhìn trời mà tác ý tâm thanh thản, an lạc. Mắt thì nhìn trời nhưng lúc nào cũng lắng nghe sự thanh thản của thân tâm mình.
Do cuối cùng Thầy đạt kết quả bằng một phương pháp mà Thầy dạy các cụ, Thầy nghĩ rằng phương pháp thanh thản, an lạc, vô sự - nó là trạng thái tương ưng với chư Phật. Cho nên nhớ! Chúng ta tu chưa đến nơi, đến chốn chúng ta vẫn giữ cái thanh thản đó.
Cho nên sau khi nghiên cứu bộ kinh Tương Ưng, đúng là cái nghĩ của Thầy không sai. Vì trong kinh Tương Ưng, đức Phật tương ưng chư Phật thì sẽ nhập Niết Bàn; mà tương ưng với chúng sanh là sẽ tái sanh luân hồi.
Cho nên rõ ràng. Vì vậy mà ý này được Thầy triển khai ra để chúng ta nhận xét trên con đường tu chúng ta biết rõ mình còn tái sanh hay không tái sanh, mình biết rất rõ. Nếu hằng ngày các cụ lớn tuổi, giữ tâm thanh thản thì các cụ sẽ nhập được Niết Bàn. Mà hằng ngày các cụ còn tham, sân, si; còn phiền não không đẩy lui chướng ngại này, thì chắc chắn còn tái sanh luân hồi, còn làm người nữa. Đó là trong kinh Tương Ưng. Tương Ưng, cái tên tức là dạy mình tương ưng với cái gì thì mình sẽ về với cái đó, trong kinh nó như vậy. Cho nên nó có tên Tương Ưng. Nếu chúng ta không nghiên cứu kỹ, chúng ta không hiểu tên kinh Tương Ưng là cái nghĩa lý gì? Nhưng sự thật kinh này nó dạy tương ưng chư Phật. Cho nên chúng ta biết cách giữ gìn tâm mình, cũng như nhìn thấy các pháp là vô thường, mình không còn dính mắc nữa, tức là mình tương ưng với chư Phật. Còn mình thấy nó là thường, còn thấy bản ngã, còn thấy của mình, của ta, thì nó sẽ tương ưng với chúng sanh, nó sẽ đi tái sanh luân hồi.
(21:09) Đó là những điều các con hôm nay, quý Phật tử hôm nay cần lưu ý những pháp mình tu, chứ đừng tu nhiều lung tung nữa. Nhiều quá các con sẽ rối loạn rất nhiều. Có nhiều người hôm nay tu tất cả nhiều pháp, nhưng mà hai năm, ba năm nhưng chúng ta đã thuần thục, tuy rằng không có kết quả rõ ràng, nhưng mà có kết quả nhỏ nhỏ trong thiện pháp.
Các con tu nhưng kết quả đó nhỏ chúng ta không thấy, nhưng khi chúng ta ngồi lại giữ tâm thanh thản, thì chúng ta dùng kết quả nhỏ đó mà đẩy lui các pháp trên Thân - Thọ - Tâm - Pháp của chúng ta. Thì như vậy kết quả tu tập đó, nó sẽ có lợi ích cho các con rất lớn. Vậy mà ngay bây giờ các con đã tu hai năm, ba năm rồi, các con trở về tu pháp “thanh thản, an lạc, vô sự” tức là trên Tứ Niệm Xứ. Sau thời gian đã tu Định Niệm Hơi Thở, tu Định Vô Lậu quán xét, bây giờ các con dừng tất cả lại hết, ngay bây giờ có một số mới tu còn trẻ tuổi thì bắt đầu tu. Còn những người tu một năm hay hai năm với Thầy rồi, các con dừng lại pháp này hết, mà chỉ còn ôm pháp Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ đẩy lui các chướng ngại, khi nó có hiện tượng nào xảy ra ở trên bốn chỗ Thân - Thọ - Tâm - Pháp, các con nhớ dùng nó Như Lý Tác Ý mà đẩy lui. Như vậy các con sẽ nhẹ nhàng và đồng thời các con còn một chút ít sức khỏe. Người nào còn ít sức khỏe, các con hãy tập Thân Hành Niệm, vì pháp Thân Hành Niệm đã tạo thành cái lệnh, cái lực để chúng ta truyền lệnh tác ý ra mọi điều kiện muốn điều gì thì thân và tâm làm theo điều đó. Cho nên chúng ta đừng bỏ pháp Thân Hành Niệm.
(23:00) Những người lớn tuổi chúng ta không cần tu điều đó, mà chúng ta cần đi kinh hành Chánh Niệm Tỉnh Giác, đi một cách thư giãn, đi một cách nhẹ nhàng, chứ không đi tác ý từng tiếng nói. Vì sức của các cụ mà sự tập trung tác ý như vậy thì nó không đủ sức để mà tập trung cao độ như cái pháp Thân Hành Niệm được. Cho nên chúng ta chỉ đi Chánh Niệm Tỉnh Giác thôi, đi kinh hành vừa thôi để phá buồn ngủ, hôn trầm thì Thầy nghĩ rằng nếu tu được như vậy, siêng năng được như vậy thì người già cũng được vào Niết Bàn, mà người trẻ tu đúng cách như vậy sau đó đủ năng lực mà làm chủ được sống chết của thân chúng ta, mà chấm dứt tái sanh luân hồi.
Người mà tu cái pháp, không cần tu pháp Thân Hành Niệm, không có năng lực để nhập định, nhưng vẫn vào Niết Bàn. Nhiều người tu làm chủ được sự sống chết của mình. Người làm chủ được sức Thiền Định như vậy, năng lực, như vậy cũng vào Niết Bàn y như người kia. Còn người kia chưa đủ sức đó, mà họ giữ tâm thanh thản, an lạc mà vẫn vào Niết Bàn. Cho nên các con nhớ đừng có, mình làm chủ thân của mình, muốn chết hồi nào thì chết, muốn sống hồi nào thì sống. Nhớ còn sức khỏe thì chúng ta tu để cho đạt cái này, nếu không có sức khỏe thì chúng ta giữ tâm thanh thản, an lạc, vô sự, cũng đủ cho chúng ta khi bỏ cái thân này thì ta không còn tái sanh luân hồi nữa. Chấm dứt sự đau khổ của mình. Nhớ như vậy các con sẽ cố gắng, cho đến khi cái thân của các con nó sắp rã, nó sắp hoại, nó sắp chết rồi, thì các con cứ giữ tâm thanh thản để các con đi vào Niết Bàn mà không còn khổ đau nữa, không còn làm người nữa, chứ làm người khổ lắm.
(24:50) Mấy con nhớ kỹ, đó là những phương pháp mà hôm nay Thầy chỉ dạy mấy con cách thức tu nhẹ nhàng, dễ dàng không còn khó khăn, lúc nào tu cũng được, làm công việc tu cũng được. Cứ nhớ, cố gắng nhớ tâm thanh thản, an lạc, vô sự. Giờ nấu cơm cũng phải nhắc được câu này, và vừa lặt rau, vừa cuốc đất, vừa làm công việc quét sân cũng đều nhắc câu "Tâm thanh thản". Và khi mình quét, vừa quét sân mình lắng nghe sự thanh thản thân tâm mình, coi có chướng ngại chỗ nào hay không? Nếu không chướng ngại thì vừa quét, vừa lắng nghe, vừa thỉnh thoảng nhắc câu đó, để chúng ta lắng nghe tiếp tục. Mà chúng ta làm công việc không có gì là khó khăn. Nhớ tu tập siêng năng như vậy thì chúng ta sẽ đạt được kết quả rất tốt, chứ không còn xấu nữa. Vậy một người nào cố gắng tu tập như vậy, không có một ác pháp nào tác động vào làm cho mình phiền não, giận hờn, đau khổ. Mặc dù con cái nó có thể không nghe lời mình, nó chống lại mình bằng cách này hay cách khác, mình vẫn thản nhiên. Bởi vì mình đã biết đó là nhân quả và mình biết đó là ác pháp, cho nên mình tác ý: "Đây là ác pháp, hãy đi đi, tâm phải thanh thản, bình thường không được phiền não nữa". Mình nhắc nó, nó sẽ trở lại trạng thái đó liền.
Cho nên mấy con nhớ những pháp này là pháp tu tuyệt vời, nhưng Thầy chỉ tu sáu tháng mà nó đủ nội lực, là tại vì Thầy nhất tâm vào trong sức nhiếp tâm đó, thành ra một Định Tưởng rồi. Còn mấy con, bây giờ tu cách gì chắc mấy con tu chưa được ở trong Định Tưởng như Thầy, cho nên mấy con dù như thế nào, chưa có đủ nội lực được đâu. Cho nên Thầy có sáu tháng mà Thầy giữ tâm thanh thản, an lạc, vô sự của mình. Nhờ sức nhiếp tâm tu tập lọt vào Định Tưởng đó, nó mới trở thành nội lực nó có. Mấy con bây giờ muốn như vậy thì ít ra mấy con tu Định Niệm Hơi Thở hay hoặc ít ra mấy con phải nhiếp tâm an trú được trong hơi thở từ 30 phút đến một giờ thì nó có thể nội lực được.
(26:48) Còn bây giờ mình nhiếp chưa được mà mình đòi hỏi nội lực của Thiền Định chắc chắn là chưa được đâu. Cho nên vì vậy mà các con cố gắng. Người còn trẻ thì chúng ta tu Định Niệm Hơi Thở, an trú trong hơi thở. Lúc nào nhiếp vô trong hơi thở mà an trú, không bao giờ có một niệm vào. Lúc bấy giờ có nội lực của Thiền Định. Còn nếu chúng ta chưa có thì chúng ta vẫn giữ tâm thanh thản để ly dục, ly ác pháp thì cũng có kết quả tốt cho mấy con trên bước đường tu tập.
Cho nên mấy con đừng có ham. Đừng có ham mà muốn chết chừng nào thì chết, muốn sống hồi nào thì sống như Thầy. Mấy con đừng có ham cái đó, mà mấy con chỉ biết là mình giữ tâm thanh thản và tham, sân, si không tác động được vào tâm mình; và tất cả những bệnh tật đều không tác động vào tâm con được. Đó hạnh phúc nhất của mấy con rồi, và như vậy cái tâm thanh thản, đó là mục đích của mấy con đã đạt được rồi, không còn xa nữa.
Cái quả Vô Lậu là tác ý chỗ đó, chứ không phải chỗ hành động mà chỗ Thiền Định. Mà mấy con tịnh chỉ hơi thở, còn muốn thở hay muốn chết theo lệnh của mấy con, thì mấy con đừng cầu mong cái này. Cái này mấy con phải biết Thầy chưa cầu mà tập luyện vào trong các Định Tưởng, ghê gớm lắm mấy con, tu tập mà hết sức, cái người Thần kinh mà lơ mơ thì nó sẽ loạn Thần kinh. Cho nên các con nghe những người điên, họ quý lắm, họ tập trung cho hết vọng tưởng, ức chế đến hết mức độ Thầy may là Thần kinh Thầy tốt.
Ngày xưa đức Phật ức chế đến nỗi cái đầu như ai lấy sợi dây nịt quấn lấy cái đầu Ngài. Ngài đau đớn như vậy. Người ta dạy Ngài hơi thở, Ngài cố gắng Ngài tu, Ngài cũng khổ sở đau đớn, mà Ngài không loạn thần kinh. Thầy cũng cố gắng hết sức, nó cũng căng mặt, căng đầu, chứ không phải không, nhưng mà Thần kinh rất tốt, nó không loạn.
(28:29) Còn những người yếu Thần kinh thì tu tập như vậy sẽ bị loạn Thần kinh và các trạng thái tưởng nó làm cho người ta không còn sống trong thế giới ý thức bình thường. Nó ở đâu cũng thấy hình ảnh của mờ mờ, ảo ảo, đâu mình cũng thấy mình sống theo cái kiểu của ma, của quỷ không. Cho nên đó là những trạng thái của tưởng. Cho nên vì vậy rất nguy hiểm. Cho nên ở đây tu tập rồi, Thầy biết cái sai và cái đúng. Cái mà làm cho chúng ta quá đau khổ, Thầy có may lắm, nếu không Thầy trở thành người điên khùng, chứ không thể nào mình nhiệt tâm, mình tu.
Cho nên nó dẫn đi đến điên khùng. Còn những người khác, họ không có nhiệt tâm lắm. Người ta tu được thì nhờ, được thì tốt, không được thì thôi, chứ người ta không có nhiệt tâm như người quyết tâm tu như Thầy. Cho nên người ta không thể nào mà bị điên khùng. Người ta tu cuối cùng chỉ lý luận nói qua, nói lại vậy thôi, chứ thật ra vọng tưởng chưa hết. Khi vọng tưởng hết thì người đó phải Thần kinh phải tốt, chứ lơ mơ vọng tưởng hết thì người đó sẽ bị điên. Thầy nói thật sự, thần kinh của chúng ta có người thì tốt lắm, có người thì xấu.
Những lời khuyên của Thầy là lời khuyên chân thật. Bởi vì chúng ta có biết hệ Thần kinh của chúng ta như thế nào chưa? Nếu chúng ta nhiếp quá độ thì chúng ta rất nguy hiểm. Cho nên vì vậy đạo Phật dạy chúng ta đi vào chỗ ly dục, ly ác pháp, mà không cần ức chế tâm. Cho nên ly dục, ly ác pháp rồi, chúng ta mới… Khi cái tâm chúng ta thanh tịnh rồi, thì tự nó có năng lực tự nhiên của nó. Cho nên chúng ta tập pháp Thân Hành Niệm là pháp tập trung cao độ, cao độ nhất. Mỗi hành động đều tác ý để cho tâm chú ý vào hành động đó, gọi là ức chế tâm cũng cao chứ phải không, nhưng vì chúng ta ly dục, ly ác pháp, cho nên tập trung như vậy và luyện tập như vậy. Lệnh của nó, khi mà đủ lệnh tức là đủ năng lực của nó, chúng ta đâu cần tập trung nữa.
(30:19) Cho nên chúng ta nhập định bằng cái năng lực, năng lực siêu hình, công đức siêu hình của Bảy Giác Chi, hay hoặc mười Thần lực, cho nên chúng ta nhập Định không khó. Mà bây giờ chúng ta chưa có gì hết, mà chúng ta lo ức chế để vào Định gì đó, để đem lại tai hại cho chúng ta. Cho nên Thầy chỉ dạy các con, chỉ an trú hơi thở. Nếu tuổi trẻ mấy con tu tập, nhớ kỹ tập an trú hơi thở chỉ cao lắm là 30 phút, còn không thì tu 10 phút mà thôi. An trú được 10 phút cũng là quý lắm rồi, đừng đòi hỏi ở cao nhiều hơn nữa. Cho nên trong 10 phút đó thì chúng ta tiếp tục tu những đề mục khác để ta di chuyển khỏi tụ điểm của tâm tập trung. Mà khi rời khỏi tụ điểm tâm tập trung thì nó không thành bệnh. Nếu ở một chỗ mà tập trung chỗ đó biết ra, biết vô chỗ đó thì nó rất nguy hiểm.
Như vừa rồi mấy con cũng thấy cô Kim Tiên gửi bức thư của Thầy, mà khi tập trung ở bụng phình xẹp thì mỗi khi tập trung hay không tập trung cái bụng mình nó bị cứng lên thì mấy con thấy nó nguy hiểm vô cùng. Do cái chỗ mình cứ tập trung một chỗ là nguy hiểm. Vậy mà an trú được thì chúng ta bỏ cái pháp đó đi, rồi chúng ta rời chỗ khác, chúng ta tu tập đề mục khác. Cuối cùng thì chúng ta trở về cái pháp ngồi chơi mà quét nó thôi.
Hôm nay các con tu theo Thầy, có nhiều người cũng hai, ba năm rồi, có người tệ lắm cũng được một năm rồi. Các con thấy phương pháp Thầy dạy tổng quát, mà các con tu hôm nay cũng có lợi ích nho nhỏ, nhưng nó chưa trọn vẹn. Vậy bây giờ các con tu để rốt ráo trọn vẹn là trở về tu Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ. Trên đó con cứ đẩy lui tất cả những chướng ngại pháp bằng pháp Như Lý Tác Ý là pháp Vô Lậu, các con sẽ hoàn toàn Vô Lậu. Nhớ kỹ những điều Thầy dạy. Còn những người mới tu hoặc còn trẻ thì nên gần Thầy, khi nào muốn tu thì con phải được gần bên Thầy. Khi muốn tu Định Niệm Hơi Thở, 18 đề mục đó hoặc Định Vô Lậu hoặc một loại định nào, các con được gần bên Thầy.
(30:37) Trong bốn loại Định của Tứ Chánh Cần thì các con gần bên Thầy để hỏi tỉ mỉ tu tập về phương pháp này, chứ không được tự mình đọc sách mà tu. Nhiều khi nó sai lệch, nó rất là phí. Nhớ kỹ những điều này. Bởi vì chỉ có Thầy, Thầy mới hiểu được những kinh nghiệm trên phương pháp này, có những trí tuệ, mới hiểu biết cách thức để chỉnh lại cho đúng. Còn không mình tưởng ra rồi, mình tu thì sẽ lạc, nó rất khó mấy con.
Cho nên ở đây sau khi ghi nhớ hết rồi mấy con về, những người lớn tuổi chỉ có tu hai pháp Thầy nhắc lại: tu Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ. con hiểu cái danh từ Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ. Thứ hai: Đi Chánh Niệm Tỉnh Giác là đi kinh hành bình thường, không cần tập trung nhiều. Đó là hai phương pháp đi để phá hôn trầm thùy miên, đi đừng cho ngủ thôi, chứ không phải tập trung trên bước đi, chăm chăm không cho vọng tưởng. Cái này đừng có làm như vậy. Mà đi cứ đi, nó nghĩ cái gì cũng được, nó không nghĩ cũng được, để tự do cho nó. Và như vậy các con cứ tự nhiên thì đi kinh hành, thì Thầy thấy bảo đảm không còn sợ hãi khi ở xa Thầy, bất cứ chỗ nào cũng không sợ sai lệch, đó là nhớ kỹ hai pháp.
Còn người trẻ tuổi tu nhiều pháp - Ba mươi bảy phẩm trợ đạo - thì nên được thường xuyên về Thầy, ít ra mấy con gần Thầy cũng được một tháng hoặc ba tháng. Chừng đó Thầy hướng dẫn từng pháp cho nó thông suốt rồi mới trở về chỗ cũ của mình mà tu tập. Chứ nếu mà đọc sách Thầy, tu lỡ có điều gì? Thật ra nói về kinh sách thật ra nó không, nó không trả lời chính xác đâu.
(34:05) Cho nên chúng ta muốn tu về đây một tháng hoặc hai tháng, thường thường về đây một hai người trực tiếp với Thầy. Thầy hướng dẫn rất kỹ, chứ đông đảo như thế này, làm sao hướng dẫn kỹ được. Không có thời giờ để hướng dẫn cho nó hết được, thì như vậy nó cũng đến, mà đông như thế này không thể nào mà hướng dẫn kỹ. Rồi chẳng hạn năm người hoặc mười người có thể hướng dẫn kỹ. Thầy nói rằng sau này Phật giáo được thành lập những lớp học, như tám lớp học, bảy lớp học chỉ cần thu vào đó mười người chứ không được thu hơn. Không phải thu bốn năm chục người vào tu học. Lớp học bốn năm chục người, thì người hướng dẫn họ không đủ sức hướng dẫn. Bởi vì cách thức còn tập luyện, còn phải học hỏi. Còn phải tập luyện, còn phải dọn, còn phải xem lại những hành động tu họ đúng sai trong giờ học lớp Chánh Kiến. Bây giờ những bài học nào, phải dọn bài coi họ có thuộc, có nhớ những điều họ học không? Họ phải thông suốt những điều họ học.
Cho nên họ phải dọn bài như Thầy giáo dọn bài cho học sinh vậy, rồi tu tập, rồi kiểm tra. Cũng như dạy một người học trò mình đánh võ, phải không? Cho nên những hành động tu tập có đúng không, nếu không đúng thì nó sai làm sao. Cũng như một người Thầy dạy võ công thì họ phải coi người đó đánh như thế nào, đúng hay không. Cho nên người ta chỉ dạy có mười người chứ không có dạy đông được. Cho nên người ta hướng dẫn mười người, bảo đảm cho mười người đó sẽ lên từng lớp, và cuối cùng mười người đó sẽ chứng quả A La Hán. Còn nếu mình dạy đông quá thì sẽ không đạt chất lượng cao.
Cho nên ở đây, khi có những lớp học giáo như vậy thì chúng ta chỉ thu với một số rất ít. Nghĩa là mười người học trong một lớp mà thôi, chứ không hơn nữa. Đó là Thầy đã nghĩ ngợi và có sự quyết định như vậy. Bây giờ còn muốn đông hơn nữa thì chờ khóa khác, khóa sau. Chứ không thể khóa này mà nhét vô đó bốn chục người, năm chục người hay một trăm người. Không thể học chung chung được, mà phải kiểm tra chặt chẽ giúp đỡ người tu, bởi vì người ta bỏ công sức của người ta quá lớn, bỏ hết cuộc đời để vào con đường tu này.
(36:18) Chẳng hạn ở xa xôi, mấy con bỏ hết nhà cửa, con cái của mình, mà mình vào đây. Đó là bỏ hết cái điều kiện đó. Đi trên đường phải hao tốn tiền bạc, hao tốn công sức của mấy con nữa, chứ không phải không hao. Nhưng mà đến đây không có lợi ích thì phí uổng quá uổng. Nó phải có lợi ích.
Cho nên trong vấn đề tu tập này phải nghĩ đến công lao, tiền của mấy con, nó rất lớn. Một người thì thấy là ít, nhưng trăm người ngàn người con tính lại coi. Nó hàng tỷ bạc, hàng triệu bạc chứ nó đâu có ít đâu. Cho nên chúng ta phải hiểu được cái điều kiện mà nó hao tốn rất lớn như vậy, thì chúng làm sao phải cho có lợi ích. Và trách nhiệm, bổn phận của người hướng đạo, dẫn đạo như Thầy, phải nghĩ từng chi tiết này, phải nghĩ từng hao tốn này là công sức của con người, là nhiệt tâm tha thiết của họ. Tiền bạc, của cải một ngày họ bỏ, hai ngày họ bỏ. Họ đi như thế này, bao nhiêu công việc họ bỏ ra, rồi tính ra số tiền, họ bỏ ra bao nhiêu thì Thầy tính.
Cho nên Thầy thấy con về đây như vậy, đó là sự hao tốn rất lớn, chứ không phải nhỏ. Đối với Thầy thì quá là vĩ đại, không thể nào một người làm ra số tiền. Như các con tụ tập về đây thì Thầy thấy quá khó chứ không phải dễ. Thì hôm nay do lợi ích của mấy con, Thầy nhắc nhở khi về đây, phải thật sự tu tập chứ không phải về đây nghe chơi. Không phải về đây bỏ công sức để đi, như người đi giải trí xem ca hát cũng đến nghe Thầy, không nghĩa là nghe một người ca hát, bài ca hát để giải trí. Không phải đâu! Chính đem lại cuộc sống của chúng ta có sự giải thoát thật sự, hoàn toàn giải thoát.
(37:59) Cho nên các con nhớ những gì mà Thầy gửi gắm cho mấy con đó, là những phương pháp đó. Nó sẽ giúp mấy con được an ổn. Và cuộc đời mấy con được hạnh phúc là do nhờ những pháp này. Thì nhớ ghi, đừng có sách vở thì viết rất nhiều, nhưng tóm gọn lại để cho hợp với mỗi hoàn cảnh chúng ta tu thì có ít, chứ không có nhiều. Nếu mà nhiều như vậy suốt ngày mình đọc kinh sách hoài, làm sao mà thâu tóm được.
Cho nên các con đừng ham học kinh sách. Nhiều khi mà Thầy giảng rồi thì các con đọc một lượt rồi, các con nắm được chỗ nào, các con tu cái đó mà thôi. Cũng như lời Phật dạy, các con thấy ông Phật giải thích nhiều bài, chứ không phải một bài. Mà trong đó các con thấy mình thích bài nào đem ra cái bài đó mà tu tập. Như đức Phật nói có hai lộ trình: lộ trình thiện và lộ trình ác, và giải thích hai lộ trình đó như thế nào? Chúng ta đã nắm vững, chúng ta tu hai cái này mà thôi.
Đức Phật nói có hai loại bờ bên kia và bờ bên đây. Bài pháp đó nó ngắn gọn như vậy, nhưng mà mình thấy chấp nhận quyết định cuộc đời của mình: sẽ chấp nhận gửi gắm cuộc đời bên kia, không còn ở bên đây nữa. Do đó hằng ngày lúc nào mình nắm cho chặt, dù ác pháp nào có lôi kéo cách gì, mình cũng bám cho chặt bờ bên kia. Đừng có buông tay ra! Vậy là rõ ràng mấy con đã chọn lấy cái pháp - cái pháp rất là cơ bản cho dòng sanh tử. Nếu con đọc mà nghe chơi, đọc để rồi thấy hay, nhưng các con chẳng làm được gì hết. Còn những bài pháp nó dài, nó giải thích từ cái này đến cái kia, coi vậy chứ những bài pháp khó tu lắm mấy con.
(38:26) Thí dụ: Như nó chứa món ăn. Các con thấy bài pháp rất hay nó từ cái này nó đưa đến cái kia, nó từ kết quả nó sẽ đưa đến kết quả cái pháp, bảy món ăn của con đường tu giải thoát, chín món ăn của con đường tu giải thoát. Các con sẽ thấy nó chỉ nói cho chúng ta hiểu ít, nhưng sự thật ra…..(không nghe rõ)
Bây giờ nói pháp đầu tiên để chúng ta gặp Thiện hữu tri thức, thân cận những bậc Hiền Thánh. Chúng ta hiện giờ đi tìm vị đó đâu phải dễ, các con thấy đâu có. Khó! Đâu có phải dễ đâu. Ví dụ như bây giờ chúng ta là người Việt Nam, mà có người ở Ấn Độ, ở bên Mỹ, ở bên Pháp, mà người đó là Thiện hữu tri thức, là một bậc Thánh nhân, là một bậc danh nhân. Thử hỏi mình không có tiền bạc, không có thân nhân của ai ở đó, làm sao mình dám qua bên đó đi tìm? Mà mình có gan đi tìm như vậy được, thì chắc chắn là mình biết bao công sức mồ hôi mới đến đó được. Những người ở xa như vậy mình chắc chắn cũng không đủ duyên mình đến đó.
Thầy nói trong số Phật tử các con mà về đây, hôm nay, là tại Thầy là người Việt Nam, chứ nếu Thầy là người Pháp, người Mỹ ở đâu… các con có gặp được Thầy như thế này được không? Khó lắm phải không? Chỉ có năm, ba người nào đó, họ đủ giàu có tiền bạc nhiều, cho nên họ thuê xe đi đến gặp Thầy.
(41:07) Các con hiểu, trên núi Hy Mã Lạp Sơn, có một vị Tu sĩ, đó là một bậc danh nhân. Nếu con đến thăm vị đó đâu phải dễ mấy con, rất khó. Còn hôm nay Thầy người Việt Nam, những điều Thầy dạy nó là điều chân thật. Cho nên mấy con tìm Thầy thì các con đi qua một, hai ngày đường từ Hà Nội vào đây gặp Thầy. Nhưng mà chuyện xa hơn, khó hơn mấy con có gặp được không? Bây giờ đây là món ăn đầu tiên mà người tu theo đạo Phật: món ăn đầu tiên là gặp những bậc chân nhân, những bậc chơn tu, mấy con tìm khó không? Khó lắm mấy con, đâu phải dễ!
Nên hôm nay duyên của chúng ta có người Việt Nam sống đúng giới hạnh, sống đúng giới luật, không hề vi phạm, đó là luật chơn tu. Mà luật chơn tu này tìm trong đất nước này cũng khó, rồi thế mà bây giờ đã có rồi. Ở trong nước mình, nó dễ dàng, các con đi, các con có xin giấy xuất cảnh, nhập cảnh đâu? Các con đi như đi thăm vậy thôi, không có gì hết.
Cho nên mình thân cận thưa hỏi, rồi mình về, mình tu. Hôm nay các con thân cận được Thầy rồi, đó là cái phước thứ nhất. Thì lúc bấy giờ những phương pháp Thầy dạy, thì căn cứ vào đặc tướng của mỗi người Thầy dạy. Tùy căn cơ và đặc tướng của mỗi người, người ta hướng dẫn. Cho nên Thầy khuyên mấy con, là một bậc Chơn tu, Thầy khuyên mấy con người lớn tuổi hãy tu pháp gì. Người trẻ tuổi hãy thân cận những pháp khó khăn. Những người trẻ tuổi hãy tu tập để chúng ta làm chủ sự sống chết rõ ràng. Còn người già cả thì sức khỏe không còn nữa đâu. Không đủ sức nhập Định để làm chủ sự sống chết, thì các vị đó nên tập những gì cần thiết, để ta không còn tái sanh luân hồi trong kiếp sống này nữa, nghĩa là không trở lại làm người nữa, chỉ một kiếp này mà thôi.
Cho nên gặp những bậc thiện hữu tri thức, người ta biết được những điều này. Người ta hướng dẫn thì mình về cố gắng tu tập đừng phí bỏ. Các con nhớ lời Thầy khuyên, đó là những lời tâm huyết của một vị Thầy, của một người cha dạy cho các đứa con của mình, để các đứa con của mình không còn đau khổ nữa. Có bao giờ một ông cha muốn con mình khổ đau bao giờ. Ông cha bao giờ cũng muốn các con mình không bao giờ khổ đau.
(43:14) Như vậy các con biết lời Thầy nói là một người cha đối với các con, chứ không phải là người Thầy suông đâu mấy con, chứ không phải là Thiện hữu tri thức bình thường đâu. Nhìn trước mắt của Thầy, các con là con của Thầy. Cho nên, Lúc nãy cô Nguyên Hạnh hỏi Thầy, cô Liễu Mai hỏi Thầy, thật sự ra Thầy rất thương cô. Cho nên thấy có sự cực khổ như thế này chắc chắn cũng cho cô gặp Thầy. Bởi vì hoàn cảnh gia đình cô khổ, cho nên cô tu, nó giảm bớt như vậy, mà cô không biết cách thức tu. Cô viết bức thư lộn xộn rồi ở đây mà làm sao Thầy dạy những điều này. Cho nên Thầy rất thương, vậy mà Thầy sẽ gặp cô Thầy hướng dẫn.
Những đứa con, có đứa thông minh, có đứa u tối, có đứa dại dột hơn nữa… thì mình làm cha phải thương hết. Đứa nào cũng phải giúp đỡ hết. Những đứa u tối mà tật nguyền hơn, nó có bất hạnh hơn thì phải thương nó nhiều hơn, giúp đỡ nhiều hơn. Nhưng thương nó nhiều hơn tại vì nó bất hạnh, mình gần gũi hơn, đứa nào cũng như nhau, chứ không phải nói đứa thông minh mình dạy chút nó hiểu rồi thì mình cũng thương, cái tình thương nó bằng nhau nhưng có đứa bất hạnh hơn thì mình gần gũi an ủi nhiều hơn để cho nó được an ủi, chứ không phải thương nó nhiều hơn đâu mấy con. Thương cũng y như nhau, chứ không có khác. Mấy con hiểu điều đó. Cho nên ở đây con biết Thầy xem các con cũng như con của Thầy. Thầy nói cũng như lời cha truyền trao kinh nghiệm của mình để các con mình đừng có khổ. Cũng như Thầy có một gia tài, bây giờ cho các đứa con của mình để các đứa con của mình sống không có thua ai, sống được hạnh phúc, sống được an ổn. Đây là gia tài mà Thầy chia lại cho mấy con. Vậy mà mấy con có giữ gia tài để mà sống đừng có buông bỏ. Mấy con còn anh em, chị em trong một nhà, như con một cha, các con phải thương nhau mấy con.
(45:12)Mặc dù, những tư tưởng của mấy con, đứa tư tưởng này, đứa tư tưởng khác. Đứa này, đứa khác, giống nhau hết đâu? Cho nên các con biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, mà đừng tranh cãi, đừng hơn thua. Cái gì cũng có người cha mấy con. Các con đến, người cha sẽ an ủi mấy con, chứ mấy con đừng nghĩ: "Tui phải vầy. Tui không thưa kiện, tui không thua anh. Tui phải như vầy tui không chịu, tui không bằng lòng.” Cái gì các con cũng bằng lòng, cũng tùy thuận, cũng vui vẻ xả ra hết các con. Mọi chướng ngại gì các con cũng dẹp xuống thì mấy con mới xứng đáng con của Phật.
Chứ mấy con cố chấp như thế này, như thế khác. Nghĩa là nhóm Nguyên Thủy Hà Nội, cũng như nhóm Nguyên Thủy Hải Phòng, cũng như nhóm Nguyên Thủy Phan Rang, cũng như nhóm Nguyên Thủy An Giang… tất cả mọi nhóm đều là con của Thầy. Nói là nhóm chia ra như vậy, chỉ là nhóm Nguyên Thủy mà thôi. Thầy nói từ Nam chí Bắc đều là một nhóm Nguyên Thủy, chứ không có phải hai, ba nhóm nữa. Không không có nhóm này, nhóm kia năm người, ba người, mười người, hai mươi người… mà toàn bộ những người con của Thầy là một nhóm tu học theo Nguyên Thủy sống làm đạo đức, không làm khổ mình không làm khổ người - chỉ duy nhất là một không hai.
HẾT BĂNG
THỌ BÁT QUAN TRAI 05 - HIỂU ĐÚNG ĐỂ XẢ TÂM - TÍN LỰC
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời lượng: [43:40]
(00:00) Trưởng lão: Thầy giảng cho các con biết cái ức chế tâm, chế ngự tâm và an trú tâm, giải thoát cái tâm chúng ta, đó là chế ngự tâm có nghĩa như thế nào, ức chế tâm như thế nào, an trú tâm như thế nào. Đó là những danh từ mấy con, nhưng mà không khéo thì mình không biết, cho nên Thầy thấy những danh từ này, cô hỏi cũng có đúng cái nghĩa để cho mấy con hiểu, bởi vì không khéo thì mình bị ức chế trong cái chế ngự tâm như thế nào, cái an trú tâm là như thế nào.
Ví dụ như đức Phật giảng: "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra.", biết thở ra, biết thở vô tức là là an trú trong hơi thở, các con hiểu không? Mà an tịnh tức là phương pháp tác ý làm cho cái thân của chúng ta an, không còn bệnh đau, không còn đau nhức nữa. An trú tâm để mà đuổi các ác pháp ra khỏi thân tâm của mình. Vậy thì cái an trú có nghĩa như thế nào, để cho mình hiểu, chứ còn mình nghe chữ "An trú" mình biết an trú cách nào đây.
Đó là cách thức để các con hiểu nghĩa cho rõ và câu hỏi như vậy thì Thầy cũng giảng chung để cho mấy con hiểu ức chế tâm là như thế nào. Ức chế tâm là mình cố gắng mình tập trung vào một cái đối tượng. Nghĩa là bây giờ cái hơi thở có nhịp thở của nó, nhưng mình cứ cố nhìn chăm chăm để mình thở cái hơi thở thì đó là mình ức chế, mình ức chế khoảng độ chừng năm hay mười phút thì sẽ thấy nặng đầu hoặc 30 phút. Khi mà ức chế, mà tập trung cao như vậy thì mấy con phải cố gắng hết sức lực của mình để mà vận dụng từng cái hơi thở của mình, nhất là cái người vận dụng hơi thở chầm chậm, chầm chậm, thở ra, thở vô thì sự ức chế rất cao.
Cho nên các con thấy cái pháp mà gọi là, mấy con biết là xả tâm, ly dục ly ác pháp rồi thì mấy con xả tâm, mấy con dùng pháp Thân Hành Niệm không bị ức chế, mà các con chưa xả tâm là mấy con bị ức chế. Bởi vì mỗi cái hành động như thế này mấy con tác ý mấy con bảo: "Cánh tay mặt đưa ra!" thì từ từ con tập trung rất kỹ cánh tay phải con đưa ra từ từ. Con bảo: "Cánh tay mặt đưa vào!" thì từ từ con đưa vào, con tập trung rất kỹ như vậy gọi là ức chế tâm. Cho cái khó khăn về Thân Hành Niệm, người mà ly dục ly ác pháp lúc đưa tay ra là tự nó tập trung trong đó rồi, chứ không phải cố gắng để tập trung, còn hiện giờ mấy con chưa ly dục ly ác pháp mà mấy con phải cố gắng nhìn từng cái hành động đi chậm chậm như thế này đó là ức chế tâm.
(02:25) Cho nên cái pháp Thân Hành Niệm mà người chưa ly dục ly ác pháp mà tập nó sẽ bị phản ứng. Còn chúng ta ly dục ly ác pháp được một nửa rồi hoặc được hai phần rồi thì nó không bị ức chế. Bởi vì khó nên nhiều người mới tu không nên tu pháp này.
Mới tu là cái tâm mình chưa ly dục, mình ăn chưa được, mình ngủ chưa có nghiêm chỉnh được, mình còn bị hôn trầm, thùy miên tức là còn ham ngủ, còn ham ăn, mà giờ mình vào tu pháp Thân Hành Niệm thì khó. Tâm mình còn ác pháp, hễ người ta nói gì nặng là mình tức giận, mình sân lên, mình còn ác pháp, mà còn ác pháp tu pháp Thân Hành Niệm này thì một là mình bị lọt vào tưởng, hai là mình bị phản ứng nó làm mình đau nhức, làm mình đi không được, mình để chân xuống nó khó, nó đau (…).
Cho nên mình phải hiểu cái sự ức chế, ức chế là do tập trung quá cao độ.
Vậy còn chế ngự tâm là như thế nào? Chế ngự tâm có nghĩa là không làm theo tâm. Ví dụ như bây giờ là hai giờ mà tâm nó muốn ăn, muốn ăn cái bánh, muốn ăn trái chuối thì mình quyết định là mình không ăn, mình không ăn tức là mình chế ngự. Giờ này không phải là giờ ngủ, mà nó buồn ngủ, nó gục tới, gục lui rồi, mình nhủ trong đầu là ngủ cho khỏe để lát mình thức dậy mình tu cho tốt, nó luận để cho nó ngủ tức là nó bị dục ngủ, cho nên: “Giờ này không phải giờ mày ngủ, nhất định tao không cho mày ngủ. Mày phải dậy đi kinh hành! Dậy đi Chánh Niệm Tỉnh Giác!”, do đó mình cứ đi tới, đi lui vậy đó, đó là mình chế ngự cái tâm của mình, không có làm theo nó. Mình ly cái dục, gọi là chế ngự.
Chẳng hạn bây giờ cái tâm mình thấy đống rác kia dơ, mà giờ này đang ngồi thiền, mình nghĩ ra quét rồi vô ngồi thiền cũng được, do đó mình mới nói: “Mày khởi cái tâm mày muốn quét rác, thì tức là còn dục, vì giờ này là giờ tu chứ đâu phải giờ quét rác”. Vì vậy mình ngăn chặn không cho nó làm cái này, không cho nó đi hốt rác, đó là mình chế ngự cái tâm của mình. Các con hiểu chế ngự chưa? Chứ không phải là mình ngồi mình biết hơi thở ra vô là chế ngự.
(4:30) Còn bây giờ nói về an trú tâm, cái an trú tâm là mình phải hiểu là như thế này, bây giờ bình thường trong tâm con không có gì hết mà con ngồi nhiếp tâm thở vô, thở ra. Thở ra, thở vô con tập trung không có vọng tưởng là con bị ức chế tâm, con hiểu không?
Ví dụ bây giờ con đau bụng quá, nhức đầu quá, bây giờ tôi sẽ an trú trong cái hơi thở tức là tôi sẽ cố gắng tôi tập trung trong hơi thở, giống như mình ức chế tâm đó mấy con. Nhưng khi mình bị đau, nếu mình không cố gắng tập trung trong hơi thở thì mình cứ thấy đau thì sao? Cho nên mình ráng nương tựa hơi thở, mình nhiếp hơi thở để tác ý: "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra.", tức là mình bắt buộc tâm của mình phải trú vào trong hơi thở, mà nó làm cho cái thân hết đau. Vậy là an trú tâm là khi có đối tượng làm cho tâm chúng ta đau khổ hoặc là tâm chúng ta phiền não, khi đó chúng ta trú vào hơi thở hoặc bước đi thì gọi là an trú. An trú để cho thân tâm mình nó an ổn.
Còn giờ thân tâm tôi nó có bệnh đau gì đâu mà tôi an trú, tôi an trú kiểu này là bị ức chế tâm tôi không, các con hiểu chữ an trú đó chưa? Không khéo các con chưa biết, rồi lúc nào tôi cũng an trú trong hơi thở hết, không ngờ là mình ức chế tâm mình, tu riết nhức đầu, tu riết nó làm thần kinh nó điên, tu riết lọt vào Không Tưởng. Đó là do các con hiểu sai nên mình tu sai, mà hiểu đúng là mình tu đúng.
Bởi vì nói an trú là mình biết cái thân mình đang đau hoặc thân đang phiền não, lo lắng, cho nên mình trú để cho nó an, gọi là an trú, cho nó được an (..) Cho nên vì vậy mình biết khi nào cái thân có đau, mà bây giờ tôi phải trú cái thân tôi để cho cái thân tôi hết đau, thì như vậy gọi là an trú. Cái tâm tôi có phiền não, cứ giận hờn suốt, bây giờ làm sao đây? Bây giờ tôi phải an trú trong hơi thở rồi tác ý để cho nó an ổn, kìm hãm nó như vậy gọi là an trú.
Còn bây giờ thân tôi an, tâm tôi cũng an, mà giờ tôi trú làm chi nữa? Bây giờ tôi trú trong cái an này là thanh thản, an lạc, vô sự không có sướng hay sao mà bây giờ tôi phải nhiếp vô hơi thở làm chi đây? Tôi điên hay sao mà ôm cho chặt, nhiếp cho mệt, bộ ngồi nhiếp tâm trong hơi thở không mệt sao, ngồi chơi không sướng sao? Khi mà ngồi chơi thanh thản, an lạc, vô sự, thân tâm mình có gì đâu. Cho nên do đó tôi tu Tứ Niệm Xứ.
(6:55) Tứ Niệm Xứ là tôi ngồi, khi nó có thì tôi an trú, tôi đẩy, mà không có thì tôi ngồi trong tâm thanh thản thôi. Như vậy là rõ ràng tôi có pháp thật sự, pháp nào tôi cũng có hết. Đó mấy con thấy có đúng không? Đây là những danh từ mà người ta không hiểu, mà người ta sai. Không biết mà cứ như người bình thường là tôi cứ hít thở, hít thở để mà an trú trong hơi thở. Rõ ràng là mình trú trong hơi thở thật, nhưng mà thân tôi không có đau, mạnh giỏi, bình yên thì tu an trú làm chi. Tôi đang an rồi mà tôi còn trú chi nữa, để nó ở trong cái an không sướng sao mà tôi còn trú. Hiểu như vậy các con mới biết con đường tu của Phật nó hay, nó hay là cái chỗ mà chúng ta thấy nó có chướng ngại thì chúng ta mới an trú.
Còn không chướng ngại mà ở trong cái tâm của chúng ta ham muốn cái này cái kia thì đây là chế ngự, nghe không? Còn bây giờ mình tu tập một cái gì khác thì cũng bị ức chế hết. Phải không các con?
Nhưng mà trước khi mà muốn để cho mình tỉnh táo, để khi từng cái ác, cái thiện đến, để cho mình hiểu biết thì mình phải tập Chánh Niệm Tỉnh Giác. Cho nên khi mà đi kinh hành mà Chánh Niệm Tỉnh Giác, các con đi như người đi vô sự, khi mình đi mà mình thấy mình biết mình đi, thấy cái tâm mình gom trong bước mình đi thì mình ngó ra cho nó được tự nhiên hơn, chứ cứ nhìn chăm chăm cái bước đi thì bị ức chế rồi làm sao.
(08:11) Cho nên rốt cục, mấy con tu bị sai hết rồi mà mấy con không biết. Cứ nghĩ tu làm sao để cho đừng vọng tưởng, đi làm sao mà từ đây tới kia mà hai mươi bước, ba mươi bước mà không có vọng tưởng thì nó tốt chứ gì? Không tốt mấy con. Có vọng tưởng càng nhiều càng tốt đó. Tại sao vậy? Nó có vọng tưởng nhiều mình mới có cách thức mình ly, mình mới hiểu được cái tâm để mình ly, nên đức Phật mới nói, ngồi đó mà suy nghiệm lại tâm của mình, nếu có công đức nào thì giấu không cho ai biết, mà nó có những lỗi lầm nào thì nói ra để sửa những lỗi lầm đó.
Khi mình ngồi lại một mình, mình thấy niệm này niệm kia, mình thấy được những lỗi lầm của mình trong mỗi cái niệm đó mấy con. Thấy nó còn tham ăn, tham ngủ, tham tiền, tham bạc, tham này kia không? Mà nó tham nhiều thì mình biết nó có lỗi lầm chứ gì. Phải không mấy con? Ngồi chơi chứ bây giờ mình tu mà không còn suy nghĩ, thì tu thành cây, thành đá rồi mấy con. Phải để cho nó nghĩ chứ, nhưng suy nghĩ đó là suy nghĩ biết cái niệm này là niệm thiện, cái niệm này là niệm ác, cái niệm này sẽ lỗi lầm. Tôi ngồi đây tôi suy nghĩ từng cái tâm niệm của tôi, từng cái thân, thọ của tôi nó sẽ có cái quả gì, nó đau cái chân, nó nhức cái đầu hoặc nó ngồi nó mỏi, nó mệt, nó đau cái lưng, tôi biết từng cái quả đó để mà tôi tìm cách tôi đẩy lui nó ra, tôi đem lại sự an bình cho thân và tâm tôi. Tôi đem lại sự an bình cho thân và tâm tôi thì đó chính là giải thoát chứ gì.
Cho nên đức Phật mới dạy: "Ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện", chứ đâu có dạy tôi tụng kinh, niệm Phật, đâu có dạy tôi ngồi thiền. Mà chính cái tâm ly dục ly ác pháp nó là cái tâm thiền, nó là tâm bất động. Khi tâm nó ly dục ly ác pháp, nó bất động, thì nó sẽ có bảy năng lực của Giác Chi, không phải là pháp Giác Chi, mà là năng lực của Giác Chi. Cho nên lúc bấy giờ tôi muốn nhập định nào tôi dùng cái năng lực đó tôi nhập các định. Cho nên trong Bát Chánh Đạo, quý Phật tử thấy rõ ràng trong tám lớp tu tập, lớp Chánh Định là lớp cuối cùng, lớp Chánh Định không có khó khăn.
Bởi vì, tám lớp này thì bảy lớp đều tu ở trên Giới, tức là tu trên Tứ Niệm Xứ - thân, thọ, tâm của nó. Mà Tứ Niệm Xứ sung mãn, thanh bình rồi tức là nó ly dục ly ác pháp rồi, thì nó đủ lực để chúng ta nhập được bốn định, hay là Chánh Định - bốn thiền.
(10:26) Khi nhập bốn định rồi, thì ở trong bốn định này tôi sẽ thực hiện Tam Minh, tức là tôi nhìn lại Lậu Tận Minh, hoàn toàn cái mầm mà tái sanh luân hồi, mình sẽ thấy rõ ràng, và không còn mầm tái sanh nữa. Tôi biết tôi chỉ còn một đời này và không còn nhân tái sanh nữa. Tôi biết rất rõ bởi vì Lậu Tận Minh làm cho tôi biết rất rõ cái nguyên nhân mà tôi còn tái sanh hay không.
Cho nên quý Phật tử ở đây tu tập, mình biết mình hơn ai hết, mình còn tham mình biết tham, mình còn sân mình biết sân, mình còn tham ngủ mình biết còn tham ngủ, còn tham ăn thì biết còn tham ăn. Khi mình biết mình còn như vậy thì mình ngăn, mình diệt nó đi thì lần lượt nó cũng hết. Bữa nay nó bớt một chút, ngày mai nó bớt một chút, bữa nay mình cố gắng bớt một chút, không cho nó sống phi thời, ngày mai mình bớt sống phi thời một chút. Tuần sau từ từ nó hết, nó không thèm ăn, thèm uống, đến giờ nó ăn rất ngon mà rất tự nhiên không còn thèm khát một cái gì nữa hết.
Đó là mình thuần hóa được tâm của mình, tức là mình đã ly dục. Về vấn đề tu tập là như vậy.
(11:30) Hỏi: Bây giờ về câu hỏi thứ hai, con hỏi Thầy trong những phương pháp tu tập con thay đổi như vậy có tốt không, linh động như vậy có tốt không? Ví dụ như hai giờ này con sẽ tu Định Niệm Hơi Thở, con hít vô, thở ra mà giờ con ngồi xuống con thấy buồn ngủ, thì con thay đổi, con đứng dậy con đi Thân Hành Niệm hoặc Chánh Niệm tỉnh giác.
Trưởng lão: Con linh động như vậy là rất tốt, đó là mình thiện xảo khéo léo, chứ không phải cố chấp giờ này ngồi hít thở là tôi phải hít thở, buồn ngủ mà cũng ráng ngồi, không đúng đâu mấy con. Đạo Phật dạy chúng ta linh động, thiện xảo, khéo léo từng pháp môn. Khi mình có bệnh mình phải tu pháp gì, khi mình không bệnh mình phải tu pháp gì, chứ không phải là lúc nào cũng cố chấp giờ này là phải đi kinh hành, giờ kia là phải Thân Hành Niệm, giờ nọ tôi phải tu Định Niệm Hơi Thở. Như vậy là mấy con đã bị cố chấp. Mấy con phải khéo léo, linh động, tùy vào thời thiết, từng đặc tướng để thực hiện những pháp này thì mới hiệu quả.
(12:56) Hỏi: Nghe đồn có một vị Phật sống đó cho nên có một người bị bệnh đau chân đến đó để cầu cái vị Phật sống đó, đây là bức thơ của cô viết chung với cái cô Vương Thị Thông, khi mà đến cầu, đến lễ, cái vị Phật sống đó mới bảo rằng, cứ về tập rồi sẽ hết, không có sao đâu.
Quả thật vài tháng sau thì cái đau chân của cô này hết, Cho nên cái cô này mới hỏi Thầy là cái hiện tượng này là như thế nào? Xin Thầy giải thích rõ!
Trưởng lão: Thì ở đây, khi mọi người đồn, nghe về một vị Phật sống, tức là từ đó nó trở về cái lòng tin của cái người đó. Nếu người đó không có lòng tin thì cái bệnh này sẽ không bao giờ hết.
Bởi vì Thầy nói, Tín Lực là lòng tin của chúng ta. Nếu chúng ta không tin thì không bao giờ hết đâu. Do vị này có lòng tin cho nên khi nghe vị Phật sống này, ông ta phán như vậy rồi thì cái người bệnh này lạy, lễ cái vị đó. Rất tin ở trong tâm của mình nên về cứ cố gắng tập dần thành ra cuối cùng vài ba tháng sau cái bệnh nó không còn. Rồi cho rằng đó là nhờ cái vị Phật đó cứu mình, nhưng không phải mà chính nhờ cái tín lực của mình nó cứu mình, mình tin vào cái lời nói đó sẽ giúp mình.
(14:24) Cũng như Thầy dạy các con phương pháp Như Lý Tác Ý, các con có tin rằng các con sẽ dùng nó để đẩy lui được bệnh khổ của các con không? Giống như pháp Phật dạy: "An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành, tôi biết tôi thở ra.", nếu mấy con có lòng tin, do lòng tin đó mà các con ôm chặt pháp này mà tác ý thì bệnh các con sẽ hết thôi.
Còn nếu mấy con mà không có lòng tin thì như thế nào? Mấy con cũng tác ý năm mười lần, hoặc là một phút, hai phút, một giờ xong mấy con thấy còn bệnh đau hoài, thôi bỏ không làm nữa, đi uống thuốc, như vậy thì lòng tin mấy con có không? Lòng tin có, nhất định là dù chết người ta cũng không bỏ cái pháp đó. Vì người ta tin pháp đó sẽ hết bệnh nên người ta không bỏ. Cho nên người ta tác ý một giờ chưa hết, thì hai giờ, rồi tăng lên 1 ngày, 2 ngày cho đến cuối cùng khi bệnh hết thì thôi.
Thầy nói thì tụi con nghe thấy thời gian dài vậy thôi, chứ thật sự, nếu các con có lòng tin, lòng tin thật sự vào pháp, thì tụi con tác ý vài ba câu là đã hết rồi. Chỉ có lòng tin chưa đủ thì tác ý nó kéo dài thôi. Bởi vậy Thầy nói cái tín lực của chúng ta mạnh ghê lắm, cái tinh thần của chúng ta ghê gớm lắm. Chỉ vì chúng ta không ngờ rằng trong cái thân, cái thân quá bất tịnh, hôi thối này mà lại có một cái lực vô cùng vĩ đại trong đó chứ không phải thường. Cho nên nhiều khi chúng ta thấy các nhà võ học, yoga, nhân điện, pháp sư, nhiều cái mình thấy mình không có ngờ được, có những cái gì đặc biệt ở trong đó.
Nhưng mà sự thật ở đây đức Phật dạy chúng ta để từ cái ý thức mà rèn luyện thành cái lực, cái lực này giúp ly tham, ly sân, ly si, từ đó mà cái nghiệp của chúng ta nó chuyển, cái lực đó rất mạnh, nó làm cho tất cả đau khổ của kiếp người nó chuyển hết không còn đau khổ nữa.
(16:06) Chứ không phải là chúng ta bị nhân quả, chịu đựng nhân quả, phải chịu số phận của nhân quả. Không phải đâu mấy con. Nhân quả luôn luôn thay đổi, cho nên thân của chúng ta là thân nhân quả, từ bé cho đến lớn chúng ta vẫn luôn vô thường, thay đổi. Vì thế nhân quả không phải là cố định, nó thay đổi theo quy luật của nó. Cho nên vì vậy đức Phật biết rõ là nhân quả phải thay đổi, nên mới dùng pháp để chuyển hóa nó, làm cho nó không còn nữa. Nếu nó cố định và không thay đổi, thì đạo Phật không ra đời. Nhất định Phật dạy chúng ta phải có Như Lý Tác Ý.
Hôm nay Thầy trả lời câu hỏi của mấy con là để nhấn mạnh tín lực rất quan trọng, và cũng nhằm khích lệ mấy con tin vào pháp của Phật dạy: "Ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện.". Và những đề mục trong phần Định Niệm Hơi Thở là rất quan trọng vì nó trang bị cho chúng ta những phương pháp để chúng ta đẩy lui tất cả các ác pháp trong thân tâm chúng ta.
Như thân chúng ta có sân, thì đức Phật có dạy cái bài pháp để đối trị sân: "Quán ly sân, tôi biết tôi hít vô. Quán ly sân, tôi biết tôi thở ra.". Rõ ràng chúng ta nương vào hơi thở mà tác ý như vậy, thì cái tâm mà đang sân ầm ầm sẽ bắt đầu nó hạ xuống liền và diệt ngay liền, chứ không còn trong tâm chúng ta đâu. Nếu chúng ta tin tưởng thì ngay đó chúng ta sẽ đạt những thành quả liền. Các con thấy đó, niềm tin rất vĩ đại, chứ không thường đâu, nó rất là cao quý, chỉ có lòng tin mới giúp chúng ta mới có sự liên tục, tiếp tục mà chúng ta tu tập.
Ví dụ như thầy Chơn Thành về đây tu tập, do có lòng tin nơi Thầy, nên khi thầy Chơn Thành bị bệnh đau, dùng pháp tác ý trong một giờ chưa đuổi được, thì tiếp tục trong hai giờ, trong ba giờ thầy vẫn đuổi đi hết, nó không còn đau nữa. Thật sự ra nếu người nào nhát gan chắc chắn người ta không đủ niềm tin, sẽ bỏ cuộc. Trái lại bây giờ nếu thầy Chơn Thành bị đau thì chỉ cần tác ý 1 tích tắc là hết liền. Tại sao vậy, cái lòng tin bây giờ đã thành cái lực rồi, nên nó không kéo dài nữa. Nên các con thấy, do cái niềm tin mà nó xác định được thời gian chúng ta có chịu đựng nỗi thống khổ, hay cái thân bệnh của chúng ta hay không. Mấy con xác định như vậy để thấy rằng cái kết quả giữa các huynh đệ tu tập chung ở đây, không chỉ riêng Thầy, mà còn có những người khác cũng làm chủ được đau bệnh.
(18:22) Và đồng thời những cái bệnh nhẹ nhẹ thì bây giờ mấy con có sức có thể đẩy lui nó, nhưng bệnh nặng thì chưa được, là do cái sức cái lực của tụi con chưa đủ, cần phải tu tập cao hơn nữa. Chứ mấy con ở chỗ này chưa đủ, nên chỉ mới đẩy lui được những cái bệnh sơ sơ, chứ bệnh nặng là chưa được, nên các con phải luyện tập nhiều hơn.
(18:45) Hỏi: Nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. Con không hiểu nhẫn nhục là như thế nào? Tùy thuận là như thế nào? Bằng lòng là như thế nào?
Trưởng lão: Thường thường họ nói nhẫn nại, còn ở đây Thầy lại nói là nhẫn nhục. Nhẫn nhục là gì? Nhẫn là mình chịu đựng, chấp nhận một điều gì đó, nhục là mình chịu nhục trên việc đó. Ví dụ như người ta chửi mình là chó, hay mạ nhục mình, nhưng mình chấp nhận trên vấn đề đó: lời mắng chửi, lăng mạ mà không phản ứng, ai nói gì mặc họ, mình không nói tới, nói lui, thì đó là chấp nhận nhẫn nhục.
Nhưng nhẫn nhục ở đây mà còn tùy thuận và bằng lòng, tạo thành 1 cụm từ. Nhẫn nhục rồi nhưng không thể kéo dài được mãi như vậy, vì mình không thể chịu đựng được, nó sẽ sanh phiền não đau khổ trong thân tâm mình. Khi nhẫn nhục được rồi thì mình sẽ tùy thuận, vậy tùy thuận có nghĩa là gì? Tùy thuận là mình thuận theo, mình chấp nhận hoàn cảnh, ý đó, lời nói đó mà không buồn rầu, cho nên mình tùy thuận.
(20:08) Chẳng hạn bây giờ người ta mời mình uống rượu, mình tùy thuận theo họ, mình vẫn nhận ly rượu, nhưng mình không bị lôi cuốn vào ác pháp, tức là mình không kê ly rượu lên mà uống, mình chỉ nhận lòng tốt của người ta, mình nhận ly rượu rồi mình để xuống. Mình nhẫn nhục là vì mình là người không uống rượu mà họ lại mời rượu mình, đó là họ đang muốn làm nhục mình. Vì mình biết nhẫn nên mình không tức giận họ, sau đó mình tùy thuận, nên mình nhận ly rượu của họ nhưng mình nhất định không bị cuốn vào ác pháp, mình không uống.
Bấy giờ họ hỏi sao mình không uống, thì mình nói tôi không quen uống nên tôi không uống, tôi chỉ nhận lòng tốt của anh, tới đây là tôi xin dừng, tôi không thể tùy thuận hơn được nữa. Nếu đến đây mà còn bị bắt ép thì phải nói thẳng nói thật, tôi uống rượu là hại thân tôi, ngày nay chưa ghiền nhưng mai sẽ ghiền, rồi sẽ có bệnh đau, tôi không dại gì tôi mang đau khổ vào thân.
Cho nên chữ tùy thuận có nghĩa là thuận theo, làm theo nhưng có mức độ chứ không phải là làm theo ác pháp. Người ta bảo mình đi đánh lộn thì mình nhất định không làm, anh muốn đánh lộn thì anh đánh, tôi tùy thuận không cản anh, nhưng tôi không làm theo anh đánh lộn. Nếu mình cản người ta thì đó là mình không tùy thuận. Mình tùy thuận là mình biết, mình có cản cũng không được nên mình tùy thuận, không có cản người ta, nhưng mình không làm theo họ, xách cái cây đi đánh lộn với họ.
Cho nên trong những phương pháp tu tập tùy thuận này… Hoàn cảnh gia đình mình chưa có ai ăn chay hay ăn một bữa, mà mình muốn ăn chay, ăn ngày một bữa, do đó mình không tùy thuận cho nên làm gia đình mình tan nát. Bởi vì chồng sẽ ăn một nia, con một nia, vợ một nia. Mình ăn chay, họ ăn mặn nên nếu họ lại gần mình ăn không được, làm như mình chê đồ ăn của người ta, người ta mới tức. Từ chỗ đó mà mình thiếu nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng.
(22:17) Mình nhẫn nhục là trước cái mâm cơm thịt cá ê hề, nó gợi cái dục của mình, gợi lòng tham trong mình, nhưng mình vẫn nhẫn nhục chịu đựng sự thèm khát của mình, để mình chỉ dùng chén cơm rau. Ngồi ăn với cả gia đình, vui vẻ không tách lìa với gia đình, để cùng chia sẻ từng cái đau khổ với họ trong khi họ chưa hiểu. Do đó mình biết như vậy nên mình tạo được cảnh yên ấm, vui vẻ, luôn phục vụ gia đình mình.
Ví dụ như bây giờ mình ăn chay nên ai mua cá thịt về, mình nói, ai làm thì làm chứ tôi không làm đâu. Như vậy gia đình mình sẽ tan nát, mình vui vẻ mình làm tất cả cho gia đình nhưng nhất định mình không ăn. Bởi mình khởi sự lòng thương yêu chúng sanh nên không nỡ nhai miếng thịt, nên không ăn, nhưng vẫn phục vụ gia đình. Nhưng từ cái hành động, mình quyết định như vậy mà làm cho gia đình trở về ăn chay với mình mà gia đình rất là vui vẻ
Còn mình ăn chay, ăn ngọ nên mình ngồi riêng ăn, mấy người muốn ăn mặn ngồi chỗ khác, xem như mấy người là chúng sanh còn tôi là Phật. Thiếu điều bắt người khác đem mình lên bàn thờ ngồi, thì đó là mình quá ích kỉ, nhỏ mọn, chỉ biết lo cho mình mà không biết nghĩ cho gia đình, con cái. Cả một chùm nhân quả của mình đang đau khổ mà mình không lo giúp họ, chỉ biết có mình à, mình lo tu thôi à. Đến giờ thọ Bát Quan Trai thì mình bỏ đi thọ một mình, để sau này mình thành Phật, còn mọi người ở địa ngục ráng chịu, rõ ràng là mình bỏ vợ, bỏ con không cần biết việc ở nhà như thế nào, mình chỉ lo việc cá nhân của mình thôi, đó là không đúng. Mình phải biết hòa hợp nhưng không bị lôi cuốn mấy con.
Cho nên những cái đức nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng mà Thầy đã nói trong Thiền căn bản, Thầy đã nêu những cái hạnh mà mấy con sẽ làm, tức là không làm khổ mình, khổ người. Cho nên mình không chấp nhận điều gì gọi là ác pháp, thì mình phải làm điều gì cho người ta thỏa mãn, vui vẻ.
(24:15) Ví dụ như bây giờ người ta mắng chửi gì mình mình vẫn vui vẻ. Ở đây cô Liên Hạnh có trình bày với Thầy, nhất định là cô chấm dứt cái vấn đề sắc dục. Cho nên đối với chồng, ông chồng tức giận, kiếm chuyện này chuyện kia rầy rà, ông mắng. Cứ vui vẻ, ông quăng cái này thì mình vui vẻ lượm lên, mình lo cơm nước cho ông đầy đủ, phục vụ vừa đủ bàn, đủ ghế, giặt quần, giặt áo, lo lắng cho ông đầy đủ hết. Duy chỉ có điều kiện mình nói không được là không được.
Thì ông chồng ông lại thấy sao bà vợ cái gì cũng làm hết, cũng tốt hết mà duy chỉ có việc đó là không được. Còn ngày xưa cái gì cũng được hết nhưng nhiều khi bả bỏ nhà đi chơi, không lo gì hết. Còn bây giờ bả lo mọi thứ trong gia đình, con cái lo đủ hết, có cái điều kiện là không chấp nhận. Thế là ông chồng ông quá quá phục, ông thấy bà vợ là Thánh, tiên rồi chứ không còn là phàm phu.
Nên mấy con thấy khi mình tu Phật pháp là mình phải thiện xảo và khéo léo, biết áp dụng đạo đức, biết cái đó là ác pháp sẽ đưa mình vào địa ngục, nhất định là mình phải ngăn và diệt. Mình phải có can đảm, chứ nếu mà mình yếu đuối thì không thể nào thắng được mình. Chính vì mình không thắng được mình, nên mình mới bị lôi vào vòng ác pháp.
Đó là Thầy giải thích chuỗi những cái chữ nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. Nếu Thầy không giải thích thì mấy con không hiểu, nghe thì biết nhưng vẫn coi thường nó, vậy chứ nó rất khó mấy con.
Nhẫn nhục, tùy thuận, nhẫn nhục là một điều khó mà đức Phật nói, nhẫn một việc khó nhẫn là một việc làm khó làm, chứ không phải dễ, cho nên ở đây nhẫn nhục không phải dễ. Tùy thuận mà không bị lôi cuốn cũng không phải dễ. Coi vậy chứ khi áp dụng vào đời sống của chúng ta, cay đắng lắm mấy con, nên đức Phật mới nói: "Gánh nặng của thiện pháp", thiện pháp nặng chứ không phải nhẹ đâu, nặng hơn là ác pháp. Như bây giờ muốn ăn là dễ đó, ác pháp đó, mình muốn mắng chửi người ta là dễ đó. Chứ mình không chửi người là khó đó, mình nhất định không ăn phi thời là khó đó, không ngủ phi thời là khó đó, cái chuyện đó là gánh nặng.
(26:11) Cho nên đức Phật dùng cái danh từ "Gánh nặng" Thầy đọc trong Kinh, Thầy thấy sao ông Phật hay quá ta, dám nói: "Gánh nặng thiện pháp". Thật đúng là ăn ngày một bữa là gánh nặng thiện pháp chứ, ai cũng ăn mà bắt mình không thèm, mình không cho nó ăn là gánh nặng chứ đâu phải nhẹ. Cho nên mấy con thấy vấn đề đối với thiện pháp không phải chuyện dễ làm, nó rất khó làm, cho nên chúng ta khi mà đi vào con đường học Phật, chúng ta phải thấy thiện pháp là một gánh nặng cho chúng ta, cho nên chúng ta chấp nhận được, chúng ta tự nguyện chấp nhận chứ không ai bắt buộc.
Cho nên Thầy nói giới cấm của đạo Phật không phải là của Phật, mà là do các tổ viết ra để cấm. Còn đạo Phật là tự nguyện đến thì ai còn cấm mình. Tôi tự nguyện đến tôi sống, tôi tự nguyện ăn chay. Phật làm sao mình làm như vậy, Phật không sân thì tôi nhất định không sân. Phật ăn một bữa thì tôi nhất định ăn một bữa. Cho nên không ai cám dỗ tôi được hết, tôi tự nguyện mà, đâu phải vì giới luật cấm mà tôi phải ăn một bữa đâu.
Còn bây giờ mấy con thấy giới cấm là không ăn phi thời, thế là thọ Bát Quan Trai thì không ăn phi thời, còn qua mấy ngày đó thì ăn uống phi thời. Có nghĩa là ngày thường thì ăn ba bốn bữa cho thỏa, vì không bị giới cấm, đến ngày thọ Bát Quan Trai là thọ giới nên phải ăn uống đúng, vậy có nghĩa là do mình bị cấm nên mình mới không ăn uống phi thời, vậy là mình bị ức chế.
Còn mấy con tự nguyện đến đây để sống một đời sống giải thoát, cho nên đạo Phật là đạo tự giác, tự nguyện chứ không ai bắt buộc ai.
Cho nên giới cấm chỉ là thừa, vì có cấm ai được đâu, người ta tự nguyện đến, người ta sống không được thì người ta cứ về, chứ có ai bắt người ta ở đây đâu? Cho nên mấy con thấy người tu sĩ như Thầy, tự nguyện sống trong giới luật, mà thấy sống không được thì tự động Thầy ra, chứ ai bắt buộc Thầy mang cái áo này ở đó mà ăn uống phi thời. Hễ người ta cứ ăn uống phi thời rồi cho mình là thầy chùa, cho mình là người tu thì Thầy nghĩ như thế nào, Phật đâu có bắt mình ở đây mà ăn uống phi thời. Đó là những điều không đúng mấy con.
(28:07) Cho nên vì vậy mà theo Thầy thiết nghĩ giới luật của Phật là giới cấm là… Sau này các con sẽ đọc trong bộ Giới Đức Thánh Tăng, thì Thầy sẽ xác định cho mấy con biết cái bộ Giới mà cấm nó có 10 giới Sa di, có 250 giới Tỳ Kheo và bên Ni có 348 giới. Đó là Giới cấm.
Còn cái Giới hành của nó thì tất cả các pháp mà Phật đã dạy cho mấy con, đó gọi là Giới hành. Cho nên đó là cái hạnh, đức hạnh của người tu gọi là Giới hành. Ở đây chúng ta, những giới này, chúng ta tự nguyện tu. Chúng ta tự nguyện không ăn phi thời nên chúng ta ngăn chặn không cho nó ăn phi thời. Chứ không phải chúng ta sợ giới cấm chúng ta. Cho nên các con thường thấy pháp luật đặt ra, ai vi phạm thì bị ở tù, bị bắt, nhưng người ta vẫn phạm pháp. Còn ở đây chúng tôi tự nguyện thực hành, không không có vi phạm, nó khác.
Cho nên ở đây, muốn thực hiện mà không phạm pháp thì phải có đạo đức dạy người ta trên cái pháp luật đó thì người ta sẽ không phạm pháp. Cho nên Thầy không dạy, vì đưa ra pháp luật thì người ta phạm hết, bị phạm thì sẽ ở tù. Cho nên đất nước chúng ta thường có những người tù vì phạm những tội hình sự này: trộm cắp, tham lam, xì ke, ma túy, mại dâm … đủ các loại tội. Do chúng ta không giáo dục đạo đức mà người ta không tự giác, tự nguyện tuân thủ pháp luật, bởi vì pháp luật là hình thức phạt vạ.
Còn việc tự nguyện để giữ gìn pháp luật đó tức là giữ gìn cái đạo đức đó thì chúng ta phải có bài học, phải có nơi để học đạo đức. Cho nên ở đây, theo Thầy thiết nghĩ xã hội chúng ta đang thiếu đạo đức và những nơi học đạo đức. Còn pháp luật thì chúng ta có rồi, nước nào cũng có pháp luật, nhưng pháp luật nó không đủ để làm cho con người trở thành có đạo đức hoàn toàn.
(30:06) Hỏi: Ở đây bức thơ này hỏi Thầy về vấn đề báo hiếu khi cha mẹ mình mất rồi.
Trưởng lão: Thầy trả lời chung cho mấy con thấy, khi mất rồi thì người này đã tái sanh, tiếp tục cái nhân quả mà tái sanh, không còn để mà cầu siêu, cầu an. Mà chỉ còn có cách là xin ấn tống những kinh sách đạo đức, kinh sách thiện hoặc là kinh sách nhân quả. Kinh sách dạy đạo đức như Thập thiện, Tứ vô lượng tâm, Đạo đức làm người. Mình ấn tống những kinh sách đó, nó sẽ ban rải ra khắp cùng, do đó cha mẹ mình sanh ra, mình ước nguyện cho cha mẹ mình sẽ gặp được chánh pháp. Hiện giờ cha mẹ mình thành ra một đứa bé còn đang ở trong bụng, nếu mà mới chết, nếu chết cách đây 3-4 năm thì là đứa bé 3-4 tuổi rồi. Do kinh sách này được phổ biến khắp cùng thì chắc chắn những kinh sách này, do lòng thương cha mẹ mình, sẽ đến tay cha mẹ mình là những đứa trẻ đó.
Cho nên muốn thực hiện lòng hiếu thảo thì mình, tùy theo mình mua 1 cuốn, 2 chục hay 3 chục hoặc là mình đến mình xin ấn tống 2 cuốn hay ba cuốn. Mình bỏ 1 ngàn, 2 ngàn, 5 ngàn, 10 ngàn, 1 trăm, cái lòng của mình, hoặc là mình bỏ ra 1 ngàn đồng mình xin ấn tống. Mặc dù mình chưa đủ để xin in 20 cuốn kinh nhưng: “Xin Thầy cho con gửi 1 ngàn đồng để phụ giúp việc ấn tống kinh sách để làm lợi ích cho chúng sanh, trong đó có ba con, đã chết 3-4 năm nay, hay mới 3-4 tháng. Mong Thầy chứng minh cho con”, thì cái vị Thầy sẽ nhận số tiền ấn tống kinh này. Trong lúc này những kinh sách này được phổ biến ra cho mọi người, sẽ đến tay đứa trẻ, khi nó lớn lên nó học, nó hiểu, nó có duyên đọc những kinh sách đó. Nó đâu có mất mát đi đâu hết.
(32:11) Vả lại kinh sách này dạy, đem lại hạnh phúc cho con người, làm cho con người không có ác pháp nữa. Có lợi ích khi cha mẹ của đứa bé này được đọc những sách này thì sẽ không làm những việc ác, nó được nuôi lớn trong môi trường mà gia đình của nó không làm điều ác thì sẽ trở thành con người tốt. Và đồng thời nó, từ cái duyên mà người cho ước nguyện ấn tống kinh như vậy, cái nhân quả của cha mẹ mình khi tái sanh, đủ cái duyên đó nên tu tốt hơn nữa, không còn có gia đình, được vào môi trường tu tốt.
Trong khi đó cái pháp Thập thiện, cái đạo đức của đạo Phật được phổ biến thì hầu hết là trong cái môi trường sống có nhiều bậc Alahán. Vì khi cái thiện được phổ biến thì có những bậc chân tu, do đó cha mẹ mình vừa mới được 10 tuổi hoặc 16-17 tuổi thì được thầy hướng dẫn cho tu tập, được gặp vị thầy. Đó là cái lòng tha thiết của mình đối với cha mẹ mình và sẽ thực hiện được những điều đó.
Nhưng trước tiên muốn thực hiện được lòng hiếu thảo này thì các con nên nhớ rằng Đức Phật đã dạy cái bài kinh Ước nguyện. Ước nguyện cái điều gì, muốn được thì mình nên giữ gìn Giới, tức là nên thọ Bát Quan Trai. Cái ngày thọ Bát Quan Trai đó, mình đến nơi ấn tống kinh, mình xin gửi một số tiền để ấn tống kinh, mình ước muốn, hồi hướng cho cha mẹ mình.
Trong cái ngày đó mình giữ 8 giới nghiêm chỉnh, rồi mình đem số tiền tuy là rất nhỏ, có khi chỉ 1 ngàn đồng thôi, xin gửi 1 ngàn đồng để ấn tống kinh. Vì cái sự nghèo của mình nên số tiền ít nhưng cái lòng mình nhiều, mình gửi 1 ngàn đồng xin thầy ấn tống kinh- thiện pháp, để giúp cho mọi người trong đó cha mẹ con. Xin thầy ước nguyện giùm cho con như vậy. Thì ông thầy nhận cái số tiền, ông dùng để phát hành, ấn tống kinh.
(34:09) Và đồng thời khi mình giữ giới, mình ước nguyện cho cha mẹ mình, những cái này nó tương ưng với nhau, nó giúp cho cha mẹ mình mau, sớm gặp được chánh pháp. Khi mà biết chánh pháp rồi thì giải thoát rồi! Cha mẹ mình gặp được chánh pháp khi chưa có gia đình thì hạnh phúc biết mấy, nó không còn khổ nữa, phải không các con? Cho nên Thầy thấy trong sự tu tập, khi chúng ta biết cách, chúng ta nhớ thương những người sanh thành, dưỡng dục mình, cái công lao như vậy, mà mình thực hiện như vậy nó hạnh phúc ghê gớm lắm. Xã hội chúng ta sẽ rất tốt mấy con. Đó là Thầy đã trả lời câu hỏi này.
Có người hỏi Thầy về cái hơi thở: “Hơi thở của con 17-18 hơi thở mới là 1 phút. Vậy nó là hơi thở ngắn hay hơi thở dài?” Thực sự ra 17 hay 18 hoặc là 20 hơi thở trong 1 phút thì nó là hơi thở ngắn chứ không phải hơi thở dài. Thì trong bức thơ này có hỏi về hơi thở như vậy. Nghĩa là hơi thở dài thì từ 20 trở lên đến 30. Hơi thở ngắn bắt đầu từ 15-14-13-10 hơi thở.
Còn về đạo đức, cái lớp đạo đức mấy con biết đạo Phật có 4 lớp học đạo đức. Cái lớp đầu tiên là Chánh Kiến, cái lớp thứ 2 là Chánh Tư Duy, cái lớp thứ 3 là Chánh Ngữ, cái lớp thứ 4 là Chánh Nghiệp. Có 4 lớp học về Đạo Đức Làm Người. Cho nên cái thứ nhất là mình thấy mọi vật ở trong đạo đức như thế nào, người ta sẽ dạy cho mình, đó là lớp thứ nhất. Lớp thứ 2 là mình suy nghĩ như thế nào gọi là đạo đức. Lớp thứ 3 là nói như thế nào gọi là đạo đức, nhiều khi lời nói của chúng ta thiếu đạo đức mấy con.
(36:15) Cái này sau này mấy con học về Đạo Đức Làm Người thì Thầy sẽ dạy từ Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ cho đến Chánh Nghiệp. Chánh Nghiệp là cái hành động việc làm của mình, mình làm nghề nghiệp này kia, nó thuộc về chân chánh hay không chân chánh thì người ta sẽ dạy. Một cái hành động mình đánh người thì nó không chân chánh đâu. Một cái hành động, mình làm cái nghề nghiệp sát sanh, như mấy người bắt cá, chài lưới. Những hành động bắt cá, chài lưới, đâm heo, giết chó, những hành động sát sanh, làm thịt chúng sanh… đó là những hành động không chánh nghiệp, nó là tà nghiệp, nó gây ra những sự đau khổ.
Cho nên sau này chúng ta học từ cái nhận thấy, từ cái suy nghĩ, từ cái lời nói và cái hành động của chúng ta, nó nằm trong cái đạo đức, cho nên đây là cái Đạo Đức Làm Người. Chúng ta phải học đạo đức, cho nên cái cuốn đạo đức làm người tập 2 nói về ngũ dục lạc ở thế gian. Cuốn đạo đức tập 3 sẽ nói về 3 cái hành động này: hành động suy nghĩ, hành động lời nói, hành động thân làm công việc. Cuốn tập 3 sẽ được in ra và dạy cho chúng ta những hành động đạo đức làm người đó.
Và đồng thời những hành động làm để sống sẽ có trong cuốn đạo đức nghề nghiệp. Mình làm cái nghề đó mà mình không hiểu cái nghề đó thì mình làm không đúng cách thì nó sẽ là tà nghiệp, không phải chánh nghiệp. Cho nên sẽ có bộ sách đạo đức dạy các con về những hành động đó. Ở đây Thầy xin trả lời là không thể nào trong một buổi như thế này mà dạy bài học đạo đức cho mọi người (…) được. Nhưng hiện giờ Thầy có thể dạy mấy con được (…) rất là cô đọng. Bởi vì hiện giờ mấy con (…) chánh kiến, chánh kiến về đạo đức.
(38:15) Khi mà nhìn vào cái sự việc, cái đối tượng, người ta chửi mình, người ta mắng mình hoặc là cái chuyện gì nó xảy ra thì mình nhìn nó bằng nhân quả mấy con. Nhân như thế nào, quả như thế nào? Nhân là cái hành động của mình hoặc của người khác, ví dụ như người ta chửi mình, là cái nhân chửi. Cái quả, mình xem lại cái quả xem tâm mình có giận không? Nếu tâm mình không giận thì là cái quả không khổ, nó là thiện. Còn cái quả khổ là mình tức giận lên thì nó là ác. Cho nên mình bằng nhân quả để mình xét. Chứ mình đừng nhìn là khi thấy người ta chửi thì: “Tôi có chọc ghẹo đâu mà sao lại chửi tôi?”, như vậy là mình thấy mình đúng còn người ta sai, nên mình bực tức.
Cho nên đừng có nhìn thấy cái đúng, cái sai mà hãy nhìn thấy nhân quả. Mọi sự việc xảy ra, chúng ta nhìn bằng nhân quả thì nó hóa giải được tâm chúng ta, nó làm cho chúng ta không làm khổ mình, khổ người.
Ngay đó là các con đã học được đạo đức, đầu tiên là cái nhìn của mấy con tức là lớp Chánh Kiến. Cho nên lớp Chánh Kiến dạy chúng ta đạo đức nhân quả, tức là cái nhìn bằng nhân quả, chứ không có gì khác hết. Cho nên ở đây Thầy tóm lược cho mấy con hiểu, để khi mấy con về, gặp những cái sự kiện xảy ra trong môi trường sống của mình thì các con nhìn nó bằng nhân quả. Đừng có nhìn nó là đúng sai. Đừng có thấy mình đúng còn người ta sai. Đừng thấy người ta đúng còn mình sai. Do đó mình thấy nhân quả. Do mình thấy nhân quả nên nó hóa giải được, không làm cho con khổ và người khổ nữa.
Đó là Thầy đã trả lời cái câu hỏi này.
(39:35) Hỏi: Ở đây có một người tu như thế này: “Xin Thầy phù hộ cho con đẩy lui các luân xa tưởng trên thân con”.
Trưởng lão: Nghĩa là người này tu, có những trạng thái tưởng mấy con. Ở đây Thầy không đẩy lui được cho mấy con, mà chính mấy con phải tự đẩy lui. Phải không?
Bây giờ nó có cái trạng thái gì xảy ra, luân xa là cái giao điểm ở trên thân chúng ta, khi mà mấy con muốn hóa giải những hiện tượng xảy ra ở đó, như sự rung động hoặc hiện tượng nó phát ra, nó phóng hào quang, ánh sáng hoặc những tướng trạng thần thông gì đó, thì mình phải tác ý. Mình dùng ý thức của mình, mình tác ý: “Dừng lại! Tất cả những cái này tao không chấp nhận! Mày không được mở cái luân xa đó! Mày là tưởng, tao không chấp nhận!”. Như vậy, khi mình ngồi im lặng như vậy, mình bảo: “Tâm thanh thản, an lạc, không có tập trung vô chỗ đó nữa!” thì như vậy một thời gian sau nó sẽ dừng, nó sẽ đẩy lui những cái luân xa đó ra. Các con nhớ chưa?
(40:43) Nhớ như vậy, khi mà gặp tưởng thì mấy con cứ tác ý đuổi nó.
Nếu mà không tác ý đuổi thì mình xả, mình đi kinh hành. Đừng có ngồi đó, đừng tập trung chỗ đó, đừng có nghĩ đến chỗ đó nữa thì lần lượt nó sẽ hết. Sau đó nó không lặp lại nữa, không mở lại nữa, tức là luân xa nó không mở nữa.
Đó là những cái mình tu tập sai, bây giờ nó (…). Cho nên vì vậy nó cản đường mình tiến tới, nên con đường ly dục ly ác pháp rất khó. Cho nên khi mấy con tu tập một hồi, hết vọng tưởng rồi thì sẽ gặp khó khăn. Cứ mình ngồi khi nó hết vọng tưởng…Thầy ngày xưa, Thầy tu thiền Đông Độ, hết vọng tưởng thì lọt vô Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, lọt vô thiền tưởng. Cho nên nó hiện ra 18 các loại tưởng, ngồi yên thì nó hiện ra. Cho nên Thầy không dám ngồi nữa, Thầy sợ, nên Thầy thường giữ ý thức Thầy: “Tâm như cục đất! Ly dục ly ác pháp hết đi!”. Cứ nhắc như vậy, Thầy không dám ngồi yên, Thầy cứ luôn tác ý và cuối cùng Thầy đuổi được (…). Đó là cách tu tập như vậy.
(41:44) Hỏi: Ở đây có một cái bức thơ hỏi Thầy về bổn phận của người mẹ với đứa con.
Trưởng lão: Các con nhớ rằng khi mình sinh con ra thì đó là nhân quả của mình rồi. Cho nên mình hãy làm hết bổn phận với các con của mình. Còn cái nhân quả, nó có nghe hay không nghe thì đừng buồn mấy con. Các con đã làm hết bổn phận, các con thương các con nói mà nó không nghe là tại cái nhân quả của nó. Cho nên đừng vì nhân quả của nó mà khởi trong tâm mình: “Con mình sao không hiếu, con người ta nó hiếu quá, nói đâu nó nghe đó”, mình đừng có nghĩ như vậy. Mà mình nợ nó cho nên nó đến nó đòi, làm cho mình khổ đau. Còn con người ta, mẹ nói gì nó nghe vì nó nợ mẹ cha nó.
(42:26) Cho nên mình phải nhìn bằng nhân quả vì vậy mình làm hết bổn phận, chứ đừng thấy con mình như vậy mình bỏ. Mình vui vẻ, mình chấp nhận, để mình cố gắng khắc phục tâm mình, làm cho nó an ổn trước hoàn cảnh con cái mình. Cho nên mình vui vẻ mấy con, mình vui vẻ thì nó sẽ chuyển nhân quả.
Còn mình sầu khổ vì con của mình thì tức là mình không chuyển nhân quả mà mình đang bị nhân quả. Và đồng thời khi bị nhân quả này, vì sầu khổ này là ác pháp, ác pháp này từ từ sẽ tăng lên, nó làm cho mình khổ hơn. Cho nên mình rớt xuống địa ngục mà mình không hay, trong cái địa ngục đó cái đầu óc mình nó tối đen. Cho nên nhiều khi đụng việc gì mình cũng tức tối, mình la, mình hét, mình chửi, hoặc thậm chí như nó làm cái việc gì đó cho hả cơn giận của mình, hả sự buồn đau của mình, hoặc là mình tự tử nữa là khác. Do đó mấy con (…)
Mình hãy vui vẻ trả nhân quả: “Đây là mình nợ nó, cho nên mình sẵn sàng trả nhân quả”. Mấy con nhớ những lời đầu tiên, luôn luôn lúc nào cũng thấy nhân quả, con của mình, mình nợ nó thì phải vui vẻ trả. Nó không nghe lời thì mình vẫn nhẹ nhàng, đừng có mắng mỏ, đừng có la lối, mà hãy nhẹ nhàng… (43:40)
HẾT BĂNG
TU HÀNH PHẢI NHIỆT TÂM
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Ngày giảng:
Người nghe: Tu sinh
(00:00) Trưởng lão: Có cái duyên để gặp lại các con để nhắc nhở, vì từ lâu tới giờ chúng ta tu hành thì chúng ta quen cái sự ức chế tâm của mình, mà mình không thấy được sự xả tâm. Nghe nói cái thiền xả tâm thì chúng ta lấy làm lạ, nên chúng ta không chú ý. Trong cái vấn đề về hơi thở, tức là Định Niệm Hơi Thở, cũng như đi kinh hành, cũng như tu Chánh Niệm Tỉnh Giác, trong những cái hành động thì cái tâm mà tập trung trong cái hành động hơi thở, cũng như hành động thân hành của mình thì cái đó là cái phụ, chứ không phải là cái chính, mà cái chính đó là cái pháp hướng.
Mà cái pháp hướng thì nó cũng không phải là chính, mà cái xả tâm đó mới là chính. Mấy con thấy nó đi đến cái chỗ xả tâm chứ không phải pháp hướng không đâu? Pháp hướng nhắc nó để mà xả tâm, thì cái chỗ xả tâm mới là cái chính.
Hơi thở mình nương để cho mình biết hơi thở cái đó tỉnh giác mà thôi. Còn cái vấn đề chính của nó là chỗ xả tâm mà cái pháp hướng là cái phụ chứ không phải là cái chính nữa. Nhưng mà cái hướng tâm để mà chúng ta nhắc nó, mà chúng ta biết nhắc thôi, nếu mà nhắc chúng ta nói: "Tâm như cục đất!" Tại vì cái âm thanh pháp hướng “Tâm như cục đất!” nó chỉ là thể hiện, mà chính cái xả tâm đó mới là quan trọng.
Cho nên cái quan trọng đó là cái chính trong cái bước đường tu của mình để cho cái tâm hoàn toàn nó ly dục, ly ác pháp, nó không còn nằm ở trong cái tâm phiền não nữa, nó mới xả. Cho nên các con thấy đức Phật có nói: "Nếu mà nhiệt tâm, nhiệt tâm ở trong cái xả tâm" thì Thầy xin nhắc lại bài pháp mà đức Phật có dạy cho chúng ta ở ‘trên thân quán thân’, tức là Tứ Niệm Xứ đó. ‘Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu’ đó là chính- khắc phục được sự tham ưu. Mà trên thân quán thân- cái đó là vấn đề phụ.
Mà trên thân quán thân trên hành tướng nội đó là hơi thở, còn trên thân quán thân trên hành tướng ngoại là đi kinh hành hoặc là làm mọi tất cả công việc, cái đó là cái phụ. Mà khắc phục được tham ưu, chữ khắc phục tham ưu, mà ở đây chúng ta phải hiểu chữ khắc phục đó là cái chính đó, để nhắc tâm cho ta khắc phục, mà cái chính đó là cái tham ưu đó.
Cho nên cái chính đó, chẳng hạn bây giờ mình nhắc cái tâm mình như cục đất mà sao đụng tới đối tượng đó thì mình thấy mình còn phiền não. Tức là mình phải hiểu biết đó là nhiệt tâm, để mình xả tâm mình, thì giống như cục đất thì mình chưa nhiệt tâm lắm, cho nên nó còn.
(02:35) Mà nếu mà mình nhiệt tâm xả thì kỳ sau này mình dùng cái pháp hướng mình ra lệnh mạnh hơn: “Tâm phải như cục đất từ đây về sau không được phiền não, không được giận hờn nữa!” Như vậy thì, từ cái pháp hướng, mình hướng tâm như cục đất thì nó không có mạnh bằng khi mà mình nhiệt tâm với cái pháp hướng đó, mình nhắc cái tâm để cho nó xả cho được: “Tâm như cục đất, từ đây trở về sau không được tham, sân, si nữa, mày còn là mày chết!”
Cũng bây giờ mình còn thấy cái tâm tham mình còn, là bây giờ nó muốn ăn cái này, nó muốn ăn cái kia, nó muốn ăn cái nọ, tức là tâm tham còn. Thì mình nói: “Tâm như cục đất, không còn tham ăn nữa, không có được tham nữa!” Do đó mình phải nhấn mạnh ở trên cái chỗ mà lệnh truyền của mình. Thành ra đó, đó là cái chỗ xả tâm của mình.
Thí dụ như mình còn nữa thì mình hằng mình, hằng cái tâm của mình: “Từ đây cái tâm không có được tham ăn nữa! Phải dứt bỏ! Phải xả ly! Phải ly cái tâm tham ra! Không có được tham ăn nữa!” Mình biết cái tâm của mình từ mức độ nào thì mình nhiệt tâm ở cái chỗ đó để cho mình xả cho được. Bởi vì mình xả được đó là cứu cánh, mà chính cái đó là Thiền Định. Nó khác hơn là cái Thiền Định mà chúng ta từ lâu tới giờ mà chúng ta đước các nhà Đại Thừa, các nhà thiền Đông Độ dạy đó. Các pháp môn khác dạy đó là nó khác hơn cái thiền của đạo Phật.
Cho nên, mục đích của chúng ta làm sao mà khắc phục mọi tham ưu. Cho nên đức Phật dạy là: "Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu." Rồi: "Trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu.", "Trên thọ quán thọ để khắc phục tham ưu." Và "Trên pháp quán pháp để khắc phục được tham ưu." Thì cái chữ ‘khắc phục’ đó chúng ta phải hiểu, nó là vừa cái pháp hướng, mà cũng vừa là cái chỗ để nhấn mạnh cái tâm xả của chúng ta, mà chính cái chỗ xả đó là cái chính của chúng ta đang tu, cái mục đích của chúng ta. Chứ không phải cái chỗ vọng tưởng, cái chỗ vọng tưởng nó không phải, nó không quan trọng đâu.
(04:22) Còn bây giờ mấy con cứ nghĩ, ngồi thiền cho hết vọng tưởng thì các con đạt được cho hết chất lượng, không phải đâu. Nó sẽ rơi vào một cái trạng thái, nó không đúng tính cách của đạo Phật- nó không có làm chủ được cái tâm của mình. Mà khi mà cái tâm nó chưa có ly được, nó còn chưa làm chủ được, nó còn phiền não, nó còn thèm ăn, nó còn ham cái này, nó còn ham cái kia, thì nó không thể giải quyết được sự giải thoát cho mình. Thì mình có tu thiền gì thì nó cũng là thiền tà mà thôi.
Cho nên phải nhớ kỹ, khi hàng ngày, hàng đêm chúng ta ngồi thiền làm công việc, chúng ta nhắc: “Tâm như cục đất!” Nhưng mà nó chưa là thành cục đất, nó đang gặp sự việc, gặp cái đối tượng, nó khởi tâm tham, sân, si phiền não đó, thì mình biết nó chưa có xả ly. Vì vậy mỗi lần mình phải nhiệt tâm với cái chỗ mà mình để xả ly đó, mà mình nhắc nó hết sức nhiệt tâm với nó, thì cái nhiệt tâm của mình, thì ở trong đó có cái cương quyết, cương quyết nhất định là không để cho nó phiền não nữa.
Thí dụ như bây giờ, mọi chuyện mình không tùy thuận được, nhưng mình thường nhắc: "Cái tâm phải tùy thuận! Không có được làm theo cái ý của mình, mà phải tùy thuận mọi ý của người." Mà thấy mỗi lần có cái ý người khác thì mình có những cái ý của mình trong đó mình không tùy thuận được, thì mình nhắc: “Tâm phải tùy thuận! Không có theo cái ý của mình nữa mà phải theo ý mọi người.” Thì lúc bấy giờ mình phải nhiệt tâm với cái chỗ tùy thuận theo cái ý của mọi người thì mình sẽ được thành tựu cái xả tâm đó.
Mình phải nhiệt tâm, bởi vì đức Phật dạy mình phải nhiệt tâm tức là mình phải cương quyết với nó, đem hết nhiệt huyết của mình đối với cái xả tâm đó, thì nó mới xả. Còn mình không có nhiệt tâm thì mình không có xả. Cho nên mình biết cái đó là cái khổ, mà nó trở thành một cái nghiệp lực. Cái giận hờn, phiền não, cái đau khổ của mình, nó trở thành một cái lực của nó rồi, cho nên bây giờ muốn xả một lần, muốn bỏ nó xuống một lần thì mình bỏ, xả nó một lần không được.
Vì vậy cho nên mình nỗ lực, mình nhiệt tâm với nó, mà mình phải hằng nhấn cái câu pháp hướng rất mạnh để nhắc nhở mình nỗ lực để xả cho được, thì cuối cùng thì mình sẽ xả được. Mà xả được thì cái giai đoạn đầu tiên thì mình đã đạt được. Mà giai đoạn đầu tiên đạt được thì cái giai đoạn kế Thiền Định nó không khó nữa, và từ đó chúng ta chỉ dùng pháp hướng mà thôi. Ta sẽ dùng pháp hướng để vào những cái định cao hơn, sâu hơn. Làm chủ một cách cụ thể, rõ ràng hơn. Chỉ có phần là giai đoạn đầu thì rất khó.
(06:43) Người ta nghĩ rằng cái Sơ thiền thì dễ, nhưng mà cái Sơ thiền nó không phải dễ, nó rất khó. Cho nên nó phải có nhiệt tâm, nhiệt huyết trong cái sự tu tập của mình thì nó mới đạt được.
Thì trong cái khoảng thời gian dài thì các con cũng phải lưu ý rằng, Thầy mắc bận công việc nhiều mà không được tiếp xúc với các con để nhắc nhở.
Nhưng hôm nay thì nó cũng có cái duyên cho nên Thầy nhắc nhở để mấy con, sau thời gian mà lao động rất nhiều, làm cái sân, rồi công việc, rồi thì ba cái cây đưa đến làm đường thì bắt buộc mình phải chặt từng cây, rồi nó cũng rất cực khổ, cho đến làm đường.
Hôm nay công việc nó coi như là giảm bớt rất nhiều và nó không còn có nữa, chỉ có còn đi lượm điều mà thôi. Mà theo Thầy thiết nghĩ thì đối với khu vực của mình thì các con không phải cần bẻ điều thì nó không sao hết. Tại vì mình cứ đi lượm, nó rớt mình lượm thì mình cũng khỏi cực khổ nhiều, nó rớt đó thì nó nằm đó rồi mình cứ đi lượm thôi.
Thì do đó mà mình chỉ đi làm nhẹ nhàng để mà tu tập. Đúng là cái người tu theo đạo Phật thì chúng ta không có được lao động, nói chung là không có lao động làm gì hết. Nhưng mà vì cái hoàn cảnh của mình, buộc lòng mình phải lao động, cuộc sống của mình thì không thể nào là cuộc sống của đức Phật ngày xưa. Chưa có chặt chẽ cho nên cái tổ chức đi xin ăn, thì chúng ta cũng chưa có tổ chức chặt chẽ cho nên chúng ta cũng khó mà thực hiện được cái hạnh của một người tu.
(08:18) Mà cái hạnh của người tu như các con biết trong giới luật của Phật, chỉ có cái Chánh Nghiệp mà chúng ta sống đó là cái nghề là đi xin ăn mà thôi. Nhưng không phải là chúng ta đi xin ăn cả làng, nghĩa là bây giờ chúng ta đi xin ăn mà mang bát rồi chúng ta đi xóm này, rồi, đi xóm trên, xóm dưới, xóm giữa, xóm trong, xóm ngoài chúng ta đi xin.
Đi xin như vậy mà nó không đúng tính cách, mà cũng có những kẻ khác, người ta lợi dụng cái sự khất thực của chúng ta mà người ta mà đi xin người khác bằng cách lười biếng, mà họ không chịu làm. Còn chúng ta là những người quyết tâm tu hành thì chúng ta lấy cái nghề đi xin ăn làm chính.
Còn những người khác họ lười biếng, họ không chịu làm, họ mượn chiếc áo của chúng ta rồi họ đi xin ăn, để họ sống cho không có cực khổ. Họ cũng không biết cách thức nào mà làm để sống, cho nên họ thất nghiệp, rồi họ mới tìm mọi cách giả mạo để mà kiếm cái miếng ăn thành ra nó làm cho chiếc áo của người khất sĩ bị ô nhiễm đi.
Vì vậy mà đi xin ăn là một điều khó khăn. Tại vì cái người Phật tử người ta chưa có được huấn luyện kỹ ở trên vấn đề cúng dường, cho nên họ thấy ai mặc y áo đi xin, là họ thấy cái đó là cái hạnh tốt, cái hạnh gieo duyên, nên người ta cúng dường, chứ người ta không biết cái đó là đúng hay sai. Cho nên chúng ta chưa có tổ chức được nó hẳn hoi, nó rõ ràng cho nên chúng ta còn vất vả trong cái việc, mà chúng ta bắt buộc, chúng ta phải lao tác trong cái này, cái kia, chứ sự thật ra người tu sĩ không lao động.
Thầy nói thẳng, nói đúng là vì ngày xưa đức Phật sống không lao động, làm gì hết - chỉ đi tu mà thôi. Nhưng tại vì sao? Tại vì chúng ta không có chuyên tu thật sự, nỗ lực thật sự. Chúng ta dẹp hết, bỏ hết, chúng ta lìa hết, không còn tính cái cuộc sống của chúng ta như thế nào hết, nghĩa là chỉ còn một cái hướng là làm sao cái tâm của chúng ta phải giải thoát không còn phiền não, tham sân, si nữa. Nghĩa là chúng ta quyết bỏ hết cuộc đời mà đi tìm sự giải thoát thì chỉ có mục đích duy nhất là phải làm sao ly dục, ly ác pháp, làm sao cho tâm nó hết phiền não. Đó là mục đích chính là chúng ta phải đạt.
(10:25) Cho nên tất cả những cái điều kiện mà chung quanh mà xảy ra nó làm cho chúng ta có mất nhiều thì giờ. Ví dụ như từ khi cái kênh đi ngang qua đất mình, thì buộc lòng trong Tu Viện mình cũng phải chặt cây, đốn cây để cho người ta khai cái kênh, sau khi cái kênh đó đã qua rồi thì lúc bây giờ nó xảy ra đến cái đường.
Do đó cái đường đó, nó làm hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất thì chúng ta phải phá- cái giai đoạn đầu. Kế đó chúng ta phải cũng vất vả trong cái phần đó nữa, dời hàng rào, rồi chặt cây, đốn cây. Rồi kế đó thì giai đoạn thứ hai thì chúng ta cũng phải đốn cây, cả một đống cây, hiện giờ mà chúng ta để một đống đó.
Thì Thầy với nói với cô Út kêu người ta, bán rẻ, bán để người ta làm củi cũng được, chứ đừng để đó. Chúng ta chỉ có thể là lượm những cái cây nó nhỏ mà chúng ta xài, chúng ta chụm, nấu ăn qua ngày mà thôi, thì cũng tạm đủ. Chứ còn mà nhiều quá thì chúng ta lại phải vất vả. Vì tiếc chúng ta lại cưa, cắt, chẻ, rồi phơi … rồi làm đủ thứ hết. Làm cho người tu sĩ của chúng ta nó mất đi cái hạnh tu, mà nó luôn luôn nó chuyên về cái cuộc sống.
Như bây giờ chẻ củi, rồi nấu cơm, rồi lo đồ ăn, đồ uống, rồi cái này, cái nọ, cái kia thì cái điều kiện đó là những điều kiện của người thế gian, chứ không phải chỗ của người tu. Người tu thì không phải lo ăn mà cũng không có lo uống. Có cái gì sống được cái nấy, mong làm sao giải quyết được tâm mình không còn tham, sân, si, mạn, nghi, phiền não nữa. Đó là cái chính mà chúng ta phải thực hiện.
Vì vậy mà cái mục đích chính chúng ta mà phải nhìn. Bởi vậy khi tu hành mà chúng ta biết các pháp tu nhưng mà chúng ta không biết cái nào chính cái nào phụ. Rồi chúng ta cứ tập trung trong cái phụ mà trở thành cái chính, mà cái chính thì lại bỏ. Bỏ qua, làm như chúng ta tu cho qua ngày, tu lơ là, tu cho có hình thức thì nó không có rốt ráo được.
(12:15) Cho nên hôm nay Thầy dạy để cho mấy con thấy rằng cái chính, cái pháp mà chính trong cái bước đường tu. Ví dụ như bây giờ cái Định Niệm Hơi Thở thì cái sự tập trung trong hơi thở đó là cái phụ, thì cái pháp hướng chúng ta nhắc như: "Quán ly tham tôi biết tôi đang thở." Thì cái thở đó là phụ. Nó thuộc về tỉnh thức mà thôi.
Còn “quán ly tham” nó thuộc về cái pháp hướng mà chính ly cái tâm tham đó mới chính là cái tâm mà chúng ta muốn nó phải lìa ra, nó không còn tham nữa. Thì cái lìa cái ly đó, tức là cái xả tâm tham đó là cái chính. Cái lời, cái pháp hướng chúng ta nhắc đó nó chỉ là phụ. Mà cái tâm của chúng ta có nhiệt tâm xả cái này hay không? Chứ không khéo chúng ta chỉ nhắc cầm chừng thôi thì nó cũng không có hiệu quả lắm đâu.
Cho nên Thầy nhắc nhở lại để cho mấy con thấy cái chính, đó là cái chỗ chúng ta nỗ lực xả tâm. Mà bây giờ mình nhắc, mình hết sức nhiệt tâm với nó, mà nó không hết thì mình phải truyền lệnh cho nó như thế nào?
Cái pháp hướng mình phải mạnh mẽ hơn và mình có sự quyết liệt hơn. Có hết cái nghị lực cương quyết của mình, quyết định phải xả nó. Chấm dứt cái lòng ham muốn của mình, chấm dứt cái tâm mà chạy theo những cái sự ham muốn của mình, cái sự tham ăn, thích uống của mình, cái sự giận hờn, phiền não của mình, phải chấm dứt ngay liền.
Cho nên có nhiệt tâm đó thì mình sẽ thành tựu. Nếu mà mình không nhiệt tâm thì mình tu chỉ phí cuộc đời mình, chứ cũng chẳng có đi đến đâu. Cho nên nhiệt tâm, chứ không phải vô trong thất mà ngồi, ở trong đó mà cứ ngồi thiền rồi cũng hướng tâm, cũng xả nhưng mà không nhiệt tâm thì nó cũng không tới đâu.
Cho nên cái nhiệt tâm là cái quyết định. Vì vậy mà Phật dạy cho chúng ta, phải nhiệt tâm, nồng nhiệt trong cái sự tu của mình. Mục đích là phải khắc phục sự tham ưu của mình. Tham là ham muốn, ưu là phiền não, đau khổ, cho nên khắc phục tham ưu.
(14:09) Còn nếu mà mình không khắc phục tham ưu thì mình không thể nào mà giải thoát được và mình cũng không thể nào mà thanh tịnh được. Đó là cái phần mà các con cần phải có sự mà hiểu biết cho rõ. Cho nên mình lao động, mình làm những công việc nhè nhẹ, không được làm công việc nặng.
Cũng như mấy bữa nay, hôm rày mấy con làm hồ xi măng, rồi đá, rồi cát, tất cả những cái điều đó là điều nặng. Cho nên nó làm cho mấy con trong sự tu tập rất vất vả, rất khó. Mà một người tu bỏ hết cuộc đời ra đi để làm những cái chuyện này hay sao? Nhưng mà cái hoàn cảnh của chúng ta. Chứ thật sự ra thì Thầy định nói với cô Út là nhờ mấy đứa đó nó đào đất sét lên, thì nó trải rồi nó tạt nước lên cho ướt để đất sét nó láng vào cái mặt sân, nó không còn cát để chúng ta quét dễ dàng mà thôi.
Cô Út thì bỏ ra công sức, coi vậy chứ trong cái ngày giờ làm đó thì Thầy thấy mất sức rất nhiều, đứa nào cũng mất sức hết. Cho nên nó hao phí cái sức lực của chúng ta rất lớn. Nhưng rồi thôi tại cái nhân duyên như vậy thì cứ nên làm, chứ bây giờ Thầy cũng tùy thuận, chứ Thầy không biết nói sao hết.
(15:15) Bây giờ đã xong rồi, nhưng chúng ta nói rằng nó xong rồi thì nó hết sao? Nó không hết đâu, nếu mà chúng ta không biết vô sự, thì nó còn hữu sự. Chúng ta biết vô sự thì nó sẽ vô sự. Nó sẽ có chuyện này, nó cũng sẽ có chuyện khác nữa, cho nên chúng ta dừng nó thì được, chứ chúng ta cứ để nó thì sẽ có những chuyện nó tới. Có chuyện rồi chúng ta cũng sẽ làm hoài cũng không hết đâu. Rồi cái tu hành của chúng ta nó sẽ dậm chân tại chỗ.
Cho nên tới đây theo Thầy thiết nghĩ thì nên dừng lại hết, bây giờ có gì thì chúng ta mặc kệ nó, chẳng có lo nữa, chỉ khắc phục được cái tâm ham muốn và tham ưu của mình, đây là một cái giai đoạn đầu. Mình có bốn giai đoạn tu tập, chứ không phải một giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất là làm chủ được cuộc sống của mình, tâm của mình ly dục, ly ác pháp.
Giai đoạn thứ hai là mình làm chủ được cái già, cái thân vô thường của mình, mình làm sao mình nhập được cái định Nhị Thiền, tức là diệt cho được tầm tứ. Mà mình làm sao cho mình đạt cho được cái chỗ này, mà đạt cho được cái chỗ này không phải là cái chỗ biết hơi thở, nó không phải là Tứ Thiền.
Chẳng hạn như bây giờ Thầy ngồi như thế này, Thầy bảo: “Tầm tứ phải tịnh chỉ nhập Nhị Thiền!” Thì cái tâm của Thầy nó sẽ lần lượt, nó sẽ vào cái trạng thái đó, Thầy ngồi đây suốt ngày mà không thấy đói, không thấy khát, không thấy đi tiểu, đi giải, không có bao giờ nó có trạng thái gì nó làm cho Thầy khó chịu trong người của Thầy hết. Thậm chí đói khát nó cũng không thấy nữa, ngồi đây suốt ngày, năm ngày, bảy ngày, mười ngày không thấy, đó là Thầy đã nhập, diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền, chứ không phải đợi Tứ Thiền.
Đó là một cái trạng thái mà tất cả những hành động của nhân quả không còn hoạt động. Cho nên cái Thiền này nó sẽ ứng vào cái sự làm chủ, cái già của cơ thể vì cơ thể nó hết hoạt động. Tầm tứ tức là cái cơ thể chúng ta không hoạt động thì cái thân nó cũng không hoạt động.
Tức là nó không hoạt động đi tới, đi lui, cái miệng chúng ta không nói, thì tất cả cái lộ trình nhân quả nó không hoạt động được. Cho nên thân của chúng ta không già, nó không thay đổi nữa, nó không vô thường nữa. Đó là giai đoạn thứ hai của bước đường tu tập.
Giai đoạn thứ ba là chúng ta phải khắc phục được, đình chỉ được hay là tịnh chỉ cho được cái tưởng của chúng ta. Tức là chúng ta ngủ mà không chiêm bao nữa, đó là giai đoạn thứ ba. Để chúng ta khắc phục cho được cái thọ, cái sức tỉnh của chúng ta đến cái mức đó để chúng ta làm chủ được cái thọ, làm chủ được cái đau đớn của cái thân của chúng ta.
Thân của chúng ta là cái thân vô thường, thân duyên hợp, cho nên cái sự vô thường đó nó thay đổi thường xuyên, di chuyển. Cho nên thân của chúng ta phải có bệnh tật, bởi vì nó có thay đổi, thì nó phải có cái rối loạn của cơ thể, theo thời gian nó phải cằn cỗi, nó phải, nó không có giữ thường hằng được. Cho nên nó bị thay đổi.
(18:15) Và nó bị thay đổi tức là nó có bệnh đau chứ không phải là không có. Nhưng mà đối với chúng ta khi mà chúng ta ly hết các cái tưởng, cho nên các cái tưởng không có thì cái thọ chúng ta sẽ làm chủ được nó. Cho nên chúng ta không còn khổ nữa ở trong cái thọ của chúng ta, cái bệnh tật của chúng ta. Mặc dù thân có bệnh tật, nhưng chúng ta không khổ, không lo, mà nó cũng không phải đau nhức, làm cho chúng ta khổ sở.
Giai đoạn thứ tư thì ta nhập Tứ Thiền, chúng ta tịnh chỉ hơi thở, chúng ta làm chủ sự sống chết. Cho nên nó có bốn giai đoạn và giai đoạn đó là giai đoạn làm chủ sự sống chết của chúng ta. Trước khi mà chúng ta chết chúng ta tự tại làm chủ cái chết của chúng ta. Khi bỏ thân này một cách dễ dàng.
Ở đây nó có bốn giai đoạn tu tập của Thiền định. Giai đoạn thứ nhất mà từ xưa đến giờ mà các con phải thực hiện để biết được cái chính để mà chúng ta nhiệt tâm mà chúng ta rốt ráo, để chúng ta xả được cái tâm của mình. Nghĩa là mình phải suy tư, khi mà nó có cái trường hợp mình tu như vậy mà mình xả chưa được, mình mới tư duy, suy nghĩ.
Tại sao cái này là cái pháp khổ, mà chư Phật đã nói nó là khổ, mình cũng biết khổ rõ ràng tại sao mà mình lại không bỏ được? Từ đây cái tâm phải biết rằng cái pháp này là cái pháp ác, cái này là tự làm khổ lấy mình. Tự làm khổ lấy mình mà còn tự làm khổ người khác nữa. Cho nên từ đây từ sau phải chấm dứt, phải bỏ, sống như cục đất.
Thì mình có nhiệt tâm, có kiên quyết đối với cái tâm của mình thì mình mới huấn luyện được nó, mình mới điều khiển được nó. Cho nên mà mình đã điều khiển được cái tâm của mình rồi thì đức Phật nói: "Tâm thuần tịnh”. Tâm thuần tịnh tức là nó không còn tham, sân, si nữa cho nên gọi là thuần tịnh. Vì vậy cái tâm nó nhu nhuyễn, nó dễ sử dụng, tức là mình sai bảo, mình điều khiển nó thế nào là nó nghe theo thế nấy.
(20:01) Cho nên bây giờ, hiện giờ mình làm sao cho cái tâm của mình cho nó thuần tịnh. Vì nó còn tham, sân, si thì nó không còn thuần tịnh đâu. Cho nên nó hết tham, sân, si rồi, thì nó mới thuần tịnh. Cho nên mình phải nhiệt tâm trên cái bước đường đầu tiên, trên cái bước đường tu tập, mình phải nhiệt tâm mà xả nó.
Ví dụ như các con, người nào cứ xin vô thất tu đi, rồi người nào mà ở ngoài mà nhiệt tâm xả, thì cái người ở ngoài xả mau. Mà cái người ở trong thất, không có đối tượng khó xả. Cho nên khi mà ở ngoài nhiệt tâm, có chuyện này kia nó dễ thấy trái tâm mình lắm, nó bất toại nguyện ở trong lòng mình lắm.
Do đó quyết định là phải xả, không có được vậy nữa, nhắc tâm mình nhiệt huyết, mình ra lệnh nó. Cũng như từ lâu tới giờ mình chưa tu thì cái tâm của mình hoang vu, nó còn rừng rú, mà mình đã tu một thời gian rồi thì cái tâm mình coi vậy chứ nó không còn rừng rú nữa đâu.
Cho nên nó có thuần rồi chứ không phải không thuần. Do mình biết như vậy rồi cho nên bây giờ chỉ cần ra lệnh cho nó nhiều nhất, điều khiển nó bằng cái lệnh truyền nó hơn, chứ không còn vuốt ve nó như ngày xưa nữa.
Hôm nay mấy con phải nhớ kỹ, mình cứ hằng dùng cái pháp hướng mà truyền lệnh cho mạnh mẽ để mà nhiệt tình, để mà xả cái tâm. Mục đích chính chúng ta phải làm cho được. Và nếu mình đã quyết tâm làm được như vậy thì cái thời gian rất ngắn, mấy con sẽ được cái tâm bất động của mình. Mà cái tâm bất động của các con thì đó là một cái định, gọi là Bất Động Tâm Định.
Thì như vậy là chúng ta đã đạt được một cái định của tâm của mình, đầu tiên nó làm cho mình hoàn toàn được an lạc, thanh thản, lúc nào cũng có niềm vui giải thoát. Thì các con cần phải hiểu biết được cái pháp chính của chúng ta để chúng ta quyết tâm, để chúng ta thực hiện cho đúng mục đích chính của nó, thì chúng ta sẽ đạt được kết quả của sự giải thoát.
(21:57) Sau này thì Thầy cố gắng Thầy sẽ giảng về cái phần Giới luật. Bởi vì dù sao Thầy cũng đã chuẩn bị cho các con trước tiên là cái sự hiểu biết, sau đó là cách thức hành động sống của một con người có đạo đức và hành động sống của một bậc Thánh nhân. Thì toàn bộ Giới luật của Phật là nó có Giới đức và Giới hạnh. Thì cái đức hạnh của một con người cũng như một bậc Thánh nhân đều nằm trọn ở trong giới luật của Phật hết.
Tuy rằng có cuốn hai, hình như là có in một số giới ra rồi, nhưng mà trong cái phần đó chỉ dạy về cái tội danh và cái tội chủng của nó mà thôi, chứ chưa có dạy về cái đức Thánh và cái đức làm người. Cho nên cái phần đó Thầy chưa giảng. Như một trăm cái giới chúng học đó thì Thầy có giảng cái phần là cái giới, cái đức hạnh là một con người. Để từ cái loài động vật mà chúng ta thoát ra khỏi cái loài động vật để trở thành một con người có đạo đức. Thì sau này các con sẽ được học, gần đây thì Thầy sắp sửa in ra cuốn thứ ba nói về giới đức và giới hạnh của một trăm giới chúng học.
Bởi vì một trăm giới chúng học, các tổ thì đưa nó ra phía sau. Thật sự lật ra trong thời đức Phật thì đức Phật chế giới thì đã chế một trăm giới chúng học nó đầu tiên. Còn các giới mà kêu là giới trọng đó thì đức Phật chế sau. Còn các giới khinh thì đức Phật chế trước, đó là những oai nghi tế hạnh của một con người, cái đạo đức của con người, cái hành động đạo đức của con người.
Cho nên đức Phật dạy đạo đức con người trước, còn những cái giới trọng đó là những cái đạo đức, đạo đức của bậc Thánh nhân. Cho nên những cái giới trọng đó nó chỉ cho chúng ta biết được là những cái hành động của những bậc Thánh nhân mới giữ gìn được cái giới trọng.
Nhưng mà các tổ không hiểu được cái ý, cái đạo đức đó. Cho nên các tổ thấy nó về các tội danh, tội chủng, thấy cái tội, một trăm cái tội chúng học, thấy nó cái tội thì nhẹ, nó không có tội nặng. Cho nên thấy những cái giới luật mà tội nó nhẹ thì các ngài mới cho nó ra sau, chứ không ngờ đó là cái đạo đức làm người.
(24:12) Bởi vì chúng ta ở đây theo đạo Phật, tu hành theo đạo Phật, nó không phải gì khác hơn hết là muốn giải thoát. Là vì đức Phật đã biết chúng ta từ con người của chúng ta nó sanh ra, nó như là cái loài động vật, như các con vật khác. Nhưng con người chúng ta sinh ra còn mang bản năng của loài vật chứ chưa phải con người của chúng ta có đạo đức hết.
Cho nên từ cái miếng ăn chúng ta còn tranh ăn chứ chưa phải hết tranh ăn. Chúng ta còn tham ăn, chúng ta còn giết nhau trên miếng ăn. Thí dụ như Thầy đặt vấn đề cho các con thấy, như hai người thợ may đồng may đồ cho thiên hạ. Thì người thợ may này họ giết người thợ may kia bằng cái điều này đến cái điều khác, nói cho người khác đừng có đến may chỗ người đó nữa.
Hai cái người làm thầy dạy học, đồng một môn học thì họ cũng giết nhau, hai cái người làm thợ sửa Honda họ cũng giết nhau, vì miếng cơm manh áo. Mà cái giết nhau như vậy, đó là còn bản chất của con thú vật, chưa phải là con người. Con người thì không làm như vậy.
Cho nên trong cái đạo đức của đạo Phật như các con đã biết Thầy có thường nhắc: “Không làm khổ mình, khổ người.” Đó là cái đạo đức con người của chúng ta, đối xử với nhau: “Không làm khổ người khác mà cũng không làm khổ mình.”
Còn trái lại chúng ta còn mang bản chất của loài thú vật cho nên chúng ta đã làm khổ mình mà làm khổ người nữa. Các con thấy có hai con chó nó đang giỡn với nhau đó mà các con cho một miếng bánh này kia thì nó tranh nhau mà nó cắn lộn nhau liền tức khắc, nó tranh ăn, nó giết nhau, nó cắn nhau. Thì chúng ta phải thấy rằng cái bản chất của chúng ta làm con người, hình dáng con người nhưng mà cái hành động của chúng ta thiếu đạo đức nó biến chúng ta trở thành là con vật.
Cho nên những giới luật của Phật để dạy cho chúng ta biết cái hành động nào là hành động của con người, thì cái hành động đó gọi là đạo đức.
(26:06) Còn hành động nào còn là thú vật thì hành động đó nó xâu xé nhau, nó giết hại lẫn nhau, nó không có tôn ti trật tự, nó không có xấu hổ. Còn hành động của con người thì biết xấu hổ, biết làm đúng, biết cái sai, cái đúng, biết kín đáo, biết âm thầm, biết hổ thẹn.
Cho nên những hành động của con người đó phải khác hơn loài vật. Vì vậy có nhiều người họ mang cái lớp người mà cái tâm tánh của họ còn là tâm tánh con vật, lốt người mà bản chất còn là bản chất vật. Còn có nhiều con vật nó mang lốt vật nhưng bản tánh của nó là con người, nó có đạo đức, nó biết tình, biết nghĩa.
Thì hôm nay mấy con thấy mấy người mà giận dữ, chửi mắng, đánh lộn với nhau thì các con thấy hai người đó mà đánh lộn với nhau, chửi mắng nhau, có phải là hai con thú không? Đúng là hai con thú. Không thể nào là hai con người được. Con người thì không thể đối xử với nhau như vậy được.
Cho nên chúng ta học đạo đức thì chúng ta sẽ thấy được điều đó. Và nếu mà chúng ta đã ngay ban đầu trang bị đạo đức thì tới giờ này chúng ta đã có một mô hình, mô hình của cuộc sống giải thoát và từ cái mô hình giải thoát đó chúng ta rất xả tâm.
Còn trái lại chúng ta đang sống ở trong lẫn lộn giữa hành động con người và giữa hành động con thú cho nên chúng ta tu hành, chúng ta xả tâm rất khó. Trái lại chúng ta tạo được cái mô hình, cái lối sống của chúng ta nằm ở trong cái nền của đạo đức của đạo Phật- không làm khổ mình, khổ người- thì ngay đó cái tâm của chúng ta đã ly dục, ly ác pháp.
Cho nên từ đó chúng ta mới suy ra từ cái đạo đức chúng ta đi lên mới là đạo đức của bậc Thánh. Những cái đạo đức của bậc Thánh là đạo đức mà người ta gọi là cái danh từ. Một cái danh từ mà người ta cũng không ngờ đó là Thiền Định. Bởi vì những bậc Thánh người ta có Thiền Định, người ta mới có hành động được những cái đạo đức của bậc Thánh. Còn mình chưa có Thiền Định thì mình chưa có khắc phục được cái tâm ham muốn của mình, cho nên mình chưa khắc phục được như bậc Thánh.
(28:06) Ví dụ Thầy nói tại sao người cư sĩ mà đức Phật cấm giới tà dâm. Tức là người cư sĩ là con người thì không có tà dâm. Nghĩa là vợ chồng tình nghĩa với nhau thì phải chung thủy không có được lang chạ, không có được làm cái điều sai quấy, làm cho sự đau khổ của vợ, của chồng thì đó là cái thiếu đạo đức.
Cho nên cái giới luật của Phật dạy đạo đức con người của người cư sĩ chúng ta thấy rất rõ. Nhưng đến người tư sĩ thì đức Phật dạy như thế nào? Cấm dâm dục. Bởi vì còn dâm dục thì làm sao gọi là Thánh tăng, gọi là Thánh, phải không?
Cho nên cái hành động mà không dâm dục nữa thì người đó mới gọi là Thánh. Còn dâm dục chỉ là con người. Nhưng mà dâm dục bừa bãi, dâm dục mà không biết xấu hổ, dâm dục mà loạn luân thì cái này là con thú chứ không phải là con người. Mặc dù đó là con người, hình ảnh mang lốt con người nhưng mà hành động mà sai như vậy tức là bản chất của con thú chưa hết.
Cho nên con người chúng ta vẫn có những hạng người đó chứ đâu phải không. Cho nên những người đó là người không có đạo đức, thiếu giáo dục đạo đức, không có học đạo đức. Còn chúng ta là con người có trí tuệ, chúng ta phải học đạo đức. Chứ nếu mà chúng ta không học thì chúng ta phải lầm lạc.
Cho nên trong giới luật của Phật dạy rất rõ ràng hành động nào là của con người, mà hành động nào là của con thú, mà hành động nào là của bậc Thánh nhân. Đơn giản Thầy nói để các con thấy rằng là sau này các con học đạo đức rất nhiều và Thầy sẽ dạy đó, mà chính đó là đạo đức gì? Đạo Đức Nhân Quả.
Bởi vì hành động đó là hành động thiện mới gọi là đạo đức. Mà hành động ác làm sao gọi đạo đức được. Mình chửi người ta thì làm sao gọi là đạo đức được. Mình giận dữ, mình tức giận thì mình làm cho tâm mình khổ, làm sao mình gọi mình là người đạo đức được. Mình đạo đức đối với mình, mình đạo đức đối với mọi người. Mà mình như vậy là mình thiếu đạo đức.
(30:03) Chẳng hạn bây giờ các con bị cô Út rầy mắng, các con buồn khổ trong lòng các con. Các con làm cho các con khổ sở thì các con là người thiếu đạo đức với các con. Và như vậy các con là người không có giáo dục đạo đức. Mình nói mình là con người, mình phải có trí tuệ, mình biết cái điều đó, làm như vậy tức là mình tự làm khổ lấy mình. Cũng như các con nói cái điều gì làm cho người khác khổ đau thì cái đó là các con là người thiếu đạo đức, làm cho người ta khổ.
Như vậy là mình đâu phải là con người. Con người thì không làm ai khổ cả. Cho nên chúng ta sống trong đạo đức nhân quả, mọi hành động mà làm khổ mình, khổ người đều là người thiếu đạo đức, các con thấy. Mà ở đời này ai có muốn thiếu đạo đức? Người nào cũng muốn có đạo đức và muốn học đạo đức.
Nhưng ai là người dạy mình đạo đức? Các con nghe đi tu thì các con nghe nói thiền, nói đạo, nói xả tâm thế này, thế khác. Nhưng sự thật ra các con học đạo đức rồi thì cái phần xả tâm của các con rất nhẹ. Bởi vì các con muốn làm con người để trở thành con người tốt, con người có những hành động tốt.
Thì cái hành động đó mới nói lên cái đạo đức chứ. Chứ nếu mà mình nói đạo đức mà mình không có hành động gì thì làm sao người ta biết. Cho nên phải học đạo đức. Vì vậy mà sắp sửa Thầy mới soạn cái đạo đức nhân quả.
Cho nên hôm nay khởi mào nói chuyện để các con sẽ học được cái đạo đức nhân quả. Cái đạo đức nhân quả là cái đạo đức làm người, không làm khổ mình, khổ người. Hằng ngày chúng ta phải có những hành động đối xử như thế nào? Làm sao mà không khổ mình, khổ người thì cái này là các con cần.
Không phải cho riêng các con ở đây mà cả những con người có mặt trên hành tinh này đều phải học cái đạo đức. Từ người nhỏ đến người lớn đều phải học đạo đức. Vì có đạo đức thì chúng ta mới thoát ra khỏi cái loài động vật, cái loài thú vật. Còn nếu không thì chúng ta còn mang cái bản chất, cái hành động thú vật chứ chưa phải hẳn là đạo đức.
Từ xưa đến giờ người ta dạy đạo, tôn giáo có rất nhiều nhưng mà người ta không so sánh, không đem cái đạo đức thật, cụ thể nhân bản của con người, nhân là con người, bản là cái gốc của con người, cái đạo đức gốc của con người, người ta không đem ra mà người ta dạy.
(32:06) Cho nên chúng ta tuần tự, ông bà của chúng ta có những cái truyền thống đạo đức nào đó chúng ta chịu cái ảnh hưởng truyền thống đó thôi. Còn bao nhiêu những cái điều làm sai, thiếu đạo đức, còn mang cái bản chất hành động của thú vật chúng ta vẫn còn, chưa phải hết.
Vì không có ai dạy cho nên chúng ta không hiểu được. Chứ nếu chúng ta biết rõ cái hành động đó không phải là cái hành động của con người, hành động đạo đức, chúng ta biết rất rõ thì chắc chắn chúng ta sẽ không hành động đó nữa. Thì tất cả những cái mà chúng ta cần phải học.
Đây là những hành động đạo đức. Thầy nói như thế này, bây giờ các con khạc nước miếng, các con nhổ ở trên cỏ, trong nước thì những cái đó là hành động thiếu đạo đức đó. Đối với đạo Phật thì cái đó đức Phật đã có cái giới luật cấm rồi, tức là đức Phật muốn dạy cái đạo đức cho chúng ta đó.
Cho nên không cho chúng ta làm những cái điều đó. Tức là chúng ta đã làm mất vệ sinh, môi trường ô nhiễm làm cho truyền nhiễm bằng cách này, bằng cách khác. Cho nên chúng ta phải có chỗ, có nơi hẳn hoi, chúng ta mới khạc, nhổ chứ không được khạc, nhổ bậy bạ hoặc là ở trên nước, nhất là ở trong nước đức Phật càng cấm.
Cho nên ai học một trăm giới chúng học sẽ thấy đức Phật cấm. Đó là cái môi trường vệ sinh chứ gì, thì các con biết những cái đạo đức của chúng ta, những hành động của chúng ta, nhỏ nhỏ như vậy đó. Còn huống hồ mà các con đi xe cộ này kia, ăn mía hoặc là ăn cái gì đó là mấy con ném xuống đường thì đó là hành động thiếu đạo đức biết bao nhiêu nữa. Đức Phật đã cấm, không cho làm cái hành động đó.
Hễ mà đi đường xa ra Hà Nội đó thì khi ăn, nói chung là quăng bừa bãi, đủ thứ hết. Nó, không thể người có đạo đức mà làm như vậy. Nhưng mà chúng ta được học, chúng ta được biết, thì không bao giờ mà chúng ta quăng, ném một cái vật gì dơ bẩn. Ở đâu thì chúng ta gom lại để rồi chúng ta để, bỏ có nơi, có chỗ. Chúng ta làm cái môi trường sống của chúng ta sạch sẽ, vệ sinh.
Và từ đó chúng ta sẽ thấy cái hành động đạo đức của đạo Phật dạy. Cho nên chúng ta nói, những cái hành động đó để đưa chúng ta đến chỗ giải thoát, giúp cho chúng ta giải thoát, cho mọi người được giải thoát. Từ đó chúng ta ly dục, ly ác pháp không còn khó khăn.
(34:15) Còn bây giờ chúng ta, thật sự ra Phật pháp nó mênh mông, mà cô đọng lại để cho chúng ta biết đường lối đi, để chúng ta xây dựng lại hành động đạo đức thì người ta không triển khai ra hết được. Không giúp cho chúng ta được một cái con đường lối cụ thể để chúng ta thực hiện trên con đường đạo của chúng ta hoàn toàn đạo đức.
Mà đến khi mà chúng ta giải thoát hoàn toàn, đâu có nghĩa là “thõng vào chợ”, mà khi chúng ta đã giải thoát hoàn toàn thì lại là con người đạo đức. Thuộc về đạo đức của Thánh nhân chứ đâu còn là phàm phu nữa. Cho nên đâu có còn cái vi phạm như người ta đã nghĩ.
Bây giờ Thầy sẽ nhắc lại, sự tu tập thì đơn giản chứ không có khó gì hết, nhưng mà cần thì sau này Thầy sẽ có những buổi chỉ bảo, dạy bảo các con có những hành động đúng đạo đức. Thì để bồi bổ thêm, bồi dưỡng thêm những cái hành động tốt, xả bỏ đi những hành động xấu. Nó không đúng tính cách của một người tu, nói chung không đúng tính cách của người có đạo đức. Cho nên chúng ta xả bỏ những cái hành động gọi là không đạo đức, chúng ta chấp nhận những hành động đạo đức. Dù hành động đó phải như thế nào, chúng ta phải giữ gìn rất là kỹ lưỡng, đó là chúng ta đã học giới luật của Phật.
(35:37) Còn sự tu tập của chúng ta hiện giờ thì chúng ta nỗ lực, thứ nhất là Định Niệm Hơi Thở. Thì giờ nào rảnh rang mà chúng ta ngồi được thì chúng ta nương vào hơi thở, còn thì giờ nào mà chúng ta thấy buồn ngủ, lười biếng thì chúng ta đi kinh hành. Thì nơi đó chúng ta tập kèm theo pháp hướng liên tục, không ngồi yên lặng, không được ngồi để thọ hưởng những cái dục lạc ở trong cái sự không vọng tưởng, luôn luôn để mà lo xả tâm. Và trong cái sự xả tâm đó thì chúng ta nhiệt tâm, nhiệt huyết để mà xả cho thật sạch cái tâm tham, sân, si của chúng ta, phiền não của chúng ta.
Chúng ta phải xả hết Ngũ Triền Cái: tham, sân, si, mạn, nghi của chúng ta. Nghĩa là chúng ta không còn nghĩ những cái xấu của người khác. Ai làm gì thì làm, chúng ta nghe rồi không nghĩ họ xấu. Tập làm sao chúng ta đừng có nghĩ đến người đó xấu hay là gì, đừng có nghĩ đến. Họ làm gì thì kệ họ, họ làm gì thì cái nhân quả họ chịu, chúng ta đừng có nghĩ xấu đến họ nữa. Chúng ta hãy tập làm sao đừng có nghĩ những người nào xấu cả thì tâm của chúng ta không có chướng ngại. Chứ nếu mà chúng ta cứ nghĩ người đó còn xấu thì tâm chúng ta còn chướng ngại.
Cho nên chúng ta đừng nghĩ một người nào, người ta làm xấu tốt mặc người ta, mình không cần, không biết. Ai làm sao thì kệ, miễn làm sao mình giải quyết cái tâm giải thoát của mình, làm sao xả cho được cái tâm của mình. Còn nếu mà trong huynh đệ, trong chị em nhau, có một người nào sống chung nhau trong này mà cái người đó làm sai, mà muốn lôi họ trở về con đường đúng thì các con không có nên trực tiếp nói với người đó.
Không được khuyên người đó, mình không đủ sức người ta không nghe mình đâu. Người ta đã làm sai thì người ta chấp nhận cái sai của người ta thành cái đúng. Người ta có làm quấy thì mình cũng không được nói người ta. Tại sao vậy? Nói người ta không nghe đâu mà mình làm người ta phiền não thêm.
Cho nên mình đã không làm cho người ta giải thoát mà còn làm cho người ta khổ nữa cho nên mình không nói. Chỉ có các con biên thư báo cho Thầy, Thầy biết được người nào sai, Thầy kêu người đó, Thầy chỉnh, khuyên lơn họ, thì họ sẽ tin, phục ở nơi Thầy. Họ có niềm tin ở nơi Thầy, Thầy nói họ mới bỏ. Mà nhiều khi chính Thầy nói họ còn không nghe, huống hồ là các con, các con có biết như vậy.
Thí dụ, biết cái sai, thí dụ như các con thấy, cũng như cháu Đào khi mà tu thì cháu hay nói cái này, cái kia. Cho nên về đây thì Thầy cũng hằng là bảo đừng có nói, mình tu thì đừng nói gì hết. Hoàn toàn để cho người ta thấy cái hành động sống của mình là người ta sẽ biết mình giải thoát. Còn mình nói mình thế này, thế khác thì cái đó nó không phải chính cái người tu, mình còn nói tức là mình không có gì hết đâu. Cho nên bảo đừng có nói gì hết.
(38:19) Còn cái này mà nói thì tức là nó làm cho người ta suy tư về mình. Cho nên không nói, mình cứ sống thôi thì cái đó là cái hay nhất. Mà khuyên vậy nhưng có khi nó nghe, nhưng có khi nó không nghe thì đâu có làm sao được. Người ta phải sáng suốt, phải bình tĩnh, phải tỉnh táo thì người ta mới thấy được cái lời nói có giá trị của Thầy. Còn nếu không thì người ta không thấy được.
Cho nên ở đây, các con tin ở Thầy. Cho nên chị em mà có điều gì thì các con chỉ cần cho Thầy biết để Thầy giúp đỡ họ. Chứ các con không nên giúp họ cái gì được hết, giúp họ bằng cách gì hết, đó là cái điều kiện Thầy giúp đỡ họ dễ dàng, chứ còn người khác thì khó.
Ví dụ bây giờ các con cho cô Út hay cái sai, nhiều khi cô chỉnh thẳng quá làm cho người ta khổ đau nữa. Bởi vì người ta yếu, tâm người ta còn yếu, cô Út cô chỉnh thẳng quá. Còn trái lại Thầy đã biết tâm lý từng mọi người cho nên Thầy chỉnh lại bằng cách từ từ uốn. Cũng như cái cây tre đó, nó cứng thì mình phải lượng cách nào mình uốn cho nó lần lượt nó ngay, chứ không có vội vàng bẻ ngang thì nó sẽ chết đi cái cây. Đối với Thầy thì rất là mềm mại. Nhiều, cần phải gặp nhiều, mỗi lần Thầy nhắc một chút thôi, không nhắc nhiều. Rồi để xem thử coi nó chịu đến cái mức độ nào, rồi mình sẽ nhắc thêm nữa.
Thì cái trường hợp như các con biết, Đào về đây. Trong lúc về đây thì trong cái giai đoạn của nó thì Thầy thường có nhắc nó, mỗi lần họp ở đây thì tức là Thầy có nhắc, coi như là nhắc riêng nó. Nếu mà nó ngồi nó hiểu thì Thầy nhắc nó nhiều nhất, chứ không phải nhắc các con đâu mà Thầy cứ nhắc nó. Bởi vì cái sai đó mà để cho nó sai thì rất tội. Chứ còn đối với cái danh, cái lợi đối với Thầy thì nó không quan trọng đâu. Đứa nào đi ra, họ nói làm sao thì Thầy cũng chẳng có sợ. Bởi vì giải thoát là giải thoát, chứ không phải thi hành là để cầu danh, để sợ người này, người kia.
(40:21) Cho nên đối với Thầy người nào sao thì tùy thuận, tùy thuận để lần lượt uốn nắn họ trở về con đường chân chánh, giúp cho họ. Cái tâm họ như vậy thì mình phải uốn nắn nhẹ nhàng họ, để lần lượt gợi ra cho họ, rồi tự họ tìm hiểu cái đó là cái sai thì từ đó họ bỏ. Còn hiện tiền họ thấy cái đó là đúng chứ họ đâu thấy cái đó sai. Cho nên mình đừng có vội vàng, mình vội vàng thì nó sẽ chớp ngay, không có thể cứu người được, mà nhiều khi nó còn làm cho người khác đau khổ hơn.
Hôm nay các con phải biết trên cái bước đường tu, bởi vì các con là bên phái nữ, nó khó. Còn ở bên phía nam thì Thầy trực tiếp có cái gì Thầy uốn nắn nhẹ nhàng, nhẹ nhàng Thầy sửa sai lần lượt. Thầy tùy thuận Thầy uốn, Thầy uốn cho đến khi nào cho nó thẳng trên con đường giải thoát mà thôi.
Chắc ở đây các con biết mà, người nào Thầy cũng tùy thuận hết, bên nam thì các con thấy rõ ràng Thầy tùy thuận. Minh Tông Thầy cũng tùy thuận, Mật Hạnh Thầy cũng tùy thuận, như trong tùy thuận đó Thầy đâu để đi lạc được. Các con thì thấy, các con cứ nhận xét ở bên ngoài các con thôi, chứ sự thật Thầy đang uốn từng chút quý thầy, sửa cho quý thầy về con đường thẳng để trở thành những người có đức hạnh đàng hoàng.
Bởi vì mỗi một con người nó là một cái cây cây chứ chưa phải là cây ngay, nếu là cây ngay thì đã thành Thánh nhân rồi. Cho nên nó là những loại cây cong mà bây giờ Thầy muốn cho nó ngay thì phải từ từ uốn, không thể nào… cho nên muốn gấp cũng không được.
Muốn đào tạo nhưng các con phải biết họ là người có nhân duyên với mình rồi, cho nên mình phải chịu khó mà uốn, cũng vì nhân duyên của đời trước. Cũng như bây giờ con có cái duyên gặp Thầy ở đây, các con thì không thấy đời trước mình với Thầy là cái gì? Nhưng mà đối với Thầy, Thầy đã thấy rõ được cái nhân duyên đời trước của các con như thế nào.
(42:05) Cho nên đối với Thầy, Thầy uốn nắn các con bằng tình thương của mình, cũng như một người cha mà hồi đó thương Thầy. Một ông cha mà thương con, một người mẹ mà thương con cũng chăm sóc như vậy. Bây giờ Thầy cũng chăm sóc các con như vậy, cũng uốn nắn các con như vậy, để làm sao các con sẽ trở thành sự giải thoát, chấm dứt luân hồi của các con.
Cũng như một người cha, người mẹ thương con làm sao cho con nên người, mà làm sao con mình không thua ai hết, mục đích là như vậy. Cho nên nó đã có cái nhân duyên từ cái đời trước, cho nên vì vậy mà gặp nhau trong cái bước đường Phật pháp như thế này thì phải tìm mọi cách.
Ví dụ như Minh Tông, Mật Hạnh hoặc là những người khác mà đang ở trong con đường, họ đâu phải luôn luôn mà họ đi thẳng được. Bởi vì tâm họ còn đang phàm phu mà, cây họ cong mà mình uốn dần, chừng nào mình không bỏ cuộc mà thôi. Chứ mình đừng có thấy như vậy rồi mình bỏ, mình bỏ tức là mình quên cái ân nghĩa của đời trước của mình.
Cho nên mình luôn luôn lúc nào mình cũng phải nhớ ơn nghĩa. Cho nên dù gian khổ cách gì mình phải uốn nắn họ. Uốn nắn mà tạo cái tình vì họ sẽ lạc trên nhiều cái sự cám dỗ của cuộc đời, rồi họ sẽ khổ đau rất nhiều.
Cho nên ở đây các con phải biết rằng như cô Cảnh từ đâu về đây tu, rồi cũng về đây nhiều lần chứ không phải một lần. Nhưng mà đến hôm nay cô Cảnh trở về đây, luôn luôn phải thấy được có cái nhân duyên chứ không phải không thấy nhân duyên. Cho nên từ đó bây giờ thuần thục ở trong cái tâm tánh như thế nào? Thay đổi như thế nào? Chắc cô Cảnh cũng biết được cái điều đó rồi và Thầy rất tùy thuận và tùy theo đó mà phải uốn nắn dần dần, cho đến khi giải thoát.
Cho nên hôm nay Thầy nhắc lại cái mục đích chính của chúng ta đó là làm sao ly dục, ly ác pháp, diệt ngã, xả tâm của chính chúng ta. Hằng ngày chúng ta dùng cái pháp hướng là nhắc ngay cái tâm tham, sân, si của chúng ta phải diệt. Quyết định là chúng ta phải nhiệt tâm xả cho được, không còn để mang cái tâm đó nữa. Cái tâm còn tham, sân, si là cái tâm phàm phu, cái tâm nó còn mang cái bản chất của loài thú vật, không phải của những người có đạo đức, của những bậc Thánh nhân được.
(44:09) Cho nên từ đây quyết định chúng ta là những người hướng đến cái hành động cao đẹp, cao quý của những con người có đạo đức, của những bậc Thánh nhân, không thể là những người tầm thường. Cho nên chúng ta phải quyết định những cái đó là tầm thường của loài thú vật, của con người phàm phu tục tử, không phải con người có đạo đức.
Cho nên chúng ta phải quyết định xả cho được, xả cho bằng mọi cách cho được với một nhiệt tâm cao độ, với một nhiệt huyết, với một nghị lực kiên cường, nhất định là phải xả. Thì Thầy sẽ tin rằng là các con sẽ làm được. Thầy, chính Thầy cũng có một nhiệt tâm, một nhiệt huyết kiên cường nên mới xả được nó thì chắc chắn các con sẽ làm được.
Chỉ có chúng ta có nghị lực, có nhiệt tâm, nhiệt huyết, chúng ta sẽ làm được điều này. Chứ không phải tu thường, chứ không phải tu chơi. Nhiều khi chúng ta tu mà chúng ta không thấy được nó. Cho nên chúng ta thiếu nhiệt tâm, chúng ta thiếu nghị lực, chúng ta thiếu can đảm để mà vượt qua nó, để mà xả ly nó thì chúng ta không đạt được kết quả.
Cho nên các con nhiều khi hỏi Thầy, nhưng mà dù sao đi nữa cũng lần lượt để mà các con từ từ tập luyện, rồi sau đó mới đem hết cái nhiệt huyết của mình ra mà xả. Giờ phút này là giờ phút các con đã từng chịu đựng mà còn ở đây được thì đó là các con đã nỗ lực, đã quyết tâm hết sức. Cho nên các con phải nỗ lực, cuối cùng là phải diệt cho sạch. Chứ không chẳng lẽ bây giờ trên đường mình đi, đi hai phần ba rồi chỉ còn một phần ba nữa mà không làm sao.
Cho nên mấy con quyết tâm diệt cho sạch, diệt sạch rồi các con sẽ thấy được tâm thanh thản của các con. An lạc lắm, nó không bao giờ có sự khổ, không ai làm các con khổ hết. Nghĩa là mọi ác pháp đến với các con như là giọt nước nhiễu trên lá sen không bao giờ có dính ở trên đó được. Đó là cái lối tu học tập của chúng ta, chúng ta biết được cách thức, chúng ta biết được nhiệt tâm của chúng ta đối với các pháp để chúng ta xài, nó không uổng.
Và từ đây về sau Thầy mong rằng, các con thấy rằng những cái duyên mà chúng ta, nó sẽ lần lượt, đừng có xảy ra chuyện gì làm chúng ta lao động quá cực khổ. Mỗi lần Thầy thấy các con lao động như vậy thì Thầy thấy như là Thầy thiếu cái bổn phận gì, không có trợ giúp cho các con được yên ổn, được vô sự để mà thực hiện được trên con đường đó, con đường tu tập của đạo Phật.
(46:30) Vì ngày xưa đức Phật, Ngài nhận những đệ tử đến đi xin ăn, rồi không làm một cái gì hết, để rồi thực hiện con đường giải thoát. Còn Thầy nhận các con về đây, rồi có những công việc xảy ra, rồi các con phải vất vả lao động đủ thứ, đủ cách, cực khổ, quá cực khổ, Thầy không muốn một cái việc làm nào của các con hết, Thầy không muốn giọt mồ hôi của các con đổ xuống để mà các con làm.
Nó như vậy thì không phải Thầy muốn các con là người lười biếng, không phải đâu? Các con là người siêng năng để mà xả tâm chứ đâu phải là người lười biếng. Thấy chúng ta không làm chứ thật sự thì chúng ta làm rất nhiều đối với nội tâm chúng ta, chiến đấu với nội tâm hết sức. Còn nhiều khi các con thấy mình ăn no rồi không làm gì hết rồi cứ chơi không, không nhiệt tâm thì các con tội lỗi lắm. Cho nên chúng ta vô sự, không làm công việc nhưng chúng ta đã làm rất nhiều công việc.
Các con thấy rằng Thầy lo công việc để in kinh sách thì cái vấn đề là khi trao cho những tác phẩm của Thầy, người thì dùng chữ này, kẻ thì dùng chữ khác, nó đủ loại hết trong một cái tác phẩm. Cho nên bây giờ phải thống nhất từ cái cuốn một cho đến cuốn thứ mười nó phải cho một loại chữ với nhau, rồi cái tựa cũng phải một loại chữ với nhau, và đồng thời cách thức của nó phải trang bị với nhau, y như nhau một cái loại thì như vậy nó mới trở thành một cuốn sách viết sạch. Chứ còn nếu mà nay in hình thức này, mai in hình thức khác thì như vậy là không đúng.
(48:01) Cho nên từ hôm đó đến nay Thầy chỉnh lại tất cả từ cuốn một cho đến cuối năm Thầy điều chỉnh lại, sau này các con sẽ thấy nó ra y một khuôn nhau. Cuốn thì in chữ sát bìa, nó gần như là quá tiết kiệm giấy, cuốn thì có tựa chữ rất nhỏ, còn cuốn thì chữ rất lớn, nó chưa có ổn định được. Cho nên do cái kỹ thuật chưa rành và do cái mỹ thuật chưa nắm vững cho nên cái tác phẩm của Thầy, tuy là nội dung nó có một cái giá trị rất lớn nhưng cái hình thức, về mỹ thuật cũng như kỹ thuật nó chưa có nắm vững. Cho nên nó chưa có đầy đủ, trọn vẹn cái tác phẩm. Do đó Thầy vận dụng cả việc làm của mình để làm cho cái tác phẩm sau này nó có khuôn khổ thì các con có thể in hoặc là phô tô ra nó dễ dàng hơn.
Còn bây giờ Thầy đang chỉnh trở lại, cho nên nó vất vả là vất vả ở chỗ đó, chớ còn nếu có thời gian mà có người mà làm được những cái điều này thì Thầy ngồi Thầy viết, chắc hôm nay thì giáo trình Đạo Đức Nhân Quả chắc Thầy viết cũng gần xong rồi. Coi như cái thời gian mà sử dụng vi tính để ổn định tất cả những cái trang giấy, trang kinh lại thì nó mất rất nhiều cái thời gian chứ không phải ít, coi như mình vừa học vừa chỉnh nó lại.
Chứ đâu phải là mình rành, Thầy chưa bao giờ Thầy biết vi tính bao giờ mà. Cho nên vừa phải mày mò, mò mẫm ở trên cái hành động đó để mà sử dụng theo cái ý điều khiển về kỹ thuật của nó, rồi về mỹ thuật làm cho nó đẹp. Nếu mà mình muốn cho nó đẹp mà cái mỹ thuật mà mình nắm không được thì không bao giờ mình sẽ làm được, nó khó như vậy. Thế mà vừa làm, vừa học, vừa tìm hiểu để cho mình sử dụng được cái máy vi tính thì các con biết thì nó đâu có đơn giản đâu, đâu có dễ dàng.
(50:03) Mà Thầy đâu có phải là người ở trường lớp. Cho nên nó đâu có dễ, thế mà Thầy điều khiển được, làm được thành những trang sách đẹp đẽ thì nó cả vấn đề mà phải trong cái thời gian ngắn như vậy thì nó phải đòi hỏi Thầy làm việc rất nhiều. Nếu mà để cái đầu óc đó mà làm việc rất nhiều thì Thầy viết rất nhiều cái tác phẩm. Còn cái này coi như là cái số mình đã viết rồi. Bây giờ cũng cố ổn định lại thôi, rồi đọc nó lại.
Cái bài kinh nào đó thì lúc bấy giờ đó mới thấy, thấy cái sự thiếu ở trong đó, thừa cũng có, mà thiếu cũng có. Cho nên phải thêm vào, cho nên có số trang. Ví dụ như con đọc một tác phẩm đó có 200 trang thì bây giờ nó phải tới 250 hoặc 300 trang không chừng. Bởi vì phải thêm cho nó đầy đủ cái ý nghĩa của bài đó. Trước kia thì bài đó nó nói như vậy, nó có cái ý như vậy, nó cô đọng lại, nó không có quãng rộng ra, nó không có giảng rộng ra.
Bây giờ Thầy chỉnh nó lại mới thấy cái thiếu của nó cho nên phải thêm vào đó để đầy đủ trở lại. Thì nó đầy đủ được cái bài đó thì cái trang đó nó sẽ tăng lên, tăng rất nhiều. Cho nên coi là chỉnh nó lại, vừa kỹ thuật của vi tính mà vừa mỹ thuật của trình bày, mà lại vừa phải thêm những cái bài của mình viết để cho nó đầy đủ được những cái ý của nó ở trong đó thì nó không có thiếu hụt, nó đầy đủ, nó trọn vẹn.
Cho nên vừa chỉnh như vậy Thầy mới thấy được cái điều kiện mà dạy mấy con, nó không có chỉ cho các con được thấy cái chính, cái phụ. Như cái hơi thở là cái phụ, như những cái pháp hướng cũng là cái phụ mà cái xả tâm mới là cái chính. Sau khi chỉnh ở trong đó Thầy mới tìm ra, mới thấy được cái chỗ để nhấn mạnh để các con biết cái sai.
Thì hôm nay, do ngay cái chỗ này thì Thầy đã nhờ cái việc làm, nhờ cái chỗ mà làm việc mới nhận ra được. Còn trong lúc mà mình tu, mình vô tình mình có nhiệt tâm mình xả, ai có để ý cái chuyện đó, mình quyết cho hết tham, sân, si thôi. Nhưng mà vì hướng dẫn các con mà thấy cái thời gian sao lâu quá, tại sao Thầy làm nó lại hết mau mà các con không?
(52:10) Nhưng không ngờ các con bị ảnh hưởng, ảnh hưởng bởi các cái pháp khác. Các con lại hướng tâm vào cái chỗ phụ mà các con làm cái điểm chính, lấy cái hơi thở cứ ngồi ức chế cho hết cái vọng tưởng hoặc hay là ngồi đó mà hướng tâm xả, mà xả bằng cái hình thức bình thường của nó chứ không phải có cái nhiệt tâm ở trong đó để xả đâu.
Cho nên cái pháp hướng thì có rồi mà hằng ngày thì nhắc nhiều nhưng mà không xả. Cho nên từ cái chỗ đó mà chỉnh lại mới nhìn thấy được mình còn dại, mình còn thiếu cái nhắc nhở chỗ này, cho nên tụi nó không có nhiệt tâm ở chỗ này. Cho nên chỗ này nó không có sự quyết tâm. Do vì vậy mà mỗi lần các con gặp Thầy thì các con được học thêm những cái kinh nghiệm, kinh nghiệm do cái sự rút tỉa qua cái bài viết của Thầy mà Thầy đã thấy cái ý của Phật.
Phật nói: “Nhiệt tâm”, mình tu hành thì mình phải nhiệt tâm trên cái chỗ khắc phục tham ưu. Cho nên những cái danh từ này, thường thường là mình tu thì mình cố gắng mình, tự cái tâm mình nó hiểu, nó làm thôi. Nhưng mà đến khi mà các con mà tu tập rồi, thấy sao nó lâu, nó mất cái thời gian nhiều mà không thấy nó xả được thì mới biết rằng các con có hướng tâm, có Như Lý Tác Ý thật sự nhưng mà không nhiệt tâm chỗ xả.
Cho nên do đó mà nó kéo dài đi thời gian, nó có giảm bớt, nhưng nó sạch, thật sạch thì nó chưa. Cho nên cái nhiệt tâm của chúng ta nó làm cho chúng ta quét sạch. Thì hôm nay các con hiểu thêm về một cái vấn đề tu tập cho nó được rốt ráo thì bắt đầu các con thấy những cái gì trong thời gian mà không được gặp Thầy, thì các con có cần hỏi gì các con cứ thưa hỏi, để rồi Thầy sẽ chỉ dạy cho các con tường tận cách thức tu tập.
(53:57) Bây giờ các con có hỏi gì thì cứ hỏi, còn cái phần mà cô Kim, cô về đây thì … Con đến cái chỗ này, con ngồi đây, chỗ đó cũng được. Cái phần của con, con ngồi xuống đi con, đừng quỳ con, quỳ mỏi chân lắm. Cái phần của con đó, hôm nay được về đây tu tập thì cố gắng xin những cái giấy phép tạm trú, tạm vắng cho có thời gian, nó kéo dài để mình quyết tâm mình sống cho đúng cách ở đây.
Để mình nỗ lực thực hiện và đồng thời trải qua cái thời gian mà các huynh đệ đã ở đây tu tập đó thì coi như là họ cũng đã hết sức. Nhưng mà vì nó còn ở trong cái hướng dẫn thăm dò của Thầy, chứ chưa có phải là có cái kinh nghiệm mà quyết định. Nghĩa là sợ đụng chạm với Đại Thừa, sợ đụng chạm với Thiền Đông Độ, cho nên Thầy không có sự quyết định. Vì vậy mà để cho mà các chị em tu hành nó có kéo dài thời gian.
Còn hôm nay con đủ duyên, con về đúng lúc mà Thầy đập rất mạnh, Thầy không có nhịn cái giáo pháp của người nào hết. Vì cái con đường mà Thầy hướng dẫn đó là con đường chân chánh của đạo Phật. Cho nên hiện giờ cái gì mà làm sai đạo Phật là bị Thầy đập xuống hết.
Sai là vì người ta tu không được, làm cho đời này đến đời khác người ta khổ. Con có duyên về hôm nay đủ đó, những cái gì hôm nay Thầy dạy thì con hãy cố gắng mà giữ gìn để cho thời gian rất ngắn mà đạt được kết quả. Đó là cái phước nó có ở trong giai đoạn này cho nên đừng có để mất thời giờ.
Ví dụ như ở đây dạy độc cư thì ráng cố gắng dè dặt, giữ độc cư không nói chuyện với ai hết, chỉ luôn luôn sống trong pháp mà Phật gọi là tùy pháp. Tùy có nghĩa là theo chứ không phải là tùy thuận với pháp đâu, mà theo ôm chặt cái pháp ở trong tâm của mình luôn luôn lúc nào, giờ phút nào cũng ôm chặt cái pháp đó mà tu.
Ví dụ như tu như thế nào, tu trong hành động thì hành động là đi, đứng quét sân, nhổ cỏ làm những công việc, luôn luôn phải nương vào cái hành động đó để mà thực hiện cái pháp. Cái pháp thì các con biết rồi, pháp đó là Như Lý Tác ý xả tâm.
(56:13) Làm cái gì thì nhớ cái việc làm đó để mà nhắc cái tâm, mà hễ nhớ được cái việc làm tức là phải nhớ được cái nhắc tâm, cái pháp hướng phải nhớ nó. Mà nhắc thì phải nhiệt tâm với cái nhắc của nó, bởi vì cái câu pháp hướng đó, nó là cái đạo, nó chỉ cho mình biết cái tâm của mình phải vào cái đạo đó.
Cho nên dẫn tâm vào đạo vì vậy mà cái hướng tâm là nhắc cái tâm của mình, dẫn cái tâm vào cái đạo. Vậy thì cái câu pháp hướng đó nó có cái nghĩa ở cái chỗ của sự giải thoát đó. Cũng như "tâm như cục đất", thì cục đất đó nó sẽ giải thoát, nó không còn tham, sân, si, ham muốn nữa. Cho nên cái chỗ như cục đất là một cái tên để chỉ nó còn cái trạng thái như cục đất, nó không có phiền não, đau khổ thì chính cái chỗ đó là tâm nó phải là như vậy. Thì tâm mà nó như vậy, nó như cục đất, cái trạng thái cục đất đó thì đó là đạo ở cái chỗ đó.
Cho nên khi mà chúng ta hướng tâm, nhắc thì chúng ta phải cố gắng khắc phục cái tâm của mình phải ở cái trạng thái cục đất, không có phiền não, tham, sân, si. Phải nhớ như vậy thì chúng ta luôn luôn lúc nào cũng sống trong pháp, chúng ta không còn để cái tâm mà có kẽ hở, mà để nó ra ngoài. Thì cái thời gian nó sẽ ngắn lại, nó sẽ thu ngắn lại. Sáu tháng hoặc một năm là sẽ xả hết tâm. Nghĩa là sáu tháng mà nỗ lực không để kẽ hở tức là chúng ta không nói chuyện với một người nào hết, luôn luôn chúng ta sống ở trong cái pháp đó.
Rồi bây giờ mình làm công việc, rồi cái giờ rảnh rang, tối mình ngồi thiền thì mình cũng ở trong cái pháp đó, pháp xả tâm mà. Rồi bây giờ mình đi kinh hành, mình ngồi thiền, mình hít thở, mình đều là hoàn toàn, trừ ra cái giờ mà mình ngủ thì thôi. Mình ngủ, mình thức dậy rồi thì bắt đầu ôm pháp nữa, coi như chúng ta là người đang vượt biển mà ôm cái phao để mà vượt biển. Thì cái pháp Như Lý Tác Ý đó, nó là cái phao để mà chúng ta ôm để mà vượt biển, chúng ta đừng bỏ nó. Nghĩa là đừng bỏ nó có kẽ hở thì cái tư tưởng của chúng ta sẽ bị cái niệm khác nó sẽ đánh vô, mà nó đánh vô thì mình mất thì giờ.
(58:12) Chẳng hạn bây giờ mình tu một hơi rồi mình nghỉ cái bắt đầu mình nhớ về gia đình của mình, nhớ nhà, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ anh em, chị em. Lúc bây giờ bị cái kẽ hở đó mà chúng ta sẽ kéo dài cái thời gian. Còn chúng ta đừng để kẽ hở đó thì thời gian đó nó sẽ ngắn và nó sẽ nhanh chóng, chúng ta sẽ hoàn toàn làm chủ trong cái thời gian ngắn. Và thời gian ngắn thì khi xong rồi thì mặc tình chúng ta tu xong rồi thì tâm chúng ta nghĩ ai đó thì nghĩ, nghĩ gì cũng được hết, không còn lo nữa.
Còn bây giờ chúng ta tu chưa xong thì thôi để ráng nỗ lực cho nó xong rồi đã. Thì nghe lời Thầy thì cố gắng, về đây thì phải nói rằng cái hạnh độc cư đó, cái hạnh mà không nói chuyện đó thì đó là đệ nhất, đệ nhất pháp ở đây. Nó là bí quyết thành công của thiền định.
Nếu mà chúng ta độc cư được thì tâm chúng ta xả, mà nếu mà chúng ta không độc cư được thì tâm chúng ta sẽ bị buông lung, nó phóng dật. Mà đức Phật đã nói: "Tâm không phóng dật là đệ nhất pháp giải thoát", những cái câu ngắn mà đức Phật đã dạy cho chúng ta rất rõ ràng.
Tâm mà không phóng dật nó là đệ nhất pháp giải thoát. Muốn mà đạt được đệ nhất pháp tâm không phóng dật chỉ có độc cư thì nó mới là đệ nhất pháp xả tâm. Thì hiểu rõ như vậy thì chúng ta cố gắng độc cư. Chúng ta làm tất cả chung đụng với mọi người. Người ta quét sân thì mình hốt rác, mình để, mình đổ trên xe, mình đẩy đi không nói chuyện với ai hết. Nhưng mà mình vừa làm công việc chung với mọi người tâm vẫn luôn luôn ở trong pháp.
Cho nên mình đừng để cái tâm của mình nó lảng ra ngoài pháp. Mình rời pháp tức là mình rời phao, mà mình rời phao thì mình chìm xuống dưới biển. Các con hiểu không? Mình đang ôm cái phao để vượt biển khổ, cái biển khổ là cái biển tâm của mình, cái biển khổ của trần gian, của trần mê đó, nó làm cho mình khổ. Mà mình rời pháp tức là mình bỏ phao thì coi như mình đã chìm xuống biển.
Vì vậy khi thì mình ôm, khi thì mình buông, lúc thì chìm, lúc nổi thì biết chừng nào mình mới tới bờ bên kia được. Còn mình cứ ôm phao mình chịu đó thì nó sẽ lần lượt nó đi tới bờ, tới nơi tới chốn.
(01:00:12) Nhớ những lời Thầy nói để rồi các con sẽ thực hiện thì các con sẽ đạt được kết quả nhanh chóng. Nhanh chóng để làm gì? Để làm gương hạnh đạo đức, để thắp lại ngọn đuốc Phật pháp đang bị người ta vùi dập, người ta phá bỏ, người ta dẹp nó đi. Chúng ta cố gắng thắp lại cho sáng, thì nhớ kỹ những cái điều đó để mà nỗ lực tu tập.
Về đây Thầy đã dạy con căn bản, đi kinh hành như thế nào? Ngồi hít thở như thế nào? Có nhớ không? Nhớ phải nỗ lực làm cho đúng và luôn luôn pháp hướng xả tâm. Mỗi lần có nghĩ đến cái pháp hướng nào đó mà nghi ngờ, sợ nó không đúng thì viết câu pháp hướng đó gửi cho Thầy, xin Thầy quan sát cái câu pháp hướng này có hợp với đắc tướng của con không? Hợp thì tức là Thầy sẽ cho sử dụng cái câu pháp hướng đó để mà nhắc tâm mình, để xả. Còn không hợp thì Thầy sẽ sửa lại câu pháp hướng đó cho, để cho nó hợp với đặc tướng đó của mình để mà tu tập.
Cho nên các con có một cái số pháp hướng mà các con thấy hợp với mình, mình nỗ lực tu không cần hỏi. Thấy mình tu một thời gian mà nó không kết quả thì mình muốn tìm một câu pháp hướng khác cho nó có hiệu quả trên bước đường tu của mình thì do đó viết cái câu đó ra gửi đến Thầy. Thầy sẽ đọc cái câu pháp hướng đó, Thầy sẽ trợ giúp cho. Thì các con thấy nhiệt tâm tu hành, mình lo lắng tu hành thì cái điều mà mình làm cái này nó sẽ nói lên cái điều nhiệt tâm của mình, ráng cố gắng mà hãy nỗ lực tu tập.
Chứ không phải mà con cứ vào thất, cứ ngồi thiền, lê thê, la tha ngồi hoài ở trong đó gọi là giải thoát, không có giải thoát đâu. Mà chính chúng ta, ngoài giờ nào chúng ta ở trong thất, chúng ta độc cư không nói chuyện, làm chung đụng mà không nói chuyện gì hết, làm chuyện nhẹ nhẹ mà không phí sức lực thì tu tập dễ.
Nhưng ở không thì chúng ta tu rất khó chứ không phải dễ. Ở không thì sẽ sanh ra lười biếng, ở không thì nó sanh ra kiến giải. Nó ở không thì chúng ta phải đọc các kinh sách, mà đọc kinh sách thì chúng ta bị pháp tưởng. Cho nên chúng ta sẽ có nhiều kiến giải, từ kiến giải đó nó sẽ làm cho chúng ta lệch đường, bởi vì nó là pháp tưởng.
Chúng ta phải chấp nhận có một pháp duy nhất là chúng ta đi con đường đó. Như ông Bàn Đặc ngày xưa ông chấp nhận cái lời Phật dạy là quét tâm. Cho nên ông tạo cái tâm ông sạch sẽ là ông chứng đạo và giải thoát hoàn toàn.
(01:02:25) Nhớ như vậy thì hôm nay con đủ duyên, thì sau cái thời gian ở đây tu tập, cô Út thấy được. Cho nên Thầy chấp nhận cho con về tu thì phải ráng nỗ lực mà tu, để không phụ lòng, nhất là phụ lòng Thầy, phụ lòng cô Út, phải ráng nỗ lực mà tu tập. Rồi không phụ lòng ơn cha mẹ sanh thành của mình, sinh ra đứa con, tu giải thoát tức là đền đáp ơn sanh thành cha mẹ.
Còn tu, mà mình đi tu mà không có ra gì hết, nghĩa là bao nhiêu người tu mà không giải thoát. Cha mẹ sanh con ra thì mong cho nó làm nên sự nghiệp. Mà bây giờ đi tu mà nó không làm nên gì hết. Bất quá nó làm trụ trì giữ cái chùa đó thôi. Thì nó cũng làm những cái chuyện coi như là mê tín, cúng bái hoặc này kia, hoặc làm từ thiện như vậy, nó có ra gì đâu. Đối với nó thì không có giải thoát được cái gì hết, cha mẹ cũng buồn chứ đâu có vui được.
Còn bây giờ mình tu hành mà mình giải thoát, mình không có khổ đau nữa thì cha mẹ cũng vui chứ, con mình đã làm nên sự nghiệp rồi. Thì nỗ lực như vậy thì không phụ ơn Thầy, không phụ ơn cha mẹ. Không phụ ơn Phật tổ, người đã để lại giáo pháp mà thời nay chúng sanh người ta còn, mọi con người ta còn thực hiện được thì mình không phụ thì người ta rất mừng. Còn đàng này người ta để lại giáo pháp mà mình tu hoài mà không được gì hết thì người ta cũng buồn, chư Phật cũng rất buồn.
Hôm nay thì các con đã nghe được cái điều mà Thầy nói thì mình nhiệt huyết. Chúng ta không phải tu hành để hơn thua với ai, mà nhiệt huyết để vượt qua để được giải thoát, chứ không tranh hơn thua. Bây giờ mình ráng mình tu để hơn người này, người kia thì cái đó là còn cái tâm ganh tỵ, không được!
Chúng ta tu là chúng ta nhắm vào cái mục đích chúng ta giải thoát cho được, để không phụ ơn Thầy, phụ ơn cha mẹ, phụ ơn những người đã giúp đỡ mình. Đó thì cái mục đích chính, các con đã thấy được cái pháp chính, cái mục đích chính của chúng ta phải thực hiện trên con đường tu.
(01:04:12) Không khéo chúng ta bị tình cảm gia đình anh em, chị em, cái này, cái kia lôi kéo chúng ta. Chúng ta làm sao chúng ta cắt đứt đừng có cho những người đó liên hệ với chúng ta nữa thì chúng ta tu dễ. Mà cứ liên hệ hoài chúng ta khó tu lắm. Bởi vì cái ái kiết sử mà, nó luôn luôn, nó ràng rịt chúng ta dữ lắm, nó làm cho chúng ta khó giải thoát. Cho nên nó làm cho chúng ta rất khó giải thoát.
Như các con cũng biết rồi, cũng như Minh Tông tu, hết sức tu chứ đâu phải nó bỏ bốn, năm năm trời nay, theo cái này chứ đâu phải dễ, đâu phải ít. Nhưng mà cuối cùng cái ái kiết sử, cái đối với gia đình, con cái của nó, coi vậy chứ nó đâu phải là cắt đứt được đâu. Cho nên có những chuyện gì thì hoàn toàn cái ái kiết sử thì nó đâu có phải là chuyện dễ đâu.
(01:04:54) Trong kinh sách Đại thừa thì nó lý luận rằng chứng quả A La Hán rồi thì kiết sử nó mới dứt. Sự thật ra đâu phải đợi chứng rồi mới dứt kiết sử đâu? Khi mà chúng ta ly dục, ly ác pháp - Sơ thiền, chúng ta phải nỗ lực, khi mà chúng ta diệt Ngũ Triền Cái nhập Sơ thiền rồi thì chúng ta nỗ lực diệt tất cả những Thất kiết sử, bảy cái kiết sử trói buộc chúng ta. Chúng ta phải diệt luôn thì nó mới được, chứ không phải là tới đây rồi chúng ta thôi đâu, chúng ta phải nỗ lực.
Cho nên bây giờ mình nói mình đang nhập Tứ thiền, Tam thiền này kia mà ái kiết sử mình còn thì chưa có tới đâu, nó còn xa lắm. Tất cả những cái sự tu tập như vậy thì các con nhớ có duyên mà về đây sống mà tu tập thì phải nỗ lực hết sức. Trong cảnh động mà chúng ta nỗ lực tu để mà chúng ta xả tâm thì dễ lắm. Đừng tìm cái nơi yên tịnh mà gọi là Thiền Định thì chúng ta sẽ rơi vào thiền tà, nó ở nơi mà trạng thái của tĩnh lặng thì nó sẽ rớt đi. Cho nên nó sẽ không đạt được cái xả tâm của chúng ta.
Cho nên các con cố gắng và nhiệt tâm như lời Thầy nói thì Thầy tin rằng các con sẽ làm được việc lớn chứ không phải nhỏ đâu. Rồi kế đây Thầy sẽ dạy các con về đạo đức văn hóa. Khi mà Thầy viết cái giáo trình cũng như Thầy soạn cái bộ kinh Giới- Đạo Đức của con người và đạo đức của Thánh nhân- thì Thầy sẽ dạy về đạo đức của con người, dạy hết đạo đức của con người rồi thì Thầy sẽ dạy đạo đức của Thánh nhân. Chừng đó thì các con sẽ biết từng hành động của chúng ta, cái hành động nào là của con người, cái hành động nào là hành động của con thú, mà hành động nào là của Thánh nhân.
(01:06:27) Thì cái đó là để chỉ cho chúng ta biết cái đạo đức của con người là chỗ nào? Và cái đạo đức của Thánh nhân là chỗ nào? Và cái không đạo đức, còn mang cái bản chất của con thú ở chỗ nào? Để chúng ta tránh, để chúng ta không có còn hành động của bản chất của con thú nữa.
Bởi vì trong con người của chúng ta nó còn bản chất thú tính chứ chưa phải là sạch. Mà người tu hành là mục đích chúng ta phải dẹp sạch những cái bản chất thú tính của chúng ta, để thực hiện toàn bộ là đạo đức. Thì hôm nay nói như vậy thì các con đủ biết rằng cái con người chúng ta phải sống, nó phải cho ra con người, cho đúng với đạo đức của con người. Và nếu mà chúng ta sẽ trở thành những bậc Thánh Tăng thì phải cho ra cái bậc Thánh Tăng. Sống cho đúng cách Thánh Tăng, sống cho đúng cách Thánh chứ không phải là mặc chiếc áo này, cạo cái đầu này rồi, vấn cái y vô gọi mình là Thánh Tăng được.
Thánh gì mà cái hành động như vậy mà gọi là Thánh? Một vị tu sĩ mà cưỡi xe dream hoặc là lái xe hơi thì gọi là Thánh gì? Ở ngoài đời người ta làm được sao người ta không Thánh? Còn mình bây giờ đi tu cũng làm cái chuyện đó, mình gọi mình là Thánh Tăng sao được.
Thành ra cái hạng mà gọi là Thánh thì nó phải có những hành động sống không phải như cái tâm ham muốn của như thế gian, như cái tâm mà dục như thế gian. Thì sau này các con sẽ học hết những cái oai nghi tế hạnh của một bậc Thánh, oai nghi tế hạnh của người có đạo đức. Chúng ta phải rèn luyện mình trong cái đạo đức thì các con là những người được dạy đạo đức đầu tiên ở đây.
Hôm nay thì chưa học đạo đức chút nào hết nhưng mà Thầy nói, khởi sự cho các con sẽ học đạo đức. Nhưng mà các con phải cố gắng thực hiện nhiệt tâm, xả tâm để rồi chúng ta sẽ học được cái đạo đức. Từ đó chúng ta khi tu xong rồi, chúng ta sẽ đem cái đạo đức này dạy lại cho mọi người. Dạy cho mọi người không có nghĩa là ta lý thuyết suông mà chúng ta nói ở đâu thì chúng ta hành động đúng chỗ đó. Chứ mình nói thì mình chửi lộn người ta thì tức là mình còn mang bản chất thú dữ, mình hung hăng, mình chửi người ta thì mình nói đạo đức mà mình có đạo đức gì đâu? Ai mà tin mình.
Cho nên mình phải thực hiện cho được, rồi chừng đó mình mới đem đạo đức mình dạy cho người ta thì người ta mới tin tưởng ở mình. Nó khó là khó ở chỗ mình phải sống, cái hành mình phải hành cho đúng thì cái lời nói của mình, tri hành nó phải hợp nhất. Cái nói, cái hiểu biết của mình khi nói ra đó thì phải đúng theo cái hành động của mình thì người ta mới tin tưởng. Chứ mình nói mà mình hành động không đúng thì người ta không tin tưởng mình đâu.
(01:08:45) À bây giờ cô Kim còn gì, hỏi gì Thầy nữa không? Đến một tháng hoặc nửa tháng thì coi nó thuần thục như thế nào? Thì viết ở trong cái tập này, xin trình cho Thầy, Thầy xem cái sự đó rồi Thầy sẽ dạy tiếp theo những cái pháp hướng.
Chẳng hạn bây giờ trong cái giai đoạn này thì mình phải pháp hướng, cái số pháp hướng này. Trong khi đó mình tu để vừa xả tâm, vừa là tỉnh thức luôn cho mình. Nhưng mà một thời gian sau thì mình tiếp tục trên cái bước đường đó thì mình phải, những cái pháp hướng này thì mình phải bỏ. Và những cái nào mình cần bỏ thì phải bỏ, cần lấy thì Thầy sẽ lấy những cái pháp và cho thêm những cái pháp hướng nào để cho nó phù hợp tiến tu trong từng cái giai đoạn một để cho mình đạt được.
Bây giờ thì trong giai đoạn này thì con nên cố gắng tập luyện và sống cho đúng những cái hạnh, cái hạnh tu. Theo ở đây thì con sẽ thực hiện những cái này sẽ rất thuần thục. Sau khi thuần thục rồi đó thì Thầy sẽ tiếp tục dạy thêm những cái phần sắp tới. Còn mình không nên, cái mình chưa có tu tới mà mình học mình hiểu thì nó lộn xộn, nó khó cho mình tu. Coi như Thầy giảng một cái giáo án như vậy chứ nó làm cho người ta rối ren, lộn xộn, khó tu lắm, hơn là dạy thực hành.
Vì thực hành chúng ta dạy tới đâu tu tập đến đó rồi mới dạy tiếp thì nó dễ cho cái người tu. Còn lý thuyết mà giảng rất nhiều đủ thứ, cuối cùng thì người ta rất rối. Cho nên con cố gắng thực hiện những cái này là đúng. Có gì thưa hỏi Thầy nữa không? Giờ các con có ai hỏi không?
Minh Cảnh sao con? Hổm rày bệnh đau còn khỏe không con?
Tu sinh Minh Cảnh: (…)
(01:10:41) Trưởng lão: Con hỏi, con có xin cô Út thuốc thang hoặc là những cái gì cần để mà bồi dưỡng cho cái cơ thể đó, con cứ xin. Mình tu sĩ thì mình phải chấp nhận cái đời sống đi xin đó. Mình xin người ta cho cũng tốt mà người ta không cho cũng tốt, mình cũng vui, chứ không có phiền gì đâu, mà mình vẫn vui vẻ xin.
Cho nên vì vậy Thầy khuyên các con, mình chấp nhận đời sống đi xin, đừng có tích trữ cái gì hết mà mình cần thiết cái gì đó, thì mình đi xin. Rồi người cư sĩ thì người ta sẽ giúp đỡ mình bằng phương tiện này hay phương tiện khác, người ta sẽ giúp đỡ cho mình trên cái bước đường tu. Cho nên mình giải thoát, không có gì đâu.
Do đó đừng để tâm giao động, dù cái thân con có bệnh đau, có nhức nhối gì, kệ, mặc nó! Miễn là pháp hướng tâm không dao động trước thọ, trước ác pháp, bệnh tật gì? Không dao động, không có sợ hãi. Ai lại không chết, ai lại không đau, ai cũng sống trong nhân quả thì bao cũng phải có những cái này hết. Do đó đừng có sợ hãi gì hết.
Đừng có lo lắng, đừng có ham sống gì hết thì hoàn toàn con sẽ bình tĩnh và con luôn luôn ôm pháp. Càng đau bệnh bao nhiêu thì càng giữ pháp, đừng lìa nó, thì tâm sẽ bất động. Mà tâm bất động thì nó sẽ xả ly được cái tâm của mình. Nó diệt ngã, xả tâm, ly dục, ly ác pháp hết. Cho nên càng nỗ lực bao nhiêu mà các con đừng có lìa pháp thì các con sẽ mau lắm, cái thời gian đó nhanh lắm, đừng để cho kẽ hở. Nó còn kẽ hở thì nó không có miên mật được.
Người ta nói cái nhà của mình xây mà để có kẽ hở thì ánh sáng nó ở ngoài nó sẽ lọt, thì nó lâu lắm. Cái mà mình xây sao mà nó như tường đồng, vách sắt, nó kín mít, nó không có kẽ hở, mình cứ luôn luôn ôm pháp, không có lìa pháp. Thì cái đó người ta gọi là miên mật đó, nó kín mít, nó không có còn chỗ nào là kẽ hở nữa thì nó mau.
(01:12:11) Cho nên mình sống ở trong pháp thì cái pháp mình nó sống đó. Tuy vậy chứ cái cơ thể của mình, cái đặc tướng của mình nó không có chịu luôn luôn nó ở trong pháp đâu, nó động lắm. Nó làm cho mình mỏi mệt, nó làm cho mình khổ sở, nó làm cho mình khó chịu thì mình lại bước qua một cái giai đoạn mình thư giãn mình xả nó. Xả xuống cho nó an ổn cái thân.
Khi đó con biết con sử dụng cái môn pháp hướng nào không? “An tịnh thân hành”, khi cái thân nó bị động thì: "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô….”.
“An tịnh thân hành tôi biết tôi đi kinh hành…." Rồi mình đi kinh hành. Hoặc: “An tịnh thân hành tôi biết tôi quét sân.” Bởi vì cái thân nó không an.
Cái tâm nó không an thì cái câu mà Phật dạy đó: "An tịnh tâm hành tôi biết tôi quét sân.”
“An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô…." Mình thở thì mình nói hít vô, mình thở ra thì mình nói mình thở ra. Mà mình đi quét sân, mình đi kinh hành thì mình phải nhắc theo cái hành động của mình làm, để cái thân và tâm của mình cho nó an tịnh.
Vừa rồi em của Tôn về đây, khi nó mới tu, nó ngồi thì nó bị mỏi, rồi nó bị nhức. Thầy bảo nó khi mà bị như vậy đó thì con cứ nhắc như thế này: "An tịnh thân hành con biết con hít vô, an tinh thân hành con biết con thở ra." Rồi con đi kinh hành con cũng nhắc cái câu pháp hướng đó.
Chừng nào nó yên tịnh được, cái thân con nó ngồi đó không thấy đau nữa, không thấy mỏi mệt, không thấy lười biếng nữa thì con thôi. Còn nếu mà nó có như vậy thì con cứ nhắc hoài, nhắc chừng nào cho được thôi. Thì một tuần sau nó lên nó báo với Thầy con làm theo lời Thầy bây giờ cái thân con an lành, con ngồi yên rồi, nó không có động nữa.
Đó thì các con biết người ta tin tưởng Thầy, Thầy dạy người ta, người ta nhiệt tâm, người ta làm hết sức. Thầy bảo phải nhiệt tâm ở trong cái chỗ đó. Mình nói nó "an tịnh" thì mình phải không có dao động tâm, mình không có theo nó, nó muốn cái gì cũng không được hết. Phải "an tịnh" thôi thì nó sẽ an. Cái quyết định của mình như vậy.
Cho nên ở đây, Thầy nhắc các con nỗ lực tu. Bởi vì ngày giờ chúng ta không còn nhiều nữa đâu, cái tuổi đời, cái thân của chúng ta, cái tuổi thọ nó không còn sâu nữa thì phải nỗ lực thực hiện trong cái đời này chúng ta phải giải quyết cho xong. Chỉ có xả tâm xong rồi thì nó chấm dứt được con đường tái sanh luân hồi rồi thì chúng ta thấy khỏe.
Cái tâm ly dục, ly ác pháp, cái tâm mà không còn lậu hoặc thì chúng ta sẽ hết khổ. Cái đường mà chơn chánh của đạo Phật giúp chúng ta giải thoát. Còn những cái phần thiền định để giúp chúng ta làm chủ thêm những cái đạo lực cho nó như ý túc thôi, chứ không có cái gì mà khác hơn cái giai đoạn đầu mà chúng ta ly dục, ly ác pháp.
Tu sinh: (…)
(01:14:44) Trưởng lão: Con cứ ngồi đi con! Nó không giải thoát, mà mình ép nó, mình nói mình ép buộc như vậy cho nó quen, tức là mình khổ hạnh. Chữ ‘khổ hạnh’, các con nhớ chữ khổ hạnh không có nghĩa là mình ép xác mình bằng cách này, bằng cách khác, mà ngay cả sự tu hành mà của mình, thấy cái thân mình nó có cái gì khổ thì ngay đó là mình đã khổ hạnh. Cũng như bây giờ ngồi tréo hai cái chân lên kiết già mà giờ nó đau quá thôi ráng ngồi, ngồi cho đúng giờ mới xả, thì cái khoảng mà đau đó thì cái người này đang khổ hạnh.
Cho nên cái khổ hạnh đức Phật đã xác định được là mình đã làm khổ thân mình. Cho nên đức Phật mới nói: "Đạo của ta thì không làm khổ mình, khổ người." Mà tại sao mình lại làm khổ mình? Mà mình làm khổ thì đức Phật đâu có chấp nhận. Các con có biết? Cho nên đừng làm cho nó khổ. Mà khổ, làm cho nó khổ tức là ép nó, tức là ép xác chúng ta. Chúng ta không có đạt được giải thoát mà lại đạt đến cái khổ của chúng ta. Cho nên khổ hạnh không đưa cho chúng ta đến sự giải thoát. Vì đó đã khổ rồi, còn gì nữa để giải thoát.
Cho nên phải hiểu biết như vậy. Cho nên chúng ta ngồi được ở cái mức nào đó thôi, chúng ta ngồi không ép, không tăng. Chừng mà chúng ta nhập định thì chúng ta truyền lệnh nó nhập chứ đâu phải chúng ta tập ngồi đó, mà để ngồi đến ba, bốn giờ đâu. Chừng chúng ta nói nó dùng Định Như Ý Túc, tức là cái định, chúng ta muốn định thì khi chúng ta có cái tâm thanh tịnh rồi thì chúng ta truyền lệnh, thì nó sẽ ngồi ba, bốn ngày, bảy, tám ngày, một tháng, hai tháng như không.
Còn bây giờ chúng ta có tập, chúng ta có ngồi được ba, bốn ngày không? Chưa chắc. Chúng ta chỉ ngồi có mười hai tiếng đồng hồ rồi cũng hết sức. Cái sự tập luyện của chúng ta thì sẽ ngồi được chứ không phải không, nhưng nó không dài đâu, không có lâu được.
Còn khi mà cái thân tâm nó nhập định thì chúng ta muốn một tháng, hai tháng gì cũng được. Nó ngồi được, nó ngồi bất động được. Cho nên cái mục đích thiền định của đạo Phật nó rõ ràng, nó cụ thể. Mà ngồi bất động như vậy nó không đau, không nhức, không thụng.
(01:16:32) Còn bây giờ các con cứ nhìn đi cái người nào mà ngồi chừng một, hai, ba tiếng đồng hồ đi, cho họ ngồi ba tiếng, hai tiếng hoặc là một tiếng đi. Thầy nói một tiếng, họ ngồi một hơi cái lưng họ xéo xẹo hà, người nào có giỏi thì ngồi cũng xéo hà. Là tại vì cái thân chưa có định cho nên nó không bất động, nên nó phải xéo, nó phải thụng thôi. Các con cứ lưu ý mấy người ngồi thiền đi, đầu giờ họ ngồi vậy, các con để ý coi, tới chừng mà gần xả các con thấy cái xương sống của họ trẹo que hà, nó không có thẳng đâu, nó không có đứng đâu. Cho nên họ không có định đâu.
Vì vậy đó là một cái sai, không có đúng. Còn chúng ta không có ngồi thì thôi, mà ngồi thì rất thẳng, dù có một phút cũng phải thẳng. Mà chứ không có ngồi thì thôi, chứ đừng có ngồi mà một giờ đầu thì thẳng, rồi sau lần lần rồi thụng, rồi xiên qua như vầy nữa, thì ngồi riết nó sẽ thành thói quen đó, thì hư hết rồi. Phải biết được cái chỗ tu của mình như vậy thì cố gắng mà thực hiện. Bây giờ về đây mà nỗ lực, cố gắng, có cái gì thì con cứ xin cô Út.
Còn cô Huệ Ân, con sao? Hôm nay con thấy như thế nào con? Con cứ ngồi đi con, đừng có quỳ, ngồi đi, ngồi cứ trả lời đi con.
Tu sinh Huệ Ân: Dạ thưa Thầy, nhờ sự nhắc nhở của Thầy với cô Út con thấy con rất nhẹ nhàng, con luôn luôn dùng pháp hướng, con luôn nghĩ chuyện này, chuyện kia hoài, nhờ pháp hướng.
(01:17:59) Trưởng lão: Con nhiệt tâm con nhắc, con nhiệt tâm con xả nó cho đến rốt ráo hoàn toàn. Cho đến khi mà con thị tịch, tức là con chết, con vẫn thản nhiên không có còn cái gì nữa thì tức là cái sức mà chuyển kiếp của mình nó vẫn tự tại, nó vẫn tốt chứ nó không có sao hết, mà nó thanh tịnh nữa. Nó làm cho mình rất an ổn, nó không còn khổ đau, nó không có hoành hoành cái thân của con nhiều.
Cho nên con cố gắng ở trong lúc này, bây giờ nó còn vững vàng trong những ngày giờ mà còn sống thì con cố gắng, con nhiệt tâm con xả sạch. Con nhắc cái tâm phải xả cho sạch, làm cho thật sạch, không có được còn cái tâm đó nữa. Không có nhớ thương con cái, không có lo gì hết, tụi nó đã lớn khôn hết rồi, con bây giờ có thương nhớ, con lo gì cũng không có được đâu. Cho nên hoàn toàn xả cho sạch. Đứa nào bây giờ nó cũng lớn, cũng khôn rồi, có đứa thì đi tu rồi, có đứa cũng có gia đình thì nó làm ăn rồi, thì bây giờ thì nó phải lo lấy đời sống của nó, con đừng để tâm đến chúng nó nữa, hoàn toàn là con xả cho thật sạch.
Quyết định là phải xả cho thật sạch thì trong cuộc đời này, thứ nhất là con sẽ lìa cho được cái Ngũ Triền Cái: Tham, sân, si, mạn, nghi. Cái thứ hai nữa là Thất Kiết Sử, đoạn cho dứt ra. Nỗ lực hằng ngày nhắc nhở tâm mình, để cho mình diệt cho sạch, ly cho hết thì mới yên tâm được.
Tu sinh Huệ Ân: Bạch Thầy, con cả tháng nay con đem về, cả tháng nay con hai thời, mỗi thời hai buổi ba mươi phút, con nghỉ ba mươi phút. Còn ban ngày thì con chỉ tu có một thời ba mươi phút, còn thời sau con lượm về.
Trưởng lão: Tỉnh thức.
Tu sinh Huệ Ân: Con lượm về con ăn con cắt, con cắt trái cam con ăn con cũng … con cũng ngồi một thời gian, ba mươi phút.
Trường lão: Cái đó là pháp chính đó con. Mình cứ lo mình làm cái gì đó thì mình cứ xả tâm. Nó làm cho mình vừa tỉnh táo ở trong cái hành động, mà nó cũng còn giúp cho mình xả tâm thì cái đó mới là quan trọng. Còn vấn đề ngồi, tối con ngồi một thời, hai thời, nương vào cái hơi thở để rồi mình cũng xả tâm chứ không có gì. Thì cái đó tùy theo khả năng con ngồi được bao nhiêu con ngồi, đừng có ép nó.
(01:20:19) Còn cái vấn đề mà hằng ngày con lao tác, con đi tới, đi lui chơi vậy thôi, con không làm gì thì con cũng nhớ, con cũng tỉnh thức nhắc cho mình trong cái hành động, đi tới, đi lui đó mà xả tâm đó. Con gọt nha đam để mà con ăn, thì lúc bấy giờ con cũng nhắc cho mình cứ như vậy là con đã tu rồi. Bởi Thầy nói cứ ôm pháp không cần phải chỉ có cái thời gian ngồi mới là tu, mà toàn bộ lúc nào chúng ta cũng ôm pháp mà chúng ta thực hiện pháp hướng thì chúng ta mới đạt được.
Tu sinh Huệ Ân: Dạ, thưa Thầy nhờ cô Út và Thầy luôn nhắc nhở con. Cho nên con thấy thân tâm con rất nhẹ nhàng không có phiền não nữa.
Trưởng lão: Bây giờ thì coi như là xong, các con còn có hỏi gì nữa không? Mười, Tú, Tám, Trang có hỏi Thầy gì nữa không con? Hay là nỗ lực thôi, nỗ lực âm thầm, không hỏi thì phải tu dữ. Còn hỏi thì người ta tu ít ít một chút, còn cái người nào không hỏi thì phải nỗ lực tu cho nhiều thì mới được, chứ không hỏi thì phải tu chứ.
Tu sinh: Thưa Thầy, cô Út nói tụi con chọn một thời để cô Út kiểm tra mà tụi con chưa có quyết định chọn…
Trưởng lão: Con chọn cái thời nào mà buồn ngủ đó, thì con chọn cái thời đó để kiểm tra cho nó đừng có ngủ thì hay nhất. Chứ chọn cái thời mà không có buồn ngủ mà kiểm tra thì các con vẫn bình tỉnh không có buồn ngủ thì kiểm tra cũng như vậy thôi. Bây giờ chọn cái thời nào đó, tối buồn ngủ, nhất là lười biếng, buồn ngủ thì cái thời đó các con chọn để cô kiểm tra giùm cho con ma ngủ nó chạy giùm chứ còn không tụi này nó gục hết, không được. Có vậy thôi.
Thì bây giờ cứ chọn cái thời nào đó thì chọn hay là khuya dậy không nổi đó, thì nói cô làm ơn ra cô quất, cô lấy roi mây ra cô quất mỗi đứa một cây để nó tỉnh, để nó tu. Khuya đó cô Út ra, cô lấy roi ra, cô trị một hơi là sẽ tỉnh hết, có như vậy thôi hà. Thì thời nào các con cứ chọn đi thì cô Út sẽ ra cô, cô trị cho, thì nó sẽ được thôi.
Thì phải tập trung ở trong cái điện Phật ở ngoài trước đó cũng được, để mà nỗ lực tu tập. Một đứa ngồi một góc. Thì lúc bấy giờ đó sẽ coi đứa nào mà ngủ gục thì quất cho mấy roi, sau đó nó hoảng thì nó hết. Nhất là chọn giờ để phá hôn trầm, chớ không có gì hết, cần phải phá cái đó. Thì chọn trong cái buổi tối, khuya hay là buổi tối, tùy theo cái giờ nào mà các con thấy buồn ngủ đó thì tập trung nhau lại. Vô trong cái chùa, cái điện Phật đó chia một góc xa xa. Rồi thì chia mỗi đứa một góc mà đi kinh hành.
(01:22:38) Đó thì tập trung vô đó thì cô Út cô ra thì cô… Cô thì cô rút tầm vông, chớ không có thèm rút bê bảng gì hết, không có bê bảng mà cô rút tầm vông. Cô quất cho mấy cây là ớn chứ không có gì đâu. Bê bảng nó nghe nó bốp bốp vậy chứ nó êm, chớ cô rút tầm vông ra, nó mà thấy cây tầm vông là nó hoảng rồi, nó không dám ngủ nữa chớ đừng nói. Thì cứ vậy đó, các con cứ tập trung tu cho tốt, cứ chọn đi, có vậy thôi.
Mà nỗ lực thực hiện cái pháp xả cho nhiều thì mới tốt. Tuy rằng tập để phá hôn trầm, thì cái điều kiện để phá hôn trầm là siêng năng đi kinh hành thì nó cũng phá được. Nhưng mà quan trọng là chỗ xả. Dù đi kinh hành, dù như thế nào đi nữa thì phải quyết định là phải làm chủ cái tâm tham, sân, si của mình. Đừng để, nó muốn ăn thì đánh cho nó một trận, cho nó ớn, thì nó không thèm ăn nữa, nó sẽ ngán. Thì diệt nó mới được, chớ không nó thèm cái này, rồi nó leo thang, rồi nó leo thang nó thèm cái khác, nó sẽ thèm hoài, nó đòi hoài.
Cho nên diệt cho nó tận gốc mới được. Nhất là cái tâm mà ưa ăn bánh trái hoặc cái này, cái kia đó. Bởi vậy Thầy thấy cô Út mua bánh trái, mua bắp đồ về đó. Đã cơm rồi mà còn thêm bắp nữa thì ông nội ai ăn cho hết đâu. Rồi thêm củ lang nữa, rồi thêm bánh mì nữa, trời đất ơi, nó quá trời như vậy làm sao người ta ăn cho hết.
Chỉ còn có nước là đem trả hoặc là đem cho ai, chớ làm sao bây giờ. Thầy thấy cứ rội thêm hà. Đã ráng rồi, thôi dở cơm vậy thấy đủ rồi thì chừng đó người ta đi ra người ta sới, người ta xin cơm, người ta sới ra trong cái bát rồi là đủ rồi. Không cái này, lát thì rội bánh, rội trái đồ đủ thứ hết. Thầy biết mấy đứa này là mấy đứa đòi ăn, nó đòi ăn nên cô Út mới mua. Thầy biết liền hà, rội như vậy là Thầy biết liền.
(01:24:24) Cho nên vì vậy mà Thầy thấy, phải trị bằng cái nhiệt tâm thì nó mới hết cái này, mà cái này nó hết, thì nó xả được tâm tham.
Cái ăn là cái tượng trưng rất rõ ràng chứ không phải không đâu. Thầy nói thật sự cái tâm này còn tham, đâu có phải mình tham tiền, tham bạc đâu. Mà nội muốn ăn là thấy cục kẹo cũng muốn ăn, thấy sữa cũng muốn uống, thấy nước ngọt cũng muốn uống. Mình nuốt ba cái đồ độc đó vô thì cũng ham, có ngày mình cũng phải chết với nó.
Còn đối với Thầy thì thật sự ra mà cô Út đem cái ly côca ra, Thầy nói, thôi Thầy mà uống vô nó sẽ ói ra máu hết, không có được. Thầy muốn trả, nhưng mà thôi con đem lỡ thì thôi Thầy uống. Chứ không lẽ, nói là nói một lẽ chứ người ta đem ra, mình không uống thì người ta cũng buồn, người ta có lòng tốt mà, mới đem ra như vậy. Mai mốt có gì người ta không đem nữa lấy gì mà mình uống. Cho nên Thầy nói, được rồi để đó Thầy sẽ uống cho người ta vui lòng.
Thầy bao giờ cũng tùy thuận hết, nhưng mà điều kiện phải nói. Thật sự côca nó làm ở trong đó, nó đâu có làm đường ở trong đó đâu, nó làm đường hóa học, nó độc lắm, cho nên đừng có uống. Thầy bảo nhất là cái ga, coi vậy chứ nó độc lắm. Cho nên Thầy khuyên, cái gì ngon ngọt coi chừng nó có chất độc. Cho nên cô Út hôm đó làm cho Thầy một cây cao muối đậu mà Thầy ăn cho tới bữa nay. Hôm đó không biết ai làm cho Thầy một cây cao muối tiêu. Chắc có lẽ Thầy ăn đến hai năm nữa mới hết. Bởi vì muối không hà thành ra mặn, thành ra cứ bao nhiêu đó ăn với cơm thì thấy nó lâu thôi.
Cho nên đồ ăn thường thường là Thầy ăn những cái nó hiền hơn là cái đồ ăn mà chiên xào. Mấy cái đồ ăn mà ngon ngon đó, coi như bữa nào mà coi như là Thầy bỏ bớt chớ Thầy ăn không hết, phải bỏ bớt thôi chứ ăn không hết đâu.
Cái gì Thầy thấy đơn giản được thì Thầy thấy như rau lang luộc, Thầy chấm với muối Thầy ăn coi như xong. Còn mấy thứ đồ chiên xào Thầy thấy nó có dầu hoặc là có bột ngọt là Thầy để dành cho để ở ngoài đó cho con chó, con mèo nó ăn cũng được. Thôi mình ăn, mình nuốt vô cái này nó bệnh chết. Thân thể già rồi, cứ đem vô riết ba cái này thì nó già nữa.
Rồi đây mình viết chưa có rồi cái giáo trình Đạo Đức Nhân Quả mà mình lại tiêu đi thì không có ai mà viết. Cho nên Thầy, thường là những nước ngọt đồ này kia cô Út hay cho mấy đứa ngoài đó uống, thì cô Út đem vô cho Thầy. Thầy biết ở ngoài đó có uống, Thầy nói không có sai đâu. Hễ ở ngoài đó có uống là có đem vô Thầy hà.
Nhưng mà điều kiện coi như là Thầy biểu, thôi đừng có đem chi nữa, ở ngoài tụi nó làm cực thì cho tụi nó uống, làm gì thì làm chớ còn Thầy uống vô ba cái này ngọt chết, không có được. Nhưng mà thấy cô Út bưng vô, Thầy nói, để đó cho cô Út cô vui một chút. (01:26:50)
HẾT BĂNG
Tứ Thánh Định
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
(00:00) Hôm nay Thầy sẽ tóm lược lại những cái bài học mà trong cái giáo án vừa qua để cho các con với quý Thầy biết được cái cách thức mình tu tập như thế nào. Chứ nếu mà cái giáo án Thầy giảng nó mênh mông, rồi về cái giới hành thì Thầy chưa có giảng nữa. Mà nếu mà giảng ra hết thì nó rất rộng rãi lắm, nhưng chúng ta không có tóm lược lại biết chúng ta tu cái gì?
Và hầu như từ xưa đến giờ đó, các bậc tôn túc của chúng ta đó- từ cái ngày bốn cái vị sư mà đầu tiên đi vào Việt Nam mà đem cái đạo Phật vào đây, thì trong bốn vị đó thì có vị Khương Tăng Hội. Thì ông cũng là một cái người mà đem cái đạo Phật vào cái đất nước này đầu tiên. Nhưng kinh sách của ông để lại thì nói về bốn cái Thánh Định, tức là từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền thì coi như ông loại bỏ ra ngoài. Ông xem như là nó không có ăn nhập vào cái pháp của đạo Phật mà nó là cái pháp của ngoại đạo.
Nhưng hôm nay Thầy lại triển khai bốn cái Thánh Định này, tức là Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền, nó nằm trọn vẹn ở trong cái con đường tu tập của đạo Phật. Cho nên cái bốn Thánh Định này, Thầy tóm lược lại nó thành ra cái con đường tu tập cho chính mình. Cho chính mình hiện giờ để đi đến chỗ làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi.
Như chúng ta biết rằng cái Sơ Thiền, đầu tiên mà chúng ta tu tập thì Thầy thường nhắc nhở quý Thầy rất nhiều là chúng ta đừng có nói chuyện, tức là chịu sống độc cư. Thì trong khi mà muốn nhập Sơ Thiền thì quý thầy thấy cái đầu tiên, thứ nhất là chúng ta phải Tịnh Chỉ ngôn ngữ.
Tịnh Chỉ ngôn ngữ đâu có nghĩa là mình ra lệnh hay hoặc là mình hướng tâm, mình ám thị nó bằng cách này, bằng cách kia đặng cho nó ngưng nói chuyện đâu. Mà mình phải tự mình biết cái nói chuyện đó thì nó sẽ làm động tâm. Cho nên mình tạm thời thì Tịnh Chỉ ngôn ngữ làm cho cái ngôn ngữ của mình nó thanh tịnh. Tịnh là nó thanh tịnh mà, thì tức là mình ít nói chuyện, chứ không phải câm, không phải làm thinh, không phải không nói chuyện. Nhưng mà mình ít nói chuyện, vì cái nói chuyện nhiều thì nó sanh động tâm, nó không có thanh tịnh.
(2:33) Cho nên cái đầu tiên mà chúng ta tu tập là chúng ta Tịnh Chỉ ngôn ngữ - muốn nhập Sơ Thiền mà! Mà muốn nhập Sơ Thiền, cho được cái Sơ Thiền mà không Tịnh Chỉ ngôn ngữ thì mình còn tu được những cái gì nữa đâu? Cái đầu tiên chúng ta thấy rằng mình đã chấp nhận mình tu rồi, mà bây giờ Phật dạy rằng muốn nhập Sơ Thiền, là cái đầu tiên thứ nhất là mình phải Tịnh Chỉ ngôn ngữ. Vậy thì mình Tịnh Chỉ ngôn ngữ, tức là Đức Phật không phải cấm mình là không nói chuyện, hoàn toàn là câm, không phải!
Mình có nói chuyện, nhưng mà mình ít nói, mình nói cái gì đúng là mình nói, mà cái gì không đúng là không nói. Một ngày mình tiết kiệm mình nói chừng một lời, hai lời đó là quý nhất. Còn mình nói bu lu ba la nhiều quá thì cái đó không hay. Đó là cái đầu tiên mà chúng ta phải tu tập.
Các con nhớ mình tu tập cái đầu tiên là mình phải Tịnh Chỉ ngôn ngữ. Làm cho cái ngôn ngữ mình thanh tịnh, chứ không phải làm cho mình câm. Đó, thì đó là Tịnh Chỉ ngôn ngữ. Thì độc cư, chứ không phải là độc câm. Nghĩa là mình không phải là mình câm, mà mình độc cư, mình sống một mình. Nhưng có cái duyên sự gì đến thì tức là mình sẽ nói chuyện, mình nói một lời, hai lời rồi thôi, chứ đừng có do cái chỗ mà duyên sự đó, mình nói đủ thứ ra hết thì cái đó là cái sai. Cái chuyện người ta hỏi mình gì đó, mình trả lời rồi thôi, không nói nữa. Thì như vậy đó là mình đã Tịnh Chỉ ngôn ngữ, ít nói chuyện. Chữ “ít nói chuyện” đây là mình rất tiết kiệm trên cái sự nói chuyện của mình, đây là cái phần đầu tiên mình tu tập.
Mà bốn cái loại thiền này thì các con sẽ thấy toàn bộ nằm ở trong giáo án mà Thầy đã giảng từ cái bắt đầu, từ cái định này cho đến định kia đều nằm ở trong bốn Thánh Định này. Như vậy mà người xưa, người ta mang cái đạo Phật vào trong cái đất nước này, người ta loại trừ bốn cái Thánh Định nay ra khỏi cái giáo pháp của Đức Phật. Người ta cho nó là cái thiền của ngoại đạo, cái thiền của các cái tôn giáo khác. Nhưng các con cũng như quý Thầy hiện giờ, mà chúng ta xét coi có cái Tôn giáo nào ở trên cái thế gian này như Thiên Chúa, rồi như là Bà La Môn, rồi như là Tin Lành, rồi Hồi Giáo, Ấn Độ giáo … tất cả những cái tôn giáo, mà Lục sư ngoại đạo chúng ta cũng chẳng thấy dạy Bốn Thiền đó. Chỉ có đạo Phật mới có Bốn Thiền thôi. Thế mà người ta nói nó là thiền ngoại đạo, không phải của đạo Phật. Thì cái đó là một cái sai, không đúng.
(04:58) Rồi bây giờ chúng ta nghiệm xét thêm. Trong cái thời đại của chúng ta, cách xa đức Phật hai ngàn năm trăm bốn chục năm. Rồi chúng ta suy xét lại coi bây giờ có cái pháp môn thiền nào mà dạy Bốn Thiền không? Không có! Như Yoga cũng đâu có dạy bốn thiền, rồi như Khí công cũng đâu có dạy bốn thiền, như Nội công cũng đâu có dạy bốn thiền. Rồi tất cả các pháp dưỡng sinh cũng đâu thấy nói về Bốn Thiền đâu? Rồi các tôn giáo như Thiên chúa, Tin Lành, rồi tất cả những…Như bây giờ chúng ta nói như thiền Đông Độ cũng đâu có dạy Bốn Thiền đâu? Hầu hết là tất cả những cái pháp môn mà hiện giờ mà có ở trên thế gian này thì nói nó là thiền ngoại đạo. Nhưng mà không có cái ngoại đạo nào mà dạy Bốn Thiền.
Mà chỉ có trong kinh sách Nguyên Thủy nói đến Bốn Thiền. Kinh sách Đại Thừa, phát triển của Đại Thừa thì không có nói đến Bốn Thiền. Mà chỉ nói thiền Đại thừa hay hoặc là Thiền tối thượng thừa. Chứ không có nói mà thiền Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền. Chỉ có kinh sách Nguyên Thủy và kinh A Hàm thì mới có dạy Bốn Thiền. Nhưng mà Thầy nhìn lại chung toàn bộ cái kinh điển, cái lời của Phật dạy đều nằm ở trong cái Bốn Thiền Định này. Cho nên gọi nó Bốn Thánh Định - Tứ Thánh Định.
Đó thì mới đầu vô, thì Đức Phật dạy chúng ta Tịnh Chỉ ngôn ngữ để chúng ta nhập Sơ Thiền chứ gì? Nhưng mà Tịnh Chỉ ngôn ngữ, đâu có nghĩa là Tịnh Chỉ ngôn ngữ không mà là nhập được Sơ Thiền? Cho nên nó còn tới cái giai đoạn thứ hai là chúng ta phải sống đúng giới hạnh. Vậy thì cái giới hạnh nó là cái gì đây? Thì đức Phật phải dạy chúng ta thiểu dục tri túc. Thiểu dục là gì? Thiểu dục là ít muốn, tri túc là biết đủ - Ít muốn biết đủ. Nghĩa là mình không có muốn nhiều nữa mà mình biết nó đủ. Có cái gì là mình biết đủ cái nấy, không có cần muốn nữa. Đó gọi là cái hạnh sống đúng giới hạnh, cái đó là cái hạnh của người tu mà. Rồi còn những cái hạnh gì nữa đây? Hạnh nhẫn nhục, mình biết nhẫn - mình mới vô đạo- mình là người phải nhẫn thôi. Người ta nói nặng, nói nhẹ, chửi mắng hay hoặc làm gì, mình nhẫn hết. Hoàn toàn mình chịu nhẫn hết, kham nhẫn hết, chịu đựng hết, không bao giờ…
(07:01) Bởi vì mình có chịu đựng thì mình mới ít nói. Mà mình không chịu đựng thì mình phải nói nhiều. Các con thấy không? Vô đầu Đức Phật dạy mình Tịnh Chỉ ngôn ngữ là ít nói thôi. Có cái gì nói lắm là mình nói một lời nói. Còn người ta chửi mình như tát nước, mình cũng vẫn làm thinh chứ không nói, tức là ít nói chứ gì? Không nói, đó là nhẫn nhục. Rồi tùy thuận - tùy thuận mọi sự kiện, mọi đối tượng, mọi hoàn cảnh. Luôn luôn lúc nào cũng bằng lòng hết trong mọi cái. Sống thì luôn luôn hòa hợp - lục hòa.
Đó cho nên đó là những cái gọi là sống đúng giới hạnh. Nó đơn giản lắm! Các con thấy, đầu tiên chúng ta Tịnh Chỉ ngôn ngữ để làm gì? Để sau đó chúng ta sống đúng giới hạnh thì chúng ta nhẫn nhục nè, thiểu dục tri túc nè. Nhẫn nhục mà mình nói nhiều thì đâu có nhẫn nhục được. Thành ra mình nhẫn nhục là mình ít nói. Ai nói gì mình, nói mình cái gì mình cũng làm thinh được hết, thì cái đó là nhẫn nhục. Rồi tùy thuận mọi hoàn cảnh, mọi sự việc, mọi đối tượng, hoàn toàn mình tùy thuận hết - bằng lòng hết.
Thì các con thấy như ba cái vị tôn giả mà sống chung nhau: như ông A Na Luật tôn giả, ông Kiêm tôn giả, ông A Nan Đà tôn giả. Ba vị sống chung nhau trong một cái thất, mà người ta sống do tùy thuận tâm niệm của người khác, của người bạn, mà người ta sống độc cư hoàn toàn. Người ta không nói chuyện, người ta sống im lặng với nhau, đó là tùy thuận đó. Do tùy thuận đó là bằng lòng, mà bằng lòng tức là mình buông xả ra hết, không có cái gì làm chướng ngại trong tâm của mình hết. Cho nên do đó mà mình thực hiện được lục hòa - sáu cái hòa hợp.
Thì các con thấy cái đầu tiên, một là Tịnh Chỉ ngôn ngữ, hai là sống đúng giới hạnh. Sống đúng giới hạnh thì Thầy nói thiểu dục tri túc, nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng và lục hòa, thì đó là sống đúng giới hạnh. Mà bây giờ Đức Phật lại dạy thêm, muốn nhập Sơ Thiền đâu phải là nội có Tịnh Chỉ ngôn ngữ, sống đúng giới hạnh là đủ nhập Sơ Thiền đâu? Nó còn nữa.
Cho nên chúng ta còn những cái điều kiện, nó có thể ngoài cái vấn đề mà nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng này, nó còn có những cái mà chúng ta cần phải phòng hộ sáu căn của mình. Giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, thì cái đó là cái gì?
Tức là lấy giới bổn Patimokkha, mà giới bổn đó là gì? Các con thấy Ngũ giới. Thầy nói Ngũ giới thôi - năm giới là không sát sanh, không tham lam trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu là năm giới đầu. Và năm giới sau - Mười giới thứ đó thuộc về giới bổn mà. Không trang điểm, không nghe ca hát, không ca hát, rồi không nằm giường cao rộng lớn, không có của cải tài sản và không ăn uống phi thời, không có cất giữ tiền bạc. Đó là giới bổn đó. Cái đó là lấy giới bổn để phòng hộ sáu căn của mình. Bởi vì cái ý của mình nó muốn cái gì, mình có tiền thì tức là nó sai mình rồi. Cho nên mình phòng hộ nó, không có cho nó muốn. Cho nên mình không có gì hết, thành ra nó phòng hộ sáu căn. Do vì vậy đó, mà mình lấy mười giới - Thập giới Sadi - mình làm cái giới bổn để cho mình phòng hộ sáu căn cho một người mà muốn nhập Sơ Thiền.
(10:02) Nhưng như vậy là ba cái giai đoạn mà mình tu tập ở trong một cái Sơ Thiền thì các con thấy nó chưa đủ. Nó chưa đủ, cho nên chúng ta phải tiến tới cái giai đoạn thứ tư để mà tu tập, cái pháp tu tập thì tu tập Chánh Niệm Tỉnh Thức. Bởi vì lúc bấy giờ coi vậy chớ chúng ta còn lười biếng, còn hôn trầm, còn buồn ngủ, còn tùy miên cái này cái kia nhiều lắm, chứ đâu phải hết đâu. Cho nên mình phải tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác, làm cho mình tỉnh giác, luôn luôn ở trong được cái chánh niệm. Đó thì các con thấy không? Bây giờ mình tu tập từ cái thứ nhất, thứ hai, thứ ba đến thứ tư là phải tu tập Chánh Niệm Tỉnh Thức. Mà Chánh Niệm Tỉnh Thức thì chỉ có đi kinh hành, tu trong cái hành động làm của các con. Hằng ngày làm cái công việc gì đó thì tập trung tu ở trong cái Chánh Niệm Tỉnh Thức đó.
Như vậy là bốn cái vai trò mà tu tập để mà đạt được cái Sơ Thiền thì nó chưa đủ đâu, nó còn nữa. Bởi vì trong khi mà chúng ta ngồi nghỉ, thí dụ bây giờ ngồi nghỉ như thế này mà nó buồn ngủ. Hay hoặc là đang ngồi may, hay hoặc đang làm một cái gì đó mà nó buồn ngủ thì tức là nó thiếu sáng suốt rồi, nó mất sáng suốt rồi. Cho nên mình lại tiếp tục mình tu cái Định Sáng Suốt. Mình tu cái Định Sáng Suốt để làm cho nó sáng suốt lên.
Thì trong cái Định mà Chánh Niệm Tỉnh Giác định, nó không phải cần cho mình lúc bây giờ buồn ngủ mà mình tu - Các con lưu ý kỹ cái này. Khi bình thường như vậy, bây giờ Thầy còn tỉnh như thế này, nhưng mà bây giờ Thầy ngồi, Thầy tu tập cái hơi thở Thầy xong rồi. Thầy bước ra Thầy đi kinh hành thì tức là Thầy tu Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trên hành động đi của Thầy. Rồi giờ mà hết tu rồi, bây giờ tới giờ lao động như các con nấu cơm, chẻ củi, quét sân hay hoặc làm cái gì đó, hay hoặc là làm xung quanh thất nhổ cỏ đồ đó… Thì các con cũng tu Chánh Niệm Tỉnh Thức trong hành động của mình, làm cho mình tỉnh thức luôn luôn. Đó! Đó là những cái mà nó giúp cho các con để mà tập được cái Sơ Thiền của nó.
Đó thì các con thấy, mà như chúng ta phải biết trong cái thời điểm nào mà chúng ta… Thường thường là cái tu tập mà Chánh Niệm Tỉnh Giác thì các con tu rất nhiều. Khi các con ngồi, bởi vì cái tu Định Niệm Hơi Thở thì các con biết nó nằm ở trong một cái giai đoạn từ Nhị Thiền mới tập hơi thở, cho đến Tam Thiền, Tứ Thiền mới tập hơi thở. Còn cái Sơ Thiền thì không có cần hơi thở, tại sao? Tại vì nó không có diệt tầm tứ, nó không có diệt tầm mà diệt tứ. Mà khi ly dục, ly ác pháp thì nó nhập Sơ Thiền. Do ly dục mà sanh hỷ lạc thì nó có tầm và có tứ; Từ đó chúng ta mới có tầm thiện và tứ thiện. Nó tác ý ra những cái điều thiện, nó không còn cái tác ý ra những cái điều ác. Và cái sự suy tư của chúng ta nó không có nằm ở trong cái dục lạc nữa, cho nên lúc bây giờ chúng ta mới ly dục, ly ác pháp. Cho nên nó có tầm tứ mà tầm tứ thiện, chứ không phải tầm tứ ác.
(12:57) Còn bây giờ một người chưa tu, chưa ly dục ly ác pháp thì họ có tầm tứ, nhưng mà tầm tứ đó là tầm tứ ác. Họ suy nghĩ cái này kia, họ chạy theo lòng ham muốn của họ trong cái ác pháp, chứ không phải thiện pháp. Còn cái người mà tu ly dục ly bất thiện pháp nhập Sơ Thiền thì họ còn cái tầm tứ của họ, chứ họ hoàn toàn là không có diệt tầm, diệt tứ gì hết. Nhưng mà tầm tứ của họ là tầm tứ thiện, cho nên họ không có cần phải cái hơi thở. Nhưng mà hơi thở chúng ta tu tập để chúng ta góp cái phần vào cái Chánh Niệm Tỉnh Thức ở trong hơi thở thứ nhất. Cái thứ hai là để chúng ta bước qua cái Nhị Thiền, để chúng ta nhờ nương cái hơi thở đó mà chúng ta diệt tầm mà giữ tứ, hay hoặc là diệt tầm tứ để chúng ta nhập Định. Cái đó cái phần của Nhị Thiền thì nó khác rồi.
Còn cái phần mà Sơ Thiền thì chúng ta thấy nó tới sáu cái điều kiện mà chúng ta tu tập. Chứ không phải là một cái điều kiện tu tập để nhập Sơ Thiền - sáu cái điều kiện tu tập. Do cái tu tập mà Chánh Niệm Tỉnh Giác này, tu tập rất nhiều. Như lấy giới bổn Patimokkha phòng hộ sáu căn thì các con thấy có mười giới. Mình phạm cái gì, mình thấy cũng rất dễ, có mười giới hà. Thí dụ như bây giờ các con thường hay làm đẹp, sửa soạn, rồi chải chuốt tóc đồ này kia. Thấy như vậy lời Phật dạy phạm vào giới bổn Patimokkha rồi- không có trang điểm- mình biết liền. Mà bây giờ mình nằm ở trên một cái giường cao, rộng, lớn, nệm mút đồ này kia mình biết liền. Ở trong cái nhà tốt đẹp mình biết liền là vì mình phạm giới bổn rồi.
Còn bình thường mình ở trong những nhà tầm vông, trúc tre vầy mình biết là mình không phạm giới rồi. Mình nằm trên cái giường cây mà xấu xí như vậy thì nó cũng không phạm giới bổn rồi. Mình biết rõ ràng là tất cả những cái đó mình không phạm. Là mười giới thôi, chứ Thầy không có cần phải là hai trăm hay là ba trăm bốn mươi tám giới đâu, không cần thiết! Nhưng mà ở đây Thầy chỉ lấy mười giới của Sadi mà làm cái căn bản cho chúng ta biết đó là lấy giới bổn để phòng hộ sáu căn của mình.
Còn sống đúng giới hạnh, thì các con biết những cái giới hạnh rồi đâu có gì đâu. Nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, lục hòa và thiểu dục tri túc, đó là cái giới hạnh của cái người tu rồi.
Rồi Tịnh Chỉ ngôn ngữ thì ít nói đâu có gì. Đó thì tất cả những cái đó là chúng ta tự khắc kỷ mình, tự dứt bỏ mình là mình sẽ làm được, nó đâu có gì khó khăn.
(15:08) Cho đến cái siêng năng mà chúng ta tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác thì chúng ta thường xuyên đi kinh hành. Làm công việc này, công việc kia, thì chúng ta tập tỉnh thức ở trên đó. Thì trong tỉnh thức đó, chúng ta chia ra làm có hai cái phần rất rõ. Một phần tỉnh thức suông, nghĩa là tỉnh thức thôi. Tập cho chúng ta biết ở trong cái hành động, chúng ta luôn luôn lúc nào, chúng ta dùng pháp hướng, chúng ta nhắc để cho nó luôn luôn lúc nào nó cũng tỉnh thức ở đó thôi.
Kế đó cái phần sâu hơn thì chúng ta lại tu tập cái tỉnh thức ở trong cái giấc ngủ. Các con nhớ là ông Phật, ông không có ngủ. Nghĩa là suốt cuộc đời khi Đức Phật mà thành đạo rồi thì ông không còn ngủ nữa. Ông tỉnh thức. Ngủ - ông nằm đó mà ông tỉnh chứ ông không có ngủ. Cho nên cái tỉnh thức này, cái chánh niệm tỉnh giác này, tức là tỉnh thức này nó giúp chúng ta sau này khi nhập Định, nó không mất cái tỉnh thức. Cũng như bây giờ các con còn ngủ, thì các con sẽ nhập Định, các con sẽ mất cái tỉnh thức. Cái người nào mà còn ngủ là còn sẽ bị mất cái tỉnh thức ở trong khi nhập Tứ Thiền. Nó khó là khó cái chỗ này nè, làm sao tập, mà làm sao mà chúng ta nằm như vậy, ngày này qua ngày khác. Ví dụ như nằm ngủ, thì bắt đầu cái thân thì ngủ, mà cái… (băng giảng bị mất tiếng ) tỉnh thức nó biết. Cái thân nó biết ngủ nè, nó biết thức, nó biết rất rõ ràng, nó biết hết. Cho nên đó là những cái mà đặc biệt của đạo Phật. Khi mà chúng ta muốn đi vào trong Bốn Thánh Định này mà muốn tu tập được thì cái đặc biệt mà tập luyện- ngủ mà ở trong cái tỉnh thức.
(16:42) Đến đây, ở đây cái trường hợp như các con thấy như Chơn Huệ nè, nó tu rất dở và nó cũng rất bệnh. Nó cũng theo tu cái thời gian cũng là hai, ba năm nay chứ không phải ít, mà bệnh căng đầu nhiếp tâm hơi thở rất khó khăn. Thế mà gần đây thì nó tu cái Định Vô Lậu, dùng cái Tứ Vô Lượng Tâm: “Từ - Bi - Hỷ - Xả”, do đó nó nhiếp tâm được vào ở trong cái Định. Nhờ Định Vô Lậu mà nhiếp tâm được cái Định. Thì vô trong Định, thì nó có lúc thì nó thấy nó ám thị, tức là cái pháp hướng ám thị. Nó bảo ngưng hơi thở, nó ngưng liền tức khắc. Rồi nó muốn thở trở lại, con biết nó phải ngã ngửa ra vầy, nó mới hả miệng ra, nó thở lại mới được. Chớ không nó ngưng, nó không thở.
(17:30) Đó là những cái nó xảy ra để chúng ta biết rằng khi thân mà nó yên lặng trên tâm, mà tâm nó yên lặng được trên thân thì chúng ta dùng cái pháp hướng rất là vi diệu. Cho nên ở đây mục đích chúng ta tu tập không phải để tự nhiên mà nó vào Định. Không phải có cái tự nhiên mà nó vào Định, mà có cái sự điều khiển của chúng ta bằng pháp hướng. Bởi vì bây giờ chúng ta điều khiển hơi thở chậm nhẹ, chúng ta có thể điều khiển được. Chúng ta muốn thở chậm, thở nhẹ được. Nhưng mà khi mà chúng ta có một cái vô hình nào đó mà muốn cho nó chậm nhẹ hay hoặc là ngưng đi. Như cái hơi thở bây giờ chúng ta nín, được nè, nhưng mà chúng ta nín được không? Rất khó chịu. Nhưng mà khi mà chúng ta ra lệnh nó ngưng, thì nó ngưng đi, nó không thở đi thì chúng ta không khó chịu, nó tự nhiên lắm. Cho nên muốn mà làm được những cái điều kiện mà đặc biệt vi diệu đó thì chỉ có pháp hướng mà thôi, chỉ có pháp hướng. Nhưng mà pháp hướng đâu phải là các con nhắc nó một lần mà nó được đâu, nó phải nhắc nhiều lần. Nhắc từ cái sơ đẳng của nó để mà chúng ta thực hiện cho đến cái cao đẳng của nó.
Chẳng hạn nào như bây giờ tâm các con chưa yên lặng nè, chưa diệt được tầm nè, còn tác ý tứ nè, mà muốn cho nó vắng lặng thì làm sao nó vắng lặng được? Các con thấy phải biết rằng khi mà nó được yên lặng thì ở trong trạng thái yên lặng đó mới hướng tâm vắng lặng; Bây giờ các con tỉnh thức - các con thấy trong cái phần Hôn Trầm Thuỳ Miên - giờ giấc các con nghiêm chỉnh, tới giờ đó nó không còn ngủ nữa, nó không có lừ đừ nữa; Thức dậy bao giờ nó cũng tỉnh, nó không có còn mệt nhọc, nó không có còn lười biếng nữa thì các con biết rằng đó là có sức tỉnh thức rồi. Thì có sức tỉnh rồi, thì các con mới tập, mình tập ngủ ở trong tỉnh thức mới được. Còn giờ chuông đồng hồ reo hai tiếng, dậy! Mà còn lười biếng, còn muốn nằm nữa thì tức là chưa đủ tỉnh thức đâu. Thì trong lúc đó mình tập ngủ mà tỉnh thức thì không ngủ được đâu. Nó sẽ mất sức khỏe và nó sẽ rối loạn cơ thể.
(19:27) Cho nên biết từng cái giai đoạn nào mà chúng ta phải hướng tâm cho đúng cách thì cái kết quả của sự tu tập của chúng ta mới đúng. Còn nếu mà không biết thì chúng ta hướng sai, không đúng thời điểm, cái trạng thái đó thì cái pháp hướng chúng ta nó vô hiệu quả. Nó vô hiệu quả thì tức là nó không có kết quả nữa. Đó là cái phần mà về sử dụng pháp hướng. Cho nên hiện giờ các con muốn giữ gìn đúng giới hạnh của Patimokkha, các con nhớ, các con nhắc: "Từ đây về sau đó, mình phải giữ gìn giới hạnh; Mười giới này phải cho nghiêm chỉnh. Khi có một giới nào mà sai phạm là sửa ngay liền". Nhắc nhở nó vậy, nó có sai phạm cái mình biết liền.
À, thí dụ như mình đang nói chuyện; bắt đầu có ai hỏi gì đó. Cái bắt đầu mình nói ra một lời nói - cái thói quen của mình, nó có cái thói quen của mình. Nó thích nói chuyện mà một tháng, hai tháng mình không nói chuyện. Có người nào gợi chuyện, cái bắt đầu nó nói ra, nó bung ra, nó nói ra. Thì mình ngay đó, mình tỉnh thức liền. Bởi vì do mình có cái sức ám thị đó, mà nó làm cho mình nhớ lại, không được nói nữa. Do đó cái mình ngưng lại liền. Còn không khéo nó lôi mình, nó nói đủ chuyện này, tới chuyện khác, nó lôi ra rất nhiều chuyện. Và vì vậy nó làm cho mình rất động, và cái người khác cũng bị theo cái nói chuyện đó mà bị động. Mình tu không được, người khác tu không được.
Đó thì cái pháp hướng là mình biết, bây giờ mình người hay nói chuyện thì mình hướng tâm, mình nhắc: "Từ đây về sau không được nói chuyện nữa. Cái tâm không được nói nữa! Không được ham thích nói chuyện nữa. Cấm!" Đó, mình ra lệnh nó vậy. Mà hằng ngày mình biết cái tâm mình nó còn nói, mình cứ nhắc. Sau khi nó còn thích nói chuyện thì mình lại hướng tâm mình nhắc nữa, mình biết nó còn. Chừng nào mà nó ai nói gì nói, nó làm thinh, nó nghe mà nó không nói, thì mình biết nó đã thuần rồi đó.
Đó! Mình tu mình phải xét từng chút, từng chút coi cái kết quả của mình nó có đạt được hay không? Thì trong khi như Tịnh Chỉ ngôn ngữ thì các con cũng phải dùng pháp hướng nè. Rồi sống đúng giới hạnh từ cái thiểu dục tri túc nè, khi các con có khởi ham muốn một cái gì thì nó là không thiểu dục tri túc đâu. Cho nên các con phải nhắc nó, ngay cái sự khởi muốn thì các con nhắc. Đồng thời trong những cái thời gian mà các con không có khởi niệm muốn thì các con cũng phải nhắc. Nhắc để cho nó thuần, chớ không phải là gì. Chớ không phải nói: “Ờ bây giờ, trước có đối tượng đó, có cái gì đó nó khởi ra, tôi muốn, tôi ham muốn cái đó đó, thì tôi mới nhắc còn không có thì tôi không nhắc.”; Vì chính mình biết mình còn ham muốn, cho nên nó thấy cái gì đó nó muốn. Thì như vậy bây giờ trong khi đó nó không có muốn gì hết, nhưng mình phải nhắc nó để khi mà nó thấy đúng cái đối tượng, cái vật mà nó ham muốn thì nó ham muốn.
Cho nên mình phải nhắc nó trên cái sự tu tập. Ở đây luôn luôn lúc nào chúng ta cũng có cái sự chủ động điều khiển để mà đi đến cái chỗ giải thoát, chớ không phải để tự nhiên nó mà nó giải thoát đâu. Bây giờ đầu mình nó khởi ra một cái niệm gì đó, mình thấy nó khởi, nó muốn cái gì đó thì ngay đó là có đối tượng để mình nhắc của cái niệm đó. Còn nó không có đối tượng, hiện giờ nó không khởi muốn gì hết thì mình nhắc. Mình cũng nên nhắc, nhắc như thế nào? Tại vì cái tánh của mình, mình biết nó còn, nó còn thích nói chuyện. Cho nên mình nhắc nó đừng nói chuyện.
(22:33) Cũng như Đức Phật dạy chúng ta biết như thế này: "Tâm tôi tham, tôi biết tâm tôi tham; tâm tôi không tham, tôi biết tâm tôi không tham. Tâm tôi sân, tôi biết tâm tôi sân; tâm tôi không sân, tôi biết tâm tôi không sân". Tại sao Đức Phật muốn nói cái điều đó? Là tại vì mình có sân mà mình biết mình sân thì mình dừng nó lại, mình không sân. Còn mình sân mà mình không biết mình sân, cái đó nó mới kéo dài mình ra, các con hiểu không?
Bây giờ tâm mình tham, mình biết nó tham thì mình sẽ dừng nó lại, mình hết tham. Còn mình tham mà mình không biết mình tham thì nó cứ kéo dài ra. Cũng như bây giờ mình thích nói chuyện. Mà mình nói chuyện, mà mình không biết mình nói chuyện thì tức là mình không có hiểu biết nó, cho nên nó nói chuyện hoài. Còn mình biết nó nói chuyện, cho nên mình dừng nó lại liền. Mình biết cái tâm mình nó có cái thói quen nói chuyện, nó thích nói chuyện. Vì vậy Đức Phật mới nói khi mà một cái tâm của mình nó có một cái gì đó khởi lên, phải biết nó liền. Mà mình biết nó liền tức là mình dừng nó lại được. Còn mình không biết nó, thì cho nên mình sẽ bị nó lôi mình đi, kéo dài đi. Do cái sự lôi kéo dài đi, nó làm cho mình thành một cái thói quen ở ngoài đời, chớ không phải là người đoạn dứt, người dứt bỏ ở trong cái đạo để mà giải thoát.
Đó thì chúng ta thấy rằng trên cái sự tu tập, chúng ta phải tỉnh thức. Mà tu tập tỉnh thức như vậy là như thế nào? Là hướng tâm nhắc mình: "Tâm phải sáng suốt như ban ngày, không có u tối như ban đêm". Là lúc bây giờ nó buồn ngủ, nó lừ đừ, nó khó chịu, nó muốn đi nằm, nó mê mệt, nó không còn muốn tỉnh nữa. Do đó mình phải tu cái Định Sáng Suốt, mình nhắc nó. Đó là tu tập cái phần thứ năm.
(24:15) Đến cái phần thứ sáu. Đây là một cái Sơ Thiền mà chúng ta tu rất nhiều chuyện, chớ không phải là một thứ chuyện.
Cái phần thứ sáu là tu tập Định Vô Lậu. Cái Vô Lậu thì chúng ta thấy cái lậu hoặc của chúng ta, nó thể hiện qua cái gì? Qua cái ngã, cái ngã của tâm của chúng ta. Vậy thì muốn quét sạch cái ngã, cho cái ngã chúng ta không còn có nữa, thì lúc bấy giờ chúng ta phải quét sạch cái ngũ Triền Cái. Năm cái Triền Cái - Triền Cái có nghĩa là cái màn che, nó che mờ, nó làm cho chúng ta không có biết.
Ví dụ như: Tham, chúng ta không biết mình tham; Sân, nó che mờ, mình không biết mình sân; Hôn Trầm Thuỳ Miên nó che mờ, nó làm cho mình không biết mình Hôn Trầm Thuỳ Miên. Mình thấy: “Ờ! Cơ thể hôm nay nó muốn bệnh, nó mệt nhọc như vậy nên nó buồn ngủ, vậy chớ nó không phải là gì.” Nhưng mà chính đó là cái Hôn Trầm Thuỳ Miên, nó che mờ đi. Rồi cái Trạo Cử Hối Quá, một cái chuyện gì mà mình làm nó sai quấy, rồi bắt đầu nó cứ nhớ đi, nhớ lại hoài ở trong đầu của mình. Nó nhớ đi, nhớ lại hoài ở trong đầu của mình thì cái đó gọi là Trạo Cử Hối Quá. Hối là hối hận. Cho nên do cái chỗ mà trạo cử đó nó làm cho mình, cái tâm của mình nó bất an, nó không có yên. Nó không có yên lặng, do đó nó cứ làm cho mình ray rứt, khổ sở trong tâm của mình. Cho nên vì vậy mình phải biết nó, để cái màn ngăn che này nó làm cho mình không biết mà mình cứ để cái tâm mình đau khổ; Rồi Nghi Triền Cái, thấy cái gì, cái này, cái nọ, nghi ngờ cái này kia nọ thì mình cũng dẹp phắt những cái đó.
Cho nên tu cái Định Vô Lậu là vốn để phá vỡ cái Ngũ Triền Cái. Như vậy là Thầy sẽ đọc lại năm cái Triền Cái để không các con sẽ lộn với năm cái Hạ phần Kiết Sử, và năm cái Thượng Phần Kiết Sử và Thất Kiết Sử. Ở đây nó có những cái mà nó trói buộc mình và có những cái nó ngăn che mình. Cho nên năm cái ngăn che này gọi là Triền Cái.
Một là Tham dục Triền Cái.
Hai là Sân Triền Cái, sân là sân hận - giận hờn.
Ba là Hôn Trầm Thuỳ Miên Triền Cái mà có chỗ gọi là Si: “tham, sân, si đó”.
Bốn là Trạo Cử Hối Quá Triền Cái.
Năm là Nghi Triền Cái. Đó là năm cái Triền Cái. Năm cái màn che nó làm cho chúng ta không có thấy để cho chúng ta khởi tham, khởi sân, khởi ngu si, khởi tâm Trạo Cử nó không có yên và nghi ngờ. Đó là năm cái Triền Cái.
(26:52) Mà cái Định Vô Lậu vốn nó quét sạch Năm Cái Triền Cái và Thất Kiết Sử. Thất Kiết Sử, nói rộng ra thì nó là mười cái Kiết Sử. Mà Mười cái Kiết Sử thì nó có năm cái Hạ phần Kiết Sử và năm cái Thượng Phần Kiết Sử.
Vậy Năm hạ phần Kiết Sử là như thế nào? Thầy sẽ đọc lại năm cái Hạ phần Kiết Sử để các con ghi để mà nhớ, để không khéo rồi nó cũng không có rõ.
Một là Thân kiến Kiết Sử. Về cái Thân kiến Kiết Sử là vì chúng ta chấp cái thân của mình, cũng như mình chấp Phật tánh, mình có Phật tánh của mình. Lúc mà Thầy mới vào đạo Phật mà Thầy tu hành, Thầy thích nhất là Thầy đọc cuốn kinh Thủ Lăng Nghiêm. Khi mà đọc đến cái chỗ mà Đức Phật dạy ông Anan lấy cái chuông mà đánh, cái tiếng chuông kêu cái boong, thì Đức Phật hỏi ông Anan có nghe không? Ông Anan có nghe, ông nói có nghe. Và khi Đức Phật không có đánh tiếng chuông thì hỏi ông Anan có nghe không? Ông Anan nói không có nghe. Thì ba lần như vậy, thì Đức Phật nói “Ông sao mà điên đảo quá! Khi có thinh trần tức là có âm thanh thì ông có nghe; Mà khi không có cái tiếng, không có thinh trần, không có tiếng chuông, thì cái nghe ông nó vẫn nghe chớ, chớ đâu phải nó mất đi. Cho nên đó là cái Phật tánh của ông. Cái tánh nghe đó là cái Phật tánh của ông”. Do đó Thầy đọc đến chỗ này, Thầy quá thích. Thầy nói thật sự nếu mà như vậy là Phật có sẵn trong người mình rồi.
(28:28) Nhưng hiện giờ, từ khi mà tu theo con đường Nguyên Thủy của đạo Phật, thì khi mà nhập được Bốn Thiền rồi, thì Thầy nhìn lại: “Thế này là chỉ lý luận của các nhà Đại Thừa”. Cho nên Thầy hỏi: “Bây giờ cái nghe này nó luôn luôn nó phải nghe, thì lúc Thầy ngủ, nó cũng phải nghe, chớ sao lại Thầy ngủ mà nó không nghe? Vậy thì cái Phật tánh nó đi đâu?” Các con thấy rõ không? Bây giờ Thầy luận ra thì ông Phật tánh nó không có. Ông Phật, đọc trong kinh sách của Phật, rõ ràng là Phật không có ngủ. Ông Phật ông nằm vầy, ông luôn luôn tỉnh thức, ông không có ngủ. Thế mà bây giờ ông Phật tánh của mình, sao lại ổng ngủ mất đi, phải không?
Hồi đó thì Thầy không có nghĩ như vậy, nhưng mà khi tu rồi Thầy mới hiểu. Thầy mới nghĩ: “Như vậy là mấy cái ông già này, ổng luận theo cái tưởng của ổng mất rồi. Ổng tưởng thì hay thật. Có đánh, thì có tiếng thì nghe, mà không đánh thì cái nghe nó vẫn nghe, tức là nó thường hằng, nó luôn luôn, nó bất biến”. Vậy thì lúc bấy giờ ngủ thì nó cũng phải nghe tiếng mưa đồ chớ, sao mình ngủ lại không nghe mưa, phải không? Tức là cái nghe này nó mất theo cái ngủ, vậy thì nó không có cái Phật tánh, nhưng mà người ta tưởng nó ra mà thôi! Nhưng mà mình không có lý luận cái vấn đề đó làm gì, bởi vì người ta nghĩ như vậy để người ta có hy vọng được cái gì thường hằng. Người ta luôn luôn, người ta bỏ cái thân này, nó vẫn còn cái Phật tánh, người ta thường hằng. Thôi mình không cãi vấn đề đó, nhưng mà mình cũng phải hiểu biết trong cái thực của nó. Bởi vì mình phải có một cái lý luận của mình để mình thấy cái thực hay là không cái thực.
(30:01) Như Thầy không nói thì các con không hiểu đâu? Cái sự hiểu biết của các con qua cái luận của các vị mà Tôn Túc của chúng ta trước kia mà viết ra những cái bộ sách mà gọi là Phật tánh, thì người ta thật là! Người ta có những cái lý luận của người ta rất là logic, làm cho chúng ta không có cái kẽ hở mà chúng ta phá vỡ được. Cho nên xét qua, thì chúng ta đọc ở trong kinh sách của Lão Tử thì chúng ta thấy cũng chỉ cho chúng ta thấy được cái Phật tánh đó. Tức là cái đạo mà Lão Tử nói: "Đạo khả đạo, phi thường đạo; danh khả danh, phi thường danh". Thì cái chỗ đó là cái chỗ chỉ cho cái bản thể của vũ trụ, cái bản thể của vạn hữu nó bất biến. Luôn luôn nó thường hằng mà nó không tên, không tuổi, không hình, không dáng, không bóng.
Đó là cái người ta nghĩ như vậy. Nhưng mà sự thật ra qua cái thân tứ đại của chúng ta mà nghiệm xét khi một cái Phật tánh nó còn thì nó phải tỉnh. Bởi vì nó thường hằng nó phải tỉnh, chứ làm sao nó mê? Mà nó mê thì khi chúng ta ngủ thì nó phải tỉnh, sao lại nó mất? Đó là những cái…
Khi tu đến đây chúng ta thấy, một cái người tu mà đến muốn nhập Tứ Thiền là họ luôn luôn lúc nào họ cũng phải tỉnh. Bởi vì Tứ Thiền, luôn luôn thân của chúng ta bao giờ nó cũng phải nằm như người ngủ, sáu căn nó đóng cứng lại hết. Nó không còn có hoạt động gì hết, thì giống như người ngủ rồi chớ gì? Nhưng mà tại sao nó còn biết? Như vậy là Phật tánh nó đó chớ, chớ đâu phải Phật tánh của mấy ông kia; Mấy ông kia nói như vậy, chớ không phải đâu.
Nhưng mà cái này nó cũng chưa phải đâu. Bởi vì khi mà chúng ta nhập Diệt Thọ Tưởng Định thì cả cái thức này nó cũng đều mất hết, coi như là cái ý hành của chúng ta ngưng hoạt động hoàn toàn thì nó không còn cái thức nữa. Chúng ta vượt qua được cả cái thức đó nữa. Thì như vậy rõ ràng là đâu phải cái thức là cái mà thường hằng được. Cái Tứ Thiền thì chúng ta còn thấy nó tỉnh thức, nó không ngủ đó. Nhưng mà đến cái Diệt Thọ Tưởng Định thì cái thức của Tứ Thiền nó lại mất luôn, chúng ta diệt luôn. Thì các con thấy nó tuyệt vời, chứ không phải nó là một cái thứ thường mà người ta nghĩ rằng bốn cái Thánh Định của đạo Phật là tầm thường. Nó không tầm thường đâu, nó tuyệt vời!
Đó, bây giờ Thầy trở lại vấn đề cái Thân kiến, tức là chúng ta chấp cái thân này là thường hằng bất biến, hoặc chấp một cái gì vô hình mà nó bất biến gọi là Thân Kiến. Cho nên sau khi mà chúng ta tu xong rồi, mà chúng ta nhập Niết Bàn thì còn có cái Niết Bàn để nhập thì cái đó gọi là Thân Kiến. Còn có một cái gì thường hằng đó là Thân kiến. Nghĩa là còn chấp một cái gì gọi là Thân kiến. Mà cái Thân kiến này nó thuộc về năm cái hạ phần Kiết Sử trói buộc chúng ta cũng rất chặt.
(33:01) Hai là Nghi Kiết Sử. Nghi Kiết Sử tức là nó trói buộc mình; Nghi ngờ cái gì đó nó trói buộc mình; Nghi cái người đó ăn trộm cứ bắt buộc mình phải dòm chừng, dòm chừng để không nó lấy đồ của mình thì cái đó là nó trói buộc mình đó, gọi là Nghi Kiết Sử.
Ba là Giới Cấm Thủ Kiết Sử này là cái gì? Phật dạy chúng ta có mười tám giới, ba nhân sáu bằng mười tám giới. Như mắt chúng ta thấy một cái đồng hồ này, sanh ra một cái thứ. Do đó chúng ta khởi lên cái tâm tham muốn của chúng ta, vì vậy đó là Giới cấm thủ; Mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý nó đều là có. Mắt là một cái giới của nhãn, nhãn giới. Rồi sắc giới, đó là cái đồng hồ; Rồi thức giới là cái biết của mình ham thích ra, đó là Giới Cấm Thủ. Như vậy là ba cái đối tượng này nó trở thành một cái trói buộc của chúng ta. Thấy một cái vật gì đó mà chúng ta khởi ham thích thì đó là mắt thấy, cái vật đó là cái sắc, đối tượng và cái tâm khởi ra ham muốn thì cái đó là thức giới. Đó, như vậy là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý - nó có mười tám Giới Kiết Sử, chứ không phải là một Giới Kiết Sử đâu. Cho nên ở đây gọi là Giới Cấm Thủ - nó trói buộc chúng ta, nó trở thành những sợi dây trói buộc; Thấy cái này, nghe cái kia nó thích đó là nó bị trong cái Giới Cấm Thủ. Nó có mười tám giới.
Bốn là Tham Kiết Sử - tham thì khởi lòng ham muốn, rồi tham lam cái này, cái kia thì đó là nó trói buộc mình rồi.
Sân là sân hận, cái đó là dễ rồi. Thì nó là năm cái Hạ phần Kiết Sử.
(34:53) Năm cái Thượng Phần Kiết Sử:
Sắc Tham - Sắc Tham như hồi nãy Thầy nói cái đồng hồ này đó, là cái thấy cái đồng hồ là cái sắc. Sắc nó khởi ra cái lòng tham muốn của mình, đó là Sắc Tham.
Vô Sắc Tham - nghe người ta nói, khởi cái tâm ham muốn thì đó là Vô Sắc Tham.
Mạn là cái kiêu mạn, cái lòng ngã mạn của mình.
Trạo Cử là nó bất an, nó làm cho mình nghĩ ngợi cái này, nghĩ ngợi cái kia. Hay hoặc là cái thân mình nó ngứa ngáy, nó lộn xộn, nó không có ngồi yên được. Nó cứ gãi bên đây, móc bên kia thì đó là Trạo Cử. Đây là Trạo Cử thân. Rồi Trạo Cử tâm thì nó nghĩ cái này đến, rồi nghĩ cái khác, nó lung tung, nó đủ thứ. Đó là Trạo Cử. Cũng như mà mình bị Trạo Cử là mình ngồi chỗ này, lát rồi mình đứng dậy mình đi, rồi mình ngồi lại, rồi mình đứng, rồi mình nằm đủ cách, đó là bị Trạo Cử.
Năm là Vô minh.
Đó là năm cái Thượng Phần Kiết Sử, thì nó là Sắc Tham, Vô Sắc Tham, mạn, Trạo Cử và vô minh. Như vậy là chúng ta học được Ngũ Triền Cái, Ngũ Hạ Phần Kiết Sử và Năm Thượng Phần Kiết Sử.
Đến Thất Kiết Sử. Thất Kiết Sử là bảy Kiết Sử kế nữa:
Thì Một là Ái Kiết Sử. Ái là thương yêu, có ghét. Ở trong đó thương yêu ghét thì nó thuộc về ái Kiết Sử. Sân Kiết Sử là giận hờn. Kiến Kiết Sử - kiến là cái ý kiến của mình hoặc là mình kiến chấp một cái gì: “À! Bây giờ nghe trong kinh dạy Phật tánh như vầy mà bây giờ có ai đó nói Phật tánh không đúng là mình bị cái kiến chấp đó. Mình cãi, mình luận cái này kia”. Người ta nói: “đói ăn, khát uống, mệt ngủ", mình mắc cái kiến chấp đó, cho nên mình đói ăn, khát uống mệt ngủ, mình không có giữ gìn đúng giới hạnh của Phật, do cái kiến… (băng bị lỗi) Không khổ để sung sướng như ngoài đời thì làm sao mà thoát khổ? Vì vào đạo có khổ mới vượt ra khổ được. Nghĩa là chúng ta chấp nhận cái sự khắc kỷ đó để mà chúng ta vượt ra cho được cái khổ, cái khổ muôn đời của chúng ta. Thì đó là cái Kiến Kiết Sử.
Nghi Kiết Sử, thì ở đằng kia nó cũng có Nghi rồi, nhưng mà ở đây nó Thất Kiết Sử là nó tóm lược lại để chúng ta thấy Bảy Kiết Sử này nó rất là quan trọng, mà nó tóm lược lại, nó dễ dàng hơn. Bởi vì cái kia nó sẽ trùng ở trong những cái Ngũ Triền Cái hay hoặc là Hạ Phần Kiết Sử hay là trong Thượng Phần Kiết Sử. Cho nên ở đây Nghi Kiết Sử là cái nghi ngờ, nó vẫn trói buộc mình.
Mạn là kiêu mạn, ngã mạn nó cũng Kiết Sử.
Hữu tham Kiết Sử thì nó thuộc về tham rồi.
Mà Vô Minh Kiết Sử nó thuộc về si rồi.
Cho nên ở đây thì nó cũng lặp đi lặp lại của một phần ở kia, nhưng nó có thêm được cái Ái Kiết Sử và cái Kiến Kiết Sử thôi. Đó! Cái phần mà Kiến Kiết Sử và Ái Kiết Sử thì trong Thất Kiết Sử nó chỉ thêm cho ở trong cái Hạ phần Kiết Sử và cái Thượng Phần Kiết Sử mà thôi. Còn cái Hạ phần Kiết Sử và Thượng Phần Kiết Sử nó cũng có những cái trùng hợp của nó, nhưng có những cái mới, chớ không phải không. Thì như vậy là sau khi so sánh thì các con sẽ ghi chép kỹ, các con so sánh cái nào trùng hợp thì mình lấy một mà thôi. Còn cái nào mà không trùng hợp thì mình sẽ ghi ra để cho mình biết cái đó là cái phần để mình tu tập, để mình hướng tâm mình nhắc mình.
Như vậy là chúng ta tu cái Định Vô Lậu để quét cái Ngũ Triền Cái và cái Thất Kiết Sử. Thì như vậy là chúng ta sẽ có một cái tâm diệt ngã, xả cái tâm của mình. Diệt ngã xả tâm của mình là mình quét sạch Ngũ Triền Cái và Thất Kiết Sử.
(38:38) Đó thì cái phần mà Sơ Thiền, thì các con thấy vào cái Sơ Thiền chúng ta phải tu một cái số như vậy đó, một cái số điều kiện tu như vậy. Thì các con thấy đâu có cần gì đâu, nói tu vậy chớ đâu có gì! Bây giờ mình làm người mình biết Tịnh Chỉ ngôn ngữ thì mình đâu có cần gì mình phải hướng nhắc nó đâu. Từ đây về sau nhất định là ít nói chuyện, không nói chuyện. Cái gì đáng nói thì mình nói, mà không đáng nói thì thôi, không nói chuyện. Làm chung nhau thì làm, làm cứ làm thinh, mình tập tỉnh thức ở trong lúc đó.
Cho nên Hải Tâm có hỏi Thầy. “Trong khi con làm việc như vậy đó thì con tư duy, con suy nghĩ, thì như vậy có đúng hay là không?”. Suy nghĩ để mà xả tâm mình mà! Trong khi mà con đang làm việc mà con tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác thì trong cái Chánh Niệm Tỉnh Giác đó nó phải tỉnh ở trong cái hành động của mình thì không có được suy tư. Còn khi mà con vừa làm việc mà con khởi một cái niệm, con tu tập cái Định Vô Lậu để xả các cái đối tượng gì. Cái sự kiện gì xảy ra hồi nãy đã qua rồi hay hoặc là có những việc sắp tới để mà con chuẩn bị, để mà con tu tập những cái gì khác hơn, hoặc là luyện tập một cái gì để suy tư, để mà mình phải…Bây giờ hồi sáng này mình tu cái hơi thở, mình thấy nó nhiếp hoàn toàn, tầm tứ nó hoàn toàn nó diệt sạch. Vậy thì bây giờ đang ở trong cái trạng thái yên lặng này, mình phải tu tập cái gì? Rồi con suy nghĩ, đang làm mà suy nghĩ về vấn đề đang tu tập đó thì cái suy nghĩ đó, tức là trong cái hành động làm việc, nhưng mà ở trong cái Định Vô Lậu quán xét. Quán xét Vô Lậu, cho nên từ đó nó không phải ở trong cái Chánh Niệm Tỉnh Giác nữa.
Cho nên khi mà cái tâm chúng ta nó hướng ra một cái gì thì chúng ta biết nó đang tu cái pháp nào thì lúc bấy giờ chúng ta khai triển cái pháp đó ra. Nó đang suy tư về cái pháp đó ra thì cái tâm nó đa đang hướng về cái Định đó thì chúng ta khai triển nó thêm ra. Để cho nó quán triệt cái chỗ mà suy tư đó, nó trở thành một cái Tri Kiến Giải Thoát. Hay hoặc nó trở thành một cái Tuệ giải thoát của chúng ta. Hay hoặc là nó trở thành một cái phương pháp mà chúng ta rút tỉa kinh nghiệm bản thân của mình, mà trở thành phương pháp tu hành của mình. Để sắp tới là cái buổi chiều nay mình ngồi thiền thì tức là mình sẽ thực hành ngay cái chỗ kinh nghiệm mà mình đã suy nghĩ ra. Thì đó là cái trí tuệ phát triển ra cái kinh nghiệm để mình rút tỉa kinh nghiệm, mình thực hiện ra những cái gì kế tiếp trên cái bước đường tu của cái Định Hiện Tại An Lạc Trú. Đó là những cái ví dụ của Thầy.
Cho nên khi con đang làm công việc mà con đang tu tập ở trong Chánh Niệm Tỉnh Thức. Bỗng dưng nó khởi ra một cái niệm, từ đó con biết cái tâm nó đã đi qua cái quán rồi. Mà nó đi qua cái quán, tức là phải Định Vô Lậu. Mà Định Vô Lậu thì con phải triển khai nó liền, chứ không khéo nó không trở thành Định Vô Lậu mà nó trở thành cái Vọng tưởng. Nếu con không có chủ động điều khiển nó thì cái suy tư của con nó trở thành cái vọng tưởng. Cái vọng tưởng nghĩ ngợi xa xôi, nó không có…(41:43) Khi mà con thấy: À! Bây giờ con thấy mình đang làm công việc, mình tu trong cái Chánh Niệm Tỉnh Thức mà nó khởi ra một cái niệm. Con dẹp lại cái niệm đó, con giữ cái tâm mình trở lại, thì con đã tu ở trong Chánh Niệm Tỉnh Thức. Nhưng mà con quên rằng trong khi đó nó có những cái sự thao thức gì đó, nó mới khởi ra cái niệm đó. Nó có cái sự thao thức, nó mới khởi ra cái niệm trong khi con đang làm.
(42:38) Còn nếu mà nó không có thao thức, nó là những cái vọng tưởng thường, con giữ trong chánh niệm thì nó không khởi ra niệm, nó không có sự thao thức. Nó thao thức vì cái sự kiện xảy ra mà nó chưa giải quyết được ổn cái tâm của nó, nó chưa xả được, cho nên nó thao thức, nó mới khởi cái niệm. Do vì vậy mà con phải đi ngay vào cái Định Vô Lậu để mà quán xét cho thấu triệt để từ đó con xả được cái tâm. Hoặc là con quán xét, con đi qua cái góc độ của quán về cái niệm đó để mà tu cái Định Vô Lậu. Để quán xét thấu triệt được cái điều kiện đó, nó trở thành kinh nghiệm tu con kế tiếp.
Cho nên từng chút, từng chút. Khi mà Thầy ở trong thất, có ai dạy Thầy? Các con nhớ, khi mà mỗi cái nó đều đi qua một cái là mình biết nó ở trong cái nào rồi. Bắt đầu mình triển khai cái đó ra liền, không có để chậm trễ nữa. Triển khai cái đó, nó làm cho mình trở thành có những cái tri kiến giải thoát, có những cái trí tuệ rất là sâu sắc. Trí tuệ đó không có nghĩa là cái trí tuệ để mà biện luận, để mà nói nhiều. Mà cái trí tuệ của mình là cái trí tuệ nhằm để giải quyết cái tâm của mình để giải thoát. Cho nên đạo Phật gọi là "Tri kiến giải thoát mà cái Trí tuệ giải thoát". Chứ không phải là cái tri kiến lý luận hơn thua, hay ho, nói đạo, nói thiền, không phải đó! Mà cái tri kiến để nhằm giải quyết được cái kinh nghiệm tu hành của mình. Rồi sau khi mà mình trở thành một thiện hữu tri thức, thì mình lấy cái kinh nghiệm mình dạy cho người ta. Rồi những cái sai của họ trình lại cho mình, mình biết ngay cái sai đó, mình dạy họ. Chớ không phải mình đem những kinh sách ra mình lý luận cái này kia, hay hoặc là mình vay mượn những cái hiểu biết của người khác mình dạy người ta, không phải! Mà mình dạy ở trong những cái kinh nghiệm của mình.
(44:15) Cũng như Thầy bây giờ, Thầy dạy các con, là phần nhiều Thầy dạy trong những cái kinh nghiệm. Các con tu thấy cái đó như đó sai thì các con hỏi Thầy. Thì ngay đó Thầy lấy kinh nghiệm tu hành của Thầy, Thầy mới luận, Thầy mới suy nghĩ “Ờ phải tu tập như vậy mới đúng; Không có nên tu tập như vậy, sai!”. Cho nên cái mà bây giờ Thầy nói ở đây là cái Sơ Thiền đó! Thì các con thấy rằng khi mà chúng ta tu, cái Sơ Thiền mà tu đầy đủ như vầy, biết cái nào mà chúng ta phải dùng pháp hướng nhiều? Là tại cái thói quen của chúng ta, cái đó chúng ta phải dùng nó nhiều, nhắc nó nhiều. Còn chúng ta thấy cái đó không phải, mình là người ít nói rồi. Cũng như Thầy, thí dụ như Thầy ít nói, thì bây giờ Thầy cần gì Thầy phải tu nhiều? Thầy chỉ cần giữ gìn không nói, là nó dễ rồi!
Còn cái người mà hay nói tức thì là phải ám thị, phải hướng tâm, phải nhắc nhiều, tu cái này nhiều. Còn cái bây giờ, Thầy thấy Thầy có cái hạnh nhẫn nè. Cho nên vì vậy mà người ta nói gì, Thầy làm thinh được hết, Thầy không có giận hờn ai hết. Thì Thầy cần gì mà Thầy phải dùng hướng tâm nhiều về cái nhẫn đâu? Mà Thầy thấy cuộc đời Thầy ít có ham muốn rồi, thì do đó Thầy đâu có cần gì Thầy nhắc nhở mình về cái thiểu dục tri túc đâu? Cho nên Thầy phải nhắm vào cái chỗ nào mà cái chỗ yếu của Thầy, cái thói quen của Thầy, Thầy mới tu cái pháp hướng nhiều. Còn những cái bình thường, thôi Thầy đâu có nhắc làm gì. Bởi vì những cái đó là cái tánh của Thầy, nó đã khắc phục được cái đó rồi, hễ nó muốn là nó làm được liền.
Cũng như bây giờ cái tánh Thầy ít nói, mà bây giờ Thầy không muốn nói chuyện thì dễ dàng lắm, Thầy không có cần nói. Còn cái tánh mình nó hay nói. Cho nên mình làm chủ không có được, nên mình phải dùng pháp hướng mình nhắc nó, nhắc đi nhắc lại hoài, nhiều lần. Rồi trong khi trước những cái đối tượng mà xảy ra mình nói chuyện hồi đó, thì mình khắc phục mình nữa, mình vừa là chiến thắng ở trong mọi cái hoàn cảnh.
Cho nên ở đây thì Hải Tâm có hỏi Thầy như thế này: “Có nhiều người đi vào ở trong những cái nơi mà yên tịnh thanh vắng, họ tu tập một cái thời gian sau thì tâm họ như như, thì ra họ đụng chuyện, họ cũng không giận không hờn này kia?” Không bao giờ có cái chuyện đó hết. Không bao giờ có cái chuyện đó!
Bởi vì các con thấy một cái người mà tu mà nhập được Tứ Thiền, thì nó phải trải qua Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền. Mà Sơ Thiền thì các con phải thấy, tu trước các đối tượng hết. Tu ở trong mọi hoàn cảnh nữa, chứ không thể nào mà vào trong núi ngồi đó mà nhập Tứ Thiền rồi ra. Cái Sơ Thiền nó chưa có xong, nó ra đụng đâu nó sân ầm ầm đó, nó đụng đâu nó cũng chịu không nổi hết. Mặc dù bây giờ mình có Tịnh Chỉ hơi thở, mình có nhập được Tứ Thiền đi nữa, cái Tứ Thiền của mình nó thành thiền tà mất rồi. Nó không có làm sao mà làm chủ được cái tâm của mình được. Bởi vì hai cái phần các con thấy, phần thân và phần tâm. Mà trong cái thiền Định, bốn cái Định này chúng ta thấy cái phần tâm mà chúng ta tu tập là cái Sơ Thiền. Còn về cái phần thân mà để làm chủ nó thì bắt đầu từ Nhị Thiền đến Tam Thiền là về phần thân. Còn về cái phần tâm của chúng ta để mà chúng ta diệt sạch Ngũ Triền Cái, dứt sạch các Thất Kiết Sử, làm cho nó sạch lậu hoặc chỉ có cái Sơ Thiền mà thôi. Cho nên nó toàn bộ là chúng ta phải thấy rằng cái Sơ Thiền nó nặng hết sức nặng.
Người bước đầu vào mà, coi như là chúng ta… Các con thấy khi mà Thầy soạn lại cái giáo án mà viết thành sách đó, nó không phải như Thầy giảng một cách nó lướt qua đâu. Mà giảng kỹ thì các con thấy cái lời của Phật nói rất đơn giản nè: “Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa”, đó là cái gì, các con hiểu không? Đức Phật bảo, mình phải làm cho mình xấu đi. Cái đầu của mình là làm cho mình đẹp chứ gì? Mà giờ cạo trọc lóc rồi đâu còn đẹp đẽ gì, tức là làm xấu. Mà đắp áo cà sa, các con tưởng áo cà sa như mấy ông Thầy đó đẹp lắm, phải không? Trời đất! Áo cà sa mà lượm vải thây ma thì còn cái gì mà đẹp nữa? Nó thô, nó xấu. Bởi vậy nghe cái câu đó, mà nếu mà không giải thích ra. Bởi vì Thầy giảng ở trong cái giáo án nó nhiều quá, ba tháng giảng không hết, cho nên Thầy không có giảng; Nhưng mà khi ngồi viết thì mới thấy được cái chỗ này - Đức Phật dạy chúng ta làm xấu mình đi, đừng có làm đẹp nữa, phải không? Đó là cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa tức là làm xấu đi. Đó là cái thứ nhất. Rồi mới sống không nhà cửa, không gia đình. Không nhà cửa thì có đồ đạc gì đâu mà chất được? Cho nên đâu có tủ, bàn ghế, đâu có cái gì, đâu có chén bát, đâu có nồi niêu được, chỉ còn nước đi xin ăn.
(48:32) Cho nên không có đồ đạc rồi thì các con thấy đó là xả bỏ những cái vật dụng thế gian rồi. Mà không gia đình, không gia đình thì không cha, không mẹ, không anh, không em, không vợ; không con, không bà con quyến thuộc - thì không gia đình chứ gì! Rõ ràng cái lời của Phật nói thì nó ngắn nó gọn. Nhưng mà giải thích ra nó là những cái dây triền phược, trói buộc chúng ta từ vật dụng cái này cái nọ cái kia cho đến khi cuối cùng. Từ đầu tiên bắt đầu xả bỏ làm cho mình xấu đi, đừng có đẹp nữa, thì đó là trang điểm chứ gì? Kế đó thì dứt bỏ của cải tài sản tiền bạc phải không? Nên Phật nói sống không nhà, mà không nhà thì làm sao có gì mang theo mà chất ở đâu, mưa thì nó ướt hết sao? Các con hiểu?
Trong cái bài kinh đơn giản như vậy, mà nội mấy cái lời đó như vậy, viết ra nó thành một cái bài để cho chúng ta thấy được cái thực hiện một bước đường mà trở thành một vị Tu sĩ của đạo Phật, đâu phải chuyện đơn giản, đâu phải chuyện dễ. Cho nên nó đâu có dễ đâu! Vì vậy mà có những cái nó trở thành một cái bài pháp ngay liền, ở trong một cái đơn giản, của lời nói của Phật đơn sơ như vậy mà trở thành bài pháp. Còn Thầy thì giảng phải lướt qua mà thôi. Để sau này các con đọc lại cái giáo án mà Thầy soạn thành sách, các con đọc thấy rất kỹ, mà thấy rõ ràng con đường tu của Phật phải như thế nào mới đúng.
(49:48) Đó, thì hôm nay các con thấy cái gánh nặng của Sơ Thiền, nó gánh nặng cả cái tâm của chúng ta. Và cái người mà mới vào đạo thì các con thấy nè: cạo bỏ râu tóc nè, đắp áo cà sa nè, làm xấu mình, tức là nó thuộc về trang điểm rồi. Rồi xả bỏ của cải tài sản, rồi vợ con, cha mẹ, anh em xả hết, tức là cắt đứt tất cả những cái dây tình cảm của chúng ta. Đó là cái điều kiện là ly cái tình thương, cái ghét, cái thương ghét, cái lo lắng, cái sợ hãi đủ cách để mà cắt đứt nó ra. Thì đó là chúng ta chuẩn bị cho một bước đường để mà đi vào Sơ Thiền chứ gì? Nghĩa là chúng ta hoàn toàn là không còn thương, không còn ghét, không còn giận hờn ai nữa hết. Mà muốn như vậy thì Ngũ Triền Cái và Thất Kiết Sử nó đâu còn.
Đó, cho nên chúng ta tu tập, chúng ta thấy nội cái Sơ Thiền không là cả một cái vấn đề mà chúng ta tu tập. Ba năm các con đã theo Thầy, các con thấy cái bước đường mà nhìn lại quá trình thời gian mà tu theo Thầy, thì các con thấy mình đã được những cái gì? Các con cứ nghĩ rằng mình phải ngồi được một, hai giờ này kia nhiếp đừng có vọng tưởng thì đó là mình được chứ gì? Không phải!
Mà mình được như thế nào? Mình xét, bây giờ mình ăn ngày một bữa, không thấy thèm ăn cái gì nữa hết. Mình biết mà, Phật nói: “Mình tham mình biết tham” mà, còn tham ăn biết tham, mà còn thèm ăn còn biết mà! Mà mình biết, tức là mình chưa kết quả. Mà mình biết mình không thèm ăn nữa là kết quả rồi đó. Đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai, người ta nói gì thì nói, mình không giận nữa thì mình biết mình đã giải thoát, mình không giận rồi. Thì cái đó rõ là ràng là không sân rồi, các con thấy!
Mà hồi nào đến giờ mình hay nghi cái này kia, mà bây giờ mình không nghi ai nữa hết, thì tức là mình đã giải thoát được rồi. Đó, thì tất cả những cái vấn đề mà cái tâm của các con như thế nào, thì các con xét như thế đó, thì các con biết mình có giải thoát hay không? Cái phần đó là cái phần mà Sơ Thiền, nó chứng minh cho cái sự tu tập của các con.
Hồi nào tới giờ, thí dụ, như mình vắng - các con lớn tuổi, các con có con cái - lâu lâu, mà các con ngồi tu, các con nhớ nó thì các con thấy mình còn nhớ con mình, chưa hết! Như vậy là mình ráng tu nữa, tu nữa, mình xả nữa. Tức là mình dùng pháp hướng mình nhắc: “Tất cả những cái này là nhân quả trói buộc, mình hãy buông xuống đi, đừng để tâm nó. Mình hãy thương nó cũng như thương bao nhiêu người khác như vậy thôi, đừng có để nó trói buộc mình.” Và cứ nhắc như vậy, đến một ngày nào đó, nó ngồi không, ngồi như thế này mà nó không khởi nghĩ con, nghĩ cái, nghĩ gì hết thì như vậy được. Không còn nghĩ của cải, không còn nghĩ chùa chiền gì nữa hết thì như vậy được! Nó còn nghĩ, còn lo thì tức là chưa, nó đây là nó còn lậu hoặc đây. Nó còn! Và cái sự mà suy đi xét lại nghĩ mình tu tập ba năm nay mình có kết quả hay không? Nhiều, ít, có như thế nào? Các con sẽ biết các con rất rõ ràng, không phải là cái sự không biết. Mà biết như vậy, tức là các con sẽ có sự giải thoát, sẽ có sự ly dục, mặc dù nó chưa hoàn toàn hết.
(52:52) Đây là Thầy nói về cái vấn đề của Sơ Thiền, nó là thuộc về cái Định mà chúng ta giải quyết cho cái tâm Vô Lậu của chúng ta. Nó làm chúng ta không còn phiền não, không còn tham, sân, si, không còn ham muốn nữa. Nỗ lực thực hiện những cái này thì Thầy thấy nó không có khó đâu. Tịnh Chỉ ngôn ngữ, sống đúng giới hạnh, các con biết rồi. Lấy giới bổn Patimokkha, tức là Thập giới; Tu tập Chánh niệm là các con đi kinh hành, các con biết nè.
Rồi các con thêm cái phần mà Chánh Niệm Tỉnh Thức ở trong Tứ Vô Lượng Tâm nữa, cái phần này các con ghi thêm. Bởi vì trong cái Chánh Niệm Tỉnh Thức - Tỉnh Giác - nó còn có cái phần Tứ Vô Lượng Tâm, tu tâm từ. Các con đi, các con làm, các con tránh đừng có làm hại chúng sanh, đó là tu tâm từ. Các con thấy một con vật nó bệnh đau; như con chó mà nó bệnh đau, ai bỏ đó. Rồi Tú - con ôm nó, con nuôi, con cho uống thuốc, thì như vậy đó là mình tâm bi, thực hiện đó là tâm bi.
Cũng như cô Út ôm mấy con mèo đau bệnh; Vô nhà cô Út, Thầy nói thiệt, là nó nghẹt mũi gần muốn chết. Vậy mà cô Út, cô ngủ ở trong như thường, cũng như cổ nằm ở trong nhà thương vậy. Thành ra do cái chỗ mà cái tâm đó, tức là cái tâm bi. Do cái lòng thương của mình, mình mới không có chê dơ, chê hôi, chê thúi, chê khai, chê này kia, mà cũng chịu cực khổ. Con mèo - sợ nó lạnh, nó bệnh nó lạnh, lấy mền đồ để cho một đống, vậy nó nằm nó đái ở trên đó, sáng đi giặt gần chết. Mà giặt cái mền đâu phải sung sướng gì? Nhưng mà Thầy nói đó là thực hiện tâm bi. Vì vậy mà các con thấy trên cái thực hiện mà tâm bi như vậy, mà đối với con vật như vậy, thì con người cô Út không bao giờ ghét được, không bao giờ bỏ. Nhưng mà tại vì người ta không hiểu thôi. Thầy thấy đứa nào mà ôm từng con chó, con mèo, con vật mà lo lắng khi nó bệnh đau mà ôm nó thì Thầy biết đó là thực hiện tâm bi.
Còn chúng ta phòng ngừa tất cả mọi cái để không có giết hại chúng sanh thì đó là tâm từ. Nghĩa là mình tránh, mình không đạp con kiến, con trùng, con dế chết đó là mình tu tâm từ.
Còn mọi thứ trong cái tu tập tỉnh giác của chúng ta, để cho chúng ta được ở trong cái tâm hỷ, luôn luôn chúng ta hoàn toàn tập cho mình vui vẻ, hân hoan với mọi sự kiện. Dù là cái sự đó buồn đau, mình cũng tập mình vui vẻ, thì đó là tâm hỷ.
Còn mình luôn luôn lúc nào mình cũng biết xả ra, để cho mình bằng lòng được mọi cái thì đó là tâm xả của mình. Cái chuyện gì xảy ra mình xả, mình thấy mình bằng lòng được hết, mình không có gì gút mắc ở trong lòng của mình, đó là tâm xả. Cho nên ở đây tu tập cái Chánh Niệm Tỉnh Thức này nó tỉnh thức ở trong Từ - Bi - Hỷ - Xả luôn. Đó, mình phải áp dụng, cho nên mình tu ở trong cái đó.
Do vì vậy mà cái Sơ Thiền này chúng ta tu rất nhiều, chứ không phải ít. Để huấn luyện cái tâm của mình mà, để rèn luyện cái tâm của mình mà, trau dồi cái tâm của mình mà. Nó đầy đủ những cái pháp hành mà Phật đã dạy để chúng ta thực hiện được cái sự giải thoát - cái sự ly dục, ly ác pháp.
Đó! Thì bây giờ đó là cái phần Sơ Thiền. Thì Thầy đã giảng các con thấy bốn Thánh Định mà Thầy nãy giờ nói về đơn sơ cho các con nghe để mà ghi chép, thì các con thấy nó có sáu phần tu tập về Sơ Thiền, nó sáu cái phần tu tập về Sơ Thiền. Như vậy là các con sẽ tùy theo cái đặc tướng của mình, cái gì mà mình đã khắc phục được mình, thì cái đó mình tu ít. Cái gì mà chưa khắc phục được mình thì cái đó mình phải dùng pháp hướng tu nhiều, nhắc nhở mình nhiều và quán xét nhiều. Quán xét tức là Định Vô Lậu đó. Đó thì các con nhớ hễ Thầy nói quán xét thì tức là tu quán là Định Vô Lậu.
Đó, thì nhớ những cái đó, thì các con thấy sáu cái phần này, các con sẽ tu tập liên tục. Biết cách thức tu tập thì Thầy thấy thời gian các con sẽ hoàn tất nó trong một năm thì nó sẽ xong, nó không lâu đâu! Nếu mà chúng ta ghi chép nó như thế này. Hồi nào tới giờ thì chúng ta tu nó mênh mông đại hải, cho nên chúng ta chưa có gom lại được. Bây giờ qua cái giáo án, Thầy gom lại để cho chúng ta biết được bước vào cái trước nào, đầu tiên chúng ta phải tu tập cái gì.
(56:50) Bây giờ về Nhị Thiền. Đây cái phần về Nhị Thiền, thì các con cũng có tu tập rồi. Nhưng mà chúng ta phải hiểu chúng ta phải tu cái gì trước. Định Niệm Hơi Thở - như Thầy đã giảng từ lâu tới giờ, các con phải ổn định hơi thở. Phải thở ra hơi thở bình thường, không được thở dài lắm, không được thở ngắn lắm, thở bình thường, thở cho đúng giây. Đó là cái Định Niệm Hơi Thở đầu tiên mà các con tu tập. Kế đó thì các con thở, cái hơi thở chậm và nhẹ. Kế đó các con tu tập cái hơi thở gom lại thành tụ điểm. Gom lại thành tụ điểm rồi mới tới tu tập được cái hơi thở tụ điểm rồi, thì các con mới thở chậm và nhẹ. Tùy theo cái mức độ chậm và nhẹ và dùng pháp hướng để cho nó chậm nhẹ theo cái độ của hơi thở.
Đó là về cái Định Niệm Hơi Thở. Nghĩa là muốn nhập cái Nhị Thiền thì các con phải tu Định Niệm Hơi Thở. Thì Định Niệm Hơi Thở Thầy đã giảng, các con đã dùng nhuần nhã cái pháp tu này rồi, các con biết. Bây giờ thì có đứa đã dùng được cái Định Niệm Hơi Thở của mình theo cái sự điều khiển hơi thở của mình rất là tự nhiên rồi, nó không còn khó khăn nữa. Nghĩa là thở rất là dễ dàng, nó không còn như cái người mới tu nữa.
Bây giờ tới cái phần thứ hai của Nhị Thiền, thì các con dùng cái Định diệt tầm mà giữ tứ. Các con phải biết cái Định diệt tầm giữ tứ là như thế nào? Bây giờ chúng ta đã tập luyện hơi thở, không có nghĩa tập luyện hơi thở để mà nó hết vọng tưởng, nó hết tầm. Mà chỉ làm sao cho cái hơi thở chúng ta bây giờ nó chậm nhẹ thì nó chậm nhẹ. Mà nó gom lại thì nó gom lại. Nó bình thường là nó bình thường thì đó là cái điều kiện tu tập cái Định Niệm Hơi Thở.
Còn bây giờ chúng ta đi tới cái giai đoạn thứ hai của cái Nhị Thiền thì chúng ta Định diệt tầm mà giữ tứ. Cái chuyện này Thầy chưa có dạy. Bởi vì Thầy mới dạy các con hơi thở để ổn định hơi thở, để tự tu tập dùng cái hơi thở gom tụ điểm, rồi mới thở chậm và nhẹ thôi. Chứ chưa có dạy các con cái Định mà diệt tầm mà giữ tứ. Vậy mà bây giờ các con hỏi Thầy tầm tứ diệt như thế nào? Thì như vậy thì chưa có dạy tới cái chỗ này. Bởi vì Thầy chỉ lo cái phần Sơ Thiền của các con để xả cái tâm ly dục, ly ác pháp, diệt ngã, xả tâm của mình, cái phần đó là phần quan trọng. Sau khi cái phần quan trọng rồi, thì bắt đầu mới qua cái Nhị Thiền. Thì trong khi tu cái đó, Thầy có dạy các con thêm cái hơi thở để cho nó làm quen với cái Định Niệm Hơi Thở, để sau này sử dụng cho nó đi ba cái Định kế tiếp.
(59:25) Như vậy là Định diệt tầm mà giữ tứ này nó như thế nào? Tứ nó luôn luôn nó phải có thì nó mới diệt tầm; Còn tứ nó không có, nó không diệt tầm. Do đây có nhiều người tu sai, là ngồi đây mà cứ hít thở, rồi biết hít thở, biết hít thở mà cái tứ không tác ý. Do đó chúng ta mới sử dụng cái gì mà tứ, các con biết không? Sử dụng pháp sổ tức: hít vô thở ra đếm một; hít vô thở ra đếm hai; hít vô thở ra đếm ba. Đếm tức là tác ý đếm chứ gì? Nhưng mà cái sức đếm không phải là tác ý đúng cách, không phải tác ý đúng cách. Cho nên do đó, các con thở riết, một hơi cái có vọng tưởng. Vì vậy mà nó đâu có đúng cách, cho nên nó đâu hết vọng tưởng, tức là không hết tầm, không diệt tầm. Cái tứ đó nó chưa có diệt tầm được. Mà cái pháp sổ tức này nó không phải của Phật dạy, mà là của các Tổ dạy. Cho nên cái pháp An bang - cái pháp Sổ tức này là sau này người sau viết ra. Do đó thì tới cái đời của ngài Thiên Thai Trí Khải, ngài mới đẻ ra cái pháp là Lục diệu pháp môn: sổ - tùy - chỉ - quán - hoàn - tịnh. Hồi trước kia thì nó có những cái pháp sổ tức, nhưng mà nó không phải là Lục diệu pháp môn. Nhưng mà nó là pháp An bang, nó dùng cái tên là pháp An bang.
(1:00:40) Bây giờ thì chúng ta trở về với cái điều kiện của Đức Phật dạy, do cái sự tác ý của cái hơi thở mà đếm một, hai, ba, bốn, đó nó chưa đủ sức tác ý. Đó, bây giờ về cái phần mà Định diệt tầm mà giữ tứ để cho cái tầm nó hoàn toàn không có. Bây giờ các con muốn một giờ đồng hồ, mà không tầm, không vọng tưởng. Còn các con cứ hít thở hay hoặc là các con tùy tức, các con thở biết ra biết vô, nó có tầm, vọng tưởng nó khởi ra, các con không làm sao ngăn nó được hết. Ở đây Đức Phật, Thầy đã nói các con là chúng ta tu tập để cái sự điều khiển làm chủ, chứ không phải để tự nhiên mà nó hết vọng tưởng hoặc là tự nhiên nó vô Định. Mà do cái sức điều khiển của mình mà nó vô. Vì vậy mà cái người mà tu nó lầm lạc về thiền Định, mà cứ để tự nhiên nó vô Định thì nó làm sao nó vô được? Nó phải có sự điều khiển của mình ở trong đó. Điều khiển bằng pháp hướng, điều khiển bằng cơ, điều khiển bằng ý thức của mình. Nó điều khiển, nó có chủ động điều khiển ở trong đó liên tục, nó có sức điều khiển ở trong đó. Cho nên vì vậy mà nó không bị lạc vô ở trong những cái Định vô ký hoặc là những cái Định ngoan không. Nó không rơi vào những cái trạng thái ngủ; nó rơi vào thùy miên đó; Nó không rơi vào hôn trầm. Nó không rơi được là vì chúng ta còn tứ.
Đó! Thì khi mà chúng ta đã tu tập cái Định mà diệt tầm giữ tứ, rồi đó, khi mà thời gian mà chúng ta ngồi một giờ đồng hồ đây, bắt đầu chúng ta hít thở. Chúng ta tác ý, luôn liên tục. Tác ý - tức là pháp hướng, chúng ta giữ tứ - tứ nó luôn luôn nó tác ý ra. Nó tác ý ra thì cái tầm làm sao mà quét vô được? Cho nên một giờ chúng ta xả ra, chúng ta thấy nó hơi mệt; Bởi vì đó là mình làm việc, mà cả một cái vấn đề làm việc của mình mà! Chứ còn mình ngồi đây mà mình cứ để tự nhiên nó thì nó khỏe quá rồi. Cho nên cái đó nó không thành cái vấn đề của một sự làm chủ.
Đến cái Định mà diệt tứ, cái Định mà diệt tứ. Khi mà chúng ta diệt tầm rồi thì tới cái Định phải diệt tứ chớ. Diệt tứ mới nhập được Định, chớ gì? Do đó chúng ta mới diệt tứ. Diệt tứ thì bây giờ Thầy giải thích cái định diệt tầm sơ để các con thấy. Sau này Thầy sẽ kèm mỗi đứa, đứa nào mà còn tập, tức là còn vọng tưởng, Thầy kèm. Nghĩa là bây giờ con ngồi ba mươi phút mà có vọng tưởng một, hai lần là cũng chưa được, là tu sai rồi đó. Còn Thầy, nghĩa là bắt đầu vô ngồi là bắt đầu hướng, dạy là hoàn toàn là ba mươi phút, luôn luôn lúc nào cũng tác ý giữ tứ hẳn hòi, ba mươi phút sau xả ra không có một vọng tưởng. Tức là điều khiển không vọng tưởng. Như vậy là phải hướng dẫn cụ thể để chúng ta diệt tầm hoàn toàn. Sau khi diệt tầm được rồi, trong cái thời gian chúng ta tu chỉ từ ba mươi phút đến một giờ không cần nhiều. Thầy nói không cần tăng cái thời gian hai, ba tiếng đồng hồ đâu, chỉ từ ba mươi phút đến một giờ. Từ khi mà chúng ta diệt tứ, cũng trong khoảng thời gian từ ba mươi phút đến một giờ, đó chúng ta diệt tứ. Thì trong cái thời gian diệt tứ đó, thì chúng ta hướng tâm Tịnh Chỉ tầm tứ để mà chúng ta nhập Nhị Thiền. Khi mà nhập Nhị Thiền xong rồi, tầm tứ diệt rồi thì chúng ta tiến tới để mà chúng ta tập, để mà phá tất cả các cái loại tưởng của Tam Thiền, để chúng ta nhập Tam Thiền.
(1:04:03) Đó, thì bây giờ Thầy đem một cái ví dụ để cho các con thấy; Bây giờ Thầy nói như thế này, Thầy ngồi đây, Thầy muốn diệt tầm Thầy giữ tứ, Thầy chỉ nhắc như thế này là Thầy sẽ diệt toàn bộ. Thầy ngồi suốt cái thời gian có thể năm phút, mười phút hay hoặc là nửa tiếng đồng hồ, hay một tiếng đồng hồ, Thầy nhắc “Hít vô, tôi biết tôi hít vô; thở ra, tôi biết tôi thở ra”, đó là cái thứ nhất. “Hít vô, tôi biết tôi đếm một; thở ra, tôi biết tôi đếm hai”. Chớ còn hít vô rồi thở ra mình đếm “một” hay hít vô mình đếm “một"; thở ra mình đếm “hai”, thì mình đếm như vậy một hơi mình sẽ có vọng tưởng đánh vô. Còn mình vừa hướng tâm theo cái hít thở của mình “hít vô. tôi biết!”. Thầy nói đây là sau này các con, mặc dù bây giờ các con tu, có nhiều người tu đã hết tầm rồi. Nhưng mà các con muốn kết quả cho cái người mà tu diệt tầm nhanh chóng không có thời gian kéo dài, thì các con nhớ rằng các con sẽ hướng dẫn, không thể nào lấy kinh nghiệm của các con mà hướng dẫn mà nó nhanh được đâu. Ngồi chờ cho nó, đợi mà cho nó hết vọng tưởng, nó hết tầm rồi thì cái thời gian tu nó rất là dài. Nó phải có sức tập trung rất cao, chớ còn lơ mơ thì không được.
Còn ở đây Thầy dùng pháp hướng không cần tập trung cao. Bắt đầu Thầy “hít vô”, thì mình vừa nói thì mình hít vô “Hít vô, tôi biết tôi hít vô”. Tôi biết tôi hít vô, rõ ràng là mình biết mình hít vô, tức là mình nhắc theo mình mà, nhắc theo hơi thở vô. “Thở ra tôi biết tôi thở ra”, tôi nhắc, phải không? Các con thấy mình vừa nhắc, vừa thở ra vừa nhắc, cứ nhắc vậy nó luôn luôn liên tục. Cái nhắc của mình là tứ, chứ không phải vọng tưởng, các con hiểu không? Bắt đầu bây giờ mình hít vô, thay vì mình hít vô mình thở ra mình đếm “một”, thì bắt đầu mình “hít vô, tôi biết tôi hít vô, tôi đếm một”. Mình nói theo cái sự đếm của hơi thở, mà “thở ra, tôi biết tôi thở ra, tôi đếm hai, hay hoặc là tôi đếm một”. Một lần nữa mình đếm một nữa, có gì đâu ? Nghĩa là hít vô thở ra đếm một thì hít vô cũng đếm một, thở ra đếm một. Hít vô đếm hai, thở ra đếm hai. Thì cứ như vậy, thì mình cứ nhắc nó, như vậy thì đó là cái giai đoạn thứ hai.
Còn nếu mình câu hữu với những cái định khác - Định Vô Lậu. Mình biết mình hay chấp ngã - hay giận, hay sân do cái ngã của mình, cho nên mình câu hữu ngay chỗ đó, không mất thời gian để cho mình tu. Thì bắt đầu “Hít vô, tôi biết thân tôi vô thường” phải không? Các con thấy “thở ra, tôi biết thân tôi vô thường”. Mình nhắc, tức là cái pháp hướng mình đi theo để câu hữu với cái Định Vô Lậu, để cho mình phá cái lậu hoặc của mình. “Hít vô, tôi biết thân tôi không phải là của tôi, thở ra, tôi biết thân tôi không phải là của tôi”. Thì mình cứ nhắc như vậy mà nó trở thành cái pháp hướng. Nó làm cho mình vừa là diệt được cái tầm mà vừa là câu hữu với Định Vô Lậu. Nó làm cho cái chấp ngã của mình, nó xả đi, nó ít có giận hờn phiền não nữa. Các con thấy chưa? Đây là những cái pháp mà diệt tầm mà câu hữu với Định Vô Lậu để xả.
(1:06:52) Cũng như bây giờ mình “Hít vô, tôi biết thân tôi không phải là tự ngã; thở ra, tôi biết thân tôi không phải là tự ngã.”; “Hít vô, tôi biết thọ tôi không phải là tự ngã; thở ra, tôi biết thọ tôi không phải là tự ngã.”. Thì mình cứ nương theo hơi thở, mình cứ nương theo cái pháp hướng đó, mình thở chậm chậm theo cái pháp hướng của mình. Thở ra thở vô, thở ra thở vô, mình dùng cái pháp hướng như vậy. Nó làm cho cái thời gian của mình tu, mình cứ tu chừng nào mình thấy mỏi mệt mình xả. Chứ đừng nghĩ rằng: “tui tu một giờ, hai giờ”, đâu không cần. Mình cứ thấy mỏi mệt, mình tu một hơi mà mình thấy mỏi mệt là mình xả, đừng có ráng. Ráng rồi nó sẽ uể oải. Bởi vì trong cái sức làm việc của mình vừa tác ý nó mệt lắm, nó không có thường đâu. Còn mình ngồi đây, mình thở ra thở vô, mình ngồi nó nhẹ nhàng lắm, lát cái nó ngủ quên, cái nó còn khỏe lắm. Nhưng mà nó không kết quả đâu! Nó không có làm chủ đâu!
Đó! Thầy nói hôm nay qua những cái rút tỉa những kinh nghiệm để hướng dẫn quý thầy. Và rút tỉa để trở thành một cái kinh nghiệm dạy người tu hành sau này không có cái thời gian dài, để mất cái thời gian rất nhiều, người ta diệt tầm. Cũng như hiện giờ các con có nhiều đứa chưa hết tầm mà không biết làm sao mà cho hết vọng tưởng? Tầm là vọng tưởng chứ gì?
Đó! Mà sau khi chúng ta hướng tâm như vậy, trong cái thời gian một tháng, mà chúng ta hướng tâm tu tập vậy không có vọng tưởng rồi thì bắt đầu chúng ta tu tới cái Định diệt tứ. Thì cái Định thứ nhất là chúng ta, như cái Nhị Thiền thì cái định thứ nhất mà chúng ta tu tập nó là Định Niệm Hơi Thở; Cái định thứ hai là chúng ta cái Định mà diệt tầm mà giữ tứ. Đến cái Định thứ ba là cái Định diệt tứ. Bởi vì diệt tầm rồi thì bây giờ diệt tứ. Thì bắt đầu mà chúng ta diệt tứ thì chúng ta Đến cái thứ tư thì chúng ta hướng tâm Tịnh Chỉ tầm tứ. Lúc bấy giờ chúng ta muốn diệt cái tứ như hồi nãy mà tác ý thì chúng ta chỉ còn cái pháp hướng, chúng ta nhắc “tứ phải diệt!”. Thầy sẽ giảng dạy các con, trực tiếp dạy các con ở chỗ cái pháp này; Các con sẽ hướng ra, các con sẽ diệt cái tứ các con. Tức là hồi đó các con câu hữu với cái Định Vô Lậu để mà các con dùng cái tác ý, các cái hướng các con nhắc để mà diệt tầm. Thì bây giờ các con muốn mà diệt tứ, thì các con phải tu cái Định mà diệt tứ. Muốn mà cái Định mà diệt tứ cho được thì các con phải hướng tâm Tịnh Chỉ tầm tứ. Mà khi mà Tịnh Chỉ mà tầm tứ mà nó được rồi, thì nó yên lặng rồi, thì bắt đầu nó tịnh chỉ tầm tứ rồi, thì các con phải ngồi suốt trong nửa tiếng hay một tiếng đồng hồ hoàn toàn là không có tầm tứ thì gọi là Tịnh Chỉ tầm tứ.
(1:09:30) Đó, nó năm cái điều kiện mà tu tập: cái điều kiện thứ nhất là Định Niệm Hơi Thở, điều kiện thứ hai là Định Diệt Tầm Giữ Tứ, điều kiện thứ ba là tu tập Diệt tứ, cái Định mà Diệt Tứ. Đến điều kiện thứ tư là hướng tâm Tịnh Chỉ tầm tứ luôn. Nghĩa là mình hướng tâm mình, mình hướng tâm trong cái khoảng thời gian cách cách xa xa ra, xa xa ra. Thí dụ, như mình hướng tâm mình nhắc: “Tầm tứ phải Tịnh Chỉ”, thì mình ngồi yên lặng một hơi cái mình nhắc, để không nó sẽ rơi vào Vô ký mất đi. Cho nên cái tứ mình vẫn còn tác ý thường xuyên. Nhưng mà khi mà mình kéo dài ra từ ba mươi phút hay một giờ, mình thấy nó yên lặng, mà nó tầm tứ nó diệt hoàn toàn rồi, thì đó là Tịnh Chỉ tầm tứ rồi. Thì bắt đầu mình tu tập thêm cái thời gian nữa là Tịnh Chỉ tầm tứ, tức là tầm tứ nó không còn có. Khi mà Thầy thấy tầm tứ nó hết rồi, bắt đầu Thầy ngồi lại, Thầy vô cái Thầy nhắc: “Tịnh Chỉ tầm tứ!”; Thầy chỉ nhắc nó như vậy, hướng nó một lần thôi, bắt đầu Thầy ngồi đó cho đến khi đúng một giờ hay hoặc là hơn một giờ không có tầm tứ nữa. Luôn luôn lúc nào nó cũng yên lặng phăng phắc như vậy, tức là Thầy đã thấy nhập được cái Nhị Thiền trong một tiếng đồng hồ rất là hết tầm tứ. Đó là cái thứ năm của nó là Tịnh chỉ tầm tứ. Chỉ cần nhắc nó: “Tịnh Chỉ tầm tứ!” thì bắt đầu từ đó mình vô mình ngồi hít thở, im phăng phắc, lặng lẽ hoàn toàn không có tầm tứ, đó là Tịnh Chỉ tầm tứ. Đó là năm cái điều kiện tu của cái định Nhị Thiền.
Đến cái định Tam Thiền. Thì muốn mà nhập cái Định Tam Thiền thì chúng ta nương vào cái hơi thở - cái Định Niệm Hơi Thở - mà khéo tác ý, khéo tác ý ra. Khéo tác ý như thế nào? Thì lúc bấy giờ chúng ta ở trong cái trạng thái yên lặng của Nhị Thiền, thì chúng ta hướng tâm. Chúng ta hướng tâm về cái hơi thở, hơi thở chậm và nhẹ, chậm và nhẹ xuống nữa. Chúng ta cứ hướng tâm, hướng tâm cái hơi thở chậm và nhẹ. Và khi có một cái trạng thái tưởng nào đó, nghĩa là thí dụ như nó làm cho chúng ta thấy an lạc, thích thú, hay hoặc là nó lúc lắc thân hay hoặc là nó này kia, chúng ta đều là có cái sự quan sát rất kỹ. Hễ nó hơi mà thấy cái thân nó có nhúc nhích là chúng ta biết là nó thuộc về sáu cái loại tưởng: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tưởng rồi. Cho nên nó có thể nó trong cái pháp hành của tưởng hay hoặc là trong thinh, hương, sắc của tưởng. Thì do đó mỗi cái nó xảy ra, thì chúng ta đều là nương vào cái pháp hướng mà để xả ly. Xả ly như thế nào? Khi mà chúng ta thấy cái hào quang ánh sáng thì chúng ta nói: “Ánh sáng phải xả ly không được hiện trước mặt ta nữa”. Cứ nhắc nó vậy, một lúc sau nó hết. Nếu mà có âm thanh gì mà nó ở trong tai thì chúng ta cũng xả ly âm thanh đó nữa. Có cái mùi hương nào thơm ngào ngạt, chúng ta cũng xả luôn. Cứ dùng cái pháp hướng mà xả cho sạch sáu cái sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp này.
Ngồi đây, mà thí dụ ngồi yên lặng như vầy, bỗng nó khởi ra một cái nghĩ. Thường thường là các con hay trình cho Thầy là những cái tưởng, cái pháp tưởng của các con. Ngồi cái bắt đầu các con yên lặng, các con nhớ ra: “À! Như vậy là cái pháp của mình, như vậy là mình tu vầy, vầy, vầy là đúng” - Đó là pháp tưởng đó mấy con.
Cho nên ở đây, trong cái giai đoạn này thì khi mà yên lặng nó thường hay sanh ra cái pháp tưởng. Mà cái pháp tưởng đó phải xả ly liền ở trong cái trạng thái đó, đừng có để kéo dài nó. Để rồi sau khi xả ra, xả thiền ra nghỉ ngơi chúng ta mới nêu lên một cái đề tài nào đó ở trong những cái bài học mà chúng ta truy tìm ra. Thì cái đó là cái tri kiến của chúng ta, cái tri kiến giải thoát, cái niệm mà Trạch pháp giác chi của chúng ta ra.
Thí dụ bây giờ Thầy giảng cái chỗ đó mà trong khi đó các con thấy mình hiểu lờ mờ, thì bắt đầu các con nêu cái đó ra để trạch pháp cái đó ra, tìm ra cái nghĩa lý của nó. Thì trong lúc đó các con miên man, tùy miên ở trong cái câu đó, để mà các con suy tìm ra cái nghĩa thì như vậy. Còn bây giờ trong khi các con đang tu, mà nó khởi ra một cái pháp tưởng, là nó hiểu cái nghĩa của cái câu đó. Thầy vừa dạy cái câu đó hồi chiều, mà bây giờ ngồi thiền nó bắt đầu nó khởi nghĩ ra, mình hiểu cái nghĩa nó như vậy, vậy, vậy. Nó làm cho các con thấy rất hay, nhưng mà nó thuộc về pháp tưởng. Cho nên nó có một cái pháp tưởng, nó có thể nó đánh lạc cho con. Vì vậy mà con tưởng đó là kinh nghiệm của mình, không ngờ nó bị pháp tưởng. Nó dẫn con đi, đi đó rồi từ đó, sau đó con tu tập tới, con thấy nó cái này nó không được đúng lắm, nó sai. Cứ hễ đi tới cái thì mình thấy nó sai, đi tới nó sai, nó không đúng. Đó là bị pháp tưởng.
(1:14:11) Cho nên ngay cái chỗ mà nó khởi ra cái pháp tưởng là đoạn dứt liền, phải trở về cái trạng thái yên lặng, xả ly sáu loại tưởng. Thì đó là phải dùng cái pháp hướng để mà xả ly sáu cái loại tưởng.
Lúc bấy giờ trong cái Tam Thiền này thì các con, cái giai đoạn thứ ba của các con, thì các con phải tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ. Lúc bấy giờ các con đã tu tập đến cái mức xả ly các pháp tưởng rồi. Ngồi mà yên lặng chủ động điều khiển tỉnh thức hẳn hòi đàng hoàng, không có một cái trạng thái nào mà xen vào làm cho con hỷ lạc khinh an gì hết. Thì như vậy là có thì con bắt xả nó rồi, cho nên vì vậy mà nó trong cái sự yên lặng, trong cái sự vắng lặng của nó thôi. Còn nó không có yên lặng, không có vắng lặng, nó có làm cho con thích thú hay hoặc là cái trạng thái như thế nào đó. Khó chịu hay trạo hối, hay là Trạo Cử gì đó, thì tất cả những cái này thuộc về các loại tưởng hết. Đều xả ra hết, để hoàn toàn còn có một sự yên lặng của nó, thanh tịnh của nó mà thôi, thì nó mới đúng.
Bắt đầu bây giờ trong cái giai đoạn mà tu tập về cái Tam Thiền thì các con phải tập tỉnh thức ở trong giấc ngủ, xả cái mộng tưởng, xả cái chiêm bao. Vì nó còn ngủ tức là còn bị chiêm bao, mà nó hết ngủ tức là nó không chiêm bao. Mà nó không chiêm bao để chuẩn bị cho chúng ta tỉnh thức ở trong giấc ngủ, để chúng ta đi qua tới Tứ Thiền mà nó không rơi vào trong những cái trạng thái Ngoan không, trong cái trạng thái Không Vô Biên Xứ - Không tưởng. Nó không có rơi vào cái trạng thái Không. Cho nên chuẩn bị là chuẩn bị ở Tam Thiền là phá cái mộng. Mà không có ngủ thì không mộng, mà còn ngủ thì phải còn mộng. Mặc dù chúng ta rất tỉnh thức ở trong mộng, khi có mộng là chúng ta tỉnh liền. Nhưng nó vẫn còn mộng thì nó chưa, nó chưa tỉnh thức ở trong giấc ngủ đâu. Cho nên chúng ta muốn xả cái ngủ để tỉnh thức ở trong giấc ngủ. Ngủ mà tỉnh để chuẩn bị cho qua Tứ Thiền, thì lúc bấy giờ chúng ta phải xả cho sạch mộng, không có mộng. Đó là trong Tam Thiền chúng ta tu cái giai đoạn thứ ba.
(1:16:06) Giai đoạn thứ tư thì dùng pháp hướng xả ly mười tám cái loại tưởng. Nghĩa là dù ở trong mộng tưởng thấy này thấy kia, cộng thêm sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, tất cả những cái loại nào đó cộng hết là mười tám cái loại tưởng, loại hỷ tưởng. Bởi vì Tam Thiền nó có mười tám cái loại tưởng hỷ của chúng ta rất lớn. Nó xảy ra cho chúng ta vui mừng, nó xảy ra chúng ta khó chịu, xảy ra cho chúng ta cái này, cái nọ kia… đủ cách. Làm cho chúng ta thích cũng có, mà chán cũng có, làm chúng ta bất mãn, làm chúng ta thối tâm cũng có. Nó ở trong mười tám cái loại này gọi là hỷ tưởng thì chúng ta cố gắng mà thấy cho được cái mặt của nó để mà chúng ta xả ly. Còn nếu mà chúng ta không thấy được cái mặt của nó, chúng ta khó mà xả ly nó được. Đó là Tam Thiền.
Còn về cái phần mà Tứ Thiền. Cái phần nào mà để trực tiếp mà Thầy dạy các con mà khi mà các con tu tập cái đó chưa được. Thầy sẽ trực tiếp dạy để cho cái thời gian nó thu ngắn mà các con đạt được cái kết quả của nó.
Bởi vì từ cái Nhị Thiền cho đến Tam Thiền nó thuộc về Định. Còn cái Sơ Thiền nó thuộc về Tuệ và nó thuộc về cái Đức, cái giới đức, nó thuộc về cái đức hạnh, nó thuộc về Tâm. Còn cái Nhị Thiền, từ Nhị Thiền đến Tam Thiền nó thuộc về cái Định tâm.
Cho nên ở đây đến cái Tứ Thiền thì chúng ta có những phần phải tu tập. Cái phần thứ nhất của Tứ Thiền thì phải nương cái niệm hơi thở mà khéo tác ý. Do đó chúng ta cũng phải nương cái hơi thở, hướng tâm bắt buộc cái hơi thở phải chậm và nhẹ theo cái sự hướng tâm của chúng ta. Mặc dù là cái hơi thở nó chậm nhẹ như Tam Thiền, nhưng vẫn phải nương vào cái hơi thở Tam Thiền đó mà đi vào cái Tứ Thiền.
Bây giờ chúng ta biết cái hơi thở khéo tác ý, về nương vào cái hơi thở chậm và nhẹ. Thì lúc bấy giờ cái phần thứ hai của cái Tứ Thiền thì chúng ta phải Tịnh Chỉ âm thanh. Chúng ta phải Tịnh Chỉ cái âm thanh. Nghĩa là âm thanh phải ngưng bặt, hay là cái căn tai, cái nhĩ thức phải nằm yên lại, không được nghe ra ngoài nữa mà hãy nghe cái hơi thở. Đó là chúng ta khéo tác ý về hơi thở cho cái nghe nó nghe cái hơi thở. Bắt đầu nó nghe hơi thở, nghe thở ra thở vô, thở ra thở vô. Sau cái thời gian thở ra thở vô như vậy thì chúng ta Tịnh Chỉ cho nó: “Cái nhĩ thức phải nằm ngủ đi, không được nghe nữa, không được nghe hơi thở nghe cái gì nữa hết!” Hồi đầu thì chúng ta cho nó nghe hơi thở, nó nghe một cái. Sau đó nó nghe một cái rồi, thì âm thanh bên ngoài nó văng vẳng, nó không còn nghe lớn nữa; Vì vậy mà nó cũng vẫn còn nghe âm thanh chứ chưa hết. Cho nên chúng ta phải Tịnh Chỉ nó nữa.
(1:19:01) Bắt đầu phải bắt buộc nó phải nằm ngủ đi, thì do đó nó nằm ngủ. Nếu mà nó không nằm ngủ thì mình nhè nhẹ nhè nhẹ để cho nó ngủ, chứ đừng có xốc động nó, nó cứ thức hoài, nó nghe hoài. Cho nên khi mà mình trong cái sự yên lặng đó, trong cái sự yên lặng đó, mình rất nhẹ nhàng để cho cái căn tai, cái nhĩ thức của mình nó nằm yên xuống nó ngủ. Nó ngủ được thì tức là chúng ta không nghe.
Mà lúc bấy giờ chúng ta đã chuẩn bị cho mình ở trong cái tỉnh thức trong giấc ngủ của xả mộng tưởng đó. Cho nên chúng ta biết cách thức mà để nằm ngủ mà nó tỉnh thức. Cho nên lúc bấy giờ chúng ta lợi dụng cái chỗ mà tập tỉnh thức trong giấc ngủ đó, chúng ta lại ru cho cái tai chúng ta, cái nhĩ thức cho nó ngủ, thì nó sẽ quen theo. Cái hồi đó nó nằm ngủ mà nó tỉnh thức, thì tức là nó ngủ là nó đóng lại, nó không nghe ra ngoài nữa chớ gì? Do đó nó nằm nó ngủ, nó không nghe ra nữa, tức là Tịnh Chỉ được âm thanh.
Nhưng mà cái thọ thì nó cứ nó đánh, nó đánh cho cái lỗ tai nó thức dậy hoài, chớ đâu có dễ gì! Mặc dù cái lỗ tai nó nằm nó không nghe rồi, nhưng mà cái thọ nó mỏi mệt cái gì đó, nó bắt đầu cựa mình, cái nó nghe trở lại. Cho nên mình phải Tịnh Chỉ cái thọ, tức là tới cái giai đoạn thứ ba, là mình thấy cái âm thanh, cái tai của mình, cái nhĩ thức nó nằm ngủ được rồi. Nó nằm ngủ được rồi, thì bắt đầu mình mới Tịnh Chỉ cái thọ. Chớ không phải là muốn Tịnh Chỉ cái thọ liền được. Mình phải hướng tâm mình Tịnh Chỉ cái thọ. Mà cái thọ nó kéo dài ra mà nó không có còn mà động đậy thì tức là các hành nó phải ngưng. Như vậy là lúc bây giờ chúng ta muốn Tịnh Chỉ cái thọ thì phải Tịnh Chỉ hơi thở, nếu mà hơi thở còn thở thì cái thọ nó còn.
Cho nên Cái thứ ba là Tịnh Chỉ các thọ, nhưng mà thường xuyên phải kẹp vào trong cái Tịnh Chỉ hơi thở. Đó thì luôn luôn liên tục cái thứ ba và cái thứ tư này đồng thời trong một cái thời gian chúng ta phải kẹp vào để mà Tịnh Chỉ. Còn cái Tịnh Chỉ âm thanh là chúng ta chỉ dỗ cho cái nhĩ thức của chúng ta nó ngủ mà thôi. Còn tới cái thọ và cái hơi thở nó phải đồng thời nó phải Tịnh Chỉ một lượt, thì cái hơi thở Tịnh Chỉ, thì cái thọ nó mới hết. Còn cái hơi thở mà nó chưa Tịnh Chỉ thì cái thọ nó không hết; Mà cái thọ nó Tịnh Chỉ thì cái hơi thở nó cũng phải ngưng.
Rồi bây giờ cái hơi thở nó đã ngưng rồi, đã ngưng rồi. Nhưng mà nó không an trú được dài, nó một lát thì cái thọ nó cựa mình, nó thức dậy nó cựa mình. Cho nên chúng ta phải Tịnh Chỉ các hành về hơi thở. Bởi vì cái hơi thở tuy rằng không thấy nó thở đó, nhưng mà ở trong thân ở trong phổi chúng ta nó còn động đậy đó, chứ chưa phải hết đâu.
(1:21:35) Cho nên chúng ta phải hướng tâm chúng ta nhắc các hành về hơi thở phải ngưng, không có được hoạt động nữa. Thì lúc bấy giờ đó các cái hành về hơi thở nó ngưng đi, nó không có hoạt động nữa. Mà nó không hoạt động nữa, thì chúng ta Tịnh Chỉ toàn bộ các hành ở trong thân chúng ta ngưng hoàn toàn. Thì ngưng hoàn toàn, thì âm thanh nó cũng đoạn dứt, thọ đọan dứt, hơi thở đoạn dứt, cái gì cũng đoạn dứt hết. Thì các hành về hơi thở nó ngưng rồi, thì đương nhiên là chúng ta sẽ nhập vào Tứ Thiền. Và cái thời gian đó chúng ta kéo dài cái thời gian ra, là lúc bấy giờ chúng ta nằm ở trong sự yên lặng đó. Chúng ta nói: “Tâm phải yên lặng, phải kéo dài cái sự vắng lặng này ra!” cứ nhắc kéo dài ra thôi. Bây giờ nó Tịnh Chỉ rồi thì thường xuyên cái tỉnh thức chúng ta còn. Nếu mà mất cái tỉnh thức thì tức là chúng ta rơi vào cái Không mất rồi. Cho nên thường xuyên chúng ta phải nhắc.
Về cái phần thứ sáu thì chúng ta cứ nhắc nằm trong cái sự vắng lặng đó không có nghe, không có thọ, không có hơi thở, không có các hành, thì đó là sự vắng lặng hết toàn bộ. Vì vậy mà chúng ta muốn kéo dài nó ra thì chúng ta an trú ở trong cái định mà dài ra. Thì chúng ta nằm đó, mà chúng ta hướng tâm, chúng ta nhắc nhẹ nhàng, nhẹ nhàng, chúng ta hướng: “phải vắng lặng cho lâu, không được bung ra, phải nằm yên đó kéo dài mãi”.
Đó, chúng ta cứ thường xuyên nhắc nó, để không nhắc nó thì nó rơi Vô ký, nó rơi Ngoan không mất đi. Cho nên chúng ta thường xuyên nhắc. Nhắc cho đến khi nó kéo dài từ một giờ, hai giờ, ba giờ, một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày… cứ nhắc hoài nhắc hoài hoài. Nhắc cho đến khi mà ngồi một tháng, hai tháng, năm tháng cũng được; Một năm, hai năm, ba năm cũng được, tùy, chừng đó thì các Thầy đã nhập được định rồi. Cho nên luôn luôn lúc nào mình cứ thường xuyên mình nhắc. Chứ mình không nhắc mình mới tu mình không nhắc nó mất.
Sau thời gian mình biết mình nhập được rồi thì chừng đó mình xả cái nhắc đó đi, cái mình nhập Tứ Thiền nó tỉnh thức ở trong đó. Nó yên lặng, cái biết nó nằm yên lặng đó, chứ nó không ngủ. Còn mới đầu mình không nhắc, nó mất, nó rời mất.
Cho nên khi mà Tịnh Chỉ các hành ở trong thân về hơi thở rồi, nó ngưng rồi thì bắt đầu từ đó mình phải kéo dài cái trạng thái vắng lặng đó, cái trạng thái thanh tịnh đó, kéo dài mãi mãi. Kéo dài mãi tức là an trú ở trong định đó hoài. Cho nên chúng ta cứ nhắc mãi hoài, thường xuyên nhắc. Không khéo nhắc, không nhắc thì tức là nó sẽ mất đi, nó mất cái thức của chúng ta.
Cho nên chúng ta cứ nhắc hoài, cứ nhẹ nhàng lâu lâu ra hướng chúng ta nhắc để cho nó đừng mất, nó đừng có rơi trong ngủ, nó đừng rơi trong cái Vô ký, đừng có rơi trong ngoan Không. Chúng ta nhắc, nhắc cho đến khi một ngày, hai ngày, ba ngày, chúng ta nhắc. Nhắc chừng nào chúng ta thấy cần ra là chúng ta ra, mà chưa cần ra thì thôi, cứ nhắc hoài. Cho nên, chứ ở trong đó chúng ta không thấy đói, không thấy khát, không thấy đau, không thấy nhức gì hết. Thì chúng ta cứ nhắc mãi, nhắc mãi, nhắc hoài. Thì như vậy là chúng ta đã nhập Tứ Thiền.
Lúc bấy giờ chúng ta xả ra, rồi chúng ta tập nữa. Xả ra, tập nữa để an trú kéo dài cái thời gian. Như vậy mới đầu thì chúng ta an trú trong suốt mười hai tiếng đồng hồ. Mới đầu chúng ta tu có một tiếng đồng hồ chứ gì? Bây giờ chúng ta tăng lên thử. Bây giờ mình cứ an trú ở trong đó, mình kéo dài, mình hướng tâm mình nhắc nó. Nó kéo dài năm, ba tiếng đồng hồ các con không hay đâu. Khi mà nó ngừng hoạt động rồi, các con nhắc; Cứ nằm trong đó, thỉnh thoảng nhắc, nhắc, nhắc, tới chừng mà xả ra, các con nhìn lại. Hồi đó mình tu có một tiếng à, bây giờ mười tiếng đồng hồ mới xả ra, nó suốt đêm mà vẫn tỉnh thức như vậy đó.
Đó thì các con biết à như vậy mình là đã nhập đúng Tứ Thiền rồi, nó không có gì hết! Rồi kế đó các con cứ vô đó các con cứ nhắc hoài, nhắc hoài. Cho nên khi một ngày, trưa - người ta thấy các con không ăn cơm biết là nhập định rồi đó, hay hoặc là nó ngủ quên trong đó rồi cũng không chừng. Do đó cứ nhắc riết, nhắc mãi cho đến khi bảy, tám ngày rồi mới ra, tự nó hết. Khi mà nó muốn ra là các con ra, mà nó chưa muốn ra thì cứ nhắc thôi.
Mà nó muốn ra, hồi đó muốn ra tức là nó…Cũng như bây giờ các con thấy nè, Thầy nói tu tập, nó phải nhận xét cái này cho rõ: khi nó muốn ra mình đừng ép, mình ra đi, đừng có ép nó, mình ra. Nhưng mà trong cái khoảng thời gian mà mình tu tập mà mình làm đúng đó, cái thời gian ví dụ như năm phút mình vẫn có cái sức mình tu tập tới nữa được mà; Chứ đâu phải cần mình ngồi nhiều. Ngồi nhiều nó rơi trong những cái trạng thái của Định tưởng, nó rơi vào ở trong những cái trạng thái Vô ký, trạng thái ngủ. Nó mất thì giờ mình cái đó nhiều lắm, vô ích lắm.
Rồi các con biết không, người ta tu ít, người ta xả thiền ra người ta tỉnh bơ, người ta sáng suốt thông minh lắm. Còn mình ngồi nhiều, các con thấy ngồi một, hai tiếng đồng hồ ra, các con thấy sao con người mình nó lừ đừ lừ đừ, mắt nhắm mắt mở, làm như người muốn ngủ, nó không có tỉnh. Còn người ta tu Thiền rồi, người ta ra nó tỉnh lắm, nó tỉnh rất tỉnh. Còn mình tu mà để mà cứ ngồi lặng lặng nhẹ nhẹ, lờ mờ lờ mờ trong đó cứ kéo dài mãi như vậy đó, một, hai giờ hay ba, bốn tiếng gì đó, ra nghe con người mình nó lừ đừ, lừ đừ, nó không có sáng suốt, nó không có tỉnh táo. Còn cái người mà tu đúng, ra tỉnh táo.
Cho nên từng chỗ mà khi mà Tịnh Chỉ các hành về hơi thở rồi, thì các con cứ, nó hoàn toàn nó vắng lặng, nó không có âm thanh, không có gì hết.
HẾT BĂNG
XÁC ĐỊNH PHÁP TU ĐÚNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Ngày giảng:
Thời lượng: 1 giờ: 55 phút: 29 giây
(00:00) Thầy xin nhắc lại, trên bước đường tu tập, qua những cái tập nhật kí thời khóa tu tập của mấy con. Thì hầu hết thì các con tu thì Thầy thấy nó còn một cái chưa có nhận đúng cái chỗ mà Thầy dạy. Cho nên nó còn một cái sai chứ chưa phải đúng.
Nếu mà đúng thì các con sẽ tu có chất lượng rất mau và tiến rất nhanh và rất tốt ở trên cái bước đường tu tập. Như các con biết rằng cái Đạo Phật tu tập có thiền định nó không phải là cái chỗ mà chúng ta ngồi mà nó hết vọng tưởng. Mà nó có sự an lạc nó say say ở trong đó thì cái đó là không có đúng đâu.
Thì các con biết là hầu hết ở đây Thầy bác cái vấn đề này từ lâu. Cũng là cái vấn đề mà có cái trạng thái an lạc mà nương theo cái trạng thái thì đó là cái sai. Bởi vì các con thấy rằng trong cái Đạo Phật nó rất rõ ràng. Là khi mà diệt tầm tứ, nhập Nhị Thiền thì do Định sanh hỷ lạc.
Thì các con thấy mình hết vọng tưởng, mình tác ý ra, ngồi im lặng phăng phắc chỉ có một tâm duy nhất đó mà thôi. Thì lúc bấy giờ các con thấy cái hơi thở ra vô nhẹ nhàng. Thì nó có cái an lạc ở trong cái hơi thở đó chứ không phải không có. Nhưng Đức Phật mau mau Đức Phật gọi là xả hỷ liền tức khắc. Không có nên nương cái chỗ đó, không có nên nương cái an lạc đó.
Khi chúng ta đạt được cái chỗ mà hết tầm tứ, hết vọng tưởng rồi chúng ta phải tiến tới chứ không phải đứng dừng đó để mà hưởng cái lạc đó. Mà đã hưởng cái lạc đó thì các con sẽ bị rơi vào trong những cái định khác. Cái định sai. Mà hầu hết tất cả huynh đệ mà về đây tu hành mà có cái trạng thái gọi là an ổn đó thì cứ thích thú ở trong cái trạng thái đó, mà không có thì cứ như là mình không có thiền định.
Mà có thì tưởng đó là cái trạng thái tốt cho thiền định. Không phải đâu. Nó phải có nhưng có để mà bỏ chứ không phải để mà lấy nó. Cho nên ngay đó thì chúng ta không chấp nhận nó rồi. Mà không chấp nhận nó thì chúng ta phải làm sao? Chứ không thể chúng ta nằm im đó mà hưởng nó sao?
(2:11) Cho nên các con tưởng là mình động đậy hoặc là tác ý ra là mất nó rồi còn gì. Cho nên không có động đậy cứ nằm im đó để mà nó kéo dài được. Nó tăng lên từ một giờ, hai giờ hay là ba giờ, mà càng dài ra thì càng tốt. Nhưng mà không phải. Nó đi tới cái đường cùng của nó chứ không phải bao giờ mà nó có thể dẫn cho chúng ta (đi) đúng.
Mà ở đây cái mục đích của chúng ta tu hành là luyện cho mình có cái đạo lực. Cái đạo lực là cái sức lực của đạo để làm chủ được cái sống chết của mình, làm chủ được cái đời sống của con người của mình. Chứ không phải đi tìm một cái lạc khác hơn là cái lạc của dục lạc.
Nghĩa là bây giờ, chúng ta đi tìm cái sự mà ức chế cái tâm không vọng tưởng, để tìm một cái lạc khác hơn là cái lạc của chúng ta đang thọ hưởng thế gian. Thì cái lạc đó nó cũng đâu có cái gì hơn là cái dục lạc của thế gian đâu?
Cho nên ở đây, chúng ta phải mau mau bỏ cái đó xuống. Mà bỏ cái đó, chúng ta cứ nghĩ mình - nếu tác ý ra thì nó sẽ mất cái đó rồi sao, nó mất cái sự yên lặng. Không phải đâu !.
Các con cứ nghĩ rằng một người mà tu mà không chất lượng, tức là ngồi tu có vọng tưởng ra vô là không chất lượng.
Mà hết vọng tưởng rồi thì không phải chỗ hết vọng tưởng đó là có chất lượng. Lấy cái chỗ chất lượng hết vọng tưởng đó, chứ không phải ở chỗ đó là cái chỗ cuối cùng để chúng ta tới đó là rồi. Không phải chỗ không niệm thiện niệm ác là xong. Mà chúng ta lấy cái chỗ không niệm thiện niệm ác đó để mà tiến tới rèn luyện cái lực của chúng ta mạnh hơn, sâu hơn và vĩ đại hơn.
Thì cái lực đó nó phải ở trong cái trạng thái, cái chỗ mà không có vọng tưởng, không có tầm tứ đó. Chúng ta ở trong chỗ đó, nó khoảng độ cái sức của chúng ta tu tập. Nó khoảng độ chừng ba mươi phút, không hơn một giờ đồng hồ. Vì hơn một giờ đồng hồ thì cái sức chúng ta không còn có nữa. Thì cái trạng thái không vọng tưởng nó sẽ lôi chúng ta đi vào một cái định sai lệch, cái định khác, mất tiêu hoặc là vô ký hoặc là tùy miên. Tất cả những cái khác nó làm chúng ta mất thì giờ. Kéo dài cái đời sống tu hành của chúng ta không có kết quả tốt, kết quả sai. Mất thì giờ vô ích.
(4:21) Cho nên chúng ta tu cái thời gian càng ngắn, ba mươi phút mà chất lượng càng cao, thì quý hơn là chúng ta ngồi một giờ mà chất lượng không có. Cho nên trong cái thời gian mà khi mà chúng ta biết rằng trong một tuần lễ, mà mỗi thời. Một buổi vậy là chúng ta tu một thời mà trong bốn buổi chúng ta tu bốn thời: Sáng, chiều, tối, khuya. Bốn thời. Mà mỗi thời, chúng ta tu ba mươi phút.
Còn ngoài ra tất cả những cái thời gian khác thì chúng ta tu cái Định Vô Lậu, tu cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác để giúp cho cái sức tỉnh giác.
Khi mà đi ngủ thì chúng ta cũng tập tỉnh giác ở trong giấc ngủ để chúng ta không còn ngủ nghê. Để chúng ta có đủ cái sức tỉnh, sức tỉnh thức cao. Để khi mà chúng ta phá hết âm thanh, phá tất cả mọi cái mà sức tỉnh chúng ta có, thì lúc bấy giờ nó mới gọi là sức tỉnh cao độ.
Còn nếu mà sức tỉnh khi mà âm thanh không còn có thì cái sức tỉnh đó cũng mất luôn, thì nó không đúng. Do cái không hiểu rõ và bị cái trạng thái xúc tưởng hỷ lạc. Nó đã sai khiến làm cho các con phải tu lạc. Cứ ngồi tập ngồi cho nhiều. Ngồi nhiều để mà làm gì? Trong khi cái tâm các con chưa có xả sạch thì nó chưa có thanh tịnh.
Mà chưa thanh tịnh thì tức là nó còn lo ra, nó còn phiền não, nó còn sợ hãi trước những cơn bệnh đau. Năm cái triền cái, bảy cái kiết sử nó luôn luôn nó cột chặt, nó diệt các con. Vì vậy mà các con phải cố gắng mà rút chặt những cái này.
Khi một niệm mà nó khởi trong tâm, ngay đó chúng ta phải sáng suốt mà nhận nó. Nó là ngũ triền cái hoặc là nó là thất kiết sử. Thì rút nó ra liền. Và đồng thời dùng cái pháp hướng truyền lệnh nó.
(6:14) Thầy quên nói cho các con biết rằng trong cái pháp hướng của chúng ta nó có cái pháp hướng để tu Định Vô Lậu và cái pháp hướng tu Định Chánh Niệm Tỉnh Giác. Như Thầy nhắc, thường thường các con không phân biệt. Do cái chỗ mà các con tu rồi ghi trong tập nhật ký, Thầy thấy các con dường như không hiểu chỗ này như thế nào.
Cho nên tu thì tu chứ còn không có biết. Gần đây thì Minh Tông hỏi Thầy, Thầy mới giảng cho nghe cái hiểu biết. Các con hiểu tại sao cái pháp hướng có khi thì truyền lệnh mà có khi lại không truyền lệnh. Vậy không truyền lệnh là tu cái gì mà truyền lệnh là tu cái gì? Đó là cái mà chúng ta phải phân biệt được hai cái pháp hướng.
Vậy thì cái pháp hướng đầu tiên để cho chúng ta tập là gì? Như “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành” có truyền lệnh không? Nhắc mình biết đi kinh hành chứ mình có truyền lệnh nó cái gì đâu? “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”, “Nhổ cỏ tôi biết tôi nhổ cỏ, quét sân tôi biết tôi quét sân”, “Đang thở tôi biết tôi đang thở”.
Thí dụ như bây giờ con hít thở, con đếm. Đếm một, hai, ba, bốn hít vô, thở. Đếm một, hai, ba, bốn con không đếm, mà con cứ hít thở chừng khoảng độ ba bốn hơi thở thì các con nhắc: “Tôi thở tôi biết tôi thở”. Rồi chút con nhắc: “Tôi thở tôi biết tôi thở”. Tức là dùng cái pháp hướng như vậy gọi là tu tập Tỉnh giác, Chánh niệm Tỉnh giác ở trong cái hơi thở.
Còn mình đang quét sân, mình nhắc: “Tôi quét sân tôi biết tôi quét sân”. Thì đó là Chánh niệm Tỉnh giác. Khi quét sân mà dùng pháp hướng như vậy để nhắc cái tâm mình tỉnh giác thôi chứ không truyền lệnh.
Còn bây giờ đó, cái tâm các con có chuyện gì, nó phiền não, nó tham, sân, si này. Thì bắt đầu các con ra lệnh. Cái câu pháp hướng đó nó lại là cái lực, đạo lực tập rèn luyện đạo lực. Chứ không phải là cái nhắc của cái câu pháp hướng như Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Mà đây là tu tập cái đạo lực để làm chủ nó. Cái tâm bây giờ, từ đây về sau phải như cục đất. Không có được tham sân si nữa, đừng giận hờn nữa, không được lo toan, không được sợ hãi nữa. Ra lệnh. Thì câu pháp hướng đó là đạo lực, điều khiển chủ động câu pháp hướng đó.
(8:21) Cũng như bây giờ mới đầu chúng ta tu Chánh niệm Tỉnh giác. Chúng ta cũng như là một con vật mà chúng ta huấn luyện nó, dạy nó. Thì chúng ta dỗ ngọt, sau đó thì chúng ta phải răn để cho nó sợ. Vừa dỗ mà vừa răn. Cho nên câu pháp hướng, có câu thì dỗ có câu thì phải răn.
Cho nên chúng ta điều khiển cái tâm của mình, cũng như huấn luyện cái tâm của mình trở lại theo cái sự điều khiển của mình. Muốn như thế nào thì nó làm theo như thế nấy. Thì coi như là Đức Phật ví như là một người mà huấn luyện voi.
Cái sự huấn luyện voi nó có hai cách huấn luyện của nó. Vừa ngọt ngào vừa nhắc nhở rồi vừa ra lệnh. Cho nên mình sai bảo được con voi nó làm cái gì nó làm theo mình đó. Đó là cái lệnh. Còn mình huấn luyện nó thì mình phải nhỏ nhẹ với nó. Cho nên vì vậy mà mình nói: “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành.” Nhỏ nhẹ đó.
Bây giờ: “Tôi thở tôi biết tôi đang thở.” Tức là nhỏ nhẹ đó. Thì tất cả những cái này là tu Chánh niệm Tỉnh giác. Tỉnh giác, Chánh niệm là cái niệm hơi thở, cái niệm đi, cái niệm làm công việc. Niệm đó là cái niệm, cái niệm ở trên thân của chúng ta. Do cái thân hành đó mà chúng ta niệm theo cái thân hành đó chúng ta tu tập, gọi là Chánh niệm Tỉnh giác.
Vì vậy mà bây giờ, về cái phần dạy thì các con thấy cái giáo án thì nó mênh mông, nhưng cái tu thì nó đâu có mênh mông đâu. Hàng ngày các con chỉ có tu Định Chánh Niệm Tỉnh Giác. Thì dùng pháp hướng nhắc nhở cái tâm của mình để cho nó tỉnh thức ở trong đó.
Rồi tu Định Vô Lậu thì các con truyền lệnh mà quét sạch nó làm chủ nó mà sai nó. Thì các con thấy rất rõ. Còn về Định niệm Hơi thở hay An Trú Định thì nó là Tứ Thánh Định rồi. Thì bắt đầu các con chưa hết vọng tưởng thì các con hít vô, thở ra một hai hơi thở: “Tôi đang thở tôi biết tôi đang thở.”
Mà trong lúc nói như vậy không có nghĩa là các con tu lơ mơ. Mà khi khép chân lên thì các con phải đem hết cái nhiệt tâm của mình khi mà khoanh chân lên. Thà là đừng có ngồi thiền. Mà đã ngồi thiền thì đừng có để cái vọng tưởng xen vô.
(10:34) Cho nên phải nghe lời Thầy, Thầy dạy. Muốn mà làm được một ông Phật, muốn giải thoát được cái sự đau khổ của kiếp người. Đừng có ngồi một cách mà để mà dậm chân tại chỗ đó. Khi khoanh chân vô rồi đó thì dù là tu một phút. Nhưng một phút đó phải có chất lượng hẳn hòi.
Đem hết cái nhiệt tâm, cái nghị lực, cương quyết, cái gan dạ của mình để làm chủ hoàn toàn với một cái sự tập trung hết sức cao độ. Chứ không thể nào mà tu lơ mơ được, khi mà các con còn vọng tưởng.
Còn hết vọng tưởng rồi thì lại khác hơn. Cũng phải nhiệt tâm, cũng phải hết sức để mà giữ được an trú ở trong cái sự yên lặng đó. Để rồi từ đó phải liên tục mà hướng tâm, mà nhắc cái sự vắng lặng, để đạt được cái sự vắng lặng. Lấy cái sự yên lặng đó, huân tập tầm tứ đó mà đạt cái sự vắng lặng. Không phải ở đó mà thọ hưởng cái sự an lạc ở đó, cái sự an ổn ở đó.
Mà đây là một cuộc chiến đấu, chiến đấu tận cùng. Bắt đầu chúng ta chiến đấu với vọng tưởng, với tầm, với các ý của chúng ta. Cho nên khi mà chúng ta ngồi một phút, mà hít thở một phút. Chúng ta phải đem hết nhiệt tâm ra để mà tu tập. Chứ không phải là tu lơ mơ. Tu lơ mơ cũng ngồi có hình thức vậy, rồi hít thở năm, ba hơi thở, mười hơi thở không vọng tưởng. Kế đó cái nó đi mất. Cái nhiệt tâm nó không có. Cái nghị lực nó không có chiến đấu cho nên năm, mười hơi thở cái có vọng tưởng.
Hoặc là ráng bữa nào nó yên tĩnh. Bữa nào cái thân tâm nó khỏe khoắn thì ngồi nó kéo dài được mười phút, hai mươi phút là nó không vọng tưởng. Còn hôm nào đó là không có, thì cái đó là thiếu nghị lực.
Còn cái nhiệt tâm của chúng ta là lúc nào giờ nào mà khoanh chân lên thì chúng ta coi như đây là một cuộc chiến đấu vĩ đại. Phải chiến thắng, không để thua kẻ giặc. Mà kẻ giặc là tầm tứ của chúng ta.
(12:28) Cũng như khi mà chúng ta hết tầm tứ rồi thì kẻ giặc của chúng ta là âm thanh bên ngoài. Chúng ta phải chiến thắng âm thanh. Mà nếu mà âm thanh chúng ta đã chiến thắng rồi, thì kẻ giặc của chúng ta là thọ. Đau nhức chỗ này, đau nhức chỗ kia. Phải làm sao triệt hạ thọ cho hết đau.
Thì đó là cách thức chúng ta tu tập để làm chủ từng bước của chúng ta. Mà cái pháp hướng của chúng ta luôn luôn lúc nào cũng đánh bại chúng ra. Cho nên Thầy nói rằng, khi mà chúng ta quyết tâm rồi thì chúng ta nằm im lặng đó để mà chúng ta nỗ lực thực hiện.
Cái sự im lặng đó rất là sâu để cho chúng ta đi vào vắng bặt. Để cho thọ không tác động được nữa. Chứ còn nếu chúng ta không chịu nằm yên như Thánh thì lúc bấy giờ cái thọ nó sẽ tác động. Âm thanh nó sẽ tác động. Chúng ta phải im lặng như Thánh, nghĩa là khi chúng ta quyết tâm nằm im đó. Nằm thật yên.
Mà mặc dù nó chưa có hết âm thanh thì thỉnh thoảng chúng ta lại hướng tâm nhắc lại thì mới hết. Nhưng xíu nữa cứ tập nằm im tức là định chúng ta sẽ sâu. Cái sự nằm im đó, cái sự im lặng như Thánh đó nó sẽ càng sâu xuống. Mà mỗi lần nhắc là mỗi lần chúng ta lại lặn xuống. Nằm yên đó, gom sáu căn lại một tụ điểm, thật chặt thì âm thanh sẽ mất dần.
Đến khi phá thọ cũng vậy. Đến khi phá các hành trên thân chúng ta cũng vậy, hơi thở cũng vậy. Cho nên tất cả những cái này là chúng ta phải nỗ lực thực hiện. Chứ không phải nằm yên. Chúng ta nói bây giờ chúng ta tác ý ra thì từ từ nó mất đi. Thì không phải phương pháp.
Cho nên cái giai đoạn đầu mà chúng ta tu tập là cái giai đoạn mà chúng ta phải có cái nhiệt tâm, cái nhiệt tâm, nhiệt huyết của mình. Chứ còn thiếu nhiệt tâm, nhiệt huyết của mình thì không được, thì trong cái pháp nào tu hành cũng phải có nhiệt tâm.
Bây giờ xả bỏ cái ly dục, ly ác pháp. Xả bỏ cái đó đi. Cái tâm nó khởi ra này, thương, nhớ này. Nhớ con nhớ cái, lo cho thằng này lo cho đứa kia. Thì chúng ta là người đã tu rồi phải quyết tâm xả bỏ. Có cái nhiệt tâm xả bỏ thì mới xả được. Còn chúng ta nói xả mà cái tâm chúng ta không nhiệt huyết xả, thì chúng ta khó mà xả được. Không phải chuyện dễ.
(14:37) Cho nên nếu mà ngày hôm nay chúng ta xả chưa được sạch thì nó còn cái niệm nó khởi lên. Như vậy chúng ta phải thấy rằng, chúng ta chưa có nhiệt huyết, chúng ta còn kém nhiệt huyết, còn kém cái nghị lực chưa có xả được. Nó trói buộc chúng ta rõ ràng mà tại sao chúng ta phải sướt mướt với nó, phải theo nó để mà đau khổ với nó như vậy.
Chúng ta không cứu mình ra được sao? Cho nên chúng ta thấy rằng chúng ta là con người chưa đủ gan dạ, bị nó lôi kéo. Cho nên chúng ta phải mạnh dạn và cương quyết. Đời chúng ta không còn có gì nữa. Mà phải đổi lấy nó bằng máu và nước mắt của chúng ta trong cái sự tranh đấu đối với chúng. Không được chúng chiến đấu giành cái tâm chúng ta được. Để luôn luôn lúc nào cái tâm chúng ta cũng phải thanh thản.
Chứ mà để cho chúng ngự trị ở trong đó thì nó dày xéo ở trong đó nó làm cho chúng ta nhớ thương cái này nào là hối hận cái này cái nọ kia. Đó là chúng ta đã tự giết mình chứ không phải là tự cứu mình. Chúng ta tu theo Đạo Phật chúng ta phải cứu mình bằng cái nhiệt tâm của chúng ta. Quyết định là phải dứt bỏ, quyết định là phải xả bỏ, từ giã nó, dứt khoát không có để trong tâm chút nào.
Luôn luôn lúc nào cũng giữ gìn cái tâm chúng ta. Tức là cái định mà sáng suốt đó. Cho nên phải đem hết cái nhiệt tâm mà tu. Chứ còn nếu mà không đem hết cái nhiệt tâm mà tu thì không ai tu cho mình được. Đức Phật bảo các con tự thắp đuốc lên mà đi. Tức là đem hết cái nhiệt tâm của mình ra để mà chiến thắng với nó. Đây là một cuộc đấu tranh, một cuộc chiến thắng, một cuộc chiến đấu với nhau. Mà nếu mà chúng ta không đem hết cái nghị lực, cái sức lực của mình ra để chiến đấu thì mình khó.
(16:17) Bởi vậy trong bước đường tu tập Thầy thấy hầu hết các con thiếu cái nhiệt tâm. Người nào mà tu đến giờ này mà không hết vọng tưởng là thiếu nhiệt tâm với vọng tưởng. Người nào mà tu tới giờ này mà chưa xả được cái tâm tham sân si phiền não, đau khổ chưa ly dục, ly ác pháp. Thì đó là thiếu nhiệt tâm.
Nếu mà có nhiệt tâm chúng ta đã xả bỏ rốt ráo, không còn có tới giờ phút này. Đem hết nhiệt tâm thì chúng ta còn gì nữa. Coi như thân của chúng ta tuy sống nhưng đã chết. Cho nên đem hết cái nhiệt tâm của chúng ta để mà chúng ta xả nó cho sạch. Từ đó chúng ta mới thấy được con đường của đạo.
Tất cả những pháp Thầy đã giảng cho mấy con rất rõ. Từ cách thức tu cho đến tất cả mọi thứ. Nhưng các con không thấy cái chỗ mà các con tu. Nhiều khi các con tu nó sai, tu theo cái ý của mình. Mà không suy nghĩ cho đúng cái lời của Thầy dạy. Thầy bảo các con tu một thời gian ngắn, chất lượng cao. Nếu mà đạt được cái thời gian ngắn, chất lượng cao. Thì cái nhiệt tâm của mình trong cái thời gian đó mình phải chứng.
Thầy không bảo các con tu nhiều mà các con tu ít. Mà mỗi khi tu là phải đạt được cái chất lượng. Do có một cái chất lượng đúng của cái sự giải thoát của nó. Khi chúng ta tăng lên thời gian, thì chúng ta sẽ thấy rằng cái sức của chúng ta nó kham đủ cái thời gian đó. Để mà làm chủ trong cái lúc mà chúng ta tu tập.
Bởi vì thí dụ như các con tu Định Vô Lậu thì các con phải biết rằng mình làm chủ cái gì của Định Vô Lậu. Các con phải hiểu cái đó chứ. Mà các con tu Chánh niệm Tỉnh giác thì các con phải biết rằng các con sẽ làm chủ cái gì của cái tâm các con ở chỗ đó chứ.
Thì như vậy biết cái chỗ mình làm chủ thì mình phải nhiệt tâm để làm chủ thì nó sẽ làm chủ. Còn nếu mà các con không biết nó thì làm sao mà các con làm chủ được nó. Nó sẽ bị mất đi, nó sẽ bị những cái đối tượng làm nó mất đi. Thì làm sao làm chủ nó được.
(18:34) Cho nên tu cái định nào phải có cái mấu chốt, cái mục đích đạt được cái định đó. Thì chúng ta sẽ nỗ lực nhiệt tâm để đạt được từng cái bước. Nghĩa là như một cái vết dầu, nó phải lan dần. Hôm nay chúng ta tu một phút, chúng ta phải đạt được một phút. Ngày mai chúng ta tu hai phút, chúng ta phải đạt được hai phút. Rồi lên ba phút, năm phút chúng ta phải đạt được kết quả đó.
Chứ không phải lên rồi thua, thua rồi tiến, tiến rồi thối. Như vậy là không được. Phải thấy được cái sức lực của mình. Chiến đấu tới đâu là phải chiếm cứ tới đó, không để mất. Đó là cái chỗ tu. Đừng vội mà ngồi năm bảy giờ, tám chín giờ đồng hồ mà sai lệch. Làm cho chúng ta rơi vào trong cái trạng thái định tưởng thì khó mà chúng ta tu tập.
Đây là một cái phần mà Thầy trả lời do Hải Tâm hỏi. Nhưng trước khi mà trả lời, thì trong cái Đạo Phật nó có năm cái điều mà trước đây Thầy cũng có nhắc mấy con rồi. Năm cái điều kiện mà kiên quyết cái người đệ tử mà theo Phật tu là cái người đó phải hội đủ năm điều kiện.
Nghĩa là phải tin Phật tức là tin Thầy dẫn dắt các con tới nơi tới chốn.
Người đó phải thân ít bệnh. Bệnh tật nhiều là tu không nổi.
Và người đó không gian xảo. Mà nếu người đó gian xảo thì không tu được. Bởi vì gian xảo mình nói bên đây mà làm bên kia. Thí dụ mình tu không được mà nói mình tu được thì đó là gian xảo.
(20:25) Thứ tư là có trí tuệ. Khi mà Thầy nói ra một cái gì, ghi nhớ một cái điều mà mình tu cho đúng. Chẳng hạn Thầy nói tu ba mươi phút là mình phải ghi nhớ ba mươi phút. Rồi khi mà mình được cái trạng thái yên lặng thì ở trong trạng thái yên lặng đó. Bắt đầu nằm yên trong trạng thái yên lặng mà hướng tâm để phá cái âm thanh để cho nó được vắng lặng.
Luôn luôn ở trong yên lặng đó mà cứ tập để mà phá. Bởi vì sự yên lặng đó, mình đã biết rằng đó là sự yên lặng. Nhưng mà vì mình muốn luyện tập ở trong cái trạng thái yên lặng đó, nó trở thành một cái lực của nó để cho mình vắng lặng, nó đi tới hơn nữa.
Mà khi mà mình tạo thành một cái lực như vậy, thì nó mất cái sự yên lặng của mình. Nhưng mà mất cái sự yên lặng, mà (có) tự chủ của mình. Chứ đâu phải mất cái sự yên lặng là nó mất cái đó. Nếu mà mình quậy động ở trong đó thì cái động của mình là cái luyện tập ở trong cái trạng thái đó.
Tức cái trạng thái đó, nếu mình nằm yên thì nó sẽ yên lặng. Nếu mình quậy động ở trong cái sự tập luyện trong cái trạng thái đó, thì cái trạng thái đó nó sẽ bị mất. Nó không phải mất, vì mình ở trong đó, mình không thấy nó mà thôi. Chứ nó đâu có mất. Nó đang yên lặng đó, mình mới tu tập cái khác.
Nhưng vì đang tu tập cái khác mà mình không có để ý cái yên lặng đó. Cho nên mình cảm thấy như cái sự yên lặng đó mất. Chứ nó không phải mất. Đó là những cái mà các con phải thấy, cái đó là một cái trí tuệ để nhận xét.
Chứ nếu các con thấy bây giờ tôi đang yên lặng, nó không vọng tưởng này kia. Bỗng dưng tôi tác ý nó ra: “Sáu căn phải quay vô, không được nghe âm thanh bên ngoài nữa.” Thì như vậy nó bị động rồi. Nhưng sự thật cái này không phải động cái kia đâu. Cái kia đang yên lặng đó chứ, nó vẫn yên lặng đó.
Nhưng cái này là cái sử dụng trong yên lặng đó để tạo cho mình cái đạo lực khác, chứ không phải như thế này. Do đó nó đâu có phải mất đâu. Bởi vì mình lấy được cái trạng thái yên lặng mình nằm trong cái chỗ này không tầm tứ rồi. Thì tức là mình ở trong này mình phải rèn luyện ở trong một cái khác nữa.
Cho nên coi thì động chứ thật ra không động. Các con hiểu cái chỗ đó. Cho nên nếu mà không hiểu thì như là mình tác ý ra thì nó mất rồi. Mình tác ý sao mà lại không mất. Nghĩa là mình muốn cả hai hết thì đâu được. Có một tâm yên lặng. Mà trong khi nằm ở trong yên lặng này mà tác động ra thì cái yên lặng này xả xuống đi mất.
(22:35) Nhưng mà yên lặng này thật sự là tầm tứ không có. Cái yên lặng này là do cái tầm tứ chứ không phải cái trạng thái yên lặng nào. Và vì mục đích của mình, khi mà mình thấy được cái yên lặng này là do tầm tứ không có. Chứ bây giờ tầm tứ không có, không có nghĩa là khi mà mình tác ý ra là nó sẽ mất.
Mình tác ý ra có mục đích chứ đâu phải tự nó tác ý ra mà gọi là vọng tưởng. Mình có mục đích của mình. Mục đích của mình để nằm ở trên cái sự yên lặng không tầm tứ này tạo ra một cái lực khác để cho chúng ta đi đến cái vắng lặng.
Rồi từ cái vắng lặng đó chúng ta mới tạo ra một cái lực khác nữa. Chứ không thể nào chúng ta nằm trên cái sự vắng lặng đó để mà thọ hưởng sự vắng lặng, hay là ngơi nghỉ trong sự vắng lặng. Các con thường bị cái bệnh, cái bệnh kêu là ngơi nghỉ.
Khi nó được yên lặng thì ngơi nghỉ trong yên lặng mà không chịu làm ra nữa. Cũng như bây giờ chúng ta trồng đám bắp. Có đám bắp ăn rồi, chúng ta ăn sạch đám bắp đó rồi mới trồng nữa. Cái này sai. Khi có đám bắp rồi, chúng ta tiếp tục vừa ăn đám bắp mà vừa trồng cái khác nữa.
Thì như vậy chúng ta mới có. Còn ăn sạch đám bắp rồi mới trồng nữa thì lấy ở đâu mà trồng? Thì bây giờ chỉ còn ăn bắp trở lại hoặc là đói mà thôi. Cho nên bây giờ chúng ta đã có đám bắp, thì chúng ta vừa ăn đám bắp mà chúng ta lại vừa hoạt động cái đó nữa. Thì cái đám bắp chúng ta đâu phải là mất.
Đâu phải mất, vì mình ăn mình làm ra cái khác nữa. Đó thì cái mục đích là đạt cái này rồi mới đi tới cái khác. Còn nếu chưa đạt được cái này thì chưa.
Cái thứ năm là phải siêng năng. Cho nên trong cái bài kinh Bồ Đề Vương Tử thì Phật còn nêu lên. Có năm cái điều kiện. Từ lúc theo Đạo Phật thì phải tin Phật, ít bệnh - thân ít bệnh, không gian xảo, trí tuệ và siêng năng. Năm điều kiện này thì người đó sẽ tu giải thoát hoàn toàn.
(24:26) Mà cái trí tuệ ở đây không phải cái trí tuệ hiểu mênh mông, cái gì cũng hiểu hết. Cái đó là trí tuệ tích lũy. Còn cái trí tuệ của Phật là cái trí tuệ hiểu, biết được cái đó, mình tu cái đó. Không hỏi lòng vòng. Không có hỏi cái mà ngoài cái vấn đề.
Hầu hết là các con bị pháp tưởng. Khi mà tâm nó hết vọng tưởng thì nó bị pháp tưởng. Có tưởng ngồi thì lọt vô Không Vô Biên Xứ, có tưởng thì nó nhớ một cái pháp gì đó. Nó không nhớ chuyện thế gian đâu. Nó khởi ra, hoặc là khi xả thiền ra rồi vẫn nhớ cái pháp nào đó thì mình bị pháp tưởng.
Mình nghĩ rằng bây giờ tôi là một người tu không phải là người học. Cho nên tôi không đi tầm danh trích cú, không đi tìm chữ nghĩa thêm nữa. Không cần hiểu mà chỉ cần biết tu làm sao cho cái tâm này nó phải hoàn toàn là thanh tịnh, hoàn toàn là chủ động điều khiển.
Mình chỉ nhắm vào đó. Còn bây giờ nó khởi ra câu kinh này, câu kệ khác hoặc là nhớ cái khác. Thì nhất định đó là pháp tưởng. Bởi vậy ở đây Thầy trả lời cho Hải Tâm thì có cái sự tu tập, có gặp mới hỏi Thầy. Chứ nếu mà không gặp thì chắc không thưa.
Hỏi: “Nếu không đem hết sức mình, dùng nghị lực để chiến đấu với nó thì thời đó con tu không chất lượng. Trong trạng thái yên lặng, con chỉ không chú tâm một chút thôi là thời đó coi như bỏ cuộc. Nghĩa là thời đó coi như mình thiếu chú tâm một chút thôi thì thời đó là coi như là có vọng tưởng đó. Coi như là bỏ cuộc hoài công đó.
Thành ra con phải liên tục và liên tục. Có liên tục, có chú tâm như vậy thì nó không có vọng tưởng.”
Như vậy là cái trả lời của Thầy đây.
Đáp: Sức tỉnh thức con còn yếu, nghĩa là mình phải chú tâm liên tục như vậy tức là sức tỉnh thức còn yếu. Nhưng mà sức tỉnh thức có. Cho nên vì vậy mà cố gắng chú tâm và sức tỉnh thức của mình nó hàng phục được tầm tứ, không vọng tưởng.
(26:29) Đó là cái bước đầu của con, chứ chưa phải. Khi mà con thuần thục rồi thì con không cần phải chú tâm. Tự nó nó sẽ quay vô, rồi từ đó nó sẽ tự thanh thản. Chừng đó con sẽ nằm yên trên đó rất dễ dàng. Còn bây bây giờ thì cố gắng chú tâm và cố gắng xả tâm.
Sức tỉnh thức con còn yếu, phải tu tập tỉnh giác định nhiều hơn để khi vào tu Định niệm Hơi thở tức là hiện tại An Lạc Trú Định thì tự nhiên mà không cần phải chú tâm nhiều. Nghĩa là tu Định Vô Lậu xả tâm cho hết. Bởi vì cái vọng tưởng của các con là do cái tâm xả nó chưa sạch. Cho nên nó mới sanh ra vọng tưởng.
Còn nếu mà cái tâm xả nó đã sạch, ly dục ly ác pháp, nó sạch rồi đó thì nó không có vọng tưởng nữa. Cho nên nó tự nhiên mà nó không phải chú tâm. Còn cái này con phải ráng chú tâm. Nhưng mà cái ráng chú tâm của con nó rất tốt, là vì cái chú tâm đó, liên tục đó nó làm cho tâm con nó được an ổn. Nó có chất lượng và thời gian sau nó sẽ quen đi, nó trở thành tốt chứ không sao.
Nhưng cái thời gian mà con chú tâm như vậy, thời gian ngắn đừng có dài, vì cái sự chú tâm đó nó sẽ làm cho con rất là phí sức.
Hỏi: “Trong năm phút, mười phút giữ trạng thái yên lặng, im lặng như Thánh để sáu thức ngủ yên. Nếu tâm nhắc thì con sợ bị động, mà không nhắc thì rơi vào lặng liền. Con biết rất rõ. Vậy trong lúc này con hướng tâm như thế nào cho phù hợp? Xin Thầy và Cô Út chỉ dạy cho.”
Bây giờ đó con biết rất rõ rồi. Thì trong lúc đó không phải là con sợ nó mất, con sợ bị động, mất cái tâm yên lặng đó. Nghĩa là để sáu thức ngủ yên, nếu hướng tâm nhắc thì con sợ bị động. Nghĩa là trong khi nó đã ngủ yên rồi, mình nhắc cái nó bị động. Không phải. Mình biết nó ngủ yên. Tức là nó im lặng.
(28:29) Mà tức là im lặng thì mình phải lấy cái trạng thái yên lặng đó để cho mình hướng tâm. Mà mình hướng tâm thì tức là mình bị động chứ gì? Mà cái động này ở trong cái lặng đó mà hướng nó mới có hiệu quả. Chắc con hiểu rồi chứ ?
Cho nên khi mà hiểu rõ thì không phải sợ bị động mà chỉ cố gắng ở trong trạng thái yên lặng đó để mà hướng đến vắng lặng. Thì như vậy thì nó sẽ đạt được cái sự vắng lặng.
Chứ không phải là khi mình khuấy động cái sự yên lặng đó rồi nó sẽ mất cái sự yên lặng và vắng lặng nó không có ở trong đó. Bởi vì mình nhờ cái trạng thái yên lặng, cái nền tảng yên lặng đó mà mình xây dựng cái nhà vắng lặng. Cất cái nhà vắng lặng ở trên cái nền tảng im lặng đó.
Vì cái yên lặng tức là không tầm tứ. Mà mình biết rất rõ. Cho nên bây giờ thí dụ như con không động đậy với nó. Con thấy rõ ràng là yên lặng. Nó đang ngủ, nó rất là yên lặng, nhưng mà âm thanh nó vẫn còn. Cho nên bây giờ con phải bước thêm một bước nữa, tức là con phải hướng tâm tu tập ra lệnh cho sáu thức của con nó quay vô. Sáu căn nó đóng kín lại.
Thì như vậy con lấy cái nền tảng yên lặng đó mà luyện tập cái nhà vắng lặng. Thì từng bước từng bước như vậy để đạt được thì nó mới có cái kết quả của sự tu tập.
Đáp: Khi tâm đã vào trạng thái im lặng như Thánh thì bây giờ con chỉ hướng sáu thức tiếp tục ngủ yên. Chỉ có tâm thức là phải biết rõ ràng. Tỉnh thức hoàn toàn thì đó con đã hướng tâm rồi.
Nghĩa là khi mà tâm mình, nó khởi muốn coi. Nó muốn cho sáu cái thức tiếp tục ngủ yên như vậy, yên lặng như vậy. Và chỉ có tâm thức thì hoàn toàn phải biết rõ ràng. Không được mất. Thì khi mà cái tâm con nó vừa khởi muốn như vậy đó là con đã hướng tâm.
Chứ không phải là con hướng tâm là con phải nhắc: “Sáu thức phải tiếp tục ngủ đi”. Mà tâm thức thì phải biết cho rõ ràng, tỉnh thức hoàn toàn.” Không phải trong giấc mơ như vậy. Chỉ cái ý của con nó thoáng muốn như vậy là con đã hướng tâm. Cho nên trong yên lặng mà thoáng muốn tức là đã hướng tâm.
Thì không lý nào trong yên lặng đó mà con lại mất cái tác động của cái tâm thức của con. Mà mất thì làm sao mất, mất thì con làm sao con biết. Mà đã biết thì tức là mình đang biết hướng tâm bằng cái ý muốn của mình như vậy.
(31:00) Mà đã hướng tâm ý muốn như vậy thì nó có phải khuấy động đâu? Con phải hiểu. Cho nên khéo léo, thiện xảo. Như vậy gọi là hướng tâm nơi yên lặng thì nó không mất yên lặng.
Rồi thỉnh thoảng tiếp tục hướng như vậy, đừng sợ bị động. Dùng trạng thái yên lặng như Thánh để rèn luyện tu tập đạo lực càng lúc càng sâu sắc và hiệu quả hơn. Nghĩa là nằm trong đó mà rèn luyện cái đạo lực.
Thì trong đạo lực Thầy có nói, trong đạo lực có ngũ lực chứ không phải trong đạo lực nó chỉ có một cái lực của nó không. Cái đạo lực nó gồm ngũ lực là: Tín lực, Tấn lực, Niệm lực, Định lực, Huệ lực. Có năm cái lực nó mới gồm lại thành cái đạo lực của Đạo Phật.
Vậy thì có lòng tin đối với Thầy. Thầy dạy sao con làm như vậy. Thì bây giờ nó mới trở thành một cái đạo lực. Rồi con siêng năng, con tinh tấn, con nỗ lực con tu tập thì nó mới thành cái đạo lực chứ con lười biếng làm sao có được. Và cái niệm mà con đặt, cái pháp hướng mà con đặt đúng, con hướng tâm đúng thì nó mới thành cái đạo lực. Phải không? Con thấy rất rõ mà.
Cho nên cái Niệm lực nó mới trở thành một cái Đạo lực được. Rồi bây giờ khi mà cái niệm nó đã thành một cái lực thì nó đã sai khiến được tất cả thân tâm con yên lặng. Yên lặng, thanh tịnh thì lúc bấy giờ đó là Định lực.
(32:21) Và đồng thời con thấu suốt được cái Tam Minh, Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh thì cái đó là Tuệ lực. Các con thấy cái tuệ lực, nếu mà không có cái tuệ lực thì con làm sao con biết được. Túc Mạng Minh biết được nhiều đời nhiều kiếp, thấy được xa ngàn dặm, biết được lậu hoặc của tất cả chúng sanh.
Đó thì tất cả những cái đó gọi là Đạo lực. Mà đạo lực là do cái chỗ luyện tập. Con nằm trên cái chỗ yên lặng đó mà con tu tập. Đây Thầy đọc cái bài cho các con nghe.
Đáp: Khi tâm đã vào trạng thái yên lặng như Thánh thì bây giờ con chỉ muốn sáu thức, chỉ khởi cái ý muốn mà thôi chứ còn không có hướng như hô, như ra lệnh của một cái niệm mà nói mà ra tiếng như vậy hoặc là ra cái ý như vậy. Cái ý muốn thoáng qua như vậy.
Nghĩa là cái ý mình muốn sáu cái thức tiếp tục ngủ yên, chỉ có tâm thức phải biết rõ ràng, tỉnh thức hoàn toàn. Đó là cái ý muốn của mình. Đó là cái pháp hướng. Thì bây giờ con đã hướng tâm rồi và thỉnh thoảng tiếp tục như vậy đừng sợ bị động, mà dùng trạng thái yên lặng như Thánh để rèn luyện tu tập đạo lực.
Hỏi: “Thưa Thầy và Cô Út. Một thời tu muốn đạt được chất lượng tốt 100% thì phải hội đủ những điều kiện gì?
Ở đây không phải hội đủ đâu ! .”
Đáp: Một thời tu muốn đạt được chất lượng tốt 100% thì phải hội đủ - nghĩa là một thời tu ở đây không có nghĩa là tu cái định Hiện Tại An Lạc Trú, tức là bốn thiền đâu, mà tu tất cả các định khác.
Mà hội đủ, thì ở đây nói về cái phần Định niệm Hơi thở mà Thầy trả lời cho Hải Tâm. Thì thứ nhất, phải tâm thanh thản, tâm phải thanh thản. Nghĩa là mình vào tu mình thấy cái tâm mình thanh thản là tu tốt rồi. Mà cái tâm nó chưa thanh thản, nó còn lo cái này nghĩ cái kia, nghĩ cái nọ thì vô tu không tốt đâu.
(34:20) Cho nên hàng ngày các con thấy cái độc cư, nó giúp cho con. Còn có hữu sự, có duyên gì nó làm cho tâm con không thanh thản. Mà không thanh thản thì con tu không chất lượng. Mà nếu mà con ức chế nhiều quá thì nó lại mệt mà xong nó lại sanh ra những cái trạng thái khó chịu. Nó làm cho con không có an lạc.
Hai là thân không mệt nhọc. Nghĩa là người tu hành làm quá nặng nề thì mệt nhọc. Mệt nhọc vô ngồi tu thì cũng khó mà có thể tu tập tốt. Các con hiểu chỗ đó? Làm thì chúng ta làm nhẹ nhàng.
Chúng ta tu chứ không phải là chúng ta làm. Nhưng mà làm để chúng ta lấy cái làm để mà cho nó vui trên cái bước đường tu của chúng ta. Chứ không phải làm là phụ mà tu là chính.
Ba, thân tâm không có hôn trầm thùy miên. Tức là vào tu mà thấy nó buồn ngủ. Thấy nó cứ buồn ngủ thì không nên ngồi tu.
Bốn, thân tâm phải vô sự và an lạc. Nghĩa là cái tâm, thân tâm của chúng ta không có bị gì và an lạc. Chứ đừng có chuyện này chuyện kia làm chưa rồi mà vô ngồi tu thì hơi cái nó khởi ra. Mà có vào thì vào chưa nổi. Thì đó là cái tâm chưa có phải vô sự. Còn khởi niệm.
Năm, phải đủ sức lực. Nghĩa là khi muốn ngồi một thời tu tốt, là phải biết cái sức của mình. Hôm nay cái sức của mình có khỏe không. Hoặc là bây giờ mình đau bệnh này kia, nó làm cho mình mệt nhọc thì thử hỏi mình làm sao mình tu tốt được.
Sáu, phải có nhiệt tâm kiên quyết. Nghĩa là lúc mà mình vào tu mình phải xem cái nhiệt tâm ra sao, đặt trước mặt để mà kiên quyết trong cái sự chiến thắng của mình trong cái thời. Coi như là mình khoanh chân lên để mình ngồi tu là cuộc chiến đấu của mình. Thắng hay là bại. Chứ không thể nào mà lừng chừng đó được. Cho nên, sáu mình phải có nhiệt tâm, kiên quyết.
(36:27) Bảy, phải có nghị lực đầy đủ. Phải đem hết sức nghị lực của mình ra chiến đấu.
Tám, phải gan dạ liều sống chết. Lỡ tu rồi mà cái bụng đau, cái đầu nhức. Nhất định là quyết chết chứ không có bao giờ mà xả ngang xương. Không bao giờ mà cơ thể đau quá nằm xuống đâu. Đó thì như vậy là phải gan dạ chứ còn nếu mà nhát dạ, đau quá.
Hoặc là bây giờ mới ngồi lên cái thấy con rắn bò vô cái nhảy thì cái đó là không gan dạ. Cho nên phải gan dạ liều sống chết. Bây giờ có cắn chứ nhất định là Thầy phải đạt chất lượng chứ không thể mà chùn bước. Ai làm gì mặc, chết bỏ.
Cũng như bây giờ Thầy nói, đang ngồi vầy cái họ đốt cái nhà mình cháy. Ngồi đó chết bỏ trong lửa chứ nhất định là không chạy. Đó là những cái gan dạ của cái người tu.
Thầy muốn nói đây gan dạ là gan dạ cho đúng đối tượng bên ngoài. Gan dạ theo ý của tâm. Các con hiểu ý Thầy nói, chứ không khéo các con nói như vậy là khi nhà cháy ngồi trong đó cho nó chết rục. Thì cái đó hiểu lại sai. Thầy muốn nói đây là cái gan dạ của mình. Ví dụ như lửa cháy nóng đến như vậy chúng ta không ra.
Chứ không phải là cái đó ngu si để mà lửa cháy thực sự mà ngồi đó mà chết thì cái đó là quá ngu. Nếu mà không giảng cái chỗ này thì càng ngu nữa chứ.
Chín, thân không bệnh. Nghĩa là cái người tu là không bệnh, mà thân bệnh thì thôi chịu khó đi uống thuốc đi chứ đừng có ngồi mà ráng tu. Tu như vậy uổng lắm, mất công. Thà đi nằm xuống dưỡng bệnh còn khỏe hơn là ngồi tu. Cho nên thân không bệnh. Chứ còn thân có bệnh thì thôi. Có ráng cũng vô ích. Chỉ có cái hình thức thôi.
Mười, tâm phải đủ sức tỉnh thức. Nghĩa là lúc bấy giờ mình phải rèn luyện tu tập sức tỉnh thức của mình bằng những hành động đi kinh hành. Bằng tất cả những cái hành động, việc làm của chúng ta. Làm cái gì chúng ta phải tu tập tỉnh thức cho đủ sức thì chúng ta mới tu cái Định niệm Hơi thở. Nó mới đạt được cái sức tỉnh thức cao.
Còn nếu mà sức tỉnh thức chưa đủ mà chúng ta vội tu thì chúng ta chưa có đạt được tâm thanh thản. Bữa nay tốt ngày mai xấu. Ngày mai xấu, ngày mốt tốt. Chưa có phải là liên tục tốt.
(38:25) Đó là có mười cái điều kiện mà chúng ta muốn đạt được cái thời tu về Định Hiện tại An lạc Trú hay là Định niệm Hơi thở. Tức là tốt 100% thì phải hội tụ đủ mười cái điều kiện. Nếu mà thiếu mười điều kiện này thì chắc chắn chúng ta không có thể nào mà có chất lượng tốt.
Thí dụ như mười thời tu thì chúng ta không thể tu tốt được năm, sáu. Còn ba, bốn thời tu.
Hỏi: Thời gian con giữ ba mươi phút tự nó kéo dài tỉnh giác năm phút, mười phút thì được chứ không cho gục phải không thưa Thầy ?
Đó là cái thời gian mà mình ngồi tu ba mươi phút thôi. Nhưng bây giờ nó yên quá, tăng lên năm phút hay mười phút thôi, có khi nó kéo dài một giờ, một giờ rưỡi đi. Thấy nó yên quá thì để. Chứ thật ra cái này là cái tu sai, không có đúng.
Đáp: Thời gian con nên tu tập làm chủ cho đúng giờ. Bởi vì Thầy nói, bây giờ Thầy khoanh chân Thầy ra lệnh: “Giờ này là ba giờ thì bảy ngày sau, thân tâm này nhập định bảy ngày sau đúng ba giờ chiều ngày thứ bảy hãy ra định, hãy xuất định”. Thì đúng tới đó nó xuất định.
Còn như con con tu tập kiểu đó tới chừng đó bảo nó bảy ngày, tới ba giờ chiều một ngày thứ bảy nó ra nó về tới ngày thứ một trăm. Phải không? Cho nên ở đây chúng ta tu tập làm chủ từng giờ phút chứ đâu phải làm chủ như vậy được.
Nó yên mặc nó, tới giờ là phải xả. Không cần biết. Tao làm chủ chứ đâu phải mày dẫn dắt tao theo sự an lạc của mày. Trong cái sự yên lặng, yên lặng được ngay giờ phút đầu ta đã tập trung yên lặng tức khắc. Đó là cái sức làm chủ chứ không phải.
Luyện tập cái sức làm chủ chứ không phải chạy theo cái sự an lạc đó, chạy theo cái sự yên lặng đó. Để mà chúng ta thấy như vậy ngày mai nó sẽ yên lặng nhiều hơn. Không phải đâu, nó dẫn cho chúng ta yên ổn chứ chưa phải chúng ta làm chủ yên lặng.
(40:32) Còn chúng ta làm chủ yên lặng do chúng ta hướng tâm nhắc. Gom tâm liền có sự yên lặng liền, tức là chúng ta làm chủ yên lặng. Cho nên cái thời gian, nếu mà cái thời gian như vậy thì con tu tập như vậy sau này quen rồi con bảo nó tu trong ba mươi phút thì nó làm lố tới một giờ, hai giờ. Thì cái chuyện đó rồi sau đó bảo nó nhập định tới bảy, tám ngày thì nó lại làm cho một tháng, hai tháng thì chết đó.
Thì tất cả những cái này chúng ta phải tu từ ngay từ lúc đầu để làm chủ. Cho nên ở đây chúng ta không tham mà tu thấy an, rồi tự nó kéo dài ra, không xả ra thì tức là nó toàn phần. Cho nên không đúng.
Đó, thì như vậy là chúng ta sẽ chủ động điều khiển từng giờ phút của chúng ta. Muốn nó bốn mươi lăm phút là bốn mươi lăm phút. Muốn nó một giờ là phải một giờ, muốn nó hai giờ là hai giờ. Thì muốn đâu nó làm đó, đó là những điều kiện.
Bởi vậy tu theo Thầy, mọi cách thức điều khiển nó đều phải chủ động điều khiển chứ không phải là nó muốn được bao nhiêu là phải được.
Mới ngồi vào tu con hướng tâm nhắc, sáu căn phải im lặng như Thánh trong ba mươi phút không được tăng, không được giảm. Đó, mình nhắc nó như vậy đó, rồi bắt đầu mình ngồi. Có tu tập được như vậy sau này con vào định bảy ngày một tháng hai tháng hoặc ba tháng thì tự nó xuất định. Rất đúng.
Còn tu tập như con hiện giờ, sau này xuất định không theo sự điều khiển của con. Nghĩa là nó sẽ ngồi lố hoặc là nó xuất định trước. Tới đó là nó không đúng theo cái sự điều khiển của mình muốn. Thì không được. Đó, thì nhớ kỹ những cái điều này để tập luyện cho đúng. Hầu hết là các con phải rút tỉa kinh nghiệm của nhau mà tu tập cho đúng.
(42:18) Hỏi: Ngồi kiết già, lưng thẳng đặt niệm trước mặt. Khi tu quán xét như vậy có phải là tu thiền quán không ?
Đáp: Phải, đó là tu Định Vô Lậu, ly dục ly ác pháp, diệt ngã xả tâm. Về cái phần mà tu như vậy đó, thì rất tốt. Nghĩa là thân nó gom lại, tâm nó gom lại để rồi chúng ta quán xét. Nó có cái trí tuệ phóng ra từ cái thân tâm gom lại đó. Thì cho nên tu cái Định Vô Lậu mà lại ngồi lưng thẳng, ngồi kiết già hẳn hòi thì tu rất tốt và nó có cái trí tuệ sáng suốt, phóng khoáng.
Hỏi: Nó có lợi ích hơn người ngồi bình thường khi tu quán xét ở điểm nào?
Đây là hỏi thêm Thầy ở chỗ này. Để biết là khi ngồi kiết già thì nó lợi ích hơn cái ngồi bình thường như thế nào?
Đáp: Ngồi kiết già thì thân được gom lại và tâm được gom lại và tập trung vào một niệm theo kiểu ngồi kiết già. Thì độ sáng suốt của trí tuệ được phóng ra và hóa giải được những khúc mắc và khó khăn của các pháp.
Thì các con thấy khi mà ngồi kiết già thì thân nó gom lại. Thân mình nó kéo lại, nó gom lại. Nó thành một khối thì cái tâm nó lại nằm ở trên. Cho nên thân định trên tâm, tâm định trên thân mà. Hai cái nó đều định với nhau ở trên đó.
Cho nên từ đó cái trí tuệ của chúng ta phóng quan sát cái sự kiện và xảy ra như thế nào. Hoặc là cái tâm niệm của chúng ta nó có những cái niệm gì đó. Thì chúng ta quán xét nó rất dễ và nó sáng suốt. Cho nên nó hóa giải được những cái khúc mắc của cái niệm đó, của những pháp đó, nó làm cho chúng ta thoát khỏi những cái sự khổ đau của các pháp.
Còn ngồi bình thường, thân không được gom chỉ có tâm tập trung vào niệm nên độ sáng suốt hóa giải không bằng. Nghĩa là nó cũng có hóa giải nhưng nó không bằng cái người ngồi kiết già lưng thẳng.
Đó là Thầy phân tích ra để cho thấy rõ từng cái chỗ mà con hỏi ngồi kiết già với ngồi thường tu Định Vô Lậu cái nào có lợi ích hơn.
(44:22) Hỏi: Nghĩa tín thọ với pháp tín thọ như thế nào?.Trong cái lời hỏi của con thì hỏi pháp tín thọ trước, nghĩa tín thọ sau. Còn ở đây, thì thay vì hỏi phải hỏi nghĩa tín thọ và pháp tín thọ như thế nào? Thì Thầy trả lời này.
Đáp: Nghĩa tín thọ là tin theo và thọ lãnh những lẽ mà mình đã được nghe. Cái lẽ, những lý lẽ mà mình đã được nghe. Tin theo. Nghĩa là tín thọ nghĩa là tin theo và thọ lãnh những lý lẽ mà mình đã được nghe, nó đúng đắn.
Pháp tín thọ là tin theo và lãnh thọ giáo pháp mình đã được nghe gọi là pháp tín thọ. Nghĩa là mình nghe cái pháp đó mình tin rất là tin. Cho nên mình theo cái pháp đó mình nỗ lực mình tu hành, nỗ lực mình sống đúng, nỗ lực mình dứt bỏ, nỗ lực mình làm những cái chuyện rất là nhiệt tâm để cho mình xả bỏ ly dục ly ác pháp được.
Đó là Pháp tín thọ. Như Thầy dạy về pháp Tứ Bất Hoại Tịnh, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng hay là Tứ Niệm Xứ, trên thân quán thân hoặc là Định Vô Lậu hay Định Chánh Niệm Tỉnh Giác đó là Pháp tín thọ.
Tín thọ là các con tin mà nỗ lực tu hành tập luyện không sai lời dạy của Thầy gọi là Tín thọ. Cho nên còn có nghĩa là trong kinh Phật như kinh A Hàm, kinh Trung Bộ thì Y Giáo Phụng Hành. Còn ở kinh A Hàm thì thường thường là Tín Thọ Phụng Hành. Tin và theo mà làm y như pháp. Đó là Tín Thọ Phụng Hành.
Trong những điều kiện mà con hỏi như vậy, hầu hết đều bị pháp tưởng nó lưu xuất ra. Nó cũng hay chứ không phải dở. Nhưng mà nó đều bị pháp tưởng. Nó làm cho chúng ta bị lạc vào cái chỗ tu. Thay vì chúng ta tu cái thứ nhất là nằm yên lặng để mà tu. Thứ hai là quán xét vô lậu quét sạch. Có những pháp tưởng không có cần nghe, không có cần hiểu gì thêm những cái này.
(46:36) Mà những cái này nó làm cho pháp tưởng động tâm. Cho nên một cái người mà học kinh điển nhiều là sau khi mà cái tâm hết vọng tưởng thì nó bị pháp tưởng. Bởi vì những cái đoạn đường mà từ Nhị Thiền tới Tam Thiền là đoạn đường của tưởng thức nó hoạt động.
Cho nên mỗi mỗi nó đều hoạt động ra. Vì vậy mà các tổ sư đều ở trên cái chỗ pháp tưởng này mà họ nói ra những cái công án. Họ hỏi đáp những cái công án với nhau. Thì đó là cái pháp tưởng.
Cho nên triệt ngộ, là họ ngay từ cái trạng thái này, họ triệt ngộ những cái công án. Do chúng ta tuần tự, khi mà cái tâm các con đạt đến cái chỗ Sơ thiền rồi thì bắt đầu các pháp tưởng hoạt động. Cho nên Hải Tâm con cũng đang ở trong cái chỗ pháp tưởng. Do đó mà hỏi qua những cái danh từ như vậy. Đó là bị pháp tưởng đó.
Hỏi: Trước bữa ăn, ăn ba muỗng cơm. Đầu tiên đọc ba câu. Một, nguyện làm tất cả việc lành. Hai, đoạn dứt các việc ác. Ba, nguyện độ tất cả chúng sanh. Con xin hỏi câu thứ ba, nếu độ quá ít người có tội hay không. Con chỉ sợ đọc được mà con không thực hiện được. Kính xin Thầy giảng cho con hiểu rõ.
Ở đây thì Thầy sẽ đáp, Thầy sẽ giảng luôn ba câu. Chứ không phải là một câu.
Một, nguyện làm tất cả điều lành. Câu đầu, con có thấy ai làm tất cả điều lành được chưa ?. Chưa có bao giờ. Nguyện mà có ai mà làm được không ? Chưa !
Hai, nguyện đoạn dứt những việc ác. Câu thứ ba con thấy, con có thấy ai độ hết tất cả chúng sanh chưa? Ngay cả Đức Thế Tôn, Đức Phật còn chưa độ hết chúng sanh huống hồ là chúng sanh như chúng ta.
(48:41) Ba câu này, chỉ là một sự ước muốn, ước vọng của một bậc tu hành để sách tấn, khích lệ mình trên bước đường tu tập. Chứ không phải là một việc làm đã viên thành. Con hiểu chưa?
Đây là một cái ước muốn, ước muốn lớn lao như vậy là cái ước muốn để độ mình, để khích lệ trên bước đường tu tập mình. Vì chúng sanh còn đau khổ quá nhiều. Chúng sanh còn ở trong ác pháp, vì chúng sanh chưa có thực hiện được thiện pháp. Cho nên mình quyết giúp cho được, làm cho được để cho mình độ. Đó là cái ước muốn để độ mình thoát ra khỏi.
Chứ còn độ chúng sanh, nếu mà đã nói nguyện độ hết chúng sanh thì ông Phật đã độ hết chúng sanh từ cái lúc ông Phật cho đến giờ là 2541 năm cách chúng ta rồi. Thế mà chúng sanh còn dẫy đầy. Chúng sanh ở đây không có nghĩa là loài người không.
Mà cả côn trùng, con dế, tất cả các loài chúng sanh thì làm sao mà độ cho hết được. Cho nên, đây là cái ước vọng, cái lời ao ước để mà thực hiện cái tâm giải thoát của mình cho hoàn thành được cái sứ mệnh là làm tất cả những điều lành và đoạn dứt tất cả những điều ác.
Bởi vì làm tất cả những điều lành rất khó. Mà đoạn dứt các điều ác rất khó chứ không phải dễ. Nếu không có một ước vọng lớn, cái tâm rộng lớn như vậy thì khó mà đoạn dứt. Cho nên hàng ngày chúng ta ăn ba miếng cơm để nhắc nhở mình. Sự thật ra cái sự khích lệ để cho mình thực hiện cho được các điều lành này.
Nhiều khi chúng ta đọc nhưng tới chuyện chúng ta vẫn thấy tâm mình giận hờn, phiền não, đau khổ. Chứ chưa phải là hết các ác pháp đâu. Đó rất là rõ ràng.
(50:22) Cho nên, ở đây chúng ta phải hiểu nó là những câu ước muốn, cái câu để sách tấn khích lệ chúng ta trên bước đường tu. Chứ không phải là cái việc làm của chúng ta mà làm hết được. Bởi vì Tôn giáo thì ra đời để an ủi một cái phần của chúng sanh, để đem lại cái đạo đức. Giúp cho họ sống chung nhau, biết thương nhau, đừng làm khổ mình, khổ người.
Chứ không phải Tôn giáo ra đời để mà độ hết người ta thoát cảnh khổ. Làm hết tất cả những cái điều kiện, mà hết tất cả điều kiện không được đâu. Đó là một cái ước muốn chứ không phải mình làm được.
Hỏi: Có những vị đã chứng quả A La Hán, thấy biết rất rõ sao lại còn buồn khổ xin nhập diệt trước khi Đức Như Lai nhập diệt ?
Nghĩa là câu hỏi của con ở trong đó như thế này này. Nghĩa là đã chứng quả A La Hán sao lại khi nghe tin mà Đức Phật nhập diệt thì các Ngài lại xin nhập diệt trước Phật để rồi không nhìn thấy khi Đức Phật đã nhập diệt rất là đau khổ.
Thì câu nói đó chúng ta sẽ xét nó ở trong cái đoạn kinh nào?
Đáp: Đó là đoạn kinh Đại Bát Niết Bàn của Đại Thừa. Thì vì sao viết như vậy? Còn kinh Nguyên Thủy không có dạy như vậy. Các bậc A La Hán khi đã thấy nhân duyên, thấy cái duyên nhân quả của mình đã hết thì các Ngài xin Phật nhập diệt. Chứ không có buồn khổ, mà sợ rằng mình chết sau Phật, Phật chết trước, mình phải thương nhớ đau khổ.
Không phải vậy, mà chính vì cái chỗ mà thấy cái duyên nhân quả của mình đã hết. Bởi vì mình ở đây, mình sống ở đây là do cái nhân quả. Do cái nhân quả mà mình mới có sự sống này. Mà cái duyên nhân quả của mình hết thì các vị đó họ đều nhập, xin nhập diệt.
Cho nên tại sao mà khi Đức Phật sắp sửa nhập diệt, thì các Ngài cũng đều là nhập diệt trước Phật hoặc sau Phật. Lần lượt họ ra đi hết. Tại sao vậy?
(52:25) Cái duyên của một đấng giáo chủ đó nó có bao nhiêu vị đệ tử phải theo để mà xây dựng cái đạo giáo tức là cái Phật giáo. Thì khi mà cái duyên nó hết rồi thì những người đó họ lần lượt họ ra đi. Họ hết cái duyên của họ rồi, thì họ không còn hỗ trợ ai nữa.
Cho nên khi mà họ biết Đức Phật sắp sửa nhập diệt thì như ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên, ông La Hầu La, những cái bậc đó đều là họ đi trước hết. Tại vì họ biết Phật đã sắp sửa nhập diệt. Họ đã hiểu biết trước chứ không phải là không hiểu biết.
Chứ không phải vì họ thương, họ nhớ mà họ đi trước. Họ biết là cái duyên của họ cũng đã hết rồi. Phật pháp tới đây chỉ còn lại ông A Nan, ông Ca Diếp, những ông đó mà thôi. Chứ còn chính mình phải đi thôi, tại vì mình không còn có. Mình có cái duyên với Phật mình theo hỗ trợ Phật, mình giúp cái giáo đoàn cho Phật.
Bây giờ cái duyên đó hết rồi thì mình không còn giúp. Tức là không thể giúp ông Ca Diếp, cũng không thể giúp ông Anan. Cho nên khi còn Phật thì các Ngài giúp. Mà Phật sắp sửa Niết Bàn thì các Ngài đi. Do đó các con thấy các cái duyên đó nó có sự khắng khít nhau ở chổ đó.
Cũng như bây giờ, các con về đây tu là có cái duyên với Thầy ở tu quây quần bên Thầy. Còn nếu không có duyên làm sao quây quần. Nếu mà các con tu mà làm chủ được sanh tử thì các con thấy cái duyên rất rõ ràng. À bây giờ, ngày mai này Thầy tịch thì cái duyên của các con cũng hết rồi. Con theo Thầy tới đây cũng hết rồi. Vì còn Thầy thì chắc chắn là con còn hỗ trợ cho cái đường lối của Thầy làm sáng tỏ, vươn lên.
Bây giờ cái duyên của Thầy đã ra đi, tức là con không thể hỗ trợ cho cái người khác. Như bây giờ, Thầy Minh Tông hoặc là Mật Hạnh, con không có duyên với cái người đó cho nên con không hỗ trợ với cái người này được. Vì vậy mà con phải ra đi với Thầy. Vì duyên đã hết. Đó là những cái… chứ không phải là vì buồn khổ. Nếu mà còn buồn khổ tức là con còn tâm phàm phu, không thấy được nhân quả, không thấy được cái lý của khổ, tập, diệt, đạo.
(54:28) Đó cho nên kinh Đại Bát Niết Bàn, đã diễn tả cái chỗ này là có những bậc A La Hán. Bởi vì kinh Đại Bát Niết Bàn là kinh của Bồ Tát rồi. Chỉ có những bậc Bồ Tát, những bậc lớn hơn là không còn khổ. Chứ còn A La Hán thì nó còn buồn khổ. Cho nên nó mới hạ xuống cái tầng thấp để cho A La Hán của Đức Phật, nó trở thành những người còn nhỏ gọi là Tiểu thừa.
Cho nên kinh Đại Bát Niết Bàn bên kinh phát triển tức là kinh Đại Thừa thì viết là các bậc A La Hán có buồn khổ. Còn kinh nguyên thủy thì không có dạy như vậy. Chỉ biết là cái duyên của mình nhân quả đã hết thì chỉ biết là đi mà thôi. Chứ không có buồn khổ.
Còn những người mà tu chưa chứng như ông A Nan, chưa chứng thì còn buồn khổ, còn khóc lóc. Đó là kinh phát triển viết, phỉ báng Phật pháp. Nếu trước cái chết của người thân còn buồn khổ thì không phải là A La Hán nữa. Nghĩa là đúng như kinh Nguyên thủy thì cái người mà chứng quả A La Hán thì không còn buồn khổ. Mà còn buồn khổ thì không phải A La Hán, tức là không giải thoát.
Hỏi: Chinh phục được Thân, Thọ, Tâm, Pháp là làm chủ được Thân, Thọ, Tâm, Pháp phải không thưa Thầy? Còn nhiếp phục được thân căn, ý căn, khẩu căn v.v… là như thế nào? Có phải không có hạnh độc cư là nhiếp phục được thân căn, khẩu căn và ý căn hay không ? Xin Thầy và Cô Út giảng cho con được rõ.
Đáp: Chinh phục được Thân, Thọ, Tâm, Pháp là làm chủ được sự sống chết. Nghĩa là chinh phục được Thân, Thọ, Tâm, Pháp là làm chủ được Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Trong khi tu Tứ Niệm Xứ là làm chủ được nó rồi. Tức là chúng ta có Định.
(56:16) Mà đã có, đạt được những cái định đó thì chúng ta làm chủ sống chết chứ không phải làm chủ Thân, Thọ, Tâm, Pháp nữa. Nghĩa là lấy Thân, Thọ, Tâm, Pháp để mà chinh phục để mà tu tập để mà làm chủ được sự sống chết.
Còn nhiếp phục thân căn, khẩu căn, ý căn, nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn. Ở đây thì con có nói rằng còn nhiếp phục thân căn, ý căn, khẩu căn… Tức là nó còn năm cái căn chứ không phải là một cái căn. Sáu căn, ngũ căn hay là lục căn. Thì thân căn là xúc căn đó.
Thân căn, Khẩu căn, Ý căn, Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỷ căn, Thiệt căn. Sáu cái căn này thì đó là mới phòng hộ sáu căn. Ở đây con dùng cái chữ mà nhiếp phục các căn của mình, đó là phòng hộ đó. Chứ không phải nhiếp phục nữa. Còn nhiếp phục nó tức là chinh phục Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Làm chủ được Thân, Thọ, Tâm, Pháp.
Mà thân, trong cái thân thì nó có sáu cái căn. Cho nên chúng ta nhiếp phục, ở đây con dùng chữ nhiếp phục thân căn, khẩu căn, ý căn đó là tức là phòng hộ sáu căn chứ không phải không nhiếp phục nó. Phòng hộ là giữ gìn nó, để khi nó tiếp xúc với vật gì thì nó không bị dính mắc.
Tiếp xúc vật gì nó không bị tham đắm, nó không bị ham mê. Do đó gọi là phòng hộ. Chứ không phải nhiếp phục nó. Nhiếp phục nó tức là làm cho nó phục tùng. Còn cái này mình ngăn ngừa, phòng hộ, giữ gìn bảo vệ nó để cho nó đừng dính mắc. Chứ không phải nhiếp phục.
Còn nhiếp phục là phải sai nó. Như con ở trong định con sai nó. Bảo cái lỗ tai này nghe vô, đừng có nghe ra ngoài. Đó là nhiếp phục. Còn cái phần mà phòng hộ, giữ gìn cho đừng dính mắc. Nghe người ta chửi, đừng có để cái ý căn của mình dính mắc ở trong cái chửi đó. Để rồi sanh ra cái phiền não, tinh thần bất an. Đó là cái phòng hộ.
(58:24) Cái sự phòng hộ này còn gọi là Thánh Phòng hộ Sáu căn. Cho nên trong thân của chúng ta nó có sáu cái căn. Do vì vậy mà chúng ta chinh phục được Thân, Thọ, Tâm, Pháp thì chúng ta đã chinh phục được sáu căn của chúng ta: Mắt, Tai, Mũi, Miệng, Thân, Ý.
Đó, như vậy thì con hiểu biết được cái chỗ mà chúng ta đã tu tập thế nào để nhiếp phục được Thân căn, Khẩu căn, Ý căn, Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỷ căn, Thiệt căn. Đó thì chúng ta tu ở trên cái chỗ pháp Định Vô Lậu thì chúng ta chinh phục được Thân, Thọ, Tâm, Pháp.
Chúng ta tu cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác thì chúng ta chinh phục được Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Chúng ta tu cái Định Hiện tại An lạc Trú thì chúng ta chinh phục được Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Chúng ta tu cái Định Niệm Hơi Thở chúng ta cũng chinh phục được Thân, Thọ, Tâm, Pháp.
Nghĩa là tất cả các định chúng ta đều chinh phục được Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Mà chinh phục được Thân, Thọ, Tâm, Pháp tức là nhiếp phục được Thân, Khẩu, Ý, Thân căn, Khẩu căn, Ý căn, Nhãn căn, Nhĩ căn, Thiệt căn.
Nhưng mà trước khi mà chinh phục nó thì chúng ta phải phòng hộ sáu căn, giữ gìn nó không cho dính mắc. Mà phòng hộ sáu căn, giữ gìn không cho dính mắc tức là độc cư. Mà độc cư thì nó có hai phần, chứ không phải là một phần.
Đó, Thầy nhắc đi nhắc lại chỗ này rất rõ. Nếu mà phòng hộ sáu căn của chúng ta mà không độc cư thì nó không phòng hộ. Cho nên phòng hộ nó có hai phần, nó có bốn phần chứ không phải hai phần.
Phần Thứ nhất là phòng hộ sáu căn.
Phần Thứ hai là tâm không phân tán. Nghĩa là mình độc cư thì tâm không bị phân tán.
Thứ ba, có thì giờ tu tập nhiều. Nghĩa là khi mà mình phòng hộ, giữ gìn sáu căn của mình thì cái thời gian rảnh rỗi, mình tu tập nhiều.
Thứ tư là sống trầm lặng, tập sống trầm lặng. Nghĩa là đời sống của mình sống đời độc cư thì mình sống trầm lặng. Và khi an vui được trong đời sống trầm lặng của mình, mình trở thành […] chứ không phải gì.
Đó là bốn cái điều kiện của hạnh độc cư. Mà bốn cái điều kiện của hạnh độc cư đó mà chúng ta thực hiện được thì chúng ta tu tập rất dễ. Đó, đó là cái phần trả lời về vấn đề Hải Tâm hỏi Thầy. Nhưng phải lưu ý tuy rằng hỏi nhưng Thầy trả lời cho thông hiểu như vậy. Nhưng trong giai đoạn này là cái kiên quyết của con là phải làm chủ được sự sống chết. Chứ không phải ở chỗ hiểu biết đơn thuần như vậy.
Mà cái chỗ hiểu biết như vậy để chờ sau khi tu xong rồi, thì cái chỗ hiểu biết này nó sẽ trả lời nơi tâm con rất là rõ ràng. Vì hiểu biết như vậy nó làm cho tâm của chúng ta nó không được an. Tức là nó không được yên, nó không được thanh thản.
Mà nó còn pháp tưởng, nó làm cho tâm của chúng ta. Muốn tìm hiểu cứ hiểu cho rõ thì tâm của chúng ta phải xả bỏ ngay liền tức khắc. Đây là trong giai đoạn tâm vô lậu phải quét sạch những cái này. Dù là pháp của Phật cũng phải xả, huống hồ là pháp thế gian.
Nghĩa là Phật pháp còn phải xả mà. Những cái câu hỏi của con nó về Phật pháp chứ không phải là ngoài cái Phật pháp. Nhưng mà phải xả, thì huống là pháp thế gian. Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu rằng, Phật pháp hỏi mà Thầy còn cho là pháp tưởng thì thử hỏi pháp thế gian còn chỗ nào mà các con chứa chất ở trong lòng.
Các con tu theo Thầy các con còn chứa chấp ở trong lòng các pháp thế gian thì đó là một điều sai. Phải xả, buông xuống hết, bỏ sạch. Không có còn con cái, không còn gì hết. Nhưng phải khéo léo, linh động. Tâm mình chưa có xả được. Nó còn bị thương nhớ thì nên tiếp duyên, chứ đừng nên nén tâm.
(1:02:27) Nén tâm nó làm cho mình cô đơn, buồn khổ rồi sinh bệnh và sinh bệnh tương tư. Cho nên phải hiểu. Bởi vì năm điều kiện, có bệnh không thể tu tập được đối với Đạo Phật. Cho nên phải khéo léo, khi biết tâm mình ở mức độ nào, độc cư ở mức độ nào, thì chúng ta cố gắng giữ gìn cho đúng. Chứ không phải Thầy cấm các con đâu.
Vì sự giải thoát của các con mà Thầy nói lên một cái điều kiện như vậy để cho các con quyết tâm. Chứ còn các con tu, các con phải biết được cái tâm và cái sức của các con ở mức độ xả tâm như thế nào.
Quá ép, Đức Phật thí dụ như một cái dây đàn mà quá căng, quá hạn thì nó sẽ đứt. Mà quá chùng thì nó không thành tiếng. Làm sao mà với vừa với cái sức của mình thì nó thoát ra được.
Thì như Cô Út đã dạy, các con biết rằng cái sự tu tập nó không được thái quá mà không được dễ vui với nó.
Mà phải đi đúng trình tự với cái sức của mình. Cho nên cái người mà tu thiền luôn luôn lúc nào cũng biết được cái chỗ tu tập của mình rất cụ thể rõ ràng. Còn nếu mà cái người không biết, ham ngồi nhiều, là như dây đàn. Mà ham ngồi nhiều, chất lượng không có thì phí mất thì giờ hiện tại, không kết quả.
Cho nên ở đây, chúng ta phải biết cái sức của chúng ta tu. Thời gian Minh Tông đã tu theo Thầy, Thầy thì không phải như Cô Út. Thầy bảo đừng có ngồi nhiều, không nghe mà ngồi nhiều thì bây giờ mới hiểu ra. Tại vì con không nghe lời Thầy.
(1:04:19) Nếu con mà làm Thầy như Thầy, thì con bắt là phải thực hiện, một phút là tu cho đúng một phút. Nói thì thật ra là nói một điều, nhưng khi tâm người ta muốn ngồi một giờ thì làm sao mình bảo người ta ngồi một phút. Người ta thấy an, thấy thích thì người ta cứ ngồi nhiều.
Ai đâu mà đi theo kèm, chỉ người ta có tin mình hay không ?. Bây giờ con mới hiểu ra được, từ cái chỗ ngồi sáu, bảy tiếng đồng hồ, nó không kết quả cho con. Bây giờ con trở lại tu ba mươi phút, một giờ để đạt cho được cái đạo lực con rèn. Bây giờ con mới thấy được cái chỗ rèn luyện đạo lực của con thì con đã mất đi.
Thay vì, tháng thứ nhất con đã mất đi […]. Tháng thứ hai, con lạc ở trong, kéo dài trong cái trạng thái an, sáu, bảy tiếng đồng hồ mà lại rơi trong vô ký, thùy miên, rơi trong giấc mộng. Thì tất cả những cái này nó làm mất thì giờ con.
Đến tháng thứ ba, bảo tu tập tỉnh thức trong giấc ngủ thì sức của mình tu tập trong năm phút thì tu tập trong năm phút. Này tu tập cả tiếng đồng hồ, rồi hai tiếng, rồi ba tiếng. Tăng dần lên bốn, năm tiếng thì làm sao tỉnh thức trong giấc ngủ được? Nó phải kéo dài.
Cho đến bây giờ tỉnh ra mới thấy được. Và đồng thời thì ở đây thì các con cũng thấy được cái sai. Chứ không phải không thấy được cái sai. Nhưng mà chừng mà ngộ ra được thì đã mất cái thời gian. Và đồng thời các con cũng thấy rằng, tu tập của các con, có nhiếp tâm tu nhưng mà không nhiệt tâm với cái sự tu tập.
Giờ tu của mình xem nó thường. Mà không xem nó là cái giờ của mình. Không nên quên là cái giờ làm chủ sinh tử, chấm dứt được luân hồi, tái sanh của mình là một cái điều quan trọng trong cuộc đời con người chứ đâu phải.
(1:06:23) Cho nên không khoanh chân thôi, làm gì làm, nhưng mà đã khoanh chân rồi nhất định là phải chiến đấu, chiến thắng. Như vậy mới có chất lượng, như vậy mới có kết quả. Như vậy mỗi ngày mới có tiến bước nhanh. Chứ còn nếu không mất thời gian tu.
Bữa nay Thầy dạy để cho các con biết được mà nỗ lực. Còn những gì thưa hỏi thì phải thưa hỏi. Còn về phần […]
Các con còn hỏi Thầy gì nữa không? Đó, hôm nay Thầy nhắc lại nó có nhiều cái phần. Các con đừng có tu mênh mông. Các con sẽ chia ra từng thời gian, các con tu Định Vô Lậu. Cái thứ hai thì các con tu. Các con sẽ dùng các đối tượng trong cái việc làm, nhất là các con đang ở trong giai đoạn diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp, phải nỗ lực xả tâm cho sạch. Mỗi mỗi một cái tâm niệm của mình khởi lên là lấy cái đối tượng xả liền, xả liền. Có chuyện gì mau mau xả liền.
Không có được để cho tâm chúng ta kéo dài buồn phiền, cái sự lo sợ. Mau xả liền để cho tâm chúng ta trở về. Đó là cách thức xả. Nó liên tục hàng ngày hàng giờ, hàng phút, lúc nào chúng ta cũng. Đó là cách thức tu.
Và thường nhắc tâm: “Tâm như cục đất”. Nhưng mà làm sao nó như cục đất? Chứ không phải nhắc nó như cục đất rồi để cho nó thành cục đất. Nghĩa là nhắc tâm để cho chúng ta nhớ là khi có chuyện gì thì ngay đó là phải tìm mọi cách để biến cho nó trở thành cục đất thật sự. Để cho nó được giải thoát.
(1:08:23) Thì như vậy cái hướng tâm của chúng ta nó sẽ như cục đất. Và cái tâm niệm của chúng ta luôn luôn đặt nó lên hàng đầu để diệt ngã, xả tâm, ly dục ly ác pháp. Có như vậy chúng ta mới thấy kết quả.
Ở đây thì Thầy nhắc nhở mấy con rất nhiều. Rồi ngày nào Thầy ra đi rồi thì lấy ai, mà các con nắm được, hiểu được pháp tu đúng được, mà các con lại hiểu biết tu đúng được?
Bây giờ thí dụ như Hải Tâm đang đạt được ở trong cái trạng thái diệt tầm tứ. Thì bây giờ ai đang ở trong cái sự yên lặng đó thì cố gắng mà nỗ lực. Mục đích chúng ta phải đạt là sự vắng lặng. Làm sao hướng tâm đạt sự vắng lặng chứ không phải là ở trong cái trạng thái yên lặng mà thọ hưởng trong trạng thái yên lặng đó.
Lấy cái trạng thái yên lặng đó làm cái chỗ đứng của chúng ta để tu tập. Đó thì cái điều kiện mà cần phải làm cái điều kiện cho rõ. Tu đâu có phải gì nhiều đâu. Rồi kế đó, chúng ta tu tập cái gì? Thì như Hải Tâm con phải tu tập cái gì? Tu tập Định Vô Lậu vì biết rằng cái tâm lậu hoặc của mình nó xả đi rất nhiều nhưng chưa phải là hết đâu.
Cho nên, hàng ngày chúng ta phải nhắc nhở nó và đồng thời có duyên sự gì, chuyện gì chúng ta sẵn sàng tiếp đón duyên, chuyện đó để mà xả tâm. Nghĩa là tiếp đón nó để mà chúng ta biết được tâm mình ra sao. Còn nếu mình sợ nó, mình trốn thì chắc đã là sai.
Nghĩa là mình trốn tránh là mình sợ rồi. Nghĩa là mình phải tiếp đón để rồi mình quán xét lại cái tâm của mình coi nó xả hay không. Nếu mà nó còn chút lậu hoặc, tiếp nhận nó để mà xả. Chứ không phải tiếp nhận nó để mà…
Tiếp nhận rồi người ta dùng tất cả những cái sự tu tập của mình, cái kinh nghiệm tu tập của mình để quét nó ra. Từ đó chúng ta mới có đủ cái lực để mà tu tập, để mà xả tâm.
(1:10:18) Thì trên cái bước đường tu tập như vậy, thì các con thấy đâu có phải tu tập gì đâu. Mà bây giờ con còn phải tu tập cái thứ ba nữa, đó là Tỉnh thức. Tỉnh thức tức là mình đi kinh hành này, làm công việc này, mình làm tất cả mọi cái. Làm một mình mình này, làm hai người, ba người này, làm một mình quét sân này, luôn luôn mình giữ cái tâm mình ở trong những cái hành động của mình để cái tỉnh thức nó cao.
Mà tỉnh thức nó cao thì nó mới vào. Khi mà tâm nó vắng lặng không nghe âm thanh, thì cái tỉnh thức đó nó sẽ trợ giúp cho mình. Chứ còn nếu không đủ cái tỉnh thức, hiện bây giờ không có tu cái tỉnh thức này nhiều, tới chừng đó cái tỉnh thức ở đâu mà có cho mình? Mình không tu làm sao có? Mình tu nó mới có chứ.
Rồi tỉnh thức ở trong cái hành động của mình. Chừng đó tỉnh thức ở trong cái sự yên lặng, vắng lặng của mình chứ nó đâu đi mất được. Cho nên cái bài kinh Đức Phật nhắc nhở như thế này: “Khi mà tâm chúng ta đã ở trong trạng thái Tứ thiền rồi, thì tất cả trạng thái Tứ thiền đó là cái trạng thái thanh tịnh nhất của tâm của chúng ta”.
Ở trong đó cái tỉnh thức nó rất là cao độ. Cho nên chúng ta muốn cái gì, chúng ta hướng cái nấy được hết. Nghĩa là muốn cái thân này biến ra thành vật gì thì nó làm được hết. Muốn cái thân này cái gì thì nó làm cái nấy. Bởi vì khi mà chúng ta vào Tứ thiền, chúng ta muốn là hơi thở ngưng, các trạng thái trên thân ngưng.
Thì lúc bấy giờ mà chúng ta được nhập vào trong cái Tứ thiền, rồi thì cái muốn của chúng ta tức là Dục Như Ý Túc, nó muốn như thế nào, thì ở trong đó chúng ta muốn được hết. Muốn tức là hướng Tam Minh, chúng ta muốn tức là hướng nó về đó. Mà hướng nó về đó là hành động.
Như vậy là, rõ ràng là đạo lực của chúng ta chứ cái gì? Cho nên, ở đây các con không có thấy được cái chỗ mà khi chúng ta rèn luyện từng cái đạo lực của mình để cho cái muốn của mình, muốn theo cái gì nó làm cái nấy.
Ở đây, chúng ta đã ly dục, ly ác pháp rồi cho nên cái muốn của mình là cái muốn thanh cao chứ không phải cái muốn của phàm phu. Cho nên, Đức Phật gọi là Tứ Như Ý Túc tức là Dục Như Ý Túc, muốn cái gì thì làm cái nấy.
(1:12:26) Nói như vậy không có nghĩa nói về thần thông. Nói như vậy có nghĩa là nói về đạo lực của chúng ta làm được cái chuyện mà phi thường, chúng ta phải nỗ lực. Rồi đây nghe Thầy nói như vậy thì các con lại, khi mà ngồi tu lại muốn cho mình có thần thông nữa thì cái đó là cái nguy hiểm rồi.
Cho nên, ở đây không có được muốn. Mà chỉ nói để cho biết, chúng ta phải thực hiện cho được ở cái chỗ nào chứ không phải là ngồi đây để tu cái đạo lực muốn bay lên trời. Không thể được. Cho nên, cái chuyện nói là một cái lý. Nhưng mà đừng có hiểu qua cái chỗ nói, rồi bắt đầu ngồi yên lặng hơi, muốn như vỗ cánh bay. Bây giờ nó yên lặng rồi cái nó bay. Nó vắng lặng rồi nó mới nghe được nó bay. Thì cái đó là cái nói bậy rồi.
Khi mà chúng ta làm chủ sự sống chết rồi. Thì cái muốn của chúng ta nó là cái tâm. Mà cái tâm của mình phải đề phòng. Bây giờ nó còn buồn thương giận ghét. Mà nó muốn thì nó muốn ở trong buồn thương giận ghét rồi, chứ nó không phải là cái muốn của Thánh nhân rồi.
Cái muốn của Thánh nhân là cái tâm này thanh thản an lạc vô sự. Đó, thì hôm nay Thầy nói như vậy để cho biết rằng cái bước đường tu tập của các con là phải tu tập ít. Tuy tu tập ít nhưng chất lượng cao, chứ không phải tu tập nhiều là nó được nhiều đâu. Tu hoài tu hoài mà thời nào tu cũng lờ mờ, lờ mờ. Thời nào tu cũng không làm chủ hết.
Thì tu cái đó tu cái gì? Tu hoài mà không hết vọng tưởng. Tu hoài mà cái tâm nó còn thương, còn nhớ, còn ghét, còn giận còn hờn hoài thì tu cái gì? Thầy nói tu mục đích là người ta xả làm sao cho hết. Nếu mà tu mà còn hoài cái đó thì tu cái gì? Tu là phải dẹp cái đó, dứt bỏ cái đó.
Đã quyết tâm đi tu rồi thì phải xả bỏ cái này chứ. Tại sao mình cứ để hoài? Các con không có rầy cái tâm của mình. Không có rầy mình, không có mắng mình. Tại sao đi tu rồi mà còn cái tâm này hoài? Phải xả bỏ chứ. Cái này bộ tốt lắm sao?
(1:14:21) Cái này là cái đau khổ. Cái này là cái không tốt của cái đời người. Cái này là cái chìm nổi ở trong sự sống chết của sinh tử luân hồi. Nó đâu có tốt lành gì. Cho nên, xả nó, bỏ nó đi. Không có cần thiết cái thứ đó. Ở đây đâu cần lo đói, lo no gì nữa hết. Có gì ăn cái nấy sống. Đâu có cần mà phải buồn vui ở trong này nữa. Đâu có cần ngon béo bổ gì nữa. Mà cần sống để mà thực hiện cho được, quyết tâm, nhiệt tâm.
Ở đây phải có tư duy suy nghĩ. Đừng có để cái tâm niệm nào xen vô, tạp niệm nào xen vô hoặc là cái trạo hối nào xen vô làm cho tâm mất cân bằng thì không được. Phải nhiệt tâm, phải kiên quyết, phải gan dạ, phải kiên trì để coi nó. Lúc nào cũng phải dùng pháp hướng mà quán mà dỡ đầu nó xuống.
Đừng có để cho nó lẵng nhẵng lẵng nhẵng, đeo đẳng hoài ở trong đầu của mình thì còn cái gì mà tu. Các con thấy ba năm trời dài đằng đẵng chứ đâu có phải ngày một. Đến giờ này là phải quyết định rồi, không còn có giờ phút chậm trễ. Phải quyết liệt phá cho sạch, bỏ cho sạch. Quyết một đêm tao đập mày chết cho rồi.
Như vậy nó ớn nó cũng phải đi. Chứ sống làm gì mà cứ đeo đẳng hoài như thế này? Thì các con thấy một Thánh Ni, người ta đã thắt cái vòng rồi. Nếu mà mày không đi, tao đưa cái cổ vô, tao đạp ghế là mày đứt đầu mày chết hết chứ ở!
Người ta còn như vậy, người ta còn nghĩ như vậy. Vậy mà nó sợ quá, nó rút lui, nó đi mất. Còn mình, nó chưa dám chết nên nó chưa rút lui đi đâu. Cho nên vì vậy đó phải nhiệt tâm, phải đem hết sức lực của mình xả bỏ mà ly, ly dục ly ác pháp. Không còn ham muốn, đời này không còn ham muốn gì nữa. Không có cái gì mà tốt đẹp, cái gì mà vừa lòng. Không có cái gì mà trường tồn ở trên thế gian này.
Chính như Phật pháp đây mà nó còn thay đổi đủ thứ hết, huống hồ là cái gì. Cho nên chúng ta quyết định xả bỏ cho sạch. Cũng như Cô Diệu Hảo, lớn tuổi rồi, sức khỏe như vậy, đó là cũng là cái phước. Mà bây giờ còn một chút gia duyên nhỏ, quét cho sạch ra đi, đừng có để. Một ngày qua là một ngày đau khổ.
Nỗ lực thực hiện, sống trong một cái Thất vắng vẻ. Ở mà ngồi mà nhìn nước, mà nghe dòng nước chảy. Để rồi tâm nó thanh tịnh. Chứ còn ngồi đó mà lo toan cái này cái kia. Biết chừng nào mà cho nó giải quyết được.
Xả hết, bỏ hết. Xả hết đi, để rồi còn một cái gì thì nó sẽ duyên hợp lại. Còn xả chưa hết, một ngày nào đó, thân này hoại diệt rồi thì còn giữ được cái gì đâu? Danh cũng chẳng còn, lợi cũng chẳng còn.
Chỉ có nhân quả thiện ác là đi tiếp tục đi tái sanh luân hồi rồi thọ lấy khổ đau chứ đâu phải ít đâu? Cho nên bỏ xuống đi chứ đừng có giữ. Hoàn toàn không có giữ.
Còn riêng Hải Tâm, Cô Huệ Ân sau khi mà đem hài cốt của ông thân về đây rồi thì các con xả xuống đi, rồi nỗ lực mà tu, đừng có lo nghĩ gì hết. Luôn nhớ bảo tâm mình: “Cứu mình đi!”. Tức là, vì còn Phật pháp còn có người tu chứng là còn có người tin tưởng ở Phật pháp.
Mà các con đã từng theo Thầy ba năm nay rồi, còn gì nữa mà. Tại sao ở đây Cô Út không có nhận thêm nữa? Vì nhận thêm, Cô Út cũng còn phải tu cho mình chứ. Mình còn những bước đi cuối cùng của mình chứ.
(1:18:20) Bây giờ nhận thêm, nấu cơm hàng ngày cho các con tu tập, còn mình thì tu tập không được. Bởi vì phải lo cái này, lo cái kia, lo cái khác đủ thứ hết thì không đúng.
Còn Thầy ra đi rồi thì Thầy an trú ở trong hang trong núi. Thầy dẫn ba cái ông tăng Thầy đi, nhét trong núi cho cọp ăn cho rồi hết. Chứ tu ở ngoài này có làm được cái trò trống gì? Các con thấy có làm được trò trống gì? Ít bữa thì gia đình đến thăm, đến viếng, đến riết, tu hành không thấy gì được.
Sự thật, thật sự ra cái tâm trạng của con người không phải dễ đâu, khó lắm. Vắng vẻ, ở xa xôi trong rừng núi âm u, không ai tới thăm viếng, làm gì đi vô đó nổi mà đi. Thì đâu có ai thăm viếng. Mà không thăm viếng thì cái tâm nó không động.
Nhưng có cái tâm của các con có động hay không chừng đó con biết. Vô trong rừng núi rồi ngồi. Bây giờ nó mới thương mới nhớ, mới khóc, mới lóc. Cũng như Cô An Tịnh. Đi vào trong này tu rồi bắt đầu vô đây cái bị độc cư không nói chuyện gì được hết. Cho nên bắt đầu mới nhớ, ở ngoài thì vui vẻ, trong này thì buồn rầu. Cho nên rất khổ sở.
Do đó mình phải nhờ những cái đối tượng, nhờ cái hạnh độc cư mới thấy được tâm tuôn trào. Phải quyết định đừng có để. Ai tu cho mình được. Bởi vì mình dứt bỏ nó. Chứ ai dứt bỏ được, cho nên phải ráng tu. Phải cứu mình.
Hơn nữa, nửa tháng mới gặp Thầy được một lần. Mà gặp Thầy một lần Thầy nhắc nhở, hết sức nhắc nhở. Nghĩa là tu phải có chất lượng. Tu thì thời gian phải ngắn, tu cho đúng cách chứ đừng có tu sai.
Chẳng hạn là như các con thấy. Ngồi thấy ham, thì bắt đầu Thầy bảo 30 phút ngồi lại 35, 40 phút. Thì như vậy là sai rồi, không đúng. Cho nên, những cái này các con hầu hết là rơi rớt.
(1:20:17) Tu thì tu lờ mờ rồi tới giờ ngồi thì vô ngồi chứ còn không nghĩ là phải chất lượng. Cho nên Cô An Tịnh tu tới bây giờ mà vọng tưởng vẫn chưa. Còn Nguyên Tú thì con phải tu tập định vô lậu, xả cho nhiều. Nghĩa là tiếp duyên xả cho tâm của mình.
Đừng có nghĩ là khoanh chân ngồi là tu thiền định. Mà chính xả tâm vô lậu, ly dục ly bất thiện pháp. Lúc nào cái tâm của mình cũng được an vui đó là cái tâm Thiền định. Cho nên Phật dạy, ly dục, ly bất thiện pháp là nhập Sơ thiền.
Cái thiền đầu tiên của chúng ta là cái tâm xả mà thôi. Rồi từng đó nếu mà chúng ta dùng cái Định Vô Lậu và dùng các pháp hướng mà chúng ta nhắc nó mà xả tâm như cục đất được rồi thì cái pháp hướng đó có hiệu quả là bảo nó tịnh chỉ tầm tứ là nó tịnh chỉ. Nó không còn vọng tưởng.
Bảo cái tâm này quay vô, định ở trên thân, không có được nghĩ ngợi gì hết. Luôn luôn biết hơi thở ra, biết hơi thở vô, hơi thở chậm và nhẹ. Không được thở ngắn, không được thở dài quá, không được thở mạnh quá. Bắt đầu cái hơi thở nó cũng theo đó liên tục nó hoạt động theo cái tự nhiên của nó.
(1:21:20) Qua cách tu mà quyết định mà tu được tỉnh giác, Chánh niệm Tỉnh giác định và cái Định Vô Lậu. Xong rồi thì tới tu Hiện tại An lạc Trú. Các con chỉ ra lệnh là nó quay vô, nó chỉ biết hơi thở ra vô. Con biểu hơi thở chậm nhẹ thì nó chậm nhẹ. Mà các con không chịu tu cái định này mà các con cứ ngay cái định hơi thở mà cố gắng ức chế nó thì các con sẽ bị rơi vào định tưởng.
Đó, đó là những cái mà hầu hết Thầy căn dặn, nhắc nhở rất nhiều. Vừa rồi thì có một người phật tử người Hoa nghe băng Thầy rồi xin Cô Út lên đây gặp Thầy. Thầy cho gặp. Thầy nhìn cái người này họ tu Thiền định gì Thầy cũng chả biết, nhưng mà có điều kiện là tu phải xả bỏ.
(1:22:15) Ông ta nói tu hơi thở, thở một hơi … (1:22:26) Cho nên đó là những cái tu mà tu ức chế tâm nhiều quá. Ở đây không ức chế tâm. Tu mà dùng cái Định Vô Lậu quán xả tâm, tâm không phiền não, không giận hờn, tâm như cục đất.
Vô lậu mà nó được tâm như cục đất rồi, thì các con bảo cái tâm quay vô với cái thân. Biết hơi thở ra vô. Ra lệnh như vậy rồi bắt đầu con ngồi im thì con vẫn thấy cái tâm ở đó. Nó không có bao giờ mà nó có vọng tưởng được. Mà con bảo 30 phút phải xả ra. Con phải nhắc chứ không phải.
Chứ mà không con không nhắc cái nó ngồi 1 giờ, 2 giờ nó quên đi. Rồi thấy nó ngồi được vậy cứ ngồi miết miết miết miết cái nó dẫn đi tuốt luốt. Cho nên 30 phút xả ra, xả ra tu tập cái khác. Rồi tới chừng đó hết, tới chừng đó mà thấy tới giờ mình vô mình ngồi khoanh chân lại mình nhắc: “ Tâm quay vô, định trên thân, biết hơi thở ra vô, hơi thở chậm và nhẹ”.
Bắt đầu ra lệnh như vậy.
Cho nên cái mục đích chính là các con phải tu cái Định Vô Lậu. Bởi vì, trên Tứ Niệm Xứ, Phật dạy rất rõ: “Trên thân quán thân, tu về nhân tướng,” nhân tướng là cái tướng thân mấy con “để khắc phục tham ưu.”
Tham là tham, nó có tham nó mới có ưu, nó có sân nó mới có ưu phiền, nó có si nó mới có ưu phiền. Cho nên mình khắc phục được Tham, Sân, Si. Thì tức là mình tu cái Định Vô Lậu. Đó thì ngay đó ở trên thân mình tu cái hình tướng. Còn những […]
(1:24:24) Vì vậy cho nên, cái tu đầu tiên là cái Định Vô Lậu. Trên thân quán thân tu về nhân tướng. Do đó con tu về Thân, Thọ, Tâm, Pháp của con. Bốn cái này là bốn chỗ liên tục của con. Bây giờ cái thọ nó đánh, nó đau, nó nhức ở chỗ này. Thì ngay đó là mình cũng phải dùng pháp hướng mình đánh đuổi nó đi. Đó là trên thân quán thân về thọ.
Trên thân, quán thân về tưởng. Cái tưởng gì đó thì mình phải quán xét, lìa nó ra đi, chứ đừng có để đó. Bây giờ nó nghĩ tưởng, nó nhớ cái chuyện này, nó nhớ chuyện kia. Như mấy con lớn tuổi có con có cái, nó nhớ cái này kia, nhớ con nhớ cái. Thì tức là dùng ngay cái pháp hướng đó đuổi nó đi đừng để trên thân tâm, đuổi nó đi.
Rồi trong các pháp, trong các đối tượng nó xảy đến cho mình chuyện này chuyện kia thì hoàn toàn là mình sử dụng cái Định Vô Lậu chứ. Trên các pháp quán các pháp để rồi phá nó đi. Thì rõ ràng là mình ly dục, ly ác pháp chứ còn cái gì.
Thì ngồi ở trên thân quán thân mà tu Định Vô Lậu thì các con mới xả mà tâm giải thoát rồi. Mà tu như vậy thì các con mới, hầu hết là suốt ngày tu, không có thời giờ. Thầy nói, nếu mà có cơm mà người nào cho ăn không, đừng có cho làm cái gì hết. Tự mình quét sân, tự mình nhổ cỏ, làm gì đó, đâu có thì giờ mà quét nhà quét cửa?
Tại vì các con để kẽ hở mới quét nhà quét cửa, nhớ con nhớ cái, chứ còn các con tu liên tục làm sao có nhớ nhà nhớ cửa được. Còn cái Chánh niệm Tỉnh giác thì các con tu trong hành động ngồi chơi thôi, còn cái chỗ nào mà kẽ hở đâu lọt vô được cái tâm thức.
Cho nên mỗi lần có kẽ hở tức là bị thất niệm. Mà thất niệm đương nhiên coi như là mình chưa xứng đáng làm người đệ tử Phật. Bởi vì người đệ tử của Phật là không thất niệm.
(1:26:13) Thì các con thấy cái bài kệ Nhất Dạ Hiền của ông A Nan. Một đêm mà làm được: “Tuệ tri quán vô lậu”. Thì ở trong cái bài kệ đó nó có hai cái câu kệ. Cái câu thứ nhất là: “Chánh niệm Tỉnh giác đây. Tuệ tri quán vô lậu.” Hai câu kệ rất rõ ràng.
Hai câu kệ đó để chỉ rõ, một đêm người ta không thất niệm thì người ta đã thành Phật chứ đâu phải là cần phải tu tới nhập Tứ Thiền đâu. Mà các con thấy khi mà tu cái Chánh niệm Tỉnh giác. Nếu cái tuệ tri quán vô lậu mà đạt được thì Tứ Thiền nó lại nhập được. Nó đâu có khó gì bởi vì đó là cái đạo lực của nó rồi.
Thành ra nó chỉ bảo “Tầm tứ diệt, nhập Nhị Thiền”. Bởi vì, cái Chánh niệm Tỉnh giác với cái Định Vô Lậu đó là cái Sơ Thiền rồi, nó ly dục ly ác pháp rồi. Do đó thì nó ra lệnh, bắt đầu bây giờ: “Tầm tứ phải diệt, tâm phải định trên thân này, phải quay vô, biết hơi thở rõ”. Thì bắt đầu nó biết hơi thở ra vô, ra vô. Mà nó không khởi niệm vọng tưởng nào hết thì tầm tứ nó diệt Nhị Thiền rồi.
Thì bây giờ nó tiến tới phải phá hết các trạng thái hỷ này, phải không còn mộng mị chiêm bao nữa này, phải hoàn toàn tỉnh thức trong suốt đêm ngày không có được ngủ này, thân ngủ mà tâm không ngủ này. Nó ra lệnh như vậy thì bắt đầu suốt đêm nó không ngủ.
Nó cứ nó biết hơi thở ra vô, ra vô vậy hoài. Mà cái thân nó không ngủ cho nên nó không bệnh đau. Rồi bắt đầu nó ra lệnh nữa: “Cái hơi thở ngưng này, các hành trong thân ngưng này” thì nó nhập Tứ Thiền rồi. Nó ra lệnh, nó cứ tuần tự nó ra lệnh, lần lần nó im hết toàn bộ.
Thì như vậy nó có cần phải tu tập như các con bây giờ phải ngồi khòm lưng, thấp cổ như vậy không? Mà nó có vô được chưa? Cái tâm thì còn dẫy đầy như cái bãi tha ma vậy đó. Nghĩa là cái thây ma chưa có chôn, cứ quăng bừa trên cái nghĩa địa. Mà các con chưa có giải thoát.
Rồi các con bây giờ lo tu những cái định, diệt tầm tứ, nhập Nhị Thiền để có định sanh hỷ lạc, rồi tu Định Vô Lậu, rồi tu cái định Tam Thiền, Tứ Thiền … làm sao tu được? Cái tâm của mình ở Sơ Thiền nó như cái bãi tha ma, nó ô nhiễm dữ đúng không? Hễ mà hở ra thì nó dính mắc cái này, hở ra dính mắc cái kia, đủ thứ hết. Nó thương, nó ghét, nó giận, nó hờn, nó nhớ đủ thứ hết. Nó trạo hối điều này, nó hối hận điều kia, đủ thứ hết.
Nếu mà đem ra thì cái mùi hôi thối nó hôi thối dữ lắm, khắp cả trời. Nghĩa là tới cái mây xanh nó cũng thối. Bởi vì nó bất tịnh mà. Với cái tâm niệm mà thế gian, bất tịnh vô cùng. Thế mà chúng ta không thấy.
Cũng như mấy người mà nằm trên đống rác mà tưởng là thơm. Mình đi ngang mình bịt mũi gần chết. Họ vô trong họ cào, họ móc. Các con thấy không, thấy cái người mà moi rác, họ vô trong đấy họ móc ở trong đống rác. Còn mình đi ngang, thối!
Thì các con thấy, khi mình nằm trên những cái tâm mà phàm phu tục tử, nó như là mình nằm trên cái đống rác mà mình không có thấy. Còn những bậc Thánh nhân, người ta đi ngang người ta sợ muốn chết luôn. Người ta bịt mũi người ta đi, người ta không dám thở.
Còn mình thì, lăn ở trên mà nằm ở trên, mà lại còn nói thương nhớ, bỏ uổng. Đó là Thầy dùng những cái danh từ như vậy là Thầy muốn cho các con xả tâm. Chứ Thầy nói làm chi cho nó mệt. Để cho các con phải nhiệt tâm mà phá cho sạch. Coi như là đống rác bẩn thỉu chứ không phải tốt lành. Thì có như vậy mới ráng nỗ lực tu tập, mới đạt được kết quả.
Đó thì hôm nay Thầy trả lời cho Hải Tâm tu tập. Từ đây về sau nó có những cái pháp tưởng mà khởi lên thì Hải Tâm phải chú ý để mà xả bỏ.
(1:30:23) Còn Pháp Chân, cũng như các con, nhất là Cô Lan cũng pháp tưởng nhiều đó. Tuy là chưa tới đâu nhưng mà thỉnh thoảng giới luật, pháp của Phật đã nhét ở trong đầu của mình. Tích lũy kinh nghiệm rồi thỉnh thoảng ngồi tu nó lại phóng ra. Thì phóng ra không biết đúng sai, hỏi cho biết.
Hỏi biết để làm gì? Tôi đi tu giải thoát thì cái gì cũng biết hết. Khỏi cần hỏi nó cũng biết. Còn bây giờ có hỏi đi nữa, nghe cho thỏa mãn vậy thôi. Mai mốt đi ra nói dóc chứ làm gì? Nói láo với thiên hạ, chớ mình nói theo cái miệng của Thầy thôi chứ, mình cũng chẳng biết cái đó nó như thế nào nữa.
Bởi vì người ta ăn người ta biết ngon dở. Còn mình chưa có ăn, mình cũng nói ngon ngon, chứ sự thật ra cũng chưa có biết nó làm sao hết. Cho nên đừng có mà nhai cái bã mía như vậy. Mà hãy, ăn cái gì mà thực sự của mình, từ cái chỗ hiểu biết của mình.
Cũng như Cô Út cũng nói, cũng nói qua cái hiểu của cô, cô không cần nói ra cái lời dạy của Thầy. Còn các con thì, nghĩa là tâm in đó, trích y nguyên. Nghĩa là Thầy nói sao tuần sau các con trích ra y vậy, không có trật cái chữ nào hết.
Còn các con nghe Cô Út dạy đạo, cô nói theo của cô không. Cô nói có lấy của cô không. Mà có lúc cô nói những cái danh từ rất là biệt danh, Thầy không biết. Nhưng mà thật ra đó là cái lối hiểu của cô, lối của cô, lưu xuất từ tâm của cô. Cô hiểu qua cái chỗ mà cô tu tập giải thoát của cô, cô dạy mình.
Mà Thầy thấy đúng chứ không có sai. Cho nên là hầu hết những cái danh từ mà dùng ở trong kinh điển, hầu hết là các con rập khuôn theo Thầy mà Thầy cũng dập khuôn theo mấy Hòa thượng chứ đâu phải, nói mà chưa có biết.
Cô Út cổ không cần. Cô không bao giờ nói ly dục, ly ác pháp. Mà cũng ly dục, ly ác pháp sạch sẽ. Tại vì xả là xả. Đó, thì cái đó là tự tâm người ta lưu xuất ra. Cho nên hầu như cái lặp lại khuôn mẫu đó là Thiền Đông Độ, không chấp nhận.
(1:32:27) Cái gì nói tới, Thầy mà hỏi ra cái lời nói không được Thầy chấp nhận, đó là cái nói của thiền, rất đáng tiếc. Cho nên các con nỗ lực tu đi, rồi tự cái nói của các con nó lưu xuất ra. Cái con thấy cái nói của con là cái kinh nghiệm của con, chứ không phải cái độc cư.
Các con phải ráng nỗ lực tu. Giờ các con hỏi Thầy, Thầy giải thích các con hiểu. Mai mốt các con nói cái của Thầy, chứ không phải. Con phải tự tìm hiểu. Như bây giờ, Tín thọ hay là Pháp tín thọ, phá vọng tưởng là gì. Do đó, nỗ lực tu giải thoát rồi. Thì Thầy nói như vậy để cho các con biết là khi bị pháp tưởng rồi, ngay đó chúng ta coi như đó là một cái sai rồi. Và chúng ta phải xả bỏ ngay liền. Coi như đó là một đối tượng của tâm như ly dục đi, nó còn ở trong cái tham.
Thì tu tập như vậy, nó có cái kết quả tốt. Các con nhớ hết chưa? Nhớ cho rõ. Tu cái nào, cái nào. Nhớ, cái người mà chưa hết vọng tưởng thì biết mình tỉnh giác, tỉnh thức chưa có, phải tu tập tỉnh thức, đi kinh hành. Phải nhớ kĩ. Tu trong công việc làm, tu trong đi kinh hành. Khi mình rảnh rang mình đi kinh hành mình tu. Khi ngồi ở trên ghế mình tu tỉnh thức của mình cũng được.
Hoặc là tu cái Định Sáng Suốt, mình ngồi mình giữ tâm thanh thản. Đó là những cái mình cần tu. Rồi bây giờ tu Định Vô Lậu. Mình khoanh chân ngồi để cho gom tâm, cho nó phóng ra cái trí tuệ sáng suốt, quán xét để mình xả tâm.
(1:34:27) Hoặc là mình ngồi thiền, hoặc là đụng đâu mình ngồi đó, rồi mình khởi tâm mình nghĩ, khởi lên cái niệm nào đó. Để rồi mình quán xét coi mình còn dính mắc cái gì. Hay hoặc là tâm mình đang có cái niệm nào đó. Ngay đó mình tu tới vô lậu, chứ không phải đợi cho tới giờ mới tu cái đó đâu.
Có một cái tâm gì, cái niệm gì ở trong đầu của mình, mình đem ngay ra, mình quán xét ngay ra để coi nó là cái thứ gì. Dùng pháp hướng mà dập đầu nó xuống, chứ không thì để cho nó kéo dài.
Cho nên cái Định Vô Lậu lúc nào hoặc giờ nào mà nó có. Cũng như bây giờ các con chỉ ngồi thôi, tu Định niệm Hơi thở, rồi nó khởi một cái niệm đó, nhất định là không có tạm dừng hơi thở để theo cái niệm này để tu Định Vô Lậu.
Phải như vậy nó mới có hiệu quả, nó mới có kết quả. Còn bây giờ nó khởi cái niệm này mà ráng gò bó nó. Nếu mà mình có nhiệt tâm, ngay từ lúc đầu, đã làm chủ nó thì giờ này nó không có vô được.
Mà bây giờ, giờ này nó vô, thì tức là mình không làm chủ nó rồi, thì thiếu nhiệt tâm rồi. Thì phải đi sang qua cái định khác để quét nó. Chớ không mình diệt ngang nó, lát nữa nó vô nữa, lát nữa nó vô nữa. Nó vô không vô cái này, nó vô cái khác. Nó cứ vô hoài.
Thì như vậy, trong suốt cái thời gian đó, tu vô ích. Thà là quán xét nó để phá được cái tâm niệm này nó có lợi ích hơn là ngồi tu. Cho nên, các con phải sáng suốt cái chỗ tu chứ. Đâu phải là ngồi tu mà thiếu sự sáng suốt như vậy thì cái thời gian đó mình phí bỏ cái thời gian.
Mà thời gian nó đi qua rồi, dù là một phút đi nữa, các con có lấy lại được không? Có đem lại được không? Bây giờ là năm nay là năm nào rồi, tóc đã bạc thêm rồi, tuổi đã già thêm rồi. Mà bây giờ lúc này mà nó còn tu như vậy sao? Cho nên chúng ta phải tu như thế nào chứ?
Cho nên, bây giờ chúng ta đang ngồi tu cái pháp này, mà nó đã có cái niệm gì thì phải tu cái Định Vô Lậu. Mà nó không có cái niệm, nó tỉnh táo đàng hoàng, nó hoàn toàn thì hãy nương vào đây.
Cho nên phải biết, vì vậy nó không mất thì giờ. Còn không khéo thì các con tu nó mất thì giờ vô ích. Mà nó kéo dài cái thì giờ, phải thức đêm, thức khuya, dậy sớm. Chứ đâu phải được ngủ nghê như người ta đâu. Cho nên, mình phải nói là tu là cực khổ chứ đâu phải là không cực khổ.
(1:36:35) Mà đã muốn tu, đã muốn giải thoát thì phải chịu cực khổ, mà cực khổ trong cái thời gian tu chứ? Không lẽ suốt cuộc đời các con tu hoài tới chết? Cũng như người ta học, chúng ta tu cũng có cái thời gian nhất định là chúng ta phải tu ba năm, năm năm.
Mà Đức Phật nói chỉ có bảy năm. Là cái người dở nhất chỉ có bảy năm phải xong. Mà cái người giỏi nhất là một đêm, một ngày phải xong. Còn cái người mà giỏi nhất nữa đó. Giỏi nghĩa là ưu việt đó. Chỉ nghe bài pháp xong rồi là xả sạch tâm rồi là chứng đạo rồi.
Cái người mà nghe được cái bài pháp, thế gian này là khổ, không phải là cái chỗ cho chúng ta ở, chúng ta phải xả bỏ nó đi. Người đó nghe rồi, thì sáng nghe chiều gặp Phật, chứ không phải đợi.
Cho nên, cái bài kệ Nhất Dạ Hiền, một đêm mà không có niệm thì đã thành Thánh Hiền. Cho nên, Đức Phật nói, tối đa chúng ta bảy năm. Tối thiểu thì sáng nghe chiều đã gặp giải thoát rồi.
Còn gì tham? Đời có gì đâu mà lòng chúng ta dính líu nó? Phải không các con? Các con thấy có cái gì đâu? Hãy buông xuống đi, bỏ hết xuống đi. Đừng có thèm nữa, đừng có ham nó nữa. Quyết một tâm ly dục, hướng giải thoát làm chủ chấm dứt sinh tử luân hồi.
Điều đó là điều cao quý nhất. Các con cố gắng. Nay Thầy đến đây nhắc nhở, để sách tấn các con trên bước đường tu tập. Nửa tháng sau, Thầy sẽ gặp các con lại. Và đồng thời được những cái vui hơn là các con trí tuệ hơn, kết quả hơn trong những sự tu tập của ngày hôm nay.
(1:38:30) Như vậy là cái kết quả mà nó mang đến là do ở các con nỗ lực tu tập đúng những lời Thầy dạy. Hiểu đúng, chất lượng cao, tu đúng cách, làm chủ đúng. Ở đây các con lưu ý là tập làm chủ chứ không phải tập đi theo một cái trạng thái khác gọi là thiền định.
Mà tập làm chủ, chúng ta muốn như thế nào, chúng ta phải tập làm chủ. Muốn không vọng tưởng, chúng ta phải tập làm chủ không vọng tưởng. Muốn vắng lặng, chúng ta phải tập làm chủ vắng lặng. Muốn không thở, chúng ta phải tập không thở. Muốn như thế nào chúng ta phải tập như thế nấy, làm cho được cái đó. Đó là cái chỗ chúng ta phải xả tâm, xả cho được cái tâm.
Tâm như cục đất, phải làm sao mà tâm như cục đất. Làm sao, làm cách nào? Ngài nhắc là phải có những sự việc. Quán xét tâm niệm khởi lên, quán xét để biến nó trở thành như cục đất. Cái cục đất các con có thấy nó suy nghĩ gì không? Không !
Chửi mắng nó, nó có giận không? Không. Để đất đá trên nó nó có giận không nó có buồn không? Không. Đổ vàng bạc nó có mừng không? Không. Như vậy có nghĩa là nhắc chúng ta phải tu tập, phải trau dồi thân tâm mình, phải nhắc nhở thân tâm mình như cục đất.
Ai đá qua cũng được, đá lại cũng được. Không buồn, không phiền, không giận, không hờn. Như vậy là mục đích chúng ta đạt được là tâm ly dục. Đó là Định Vô Lậu.
Đó, thì hôm nay Thầy nhắc lại. Vừa tu gọn ngắn, chất lượng cao, biết cách tu. Không hỏi loanh quanh những cái chuyện ngoài cái vấn đề tu tập. Không đem những cái chuyện thế gian mà nói tới nói lui. Không nhớ nghĩ tới chuyện, những chuyện của người khác mà chỉ nghĩ chuyện của mình.
(1:40:22) Gần đây thì Thầy nghe Đào nó xin về. Nhưng mà Thầy thấy cần phải phạt chứ không để tùy nó được. Cho nên, cần phải có một cái thời gian cho nó biết. Nhưng mà dù sao đi nữa, chúng ta cũng không nên bỏ nó. Cho nên, thỉnh thoảng Cô Diệu Hảo về đây, được nghe những cái gì về nói lại, phải tu tập cho đúng. Làm sai thì phải gánh chịu chứ không ai gánh chịu thay được.
Chứ còn tu tập không đúng, thì sai hậu quả phải gánh chịu. Chứ không ai gánh chịu cho mình. Sau bao năm ở đây, chúng ta tu tập, rèn luyện cơ bản. Để bây giờ chúng ta quyết định, giờ phút này là giờ phút chúng ta quyết định cho cái đời sống tu hành của mình.
Chứ đâu phải còn mới bắt đầu vào tu giai đoạn thứ nhất ở đây nữa đâu. Ba năm chúng ta rèn luyện cái cơ bản, đời sống chúng ta rèn luyện ở đây. Và sự tu tập chúng ta rèn luyện từng hơi thở của chúng ta. Từng kỹ luật đã rèn luyện cái cơ bản.
Và bây giờ, đã có những cái cơ bản được rèn luyện, tâm chúng ta đã ly dục, ly ác pháp, cũng được rèn luyện trong những cái cơ bản, rất là kỹ lưỡng. Thế rồi bây giờ chúng ta còn một cái nhiệt tâm là xả hết, chứ không còn gì. Đó là cái quyết định cho chúng ta trong vòng một tới hai năm hoàn toàn. Chứ không được kéo dài.
Đó là quyết định phải làm cho xong trong một năm nữa là chúng ta phải nhập Tứ Thiền. Các con phải nhập được Tứ Thiền chứ không thể nào mà còn chần chờ. Mà nếu mà bây giờ tầm tứ còn chưa có diệt được thì phải xả cho thật sạch xong. Để rồi xả cho sạch cái tâm của mình.
Dùng cái pháp hướng xả cho sạch cái tâm đó để mà điều khiển, hướng cái tâm của mình cho tầm tứ diệt, cho hỷ diệt, cho hơi thở và các hành diệt. Để chúng ta hiểu được nếu mà xả sạch xong thì trong chốc lát chúng ta phải nhập Tứ Thiền rất dễ.
(1:42:23) Và đồng thời theo kịp với những người khác đang tu tập cái tâm vắng lặng. Cái tâm ngưng hơi thở, cái tâm thanh tịnh thì sẽ theo kịp nếu các con tu kỹ. Chứ không phải chỉ có ngồi thiền, hơi thở rồi nhiếp tâm mới nhập định Tứ Thiền.
Nếu các con xả sạch, thật sạch tâm thì cái Tứ Thiền của các con rất dễ dàng. Không cần phải, mà chỉ cần nhiếp tâm, bảo tâm định trên thân, rồi thân phải định trên tâm. Tâm định trên thân là tâm không có niệm, tâm không có nghĩ, tâm không có mộng.
Thân định trên tâm là thân phải ngưng hoạt động hoàn toàn, không thở, không rung động. Như vậy rõ ràng tâm định trên thân. Thì chúng ta đã biết rất rõ rồi. Do đó chúng ta chỉ cần ra lệnh. Khi mà tâm chúng ta hết lậu hoặc thì chúng ta chỉ cần ra lệnh là nó làm theo. Nó làm theo thì tâm định trên thân, thân định trên tâm. Đó là cái đường lối tu.
Đến đây thì cái buổi nói chuyện hôm nay với mấy con buổi sáng hôm nay thì Thầy mong các con hãy nghe kỹ và đồng thời tu phải có Chánh Định và chất lượng cho cao. Khẩn cấp và tu tập cho cái quyết định
(1:44:19) Thì các con phải có nhiệt tâm, có nỗ lực. Khi mà Thầy trở về, phải đầy đủ nhập Tứ Thiền. Chừng đó là cái cấp thiết cho cái đời người và cấp thiết cho sự tu tập. Và Thầy thấy, nếu mà các con cố gắng nhiệt tâm.
Và trong quá trình Cô Út chỉ lo bữa cơm cho mấy con rồi mấy con nỗ lực. Tu đúng, chứ đừng có theo mà tu dài dài, ngồi ba, bốn tiếng đồng hồ hay năm, sáu, bảy tiếng đồng hồ như Cô Diệu Hồng thì không được.
Và tới chừng nhập được Tứ Thiền rồi, các con ngồi 49 ngày dễ như trở bàn tay, không còn khó. Ngồi bảy ngày như cơm bữa. Chứ đừng có nói. Ngồi bao lâu, ngồi một tháng cũng rất dễ dàng. Trừ ra khi mà muốn ngồi lâu hơn nữa, 49 ngày thì các con phải nhập Diệt Thọ Tưởng Định.
Nhưng Thầy tin rằng, khi mà các con nhập Tứ Thiền thì không có lý nào mà các con không tu tập Diệt Thọ Tưởng Định vì cái đạo lực mà các con có thì các con điều khiển cái ý hành của các con ngưng thì các con sẽ ngưng cả tưởng và thọ. Ngưng hoàn toàn, tịnh chỉ hoàn toàn, do đó thì các con. Và như vậy thì các con sẽ hoàn tất được con đường tu hành.
Chừng đó tới Tứ Thiền thì các con sẽ có Tam Minh, sẽ tu tập Tam Minh thì các con sẽ hướng tới cái Diệt Thọ Tưởng Định. Nếu mà trong một năm mà chúng ta tu xong, thì coi như là trong ba năm đầu tiên chúng ta tu tập xả tâm và hơi thở chúng ta sẽ không còn.
Năm thứ tư này, chúng ta nỗ lực tu, quyết định tu có chất lượng cao thì cái trạng thái yên lặng chúng ta tiến tới, vắng lặng. Tiến tới tịnh chỉ các hành trong thân. Từ đó chúng ta sẽ nhập Tứ Thiền.
(1:46:33) Thì nếu mà tu có chất lượng hẳn hòi, đàng hoàng. Tu ít mà chủ động điều khiển được các hành của chúng ta. Thì các con sẽ hoàn thành những cái điều tu tập của các con. Coi như là các con sẽ tốt nghiệp, ra khỏi trường. Từ đó thì Thầy lo cái chỗ cho quý thầy yên thì các con cũng đủ. Phải ráng nỗ lực, đừng có để kéo dài. Vì Thầy cũng đã già quá rồi, sức thì yếu kém. Cô Út thì cũng lần lượt sức cũng đã yếu rồi, không thể nào mà đi chợ đi búa, mua thực phẩm, đồ ăn cho mấy con nữa.
Cho nên các con phải nỗ lực tu xong rồi, để rồi các con phải làm cái việc khác để giúp cho cái người nào có đủ duyên với mấy con. Chứ đừng có kéo dài. Đó là cái mong ước của Thầy.
Còn riêng Vợ chồng Tâm Hương, thì theo Thầy thấy, các con hiện giờ nên nỗ lực. Cuộc đời còn đâu. Sắp xếp sao cho ổn để cho mấy cháu nó làm nó sống. Rồi các con sẽ nỗ lực, ngay từ ở trong gia đình, hãy sắp xếp và buông xả, cái gì cần phải buông xả. Lo lắng để rồi nỗ lực thực hiện. Còn Thầy thì Thầy yên Thầy sách tấn, Thầy giúp đỡ cho tu tập.
Còn nếu không mà Thầy mất rồi thì biết nương vào ai mà tu? Có lo được bằng Thầy ? Do đó thì các con phải cố gắng. Còn Thầy thì Thầy đem hết lực của mình ra giúp mấy con. Chứ biết người sau người ta có lo lắng nữa không ?
(1:48:30) Vậy thì các con phải cố gắng. Thầy đi thì cái thời gian, tìm cái nơi chốn thì chưa có biết được cái thời gian về. Và khi về Thầy thấy các con được. Bởi vì cô còn cái thời gian tu tập những cái khó hơn nữa, tại vì phải lo cho các con.
Do đó cho nên Thầy chỉ mong các con nỗ lực. Chứ còn bây giờ Thầy đang lo. Không lẽ chúng ta tu như thế này, cuối cùng thì… Cho nên không được, phải nỗ lực hết sức để cho cái kết quả. Phải làm chủ thật sự để nói lên được cái tiếng nói của chúng ta .
Vừa rồi thì Minh Tông có báo cho Thầy là từ lâu tới giờ con đã tu sai. Không theo cái ý muốn của Thầy. Thầy cũng không có bắt buộc. Do đó bây giờ con sửa lại. Con thấy con làm chủ được cái ngủ của mình. Cho nên cái sức tỉnh thức
Đó là do cái gom tâm.
(1:50:08) Đó, có thể nó kéo dài. Thời gian của con nó có thể kéo dài, bốn tiếng đồng hồ. Chứ còn nếu trong một tiếng đồng hồ, nó vắng lặng. Thầy nói bốn tiếng đồng hồ coi vậy chứ nó còn rảnh rang. Do đó không nên, chỉ nên có một tiếng đồng hồ để làm chủ để tập luyện cho cái đạo lực cho thật vững vàng.
Chứ còn nếu mà kéo dài bốn tiếng đồng hồ thì thọ. Bây giờ chỉ giữ trong một tiếng đồng hồ. Cho nên kết quả trong một tiếng đồng hồ, nó rất rõ ràng và tiến bộ, mỗi lần sâu hơn. Và mỗi lần gom tâm nó nhanh hơn. Thay vì, trước kia năm phút nó mới hết. Bây giờ, nó càng ngày nó tăng, nó tăng ngược lên cái chiều ngược chứ không theo cái chiều dài nữa.
Nó tăng lên như vậy tức là, cho nên, còn mình ra lệnh, phải kéo dài cái thời gian để rồi nó mới vắng lặng được cái thời gian. Cho nên phải tu tập cho đúng cách chứ còn không đúng cách các con chỉ kéo dài thời gian. Chúng ta đi ngược lại cái thời gian ngắn, gom cái vô định liền. Còn kéo dài cái thời gian đó lên, kéo dài hai, ba tiếng đồng hồ lê thê đó, cái đó không. Cho nên ở đây, cái gì mà Thầy nói sai đó thì chúng ta bỏ. Cái gì nó đúng thì chúng ta làm. Cô Út nói các con không tin chứ Thầy nói các con tin chứ. Bởi vì Cô Út cô không muốn cho các con ngồi dài. Vì ngồi dài nó sai lệch nhiều, rất khó chữa, chứ không phải. Bởi vì cái say say đó nó làm người ta thích thú. Họ thích thú thì nó lại thiếu đi cái sức làm chủ của mình rồi. Đó là tu cái tưởng lực rồi. Cho nên nó khó.
Cho nên các con phải nghe lời Thầy. Vì cái thời gian các con năm nay, sang năm, cái Tết nữa là các con sẽ hoàn thành. Nếu các con không nghe lời Thầy để kéo dài. Cho nên cố gắng tu tập cho đúng cách thì nó mau. Tu tập không đúng cách thì nó mất thì giờ.
(1:52:15) Đó thì hôm nay thì cơ bản thì chúng ta đã đi qua. Còn cái nước rút thì chúng ta thì không còn khó khăn. Còn các con thấy bây giờ đó, các con cũng có căn bản. Các con có nhiều người bây giờ chưa hết vọng tưởng. Tu chưa hết vọng tưởng đừng nói hết vọng tưởng, nhưng mà tại vì các con tu thiếu nhiệt tâm.
Trong cái thời gian đó, có khi cái sức của mình. Thay vì cái sức của mình có mười phút mà mình tu lại tới mười lăm, hai mươi phút. Thay vì sức của mình có năm phút, mình tu lại nhiều quá. Cho nên mình tu quá.
Đừng nghĩ rằng, sao tui tu ba năm, mà sao tui còn vọng tưởng như vậy. Là tại vì mình, trong cái thời tu của mình không có nhiệt tâm. Cho nên, có vọng tưởng cứ ra vô hoài. Vì vậy mà mình giẫm chân tại chỗ.
Còn nhiệt tâm thì trong cái thời nay mình thấy là, chọn lấy năm phút thì năm phút không vọng tưởng. Mười phút thì mười phút không vọng tưởng. Đem hết cái sức lực ra để tập trung gom tâm của mình thì nó sẽ được.
Và mình cũng biết là cái gốc không vọng tưởng là cái chỗ mà tâm vô lậu. Vì mình còn lậu hoặc rất nhiều cho nên tâm mình còn lộn xộn. Cho nên mình phải qua cái góc độ ức chế tâm. Không vọng tưởng tức ức chế tâm. Các con dùng sức ức chế cho nên nó mới vọng tưởng. Thì mình phải qua cái Định Vô Lậu. Hễ tâm niệm khởi lên trong đầu óc của mình, mau mau mình xả xuống liền. Suốt một năm, hai năm, ba năm, tới chừng còn cái tâm không. Tới chừng đó thì hết vọng tưởng. Còn không xả sạch thì cái vọng tưởng nó sẽ không bao giờ.
Cho nên, vì vậy mà tại sao có người ức chế tâm người ta được? Tức là người ta có xả được. Còn mình ức chế không được, còn vọng tưởng hoài là mình chưa xả. Mà mình chưa xả thì không được.
Đó, thì hôm nay Thầy nhắc nhở như vậy thì các con cố gắng tu tập rèn luyện, đừng có để mất thì giờ. Mang tiếng là đi tu, chẳng hạn thư Thiện Đức bây giờ đi tu. Tới chừng về hai bàn tay không. Trời ơi, mẹ đi tu gì mà tới giờ vẫn y như cũ. Thì như vậy mang tiếng.
(1:54:16) Thà không tu. Mà tu là phải tới nơi tới chốn. Đừng có để mang tiếng đời. Người ta nói mình đi tu mà chẳng ra gì hết, mang tiếng. Cũng như đi học, cuối cùng thì chẳng có đậu cấp bằng nào hết. Học về không tay không như vậy thì nói nghe nó kỳ lắm. Phải nỗ lực như thế nào để, không thể tu mà nó như thế này được. Cho nên phải làm cho được.
Thì các con cứ nghĩ rằng, đừng có để cho người khác khinh bỉ mình, nói mình làm không được. Đó là điều kiện. Cũng như bây giờ cô An Tịnh vào đây tu hành. Rồi giờ về mang cái tâm trạng như vậy. Có cái gì đâu mà gọi là tu hành nữa.
Cho nên tu hành là phải như thế nào chứ? Không lý đi tu rồi rốt cuộc cũng như người chưa tu vậy.
Cho nên trong khi không tu thôi, thà làm người ở ngoài thế gian. Vào đây tu rồi, quyết định là phải đạt được. Bởi vì cuộc đời của Thầy làm một cái gì phải làm cho được. Đó là cái điều kiên quyết, cái người. Đến đây Thầy chấm dứt.
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời lượng: [1:30:00]
Trưởng lão: Mục đích của đạo Phật là chúng ta tu tập làm sao cho hết tham, sân, si, vì tham, sân, si là đau khổ. Các con biết đó là cái chân lý mà đức Phật đã dạy rằng: “Con người khổ là nó là do tham, sân, si”. Do cái tham, sân, si, đó là cái chân lý đầu tiên là Khổ đế. Chúng ta có tham, có sân, có si thì chúng ta mới khổ; chứ không tham, sân, si thì không khổ. Cho nên đạo Phật nhắm vào cái đối tượng đó mà quét cho hết sạch cái đối tượng đó thì chúng ta giải thoát, chớ không phải gì hết. Không phải cầu khẩn ai hết, mà chính thân tâm chúng ta nó bị cái ác pháp đó: Tham, sân, si. Đó là cái chân lý đầu tiên.
Các con đọc cái: Những lời Phật dạy tập IV. Các con thấy Thầy chỉ rất rõ là đức Phật xác định cho chúng ta thấy đây là chúng ta phải Giác Ngộ được cái chân lý, phải hiểu được cái chân lý đó. Thì chúng ta hiểu được cái chân lý: do tham, sân, si chúng ta có khổ. Vì vậy mà làm bằng mọi cách, tu bằng mọi cách phải quét cho sạch tham, sân, si ra. Cho nên thành Phật có nghĩa là không còn tham, sân, si chứ không có gì hết. Đó là cái rõ ràng và cụ thể. Đó là cái chân lý.
Và cái chân lý thứ hai của nó để xác định được cái nguyên nhân sanh ra cái đau khổ đó, là cái lòng ham muốn của chúng ta. Cho nên bây giờ chúng ta đâu phải ngồi thiền, đi kinh hành, hay hoặc này kia. Làm tất cả mọi cái pháp là cái mục đích chúng ta làm sao cho nó hết tham, sân, si chứ không phải là đi kinh hành, ngồi thiền để làm Phật, nó không phải đâu. Tất cả những cái đó đều là tập cho chúng ta tỉnh thức để thấy từng tâm niệm tham, sân, si của chúng ta mà quét nó ra.
Nhiều khi chúng ta có tham, sân, si mà chúng ta không biết. Bởi vì đức Phật nói: “Con người là Vô Minh”, nhiều khi chúng ta đau khổ mà chúng ta không biết. Cũng như bây giờ mấy con được theo Thầy học tập thì mấy con mới thấy rằng cái đó là đau khổ. Thế nhưng mà ngoài đời người ta đâu có biết tham, sân, si là cái đau khổ của họ đâu. Tham là họ tham, sân là họ sân, si là họ si, chớ họ không có hiểu đó là cái khổ. Chính họ đang ở trong cái mê mờ mà họ tưởng đó là cái đời sống. Họ là con người là phải sân, phải giận, phải hờn, phải tham muốn, phải danh, phải lợi.
(02:00) Sự thật ra cái đó là cái đau khổ chớ không phải là cái gì khác. Là chướng quét cho sạch cái này ra. Cho nên hôm nay Thầy muốn nói để cho mấy con biết rằng cái tu của mấy con là nhắm vào cái đối tượng tham, sân, si mà quét ra. Mỗi một tâm niệm là chúng ta phải tìm, phải quan sát kỹ coi cái niệm này nó niệm tham, hay niệm sân hay niệm si. Để mà chúng ta sử dụng cái phương pháp mà Phật đã dạy để quét, đừng có để. Nhất là cái phương pháp Như Lý Tác Ý. Đó là cái phương pháp đập nó ra, quét nó ra, là một cây chổi, là một cái đòn bẩy.
Chúng ta biết rõ ràng là cái đó là cái chân lý thật sự rồi thì phải quét cái chân lý này ra cho khỏi, vì đó là cái chân lý khổ. Khổ đế đó là cái chân lý khổ. Và mỗi tâm niệm của chúng ta mà khởi tham muốn, chúng ta đã biết rằng cái nguyên nhân sanh ra tham, sân, si là do cái lòng ham muốn này. Cho nên mỗi lần mà cái lòng ham muốn khởi muốn điều gì, tham gì thì biết đây là cái nguyên nhân khổ của chúng ta. Là cắt đứt cái lòng ham muốn này. Khi mà tiếp xúc với sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, nó tiếp xúc với nhà cửa, của cải, tiền bạc, danh lợi, ăn uống, giường nằm. Tất cả những cái này nó sẽ sanh ra tham, sân, si và mạn, nghi.
Thí dụ như bây giờ nó tiếp xúc thì cái thân của chúng ta, con mắt của chúng ta. Cái thân của chúng ta nó tiếp xúc với giường nằm thì nó sanh ra lười biếng, buồn ngủ. Mà nó tiếp xúc cái vật gì, nó cái món ăn thì nó sanh ra muốn ăn, thèm ăn thì đó là nó sanh. Từ cái xúc chạm đó nó sanh ra cái dục. Từ cái dục đó nó sanh ra cái tham, sân, si. Các con thấy cái nguyên nhân nó rõ ràng nó đưa ra từng chút, từng chút, từng chút. Như vậy chúng ta là một cái người tu là chúng ta lưu ý tất cả những cái sự tiếp xúc này và chúng ta diệt nó đi. Cho nên gọi là năm dục trưởng dưỡng, năm cái điều kiện mà nó sanh ra cái dục lớn.
(03:55) Mắt nó thấy sắc, nó thấy cái vật đó cái nó khởi lên đẹp, nó thích thì đó là nó tăng trưởng cái lòng ham muốn ra. Thí dụ như bây giờ nó thấy cái ly nước này ngon, nó sanh ra cái dục. Do đó, từ nó thấy rồi nó thèm, tức là nó dục. Nó tăng trưởng cái dục gọi là năm dục trưởng dưỡng, nó làm cho cái lòng ham muốn lớn. Mà từ cái lòng ham muốn lớn lên thì tham, sân, si nó sẽ thực hiện ác pháp đó, nó đưa đến sự đau khổ.
Cho nên là khi mà chúng ta tu tập hiểu biết rồi thì các con tập đi là đi kinh hành, tức là tập tỉnh thức. Không phải tỉnh thức để mà chúng ta chỉ có biết cái hành động đó để mà không có niệm trong đầu chúng ta. Không có khởi một niệm trong đầu chúng ta, chúng ta đạt được kết quả, không phải đâu, không phải điều đó.
Khi chúng ta đi, chúng ta nhiếp tâm như vậy để chúng ta tỉnh thức được ở trong thân hành của chúng ta. Khi mà tỉnh thức thì nó không có niệm khởi. Nhưng mà không phải vậy đâu, để mà chúng ta đạt được kết quả. Mà chính nó không khởi niệm để chúng ta trú vào chỗ đó. Trú vào cái chỗ mà không niệm đó, mà chúng ta bật cái tham, sân, si chúng ta ra, bật cái lòng ham muốn chúng ta ra. Cái mục đích của nó là nhắm vào cái đối tượng làm cho chúng ta đau khổ, mà chúng ta quét ra. Cho nên trong cái sự tu tập thì các con lưu ý cái phần nhiều nhất. Khi đi kinh hành là chúng ta biết chúng ta đi, đi cách tự nhiên, đừng có gò bó.
Do cái chỗ mấy con mỏi cổ nè, mấy con nặng đầu hoặc là mấy con mỏi chân. Tất cả mọi cái đó đều là do mấy con tu không có đúng cách. Không có đúng cách cho nên nó mới có hiện tượng như vậy. Chứ còn tu đúng cách thì không có bao giờ có. Bởi vì mấy con cứ cố gắng, mấy con tập trung, mấy con giữ cái đầu của mình. Cứ đi hoài, đi hoài, mà cứ tập trung, cái cần cổ mấy con đưa qua đưa lại thì nó sẽ bị mỏi vai, mỏi cổ. Còn mình đi như người vô sự. Nhưng mà mọi tâm niệm của mình, mọi cái sự mà làm cho mình bị dao động. Nhìn ra ngoài, suy tư cái này cái kia thì mình dừng lại: “Đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”.
(05:59) Cho nên các con thấy mình đi 10 bước thì mình nhắc: “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi” để nó không quên mình đi kinh hành. Còn nếu mình đi một cách tự nhiên mà mình không nhắc nó thì mình quên. Còn mình tập trung nhiều thì bị mỏi cổ và bị căng đầu. Các con không nên tập trung nhiều đâu. Mình đi nhưng mà mình đi. Thay vì thí dụ như tại sao mình lại đếm? Tại vì mình không căn cứ được cái khoảng thời gian mình đi. Cũng như đây từ ở vách này mà đi lại đằng kia là 10 bước rồi. Mình biết từ đây tới đó là 10 bước. Thì sau đó mình cứ từ đầu này đến đầu kia mình đừng đếm. Mình đi, mình để tự nhiên.
Mới đầu mình đếm, mình biết được cái khoảng không gian mình đi. Tức là cái khoảng không gian trải dài từ cái vách này đi đến vách đó là 10 bước. Mình đếm là đúng 10 bước. Hoặc là từ vách này đi đến nửa cái phòng này là 10 bước thì mình biết đó là 10 bước. Sau khi mình đếm đúng rồi, để mình căn cứ được cái không gian của nó mình đi. Thì lúc bấy giờ đó mình không đếm nữa. Mình cứ đi từ đây, mình bước cho tới đó là chắc chắn là 10 bước. Không ấy nó có dài hơn một chút thì nó là 11 bước. Mà nó có ngắn hơn một chút thì nó 9 bước, chứ nó không thể nào 12, 13, 14 được đâu. Bởi vì mình đi bình thường mà. Do đó các con tập cách mình đi kinh hành, đi bình thường đừng quá tập trung.
Thì các con thấy một cái người mà người ta đi bộ. Bình thường người ta đi cả một, hai cây số, người ta cũng đâu có đau cổ, đau mỏi. Tại vì mình cứ mình gập xuống vầy cho nên nó ngước, nó mới đau cái cổ của mình. Mình không có cho cái đầu của mình lúc lắc. Mình cứ nhìn dưới bước chân đi, rồi tập trung thôi, cho nên nó mới xảy ra cái điều đó. Đó là hôm nay đi ở đây Chánh Niệm Tĩnh Giác, tức là mình đi trên cái Chánh Niệm mình. Nhờ cái mình biết cái khoảng thời gian, hoặc cái khoảng không gian mình đang đi nó là 10 bước. Cho nên đúng là 10 bước thì mình nhắc nó một lần, làm sao nó quên được? Nó không có quên. “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành” rồi mình đi. Đi tới đúng cái khoảng cái không gian mình đi, tức là cái đường dài mình đi đó, tới đó mình biết. Mình độ chừng nó là mười bước, cho nên mình.
(08:00) Còn cái đếm, nó còn bắt buộc mấy con phải tập trung 1,2,3,4. Bị vì mình phát ra cái âm mình đếm, buộc cái lòng, cái tâm của mình, mình phải nhớ cái bước đi của mình đếm. Thì nó lại còn bận tâm mình trên cái chỗ tập trung đó nữa. Cho nên mất tự nhiên mấy con, đếm mà mất tự nhiên. Nhưng mà mình muốn tu tập, đầu tiên mình phải căn cứ được cái khoảng đường đi của mình. Để cho mình cái thời gian, cái khoảng đó, mình phải nhắc. Cái thời gian đó mình phải nhắc. Thí dụ như con đi từ cái vách này mà cho đến vách kia là 10 bước, phải không? Thì đi đến 10 bước đó rồi, thì các con biết rằng như vậy các con sau này các con đếm, các con đi tự nhiên, tới đó các con nhớ đếm.
Cứ mình đi thanh thản. Ví dụ như Thầy đi từ đây tới vách đó, Thầy tác ý. Thầy nói: “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”. Tức là mình nhắc mình cho mình đừng có quên. Thì bắt đầu từ đó mình đi lại đây thì nó tiếp tục nó không quên đâu. Do đó nó đi tới đầu này. Đi tới đầu này rồi cái thì mình nhắc nữa, cái mình đi trở lại, khi đó mình không còn đếm nữa. Thì các con thấy nó dễ dàng lắm, mà nó rất tập trung. Còn mình cứ đếm hoài đó thì nó bắt mình phải tập trung. Tập trung bận tâm, phải đếm. Đếm 1, 2, 3, 4, nó làm cho mình không tự nhiên lắm đâu.
Cho nên khi lần đầu tiên thì mình đếm. Mình đếm rồi, mình căn cứ vào cái khoảng không gian, cái đường dài của mình đi đó. Mình biết cái thời gian mà mình đi như vậy đó, thì đúng lúc đó mình nhắc là nó sẽ không quên. Bây giờ mình nhắc 10 bước, mà rồi mình thấy mình quên. Thí dụ như đây từ đó nó đi, mình nhắc 10 bước vậy, mà rồi mình nhắc một lần đầu thì nó chầm chậm nó thấy tự nhiên, nó bước đi tự nhiên. Nhưng mà cái lần thứ hai, tới lần thứ ba cái bắt đầu nó có niệm xen vô đó rồi. Như vậy là 10 bước chưa đủ. Nó còn xen niệm, tức là nó quên. Nó quên nó nhớ nghĩ, do đó mình thụt lại 5 bước thôi. Thì thay vì từ đây tới đó là 10 bước thì mình sẽ đi phân nửa cái đoạn đường này thôi. Thì chừng 5 bước thì mình nhắc. Thì chắc chắn là khi cái khoảng mà từ đây đến đây thì nó vừa với cái sức của mình tự nhiên, không bị gò bó. Còn mình ráng nữa tức là bị ức chế, gò bó.
(10:14) Các con hiểu Thầy nói. Do đó mấy con đi khoảng độ nửa cái phòng này thôi thì mấy con đứng lại, mấy con tác ý: “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”. Rồi các con tiếp tục, các con đi tới nữa. Tới cái đầu kia thì nó chỉ có 5 bước chớ gì? Hồi đó mình 10, mà bây giờ mình chia nó làm 2 đoạn rồi, có thể mình nhắc lần nữa. Và khi nhắc như vậy thì mình cũng đi tự nhiên chớ không phải cố gắng tập trung để cho nó hoàn toàn đâu, hoàn toàn nó không vọng tưởng đâu. Đó, thì do như vậy, mình cứ đi tới đi lui như vậy thì mình biết cái khoảng thời gian 5 bước của mình thì hoàn toàn nó không có một cái niệm nào. Mà nếu mà đi khoảng 10 phút thì nó hoàn toàn không có gì hết, nhưng mà đi lên 20 phút, 30 phút có. Thì lúc bấy giờ mình thấy rằng cái khoảng thời gian 5 bước đi mà nó có tác ý như vậy, nó vẫn còn quên, nó vẫn còn bị phóng dật, phóng niệm ra.
Do đó mình câu hữu với một cái pháp khác. Mình vừa đi mình vừa câu hữu với pháp khác. Ví dụ như câu hữu Định Vô Lậu. Mình đi vậy chừng 3 bước là nó khởi ra, thì lúc bấy giờ đó mình không còn ở trên cái định, cái kinh hành nữa. Mà mình vừa đi, mà đưa cái đề tài đó trở ra thành một cái đề tài của Định Vô Lậu, quán xét về cái niệm đó. Cho nên đi kết hợp để làm sao mà cho từng tất cả cái niệm đó nó sẽ không còn xảy ra trong thân, bước đi của mình nữa. Trong cái không gian, cái đường dài mình đi đó, nó không có một cái niệm nào xen vô được, thì đó là kết quả đầu tiên của Chánh Niệm Tĩnh Giác.
Các con hiểu, mình đi rất tự nhiên, đi như người vô sự. Đi như người, như đi nhàn du vậy thôi. Chớ không phải là đi mà ghìm, giữ gìn để tập trung cho nó dưới bước đi mình. Cho từng mỗi bước đi đều là nó chắc chắn, nghĩa là đừng có lỗi. Nhưng mà không phải đâu. Đi mình cũng có cảm nhận biết bước đi của mình rất là tự nhiên thôi, phải hông? Nhưng mà vì mình đi có khoảng có 5 bước, mình đứng lại mình nhắc một lần. Mình nhắc rằng: “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”. Rồi mình bước đi với, mình ngó ra ngoài rất là tự nhiên. Mình đừng có ngó xuống như thế này, vì ngó xuống tập trung.
(12:21) Đây Thầy nói cái sai của mấy con chưa làm, các con ngồi thiền các con cũng bị sai. Khi mà ngồi thì mấy con cố gắng tập trung. Tập trung cho đến khi mà cái đầu của mấy con cúi xuống vậy. Đó là nó gom lại, nó rút cái đầu của mấy con cúi xuống. Cái tướng ngồi mà cái đầu cúi xuống như vậy là xấu lắm, đó là những cái tướng ngồi. Và cái sự tập trung mà gom như vậy nó tạo thành cái xúc tưởng hỷ lạc. Nó làm cho mấy con có cái cảm giác an lạc, nó nguy hiểm. Bởi vì đức Phật dạy chúng ta trong thân chúng ta, trong thân tâm chúng ta có ba cái cảm thọ: thọ lạc, thọ khổ, và thọ bất lạc bất khổ.
Ba cái thọ này đức Phật không chấp nhận cái thọ nào hết. Cho nên vì vậy mà khi ôm pháp, là chúng ta ôm pháp chớ không phải chấp nhận cái chỗ mà thọ bất lạc bất khổ. Chúng ta xét, bây giờ thân chúng ta không đau nhức chỗ nào thì nó bất lạc bất khổ. Mà bây giờ nó không có nghe nó mát mẻ; nó không có nghe thoải mái; nó không nghe dễ chịu; nó không nghe khinh an gì thì nó tự nhiên của nó. Cho nên nó ở chỗ bất lạc bất thọ khổ. Nhưng mà chúng ta không phải chấp nhận ở cái chỗ này gọi là đúng, mà chúng ta chấp nhận pháp chúng ta đang làm.
Cái mục đích của đạo Phật nói ra ba cái thọ, không có chấp nhận ba cái thọ là mục đích đức Phật muốn dạy chúng ta phải ở cái chỗ, tâm chúng ta ở chỗ nào? Ở chỗ cái pháp đang tu, chớ không phải ở trên các cảm thọ. Còn mình thì mình kẹt. Bây giờ tôi nhìn đây nè, thì thường mấy con hiểu qua cái chỗ mà Thầy nói: tu tập Tứ Niệm Xứ vì ở chỗ tâm thanh thản, an lạc, vô sự. Bị vì mình thấy thân mình nó không có chướng ngại gì hết, tức là nó an lạc. Mà tâm nó không có một niệm nào khởi ra thì nó là thanh thản. Và mình thì cũng không có nghĩ ngợi, lo lắng hay hoặc là làm công việc gì hết. Thân và tâm không có đau, không có làm gì, đó là vô sự. (14:08) Đó là cái trạng thái vô sự của nó. Đó là cái trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự của Tứ Niệm Xứ.
Nhưng lúc bấy giờ nó như vậy thì nó sẽ không thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ, nó không có lạc khổ trong đó. Cái trạng thái đó, nhưng mà không khéo chúng ta sẽ, thấy ờ như vậy là đúng. Nhưng mà không phải đâu, chúng ta đang ở trong Tứ Niệm Xứ. Tức là chúng ta đang ở chỗ quán xét của Tứ Niệm Xứ. Cho nên đức Phật nói: “Trên thân quán thân, trên tâm quán tâm, trên thọ quán thọ”. Mình quán xét nó, coi nó có cái thọ nào. Cho nên thường tu Tứ Niệm Xứ nó vẫn thanh thản, an lạc, vô sự. Nhưng mà lưu ý chỗ, bốn chỗ thân thọ tâm pháp. Mỗi lần nó khởi ra một cái gì, tức là tỉnh thức ngay liền ở trên đó là nó xảy ra. Ngay liền một cái niệm vừa nhóm khởi là chúng ta đã biết ở trong tâm chúng ta vừa nhóm khởi.
Tứ Niệm Xứ là phải quan sát thân thọ tâm pháp. Cho nên nghe cái câu Tứ Niệm Xứ đức Phật dạy: “Trên thân quán thân” tức là quan sát thân đó. Lúc nào cũng phải để ý quan sát thân. Lúc nào cũng phải để ý quan sát coi các cảm thọ, thọ sanh trên tâm và thọ sanh trên thân. Rồi lúc nào cũng quan sát cái tâm của chúng ta, lúc nào cũng quan sát các pháp. Đó là chỗ tu Tứ Niệm Xứ. Nhưng mà tu Tứ Niệm Xứ là cái sức tỉnh chúng ta phải có rồi. Chưa có thì chúng ta không có tỉnh được đâu. Không có tỉnh thì tức là mình mê. Mê thì nó mới có những sự kiện nó khác xả ra. Còn tỉnh đến cái mức độ mà một niệm vừa nhóm là chúng ta đã thấy tức thì. Chớ không phải nó lôi mình được một đoạn, suy tư được một lúc trực nhớ ra thì đó là mình mê.
Cho nên khi mà chúng ta tu tập Chánh Niệm Tĩnh Giác là tu như Thầy nói. Rồi mấy con sẽ thấy cái sức tỉnh giác của các con ghê gớm. Tu đúng. Còn mấy con tu sai thì ức chế. Ức chế thì mấy con bị rớt trong tưởng. Mà rớt trong tưởng thì nó không còn cách nào. Nó có 4 giai đoạn: Cái tỉnh thức thứ nhất là mấy con đi, rồi mấy con tác ý: “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”. Đó là giai đoạn tỉnh thức thứ nhất. Cái giai đoạn tỉnh thức thứ hai là mấy con kết hợp với hơi thở, đó là giai đoạn thứ hai. Rồi khi mà các con ngồi xuống thì cái hành động kế tiếp các con ngồi xuống. Đứng lên ngồi xuống, với hơi thở là tập giai đoạn tỉnh thức thứ ba. Suốt thời gian thí dụ như đi 20 bước hoặc là 10 bước rồi ngồi xuống tác ý hơi thở. Hít thở 5 hơi thở rồi đứng dậy đi. Đó là giai đoạn tỉnh thức thứ ba, cái sức tỉnh thức cao lắm.
(16:30) Còn này các con tu tập hơi cái lười biếng. Tu tập hơi thì coi như là đi quá sức mình mỏi chân. Hoặc là tu tập để cho từ cái niệm này, niệm kia nó chen vô. Giai đoạn thứ nhất mà mấy con chưa tỉnh thức thì giai đoạn thứ hai mấy con tu không kết quả. Mấy con tu nhanh lắm. Thành ra Thầy biết tu nhanh. Tu phải xem lại cái kết quả. Lấy kết quả của tỉnh thức thứ nhất để mà áp dụng vào tỉnh thức thứ hai. Nghĩa là bây giờ chúng ta đi kinh hành như vậy suốt 30 phút đồng hồ. Mà khoảng 10 bước chúng ta tác ý một lần. Suốt cái thời gian chúng ta thấy rất là tự nhiên, không có ức chế, không có gò bó.
Cố gắng tập trung để cho nó đừng có niệm mà rất tự nhiên. Rất tỉnh thức một cách rất tự nhiên thì đó là kết quả đầu tiên chúng ta. Sức tỉnh thức của chúng ta đầu tiên thì chúng ta kết hợp vô hơi thở. Cho nên khi mà đứng lại thì chúng ta lại thở 5 hơi thở. 5 hơi thở, rồi chúng ta tiếp tục. Rồi đúng 10 bước chúng ta đứng lại, chúng ta hít thở 5 hơi. Còn nếu mà chúng ta thấy cái khả năng chúng ta được 20 bước thì chúng ta đứng lại hít thở. Thì lúc bấy giờ chúng ta đúng 20 bước chúng ta đứng lại.
Thì đầu tiên một cái người nào mà tu theo đạo Phật thì Chánh Niệm Tĩnh Giác phải là cái pháp đầu tiên. Tức là đi kinh hành, không được ngồi. Bởi vì chúng ta biết tham, sân, si; cái si là cái trạng thái lười biếng, hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không, hôn tịch. Cái trạng thái này nó làm chúng ta mê mờ. Người ta không sợ tâm tham; người ta không sợ tâm sân; người ta không sợ ngã mạn; người ta không sợ tâm nghi của chúng ta; mà người ta rất sợ tâm si.
Bởi vì si nó làm chúng ta mê mờ, nó làm chúng ta mờ mịt không có thấy. Cho nên mình không thấy được cái tâm tham của mình vì vậy mình tham. Mình không thấy được tâm sân cho nên mình sân. Mình không thấy cái tâm nghi của mình thì mình nghi. Mình không thấy cái ngã mạn của mình cho nên mình mới ngã mạn. Chứ còn mình thấy biết thì mình đâu còn sợ. Cho nên vì cái tâm si đó mà làm cho chúng ta không hiểu, làm chúng ta không biết. Cho nên chúng ta phải tu tập Chánh Niệm Tĩnh Giác là đi kinh hành. Là mục đích chúng ta chỉ phá tâm si.
(18:37) Người nào siêng năng tu tập đúng, đừng ức chế thì người đó hoàn toàn sẽ căn bản và đạt được kết quả là quét sạch tâm si. Bởi vì cái tâm si là cái tâm rất là quan trọng quan trọng mà hầu hết chúng ta ăn ngày một bữa không khó mà chúng ta đánh phá với cái hôn trầm, thùy miên, cái ngủ là quá khó. Cho nên khi mà mấy con ngồi thiền, mấy con tu ngồi nhiều này kia, mấy con sẽ lạc vào định tưởng, mấy con sẽ nguy hiểm vô cùng. Mà chỉ có mấy con đi kinh hành là tốt nhất. Đi sao cho đúng, mà đi trật thì mấy con sẽ bị lầm lạc.
Từ cái chính Chánh Niệm Tĩnh Giác nó có bốn cái sức tĩnh giác. Như trong kinh Phật có nói 4 sức tỉnh giác: tỉnh giác thứ nhất thì mình phải biết cái pháp nào tu tập tỉnh giác thứ nhất, pháp nào tu tập tỉnh giác thứ hai, cái pháp nào tu tập tỉnh giác thứ ba, rồi cái pháp nào tu tập tỉnh giác thứ tư. Các con thấy cái pháp tỉnh giác thứ tư nó tạo cho mấy con đủ Tứ Thần Túc. Mấy con thấy, nội sức tỉnh thức không mà nó tạo thành Tứ Thần Túc, tức là pháp Thân Hành Niệm. Nên mấy con đọc cái bài kinh pháp Thân Hành Niệm, mấy con thấy đức Phật xác định được nó có bốn Như Lai Lực. Nó có 7 cái năng lực của giác chi, rồi nó có Tứ Thần Túc.
Thì như vậy rõ ràng là cái pháp tỉnh thức cuối cùng của nó để mà thực hiện cho được cái đạo Giải Thoát thì phải có cái sự tỉnh thức, chứ có cái gì khác hơn hết. Nhưng mà mình cứ nghĩ rằng phải ngồi nhiều hoặc thế này kia, phải nhập định mới tỉnh, không phải đâu. Vọng niệm nhiều. Cho nên do cái sự đi kinh hành càng nhiều con càng tốt, mà đi đúng cách. Chứ còn đi không đúng cách mấy con cũng không tỉnh thức. Vì mấy con chưa có ở cái lớp tỉnh thức căn bản mà mấy con lại nhào qua cái lớp tỉnh thức khác. Cho nên do đó từ cái sức Tỉnh thức căn bản nó chưa đạt được thì mấy con lại tăng cái lớp tỉnh thức khác.
(20:37) Thí dụ như các con đi kinh hành 10 bước rồi đứng lại, tác ý: “Tôi đi kinh hành”. Cái pháp đầu tiên chưa xong thì mấy con lại kết hợp với hơi thở rồi. Rồi mấy con kết hợp với hơi thở để mà mấy con luyện được cái nghị lực, thì mấy con lại ngồi lên ngồi xuống đó là sự tỉnh thức thứ ba. Nhưng mà vì nó muốn rèn luyện nghị lực, cho nên nó mới thấy. Thí dụ như mấy con đến đây mà Thầy dạy ngay liền đó, mà Thầy muốn rèn luyện cái nghị lực của mấy con. Chứ chưa phải là tập nói về sức tỉnh thức thứ ba của nó đâu. Nghĩa là bắt buộc mấy con đứng lên ngồi xuống, đứng lên ngồi xuống vậy cho mấy con ngán. Mấy con có bền chí không? Có rèn luyện được cái nghị lực đó? Đó là Thầy muốn rèn luyện nghị lực mà lấy cái giai đoạn tỉnh thức thứ ba. Chứ không phải là tu tập tỉnh thức, như vậy là cái giai đoạn đầu tiên.
Còn ở đây Thầy muốn nói để cho mấy con biết rằng khi mà mình tu tập theo đạo Phật là phải có đủ sức tỉnh thức, bốn giai đoạn tỉnh thức của nó. Vậy thì cái giai đoạn tỉnh thức thứ nhất chúng ta phải làm cho nốt. Ở đây, từ đây về sau chúng ta là những người tu phải đi từ cái căn bản, cái lớp đầu tiên. Cũng như bây giờ chúng ta muốn Chánh Kiến mà chúng ta không có cái sức tỉnh thức thì làm sao chúng ta biết là Chánh Kiến.
Cho nên cái lớp đầu tiên mà chúng ta tu tập để mà học cái lớp Chánh Kiến, thì buộc lòng cái người đầu tiên, cái người mà vào học cái lớp đầu tiên này thì họ phải đi kinh hành. Đi kinh hành như Thầy nói. Đi 10 bước hoặc 20 bước rồi đứng lại tác ý một lần, tùy theo cái sức tỉnh thức của họ, trên cái bước đi của họ. Nếu họ tỉnh thức được 20 bước thì họ tác ý một lần; nếu họ tỉnh thức được 10 bước thì tác ý một lần; nếu họ tỉnh thức 5 bước thì tác ý một lần. Còn tệ nữa, Thầy nói tệ nữa, những người này là quá loạn tưởng. Cứ đi 3 bước, 2 bước là đã có niệm khởi, đi 2 bước, 3 bước có niệm khởi. Thì mỗi mỗi bước đi là mỗi tác ý, mỗi bước đi là mình tác ý. Đó là Thầy nói tệ, rất tệ.
Còn 5 bước rồi tác ý một lần khác một chút; rồi 10 bước tác ý một lần khác một chút; rồi 20 bước tác ý một lần. Tu tập Tỉnh thức rồi, tu tập rất kỹ để khi đó người ta hướng dẫn cho các con những cái bài học Đạo đức Nhân bản Nhân quả. Khi đó mấy con sẽ thông suốt được cái lý của nhân quả rồi, thì cái sức tỉnh thức đó, nó giúp mấy con nhìn tất cả các sự việc nó là nhân quả thật, như thật. Làm mấy con không có cái ác pháp. Không có cái ác pháp nào tác động vào trong tâm mấy con được. Làm cho mấy con đã trọn niềm tin do cái sự tỉnh thức. Các con thấy không? Cái phương pháp để mà tu tập, nó áp dụng vào cái đời sống của mấy con bằng cái nhìn của mấy con, bằng nhân quả. Thì cái bài học của mấy con, để cho mấy con thấm nhuần được cái lý nhân quả thì mấy con phải học chứ sao? Phải học đạo đức nhân quả chớ gì?
(23:24) Mà áp dụng vào cái sức tỉnh thức của mấy con thì mấy con mới thấy mọi sự việc xảy ra nó trong Chánh Kiến. Có đúng cái lớp đầu tiên mấy con học, nó đem lợi ích cho mấy con liền tức khắc. Các con thấy không? Lớp đó là cái giáo trình, cái sườn đồ của cái giáo trình của cái lớp này mà Thầy muốn nói.
Bây giờ mấy con về đây. Thật sự ra từ lâu tới giờ Thầy chưa có muốn soạn thảo giáo trình là vì Thầy còn đang viết những cái bộ sách rất cần thiết. Để có những cái sách đó người ta mới đọc, người ta mới hiểu đó là con đường của đạo Phật. Còn bắt đầu bây giờ mà Thầy dạy ngay, người ta nói Thầy chế ra pháp Thầy dạy chứ không phải là của Phật. Còn bây giờ mấy con đọc được sách như Những lời Phật dạy, Văn hóa truyền thống, tức là giới: 10 giới đức Thánh Sa Di. Rồi Giới đức Thánh Tăng, Thánh Ni, rồi tất cả những cái sách mà con được đọc. Rồi những Đạo đức làm người, mấy con được đọc rồi thì các con thấy đây là con đường của đạo Phật, chớ không phải là có cái gì khác. Thầy chỉ là người có công dựng lại những cái gì của đạo Phật đã mất.
Đạo như thế nào các con biết? Thầy không đủ cái niềm tin cho mấy con tin rằng Thầy sẽ dạy mấy con đúng. Cho nên vì vậy mà những kinh sách của Phật, Thầy đã dựng lại để làm cho mấy con có niềm tin. Bởi vì hiện giờ mấy con theo đạo Phật là tức là mấy con tin, chỉ là một cái người duy nhất đem lại sự thật. Đưa ra bốn cái chân lý, làm sống lại bốn cái chân lý mà của con người. Vì con người, người nào đã sinh ra đều có bốn chân lý hết, chứ không có người nào không có. Nhưng đức Phật là người vạch ra chứ không phải đức Phật dựng lên bốn cái chân lý. Đức Phật không có sáng tạo ra bốn cái chân lý đó. Mà con người chúng ta đều là có bốn cái chân lý đó: Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
Đức Phật chỉ vạch ra cho chúng ta hiểu thôi. Để chúng ta biết là chúng ta là những người mang bốn cái chân lý đó. Đức Phật là người dựng lại cái của chúng ta có, làm chúng ta hiểu thôi. Chứ ông Phật cũng không có cái gì mới, không có gì lạ hết. Còn Thầy thì dựng lại cái sự thật, chứ còn thật sự Thầy cũng chẳng có gì. Thầy cũng chẳng có gì cái gì mới, chẳng có cái gì của Thầy hết. Mà đây, đức Phật là người đã đưa ra cái này, làm chúng ta hiểu cái này là cái của chúng ta từ lâu. Và đồng thời từ đó nó sẽ bị chìm mất dưới các pháp của ngoại đạo, nó làm chúng ta không biết. Bây giờ Thầy mới dựng cái đó lại, của Phật lại, để cho mấy con thấy. Và từ đó cái lòng tin của mấy con tin sâu, tin sâu hơn. Mấy con mới ráng mấy con nỗ lực tu tập, để làm sao cho cái tâm mấy con bớt tham, sân si đi. Và khi tâm bớt tham, sân, si thì mấy con thoát khổ, chứ không có gì hết.
(25:56) Khi mình không tu học thì mình phải hiểu. Chứ còn mình không hiểu, tự mình, mình phí bỏ uổng một cái đời của mình. Mình vào tu, nhưng mà cái kết quả cuối cùng mình chẳng làm được gì hết. Rồi đồng thời mình chỉ cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa với một cái hình dáng của một người tu. Cũng như với một cái người cư sĩ như con bỏ gia đình vào đây tu, nhưng mà rốt cuộc rồi mấy con mang được những gì lợi ích cho mấy con. Khi mà mấy con không biết cái mục đích của mấy con phải tu tập để đạt được gì?Và hiện giờ mấy con phải đối phó với cái gì để mà đem lại cái sự hạnh phúc cho mấy con chân thật?
Cho nên đạo Phật dạy chúng ta gọi là Giác Ngộ. Có nghĩa là hiểu biết rõ như thật gọi là Giác Ngộ. Hiểu biết rõ như thật là chúng ta khổ vì tham, sân, si. Rồi cái nguyên nhân sanh ra tham, sân, si đó là cái lòng ham muốn của chúng ta. Chúng ta phải biết những cái này là cái đối tượng chúng ta cần phải dẹp, cần phải bỏ.
Vậy thì những cái pháp mà làm chúng ta để dẹp bỏ cái này, thì đức Phật đã vạch ra từng bước một: Lớp Chánh Kiến phải tu học cái gì? Thì đương nhiên mấy con đang ở trên cái lớp mà học Chánh Kiến.
Bây giờ coi như là Thầy hướng dẫn cho mấy con vào căn bản rồi. Nhưng tiếc vì các con thấy, cái bộ sách Đạo Đức Nhân Bản Nhân Quả Làm Người thì nó chưa có thành hình. Nó mới có một, hai tập. Nó mới có một, hai cái bộ giới luật. Thành ra cái sự hiểu biết của cái lớp học này, nó chưa đủ sách vở cho mấy con hiểu biết, các con thấy chưa? Cho nên Thầy cố gắng, Thầy viết làm sao cho cái bộ sách đạo đức và những cái bộ Giới luật của Phật nó ra đời.
Tức là nó nói đến những cái hành động đó là cái hành động nhân quả thiện ác của nó. Để các con biết cái bộ đạo đức, nó nói đó là cái hành động đạo đức. Còn những cái hành động mà thiếu đạo đức, nó làm cho chúng ta biết đó là cái hành động không đạo đức. Để chúng ta biết như vậy, để chúng ta hiểu như vậy, để giúp chúng ta tu tập cái sức tỉnh thức đó. Áp dụng vào cái chỗ hiểu biết này thì chúng ta có cái nhìn cuộc đời chúng ta bằng Chánh Kiến, chứ không phải bằng tà kiến. Giúp chúng ta giải thoát hoàn toàn.
(28:02) Rồi từ đó chúng ta bước vào, Phật dạy chúng ta từ cái suy nghĩ, đó là bắt đầu nó qua cái cái lớp Định Vô Lậu. Nó buộc lòng chúng ta phải tư duy suy nghĩ, phải triển khai cái tri kiến của chúng ta. Làm chúng ta có sự suy nghĩ Chánh Tư Duy. Tức là suy nghĩ chân chánh, không còn suy nghĩ cái sai lệch nữa. Mỗi một cái sự suy nghĩ, làm một cái công việc gì đều là ở trong cái Chánh Tư Duy của chúng ta, chớ không còn có cái tà tư duy.
Nhiều khi chúng ta suy nghĩ để làm ra tiền, nhưng mà trong đó cái ác có. Nó làm chúng ta khổ mà làm cho người khác khổ nữa, chớ không phải riêng chúng ta đâu, nó là ác. Cho nên từ cái lớp Chánh Kiến mà chúng ta hiểu được cái đạo đức rồi thì qua cái lớp Chánh Tư Duy chúng ta dễ dàng. Bởi vì tư duy ở trên cái nhân quả chứ không phải tư duy ngoài cái nhân quả. Đó là chúng ta tiến tới. Và đồng thời đến khi các con thấy cái lớp Chánh Tư Duy rồi thì phải Chánh Ngữ.
Bắt đầu đây bây giờ nó mới ra hành động từ tâm thật trong ý của chúng ta. Từ cái nhìn nó không nói ra mà nó đã hóa giải được ác pháp, tức là Chánh Kiến mấy con. Nhờ cái sức tỉnh thức, chúng ta mới tư duy, làm chúng ta mới hiểu biết từng chút, từng chút. Từng cái mảng trong cuộc đời của mỗi người và chính bản thân chúng ta. Nó như thế nào là hạnh phúc? Nó như thế nào là không hạnh phúc? Như thế nào là thiện? Như thế nào là không thiện? Bởi vì khi tư duy ra rồi thì chúng ta mới nói ra lời nói, mà cái lời nói nếu mà không khéo thì cái lời nói chúng ta nó thô lỗ. Buộc lòng chúng ta phải học cái lớp Chánh Ngữ.
Các con thấy, đức Phật, đạo Phật đã dạy chúng ta từ cái nhìn tới suy nghĩ, tới cái lời nói, có phải không? Từng cái bước của nó mà. Tới cái Chánh Nghiệp. Mấy con thấy cái Chánh Nghiệp, tức là cái hành động thân chúng ta làm ra. Cái ngôn ngữ chúng ta êm đềm; chúng ta ôn tồn; chúng ta nhã nhặn; đó là con người chân chánh, đúng đạo Phật. Rồi tới cái hành động tức là Chánh Nghiệp mấy con. Cho nên khi mà chúng ta đã tu tập những cái lớp này xong rồi, thì cái thân mạng của chúng ta, đó là Chánh Mạng. Luôn lúc nào nó rất đẹp đẽ, nó không còn tham, sân, si.
Các con thấy từng cái lớp như vậy nó xây dựng cho chúng ta, nó đào tạo cho chúng ta trở thành con người có đạo đức hẳn hòi đàng hoàng, giải thoát hoàn toàn không còn tham, sân, si. Các con thấy đạo Phật nó hay đến cái mức độ như vậy. Thì các con thấy trên cái cuộc đời tu hành mà đã có một cái chương trình giáo dục đào tạo đạo đức như đạo Phật, không phải là. Chỉ có con người chúng ta mới có phước báu rất lớn, mới có một cái người đưa ra một cái chương trình giáo dục như vậy. Thì cho nên mấy con phải cố gắng tập Chánh Niệm Tỉnh Thức đầu tiên, cái lớp của mấy con đang tập. Bây giờ Thầy chưa đủ sách để mấy con nghiên cứu về Đạo Đức Nhân Quả, Nhân Bản. Thì Thầy cố gắng tiếp tục soạn thảo những cái bài học này để mấy con thấm nhuần được, hiểu biết được. Thì cái sự tỉnh thức này sẽ giúp mấy con không còn hiểu sai, nó có căn bản.
Cho nên hiện giờ mấy con tập tỉnh thức đầu tiên. Bây giờ chúng ta nói là lý thuyết, nó không bằng thực hành. Vì vậy mà hôm rày mấy con tu như thế nào, thì tất cả những cái gì mà Thầy dạy cho mấy đứa các con từ ở ngoài Cam Ranh mấy con vào đây tu tập. Thì mấy con biết rằng ở lứa tuổi mấy con, tuổi trẻ rất ham tu. Nhiều khi mấy con tu, mấy con thấy sao nó lại xuất hiện không muốn tu? Là tại vì cái kết quả của mấy con chưa biết cách. Cho nên mấy con tu nhiều khi nó bị, cần cổ mấy con nó mỏi, hoặc hai vai nó mỏi, hoặc là tất cả những cái đó là đều do mấy con tu sai. Thầy nói chung để mấy con xét lại cái sự tu tập của mấy con, Chứ mấy con sẽ lầm, mấy con sẽ lầm. Mấy con tưởng là mình ngồi là mình sẽ nhập định hoặc là mình ngồi sẽ là giữ được cái tâm thanh thản, an lạc, vô sự. Mình phải thấy được cái trình độ, cái căn bản của mình tu được gì? Cái này cái quan trọng hơn.
(31:56) Hôm nay Thầy trở về đây là vì Thầy muốn dạy cho mấy con rất căn bản trở lại. Những cái điều mà mấy con đã tu tập có những cái kết quả của nó. Mà kết quả đó nó chưa được đúng, thì Thầy sẽ hướng dẫn cho mấy con sẽ tu tập tiến tới kết quả tốt đẹp hơn. Nghĩa là làm sao cho mấy con có từng cái bước đi nó vững chắc ở trên cái sự tu tập, mà không bị phí công của mấy con, không bị uổng công tu tập đó, mà bảo đảm hơn.
Thí dụ như bây giờ có nhiều thầy, có nhiều sư bây giờ có thể tu, hiện giờ chúng ta đang tu Tứ Niệm Xứ. Nhưng mà hôn trầm thùy miên vẫn còn, thì cái sức tỉnh thức chúng ta chưa có. Cho nên buộc lòng chúng ta cứ phải tới lui, phải đi kinh hành bằng cái sức tới lui đi kinh hành tỉnh thức. Chứ sự thật tu căn bản thì mấy con không bị những điều này đâu.
Bây giờ thì thay vì chúng ta tu Tứ Niệm Xứ, thì như các con người nào tu Tứ Niệm Xứ đang giữ cái tâm thanh thản, an lạc, vô sự (nghe không rõ), thì chúng ta thấy rằng mình còn bị hôn trầm thùy miên nhiều. Thì mình bước qua cái giai đoạn thứ nhất mình tu tập lại. Thử coi cái Chánh Niệm Tĩnh Giác đi kinh hành nhiều hơn để mình thấy mình còn cái tâm si, cho mình phải đi kinh hành nhiều hơn để phá cho sạch.
Mà nếu mà cái giai đoạn thứ nhất mình thấy mình đạt được 30 phút thì không cần. Bây giờ mình xét lại đi kinh hành 30 phút. Thầy nói, bảo hết tất cả mọi người ở đây đi thử 30 phút. Mình đi rất là tự nhiên, hồn nhiên. Cứ khoảng độ, nếu là 10 bước thì mình lấy cái cái chuẩn 10 bước đó để mình tác ý một lần: “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành” rồi mình tu tập.
(33:43) Mình đừng nghĩ là cái pháp này đi quá khó hoặc là pháp kia đi không. Cái nhiệm vụ bổn phận mà mình tu học là phải đi từ thấp đến cao. Nghĩa là từ cái lớp thấp đến cao, chứ không thể nào mà nhảy ngang qua. Mình thấy cái pháp đó mình tu thấy nó an ổn. An, cái pháp đó tu an ổn, mà nó an ổn đó nó sẽ tỉnh thức đến mức nào nó mới đúng. Còn cái an ổn này nhiều khi nó lạc, nó không đúng, nó chưa đủ tỉnh thức. Nghĩa là mình chưa phá sạch hôn trầm thùy miên. Mình đến cái lớp này mình an ổn là coi chừng mình bị xúc tưởng hỷ lạc, bị pháp tưởng. Cho nên mình phải lưu ý.
Bây giờ mình tập lại thử căn bản là mấy con tập đi kinh hành 30 phút. Cứ 10 bước thì mấy con sẽ tác ý một lần. Rồi bắt đầu đó, các con thấy tác ý một lần, các con căn cứ vào cái khoảng đường dài của mấy con là 10 bước. Trên khoảng đường dài 10 bước căn cứ. Thí dụ như cái phòng của các con hẹp, các con đi mấy vòng? 3 vòng hay 5 vòng ở trong cái phòng của mình thôi.
Nó đặt thành vấn đề là mình phải xem cái phòng của mình đi, mình tính 5 vòng như thế nào. Thì thật sự ra thì cái đường dài mà như vậy nó cũng khó cho mấy con. Bởi vì mấy con phải nhớ đếm nó bao nhiêu, để rồi mình cũng phải còn đếm. Thí dụ như thay vì đi 10 bước thì phải đi 3 vòng ở trong thất của mình như vậy là 10 bước. Thì ít ra bây giờ các con không đếm bước thì các con phải đếm vòng. Thì cái đường mình đi mấy lần để mà nhớ, để mà tác ý chứ không có gì. Các con hiểu Thầy muốn nói.
Cho nên vì vậy đó tốt hơn là làm sao nó có cái khoảng, cái khoảng. Một cái thất của mấy con như thế này, đi một vòng như thế này thì mấy con đi. Bắt đầu khởi sự bằng một cây cột này, thì mấy con đi một vòng cho tới cây cột này là các con thấy. Mình chỉ cần tới cây cột này là mình tác ý một lần, thì nó dễ dàng cho mấy con, dễ dàng cách tu.
Phải không? Đó là cách thức dễ dàng nhất. Để cho mấy con đừng có phải đếm 1, 2, 3, 4 trong đó, nó làm cho cái đầu các con phải đếm. Đầu tiên thì mình thử mình đi như vậy, rồi mình đếm, rồi mình tác ý, rồi mình đếm, rồi mình tác ý. Mình thấy hoàn toàn 30 phút không có một niệm nào xen vô, mà đi rất tự nhiên, không cần tập trung nhiều, đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai thì mấy con sẽ không còn đếm cái bước đi nữa, mà mấy con lấy một cái điểm nào đó, để rồi mấy con đi một vòng tới cái điểm đó các con sẽ tác ý. Đi một vòng tới điểm đó tác ý.
Thầy muốn nói hôm nay để các con tu tập, để sửa lại căn bản của mấy con, cái kết quả của mấy con tu học cho nó tốt, được tỉnh thức. Cái khoảng thời gian của mấy con tu tập được tỉnh thức 30 phút đó có chất lượng được cái giai đoạn thứ nhất này. Đó là số một.
(36:23) Rồi thí dụ bây giờ, không lẽ bây giờ mình tu đi kinh hành không đâu. Cho nên vì vậy mà các con sẽ tu tập cái pháp Tứ Niệm Xứ. Vẫn tự nhiên mấy con ngồi giữ tâm thanh thản, an lạc, vô sự, nhưng mà cái này là căn bản nhất. Để cho từ cái Tứ Niệm Xứ này nó sẽ có cái căn bản sau này, nó dễ dàng tiến bộ hơn…
Đức Phật dạy cho La Hầu La về hơi thở thì nó là mười chín cái đề mục. Thì như vậy tổng cộng hết những cái về cái hơi thở thì mình đi tiếp. Thân tâm của mình nó có những cái điều kiện, nó không nằm ở trong những cái điều kiện mà đức Phật đã đề ra dạy chúng ta. Mà chúng ta phải khéo léo linh động, vì thân chúng ta đang bị cái gì đó, thì cần biết phải tác ý theo hơi thở để mà đẩy cái đó ra. Thì chúng ta có thể thêm vào được những cái đề mục khác chứ không phải không.
Đó là cách thiện xảo và khéo léo, cho nên đức Phật mới bảo mình thiện xảo. Mình biết rằng thân mình như vậy, mà bây giờ trong tất cả những cái đề mục này, có những cái đề mục tác ý nó không ra. Nó không hết, đẩy không được, thì mình phải Trạch Pháp Giác Chi. Mình phải dùng cái trạch pháp, mình trạch ra một cái câu cho nó phù hợp với cái thân của chúng ta, rồi chúng ta tác ý. Hay hoặc là hướng cái tâm chúng ta, để rồi chúng ta nương vào hơi thở mà tác ý theo hơi thở, thì nó trở thành một đề mục hơi thở thứ 20, thứ 21, thứ 22. Các con hiểu không?
Cho nên nó phải khéo léo linh động chớ không phải là tu tập cái pháp đó rồi chết ở trong cái pháp đó đâu. Bởi vì chúng ta thấy rõ ràng là về cái xuất tức, nhập tức có 16 cái đề mục. Mà về Thân Hành Niệm thì có 18 cái đề mục. Mà về cái bài Giáo giới La Hầu La thì nó là 19 cái đề mục. Thì rõ ràng là nó cứ thêm chứ nó đâu có bớt đâu. Tại vì khi mà dạy La Hầu La thì cái đặc tướng của La Hầu La nó đã ở trong cái trạng thái nào đó mà đức Phật đã thêm cái điều đó, các con thấy chưa? Cho nên vì vậy mình xét thấy rõ ràng là nó không phải cái pháp đó 16 là 16 nó không thay đổi, nó không phải đâu.
Nó có sự mà linh động, khéo léo, thiện xảo ở trong đó để tăng lên cái đối tượng. Bởi vì cái pháp đó là cái pháp đẩy tất cả những cái đau khổ trên thân tâm chúng ta ra. Do như vậy, mình biết nó như vậy tức là nó rất quan trọng. Mà nó Thân Hành Nội. Mà nếu mà chúng ta vận dụng sai hơi thở thì nó sẽ bị rối loạn cơ thể chúng ta, bởi vì nó là Thân Hành Nội. Thở thì hơi thở nó ở chỗ hô hấp của chúng ta, nhưng mà nó rối loạn thì nó rối loạn tim, gan, phèo, phổi ở trong người của chúng ta. Tâm, can, tỳ, phế, thận, tức là tất cả mọi bộ phận ở trong người chúng ta. Mà cái hơi thở nó bị rối loạn thì nó sẽ rối loạn tất cả những bộ phận khác, cho nên nó quan trọng.
(38:59) Còn cái tay, cái chân chúng ta đưa ra, đưa vô nó không có ăn thua gì ở trong này đâu. Nó chỉ mỏi tay chúng ta mỏi chân của chúng ta thôi, cho nên nó không quan trọng. Nhưng mà cái hơi thở rất quan trọng và hơi thở rất đặc biệt. Nó là Thân Hành Nội. Mà Thân Hành Nội thì nó có nội lực. Còn cái tay chúng ta đưa ra đưa vô vầy là ngoại lực chứ không phải là nội lực. Mà nội lực thì nó mới sức mạnh, còn cái ngoại lực nó không. Cho nên toàn bộ đức Phật không dạy chúng ta đưa tay ra đưa tay vô đẩy lui bệnh mà dạy hơi thở đẩy lui bệnh. Các con thấy cái nội lực nó mạnh như vậy, mà nếu mà chúng ta không chịu tu học hơi thở thì chúng ta cũng bỏ uổng. Vậy thì hơi thở rất khó, không phải dễ.
Bây giờ có mặt Thầy, Thầy sẽ dạy hơi thở, mấy con sẽ tu không có lầm. Còn không có Thầy, Thầy rất sợ các con tu lầm, bị rối loạn, nhứt (nhất) là nặng đầu. Không đơn giản, không có dễ đâu.
(39:52) Bây giờ mấy con sẽ, Thầy hồi nãy Thầy dạy mấy con nhớ cách đi kinh hành Chánh Niệm Tĩnh Giác rồi chứ gì? Đó là cái phương pháp mấy con phải tập căn bản. Ngày hôm nay Thầy dạy mấy con phải tập kỹ lưỡng, thì cái thời gian mà tu tập của mấy con sẽ ngắn đi, mấy con không phí, nó không phí.
Hôm nay mấy con được ngồi nghe đây, bao nhiêu người đây là mấy con có phước đó. Còn bao nhiêu người khác không chịu nghe là Thầy không nhắc lại nữa. Không lý mà Thầy nói hoài mấy con, phải không? Mấy con có phước, mấy con ngồi nghe. Còn nếu không thì mấy con sẽ mất đi một dịp rất lớn, mất đi dịp rất lớn.
Ở đời, chúng ta bỏ hết cuộc đời đi tu mà chúng ta tu không đúng cách là chúng ta đã phí cuộc đời. Có sung sướng gì mấy con vào đây ăn ngày một bữa? Có sung sướng gì mấy con sống ở đây độc cư? Nó đâu có sung sướng gì? Mấy con không có xem tivi, không xem ca hát, không biết tin tức trên thế giới này làm gì hết. Mà mấy con được những gì ở đây, mà khi mấy con phải giam mình trong những cái thất?
Cho nên mấy con phải nghe cho kĩ, nghe cho kĩ để tập. Đạo Phật không phải lâu mấy con, không phải tu từ vô lượng kiếp đâu! Mà chỉ có bảy ngày, bảy tháng, bảy năm.
(40:58) Thầy bảo đảm mấy con chắc chắn là bảy năm mấy con sẽ đạt được nếu mà mấy con dở. Còn nếu mấy con biết ngay liền, biết xả ngay liền từ khi mà Thầy nói thì các con sẽ giác ngộ được cái gì đau khổ khi trên thân tâm mấy con? Là do tham, sân, si và lòng ham muốn là cái nguyên nhân sanh ra những sự đau khổ này, thì từ đây về sau mấy con sẽ chấm dứt ngay liền. Thì ngay giờ phút Thầy nói rồi, mấy con bước qua khỏi cái cửa, cái tổ đường này thì mấy con đã là chứng quả A La Hán.
(41:30) Các con có nghe khi mà một cái vị mà, một cái vị đó, ngài cứ nghĩ rằng mình tu như vậy là mình chứng quả A La Hán. Thì có người nói: “Không, ông muốn biết chắc thì ông lại hỏi Gô Ta Ma thì biết. Vì ông đó, ông Gô Ta Ma ổng là người chứng quả A La Hán. Ông cứ hỏi ông ta biết”. Cho nên ông này đi tìm đức Phật. Khi đó thì đức Phật đang đi khất thực. Thì đức Phật mới gặp, ổng xin đức Phật giảng pháp cho ổng nghe. Đức Phật nói: “Không phải thời, ta đi khất thực làm sao mà giảng pháp giữa đường”.
Thì ông kia: “Xin Phật giảng cho con nghe. Con biết rằng đức Phật là một bậc chứng quả A La Hán. Chỉ có đức Phật mới là dẫn dắt đúng con đi vào đó mà thôi”. Thì đức Phật nói: “Không phải thời, ta đang đi khất thực làm sao mà ta thuyết pháp được”. Thì ông kia năn nỉ lần thứ ba thì đức Phật dạy, nói ngay liền. Thì ông ngộ ra được liền. Thì trong khi ông ngộ rồi, thì lúc bấy giờ một con bò đụng ông chết. Thì có người hỏi ông vậy như thế nào, ông ta đã xin hỏi đức Phật, ông ta như thế nào?
Đức Phật nói: “Ông đã chứng quả A La Hán”. Tại sao ông ngộ đạo mà ông lại chết một cách rất là, bò đụng chết như vậy?! Sự thật ra đối với sự sống chết nó không quan trọng đâu, mà mình ngộ được cái chỗ rất đau khổ mà mình không còn chấp nhận nó nữa là mình chứng quả A La Hán. Nghĩa là từ đây về sau nhất định là mình không có giận hờn, không phiền não, không tham muốn một cái gì trên đời nay. Mình biết rằng nó không có cái gì của mình.
Thì khi mà ngộ được cái lý mà thông suốt như vậy rồi, chúng ta bỏ hết, không còn ham. Vì vậy mà mấy con muốn được mà làm chủ được cái sự sống chết của mình, muốn chết hồi nào chết, muốn biết được cái giờ phút mình bò nó đụng hay là không đụng, mình biết được, thì phải có thời gian tu tập. Chớ không có thời gian tu tập, mấy con có ngộ cái lý đó rồi thì mấy con không còn chấp cái các pháp, không còn chấp cái gì hết. Người ta chửi mấy con không cần giận hờn ai nữa hết, thì mấy con đã được giải thoát rồi đó.
Nhưng mà mấy con phải có thời gian tập luyện, để bây giờ mấy con còn đang sống, mấy con biết là ngày mai này bò đụng chết nè. Hay bây giờ là Thầy đang nói chuyện với mấy con, mà Thầy biết rằng lát nữa bước ra kia xe đụng Thầy chết nè. Thầy phải biết. Đảo đảm mấy con là người tu theo đạo Phật phải biết chớ không phải là không biết.
Thầy bảo đảm trong vấn đề đó chứ không phải là ngu ngơ đâu. Cho nên vì vậy mà khi ngộ rồi, khi ngộ được rồi thì biết rõ rồi, thì chúng ta phải tập luyện cái gì cần thiết. Do đó mấy con có ngộ đời khổ rồi, mấy con mới bỏ, mới vào đây. Đó là cái ngộ của mấy con rồi. Mấy con không còn nghĩ đến cái đời sống của mấy con nữa.
(44:00) Mấy con không còn danh lợi, không còn ham ăn, ham ngủ nữa mấy con mới vào đây, đó là mấy con đã ngộ. Nhưng mấy con bỏ xuống chứ chưa hết đâu. Cho nên muốn bỏ xuống phải có sự tỉnh thức. Vì vậy mà suốt cái thời gian mà 7 năm mà đức Phật dạy đó, là chúng ta tập bỏ, tập xả, tập bỏ. Mà bỏ sạch thì nó lại có Tứ Thần Lực. Mà Tứ Thần Lực thì nó mới có sự làm chủ đời sống. 7 năm nó sẽ có Tứ Thần Túc. Áp dụng đúng cách, 7 năm có Tứ Thần Túc.
Cho nên Thầy biết con đường này đi rất là cụ thể, rõ ràng. Không khéo rồi mấy con sẽ bỏ phí cuộc đời quá uổng, rất là uổng. Tu hành rốt cuộc. Đầu tiên chúng ta bỏ thì đức Phật dạy chúng ta các con thấy dạy chúng ta có cái chỗ nương tựa để mà chúng ta bỏ. Cho nên bây giờ chúng ta nương tựa đầu tiên để mà tập tỉnh thức. Để chúng ta hiểu biết được những cái tâm niệm, cái sự đau khổ xảy ra cho chúng ta. Tham sân si, hôn trầm, thùy miên, tất cả mọi cái này để chúng ta biết đó là những cái ác nhất.
(45:00) Cho nó đúng cách. Đức Phật nói nhiệt tâm, thì nhiệt tâm với cái điều kiện. Cho nên bây giờ tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” rồi bắt đầu hít vô thở ra. Từng hơi thở xem xét coi cái hơi thở của mình, có cái hơi thở nào dài không, có hơi thở nào ngắn không, hay là đều đều… Chớ không phải là tu để có đâu. Tu hẳn hòi từng hơi thở của chúng ta. Cho nên thường thường Thầy nói: “Thà là tu một hơi thở hơn là tu nhiều”. Thầy muốn nói như vậy, nhưng mà Thầy thấy hầu như mấy con không hiểu. Không hiểu được cái ý của Thầy, bây giờ Thầy phải nói kỹ. Bởi vì khi không hiểu nó mới tu sai, còn cái hiểu không tu sai. Cho nên mấy con không hiểu rồi. Mà nói ra thì nó phải nói nhiều, buộc lòng Thầy Phải nói nhiều. Mà nói nhiều thì Thầy phải hao sức nhiều. Nhưng mà làm sao bây giờ hơn? Dạy thì phải dạy cho mấy con rõ.
Bắt đầu bây giờ: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Rồi hít vô thở ra, hít vô thở ra, hít vô thở ra. Lưu ý từng 5 hơi thở, đủ rồi. Như vậy là mình thấy, xét lại cái thân của mình hít thở 5 hơi thở, coi nó có, đầu có nặng không? Sự tập trung này ta sao, nó có cái cảm giác gì không? Coi có gì hoàn toàn xét qua cái thân, cái cơ thể của mình. Qua từng cái tâm niệm khi mà thở ra vậy mình có sơ sót cái chỗ nào không? Có lộn không? Rồi bắt đầu hít thở 5 hơi thở nữa. Rồi 5 hơi thở nữa, 30 phút. Xét thấy hoàn toàn không có niệm. Rồi bắt đầu tu (không nghe rõ)
Bắt đầu bây giờ đó thì mình hít thở tăng lên 10 hơi thở. Xem xét hoàn toàn qua mười hơi thở có một ít lần, nếu mà có niệm thì dừng lại ngay đó mà xem xét 10 cái hơi thở này. Rồi tiếp tục 10 hơi thở này, tiếp tục 10 hơi thở này, xem xét thật kỹ. Chừng nào 10 cái hơi thở này không có niệm nào xen vào mà rất tự nhiên, không bị ức chế, không bị tập trung quá nặng. (46:48) (không nghe rõ) Các con biết khi mà tập trung mà mình chăm chăm nhìn ngó cái hơi thở của mình thì cái đó sai…Thân Hành Niệm.
(47:00) Nếu mà có nặng đầu, chừng 30 phút tu tập có nặng đầu là có tập sai, lui lại. Làm sao mà không có nặng đầu, thì chúng ta đó là tu đúng. Bởi vì đạo Phật nói: “Pháp ta không có thời gian đến để mà thấy”. Nếu mà thấy được sự giải thoát thì đúng, nếu mà không thấy giải thoát là không đúng, có chướng ngại là tu sai. Bởi vì những cái lời của đức Phật căn dặn chúng ta như vậy, chúng ta biết chúng ta tu sai hay là không sai, chúng ta biết được.
Tu sao lại bị hôn trầm thùy miên, tức là biết là mình tu quá sức, thì đó là tu sai. Cho nên do như vậy thì mới biết rằng mấy con tập được cái căn bản trở lại. Nếu mà cái căn bản này các con đã đạt được rồi. Ví dụ, mấy con hít thở 5 hơi thở rồi tới 10 hơi thở, 20 hơi thở, 30 hơi thở. Hoàn toàn tâm mấy con bất động, an trú trong hơi thở hoàn toàn. Nó có một cái trạng thái khinh an, hỷ lạc, đó là Hỷ Giác Chi, khi mà bước vào cái cảm thọ. Thì lúc bấy giờ không phải ở đó để mấy con hưởng cái hỷ lạc đó đâu, mà chính nương tựa vào cái hỷ lạc đó mà tác ý đẩy lui những cái tham, sân, si.
Các con biết mình rất rõ, mình còn tham sân si chứ. Mình biết rất rõ mình còn những cái chướng ngại pháp ở trên thân mình nhiều mà, chưa phải hết đâu. Do đó nếu mà các con, cái đề mục đầu tiên của các con tu tập về hơi thở mà các con thấy có hỷ lạc an ổn trên thân tâm của con đó, thì mấy con nương vào cái hỷ lạc đó tác ý đẩy lui tham, sân, si. Hoặc là trong thân các con có bệnh đau gì, có chướng ngại gì thì các con nương vào chỗ hỷ lạc, chỗ nhiếp tâm an trú cái hơi thở này, mấy con tác ý, mấy con đuổi những chướng ngại đó đi.
Cũng như bây giờ mấy con có bệnh gì, tất cả trên thân mấy con có bệnh gì, thì mấy con ở trong cái trạng thái hơi thở hỷ lạc đó rồi mấy con tác ý. Thì cách tác ý thì nó sẽ không có, cái tâm mấy con không chú ý vào trong cái hỷ lạc đó nữa, thì đương nhiên coi như là sự hỷ lạc nó không có chứ gì? Nhưng mà vì mình đã biết tâm mình nó đang trú, an trú vô đó, chớ không phải nó không. Nhưng mà phải cảm nhận để mà thấy cái hỷ lạc đó thì chúng ta có quyền ngồi im để cho mình thọ hưởng cái hỷ lạc đó. Cho nên buộc lòng mình tác ý để đẩy lui cái chướng ngại ở trên thân và tâm của mình, đó là cách phương pháp tu đúng. Chứ không phải là mình cứ ngồi hỷ lạc đó để rồi mình tăng lên 1-2 giờ cái hỷ lạc đó. Sự thật ra nó hỷ lạc riết mấy con sẽ lọt vào trong cái tưởng, xúc tưởng hỷ lạc đó. Các con sẽ đi lạc đường đó chứ không phải được hưởng cái pháp của Phật.
(49:10) Mục đích của đạo Phật là làm sao như Thầy hồi nãy nói làm sao cho hết tham, sân, si, chớ không phải đi tìm cái hỷ lạc đó. Làm sao cho chúng ta sống bình thường như mọi người mà tất cả ác pháp không tác động được chúng ta. Thậm chí như bệnh đau cũng không làm chúng ta dao động tâm. Cho đến khi mà chúng ta thấy là cái cơ thể này thở hết được rồi, chúng ta sẽ hết sợ. Nghĩa là chúng ta không dao động trước các ác pháp gì tác động lên thân tâm chúng ta, thì đó gọi là Bất Động Tâm.
Mục đích chúng ta tu là chúng ta có cái đối tượng để chúng ta nhắm vào để mà chúng ta tu. Tu có nghĩa là mình đuổi các ác pháp, làm cho thân tâm mình không còn đau khổ nữa là tu, chớ không phải là tu là cái gì.
Những cái hành động tập đi kinh hành, hơi thở là cái mục đích gọi là tu. Cái danh từ gọi là tu, chứ sự thật ra chúng ta đang luyện tập. Luyện tập cái phương pháp để đẩy lui cái tham sân si chúng ta, để làm cho cái đau khổ của thân tâm chúng ta không còn.
Đó, thì mấy con thấy nó cụ thể, nó rõ ràng, chớ nó không phải mơ hồ nữa. Nó trực tiếp với cái sự đau khổ của con người, mà đuổi cái sự đau khổ của con người ra khỏi con người. Để làm cho chúng ta được hoàn toàn an ổn. Giải thoát cho một kiếp người chúng ta đang sống trong cái đoạn đường mà chúng ta tìm giải thoát.
(50:26) Đó thì hôm nay mấy con nghe những cái lời Thầy dạy mà tập kỹ lại. Rồi Thầy còn ở lại đây, Thầy phải kiểm tra từng bước đi. Nãy giờ Thầy chỉ thuyết cho mấy con nghe những cái điều kiện đó để cho mấy con hiểu và thông suốt, gọi là giác ngộ. Giác ngộ cái pháp hành của chúng ta, hay là thông suốt được pháp hành của chúng ta. Để rồi chúng ta tu tập, chúng ta thực hành nó không bị lệch, nó không bị sai.
Vậy thì hiện giờ mấy con tu, như mấy con đang tu tập kinh hành thì Thầy sẽ kiểm tra lại cho mấy con. Bây giờ Thầy sẽ, ngày mai Thầy tiếp tục Thầy kiểm tra, ngày mốt Thầy tiếp tục kiểm tra nữa. Bởi vì mỗi một buổi Thầy chỉ kiểm tra mấy người thôi. Thầy kiểm tra nhiều quá thì mất thì giờ của Thầy rất nhiều. Lần lượt Thầy sẽ kiểm tra trong một ngày đó, một buổi vậy nó có thể là ba người hay bốn người. Mà nó nhiều quá Thầy kiểm tra thành hai buổi.
Mà bây giờ thì mấy con thấy Thầy kiểm tra thì mấy con ngồi tách hai bên. Rồi bắt đầu thì Thầy nghĩ rằng kiểm tra mà ba người hay bốn người hay năm người thì nó dễ lắm. Bởi vì các con ngồi qua bên xong rồi đi kinh hành cho Thầy xem, để Thầy kiểm tra lại. Thay vì nếu mà kiểm tra từng người, buộc người nào cũng phải đi thì cái đó chắc ăn lắm. Còn nếu mà kiểm tra người này mà không kiểm tra người khác thì bắt đầu ngồi mà coi bắt chước chưa hẳn đã là đúng.
Vậy thì hôm nay mấy con được nghe Thầy diễn thuyết xong rồi, phải không? Xong rồi. Mấy con đừng vội vàng. Ngày mai Thầy sẽ chọn toàn bộ là bên nữ. Các con bên nam thì các con nhường lại bên nữ tập trước, trước nha. Ngày mai Thầy sẽ kiểm tra bên nữ, bên các con. Và đồng thời hôm nay có những người nào mà gặp riêng hỏi Thầy gì thì ở lại đây thưa hỏi Thầy. Còn mấy người về tu tập. Rồi nghe những lời Thầy dạy đó, các con về tu tập cho đúng cách. Rồi ngày mai sẽ báo lại cho Thầy thì Thầy kiểm tra cho bên nữ. Nếu bên nữ đông, thì Thầy sẽ chia làm hai, hai ngày. Bởi vì nếu mà một mình Thầy mà Thầy kiểm tra với cái số đông thí dụ mười người, hai chục người thì không hết đâu. Bắt kiểm tra chung chung thì coi như nó không có cụ thể lắm.
(52:43) Buộc lòng người nào cũng phải đi kinh hành. Nếu mà kiểm tra kinh hành là người nào phải cũng dọn. Cũng như là học trò phải dọn bài hết chứ không phải dọn tượng trưng. Thí dụ như giờ cái lớp học sáu chục người, Thầy cứ nhìn mặt xem người nào mà coi bộ xanh xanh mặt, Thầy dọn bài để biết cái học trò đó không thuộc, có phải không? Hay hoặc là nó cứ nó lo nó lật tập vậy đó, thì coi cái đứa cái mà nó lật sách lật tập, biết nó chưa thuộc bài, kêu nó mà dọn. Còn cái đứa nào mà nó ngồi tỉnh bơ, biết nó thuộc bài chứ gì. Ở đây không có làm cái chuyện đó đâu mấy con. Người nào cũng phải đi kinh hành cho Thầy xem. Hễ tập pháp nào là phải làm pháp nấy. Mà tới cái hơi thở cũng phải làm. Bởi vì Thầy thấy suốt qua cái thời gian.
Mà ở đây Thầy cố gắng, Thầy đào tạo cho những người ta tu chứng quả A La Hán. Mà cái kết quả bao nhiêu năm tháng rồi, Thầy tìm ra người đó không có. Là tại vì để người ta, chứ mình không kiểm tra. Học trò mà không kiểm tra bài vở thì nó lười biếng nó không học, thì cuối năm nó rớt hết ráo. Cho nên vì vậy phải kiểm tra, rồi phải xem xét nó từng đứa một thì chắc chắn học trò sẽ giỏi và cái quả vị A La Hán sẽ có. Buộc lòng phải kiểm tra nó cực khổ lắm mấy con. Bởi vì nó là cái lớp đào tạo.
Đạo Phật là cái chương trình giáo dục đào tạo mà. Mà giáo dục đào tạo theo cái kiểu mà dạy chung chung thì chắc chắn là không có ông A La Hán nào đâu. Không có người nào chứng quả A La Hán nổi đâu. Bởi vì cái thời gian đã xác định cho Thầy thấy rồi. Người ta cứ hiểu lầm người ta sẽ tu cái kiểu sai. Và vì chính mà người ta hiểu sai, cái kinh sách Đại thừa nó ra đời. Chứ nếu mà không hiểu sai thì không có kinh sách đó ra đời.
Bởi vì bây giờ các con thấy nó rõ ràng là nó hiểu cái chương trình giáo dục đào tạo mà tám lớp đạo Phật giờ nó hiểu ra cái đầy hết rồi, thì còn cái gì nữa đâu. Còn giới luật thì kể như là để đó đọc chơi vậy thôi chứ sự thật ra không phải. Bởi vì cái đó là cái cấp một của người ta mà nó không chịu sống trong giới luật thì nó tu cái gì bây giờ đây?
(54:33) Cho nên biết pháp sai rồi, và nó kinh nghiệm trải qua một thời gian mà Thầy dạy cho mấy con. Nói tui tu được vậy..vây thì mình cũng, thì cũng hay được như vậy. Nhưng mà cuối cùng thì xét lại thì lại trật. Tu gì mà Thầy nói bây giờ cái người mà tu cao lung chừng nào đó, nghe nói tu thì tốt lắm. Con hỷ lạc thế này thế khác, xả tâm như thế này thế khác, nhưng đùng cái thì thấy tâm sân nó ầm ầm lên rồi. Thì như vậy rồi rõ ràng là tu 5 năm, 3 năm theo Thầy rồi, mà rút cuộc đụng một cái là Thầy thấy cái tâm sân nó ầm ầm lên thì như vậy là rõ.
Còn ngồi thiền thì tham, không biết ngồi, ngồi rất tốt lắm, rất tốt đó. Nhưng mà xét lại hỷ lạc lắm. Xét lại thì ngồi rúc cổ vậy nè. Chứ mấy con ngồi, mấy con bị hỷ lạc mấy con mới rúc cổ chứ sao? Rúc cổ để hưởng hỷ lạc chứ sao? Chứ mấy con ngó ra vầy làm sao hỷ lạc được? Cho nên buộc lòng mấy con cứ rúc xuống vầy để mà nó gom vô, để mà hỷ lạc. "Trời ơi! Tôi an lạc ghê gớm lắm. Cho nên bây giờ mà tôi ngồi, tôi rúc tôi, nghe nó". Cái lưng thì nó thụng xuống nó không thấy, nó làm cho mình an lạc lắm. Rồi cái đầu nó cứ rúc vầy. Cho nên nói sao mà tôi mỏi cổ? Cứ rúc cái đầu xuống như vậy nó mỏi cổ chứ sao.
Đó bây giờ mà xét lại được hai cái sai sai, làm sao mà đạt được? Thà là Thầy, học trò Thầy ít một, hai người mà nó có kết quả. Hơn là nhiều người mà rút cuộc rồi chẳng người nào ra gì hết, không lợi ích. Đào tạo thì phải đào tạo cho tới nơi tới chốn, chứ không khéo mang tiếng. Phật pháp đang cần có những người tu chứng quả A La Hán làm chủ sự sống chết rõ ràng. Điều đó là điều quan trọng. Thầy có viết trăm muôn ngàn bộ sách mà không có người tu chứng thì cũng giống như kinh sách Đại thừa. Cả một rừng kinh sách mà cuối cùng nhìn lại có ai làm chủ không? Cái này là cái đau đớn.
Cho nên mục đích hiện bây giờ Thầy làm sao đào tạo cho được mấy con. Mà mấy con quyết tu. Còn mấy con không quyết tu thì thôi mấy con cứ về đi, đừng có để làm Thầy mất công, Thầy cực lắm. Vì tại sao giờ Thầy mất công? Thầy phải chăm sóc mấy con này. Từng cái bước đi của mấy con, đi kinh hành có đúng không? Từng cái hơi thở của mấy con này, từng cái tư duy quán xét này, rồi phải soạn thảo cái bộ sách dạy các con đạo đức nhân bản - nhân quả nữa. Nó cả hai mươi mấy tập như vầy chứ đâu phải ít. Bởi vì hàng ngày cái nhân quả của mấy con, cái hành động của mấy con như thế này là nhân là quả rồi. Mà nếu mà không dạy những hành động này đúng thì mấy con sẽ làm sai, thì mấy con sẽ mang lại cái quả xấu của mấy con, nó làm sao tốt được.
(56:51) Cho nên nó là đạo đức. Vì vậy mà phải soạn, phải viết ra để cho mấy con phải hiểu. Bởi vì con người ta nhờ có cái sự hiểu biết đó người ta mới hơn cái loài động vật. Cái động vật nó hiểu biết nó không phải hiểu biết như con người. Nó hiểu biết cái ăn cái ngủ, cái đấu đá của nó để mà giành giật nhau ăn mà sống. Cái hiểu biết của con người biết thương yêu, biết tha thứ những lỗi lầm, biết nhỏ nhẹ ôn tồn, biết cái đúng cái sai, biết cái thiện cái ác. Còn con vật nó biết không? Nó không biết được cái điều đó. Cho nên con người chúng ta hơn được cái chỗ này. Vì vậy đạo Phật ra đời để dạy chúng ta trở thành con người thật sự là con người. Đó là cái mục đích như vậy. Cho nên ở đây phải kiểm tra cái đó.
Cho nên nếu mà ngày mai, Thầy kiểm tra coi cái số nữ hết. Mọi người mà tu ở trong Tu viện này, người nào người nữ là đến đây hết, kiểm tra lại hết. Rồi bắt đầu thứ Năm Thầy sẽ chia ra làm, kiểm tra ba lần hoặc là hai lần. Chia ra để mà Thầy kiểm tra, mỗi người đều làm. Ví dụ như bây giờ bốn người ở đây, Thầy kiểm tra thì bốn người phải người thứ nhất đi, Thầy xem coi đi kinh hành có đúng cách không? Mà nếu mà cúi cái đầu xuống vầy thì chắc chắn là Thầy phải sửa cái đầu ngó lên, chứ không có được cúi xuống. Buộc lòng mấy con phải tu tập đúng cách. Rồi về tu tập, rồi coi như thế nào xảy ra, Thầy cũng kiểm tra lại nữa, chứ đâu phải là nói suông suông đâu. Buộc lòng mấy con phải tu cho được. Đào tạo mấy con phải làm chủ, chứ không phải là.
Cho nên khi chúng ta trở thành một tu sĩ là chúng ta phải hiểu được. Phải nghiêm chỉnh thì cái lớp mà tu sĩ của mấy con là tu sĩ thì Thầy biết giới tu sĩ mấy con. Thầy sẽ ăn cơm tại đây và mấy con sẽ ngồi hai bên để ăn cơm, Thầy sẽ dạy mấy con ăn. Chớ không phải là mấy con bưng về thất muốn ăn kiểu nào là ăn đâu. Thầy sẽ dạy cách thức đó hết tất cả mọi tu sĩ chớ không phải là. Mấy con người nào cũng cái bát hẳn hòi, đàng hoàng, muốn ăn nó phải như thế nào? Làm sao? Thầy phải chỉ mấy con đúng cách, chứ không được mà.
Bởi vì đó là những cái oai nghi tế hạnh. Rồi từ cái ăn mặc của mấy con như thế nào? Áo như thế nào? Rồi y áo làm sao phải đúng cách? Chứ không có được mà lôi thôi lếch thếch hôi rình. Khi bước ra khỏi thất của mình là phải như thế nào? Khi mà ngồi thiền như thế nào?
(59:08) Tất cả những cái này, điều oai nghi này, Thầy đều huấn luyện, được dạy mấy con hết. Nghĩa là người tu sĩ là phải được huấn luyện kỹ. Còn người cư sĩ thì Thầy dạy về đạo đức của mấy con thôi. Còn tu sĩ thì thì phải huấn luyện kỹ. Nghĩa là cái lớp tu sĩ của Thầy được đào tạo mà lúc bước ra những oai nghi tế hạnh người ta không chê. Như vậy Thầy mới chấp nhận cho mấy con là tu sĩ của Thầy. Chứ không khéo người thì đi vầy, kẻ thì đi khác, bước đi của các con bước cao bước thấp. Rồi y áo, người thì cao, người thì thấp. Đâu nó phải đúng cách của nó. Chứ không, có người mà cái y thì để tuốt trên cái vai vầy, còn có người thì phủ vứt ở dưới chân. Có người thì luộm thuộm y áo, có người vắt thì tất cả không phải. Thì cách thức đúng, lấy cái đúng con.
Đó là những cái điều kiện mà Thầy nói khởi sự cho buổi thuyết pháp hôm nay. Thầy nói để cho các con thấy rằng Thầy đang có một cái hướng như vậy. Cho nên từ cái ăn, cái đi, đứng, ngồi, nằm của mấy con đều được Thầy huấn luyện dạy hết. Đó là giới tu sĩ. Bởi vì Thầy là tu sĩ mà, Thầy có trách nhiệm bổn phận với người tu sĩ. Và khi mấy con về đây thì mấy con phải được huấn luyện những cái lớp. Nghĩa là mấy con sẽ ôm bình bát đến đây, ngồi đây. Thầy ăn cơm, Thầy dạy bây giờ ăn như thế này nè; phải lấy thực phẩm như thế này nè; rồi ăn như thế này nè; múc cái muỗng cơm như thế này nè; để vào miệng như thế này nè.
Bây giờ mấy con làm cho Thầy xem nè. Rồi làm, rồi ăn, rồi coi thử coi như thế nào. Rồi xong rồi, tới muỗng thứ hai phải làm như thế nào thế nào. Muỗng thứ ba thế nào, đồ ăn phải gắp như thế nào, bỏ như thế nào làm sao. Chớ không phải bao nhiêu đổ chùm trong bát vầy, rồi quậy trong đó. Rồi đổ nước xong quậy, rồi mới múc ra ăn đó. Cái kiểu đó không phải là, chúng ta không phải là con heo đâu. Thầy nói thật sự mà. Mình là con người chứ đâu phải con heo mà quậy như là một cái thau cám vậy, để cho con heo ăn đâu. Chúng ta không phải là heo đâu.
Cho nên các con thấy trong cái thời đức Phật, cái món ăn mềm, món ăn cứng này kia, người ta đãi Phật từng món ăn á. Các con đọc lại Kinh coi phải không? Chứ đâu phải là quậy trong đó ăn. Ăn chúng ta biết, nhưng mà chúng ta không tham đắm, chúng ta không bị dính mắc vào cái ăn ngon ăn dở. Cái mục đích của chúng ta là năm dục trưởng dưỡng. Khi mà chúng ta tiếp xúc với thực phẩm là chúng ta đã biết tỉnh thức từng món ăn mà chúng ta ăn bỏ trong miệng. Cách thức mà nhai nuốt miếng ăn đó mà khởi sự thấy miếng ăn đó ngon, chúng ta biết ngon.
Nhưng chúng ta đã canh, chúng ta có pháp rồi. Nhắc rồi, tác ý: “Đây là sự cám dỗ dục. Từ đây về sau tâm chấm dứt, đừng có sanh khởi tâm tham đắm cái món ăn này.” Chúng ta nhắc vậy làm sao nó tham đắm được mấy con. Nó có phương pháp chứ. Cho nên cái ăn chúng ta trong cái tu chứ đâu phải là ăn mà chúng ta ngồi đó nuốt nhai cho nó no bụng đâu, cho nó mập đâu, không phải đâu. Chúng ta ăn có phương pháp đàng hoàng để mà chúng ta ngăn ngừa năm dục trưởng dưỡng.
(1:01:53) Cho nên mấy con trở thành tu sĩ, là những người tu sĩ, là đệ tử của Thầy thì Thầy sẽ dạy cách thức mấy con ăn. Cho nên từ đó mấy con mới về thất, mấy con ngồi ăn đúng những cái oai nghi tế hạnh thì các con đang tu tập tỉnh thức của các con ở trên cái đó, để năm dục trưởng dưỡng không tăng trưởng. Như vậy mấy con mới diệt được tham, sân, si chớ, các con hiểu không? Điều mà Thầy dạy Thầy sắp sửa những cái lớp mà Thầy sẽ dạy, Thầy sẽ. Bởi vì Thầy công việc nhiều quá, chớ nếu mà Thầy được rảnh rang, Thầy dạy mấy con không có đến nỗi.
Thầy biết phải đào tạo mấy con phải tu chứng quả A La Hán bằng những cái đường, con đường này. Con đường giáo dục đào tạo của đạo Phật trong tám cái lớp của Đạo Đế. Cho nên mấy con thấy mấy con xuất gia rồi là Thầy quan tâm vấn đề này lắm. Còn không phải như vậy là Thầy không quan tâm bên giới cư sĩ đâu mấy con. Giới cư sĩ mấy con có năm giới của nó, nhưng mà đức hạnh của mấy con rất nhiều. Đạo đức không làm khổ mình khổ người mà. Mấy con cần phải học và mấy con cũng chuẩn bị để khi mấy con bước qua, trở thành người tu sĩ thì mấy con cũng phải biết ăn uống như thế nào cho đúng cách của một người cư sĩ mấy con.
Thầy sẽ dạy mấy con, nhưng không có trực tiếp mà dạy mấy con ăn uống như người tu sĩ. Tại vì người tu sĩ phải được dẫn dắt. Không khéo người tu sĩ sơ suất thì ra, đi ra mà ăn hoặc là đi, người ta sẽ lên án tu sĩ Phật giáo lóc chóc quá, đi đứng không nghiêm chỉnh, ăn uống gì y như người đời, ăn vồ vập. Các con hiểu người ta cũng sẽ đánh giá trị mình. Cho nên vì vậy mà cái người tu sĩ chúng ta nó có những cái đức hạnh, có oai nghi tế hạnh của nó. Thầy sẽ hướng dẫn. Buộc lòng mấy con là đệ tử của Thầy là nam hay nữ mà xuất gia đều là phải có oai nghi tế hạnh hẳn hòi, đàng hoàng.
Cho nên hôm nay Thầy muốn nói để cho các con biết rằng cái chương trình của Thầy nó sẽ sắp sửa nó sẽ đào tạo cho mấy con như vậy. Mấy con không tu thôi, mà tu phải ra tu. Đạo phải ra đạo mà, đời phải ra đời chứ không có được mà lộn xộn nữa, theo cách thức như vậy. Cho nên Thầy cực khổ, nhưng mà cái kết quả của cái sự cực khổ của Thầy là mấy con phải sống đúng, phải chứng được quả A La Hán. Trở thành những bậc A La Hán.
(1:04:03) Đó thì hôm nay Thầy nói như vậy. Bây giờ mấy con về, mấy con sẽ nghe Thầy lý thuyết xong rồi. Ngày mai tất cả những người bên nữ đến trước, ngày mốt thì bên nam, phải không? Bên nam thì nếu đông Thầy cũng chia làm hai phần, mà ít thì Thầy sẽ gom lại mà hướng dẫn một ngày. Thì bất cứ người nam nào thì Thầy cũng phải, bắt buộc phải từ cái đi kinh hành. Cho đến khi mà ngồi hít thở, cho đến khi mà ngồi Tứ Niệm Xứ, mấy con đã tu những cái pháp này hết rồi. Rồi mấy con sẽ trình lại cho Thầy, khi mà các con tu Tứ Chánh Cần là ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện.
Mấy con sẽ trình bày một cái niệm ác khởi ra, mấy con phải dùng như thế nào, mấy con đuổi nó đi. Mấy con sẽ nói. Một cái thân mà nghiệp đau của mấy con, mấy con dùng như thế nào, mấy con đuổi thân đau của mấy con đi. Mấy con phải trình bày cho Thầy nghe. Đúng Thầy chấp nhận mà không đúng thì sửa lại. Để cho mấy con biết cách, để mà con đối phó lại với giặc sinh tử của mấy con. Chứ không khéo, Thầy không hướng dẫn kỹ, mấy con tự mấy con làm những cái này cái kia, nó sẽ sai lệch hết, nó mất hết. Đó là những cái điều mà các con cần phải được mà huấn luyện kỹ lại tất cả những cái chương trình học tập của đạo Phật.
Bây giờ thì mấy con về tập lại kỹ đàng hoàng. Ngày mai thì tất cả chúng nữ mấy con, buổi sáng mấy con lại đây, đến đây. Còn buổi chiều thì mấy con cứ tự nhiên mấy con cứ tu đi, thấy không? Các con nhớ ráng mà tập đúng, như hồi nãy Thầy nói lý thuyết hồi nãy rồi đó thì các con về tập cho đúng, rồi ngày mai trình bày lại cho Thầy. Nghĩa là bây giờ coi như là ôn lại tất cả bài vở mấy con tu tập. Để rồi chuẩn bị nếu mấy con được thì Thầy sẽ cho tăng mấy con lên. Cứ lên từng pháp lên cho nó đúng cái tiêu chuẩn của sự tu tập của mấy con. Nếu mấy con có căn bản thì mấy con sẽ tu những cái pháp cao hơn. Còn mấy con còn, căn bản còn thiếu thì buộc lòng mấy con phải tu lại những cái pháp có căn bản. Chứ không có thể nào mà để mấy con mất căn bản của cái lớp căn bản.
(1:05:59) Như là mấy con biết mà điều kiện mấy con mất căn bản của một cái pháp đó thì buộc lòng phải bồi dưỡng cái lớp đó cho mấy con ở trong cái lớp căn bản đó. Chớ không phải là buộc mấy con phải trở lại học cái lớp. Thí dụ bây giờ mấy con đã học qua mọi lớp đó rồi, thí dụ như qua năm cái lớp rồi mà bây giờ buộc lòng các con phải về cái lớp Một học thì không phải đâu. Nghĩa là bây giờ mấy con thiếu khuyết về cái pháp đó, cái căn bản đó chưa có thì buộc lòng mấy con phải học lại. Bổ túc lại cái pháp đó cho nó vững chắc hơn, để rồi mấy con tiếp tục ở trên cái lớp mấy con đã tu. Chứ không phải là phí bỏ hết tất cả, buộc lòng mấy con phải trở về cái lớp Chánh Kiến mấy con học đầu tiên,không phải đâu!
Ở đây mấy con có trải qua sự tu tập mấy con có những cái kết quả rồi. Thì do đó cái nào mà còn thiếu khuyết buộc lòng phải bổ túc thêm cái đó cho mấy con có căn bản. Thí dụ như cái sức tỉnh thức của con ở chỗ cái lớp mà tỉnh thức thứ hai, thứ ba hay hoặc là pháp Thân Hành Niệm là thứ tư. Mà mấy con thiếu khuyết một chưa căn bản ở cái lớp đó buộc lòng mấy con phải tu tập cái lớp đó lại. Bổ túc cái lớp đó lại cho mấy con chững chạc hơn, để cho con tiến tới những cái pháp tu cho kết quả tốt hơn.
Nghĩa là thật sự ra thì mấy con sẽ có những cái chỗ mà cần phải bổ túc thêm chứ không khéo mấy con sẽ mất căn bản. Cái phương pháp tu đó mấy con sẽ không được không có căn bản, mất căn bản buộc lòng bổ túc thêm. Bắt đầu bây giờ mấy con trở thành những đứa học trò nhỏ. Đó, Thầy nói rằng mấy con thành những đứa học trò nhỏ, bắt đầu buộc lòng phải dọn bài. Chứ không thể là như là những sinh viên mà ở trên Đại học cứ vô trong thư viện rồi nghiên cứu, rồi viết không có dọn bài, không phải đâu. Nghĩa là buộc lòng mấy con phải có cái sự mà dọn bài học cho mấy con kỹ lưỡng hẳn hòi, chứ không thể buông lỏng được. Đó là mấy con phải hiểu rằng Thầy chịu cực khổ nên mấy con phải cố gắng tu tập cho đúng.
Thôi bây giờ thì mấy con trở về tập lại. Ngày mai Thầy bên nữ mấy con đến đây, còn nam thì ngày mốt. Thầy phân rồi sau này, xong rồi thì sau này mỗi tuần lễ Thầy có chia ra trong một ngày cho nam, một ngày cho nữ. Và đồng thời nếu mà nữ đông, Thầy sẽ chia làm hai lớp. Mà nam đông, Thầy cũng chia làm hai lớp. Cho nên một cái tuần lễ có thể là chia làm được bốn ngày gặp Thầy. Còn nếu mà Thầy thấy dồn lại được thì Thầy sẽ dồn lại cho một ngày một tuần lễ thì nó có hai ngày. Thì ngày nào Thầy sẽ định để mà Thầy kiểm tra mấy con. Còn nếu tệ lắm, tệ lắm buộc lòng ngày nào Thầy chắc cũng phải kiểm tra, chắt là ông Thầy này chắc chết luôn. Ngày nào mà cũng đến đây mà kiểm tra thì Thầy chắc mệt lắm.
(1:08:37) Cho nên vì vậy mà Thầy sẽ phải chia một lớp ra để mà Thầy kiểm tra. Để Thầy bảo đảm khi mà Thầy có công việc, Thầy đi vắng thì các con không có sợ lệch lạc nữa. Các con hiểu không? Đó, còn các con xong chưa? Bây giờ đó thì mấy con cứ về, rồi ngày mai Thầy kiểm tra từng người.
Tu sinh hỏi: (không nghe rõ)
(1:09:16) Trưởng lão: Các pháp khác con tu hoặc là con thư giãn, con hiểu không? Con thư giãn, con nghỉ. Rồi sau đó là con tiếp tục con tu những cái pháp khác, rồi con trở lại cái pháp đó con tu, con hiểu không?
Cái tư tưởng cái người mà, muốn trong đầu tôi là tôi bề trên, tôi không chấp nhận (không nghe rõ)… Bề trên sao tôi cứ giống như người kia? Tôi cũng ăn, cũng uống, cũng như người kia chứ. Chớ bộ tôi người bề trên, tôi xuống đây, tôi không ăn, tôi người bề trên, còn tôi ăn là tôi không phải người bề trên, có phải không? Tôi cũng sanh ra, cũng cha mẹ sanh ra tôi chứ bộ. Bộ không tôi ở đất nẻ tôi chui lên, hay ở trên không tôi bay xuống đây đâu? Tôi người bề trên chứ nói gì sai, mấy người gieo trong cái đầu của tôi trật. Tôi chỉ có khác hơn cái người kia chút là tại tóc tôi nó như vậy. Là tại cái cơ thể của tôi nó ra cái cọng tóc đó, nó quăn queo, nó rút lại như vậy. Cho nên nó có khác hơn mấy người, rồi mấy người nói bậy nói bạ không.
Con người cũng phải người vầy kẻ khác, chứ sao lại mấy người hô như vậy làm cho cái tư tưởng tôi bị dao động như vậy? Cho nên dẹp. Mà khi dẹp hết rồi, Thầy nói là không có sợ ai nữa. Thì lúc bấy giờ Thầy kê kéo Thầy cắt bỏ thì bình an cho con không có gì. Hiểu chưa? Rồi con. Rồi rồi.
(1:10:25) Tu sinh hỏi: (không nghe rõ)
(1:10:38) Trưởng lão: Hôn trầm thì đi kinh hành. Con cứ đi tới đi lui vầy. Hễ con ví dụ con định là bây giờ 3 giờ thức dậy thì đến 5 giờ. Thì cứ suốt khoảng thời gian đó cứ đi tới đi lui, không có giờ nghỉ. Con hiểu không? Đi hoài, đi cho mày ngủ luôn. Mày ngủ tao cũng đi, lủi chỗ nào tao cũng đi hết trơn. Con phá cho sạch ba cái cái hôn trầm đi. Nó rõ ràng là con thấy, con người bề trên gì mà cũng ham ngủ dữ vậy? Cuối cùng ngủ gục thì nó không còn bề trên được đâu. Cho nên vì vậy rồi con đi, con phải tập như mấy người này thì con sẽ phá hôn trầm hết, si mà con.
(1:11:07) Tu sinh hỏi: (không nghe rõ)
Trưởng lão: Tác ý: “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành” Con nhắc lại.
Tu sinh hỏi: (không nghe rõ)
Trưởng lão: Con sẽ, nó có hiện tượng tưởng tượng. Con đi mà nó tỉnh, mà nó hiện ra cái tướng tưởng con thì tác ý. Còn nó không thì cứ: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”. Còn nó không có hiện cái tướng đó thôi. Phải không? Và con tác ý: "Tâm không có sợ hãi, không có người bề trên, không có người bề dưới gì hết. Ở đây là có người phàm phu như mọi người. Tóc này phải cắt bỏ, không có sợ". Và con cứ tác ý như vậy để cho cái tâm của mình nó nhờ cái ý thức lực đó nó tạo cho cái tâm mình nó dạn dĩ, nó không có sợ hãi.
Tức là nhiếp phục các khiếp đảm, chứ không để cái sự sợ hãi khiếp đảm nó nhiếp phục mình. Cho nên bây giờ Thầy sợ cái tâm của con nó yếu, nó sẽ bị khiếp đảm, sợ hãi khiếp đảm nó nhiếp phục con. Cho nên mình tác ý cho mình đừng có sợ. Khi mà các pháp đến mình đừng có sợ. Mà khi nó vững vàng rồi, Thầy cắt bỏ (không nghe rõ) Thì con y như người bình thường vậy, rồi bắt đầu mình tu chứng quả A La Hán luôn, chớ khỏi lo gì hết.
Chớ nếu mà không chứng quả A La Hán, con chết con cũng bệnh đau khổ sở lắm chứ bộ sung sướng gì lắm sao? Rồi cũng giận hờn phiền não gia đình mình con cái hay này kia nói gì mình cũng buồn phiền, chứ đâu phải là không buồn phiền đâu? Nó làm cho mình cũng động tâm lắm. Mà con còn thêm cái tưởng của con thì con còn khổ hơn người ta nữa. Cho nên bây giờ con phải phá cho được cái này rồi, xong rồi đó bắt đầu mới tiếp tục. Bây giờ gia đình con cái lớn khôn hết rồi, mình cũng lớn tuổi rồi phải lo tu thôi, để mà chấm dứt cái đời đau khổ của cái kiếp làm người đó. Phải lo nỗ lực nha, Thầy nói phải nghe lời Thầy.
Cố gắng. Rồi ngày nào đó mà Thầy thấy cái tâm con vững vàng Thầy cắt tóc bỏ cho, để con khổ cực lắm. Cực cái tóc tai con, con khổ lắm. Thầy nói như quý thầy, mấy cô cạo tóc rồi sướng lắm. Đâu có ở đời con thấy người bây giờ (không nghe rõ) Dù là người đó có đẹp đẽ, chết rồi bỏ xuống đống đất rồi trời ơi! Ba bữa không ai dám lại gần mấy cái thân nó đâu. Dù người đó có đẹp như là Võ Tắc Thiên, hay là như Bao Tự, hay hoặc là như Đắc Kỷ đi nữa. Có đẹp cách gì như Dương Quý Phi đi nữa, tới chừng chết rồi ông nội không ai dám lại gần đâu.
Thật sự ra nó hôi thúi, nó ghê gớm lắm mấy con. Như cô Cảnh bây giờ để tới bữa nay là ông nội ai cũng không dám ở, chứ đừng có. Thối ghê gớm, đừng nói chuyện. Thân của chúng ta nó bất tịnh ghê lắm. Cho nên vì vậy mà cạo bỏ hết như Thầy thì khỏe tè le. Sướng! Không có gì cực khổ. Tắm, chế nước lên nó chảy tuột xuống. Có phải sướng không mấy con? Sướng lắm. Bởi vì coi những ông thầy chùa chứ sướng lắm. Ông Phật hay thiệt chớ. Ông chế ra cái pháp hay lắm, chế ra cái giới cạo bỏ râu tóc. Trời ơi! Ông giúp con người ta giải thoát thiệt chớ. Các con thấy chưa?
(1:13:48) Tu sinh hỏi: (không nghe rõ)
Trưởng lão: Buồn ngủ đi kinh hành. Không buồn ngủ thì tác ý: “Tâm phải vững vàng không sợ hãi. Chết là do nhân quả, không có sợ. Còn tóc tai này là tại vì đó là cái nghiệp nó làm cho mình khổ. Mai mốt sẽ cắt chứ không có gì mà sợ. Không có chết gì đâu mà lo.” Con cứ nhắc tác ý như vậy để cho cái tâm nó vững vàng nó đừng có sợ hãi. Con trạch pháp những cái câu nào mà hợp với con, con lựa để mà làm cho cái tâm con đừng có sợ khi mà con cắt tóc. Thầy nói đó như vậy. Trong bốn thời con tu cái phần nhiều nhất. Cái phần đó, thời nào con cũng tu cái đó nhiều nhất hết. Rồi hễ buồn ngủ con đi kinh hành, mà không buồn ngủ thì con nhớ tác ý cái điều đó để làm cho tâm con nó nhiếp phục được sợ hãi và khiếp đảm của con.
(1:14:35) Tu sinh hỏi: (không nghe rõ)
Trưởng lão: Được rồi con tập như vậy, nhưng mà con nhớ. Thay vì con tác ý: “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”, nhưng mà con lại tác ý như thế này nghe không? “Tâm đừng khiếp đảm sợ hãi. Cắt bỏ tóc tai này mà tâm đừng khiếp đảm sợ hãi. Chết là do nhân quả”. Con tác ý vậy rồi con bước đi kinh hành chứ không tác ý khi đi kinh hành. Nhớ chưa? Rồi bắt đầu con hít thở. Thay vì con hít thở thì con cứ thở hít thở rồi con tác ý. Con tác ý vầy: “Tâm đừng sợ hãi khi cắt bỏ tóc này. Khi cắt bỏ tóc này tâm đừng sợ hãi. Chớ sống chết là do nhân quả chứ không phải do tóc”. Con nhớ những câu nói này không. Rồi con nhắc con nhớ những cái lời nói đó. Còn không nhớ Thầy sẽ viết cho mấy câu để mà để học thuộc lòng.
(1:15:38) Tu sinh hỏi: (không nghe rõ)
Trưởng lão: Rồi lúc nào đi kinh hành thì con trước khi đi con cũng nhắc cái câu đó. Để sau đó nó vững cái tâm của con. Mà khi con cắt bỏ cái tóc đó, con không còn sợ hãi nữa. Mà khi không còn sợ hãi thì cắt bỏ được rồi.
Tu sinh hỏi: (không nghe rõ)
Trưởng lão: Rồi được rồi để Thầy viết Thầy gửi cho. Giỏi thì trạch ra mà tu, mà hơi dở thì Thầy viết giùm cho.
Tu sinh hỏi: (không nghe rõ)
(1:16:28) Trưởng lão: Rồi được rồi con. Để viết, viết lại một cái ngày tu tập, con kiểm điểm lại viết cái gì được cái gì mà gặp những cái gì đó thì con sẽ trình bày với Thầy ha.
Tu sinh hỏi: (không nghe rõ)
Trưởng lão: Không, một ngày con kiểm điểm lại. Mỗi khi mà con tu xong rồi con kiểm điểm lại nó được cái gì đó thì con ghi vô thôi. Rồi tiếp tục con tu nữa rồi con ghi vô. Rồi trong một hai ngày con cứ trao lại cho Thầy, Thầy xem coi cái nào được, cái nào không, Thầy kiểm lại con. Rồi khi mà cái ngày Thầy kiểm Thầy coi trong đó Thầy kiểm lại con tu được hay không. Đó là nó tiến bộ lắm con, nha.
Tu sinh hỏi: (không nghe rõ)
Trưởng lão: Được rồi con.
(1:17:11) Mục đích tu hành làm sao làm chủ được bốn sự đau khổ của cái kiếp làm người của mình, sinh, già, bệnh, chết và mục đích phải tu tập cho đạt được. Nhưng mà tu tập đạt được thì mỗi cái pháp mà tu tập thì mấy con lưu ý là mình, cái pháp nào nó có từng pháp. Như đi kinh hành nó có bốn giai đoạn đi kinh hành của nó, thì nó cũng đều là Chánh Niệm Tỉnh Thức mà thôi, tức là mình Tĩnh Giác mà thôi. Nhưng mà mình phải đạt được cái kết quả của nó.
Mà theo Thầy cho cái thời gian đó, khi mà đức Phật không có nói cái thời gian mà chúng ta tu bao nhiêu trong kinh sách, nhưng mà theo Thầy thiết nghĩ cái thời gian ít ra nó phải 30 phút. Mình nhiếp tâm cho được trong 30 phút. Còn đức Phật không nói là tại vì tùy theo cái đặc tướng của mỗi người. Cho nên cái thời gian mà mình tu khoảng 30 phút thì mình mới có đủ sức, mình mới đẩy được cái tâm tham, sân, si của mình mới được.
Còn một, hai phút, năm, ba phút mà có vọng tưởng xen ra xen vô, thì mình không có đủ sức, nhưng mà pháp tác ý nó cũng có cái lực. Nhưng cái lực mà chúng ta không có đủ cái chỗ nương tựa, cái lực nó không thể đẩy những cái nghiệp nặng hơn, chỉ những cái nhẹ nhàng thì nó có thể. Cái lực, cái ý thức lực á, nó chỉ đẩy những cái chướng ngại, ác pháp nó nhẹ, nó dễ hơn. Còn trái lại mà khi mà gặp những cái chướng ngại pháp, cái ác pháp nó có cái lực nó lớn hơn, thì chúng ta phải nương tựa vào cái cái điểm tựa của nó.
Cái điểm tựa của nó là cái hơi thở hoặc là cái thân hành, tức là cái bước đi của chúng ta. Nhưng mà chúng ta nhiếp tâm có ba phút, hai phút thì có vọng tưởng rồi. Thì như vậy chúng ta chưa có đủ sức để mà tựa cái lưng vào cái điểm tựa của thân hành mà bật ba cái cái ác pháp, đẩy ba cái tham, sân, si ra.
Bởi vì chính do tham, sân, si mà mình có đau khổ. Mà chính do tham sân si nó mới có cái nghiệp, nó bệnh đau. Tất cả những cái nghiệp nó thành ra cái cảm thọ đau đớn trên thân của chúng ta. Thậm chí như chúng ta chết, chúng ta cũng không có được cái khả năng mà làm chủ cái chết của chúng ta. Là do vì vậy chúng ta không có cái điểm tựa, nương tựa cho vững chắc.
Mà không có chỗ điểm tựa, nương tựa vững chắc thì cái nhân quả nó sẽ chi phối chúng ta từng phút, từng giây nó dễ dàng lắm. Còn mình tu tập mà làm sao mình nương tựa cho được vững chắc. Mà muốn nương tựa vững chắc thì phải tu tập cho kỹ, chớ đâu phải tu mà cho lấy có đâu.
Chẳng hạn bây giờ một hơi thở là phải chắc một hơi thở, mà hai hơi thở là phải chắc hai hơi thở. Còn khi mà mình biết rằng mình bị hôn trầm thùy miên. Mà thật sự ra Thầy biết ở đây người nào cũng đang bị hôn trầm thùy miên nhiều. Người nào cũng bị hết chứ không phải là người nào giỏi đâu. Người nào cũng bị cái lười biếng, cái hôn trầm thùy miên, đó là cái si. Mà tham sân si, cái si người ta rất sợ, bởi vì nó mê mờ.
Mình tỉnh táo chứ đâu phải sai, nhưng mà mình hiểu biết một cách lầm lạc. Mê mờ một cách lầm lạc, cho nên trước ác pháp mình mê mờ. Do cái sự mê mờ đó mà mình có sân, có tham. Nó từng chút từng chút chứ nó đâu có phải, cái tham của mình nó từng chút. Khởi ra mình muốn làm cái gì đó là có dục rồi.
Thầy từng nhắc nhở, để cho mình xả cái tâm của mình, đừng có làm theo nó tức là ly được. Mà Thầy nhắc cái đó rất nhiều, đó là cái xả tâm. Mà nếu mà không tỉnh, không tập tỉnh thức thì không thấy được cái tâm tham đâu. Có được cái tỉnh thức rồi mới thấy được cái tâm tham nó muốn làm cái gì? Hoặc là nó muốn ăn cái gì? Hay hoặc là nó muốn ngồi nghỉ đi nữa, thì tất cả những cái này đều là có dục, chạy theo dục.
Rồi bắt đầu bây giờ mình ngồi thiền mình thấy hỷ lạc, thì mình bị rơi vào trong cái dục của hỷ lạc, chứ đâu phải, đó là cái dục.
Cho nên mục đích chúng ta ôm pháp là chúng ta phải tu đúng pháp làm sao cho đạt được cái kết quả. Thí dụ như bây giờ Thầy nhiếp tâm ở trong cái hơi thở, hơi thở ra biết ra, hơi thở vô biết vô. Mà bây giờ làm sao mà kéo dài 30 phút này mà không có một niệm vô đó, cái đó là cái thiện xảo khéo léo.
(1:21:08) Còn bây giờ chúng ta biết ai cũng có hôn trầm thùy miên nè, người nào chúng ta cũng biết mình cũng có nè. Bây giờ thì nó không có buồn ngủ đâu, nhưng mà coi chừng một lát nữa nó sẽ tới. Cho nên vì vậy muốn muốn phá nó đừng có cho nó đến với mình, thì mình phải tu tập như thế nào để cho nó không đến?
Thì mình tu tập như thế nào? Mình biết rằng chỉ có đi kinh hành Chánh Niệm Tĩnh Giác thì nó sẽ không còn có. Chớ không khéo nó sẽ bị, cho nên vì vậy chỉ có đi kinh hành.
Như bây giờ Thầy nói như thế này, như cô Huệ Ân, cô già, cô đi đâu có được như mình. Cô muốn đi lắm, nhưng mà cô đi cô yếu đuối, cô run rẩy. Còn bây giờ các con đang ở trong cái tuổi sức khỏe nó còn, đi kinh hành là một điều rất là tốt.
Nó có bốn cái giai đoạn đi kinh hành. Giai đoạn thứ nhất chúng ta đi 20 bước hay hoặc 10 bước. Mình nói 10 bước, 20 bước, 25 bước là tùy theo cái đặc tướng của mình, tùy theo đặc tướng. Thí dụ chẳng hạn mình thấy mình đi 20 bước, mình đếm từ: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”. Mình ra lệnh, mình tác ý vậy rồi, bắt đầu mình đi, mình đếm 1, 2, 3, 4 cho đến 20 bước. 20 bước mà không có một niệm nào xen vào, thì đó là cái chất lượng của 20 bước.
Khả năng của mình nhiếp tâm, chế ngự tâm mình trong 20 bước, có phải không? Thì mình cứ tu 20 bước chứ có gì đâu. 20 bước tác ý một lần để mà dẫn tâm mình trở lại. Nhắc nó trở lại phải tỉnh táo, phải nhớ 20 bước nữa. Thì lúc bấy giờ mình đi 20 bước nữa không có, thì tức là mình dừng lại. Hay hoặc là mình vừa đi mình vừa tác ý: “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”. Tu tập như vậy là theo cái đặc tướng.
Mà bây giờ 20 bước, mới có 10, mới có 10 bước mà có một niệm xen vô thì mình biết khả năng của mình, chế ngự tâm của mình có 10 chứ không được 20. Cho nên mình đâu tu chi mà 20 bước làm chi.
Các con thấy, tùy theo cái khả năng của mình mà. Mình biết rõ ràng là 20 bước nó có niệm khởi rồi, thì mình lui lại. Lui lại để rồi mình lại nhắc nó, bởi vì “dẫn tâm vào đạo” mà. Mình lại nhắc cái tâm của mình, để rồi mình lại tu 10 bước.
Mà 10 bước, mình thấy rằng 10 bước, lần đầu tiên mình thấy không có niệm, lần thứ hai không niệm, mà lần thứ ba có niệm, cũng 10 bước mà có niệm, thì lui lại 5 bước. Mình tu theo đặc tướng, mình tu theo cái chất lượng, chớ không phải là tu theo lấy có, tu cho có. Chẳng hạn mấy con đi 20 bước có vọng tưởng, thôi cũng tiếp tục đi 20 bước, có vọng tưởng cũng đi 20 bước. Đi như vậy có làm ích lợi gì? Lúc nào cũng có niệm khởi tức là mình không nhiếp phục được tâm mình ở trong cái bước đi. Thì mình tu như vậy có ích lợi gì? Đi chơi vậy có ích lợi gì? Cho nên tu hoài mà cái kết quả nó không có, cái sức tỉnh thức nó không có. Buộc lòng chúng ta tu ít, chúng ta bây giờ lui trở lại, còn 10 bước. Mà 10 bước có lại, đây là mình sử dụng cái pháp tu cho nó đạt được cái chất lượng. 10 bước nó còn có vọng tưởng thì chúng ta lui lại 5 bước.
(1:23:56) Thậm chí như Thầy còn nói như thế này mà, nếu mà 5 bước mà còn có vọng tưởng, chúng ta lui lại còn hai bước. Hai bước không được thì mỗi bước đi đều tác ý: “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”, bước một bước; rồi nhắc “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”, bước thứ hai; rồi nhắc “Tôi đi kinh hành, tôi biết …”. Mỗi lần tác ý là mỗi lần bước đi là phải cẩn thận hết sức.
Bởi vì mình thấy mình, mình coi như cái tâm của mình nó động quá. Vọng tưởng quá nhiều, cho nên không thể nào mà kéo dài 5 bước mà tác ý một lần được. Thì do đó làm sao từng bước đi, dẫn nó từng bước đi. Cũng như một đứa bé chưa biết đi, mình dắt nó từng bước. Hai tay mình nắm nó, rồi mình lôi nó như thế này để cho nó từng bước nó đi lên từng bước. Tập như vậy sau đó nó quen, nó sẽ không bao giờ có niệm. Mình ngay vô mình tập mà nó không có niệm thì nó…
Các con thấy cái đó là cái mình biết cách thức thiện xảo ôm pháp tu. Rồi đồng thời cái thời gian nữa. Thay vì nó 30 phút tu, nhưng mà 30 phút tu đó nó sẽ bị căng đầu mình, tức là bị ức chế. Bởi vì mình chế ngự nó với cái sức của mình, ngoài cái sức chế ngự của mình. Cái sức của mình mình, tu 30 phút là bị căng đầu thì mình đừng có tu 30 phút, mình lui lại 20 phút. Bởi vì 30 phút là bị căng đầu, nhức đầu, lui lại 20 phút. 20 phút vừa sức không bị căng.
Mà 20 phút bị căng đầu, lui lại 10 phút. Đâu bảo mình tu nhiều, tu với sức của mình. Tu với đặc tướng của mình thì mình càng tu càng tiến bộ, càng làm chủ được. Tôi không tu thôi, chứ tôi tu là tôi phải thấy được cái kết quả của nó liền. Cho nên mấy con nghe kinh đức Phật nói: “Pháp ta không có thời gian, đến để mà thấy”, thấy cái kết quả.
Tại sao chúng ta tu mà chúng ta không thấy có kết quả? Như vậy là chúng ta tu sai, cho nên tu hoài mà dậm chân tại chỗ. Bởi vì nó có sự tỉnh thức được thì chúng ta mới thấy được các ác pháp, nó không bị mê. Nó thấy được cái tâm dục của mình nó muốn cái gì? Nó ham cái gì? Nó dục nó khởi ra gì mà mình dừng lại liền mình không có theo, cho nên gọi là ly dục ly ác pháp.
(1:26:06) Còn mình không thấy thì mình làm sao mình ly? Mình thấy mình hiểu biết, mình mới có dừng lại, mình không làm theo nó cho nên gọi là ly. Mà nếu mà không tập tỉnh thức thì mình làm sao mình thấy được cái này. Cho nên mình thấy được cái lớn thôi, cái lớn dục thôi chứ còn cái dục nhỏ thì không thấy. Mà chính đức Phật nói, chính đức Phật nhắc nhở chúng ta phải “Sợ hãi những lỗi nhỏ nhặt”.
Cái lỗi nhỏ nhặt là mình chạy theo cái dục với ác pháp chứ gì? “Sợ hãi những lỗi nhỏ nhặt” mà mình thì không “Sợ hãi những lỗi nhỏ nhặt” đâu. Mà sợ cái lỗi lớn, cho nên tu tập chỉ nhìn cái lỗi lớn mà không nhìn cái lỗi nhỏ. Mà chính cái lỗi nhỏ đó nó mới thành cái lớn, cái dục lớn của chúng ta. Nó mới sanh ra năm cái dục trưởng dưỡng của nó.
Cho nên hôm nay Thầy muốn mấy con tu tập kỹ lưỡng. Cái thời gian mấy con sẽ ngắn lại và mấy con sẽ bảo đảm, Thầy bảo đảm mấy con sẽ làm chủ. Mà làm chủ được bốn sự đau khổ của mấy con là mấy con đã chứng quả A La Hán. Không có gì khó đâu, nó không khó đâu. Nhưng mà tại vì mình tu mình mất căn bản, mình tu không có. Mình cũng tu đúng pháp chớ không phải không, nhưng mà không đúng đặc tướng, không đúng cái thời gian của cái sức của mình. Cho nên mình bị dậm chân tại chỗ. Tu có vọng tưởng ra vô, rồi hôn trầm thùy miên, rồi sanh ra lười biếng, cứ ngồi lì một chỗ, không có chịu đi kinh hành nữa.
Mình biết, ai cũng biết mình là bao giờ cũng có cái lười biếng ở trong này hết. Mấy con cứ không tin Thầy thì cứ lối 2 giờ mấy con dậy coi, mấy con dậy có nổi không? Nó lười biếng một cách ghê gớm lắm chứ nó không phải không đâu! Nó lăn qua lộn lại chớ nó không muốn dậy đâu. Đó là cái bản chất lười biếng nó hiện ra trong cái giờ khuya của nó, mình Thấy rất rõ. Ngồi dậy mà nếu mà không có chịu mà tập luyện, không tinh tấn thì nó hơi ngồi qua ngồi lại, hơi nó gục tới gục lui, nó muốn đi nằm nữa. Nó rất là lười biếng, cái bản chất của chúng ta như vậy. Cho nên vì vậy mà muốn thắng được cái này, thắng được cái niệm si, cái lười biếng này là chúng ta phải cố gắng khắc phục mình hết sức. Đầy đủ nghị lực mới chiến thắng được nó, chứ không phải dễ đâu.
Khi mà thức dậy rồi nó thèm nằm lắm chớ nó không có muốn ngồi, nó muốn tu đâu. Thì do đó mình cứ tập thành cái thói quen rồi, mình tập mình ngồi dậy một hơi rồi cái lo đi nằm. Mà nằm nghe nó dục lạc mà, nó thích thú lắm, thành ra đi ra ngoài sân liền, chứ không dám ở xung quanh thất để mình chiến thắng nó. Còn không luẩn quẩn ở trong thất của chúng ta là thôi nó lôi chúng ta nằm, không có chạy đâu khỏi được cái lười biếng đó.
Chúng ta biết nó là cái ngu si, nó là cái trạng thái mê mờ. Nó làm chúng ta không thấy được những sự việc, làm cho ta không thắng được nó. Do mà không thắng được nó thì chúng ta làm gì mà chúng ta làm chủ được sinh, già, bệnh, chết được. Đó là những cái khó khăn.
(1:28:47) Hôm nay Thầy nhắc lại, cái chết của cô Minh Cảnh cũng là cái sách tấn của chúng ta để tu. Tiếc vì bữa đó mấy con không được thấy cái dịp rất lớn. Nó không bao giờ có cái chuyện này một lần thứ hai, thứ ba nữa. Được pháp y mổ, chúng ta đến đó, chúng ta xin coi. Nhìn cái thây của cô Minh Cảnh mà nghĩ đến mình. Rồi nhìn cái sự mổ cái cơ thể của cô Minh Cảnh ra để chúng ta xem thấy con người chúng ta có quý cái chỗ nào không? Rồi từ đó chúng ta mới quán xét và chúng ta thấy cái cái sự vô thường ghê gớm.
Cô Minh Cảnh cũng đâu phải lớn tuổi lắm đâu? Đâu bằng cô Huệ Ân đâu? Con thấy. Thế mà cô Minh Cảnh chết có như vầy, tại sao vậy? Tâm dao động không đủ sức để ôm pháp để vượt qua, không đủ sức giữ giới để vượt qua. Ở đời chỉ có giới luật để mà chuyển cái nhân quả, nó có cái gì khác. Chúng ta không khéo, chúng ta (không nghe rõ) tu tới chừng đó có động cái chúng ta (không nghe rõ). Nghĩa là chúng ta sống không rời chùa.
Cái giờ phút mà cô Minh Cảnh sắp chết. Cô Minh Cảnh (không nghe rõ). Con người ta vốn người ta sắp chết, người ta sợ chết lắm, người ta rất sợ.
HẾT BĂNG
ÔM PHAO VƯỢT BIỂN
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
*Trưởng lão*: Đấy mục đích ở đây nó khác, nó không có ức chế, con hiểu không? Cho nên vì vậy đó, mình không có dùng pháp để ức chế tâm, mà mình dùng pháp để xả.
Như bây giờ, thân con đau, là ác pháp chứ gì? Ác pháp cái thân nó bệnh chứ gì? Thì người ta dùng Tứ Niệm Xứ người ta đẩy lui cái ác pháp đó ra, thân không bệnh đau. Cho nên cái người tu theo đạo Phật, người ta làm chủ được bệnh.
Cho nên trong kinh Niết Bàn, đức Phật đau bệnh gần như chết. Đức Phật giữ tâm tỉnh, Chánh Niệm Tỉnh Giác, không có để cho nó dao động ở trên cái đau. Đức Phật giữ tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác, tác ý đuổi bệnh ra đi liền, bệnh hết đau. Con thấy trong cái đọc kinh Niết Bàn, con thấy rõ ràng chứ đâu phải đức Phật mà nói "Ta đau lưng rồi để nằm chịu đau lưng đâu’’. Cho nên người ta hiểu sai. Đau thì mặc đau, mình cứ đừng có động tâm đến nó. Không! Đẩy lui ra chứ không có để đau. Cho nên đức Phật (vẫn đi) như thường, đau gần chết, nhưng mà đẩy lui bệnh, hết bệnh rồi đi. Nhưng mà cái thân mình là thân cằn cỗi mà, nó sẽ già mà, nó sẽ bệnh chứ sao. Nhưng mà cuối cùng thì vẫn đi hết, con thấy không? Cho nên đến khi mà đức Phật nhập Niết Bàn, đức Phật dùng cái Tứ Thiền mà tịnh chỉ hơi thở. Chỉ nhập Tứ Thiền mới tịnh chỉ hơi thở thôi. Khi hơi thở ngưng thì Ngài mới xả cái trạng thái Tứ Thiền, mới nhập vào Niết Bàn, mới bỏ báo thân, có đúng không? Nó là cách thức của người ta vậy, cho nên nó đâu có cái mơ hồ đâu, nó rất là thực tế.
Đó, cho nên trong khi đó Thầy dạy đó, thì con về tập kỹ những điều này. Nó có hai pháp. Một cái pháp đi kinh hành 20 bước, rồi đứng lại hít thở.
Sau này Thầy sẽ, khi mà tu thuần rồi Thầy sẽ thay đổi liền, tức là ngồi xuống chứ không có được đi nữa. Mà sau khi mà đúng, con tu đúng hai giờ đồng hồ trên cái bước đi mà 2 giờ đồng hồ, thì không tu pháp này nữa, đủ rồi. Thầy dạy cái pháp khác. Nó có nhiều pháp, 37 phẩm trợ đạo người ta chứ đâu phải một pháp, con hiểu không? 37 phẩm, 37 pháp tu của người ta trong đó. Cho nên mình tu pháp này rồi, thì tức là mình đạt được cái chất lượng, cái kết quả của pháp này, thì tiếp tục tới cái pháp khác để cho mình tiếp tục mình tu tới. Còn cái kết quả của pháp này chưa được, mà tu cái pháp tới là tu không được, mình tu không vô đâu. Con chưa có phá hôn trầm thùy miên mà con ngồi con tu, thì con bị hôn trầm thùy miên không có thế nào mà chạy đâu khỏi nó. Nó chưa đổ ra, mà nó đổ ra rồi sẽ biết. Nó đổ ra thì mình thắng không nổi.
(02:05) Cho nên bây giờ đó, thì con nhớ tập luyện những cái này đi, rồi do đó nó đầy đủ liền. Khi mà con thấy khi mà đứng lên ngồi xuống, mà đi 20 bước ngồi lên ngồi xuống nhọc nhằn lắm. Mà nó nhọc nhằn mà mình ráng mình tu 1 giờ, 2 giờ, thì cái sự ráng của mình nó là cái nghị lực. Con hiểu chỗ Thầy muốn nói không? Chứ đâu có cái gì khác hơn. Cho nên mình cố gắng mình tu cho được, đúng tới giờ đó mình nghỉ, mà chưa tới giờ nhất định là chết bỏ, không nghỉ. Đó là cái nghị lực mấy con, rèn luyện nghị lực.
Mà trong khi đó rồi Chánh Niệm tỉnh giác nữa, con thấy không? Nó có lợi 2 phần, 1 phần để rèn luyện nghị lực, 1 phần là Chánh Niệm Tỉnh Giác. Nhờ Chánh Niệm tỉnh giác đó, mà chúng ta tu tập sau này nó rất dễ dàng.
Cho nên an trú nhiếp tâm, an trú được rồi thì mới đẩy lui được bệnh. Còn mình nhiếp tâm chưa được, an trú chưa được thì (không có) đẩy lui được bệnh.
Bây giờ thân Thầy cái đầu nhức này, mà nhức thì nó làm sao nó an được, phải không? Cho nên Thầy biết cách, bởi vì Thầy có tập rồi. Thầy nhiếp tâm trong hơi thở đi. Thì Thầy an trú được trong hơi thở, cho nên Thầy nhắc: "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết…", Thầy nhắc nó, cái thân của Thầy nó an ổn liền tức khắc, mà nó an ổn liền tức khắc thì cái đau trên đầu Thầy còn không? Đâu còn.
(03:11) Cho nên pháp Phật nó hay vậy đó. Đó nó như vậy, mà tu đúng thì con làm chủ được bệnh đó, con khỏi cần đi bác sĩ, khỏi cần đi nhà thương đâu! Chứ không phải lúc nào cũng uống thuốc, lúc nào cũng bác sĩ trị kềm cái thân mình. Người tu theo Phật mà, làm chủ bốn chỗ sanh già bệnh chết. Tại sao không làm chủ được mà (gọi là) theo Phật? Phải hiểu như vậy. Cho nên các con về đây là Thầy dạy các con, là các con sẽ làm chủ được sự sống chết của các con. Mục đích của đạo Phật là đạt được chỗ đó thôi! Bởi vì đức Phật ra đời là nhằm để giải quyết cái sự đau khổ của chúng sanh là giải quyết bốn sự đau khổ này “sanh, già, bệnh, chết’’. Đó, nó là cái mục đích rõ ràng mà.
(03:44) Mà ở đây Thầy dạy mọi người ở đây ý, thật sự ra họ làm chủ được bệnh á. Mặc dù là họ chưa có hoàn tất được, nhưng mà họ vẫn đẩy được bệnh, bởi vì nó ở trên pháp Tứ Niệm Xứ rồi. Họ đẩy được bệnh đó là họ ở trên pháp Tứ Niệm Xứ. Còn người ta ở Tứ Thần Túc á, tức là Tứ Như Ý Túc ý. Nếu mà có Tứ Như Ý Túc rồi thì không cần ở trên Tứ Niệm Xứ nữa đâu, mà người ta chỉ cần người ta tác ý ra. Dục Như Ý Túc mình, muốn không đau là không đau. Thấy cái lực của nó là như vậy đó. Cái lực của cái thân chúng ta, cái lực của tâm chúng ta nó mạnh như vậy đó, kêu là Thần túc. Tứ Thần Túc thông á, tức là Tứ Như Ý Túc ý. Cho nên ráng tu.
Bây giờ con về con tập tu đi. Đừng có tu cái gì hết. Thầy dạy sao tu vậy, Thầy dẫn dắt từ từ đi tới. Chứ còn tu khác thì thôi Thầy chịu đấy. Nhớ chưa? Cái gì mà con tu từ lâu tới giờ, con bỏ hết đi. Rồi con sẽ ở đây sống một đời sống giới, ăn ngày một bữa, phải không? Rồi có cái tâm trạng gì, có cái gì thì con trình cho Thầy, Thầy sẽ sử dụng các pháp. Thầy sẽ dạy cho con cách thức con tác ý, con sẽ đuổi những cái chướng ngại đó, chướng ngại đó để làm cho con, thân tâm của con nó rất an ổn để mà con tiến tu. Chứ không khéo nó làm chướng ngại thì con tu khó lắm.
(04:55) Phật tử: Con kính bạch Thầy, con là Nguyên Tánh. Ở cái tổ Bát Quan Trai Hà Tĩnh, nghệ An. Hôm nay con được nhân duyên gặp Thầy lần thứ 5 và cùng với cháu là Trần Văn Liệu ở chỗ khác về, thì cháu cho con đi máy bay vào đây để được gặp Thầy. Thì con cũng có thời gian có hạn, mai, sáng mai con phải về. Thì hôm nay con cũng xin Thầy để giúp con một cái phần, 1 số vướng, con mắc mớ trong cái tu tập. Con thì con cũng nắm được qua loa rồi nhưng mà cái số Phật tử Nghệ An, hà Tĩnh, họ vẫn còn, họ muốn, chưa theo chánh pháp, cho nên họ không biết cái pháp tu, cho nên là họ hầu như bệnh tật. Đó thì ngay bản thân của bác đây cũng thế, vào đây là vì giữ giới chưa thanh tịnh cho nên là bị cái bệnh ho, hen suyễn các thứ rất là nhiều.
Cho nên những cái đó mà con biết rằng, con có dặn là sau khi con phát nguyện giữ đúng giới, giữ đúng giới thanh tịnh ăn một ngọ thì con lành được cái số bệnh, mà con kể với bạn con làm bí thư tỉnh ủy đó. Thì hôm nay con chỉ báo với Thầy là sau khi con phụ trách cái tổ này á, thì con phải đi nhiều nói nhiều, cho nên cái giới của con bị, rõ ràng con bị phạm. Nhưng mà con trước tiên con xin sám hối Thầy. Để con nay con xin phép, để sau này có ai mà lên phụ trách tổ, thì để con xin phép về tại cốc để con tu tại gia. Để con tu, có gì con dẹp (Con đỡ đi lại, con lớn tuổi rồi) Cho phép con, để con giải thoát là vì tuổi con thì yếu, mà con thì thương binh nặng nên có những điều như thế.
Thì hôm nay con cũng sám hối Thầy, thì từ ngày con đi thì biết rằng là Thầy dạy là tịnh chỉ ngôn ngữ, cho nên con hay nói, thì con cũng thấy là không phải do con nói bởi vì cái bản ngã, do vì con muốn mọi người được như con. Cho nên con xin phương pháp Thầy và đặc biệt là con tính hay là có tính hay quên, hay quên nhiều và hôn trầm nó phát mạnh, thời gian trước thì không có hôn trầm nhiều, mà giờ thì con biết có lẽ là do con phạm giới nên hôn trầm. Thì xin Thầy chỉ dạy cái pháp hôm qua cho anh em chúng con là vì hôm qua con lỡ lơ đễnh tại con không bấm cái nút, con quên con không bấm cái nút ghi, cho nên là đài nó không phát, tại vì nó (Trưởng lão: Nó không thu vô) nó không thu vô. Thầy nói lại.
(07:15) Trưởng lão: Thì để rồi Thầy sẽ, Thầy dạy cho mấy con. Mấy con ngồi xuống đi, Thầy dạy cho mấy con tu tập. Bây giờ lớn tuổi rồi, mấy con không có tu tập nhiều pháp được. Còn tuổi trẻ thì người ta tu tập nhiều, chứ còn lớn tuổi thì mấy con không có tu tập nhiều được. Bây giờ trong cái vấn đề tuổi của mấy con lớn rồi, thì mấy con chỉ cần giữ cái tâm thanh thản, an lạc, vô sự. Nhưng mà đừng có ghìm ghìm nó thì nó bị ức chế, các con nhớ điều đó không? Cứ để tự nhiên nó như vậy nó là thanh thản. Nhưng mà khi nó có xảy ra như vậy trong tâm con một niệm nào đó, thì con tác ý đuổi cái niệm đó đi. Phải không?
Các con phải trạch pháp, tác ý cái câu, cái niệm đó nó khởi ra: "Mày là ma, mày đi đi, tao không có chấp nhận, ở đây phải thanh thản, chứ không có cái tụi ma mày vô". Mặc dù cái niệm đó là gì, kệ nó mình không cần phải hiểu nó nhân quả hay là kiết sử gì hết. Nhưng mà nó vô nó động, thì nó là ma hết à. Con bắt chước trong kinh Tương Ưng, con nhớ không? Đức Phật nói: "Mày là ma à!" Thì nói nó ma nó đi. À có như vậy thôi thì cái niệm đó nó sẽ đi.
Còn bây giờ cái thân của con mà nó đau đi: "Mày cũng là ma nè, ma thọ mày đến đây, mày cũng phải đi chứ không ở đây đâu. Tao bây giờ chỉ biết thanh thản an lạc vô sự thôi", đừng có để dao động. Các con cứ yên ổn, cứ giữ cho nó thanh thản, an lạc, vô sự. Thì các con sẽ thấy nó có 2 cái lớp: Cái lớp đau nó nằm dưới, mà cái lớp thanh thản nó nằm trên. Mà hễ cái lớp thanh thản nó nhiều, thì cái lớp đau nó lại giảm xuống, nó mất. Con hiểu không? Chứ làm sao mấy con cũng thấy. Đầu tiên mấy con thấy cái lớp đau nó hàng hết, mà cái thanh thản nó làm như gần mất. Nhưng mà: "Tao bảo là thanh thản là thanh thản, chứ không có được chú ý cái đau nghe không, chỉ biết thanh thản thôi" các con cứ nhắc nó vậy đó thấy không, thì nó sẽ thanh thản. Mà nói nó thanh thản thì các con lắng nghe thử coi: Rõ ràng là cái thanh thản ở trên, mà cái đau nó nằm ở dưới rồi. À nó nằm ở dưới rồi, thì các con nhắc nó nữa: "Thanh thản nhe, đau mặc nó, đừng có sợ, chết tao nhất định chết tao cũng thanh thản chứ tao không có ngán đâu". Con cứ làm nà nó như vậy là nó sợ là nó phải rút thôi. Bởi vì cái thọ, đức Phật nói: "Thọ là vô thường" nó đâu có thường đâu mà sợ. À nó đến rồi nó đi, nó là nhân quả mà, nó đến rồi nó đi chứ nó đâu có.
Cũng như con ho vậy đó. À bây giờ con ho là cứ uống thuốc, uống thuốc, đừng có sợ. Không phải uống thuốc mà nó phạm với pháp đâu! Pháp là nó hỗ trợ cho thuốc, mà thuốc nó cũng hỗ trợ cho pháp. Bởi vì cơ thể mình chưa có đủ đạo lực. Các con hiểu mình tu chưa có đủ đạo lực, thì các con cứ uống thuốc. Chứ đừng có ờ "Tôi tu tôi không có uống thuốc", không phải đâu. Mà nếu mà các con lại mạnh hơn nữa các con nói: "Một là tao không uống thuốc cho mày chết" nó cũng sợ, bệnh nó cũng đi nữa. Cái nghiệp nó chưa tới không có làm sao nó giết mấy con. Cái nhân quả nó chưa hết nó không có làm sao giết mấy con được, nó bắt buộc nó phải thua thôi, phải không?
(09:44) Các con nhớ kỹ những lời Thầy dạy, mấy con đừng có dao động. Mà khi nó đau quá: "Thầy ơi, cứu con Thầy. Con đặc biệt khổ lắm rồi", bị đau quá đó thì các con kêu. Hay hoặc thì lúc bấy giờ đó, các con kêu rồi thì cái Tín Lực của các con nó hiện ra đó. Vì con tin Thầy rồi. Con hiểu không? Mình gọi đó là mình tin Thầy rồi. Mình kêu cứu là mình tin ở Thầy rồi, mình mới kêu. Chứ còn mình không tin, mình không kêu, còn hiểu không? Mình tin cái người nào đó giúp mình được, mình mới gọi: "Anh bạn ơi, anh giúp giùm tôi". Tại mình tin người đó mà người đó không cứu mình được mình đâu có tin, con hiểu cái chỗ đó không? Thì lòng tin của các con nó hiện ra, nó bảo vệ cho con thanh thản liền tức khắc. Thì con tiếp nhận cái từ trường thanh thản ở bên ngoài của Thầy, của chư Phật. Thì lúc đó cái thanh thản của con nó mạnh, nó cao lên mà cái cảm thọ đau nó lui xuống con. Thầy nói mấy con gọi một cái, là mấy con thấy cái bệnh của các con nó lui xuống. Cái Tín Lực nó mạnh lắm.
(10:34) Cho nên luôn luôn lúc nào nó khi mà nó ngặt nghèo quá thì các con gọi, mà không ngặt nghèo thì không cần! Mấy con chỉ biết sức của mình, tự chiến đấu nó thôi. Mà khi mà ngặt nghèo quá, cái sức của mình không có thể vượt qua được, các con gọi: Gọi Phật, gọi Thầy, thì lúc bấy giờ gọi rồi, "Tao có Phật có Thầy tao nhất định không sợ mày đâu! Mày sẽ thua", cái tinh Thần con nó vững lắm con, mà nó vững lắm thì nó đẩy lui, nó đẩy lui cái đau khổ của mấy con ra. Mấy con nhớ chưa? Còn bệnh đau thì con cứ uống thuốc, thay vì mấy con uống 10 viên, thì mấy con uống 5 viên hết bệnh à. Nó giảm xuống chứ đâu có gì, nó ít tốn thôi, chứ không có gì đâu mà sợ. Các con nhớ kỹ háy không. Chứ đừng, khi mà mấy con không uống thuốc, mấy con dùng pháp, gia đình mấy con lo lắm.
Còn mấy con uống thuốc: "Tao cũng uống thuốc chứ, nó hết hay không hết tao cũng tu, tao đẩy lui nó thêm chứ có gì đâu", phải không? Gia đình mình cũng yên tâm, con cái mình cũng con, vợ con nó cũng yên bụng, nó không thấy: "Ờ! Ông đau chứ ông cũng uống thuốc mà, đâu có gì đâu mà lo". Nhưng mà không ngờ là mình uống để đối tượng của mình, gia đình mình yên ổn, và đồng thời thì mình lại nỗ lực mình tu. Thì cái này nó làm cho mình yên mình tu, mấy con. Khéo léo, thiện xảo mà mình tu. Chứ pháp Phật nó là Thánh dược rồi, nó không phải là (như là) thuốc thường đâu. Nó là Thánh dược.
(11:45) Nhưng mà vì mình muốn gia đình của mình nó an ổn, cho nên mình cũng ở đây, mình lấy thuốc cho mọi người thấy tôi uống đàng hoàng. Nhưng mà kèm đó là mình biết cái thân mình đau là mình vô trong thất của mình. Vô trong cái phòng của mình rồi, hừ ngồi sừng sững lên mà tác ý đuổi. Cứ bàn tay đưa ra đưa vô là đuổi bệnh đó mấy con! Cho mạnh mẽ đó con, đừng có sợ chết mấy con. Sớm muộn rồi mình cũng chết chứ không gì. Nhưng mà: "Tao chết trong pháp chứ tao không chết trong bệnh đau đâu". Nhớ cái lời Thầy nói không? "Chết trong pháp chứ đừng có chết trong bệnh đau, chết ở trên bồ đoàn chứ không có chết dưới bồ đoàn đâu". "Tao chết ngồi chứ nhất định là tao không chết nằm", các con nhớ không? Nó đau quá, mấy con nằm là mấy con chết nằm, thì giống như thiên hạ hết. Còn bây giờ con chết ngồi, nó vững vàng lắm mấy con: "Tao chết ngồi chứ tao không chết nằm đâu, tao ngồi đây tao chết". Thì bệnh nó chạy mất à, nó sợ mình ngồi lắm.
(12:33) Cho nên Thanh Quang đó, mấy con biết không? Thầy bảo, nó tăng xông lên như vậy, nó chóng mặt như vậy, trời đất nó quay cuồng vậy đó, mà Thầy bảo "Ngồi là ngồi chứ không được nằm". Thay vì nằm cho nó đỡ, ngồi nó quay thây kệ nó, cứ tác ý đuổi nó ra, đừng có sợ, chết bỏ. Cuối cùng nó, huyết áp nó tụt xuống, nó không có tăng lên nữa, nó giảm xuống liền. Mạnh mẽ, gan dạ, đừng có sợ! Phật pháp là Thánh dược rồi, mà Tứ Niệm Xứ là Thánh dược đó mấy con, nó đẩy lui hết nó không còn đâu.
Cho nên hôm nay Thầy nói mấy con, mấy con cái băng này còn thu á, thì mấy con giữ nó lại, để mỗi lần mở ra mấy con nghe, nó sách tấn mấy con dữ lắm mấy con! Mỗi đứa về sang một băng, để dành khi cần trường hợp mở băng ra tao nghe, Thầy nhắc ở trong đó, "Tao nghe rồi đó, nhất định là chết ngồi chứ tao không chết nằm đâu! Tao chết ở trong giới luật Phật, chứ tao không chết phi giới luật đâu". Phải không?
Do đó cái tinh Thần, cái nghị lực con nó mạnh mẽ lắm con. Nó vượt qua tất cả những cái chướng ngại hết. Nó đem lại sự bình an cho con rất lớn đó, phải không? Nhớ! Rồi cánh tay của mấy con đó, đó là những cái phương pháp đưa ra và cái hơi thở của nó. Khi mà đưa cánh tay ra không được, thì cái hơi thở của mấy con là nó cũng là cái phương pháp đẩy lui bệnh đó mấy con. Nhớ nương vào nó.
(13:46) Đó, thì những cái điều kiện mà Thầy dạy cho mấy con là chuyển tất cả những nghiệp khổ của mấy con. Mấy con sẽ không còn khổ nữa. Nhớ lời Thầy dạy thì mấy con. Đây là cái pháp thanh thản, là cái tâm phải thanh thản, bất động. Lúc bây giờ mấy con mới tiếp nhận được cái sự thanh thản, bất động của chư Phật, của Thầy. Bởi vì Thầy luôn luôn lúc nào Thầy cũng thanh thản, không có ai làm mè Thầy động được. Không ai mà làm sao cái tâm Thầy động được. Không ai mà nói gì mà Thầy động hết. Tâm của Thầy nó bất động tức là nó phải thanh thản, an lạc, vô sự. Mà khi mấy con giữ được cái bất động của con thì con sẽ tiếp nhận được của Thầy. Thầy trò mình đồng nhau. Thì bất quá thì mình chết mình cũng gặp Thầy rồi, không phải sướng sao? Ai mà chết mà gặp cha, mình không thấy mừng sao? Ai mà chết mà không được ở gần bên Phật thì thôi, thà là mình chết mình ở gần bên Phật phải sướng, phải sướng hơn không? Phải không? Con hiểu không? Mình theo Phật, mình được ở dưới chân Phật, được theo bên Phật ở thì không phải khỏe hơn sao? Nó đâu còn khổ nữa. Vậy thì tao cho mày chết, tao theo Phật. Thì tao giữ thanh thản là tao theo chứ còn chỗ nào nữa, con hiểu không? Nó như vậy.
(14:44) Các con, Thầy đã vẽ ra cho các con thấy được cái tương ưng, nó cụ thể và nó rõ ràng, thì các con sẽ tự cứu mình được. Nếu cái nghiệp nó chưa hết, mấy con sẽ mạnh khỏe, bình an. Mà nghiệp nó hết, mấy con cũng sẽ vào với chư Phật, có mất phần ở chỗ nào đâu? Chứ cái thân này để chi, nó bất tịnh, nó hôi thối, nó mất công ăn, mất công ngủ, mất công thức, nó đủ thứ bệnh tật chứ bộ sung sướng lắm ha. Chết được cái chết quách cho rồi. Mình đâu cần tiếc nó phải không mấy con?! Cho nên mà chết mà lại chết được về với Phật thì không phải hạnh phúc sao? Tao đâu có đi xuống địa ngục, tao đâu đi đầu thai nữa đâu mà sợ, có phải không mấy con? Chứ không lẽ bây giờ mình chết rồi cái mình vào trong cái (bụng) mẹ mình nằm trong đó. Nó trời đất ơi, nó chật chội, nó cực khổ chết chứ! Còn bây giờ tao chết mà tao thảnh thơi, tao ở không gian, tao ở vũ trụ rộng mênh mông vậy không sướng sao? Các con thấy nó khỏe hơn chứ? Các con hiểu chưa?
(15:34) Cái băng này nó nhắc nhở mấy con chứ không gì. Đó mấy con nhớ rồi phải không. Và do đó nó thanh thản an lạc vô sự, và đồng thời cái cánh tay đưa ra đưa vô là cánh tay đẩy bệnh. Nếu mà các con đưa tay ra vô mà không được, nó mỏi hay hoặc là nó như thế nào, các con đưa ra không được, thì cái hơi thở các con còn thở mà. À mặc dù là hơi thở như thế nào nó cũng vẫn còn. Bởi vì mấy con còn sống là còn thở, chừng nào hết thở nó mới hết. Thì mấy con cứ sử dụng hơi thở. Cũng hơi thở. Cho nên hơi thở ra là mấy con đưa tay ra.
(16:02) Còn bây giờ đó, về vấn đề mà hiện giờ mà mấy con tu mà gặp hôn trầm thùy miên, thì mấy con sẽ đi Chánh Niệm Tỉnh Giác mấy con. À, mấy con đi. "Đi tôi biết tôi đi". Chứ con đừng có đi Thân Hành Niệm, nó vất vả lắm. Mình chỉ đi, các con bước cái chân hơi thẳng thẳng một chút, để cho nó có cái cảm giác. Cảm giác cái, đặng mình nhận cái bước chân của mình, để mình tỉnh đó con. Mình đi thẳng, cái chân mình thẳng, bước thẳng thẳng chút, mình cứ đi hoài: "Tao cho mày ngủ, tao đi cho mày ngủ, mày ngủ là mày té". Con cứ nhắc vậy: "Tao cho mày ngủ, tao đi cho mày ngủ, thì mày ngủ là mày phải té mày chết thôi, tao cho mày ngủ". Nó sợ. Nó sợ chết nó, không có dám ngủ đâu.
Thật sự đó, con thấy cái tâm của mình chứ nó nhát lắm. Khi nào nó buồn ngủ con cứ đi trên cái bờ hồ mà nhỏ vầy nè, ở dưới này nước. Mà trên này con cứ đi đi, nó không có dám ngủ nữa. Nó ngủ nó sợ té dưới, con cứ đi theo cái bờ sông mà đi theo cái đường mòn, cái đường mà nó mới ấy đó, con đi đi nó không dám đâu. Thầy Chân Thành hồi đó cái trên này nó có nước hãy không (hay không), mà Thầy Chân Thành nó khôn lắm con, nó lủi trong hàng rào chứ nó không dám lủi. Thầy nói: "Tao đi mé bờ kênh này cho mày ngủ, là mày nhủi dưới rồi mày lạnh cho mày ớn". Nhưng mà nó khôn lắm con, nó đi vầy rồi nó ngủ, nó nhủi ở trong hàng rào chứ không dám nhủi ra ngoài. Thì con đủ biết cái tâm nó khôn chứ đâu phải! Nó khéo lắm chứ đâu phải không.
(17:18 Thầy Chơn Thành đó, bây giờ Thầy phá hết rồi, Thầy không còn buồn ngủ nữa. Hết buồn ngủ rồi. Nhưng mà hồi đó, trời, nó ghê gớm lắm con. Đi cái chân này đá chân kia, nó ngủ á, nó ngủ vậy là nó. Mấy con chưa biết nó đâu, nó dữ lắm. Cho nên vì vậy đó, mình phải nỗ lực mình đi kinh hành là mình sẽ phá, mình khéo léo, mình đi bước chân hơi mạnh mạnh chút. Mình đi. "Tao cho mày ngủ, tao đi hoài chừng nào mày hết ngủ thôi". Khi mà nó qua cái cơn ngủ rồi con, nó tỉnh nó tỉnh cách gì hớ. Nó hơn, nó qua cái cơn rồi, nó không có lừ đừ, mà từ cái thớ thịt của con nó tỉnh. Ở trong cái thớ thịt con, các cơ nó tỉnh ra. Chứ nó không phải là nó còn làm uể oải, uể oải ở trỏng. Nó làm theo kiểu lười biếng đó. Mà Thầy nói cái thân nó buồn ngủ là nó lười biếng. Còn cái tâm nó gục tới, gục lui là nó ngủ đó.
(18:03) Cho nên khi tỉnh cả cơ thể đều tỉnh hết, tỉnh rất rõ ràng con. Cho nên khi mà con vượt qua được cái hôn trầm rồi nó tỉnh lắm, chừng đó mình mới thấy tỉnh giác. Chứ còn bây giờ mình tập tỉnh chưa tỉnh đâu, nhưng mà chỉ có đi kinh hành mới phá. Đừng có dùng cái gì khác hết: đừng có đi rửa mặt, đừng có làm chuyện gì khác. Đừng có chạy, nhảy, đánh võ đánh này kia, đừng có múa may gì hết, cứ đi thôi: "Tao cho mày chết. Tao đi đúng theo pháp Phật, tao không có đi sai pháp Phật đâu". Mình làm đúng pháp Phật. Còn mình ra mình đánh một đường võ, một đường quyền gì cho nó, hoặc là tập thể thao đồ ha, hay hoặc là tắm này kia, điều đó là ngoài pháp Phật, ngoài pháp. Còn mình đi kinh hành nó là trong pháp Phật.
(18:40) Còn nếu mà mấy con còn sức khỏe, thì mấy con đi cái pháp Thân Hành Niệm. Mấy con biết cái pháp Thân Hành Niệm chưa? (Phật tử: Chưa ạ) tác ý từng cái lệnh của nó rồi mấy con đi. Ví dụ như bây giờ:
"Dở chân lên" thì mới dở lên.
"Dở gót lên" thì mới dở gót lên.
"Dở chân lên".
"Đưa chân tới".
"Hạ chân xuống".
"Hạ gót xuống".
Từng hành động, mấy con tác ý rồi mới làm. Làm chậm chậm, chậm chậm chứ đừng làm nhanh. "Dở gót lên", đó từ từ mình mới dở lên. "Dở chân lên", rồi dở lên. "Đưa chân tới", đưa tới. "Hạ chân xuống", hạ chân xuống. "Hạ gót xuống", hạ gót xuống. Từ từ, làm chậm chậm, tập ít thôi. Rồi mấy con làm như vậy, mấy con ra lệnh vậy, mấy con la, mấy con tác ý lớn tiếng gì. Trong khi nó buồn ngủ mấy con phải la lớn tiếng lắm à.
La: Thí dụ như con buồn ngủ, con bảo: "Hôn trầm thùy miên là si, mày cút đi". Con la cho lớn vậy, nó rung cái thân con cái nó tỉnh à. Con la cái nó cũng tỉnh nữa. La cho lớn nó tỉnh, chứ con đừng có nói nhỏ nhỏ, hay tác ý nhỏ nhỏ nó không có tỉnh đâu. Mà con la cho lớn: "Hôn trầm thùy miên cút đi". Mình la cút đi, cái nó rung cái thân con, cái nó tỉnh lại, nó không có buồn ngủ nữa. Cũng cách thức để phá đấy con, la "Cút đi", mình la lớn vậy, cái thân của mình nó tỉnh lại, nó không còn đừ đừ. Đó là cách thức phá con.
Cho nên hôn trầm thùy miên á, con nghe cái thất người ta đi, người ta tác ý lớn tiếng, là biết cái người này đang buồn ngủ. Mình đừng có nói, mình đừng có nghĩ: "Ông này sao mà tu la lớn quá, tác ý lớn quá trời", ông ta đang buồn ngủ. Mai mốt mình buồn ngủ mình cũng tác ý vậy. Nhưng mà ông tác ý một hơi cái ông hết, ông không tác ý nữa là biết ông này phá được ngủ rồi. Đó, mình cảm thông nhau được cái chỗ đó. Mình ở gần thất: "Thằng này là đang bị hôn trầm thùy miên dữ rồi", cái dữ này là ông đó, mình biết liền à.
(20:26) Cho nên thí dụ như mình đang nghe trong thất mà ông này ngồi tu, mà ông la: "Cút đi". À! Ông này bị buồn ngủ, buồn ngủ rồi. Đó, mình biết liền à. Bởi vì ông la như vậy, nó động cái thân ông đặng ông tỉnh đó con. Đặng ông tiếp tục tu cho nó có chất lượng, chứ không khéo nó lờ mờ lờ mờ, rồi nó ngủ. Thì mấy con cũng lấy, rút tỉa từng những cái kinh nghiệm đó đó, thì mấy con sẽ phá đi cái si của mình, cái lười biếng của mình. Cho nên những cái trạng thái như vậy, nhớ chưa?
Ờ, mấy con nhớ hết, Thầy trang bị cho mấy con đủ cách phá mà. Đủ cách mấy con phá hết giặc. Giặc sinh tử nó đến, nó hiện ra cái tướng nào là mấy con đập nhẹp xuống hết. Không có sợ gì hết, cho nên mấy con sẽ thắng.
(21:04) Mà nếu mà có cái gì khó hơn, những cái tưởng gì mà nó hiện ra, các con gọi điện thoại mau mau gọi Thầy. Đặng Thầy xác định con ma này nó thuộc về loại thứ nào đây. Thứ này thứ thượng hay thứ hạ đây. Nếu mà thứ thượng thì trị theo thứ thượng, mà thứ hạ trị theo thứ hạ. Con biết không? Tưởng là thứ ma tưởng á. Ngồi đây mà cái lỗ tai nó nghe, nó nghe Phật nghe nói nghe thinh tưởng ớ, đó là thứ thượng rồi. Ngồi đây mà thấy ánh sáng hào quang đồ đó, đó là thứ thượng rồi đó, chứ không phải thứ hạ đâu. Cái thứ này á, thì phải mau mau gọi Thầy. Thì lúc bấy giờ Thầy dạy mấy con để đập phá nó xuống đó. Nó là thiên ma đó. Nó thuộc về ma tưởng, là thiên ma, nó 18 cái loại tưởng lận con, thinh, sắc, thinh, hương vị xúc pháp.
Ngồi đây mà nghe cái mùi sao mà thúi quá trời vậy nè, ai mà làm cái gì vậy? Đó, đó là coi chừng á, đó là ma tưởng á, hương tưởng đó con. Hay hoặc là ngồi đây mà nghe sao mà thơm ngào ngạt. Trời đất ơi, ngồi đây mà tôi nghe sao mà người ta nấu mì gì mà nghe nó thèm ăn quá trời vậy. Đó là ma tưởng đó, nó tưởng dục đó con. Nó làm cho mình đói bụng đó. Nghe cái mùi sao nó ngào ngạt mà nó nhớ thèm ăn quá. Cái ông, cái bà nào mà ở gần đây nấu hủ tiếu, hay nấu mì gì đây mà nó thơm quá vậy. Đó là cũng ma đó con. Chứ ở đây mà làm gì có chuyện đó đâu, con hiểu không? Mà khi nghe vậy đó là hương tưởng đó con. Thứ tưởng đấy mà tưởng dục đó, dục để mình sanh mình thèm ăn đó. Cho nên các con biết nó là ma đó, mà nó ma thứ thượng đó, chứ không thứ hạ đâu.
Vì vậy Thầy dặn, căn dặn cho mấy con hết rồi. Khi nào có những cái điều kiện mà mấy con tác ý đuổi không được thì mấy con gọi cho Thầy. Thì Thầy sẽ trợ giúp mấy con, để Thầy diệt con ma đó liền, chứ không để cho nó ở trong cái đầu của mấy con được. Hiểu chưa?
(22:45) Như vậy mấy con mới vượt qua cái khó. Có Thầy mà, chừng nào mà Thầy mất rồi á, thì thôi. Chứ còn có Thầy thì lúc nào mấy con gọi thì cũng có Thầy. Thầy sẽ giúp cho mấy con. Mấy con đau bệnh, mấy con gặp ma chướng, mấy con làm chướng ngại trên con đường tu. Mấy con ôm pháp không được thì mấy con gọi Thầy. Thầy sẽ trợ giúp mấy con phá đi, để cho mấy con ôm cho chặt pháp mấy con đi. Cũng như ma nó lên nó chiếm đoạt cái bè của con rồi, nó cứ xô con rời khỏi cái bè. Mà con, nếu mà con không gọi Thầy nó đạp con xuống dưới biển đó. Nó ôm chiếc bè của con, nó đâu có để cho mấy con ôm bè phải không! Con sẽ mất cái phao tức là mất pháp rồi còn gì. Con hiểu không? Đau quá, các con cứ ôm phao, ôm cái đau, mà quên cái pháp rồi. Thì con đã được tọt nó đã đạp con xuống biển rồi chứ còn gì. Con hiểu chỗ đó. Cho nên gọi Thầy, rồi giữ thanh thản, rồi Thầy tiếp nhận, Thầy giúp mấy con chứ mấy con ôm lại phao. Thì cái bệnh này nó giảm xuống thì ma nó chạy mất. Các con hiểu chưa? Nó như vậy đó, để mà giúp cho mấy con vượt biển mà, ôm phao vượt biển đó mấy con.
Cái cuộc đời của mình, mình đang đi ở trên biển nghiệp mà. Cái thân của con là cái nghiệp rồi. Mà cái thân là biển nghiệp đó mấy con, nó không dễ đâu. Đã là biển mà nó đâu phải là giúp cho mình qua được bờ đâu. Nó biển thì nó phải bờ nó đâu có thấy được. Cho nên các con còn bơi giữa dòng, giữa biển, chưa phải đến bờ đâu! Mà nếu mà không có Thầy á, thì mấy con sẽ bị chìm xuống biển chứ làm sao mấy con đến bờ được. Các con hiểu chưa, đó là biển nghiệp. Mà cái thân của con là biển nghiệp đó. Nó khó lắm chứ không phải dễ đâu! Cho nên Thầy dạy mấy con là vượt biển, vượt biển nghiệp mà qua bờ bên kia.
Thì (phải có) nhờ cái năng lực từ trường của chư Phật, của những người tu chứng. Người ta hỗ trợ cho mình, mình mới vượt biển, mình mới vượt sóng mình qua, chứ còn không khéo đâu. Con thấy cái đau là cũng một những cái đợt sóng của nó ghê lắm. Sóng Thần đó mấy con. Nó giết mấy con bao nhiêu không? Mà cái thân của mấy con là sóng Thần đó chứ nó không có dễ đâu. Khi nó không đau thôi, nó không buồn ngủ thôi, mấy con thấy nó buồn ngủ là mấy con đã bị đợt sóng đó mấy con. Nó dập mình, lôi mình nằm xuống ngủ đó. Nó không có để cho mình ngóc cái đầu dậy đâu, nên nó dễ dễ, nó ghê gớm lắm chứ không phải dễ đâu.
(24:51) Mình có đương đầu với hôn trầm, thùy miên, mình có đương đầu với vô ký, mình có đương đầu với bệnh khổ mình mới biết, nó khó chứ không phải dễ. Nói thì Thầy nói thì nó dễ, nhưng mà khi mà đương đầu với nó, chống với nó không phải là chuyện dễ đâu. Mấy con không đủ nghị lực là mấy con thắng không nổi đâu. Mấy con không có đủ niềm tin ở Thầy, ở Phật mấy con không thắng nổi đâu. Các con nhớ chưa? Cho nên vì vậy mà phải nỗ lực tận cùng, chết bỏ. Nhất định là chết trên bồ đoàn, như hồi nãy Thầy nói, không có chết dưới bồ đoàn.
Đệ tử của Thầy là chết gan lắm, không có đứa nào mà hèn nhát. Hèn nhát là mình không phải là con của Trưng Vương, Triệu Ẩu, không phải cháu Bác Hồ đâu. Các con hiểu chưa? Mình là con của những bậc anh hùng của đất nước này, thì phải là anh hùng chứ không có chịu thua. Các con nhớ chưa? Mấy con mà chết mà nằm xuống á, mấy con chết hèn đó. Không có xứng đáng là đệ tử của Thầy đâu. Không có xứng đáng là con cháu của Quang Trung, trần Hưng Đạo đâu nhé. Các con nhớ kĩ đấy. Cho nên theo Thầy tu là phải gan dạ như Phật, như Thầy, chết bỏ đó. Đó là biển nghiệp của mình rồi mà mình không chịu khó mình vượt qua thì mình sẽ bị chìm đó.
Cho nên ở đây Thầy dạy thực tế, trực tiếp, hẳn hòi đánh măt trận sanh tử á. Cho nên những cái pháp mà Thầy dạy mấy con nhớ kỹ, đó là những cái phương pháp chiến đấu đó. Mà nếu mấy con mà không, rời pháp ra thì mấy con. Mình đánh giặc mình bỏ súng thì lấy gì mình đánh. Các con những cái pháo, những cái súng mấy con đánh giặc mà mấy con bỏ pháp ra rồi, tức là mấy con bỏ vũ khí rồi, đầu hàng đó. Cho nên ôm chặt pháp tức là ôm chặt súng mà bắn đó. Chết bỏ đó! Chết mà cũng phải giải thoát chứ không có đầu hàng.
Các con biết không? Bao nhiêu người đổ xương máu trên trận Điện Biên Phủ? Con hiểu không? Bao nhiêu là những binh sĩ, những người dân Việt của mình, những người mà chiến sĩ bỏ ở trên trận Điện Biên Phủ mới đuổi giặc Pháp chứ bộ dễ đâu. Các con hiểu điều đó! Mà bây giờ bao nhiêu sức lực của mình phải tập trung diệt giặc sinh tử chứ, mấy con đầu hàng trước à? Các con hiểu không?
(26:52) Cái gì đi nữa, mình muốn thành công gì nữa phải mồ hôi, nước mắt, phải máu, phải nước mắt của mình chứ! Chớ, giải phóng đất nước của mình là giặc thường thôi giặc Pháp, giặc Mỹ thôi. Nhưng mà giải phóng mà sanh tử, giặc sanh tử của mình là giải phóng nghiệp. Mình phải chuyển nghiệp của mình, thì nó phải gấp trăm ngàn lần cái giặc Pháp, giặc Mỹ chứ. Có phải không? Mà nếu mấy con nhát gan thì mấy con đầu hàng giặc rồi, thì nó muốn làm gì nó làm. Nó muốn bảo con chết, là con chết. Nó muốn bảo con sống là sống. Nó bảo bệnh là bệnh. Nó bảo đau là đau. Mấy con chịu hết chứ mấy con làm gì, bởi vì mấy con bị lệ thuộc nó rồi. Còn như Thầy làm sao mà lệ thuộc nó. Mày giỏi vô đây, tao cho mày một phát là mày đi đời. Phải không? Mấy con tập như Thầy ý chứ.
Đó là những cái điều mà Thầy khích lệ sách tấn con, qua cái gương hạnh của Thầy. Nhất định chết bỏ chứ nhất định không đầu hàng giặc sanh tử đâu. Vượt biển nghiệp mà, không có đầu hàng cái biển nghiệp này đâu. Thầy cũng mang thân như mấy con chứ Thầy có khác gì đâu? Nhưng mà sao Thầy vượt được, còn mấy con cũng mang như Thầy mà tại sao không vượt được? Mấy con cũng thanh niên chứ bộ, phụ nữ kia người ta còn vượt được kia. Các con thấy Trưng Vương, triệu Ẩu không? Người ta cũng cầm gươm người ta đánh giặc như thường chứ có thua ai. Mình có những anh hùng, anh thư rõ ràng mà tại sao mình hèn hạ? Mình con cháu của các vị đó thì mình phải mạnh chứ. Đây là mình đánh giặc sinh tử mà. Con hiểu chưa? Giải phóng quê hương của mình để làm chủ giặc sinh tử không phải sướng sao?! Như Thầy bây giờ làm chủ rồi. Giặc Thầy im rồi, đuổi nó đi rồi. Còn mấy con chưa đuổi đó. Mấy con còn đang bị cai trị đó.
(28:22) Như vậy phải không? Ráng mấy con. Phải không? Cái cuộn băng này là khi nào mấy con mở ra nó sách tấn mấy con dữ lắm. Phải không? Nghe Thầy ý, tao chết nhất định là chết bỏ. Nó có cái giá trị lắm, lớn lắm à con. Con nhớ kĩ. Thầy nói thì nó thường vậy, chứ mà nó sách tấn mấy con ghê gớm lắm đó. Phải ráng mấy con.
(28:43) Phật tử: Con kính bạch Thầy là chúng con càng tu càng thấy cái vĩ đại, mà sau khi Thầy đạt được cái chánh pháp, đắc đạo để cho chúng con được học tập Thầy. Mà bản thân con đã lành được đúng hôm nay là 34 bệnh. Nhưng con nghĩ rằng con chỉ giữ giới mà lành, chứ còn không phải là có cái gì mà đuổi được cả. Cho nên cái phương pháp mà vừa rồi, mấy năm trước đây thì con giữ được, tu đúng là 2h sáng con dậy. Rồi con bảo con không ngủ nữa, nhưng bây giờ con bị hôn trầm mạnh hơn, nó hơn con. Nó hơn con thì con nghĩ là bây giờ là không biết tính thế nào? Bây giờ là nếu như tuổi như con bây giờ con cũng ý như Thầy á, con cũng mạnh mẽ con tu đến cùng, con chết bỏ thì con vẫn cứ giữ như vậy được không Thầy? Và cứ giữ như vậy con giữ ngày nào con cũng thọ Bát Quan Trai và có thời gian con cứ thọ như thế mãi. Có được không ạ?
Trưởng lão: Được con.
Phật tử: Và theo con thì có lẽ do mình ăn hơi nhiều thành ra hôn trầm mạnh, bây giờ con giảm ăn xuống được không ạ?
(29:31) Trưởng lão: Cũng được. Giảm xuống được không có sao đâu. (Dạ) không có gì đâu. (Sư Thiện Nghĩa). Cứ hôn trầm nhiều, con cứ con ăn vừa thôi, đừng có ăn ít. Ăn ít quá cái cơ thể của con nó bị kiệt. Nó vừa bởi mình ăn có một bữa à. Con ăn vừa rồi, đừng ăn quá. Ăn quá là ăn, mình ăn trừ hao đó thì không có được nha. Ăn vừa thôi, ăn trừ hao là bị hôn trầm đó. À, do đó con ăn vừa. Rồi bắt đầu con tập đi Chánh Niệm Tỉnh Giác, là con sẽ phá sạch tụi nó, "Tao cho mày chết đi". Có bây nhiêu đó thôi, Thầy dạy trong này, khi đó trong cái băng mà đi phá những cái hôn trầm thùy miên là con đi Chánh Niệm Tỉnh Giác là con sẽ phá được, bền chí ôm cái pháp đó đi. Cuối cùng nó phải thua thôi.
Phật tử: Bạch Thầy là con chỉ thấy cái 5 hơi thở và đi kinh hành 20 bước của Thầy là phá hôn trầm rất tuyệt vời, nhưng mà nghe bảo là tu 6 tháng như thế sau này không dùng nó, thì con không dùng nữa thì tự nhiên hôn trầm, thì tu con tu lại được không?
Trưởng lão: Khi có hôn trầm thì mình dùng nó, mà không có hôn trầm thì bỏ. (Phật tử: À, vậy ạ) Con hiểu không? Chứ mình tu rồi. Bởi vì mình tu đó là, cũng như là cái vũ khí của mình. Cần thì tao lấy ra tao bắn mày, còn không cần thì tao để đó tao cất, chứ không phải là tao không có tu. Chứ không phải là không tu. Nghĩa là bây giờ nó buồn ngủ, hôn trầm đây mà tao không dùng cái này thì làm sao tao hết được? Mà mày còn thì tao dùng nó, mà mày hết thì tao dẹp nó để một bên. Tao cất kho đó, chứ tao chưa có phải quăng đâu, con hiểu không? Đặng mình tu những cái pháp khác. Nhưng mà nó hiện ra nó phá mình, thì phải dùng cái vũ khí này mà diệt nó chứ, chớ đâu phải bỏ. Con hiểu chưa?
(30:52) Đó, cũng như bây giờ con dùng cái cánh tay này, mà thân con không đau, con đâu có cần dùng nó đâu. Mà nó đau, tao dùng đẩy á. Tao không có tha đâu, tao tập rồi, tao quen cái này rồi. Con hiểu chưa? Tất cả những cái pháp khác đều là tập luyện, coi như là một sĩ quan ở trong quân trường rồi. Khi mà ra chiến trận á, giặc nó áp dụng cái cách thức chiến đấu thế nào thì tao sẽ dùng vũ khí đấy tao đánh á. Bởi vì tao học rồi, hết rồi. Con hiểu không? Chiến thuật, chiến lược nào tao cũng học hết rồi. Thì khi mà mày ló mặt nào ra thì tao biết, tao dùng cái đó tao đánh. Tao học sẵn đây rồi, chứ tao chưa học đâu tao sợ. Các con hiểu không? Nhưng mà đâu có phải tao tập hoài nó đâu. Tao tập hồi trong quân trường thôi. Nhưng mà khi ra tác chiến mà đúng là tao dùng nó tao diệt. Các con hiểu chỗ đó chưa? Cho nên không phải bỏ, mà bỏ. Đó hiểu không. Cho nên cái thời giờ khác con sẽ tiến tới con tu pháp khác, nhưng mà nó ló cái mặt nó ra là dùng cái pháp cũ, diệt. Đó là như vậy là không có mất gì. Đó các con hiểu rồi phải không?
Phật tử: Con bạch Thầy là, con nghĩ rằng bệnh là do nghiệp, cho nên tất cả là do nghiệp cả, nên con bây giờ con không uống thuốc nữa. Một năm nay con uống thuốc, không dùng.
Trưởng lão: Đúng rồi. Nếu mà con không uống thuốc, con giữ giới chuyển nghiệp con. Con đọc cái cuốn mà Văn Hóa Truyền Thống - Tập 2 đó, 17 cái điều lợi ích của giới. Thân có bệnh đau á, giữ giới luật nghiêm chỉnh, ước nguyện là sẽ hết đau. Giới luật nghiêm chỉnh là hết đau. Con thấy chưa? Đó nó, con đọc cái cuốn đó rồi con mới thấy cái giới luật nó tuyệt vời con.
Phật tử: Bạch Thầy con uống thuốc nữa nhưng mà đôi khi vợ con cứ sợ con mà, thì con giả nói giả uống rồi, thì con nói con uống rồi có được không ạ?
Trưởng lão: À, con, bây giờ mà các con nó vậy đó. Thì con thật sự ra nói dối thì không được con. Bây giờ nói: "Tao uống thuốc rồi", nói vậy đừng nói, nhưng mà mình cũng lấy thuốc ra mình để đây cho nó thấy. Rồi, để cho nó thấy là mình đang uống thuốc. Nhưng mà có uống không thì lát nữa tao cất. Mình khéo thiện xảo thôi, chứ không khéo mình nói láo, không được. (Phật tử: Dạ) Mắc tội bởi vì giới luật mà. Con thấy không? Mình giữ giới mà mình lại nói láo thì nó bị kẹt trong cái giới rồi. Không có được! Cho nên con cũng đem thuốc ra để ờ, đó đặng cho nó thấy nhưng mà "để đấy từ từ ba uống, không có lật đật, ’’ phải không? Để đấy đi đi. Rồi bắt đầu, rồi tới chừng nó đi vắng rồi đó thì mình đem dẹp đi, đó thì cái nghiệp của mấy con nó hết.
Thuốc nó uống cái bệnh này nó hết, chứ bệnh khác nó tới. Cái thuốc đó, thật sự ra nó, con bệnh ngặt của con, những cái bệnh đó mà con uống thuốc nó hết cái bệnh đó rồi là nó có bệnh khác á. Bởi vì cái thuốc nó trị cái bệnh này mà nó lại làm hư cái chỗ khác, nó nguy hiểm cho mấy con lắm. Cho nên không cần uống thuốc gì hết, chỉ cần ôm pháp thôi. Thầy nói như thế này này, nếu mà thật sự ra tai nạn giao thông mà gãy cánh tay này cái xương gãy. (Các con đem các con) biết, các con nó gãy rồi, các con sẽ đem, các con cứ ấy nó lại. Các con lấy cây rồi các con bó lại để cho cứng, bởi vì nó gãy rồi, sợ mình cục cựa nó trật. Mình ôm cho chặt, cho chắc, rồi mình bó cho cứng, đừng có, để cho cái xương nó dính nhau lại. Các con dùng tác ý, mấy con tác ý nó liền trở lại hết. Khỏi cần gì đâu mà. Cái phương pháp tác ý của Phật á, nó có sức đề kháng rất mạnh, nó làm cho những cái gì trong thân của nó phải lành lặn trở lại. Nhưng mà tại mình yếu, mình sợ, rồi mình lo cái này, lo cái kia. Mấy con đừng có lo cái gì hết.
(34:08) Phật tử: Con bạch Thầy, sự chiến thắng cái thân nghiệp thì phải là chết sống với nó. Nhưng mà cái nghiệp của gia đình và người thân quyến thuộc, cha mẹ, anh em thì như thế nào thì Thầy giảng con hiểu?
Trưởng lão: À, mình tu nó chuyển lần con. Nó giảm bớt những cái nghiệp chướng ở trong gia đình của mình. Con nỗ lực con tu, con biết nhẫn nhục, tùy thuận, con sống đúng giới luật á. Họ nói gì thì nói, nhưng mà lần lượt nó ảnh hưởng tốt cho gia đình con. "Trời ơi, ông đó tu hay quá, ba tui sao giờ ông hiền quá". Đó, những cái hạnh, hạnh sống của con đó, "mà ông không bao giờ ông đau ông rên la, ông cái này cái kia". Nó lạ lùng, từ đó nó ngạc nhiên, tức là con chuyển nhân quả gia đình con đó. Nó theo đúng chánh pháp đó con! Các con cứ tự nhiên, mình sống đúng cái giới hạnh, mình tu tập đúng pháp Phật, tự nó đi chuyển cả gia đình của mình thuận hết con, nó tốt hết. Sau này các con mình nó trở thành tốt hết con. Cho nên các con yên tâm, các con đừng nói ờ, "bây giờ ba tu vậy, tụi bay cũng phải đọc sách này cho hiểu". Đừng có biểu nó vậy, nó chưa có ngộ, nó chưa có hiểu đâu. Nói nó không có làm đâu.
Nhưng mà mấy con làm được rồi thì bắt đầu nó theo, nó bắt chước mấy con, nó ảnh hưởng như vậy đó con. Cho nên kệ nó. Đừng có nói gì nó, đừng có dạy nó. Mình không có làm Thầy nó được đâu. Con hiểu không? Mặc dù mình làm cha nó được, chứ còn mình không có làm Thầy được đâu. Bảo nó tu nó không có tu đâu. Mình bảo nó ăn chay nó không ăn chay đâu. Nhưng mình ăn chay mình ăn ngày một bữa, lần lượt nó thấy: "Ông già sao ổng làm mà coi ông khỏe quá trời vậy", thì bắt chước, nó bắt chước con. Còn nó ăn, nó uống, cho nó ăn đi. Nó ăn đủ thịt cá, nó ăn này kia, nó cứ đau hoài. "Trời đất ơi ông già ăn kiểu này mà ông mạnh, mà mình ăn vầy mà mình bệnh". Từ đó nó thay đổi con. Các con yên tâm đi.
Các con cứ giữ đúng giới luật của Phật. Các con, thì cơ thể các con nó sẽ mạnh khỏe. Nó chứng minh cho tụi nó thấy, trong gia đình mình thấy, anh em mình thấy. Từ cái thấy của họ thực tế đó, bắt đầu họ mới hướng về Phật pháp. Cái hướng dẫn mình dạy người ta mà không dạy đạo chỗ nào hết. Mình dạy bằng cái thân hành đó, kêu là thân giáo đó. Các con thấy cái đó nó thực tế lắm con, dạy bằng thân giáo đó. Các con bảo, ở gia đình bảo: thấy mình ăn ngày một bữa, họ không chấp nhận đâu. Nhưng mà bắt đầu đó, mình muốn thuận cho gia đình á, thì trong một tháng á, 3 ngày, 4 ngày: "Ba, ba thọ Bát Quan Trai ba phải làm giống như Phật mà". Sau 1 thời gian đó cái mình ăn luôn. Rồi bây giờ làm Phật phải làm luôn chứ không lẽ làm luôn có mấy ngày sao?
(36:16) Mình dần dần mình nói trò, nó nghe có lý lắm, thấy ba ăn ngày một bữa. "Hôm nào tới nay ba ăn một tháng ăn tốn bữa, ba có chết đâu, phải không? Mấy con thấy ba có bệnh đau đâu". Phải không, rõ ràng mà, mạnh khỏe như thường mà. "Bây giờ ba làm luôn tháng nguyên, coi thử coi sao. Thấy nó cũng được luôn thì ba làm luôn chứ sao". Bắt đầu tụi nó thua, phải không? Mình không tranh cãi nó mà bắt đầu: “Mấy con thấy ba ngày một bữa có đâu chết đâu? Mà nó đỡ tốn hao nữa. Mà khỏi, ba khỏi mất công ăn uống nữa. Các con thấy cái nào lợi? Còn mấy con nhai ăn uống rồi, cũng đi cầu này kia, bài tiết ra bỏ hết. Ba cũng bấy nhiêu đó, ba còn ít tốn hao. Mấy con có cực khổ ba nhiều đâu. Có phải sướng không, cái nào sướng? Tụi bây ăn nhiều, bây có sướng hơn ba không? Mà bây còn đau bệnh nhiều hơn nữa. Rồi nóng giận, rồi sanh dục đi chơi bậy bạ, tai nạn xảy ra đủ thứ. Còn Ba vầy ba có đi nhậu nhẹt ai nữa đâu. Không phải sướng không? Còn tụi bay nhậu nhẹt mới là chết đó”. Thấy không, mấy con thấy không?
Đó, từ cái chỗ thân giáo của mấy con, mấy con tu đúng thì mấy con sẽ dạy mấy con. Nó sẽ thấy cái kết quả, nó tin tưởng mấy con lắm. Yên tâm đi mấy con, mấy con cứ thực hiện đúng đi rồi gia đình mấy con tốt. Nó chuyển lần hết à con. Nó thiện pháp nó chuyển cả ác pháp, cái gia đình của mình trở thành tốt. Mấy con yên tâm đi, mấy con cứ nỗ lực tu được.
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Thời lượng: [18:10]
(00:00) Trưởng lão: Hôm nay, có một nhân duyên do một vị Thượng tọa ở Chùa Phi Lai, châu Đốc, đến viếng thăm Tu viện Chơn Như. Với mục đích bài bác giới luật tu hành của chúng ta ở đây.
Ông cho rằng: Ăn ngày một bữa và ngủ có bốn tiếng đồng hồ như vậy là không đủ sức khỏe để tu hành, đó là cách ép xác, khổ hạnh, vô lý.
Ông ta xin đến gặp Thầy Phương Trượng và hỏi:
Bạch Thượng tọa, Tu viện ở đây tu pháp môn gì?
Trưởng lão: Chúng tôi ở đây tu pháp môn Giới, định, tuệ.
Thượng tọa Chùa Phi Lai: Bạch Thượng tọa, chúng tôi nghe ở đây Tu viện chấp giới luật rất khắt khe, có phải vậy không?
Trưởng lão: Đúng vậy.
Thượng tọa Chùa Phi Lai: Bạch Thượng tọa, xin phép Thượng tọa cho chúng tôi được hầu chuyện với Thượng tọa.
Trưởng lão: Được. Có vấn đề gì Thầy cứ thưa hỏi.
Thượng tọa Chùa Phi Lai: Xin phép Thượng tọa, Thượng tọa có phải là Viện chủ của Tu viện này không?
Trưởng lão: Phải.
Thượng tọa Chùa Phi Lai: Xin phép Thượng tọa, Thượng tọa có phải là Thầy Thích Thông Lạc không?
Trưởng lão: Phải.
Thượng tọa Chùa Phi Lai: Bạch Thượng tọa, trong khi hầu chuyện, con có những sơ sót, lỗi lầm, xin Thượng tọa tha thứ cho.
Trưởng lão: Không có chi cả, Thầy cứ tự nhiên mà thưa hỏi.
(01:31) Thượng tọa Chùa Phi Lai: Bạch Thượng tọa, nếu một người tu Thiền Định mà còn chấp giới luật thì con e rằng còn kẹt trong giới luật chăng?
Trưởng lão: - Kẹt như thế nào?
Thượng tọa Chùa Phi Lai: Thưa Thượng tọa, trong "Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất" có dạy: "Còn tụng kinh, còn Niệm Phật, còn giữ giới luật là còn bị trói buộc". Mà còn bị trói buộc thì làm sao gọi là tự tại, vô ngại, giải thoát?
Trưởng lão: Vậy, tự tại, vô ngại, giải thoát như thế nào?
Thượng tọa Chùa Phi Lai: Bạch Thượng tọa, đói ăn, khát uống, mệt đi ngủ. Đó là sự tự tại, vô ngại, giải thoát. Như xưa kia, thượng sĩ Tuệ Trung ăn thịt cá, uống rượu với các quan trong triều rất tự nhiên.
Người chị của Thượng sĩ Tuệ Trung thấy thế mới hỏi:
- "Tại sao em tu theo đạo Phật mà còn ăn thịt cá, uống rượu như vậy?"
Thượng sĩ Tuệ Trung trả lời:
"Em là em, em không phải là Phật, Phật không phải là em. Giới luật là giới luật, giới luật không phải là em, và em cũng không phải là giới luật".
Bạch Thượng tọa, lời nói rất là giải thoát. Không có một hạt bụi nào ở thế gian làm vấy bẩn được Ngài. Dù là pháp môn xuất thế gian như của Phật, giới luật cũng không trói buộc Ngài được. Bạch Thượng tọa, theo con nghĩ, qua lời dạy này chứng tỏ ai còn kẹt trong giới luật là chưa giải thoát.
(3:08) Trưởng lão: Thầy nói đúng đấy. Nhưng đúng ở góc độ của Thiền Đông Độ, không phải thiền của đạo Phật. Sự tự tại, vô ngại, giải thoát này của Thiền Đông Độ, chứ không phải là sự tự tại, vô ngại, giải thoát của đạo Phật. Cho nên hầu hết các Thiền sư Đông Độ không có phạm hạnh, phá giới luật, như Lâm Tế chém rắn, Nam Tuyền sát miêu, Phần Dương làm cỗ thịt cá đãi chư Tăng, thượng sĩ Tuệ Trung ăn thịt cá, uống rượu.
Thượng tọa Chùa Phi Lai: Bạch Thượng tọa, nếu Thượng tọa bảo rằng: "Thiền Đông Độ là không phải của Phật giáo", vậy chứ trên Hội Linh Sơn ai niêm hoa, và ai mỉm cười?
Trưởng lão: Đó là một câu chuyện bịa đặt sau này. Trong kinh tạng Nguyên Thủy, đức Phật không có người thừa kế. Lời di chúc cuối cùng của Người dạy con người: "Lấy giới luật làm Thầy". Giới luật là người thừa kế của đức Phật mà thôi.
Thượng tọa Chùa Phi Lai: Bạch Thượng tọa, vậy kinh điển Đại thừa không phải Phật thuyết sao?
Trưởng lão: Vấn đề này chúng tôi xin miễn bàn. Ai muốn hiểu sao cũng được. Đây cũng là duyên nghiệp của chúng sanh chưa gặp được chơn pháp.
(Thầy Phương Trượng lái câu chuyện vào chủ đề)
(04:33) Trưởng lão: Thầy biết tam vô lậu học là gì không?
Thượng tọa Chùa Phi Lai: Bạch Thượng tọa, là Giới, Định, Tuệ.
Trưởng lão: Vậy Giới, Định, Tuệ là ba pháp môn tu tập làm cho hết lậu hoặc, cho nên gọi là vô lậu. Vậy Giới là một pháp môn trong ba pháp môn của tam vô lậu học.
Giới là một pháp môn để tu tập chứ không phải là giáo điều. Nó cũng không phải như pháp luật thế gian, bắt buộc mọi người phải tuân theo, phải giữ gìn, không được vi phạm.
Giới luật của đạo Phật không có trói buộc ai hết, vì nó là một pháp môn để tu, giải thoát tâm con người ra khỏi tam độc tham, sân, si. Vì thế, giới luật ghép liền với các pháp môn khác như Thiền Định và Trí Tuệ.
Ở đây, chúng tôi dùng pháp môn giới luật để tu tập tâm mình, làm cho tâm được thanh tịnh, giải thoát khỏi lậu hoặc. Nói một cách khác, là làm cho tâm khỏi ô nhiễm ngũ dục lạc thế gian. Đó mới thực tế giải thoát của đạo Phật.
Vậy bảo chúng tôi chấp Giới, mà chấp Giới để làm gì? Để được người ta khen mình giữ gìn giới luật nghiêm túc? Như vậy, chúng tôi tu để được khen chứ không phải để giải thoát. Lấy giới luật trói buộc mình có lợi ích gì? Hay để khỏi bị tù tội? Hay là để khỏi bị tẩn xuất, lột áo ra khỏi Tăng đoàn? Nếu đi tu mà còn sợ hãi như vậy thì đi tu mà làm gì?
Bây giờ tôi xin hỏi Thầy, Thầy cứ thật mà trả lời. Ví dụ: Thầy lấy một cục phèn chua để lóng nước trong, khi nước đã lóng trong rồi, Thầy còn dùng cục phèn đó nữa hay không?
(06:38) Thượng tọa Chùa Phi Lai: Bạch Thượng tọa, không.
Trưởng lão: Như vậy, chúng tôi dùng giới luật tu tập khiến cho tâm chúng tôi được thanh tịnh. Khi tâm được thanh tịnh, thì chúng tôi còn dùng giới luật để tu hành nữa hay không?
Thượng tọa Chùa Phi Lai: Bạch Thượng tọa, không.
Trưởng lão: Như vậy lúc nãy sao Thầy bảo rằng chúng tôi chấp giới? Bây giờ tôi hỏi Thầy lại nữa, Thầy cứ thật mà trả lời. Lúc bấy giờ nước đã trong, Thầy có dùng đất, bụi dơ để làm nước đục, dơ trở lại không?
Thượng tọa Chùa Phi Lai: Bạch Thượng tọa, không.
Trưởng lão: Như vậy chúng tôi ở đây tụ tập giới luật, ăn ngày một bữa, ngủ hai, ba tiếng đồng hồ. Còn trước kia khi chưa tu tập, chúng tôi ăn ngày ba bữa, và còn ăn uống lặt vặt, bánh, trái cây và nước ngọt nữa. Ngủ thì suốt bảy, tám tiếng đồng hồ mà còn ham ngủ nữa. Nhờ tu giới luật mà chúng tôi đã thoát ly ngũ dục lạc thế gian. Hiện giờ, chúng tôi thảnh thơi, giải thoát hoàn toàn, không thấy đói, không thấy khát, không còn bận bịu lo ăn, lo uống, không còn bận lo nấu, lo nướng và cũng không còn thèm ăn uống lặt vặt như trước kia nữa. Còn ngủ thì chúng tôi chỉ ngủ hai, ba tiếng đồng hồ mà thôi. Ăn và ngủ như vậy mà sức khỏe chúng tôi vẫn mạnh khỏe, lao động tốt không thua kém ai.
Được sống như vậy, bây giờ chúng tôi ăn uống ngủ nghỉ trở lại như lúc chưa tu thì chúng tôi có thể làm được hay không? Khi chúng tôi đã tự biết rõ đây là một sự giải thoát chơn thật của chúng tôi.
Thượng tọa Chùa Phi Lai: Bạch Thượng tọa, không.
Trưởng lão: Như vậy chúng tôi có chấp Giới không?
Thượng tọa Chùa Phi Lai: Bạch Thượng tọa, không.
(08:19) Trưởng lão: Tự tại, vô ngại, giải thoát mà còn chạy theo ngũ dục lạc, ăn, ngủ, nghỉ như Thầy đã nói lúc nãy: "Đói ăn, khát uống, mệt đi ngủ". Như vậy, khi nửa đêm nghe bụng đói thức dậy lấy nồi nấu cơm đến gần sáng mới được ăn. Và như vậy đó là tự tại, vô ngại, giải thoát sao?
Cũng như nói mệt ngủ, ví dụ lúc năm giờ sáng, hoặc bảy giờ chiều, có khi tám giờ tối, cũng có lúc mười giờ đêm hoặc hai giờ khuya, hoặc ba giờ sáng. Lúc đó cảm thấy mệt liền đi ngủ, ngày hôm sau lại ngủ khác giờ giấc, vì lẽ mệt mới đi ngủ, và sự ngủ, nghỉ không chừng đổi như vậy. Và một vị Thiền sư ăn, ngủ không điều độ, tức là con người sống không có chừng mực, hứng hồi nào thì ăn ngủ hồi đấy. Cái lối sống như vậy mà gọi là tự tại, vô ngại, giải thoát sao? Thầy nghĩ gì về cái nếp sống như vậy? Người thế gian còn cũng không thể sống như vậy được. Câu nói thoáng nghe qua thì rất hay, nhưng xét kỹ thì đó là những lời dối gạt thiên hạ. Chúng tôi tu hành, ăn uống phải điều độ, ngủ nghỉ phải có giờ giấc nghiêm túc. Không phải muốn ăn hồi nào là ăn, muốn uống hồi nào là uống hoặc muốn ngủ hồi nào là ngủ. Phải đúng giờ, đúng giấc đã định của chúng tôi.
Nghĩa là chúng tôi làm chủ được cái ăn, cái ngủ của mình. Chứ không phải: "Đói ăn, khát uống, mệt đi ngủ" như Thiền Đông Độ. Nếu không làm chủ được cái ăn, cái uống của mình thì mong gì làm chủ được cái tâm? Trong thiền sử Trung Hoa có nhắc lại một vị Thiền sư đi đến một ngôi chùa xin ở tu hành. Vị Trụ trì chấp nhận, nhưng ông ta cứ ăn rồi ngủ li bì. Một hôm, vị Trụ trì đến hỏi:
-"Sao ông đến đây tu hành mà không thấy tụng kinh, Niệm Phật, ngồi thiền gì hết?"
(10:16) Ông ta đáp:
-"Đó là để kẻ còn đói, chưa no mà ăn thôi."
Đây là sự tự tại, vô ngại, giải thoát của Thiền Đông Độ. Cái mà Thiền Đông Độ gọi là giải thoát thì chúng tôi không dám bàn đến. Vì hai con đường đi về hai mục đích khác nhau. Cho nên chúng tôi tu theo Phật giáo không thể gặp họ ở một điểm cố định được.
Nếu xét cho kỹ, người thế gian đang quay cuồng trong ngũ dục lạc, chạy theo tâm tham muốn của mình thì cũng gọi là tự tại, vô ngại, giải thoát. Họ cũng đang chạy theo tâm tham muốn dục lạc. Nên bảo: "Đói ăn, khát uống, mệt ngủ". Nghĩa là tâm mình ham ngủ là đi ngủ, ham ăn là đi ăn, ham uống là đi uống. Còn cái đói, cái khát, cái mệt là cái để chúng ta tu tập làm chủ lại nó. Chứ không phải chạy theo sự sai bảo của nó. Vì chính chỗ giải thoát này, mà chúng tôi lấy pháp môn giới luật tu tập cho hết đói, cho hết khát, cho hết mệt.
Vậy ăn ngày một bữa có đói không? Nếu một người chưa tu giới luật thì họ phải thấy đói, còn một người đã tu giới luật rồi thì họ vẫn cảm thấy không đói. Nếu bảo rằng đói, thì chúng tôi đâu có sống được như thế này. Con người ăn uống và ngủ nghỉ không điều độ, không đúng giờ giấc thì cái đó không phải giải thoát của đạo Phật.
Cho nên, câu nói: "Đói ăn, khát uống, mệt đi ngủ" đó là lời bào chữa cái tâm chạy theo ngũ dục lạc thế gian, để che đậy cái không làm chủ của mình.
(12:12) Về ngủ, đối với một vị Thiền sư khi mệt không cần ngủ, chỉ cần tọa thiền, nhập định trong giây lát là hết mệt. Vậy mệt có cần ngủ không? Hay mệt đi ngủ theo kiểu thế gian? Thì đó là ham ăn, ham ngủ của dục lạc.
Để kết thúc buổi nói chuyện hôm nay, chúng tôi đã nhận rõ được sự giải thoát tâm mình bằng pháp môn giới luật rõ ràng và cụ thể trong cuộc sống của chúng tôi hiện giờ. Cho nên dù bất cứ một luận thuyết nào cũng không bài bác chúng tôi được. Vì sự tu hành chúng tôi thực tế và rất khoa học.
Bởi con đường của đạo Phật "Thiết thực, không có thời gian, đến để mà thấy". Nếu ai chưa đến với đạo Phật thì không thấy, còn những ai đã đến với đạo Phật chỉ trong một ngày, một đêm cũng vẫn thấy được sự giải thoát ngay liền trong tức khắc. Đó là con đường đúng của đạo Phật. Còn tu lạc pháp môn khác không phải là của đạo Phật thì không được như vậy. Còn pháp môn Thiền Định mà Thầy vừa nói đó là chạy theo ngũ dục lạc bằng cách lấy vải thưa che mắt mọi người "Đói ăn, khát uống, mệt đi ngủ". Còn nếu bấy giờ, chúng tôi ăn ngủ trở lại, hoặc giết hại chúng sanh, hoặc tà dâm, vọng ngữ, uống rượu để bảo rằng không chấp giới. Như Lâm Tế, Nam Tuyền, Phần Dương, thượng sĩ Tuệ Trung (thì) gọi là vô ngại, giải thoát không phải là sự giải thoát của đạo Phật (thì) là sự giải thoát của Thiền Đông Độ của Nhật Bổn. Thì chúng tôi không có ý kiến gì về vấn đề này.
(14:06) Theo chúng tôi nghĩ, tất cả chúng sanh trong cõi thế gian này đều có tạo duyên với các pháp môn. Ai có duyên với Pháp môn nào thì tu theo pháp môn nấy. Đừng lý luận tranh cãi hơn thua mà sanh ra không tốt cho Phật pháp. Chúng ta hãy tùy duyên của mỗi chúng sanh mà đến với Phật pháp. Nếu chúng ta đến với đạo Phật là phải đến với tam vô lậu học. Và phải tu ba pháp môn này. Không thể ngoài ba pháp môn này mà còn có cái gọi là đạo Phật khác nữa. Bởi chúng tôi đã từng sống bằng ba pháp môn này, nên thấy sự lợi ích giải thoát của nó thiết thực cho đời sống của chúng tôi. Rất thực tế, hơn là những lời nói suông mà Thầy đã nói: "Đói ăn, khát uống, mệt đi ngủ".
Bởi con đường của đạo Phật dạy chúng tôi:
"Dùng giới mà ly dục, dùng thiền mà đoạn dục, dùng trí tuệ mà giải thoát".
Mùa hạ năm ấy, đức Phật cùng 500 vị Tỳ kheo đang an cư kiết hạ. Có một người đến hỏi đức Phật:
"Bạch Đức Thế Tôn, trong số Tỳ kheo đang theo tu tập dưới sự hướng dẫn của Thế Tôn, tất cả 500 vị này có thành tựu đạo giải thoát hết hay không?"
(15:24) Đức Phật trả lời:
"Ở đây, chúng tôi tu hành đều thành tựu cả. Hiện giờ, có 90 vị đã chứng trí tuệ, 90 vị đã chứng Thiền Định, và còn lại bao nhiêu đều chứng giới luật".
Như vậy, Thầy thấy rõ ràng người đến với đạo Phật đều có sự chứng đắc giải thoát trong cuộc đời đầy đau khổ này. Ở đây chúng tôi cũng vậy, tuy số Tăng rất ít nhưng chúng tôi cũng có sự thành tựu như thời đức Phật. Không có người nào không chứng đắc.
Con đường của đạo Phật đã vạch rõ cho chúng tôi một lối đi rất rõ ràng và cụ thể. Không còn mơ hồ, hư ảo. Chúng tôi chỉ cần cứ theo đó đặt trọn niềm tin với một nghị lực, một ý chí sắt đá, một tấm lòng kiên trì, dũng mãnh của mình để tiến bước. Chúng tôi tin chắc rằng, sớm muộn gì chúng tôi cũng đạt được mục đích này mà thôi.
(16:34) Trưởng lão: Vậy, hôm nay Thầy còn ý kiến gì về giới luật của chúng tôi tu ở đây nữa hay không?
Thượng tọa Chùa Phi Lai: Bạch Thượng tọa, nếu Thượng tọa không chê con lớn tuổi, và con còn có thể tu được, xin Thượng tọa nhận con về đây tu hành.
Trưởng lão: Xưa, Hiếp Tôn giả đã 80 tuổi mà còn theo đạo Phật tu hành đắc quả A La Hán. Huống hồ, Thầy năm nay mới 74 tuổi và sức khỏe cũng còn khá lắm. Nhưng có điều vì tuổi đã lớn, từng sống quen trong các chùa, cho nên bây giờ ăn ngủ trở lại như chúng tôi là một điều rất khó đối với Thầy. Vả lại, hiện giờ chúng tôi đang nhập thấp, nên không có ai hướng dẫn tu hành và kỷ luật Tu viện không nhận những người đến trong khi Tu viện chưa mở khóa tu.
Vậy, Thầy hãy chờ đợi khóa sau. Và bây giờ, Thầy về tu tập giới luật trở lại, ăn và ngủ cho quen dần. Sau khi được nhập Tu viện, thì Thầy sẽ theo kịp chúng tu hành mà không còn gặp khó khăn nữa.
Thượng tọa Chùa Phi Lai: Bạch Thượng tọa, con xin ghi nhớ và cố gắng thực hiện. Cho đến khi Tu viện mở khóa con sẽ trở lại, xin Thượng tọa nhận con.
Đến đây buổi nói chuyện đã chấm dứt. Được nghe thuật lại buổi nói chuyện của Thầy với một vị Thượng tọa ở Chùa Phi Lai, Châu Đốc. Thì quý thầy cần suy ngẫm và suy ngẫm con đường tu hành của chúng ta. Xin chấm dứt.
HẾT BĂNG
ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐÚNG-PHẬT TỬ LONG HẢI
Ngày Thầy giảng: 14/08/2009
(00:00) Sư Minh Trí: …Và ngày hôm qua mà Thầy xuống, vậy là con nói với chúng là Thầy xuống thì Thầy vẫn còn mệt, cho nên mình chưa tập được. Hôm nay con tranh thủ khi sáng mà con xuống, xuống đây đó là Thầy mừng, chào Thầy đi.
Thành thử ra là con có viết cái giấy tờ, hồi trưa khoảng một giờ mấy, con tranh thủ con xuống đây, xuống đây Thầy chưa về thì con cũng hơi nản một chút, không biết làm sao gặp Thầy đây? Con chỉ gặp Thầy là thưa với Thầy là con cũng muốn học theo Pháp của Thầy, vì sao? Vì con thấy quý thầy ở trên Thường Chiếu, thầy nào tu rồi cũng mang bệnh. Tại sao tu rồi cũng mang bệnh? Như chỗ đó, như người tu là không có bệnh, mà tại sao người tu, người nào cũng bệnh rề rề? Đến nỗi ông thầy gì là em của thầy Hòa Thượng, ông Sáng! Bị bệnh, đi rồi, chết rồi, mà ung thư chứ đâu phải!
Cho nên từ cái đó, con thấy, con còn phân vân lắm. Hôm nay con gặp Thầy, chỉ mong Thầy chỉ cho con một Pháp, con học với Thầy về cái Pháp đó.
Cái thứ hai nữa là mấy thầy ở dưới này, con về, trong những ngày mà con lên gặp Thầy thì con nói là Thầy Thông Lạc ở một chỗ ở, con thấy rất là đúng với Pháp của Phật là Thầy không có bành trướng ra ở chùa to Phật lớn, mà Thầy ở từ cốc này qua cốc nọ. Cho nên con thấy, thì mấy ông có bài bác con chỗ này: “Thầy Thông Lạc hiện nay là tu hơi lệch cái Định Không Tưởng của thầy Hòa Thượng.” Con mới hỏi tại sao thầy dám nói như vậy? Thì mấy thầy ấy cho biết là Thầy tu theo đường lối Diệt Tận Định. Còn thầy Hòa Thượng thì Định Huệ song tu, Định cùng với Huệ, Huệ cùng…Thành thử ra con cũng không rành chỗ đó.
Từ đó con mới tìm Thầy để hỏi, xin Thầy từ bi chỉ dạy cho con cái đó. Một cái thứ nhất là về vấn đề cái Pháp của Thầy tu. Một cái thứ hai là về cái đường lối của Thầy.
(02:17) Trưởng lão: Bây giờ Thầy nói về đường lối của Hòa Thượng với đường lối của Thầy. Đường lối của Hòa Thượng là cái chiều rộng, nó không phải là chiều sâu, cho nên quý thầy phải bệnh tật. Cái chiều rộng nó, cái lời giảng của Hòa Thượng, cái chiều rộng chúng ta thấy, chúng ta đối xử này kia, điều đó đem đến cho chúng ta sự an ủi. Còn cái chiều sâu thì nhìn rõ ràng là Thiền Định Hòa Thượng dạy không có chiều sâu đâu. Nếu mà chiều sâu thì quý thầy không có bệnh. Có đúng không?
Bây giờ Hòa Thượng dạy như vậy mà chiều rộng để mà chặn đứng người ta đừng có tu theo tà pháp ngoại đạo mà thôi. Chứ không khéo người ta tu Thiền xuất hồn hoặc thiền này kia, rồi đủ loại hết. Người ta có đi đến đâu mà nhiều khi người ta trở thành… những cái thiền tai hại, phải không? Hòa Thượng đã có chiều rộng để mọi người ta thấy đây là Chánh Pháp như vậy, như vậy đó.
Nhưng mà chiều sâu, là người nào thực hiện chiều sâu? Chiều sâu phải đi từ Giới, Định, Tuệ. Cho nên cái người tu Giới, Định, Tuệ, Giới là Đức Hạnh, Đức làm người và Đức làm Thánh. Thầy nói như thế này là một vị Thánh Tăng thì làm sao mà ăn ba bữa như người phàm phu. Ăn một bữa là đúng với Thánh chứ, bởi vì không còn tham đắm. Ngay chỗ ăn đó là cái dục rồi, phải không?
Mà quý vì còn chiều ăn, sáng ăn rồi uống sữa, uống này kia thì như vậy rõ ràng là còn chạy theo cái dục của khẩu nghiệp của mình chứ gì? Như vậy là quý thầy bây giờ, Phật tử cung cấp này kia, cúng dường nhiều quá, rồi ăn không hết, mập ù thành ra phải bệnh thôi chứ sao? Bệnh là do cái ăn mà bệnh chứ. Còn người ta ăn một bữa làm sao người ta bệnh được! Như Thầy bây giờ ăn một bữa, quý thầy so với Thầy ăn một bữa được không? Mà Thầy giải thoát! Sáng Thầy khỏi ăn, Thầy ngồi chơi thanh thản. Tu hành đâu phải ngồi thiền loại đó đâu, loại thiền ức chế, cái hình thức thiền đó, để giữ người ta đừng có đi vào cái đó chứ nó không có đi sâu được đâu.
(04:18) Còn Thiền của Phật- người ta vừa tỉnh thức ở đây thì người ta xả tâm, người ta không có để cho đi vào chỗ phạm. Bây giờ Sổ tức này, Tùy tức, đều là thiền ức chế. Mà Thiền của Phật dạy, Định Niệm Hơi Thở Phật dạy, cũng hơi thở, mà Phật dạy như thế nào? Dạy rất rõ, Đức Phật, thí dụ như dạy rất rõ là như thế nào? “Hít vô, tôi biết tôi hít vô. Thở ra, tôi biết tôi thở ra”, tức là không phải là mình để tự ngầm trong đó, mình hít thở ra, thở vô, mà phải hướng tâm nhắc nó, tác ý ra.
Mà mình nói mình tác ý ra, mình bị động sao? Lẽ đương nhiên là chúng tôi muốn tu cái định “Diệt Tầm, giữ Tứ”, tức là diệt cái vọng tưởng đó thì tôi cần phải tác ý ra. Mà tác ý ra không có nghĩa là tôi cái tác ý cái chỗ này- tác ý để mà tỉnh thức trong hơi thở- đó là cái thứ nhất.
Cái thứ hai thì Đức Phật dạy tiếp, chúng ta thấy rất rõ là: “Quán ly tham, tôi biết tôi hít vô. Quán ly tham, tôi biết tôi thở ra”. Cái "hơi thở ra" và "hơi thở vô" là để chúng ta tỉnh thức trong hành động của hơi thở, nhưng "ly tham" chính là chỗ xả tâm.
Còn bây giờ mình biết hơi thở ra, hơi thở vô mà mình không ly cái gì hết thì tức là ức chế cái tham, sân, si của mình rồi. Cho nên cuối cùng quý thầy tham ăn, tham ngủ…đủ loại, cho nên quý thầy vẫn ngơ. Bây giờ quý thầy có ngồi ba, bốn tiếng đồng hồ, quý thầy vẫn gục. Càng ức chế, quý thầy là tự làm khổ mình chứ đâu có gì là giải thoát, phải không? Con thấy không?
Cho nên Phật dạy Định Niệm Hơi Thở chứ đâu phải là Quán Sổ Tức Quan. Con không có đọc những cái, bởi vì con chưa có duyên gặp Thầy, con sẽ đọc sách của Thầy, con sẽ thấy Phật dạy như thế nào, Thầy dạy như thế nấy. Thầy đi con đường này, Thầy đã thấy rõ. Cho nên ở đây muốn giải thoát hay là tu ăn, tu ngủ? Hay là muốn tu "chùa to tháp lớn" hay "Phật lớn"? Nếu mà "chùa to Phật lớn" thì mình dính mắc rồi, mình đâu xả bỏ được. Như vậy là mình là nhà giàu rồi.
(0606) Vô thấy cơ sở của quý thầy, thật sự ra từ cái thất của quý thầy, Thầy nói thật sự ra cái nhà giàu, họ cũng thua. Còn ăn uống thì nhìn cái giường chõng của họ mà để nào sữa, nào bơ, này kia. Thầy nói thôi rồi, cái chuyện này quý thầy tu ăn, tu ngủ, tu thực phẩm, tu giàu sang chứ đâu phải quý thầy tu giải thoát! Giải thoát thì quý thầy bỏ, phải ở hang, ở rừng, ở núi, ở chòi tranh, vách lá mới là giải thoát chứ! Quý thầy tu cái kiểu này là quý thầy chôn chặt mình ở trong dục lạc thế gian rồi.
Thầy qua thăm thầy Phước Hảo, giở cái giường lên, nào sữa, nào này kia, đủ thứ, cho nên thầy bệnh là phải. Mà thầy đâu có ăn được. Rõ ràng là Phật tử cúng dường mà thầy ăn được, thầy ăn gạo lứt, muối mè à. Nhưng mà sự thật ra, cúng dường thì thầy để đó, rồi để cho người này, người kia chứ thầy đâu có ăn được. Nhưng mà để đó làm gì?
Cuối cùng đó là, Thầy nói, Thầy nhìn thấy cái sai, ăn uống của quý thầy quá sai. Sáng này, trưa này, chiều, lao động, còn thêm uống nước này kia nữa. Trời ơi! Ăn còn sung sướng hơn người ngoài đời nhiều! Mà trong khi mình có làm cái gì ra tiền đâu, bao nhiêu mồ hôi, nước mắt người ta cúng dường?! Quý thầy sẽ thọ tội này! Thầy nói thẳng nói thật.
Bởi vậy cho nên Phật dạy chúng ta tu Định Niệm Hơi Thở. Nghĩa là nương vào hơi thở để tỉnh thức xả tâm, chứ không phải nương vào hơi thở để mà ức chế tâm.
Sư Minh Trí: Dạ, hai cái đó. Không có sai.
(07:31) Trưởng lão: Cái đó sai mà. Phật dạy:
“Quán ly tham, tôi biết tôi hít vô. Quán ly tham, tôi biết tôi thở ra”.
“Quán ly sân, tôi biết tôi hít vô. Quán ly sân, tôi biết tôi thở ra”.
Thì chữ "ly sân", "ly tham" này là cái xả tâm, nó là cái pháp hướng mà trong kinh Phật dạy, gọi Như Lý Tác Ý. Như cái lý của Đạo mà tác ý nó ra để mà cho nó hết tham, sân, si.
(07:50) Cũng như bây giờ con ngồi thiền, phải không? Con ngồi, con hít thở, con nói: "Tâm như cục đất, tôi biết tôi đang thở". Con chỉ cần nói vậy thôi! Mà đất thì nó không sân, không si, ai chửi, ai mắng, nó đâu có giận hờn, mà tâm mình như cục đất thì là giải thoát chứ gì! Con hiểu không?
Mà bây giờ mà cứ ngồi hít thở và không nói nó như cục đất thì nó làm sao nó biết đâu mà nó như cục đất- cái tâm của mình- chứ. Mình phải có cái lệnh truyền, mình huấn luyện cái tâm của mình, chứ khi không mà nó trở thành thuần thục sao được! Cái tâm này là cái tâm tham đắm, cái tâm giận hờn, cái tâm phiền não mà muốn cho nó đừng tham đắm, đừng sân hận, đừng phiền não thì phải ra lệnh, phải điều khiển, phải hướng dẫn cho nó, thường nhắc nhở nó, cho nên bây giờ nhắc nó làm theo.
Còn bây giờ không nhắc, nó cứ ngồi ỳ như là mình ức chế nó vậy. Mình nói bây giờ mình thấy các pháp như mộng, như huyễn, như hóa đóm. Đó là lối mình trốn tránh thôi. Còn bây giờ người ta đang ngồi, người ta đâu có thấy nó là hoa đốm, hư không gì, người ta không thấy. Nhưng mà ta biết cái tâm nó ngủ ngầm trong này. Tham, sân, si nó đang ngủ trong này nè.
Bởi vì cái tâm phải ly ra: "Tâm như cục đất, không giận hờn nữa nha!" Phải không? Con thấy không? Mình nhắc nó như vậy, mai mốt người ta chửi, nó không giận hờn. Bởi vì cái đó là lực Đạo, cho nên: "Dẫn tâm vào Đạo, chứ dừng dẫn Đạo vào tâm!". Dẫn tâm trở về sự giải thoát- ly tham, ly sân, ly si.
Còn mình "dẫn đạo vào tâm" là mình học cho nhiều, mình nghe băng cho lung. Nhưng mà cuối cùng không có tập giải thoát. Cho nên gì vậy mà cứ lo ăn, lo ngủ, lo chùa to, tháp lớn để cuối cùng quý thầy nô lệ cho cái vật chất, quý thầy chết.
(Mấy giờ rồi?)
(09:31) Thì con mới thấy tại sao quý thầy đau? Ăn cho nhiều, thì nó phải đau thôi! Phật tử cúng cho nhiều, ăn cho nhiều.
Chứ còn Thầy ăn một bữa, làm sao Thầy ăn nhiều được? Cái gì Thầy cũng ăn một bữa thôi! Uống cũng vậy, một bữa. Tức là Thầy giải thoát hoàn toàn, ngay cả ăn Thầy giải thoát, ngay cả ngủ Thầy tập, Thầy cũng giải thoát- không còn si.
Do đó, từ đó, bởi vì Phật nói: "Ta nói Giới Luật tức là Ta nói tâm ly dục, ly ác pháp". Người giữ gìn Giới Luật, tức là người ly dục, ly ác pháp.
(10:00) Mà bây giờ quý thầy không giữ gìn Giới Luật, Giới Luật phá sạch, bẻ vụn Giới ra. Trong Giới Luật, Phật dạy người tu sĩ mà ăn phi thời, nghĩa là ăn một bữa thì được, mà ăn nhiều bữa, tức là phi thời thì người đó sẽ bị đọa địa ngục.
Tội Ba Diệt Đề mà, định cho cái tội của người đó mà. Thật sự họ đọa địa ngục, họ phải đau đó, đau là địa ngục chứ cái gì? Nó khổ sở! Đó, thì con thấy không?
Cho nên vì vậy mà khi đó người tu sĩ phải ăn ngày một bữa, không ai mà ăn hai, ba bữa, mình còn tham đắm cái gì? Bỏ hết rồi, mình còn gì? Đời mình vứt hết rồi, bây giờ mượn cái Đạo để mà làm cuộc đời sao?
Rõ ràng là quý thầy mượn Đạo, lợi dụng Phật tử, gạt gẫm Phật tử, lừa đảo Phật tử lấy tiền để tạo cái giàu sang, cái danh lợi. Thậm chí như làm việc từ thiện. Sao bây giờ nhà nước không kêu, mình không mang tiền đi cho những người nghèo? Để đợi người ta kêu, mình đi làm, làm để cho người ta khen, người ta nói mình từ thiện này kia, con thấy cái này đâu phải là từ thiện của họ đâu?!
Bây giờ không lẽ trong cái tỉnh này lại không có người khổ sao? Tại sao mình không dành dụm tiền ăn của mình, để mà đi tìm những người mà trong cảnh khổ, để mình giúp họ. Đợi ngoài kia bị bão lụt hay này kia rồi, nhà nước kêu gọi chùa này, chùa kia hoặc giáo hội phải tập trung kêu Phật tử này kia, đóng góp để cứu trợ người ta. Bắt đầu đi ra, kêu gọi là mượn cái đó làm danh của mình, vậy thôi có gì đâu! Có phải từ thiện không? Nếu thương người thì phải thương luôn luôn chứ, tại sao đợi người ta gọi mình mới đi làm, phải không? Có đúng không? Con thấy, bởi vì cái đó là cái sai.
Còn bây giờ mình nói mình dựng lên chùa chiền này kia, cho nó sang, đẹp đẽ, để làm cảnh quan lịch sử hoặc cái này, cái kia nọ. Mình nói, mình luận như vậy chứ sao! Tu hành là làm sao, tôi tu là tôi phải làm như vậy, chứ không thể nào tôi tạo cảnh quang cho mấy người đi tham quan. Tôi đâu có lệ thuộc vào cái chỗ đó, nói bây giờ làm như vậy là nó trở thành những khu văn hóa. Tôi không cần, văn hóa của dân tộc là đơn giản là thuần, thuần thục của nó đơn giản nhất. Phật Giáo là như vậy, chứ không phải Phật Giáo là cất chùa to, Phật lớn đâu! Nhất định tôi không bị lệ thuộc cái này. Như vậy là mình mới giải thoát. Còn mấy ông bắt tôi thế tục hóa mà, người giàu có nhà lầu, ông thầy chùa cũng có nhà, cũng sang giàu, đâu phải!
(12:26) Sư Minh Trí: Dạ bạch Thầy, thưa với Thầy cái câu này thì còn chưa nghe Phật nói, nhưng mà ở thế giang nói, cũng phổ biến: “Phật pháp bất ly thế gian pháp”, cái đó có đúng không là cái thứ nhất?
Cái thứ hai nữa là trong cái thời gian mà con lên Thầy, cách đây cũng hơn hai năm, cái khoảng giữa thời gian đó, con có đọc tờ báo Giác Ngộ là không biết Thầy kêu gọi hay là Phật tử kêu gọi? Mà trong tờ báo Giác Ngộ có kêu gọi là để làm công tác từ thiện, để cho chùa Am ở Trảng Bàng. Cái đó con có thấy nhưng mà hôm nay và tờ báo nó đã lạc mất rồi, con hôm nay, cái ý con muốn gặp Thầy để hỏi, cái đó có hay không?
Trưởng lão : Không có.
Bởi vì trong vấn đề về tờ báo Giác Ngộ, Thầy cũng có từng đọc nhưng mà Thầy thấy quý thầy thường thường là ở trong cái tưởng giải, kiến giải, họ viết nhiều quá, cho nên nhiều khi ca ngợi những cái không đúng cái cách của Đạo Phật, nó rất sai.
Còn cái nói mà pháp thế gian, pháp xuất thế gian với thế gian nó không thể lìa nhau được, cái đó đúng. Bởi vì người tu sĩ là phải giữ cái Đức Hạnh để cho cái người cư sĩ, người đời, người ta nương vào đó người ta xả, người ta được giải thoát.
Còn người tu sĩ mà không giữ được hạnh của mình, xâm nhập mà sống như người đời, mình gọi là độ người, cái đó là sai, không đúng.
(14:25) Mình phải lấy Đức Hạnh mà làm gương cho người khác. Đức Phật Ngày xưa, tu xong rồi, Đức Phật đâu có phải ăn uống phi thời! Vẫn giữ hạnh, Đức Hạnh của mình mà, bởi vì nó thuộc về Đức Thánh. Vì vậy mà người ta mới cung kính, người ta kính trọng, người ta tôn trọng
Còn mình bây giờ mình như người phàm phu làm sao người ta kính trọng. Chỉ mình nói láo, gạt người ta thôi. Bằng cách mê tín hoặc bằng cách luận cái này, cái kia để cho người ta thấy có đúng cái lý để người ta theo, để người ta cúng dường vậy thôi. Cái đó là cái, không có lìa pháp thế gian, bằng cách là họ đi vào trong thế gian.
Sự thật chúng ta độ thế gian bằng Đạo Đức. Đây Thầy nói câu chuyện như thế này để con thấy. Ngày xưa trong cái thời tiền kiếp của Đức Phật là Đức Phật tu trong cái hạnh tu nhẫn nhục, là một vị tiên nhân tu hành nhẫn nhục. Ngài ngồi tu dưới cội cây thì có một nhà vua đi săn nai. Ngài đuổi con nai chạy ngang qua đó, đến khi mà nhà vua đến gặp Ông Phật mới hỏi vậy chứ ông ngồi đây tu, ông có thấy con nai tôi đuổi, nó chạy ngang qua đây không? Thì Ông Phật làm thinh, không nói. Ông vua hỏi ba lần, vị này làm thinh không trả lời, vua tức giận. Bởi vì ông là nhà vua, tại sao coi rẻ, ông hỏi không trả lời, coi như khinh rẻ ông, ông mới tức chứ sao?
Cho nên ông rút gươm chặt tay, khoét mắt. Cuối cùng thì ông thấy cái việc mà làm cho ông này như vậy, tay chân bị chặt khúc và hai con mắt bị móc ra rồi thì nhà vua cũng có hối hận, nhà vua mới hỏi ông: “Tôi đã chặt tay ông và móc mắt ông như vậy, ông có giận tôi không?” Thì vị tiên nhân này mới nói: “Nếu mà tôi có giận, thù oán bệ hạ thì mắt tôi sẽ rời ra luôn, không có dính lại. Mà nếu tôi không giận thì nó sẽ dính lại”. Thì ngay sau đó nó dính lại. Tai mắt của vị tiên nhân dính lại hết.
(16:17) Nhà vua phục quá cho nên quỳ xuống đánh lễ vị tiên nhân đó, tức là tiền thân Đức Phật và xin làm đệ tử của vị đó. Thì con thấy như vậy là dùng thần thông để độ người chứ đâu phải dùng Đạo Đức độ người, cái đó cái sai. Rõ ràng là tai mắt của mình bị chặt mà giờ nó dính liền lại, không phải thần thông hay sao? Cái đó là cái sai. Hướng dẫn người ta bằng cái sai là không đúng Đạo Đức.
Còn riêng Thầy nếu mà nhà vua hỏi, bởi vì chính cái hành động mà làm thinh đó, làm cho người ta bực tức, người ta tạo thành ác pháp. Do ai mà làm ác pháp này?
Nhà vua chặt tay người đó, móc mắt người đó, do ai làm? Có phải là cái vị tu sĩ đó làm sao? Mình ngồi làm thinh, người ta mới tức, người ta chặt mình chứ! Nếu mà mình nói rồi, sao người ta chặt?!
Bây giờ cái vị tu sĩ đó chỉ cần trả lời như thế này là đúng là Đạo Đức đàng hoàng, mà nhà vua cũng rất phục, mà nể nữa, mà thực tế, cụ thể. Chứ những cái thần thông, bịa chuyện đó, chưa chắc đã làm chuyện đó.
Vị tu sĩ đó nói với nhà vua thế này: “Kính thưa bệ hạ (hoặc kính bệ hạ) tôi là một vị tu sĩ, tôi thọ hai Giới, Giới không vọng ngữ và Giới không sát sinh. Nếu tôi chỉ bệ hạ con nai ở đâu đó, thì bệ hạ giết con nai, thì tôi mang tội sát sinh.
Nếu tôi nói gạt bệ hạ, bệ hạ đuổi theo mà không có con nai, thì tôi mang tội vọng ngữ. Thì xin nhà vua xét lại, một người tu sĩ mang trong mình, thọ hai Giới như vậy, thì tôi làm sao? Tôi nói như thế nào?
Nếu nhà vua thông cảm thì tha những lỗi lầm gì mà tôi đã không làm gì vừa ý nhà vua. Còn nếu mà nhà vua không thông cảm thì xử sao tôi cũng xin chấp nhận. Vì tôi là người tu sĩ, thọ Giới tôi phải giữ gìn, không thể nào tôi chỉ bệ hạ được, cũng không thể nào dối gạt bệ hạ được, mong bệ hạ hiểu.”
(18:16) Con làm nhà vua, con có thể chặt tay, móc mắt Thầy không? Khi một người tu sĩ đã nói vậy, mà rất kính phục. Kính phục vì Giới Luật người ta giữ nghiêm túc, Đạo Đức người ta ở chỗ đó. Con hiểu không? Còn này mình thể hiện thần thông để độ người. Cho nên khi mà nghe Thầy giảng, Thầy nói câu chuyện này, nói là tiền thân Đức Phật, cái câu chuyện bịa đặt của các nhà Đại thừa. Gạt người ta, làm cho người ta gây ác pháp, mình làm thinh để tạo cho người ta tức giận, người ta mới chặt tay mình.
Do ai mà người ta tức giận? Có phải là ác pháp? Chặt tay mình do ai mà chặt tay? Tức là ác pháp, mình tạo cho người ta ác. Mình là người tu, sao mình tạo cho người ta làm khổ người ta vậy, phải không? Như vậy là sai.
Rồi cái người đó luận: “Bởi vì Bồ Tát phải lựa cách thức để độ chúng sinh, cho nên khi đó mới hiện thần thông, cho tay chân mình lành lại, nhà vua mới phục”. Nói độ, như vậy là lấy thần thông độ người ta. Như vậy là thầy bùa, thầy chú, nó luyện bùa, luyện chú, nó cũng có thần thông, như vậy là nó cũng độ người ta sao? Nó gạt người ta để nó làm tiền chứ! Ông này cũng đâu phải là người tu chân chính đâu! Con hiểu chỗ Thầy nói chưa?
Bởi vì đạo Phật đi vào trong cái Sơ thiện, Trung thiện và Hậu thiện, phải không? Mà cái thiện là cái lành: "Không làm khổ mình, không làm khổ người", không tạo cho người ta ác.
Bây giờ hai người chửi lộn nè, phải không? Thí dụ như Thầy chửi con nè, con chửi Thầy nè. Đó là ác pháp rồi, ác pháp càng tăng, hễ chửi nhau, lúc sau thì đánh nhau, đánh nhau thì chém nhau. Có người đi nằm nhà thương, có người phải đi ở tù, có không? Bởi vì tức giận nó càng đi lên.
Còn bây giờ một người chửi mình mà mình nhẫn, mình không chửi lại họ, tức là mình không gieo cái nhân ác. Và đồng thời cái quả của mình tiền kiếp, người ta mới chửi mình đây, chứ không có thì làm sao gặp nhau chửi đây? Cho nên họ chửi mình mà mình lại không giận, tức là mình không làm khổ mình. Mình không chửi lại họ, tức là không làm họ khổ thêm nữa, con hiểu cái chỗ đó?
Cho nên làm, Đạo Đức là hàng đầu của Đạo Phật- "Không làm khổ mình, không làm khổ người", thì mình tu như vậy mới Đạo Đức chứ! Mà Giới Luật của Phật là hoàn toàn dạy Đạo Đức, dạy Đạo Đức toàn bộ, thế mà người ta không học Đạo Đức.
(19:51) Thôi bây giờ Thầy đem một cái ví dụ để cho con thấy Đạo Phật dạy Đạo Đức rất rõ. Đức Phật dạy Giới Luật phải không? Mà nói về Giới dâm, bây giờ đối với người cư sĩ thì Đức Phật dạy là không có được tà dâm. Nghĩa là có chồng, có vợ rồi, không được mà đi lấy người này, người kia, phải không? Đức Phật cấm như vậy, thì người cư sĩ không có tà dâm, còn dâm nhưng mà không tà dâm. Như vậy rõ ràng con thấy con người là một động vật như bao nhiêu động vật khác. Mà con người mà còn dâm, mà không biết xấu hổ, đụng chỗ nào dâm chỗ nấy, thì cái này là con thú vật. Con thú vật, con thấy nó dâm, chỗ nào nó cũng dâm được, nó không biết xấu hổ. Con người phải biết xấu hổ, che kín đáo, phải không? Con vật thì không biết cha mẹ, anh em, chị em, phải không? Con người thì biết anh em, cha mẹ, chị em thì không có dâm bậy, có phải vậy không? Cho nên vì vậy mà con người còn tà dâm lấy người này, người kia mà làm cho, đối với vợ con mình hay đối với chồng, thì như vậy có nghĩa với nhau không?
Phải không? Đâu có nghĩa, tình nghĩa vợ chồng thì phải chung thành với nhau chứ! Sao lại đi lấy người này, người kia, con vật sao? Phải không? Cho nên Phật cấm tà dâm, đó là dạy Đạo Đức con người, dạy Đạo Đức, con người có Đạo Đức thì con người mới thoát ra cái hành động của con thú. Con hiểu chưa?
Nếu mà mình không có tà dâm thì mình là con người. Mà mình còn tà dâm, dâm người này, người kia thì mình là con thú chứ sao! Chứ đâu là con người được! Phải không?
Bây giờ đến vị tu sĩ, phải không? Thì đoạn dâm, không được dâm. Thánh Tăng mà làm sao còn dâm, mà anh còn dâm sao được!?
Vậy mà có mấy ông thầy chùa có dâm, thấy con gái còn thích nhìn, giỡn hớt với mấy cô nữ thì như vậy là dâm. Thầy thấy mấy ông thầy nhỏ nhỏ đi với mấy cô nữ là giỡn hớt với mấy cô Phật tử nữ. Như vậy là rõ ràng là tâm dâm còn. Rồi ngó, nhìn, nói chuyện cười cợt nhau, điều đó là điều dâm hết.
(22:06) Đức Phật bảo là thấy người nữ, đừng nhìn, đừng lại gần, đừng có thấy. Thế mà họ tiếp nhau, họ nói chuyện nhau. Bởi vì nam, nữ nó dễ cuốn hút nhau lắm, cho nên nó sinh ra chuyện tầm bậy, tầm bạ, lén lút nhau. Mai mốt báo chí, công an nó mở ra, nó đăng lên tin này, tin kia, đem bao nhiêu ông thầy làm chuyện tầm bậy, tầm bạ, nó đâu có tốt lành gì.
Mà Thầy thấy hầu hết bây giờ quý thầy mà học trường cơ bản này kia, Thầy thấy quý thầy mà lên trên cái khu vực này tu, đi với đám Phật tử nữ. Trời ơi! Quý thầy tuổi nhỏ, đứng giỡn với đám Phật tử, tu hành như vậy mà còn cái gì nữa!?
Thầy nói thật sự là quét sạch cái tụi này ra hết, thà là không tu, tu thì phải đàng hoàng. Giới Luật, Đức Hạnh đàng hoàng. Mấy người làm như vậy là phỉ báng Phật pháp, Thầy không chấp nhận. Bởi vì cuộc đời Thầy nói thật sự ra, Phật pháp nó suy hết rồi, vậy giờ làm sao bây giờ đây? Nếu mà không nói ra sự thật này thì ai nói?
Hòa Thượng thì dễ, đối với Giới Luật thì Hòa Thượng quá dễ dãi. Hòa Thượng viết ở trong báo Giác Ngộ, Hòa Thượng nói Giới nào giữ được thì ráng giữ, Giới nào giữ không được thì thôi. Trời đất ơi! Vậy thì xong rồi còn gì!? Con có đọc báo Giác Ngộ, con có thấy bài đó không?
Phật tử : Dạ có, mà chính là thầy giảng cũng có, thầy Hòa thượng cũng có nói. Bây giờ trong năm Giới, thầy nói bây giờ nếu mà cư sĩ tại gia, thì nghĩa là thọ trong năm Giới, nhưng mà Giới nào giữ được thì giữ, còn Giới nào giữ không được thì thôi.
Trưởng lão: Nói như vậy, bây giờ phải, Hòa thượng nói như thế này đúng nè, Giới nào giữ không được, ráng mà giữ. Còn Giới nào giữ được thì phải giữ hoài hoài thì nó mới được, đừng có để nó phạm. Còn có Giới nào mà chưa giữ được thì ráng mà giữ. Còn cái này đã giữ được rồi mà ráng giữ được là sao? Đã giữ được rồi, mà còn ráng cái gì!
Hòa thượng nói câu đó không đúng đâu! Minh Trí cứ nghĩ coi Thầy nói có đúng không? Hòa thượng phải nói, bây giờ Giới nào giữ được thì giữ gìn cho nó đừng có phạm. Giới nào giữ không được thì phải ráng mà giữ. Cái ráng là tại vì mình giữ không được mới ráng. Giữ được mà còn ráng cái gì, phải không, con thấy không?
(24:18) Tại vì mình nghe, thường mình không lưu ý thôi, thì mình lướt qua thôi, mình tưởng nó thường. Sự thật cái Giới , tôi chưa giữ được, hôm nay tôi phải giữ, ráng cố gắng giữ cho được. Còn cái Giới kia, giữ được thì nó bình thường thôi, hàng ngày tôi ráng tôi sống đúng vậy thôi, khỏi cần ráng gì hết, phải không? Mình giữ được.
Thành ra cũng một lời nói, nhưng mà lời nói đúng mà lời nói chưa được đúng, mà nghe lướt qua thì nghe nó như là đúng, mà sự thật nó không đúng như lời nói.
Mà Hòa thượng coi Giới rẻ quá, Đạo Phật rẻ quá. Rẻ quá, cho nên chúng ta bị bệnh hết, bệnh hết mà Đức Hạnh không có. Chuyên môn học, chuyên môn nói, chuyên môn lý luận thôi. Nhưng mà Hòa Thượng gọi Thầy là ngoại đạo mà, nhưng ngoại đạo mà Thầy sống đúng Giới Luật của Phật
Minh Trí : Hồi trưa con ngồi, con ăn cơm, con có nói với bà bạn con, con nói là Thầy Thông Lạc và Thầy Hòa Thượng, nhưng mà Thầy Thông Lạc đi đường lối từ thấp đến cao: Giới, Định, Tuệ. Giới là hàng rào giữ, Định là cái tâm của mình định tại chỗ mới phát ra Huệ, thì chính là ở đó, Đức Phật cũng dạy cái đó mà.
Nhưng mà Thầy Hòa thượng lại nói khác. Thầy Hòa Thượng nói: "Định, Huệ song tu", trong đó: Định có Huệ, Huệ có Định. Nhưng mà cái đó thì con thấy cũng được. Nhưng mà có một cái là Thầy Hòa Thượng không nói về: Giới, Định, Huệ mà nói cái chỗ là "Định, Huệ song tu".
Trưởng lão: "Định, Huệ song tu".
Sư Minh Trí: Dạ, cái đó. Cho nên quý thầy ở dưới này là cũng hơi, con nói ở đây cũng hơi phạm Thầy chút xíu. Quý thầy ở dưới này cũng có bác cái đường lối tu của Thầy. Cho nên con không chịu, nhưng mà còn không dám nói, bởi vì con không có, về giáo lý là con nắm không vững. Thành thử ra còn không dám nói, chứ con thấy cái đường lối của Thầy tu con thấy, con chịu.
(26:17) Mà chính là hồi trưa con có nói một người cư sĩ nữ, cái người cư sĩ nữ đó cất cái am ngoài này, đường đi vô đó. Thì nói là chưa biết Thầy, nhưng cũng muốn gặp Thầy. Con nói là Thầy tu một cách đơn giản lắm, chứ Thầy không có làm hình thức bên ngoài đâu, mà để thu hút khách đâu! Không có! Thầy tu rất đơn giản, cho nên từ chỗ đó con mới chịu Thầy.
Trưởng lão: Ngày mai Thầy sẽ đi lên thăm chỗ Minh Trí, giờ Thầy đi về.
Sư Minh Trí: Dạ. Con nghe Thầy nói lời đó, con hết sức là, con không biết sao nói với Thầy, Thầy rất từ bi với con.
Trưởng lão: Con uống miếng nước đi con! Ngày mai con xuống đây, sáng xuống rồi Thầy sẽ đi với con, lên đó với con.
Sư Minh Trí: Dạ. Thưa bạch Thầy là con có dặn ông xe ôm, ông ở ngoài này này, sáng mai ông đến đây, ông chở Thầy, vậy được không Thầy?
Trưởng lão: Được.
Sư Minh Trí: Dạ. Con có dặn, hồi cỡ khoảng hai giờ mấy, con ra ngoài Phước Hải, con gặp ông, con nói thôi vô đây chơi chút. Ông vô thì con nói không biết chừng nào Thầy mới về, thành thử con đợi Thầy không được cho nên con mới nói thôi bây giờ nếu trong trường hợp mà ông vô đây thì ông chở Thầy, thì ông chịu đó Thầy. Như vậy là sáng mai cỡ khoảng sáu giờ ông ấy vô.
(27:56) Trưởng lão: Rồi, sáu giờ vô đi.
Sư Minh Trí: Dạ. Sáu giờ ông ấy vô, ông chở Thầy. Con có viết một cái giấy, con để lại đó Thầy.
Trưởng lão: Có. Hồi đó chú Mật Hạnh có đưa Thầy đọc, Thầy nói thôi! Lâu gặp mấy con quá, có duyên Thầy về, Thầy thăm ở đây, Thầy nghỉ mát ở đây. Sau những ngày Thầy nghỉ ở đây, Thầy soạn bộ giáo trình Đạo Đức Nhân Quả. Do đó thì Thầy mới về, Thầy nghỉ ở đây trong mười hôm thì Thầy đi. Bởi vì Thầy ở đây thì thấy sợ Phật tử tập trung đông quá rồi Thầy làm đào kép hát cho họ nghe thôi. Chứ thật sự ra không phải là chuyện dễ cho họ tu đâu.
Thầy hiểu điều đó, cho nên vì vậy mà Thầy muốn yên ổn, chứ trong giai đoạn này độ thì nó cũng khó. Vì pháp môn của Hòa Thượng để giữ người ta ở trong cái chiều rộng đó đi. Sau này khi Hòa thượng tịch rồi đưa vào Giới, Định, Tuệ của Phật, thì người ta sẽ đi vào chiều sâu.
Bởi vì Giới thì nó y dục, ly ác pháp, mà ly dục, ly ác pháp là chúng ta nhập Sơ Thiền. Cái thiền đầu tiên nó không phải ở chỗ ngồi hít thở hoặc chỗ nhiếp tâm dừng vọng tưởng. Mà do chỗ ly dục, ly ác pháp, con thấy ly dục, cái lòng ham muốn của mình hết, phải không? Ác pháp không còn nữa, Tham, Sân, Si không còn nữa thì không phải giải thoát sao? Nội cái Sơ Thiền này đã khó khăn rồi, còn ba cái thiền lỉnh kỉnh như Nhị Thiền, Tam Thiền đó thì dễ lắm.
Đức Phật đã nói mà, khi Giới Luật mà nghiêm chỉnh rồi, mình thanh tịnh được Giới rồi, tâm mình thanh tịnh rồi thì những cái định đó, mình nhập “không có mệt nhọc, không có khó khăn”. Đức Phật đã nói là chỉ cần ra lệnh thì nó vô chứ có gì đâu phải ngồi tập chi cho cực. Thầy dạy mấy con, sau này mấy con quyết định đi cái lộ trình của Đạo Phật thì mấy con sẽ giải thoát như lời Thầy nói. Các con muốn định chỉ hơi thở là hơi nó ngưng, mấy con nhập Tứ Thiền một cách dễ dàng.
Nhưng mà mấy con chưa đủ duyên, chưa có sống được lộ trình của một vị tu sĩ, Giới Luật hẳn hoi. Chứ mà sống đúng ngày một bữa, tập phá cái hôn trầm, rồi tập sống độc cư, trầm lặng một mình. Giới Luật nào Thầy dạy, Đức Hạnh Giới Luật đấy hết, xong rồi các con thấy toàn là Đức Thánh, toàn là cái Đạo Đức của con người. Chừng đó mấy con sẽ sống đúng Giới Luật của Phật là sống những cái Đức Hạnh, không có sai đâu. Thầy sẽ dạy Đức Giới hết mà, Hạnh Giới với Đức Giới. Rồi mấy con sẽ thấy quý trọng Giới.
(30:36) Chứ bây giờ mấy con thấy Giới Luật là khô khan. Giới Luật là nghe coi nó khép mình lại, làm cho mình khổ sở, chứ không phải đâu. Đức Thánh của người ta nằm ở trong đó mà! Như Thầy giải thích cho con nghe cái đức của Giới dâm con đã thấy rõ, cái chỗ nào là thú vật, cái hành động nào mà gọi là không Đạo Đức, là con thú vật. Cái hành động có Đạo Đức là con ngươi rồi.
Cái hành động nào là cái hành động, trong Giới đó, cái hành động nào là của bậc Thánh Tăng? Cho nên ta mới nói Thánh Tăng, Thánh Ni, chứ ai có nói tăng, ni thường đâu. Cho nên trong Thánh Tăng ở trong Trưởng lão Ni Kệ, Trưởng lão Tăng Kệ, toàn Thánh Tăng, Thánh Ni không! Đệ tử của Phật là Thánh. Bởi vì Giới Luật nghiêm chỉnh hết thì người ta mới Thánh.
Còn mình Giới Luật không nghiêm chỉnh, ăn ngày hai, ba bữa, Thánh gì tham ăn qua trời! Đụng đâu ăn đó, thấy gì cũng ăn hết, Thánh sao mà ăn dữ !? Con hiểu chỗ đó chưa?
Mà cái Giới đó Đức Phật đã chỉ định được cái tội danh cũng nói rõ ràng là Ba Diệt Đề, tức là đọa địa ngục, cái người ăn phi thời là đọa địa ngục. Cho nên họ mang bệnh là phải! Đọa địa ngục là bệnh chứ còn địa ngục ở chỗ nào nữa? Trời ơi ! Hôm nay cái thân của mình hôm nay nó mệt, mai nó nhọc, mai nó nhức chỗ này, mai nó nhức chỗ kia, ăn uống sình ruột, sình gan của họ. Ăn cho nhiều thì nó sình. Mang cái thân cho mập nó mới bị.
Mà Thấy nói vậy thì đụng chạm hết. Con phải hiểu chỗ đấy! Họ phải thọ lấy những cái địa ngục của họ, khi họ ăn vậy là họ phải đọa địa ngục. Giới Luật của Phật định tội họ là như vậy rồi thì không bao giờ họ chạy khỏi.
(32:08) Đó như quý thầy ốm vậy chứ chưa đâu, quý thầy làm trụ trì, quý thầy mập ra liền. Thầy nói thật sự, nói thẳng, nói đúng quý thầy có giữ gìn Giới Luật được thì quý thầy giải thoát.
Thầy nay sáu mươi chín, gần bảy chục tuổi rồi mà khỏe như thế này, đi thăm Thầy Phước Hảo, đi thăm quý thầy, quý thầy nằm lết bết. Thầy hoàn toàn là trèo núi như thường, không có mệt nhọc chút nào hết thì con thấy. Mà đau bệnh không dùng thuốc, chỉ dùng hướng tâm của mình nhấp vào là phục hồi cơ thể mình lại. Họ muốn sống thêm hồi nào dễ dàng, có gì đâu! Vì mình phục hồi được sự sống của mình thì mình phải sống thêm chứ sao!? Mình muốn chết thì mình "tịnh chỉ hơi thở" lại, nó ngưng thì mình chết chứ gì, có phải là sung sướng sao? Mà ăn ngày một bữa không phải giải thoát sao? Nó rõ ràng và cụ thể, con thấy sướng không?
Cho nên ai nói Thầy ngoại đạo thì kệ. Ngoại đạo mà giải thoát được thôi! Ngoại đạo mà sống có Đức Hạnh. Còn không ngoại đạo mà sống không có Đức Hạnh sao? Con thấy người ta nói người ta đúng Chánh Pháp thì Thầy không cãi đâu, nhưng mà hành động họ có đúng không? Đúng Đạo Đức không? Từ đời sống, từ cách thức này kia họ có đúng cái Đạo Hạnh của Phật không? Đạo Phật của Phật phải Ba Y, Một Bát, đi xin ăn chứ đâu mà ngồi một chỗ, mà nấu nướng theo kiểu ăn ngon, mặc đẹp như thế này? Chứ đời sống của Thầy Ba Y, Một Bát, Thầy mang bát đi đâu cũng được.
Sư Minh Trí: Cho nên con thấy đời sống của Thầy rất đơn giản, từ chỗ đó con rất quý, con muốn tìm Thầy để học theo cái Pháp của Thầy.
(33:54) Trưởng lão: Thật sự ra thì Thầy đi như vậy là Thầy tạo cho các con sau này có một cái duyên, các con trở thành Tỳ Kheo khất sĩ hết. Ngày xưa, tổ sư Minh Đăng Quang đã tạo được như vậy nhưng mà tổ không có đi vào được chỗ Tứ Thiền. Thầy đọc cái bộ Chân Lý, Thầy thấy rõ, tổ đi lạc vào đường truyền của tổ sư. Cho nên tổ thấy Sao Mai mọc mà ngộ được Phật Tánh, cho nên lạc rồi.
(34:28) Còn con đường thiền của Phật không phải vậy. Mình ly dục, ly ác pháp, rồi từ đó mình "tịnh chỉ hơi thở, thân định trên tâm ,tâm định trên thân", hướng đến Tam Minh, tức là tới Lậu Tận Minh, quét sạch được cái gốc lậu hoặc của mình thì mình chấm dứt luân hồi rồi.
Còn cái kia mình làm chủ cái sống, chết là Tứ Thiền rồi, Làm chủ được cái định của Tứ Thiền là làm chủ được rồi. Còn cái tuệ của nó là Tam Minh. Cho nên nói về cái tuệ lực Đức Phật xác định là Tứ Diệu Đế. Cho nên Bát Chánh Đạo đâu phải để chúng ta tu đâu. Bát Chánh Đạo là cái kết quả của sự tu tập của chúng ta, chúng ta mới sống được Chánh Kiến, Chánh Ngữ, Chánh Mạng, nó mới được.
Còn bây giờ quý thầy nói Chánh Ngữ, Chánh Kiến. Thì sự thật Chánh Kiến cái gì? Chánh sao được, cái tâm tham dục quý thầy quá trời! Chánh sao được! Cái đó là cái kết quả của trí tuệ, cho nên “Trí Tuệ ở đâu thì Giới Luật ở đó. Giới Luật ở đâu thì Trí Tuệ ở đó”. Cho nên luôn luôn nó thanh tịnh, sống cái đời sống Phạm Hạnh, thanh tịnh.
Còn tu mà không biết Giới Luật, rồi đi ra, người ta thấy được cái tướng là người ta biết liền. Tướng này tướng ăn, tướng ngủ, tướng này tướng dư thế gian chứ đâu phải, phải không?
Thầy nói thẳng nói thật, tu là đã đúng Giới Luật hẳn hoi- Giới, Định, Tuệ. Đức Phật di chúc lại chúng ta, không có ông tổ nào làm Thầy chúng ta hết. Đức Phật di chúc rõ ràng mà lấy Giới Luật và Giáo Pháp ta làm Thầy sau khi ta nhập diệt, chứ không ai làm Thầy mình hết. Cho nên những cái điều kiện mà họ bịa đặt ra, ai tin được. Tổ Ca Diếp chỉ có hạnh đầu đà thôi, chứ ông đâu có cái đặc biệt nào hơn đâu? Còn ông Xa Lợi Phất thì chỉ có trí tuệ chứ ông đâu có đặc biệt hơn nữa? Mà nói về ông Mục Kiền Liên thì có thần thông thôi chứ đâu có cái khác nữa?
Mỗi người có cái đặc biệt, cái sở trường riêng của họ, làm sao họ đủ khả năng mà để lãnh đạo, hướng dẫn chúng ta sau này. Chỉ có Giới Luật và Giáo Pháp của Phật mới là vị tổ, mới có đủ điều kiện hướng dẫn chúng ta. Cho nên chúng ta nương vào Giới Luật và Giáo Pháp của Phật để được giải thoát rõ ràng.
(36:11) Hàng ngày ly dục, ly ác pháp, ly ít thì chúng ta giải thoát ít, ly nhiều thì chúng ta giải thoát nhiều, không có gì hết. Tâm ham muốn nhiều thì khổ nhiều, ác pháp nhiều thì khổ nhiều. Mà ly nó dần, lần lược, lần lược nó ra, nó ra nhiều thì mình giải thoát, mình cảm thấy thanh thản, an lạc. Con hiểu rõ, nó rõ ràng mà.
Ngay cả cái Thiền Hơi Thở của Phật cũng dạy: “Quán ly tham, tôi biết tôi hít vô. Quán ly tham, tôi biết tôi thở ra”. Đâu phải ngồi đó mà biết hơi thở ra vô. Hay hoặc là Sổ Tức, Tùy Tức, dạy tầm bậy, cứ dạy điên, dạy khùng.
Sư Minh Trí: Con cũng thấy chỗ đó thưa Thầy.
Trưởng lão: Con thấy, Phật dạy, mình cứ theo Phật mình tu, mình tu theo Phật chứ không tu theo tổ. Tổ dạy điên cũng tu sao? Thầy nói thẳng, đâu cứ phải… Bởi vì pháp An Bang của, trong khi Thầy Nhất Hạnh giải thích về cái thầy tổ Khương Tăng Hội. Khương Tăng Hội là một vị thầy đầu tiên cuối thế kỷ thứ hai, đầu thế kỷ thứ ba, là bốn vị sư đầu tiên truyền Phật Giáo, thì Khương Tăng Hội là một vị. Thế mà giảng về Tứ Thiền hoàn toàn sai hết. Ông tổ này, ông đâu có biết thứ này, dạy tầm bậy! Cho nên ông đặt ra pháp An Bang. Thầy nói thật An Bang của ông đâu phải Định Niệm Hơi Thở, dạy không đúng Phật. Cho nên vì vậy dạy như vậy là người ta ức chế. An Bang Quý đó! Con cứ ngồi hít thở, hít thở, bây giờ con hít thở, có vọng tưởng vô con sổ tức chứ gì? Sổ tức, mục đích là ức chế nó chứ gì? Rồi bây giờ con thấy thuần rồi, con tùy tức nó chứ gì? Tùy tức rồi, con xả tùy tức, con ngồi giữ cái tâm yên lặng, không có niệm gì hết, rõ ràng con bị ức chế rôi.
Sư Minh Trí: Dạ. Bạch Thầy chỗ đó thì Thầy nói vậy, nhưng thầy Hòa Thượng bây giờ đâu có dùng cái sổ tức, tùy tức nữa. Tức là Thầy vọng tưởng vô là buông ra.
Trưởng lão: Buông ra tức là ức chế rồi. Bởi vì vọng tưởng, đó là cái tâm tham, sân, si của mình nó mới có vọng tưởng. Mà mình không lo xả tham, sân, si mà mình cứ ức nó lại, tức là mình nén nó, giờ nó không có thì buông nó ra. Thì như vậy là mình vượt qua cái giai đoạn mà Sổ Tức, Tùy Tức chứ gì? Bây giờ mình đến cái giai đoạn buông vọng chứ gì? Buông nó tức là ức nó.
(38:08) Mình không thấy cái niệm của nó, nó khởi lên nó là niệm tham, sân, si. Do cái tham, sân, si của mình có nên có niệm vọng tưởng. Mà khi tham, sân, si mình xả hết thì tâm nó quay vô, tức là Phật nói: “Đệ nhất pháp giải thoát là Tâm Không Phóng Dật”.
Tâm Không Phóng Dật tức là tâm quay vô, chứ không phải là tâm nó nằm bên ngoài. Bây giờ mình ngồi đây chứ nó nghĩ này kia ngoài không hà, có phải không? Nó phóng dật ra ngoài đó
Còn mình kéo nó vô hơi thở, mình cố dụng công để mình ức chế cho nó vô hơi thở hoặc mình cố giữ cái tâm mình đừng khởi niệm gì hết thì cũng bị ức chế rồi! Bởi vậy đó là cái sai hết, Thầy nó sai là sai mà! Nếu mà không sai thì gần ba chục năm nay, bao nhiêu người theo Hòa Thượng đều phải thành tựu hết.
Sư Minh Trí: Thầy Hòa Thượng nói là khi mà vọng nó vô thì mình biết cái vọng, nhưng mà mình đừng có mình chấp nó là vọng, thì mình buông nó ra, ở chỗ đó.
Trưởng lão: Thì cũng là ức chế, bởi mình biết mình không theo thì nó cũng vẫn ức chế.
Bởi vì mình theo cái kinh điển Phật thì mình: “quán ly tham, quán ly sân, quán ly si”, vừa tỉnh thức, mình đi kinh hành mình cũng: “quán ly tham, quán ly sân, quán ly si”, mình xả, vậy thôi! Con thấy bởi vậy mình tu theo Phật thì cứ giữ theo cái đường lối của Phật mà tu.
Nhưng mà ai nói Thầy tà đạo, ngoại đạo Thầy cũng chịu hết. Ngoại đạo, tà đạo gì cũng được, miễn sao Thầy sống đúng với Giới Luật của Phật, Đức Hạnh, giữ đúng với cái hạnh của mình, không phi thời. Những cái gì mà Giới Luật của Phật dạy thì ráng cố gắng giữ gìn, để cho nó đừng có phạm. Sau đó lần lượt nó quen Giới Luật, thành ra nó sống cả đời sống tự nhiên, nó hồn nhiên với Giới Luật. Nó thanh thản, ly dục, ly ác pháp, nó lìa ra hết rồi.
(40:08) Bắt đầu từ đó, Sơ Thiền không phải là chỗ tu tập mà là ly dục, ly ác pháp, từ đó mình ở trong tâm thanh tịnh đó, mình mới hướng tâm tịnh chỉ Tầm Tứ, rồi tịnh chỉ Ly Hỷ, rồi tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền, tức là Xả Lạc Xả Khổ, Xả Niệm Thanh Tịnh, mới nhập Tứ Thiền. Từ chỗ Tứ Thiền- "Thân Định Trên Tâm, Tâm Định Trên Thân" rồi, hơi thở tịnh chỉ rồi, bắt đầu mình mới hướng tâm về Tam Minh: Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh. Sau khi Lậu Tận Minh xong rồi, coi như là mình đã xong con đường tu của mình rồi.
Mình thấy ai tu được thì tu, còn tu không được thì thôi. Nói thì động chạm, cho nên Thầy không nói. Bởi vì nói chung là lộ trình của Thầy đi, khi Thầy trở về với lộ trình Nguyên Thủy, từ Giới, Định, Tuệ, Thầy đi vào thì Thầy thấy có kết quả, bởi vì Thầy ly dục. Thầy ngồi: "Tâm Như Cục Đất, không có tham, sân, si”. Nhắc chừng, nhắc chừng nó vậy, đến chừng đụng chuyện nó có cái lực của nó, tự nhiên. Ám thị nó mà, Như Lý Tác Ý là ám thị nó, ám thị nó phải thành cái lực của nó thôi, cho nên đụng chuyện nó không giận hờn ai hết.
Thậm chí người ta cúng dường vàng, tiền cho Thầy để mà cất chùa, Thầy cũng không nhận. Thầy nói, Thầy không làm tôi mọi cho Phật tử đâu. Cất chùa cho tốt, cho đẹp rồi quý vị đến tham quan này kia, rồi Thầy mất công phải lau chùi cho sạch sẽ,chứ không để dơ bẩn sao? Mà họ vô chùa, họ đâu có giữ vệ sinh sạch sẽ đâu! Nhiều khi họ trét dơ, làm dơ cái này kia, rốt cuộc họ về, họ để lại cả một vấn đề, mình phải làm việc.
Tăng, Ni bây giờ là nô lệ cho cái sự vật chất đó. Thầy nói thật sự, giải thoát là giải thoát. Giải thoát kiểu đó, rồi tu không tới đâu, khổ lắm! Bởi vì cuộc đời của mình bỏ hết, đi tu để tìm giải thoát, chứ đâu phải đi tìm cái sự như vậy.
Sư Minh Trí: Dạ. Bạch Thầy con muốn thỉnh kinh sách của Thầy.
(42:13) Trưởng lão: Nói chung là nếu mà ở trên đó, thế thì chắc chắn là, con muốn thỉnh kinh sách Thầy, con hãy về con gặp cô út Diệu Quang, cô sẽ cho con lấy mấy cuốn, con sẽ về, con đọc. Sách của Thầy, con về đọc một mình thôi đừng có đưa ra trong giai đoạn này. Ở đây, hôm đó Thầy có về đây thăm thầy Thông Luận, Thầy có cho thầy Thông Luận mấy tập, nhưng mà Thầy căn dặn không được phổ biến, vì giai đoạn này chưa phải, vì giai đoạn là giai đoạn của Hòa Thượng. Phải đem cái pháp của Hòa Thượng để dữ chân tất cả Tăng Ni, để cho họ giữ cái tâm bất động của họ thôi.
Sau này khi mà hữu duyên, nó có nhân duyên thì đưa vào cái Giới, Định, Tuệ, cho họ đi sâu vào quét sạch, ly dục, ly ác pháp. Họ phải đi sâu vào Thiền Định mà "Thân định trên tâm, tâm định trên thân", để cứu cánh cho họ cuối cùng. Thì người nào hữu duyên, sau này sẽ có kết quả.
Còn bây giờ thì Thầy đâu có mang theo. Bởi vì Thầy chỉ “Ba Y Một Bát", mang theo vất vả, nó nặng lắm. Nếu mà có, Thầy cho con, về mà con đọc
(43:17) Sư Minh Trí: Dạ. Bạch Thầy cái năm đó Thầy có nói trong khoảng vài năm nữa Thầy có hướng là về đây, Thầy có dự định…?
Trưởng lão: Thầy về đây mà Thầy có gọi mấy người cư sĩ rồi, các vị chuẩn bị về mà có thể thành lập, cái khu đất mà Thầy đã mua mười bốn mẫu này nè, xây cái bệnh viện tư từ thiện cho Thầy, Thầy không cất chùa đâu.
Chùa là Thầy tổ chức từ cái khu này tới khu kia. Ví dụ như Thầy đến đây, nếu mà ở đây Chân Nguyên, mà Thầy Thông Luận mà xây được cái chùa rồi, xin phép cất đàng hoàng, Thầy nói xin phép cất năm, mười cái thất, Thầy sẽ đưa giáo đoàn, quý thầy về đây. Khi mà họ về đây họ ở năm, ba ngày hay mười ngày để mà họ trở thành Du Tăng.
Họ xin Thầy Thông Luận mỗi bữa ăn, nếu mà Thầy Thông Luận không đủ khả năng, thì họ sẽ qua chùa Hòn Một, họ xin sư Từ Giang hay là sư Giác Toàn hoặc là chùa Hòn Son của thầy Phước Trí. Thầy đến đó, Thầy liên lạc với mấy chùa đó, Thầy xin trước hết rồi. Khi mà cái giáo đoàn họ đi về đây, họ đi xin ăn thôi, ở đây thì họ đi xin ăn một bữa, qua chùa kia xin ăn một bữa. Trong khi họ đi giáp vòng thì họ trở lại, họ ở năm, mười ngày rồi họ đi đến chỗ khác. Họ trở thành Du Tăng Khất Sĩ, đi xin ăn.
(44:41) Đi xin ăn, mà không xin ở ngoài thế tục vì xin ngoài thế tục thì có nhiều người mạo nhận, giả tu sĩ đi xin, cho nên mình xin trong chùa thì không có ai mạo nhận được. Cách thức Thầy tổ chức như vậy.
Cho nên Thầy đi chuyến đi này, Thầy tổ chức rải rác, để sau này mà có hữu duyên, tạo thành cái đoàn Du Tăng Khất Sĩ. Chúng ta không có dính mắc chùa nữa, mà ôm bát đi, đi từ chùa này đến chùa khác. Đến đây có năm, mười cái thất, nước nôi này kia, người ta cấp cho mình sẵn. Mình vô đó mình ở, mình thực hiện Đức Hạnh của mình trong cái hạnh tu, có vậy thôi. Rồi đi từ chỗ này đến chỗ khác.
Sư Minh Trí: Thầy có dặn dò con không thưa Thầy?
Trưởng lão: Thôi bây giờ con về con!
Sư Minh Trí: Dạ. (45:10)
(Phần này có thể được biên tập từ băng khác?!)
(45:23) Trưởng lão: Cho nên rất khó với Thầy, bởi vì muốn như vậy là phải cách ly riêng. Tăng riêng, Ni riêng chứ không được ở gần
Mà Tu viện Chân Không hồi đó cái Tu viện Bát Nhã sát bên đó, cách có hàng rào. Rồi phụ nữ người ta đi qua, đi lại, ọng ẹo, uốn éo. Nam thì nó làm sao nó chịu đựng được, khổ! Cho nên cái thứ này cách ly ra, được hay không được thì kệ nó, ở chỗ khác, xa ra.
Còn ở đây để mà nuôi dưỡng cái số Chư Tăng, người ta phải thanh tịnh, đừng có thấy cái mặt. Thầy nói thật sự mà nếu mà Thầy đào tạo chư Tăng, nghĩa là cách ly, khi nào tu đủ nội lực thì quý thầy ra tiếp, mà chưa đủ nội lực thì quý thầy sẽ thực hiện nội lực ở trong tâm cho mạnh.
Chứ mình ra, mình dễ cám dỗ, cái tuổi nó dễ cám dỗ lắm. Chính cái bản thân của mình còn xuất tinh là mình đã nguy hiểm rồi đó. Tu hành là cái tuổi của mình còn suất tinh là còn nguy hiểm.
(Phần này có thể được biên tập từ băng khác?!)
(46:27) Cho nên từ đó nó khỏe mạnh, hồng hào, nó an lạc, thanh thản, sống hàng ngày, nó một mình, an ổn, trầm lặng, thích sống độc cư. Còn không nó cô đơn, nó buồn bã.
Tu đúng là nó giải thoát liền, đúng pháp là phải đi từ Giới, rồi mới Định. Bởi vì Giới mà nó thanh tịnh tức là "ly dục, ly ác pháp", là nó định rồi. Mà cái định đâu phải là ức chế tâm, mà do cái sự tu tập "ly dục, ly ác pháp". Tức là cái tâm thanh tịnh, không còn tham, sân, si là định. Phải hiểu cái chỗ không còn tham, sân, si là định. Chứ không phải ngồi hết vọng tưởng, cái mà không vọng tưởng chỉ là tỉnh thức mà thôi.
Bây giờ mình tỉnh thức trong hơi thở, mình tỉnh thức trong bước đi kinh hành của mình. Tỉnh thức, cho nên Đức Phật nói tu ở trong Thân Hành Niệm, tức là thân động dụng của mình, tu trong cái hành động đó, tu trong các hành động thân của mình, đi tới mình biết mình đi tới, nhưng mà đi tới biết đi tới, tức là bị ức chế.
Đi tới biết đi tới, biết xả tâm thì mới là Chánh Niệm.
Chánh Niệm không phải là chỗ biết hành động đi là Chánh Niệm đâu, mà cứ hành động đi chỉ là giúp chúng ta tỉnh thức, cái tâm của chúng ta tỉnh thức trên hành động đó, để chúng ta tỉnh thức mà xả ra. Mà xả cái tâm tức là Chánh Niệm.
Bởi vì Chánh Niệm có thì cũng có Tà Niệm chứ. Chánh Niệm là ly tham, ly sân, ly, si, còn cái Tà Niệm là tham, sân, si.
Chứ còn cái hơi thở nó có tham, sân, si gì trong đó? Mà tỉnh thức như vậy gọi là Chánh Niệm luôn trong hơi thở thì có nghĩa lý gì? Các thầy không suy ngẫm chứ các thầy suy ngẫm, các thầy thấy họ dạy sai hết, không dạy đúng đâu! Cũng như mình tu trong các hành động, mình biết hành động của mình để làm gì đây? Mục đích của mình là ly tham, sân, si phải không? Mà bây giờ mình cứ tỉnh các hành động đi tới, biết đi tới, đi lui, biết đi lui, nhổ cỏ, biết nhổ cỏ, làm này, biết mà… Tỉnh thức này làm gì đây?
(48:23) Do đó bây giờ Thầy nhổ cỏ, Thầy biết Thầy nhổ cỏ, nhưng mà Thầy biết: "Quán ly tham, tôi biết tôi đang nhổ cỏ”. Có phải mình tỉnh thức trong cái nhổ cỏ để mình ly cái tâm tham không? Cái đó mới có ý nghĩa của Đạo Phật! Mới xả cái tâm mình ra, phải không? Các thầy suy nghĩ, có đúng không?
Còn nếu mà mình tỉnh thức, mình biết mình nhổ cỏ, biết nhổ cỏ, nó có nghĩa lý gì? Cứ nhổ cỏ tối ngày mà tôi chỉ biết tôi nhổ cỏ, như vậy nó giải quyết vấn đề gì đây? Nó đâu có giải quyết gì cái tâm của mình đâu?
Nó chỉ tỉnh thức trong đó, mà nếu mà như vậy thì đi đến tĩnh lặng, kéo dài ra, hết tĩnh lặng, thôi còn có gì đâu! Có nghĩa lý gì nữa đâu? Cho nên Phật nói nhập Phi Tưởng để mà biết Phi Tưởng thì nó có nghĩa lý gì? Ông Phật, Ông nói rất rõ mà, cho nên Ông xả bỏ cái Phi Tưởng, không có chấp nhận. Nhập Vô Sở Hữu Sứ để mà biết Vô Sở Hữu Sứ thì nó đâu có nghĩa lý gì?
Bây giờ mình tỉnh thức đi đến tĩnh lặng để mà biết tỉnh thức, tĩnh lặng đó, mà có nghĩa lý gì? Nó đâu phải là tỉnh thức, tĩnh lặng rồi là nó hết tham, sân, si đâu? Bây giờ quý thầy có cố gắng kéo dài một hoặc hai giờ, một, hai ngày cuối cùng thì tham, sân, si vẫn còn, bởi vì mình không có cái Chánh Niệm. Cho nên nó hoàn toàn chỉ có sức tỉnh thức đó thôi, thì nó không có xả cái tâm của mình được.
Bởi vì Đức Phật dạy cụ thể, rõ ràng mà tại vì mình không chịu nghiên cứu kinh sách Nguyên Thủy, cho nên mình chê nó là Tiểu Thừa. Vậy mà mình nhắm vào cái Đại Thừa, Tối Thượng Thừa và cuối cùng mình không đi tới đâu. Người nào cũng thấy cao hết mà cuối cùng không có người nào cao hết, cuối cùng thầy nào bây giờ cũng gần chết với nhau! Nói thật sự bây giờ cứ nhìn lại quý thầy, người lớn tuổi như Thầy, người nào cũng rề rề.
Còn Hòa Thượng mình bây giờ mà không có thuốc thang mà tẩm cho Hòa Thượng, cũng khó sống, không phải dễ. Nhờ thuốc thang, ngoại quốc người ta cung cấp cho Hòa Thượng để trị bệnh. Còn chúng nhỏ nhỏ sao có, cho nên mình phải chịu thôi, chúng nhỏ nhỏ là phải chịu thôi, không làm sao?
(50:25) Bởi vì Phật tử họ có đâu có để ý những chúng nhỏ nhỏ đó, họ để ý Hòa Thượng. Họ muốn sức khỏe của Hòa Thượng, thì cũng như một nhà giàu, nhà vua vậy thôi. Người ta phải cung cấp những thuốc để duy trì cái mạng sống người đó. Còn mình nhỏ làm sao? Mình phải chịu thôi!
Thầy nói vậy là đủ biết. Khổ lắm! Cho nên Thầy nghĩ rằng cuộc đời của Thầy cuối cùng những cái tuổi già của Thầy, không có nên chết ở trong cái ngôi chùa mà chết ở trong hang đá, chết trên bước đường Du Tăng Khất Sĩ, dưới cội cây như Đức Phật ngày xưa. Cái hạnh cao quý, Thầy thấy cái hạnh đó là buông xả cao quý, không dính mắc trong cái tịnh xá của ông Cấp Cô Độc, không dính mắc cái tịnh xá của vua Bình Xa Vương, phải không? Rõ ràng và Đức Phật chết dưới cội cây Xa La, rõ ràng đâu có chết trong tịnh xá nào đâu.
Thầy nghĩ mình tu hành cũng như vậy, sống như vậy, làm như vậy, đúng như hạnh của Phật. Đức Phật không thể hiện thần thông trong khi chết, thì chúng ta cũng không thể hiện thần thông trong khi chết. Đức Phật không để nhục thân, bằng một cách làm cho người tín ngưỡng cái thân vô thường bất tỉnh này. Thì chúng ta cũng không để lại nhục thân bằng cách đó. Nhưng mà chúng ta để lại cho đời sau một cái gương Đức Hạnh buông xả.
Đó là cách thức của Thầy, nghĩa là Thầy sống đúng, ăn ngày một bữa, sống đúng hạnh của người tu. Đó là cái Đức Thánh, đời không thể nào mà làm theo được như Thầy, phải không?
Bây giờ Thầy sống đúng Đức Hạnh của những Giới Luật đã dạy. Bây giờ Thầy khạc nước miếng, không được nhổ bậy bạ, Đức Phật đã dạy, không được nhổ trong nước, nhổ trên cỏ, nhổ có nơi có chỗ. Vì đó là đức vệ sinh. Ngày xưa Đức Phật dạy như vậy. Bây giờ người ta gọi là làm ô nhiễm môi trường, kêu gọi giữ vệ sinh chứ không ngờ là Đức Phật đã dạy vệ sinh rồi.
(52:13) Trong Tăng Giới chúng học, Đức Phật đã dạy rõ mà, một người tu sĩ mà đứng, mà tiểu thì Đức Phật xem như đó là một con thú vật, vì con thú vật nào cũng đứng tiểu. Còn chúng ta là người tu sĩ, có những cái hạnh của người tu sĩ, Đức Hạnh ngồi mà tiểu, thì như vậy nó kín đáo không bao giờ thô lỗ. Cho nên rõ ràng Đức Phật dạy cho chúng ta Đức Hạnh của một con người mà. Cho nên người có Đức Hạnh thì phải thoát ra những hành động của một con thú vật. Có đúng không?
Như vậy rõ ràng là Giới Luật của Phật dạy quá rõ ràng. Thế mà chúng ta không học được những cái Đức Hạnh ở trong Giới Luật thì chúng ta quá khiếm khuyết. Cứ dạy Thiền Định, cứ dạy những lý thuyết cao siêu mà không thấy những cái mà chúng ta cần phải sống những cái hành động cho đúng. Mà hành động Đức Hạnh Giới Luật là hành động thiện pháp, nó là những hành động thiện, nó giúp cho mình không khổ, mình thoát khổ. Thế mà sao chúng ta không thực hiện những hành động đó? Để mà chúng ta được giải khổ, để mọi người không khổ đau.
Thầy nói thật sự bây giờ mà Thầy đi giảng Giới, Thầy kể ra, người ta nghe mê man thôi! Thầy nói thật sự người ta mê, nhưng mà muốn mà thực hiện sống Giới thì phải sống với Thầy. Bởi vì Thầy phải có cái gương, người ta mới noi theo. Mà nói mà không có người làm gương thì người ta bị lôi cuốn trong ngũ dục lạc, không thể nào, phá Giới hết. Có một vị Thầy sống đúng Giới, học trò sẽ nương theo cái gương hạnh đó, người ta sống được, mà không có thì sống không nổi đâu. Thầy làm được mà mình không làm được sao? Quyết định làm, thì người trò nào cũng làm được, sống đúng Giới.
Mà sống đúng Giới thì ly dục, ly ác pháp. Bởi vì Đức Phật nói: “Ta nói Giới Luật, tức là ly dục, ly ác pháp”. Trong Kinh Tương Ưng Phật nói, câu nói đó rất rõ ràng. Mà nói "ly dục, ly ác pháp" thì chúng ta biết là Thiền Định gì rồi, Sơ Thiền mới “ly dục, ly ác pháp”
Bởi vậy muốn nhập Sơ Thiền mới ly dục, ly ác pháp, mới nhập Sơ Thiền, do ly dục sinh Hỷ Lạc, có Tầm, có Tứ, phải không? Có Hỷ, có Lạc, có Nhất Tâm. Câu nói này rất rõ ràng.
(54:45) Thầy nói, nội cái Sơ Thiền không mà chúng ta thấy giải thoát rồi. Nhưng mà Hòa Thượng thì giảng trong cuốn Ba vấn đề trọng đại trong cuộc đời tu gì đó, Hòa Thượng bác Tứ Thiền… Đức Phật, do ngài Alara Kalama dạy Đức Phật nhập bốn Thiền mà không giải thoát, cho nên Đức Phật bỏ.
Hòa thượng nói vậy chứ trong kinh đâu có nói vậy, Hoà Thượng nói ly ngũ dục chứ không phải ly dục đâu. Ly ngũ dục khác, ngũ dục là năm cái đối tượng dục. Còn dục là tâm dục, tâm ham muốn của mình, chứ không phải là ngũ dục. Cho nên giảng sai là sai, giảng đúng là đúng, bởi vì kinh sách Phật hẳn hoi còn đó mà nói sai là tự mình bẻ, bẻ quặt cái đó ra.
Bởi vì muống bác cái pháp của Thầy tu hành, mà nói vậy tức là bác cái pháp của Phật. Mà trong Giới Luật của Phật mà khi mà giảng sai cái nghĩa của Phật dạy thì có chín chục Giới Ba Dật Đề, tức là chín chục Giới Đọa. Nghĩa là khi mà giảng sai, làm sai ý Phật như các tổ, bốn câu kệ mà
“Thiên thượng, thiên hạ
Duy ngã độc tôn,
Nhất thiết thế gian,
Sanh lão bệnh tử”
Các tổ cắt hai câu, bỏ hai câu sau, lấy hai câu đầu. Thì do đó các tổ cũng làm sai ý của Phật, các tổ cũng thọ cái quả khổ là đọa địa ngục. Đọa địa ngục là có gì đâu! Địa ngục đâu phải ở trong lòng đất chúng ta, có Diêm Vương này kia như Đại Thừa diễn tả đâu. Địa ngục là nơi, khi chúng ta đau bệnh khổ, họ khổ sở trên cái giường bệnh đó, là địa ngục đó.
(56:10) Để rồi khi chết đi thì tiếp tục tái sinh theo cái quả. Chứ đâu có cõi địa ngục vô hình chỗ nào đâu? Hay là trên thế gian này có sáu nẻo luân hồi đầy đủ hết, chứ không chạy đi đâu hết. Người nào làm sai là sai. Bây giờ tại sao Thầy mạnh mẽ, Thầy nói như vậy mà Thầy không sợ gì hết? Thầy không sợ các tổ, các tổ làm sai, Thầy nói sai! Tại vì Thầy làm chủ được sự sống chết. Nhân quả Thầy chấm dứt được. Thầy làm chủ nó, Thầy không sợ ai.
Ai nói sai Phật pháp thì Thầy đập xuống. Thầy đập xuống không phải là vì cái ích lợi cho Thầy, cái danh của Thầy, bởi vì Thầy đi rồi, Thầy nói như vậy, người ta đến, người ta cũng khó gặp Thầy lắm. Cho nên Thầy đâu có ngồi đó mà đếm danh đâu.
Tìm Thầy không phải là chuyện dễ, qúy Thầy có duyên. Cũng như ngày mai, bữa nay Thầy còn ở đây, chứ ngày mai là Thầy đi mất rồi. Biết Thầy ở đâu mà tìm, nhưng mà khi tới chỗ đó, không biết chừng Thầy đi mất rồi, bởi vì Thầy trốn danh, trốn lợi mà. Không có ai cúng dường mà Thầy nhận hết. Thầy đâu có cất chùa gì đâu! Thầy đi xin ăn mà sao cúng dường sao được, Thầy không cất tiền bạc.
Cho nên do đó mà Thầy thấy mình thực hiện những cái này là vì những thế hệ những tu sĩ người sau, người ta sẽ lầm lạc, người ta tu, chết người ta sao?
Cũng như các bậc Tôn Túc của chúng ta, từ xưa đến giờ họ cũng lầm lạc pháp môn mà họ tu không đạt được. Họ có những Đức Hạnh rất cao quý, nhưng họ không biết để thực hiện cái bốn thiền. Họ không thực hiện được sự làm chủ Sinh Tử của họ. Cho nên đến khi họ chết họ phải thọ lấy những quả khổ. Và họ cứ dựa theo các tổ mà họ thuyết giảng, cho nên họ vì sự lầm lạc đó mà họ coi như là bài bác kinh sách, lời Phật mà họ phải chịu thọ lấy quả khổ. Các vị làm lợi ích cho Tăng Ni, làm lợi ích cho mọi người chứ nào phải các vị làm cho cá nhân các vị đâu, thế mà các vị khổ như vậy? Chết rất khổ trên giường bệnh.
Như bây giờ Hòa Thượng cũng nghĩ là Hòa Thượng cất chỗ này, chỗ kia để cho mọi người tu chứ đâu phải cất cho Hòa Thượng. Nhưng rồi Hòa Thượng phải thọ lấy cái khổ của Hòa Thượng nếu không làm chủ được nó, chứ đâu phải tránh khỏi đâu.
(58:18) Mình làm chủ, biết rõ ràng, mình làm chủ được thì làm chủ được, mà không làm chủ được thì đừng có lốp bốp, coi chừng nó vật, nhân quả nó không tha mình đâu. Còn mình làm chủ được nhân quả thì nó không làm gì được! Bởi vì cái thân của mình là cái quả, mà mình làm chủ được nhân quả, tức mình làm chủ được thân, phải không? Mà mình làm chủ được thân mình không sợ ai nữa hết. Nghĩa là nhân quả không chi phối mình được đâu. Mình muốn chết hồi nào mình chết. Nó bệnh, mình muốn sống, mình điều khiển nó sống.
Nó không làm sao vật mình được. Vì mình làm chủ nhân quả. Mình không chịu lệ thuộc vào cái Luật Nhân Quả. Mình làm chủ quyền làm chủ của mình, mình đòi lại được cái quyền làm chủ. Tu như vậy mới tu, chứ thật sự tu mà không làm chủ được nhân quả thì đừng tu. Chứ không phải “muội nhân quả, không muội nhân quả”.
Tức là mình không mê muội nó. Mình đau là mình thấy bình thường thôi, kệ nó. Nhưng mà đau hoài chứ không phải hết. Nhưng mà nó đau ít thì mình chịu đựng nổi, chứ nó đau thét như ruội dư, ruột thừa thì chắc chắn là phải đi bệnh viện mổ thôi, chứ đừng nói là nằm đó mà chịu. Thầy nó thật sự, không đơn giản đâu!
Quý thầy thật sự ra, nghe Thầy nói thì Thầy nói thẳng vậy. Nhưng mà mai mốt tìm Thầy không được, tìm tiếng nói Thầy không được. Cũng như kinh sách Thầy, đâu phải là Thầy không viết kinh sách đâu! Nhưng mà những ngày phút cuối cùng, Thầy sắp sửa nhập diệt rồi, Thầy mới viết kinh sách. Bởi vì Thầy không viết như các thầy. Viết kinh sách trước đây, khoảng hồi Thầy ra Phước Hải mà Thầy viết, thì bây giờ người ta biết Thầy rất nhiều rồi, đó là cầu danh. Còn những ngày Thầy là Du Tăng Khất Sĩ, giữ hạnh Đức Phật để Thầy nhập diệt, thì không ai còn tìm Thầy.
Cho nên kinh sách Thầy viết ra là để đời sau người ta đọc, biết đâu là đúng, đâu là sai để người ta tu. Giúp cho người sau, thế hệ chúng ta, những người còn đang hướng về Phật Pháp người ta tu hành thì giúp cho họ phải có đường lối tu. Chứ không phải như thế này, để giết họ nữa sao? Chúng ta là người đi trước, có nhiệm vụ là phải cứu những người đi sau.
(01:00:11) Cho nên Thầy không nỡ mà ngậm miệng để mà làm thinh mà để cho những người hậu thế của chúng ta phải chịu khổ. Thầy không nỡ tâm đó. Cho nên vì vậy mà những giờ phút cuối cùng, Thầy cố gắng Thầy viết, Thầy soạn thảo "Giáo Án Đường Lối Tu Tập Của Đạo Phật" như thế nào đúng, như thế nào sai.
Những kinh sách mà dạy sai Thầy đập xuống hết. Những cái phi Đạo Đức, không đúng Đạo Đức nhân quả Thầy đều đập xuống hết. Coi như là Thầy làm một cuộc cách mạng rất lớn. Thầy dám ăn, dám nói, không sợ ai hết.
Họ muốn giết Thầy thì giết, lúc nào Thầy cũng sẵn sàng chịu đựng. Những tiếng nói của Thầy họ biết được. Thầy nói thật sự, khi mà Thầy nói rồi thì đó là tiếng chuông cảnh tỉnh rồi, thì bấy giờ họ không làm sao họ diệt. Cũng như ngày xưa Thầy Thông Huyễn viết cái “Người Chiến Thắng” chứ gì, “Cuối hàng Dương” chứ gì? Cũng là gây xôn xao rất lớn. Nhưng mà bây giờ người ta, mọi người cố gắng tịch thu cái đó, nói thế này thế khác, nhưng cuốn đó người ta vẫn đút nhét, người ta vẫn giấu, người ta vẫn nói. Người ta vẫn thấy “Người Chiến Thắng” đúng là “Người Chiến Thắng”, Thầy không phải là người chiến bại. Cho nên bây giờ Thầy cũng là người chiến thắng chứ không chiến bại.
Lời nói của Thầy là lời nói đúng, nói thẳng, nói thật. Ai cho Thầy như thế nào, mặc họ, Thầy không lo gì hết! Thầy không cần họ theo Thầy. Nhưng mà Thầy nói để chỉnh đốn lại cái sai. Ngày xưa Đức Phật, Ngài còn bài bác sáu mươi hai luận thuyết của ngoại đạo. Còn Thầy, bây giờ Thầy không bài bác ngoại đạo nữa, nhưng mà Phật Giáo chúng ta sai, những cái sai của Phật Giáo như: Tịnh Độ sai cái gì, Thiền Tông sai cái gì? Mật Tông sai cái gì? Thầy chỉ cái sai ra để chúng ta chỉnh đốn lại Phật Giáo cho đúng, có vậy thôi, chứ Thầy không bài bác ai hết. Thầy không bài bác ba ông thầy này, ông thầy kia sai.
Bởi vì Thầy biết ông thầy này, ông thầy kia đều chịu ảnh hưởng giáo pháp đó thôi, chứ mấy ông thầy này, ông thầy kia làm sao biết được cái đúng, cái sai!? Học cái đó rồi, ảnh hưởng cái đó rồi, kiến chấp cái đó thôi. Cho nên bây giờ đâu có nói ông thầy nào sai là mình bậy, mình không đúng. Nhưng mà cái giáo pháp đó sai vì không dẫn dắt người ta đến nơi đến chốn. Cái đó là cái cái chỉnh đốn lại cái giáo pháp của Phật lại. Từ xưa đến giờ nó đã xen vô những cái giáo pháp không đúng làm cho chúng ta tu hành dở chết, dở sống.
(01:02:25) Thật sự Thầy nói như vậy, mấy Thầy về sau cứ suy ngẫm, đừng nói cho ai biết hết. Bây giờ Thầy ngày nay ở đây, chứ Thầy không ở nữa, tại vì Thầy ở nữa, Thầy biết người ta sẽ rần rần đến thọ Thầy. Người thì họ sẽ có kiến chấp, họ sẽ chống Thầy. Người thì họ sẽ trung lập, họ sẽ khuyên Thầy đừng nên nói. Người thì theo Thầy, nói Thầy nói vậy đúng.
Khen Thầy đúng, Thầy cũng không mừng. Mà bảo Thầy đừng, Thầy cũng không nghe. Mà chống Thầy, Thầy cũng không lo, không nín. Miễn sao tiếng nói của Thầy đúng sự thật, đó là cách thức tu.
Bây giờ Thầy chết, Thầy có một thân mình, Thầy có gì đâu mà Thầy sợ. Họ có giết, một mình Thầy chết thôi, không có gì hết. Họ muốn bảo vệ sự sống của họ bằng "chùa to Phật lớn" thì họ giết Thầy thôi! Họ muốn bảo vệ danh dự của họ bằng đường lối đó, họ giết Thầy, nhưng mà không giết được cái tư tưởng của Thầy, giết được cái Đạo Đức của Thầy, họ không thể giết được lời nói của Thầy đâu.
Thầy chắc chắc nghìn đời lời nói Thầy vẫn còn để mà chỉnh đốn lại Phật Giáo. Vì từ khi mà Phật Giáo truyền sang Việt Nam cho đến giờ, không có vị tổ nào chỉnh đốn Phật Giáo. Thầy là người chỉnh đốn Phật Giáo đầu tiên. Thầy nó thật, nghĩa là đọc lịch sử chúng ta thấy rõ, người ta chỉ biết tu thôi chứ người ta không thấy cái sai. Nhưng cái tu của họ tới đâu, Thầy biết chứ không phải không. Các tổ tu tới chỗ nào Thầy biết. Bởi vì Thầy đã đi qua con đường này rồi, Thầy biết các tổ tu tới đâu, cho nên các tổ không dám nói gì hết. Còn Thầy đã đi nốt quãng đường này rồi! Thầy sẽ nói thẳng, cái gì được, cái gì không.
(01:04:07) Người làm được mới mạnh dạn nói. Người không làm được, không dám nói gì hết. Cho nên các tổ không dám nói ai hết, nghĩa là tổ trước để sao thì tổ sau theo vậy thôi, chứ không dám nói. Tức là chứng minh là các tổ có nhiều người có thần thông, nhưng mà thần thông của họ không thể nào đúng, cho nên họ không dám nói cái sai đó.
Ở đây Thầy nghe nói Tổ Pháp Đăng khi mà tịch, hào quang sáng ở khu núi này. Rõ ràng là các tổ tu, mà vô trong cái rừng núi mà ở trong cái thời đó mà các tổ tu, cũng là, nội lực cũng dữ lắm chứ đâu phải thường đâu, nhưng mà chưa có đúng đâu. Thầy nói thẳng mà, đúng sao lại không biết cái sai của Phật Giáo. Đúng là phải biết cái đúng chứ, mình có kinh nghiệm rồi mà, mình phải biết cái sai chứ, không lẽ mình không biết, đâu phải những pháp đó đúng.
Quý thầy gặp Thầy, rồi sau này có đủ duyên mà gặp Thầy hướng dẫn mà tu hành, Thầy dạy căn bản đàng hoàng, đi vô đàng hoàng, cách thức tu tập đàng hoàng, có đủ sức lực để làm chủ sự sống chết, sống một đời sống, nghĩa là không ai chê mình được.
Nghĩa là mọi người Phật tử, người ta phải kính trọng mình liền, Thầy nói thật, cái Đức Hạnh của một người tu sĩ giữ gìn Giới Luật. Nghĩa là người ta quỳ mọp xuống, người ta đảnh lễ, người ta dâng cúng mình tất cả những cái gì mà người ta có. Nhưng mình không có thọ nhận, tại sao vậy? Tại vì mình buông xả hết rồi, không thọ nhận. Tiền bạc bao nhiêu họ đổ, vàng bạc bao nhiêu họ đổ, họ cúng dường, mình không nhận cái gì hết.
Thầy bây giờ cũng vậy không nhận cái gì, người ta cúng cả cả kí lô vàng mà Thầy cũng không nhận, quý thầy biết. Bởi vì cái phước báo người mà vô lậu, nó phủ trùm cả hữu lậu, chứ không phải vô lậu là như vậy, nó không đủ phước báo.
Thật sự ra có vị Tăng ngày xưa phước báu vô lậu thì ông ta có, hữu lậu không có cho nên ngài Xá Lợi Phất phải đi xin cho ông ta ăn, trong cái giờ phút chết mà ông ta không có đủ ăn nữa. Thật sự nói cái đó không đúng! Người mà phước báu vô lậu thì cái phước báu hữu lậu họ đầy đủ, bởi vì cái Đức Hạnh của họ phủ trùm. Cho nên người ta rất mến phục các vị đó, cái oai nghi phước hạnh của người ta mà, người khác người ta mến phục liền tức khắc.
(01:06:39) Từ cái ăn, cái đi, cái đứng của người ta, cho nên đã thuyết phục được người ta bằng cái Đức Hạnh, cho nên cái đó là cái phước báo vô lậu rất lớn của người ta. Còn người vô lậu là cái phước báo vô lậu là người ta làm chủ được sự sống chết, sanh tử của người ta rồi, người ta chấm dứt luân hồi, là vô lậu, phước báo rất lớn.
Còn mình không đủ phước báo vô lậu, mình không làm chủ được cái đó đâu. Nó rõ ràng, cụ thể, có cái kia mình thọ hưởng được cái phước báo là do cái nghiệp làm thiện của mình, cái nghiệp tâm tốt của mình, thì mình hưởng được phước báu đó, những cái phước báu đó nó sẽ lôi mình đi. Mình không có vô lậu tức là nó lôi hoặc nó quay mình đi, rồi mình luận mình làm cái này, làm Phật sự cái kia, nhưng cuối cùng nó quay mình đi, chừng hết cái quả rồi mình mới trả những cái quả đó.
Thôi bây giờ Thầy về nghỉ! Có đủ duyên Thầy hướng dẫn cho tu hành, trở thành Du Tăng Khất Sĩ- cái hạnh cao quý của Đức Phật này xưa chúng ta là tu sĩ phải lập hạnh đó. Ai ham chùa to, tháp lớn thì đi tìm phước họ. Còn tôi chấp nhận cái hạnh giải thoát của Phật, để đi đến cuối cùng, đó là lập hạnh buông xả.
Đó thầy còn hỏi Thầy gì nữa không?
Thầy nói hết những cái ý, nhưng mà nó không phải đâu, nó không đơn giản đâu! Coi vậy, nói thì tổng quát vậy, chứ mà khi vô rồi phải khép kỷ luật đàng hoàng, phải sống sao, rồi tu tập hàng ngày như thế nào? Chứ không phải vô đó rồi cứ Giới mà cố giữ mãi đâu! Mình muốn thanh tịnh được Giới là mình có pháp tu tập. Bởi vì Tứ Chánh Cần của mình “Ngăn ác, diệt ác. Sinh thiện, tăng trưởng thiện” đó là Định Tư Cụ, đó là dụng cụ để thực hiện Thiền Định, để “ly dục, ly ác pháp”. Thì Giới Luật mới thanh tịnh được, có pháp chứ đâu phải không có.
Phật tử 1: …
(01:08:32) Trưởng lão: Được, nhưng mà trên đường đi Thầy sẽ ghé chỗ nào?
Hay là có người hướng dẫn Thầy đi, thôi ngày mai sáu giờ. Được rồi có người hướng dẫn Thầy sẵn sàng Thầy ghé. Ráng cố gắng, Thầy cố gắng Thầy đi du Tăng, Thầy tạo những cơ sở cho mấy thầy quyết tu giải thoát có cơ sở mà tu, không có gì đâu! Thôi thầy về đi! Không sao đâu!
(Đoạn dưới này có thể được biên tập từ băng khác?)
Thầy Mật Hạnh: Thầy uống nước mát!
(01:09:20) Một người mà muốn tu hành giải thoát làm chủ bốn sự: Sinh, Già, Bệnh, Chết, người ấy phải đi vào con đường tu tập của đạo Phật. Con đường ấy là: Giới, Định, Tuệ. Giới là một pháp môn tu tập thứ nhất của đạo Phật, giúp cho người tu sĩ cũng như người cư sĩ có một Đạo Đức đầy đủ.
Muốn được vậy thì người tu sĩ cần phải học Giới Luật. Giới Luật chỉ cho chúng ta biết rất rõ là Đức Hạnh làm người và Đức Hạnh của Thánh Nhân. Nếu không học thì chúng ta không thể nào biết được những hành động nào là Đức Hạnh của con người và hành động nào là Đức Hạnh của bậc Thánh Nhân.
(01:10:40) Do đó chúng ta học hiểu, thấu rõ được Giới Luật của Phật là những Đức Hạnh làm người, là những Đức Hạnh của bậc Thánh Nhân. Từ đó chúng ta cố gắng khắc phục mình, sống đúng Giới Luật của Phật. Sống đúng Giới Luật của Phật như thế nào? Lấy Giới Luật của Phật phòng hộ sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình. Không để duyên theo sáu trần, không dính mắc sáu trần.
Do đó khi đi, đứng, nằm, ngồi, làm tất cả những công việc gì, chúng ta đều lấy Giới Luật phòng hộ sáu căn. Giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình cho thanh tịnh và đồng thời chúng ta phải thực hiện đời sống “Thiểu Dục Tri Túc”. Khi thực hiện đời sống thiểu dục thì chúng ta tiếp đến sống đúng ba hạnh.
Hạnh thứ nhất là ăn. Ngày ăn một bữa. Không được ăn phi thời, uống phi thời. Ăn một bữa vào ngọ, vào giờ trưa. Ngoài giờ trưa không được ăn uống điều gì, cũng như buổi sáng không được ăn uống điều gì để cho “Thân Tâm Thanh Thản An Lạc Và Vô Sự”. Khi tập ăn uống đã được thuần thục, ngày một bữa thấy không còn thèm khát ăn uống nữa, từ đó chúng ta tập luyện dần lên để phá sự hôn trầm, thùy miên.
(01:12:38) Hôn trầm, thùy miên vốn là tâm ngu si của chúng ta, tâm vô minh của chúng ta. Những người còn ham ngủ, còn thùy miên, còn hôn trầm là những người còn vô minh, chưa sáng suốt. Nên chúng ta lập Hạnh Đức ngủ- phá hôn trầm, phá thùy miên. Lần lượt chúng ta tăng giờ giấc lên tỉnh thức, không để cho hôn trầm, thùy miên nữa, bằng những cách đi kinh hành, hướng tâm vào hơi thở.
Khi chúng ta phá được hôn trầm, thùy miên, chúng ta tiến đến sống độc cư, sống một mình, sống trầm lặng, sống như con tê ngưu một sừng, như Phật đã dạy. Mỗi tâm niệm khởi lên trong đầu chúng ta là những niệm phá hạnh độc cư của chúng ta. Chúng ta hãy cố gắng quán những niệm ấy cho thông suốt, để cho ly ra, để cho diệt sạch thì chúng ta mới sống độc cư trọn vẹn.
Người sống độc cư không được đọc kinh sách, không được nghe băng, không được đọc sách báo, không được nói chuyện với mọi người, chỉ cần thiết thưa hỏi pháp tu tập mà thôi. Nếu người sống không đúng hạnh độc cư thì chẳng bao giờ mà “ly dục, ly ác pháp” được, vì tâm con người vốn ham mê vui thích, sống độc cư cô đơn chịu không nổi.
(01:14:37) Nên thường phá Hạnh Độc Cư: nói chuyện, đọc kinh sách, nghe băng, do đó mà người tu hành Thiền Định mãi mãi chẳng đạt Thiền Định. Nếu mà ức chế tâm không vọng tưởng cho đó là Thiền Định thì điều đó là điều sai. Tại vì bí quyết của sự tu tập Thiền Định là độc cư
Vì có độc cư tâm mới tuôn trào, tâm tuôn trào ta mới đạt được tâm ly dục ly ác pháp, vì tuôn trào mãi, mà không sai sử, phá Hạnh Độc Cư của chúng ta được cho nên tâm không còn tuôn trào nữa. Nếu tâm tuôn trào mà chúng ta theo tâm tuôn trào đó mà phá Hạnh Độc Cư thì như chúng ta tiếp nhận vào, từ bên ngoài thêm vào tâm chúng ta nữa.
Do đó chúng ta không làm sao ly dục ly ác pháp được, như hồi nãy Thầy đã nói, muốn tu tập Thiền Định thì phải Giới Luật. Giới Luật phòng hộ sáu căn, sống đời sống thiểu dục tri túc, rồi ăn, rồi ngủ, rồi độc cư. Đó là những điều mà người tu sĩ muốn làm chủ sinh, già, bệnh, chết thì cần phải thực hiện những điều này.
Trước tiên lập hạnh đời sống cho đúng cách của một người tu sĩ giải thoát. Nếu không lập hạnh được thì dù có ngồi thiền năm, bảy ngày cũng vẫn là tà thiền, tà đạo không thể nào là chân chính của Thiền Định được.
(01:16:28) Kế đó sau khi Giới Hạnh, chúng ta giữ gìn nghiêm túc để thực hiện được Giới Hạnh ly dục, ly ác pháp được thì chúng ta tiếp tục tu tập Tứ Chánh Cần- “Pháp ngăn ác, diệt ác. Sinh thiện, tăng trưởng thiện”. Pháp Tứ Chánh Cần còn gọi Định Tư Cụ, dụng cụ để thực hiện Thiền Định của đạo Phật. Muốn thực hiện được Định Tư Cụ, thì chúng ta phải nương vào Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ là bốn chỗ để chúng ta tu tập, khiến cho tâm chúng ta ly dục, ly ác pháp, khắc phục được tham ưu, phiền não tâm của chúng ta.
Tứ Niệm Xứ- “trên thân quán thân”, tu về hành tướng, tức là chúng ta tu về Định Vô Lậu. Mỗi tâm niệm chúng ta khởi lên, không được dừng ngay liền, không được xả liền, mà mổ xẻ cái niệm đó ra, quán xét, suy tư, nhìn thấy nó nằm trong lậu hoặc nào: Dục Lậu, Hữu Lậu, Vô Minh Lậu.
Nếu chúng ta thấu rõ nó nằm trong Dục Lậu thì ngay đó chúng ta xả nó. Nếu chúng ta thấy nó nằm trong Hữu Lậu thì ngay đó chúng ta xả niệm đó. Nếu chúng ta thấy rõ nó nằm trong Vô Minh Lậu thì chúng ta đã xả niệm đó. Nếu niệm đó chúng ta mổ xẻ qua Luật Nhân Quả, chúng ta thấy nó thiện hay ác. Nếu ác. khi chúng ta nhận niệm đó khởi lên ác thì ngay đó chúng ta đã xả.
(01:18:38) Nếu chúng ta nhận niệm đó là thiện, thì ngay đó chúng ta tăng trưởng cho tâm hồn chúng ta sống trong pháp thiện. Vì vậy mà tâm chúng ta luôn thanh thản và an lạc. Muốn được vậy thì hàng ngày chúng ta phải tu tập Định Vô Lậu, tức là quán xét từng niệm, từng hành động của chúng ta, từng ý nghĩ của chúng ta, rồi các pháp- đối tượng xung quanh với chúng ta.
Chúng ta quán xét từ thân, thọ, tâm, pháp, mỗi mỗi bốn chỗ này hiện ra nơi tâm của chúng ta. Chúng ta đều trên nó mà quán xét. Cho nên Phật dạy: “Trên thân quán thân. Trên tâm quán tâm. Trên thọ quán thọ. Trên pháp quán pháp”. Tu về nhân tướng của nó, do quán xét thông suốt như vậy mà xả được tâm như vậy thì gọi là Định Vô Lậu, làm cho tâm chúng ta vô lậu.
Đó là pháp môn diệt ác, đoạn ác. Mỗi tâm niệm của chúng ta hiện giờ khởi lên, là nói lên ác pháp làm cho tâm chúng ta phiền não, giận hờn, đau khổ, suy tư, lo lắng, bất an, bất toại nguyện thì đó là niệm ác. Nên Định Vô Lậu, tức là trên "thân quán thân", tu về nhân tướng của bốn chỗ này: thân, thọ, tâm, pháp.
(01:20:27) Đó là pháp diệt ác như trong Tứ Chánh Cần đã dạy: “Ngăn ác, diệt ác”, mà Định Vô Lậu là định diệt ác. Do đó hàng ngày chúng ta thực hiện Định Vô Lậu quán xét để diệt những tâm ác của chúng ta, lòng ham muốn của chúng ta thì đó là diệt những pháp ác.
(01:20:54) “Trên thân quán thân”, tu về hành tướng ngoại: đi, đứng, nằm, ngồi, mang bát, mặc y, ăn cơm, nhổ cỏ, quét sân, rửa bát, vân vân. Tất cả những hành động thân của chúng ta, đều tỉnh thức ngay hành động, để rồi trong mỗi hành động đó chúng ta dùng pháp Như Lý Tác Ý. Tác ý như thế nào? Luôn chúng ta nhắc nhở tâm mình, tức là dẫn tâm vào chỗ giải thoát của Đạo, chỗ giải thoát của Đạo là gì? Chỗ đó là chỗ không tham, sân, si, phiền não, đau khổ, bất toại nguyện, dẫn tâm vào chỗ không có những pháp ác đó, đó gọi là dẫn tâm vào đạo. Vậy thì pháp hướng dẫn tâm vào Đạo như thế nào?
Hằng ngày chúng ta biết rằng bản chất của đất không bao giờ có tham, sân, si, giận hờn. Đất ai đá qua, đá lại vẫn tự nhiên. Đất dù ai có đổ vật bất tịnh, đất cũng không buồn. Dù ai có đổ vàng bạc, châu báu, ngọc ngà trên đất, đất cũng không mừng thế nên chúng ta biết đất không còn tham, sân, si.
(01:22:24) Vì thế chúng ta lập pháp hướng: “Tâm như đất, không có tham, sân, si”. Như vậy hàng ngày chúng ta làm tất cả công việc hành động thân của chúng ta, mọi việc đi đứng, nằm ngồi, mang bát, mặc y, ăn cơm, đều hướng tâm nhắc: “Tâm như đất, không giận hờn ai nữa hết, tất cả các pháp đều không thật, đều vô thường.”
Do hằng ngày chúng ta dùng pháp hướng nhắc tâm như vậy, để dẫn tâm vào Đạo giải thoát như vậy, lâu ngày thuần thuật thành một đạo lực. Do đạo lực đó mà tâm ly dục, ly ác pháp hoàn toàn. Đây là Pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác Định mà Đức Phật dạy về Pháp Thân Hành Niệm.
Đức Phật ngày xưa nói: “Ta có một pháp tu hành giải thoát đệ nhất đó là Thân Hành Niệm”. Thân Hành Niệm tức là Tỉnh Giác Chánh Niệm Định. Định Chánh Niệm Tỉnh Giác giúp ta ngăn được các pháp ác. Ngăn ngừa các pháp ác, không cho sinh khởi trong tâm chúng ta. Hàng ngày sống biết tỉnh thức trong hành động của mình và đồng thời lúc nào chúng ta cũng nhắc tâm để xả ly tham, sân, si, ngũ triền cái và thất kiết sử.
(01:23:58) Kế tiếp chúng ta "trên thân quán thân", tu về hành tướng nội. Hành tướng nội của thân là gì? Là hơi thở của chúng ta. Do vì vậy chúng ta nương vào hơi thở, cho nên Kinh Phật có dạy, bài Kinh Xuất Tức Nhập Tức. Chúng ta dùng Định Niệm Hơi Thở mà tu tập.
(01:24:10) Nương vào hơi thở tu tập bằng cách nào? “Hít vô, tôi biết tôi hít vô. Thở ra, tôi biết tôi thở ra.” Tại sao chúng ta phải hướng tâm nhắc như vậy? Nhắc như vậy tâm chúng ta tỉnh thức mà không khởi một niệm thiện, niệm ác nào trong đầu chúng ta. Ví dụ:
“Tôi hít vô, tôi biết tôi hít vô. Tôi thở ra, tôi biết tôi thở ra.”
“Hít vô dài, tôi biết tôi hít vô dài. Thở ra dài, tôi biết tôi thở ra dài.”
“Hít vô ngắn, tôi biết tôi hít vô ngắn. Thở ra ngắn, tôi biết tôi thở ra ngắn.”
Nếu tôi âm thầm, không hướng tâm, không tác ý mà nhắc tâm mình mà chỉ biết hơi thở hít ra, hít vô, thì như vậy tôi đã tự ức chế tâm tôi chứ không phải tôi nhắc tâm tôi.
Khi chúng ta tác ý nhắc tâm, tức là chúng ta tu cái định gì đây? Chúng ta tu "Định diệt Tầm mà giữ Tứ". Tứ tức là tác ý ra, thường xuyên tác ý ra.
Ví dụ như tôi nói, tôi nhắc tâm tôi: “Hít vô, tôi biết tôi hít vô. Thở ra tôi biết tôi thở ra”, tức là nhắc tôi để tôi nhớ tôi biết tôi đang hít vô và thở ra. Đó là pháp hướng đầu tiên để giúp cho chúng ta tỉnh thức trong hơi thở. Sau khi chúng ta tỉnh thức trong hơi thở thì chúng ta tiếp đến để nhắc cho thân và tâm của mình. Ví dụ:
“Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô. Cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra.
Hay: “Cảm giác toàn tâm tôi biết tôi hít vô. Cảm giác toàn tâm tôi biết tôi thở ra”.
(01:26:32) Đó là nhắc để chúng ta tỉnh thức từng trong cơ thể của chúng ta. Thân của chúng ta đang có sự cảm giác gì? Cũng như tâm chúng ta có những sự cảm giác gì? Bây giờ chúng ta đã chính thức, đã tập trung nơi thân và tâm chúng ta, cảm giác rất rõ ràng, thì chúng ta tiếp tục đến mà chúng ta hướng đến trong mười sáu đề mục thiền, mà trong bài Xuất Tức, Nhập Tức Phật đã dạy.
Đến cuối cùng thì chúng ta: “Quán ly tham, tôi biết tôi hít vô. Quán ly tham, tôi biết tôi thở ra.”
Vì :“Tôi thở ra, tôi biết tôi thở ra. Tôi hít vô, tôi biết tôi hít vô”, có nghĩa là chúng tôi tỉnh thức tại nơi hơi thở. Nhưng "quán ly tham" tức là Chánh Niệm của tôi ở chỗ ly tham. "Quán ly sân", tức là ở chỗ ly sân. Hàng ngày chúng tôi tu tập Định Niệm Hơi Thở tức là "trên thân quán thân" tu về hành tướng nội của thân.
Chúng tôi tu tập như vậy có nghĩa là chúng tôi thực hiện Pháp Định Niệm Hơi Thở, để ly dục, ly ác pháp, nghĩa là khắc phục được tâm tham ưu của mình. Khắc được tâm tham ưu của mình tức là ly dục, ly ác pháp.
(01:28:19) Khi tâm ly dục, ly ác pháp được rồi thì tâm như thế nào? Lúc bây giờ tâm không còn phóng dật. Trạng thái tâm không còn phóng dật nữa, tâm không còn phóng dật tức là tâm đã quay vào trong thân, hay nói cách khác là tâm đã định vào trong thân.
Tâm đã định vào trong thân, trạng thái như thế nào? "Tâm Thanh Thản An Lạc và Vô Sự", cho nên Đức Phật dạy: “Tâm ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền. Do ly dục sanh Hỷ Lạc, có Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất Tâm”.
Lúc bây giờ người nhập Sơ Thiền không có còn niệm khởi, tự do niệm khởi, lúc khởi niệm này, lúc khởi điểm khác cho nên gọi là Nhất Tâm.
Trạng thái thường thanh thản, an lạc. Chữ Hỷ Lạc của Phật dạy ở đây không phải là trạng thái của dục lạc mà gặp, như chúng ta nghĩ là hỷ, là có điều gì làm chúng ta mừng. Ví dụ như có anh em, cha mẹ đi xa về, bây giờ gặp lại nhau mừng rỡ. Nỗi mừng đó nó không phải là nỗi mừng của người ly dục, ly ác pháp. Cho nên chữ Hỷ ở đây, người Hoa đã dạy Hỷ là mừng. Nhưng cái mừng đó chúng ta, người mà chưa ly dục không thể hiểu được chữ mừng này cho đúng nghĩa của nó.
Ly dục, cái mừng của nó, gọi là Thanh Thản, An Lạc, chứ không phải có nỗi mừng vui gì cả hết. Những người chưa biết tưởng là chúng ta mừng vui như dục lạc của thế gian thì không đúng. Trạng thái Hỷ Lạc của Thiền Định của Sơ Thiền không gì khác hơn là chỗ "Thanh Thản, An Lạc, Vô Sự", chứ không phải có niềm vui mừng như người thế gian, như trạng thái của người thế gian.
(01:30:32) Người ly dục, ly ác pháp thì nhập được Sơ Thiền. Chứ không phải ngồi thiền mà ức chế tâm để được nhập Sơ Thiền, khi hết vọng tưởng, điều này là điều sai.
Người ly dục, ly ác pháp, là người từng tu tập "ngăn ác, diệt ác" thì người đó mới ly dục, ly ác pháp. Nhưng nòng cốt của nó là do sống đúng đời sống Giới Luật thì mới ly dục, ly ác pháp được.
Nếu chúng ta sống có tu tập "trên thân quán thân", tu về nhân tướng, "trên thân quán thân", tu về hành tướng nội và ngoại mà không có Giới Luật thì sự tu tập này cũng vẫn là hoài công vô ích. Vì đời sống Giới Luật là nòng cốt, là căn bản để chúng ta thực hiện được ly dục, ly ác pháp và các pháp này là những pháp trợ lực. Cho nên gọi là trợ pháp, giúp cho Giới Luật thanh tịnh, tạo cho tâm ly dục, ly ác pháp hoàn toàn.
Tâm ly dục tức là tâm không phóng dật. Tâm không phóng dật tức là tâm định trên thân, luôn lúc nào trong thân có những sự hoạt động gì, như tim đập, hơi thở thở, là luôn luôn lúc nào tâm cũng biết những hoạt động đó, mà không lưu ý, để ý những hoạt động bên ngoài của các pháp. Do vì vậy mà chúng ta nhận ra được tâm quay vào trong. (01:31:50)
HẾT BĂNG
ĐẠO PHẬT LÀ ĐẠO ĐỨC GIẢI THOÁT
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian:
(00:00) Trưởng lão: Phật pháp thì nó chỉ có cái tạng in Kinh của Phật, nó rất ít chứ nó không có nhiều. Bởi vì trong 49 năm thuyết pháp độ sanh, trong cái thời đức Phật mà thuyết giảng dạy cho người tu đó, thì hầu như đức Phật không có viết kinh sách. Mà ai có cái điều kiện muốn tu, đến xin đức Phật thì đức Phật giảng ngay bài kinh đó, rồi về thực tập cái lời dạy đó thôi, chứ không có ghi chép. Cho nên cái kinh sách của đức Phật, sau này thì các Tổ kết tập lại thành kinh sách. Cho nên khi mà kết tập lại, đầu tiên đó kết tập lại không có viết nữa. Chỉ đọc lại cho tất cả chúng Tỳ kheo đó nghe rồi thôi. Do đó người ta nhớ, cái nhớ, cái không nhớ, chứ không phải là toàn bộ là nhớ hết đâu. Vì vậy mà sau này kết tập lần thứ hai thì nó mới viết thành kinh sách, cho nên người ta thêm rất nhiều. Rồi cái số mà các Tổ mà kiến giải viết ra thành cái tạng kinh sách đó thì Thầy nói cả đống kinh sách như rừng. Cho nên làm cho chúng ta không có biết đường đi đâu.
Vì vậy mà bây giờ chúng ta trở về những cái bài pháp mà đầu tiên của đức Phật thuyết, giảng cho các vị cư sĩ, cũng như các vị Tỳ kheo, Tăng và Ni trong cái thời đó đó, thì cái số Kinh đó rất ít. Nó chỉ có một cái số ít thôi chứ không nhiều. Do vì vậy mà chúng ta đọc những cái bài kinh đó, chúng ta mới thấy thực sự nó cô đọng lại. Cho chúng ta biết rằng có cái bộ Kinh, mà bộ kinh đó gọi là bộ "Kinh Pháp Cú". Những cái lời ngắn gọn, mà hầu hết là những lời ngắn gọn đó, là dạy cái đạo đức, cái nền đạo đức của đạo Phật.
Sau này thì quý vị sẽ đọc được cái "Kinh Lời Vàng", là cái bộ kinh Pháp Cú đó thì các vị sẽ thấy được đức Phật chỉ định cho chúng ta sống ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện.
Hàng ngày, chúng ta sống trong cái nền đạo đức nhân bản - nhân quả, để chúng ta không làm khổ mình, khổ người thì đó mới chính là đạo Phật. Cái bộ Kinh Pháp Cú để nhắc nhở cho chúng ta sống được giải thoát. Gọi là giải thoát của đạo Phật, là không làm khổ mình, không làm khổ người, thì cái này mới là giải thoát. Chứ không phải giải thoát ở chỗ Thiền Định, hay hoặc là giải thoát ở chỗ này, chỗ nọ kia bằng cách ta cúng bái, tụng niệm hay ngồi thiền hay niệm chú. Tất cả những cái này là người sau họ đặt. Cho nên chúng ta tu hành mà không đúng cách, thì chúng ta vẫn thấy không giải thoát đâu.
(2:08) Vì vậy mà bây giờ đọc lại những cái kinh sách mà căn bản nhất của đức Phật đó là Kinh Pháp Cú. Do từ Pháp Cú đó mà chúng ta suy ra, chúng ta thấy là thiện pháp, là Đạo Đức Làm Người. Nếu một người được học xong rồi, mà áp dụng vào đời sống của mình là người đó có đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Người ta chửi mình không biết giận đâu. Mà không biết giận là giải thoát chứ gì?
Thấy một cái vật đó ham muốn, thì chúng ta ngăn chặn được cái tâm ham muốn "Ham muốn là đau khổ", chúng ta không ham muốn. Chúng ta làm, chúng ta siêng năng làm. Làm thì nó sẽ có, chứ không phải ham muốn với một cách không có mà lại ham muốn. Đó là những cái điều kiện của đạo Phật dạy chúng ta.
Do mà đức Phật chỉ định cho chúng ta biết rằng, tất cả mọi sự khổ đau và cũng hạnh phúc của con người chính là do tâm của người đó, chứ không ai hết. Bởi vì tâm làm thiện thì người đó sẽ được hưởng hạnh phúc, mà tâm làm ác thì người đó sẽ khổ đau, có vậy thôi. Cho nên chúng ta biết được như vậy là chúng ta triển khai những cái pháp của đức Phật. Cơ bản nhất của nó là về phần đạo đức nhân bản - nhân quả. Nhân quả tức là hành động thiện thì chúng ta hưởng được phước, mà hành động ác là chúng ta thọ lấy quả khổ.
Do dạy người ta biết được cái thiện cái ác, vì vậy người ta biết được. Vì vậy mà người ta sẽ không có làm điều ác, mà người ta sống thiện. Đó là những điều mà cư sĩ hỏi thì Thầy sẽ chỉ cho chúng ta biết nghiên cứu. Đừng có nghiên cứu cái Kinh sách mà cả rừng này, nó không có đem đến cho chúng ta lợi ích, mà nhiều khi nó làm cho chúng ta lạc lối đường nữa.
Cho nên ở đây chúng ta muốn đi vào đạo Phật là đi ngay với bộ Kinh, bộ kinh Pháp Cú. Thầy muốn ca ngợi bộ Kinh Pháp Cú là tại vì nó dễ hiểu, và nó ngắn gọn. Nó nằm ở trong nền đạo đức của con người.
(3:37) Như chiếc áo của các cư sĩ, thì hầu hết là chúng ta phải sống đạo đức, vì chúng ta một loài động vật. Là 1 loài động vật như muôn loài động vật khác, nhưng chúng ta hơn chúng là chúng ta có đạo đức. Nếu một, hai người đó đánh lộn, sân, giận dữ nhau, thì hai người này là một con thú vật, chứ không phải là con người. Vì con người không thể nào, không thể nào đánh lộn, không thể nào chửi lộn như vậy được. Nó có cái đạo đức, nó không làm khổ mình, khổ người, thì nó không thể nào là con thú vật.
Cho nên đạo đức của đạo Phật là đạo đức nhân bản, nó thoát ra khỏi cái bản chất của thú vật. Con người chúng ta hiện còn đang mang bản chất của loại thú vật. Vì vậy mà chúng ta không học đạo đức, chúng ta là con thú vật. Con thú vật nó có thể nó trở thành ác thú, nó có thể giết hại biết bao nhiêu loài thú khác. Con người độc lắm, cho nên nó là con ác thú. Cho nên đức Phật xác định, xác định con người rất khó. Khó là vì con người phải có năm cái điều thiện.
Hiện giờ chúng ta thấy con người rất đông chứ gì? Đâu có khó đâu. Người ta sanh con người rất nhiều chứ gì? Nhưng con người mà sống 5 điều thiện không có. Người mà không sát sanh, chúng ta thấy không có. Người mà không trộm cắp, chúng ta thấy không có - không tham lam đó. Người mà không nói vọng ngữ chúng ta thấy không có. Người mà không tà dâm, chúng ta thấy không có, phải không? Người mà không uống rượu, không say sưa nghiện ngập rất là ít, rất là hiếm. Vậy mà tìm được con người mà năm cái điều thiện này, mà là con người thật sự đó, thì chúng ta không thấy có ở trên hành tinh trong thế gian này, phải không? Rất khó tìm con người đó.
Cho nên đức Phật nói khó, con người khó, khó như con rùa mù tìm bọng cây giữa biển, có đúng không?
Bây giờ chúng ta thấy con người quá đông, nhưng mà ai sống được 5 điều thiện này? Không! Như vậy con người quá khó.
Vậy thì hôm nay chúng ta muốn làm con người thật sự là con người, để thoát ra cái bản chất loài động vật, thì chúng ta hãy sống 5 cái điều lành này. Vậy thì 5 cái điều lành này đó là với tiêu chuẩn để chúng ta xây dựng được cái Đạo Đức Làm Người. Từ 5 cái điều lành này, mà chúng ta sống đúng thì chúng ta không làm khổ mình, khổ người. Từ 5 cái điều lành này chúng ta suy ra, chúng ta trở thành 1 cái bộ đạo đức, đạo đức nhân bản. Nhân bản tức là cái gốc làm người mà. Cho nên cái đạo đức này nó mới giúp chúng ta là con người thực sự con người. Không khéo con người chúng ta sẽ trở thành là con thú vật.
Hôm nay học đạo Phật thì chúng ta phải học đạo đức, chứ đâu phải nói Nho giáo mới có đạo đức. Đạo đức của Nho giáo là đạo đức phong kiến: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, tam cang ngũ thường. Còn đạo đức của đạo Phật là đạo đức không làm khổ mình, khổ người, đạo đức nhân bản. Bất kỳ cái giai cấp nào trong xã hội đều thực hiện được cái giai cấp này, đều thực hiện được cái đạo đức này. Còn cái đạo đức của Nho giáo là chỉ thực hiện cho giai cấp của sĩ phu. Chứ còn con người bình dân chúng ta với không nổi, vì chúng ta không thể hiểu được. Còn trái lại, cái đạo đức của đạo Phật, mọi con người là cái người cùng đinh, người tôi tớ, người hèn mạt nhất trong thế gian này vẫn sống, vì sống lợi ích cho họ. Nếu họ không sống lợi ích cho bản thân họ thì họ trở thành một con thú vật.
(6:23) Cho nên cái đạo đức này là đạo đức của đạo Phật để giúp cho con người giải thoát, vì vậy mà đạo Phật gọi là đạo giải thoát. Mà giải thoát bằng cái gì? Bằng trí tuệ. Cho nên đức Phật nói: "Trí tuệ ở đâu thì đạo đức ở đó, đạo đức ở đâu là trí tuệ ở đó". Người có trí mà không có đạo đức, thì người đó không phải là người có trí. Một người có bằng Tiến sĩ, có học thức giỏi, có hiểu biết, kinh điển thông suốt, mà sống hoàn toàn không đạo đức là người đó không có trí tuệ. Người đó chỉ nhẩm lại, nhai lại đờm dãi, tích luỹ lại cái sự hiểu biết một cách rất cạn cợt của thế gian. Không có đạo đức, không có giải thoát cho mình.
Cho nên đạo Phật rất đơn giản, rất dễ dàng. Vì chúng ta sống đúng đạo đức là chúng ta sẽ giải thoát. Cho nên ở đây, Thầy nói có tu hành gì đâu? Như nãy giờ Thầy nói, bây giờ chúng ta bắt buộc mình phải tập trung trong hơi thở, phải đi kinh hành, phải tập trung cho biết đi, biết đứng. Làm cho chúng ta lại thêm những cái công việc làm. Thành ra chúng ta, thay vì chúng ta phải được nghỉ ngơi, phải được an ổn, phải được khoẻ khoắn. Bây giờ chúng ta lại tu tập thêm những cái pháp, làm chúng ta phải quá nhọc nhằn, phải không?
Chúng ta chỉ cần giữ tâm mình thanh thản, an lạc và vô sự. Thấy nó thanh thản, an lạc, vô sự thì nó không chướng ngại pháp, nó không ác pháp, thì nó là đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Bây giờ có người khác chửi mình, bây giờ đó mình mới có đủ chuyện mình làm việc nè. Bây giờ người ta chửi mình, thì mình đừng có giận, thì như vậy mình không giận, thì tức là mình đạo đức chứ gì? Mình không chửi lại người, tức là mình đâu có làm ác pháp. Mà mình không làm cho mình giận thì tức là mình đâu có ác pháp. Còn người ta chửi mình, mà mình tức giận, tức là mình mang ác pháp. Thì rõ ràng là mình đang ở trong ác pháp.
(7:48) Do có sự tu tập của đạo Phật bằng cái trí tuệ. Vì trí tuệ hiểu biết, cho nên chúng ta không giận, phải không? Cho nên đạo đức ở đâu thì trí tuệ ở đó, mà trí tuệ ở đâu thì đạo đức phải ở đó. Người có trí tuệ sao lại có giận? Vậy thì quý vị bây giờ dù có đỗ bằng Tiến sĩ, có học thức giỏi, có thông tam tạng kinh điển mà cơn sân thì quý vị là người không trí tuệ. Còn Thầy là người không biết gì hết, ngu đần, Thầy không có cấp bằng gì hết. Nhưng mà người ta chửi Thầy, Thầy không giận, tức là Thầy người có trí tuệ. Bởi vậy đức Phật xác định trí tuệ ở đâu là đạo đức ở đó, đạo đức ở đâu là trí tuệ phải có ở đó. Đó là một cái cụ thể của đạo Phật. Vì vậy mà cuộc đời sống của người đó giải thoát hoàn toàn.
Cũng như bây giờ, giờ phút này chưa có nấu cơm, lát nữa Thầy đói. Mà Thầy vẫn thản nhiên không có lo lắng gì hết, thì tức là Thầy có trí tuệ. Còn bây giờ nó đói Thầy phải lo. Bây giờ phải tính lén đi ăn cắp bụi củ mì, hay nhổ khoai lang, hay bắt con gà của họ để về ăn, thì như vậy rõ ràng Thầy là cái người không có vô sự. Thầy là 1 cái người có ác pháp và Thầy là cái người trở thành tham lam, phải không? Từ trong ý Thầy chưa làm, nhưng mà Thầy làm người tham lam rồi. Như vậy là rõ ràng ác pháp trong đó mà. Mà Thầy bây giờ có bắt con gà ăn cho Thầy mập béo đi nữa, thì hay hoặc là nhổ bụi củ mì, hay lén lấy người ta một lít gạo về nấu mình ăn, thì cái người này có trí tuệ không? Không có trí tuệ.
Bây giờ Thầy nói đây là đơn giản. Bây giờ cái người đó, bây giờ họ ngồi đây, họ suy nghĩ nè: Mình phải mở nhà máy, kinh tế phải làm cái này, cái kia, tiền bạc… Như vậy là người đó có trí tuệ không? Đâu có trí tuệ đâu. Người đó còn tham đắm, cho nên đày ải họ phải khổ sở. Họ phải nghĩ nè bây giờ phải làm như thế này, thế này nè, để rồi mà thu lợi nè, bằng cách này nè. Đóng thuế Nhà nước như thế này, làm cái này phải lợi như thế này, bóc lột nhân công như thế này, phải trả lương ít như thế này… Để mà đem lại cái lợi tức cho nhiều cho mình này. Để mai mốt mình cất nhà lầu nhà đài, xe cộ nè. Tất cả những cái này để làm lợi ích cho mình nè. Thì như vậy là rõ ràng là người này tốt hay là xấu? Người này có trí tuệ không? Người ta tính: "Ông này tính thật hay thiệt, tính làm ăn thật kỹ thiệt, ông này trí tuệ thiệt!" Trí tuệ này là trí tuệ ngu si. Đưa mình đi vào chỗ chết, đưa mình vào chỗ cực khổ, chứ chưa phải là đưa mình vào cái chỗ giải thoát.
Cho nên ở đây, cái sự tu tập của đạo Phật: Trí tuệ đạo đức. Bây giờ cái khả năng của tôi nè, tôi là một người kinh doanh nè, tôi sẽ mở ra những cái nhà máy nè, một cái nhà hàng, một cái khu du lịch nè… Tôi sẽ lấy đồng tiền này nè, không phải vì cá nhân của tôi đâu. Mà tôi sẽ giải quyết cho bao nhiêu người thất nghiệp để vào cơ sở này làm nè. Để giúp cho họ không con, có cơm ăn áo mặc nè, xoá đói giảm nghèo nè. Tôi nghĩ là vì cái sự đau khổ của những người thất nghiệp. Tôi làm công việc này, tôi có khả năng, tôi làm được. Tôi có vốn, tôi làm việc này, không phải vì tôi làm giàu thêm tôi đâu. Cho nên những nhân viên mà vào đây tôi trả lương đủ sống, một triệu, hai triệu bạc để cho họ đủ sống, nuôi gia đình họ đầy đủ. Cho nên từ đó tôi cứ tự suy nghĩ như vậy, tôi là thiện pháp có trí tuệ nè. Tôi cũng làm ăn, nhưng mà tôi làm ăn không có vì cá nhân của tôi, mà tôi làm ăn vì sự đau khổ của mọi người khác. Cho nên cái trí tuệ này là cái trí tuệ của cái người có đạo đức.
(10:42) Đó, phải hiểu được cái trí tuệ. Con nhiều khi mình bỏ vốn ra mình lo làm ăn, làm giàu làm có, mình bóc lột công nhân. Coi mấy ông chủ, mấy ông giám đốc, thật sự ra rất nhiều những cái tai hại này. Thì chẳng khác nào như một cái người mà ngồi đây đói, mà đi tính đi bắt gà người ta, đi tính ăn trộm gạo hay trộm lúa người ta. Thì cái ông mà giám đốc này có thua gì không Cũng vậy thôi.
Cho nên cách thức khéo léo của họ thôi, như vậy những người này là những người không trí tuệ. Vì cá nhân của họ mà làm hại tất cả mọi người khác. Đó! Đó là một cái sai, cái không đúng.
Cho nên ở đây đạo Phật dạy chúng ta “Đạo đức ở đâu là trí tuệ ở đó”. Đạo đức thì không làm khổ người, không làm khổ mình, phải không? Cho nên đâu có làm khổ người, đâu có bóc lột nhân công. Cho nên nhân công vẫn đủ sống, có tiền lương sống, xóa đói được giảm nghèo. Tạo được công ăn việc làm cho họ thì như vậy rõ ràng là cái ông giám đốc này, ông chủ này rất là người tốt, người có đạo đức.
Đó, hôm nay vì cái chỗ cái căn bản của Phật pháp đó. Thì như vậy, quý cư sĩ hãy hướng về đạo Phật là phải hướng về đạo đức, đạo đức nhân bản - nhân quả, đó là cái điều duy nhất. Cần phải đọc những cuốn sách mà dạy về đạo đức. Như đầu tiên thì các cư sĩ hãy đọc những cuốn sách của đạo Phật: “Kinh Pháp Cú. Là của lời của Phật nói ngày xưa mà bây giờ người ta còn nhớ được những câu đó. Bởi vì nó vừa ngắn vừa gọn, nó là những bài kệ. Cái thứ hai là hãy đọc 10 điều lành của Phật, tức là Thập Thiện. Thập Thiện là 10 (cái) điều lành. Mà cái người nào giữ trọn được 10 điều lành gọi là người trời. Nghĩa là không có cái cõi Trời, cõi vô hình. Mà có con người ở thế gian này sống 10 điều lành, người đó là người trời. Còn cái người ở thế gian này mà sống 5 điều lành thì đó là con người, thực sự là con người. Dưới 5 điều này làm con thú vật, là một loại động vật, không thể mặt người mà loài thú, chứ không phải là con người thực sự.
Cho nên, chúng ta biết được trong kinh sách của Phật đã xác định được con người. Trời, con người Atula và ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục. Tất cả những cái sáu cái nẻo luân hồi này, là ngay cả cuộc sống của chúng ta đã phân được những giai cấp đó. Đã được những cái hay hoặc là thế này, mà ngay trong cõi chúng ta. Nhưng cõi trời chúng ta có được không? Chưa có người nào sống Thập Thiện hết. Cõi người chúng ta tìm còn chưa ra, huống hồ là cõi Trời, thật là khó vô cùng!
Hôm nay, đủ duyên đến đây được nghe Thầy giảng về đạo đức, phải không? Thầy đây nói đạo đức, nhưng mà chưa đi sâu vào chi tiết đạo đức. Sau này có được dịp đọc bộ sách "Đạo Đức Làm Người"… Đến đây Thầy xin, các con còn hỏi Thầy gì thêm nữa không? Chúng ta sẽ dừng lại đây.
ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN - NHÂN QUẢ 01 - SỐNG GIỚI LUẬT ĐỂ GIẢI THOÁT
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
(00:06) Trưởng lão: Mình chỉ suy luận như vậy, mình chỉ nói trong đầu mình như vậy mà cái tự mình được giải thoát. Nó hay tuyệt vời! Ông Phật ông dạy mình thấy nhân quả, đừng biết đúng biết sai, mà hãy thấy nhân quả, tâm mình sẽ được giải thoát. Bất cứ cái gì ở trên đời này, mà người nào làm cái gì thì không ngoài nhân quả, thiện ác thôi chứ có gì đâu! Khen mình thì là thiện, mà chê mình là ác, mà tâm mình thì đừng thấy lỗi người mà hãy thấy lỗi mình.
Các con ghi chép, nhớ kỹ như vậy thì ngay đó là tâm mấy con bất động, mấy con giải thoát liền, mấy con làm A La Hán, làm Phật ngay đó. Phật là giải thoát, là không bị chấp trước một ác pháp.
Mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý không phải đui, không phải không nghe, nghe thấy mà ý ở trong này nó theo đó mà nó khởi ra thì: “Dừng lại, quay vô đây đừng có nghe ra bên ngoài, nhân quả có gì mà phải nghe!”, các con thấy. Rồi mình chỉ răn dạy cái tâm của mình thôi, làm cho cái tâm của mình nó được bất động, nó đừng có theo âm thanh, sắc tướng bên ngoài, nó theo sáu trần bên ngoài mà tâm nó bị động mấy con.
Các con thấy tu hành Đạo Phật đâu có phải khó đâu, đâu có phải mình lạy Phật cho nhiều, sám hối hồng danh mà tiêu tội đâu, mà chính mình ngăn chặn, “ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện” thì ngay chỗ thiện là lẽ sống mà.
Mà cái thiện đâu có phải là ngồi đây mà cúng thiện, đi làm từ thiện bố thí đồ, đó là thiện còn ác mấy con. Nhiều khi mình đi làm từ thiện cái mình nghĩ người ta khen mình làm từ thiện rồi nghe nó nở mũi, mình nghe nó thích, đó là háo danh, thiện mà ác rồi đó. Các con thấy không? Một chút xíu thôi, mà nó bị ác mấy con, chứ không phải thiện toàn thiện.
Thiện thật sự là cái Đức Hiếu Sinh của mình đem bố thí thương người, thương mà mình bố thí.
(2:04) Cũng như có một câu chuyện như thế này. Có một cậu sinh viên bước vào bệnh viện Chợ Rẫy, thì cậu muốn vào hỏi thăm người bà con của cậu nằm bệnh viện thôi chứ có gì đâu, nhưng có cái bà mẹ bà chạy ra: "Cậu ơi con tôi bây giờ vô nhập cứu cấp, mà tôi không có tiền đóng cho nó chắc là nó sẽ chết thôi, cậu có thể giúp tôi 500 được không?”.
Cái cậu này sẵn sàng móc túi cho 500 liền. Thì cái cô này cô chạy vô. Thì không biết có chạy vô phòng cứu cấp hay không hay chạy đâu thì cái cậu sinh viên này cậu không chú ý tới nữa. Nhưng mà khi mà cậu bước vô phòng mẹ cậu thì có một bà nói: “Cậu bị người ta lừa gạt cậu rồi, chứ đâu có đứa trẻ nào mà cứu cấp đâu”.
Thì, cậu sinh viên này trả lời với cái bà đó: “Tôi chỉ biết rằng nếu mà không có đứa trẻ nào cứu cấp thì chắc chắn là không đứa trẻ nào chết hết, đó là điều tôi nghĩ. Tôi nghĩ rằng 500 đồng tôi cho bà cụ kia để mà cứu đứa trẻ của bà, mà tôi có bị gạt đi, thì tôi cũng nghĩ rằng nếu mà không có đứa trẻ nào chết là tôi cũng mừng rồi chứ tôi không có nghĩ tôi bị gạt."
Các con thấy chưa? Từ cái chỗ suy tư đó mà thiện nó mới thật là thiện, mình bố thí rồi, mà cái ý bố thí của mình là thương đứa bé đó, sợ nó chết chứ gì? Sợ cứu cấp không kịp chứ gì? Giờ đóng tiền vô cho nó cứu cấp, cho kịp, cho nó đừng có chết chứ gì? Mà vừa nghe tin, nói không có đứa bé nào chết thì mình mừng chứ sao lại nói là mình bị lừa?
Các con thấy, từ cái chỗ suy tư đó mà cái hạnh bố thí của chúng ta do cái tình thương. Các con đi làm cái việc từ thiện, các con đem gạo cấp cho những người bất hạnh, họ đang bị lũ lụt đang đói khổ chứ gì?
Mình đem đó là mình cứu khổ, mà bây giờ mình bị người ta lừa đảo, mình nói này kia, rồi mình đâm ra mình thấy mình sao mà không trí tuệ, ngu si nên bị người ta lừa. Không phải, tui cứu khổ là tui nghĩ rằng tui làm cho người khác không còn khổ nữa, là đủ rồi, tôi biết đủ rồi, không nghĩ mình bị người ta lừa đảo mình. Các con thấy không?
(04:09) Cho nên trong khi đó Thầy nói, chỉ có Đức Hiếu Sinh, lòng thương yêu của mình, từ cái Đức Hiếu Sinh đó mới bố thí. Người ta dám bố thí thân mạng người ta bằng cái Đức Hiếu Sinh mấy con, bằng cái Đức Hiếu Sinh.
Người ta xông vô nhà lửa để mà người ta cứu đứa bé ở trong cái nhà lửa, đó là cái Đức Hiếu Sinh, cái lòng thương yêu của người ta, người ta mới xông vô, người ta mới liều chết mới xông vô. Người ta nhảy xuống sông người ta cứu người chết đuối là cái lòng thương yêu người ta. Nhưng cái hành động nhảy xuống sông, xông vào nhà lửa, cái hành động đó là thương yêu.
Còn có nhiều người nói thương yêu chứ gặp lửa cháy không dám xông vô thì mấy người đó thương yêu bằng miệng chứ chưa hẳn bằng hành động. Thế mà đây, chính cái hành động đó mới thực sự. Mình đến mình giúp đỡ cho một cái người, một em bé đi qua đường hay một bà cụ đi qua đường, dẫn họ qua đường khi xe cộ qua lại, đó cũng là cái hành động bố thí. Người ta sợ, mình bố thí cho người ta đừng sợ, đưa họ qua đường.
Mình nhường một chỗ ngồi cho một người già trên xe buýt, mình nhường một chỗ ngồi cho một người mẹ có đứa con nhỏ ngồi trên xe buýt, cái chỗ ngồi của mình, cũng là bố thí mấy con! Cái đó là cái đức hạnh mấy con. Bởi vì cái đức đó thì nó nằm ở trong đó phải có tình thương, nếu không có tình thương làm sao chúng ta làm điều này mấy con, phải không?
Cho nên mấy con thấy, Đức Hiếu Sinh là cái lòng thương yêu của chúng ta. Từ đó, khi mà người ta chửi mắng mình, mình khởi sự mình thương người ta là vì người ta đang làm ác mấy con, người ta đang sống trong cái ác.
Cho nên, cái Đạo Phật mấy con thấy không? Các con đến với đạo Phật mấy con có nghe nói đến cái Tứ Vô Lượng Tâm, tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả không? Từ Bi Hỷ Xả đó! Từ Bi tức là thương yêu đó.
Mà cái giới luật của các Phật tử mấy con mà thọ đầu tiên, thọ Tam Quy Ngũ Giới đó, cái giới mà sát sanh đó, mấy con nhớ cái giới mà sát sanh. Giới thứ nhất là giới không sát sanh đó, thì đó là Đức Hiếu Sinh đó mấy con, mà Đức Hiếu Sinh nó thực hiện cái tâm Từ Bi Hỷ Xả, có tâm Từ Bi thì mới có Hỷ mới có Xả, mà cái hành động Hỷ nó mới chứng tỏ mình Xả.
(06:16) Bây giờ tôi thương, tôi nói tôi thương người mà người ta chửi tôi, tôi nói tôi thương người mà tôi không có vui, thì tức là tôi chưa có Hỷ chứ gì? Thì làm sao mà gọi tôi Xả cái tâm giận tôi được? Nhưng khi mà tui khởi sự tui thương cái người đó, họ ở trong cái nhân quả, họ đang sống ở trong cái nhân quả, họ chửi mắng tui, họ nói xấu tui, mà tui nghĩ rằng cái người đó họ đang sống trong nhân quả, trong cái nhân quả ác, họ sẽ khổ đau đó.
Họ đang khổ, họ tức giận tui, họ đang đau khổ đó. Thì do tui suy tư như vậy mà cho nên tôi không giận họ, tôi tha thứ những cái điều kiện lỗi lầm họ, thì tâm tui tha thứ thì tui vui vẻ, tui không còn giận hờn nữa, thì tức là tôi xả hết.
Các con thấy trong cái sự tu tập của đạo Phật nó thực tế và cụ thể, nó đem lại cho mình sự giải thoát bằng cái tri kiến của mình, bằng cái sự hiểu biết của mình. Đó, các con thấy không? Bằng cái sự hiểu biết của mình!
(07:10) Cho nên, đạo Phật nó thực tế lắm mấy con. Bắt đầu vô nó dạy cho mình học, không phải là học kinh sách để cho mình hiểu biết cái mênh mông. “Những gì cần thông suốt phải thông suốt”, nó dạy cho mình những cái đức nhân bản, nó dạy cho mình những cái đạo đức nhân quả, để biết hàng ngày mình sống như thế nào là thiện, như thế nào là ác, mà ác thì khổ đau mà thiện thì đem lại sự hạnh phúc an vui cho mình cho người. Các con thấy chưa?
Cho nên đạo Phật, vô đạo Phật thì mấy con thấy thọ Tam Quy Ngũ Giới, thọ Tam Quy là quy y Phật, học những hành động của Phật. Lẽ ra cái người mà truyền Tam Quy Ngũ Giới cho mấy con thì người ta dạy cho mấy con biết, khi Đức Phật tu hành Đức Phật sống những cái hạnh như thế nào.
Đây, Thầy đem một cái hạnh trên, ví dụ trên đường đi như thế này, thì Đức Phật, trong cái đoàn, tăng đoàn của Đức Phật đi thì có Đức Phật, thì có hai thầy trò ngoại đạo, một người thì chửi mắng Phật, một ông thầy thì mạ nhục chửi mắng Phật, còn ông học trò thì ca ngợi Phật đủ điều.
(08:15) Đức Phật dặn Tăng Ni trong chúng Tỳ kheo, đến cái ngôi nhà mát đó, đồng vào trong đó nghỉ ngơi, thì chúng Tỳ kheo mới hỏi sao có ông thầy chửi mắng Đức Phật rất thậm tệ, còn ông học trò thì ca ngợi đến tuyệt đỉnh, như vậy mà sao Đức Phật không có lời nói nào hết vậy?
Đức Phật nói, khi người ta chửi mắng mình, người ta chê mình mà chê đúng giới luật, bởi vì mình phạm giới thì mình phải sửa. Mà chê sai có gì đâu, người ta không biết người ta chê sai thì mình có gì mà phải giận hờn họ, mà phải nói rằng tui thế này thế khác, cãi cọ lại họ làm gì.
Mà khen mình cũng vậy, khen mình sống đúng giới luật, ăn ngày một bữa, không ăn phi thời, sống biết nhẫn nhục, tuỳ thuận, bằng lòng, không làm khổ mình khổ người, thì khen mình như vậy là khen đúng, mình chấp nhận để cho mình sống đúng những cái giới luật đó.
Còn khen sai, ờ Đức Phật sao thị hiện thần thông, phóng hào quang, ngồi thiền bay trên trời, ngồi xếp bằng, thì cái này sai, không có đúng. Cái này là lừa đảo, dùng cái tưởng lực để lừa đảo người khác, như vậy không đúng! Cho nên khi mà Đức Phật trả lời như vậy, thì chúng ta đã quy y Phật.
Vậy thì mỗi lần ở trong Kinh Đại Thừa nói Đức Phật thuyết pháp thì phóng hào quang xanh, hào quang đỏ, hào quang vàng vậy là có đúng không? Như vậy là kinh nói có đúng không? Không đúng! Cho nên, đây là ngoại đạo ca ngợi cái sai, đó là cái ca ngợi Phật, ca ngợi cái sai, tức là ca ngợi Phật qua cái thần thông, mà thần thông đối với đạo Phật thì không quan trọng.
Đức Phật có chứ không phải không, nhưng mà đó là Đức Phật nói, đó là cái trò ảo thuật lừa đảo người ta, làm cho người ta khiếp đảm người ta sợ. Chớ đạo Phật chỉ là đạo đức mà thôi, nó là một cái chân lý, một cái sự thật.
(10:02) Các con có nghe cái bài Tứ Diệu Đế không? Bốn cái sự thật mấy con, Khổ, Tập, Diệt, Đạo, đó là bốn cái chân lý của con người mà. Thì Đức Phật có nói bốn cái chân lý này là có cái thần thông ở chỗ nào đâu, có cái tàng hình biến hoá, có cái ngồi xếp bằng bay trên hư không không? Không bao giờ có! Có bao giờ nói là ta chui xuống đất, ta độn thổ không? Không có! Không có nói cái điều này. Có phải không, mấy con thấy.
Đức Phật dạy chúng ta sống, sống một cuộc sống để giải thoát. Hôm nay mấy con đến đây mấy con học tu với Thầy, cũng học sống, sống làm gì? Sống để giải thoát là phải sống đạo đức chứ sao! Sống đạo đức là sống giới luật chứ có gì đâu. Cho nên, mấy con thấy, đạo Phật nó có 3 cấp: Giới, Định, Tuệ. Vào theo đạo Phật thì phải học giới chứ, sao lại đi học ngồi đó mà tụng kinh niệm Phật, có giới chỗ nào đâu? Đó là sai mấy con.
Cho nên mình phải sống giới thì mình phải học giới luật đức hạnh, cái đức giới nó như thế nào, chỗ nào? Trong cuộc sống mình làm sao, đối xử với mọi người như thế nào để mà đúng cái đạo đức của đạo Phật. Do đó, khi mình học xong rồi, khi mình thông suốt được giới luật rồi, thì ai nói gì mình cũng giải thoát, mình không có buồn phiền, mình không khổ sở.
Đó là cái học theo đạo Phật chứ, không lẽ bây giờ mình vô đạo Phật rồi tối ngày cứ gõ mõ, tụng kinh, rồi tụng kinh Pháp Hoa, rồi Phổ Môn, rồi Di Đà, rồi Hồng Danh, rồi Sám Hối, rồi tụng tới, tụng lui, cũng bấy nhiêu cái đó tụng hoài, mà rồi ai nói cái gì đó, sân lên ầm ầm, thì như vậy tụng có lợi ích đâu? Các con thấy, niệm hoài không lợi…
Còn niệm Phật, có nhiều người niệm Phật mà rồi ở dưới cái nhà bếp mà rầy rà, nói: "Tao mà không niệm Phật, tao xuống tụi bay chết hết!". Thì như vậy niệm Phật nó đâu có thực tế đâu mấy con. Nhưng mà khi mà học niệm Phật, mình ngồi mình tu tập, chẳng hạn mấy con ngồi mấy con tu tập, giờ nào các con tu tập, các con cháu mà nó có rầy rà thì mấy con dùng lời lẽ ôn tồn mà nhắc:
“Các con thấy, các con cãi cọ như vậy, là các con tự làm khổ mình, khổ người, các con thấy đạo đức mà! Mình phải sống biết thương mình, thương người, em mình hay là anh mình, hay chị mình sai, thì mấy con nói với ba với mẹ, ba mẹ sẽ có lời khuyên răn anh chị. Chứ mấy con đồng với nhau, mấy con cãi cọ như đánh lộn vậy, thì mấy con làm cho cha mẹ buồn phiền”.
Đó là cách thức để giáo dục ở trong gia đình của mình, đứng ở trong cái góc độ đạo đức. Đạo đức dạy không tái sanh.
(12:31) Đó, thì mấy con thấy nó học, nó có cái nền đạo đức của nó ở trong đó để cho mình hiểu biết để cho mình giáo dục. Bởi vì, cái giới luật mà mấy con thấy ở trong cái Ngũ Giới của người cư sĩ có cái giới tà dâm mấy con, các con có nhớ cái giới tà dâm không? Giới tà dâm cũng là Đạo Đức Gia Đình đó.
Nghĩa là, nói cái giới nó như vậy, chứ nó là cái đạo đức chung cho gia đình, học cái giới đó thì phải học biết tôn kính, cung kính tôn trọng lẫn nhau, vợ biết cung kính chồng, chồng biết cung kính vợ. Cho nên, khi biết cung kính thì chúng ta không cãi cọ. Mỗi khi chồng làm một công việc gì mà giúp đỡ cho vợ thì vợ cảm ơn chồng, chứ đâu phải đó là khách sáo đâu! Cái lời nói của mình, cái hành động của mình biết ơn, sự thật cái hành động đó chồng đã làm giúp mình.
Còn người vợ lo mâm cơm cho chồng, cho con, khi mà dọn lên cùng gia đình đồng ăn thì người chồng đi làm về, nói lời cảm ơn vợ mình, có gì đâu! Vợ mình phải chịu cực khổ mới có một bữa cơm như thế này chứ, tại sao mình không biết mà nói?
Nói như vậy là nói mình nói khách sáo sao, không phải! Chứng tỏ mình nói lời nói ra, mình chứng tỏ cái lòng mình, nghĩ đến thương công lao của vợ con. Như vậy gia đình mình rất hạnh phúc mấy con, biết tôn trọng nhau bằng lời nói, bằng hành động, trợ giúp nhau, chia sẻ nhau từng trong cái sự gian khổ.
Còn đằng này, chồng nói một đường, vợ nói một ngả, khi đó là cái gia đình nó sẽ tan nát. Rồi con cái đây, rồi tình thương của con cái mất cha, mất mẹ làm sao mấy con? Rất là đau khổ!
Cho nên đạo đức của đạo Phật nó có cái Đạo Đức Gia Đình, nhưng tại vì người ta không viết nó ra, không triển khai nó ra thành một bộ sách đạo đức. Cho nên chúng ta học cái giới luật, họ dạy, bảo đừng tà dâm thôi, tới đó hết rồi. Giờ biết làm sao bây giờ? Không biết cái gì hết.
(14:11) Thành ra nó làm cho chúng ta không có thông suốt được cái lý, mà khi được thông suốt được cái lý đạo đức nhân bản, chúng ta sống hạnh phúc vô cùng. Cho nên, cái đạo đức của đạo Phật, đạo đức không làm khổ mình, khổ người, đó là tu đó mấy con, cách thức tu, tu bằng cái tri kiến.
Cho nên Đức Phật nói, khi mà chúng ta thắp hương cúng Phật, thắp năm cây hương mà, có phải không? Giới hương, Định hương, Dữ Hụê hương, Giải thoát, Giải thoát tri kiến hương! Chứ Đức Phật có bảo mình thắp cây hương vỏ cây bao giờ? Thế mà bây giờ mình cứ đốt hương vỏ cây không, khói bay mịt mù, trời đất ơi như vậy làm sao cho được! Mình làm sai, mình không làm đúng.
Người ta chửi mắng mình mình không giận tức là mình thắp cây hương giải thoát. Do tri kiến mình hiểu biết cho nên mình không giận tức là tui đã thắp cây hương này tui cúng Phật rồi, có phải không con? Cho nên Đức Phật nói Giới hương - tức là giới luật đức hạnh. Giới hương, Định hương, Dữ Huệ hương, Giải thoát, Giải thoát tri kiến hương, năm cây hương lận mà. Phải không?
Hằng ngày thì đọc cái bài Niệm Hương đó, phải không. Cái bài Niệm Hương có đọc nhưng mà cái hạnh thì không hành, cứ thắp ba cây hương vỏ cây lên đốt khói mịt mù, nói thắp hương như vậy ông Phật ông chứng cho để mình bình an. Sự thật bình an sao được?
Mình phải thắp cây hương tâm của mình đốt lên những cái sự giải thoát, những cái sự không làm khổ mình, khổ người thì đó là hương giải thoát chứ gì? Mà trong đó nó có Tri kiến hương, Giải thoát hương, phải không?
Tri kiến là cái ý của mình chứ gì. Giải thoát hương, Tri kiến hương, Giải thoát hương là mình làm cho cái tâm mình không làm khổ mình, khổ người là giải thoát. Mấy con đốt cây hương đó đi rồi mấy con sẽ thấy đạo Phật thực tế.
Học được đạo Phật hạnh phúc lắm mấy con, Thầy nói, con người, đạo Phật là con người đạo đức, con người sống đúng con người, nó không còn một chút, một chút bản chất của loài động vật. Chứ không khéo chúng ta giận lên, mấy con thấy một người nào giận dữ, trời đất ơi đồ đạc đập hết, mặt đỏ phừng phừng, tay chân múa, tay múa chân muốn gặp ai muốn đánh nấy hết, trời ơi còn dữ hơn con thú vật nữa!
(16:20) Cho nên con người mình nó còn mang cái bản chất của động vật. Vì vậy mà mình học được đạo đức nhân bản nó giúp con người nó hiền lành, nó ôn tồn, nó nhã nhặn, nó không còn cái chỗ múa tay múa chân, nói những lời kém văn hóa, thô lỗ, tục tĩu.
Thế mà khi giận rồi mấy con biết, thôi mấy ông chửi những cái danh từ thật là thô lỗ, nó không còn một cái chỗ nào nữa hết. Cái ngôn ngữ như vậy còn gì nữa là con người, thôi đừng chấp. Đó Thầy nói như vậy, trong khi chúng ta học đạo đức là chúng ta phải rèn luyện mình từng cái hành động đạo đức.
Thầy mong rằng ở đây, cái lớp học này để có mấy con về mấy con học, rồi Thầy sẽ dạy từng cái đạo đức, từng cái giới luật, đạo đức, mỗi cái đạo đức như cái giới luật, giới cấm sát sanh thì cái Đức Hiếu Sinh, Thầy sẽ dạy cái Đức Hiếu Sinh.
Trong cái Đức Hiếu Sinh nó có nhiều cái đức hạnh, như đức bố thí cũng là hiếu sinh bố thí, rồi đức dũng cảm cũng là bố thí, đức cẩn thận cũng là hiếu sinh mấy con. Mình cẩn thận vì thương mình, thương người cho nên đi xe đi cộ, lái xe không tai nạn giao thông xảy ra, thì không làm khổ mình, khổ người, tức là đức cẩn thận. Mà đức cẩn thận nó phải mang Đức Hiếu Sinh chứ, đức lòng thương yêu, thương mình, thương người.
Mấy con không cẩn thận đi ra kia vấp cục đá chảy máu, đau ai? Đau mấy con chứ ai! Có phải không? Còn mấy con cẩn thận thì mấy con đâu có vấp đá, thì nó đâu có đổ máu đâu, mấy con thấy chưa! Đức cẩn thận, mà không học thì mình vội vàng, vội vàng thì mình sẽ bị đạp gai, đạp miểng chai hoặc là đạp đinh hoặc là vấp đá. Thì tất cả những cái này nó đem lại sự đau khổ cho mình.
Cho nên học đạo đức, từ cái đạo đức này học rồi đến đạo đức khác người ta dạy, rồi đạo đức cẩn thận, đạo đức dũng cảm, đạo đức giao thông, rồi đạo đức bố thí, đó mình dạy tất cả những cái đó, nhiều lắm mấy con.
(18:15) Mấy con đọc đạo Đức Hiếu Sinh của Thầy Thầy viết một ngàn trang giấy mà tập cỡ của nó đó, là cái cỡ 10 - 20, cái tập sách 10-20, cái bề của nó, bề ngang nó 10, bề dài nó 20, mà nó hơn một ngàn trang, 3 tập, một tập ba trăm mấy chục trang, gần bốn trăm trang.
Thì các con nghĩ đi, hơn một ngàn trang nói về Đạo Đức Hiếu Sinh không, mà gần như chưa hết. Nghĩa là như vậy là Thầy tạm dừng để Thầy nói Đức Ly Tham. Đức Ly Tham cũng nhiều lắm, mấy tập chứ đâu ít đâu. Rồi đến Đức Chung Thủy, tức là Đạo Đức Gia Đình mấy con.
Khi mà đọc Đạo Đức Gia Đình rồi, Thầy nói sự thật mấy con đọc rồi gia đình nó mới hạnh phúc, Thầy đem lại hạnh phúc gia đình cho mọi người. Khi mà đọc rồi, chồng đọc, vợ đọc, con đọc, tất cả gia đình đều đọc hiểu biết rồi, không bao giờ có cãi cọ, không bao giờ thấy có sự chia rẽ nhau, cùng trong một gia đình đều có sự cộng sự, cùng chung nhau những cái khổ đau, những cái vui, cái buồn ở trong đó, phải chia sẻ nhau, không có nên mà làm đau khổ nhau nữa.
Mọi người trong, thành viên trong gia đình đều không nên làm đau khổ nhau nữa, phải dừng lại những bạo lực gia đình, không được rầy mắng vợ, không được đập con cái của mình. Tất cả những cái này đều là phi đạo đức, không đạo đức. Mà được Thầy hướng dẫn thì phải có đạo đức hẳn hoi, thì gia đình hạnh phúc.
Đó là cái nhiệm vụ, trọng trách của một người tu theo đạo Phật, phải triển khai cái nền đạo đức của Phật giáo để giúp cho con người, loài người sống đem lại sự bình an cho họ, họ không còn xung đột với nhau.
Con người không còn xung đột và không còn xung đột thì thế giới không còn chiến tranh, như vậy hòa bình mấy con. Chúng ta ngồi đây mà có nước chiến tranh mấy con biết, chỉ một vài tiếng đồng hồ nổ súng với nhau thôi, hàng loạt người chết mấy con, máu đổ, xương rơi, đau xót!
(20:09) Đất nước chúng ta hòa bình không còn chiến tranh. Trước kia chiến tranh như thế này, ngồi yên như thế này một lúc pháo nó vô là, coi như là trúng đâu là chết người đó. Còn bây giờ hòa bình chúng ta thấy nó vững vàng, lúc nào chúng ta vững vàng. Đáng thương thay cho những nước đang còn bị chiến tranh mấy con, súng đạn ghê lắm nó không tha người nào.
Đó thì hôm nay Thầy nói, bây giờ thí dụ như các con sẽ thấy toàn đất nước chúng ta là ở dài theo ven biển, lũ lụt bão tố sẽ thấy liền. Nhưng mà chúng ta sống toàn thiện, sống đúng năm giới, chúng ta không giết hại chúng sanh, không ăn thịt chúng sanh, không ở vùng nơi mà bắt cá.
Đừng có giết hại loài sinh vật, nó cũng là có sự sống như chúng ta. Đừng có ăn thịt chúng đi, đừng có làm cái nghề đó đi, đừng có giết hại chúng sanh. Toàn đất nước chúng ta đều sống đúng những cái đức hạnh hiếu sinh đi, đừng có giết hại chúng sanh, đừng ăn thịt chúng sanh thì bây giờ không có bao giờ có bão tố trong đất nước chúng ta nữa. Thầy nói không có lũ lụt, không có bão tố, không có bao giờ mà nước trôi nhà cửa chúng ta, không bao giờ có!
Tại vì chúng ta sống thiện, điều đó, cái từ trường sống thiện chúng ta sẽ phóng ra khắp cả không gian. Các con thấy có những cái trận bão mà nó ở ngoài Thái Bình Dương chứ gì, lẽ ra cái đường đi của nó sẽ thẳng vào đất nước chúng ta chứ gì, ngay trong những cái tỉnh miền Trung của chúng ta, nhưng mà rồi nó đi vô một đoạn rồi nó đi rẽ lên đi ra ngoài, nó đi luôn qua bên Trung Quốc.
Các con thấy không, đất nước chúng ta cũng có người thiện lắm mấy con. Cho nên nếu mà toàn thiện hết thì chắc chắn là không bao giờ chúng ta có bị lũ lụt, bị hỏa hoạn, bị thiên tai. Chúng ta hãy sống thiện mấy con sẽ thấy, từ cái từ trường thiện nó sẽ chuyển tất cả những cái đau khổ của chúng ta, của đất nước chúng ta.
Cho nên Thầy mong rằng cái nền đạo đức này được phổ biến, tất cả mọi người đều sống thiện, không còn ác pháp. Thiên tai lũ lụt hỏa hoạn không còn, hạnh phúc vô cùng mấy con. Nơi đâu cũng sẽ có cơm ăn, áo mặc đầy đủ. Thầy mong rằng làm sao sớm được cái nền đạo đức được phổ biến rộng, Thầy mong sẽ sớm.
(22:13) Thầy cố gắng mở từng cái lớp học như thế này, được sạch sẽ, khang trang như thế này. Mình nghèo, nhà chật như thế này mình ngồi dưới đất mình học cũng được mấy con, mua bàn, mua ghế rồi cũng tốn tiền nhiều. Cho nên mình cứ học đại đi, học để lấy đạo đức chứ đâu phải mà học để phải có bàn ghế để học được cho sang.
Nhưng mà điều kiện mình có mình cũng sẽ trang bị cái phòng học mình có những bàn ghế, cũng như học sinh vậy mấy con, cũng đơn giản thôi, để rồi mình có những cái nơi học tập, không những các con rồi con cháu của chúng ta nữa, cũng cần phải theo học. Học đạo đức mà, có lợi lắm, chứ đâu có gì đâu. Càng học chúng ta sẽ biến mình trở thành con người tốt.
Nhưng con đường đạo Phật không phải chỉ có đạo đức mà thôi, trong khi giới luật bấy nhiêu chưa đủ mà còn Thiền Định nữa. Giới, Định, Tuệ mà mấy con, hẳn ba cấp nữa chứ. Cho nên học Giới rồi thì còn hai cấp: cấp Định, cấp Tuệ nữa.
Bởi vì có Định mới có đủ sức bình tĩnh, mới có đủ định lực để mà chúng ta chiến thắng được thân tâm của chúng ta bệnh tật, chứ nếu mà không có Thiền Định thì làm sao mà chúng ta chiến thắng được thân tâm của chúng ta mấy con.
(23:19) Trưởng lão: Cố gắng, hôm rày mấy con ở đây mấy con có xả được không hay là có chướng ngại? Bữa nay mấy cô cho ăn cơm, trời đất ơi cho ăn cái kiểu gì nhìn không nổi! Thì như vậy bị chướng rồi. Miễn là có cơm ăn với muối cũng được, vui vẻ, ăn như thế này để xả tâm lại càng tốt. Rau muống luộc hay rau chiên gì cũng được hết, miễn cái nào ăn được mình ăn, ăn no thôi, không biểu ăn hết, ăn no thôi, có vậy thôi. Đừng chấp một cái gì hết, cho ăn cái gì cũng được.
Cho nên ở đây mấy cô cực khổ mà nấu ăn vậy: “Xin cám ơn mấy cô đã giúp tui ngồi trong thất để tui tu hành được, tui xả được tâm như thế này, ngày mai mà tui đi ra mà tui về gia đình tui, chồng con hay hoặc này kia nọ mà tui thấy an ổn được, tui mang ơn cô, đầu tiên đã nấu cơm cho tui ăn tui tập mấy bữa!”
Đó, đó là cái mang ơn đó, phải không? Rồi mang ơn đến những người thợ hồ mà xây cho mình cái phòng học như thế này, tới những người thợ mà làm cái bàn như thế này để có Thầy ngồi, Thầy giảng cho mấy con, cũng mang ơn hết mọi người, nhờ đó mà hôm nay tôi học được đạo đức. Phải không mấy con? Mình nhớ mà.
Mang ơn tức là mình biết thọ ơn người khác đã giúp đỡ mình. Bởi vì những cái gì đó mà đem lại lợi ích cho mình, lợi ích cho người thì tức là mình phải mang ơn. Họ phải bỏ công lao như thế này mình mới được cái phòng nó mát mẻ, ngồi ngoài trời nắng kia mình học được không? Có phải không mấy con?
Cho nên mỗi mỗi đều là mình mang ơn hết. Cho nên mình còn bốn cái thâm ân nữa mấy con, bốn trọng ân mà, tứ trọng ân mà. Trong đạo Phật nó có tứ trọng ân mà. Phải không. Ơn cha mẹ đầu tiên mấy con, sanh thành dưỡng dục mình mới có người, ơn cha mẹ mình, ơn thứ nhất, thâm ân thứ nhất mà. Cái ân sâu thứ nhất là cha mẹ.
Ơn thứ hai là thầy dạy cho mình biết chữ để nuôi dưỡng được cái tri thức của mình, hiểu biết, cái ơn đó. Nếu mà không có thầy dạy cái hiểu biết đó thì mình cạn cợt lắm mấy con. Nhờ ơn thầy dạy, rồi nhờ ơn thầy dạy tu hành nữa, có phải không?
Nếu không có thầy các con biết đâu mà tu, rồi cứ giận hờn phiền não, rồi cứ làm những điều ác, tạo ra những cái điều khổ cho mình. Nhờ có thầy dạy cho mình biết cách tu tập xả tâm cho nên nó là cái thâm ân đó mấy con, bởi vì mình được giải thoát mà, ân sâu lắm mấy con.
Rồi cái ân thứ ba là ân tổ quốc mấy con, cái ân tổ quốc. Nếu mà hôm nay, nếu mà không có những người hi sinh cho mảnh đất này, cho tổ quốc này thì chúng ta làm sao có độc lập, có được yên ổn như thế này đâu mấy con? Có phải không, ơn tổ quốc. Ơn tổ quốc là ơn của những người đã nằm xuống trên mảnh đất này để bảo vệ đất nước này.
Cũng như mấy con thấy trong thời Trưng Vương, Triệu Ẩu, hai Trưng Vương phải chết ở trên dòng sông Hát đó mấy con, vì đất nước này. Mà đâu phải có hai bà chết đâu, cái đội quân của bà mà khi thất trận đều nhảy xuống dòng sông chết hết mấy con, toàn là giới nữ. Chúng ta nghĩ nhớ!
(26:08) Bây giờ chúng ta có thấy cái nghĩa trang của Trưng Vương, Triệu Ẩu không mấy con, ai thấy? Chúng ta chỉ nghe lịch sử nói thời đó Trưng Vương, Triệu Ẩu nổi lên chống giặc Tô Định, rồi thành người anh hùng, anh thư của đất nước Việt Nam đầu tiên, Trưng Vương, Triệu Ẩu.
Nhưng Trưng Vương, Triệu Ẩu chết, nhảy xuống dòng sông Hát mà chết thì bao nhiêu lính của Trưng Vương, Triệu Ẩn toàn là người nữ, họ ở đâu mấy con, họ cũng nhảy xuống dòng sông mà chết vì tướng lãnh của mình.
Chúng ta nhắc đến những cái vị anh hùng đất nước chúng ta, chúng ta thấy xót xa vô cùng! Hôm nay chúng ta ngồi trên mảnh đất quê hương chúng ta mà được bình an như thế này là ơn nghĩa của những vị ghê gớm lắm. Rồi tới Lý Thường Kiệt, rồi tới Trần Hưng Đạo, rồi tới Quang Trung, những vị anh hùng của đất nước mấy con.
Rồi ngày hôm nay chúng ta thấy mình ngồi được yên ổn như thế này, biết bao nhiêu những người lính vô danh chết ở trên mảnh đất này, xương máu họ đổ, là anh, là cha, là mẹ, là ông bà của chúng ta.
Thầy đọc lại những cái trang báo, trong cái thời mà chống Pháp, biết bao nhiêu người đi tù mấy con. Người Pháp họ bắt bỏ tù chúng ta ở ngoài đảo, rồi bấy giờ con cháu sanh ra ở ngoài đảo, những vị anh hùng của đất nước mà khi thất trận rồi thì bọn giặc Pháp nó đem ra bắn hết.
Chúng đem tử hình, bắn và chém và đồng thời còn bị đi đày ra nơi xa quê hương của mình, xa lắm, rồi ra ngoài đó rồi sinh con đẻ cái rồi. Bây giờ người ta tìm đến những nơi đó để ghi lại dòng lịch sử mấy con. Nói như vậy thì hiện giờ chúng ta thấy rằng chúng ta ngồi đây được, ơn của chúng ta đối với tổ quốc, là mình có thâm ân.
Rồi cái ân nữa là như hồi nãy Thầy nói, từ cái công lao của người thợ hồ cho đến người thợ mộc, người thợ điện, hàn làm tất cả những cái chuyện cho chúng ta có nhà ở, tất cả đó là ơn đàn na thí chủ.
Ngồi đây có cô Diệu Linh nấu cơm cho chúng ta ăn, thì cũng là ơn thôi mấy con! Nên nếu cô Diệu Linh có nói gì, mình nhớ ơn thôi, đừng nhớ gì hết, thì như vậy là xả tâm, có gì đâu, phải không mấy con, cứ xả tâm cho Thầy, thì mấy con sẽ sống được an vui.
Cho nên một cái người mà chúng ta đã học đạo đức, nhớ đến cái thâm ân nào, nhớ đến công ơn cha mẹ chúng ta bùi ngùi, khi chúng ta còn cha mẹ không nên làm cho người buồn mấy con, không nên nói một lời nào, không nên tỏ một cái hành động làm người buồn phiền, tội lắm! Cái người, người đã sanh chúng ta ra, rồi nuôi lớn chúng ta, rất vất vả cực khổ mấy con, cực khổ lắm! Cái thâm ân, đó là thâm ân thứ nhất.
(28:47) Cho nên ở đây Thầy nói về đạo đức là phải nói ơn nghĩa, phải biết ơn. Đó thì như vậy mới là con người học đạo Phật chứ! Chứ học đạo Phật mà chỉ có biết tụng niệm, ngồi đó tụng niệm, cúng bái rồi cầu khẩn thì cái chuyện đó nó xa vời, nó mơ hồ, nó trừu tượng, nó không thực tế đâu mấy con. Nó chỉ an ủi tinh thần của mấy con thôi.
À, bây giờ bữa nay tui lạy sám hối như vậy đó, chắc hôm qua, hôm kia tui có giết gà giết vịt rồi này kia, chắc nó cũng tiêu tội. Mấy con nghĩ vậy nó an ủi tinh thần chứ làm sao mà, cái nhân nào thì quả nấy, làm sao hết được mấy con! Không bao giờ!
Chỉ có mình chấm dứt ngay liền, không giết hại chúng sanh, không ăn thịt chúng sanh. Mỗi lần bước đi thì chúng ta nhìn dưới bàn chân chúng ta, tránh không nên dẫm đạp loài chúng sanh nhỏ như con kiến, con bọ, con trùng dưới chân chúng ta, lỡ chúng ta đạp chết tội lắm mấy con!
Các con có thấy khi mà tai nạn giao thông đụng nhau thì một là chết, hai là gãy tay, gãy chân, tàn tật (…) Có tai nạn giao thông xảy ra mà khi Thầy viết cái đạo Đức Hiếu Sinh, một em bé đi học bị tai nạn giao thông, rồi bà mẹ phải nuôi em bé đó như đời sống thực vật, như cái cây mấy con (…) chỉ đút ăn đó rồi sống, sống như vậy mà không biết gì hết, bởi vì nó đã chạm não rồi, hết biết rồi. Mà nuôi không biết chừng nào mà chết, thấy thật đáng thương mấy con!
Cho nên trong cái vấn đề, tất cả mọi cái đều là lan tỏa đạo đức để chúng ta hiểu, biết thương mình, thương người. Rồi lần lượt mấy con sẽ yêu thương mình.
(30:19) Hôm nay Thầy dạy thêm một giai đoạn kế tiếp. Chúng ta có thân là phải có bệnh mấy con. Cái thứ nhất là muốn đẩy lui bệnh ra khỏi thân là đặt trọn niềm tin của Đức Phật. Đức Phật nói: “Có Như Lý Tác Ý thì lậu hoặc chưa sanh sẽ không sanh mà đã sanh thì bị diệt”.
Bây giờ cái thân của mấy con, nó hiện ra cái tướng đau nhức trên đầu, đó là lậu hoặc đã sanh. Mà bây giờ có tác ý thì nó bị diệt. Cho nên vì vậy mà muốn diệt nó thì mấy con nói: “Thọ là vô thường, ngày hôm qua không đau mà nay đã đau!”, rồi: “Cái đầu mà nhức đầu này phải theo cái hơi thở mà ra!”, hoặc là: “theo cái tâm bất động thanh thản mà ra!”
Thì mấy con nhắc rồi thì mấy con nhắc: “Tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự”. Thì bắt đầu mấy con ngồi im lặng, còn thấy nhức đầu thì mấy con tác ý: “Cái đầu đau này phải theo cái tâm bất động thanh thản mà ra!”, rồi mấy con ngồi yên lặng thanh thản một chút. Vẫn thấy nhức, mấy con tác ý nữa, cứ tác ý mãi cho đến khi 5 phút hay hoặc là 10 phút trôi qua thì bỗng nhiên mấy con sẽ thấy hết nhức.
Đó là tín lực nó đẩy lui, cái lòng tin của mình. Cái lòng tin đó thì thể hiện như thế nào? Người ta nói, tui tin cái này, tui tin cái kia nhưng mà cái người đó tác ý có một câu, hai câu, cái người đó có tin nữa hay không? Nghĩa là cái người mà ngồi trì chí mà từ 1 phút cho đến 5 phút, cho đến 10 phút, 20 phút vẫn tác ý một câu đó gọi là đức tin. Mình tin mình mới làm còn mình không tin mình không làm mấy con, có phải không?
Cái đức tin nó trừu tượng nhưng nó thể hiện qua cái hành động của nó. Nói tui tin Phật, nhưng mà sự thật ra Đức Phật dạy mình, bảo mình tác ý như vậy mà mình tác ý có vài ba lần đó thôi nghỉ mình không tác ý nữa, thì như vậy có tin không? Không có tin! Tui nói tin Phật mà tui tác ý có năm ba câu vậy đó thôi rồi, đủ rồi đó, như vậy là cái lòng tin mình nó ít quá.
(32:06) Còn tin Phật là phải ôm chặt, tin hoài, nghĩa là lúc nào cũng tác ý, chừng nào hết đau đầu thì thôi. Đức Phật đã nói mà: “Lậu hoặc đã sanh thì bị diệt”. Thì bây giờ mình tác ý nó chưa hết thì tác ý nữa chứ sao? Cho nên tác ý tới cuối cùng thì phải hết, mà mình có tin thì hết được bệnh.
Cho nên ở đây có một số người tin Thầy, cho nên họ về họ hoài, tác ý mới 1 phút chưa hết, 2 phút chưa hết, 3 phút chưa hết. Còn chúng ta mới có 1 phút chưa thấy hết cái thôi, chắc không hết đâu, thôi đi bác sĩ chắc ăn, hay hoặc đi ra kia mua gói thuốc cảm thì chắc ăn hơn chứ để ngồi đây nhức đầu quá!
Các con thấy, cái đó là mấy con không tin rồi, mà mấy con tin mấy con cứ ngồi tác ý hoài. Phật dạy như vậy, tao tin Phật, tao phải đuổi bằng cái lực của ý thức tác ý. Cho đến khi con thấy 1 phút trôi qua chưa hết, 2 phút, 3 phút là phải hết liền tức khắc. Mà nếu mà cỡ không hết tao ngồi đây suốt 1 ngày coi thử coi có hết không? Mấy người đó thiệt tin Thầy!
Một ngày mà làm như vậy là cái người đó tin dữ lắm mấy con. Tin lời ông Phật, nghĩ ông Phật là người không dối trá, thành thật nói để chúng ta được giải thoát mà không tốn một đồng xu, chỉ có ra công mình mà thôi. Không lẽ ông Phật nói láo sao mấy con? Kinh Lậu Hoặc ông Phật đã, cái bài kinh Lậu Hoặc, mà lời dạy này không lẽ ông Phật dạy chúng ta sai sao, nói láo sao? Rõ ràng!
Và khi mà Thầy dạy người nào tin, họ sẽ cứu mình, cả bịnh ung thư còn hết mấy con, chứ chưa nói thứ bệnh cảm, thứ bệnh cảm mà hét nó một hơi chắc nó chạy mất. Trời nắng mà bị cảm hay hoặc là trời mưa mà bị trận mưa rồi, thì chỉ là nó một hơi, bao nhiêu mồ hôi nó toát ra liền, đuổi nó một hơi thì nó toát mồ hôi ra, nó hết! Còn cái bệnh ung thư nó khó hơn, nhưng mà người ta vẫn tác ý hết mà mấy con.
Thầy nói cái thân mà người ta đứt mạch máu não người ta bán thân người ta, nó liệt hết nửa người mà bền chí tác ý là nó phục hồi lại cái thân mấy con! Cái sức của Phật pháp thật hay, cái tín lực thôi chứ mấy con chưa có Thiền Định đâu.
(34:03) Còn bây giờ mới tới cái giai đoạn Thiền Định, mấy con sẽ chiến thắng bằng cái Thiền Định. Mấy con phải nhiếp tâm, nhiếp tâm cho đừng có cái niệm khởi trong đầu của mấy con, đó là nhiếp tâm. Chứ nhiếp tâm 30 phút không niệm khởi, thì mấy con sẽ tập an trú, phải không. Mấy con tập an trú mà khi thân tâm mấy con được an trú đó thì làm sao mà có bệnh nào mà lọt vô, đã an trú rồi thì bệnh nó chỗ nào được? Cho nên chúng ta tập an trú thì không có bệnh.
Vậy nhiếp tâm bằng cách nào? Nhiếp tâm bằng phương pháp, chứ không phải nhiếp tâm bằng câu niệm Phật: “Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật!” thì cái đây nó không phải cái pháp của Phật đâu. Cái đó là dùng cái đối tượng câu niệm Phật để ức chế cái tâm chúng ta không niệm khởi.
Cho nên trong kinh Di Đà dạy chúng ta “thất nhựt nhứt tâm bất loạn chuyên trì danh hiệu A Di Đà Phật dữ chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền”, nghĩa là 7 ngày đêm niệm Phật, không có niệm nào xen vô trong câu niệm Phật thì người đó sẽ thấy Phật Di Đà và thánh chúng hiện tại. Ức chế tâm cho ý thức chúng ta hoàn toàn không có khởi niệm nữa thì ngay đó tưởng thức hoạt động thì cảnh giới Di Đà hiện ra thì thấy Phật Di Đà.
Ông Phật Di Đà mấy con có biết không? Thì thấy cái hình ông Phật Di Đà mà họ vẽ, cũng đeo vòng đeo vàng, có phải không? Phật mà đeo vòng vàng là ông Phật đó phạm giới mất rồi! Các con thấy cái hình ông Phật Di Đà không, ông Phật mà đeo vòng vàng nhiều, sang, bởi vì ở trong kinh Di Đà có nói mà, trong kinh Vô Lượng Quang có nói mà.
Đất ông Phật Di Đà là lát bằng vàng, chứ không phải bằng đất nữa! Ham quá! Mình ở thế gian mà kiếm được một chiếc đỉnh vàng về, hoặc là cái chiếc nhẫn vàng là thấy cực khổ rồi. Còn lên đó, đất mà lát vàng thì thôi chỉ có lo mà cạy mà đem về thế gian mà xài cho hết, nó gợi cái lòng tham dục của chúng ta hơn.
Còn chúng ta ở đây, đất của chúng ta ở đây, muốn ca hát thì phải mở TV hay radio hoặc là đi ra coi hát mới có đờn ca nhạc. Còn lên cõi Cực Lạc thì khỏi mấy con, hàng rào vầy, nó khua nhau nó cũng thành âm nhạc. Chúng ta ngồi đây mình nghe nó thoải mái, khỏi cần mở cái gì hết nó cũng ở ngoài đó nó kêu vang, mà ý của mình muốn nghe cái nhạc nào là ở ngoài đó nó đánh âm nhạc đó cho mình nghe. Đất Cực Lạc nó như vậy.
(36:16) Cho nên cái miền Cực Lạc thật sự là cái đất nước dục, nó gợi cái lòng ham muốn của chúng ta không phải dục sao? Thầy nói thẳng nói thật, bởi vì kinh Di Đà, kinh Vô Lượng Quang nó đã diễn tả cõi Cực Lạc nó hạnh phúc đến mức độ.
Còn ăn uống như thế nào mấy con biết không? Nó không phải ăn như thế này. Ngồi đây muốn ăn cái gì cái nó hiện lên trên cái bàn này cái đồ ăn đó ngon lắm. Mình muốn ăn cái gì là nó hiện lên cái ấy, tôi muốn ăn gà quay nó hiện gà quay. Tôi muốn ăn cái gì thì nó hiện, bánh hỏi nó cũng hiện lên. Cái gì nó cũng có hết mà.
Bây giờ tôi muốn ăn lagu, bít tết, đồ tây gì nó cũng hiện lên, chứ không phải là tui Việt Nam nó không hiện đồ tây được, nó hiện ra hết. Đất nước Cực Lạc nó như vậy đó! Trời đất ơi, nó sung sướng dữ, nó khỏi nấu gì hết. Mà ăn rồi khỏi cần rửa, nó tự nó đem rửa bản thân nó.
Cho nên những cái đó, chúng ta mới biết rằng đó là cái tưởng, cái tưởng của chúng ta. Chứ ai ngồi đây tưởng thì không được. Không phải là Thầy bài bác đâu mấy con, mà đó là sự thật, mà nếu chúng ta không đủ trí tuệ thì chúng ta sẽ bị dính mắc.
Cho nên tất cả những cái này là cái sự thật, mình sống với đạo đức là mình sống với giới luật, rồi mình buông xả cái tâm của mình mình sẽ giải thoát.
(37:28) Trưởng lão: Đạo Phật là đạo như thật, không có dối trá, chỉ ráng lo mà tu tập mấy con. Tập luyện hằng ngày, sống hằng ngày, những ác pháp luôn luôn nó tác động, mình sống trong một cái môi trường nhân quả. Hồi sáng trời khác bây giờ trời khác, nhân quả mà, nó vô thường nó thay đổi đó, rồi lát chiều nó khác mấy con, cái thời tiết của nhân quả, chứ đâu phải có ông trời làm thời tiết!
Các con nhớ, cái quy luật của nhân quả nó xuyên suốt cả vũ trụ, nó không phải chi phối có cái hành tinh chúng ta không mà cả cái vũ trụ, các con biết cả vũ trụ như thế nào!
Cái hành tinh này nó đi trên quỹ đạo của nó chứ nó không bị đặt theo quỹ đạo khác. Thì ai điều khiển nó như vậy, thì không phải là quy luật của nhân quả sao? Cho nên nó không bao giờ đi trật cái quỹ đạo của nó, nếu mà nó đi trật quỹ đạo thì cái hành tinh này nó sẽ đụng cái hành tinh kia tan nát hết, quy luật của nó rất là kỹ lưỡng.
Thầy nói cái quy luật của nhân quả, một người ở một xứ thôi, mà nó tập trung vào trong một cái xe hơi để tai nạn giao thông chết cả đám với nhau trong đó. Người ở xứ mà nó dám tập trung lại một chỗ để cho nó lên một cái chiếc xe mà nó đưa đi đúng ngay cái chỗ đó, cái thời điểm đó phải chết không?
Các con có nghe cái việc làm từ thiện, nó tập trung bao nhiêu người lên xe đó đi làm từ thiện vào để chết! Nó nhiều cái việc mà chúng ta không ngờ là cái luật nhân quả của nó, nó tính rất là kỹ lưỡng từng li, từng hào của thời gian. Phải không?
Cho nên chúng ta sống chúng ta phải hiểu được luật nhân quả của chúng ta, không làm một điều gì đau khổ cho mình, cho người, điều ác để đem lại sự đau khổ.
Cũng như bây giờ các con thấy, làm một món thực phẩm mấy con ăn thấy ngon, nhưng ngon ở trong cái dục của mấy con, nhưng mà cái tai họa của mấy con sẽ đến trong gia đình của mấy con, không biết được.
Rồi cái thân mấy con cũng thọ lấy những cái đau khổ khi mấy con nuôi những cái đau khổ trong thân mấy con, mấy con có biết không? Mấy con trốn khỏi cái quy luật của nhân quả đó không? Mà hở ra đau khổ thì mấy con sợ hãi, mà ăn uống thì mấy con lại, thì mấy con thấy cái này, giết hại chúng sanh để các con ăn sao? Cho nên đó là một cái đau khổ vô cùng!
Cho nên giới luật của Phật dạy 5 giới, chúng ta phải cố gắng sống đúng 5 giới. Từ đó, người nữ cũng như người nam, chúng ta sống đúng giới, không rượu chè, bài bạc, không hút sách, không bị nghiện ngập bất kỳ những cafe, thuốc lá, tất cả mọi cái nghiện ngập, trà cũng không uống nữa!
Mấy con thấy Thầy bây giờ trà cũng không uống nữa, uống nước lạnh thì uống, chứ không nghiện trà. Không uống trà có chết Thầy chỗ nào đâu mà Thầy khỏi phải tốn tiền nữa hả trời! Người ta nói trà đạo, sự thật ra ghiền trà rồi mới trộn trà đạo, ngồi đó mà nhâm nhi từng ly trà gọi là trà đạo! Đạo gì, có giải thoát không? Bỏ tiền ra mua trà chứ không lý mà ra kia hốt cỏ vô mà nấu uống được sao!
(40:11) Cái thẳng thắn thì nói, cái không thẳng thắn thì Thầy không nói, Thầy nói thẳng thắn. Cho nên lại có một cuốn sách gọi là “Trà đạo” thì Thầy thấy họ viết trà đạo để làm gì? Người ta rất sợ những người uống rượu, mà người ta không sợ những người uống rượu, mà người ta sợ những người uống trà!
Người uống trà là người làm chính trị, người ta ngồi lại uống trà người ta bàn tính cái chuyện phá phách chỗ này, phá phách chỗ kia làm cho náo động lên, làm như mấy người quýnh trận. Còn mấy cái ông uống rượu say rồi nói bậy, nói bạ ra, cái gì mấy ổng cũng nói ra hết, cho nên mình không sợ mấy ông uống rượu.
Mấy ông uống rượu không có bao giờ mà làm việc chính trị được hết, hở ra mấy ổng nói ra người ta biết, nó bắt cùm đầu hết chứ ở đó! Còn mấy cái ông uống trà người ta sợ lắm. Cho nên thực sự ra thì cái trà đạo nó không phải đạo đâu mấy con, mà nó cũng là cái ghiền.
Cho nên ông bà của chúng ta, nó ghiền trà rồi mấy con biết không? Trà, cây trà Huế trồng vậy nó chặt vô cái cây khô, hoặc là lấy cái lá nó nấu, rồi đem nước chát chát uống vậy chứ nó quen miệng rồi, không có nước chát chát uống, nhiều lúc uống nước lạnh vậy nó không có uống được, phải có cái gì chát chát trong miệng. Tức là họ bị ghiền, họ ghiền.
Cho nên trong thân của chúng ta không cần mấy cái đó mà chúng ta vẫn sống. Sống chúng ta ăn cơm, thực phẩm, những cái rau cải tương dưa đơn giản nhất thì chúng ta sống được rồi, không có lo gì hết. Ngày xưa trên Hòn Sơn, Thầy 9 tháng, Thầy ăn toàn lá cây không, Thầy vẫn sống như thường, chứ con bò ăn cỏ cũng sống chứ nó có chết bao giờ!
Mà các con thấy con bò nó còn có sữa, nó còn gọi là sữa bò, nó còn bổ phải không? Cỏ chứ đâu có thịt cá đâu mà nó bổ trong đó, mà sao nó có sữa bò nó bổ vậy, rõ ràng là cỏ có chất bổ chứ!
Cho nên Thầy cũng là con người như mấy con vậy chớ bây giờ bắt mấy con ăn lá cây vô mấy con sống nổi không? Muốn ăn sống được phải tập chứ đâu phải dễ đâu, cái bao tử của mình nó không phải bao tử của bò, cho nên mình tập dần dần, dần dần rồi nó quen đi, rồi mình sống được, sống khỏe lắm mấy con.
(42:07) Người mà ăn được cỏ là không có … Khỏe, cỏ để tự nhiên vậy chớ ra chỉ việc cắt vô để một thau vậy đó ăn rồi đi chơi, khỏi có làm gì, khỏi có chiên xào nấu, mấy con thấy giải thoát không mấy con? Giải thoát thật sự mấy con. Ăn phải nuốt, phải nhai, phải nuốt, phải không? Rồi phải nấu nướng, rồi cơm gạo nấu nướng, rồi ăn rồi mới đem rửa, trời đất ơi cực khổ muốn chết! Mà ăn 3 ngày còn khổ nữa.
Còn mấy con thấy bữa nay mình ăn có một bữa, trưa mình ăn rồi mình rửa mâm cái dẹp, trời ơi ngồi sướng, từ sáng tới chiều ngồi chơi khỏe re! Các con thấy cuộc đời người nào giải thoát mấy con? Đạo Phật thực sự ăn ngày một bữa giải thoát thật mà mấy con.
Nhưng mấy con chưa quen, mấy con ăn ngày một bữa, mấy con: “Trời đất ơi, sao bây giờ chiều đói quá!” Các con ghê phải không? Nhưng mà đối với Thầy, Thầy thấy có đói chỗ nào đâu, nó sung sướng ngồi nó thanh thản, an lạc, vô sự. Không còn lo, không nghĩ đói, không còn lo cái ăn này, cái kia nữa, không còn nghe cái mì gõ nó gõ cóc cóc ở đằng kia đó mà trong này nó đói bụng rồi, ở đây gõ gõ bể cái ống tre của nó, nó cũng không kêu được, chào thua!
Thầy có đói có thèm đâu mà mua. Còn mấy con mà nghe nó gõ cóc cóc cái bắt đầu bụng nó muốn ăn rồi, thì tức ra kêu nó. Cho nên vì vậy mấy con thấy khổ lắm mấy con. Cho nên cuộc đời tu hành thật sự nó quen rồi, thì ăn có ngày một bữa sống, trưa ăn một bữa rồi, thế mà lại không có cần nữa.
Mấy con để trong một cái nồi vậy phải không, bây giờ đây là đồ chiên, đây là đồ xào, đây là canh, Thầy chỉ sắm cái bát thôi, đợi Thầy múc cái này bỏ vô trong cái bát, Thầy ăn rồi rửa, không có bát, không có rửa chén rửa bát. Rửa, nào là dĩa, bát, tộ đủ thứ trời đất ơi, cực khổ!
Các con dọn một cái mâm phải không, nào là cái đĩa đồ chiên, nào là cái đĩa rau, nào là cái tô canh phải không. Ăn rồi vừa rửa cái bát của mình rồi vừa rửa ba cái đĩa nữa, vất vả gần chết! Thôi ngồi ngay thẳng, ngồi, Thầy múc bao nhiêu đó Thầy ăn bấy nhiêu, rồi Thầy còn có rửa có cái bát, mà Thầy thấy còn cực chứ, có phải không, mấy con thấy!
(44:05) Ở đời mình phải tiết kiệm từng cái thời gian để cho mình sống được cái sự giải thoát, mình ngồi cho nó thanh thản, an lạc, hoặc là mình làm lợi ích cho người khác. Cái thời gian mình còn lại, mình làm cho lợi ích cho người khác, mình giúp đỡ người khác. Chứ mình cứ lo ăn, lo này kia, tối ngày lúp xúp ở trong bếp, rồi ở bên ngoài không biết thứ gì hết!
Nghĩa là đâu có, mấy con mà phụ nữ mà nội trợ thì thật sự ra, chỉ có đi chợ lo về làm đồ ăn rồi này kia cho chồng, cho con rồi cuối cùng ở ngoài không biết chuyện gì nữa hết! Thành ra trong cái cuộc đời của mấy con bị chi phối rất nhiều các con, mà không có được cái thời gian rảnh rang ngồi (…)
Còn Thầy ngồi chơi thôi các con. Nhưng Thầy cực khổ là hiện bây giờ cái nền đạo đức, viết lại thành sách đạo đức chưa có người làm, chứ cỡ có người làm rồi thì chắc Thầy sẽ, Thầy ngồi chơi suốt ngày. Nghĩa là ngồi chơi suốt ngày, ngồi thanh thản, an lạc.
Ngồi mà không mỏi, không mệt chứ không phải như mấy con ngồi từ 5, 10 phút cái bắt phải đầu đứng dậy đi, chứ im nó mỏi. Thầy thì ngồi suốt ngày được. Thầy ngồi trên ghế mà Thầy ngồi vầy, Thầy ngồi suốt ngày không mỏi, cái thân nó an ổn mấy con, nó không có gì. Bởi vì tâm bất động, thanh thản, an lạc, mấy con nghe chữ “thanh thản, an lạc, vô sự”, hoàn toàn nó an ổn vô cùng.
Còn mấy con thì ngồi không được, nó chưa quen. Mà tâm thì nó chưa thanh thản, nghĩ này kia cho nên cái thân của mấy con bị động liên tục, nó không có yên, nó mỏi chỗ này, nhức chỗ kia. Còn Thầy thì đó, không mỏi, không nhức nữa. Cho nên vì vậy mà Thầy thấy tu hành rồi sướng thiệt, còn mấy người này khổ ghê, ngồi chút mà thấy tê chân cóng giò. Còn Thầy thì không tê chân, cóng giò.
Đó thì mấy con thấy cái nào lợi ích? Mà lại ngồi chơi, ngồi cái tâm không nghĩ ngợi, nó an lạc nó thanh thản, nó không phải Thiền Định, nó ngồi như mọi người mà nó bất động, nó không nghĩ cái gì, nó không lo cái gì hết, ngồi im. Mà mấy con giữ được cái tâm đó như vậy là chỉ 5, 3 giây, 1 phút là cao, chứ không thể nào hơn được nữa.
(46:00) Cho nên ở đây ráng cố gắng mấy con, Thầy sẽ dạy mấy con tập, tập thì sẽ được như Thầy, Thầy cũng nhờ tập luyện chứ khi không mà Thầy có được như thế này đâu! Phải tập luyện hết công, hết sức của mình.
Nhiều khi mà Thầy nói, mà nản chịu không nổi, ăn lá cây mà sống! Bởi vì nghĩ ăn cơm thì phải đi xuống trên núi mà xin, rồi mang lên trên Hòn Sơn, ở trên đỉnh Hòn Sơn, chứ đâu phải ở trên Hòn Sơn đâu, rồi phải xuống Hòn Sơn mà xin gạo rồi mang lên, rồi cứ như vậy cực khổ. Cho nên thôi tốt hơn ở trển cứ lá cây rừng mà ăn đi, ăn riết nó quen rồi thôi khỏi mất công đi, ở trển mà ngồi đó mà tu cho nó sướng!
Đến cuối cùng Thầy sướng, Thầy tập nó quen, Thầy khỏi có lo ăn lo uống gì hết. Cho nên bây giờ cuối cùng Thầy về Thầy sống như thế này, Thầy ăn ngày một bữa, Thầy thấy ngon cũng được mà dở cũng được không chê gì hết, ai cho gì ăn nấy. Chứ không đòi họ phải làm như thế này, làm thế kia, thế nọ, ai cho gì ăn nấy, không chê. Dở ăn dở, ngon ăn ngon, miễn là ăn sống, sống để làm việc, để có ích lợi. Đó là cách thức của một người tu mấy con.
(47:03) Bây giờ mấy con cũng có người lớn tuổi, ráng cố gắng mấy con. Tuổi đời nó sẽ không còn bao lâu nữa (…) Nghĩa là không có người nào mà sống mãi ở trên thế gian này, mà tuổi đời còn lại là còn quá quý mấy con! Đức Phật nói: “Được thân người là khó, được gặp Chánh Pháp của Phật còn khó hơn”. Mà chúng ta được thân người mà được gặp Chánh Pháp rồi. Nỗ lực tu!
Còn, đời còn cái gì là của mình nữa đâu: “Các pháp đều vô thường, không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta nữa”! Hết rồi mấy con, không có cái gì là của con mà giữ được ở trên thế gian này được. Chết rồi mấy con chỉ còn có nghiệp thôi, chứ còn toàn bộ không còn cái gì.
Đừng nghĩ rằng các con còn có linh hồn, không có linh hồn, linh gì nữa hết đâu, chết rồi hoàn toàn thân Ngũ Uẩn này hoại diệt hoàn toàn, không còn một chút xíu nào trong đó nữa. Nhưng mà cái hành động thiện ác của mấy con còn. Mấy con làm thiện, làm ác mấy con còn, nó tiếp tục tái sanh luân hồi (…)
Còn linh hồn mấy con không còn có nữa. Tại vì người ta cứ nghĩ ở trong thân này còn có linh hồn, mà không ai biết cái linh hồn nó như thế nào. Nếu mà nó có thật sự cái linh hồn thì nó phải có cái mặt riêng của nó. Mà bây giờ mình nằm, mình ngủ mình thấy hồn mình xuất ra thì mặt mày này, nhưng mà mình cái kiếp khác cái mặt này còn nữa sao, có phải không? Kiếp trước con thấy cái mặt của con sao đâu nói cho Thầy nghe?
(48:21) Vậy cái linh hồn nó phải có cái mặt khác của nó, chứ không lẽ, nó vô cái thân của nó, nó thành một con ếch chỗ đó hoặc là con gà rồi, nó cũng là cái linh hồn của con gà vậy sao? Cái linh hồn của con gà nó đâu phải là con gà? Rồi cái linh hồn người ta nó đâu phải là người ta? Nó là cái hình dáng nào, tại sao người ta không diễn tả được cái hình dáng mà cứ nói là trong thân có cái linh hồn, bộ mấy người bị điên rồi sao?
Cái linh hồn nó phải có cái hình dáng riêng, nếu phải chăng có linh hồn, thì nó phải có cái hình dáng riêng của nó. Nó chui vào cái thân này rồi, rồi tiếp tục nó đi tái sanh nó chui vào thân khác, thì cái thân khác nó có cái mặt khác chứ không lẽ cái mặt này nó đút qua cái mặt kia được sao?
Cái con cứ thấy đi, ông bà mình chết cái mặt khác rồi tới mình, rồi cha mẹ mình, rồi tới mình có giống nhau không, làm gì giống đâu! Rồi ngồi đây, mấy con ngồi đây coi thử coi cái mặt, có mặt người nào giống người nào không, nhìn lại coi thử coi, đem kiếng soi mấy con coi, coi có giống nhau không?
Rõ ràng là trăm vạn người, người nào cũng khác nhau hết. Vậy thì cái linh hồn nó cũng khác nhau mà, như vậy là nó chui qua cái thân kia, nó có mặt khác nó, nó còn cái linh hồn, nó giống không? Hoàn toàn cái lý luận đó, cái lý luận mà linh hồn không còn đứng vững mấy con, không còn đứng vững. Trong khi có sự suy luận đúng đắn thì linh hồn không còn.
Cho nên trong cái thời Đức Phật, Đức Phật nói tưởng tri, cái thuyết linh hồn là thuyết tưởng chứ không phải là thuyết thật, nó không phải liễu tri mà nó là tưởng tri. Ông Phật cách đây 2552 năm ông dám nói là không có linh hồn. Còn Thầy bây giờ nói không có linh hồn, thiên hạ họ mới chửi Thầy, trời ơi từ ông bà ngày xưa nói có linh hồn, cúng bái bây giờ Thầy muốn kiểu mà, bàn thờ này lôi xuống hết sao, không còn cúng bái nữa à?
Ở đây cúng bái là chúng ta tượng trưng cho lòng biết ơn của chúng ta, nhớ lại cái công ơn của những người, của ông bà tổ tiên của chúng ta chứ không phải cúng bái cái linh hồn đó. Vậy mà làm mâm cao, cỗ đầy đem lên dâng cúng ở trên bàn thờ gọi là cúng ông bà về ăn, một năm về ăn có một lần ngày giỗ, chắc chết ông bà hết rồi còn cái gì!
Mấy con nghĩ coi thấy cái này có đúng không? Cả một năm đến ngày giỗ, ngày Tết, ngày mùng 5 mới đem ba bánh ú lên bảo ăn, ăn có bữa đó rồi còn mấy bữa kia lấy gì ăn? Chỉ còn nước chết thôi, mấy cái linh hồn này nó chết đói luôn.
Đó là một cái sự thật mà buộc lòng cái tri kiến, cái ý thức của chúng ta từ đó chúng ta suy luận, suy luận cho đúng, để chúng ta hướng đến cái đúng mà chúng ta tu tập để được giải thoát, để hoàn toàn làm chủ sự sống chết mấy con.
(50:44) Trưởng lão: Chừng nào mấy con có sức Thiền Định, mấy con muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống. Người tu theo đạo Phật là thứ nhất làm chủ bệnh, thứ hai làm chủ chết, chết không phải chết có bệnh. Còn hầu hết mọi người ở trên thế gian này chết phải bệnh rồi mới chết, không có người nào không bệnh mà chết trước đó.
Bây giờ, nói thí dụ như bây giờ, đi vừa mạnh, với thức dậy đi ra cái bắt đầu té xỉu, té xuống chết, thật sự đó là đứt mạch máu não chết chứ đâu phải là đi hụt không mà chết đâu, đâu có, phải bệnh chết chứ đâu phải khi không mà chết được đâu. Còn cái này không đứt mạch máu não gì hết, tui muốn chết tui bảo: “Chết!” là nó tịnh chỉ hơi thở nó chết mấy con.
Cho nên là mình làm chủ cái chết mà, còn cái kia tui muốn chết, tui đâu có muốn chết đâu mà đi sao xiêu xiêu, xiêu xiêu rồi té xuống cái, rồi chết, cái cả nhà chạy ra đỡ vô, thôi, rồi xíu cũng chết. Đó là thực sự là bệnh chết đó mấy con, mà chết đột ngột, chết thình lình, chứ chưa có người nào mà chết mà bảo rằng tui chết, tui bảo chết là chết, sống là sống, thì chưa có người nào.
Nhưng mà đời mấy con còn có một người làm được điều này, muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống, tự tại. Còn bây giờ cái thân nó muốn đau đuổi nó đi, nó hết đau làm sao nó chết được mấy con?
Bây giờ Thầy còn muốn sống chứ gì, mà bây giờ cái thân Thầy nó hoại nó muốn chết chứ gì? Thầy bảo: “Thọ này đi chứ không có chết đó nha!”, nó đi mất, lấy gì chết? Có đúng không, mấy con thấy không? Làm sao chết, nó có bệnh nó mới chết chứ nó không bệnh làm sao chết được?
(52:05) Bây giờ Thầy sống bây giờ 100 tuổi cũng không chết, mà Thầy muốn sống 200 tuổi nó cũng phải sống thôi, nó không dám cãi Thầy, nó đâu có bệnh được mà chết. Chừng nào nó có bệnh nó mới chết chứ, còn bây giờ nó không có bệnh nó phải sống thôi chứ gì!
Nhưng mà bây giờ Thầy muốn chết, nó đâu cần phải nó có bệnh mà chết, Thầy bảo, tịnh chỉ hơi thở, ngưng lại, vào Tứ Thiền cho Thầy! Thì lúc bây giờ thân tâm Thầy nó vào Tứ Thiền, một trạng thái rất an lạc. Rồi nó, bởi vì cái trạng thái của Thiền đó nó ngưng hơi thở, có phải không mấy con?
Thầy bảo bây giờ xuất ra khỏi cái trạng thái Tứ Thiền, vào trạng thái Niết Bàn thì thân tâm Thầy nó vào đó, thì lúc bây giờ (…) mấy con đem chôn đi, có phải Thầy làm chủ không? Thầy làm chủ bằng pháp Phật đàng hoàng, bằng phương pháp, có phương pháp chứ đâu phải nói suông suông được!
Đâu phải nói, à tui nhập định như ông Bàng Uẩn, đứa con gái ổng nó dụ, nó gạt ổng, ổng tính ổng lên cái sàn thiền, ổng ngồi cái ổng nhập, ổng nhập định ổng chết đó, thì nó gạt ổng nó nói: “Ba ơi ba, ba ra coi mặt trời với mặt trăng nè”. Ổng tu tới mức độ này mà ổng còn bị con gái ổng gạt chứ gì, cái cô con gái ổng. Cái ổng chạy ra ổng coi, nó trèo lên sàn thiền ổng nó ngồi, nó nhập định,cái nó chết.
Cái bắt đầu ổng: “Con này giỏi thiệt chứ, ta định ta nhập Niết bàn, nó còn nhập trước nữa, thôi chôn cất nó xong đi”. Rồi chôn cất xong, rồi ổng nhập Niết Bàn. Thì bà vợ ông Bàng Uẩn về bả nói, đây là cái gia đình thiền định mà, thì bà vợ ổng về: “Cha con ông Bàng Uẩn này giỏi thiệt chớ”, cho nên vì vậy bả nói giỏi thiệt, “Hai cha con mấy người đi trước, bỏ mẹ con tui ở lại hả?”, thì bả mới đi ra bả mới nói với thằng con trai đang cày ruộng ở ngoài ruộng.
Nhưng mà thằng con trai nó biết cha nó chết rồi, cho nên nó dừng trâu lại, nó ngồi đó, nó đứng lại đó nó nhập diệt, nó nhập định, nó nhập diệt nó bỏ thân. Bả ra tới, thằng hai chết rồi, thôi giờ bả lo chôn cất nó chứ sao. Cha con Bàng Uẩn này giỏi thiệt, cha con gì chết hết, bây giờ chỉ còn mình bả!
(54:02) Cho nên cuối cùng xong xuôi bả cũng vào trong cái hang, bả mới nhập diệt trong núi, bả chết. Bởi vì đâu còn ai chôn cất bả nữa đâu, bả phải vô trong hang núi bả tịch. Người ta nói Thiền Định như ông Bàng Uẩn đó, nhưng mà sự thật ông Bàng Uẩn nói cái điều đó mà không có pháp, làm sao mà làm cái chuyện đó được đâu? Có phương pháp đàng hoàng cách thức như thế nào chứ!
Còn ông Phật, ổng muốn bỏ thân ổng, ổng muốn vào Niết Bàn, ổng mới hứa trước với Phật tử, 3 tháng nữa ổng sẽ nhập Niết Bàn, rồi ổng mới đi về cái nơi Sa-la Song Thọ.
Xong rồi, ổng đến đúng ngày giờ, đúng 3 tháng, ổng mới nhập từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền, rồi từ đó ông xuất ra, xuất vô 3 lần để ổng nhắc nhở cho Phật tử, cho chúng đệ tử của ông biết rằng đây là con đường mà làm chủ sự sống chết, cho nên khi nhập vào Tứ Thiền rồi vào Niết Bàn, xuất ra khỏi Tứ Thiền rồi vào Niết Bàn , là ổng bỏ báo thân, bỏ cái thân này.
Đâu, có phương pháp đàng hoàng chứ, đâu phải, nói như gia đình ông Bàng Uẩn thì đâu được, có phải không mấy con? Khi không mà ngồi thiền, thiền gì đây? Ông làm sao ông làm cái chuyện này, ông phải nói phương pháp chứ, ông nói Thiền Định, ai nói chuyện Thiền Định không được, nhưng mà phải phương pháp như thế nào, phải đi vào bằng cái sức gì, cái lực gì, cái Định gì, nó mới vào từng phần của nó chứ, phương pháp nào, cái pháp nào mà vào được cái chỗ mà làm chủ sự sống chết này?
Đó, thì mấy con thấy đạo Phật nó thực tế và cụ thể, còn Thiền Tông mà nó nói chuyện huyền thoại của ông Bàng Uẩn, thì thiệt ra nó không thực tế mấy con, nó không có phương pháp. Bởi vì vào tu phải: “Biết vọng liền buông”, bây giờ vì buông hết những cái niệm trong đầu của chúng ta, hoàn toàn nó sẽ ở vào trong cái không ngơ, rồi từ đó nó sẽ làm sao?
Nó đi đến cái chỗ chúng ta trở thành cây đá sao, vô phân biệt. Nó không phân biệt, nó không khởi nghĩ gì, thì nó sai Phật pháp vô cùng lận! Nó đưa đi đến chúng ta trong cái ngoan không. Mà chúng ta tu chưa tới thì chúng ta chưa thấy, mà tới rồi thì nó quên trước quên sau, nó lẫn lộn như một cái người, cho nên Hòa thượng Phước Hậu là một cái hiện thân, mà trong cái thời Thầy đã biết Hòa thượng Phước Hậu ở chùa Phước Hậu ở dưới Trà Ôn, nhưng vẫn có người tu đến nỗi mà Hòa thượng nói:
Kinh điển Phật lưu truyền tám vạn tư
Tu hành không thiếu cũng không dư.
Đến nay dường đã như quên hết
Chỉ nhớ trên đầu một chữ Như
(56:17) Chỉ còn có chữ như như thôi, không có nhớ gì nữa hết. Coi như là chỉ còn có cái tâm bất động đó thôi, hoàn toàn bất động trong cái trạng thái “không” đó thôi, không có phân biệt không có khởi nghĩ gì hết.
Cho nên khi mà đi qua sông vậy đó, thì lột quần áo hết cho chú thị giả lội qua sông, thì khi mà lên sông rồi thì ông cũng không nhớ là mình mặc quần áo, cho nên đi luôn. Chú thị giả đội quần áo chạy: “Hòa thượng, Hòa thượng dừng lại, Hòa thượng chưa mặc quần áo!”. Ông mới nhớ là, à như vậy chưa mặc quần áo, cho nên mặc quần áo rồi mới đi.
Con thấy còn phân biệt được gì nữa đâu, hết rồi. Cho nên Hòa thượng Phước Hậu là một hiện thân của một người tu rất là cao, rất là nỗ lực, tu cho đến mức độ như như trên đầu, thế mà như vậy là sao, mấy con thấy!
Đó là những cái sai, cái phương pháp sai, mà may là cái người mà quyết tâm tu được tới đó, bao nhiêu người đã làm được như Hòa thượng Phước Hậu? Bây giờ số Hòa thượng, bao nhiêu người đã làm được như Hòa thượng Phước Hậu? Còn một số Hòa thượng hiện giờ đang tu thiền, người thì bệnh này, người bị bệnh kia đủ loại bệnh hết, tại sao không làm chủ được bệnh? Đó thì mấy con thấy rất là đau khổ!
Cho nên ở đây mình phải tu tập ngay từ bây giờ, phải ngay từ trong cuộc sống, làm chủ được bệnh, đuổi được bệnh khỏi tâm, làm chủ được sự sống chết, ngay cả thân này muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống. Chúng ta làm hẳn hoi, làm chủ được mà, đâu có gì đâu.
Như bây giờ Thầy bảo: “Tịnh chỉ hơi thở, ngưng hơi thở nhập Tứ Thiền”, thân này ngồi bất động, hơi thở (…) Thầy làm được rồi, cho nên Thầy biết Thầy làm chủ được sự sống chết. Còn bây giờ mấy con bảo xem coi nó nghe không, chưa nghe thì chưa được, phải tập nữa, tập chừng nào mà như Thầy!
Đó là cái thực tế, cái cụ thể. Tại vì chúng ta, ở trong thân chúng ta nó có một cái nội lực mà chúng ta không luyện, mà cái pháp Như Lý Tác Ý mấy con tác ý nó thành một cái lực, lực Như Lý Tác Ý mà. Bởi vì tác ý nó mãi thì nó thành một cái lực, cái lực vô lậu, cái lực vô lậu nó (…)
(58:06) Ráng mấy con, mấy con già (…) Sắp sửa đây rồi mấy con sẽ mất thân này mà tu tập không được. Gia đình hãy sắp xếp, có gia đình, mấy con, Thầy biết, có gia đình, đứa nào cũng phải lo sắp xếp đi, sắp xếp cho nó ổn hết rồi về đây, Thầy cho một cái thất mấy con, ở trong thất của mình. Cái này là những người cư sĩ phải ở đây tập phải không, còn nếu như con mà quyết tâm tu sâu hơn, Thầy sẽ cho những cái thất trong khu vực yên tịnh. Phải nỗ lực!
Những người nào mà quyết tâm để tu được làm chủ sự sống chết, Thầy sẽ cho một thất trong khu vực yên tịnh, để cho mấy con thực hiện được cái hoài bão của mấy con là làm chủ sự sống chết trước khi mấy con ra đi bỏ thân này, mấy con tự động chủ động để mà ra đi trong tâm bất động, hạnh phúc lắm mấy con!
Đời người không có gì hơn là chúng ta đã tự sức mình làm chủ được thân tâm. Bây giờ mấy con còn hỏi Thầy gì nữa không con? Hỏi Thầy Thầy sẽ trả lời cho, còn không hỏi thôi. Ráng mà tu, chỉ có xả tâm thôi, Thầy chọn cái người xả tâm.
Ở trong đây, cái số mấy con mà hôm rày ở đây Thầy lắng nghe hết, người nào mà xả tâm, người nào không bị chướng ngại, ai làm gì không bị chướng ngại hết là người đó độc cư trọn vẹn, chớ không phải ngồi trỏng. Nghĩa là ai nói gì cũng cười vui vẻ, không buồn phiền người nào hết, thấy người nào cũng thương, thì những người đó là những người Thầy sẽ cho sống bên Thầy, hướng dẫn (…) chỉ dẫn đến nơi đến chốn.
Bởi vì những người đó đã có căn cơ biết xả tâm, biết xả tâm, biết thương mọi người, các con sẽ được sống bên Thầy. Thầy sẽ dạy mấy con trên Tứ Niệm Xứ để tâm bất động, thanh thản một thời gian dài và có đủ Tứ Thần Túc mấy con. Để mấy con làm chủ được sự ra đi của mấy con, mấy con muốn chết hồi nào chết mấy con.
Cái mà tu xong rồi, đầu tiên mấy con phải về độ cha mẹ, vì cha mẹ mình có mất mình hãy tìm nơi mà mẹ mình đã sanh ở đâu, để độ, để đền đáp công ơn sanh thành dưỡng dục.
Rồi kế đó những người thân trong gia đình của mấy con, là con cái, chồng con của mình, phải giúp đỡ họ. “Đây mẹ đã tu được như thế này, các con phải nghe lời mẹ, đời không có gì, mấy con có làm quan chức gì đi nữa mấy con cũng không còn, chỉ có làm chủ sự sống chết này sẽ không tiếp tục tái sanh luân hồi, sẽ hết đau khổ. Hãy nghe lời mẹ!”
(01:00:13) Cái tình cảm mà mấy con tu hành xong mấy con nói, các con cũng nghe hết, nó sẽ nghe lời mẹ, mấy con sẽ độ cả con cái, chồng con người thân.
Mấy con cố gắng lên! Thầy là một vị Thầy để chỉ dạy mấy con thôi, chứ Thầy đi con đường đó không được đâu mấy con, không đi giúp được mấy con. Thầy chỉ biết hướng dẫn cho mấy con, thương mấy con bao nhiêu thì thương nhưng mà không thể chịu thay sự đau khổ cho mấy con được. Mấy con biết rồi, Thầy không chịu thay được mà mấy con phải tự chịu mà thôi.
Và tu tập cũng vậy, cho nên ngày xưa Đức Phật nói: “Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi, ta chỉ là người hướng dẫn cho mấy con , hướng đạo mà thôi!”, Đức Phật từ chối. Vậy mà bây giờ chúng ta cầu khẩn Đức Phật cứu khổ chúng ta, làm sao được mấy con? Lời Đức Phật đã còn dạy chúng ta rõ ràng.
Cho nên chúng ta nhớ: “Các con tự thắp đuốc lên mà đi, ta chỉ là người hướng đạo”. Nhớ như vậy mà ráng hướng đạo. Pháp của Phật là pháp tự giác, tự nguyện để mà tu tập, chứ không có người nào tu tập thay mình, không có cầu khẩn một người nào mà giúp mình được trọn vẹn. Ai cũng có thân có tâm, có đầu óc hiểu biết, tự cứu mình.
Hôm nay mấy con ngồi đây, được ngồi nghe Thầy thì mấy con phải tự cứu mình. Thầy chỉ làm những cái cơ sở nó như thế này để tạo cái duyên cho mấy con đủ lực cho mấy con khép mình (…). Chứ Thầy không làm gì khác hơn được hết. Thôi bây giờ có gì mấy con hỏi Thầy, không hỏi Thầy thì Thầy về. Thầy về để ngồi máy vi tính làm việc nữa, viết sách đạo đức, nhất là Đạo Đức Gia Đình! (01:01:38)
HẾT BĂNG
ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN - NHÂN QUẢ 02 - LINH HỒN KHÔNG CÓ
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
(00:00) Trưởng lão: Thôi bây giờ có gì mấy con hỏi, không hỏi Thầy nữa thì Thầy về, Thầy về để lên vi tính làm việc nữa, viết sách Đạo Đức, nhất là Đạo Đức Gia Đình để dạy cho gia đình mấy con hạnh phúc. Thầy xin phép tập Đạo Đức Gia Đình tập 1 với tập Đạo Đức Ly Tham 2 tập, Thầy xin phép nhà xuất bản tôn giáo. Đã được, nghe đâu ngoài Hà Nội đã in được 1500 quyển rồi, mai mốt tái bản sẽ in tại Thành phố, để về Thầy gửi cho mấy con.
Phật tử: Gia đình con ở Hà Nội (không nghe rõ).
Trưởng lão: Thỉnh thoảng rảnh rang mấy con về, khi nào mà, Thầy sẽ thông báo cái lớp học, Thầy sẽ thông báo cho con biết, 1 tháng có mấy ngày để học, trong những cái ngày chủ nhật, ngày nào đó, trong 1 tháng có mấy ngày, ngày đó Thầy đến … Thí dụ trong 1 tuần lễ Thầy chọn ngày chủ nhật đi, hoặc là ngày thứ 5, hoặc ngày nào đó, Thầy thông báo cho mấy con biết hết toàn bộ thì trong cái ngày đó mấy con sẽ về nghe Thầy dạy (…)
Khi gặp Thầy thì mấy con ráng tu tập nha mấy con, khi mà Thầy mở 1 cái lớp học, Thầy cho biết ngày giờ thì mấy con sẽ dành cái ngày giờ đó về đây. Thầy ở đây, Thầy cũng nguyện là đem cái điều kiện hiểu biết về đạo đức để dạy cho bà con lối xóm của Thầy, tội lắm mấy con.
(02:03) Những bác nông dân, rồi con cháu ở quê này, họ cũng chẳng hiểu gì hết, không có tạo cho họ những cái lớp học thì tội lắm mấy con.
Phật tử: (…) con có người bạn 28 tuổi, rất là thương yêu đứa con nhưng mà … Đi làm thì nhiều khi không biết … Con không biết như vậy phạm tội rất là lớn, nhưng mà đó là điều đau khổ của con …
Trưởng lão: Coi như là các cụ già ở xa đó mấy con, họ sẽ đến đây. Bởi vì Thầy biết cái thế hệ của mấy con, nó không thể nào mà sống hòa hợp với cái tuổi già của cha mẹ, lớn tuổi rồi từ 8 chục cho đến 9 chục, họ sống cô đơn, khổ lắm mấy con. Họ không biết giữ cái tâm bất động của họ, họ sống rất là khổ. Họ nhớ lại cái quá khứ của họ, còn trong hiện tại thì con cái đi làm hết cho nên họ sống, họ thấy khổ lắm mấy con, không thể nào hòa hợp trong cái vai trò tuổi trẻ bây giờ cho nên họ khổ lắm. Cho nên nhiều khi có những cái điều kiện họ làm cho mình thấy bực mình lắm chứ không phải không đâu.
Nhưng mà Thầy nghĩ rằng những cái Khu an dưỡng cho người già thì không phải bắt buộc họ. Mấy con gửi họ ở đó, họ sẽ đến đó ở trong vòng 5, 3 bữa hay 1 tuần lễ, họ được học đạo đức, với cách thức họ sống, họ sẽ về sống trong gia đình, họ biết giữ cái tâm bất động thanh thản, họ chỉ giữ… Họ lớn tuổi rồi, họ đâu có làm cái gì nhiều, họ chỉ ở coi nhà cho mấy con, họ chỉ biết cách tu đó cũng là thấy hạnh phúc.
(04:07) Đó là cách thức Thầy đã nghĩ đến hoàn cảnh gia đình của mấy con, có cha mẹ già, có ông bà lớn tuổi rồi, mà những người đó chưa biết Phật pháp, mà cách thức giữ cái tâm của mình thì họ ngồi họ nhớ chuyện này, chuyện kia, trong cái đời của họ thì họ đã thấy khổ đau vô cùng. Vì vậy mà họ dẫn dắt làm mấy con động.
Phật tử: (…)
Trưởng lão: Cách thức mình tu tập thì con xả những cái này, giữ gìn tâm bất động, hòa hợp được với… Ngày xưa vì quá khổ cho nên tiết kiệm, dành dụm thành cái thói quen đó đi. Giờ thấy mấy con xài phí, thoáng như vầy cho nên mấy bà bực mình, vậy không có hòa hợp với trong cái giai đoạn chúng ta. Vì không hòa hợp được mà tại vì sống thành cái thói quen của ngày xưa, của mình rồi mà bây giờ bắt buộc con cái sống vậy thì làm sao nó sống được trong cái thời đại này.
Phật tử: (…sách của Thầy cho mẹ con đọc…)
Trưởng lão: Nhưng mà khi đến được dự thì khi đó…bởi vì cuốn sách Thầy viết ra nó không đủ thuyết phục đâu, nhưng khi mà đến gặp Thầy rồi thì cái từ trường của Thầy nó thuyết phục được mấy cụ. Thầy chỉ thuyết, chỉ nói, mấy cụ sẽ khép mình trong khuôn khổ tu tập con, Thầy cởi mở lắm.
Khi nào mà có Khu an dưỡng cho những người già rồi thì các con sẽ cho lên đây ở 1 bữa, hoặc là mấy con đưa lên đây để nghe 1 buổi thuyết pháp thôi. Thì sau đó các cụ sẽ xin ở được 5, 3 ngày, 1 tuần lễ. Từ 5, 3 ngày, 1 tuần lễ thì hướng dẫn cho các cụ cách thức tu để giữ gìn cái tâm của mình, có cái niềm vui ở trong đó, khi mà tìm được cái niềm vui rồi thì mấy con khỏi đi, không có rày phiền mấy con gì hết, xả hết những cái buồn phiền.
(06:35) Thầy hiểu biết cái niệm khi mà có cha mẹ già thì nó có cái nỗi khổ cũng như con, không thể họ - những người già họ hòa hợp với mấy con được đâu…
Ai cũng biết công ơn của cha mẹ nhưng mà nó không hòa hợp được thì bực mình mà mẹ mình cũng khổ chứ không phải riêng của mình, khổ cả 2 người.
Cho nên Thầy nói, chỉ Phật pháp mới hóa giải được cái này, mới đem lại hạnh phúc cho gia đình mấy con, mà Thầy là cái người đã nghĩ đến cái vấn đề này. Tạo những cái cơ sở, có cái nhà cho các cụ ở. Chứ bây giờ, thí dụ các cụ về ở 1 cái nhà như vậy, rồi các cụ riêng biệt, khó lắm mấy con, chứ không dễ mấy con, mấy cụ sống như vậy khó lắm chứ không phải dễ.
Nhưng mà khi sống quen rồi… Như các cụ, mấy cô, bây giờ tập quen rồi sau này mấy cụ sống trong gia đình, mấy cụ thấy cởi mở lắm, chứ mấy cụ đâu có gắt gỏng với con cháu đâu, mình biết xả tâm hết đâu có gắt gỏng đâu.
Do đó mấy con sẽ đến đây học tập rồi lần lượt mà cái tâm gắt gỏng của mấy con, con sẽ xả bỏ hết. Do cái sự hướng dẫn tập luyện của Thầy, mà mấy con thấy làm cho cái tuổi trẻ và tuổi già sẽ hòa hợp với nhau, nó có cái hướng đi. Thầy cũng chỉ mong đem lại hạnh phúc cho mấy con. Có gì hỏi Thầy.
Phật tử: (…)
(08:21) Trưởng lão: À, bây giờ thì rất dễ mấy con, đất nước của chúng ta hiện giờ cái người dân Việt của chúng ta có cái giấy chứng minh của đất nước thì mấy con đi ở chỗ nào cũng được hết. Nhưng có điều kiện là mấy con đến đây, như bây giờ đến đây thì Thầy đưa cho mấy con tờ giấy, mấy con ghi tên tuổi của mình ở đâu, rồi Thầy đưa cho Ban quản lý, cái ấp để họ biết điều kiện của con, coi như là báo cáo, biết tui là người Hà Nội đến đây hoặc là Huế đến đây vậy, đủ rồi khỏi cần gì nữa hết.
Người Việt mình mà, đâu có quản lý kỹ, luật của Nhà nước hoàn toàn là tự do mà, chứ đâu có bắt ép mình phải tạm vắng, tạm trú này kia. Như ngày xưa thì nó khó con, đi phải xin giấy tạm vắng tại địa phương mình. Còn ở đó thì khỏi, mình muốn đi thì đi, không có nói gì hết, mình tới cái chỗ này thì mình đăng ký, mình báo cáo ở đây 3 bữa, 5 bữa, 1 tuần lễ. Còn mình ở lâu thì mình đăng ký dài hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng. Mình đăng ký thì trong khi đó người ta sẽ cấp cho mình 1 cái thẻ để cho mình ở cái thời gian đó, coi như mình tạm trú ở đó 1 thời gian chứ không có gì hết, mình là người tốt mà.
Ở lâu 1 năm cũng được nữa, người công dân Việt Nam là ở bất cứ chỗ nào chỉ có mình đăng ký cho chính quyền địa phương biết, tui là người Hà Nội đến đây, tui muốn ở đây 1 năm tui học, có lý do đàng hoàng, tui lí lịch, chỗ ở tui có đàng hoàng, tui là người tốt như vậy chứ không phải trộm cắp, ăn cướp gì của ai tui đến đây tui trốn, mình đăng ký là có hà.
À, muốn ở suốt đời cũng được, người ta cho mình 1 cái thẻ, nó không cần nhập hộ khẩu này nhưng mà người ta cho suốt đời, các con sẽ ở đây suốt đời, coi như là thường trú ở đây luôn.
(10:11) Bởi vì người Việt Nam muốn ở đâu cũng được thường trú hết, chỉ cần con đăng ký thôi - đăng ký dài hạn người ta sẽ cho phép.
Phật tử: (…)
(11:56) Trưởng lão: Vì vốn con người nó có 2 cái phần: cái phần ý thức của chúng ta và cái phần tưởng thức của chúng ta. Cho nên cái phần tưởng thức thường thường người ta tưởng cái linh hồn, chứ sự thật ra nó là tưởng thức. Cái giấc mộng của mấy con, mấy con thấy giấc mộng mấy con tưởng linh hồn của mình biết người này chết này kia chứ gì, không phải đâu.
Cái tưởng thức nó hoạt động, nó thu những cái hình ảnh người chết, nó bối cảnh theo tưởng dục, chiêm bao mấy con trong tưởng thức. Cha mình chết, mình mộng nằm thấy, hay ông bà mình chết, mình thấy trong cái giấc mộng họ vẫn còn sống. Đó là cái tưởng thức của chúng ta nó biến hiện ra cái hình ảnh đó, nó làm ra cái cảnh giới đó chứ không phải là ông bà mình chết mà hiện hồn về.
Mà có khi báo mộng nữa, ví dụ ông bà báo mộng. Có nhiều người báo mộng ngày mai con không được đi, đi như vậy té, tai nạn đó làm cho cái người đó không dám đi nữa mà đi thì thật ra nó xảy ra tai nạn như xe, tai nạn giao thông hoặc… Nó đúng chứ không phải là không đúng. Như vậy cho nên người ta nói ông bà mình linh hiển cho nên báo mộng cho mình biết, chứ sự thật không phải như vậy.
Mà chính cái tưởng của mình nó giao cảm được cái tai nạn, nó không biết làm sao để báo động cho mình. Thứ nhất nó báo động cho mình là hồi hộp, ví dụ nay xảy ra tai nạn thì mình hồi hộp hoặc là nó giật mí mắt. Các con có nghe giật mí mắt. Có nhiều người cũng tin giật mí mắt, không biết có ai mời đám giỗ không đây, hoặc là có cái chuyện gì đây, mình cứ bán tin, bán nghi vậy thôi nhưng mà cái chuyện nó xảy ra rồi.
À, cái chuyện mí mắt mình giật đúng, có người mời ăn đám giỗ vậy giựt đúng rồi, bởi vì nó giật mắt thì ăn đám giỗ. Mà giật mắt này, cái chuyện xảy ra vừa rồi cái bà này chửi mình tan nát, bả chửi mình không biết.
Nó có cái sự báo động là cái tưởng của con nó giao cảm với việc tương lai của thời gian sắp tới xảy ra, nó báo động cho con qua cái thân của con, qua cái giấc mộng của con cũng như qua cái tưởng.
Cho nên người chết, người ta nghĩ tưởng có linh hồn, không phải đâu! Khi mà mình nghe cái người này nói như vậy đó thì mình cứ nghĩ là ở trong đó khổ rồi này kia, chứ không phải đâu con.
(14:07) Cái từ trường của cái người chết nó vẫn còn, cái người kia dùng cái tưởng đó bắt gặp cái từ trường đó, nó nói lại như mấy người lên đồng nhập cốt, nói lại có cái đúng, có cái sai.
Hễ cái tưởng nó nhập đúng cái phần ý thức thì nó nói tâm lý.
Còn nó nhập đúng cái tưởng của nó thì nó bắt gặp cái từ trường của người thân của mình. Cái nhà con như thế nào, cái lu nước như thế nào, cái bếp như thế nào, cái cửa như thế nào, nó nói không sai. Tức là cái tưởng nó giao cảm, chỗ nào nó cũng biết hết, đó là cái tưởng. Cho nên mấy cái người gọi là lên đồng nhập cốt, cái tưởng nó nhập đúng thì…
Còn cái người mà nhập không được thì nó dùng tâm lý mà nó nói, cho nên nó gạt, không đúng.
Cho nên cái này người ta lầm tưởng, từ xưa tới giờ người ta lầm tưởng cho nó là cái linh hồn nhưng mà không phải! Cái tưởng của chúng ta làm ra.
Cho nên tất cả những cái này, khi mà chết rồi, vì cái luật của nhân quả: “Chết đây thì sinh kia”, chứ không có chờ 49 ngày để cầu siêu, cầu an gì hết. Mình cứ tưởng là cái linh hồn nó còn cho nên người ta mới cầu siêu, cầu an, làm tuần 7 ngày, rồi 21 ngày, rồi 49 ngày, rồi giáp năm, rồi 3 năm mãn tang… Kinh sách Đại thừa nó chia ra, nó làm cho vơi bớt cái tình thương của mình khi mà mất người thân. Cách thức theo kinh, nó là như vậy, nhưng mà sự thật ra cái điều cầu siêu, cầu an là không có.
Khi chết rồi, nó cứ theo cái nghiệp nó tương ưng chứ không còn linh hồn. Cái tưởng uẩn, cái ý thức của chúng ta nó bị tiêu diệt hết hoàn toàn. Trong thân chúng ta có 5 uẩn thì nó tiêu diệt không còn cái gì hết.
Nó chỉ còn cái từ trường.
Cũng như bây giờ con ngồi đây các con nói chuyện, cái hình ảnh các con nó lưu lại trong không gian này, nó không phải lưu lại ở chỗ này đâu mà nó lưu lại ở khắp cùng trong hành tinh của chúng ta, chỗ nào cũng có.
(16:08) Cho nên ví dụ như hình ảnh đức Phật, cái hình ảnh của đức Phật ở bên nước Ấn Độ, Ngài xuất gia ngài tu hành như thế nào thế nào, nó bây giờ nó còn nguyên mà ở đất nước Việt Nam vẫn thấy được, chứ không phải qua nước Ấn Độ mới thấy được hình ảnh của Phật ở đó, mà nó ở đây.
Cho nên 1 người mà tu có Tam Minh rồi, người ta dùng Thiên Nhãn Minh, người ta thấy được hình ảnh của đức Phật, hồi còn là 1 cái người thái tử, xuất gia như thế nào, thế nào, nó đều lưu lại. Cũng như bây giờ các con ngồi đây mà nếu ngày mai, ngày mốt, 1 tháng sau cái hình ảnh này mấy con đến, Thầy vẫn thấy. Như là có cái máy ảnh, người ta chỉ chụp lại cái thời quá khứ cách 1 tháng, 2 tháng, mấy con ngồi đây chụp lại lấy hình, mọi gương mặt mấy con đều hoàn toàn người ta lấy lại hết. Còn cái lời nói của mấy con thu lại nó không sai, mấy còn hỏi Thầy cái gì, Thầy nói gì đều y chang, không khác chỗ nào.
Đó là cái từ trường chứ không phải là cái linh hồn của chúng ta nó lưu xuất, cho nên mấy con bị lầm.
Tất cả những điều mà mấy con trình đều hoàn toàn (…) Mấy con nhớ cái ý thức của mấy con sẽ (…)
Ráng tu, mấy con, xả tâm! Rồi sau này mấy con sẽ biết, chứ còn Thầy giải thích thì mấy con cũng không hiểu nổi đâu. Nhưng mà Thầy nói cái từ trường, cái từ trường mấy con thấy, bây giờ đây là cái cục nam châm chứ gì, đây là cục sắt chứ gì mà nó có cái sức hút, phải không? Cái sức hút của nam châm đó là cái từ trường.
Cho nên cái nghiệp lực của mấy con, mấy con chết mấy con làm cái điều ác, nó trở thành cái nghiệp lực, người ta nói cái nghiệp lực nó tương ưng với ai thì nó hút cũng như là nam châm, cái từ trường nó hút, cái lực hút đó, các con hiểu chưa. Cho nên nó phóng xuất những cái hình ảnh, phóng xuất những cái hành động thiện ác của nó, nó luôn luôn giữ trong này, tương ưng là nó đi tái sanh, nó không có mất đâu.
(18:12) Cho nên những cái này là khi tu xong rồi người ta thấy đúng là từ xưa tới giờ không hiểu cho nên người ta mới có cái thuyết linh hồn, có cái thuyết thế giới siêu hình, mới có Thần, Thánh, Tiên, Phật, mới Trời, ông Thánh này, ông Thánh kia. Không có!
Chết rồi đều là tiêu tan, đều là tiếp tục tái sanh làm súc vật, làm con người hoặc làm loài động vật, nó không còn… Bởi vì nhân quả mà, nó chi phối liền tức khắc để cho mình thọ quả khổ chứ nó không để cho mình đứng yên 1 chỗ: 5, 10 ngày hoặc 49 ngày, hoặc 2 năm, 3 năm đâu. Không bao giờ có chuyện đó đâu! Nhân quả mà, nó liên tục.
Con thấy nó vô thường, nó thay đổi liên tục, bữa nay nó vầy chứ ngày mai thân con nó thay đổi hà, nó thay đổi từng chút, từng chút cho đến khi 5 năm, 10 năm sau mình mới hay là mình già, tóc mình bạc. Còn bây giờ nó thay đổi từng chút, mấy con không biết. Nó đang thay đổi từng sát na, từng giây từng phút, nó đang thay đổi, cái thân của chúng ta nó thay đổi, cho nên vì vậy đó mà phải ráng tu.
Những điều mà con hỏi, lần lượt rồi có dịp đọc sách Thầy, có dịp Thầy sẽ giải thích, lần lượt mấy con hiểu. Đó là cái thế giới mà từ lâu tới giờ chúng ta bị ảnh hưởng rất lớn, từ tổ tiên ông bà, nhiều tôn giáo đã truyền cho chúng ta tư tưởng về thế giới siêu hình, về linh hồn. Cho nên không phải 1 phút, 1 giây mà nói được, Thầy nói “tưởng” cho các con ráng hình dung được, để rồi lần lượt mấy con tự (…)
Phật tử: (…từ trường còn…)
(20:07) Trưởng lão: Còn chứ con, bởi vì cái từ trường nó còn chứ đâu có mất đâu. Cái cục nam châm nó hút cái cục sắt, nó hút hoài, nó còn hoài, con hiểu không? Nó tương ưng, nó cũng còn hút hoài hoài, nó đâu có phải là nó hết, nó mất đâu.
Cho nên tại sao đức Phật đã chết, mất, vào Niết Bàn rồi mà từ trường còn xuất ra, nó còn hoài. Lẽ ra nó đã vào Niết Bàn thì mất luôn hết thì giờ mình làm sao tìm, phải không? Cái này nó còn hoài nó không mất, cái hình ảnh này kia nó còn hoài. Nói cái từ trường thì nó không bao giờ biến mất, vì nó là sức hút. Trừ ra cái nam châm này nó hết hút. Mà bây giờ cái hút nó còn hoài.
Bởi vì con thấy người ta tham, sân, si thì nó hút quá trời mà, cái lực nó hút quá mà. Ai cũng tham, sân, si thì nó phải hút chứ sao. Các con thấy nó hút hoài làm sao mà nó hết được. Mà cái hình ảnh đức Phật ngày xưa nó còn tham, sân, si thì nó còn cái lực hút này chứ làm sao nó hết được, nó hút. Mà đức Phật đã nhập Niết Bàn rồi, đã không còn tái sanh luân hồi nhưng mà từ trường hồi đức Phật đi tu thì chưa hết tham, sân, si mà thì cái hình ảnh phải còn cho nên Thầy mới thấy cái mặt thật chứ còn cỡ nó đi mất thì biết Phật ra sao đây?
Cứ nhìn tượng mập như thế này! Thôi trời đất ơi! Phật gì mà mập quá trời như thế này!? Tu hành sao mập quá vậy! Nó sai! Do người ta tưởng tượng ra.
Rồi ông Phật ông cạo tóc, chứ ông dạy học trò cạo đầu mà ông lại để tóc quăn queo như thế này? Trời đất ơi! Thầy khác mà đệ tử thì làm sao đệ tử cạo tóc. “Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa”, Ông Phật đã dạy vậy rồi. Mình là Thầy của các vị Tỳ kheo rồi mà bây giờ mình không cạo tóc bảo nó cạo tóc nó chịu không? Phật để tóc thì tui cũng phải để tóc chứ làm sao Phật bảo tui cạo tóc, có phải không?
Cho nên có 1 câu chuyện mà đức Phật ngồi trong 1 khu rừng tu với chúng Tỳ kheo trong đó, trong cái mùa an cư kiết hạ thì cư sĩ phải mang cơm đến nơi họ phát cho từng vị tu sĩ chứ không phải là… Còn trong mùa an cư là quý thầy không đi nữa đâu, thì do đó mà nghe tiếng chân soạt soạt thì khi đó Phật đang trùm kín cái đầu của mình nghe tiếng chân soạt soạt mới giở cái y ra, đưa cái bát để cho cư sĩ sớt đồ ăn vô thì cái người cư sĩ mới: "À, đây là Gotama" - Gotama tức là đức Phật. Do đó mới thấy cái đầu trọc của ông, bởi vì lâu nay cái bài kinh nói đức Phật đầu trọc chứ rõ ràng đâu có quăn queo như vậy đâu.
(22:35) Thì bây giờ ông Phật để đầu quăn queo nó sai mất rồi, không được. Cho nên có những cái sai mà bây giờ chúng ta cứ chấp nhận cái sai. Từ cái hình ảnh của đức Phật đã sai mà giờ không có làm sao sửa nổi. Rồi bây giờ trong thư viện của Anh quốc mới đưa ra cái hình mà bảo rằng ông Phú Lâu Na đã vẽ đức Phật còn đang tu là 1 vị Bà la môn, đeo 1 chiếc khâu ở tai và trên đầu thì râu ria. Sự thật ra đức Phật “cạo bỏ râu tóc” mà làm sao ông Phật không “cạo bỏ râu tóc” mà còn đeo chi cái khâu nữa thì như thế này sai pháp Phật rồi, như vậy cái hình này đâu phải hình Phật. Ta thấy cái hình dáng đó là ta biết phạm giới luật rồi, không đúng lời Phật dạy. Ông Phật là cái người gương hạnh, mình phải dạy cái đó mình phải làm trước chứ.
Cũng như Thầy giờ dạy mấy con sống trong giới không ăn phi thời mà Thầy ăn phi thời, bảo mấy con ăn 1 bữa được sao, có phải không? Thầy phải làm gương chứ. Do đó Thầy biết những hình ảnh đó đều là những hình ảnh giả thôi. Cũng nói được trong cái thư viện của Anh quốc đã để lại những hình ảnh quá xưa thì sự thật ra cũng là cái bịa của người ta thôi chứ không phải.
Giới luật Phật còn, kinh sách Phật còn, lời dạy của đức Phật còn đó mà dám bịa ra cái hình ảnh mà đức Phật, làm cho người ta in ra mọi cái hình ảnh đem về thờ, người ta tưởng đó là thật. Bởi vì đó là 1 vĩ nhân, 1 ân nhân của nhân loại mà làm sao họ không tin mấy con. Người ta nghe nói hình ảnh của Phật là người ta quý trọng vô cùng.
(24:20) Mà hiện giờ 1 mình Thầy làm sao mà Thầy thu lại cái hình của đức Phật thật mà Thầy nói được. Chứ bây giờ Thầy nói, chừng 5, 10 người mà tu chứng quả Alahán rồi coi, Thầy thấy vậy, con tu chứng cũng thấy vậy, mọi người tu chứng cũng thấy vậy, chúng ta sẽ vẽ lại hình đức Phật ngày xưa - ân nhân của chúng ta mà. Làm gì mà chúng ta để quên cái hình ảnh này được, mà hình ảnh nó còn lưu lại chứ đâu phải mất đâu, coi thử coi hình ảnh đó như thế nào. Các con thấy bây giờ Thầy chỉ mong các con tu làm sao vẽ lại được rồi chúng ta mới thật sự thấy, qua cái từ trường đó (…)
Phật tử: (…)
(25:05)Trưởng lão: Rồi Thầy sẽ in sách cho mấy con đọc. Đó cũng là cái duyên mấy con, nếu không có cô ấy thì mấy con cũng không biết Thầy đâu. Cái duyên thì nó ở đâu không biết nhưng nhờ duyên thì nó sẽ gặp nhau. Lần lượt rồi mấy con gặp nhau hết. Bởi vậy Phật pháp phải dựng lại, dựng lại để đem lại lợi ích. Rốt cuộc rồi mọi người sẽ gặp nhau trên cái điểm chung, điểm đạo đức, chỉ có vậy thôi.
Phật tử: (…)
Trưởng lão: Con bảo: “Cái tâm quay vô đừng có bung ra ngoài nữa!”, mà giờ nó còn quay ra thì con bảo: “Quay vô không có được ra ngoài nữa!”. Con nhắc riết thời gian sau nó có đủ cái lực, con nhắc cái nó quay vô luôn.
Bây giờ thì nó cứ lôi ra, lôi vô, nó không chịu. Mình cứ nhắc, phương pháp tác ý là phương pháp làm cho nó rời ra, nó không được bám ra ngoài. Cứ bền chí. Cũng như cái thọ của mình, cái đau trên thân của mình, coi vậy chứ bền chí mình vẫn có thể đuổi nó được mấy con. Một lần tác ý, 2 lần chưa được, phải bền chí. Cái gì mình kiên trì bền chí thì… cái phương pháp của Phật mà bền chí tập luyện sẽ đạt được kết quả.
Phật tử: (…)
Trưởng lão: Thì cái đó tùy theo đặc tướng của con. Ví dụ như 1 cái câu gì đó, con sẽ hỏi riêng về phần này. Bây giờ Thầy dạy chung, mọi người nghe chung thì áp dụng nó trật đi. Riêng với con thì con hỏi riêng Thầy, bây giờ cái trạng thái đó, con có cái trạng thái, còn mấy người ta không có trạng thái đó, Thầy nói người ta nghe rồi, người ta thấy không đúng đặc tướng. Còn cái chung chung là Thầy sẽ dạy con “tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự” thôi. Còn riêng thì phải nhấn mạnh ngay cái chỗ cá nhân riêng mình. Khi mà học riêng Thầy sẽ dạy cho trạng thái đó để hiểu, cụ thể thực tế nữa. Thầy dạy theo đặc tướng mà.
Phật tử: (…)
(28:01) Trưởng lão: Được, cứ tập. Có việc gì cứ báo Thầy, Thầy ở đây mà có gì đâu mà sợ, có gì cứ báo… Đâu có xa lắm đâu. Về nhà 3, 4 …
Phật tử: (…)
Trưởng lão: Con phải nhiếp tâm, xả tâm theo…
Phật tử: (…)
Trưởng lão: Không cần tu. Bốn cái đó mình tu đã nhuần nhuyễn. Bây giờ mình qua giai đoạn xả tâm. Khi mà thọ Bát Quan Trai, cứ giữ xả tâm mình tu. Không tu thêm 4 cái pháp kia nữa.
Trừ ra khi nào có hôn trầm, thùy miên thì sử dụng, áp dụng vô thôi, còn không thì đừng áp dụng. Chỉ xả tâm thôi. Cho nên càng tu thì càng đi tới chứ đâu cứ giậm chân hoài, mấy pháp đó hoài thì chừng nào tới. Pháp của Phật 37 phẩm trợ đạo, 37 pháp tu. Cho nên mình tu 1 thời gian pháp này thuần thục rồi thì mình tiến tới tu pháp khác. Thầy dạy các con cứ tiến dần tới các pháp mới không hà, không phải pháp cũ. Thầy thấy được cái chỗ này rồi dẫn dắt con tới cái pháp mới không. Để rồi mấy con thực hiện cho đúng là xả tâm rốt ráo.
Thôi bây giờ còn gì hỏi, không thì Thầy về.
Mấy con ráng, có duyên…
Mấy con còn về thành phố nữa phải không?
Phật tử: (…)
Trưởng lão: Ở đây có nhà đủ mấy con. Mỗi đứa phải tập ở riêng 1 cái nhà, không có được ở chung, ngồi riêng 1 mình.
Nếu mà sợ ma thì ngồi đó mà gồng người lên: “Có ma gì đâu mà sợ!”, các con sẽ hết sợ ma. Mọi người nhà gần bên, ma có đâu mà sợ.
Phật tử: Thưa Thầy cho tụi con thăm Tu viện.
(30:10) Trưởng lão: Rồi, chừng nào mấy con sắp về Thầy sẽ đưa vào trong đó thăm Tu viện.
Cũng như mai mấy con về, hôm nay Thầy sẽ dẫn mấy con đi thăm hết cái Tu viện, các con sẽ thăm các khu vực trong đó, thăm Tu viện cho biết Tu viện, 150 mấy cái thất chứ đâu ít đâu, 150 mấy cái nhà nhỏ nhỏ như thế này…
(32:27) Cứ cái kiểu này phải mua đất cất thêm, bây giờ ít chứ sau này đông lắm, sau thành cái làng Nguyên Thủy luôn đó chứ.
Phật tử: Thưa Thầy sau khi con về nhà, hoàn cảnh con ở xa, mới đầu con tu tập như thế nào?
Trưởng lão: À, mới đầu con sẽ tu cái tập thọ Bát Quan Trai đó con, bốn cái pháp: Đi kinh hành- Chánh Niệm tỉnh giác, rồi tu Định Vô Lậu- quán xét tư duy, suy nghĩ hoặc đọc kinh sách để mình triển khai cái tri kiến của mình đó là Định Vô Lậu, rồi Định Niệm Hơi Thở tập cho nó quen dần với những hơi thở, rồi Định Thân Hành Niệm mình đi trên pháp Thân Hành Niệm. Đó là những cái pháp con cần tu tập khi Thọ Bát Quan Trai. Phải tu tập mấy cái căn bản của mấy con, mới vào tu tập cho nó quen với cái pháp đó.
Rồi sau này khi xả tâm, có cái chướng ngại nào đó thì mình áp dụng vào cái pháp mình đã tu ở trên thọ Bát Quan Trai để mình phá những cái chướng ngại đó.
Chứ còn mình không biết, mình vô mình tu xả tâm, rồi đến kỳ gặp chướng ngại mình không biết lấy cái pháp nào để phá nó đây thì coi như là mình chưa có qua cái lớp cơ bản. Có lớp cơ bản cho nên khi mình lên cao mình gặp nó, gặp chướng ngại gì đó mình lấy cái pháp đó mình phá, đem lại cái sự bất động, cho tâm mình thanh thản.
Cho nên mình phải tu trong Bát Quan Trai, mấy chị em đã tu Bát Quan Trai quen rồi hướng dẫn nhau tu tập được. Thọ Bát Quan Trai, có 4 pháp tu mấy con.
Sau này Thầy sẽ mở cái khóa thọ Bát Quan Trai, rồi bắt đầu Thầy vô dạy mấy con cách thức đi kinh hành như thế nào, để tỉnh giác làm sao, rồi quán vô lậu như thế nào, còn bây giờ thì chưa có cái lớp vì chưa có mở thôi.
Thì con hỏi chị em, người nào biết tu, dạy cho mình tập trước, vậy nghe con. Đợi Thầy mở cái khóa tu rồi chừng đó Thầy cho biết cái ngày nào, giờ nào đó tu thì mấy con sẽ lên đó…
Thôi, mấy con xá Thầy thôi. (34:49)
HẾT BĂNG
ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN NHÂN QUẢ 03 - NHÌN ĐỜI BẰNG ĐÔI MẮT NHÂN QUẢ
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời lượng: [39:20]
(00:00) Trưởng lão: Nhưng trước khi để trả lời những câu hỏi của Chơn Huệ thì Thầy sẽ nhắc lại có một cái điều mà hầu như là Thầy rất là tha thiết, mong cho có một cái ngày nào đó để được rảnh rang mà mình ghi lại cái Đạo đức nhân quả, để hầu giúp cho con người ở trên cái thế gian này để thoát ra cái cảnh khổ của cái nội tâm của họ, và họ tạo được cái nhân lành để tạo cái quả phước họ sẽ hưởng.
Nhưng vì không có cái thời gian, vì hiện giờ thấy những người mà tu theo đạo Phật nó có những cái sai, cái lầm lạc mà không ngay cái chỗ sai lầm lạc này để sửa đổi mà đi giảng cái Đạo đức nhân quả thì nó lại xa lìa cái thực tế của những vị tu sĩ. Cho nên Thầy chỉ mong ngày nào đó, có một cái dịp mà Thầy sẽ soạn lại cái giáo trình cái Đạo đức nhân quả, cái đạo đức mà mình không làm khổ ai mà cũng không làm khổ mình, cái đạo đức thật là tuyệt vời của đạo Phật. Phật đã khám phá ra được cái đạo đức đó nhưng người ta không triển khai nổi cái đạo đức đó, để giúp cho con người thoát ra cảnh khổ.
Nói chung con người sanh ra trong cái cuộc đời này chắc chắn ai cũng chịu khổ, có ai là người không chịu khổ. Cho nên nhiều khi người ta đặt cái câu hỏi: “Con người từ đâu sanh ra, chết rồi đi về đâu, sống để làm gì?” Ở trong thế gian này chỉ một trăm năm rồi cứ mãi tiếp diễn từ cái thân một trăm năm này hoặc sáu mươi, bảy mươi năm rồi lại chết, rồi lại tiếp tục nữa và cứ như vậy để làm gì, có ích lợi gì mà cứ mãi lăn lộn trong cái luân hồi như vậy?
Ở đây thì Thầy chỉ trả lời qua một người Phật tử có cái tâm trạng đau buồn. Khi hiểu được cái tâm trạng đó thì Thầy có lấy một vài khía cạnh nhỏ của Đạo đức nhân quả mà có lời khuyên cũng như Thầy khuyên chung các thầy và các con ở đây.
(02:17) Đây là cái bài mà Thầy khuyên đây:
“Con người từ nhân quả, sống trong nhân quả, chết về nhân quả.”
Nếu mà đọc cái câu như vậy thì người ta rất là khó hiểu, nếu mà không có Thầy dạy giảng ra thì rất khó hiểu.
Con người từ nhân quả sanh ra. Vậy thì chúng ta biết từ nhân quả sanh ra là như thế nào mà sanh ra? Nhân quả thì chúng ta biết rằng cái đường đi của nhân quả nó sẽ diễn biến ở trong cái thân hành, khẩu hành và ý hành. Cái ý hành là cái ý mình khởi mình muốn, ham muốn cái này, ham muốn cái kia đó là ý hành. Còn cái khẩu hành là cái lời nói mình nói ra và cái thân hành là cái hành động làm của mình. Đó là từ ba cái chỗ đó là cái con đường, diễn biến cái con đường hành động, con đường của nhân quả đi. Cho nên nói rằng con người từ nhân quả, thực sự chúng ta chết đi rồi không còn có gì hết, hoàn toàn do từ nhân quả sanh ra.
Nếu cha mẹ chúng ta không có một cái hành động vô minh trong cái tình ái thì hai người này làm sao mà kết duyên, rồi làm sao mà ở với nhau mới sanh chúng ta ra? Do hành động vô minh đó, tưởng đó là cái hạnh phúc không ngờ đó là một cái hành động vô minh. Cho nên Phật nói vô minh mới sanh hành. Do cái sự vô minh không hiểu, tưởng là ái dục là một cái hạnh phúc. Cho nên họ mới tìm đến nhau để rồi gặp nhau, họ mới có hành động sai lạc đó để đem ra cái nỗi khổ của con người. Từ đó mới là có cái hành động vô minh sanh hành, do cái hành động sai đó, nó mới có cái thức. Thấy không? Do đó nó mới có cái thức chứ không phải cái thần thức nó đã có sẵn ở đâu nó chui vào đó để mà đầu thai.
(04:03) Cho nên do cái hành động vô minh của cha mẹ mình mới có mình đây. Nếu cha mẹ mình mà sáng suốt thông minh biết chỗ ái dục đó là khổ, họ chấm dứt ngay thì làm sao có chúng ta đây? Làm sao có nhân quả tiếp tục mà để có chúng ta? Thì từ đó con người sẽ tái sanh bằng cách nào? Bằng cách hóa sanh chứ không phải bằng cách ở chỗ nhân quả.
Đó thì hôm nay Thầy nói để chúng ta biết rằng con người từ nhân quả sanh. Rõ ràng là hành động do vô minh chúng ta tham dục, tham ái cho nên nó mới sanh chúng ta chứ còn không có tham dục, tham ái làm sao sanh chúng ta được? Thì cái hành động, cái sự không hiểu biết gọi là vô minh. Do cái sự vô minh đó không biết nên mới lầm chấp cho nên vì vậy mới chạy theo, cho đó là hạnh phúc nhưng cuối cùng lại sanh ra một người thứ hai, thứ ba, thứ tư đều là thọ khổ. Chúng ta sanh ra làm người chúng ta thấy có vui không? Mà tại sao cha mẹ lại sanh bao nhiêu người để cho nó khổ như thế này? Sao lại không chấm dứt cái nỗi khổ đó đi? Lại còn ham muốn làm gì để cho khổ cả bao nhiêu người? Có đứa con nào mà sanh ra đời mà nó nói tui hạnh phúc, tui sanh ở thiên đàng đâu? Đều không có.
Đó thì ở đây Thầy đại khái để chúng ta thấy con người từ nhân quả sanh ra đó. Cho nên Thập nhị nhân duyên rất rõ ràng.
Giờ Thầy nhắc lại hầu hết là các thầy giảng về Thập nhị nhân duyên chia làm ba thời gian. Thời gian từ quá khứ, rồi cái thời gian hiện tại và cái thời gian tương lai. Mười hai nhân duyên này chia làm ba thời như vậy là mấy người đó giảng kinh pháp, Phật pháp không thông suốt. Mà hầu hết Thầy thấy các cái bảng mà giảng về Thập nhị nhân duyên đều là chia ba thời hết.
Mười hai nhân duyên nó hợp lại để nó thành cái thân của chúng ta, nó không phải ở trong ba thời đâu mà ngay trong hiện tại này. Mười hai nhân duyên xác định cho chúng ta biết rằng cái cuộc sống của chúng ta giống như là cái thân ngũ uẩn. Bởi vì ngũ duyên là ngũ uẩn mà Thập nhị nhân duyên là mười hai nhân duyên. Mà hai mươi mốt duyên có bài kinh dạy hai mươi mốt duyên, hai mươi ba duyên nữa chứ không phải là có Thập nhị nhân duyên không.
Cho nên trong kinh đức Phật dạy chúng ta là do duyên hợp, mà bây giờ duyên hợp nó mới trở thành ra cái thế giới khổ. Đó là cái nhân duyên.
(06:09) Vì vậy mà cái sự giảng về Thập nhị nhân duyên hầu hết là các nhà học giả đều là giảng sai hết, đã chia cắt nó ra. Cho nên không thấy cái câu đức Phật nói: “Sanh đã tận, phạm hạnh mới xong”. Người ta chia cái Sanh với cái Lão, Bệnh là cho nó ở cái vị lai chứ không phải ở trong hiện tại. Mà chính trong hiện tại mà nếu mà cái đời sống của chúng ta, Sanh là cái đời sống mà họ nghĩ là cái sanh tử rồi, thì đó đó là cái sai của họ. Cho nên vì vậy mà cái duyên Sanh mà đoạn dứt thì mình mới chấm dứt được cái Bệnh, Tử. Còn bây giờ người ta đứng ở trên cái vô minh, người ta đứng ở chỗ Vô minh để người ta đi tìm cái Minh, để người ta phá cái Vô minh đi để người ta giải quyết tất cả những duyên khác thì cái này nó không đúng con đường của Phật pháp.
Phật pháp nói ngay vô đầu, một cái người mà “cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa sống không gia đình, không nhà cửa”. Rõ ràng là cái người muốn đi theo đạo Phật là đã duyên Sanh đã đoạn đó. Sống không gia đình, không nhà cửa nghĩa là sống không có bà con, không có người thân. Không gia đình nghĩa là không có vợ con đâu, mà không gia đình có nghĩa là cắt đứt tất cả những cái Ái kiết sử. Ái kiết sử tức là cha mẹ, anh em, chị em cắt đứt hết, hoàn toàn không còn thương nhớ, không còn gì nữa hết, bình thường như những người xa lạ khác như vậy. Chứ không có thấy cái gì đó là của mình, là con của mình, là vợ của mình, là cha của mình, là mẹ của mình nữa thì như vậy mới gọi là không gia đình. Không nhà cửa là không của cải tài sản. Bởi vì cái người tu sĩ “đắp áo cà sa, cạo bỏ râu tóc” có nghĩa là đức Phật nói làm cho mình xấu đi, không có còn làm cho mình đẹp nữa. Sống không gia đình tức là không có nhà cửa, không anh em, không có ruột thịt ai hết. Hoàn toàn bơ vơ, cô đơn, một mình mình là sống không gia đình. Sống không nhà cửa là không có của cải, có nhà cửa mới có của cải, không nhà cửa thì lấy đâu mà đút của cải vô đó.
Và cái đoạn kinh đó để chỉ cho chúng ta là “Sanh đã tận”. Một cái người mà “Sanh đã tận thì Phạm hạnh mới xong”, cho nên giới luật đức hạnh mới có trọn vẹn. Còn cái người mà Sanh không tận thì không thể nào giữ trọn được.
(08:18) Đó là giải thích về cái phần mà con người từ nhân quả sanh ra. Đó thì chúng ta mới thấy, đây Thầy mới nhắc lại vì từ nhân quả sanh ra thì chúng ta mới nói: “Vô minh sanh Hành, Hành sanh Thức” đó, bắt đầu người ta mới có con người đó. Vì vậy bây giờ chúng ta mới thấy rõ.
Và giờ chúng ta đang sống, sống trong nhân quả. Cái câu kế:
“Con người sanh ra từ nhân quả, sống trong nhân quả, chết về nhân quả”.
Vậy thì chúng ta sống trong nhân quả, chúng ta có thấy nhân quả không. Hằng ngày nói ra, hằng ngày hành động, hằng ngày suy nghĩ - những cái điều mà suy nghĩ thiện hay ác trong đầu chúng ta đều là nhân quả hết. Nhân thiện hay hoặc là nhân ác, quả thiện hay quả ác nó tiếp diễn cho chúng ta thấy rất rõ. Nếu thiện thì chúng ta vui mừng, thích thú, thương yêu còn ác thì chúng ta thọ lấy cái quả buồn khổ, rầu rĩ, đói khát, rách rưới, bệnh tật, đủ cách tai nạn này tai nạn khác. Đó là những cách đó gọi là quả.
Cho nên chúng ta đang sống ở trong cái nhân quả, hằng ngày chúng ta diễn biến những cái nhân mới mà thọ những cái quả kế tiếp đó của những hành động đó chứ đâu có gì khác hơn. Mình chửi người, thì vừa chửi người thì lời nói của chúng ta thoát ra thì ngay đó người ta tức giận người ta chửi lại mình, người ta đánh mình thì đó là quả. Rồi mình giận mình tức, mình chửi người ta, người ta tức quá người ta lại đập mình thì cả hai đều đi nằm nhà thương hoặc chết rồi đi tù tội. Đó là những diễn biến của nhân quả để tiếp tục giữa hai người.
Thì chúng ta thấy rõ trong gia đình cũng vậy: cha mẹ, anh em, chị em,.. cũng vậy cãi cọ nhau cũng đều là diễn biến của nhân quả. Đời trước đã vay nhau đời nay sanh ra gặp nhau ở trong cái môi trường như thế này để vay trả nhau cho hết. Thế mà mọi sự xảy ra thì mình lại vay thêm, vừa trả mà vừa vay, nhiều khi vay còn nhiều hơn nữa để làm gì, để luôn luôn đời chúng ta quá khổ, càng khổ.
(10:16) Đó thì chúng ta đang sống ở trong nhân quả của chúng ta, rồi chết đi về nhân quả. Khi tất cả những cái diễn biến ở trong nhân quả, cuộc sống của chúng ta để lại cái môi trường nhân quả cho nên chúng ta phải trả cho nhân quả chứ sao. Vì vậy mà chúng ta chết thì về nhân quả, vì hành động nhân quả nên phải về nhân quả, đâu có chạy theo khỏi về nhân quả đâu. Cho nên khi bỏ thân này thì nó phải có cái nghiệp lực của nhân quả đó, thiện thì nó thúc đẩy chúng ta hướng vào cái phước, mà ác thì nó hướng chúng ta vào cái cảnh giới sanh ra làm cho cuộc sống quá vất vả cực khổ, nghèo đói hoặc là thành những loài chúng sanh, bàng sanh rất là khổ đau.
Cho nên ở đây mấy câu đầu, Thầy chỉ diễn tả sơ cho chúng ta biết là cuộc sống của con người từ sanh ra thì nhân quả, ở trong nhân quả sanh ra, rồi sống trong nhân quả, rồi chết về nhân quả. Khi mà chúng ta bỏ thân này thì cái duyên nghiệp thì nó sẽ đi ngay vào cái, người ta gọi là cận tử nghiệp đó. Cái cảnh cận tử nghiệp đó nó hiện ra tức là cái nghiệp lực cuối cùng để mà đưa chúng ta đi vào cái nhân quả để tiếp tục tái sanh.
Thì chúng ta thấy rõ ràng con người chỉ diễn biến ở trong ba cái hành động đó trong một cuộc sống của con người để mà khổ, vui có vậy thôi, có gì đâu mà quý.
Cho nên cái câu kế để chúng ta thấy rõ ràng hơn nữa, ở đời ai cũng tự làm khổ mình, khổ người là tự mở cửa địa ngục cho mình. Nghĩa là mình nói một lời nói, người khác nói một lời nói, rồi hai người cãi cọ nhau thì tức là mở cửa địa ngục cho mình bước và người kia bước theo xuống mà không biết. Đó là những người vô minh, nghĩa là những người không sáng suốt, không có thấy cái địa ngục. Không nghĩa là chúng ta mở cửa địa ngục là chúng ta đi xuống lòng đất này, ở dưới đó có Diêm Vương, nó có quỷ sứ, ngưu đầu mã diện gì đó. Thực sự ra cái địa ngục mà đức Phật đã chỉ cho chúng ta biết là ngay cái tâm giận hờn, đau khổ, phiền toái của chúng ta, đó là địa ngục.
(12:18) Cho nên chúng ta đã tự một cái lời nói, một cái suy nghĩ trong đầu chúng ta, nó làm cho chúng ta đau khổ, ray rứt, hận thù ở trong lòng thì đó là địa ngục ở trong lòng của chúng ta rồi. Nó đã mở cửa cho chúng ta bước vào rồi, nó đang hành hạ chúng ta, nó đang đâm giết chúng ta từng phút, từng giây đó.
Đó là những người vô minh sống theo tự ngã nghĩa là mình biết có cái ngã của mình thôi, đó là mình sống theo tự ngã, không thấy được đâu là chơn hạnh phúc, đâu là giả hạnh phúc. Nghĩa là mình chạy theo cái giả hạnh phúc mà mình tưởng là chơn, cho nên càng chạy theo nó thì mình càng thấy khổ đau, khổ đau mãi. Mình không thấy cái chơn hạnh phúc như thế nào, mà mình cứ chạy mãi mình tưởng là cái chơn hạnh phúc, đâu ngờ đó là cái giả hạnh phúc.
“Đời người thường bỏ mồi bắt bóng vì thế phải chịu nhiều đau khổ.”
Mình tưởng cái bóng hạnh phúc đó, mình thấy cái hạnh phúc đó, mình ước ao để làm được cái đó nhưng mình chạy tới thì cái bóng là cái bóng chứ không thể nào cái thực. Cho nên vừa đây chớp được cái hạnh phúc thì nó lại là một cái cuộc đau khổ. Cho nên cái mồi giải thoát mà chúng ta không thấy, nó gần bên mình mà cứ nhìn cái bóng, cái bóng đó tưởng là hạnh phúc, tưởng là an vui, để nếm cái mùi đó, để cho biết ngon ngọt của cái mùi đó nhưng không ngờ đó là cái bóng, không thế nào nếm được cái mùi hạnh phúc đó được.
“Từ nhân quả sanh ra nên mang thân này phải chịu luật nhân quả.”
Nghĩa là mình ở trong nhân quả, tức là cái hành động nhân quả đó sanh mình ra, nên cái thân mình là cái thân nhân quả rồi, cho nên mình phải chịu cái luật của nhân quả. Cho nên vì vậy mà có cái thân người thì phải thọ khổ, thọ vui hoặc là cho người ta thọ ba cái thọ: vui, khổ, hoặc là không khổ, không vui. Đó là ba cái thọ của nó, nó cho người ta sống ở trong ba cái thọ đó.
(14:15) Do cái chỗ mà cái luật nhân quả nó chi phối như vậy đó, cho nên chúng ta điên đảo, chúng ta cứ tìm cái thọ lạc, đi tìm cái thọ lạc mà sợ hãi cái thọ khổ.
“Vậy mà mọi người điên đảo lầm chấp ngã và ngã sở”.
Ngã là cái gì? Là thân, là tâm, là cái thọ của mình, là cái biết của mình cho nó ngã. Còn ngã sở là những vật xung quanh nó, bà con ruột thịt, anh em, dòng họ của mình, đó là ngã sở. Những cái bàn, cái ghế, cái tủ, cái gương đều là ngã sở, cái vật xung quanh mình đều là ngã sở. Vì vậy mà mất một cái vật đó thì mình thương tiếc. Ví dụ như cha mẹ mình chết thì mình thương tiếc, mình khóc lóc, mình thấy như mất cha mất mẹ, mình đau khổ. Đó là mình mất cái ngã sở. Như vậy mình thấy rõ ràng những cái này đều là một cái giả tạo, nó không có thật, mà mình khi mà thấy chết, thấy mất đi thì mình tiếc, mình thương, mình đau khổ. Đó là mình điên đảo.
Cho nên ở đây Thầy nói mọi người điên đảo lầm chấp. Thầy thấy rằng có người mẹ nào, có người con mà mẹ chết mà không khóc bao giờ, thực ra họ điên đảo vô cùng. Trong thời đức Phật có một số Tỳ kheo tu theo đức Phật nhưng chưa đạt thành, khi đức Phật tịch, quý vị đó khóc than, kể lể vô cùng. Đó là những người còn tâm trạng thế gian, còn ngã sở cho nên chưa có bỏ cái ngã sở. Vì thế phải chịu nhiều khổ đau và lăn lộn mãi trong sanh tử luân hồi do cái chỗ chấp ngã và ngã sở này. Vì thế mà họ phải chịu nhiều cái sự khổ đau trong cuộc đời của họ. Và luôn luôn đời này đến kiếp khác, họ luân hồi mãi, không bao giờ mà xả ra.
Đây là lời khuyên của Thầy:
“Hãy buông xuống, buông xuống sạch. Hãy từ bỏ và xa lìa hết mọi pháp để tự cứu mình ra khỏi phong ba, bão táp của cuộc sống. Hãy đòi lại quyền làm chủ sanh tử luân hồi. Hãy đoạn dứt nhân quả để chấm dứt tái sanh. Ấy là người trí, người thông minh”.
Nếu chúng ta là người trí, người thông minh thì chúng ta phải bỏ xuống hết. Đời này không có vật gì mà chúng ta chết mà mang theo được hết. Không có vật gì mà quý giá bằng chúng ta làm chủ được sự sống chết của chúng ta.
(16:27) Cho nên chúng ta phải bỏ xuống hết, bỏ xuống hết từ cha mẹ, anh em, vợ con thân thuộc, bỏ xuống hết. Chúng ta chết họ không cứu chúng ta được, chúng ta chết họ không làm sao được. Chúng ta đau, họ không đau thế chúng ta được. Chúng ta có sự lo lắng, sợ hãi họ cũng không lo lắng sợ hãi cho chúng ta được. Cho nên chúng ta hãy bỏ xuống hết, bỏ xuống hết.
Ở đây Thầy khuyên hãy bỏ xuống, buông xuống hết, buông xuống sạch hết. Từ bỏ hết và xa lìa hết mọi pháp. Mọi pháp đây là chỉ các pháp, pháp đây không phải là Tứ Diệu Đế, Tứ Thánh Định hay hoặc là Tứ Niệm Xứ. Mà pháp ở đây là chỉ cho những cái gì ở xung quanh của chúng ta gọi là ngã sở đó - cha mẹ, anh em, nhà cửa, tiền bạc, của cải, con cháu, tất cả mọi thứ cái vật gì đều là có thể gọi là pháp.
Cho nên Thầy bảo phải xa lìa hết mọi pháp để tự cứu mình, nếu mình xa lìa được còn ba y một bát, sống không nhà, không cửa, không người thân thì mình mới tự cứu mình được.
Chỉ có con đường của đạo Phật, sống như vậy mới có thể thoát ra khỏi cảnh khổ của cuộc đời này.
“Để tự mình cứu ra khỏi phong ba, bão táp của đời sống. Hãy đòi lại quyền làm chủ sanh tử luân hồi”.
Tức là mình sống mà được như vậy là đòi lại quyền làm chủ.
Còn mình sống mà chưa được như vậy, chưa buông xả thì cái quyền làm chủ đó mình bị cái nhân quả luân hồi này, cái quyền làm chủ đó nó sẽ giao cho cái luật tự nhiên của nhân quả, nó làm chủ chứ chúng ta không làm chủ được.
“Hãy đoạn dứt nhân quả”.
Nghĩa là chấm dứt nhân quả, không có để cho nhân quả diễn biến. Thí dụ như cái tâm mình ham muốn ăn miếng ăn thì đó là cái nhân quả, cái nghiệp nhân quả nó thúc đẩy chúng ta ham muốn cái đó, do đó chúng ta chấm dứt không có làm theo cái muốn đó được. Vì vậy chúng ta sẽ chấm dứt tái sanh luân hồi, đó mới là người trí người thông minh.
(18:20) “Muốn sống cuộc đời an vui, đầy hạnh phúc thì hãy nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả thiện ác”.
Nghĩa là chúng ta muốn cho đời sống của mình an vui, hạnh phúc thì hãy nhìn bằng đôi mắt nhân quả thiện ác. Tại sao vậy? Tại sao mình nhìn bằng đôi mắt nhân quả thiện ác? Vì thiện là không làm khổ mình, không làm khổ người. Mà ác thì làm không khổ mình thì làm khổ người, hoặc là làm khổ mình, khổ người hoặc làm khổ mình mà người không khổ. Thì đó là chúng ta mới nhìn bằng đôi mắt nhân quả thiện ác.
“Nếu không vậy đời sống sẽ là địa ngục”.
Nếu mình không có nhìn bằng cái đôi mắt nhân quả thiện ác thì đời sống của mình là địa ngục. Nếu mình không có nhìn bằng đôi mắt nhân quả thiện ác thì đời sống của mình nó là địa ngục, nó đau khổ không bao giờ hết.
“Từ lâu con và anh chị em con đã điên đảo, tự mở cửa địa ngục để sống trong cảnh đen tối giận hờn, oán ghét v.v… Có ích lợi gì phải không con? Sanh ra làm người vốn đã khổ, khổ vì sanh, già, bệnh, chết”.
Nghĩa là đã sanh, già, bệnh, chết rồi, mình mang cái thân của mình thì có cuộc sống rồi, nó đã khổ rồi. Bây giờ già, cuộc sống của mình giờ cơm không có ăn cũng khổ, áo quần không có mặc cũng khổ rồi. Đó là đơn sơ cho hai cái vậy đã khổ rồi, già cũng khổ, bệnh cũng khổ, chết cũng khổ.
Thế mà chúng ta lại điên đảo, lại còn hơn thua, lại còn nói lời qua tiếng lại để cho chúng ta đau khổ nhau nữa sao? Đã khổ rồi thế mà còn khổ thêm nữa sao? Thế sao ta lại mê mờ, điên đảo, lại tạo thêm cảnh khổ đau nữa? Thay vì chúng ta phải chấm dứt để chúng ta chiến đấu với những cái khổ mà đã có sẵn: sanh, già, bệnh, chết này. Có đâu bây giờ chúng ta lại tạo thêm những cảnh khổ khác để rồi chúng ta không chấm dứt cái giặc sanh, già, bệnh, chết mà lại còn tạo thêm những sự đau khổ khác thì quá là sự đau khổ.
(20:16) “Do sống trong nhân quả mà không thấy nhân quả để nhân quả chi phối và sai khiến ta làm mọi điều ác và thiện. Tạo nên nhân quả này nối tiếp nhân quả khác, chồng chất lên nhau mọi sự đau khổ. Bởi thế ta phải làm gì bây giờ?”
Biết nó như vậy rồi bây giờ chúng ta làm gì đây? Xưa đức Phật đã dạy:
- Một: “Những gì cần dứt bỏ ta hãy dứt bỏ”. Dứt bỏ để an vui thanh thản. Nghĩa là bây giờ mình thấy cái gì mà cần bỏ thì mình hãy bỏ hết để cho mua lấy một cái tâm hồn an vui, thanh thản, một giá trị tuyệt vời, một cuộc sống không có một cái gì mà mua chác mà đổi được. Sự an vui, thanh thản này chỉ có người biết vứt bỏ thì mới có thể thanh thản, an vui được.
- Hai: “Những gì cần trau dồi thì nên trau dồi”. Trau dồi có nghĩa là để cho thân tâm mình toàn thiện, hay thành thiện. Bây giờ mình thấy nhiều cái nó làm cho mình đau khổ thì biết là ác pháp. Cho nên bây giờ mình trau dồi nó để cho tâm mình trở thành cục đất không còn phiền não, không còn đau khổ nữa thì nó là thành thiện rồi đó.
- Ba: “Những gì cần tu tập nên tu tập”. Hồi nãy là trau dồi, bây giờ tu tập. “Những gì cần tu tập nên tu tập”. Tập luyện để thân tâm thấm nhuần trong thiện pháp. Hồi nãy để cho nó thành thiện, bây giờ tập cho nó thấm nhuần ở trong những cái thiện pháp. Để làm gì? Để cho chúng ta được an vui và thanh thản, an lạc.
- Bốn: “Những gì cần học tập nên học tập”. Hiểu biết những điều cần thiết để không còn đau khổ. Nghĩa là cuộc đời chúng ta nhiều khi học nhiều quá mà không cần thiết cho cái sự an vui, thanh thản trong tâm hồn của mình. Cho nên có nhiều người học rất rộng, rất sâu, hiểu rất rộng, rất nhiều mà rồi tâm hồn giải thoát không giải thoát.
(22:08) Thí dụ như bây giờ là một nhà giáo sư đại học, họ đỗ tiến sĩ. Nhưng tâm hồn họ vẫn đau khổ, họ đâu hết những sự khổ đau của bệnh, của cuộc sống của họ, của tuổi già của họ, của khi chết của họ, họ đâu có hết. Mặc dù họ học rộng, hiểu xa nhưng họ không có giải quyết được. Cho nên đức Phật khuyên chúng ta cần học những gì mà để chúng ta hiểu biết, để mà chúng ta không còn đau khổ nữa thì cái đó là cần thiết. Trái lại chúng ta không học cái để chúng ta được giải thoát mà chúng ta học những cái ngoài cái vấn đề giải thoát cho tâm hồn chúng ta. Hay hoặc là chúng ta học những cái để chúng ta tạo những cái danh, cái lợi để chúng ta càng khổ đau hơn nữa thì cái đó là hầu hết ai cũng vậy.
“Lời Phật đã dạy, nếu con muốn thoát ra cảnh khổ kiếp sống của con người thì nên theo những lời Phật dạy ấy mà cứu mình. Chúc con thành công mang lại một đời sống an vui thanh thản”.
Đây là cái lời trả lời an ủi của Thầy với một người Phật tử. Đây là cái cuốn tập lát nữa Thầy trả lại cho.
(23:19) Hỏi: Xin Thầy chỉ dạy cho con pháp phóng sanh như thế nào đúng chánh pháp?
Đáp: Dường như là Thầy có trả lời về pháp phóng sanh cho một cái người nào đó hỏi một lần rồi. Chắc có lẽ là thầy Chân Thành hỏi thì phải? Nhưng ở đây thì Thầy cũng sẵn sàng đáp luôn nhưng mỗi lần đáp thì nó có những cái làm chúng ta hiểu rộng ra thêm chứ không gì mà khó hiểu.
Đáp: “Phóng sanh với lòng từ là luôn luôn lúc nào cũng không làm khổ mình khổ người”.
Nghĩa là mình phóng sanh với lòng từ là luôn lúc nào mình cũng đừng có làm mình khổ mà cũng đừng có làm người khổ thì đó gọi là phóng sanh. Các con hiểu chưa? Chứ không phải phóng sanh là đi mua chim cá về phóng sanh, mà luôn luôn lúc nào cũng làm cho tâm mình giận hờn, phiền não, đau khổ hết thì cái đó phóng sanh không có lợi ích đâu.
(24:05) Mà phóng sanh tức là với cái lòng từ là mình tránh, mình đừng có làm người ta đau khổ gì và làm chính mình đau khổ. Mình cũng là một chúng sanh, mình đang nhờ cái tâm của mình phóng sanh để cho mình đừng có đau khổ. Các con hiểu điều đó. Khi mà mình giận hờn, mình phiền não, mình đau khổ thì tức là nhờ có người khác mà phóng sanh cho mình thì ai phóng sanh cho mình được? Chỉ có mình phóng sanh cho mình được thôi, làm cho mình nó sống trở lại, nó đừng có đau khổ nữa. Tức là làm cho mình đừng khổ đau nữa, tức là phóng sanh đó. Với cái lòng từ của mình thì luôn luôn lúc nào cũng không làm khổ mình, khổ người thì đó phóng sanh, và tất cả chúng sanh.
“Phóng sanh với lòng bi là khi nào chúng sanh đang đau khổ”.
Thầy có dạy cái này rồi, đau khổ có duyên gặp mình thì sẵn sàng phóng sanh, không có duyên gặp mình thì không nên đi tìm.
Thí dụ như bây giờ mình chưa có một cái tâm giận hờn, phiền não gì hết thì luôn luôn mình giữ được cái tâm đó gọi là phóng sanh. Phóng sanh được cái tâm của mình, mình làm cho cái tâm mình tiếp tục theo luôn, nó không có phiền não, không có bất toại nguyện gọi là phóng sanh. Nhưng mà khi nó có một sự đau khổ, người ta mắng chửi, nó giận, nó tức, nó làm cho phiền não, nó đau khổ trong lòng nó, thì lúc bấy giờ cái tâm chúng ta như là một con vật bị thương, đau khổ rồi. Thì lúc bây giờ chúng ta phóng sanh với cái lòng bi của ta đối với ta thì chúng ta quán xét suy nghĩ để làm cho tâm chúng ta đừng khổ sở nữa. Đó là chúng ta phóng sanh lòng bi.
Còn bây giờ chúng ta giữ cái tâm của mình đừng có cho nó xảy ra một cái chuyện gì phiền não đau khổ hết, cẩn thận ý từ từng chút đó gọi là phóng sanh lòng từ. Thầy phân biệt để cho thấy cái chỗ phóng sanh nó đúng ý nghĩa của Phật pháp. Chứ không khéo chúng ta đi ra chợ mua tôm cá phóng sanh, đó là cái hình thức phóng sanh chứ không phải là cái phóng sanh đúng.
(26:06) Vì chính tâm mình đang khổ mà mình không phóng sanh nổi thì mình phóng sanh cái con vật ở ngoài kia thì nó không có lợi ích gì cho mình nhiều ở đây đâu. Nó chỉ có cái là làm cái việc phước thiện để mai kia, mốt nọ mình có gặp tai nạn gì đó có người cũng phóng sanh mình bằng kiểu đó.
Thì như vậy thì mình không phóng sanh cho mình thì đừng có nghĩ phóng sanh cho kẻ khác vì tất cả chúng sanh đều bị nhân quả ,nghiệp báo đang chi phối vay trả, trả vay. Nghĩa là nói chung mình cũng đang sống trong luật nhân quả cho nên nghe người ta nói một lời nói nào đó, tức là cái nhân họ gieo vào cái lời nói đó, họ làm cho tâm trở thành một cái quả đau khổ trong đó tức khắc liền. Cho nên mình luôn luôn bị cái luật nhân quả nó chi phối như vậy và tất cả chúng sanh đều như vậy. Mà trong khi mình biết rằng phóng sanh với Tứ Vô Lượng Tâm - từ, bi, hỉ, xả.
Vậy thì phóng sanh như thế nào để cho tâm mình thoát ra cảnh khổ đó mới là thoát khổ. Chứ còn hầu hết một số người dạy phóng sanh thì chắc chắn là dạy chúng ta ra chợ mua chim, cá hoặc rùa trạch hoặc những con vật bị người ta bắt, sắp giết, rồi mình mua mình thả gọi là phóng sanh. Ở đây phóng sanh như vậy nghĩa là cạn lắm, cái ý nghĩa nó cạn lắm, chúng ta cũng làm chớ không phải không làm điều đó. Nhưng mà nhiều khi chúng ta làm để biến thành người ta có một cái nghề săn bắn chim hoặc là bắt chim để chờ chúng ta phóng sanh, thì cái chuyện đó càng phóng sanh ra bao nhiêu thì chúng lại bắt vào bấy nhiêu. Tức là coi như thả ra mà bắt cũng như là bắt cóc bỏ dĩa đó. Chúng ta thả đây, lại đằng kia chúng bắt, chúng ta lại thả nữa thì không biết chừng nào mà gọi là hết đau khổ, càng thả ra thì chúng lại bắt lại bấy nhiêu.
“Luật nhân quả do chúng sanh tạo ra vì thế chúng sanh phải gánh chịu. Ta không thể cứu hay giúp chúng sanh được. Chỉ có duyên gặp nhau trong lúc tai họa, hoạn nạn thì ta không thể làm ngơ mà phải thực hiện tâm bi của mình để phóng sanh”.
(28:07) Đó thì ở đây cái luật nhân quả là tại vì những loài chúng sanh này, loài chim này, rùa, trạch cá tôm đều là do cái nhân quả cho nên chúng mới sanh làm những con vật đó, để mà trả những cái nhân quả. Thì chúng ta đi tìm, đi kiếm chúng để mà mua để mà thả chúng, thả rồi thì cái nhân quả đó chúng có hết không? Chắc chắn không hết.
Chúng bắt lại nữa để mà cho đến khi chúng chết thôi. Bởi vì cái nhân quả chúng đã tạo ra trong cái đời trước thì đời nay chúng phải mang cái thân đó ,phải chịu người ta bắt, rồi người ta chặt đầu, rồi người ta mổ bụng, người ta bỏ lên chảo, người ta chiên, người ta nấu. Thì cái chuyện, cái nhân quả đó thì bây giờ chúng ta làm gì cũng không hết cái nhân quả của chúng sanh đâu.
Cho nên đừng có đi tìm chim, cá mà mua một cách mà không có đúng với chánh pháp như vậy. Mà khi mà chúng ta có cái duyên với chúng sanh đó, với một con chim, một con vật đó, chúng ta đi, có duyên với nhau, đi trên đường đi chúng ta không có nghĩa là có ý đi vô trong chợ cái chỗ mà bán chim đó, mua chim mà thả. Mà chúng ta đi ngang đó, thấy cái người đó họ ngồi họ bán con chim, mà con chim bị cột trói như thế nào, nó nằm một cách rất là đau khổ. Do cái tình trạng nó quá đau khổ, nó làm động tâm chúng ta, cho nên chúng ta không thể làm ngơ được trước cái cảnh đau khổ đó. Mà chúng ta mua bằng với một cái giá, dù đắt bao nhiêu, đây là cái nhân duyên của mình với cái con vật đó mà, mình đâu có nỡ, cho nên dù đắt bao nhiêu, mình cũng bỏ tiền ra mình mua, mua xong rồi mình đem mình thả con vật đó. Mình biết con vật đó cũng sẽ bị người khác bắt chứ không phải không, hoặc là cái người bắt này họ sẽ bắt lại nhưng mà chúng ta vẫn mua. Vì đối với trước cái cảnh khổ của người khác mình không có làm ngơ, con vật mà trước cảnh khổ đó mình không có làm ngơ.
Nhưng ta đừng đi kiếm cái khổ đau đó của loài vật, nếu mà ta đi kiếm thì biết bao nhiêu cái khổ đau của loài vật, biết bao nhiêu con vật đang khổ đau. Cũng như bây giờ ta đi kiếm người nghèo đói để mà cho người nghèo đói thì bây giờ chúng ta đi kiếm thì biết bao nhiêu người. Chúng ta làm bao nhiêu tiền mà cứu giúp họ cho hết.
(30:11) Đó là cái luật nhân quả của họ, cho nên chúng ta làm sao mà giải quyết được hết cái này. Trừ ra chính bản thân họ họ phải giải quyết nhân quả của họ thì họ mới có đầy đủ cơm ăn áo mặc, họ không có đói. Chứ chúng ta không có giải quyết được cái nhân quả cho ai hết đâu. Vì vậy mà trước mặt chúng ta gặp cảnh khổ thì chúng ta mua mà thả chứ đừng có nghĩ đi kiếm. Bây giờ cha mẹ của mình ở nhà đau, thôi mình ra chợ coi chim cá gì đó mua một mớ về thả nó rồi hồi hướng cho cha mẹ mình. Điều đó là điều sai.
Luật nhân quả của cha mẹ mình là làm một cái điều gì ác đó, bây giờ phải thọ cái thân bệnh đó thì bây giờ mình có tạo cách gì cũng không bằng chính cha mẹ mình tạo. Từ đó cái tâm cha mẹ mình không dao động, không dao động trước cái thân bệnh đó thì cái bệnh đó sẽ mau lành. Đó là mình chuyển nhân quả. Chứ còn mình đem chim cá phóng sanh, để mà nhờ phóng sanh chim cá, để làm cha mẹ mình tuổi thọ được tăng lên, bệnh nó giảm đi, nó mạnh thì cái chuyện đó có thể nói rằng cái phước đó nó quá nhỏ. Làm chuyện lành đó để tạo cái phước mà cha mẹ mình được mạnh thì nó quá ít, không bằng đâu. Mà chính cha mẹ mình trong những cái cơn đau của sức tận cùng chịu đựng của thân mạng của mình mà cha mẹ đừng có để cái tâm mình dao động. Mà hễ tâm dao động tức là tâm bệnh nữa rồi, thân đau bệnh mà tâm lại bệnh, hai cái nó gộp lại nó trở thành cái thọ rất mạnh, nó sẽ làm cho cái người đó sẽ đi vào cái sanh tử luân hồi, rất là đau khổ.
Cho nên ở đây cái phần mà phóng sanh thì nghe nó đơn giản nhưng sự thật ra đúng trong cái giáo lý của đạo Phật thì cái sự phóng sanh này chúng ta phải hiểu nó qua cái Tứ Vô Lượng Tâm - từ bi hỉ xả, mà chúng ta thực hiện cái phóng sanh thì nó mới đúng cách.
(32:02) Phóng sanh người ta hiểu nghĩa thông thường là mua chim hoặc cá, loài vật khác đem xuống sông ao hồ hoặc là vào rừng thả. Phóng sanh còn có nghĩa rộng lớn hơn là thấy chúng sanh đang bị tai nạn bệnh tật, nạn giam cầm, tù tội, bị hiếp đáp v.v… đang thọ khổ, ta giúp đỡ và an ủi làm giảm đi sự khổ hoặc hết khổ. Phóng sanh còn có nghĩa là tu tập bi tâm, tu tập bi tâm không có nghĩa là tìm kiếm chúng sanh đang thọ khổ mà tu tập.
Tu tập bi tâm tức là thực hiện ngay trên sự đau khổ của thân tâm của mình.
Đó thì phóng sanh mà ngay tâm bi là mình thực hiện được ngay trên cái sự khổ của thân tâm của mình. Bây giờ cái thân thọ của mình đau mà mình thực hiện được cái bi tâm tức là thương cái thọ đau khổ của bản thân của mình, của cái nghiệp lực của mình, của cái nhân quả của mình nè thì mình làm sao cho nó hết thọ khổ này? Đó tức là mình phải cứu lấy mình, đó là chính cái chỗ của Phật pháp.
“Bởi vậy tu Tứ vô lượng tâm là từ, bi, hỉ, xả trên thân tâm của mình như vậy mới gọi là giải thoát hay là thoát khổ. Từ bi với thiên hạ chúng sanh là mình thoát khổ hay chăng?”
Nghĩa là mình mua chim cá mình phóng sanh mình có thoát khổ không? Chắc chắn điều đó không thoát khổ, vì mình làm ác mà mình…Ví dụ mình mua chim cá mình phóng sanh mà mình đi ăn trộm ăn cướp thì tức là người ta cũng bắt mình bỏ tù, người ta cũng tra khảo hỏi mình, đồng bọn mình bao nhiêu người, họ không tha mình chút nào đâu. Họ cũng không bỏ mình ra khỏi tù, họ cũng bắt mình vô giam. Cho nên từ bi với thiên hạ, tức là chúng sanh thì mình có thoát khổ hay không?
Còn mình từ bi với mình thì mình biết tâm bi của mình, tâm từ của mình. Tâm từ của mình thì mình không làm khổ người khác tức là mình đâu có trộm cắp, mình đâu có làm cho người ta tan nát gia đình. Mình bi tâm, mình từ bi thì mình thương mình thì mình không có làm cho người khác khổ. Thì như vậy tức là mình đã thương mình, thì đó là phóng sanh.
(34:14) “Hay tăng nghiệp quả thêm cho thiên hạ, chúng sanh?”
Nghĩa là bây giờ một chúng sanh nó đang ở trong cái cảnh bất hạnh, nghèo khổ là do cái nhân quả đời trước họ đã tạo. Vì vậy bây giờ chúng ta đem cơm gạo đến cho họ để cho họ thọ thêm cái nghiệp quả nặng thêm chứ làm sao mà dứt cái nghiệp đó. Thay vì họ phải nghèo khổ đó để họ trả cái nghiệp bỏn xẻn, ích kỷ kiếp trước. Bây giờ để làm cho họ sáng mắt ra cho nên họ mới mở cái lòng bố thí ra, họ xả ra.
Còn đằng này mình lại đem cơm gạo cho họ thêm tức là cái lòng bỏn xẻn họ lại còn thêm nữa, tức là họ lấy của người khác chứ họ không dám bỏ của họ ra. Thì do đó cái nhân quả nghiệp báo đó sẽ thành tăng lên, họ sẽ càng khổ hơn, khổ hơn và khổ hơn nữa, đói khát họ lại càng đói khát hơn nữa.
Cho nên người chưa hiểu nhân quả, cho nên tập trung chỗ này, tập trung chỗ kia, kêu gọi Phật tử đóng góp này kia để đi cứu trợ đầu kia, đầu nọ, tức là quý thầy chưa hiểu nhân quả. Làm cái việc, quý thầy tưởng là từ thiện nhưng mà sự thật đưa người ta đi vào cái nhân quả nghiệp báo, càng tăng lên cái sự nghiệp quả đói khổ họ thêm lên mà muôn đời họ không có trả được. Còn trái lại từ cái cảnh nghèo đó mà họ xả được tâm họ, họ biết nhường cơm sẻ áo cho người khác thì ngay đó họ đã an ổn được cái tâm khổ đau vì đói khổ của họ.
Đó là cái đường lối của đạo Phật dạy chúng ta làm cái việc từ thiện đúng cách. Còn hiện bây giờ thì hầu hết số quý thầy làm từ thiện nó không đúng cách. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta không an ủi những người bất hạnh mà như hồi nãy Thầy đã nói. Trước cảnh đói khát của người khác, ta không nỡ tâm nhưng ta không đi tìm kiếm làm cái việc đó. Vì việc đó không thể nào mà làm họ hết khổ đau, chúng ta biết như vậy.
(36:09) Cho nên ngày xưa, ngài Ca Diếp, ông đến gọi một bà lão ăn xin, bà hãy cúng dường cho tôi thì bà thoát khỏi cảnh nghèo. Còn bây giờ nếu mà tôi cho bà cái thực phẩm, bà ăn đầy đủ thì cái cảnh nghèo bà vẫn kéo dài thêm cái kiếp nghèo khổ của bà nữa mà bà còn nghèo khổ hơn nữa. Cho nên ngày hôm đó bà lão chỉ xin được có hai xu mà chưa có được một hột cơm trong lòng. Nghe ông Ca Diếp nói như vậy, thuyết phục bà như vậy, cho nên bà vui vẻ dâng lên hai xu để cúng dường cho ông Ca Diếp. Và từ đó, đêm đó bà bị đói và lạnh, một đêm rất lạnh bà bị đói và lạnh và bà chết ngay đêm đó. Và cái lòng mà bà bố thí cúng dường như vậy, lòng bà biết san sẻ ra như vậy đó cho nên bà được sanh lên cõi trời. Từ sanh lên cõi trời đó bà được hưởng đầy đủ cơm áo ,không còn thiếu nữa, không còn là một bà lão ăn xin nữa.
Bây giờ đây là cái phần của cô Liễu Tâm đã hỏi Thầy về cái phần phóng sanh như vậy. Muốn rõ nữa thì Thầy đã dạy cho các con thấy rất là cụ thể, từ đây về sau chúng ta phải làm một cái điều gì cho đúng với Phật pháp, đừng có làm cái điều mà đức Phật đã dạy chúng ta mà chúng ta lại làm sai, hiểu sai.
Cho nên ở đây chúng ta đâu thấy cảnh màn trời chiếu đất của cái người bị bão lụt mà đã sập nhà, sập cửa trong cái bão mà số năm vừa rồi phải không? Chúng ta đâu có nghe, mình đâu có thấy thế rồi bây giờ người ta kêu gọi cứu trợ bằng cách này, bằng cách kia làm cho mình nghe, làm cho mình thấy. Khi mà mình được nghe, mình được thấy thì mình sẵn sàng mình chia sẻ.
Nhưng mà khi mà mình không được nghe, không được thấy thì thôi mình không có sẵn sàng mình chia sẻ. Cho nên ở đây chúng ta không kiếm những cái khổ đó mà làm việc phóng sanh mà chúng ta trực tiếp nghe thấy, trước cảnh khổ của người khác thì chúng ta không làm ngơ. Nhưng chúng ta biết chúng ta làm điều đó là chúng ta chồng thêm cái nghiệp cho kẻ khác chứ không phải chúng ta cứu người đó đâu, không phải là chúng ta gieo một cái điều tốt cho thoát ra khỏi cảnh nghèo đói. Họ càng nhận cái của mình bao nhiêu thì họ càng nghèo đói bấy nhiêu và tai họa đến với họ nhiều hơn nữa.
Đó, hiểu được Phật pháp thì phải hiểu được nhân quả như vầy, chứ còn mà hiểu lơ mơ thì chúng ta…
Bởi vì trong cái giáo đoàn của đức Phật ngày xưa, ở chỗ này mà thất mùa mà không có cơm ăn áo mặc thì đức Phật đi đến cái chỗ khác, nơi mà có trúng mùa thì ở đó đi xin ăn. Còn chỗ này mà thất mùa thì mình không có ở đây xin vì có xin thì người ta cũng không có người ta cho mình vì người ta thất mùa cho nên đức Phật đi.
Mà đức Phật cũng không đi lại cái chỗ mà trúng mùa đó mà kêu gọi những cái người ở đó đóng góp lại mà đi lại cứu cái chỗ này vì đức Phật đã nhìn thấy những nhân quả đó cho nên không có cứu trợ cho chúng ta bao giờ, chỉ rời khỏi cái đó để tránh cho người ta gánh thêm một số tu sĩ ở đây phải lo cơm ăn, áo mặc, phải lo cơm ăn áo mặc cho các tu sĩ. (39:20)
HẾT BĂNG
ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ - TU THEO ĐẶC TƯỚNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
(00:00) Phật tử 1: Trong sách con thấy nó mười sáu cái đề mục Thầy.
Trưởng lão: Nó hai mươi hai cái đề mục con. Trong cái bài kinh của Phật Xuất Tức Nhập Tức đó, nói về hơi thở, thì nó hai mươi hai cái đề mục. Nhưng mà vì nó có những cái đề mục nó trùng, vì vậy mà Hòa thượng Minh Châu, thì Ngài rút ra mười sáu cái đề mục. Còn Thầy thì lấy mười tám cái đề mục. Cho nên Thầy đưa thêm hai cái đề mục nữa, cho nó đủ trọn vẹn.
Nhưng cái đề mục “Với tâm định tỉnh” đó, thì nó sẽ xác định cho mình được cái chỗ mình tu Thân Hành Niệm. Còn “Với tâm giải thoát…” đó, thì nó xác định cho mình Bảy Giác Chi nó xuất hiện. Do đó cái đề mục này nó cũng giúp cho mình định tỉnh khi mình còn một chút ít nào mà bị hôn trầm, thùy miên, bị vô ký đó, thì mình ngồi mình không cần đi kinh hành, mình vẫn “Với tâm định tỉnh, tôi biết tôi hít vô, với tâm định tỉnh, tôi biết tôi thở ra”.
Thì những cái đề mục cuối cùng này là những cái đề mục mà có thể giúp cho mình được cái định tỉnh cuối cùng, để cho mình thực hiện cái Bảy Giác Chi cho nó hiện ra đủ. Cho nên nó mười tám. Còn mấy cái kia thì nó trùng lặp, cho nên nó bỏ bớt ra. Thành ra nó hai mươi hai cái đề mục lận, chứ không phải là ít. Nhưng mà Thầy chọn rất kỹ trong cái vấn đề đó.
Nhưng mà sau này đó, thì coi như là, Đức Phật đưa ra nó đầy đủ chứ không phải thiếu, nhưng mà Thầy thấy nó chưa cần thiết cho mấy con, cho nên chưa đem vô hết hai mươi hai cái đề mục. Tới hai mươi hai cái đề mục trong hơi thở này, chứ không phải là mười sáu, hoặc là mười tám đâu. Nó đủ nó là hai mươi hai cái.
(01:21) Phật tử 1: Thưa Thầy, cái đi kinh hành mà tỉnh thức theo từng bước đi đó thì đi mau được không Thầy?
Trưởng lão: Được chứ con. Tùy theo cái đặc tướng của mình mình đi. Mình đi mình nhiếp tâm được ở trong, tỉnh thức được ở trong đó được thì mình đi mau cũng được.
Phật tử 1: Đi mau, đi sẽ xả niệm được?
Trưởng lão: Được con, được. Được chứ không có sao hết.
Phật tử 2: Đi sao mà cái tâm mình chú ý bước chân?
Trưởng lão: Tâm mình chú ý bước chân được là được, đó là tỉnh thức rồi.
Phật tử 1: Tại con cũng không biết, con thấy đi kinh hành thì cứ đi chậm chậm. Nhiều khi con muốn đi mau.
Trưởng lão: Rồi, con đi mau là tại cái đặc tướng con. Con đi mau mà con nhiếp tâm con được cũng tốt. Đó là tỉnh thức đó con, không có sao. Nhưng mà về cái vấn đề mà đi Thân Hành Niệm đó, đi từng cái hành động con nhớ, nó chậm quá nó cũng không được nữa con, mà nó nhanh quá cũng không được. Nhanh quá thì mình không bắt kịp được cái hành động đó.
Mình tạo cái Thân Hành Niệm là mình tạo ra riêng rẽ ra từng cái hành động, để cho mình chú ý cho kỹ thôi, đặng mình điều khiển từng cái hành động của nó. Đó là cái Thân Hành Niệm. Do như vậy, thì cho nên vì vậy mà có nhiều người họ quá chậm, quá chậm rồi họ tác ý từng cái bước đi. Bởi vì khi đó, bắt đầu mới tập thì con thấy: “Dở gót lên - Đưa chân lên - Đưa chân tới - Để xuống - Hạ gót”, thì lúc bấy giờ mới tập thì con ra lệnh vậy.
Nhưng mà sau đó rồi nó quen rồi, thì con không có ra lệnh đó. Con bảo: “Bước”, thì cái tâm của con, toàn cái ý thức của con nó chú ý vô cái chân con, thì tự nó nhón gót lên, tự nó đưa lên, tự nó đẩy tới, tự nó để xuống, nó hạ gót xuống. Nó cứ nhịp nhàng, nhịp nhàng. Mình không có nhắc từng chút, từng chút, nhưng mà cái biết của mình nó biết trước cái hành động. Dở gót lên là nó biết, chưa dở nó biết rồi.
Tới chừng đưa chân lên, rồi đẩy, đưa chân tới, để xuống, rồi hạ gót xuống, nó đều theo từng cái hành động, cái thao tác của cái bàn chân, cái bước chân của nó. Đó thì mình tập, mới đầu thì mình ra lệnh làm cho nó quen thôi, sau đó thì mình bỏ bớt. Mình bảo “Bước!” thì cái đó nó biết dở gót lên, rồi đưa chân lên, đưa chân tới, để xuống, hạ xuống.
Phật tử 1: Thế thì nó khỏi nhắc đúng không Thầy?
Trưởng lão: Khỏi nhắc con, không có nhắc mấy cái đó đâu. Không có nhắc nữa, mà nó tự động cái mình biết. Hễ khi nào mình biết rõ từng cái hành động của cái bàn chân của mình bước đi đó, cái chân của mình bước đi có từng hành động, thì mình không có tác ý nữa. Mình chỉ cần ra lệnh chung đó: “Bước!”, thì bắt đầu nó dở lên, rồi nó dở chân lên, đưa chân tới, để xuống, hạ gót xuống. Những hành động nó liên tục, liên tục, liên tục. Mà chân này rồi tới chân kia, nó nhịp nhàng, nhịp nhàng. Đó gọi là Niệm Giác Chi con. Cái Niệm của Thân Hành nó hiện ra.
Cho nên mới đầu thì mình tu tập, mình rèn luyện cho nó quen. Sau đó cái mình chỉ cần bảo: “Bước!”, cái mình thấy nó, bước cái nó biết, phải dở gót lên, rồi nó dở chân lên, đưa chân tới, để xuống, hạ gót xuống. Nó biết liền, liền, liền, liền, liền. Rồi chân này nó cũng bước nó cũng biết liền, liền. Chân kia nó bước nó cũng biết liền, liền, liền, liền, nó nhịp nhàng lắm con.
Phật tử 1: Con thấy cái Thân Hành Niệm con thích, tại đi điều khiển thấy nó nhịp nhàng mà nó…
Trưởng lão: Nó nhịp nhàng bởi vì nó dở lên dở xuống, dở lên dở xuống, nó làm cái chân mình dịu dàng lắm.
Phật tử 1: … mà thấy nó tỉnh thức theo cái…
Trưởng lão: … theo cái nhịp đó đó, theo cái nhịp của cái Thân Hành của mình.
(4:11) Phật tử 2: Kính thưa Thầy, trong mười tám đề mục đó, thì mình tu tập, trước nhất thì mình cũng phải đi vô tập cái đề mục thứ nhất, rồi mình mới dẫn qua những đề mục kia?
Trưởng lão: Rồi đó con.
Phật tử 2: Dạ khi nào mình tập tành ngồi mình tu tập, bắt đầu vô thì mình ngồi thì mình tu tập đề mục thứ nhất, rồi bây giờ nó xuất hiện cái đề mục nào thì mình theo đề mục đó phải không?
Trưởng lão: À bắt đầu con, bây giờ nó như thế này để nói con. Nó bắt đầu, thí dụ chẳng hạn bây giờ, cái mục đích của con hôm nay là con tu cái đề mục thứ sáu: “An tịnh tâm hành, tôi biết tôi hít vô. An tịnh tâm hành, tôi biết tôi thở ra”, con tu về cái tâm của con, thì con phải an trú trong hơi thở rồi con mới tu. Phải không?
Thì bắt đầu bây giờ đó, con vô đầu tiên đó, con vô thì con mới bảo: “Hít vô, tôi biết tôi hít vô. Thở ra, tôi biết tôi thở ra” con thấy nó an trú. Rồi cái hơi thở nó chưa, cái hơi thở xuất hiện nó an trú ngắn, thì con bỏ cái đề mục ngắn, hơi thở ngắn, hơi thở dài con bỏ, con không cần đi qua cái này nữa. Phải không.
Mà ngay đó là con thấy cái cảm giác mà con nhận ra được cái thân con nó an ổn, thì con khỏi cần đi cái chỗ mà “Cảm giác toàn thân…” con bỏ luôn cái đề mục này luôn. Bởi vì khi mà nó xuất hiện ra thì nó có mang theo cái cảm giác, cái an tịnh, rồi cái hơi thở nó an trú, nó hiện ra đủ rồi, thì con khỏi đi qua mấy cái đề mục này. Phải không.
Rồi tới cái “Cảm giác toàn tâm” thì con cũng nhận thấy được rồi. Tức là nó, cái an trú nó đã hiện ra tất cả cái tướng của những cái đề mục đó rồi, thì ngay đó bây giờ con, chỉ khi mà con vô cái đề mục đầu tiên đó, con dẫn cho cái tâm con vô cái hơi thở: “Hít vô, tôi biết tôi hít vô. Thở ra, tôi biết tôi thở ra”, con nhắc nó chừng năm lần, ba lần, hay năm hơi thở, ba hơi thở vậy, bắt đầu nó an trú được rồi, thì con thấy cái tướng nó hiện ra tất cả những cái đề mục kia đủ hết rồi.
Chứ con khỏi cần tu mấy cái đề mục kia phải không? Con khỏi cần phải nhắc nó, nhưng mà nó hiện ra.
Phật tử 1: Thấy nó có được cái đó nó hiện ra?
Trưởng lão: À nó ra mấy cái này luôn hết, một dây của nó. Bởi vì cái nhóm của tụi nó rồi, nó ra hết. Thì bắt đầu con tới cái đề mục thứ sáu này, con mới tác ý con tu, để cho nó thực hiện được cái đề mục này, cho kết quả cái đề mục này. Bởi vì cái kết quả nó phải hiện ra một loạt của nó hết. Mình an trú được, là nó hiện ra một loạt của nó ra hết. Thành ra mình không có tu mấy cái đề mục này.
(6:08) Phật tử 1: Nếu mà mình tu Tứ Niệm Xứ đó Thầy, mình theo cái hơi thở ra vào đó, một thời gian cũng như là lâu rồi, hoặc mình theo cái phồng xẹp đó, thì mình theo được cái hơi thở vô cho tới khi nó chấm dứt hơi thở vô, rồi đến hơi thở ra, đến chấm dứt hơi thở ra, rồi thở vô, rồi thở ra nó đều đặn như vậy hoài rồi đó, thì là mình an trú trên cái hơi thở đó rồi. Như vậy đó, thì nó cũng giống như cái đề mục thứ một của bên đây hả Thầy?
Trưởng lão: Của đề mục hơi thở đó con, đề mục thứ nhất của hơi thở rồi đó. Con tu Tứ Niệm Xứ mà con an trú ở trên hơi thở là nó đi lệch cái đề mục thứ nhất của hơi thở rồi.
Phật tử 1: Nhưng mà đồng thời đó, nó cũng là “Cảm giác tâm hành…” luôn. Tại vì lúc đó mình thấy cái tâm mình nó phóng nhiều hay phóng ít, hay an trụ, hay là như thế nào, lúc đó là mình cũng đã thấy rồi. Phải không Thầy? Tại vì nhiều khi nó cũng qua lại, thì nó cũng giống…
Trưởng lão: Thì nó cũng y, nó cũng giống nhau thôi. Chứ không có khác nhau. Bây giờ…
Phật tử 1: Nó có khác thì là cái đoạn sau trở đi đó. Chẳng hạn như là “An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành, tôi biết tôi thở ra” , là đề mục thứ tư. Thì cái đề mục thứ tư này đó, có phải là mình phải dừng lại ở đó, cho đến khi nào đó, mà khi mà mình có cái đau nó đến với mình, cái mình nói là: “An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành, tôi biết tôi thở ra” đó, thì là cái đau nó chấm dứt.
Thì như vậy đó, là mình đã hoàn tất cái thứ tư. Còn nếu mà mình chưa có hoàn tất cái thứ tư đó đó, chưa có ra lệnh như vậy mà nó cũng còn đau đó, thì tức là mình vẫn còn ở trong cái đề mục đó mà tu?
(8:12) Trưởng lão: Trong cái đề mục đó tu. Thầy thí dụ chẳng hạn bây giờ đó, cái gì, chẳng hạn bây giờ các con tu phải không. Bắt đầu các con vô cái đề mục thứ nhất để mà an trú cho được cái hơi thở. Hơi thở là nó quan trọng lắm, bởi vì nó là Thân Hành Nội của mình rồi, cho nên nó quan trọng. Cho nên mình vô được an trú trong hơi thở.
Rồi an trú trong được hơi thở rồi, thì bắt đầu bây giờ đó, coi thử coi những cái đề mục khác nó có hiện ra cái kết quả của nó không. Bởi vì mình đã tu qua hết rồi. Cho nên mình biết được những cái cảm giác, thí dụ như “Hơi thở dài, hơi thở ngắn”, thì thấy rõ là hơi thở của mình là hơi thở ngắn, bây giờ nó ra ngắn rồi. Nó theo của nó nó ra. Bởi vì an trú theo hơi thở là nó phải ra đề mục thứ hai rồi.
Rồi đề mục thứ hai nó ra rồi, thì đề mục thứ ba nó, tự nó cảm nhận được cái toàn thân của nó, tự nó rồi, cho nên mình khỏi tu cái này rồi. Rồi bắt đầu bây giờ, nó lại có cái trạng thái an tịnh của cái thân nó rồi. Nhưng nó, bây giờ nó, như vậy là mình đang ở trên con đường mà tu về Định Niệm Hơi Thở heng, thì bắt đầu đó, coi thử coi nó cảm giác cái toàn tâm của nó có cảm nhận được không, nó nhận được rồi.
Bây giờ nó cảm giác cái an tịnh tâm hành của nó cũng nhận được rồi. Thì bắt đầu nó “quán ly tham, quán ly sân”, thì mình coi thử coi cái trạng thái quán ly tham, ly sân này nó như thế nào, coi thử coi nó có xả ly hết không? Nếu mà cái chỗ đó nó không ly đó, thì mình vẫn thấy nó còn tham ăn. Đó như vậy là mình còn tham chớ, nó còn thấy cái này nó thèm. Thì do đó mình phải ở đây mình tu.
Chừng nào nó không thèm nữa thì mình thấy. Bây giờ nó còn thấy cái áo đẹp nó còn thích, thì như vậy nó còn tham, cho nên mình phải tu cái này cho tới chừng nào nó hết tham. Bởi vậy, có cái gì nó cũng hiện tướng ra đây hết à.
Phật tử 1: Nhưng mà trong lúc tu mình cứ ráng mình nhắc nó, chứ mình còn chưa biết mình còn tham hay không.
Trưởng lão: Thì mình cứ nhắc nó sẽ hết. Nó sẽ chừng nào mà mình thấy bây giờ, bữa nay thấy nó không thèm ăn cái gì hết, nó không muốn ăn, ăn để sống chứ nó không thèm nữa, thì biết là nó hết tham ăn rồi. Nhưng mà nó còn tham chuyện khác, chứ nó không phải hết cái này không đâu, nó còn nữa.
Thì do đó, bây giờ cái tham mà hoàn toàn thấy nó không có ham muốn cái gì hết, đối với cái thế gian này không có vật chất gì mà cám dỗ nó được, mình thấy nó rõ ràng là, với cái chuyện, tới ngủ nó cũng không tham nữa, nó không còn ham ngủ nữa, nó không tham gì nữa, tức là nó ly hết rồi đó, là nó hết. Mà nó còn cái tham ngủ, nó cũng còn tham chứ chưa hết. Vì vậy mà mình phải, bây giờ tham ngủ phải dùng cái đề mục nào phá? Phải không.
Cho nên không phải “quán ly tham” mà nó hết đâu. Vì vậy mà “với tâm định tỉnh” thì nó mới phá hết được cái si, cho nên nó mới hết ngủ. Cho nên vì vậy nó còn tham chứ chưa hết. Nhưng mà “quán ly tham” nó chưa sạch được cái chỗ vi tế này rồi. Nó phải trở qua một cái đề mục khác để nó quét.
Do đó thì, bây giờ đó mình sẽ thấy là bây giờ cái tham, rồi cái sân. Cái sân nó hiện cái tướng của nó như thế nào? Nếu cái thân này còn đau nhức cái chỗ này, ngứa cái chỗ kia, đó là bị cái sân rồi. Cho nên mình “quán ly sân”. Mà “quán ly sân” đó thì phải kèm theo với cái đề mục là “an tịnh thân hành” nó mới đẩy lui được.
Thì con vừa tập “quán ly sân, tôi biết tôi hít vô, quán ly sân, tôi biết tôi thở ra”, thì ngầm ở trong đó nó có cái nội lực. Do đó, bởi vì ở chỗ này, cái đau ít, thì nó mình “an tịnh thân hành” nó hết, mà đau nhiều thì nó không hết. Cho nên cái sân này nó có cái lực mạnh của nó chứ không phải nó…
Phật tử 1: Nếu mà khổ là sân phải không Thầy?
Trưởng lão: Ừ. Cho nên vì vậy, cho nên mình biết tới cái chỗ sân là nó có hiện tướng ra những cái đau khổ ở trong thân của mình. Mà mình biết mình có đẩy lui được. Tức cái sân ít thì có thể mình bình thường rồi, nhưng mà cái sân nhiều thì chưa có thắng được. Cho nên vì vậy mình phải tu tập. Mình tu tập thì “an tịnh thân hành” đó, bắt đầu mình tu tập.
Cho nên sau khi mình tu tập những cái này nó có kết quả rồi, bắt đầu mới mở cái màn mình đánh dẹp nó. Thì do đó bắt đầu mình tu Tứ Niệm Xứ. Thì trên Tứ Niệm Xứ bây giờ mình thấy nó an ổn thôi. Mà nó đau chỗ nào là đẩy lui chỗ nấy, dùng tất cả các pháp này đẩy lui. Chứ nó không phải là còn tu tập nữa.
Còn hồi này, mấy con đang tu tập thì mấy con tu tập cho có kết quả thôi, tức là mấy con đẩy lui được. Rồi mấy con biết, à còn sân thì tức là còn thọ khổ, mà không sân thì nó sẽ không bệnh nữa, không khổ trên thân nữa, và đẩy lui rất dễ dàng. Cho nên các con biết rõ. Do đó thì quán ly tham, quán ly sân, quán vô ngã. Cho nên còn cái ngã thì còn kiết sử, con còn nhớ, còn thương. Còn không còn ngã thì lấy gì thương ai nữa? Cho nên vì vậy tức là quán vô ngã rồi đó.
(12:04) Đó, thì tất cả các đề mục của Phật đã trang bị cho mình đủ mà. Cho nên khi đó đó, mình câu hữu với cái Định Vô Lậu mình quán xét, tư duy, suy nghĩ về nhân quả thế này thế khác, để dùng cái tri kiến mình nó giải thoát cái phần thô. Còn cái phần tế, là nó phải “định”. Kiết sử nó có cái phần thô và phần tế con, nó phải định.
Cho nên vì vậy đó, mình phải tu tập cái “với tâm định tĩnh” nó ngầm ở trong đó nó quét. Và với cái tâm mà “quán vô ngã, tôi biết tôi hít vô, quán…” đó là ngầm để mà cho nó vô ngã, đẻ cho nó quét những cái Thất Kiết Sử, cái Ái Kiết Sử của mình. Nó nhiều cái thứ ở trong này lắm, cho nên mình tu rất nhiều cái để mà mình đánh đuổi nó ra.
Cho nên khi mà áp dụng ở trên Tứ Niệm Xứ rồi, thì các con phải trang bị đủ thứ, những cái pháp này đủ hết rồi. Cho nên bây giờ ở đây đó, con mới thấy, con mới bảo hộ cho nó suốt mười hai tiếng đồng hồ mà không có một cái chướng ngại nào mà xảy ra trên thân con được. Phải không, con thấy không? Ghê lắm chứ không phải.
Mười hai tiếng đồng hồ đó nó đâu có nhiều đâu, nhưng mà không thể nào mà mười hai tiếng đồng hồ này, mà hoàn toàn nó im Thánh được ở trên cái Thân, Thọ, Tâm của mình được.
Cho nên vì vậy mình phải học tất cả, tập luyện tất cả những cái này, để trang bị, để mà làm chủ toàn bộ trong cái thời gian mà mình giữ gìn hai mươi bốn tiếng, hay mười hai tiếng đồng hồ, mà không có một cái thọ, không có cảm thọ, không có một cái trạo cử gì mà xảy ra trong thân, tâm của mình được.
Bởi vì mình đã tu tập nó sẵn sàng rồi, nó vô không được, chứ không phải gì. Chứ nếu mà con tu tập mà không có cái nội lực ở trong, nó vô nó đánh tan nát lận. Còn con có đủ nội lực rồi, nó vô không được. Con bắt đầu con tu Tứ Niệm Xứ nó không vô đâu, nó sợ.
Phật tử 1: Hôm nay Thầy nói con mới biết chứ con tưởng đâu tu Định Niệm Hơi Thở vô ra, rồi cái con qua tu hơi thở dài ngắn, rồi mỗi đề mục…
Trưởng lão: Mỗi đề mục mỗi tu, mỗi tu cho tới của con nó oải, mất thì giờ của mình đó. Chỉ có cái đề mục đầu tiên là cái căn bản nhất đó, là mình an trú cho được rồi đó, mình vô cái mình an trú rồi, thì bắt đầu coi cái đề mục nào mình tu thì mình cứ theo đó mình tu thôi. Nó không có mất thì giờ. Chỉ an trú cái tâm rồi tất cả những cái đề mục sau này mình tu.
(14:01) Cũng như bây giờ con tu cái đề mục thứ hai là con phải an trú được cái đề mục thứ nhất này. Mặc dù hai cái nó gần nhau. Nhưng mà cái thứ mười sáu, mười bảy ở đây nó xa, nó bao nhiêu cái đề mục, nhưng mà con an trú được thì con bỏ mấy cái đề mục này hết, ngay tới cái đề mục thứ mười lăm, mười sáu này con tu.
Bởi vì vậy đó, con an trú được có một chút xíu đây, cái mình an trú được cái mình vô đây mình tu nó mới có nhiều việc. Chứ bắt đầu mà từ đây mà con tu một loại hồi nào mà cho tới đây thì…
Phật tử 1: Con nghĩ chắc tu từ cái đề mục một…
Trưởng lão: Từ một cho đến tới mười bảy thôi mắc chết mình.
Phật tử 1: Theo như Thầy nói con mới biết, chứ không thôi là…
Trưởng lão: Chỉ có cái an trú là quan trọng, cái nền tảng nó đó. Cũng như bây giờ con có cái nền rồi, bắt đầu giờ con muốn cất nhà tranh, nhà ngói gì, con muốn cất ở trên đó được.
(14:40) Phật tử 3: Con kính bạch Thầy, con có đọc cái cuốn sách mà “Hương vị Pháp Bảo” đó, của ngài U Silananda đó, thì con thấy ngài nói là Thân Hành Nội và Thân Hành Ngoại, mà làm con thắc mắc quá. Cái Thân Hành Ngoại đó, có nghĩa là mình thở như thế nào đó, rồi mình đối chiếu cái hơi thở, cái tâm mình nó có đối chiếu cái hơi thở của mình và cái người ngồi kế bên. Mình đâu có đối chiếu như vậy chi Thầy, mình thân mình mình lo không xong, sao mình đối chiếu làm chi?
Trưởng lão: Đâu có đối chiếu được.
Phật tử 3: Con kính bạch Thầy, Thầy giảng giùm con thêm về cái Thân Hành Nội và cái Thân Hành Ngoại, tại vì cái chỗ đó con không có thông.
Trưởng lão: Ờ bây giờ Thầy sẽ giảng cho thấy. Thân Hành Nội là cái hơi thở của mình. Tự ở trong thân của mình nó phát xuất ra, nó tự động ở trong đó, như mạch máu là Thân Hành Nội, tim đập là Thân Hành Nội, não mình nó hoạt động thế này là Thân Hành Nội, cái hơi thở nó hoạt động là Thân Hành Nội.
Bởi vì cái này mình hoàn toàn mình không có cái quyền mà rớ trong này được, tự nó phải thở như vậy, nó thở như vậy gọi là Thân Hành Nội. Nghĩa là cái gì mà nó tự làm. Còn bây giờ Thân Hành Ngoại, là cái gì mà mình chủ động ý thức mình làm, thì cái tay của mình nó sẽ làm theo.
Thí dụ như bây giờ cái tay Thầy không làm, nó tự động nó nằm im lìm đây này. Mà bây giờ mà Thầy muốn cái tay Thầy phải đưa ra lấy cái gì đó, thì bắt đầu cái tay Thầy đưa ra, cho nên cái này gọi là Thân Hành Ngoại. Nó ở ngoài, cho nên vì vậy cho nên mình sai được.
Còn nó nội, mình sai không có được. Bây giờ mình bảo nó đừng thở, nó cũng không có chịu nghe đâu, nó cứ thở. Cho nên nó nội. Nó nội là tự động ở trong nó làm. Mình bảo mạch máu mình đó: “Đừng có chạy”, nó cũng vẫn chạy. Nó không có nghe lời mình đâu. Đó là Thân Hành Nội. Nội là nó có nội lực của nó nó làm cái chuyện đó, chứ mình không có làm sao mình ngăn chặn được.
Đó. Thì do cái Thân Hành Nội và cái Thân Hành Ngoại. Vì vậy mà cái Thân Hành Nội chỉ có cái hơi thở là chúng ta dễ nhận nhất thôi. Còn tất cả những cái khác ở trong thân của chúng ta nó có cái hoạt động trong đó, cái thân hành nó có, nhưng mà chúng ta khó nhận lắm.
Thí dụ như bây giờ chúng ta nhận được, thí dụ trái tim đập, nhưng mà khi mà cái tâm chúng ta, cái ý thức của chúng ta chú ý nó đó, thì nó lại đập cái kiểu khác. Cũng như bây giờ cái hơi thở mình để tự nhiên mình đừng chú ý nó, thì nó nghe nó khỏe. Nhưng mà mình nhìn nó một hơi nghe nó mệt. Có phải không?
Cho nên mình đừng có nhìn cái tụi nó. Tụi nó là tụi “nội”, nó tự động nó làm thì để nó làm, chứ mình khéo léo mình ngó nó cái, nó mắc cỡ hay sao không biết, nó lại rắc rối. Thực sự ra nó không chịu mình nhìn nó đâu. Nhưng mà mình bắt buộc mình phải nhìn nó để mình điều khiển nó chứ gì? Cho nên nó làm đủ thứ chuyện ở trong này hết à, nó rắc rối lắm.
Mình nhìn nó một hơi cái nó làm cho căng cái đầu mình. Có phải không? Nó làm rắc rối. Mình không nhìn nó, không căng đầu. Mình nhìn nó, nó căng đầu. Nó chơi cái kiểu nó làm rắc rối mình. Cho nên nó bảo mình, cái thân của mình đó nó bảo mình: “Đừng có ngó cái nội, mà hãy ngó cái ngoại đi. Anh điều khiển được cái ngoại, chứ cái ngoại anh nó cũng tự động nó sai khiến, nó làm tầm bậy đó”.
Mà mình nhiều khi cái Thân Hành Ngoại của mình không biết, nó làm rồi nó mới biết, mình biết sau cái hành động nó. Tất cả những cái này đều là do cái tự động của cái nghiệp của nó. Cho nên…
Phật tử 3: Nó quen cái thói quen.
(17:31) Trưởng lão: Đúng đó con. Nó quen cái thói quen đó rồi. Cho nên cái Thân Hành Nội, là nó cũng theo cái nghiệp của nó. Cho nên theo cái nghiệp mà gọi là đặc tướng đó: có người thở dài, có người thở ngắn, con hiểu không? Chứ nó đâu có phải người nào cũng thở giống người nào đâu. Cho nên đó là cái nghiệp của người ta.
Cho nên cả cái Thân Hành Ngoại là mình điều khiển được cái Thân Hành Ngoại của mình. Cho nên vì vậy đó, mình bây giờ mình tập điều khiển cái Thân Hành Ngoại, rồi mình mới điều khiển cái Thân Hành Nội.
Cho nên như chú Lĩnh đó, chú bây giờ chú nhận ra cái hơi thở chú tu hoài không được, tức là cái Thân Hành Nội chú ngó nó. Nếu mà chú ngó được coi chừng chú rắc rối đó, chú bị tưởng. Cho nên chú bây giờ chú chỉ cần có điều khiển được cái Thân Hành Ngoại chú thôi. Nhưng khi mà điều khiển được Thân Hành Ngoại rồi, mình mới điều khiển được Thân Hành Nội, tức là mình nhìn nó mới dễ.
Cho nên cái Chánh Niệm Tỉnh Giác, coi vì vậy là cái pháp đi trước hơn là cái pháp Định Niệm Hơi Thở. Cho nên đức Phật dạy, con đọc lại mười bốn cái Thiền Định của Phật. Đầu tiên mà chúng ta tu Tứ Chánh Cần, thì cái Chánh Niệm Tỉnh Giác là đi đầu tiên hết mấy con. Chứ không phải là cho cái hơi thở đi đầu tiên đâu, cái hơi thở là sau cùng đó.
Chánh Niệm Tỉnh Giác rồi Định Vô Lậu. Nó, khi mà tỉnh giác rồi mình mới vô lậu. Vô lậu rồi đó, mình mới thư giãn. Định Sáng Suốt đó, là thư giãn đó. Rồi mới tới Định Niệm Hơi Thở. Định Niệm Hơi Thở nó sau cùng. Nó bốn cái định, mà cái Định Niệm Hơi Thở nó sắp xếp có thứ lớp lắm. Chứ không phải là mình muốn tu ngang xương vô ai cũng dạy mình hơi thở, trời đất ơi! Tu cái kiểu này, tôi ngó hơi thở của tôi thôi nó rối loạn tôi rồi. Nó sai đó con.
Phật tử 3: Nhưng mà tu cái Định, Tứ Chánh Cần trước hay sao?
Trưởng lão: Tứ Chánh Cần đó con. Bởi vì Tứ Chánh Cần nó mới có bốn cái Định nó tu.
Phật tử 3: Dạ từ hôm đó đến nay Thầy không có dạy tụi con Tứ Chánh Cần, mà đi vô Định Niệm Hơi Thở.
Trưởng lão: Thầy tưởng là con biết. Bởi vì, Thầy nghĩ rằng con sẽ đọc sách Thầy rồi, biết rõ rồi. Chứ trên Tứ Chánh Cần đó, bởi vì Tứ Chánh Cần nó bảo mình: “Ngăn ác, diệt ác. Sanh thiện, tăng trưởng thiện”.
Phật tử 3: Dạ, … (Không nghe rõ) con biết có Định Vô Lậu, ở nhà có biết mà vì sợ tu trật.
(19:29) Trưởng lão: Thành ra khi vô đây, thì chuyên sâu vào trong cái Định Niệm Hơi Thở. Rồi tập đi kinh hành, rồi này kia là Chánh Niệm Tỉnh Giác, để mình ôn cố trở lại để cho nó củng cố, cho nó vững chắc đó. Thì do cái sự tu tập mà vững chắc như vậy, nó căn bản, để cho mình không còn trật nữa. Nhân dịp hôm nay thì Kim Tiên hỏi cái Thân Hành Nội và Thân Hành Ngoại để phân tích thử, cho biết.
Thân Hành hầu hết là nó là thân nghiệp. Nó do cái nghiệp của đời trước mình tạo ra cho mình mới mang cái thân này nó có sự hoạt động như vậy. Cho nên từ cái hơi thở, rồi từ cái, mỗi cái hoạt động trong thân của chúng ta đều là do cái nghiệp của chúng ta, gọi là Hạnh nghiệp, hay là Hành nghiệp. Cái Hành nó là do cái nghiệp của mình.
Đó cho nên thí dụ như người ta nói “làm chủ nghiệp”. Làm chủ nghiệp tức là làm chủ cái Hành của nó. Mà làm chủ cái Hành của nó, tức là làm chủ cái Hành của thân của mình, thì phải làm chủ cái Thân Hành Nội và cái Thân Hành Ngoại. Các con hiểu không?
Mà làm chủ cái Thân Hành Nội và Ngoại, thì trước tiên chúng ta phải làm chủ cái Thân Hành Ngoại thì nó dễ. Bởi vì chúng ta muốn đưa tay, thì chúng ta muốn đưa tay thì cánh tay nó sẽ đưa, chứ nó không có thể, nó tự động nó đưa trước. Nhưng phần nhiều là cái nghiệp của chúng ta, nó bảo chúng ta, nó thấy muốn cái đó, cái nó đưa tay nó lấy ra, chưa có qua cái ý của mình bằng lòng hay là không bằng lòng, phải không?
Cho nên nó nhanh quá đi. Vì vậy mà bây giờ chúng ta tập, để chúng ta muốn, thì nó đưa ra nó làm; mà chúng ta không muốn, thì nó không có được đưa ra nó làm. Cho nên vì vậy, do đó chúng ta mới điều khiển để mà chúng ta làm chủ cái nghiệp. Làm chủ cái nghiệp tức là làm chủ cái Thân Hành.
Vì vậy mà các con thấy mới có những cái điều kiện mà mình cứ tác ý ra lệnh, tác ý ra lệnh ấy, là để cho cái ý thức của mình nó phải điều khiển cái Thân Hành của nó, đặng cho nó trở thành quen.
Phật tử 1: Cái ý trước, cái hành sau?
Trưởng lão: Đúng rồi, cái ý nó phải đi trước cái hành thì như vậy là mình làm chủ nghiệp. Do đó làm chủ nghiệp thì nó không còn đau khổ. Mà không làm chủ nghiệp thì nó sẽ đau khổ. Các con hiểu chưa? Cho nên mình chuyển nghiệp là mình làm chủ được cái nghiệp, mà mình chuyển nghiệp không được thì mình không làm chủ. Cái mục đích của đạo Phật là làm chủ nghiệp.
Cho nên mình tập luyện ở trên cái Thân Hành của nó, vì vậy mà gọi là Thân Hành Niệm. Nó có cái niệm của Thân hành. Cho nên rõ ràng, mà nó có nội với ngoại. Mà nội ấy, mà vô ngay tu nội mình tu sao nổi? Mình sẽ bị lọt vô trong tưởng. Cho nên ngay từ đó người ta phải tập luyện.
Cho nên sau này mấy con có cái giáo trình tu tập đó, thì người ta bắt tập mấy con đi kinh hành, tập Thân Hành Ngoại nó nhuần nhuyễn, rất nhuần nhuyễn người ta mới cho vô trong hơi thở chứ đâu phải dễ. Bởi vì ai bây giờ cũng tu cứ nhào vô hơi thở chứ không có nghĩ là phải đi kinh hành đâu. Cho nên do đó nó sai, nó làm cho chúng ta mất cái căn bản rồi.
Nhưng mà bây giờ nó đã lỡ rồi, thôi bây giờ cứ dạy rồi lần lượt phải dạy cái này thêm, để cho lần lượt người ta xả. Chứ bây giờ nó đã lỡ, bắt buộc người ta bỏ hết, vậy thì người ta không biết người ta tu cái kiểu nào đây. Mà ở bên hồi trước Đại Thừa, rồi ở bên Nam Tông người ta cũng dạy bảo mình về hơi thở nhiều nhất rồi. Mà bây giờ khi không mà vô đây Thầy không dạy hơi thở mà Thầy dạy đi không như thế này.
Thầy dạy ngồi giống đức Phật rồi chứ, mà Thầy dạy, ông Phật thấy đâu có đi, cứ ngồi không. Thành ra coi như là Thầy dạy trật. Cho nên Thầy cũng chưa dám cãi về vấn đề này. Nhưng mà sự thật ra, sau khi mà tu có người chứng rồi, thì Thầy sẽ viết cái giáo trình của nó. Cho nên ngay bây giờ Thầy chưa có viết giáo trình.
(22:35) Giáo trình vô là bắt mấy con liền đi kinh hành, tập luyện cách thức đi kinh hành, tất cả những tỉnh thức. Rồi tu từng cái hành động của các con ở hằng ngày. Để mà từng tác ý ở trên cái Thân Hành để mà tu Thân Hành Ngoại. Sau khi tu Thân Hành Ngoại nhu nhuyến rồi, thì bắt đầu mới cho vô hơi thở, mười tám cái đề mục hơi thở. Tập rất kỹ đó.
Rồi bắt đầu tu tập vậy xong rồi đó mới cho vô tu tập cái Tứ Niệm Xứ, mới trên bốn chỗ này mới tu tập. Rồi bắt đầu mà tu tập Tứ Niệm Xứ thấy nhu nhuyến rồi, cái niệm của chúng ta nó khởi bằng một cái chớp mắt, bằng một cái chớp ánh sáng thôi, nó xẹt vô chút xíu vậy đó, thì bắt đầu chúng ta mới chuyên qua cái pháp Thân Hành Niệm, để cho nó định tỉnh trên từng hành động rất kỹ của nó. Mà nó mới, cuối cùng nó mới thành tựu được.
Nó có cái giáo trình của nó, cái đường đi của nó phải như vậy đó, vạch ra rất rõ như vậy, để mà chúng ta tu tập từng chút, từng chút. Chứ không phải là muốn vô tu cái nào tu ngang được. Còn bây giờ mình chưa có giáo trình, cho nên vì vậy mà Thầy dạy như thế nào mấy con tập, rồi từ đó mình rút tỉa từng cái chút kinh nghiệm với nhau để mình an trú cho được, rồi mình tu tập dần dần, nó có. Nếu mà đã sẵn có cái giáo trình rồi thì mấy con tu đâu có như vậy đâu.
(23:55) Phật tử 4: Thầy cho con hỏi về cái đi kinh hành, đặc tướng của con thì con thấy là, con đi từng bước nó không bị chậm lắm, nó vừa phải, thì con mới nhiếp được tâm con, sáu căn con tập trung vào cái bước chân đó, có đúng, có được không hả Thầy?
Trưởng lão: Được con.
Phật tử 4: Con mà đi nhanh thì con không tập trung được kỹ.
Trưởng lão: Đúng vậy.
Phật tử 4: Con thấy đi càng chậm thì nó lại càng nhiếp tâm được hơn.
Trưởng lão: Càng dễ. Nhưng mà chậm quá thì nó thừa, nó cũng không được.
Phật tử 4: Con vừa phải thôi Thầy.
Trưởng lão: Thì nó vừa, thì cái gì nó cũng vừa đúng, nó không thừa ở bên sức tập trung, mà nó không thừa cái chỗ hành động, thì hai cái này nó phối hợp với nhau nó nhịp nhàng, thì con thấy nó an trú được. Bởi vậy Thầy nói chỉ cần an trú thôi. Cái khéo léo của mấy con tu sao mà được an trú là Thầy mừng. Mà không an trú…
Phật tử 3: Hơi thở cũng an trú, mà đi kinh hành cũng an trú.
Trưởng lão: Cũng an trú. An trú ở trong đó.
Phật tử 3: Tu càng lâu thấy càng ngày nó khỏe hơn phải không Thầy?
Trưởng lão: Đó, đúng đó. Nó khỏe hơn. Rồi càng ngày thấy nó mập ra, tâm hồn vui vẻ, nó không có thấy khổ cực. Đó thì đúng. Mà tu riết buồn rầu, rồi nhớ nhà đó, thì coi trật.
Phật tử 3: Thành ra con thấy đó là quá ức chế rồi đó Thầy.
Trưởng lão: Nó ức chế.
Phật tử 4: Hôm nay con gặt hái được nhiều quá Thầy!
Trưởng lão: Các con thấy, tu mình thích chớ.
(25:10) Phật tử 4: Con bạch Thầy bây giờ có khi con về con lại tu lại Định Niệm Hơi Thở cho thật kỹ ạ. Con nghe hôm nay Thầy giảng con thấy rõ quá ạ. Bạch Thầy ngày trước con nghĩ con đếm nó không nhầm là được, thế là con đã bỏ, con tu chuyển rồi. Thế nhưng con nghe thấy Thầy nói thế này, con cảm thấy Định Niệm đầu tiên là nó quan trọng lắm. Cho nên là con về tu lại…
Trưởng lão: Nó cái nền tảng của cái hơi thở là cái chỗ cái đề mục đầu đó con. Bởi vì nói hơi thở: “Hít vô tôi biết tôi hít vô…” là cái nền tảng của nó đó mà. Lấy cái nền tảng đó mà tu tất cả các cái sau này đó, nó vững đó con.
Phật tử 1: Nghe được thì cũng may. Có nhiều khi con không dám, sáng sáng con không dám, muốn ai có đi đến Thầy cái con muốn đi theo mà không dám. Muốn nghe Thầy nói, có ích lợi …
Trưởng lão: Muốn nghe Thầy nói. Nói chung là ai cũng muốn nghe Thầy nói, nhưng mà không dám là sợ cô Út. Cô Út sợ mấy con động chứ không có gì, rồi tu không được vì không độc cư.
Phật tử 3: Cái vấn đề mà an trú trên cái hơi thở nó khó dữ lắm Thầy, tại vì đó, con nhớ lại, đó là con tập hình như ba năm đầu đó Thầy, làm con rất là đau khổ vì cái vụ mà hơi thở đó. Tại vì, con kiếm nó hoài không được. Thế nên con phải nằm xuống, nằm xuống rồi để tay lên cái bụng con đó, con hít vô thì con thấy cái bụng nó phình lên, thế rồi con thở ra bụng xẹp xuống.
Trước kia thì con theo cái lỗ mũi, ngay chỗ nhân trung chỗ này ra vô, ra vô. Thì con thấy sao nó căng đầu quá. Rồi dần cái nó, theo thầy Nhất Hạnh đó, năm năm sau đó, con mới theo được cái này, mà nó an trú. An trú xong cái con đi qua bên Tiểu Thừa đó Thầy, cái người ta nói không có thở theo mũi, và thở theo phồng xẹp. Con nói con bỏ cái đó.
Trưởng lão: Cái này Mahasi.
Phật tử 3: Theo cái này, rất là khó khăn. Rồi khi mà theo được cái này xong rồi, xong giờ trở lại đây thì nó căng đầu. Nên thành ra con nói thôi kệ đi. Giờ nó an trú chỗ phồng xẹp thôi cho nó an trú chỗ phồng xẹp.
Trưởng lão: Nhưng mà nó, bởi vì bây giờ con chỉ an trú được cái hơi thở con, thì con cũng lìa khỏi cái điểm đó rồi, chứ con cũng đâu có ở, nó chuyển qua cái đề mục đó rồi thì nó rời khỏi rồi, nó không ở đó đâu. Chứ nó không ở chỗ đó hoài. Nó không có lấy cái, nó cũng như mình làm cái nhà thì mình đắp cái nền thôi. Cái nền nó xong rồi, thôi bây giờ chỉ có dựng nhà thôi để mà ở thôi, chứ ai mà ở đó đắp nền hoài. Cho nên người nào cứ lo ở trong cái hơi thở không thì cứ trật, trật lất à. Nó không có phải cái chỗ đó nữa đâu.
Phật tử 3: Hễ mà an trú trên hơi thở rồi, thì mình làm cái gì nữa hả Thầy?
Trưởng lão: Mình bắt đầu đó mới dựng cột, dựng kèo lên, mới cất nhà ở. Tức là sau đó những cái đề mục sau đó nó đâu có còn ở an trú chỗ phình xẹp nữa đâu.
Phật tử 3: Đúng rồi. Tại vì “cảm giác toàn thân” thì cũng đâu có phải ở chỗ…
Trưởng lão: Đâu có ở chỗ đó. Rồi nó an tịnh của mình đâu có, nó đâu có ở chỗ nào nữa đâu. Nó toàn bộ hết cái thân của mình mà. Nó không có còn ở chỗ phình xẹp nữa, nó cũng không ở chỗ này nữa. Đầu tiên đó thì mình, thí dụ như tập trung ở đây, cái đó là cái nền tảng của nó ở đây đó, đặng cho biết hơi thở thôi.
Nhưng mà sau khi nương hơi thở thì thấy toàn bộ chứ đâu có thấy ở đây nữa. Con thấy ở đây là trật rồi. Con cứ con ngồi chú ý cái nền nhà con hoài, mà cái nhà không chịu cất thì làm sao cho được cái gì. Đó, đó là cách thức của nó.
(28:08) Phật tử 3: Vậy thì cái mà “Quán ly tham, tôi biết tôi hít vô. Quán ly tham, tôi biết tôi thở ra”, cái đó chắc mình tu suốt đời hả Thầy?
Trưởng lão: Đâu có. Bây giờ bởi vì, không phải tu suốt đời đâu. Bây giờ con thấy như thế này nè, để Thầy chỉ cho. Bởi vì cái tham nó dễ cho mình thấy lắm. Nó dễ nhận xét qua cái chỗ tham của mình lắm. Tới cái giờ ăn coi mình còn tham không, nó không có thèm ăn, nó không có đói bụng con. Còn con còn tham, nó còn đói bụng đó con, còn tham ăn nó đói bụng.
Còn con không tham, thấy cái thân của mình nó sung mãn lắm, nó không có đòi ăn đâu. Tại vì mình tham ăn, nó đói bụng. Tại vì mình tham ăn, mình nhớ nó mới đói, chứ còn mình không nhớ nó không có đói đâu. Cho nên con thấy có nhiều người, tới cái giờ người ta làm mà người ta quên đi đó, người ta không thấy đói. Phải không.
Người ta quên, làm việc người ta quên đó, say mê trong cái lúc người ta làm, người ta quên đói đi. Nhưng mà xả ra người ta thấy đói, là tại vì xả ra người ta mới nhớ đói. Người ta nhớ, nó mới đói. Còn người ta không nhớ, nó cũng không đói nữa. Còn mình dó, không có tham, nó không có nhớ đói. Mà nó không nhớ đói, thì nó đâu có đói con.
Cho nên tại sao người ta ăn một bữa mà tới trưa rồi người ta cũng không đói, là tại vì người ta không có nhớ. Tới chừng đó, tới trưa rồi mới nhắc đi vậy chứ người ta cũng không đói đâu, bởi vì cái tham nó hết. Tham nó hết nó không có thấy đói. Còn mình còn tham thì tức là nó còn thấy đói: Ờ tới giờ trưa nghe nó đói, tức là mấy người còn tham. Chứ nó không phải đói đâu. Cái thân của mình đói là do cái tâm nó tham, mà nó mới cảm giác đói. Bởi vì khi nó tham, nó mới thúc đẩy cái bụng nó mới cồn cào nó đói.
Cho nên vì vậy nó dễ biết lắm. Cho nên khi mà còn tham thì tôi biết tôi còn phải quán ly tham thôi. Tôi quán chừng nào mà tới cuối cùng, còn không thì tôi dùng Định Vô Lậu, tôi quán thực phẩm bất tịnh, cho nó nhàm chán đi, cho nó không còn ưa thích ăn nữa, thì nó cũng sẽ hết tham.
Bởi vì đối với cái ăn, thì nó tham chỉ ở góc độ đó thôi, chứ mình quán nhàm chán nó đi, thì nó sẽ hết chứ không có gì đâu. Nó có những phương pháp để đối trị nó con, chứ không có sao đâu, cái đó dễ thôi.
(30:09) Rồi còn sân, thì nó hiện tướng qua cái thọ, cảm thọ đau. Con thấy con ngồi suốt ngày mà không đau nhức, không mỏi, không tê gì, thì biết là cái sân nó hết rồi. Còn đau nhức là con coi chừng ai nói con giận đó. Nó giận mà không ra tướng. Không nói người ta, chứ nghe nó buồn buồn trong bụng. Nó ít ít nó ở trong đó nó nghe cái ông đó. Chỉ cần con thử khởi như thế này, cái người đó họ nói vậy mà con khởi ra, con không giận, không gì hết, mà con “người đó nói ác”, là con giận đó!
Con chỉ, Thầy nói nó vi tế đến cái mức độ đó. Mình thấy “cái ông đó nói lời nói ác quá”, mình chỉ cần biết người ta nói ác thôi, thì con sân ở trong bụng mình đó. Nhưng mà nó không có tướng sân, mình không có sân người ta, nhưng mà người ta nói lời nói, mình nghĩ: “tội nghiệp ông đó” thì nó không có ác. Chứ mình nghĩ: “Cái ông đó nói cái chuyện, ông đó nói ác quá, ông nói dữ quá”, thì mình đang bị cái ác pháp đó rồi. Đó, thì cho nên mới đầu tu đó,…
Phật tử 3: Lúc đó mình đâu có biết là mình sân đâu?
Trưởng lão: Ờ mình đâu có thấy sân, nhưng mà thấy ác pháp là thấy sân đó con. Mình phải vi tế lắm.
Phật tử 3: Bạch Thầy, khi mà con nhìn một người đó, thì khi mà con thấy họ làm, cái con nhìn thấy ai cũng tốt, còn cái mà không tốt là không phải của họ. Cái không tốt là cái mà vì hoàn cảnh, vì xã hội, tự nhiên cái tâm thương ấy Thầy, nó thấy rõ rồi, xong tội nghiệp quá.
Trưởng lão: Thì cái sân con nó hết.
Phật tử 3: Tại vì ấy, con thấy cái đó không phải cái của họ. Cái đó là cái vay mượn, cái đó từ bên ngoài, chứ không phải cái đó của họ. Con thấy ai cũng tốt, tốt bằng vậy đó. Nhưng hễ người nào có cái xấu đó, người đó rất là thấy thương, rất là đáng thương đó Thầy. Tại vì cái đó là cái, vì cái hoàn cảnh gì đó họ bị như vậy.
Trưởng lão: Họ mới làm vậy.
Phật tử 3: Nếu mình không có hoàn cảnh đó, mình không có làm vậy. Chứ nếu mình có hoàn cảnh đó, nhiều khi mình còn làm tệ hơn người ta nữa. Nên con thấy nếu mà ai có cái xấu đó, thì cái đó không phải là của họ, và rất là tội nghiệp.
(32:08) Trưởng lão: Thường thường là cái nhìn của mình đó, khi mà người ta làm những pháp ác, thì mình thấy tội nghiệp người ta. Bởi vì chính người đó họ làm pháp ác họ không biết. Mà mình đã thấy, biết tội nghiệp họ, thì trong khi cái pháp ác họ nó đối với mình, tức là lấy mình làm đối tượng của cái pháp ác đó, mà nếu mà mình không thấy tội người đó, thì ngay đó là mình thấy người đó đang làm ác đó. Mình không thấy tội họ, thì tức là cái tâm mình nó có sân trong này.
Còn bình thường, còn như đối với người mà không biết tu, thì ngay cái pháp ác đó thì nó đã tác động vào cái tâm của họ liền rồi. Tức là họ tức giận ra liền, họ sẽ chửi mắng lại, họ làm đỏ mặt lên liền, không có thể nào mà dằn lại được. Còn mình thì tu tập một thời gian sau nó có cái nội lực, nó vi tế rồi.
Tại ở đây Thầy muốn nhận ra cái tham, cái sân vi tế của mình đó. Thì khi mình thấy người đó quá ác rồi, cũng như thí dụ như cô Út rầy mắng ai, “cô Út quá ác”, thì ngay đó là mình đã sân rồi. Chứ đừng nói chưa có sân nhưng mà thấy người ta ác là mình đã sân rồi. Nó vậy đó. Thì đó là cái chỗ vi tế của cái sân của mình, nó vi tế. Từ đó nó mới nảy sinh ra cái sân của mình mới được, chứ còn mình không thấy ác pháp, thì không sân.
Cho nên cái tâm Từ, nó buộc lòng nó dạy cho mình để thấy được cái đáng thương của người khác, chứ không phải thấy pháp ác. Đó, thì do đó nó hóa giải được cái tâm của mình liền ở trong này rồi. Cho nên nói cái tâm Từ nó đối trị tâm Sân là cái chỗ đó. Mà nếu mà mình không thấy qua cái góc độ này, thì coi như là mình bị cái tâm mình nó sai khiến. Rồi nhiều khi mình chịu đựng thôi, để cho nó qua cái cơn đó thôi, chứ sự thật ra, hoặc là khéo léo của mình thôi. Chứ sự thực ra trong tâm mình nó có đó con.
Cho nên khi nào mà tất cả những cái điều kiện mà xảy ra, mình đừng có thấy ai ác hết, thì tức là ngay đó là mình đã thấy cái sân của mình nó hết. Nó hiện ra cái chỗ hiểu biết của mình liền. Hiểu biết như vậy gọi là, cái hiểu biết đó đó gọi là Chánh Kiến con. Cái hiểu biết đó gọi là Chánh Kiến. Nó hóa giải được, nó Chánh Kiến.
Cho nên trong cái thời gian tu tập thì mình chưa được như vậy, nhưng mà thời gian tu tập rồi, bắt đầu nó hóa giải. Cũng như hồi nãy con nói, con nhìn qua cái góc độ khác đó, mà con thấy như vậy, đó là cũng từ cái Chánh Kiến của con, trong cái sự tu tập định tỉnh của con, nó mới nhìn qua cái góc độ đó, nó thấy nó hóa giải được tâm mình. Nó hóa giải tâm mình, tức là nó cứu mình ra khỏi đó, nó không làm khổ mình đó. Đó là cái chỗ đó.
Phật tử 3: Đầu tiên thì con học nhìn cái sân, thì con xem là con học về cái sân là cái gì, và sân nó làm cái gì trên cái cơ thể của mình. Thì con cắt mấy tấm hình mà người ta sân, trong báo nó nhiều lắm Thầy, con cắt, con dán đủ trên một cái khung thiệt là bự vậy đó. Thì con thấy là, có khi sân nó trừng hai cái này lên này Thầy, nó đưa hai chân mày lên, rồi lâu ngày nó cũng tạo thành những cái nếp, cái nếp mà có khi buồn rầu quá thì nó kéo xuống. Hoặc là nó tạo thành những cái nếp nhăn.
Trưởng lão: Nếp nhăn theo cái điều đó.
Phật tử 3: Theo cái đó thì khi mà khoa học người ta nói, nếp nhăn đó đó, mỗi lần bất bình là nó kéo như vậy đó, thì nó cho ra một cái chất hóa học. Cái chất hóa học đó nó rất là hại cho một trong những cái bộ phận trong cái cơ thể của mình đó. Rồi thí dụ như những người mà có hai cái lằn trên này đi xuống vậy đó, là những người sân chứa đựng trong cái gan nó làm hại cái gan.
Trong cái sách khoa học con thấy nó có, mỗi cái nó có liệt kê một cái bộ phận đó. Thế thì con học cái sân nó làm cái gì trên cái cơ thể của mình. Cái bắt đầu đó là con thấy vậy là con mới sợ con không dám sân. Đầu tiên là con thấy sợ, nhưng mà khi từ từ học đạo đó thì con thấy cái sân nó còn ghê hơn vậy nữa, hơn là chỉ trên cái bộ phận trong cơ thể.
(36:00) Trưởng lão: Nghĩa là người ta, ở bên kia người ta nghiên cứu về tâm lý để mà người ta xác định qua được cái thọ, cái bệnh của mình, phải không? Nhưng mà về cái phần mà của Phật giáo thuộc về phần tâm lý không, nó không nói gì cái khoa học mà bệnh đau đâu. Nhưng mà người sân, thì cái tướng trạng của sân nó sẽ sanh ra bệnh. Nó biết vậy thôi à.
Nghĩa là bây giờ anh còn bệnh là tức là anh còn sân. Tui biết chắc chắn trăm phần trăm vậy thôi. Đức Phật xác định cách rất là cụ thể. Thấy cái người nào bệnh nhiều là cái người đó sân nhiều đó. Bởi vì càng bệnh nhiều là sân nhiều, mà bệnh ít thì sân ít. Có vậy thôi chứ không có gì.
Còn khoa học thì chứng minh như con thì cái này là đúng rồi chứ gì, phải không? Mỗi lần buồn rầu thì cái nếp nhăn này nó phải xịu xuống chứ sao. Nó mà sân thì phải trừng lên chứ gì? Mà mỗi lần như vậy thì nó lại huân những gì ở trong bụng của mình để rồi nó sẽ đau bệnh. Thì rõ ràng là cái bệnh đau này là do sân chứ gì. Cho nên cái tướng sân là cái tướng bệnh. Cái trạng thái bệnh là báo cho mình biết còn sân.
Còn cái trạng tướng tham, là nó báo cho mình biết còn tham ăn, tham ngủ. Đó, những cái này mà để cho mình nhận xét về vi tế để cho mình tu chớ. Chứ còn nếu mình không biết nhận xét ra như vậy mình làm sao mình tu. Mà mình đối trị với cái tham, sân của mình, với si, thì ba cái tam độc này, đối trị nó thì mình phải nhận biết được, để rồi tuần tự tôi sẽ tu tập, tôi sẽ hóa giải được cái này. Cho nên tâm tôi không còn tham, sân, si nữa. Phải không?
Cuối cùng thì mình biết cách được, mình tu tập, mình hóa giải nó hết à. Các con thấy không, mình đi thẳng vào cái chỗ tham, sân, si của mình mình quét ra, chứ đâu mình đâu có tránh né nó đâu. Cho nên cái mục đích của Phật là dạy mình những cái pháp ngay, thẳng vào tham, sân, si, tác ý là ngay cái phương pháp tác ý. Cho nên đức Phật nói: “Tác ý một cái tướng khác của cái tướng đó”. Bây giờ tôi sân, tôi tác ý: “Đừng có sân!” nè, nó sẽ hết liền. Chứ còn mình để sân, nó cứ sân hoài.
Phật tử 3: Nhưng mà có phải tại vì mình muốn nhiều là mình tham, mà không được thì mình mới sân không Thầy?
Trưởng lão: Đúng. Đúng vậy con. Thì lẽ đương nhiên là tham không được mới sân. Mà nếu mà con không si thì con không tham, tại vì con si con mới tham. Cho nên cái khối này nó liên hệ với nhau lắm. Phải không.
Cho nên khi mà con muốn cái đó mà không đạt được, thì con mới mắng chửi người ta chớ? Chứ con không khéo làm sao. Do đó, con bị mắng chửi, thì con bị người ta chửi con, thì con đâm tức lên con cũng sân lại. Còn ông kia ông đạt không được cái muốn của ông, ông cũng sân ông chửi người ta.
Phật tử 3: Như vậy đó thì ba cái hạnh đó nó làm cho mình cắt đứt…
Trưởng lão: Cắt đứt ba cái này đó con. Chớ không phải đâu.
Phật tử 3: Dạ. Cho nên hễ mình ăn ít lại rồi thì cũng bớt đi…
Trưởng lão: Bớt sân, bớt tham rồi con. Rồi bớt sân, hễ mà nó ăn ít được, thì cái sân nó cũng giảm. Rồi nhẫn nhục đó, là đối với sân đó con, là nhẫn nhục đó, tức là tùy thuận đó. Ăn, ngủ, độc cư này ba cái hạnh này này, nó giúp cho mình nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng đó. Nó sẽ giúp cho mình, sáu cái đức hạnh này nó sẽ giúp cho mình đó. Nó quan trọng lắm.
Cho nên trên cái bước đường tu, nó chuẩn bị cho mình được đủ cái tư thế để cho mình chiến đấu được cái tham, sân, si của mình. Khéo léo thì mình đạt được đó. Vậy mà đức Phật còn trang bị cho mình cả một cái lô nữa là đề mục Định Niệm Hơi Thở đó con, rất hay đó. Cho nên mình có phước thiệt. Thầy nói đúng là mình sanh ra cái cuộc đời này, rồi gặp được Chánh Pháp của Phật, rồi biết được cách thức tu đó, mình thấy nó hạnh phúc chứ. Tại mình không muốn đi thôi chứ cỡ muốn đi thì …
(39:19) Phật tử 1: Con cứ phân tích vầy mà con thấy sao con hạnh phúc quá, con sung sướng vô cùng. Con nói mình được có thân làm người nè, rồi cái mình được sanh vào thời có Phật pháp này, rồi cái mình lại chịu tu nữa. Chứ mà có nhiều người không chịu tu, mình chịu tu. Chịu tu xong rồi cái mình lại được gặp Thầy nữa. Mình gặp Thầy cái Thầy hướng dẫn đúng cái Pháp rồi mình cố gắng mình thích mình tu được nữa. Thành ra con nói sao mà mình may mắn quá chừng!
Trưởng lão: Rồi mấy con thấy, bây giờ đó, cái hoàn cảnh mà thuận tiện cho mình tu, bây giờ mình tìm một cái nơi mà thuận tiện như thế này mấy con, khó lắm không phải dễ đâu. Không thấy có đâu. Bây giờ về đây, mấy con thấy là yên ổn nè, phải không. Rồi ăn ngày một bữa có người lo cho mình, các con khỏi lo gì hết. Cứ tối ngày cứ lo mình mài miệt mình tập luyện thôi.
Coi như một người ở không mình mài miệt tập luyện thôi chứ mình có làm gì đâu. Và cuối cùng, thì mình hoàn tất được con đường này, phải không? Còn những cái chuyện khác mà nó nhỏ nhặt nó xảy ra thì thế nào cũng phải có chứ làm sao không. Nhưng mà mặc nó, làm cái gì, tụi tui có làm gì đâu mà sợ.
Phật tử 1: Như công an rượt.
Trưởng lão: Như công an rượt (Không nghe rõ). Đúng vậy. Cũng như mà cái chuyện mà Thầy đi ẩn bóng vậy thôi, đâu có gì mà phải lo. Cái chuyện đó là cái chuyện mà mình đối phó với cái mặt ở bên ngoài, bởi vì nó là ác pháp rồi, thì mình nhiều cái sự linh động như vậy.
Nhưng mà cái tâm tha thiết tu thì chắc chắn mấy con không có mất phần gì về cái vấn đề đó đâu. Tại mình không tha thiết tu, chứ còn tha thiết tu thì Thầy nói không có bao giờ mà thiện hữu tri thức người ta rời bỏ những người mà tha thiết tu, người ta luôn luôn lúc nào người ta cũng muốn giúp đỡ cho mình.
Phật tử 1: Con thấy ở nhà là khó lắm. Như nhà con thì hiện giờ cũng vắng người, có thằng con trai nó đi làm suốt ngày, có hai vợ chồng con nhưng mà cũng phải còn nấu ăn. Chứ đâu ở bển đâu có mượn người nấu được. Ở xứ người đâu phải như mình bên đây có tiền mượn người nấu được. Như con đi nấu ăn con cũng phải lựa, hay đi shop, rồi mua đồ, mua đạc thì cũng còn phải còn chạy theo dục.
Trưởng lão: Thì tức là mình mua là mình phải nói là “bữa nay mình ăn cái này chứ”, tính toán ở trong cái đầu mình, chứ mình đâu có không tính được.
Phật tử 1: Không tính đâu được, tính làm cái này cái kia. Thí dụ bữa nay ăn cái này ngán, tính ngày mai làm …
(41:34) Trưởng lão: Chứ không lẽ mà ăn hoài một thứ, cái bụng của mình nó bị…
Phật tử 2: Con thấy gạo lứt muối mè là hay nhứt, khỏi tính gì cả.
Trưởng lão: Đệ nhất.
Phật tử 1: Con nói thí dụ như chỉ có nước là mình đi xin ăn, như về đây cô Út cho ăn là sướng quá.
Trưởng lão: Thì cái đó là tiện nhất rồi con. Theo Thầy thấy thì…
Phật tử 1: Chỉ có người nào mà nấu cho mình ăn vậy rồi mình không chạy theo, cho ăn cái gì thì ăn cái nấy, mình khỏi có phải nghĩ nay ăn cái này rồi mai đổi cái kia.
Trưởng lão: Nó không chạy theo cái dục con. Cái tham của mình nó không có được.
Phật tử 3: Con cảm thấy ở đây thì tu là tốt nhất vì mỗi người một góc đó. Chứ mình đi mấy chỗ khác thì, cái pháp đó người ta chưa có giúp mình ráo riết. Vả lại nữa, tu chung tu không có được.
Trưởng lão: Tu chung nữa. Nó không có cái riêng.
Phật tử 3: Tu một cái thiền đường năm, sáu chục người, cả trăm người đó.
Phật tử 1: Cái tâm mình đâu có yên ổn được.
Phật tử 3: Còn ở đây mình ở một mình đó Thầy.
Trưởng lão: Người mới, người cũ người nào cũng ở một mình. Nghĩa là người nào người ta có tâm tha thiết tu mà người ta ở lại tập trung cho người ta vô một cái thiền đường đông vậy thì coi như là chơi cho vui chứ tu cái gì được. Nó động hết rồi. Cho nên cái môi trường mà để tạo ấy, thì nó cũng khó chứ không phải dễ. Nhưng mà mình được cái môi trường mình tu, thì ráng tu.
Phật tử 1: Ở bên nhà con ở bên Úc ấy thì cũng yên tĩnh. Nhà cũng rộng thênh thang yên tĩnh, mà chỉ có cần phải có người cho mình ăn bữa cơm thì được. Còn này đâu có ăn vậy được, ở bển tự nấu.
Trưởng lão: À Thầy mà nếu mà có người nào bên Úc mà tu được, Thầy qua bên đó Thầy mở cái thiền đường giống như bên đây này. Cái qua bên đó mấy con bên đó mới vô tu. Có người tu được, mà bây giờ có người tu mà được rồi, thì nó mới giúp những người mà ở bên đó, mà cả những người ngoại quốc người ta vô tu nữa.
Phật tử 1: Ở bển nếu mà trường hợp mà có vậy thì người tu không biết bao nhiêu người, con nghĩ là vậy.
Trưởng lão: À thì đương nhiên là mấy con cứ tu đi rồi cái ước vọng đó thì nó sẽ có mấy con, nó sẽ có. Miễn là Thầy đào tạo được những cái ông A La Hán, thì bao giờ Thầy bảo phải đi qua bên đó đi, chứ đừng có ở đây.
(43:18) Phật tử 1: Con thấy chỉ có vậy là được, chứ ở bển thì đất rộng thênh thang, có thể cất này kia được, cũng như mình mở ra được. Nhưng có cái là, thí dụ như tự túc tu như nhà là không được. Bây giờ thí dụ như mình cũng phải còn nấu ăn. Còn ví dụ như có một cái chỗ, tổ chức, thí dụ người nào nấu như là ở đây cô Út cho ăn vậy đó, rồi cái người nào tu thì tu.
Trưởng lão: Thì mới vô tu mới được. Không, điều kiện là, vấn đề nếu mà Phật pháp được chấn chỉnh đó, cho nó đúng cách, có người tu xong ấy, thì nó không những ở đất nước Việt Nam đâu mấy con. Nó sẽ ở các nơi, từng chỗ nào mà có cái duyên ấy, thì mình sẽ đưa cái người đó. Nhưng riêng bây giờ thì Thầy nhất định là Thầy chưa có đi mà đem pháp bán rẻ đâu. Bán rẻ mà nói Thầy đi ra ngoại quốc đi kiếm tiền Thầy không có thèm đi đâu, nhất định là Thầy không có đi.
Phật tử 1: Nếu như ở bên Úc là được nhiều hơn là hạnh phúc dữ lắm…
Trưởng lão: Nhưng mà khi mà tu rồi ấy, thì đề nghị những người đó, họ sẽ đi. Tức là Thầy quán chiếu họ, và họ cũng quán chiếu họ có cái duyên ở đâu, Thầy sẽ đưa cái người đó về đó, để cho họ đến đó. Thì mấy con sẽ có cái duyên thì mấy con sẽ mua đất, mấy con bỏ tiền, hùn tiền nhau mấy con mua đất, mấy con lập cái tu viện như cái kiểu này.
Từ cái mô hình này, các con sẽ nhân rộng ra những cái mô hình mỗi người một cái thất nhỏ, đơn giản, sống ba y một bát. Người nào đến đó thì coi như là đồ cá nhân họ vừa đủ để mà họ sống ở trong đó được thôi.
Phật tử 1: Tụi con ở bên Úc thì cũng không có mấy người. Có nhóm chắc chừng bốn, năm người thì có thể…
(44:53) Phật tử 2: Cái chuyện này thì con định tới bữa về con mới trình Thầy, thì sẵn cái chuyện nó khơi ra, con xin được trình Thầy hôm nay. Từ ngày Sư Tuệ Tĩnh trở về bển đó, thì Sư Tuệ Tĩnh bệnh, và có lẽ là Sư Tuệ Tĩnh khó trở lại đây với Thầy ở một thời gian lâu. Nếu có thể thì về đây ngắn hạn thôi. Thì Sư Tuệ Tĩnh bị bệnh lao.
Thì Sư Tuệ Tĩnh khám bệnh ra lao rồi, thì người ta mới hỏi rằng ai phụ giúp sức cho Sư Tuệ Tĩnh? Thì Sư Tuệ Tĩnh nói vợ chồng con. Thì bệnh viện họ mới gửi giấy đến họ kêu nay hai vợ chồng đi thử máu chữa bệnh. Hiện giờ thì Sư Tuệ Tĩnh ở nhà, mà mỗi ngày thì bệnh viện người ta cho y tá đến phát thuốc cho Sư Tuệ Tĩnh uống.
Thì trong lúc đó thì Sư Tuệ Tĩnh về, thì cũng có cái chương trình của tụi con là kiếm một miếng đất xây tạm lên ở bển một cái chùa, cái tu viện. Thì anh em tụi con cũng có mấy người thôi. Thì tụi con chung đụng vô, rồi tiền mượn thêm. Mượn không lời, không thời hạn. Thì trước khi con về đây, thì con cũng đã có ký contract (hợp đồng) với một miếng đất bốn mẫu, thì chỗ đó rất là yên tĩnh, đó nửa trái núi, nửa trái đồi mà phía sau là cánh rừng cả trăm mẫu.
Rất là yên tĩnh mà chung quanh thì mấy miếng đất kia thì cũng bốn, năm mẫu lớn không à, thành ra rất là xa vắng người ta. Nhưng mà cái duyên nó chưa tới, tuy rằng tụi con ký contract với người ta cao hơn, nhưng mà mua không được, là tại vì tụi con ký contract một trăm tám chục ngàn, nhưng mà cái contract tụi con đưa sau người ta một buổi. Còn cái địa ốc khác, nó đưa cái contract có một trăm bảy mươi tám ngàn thôi, mà chủ bán họ đã ký cái contract một trăm bảy mươi tám rồi. Thành ra contract tụi con một trăm tám chục mà mua không được.
(47:23) Thì tụi con cũng quyết là tạo nên ở bển một cái tu viện để nối tiếp ngọn đuốc của Thầy, thì trong đó thì có Sư Tuệ Tĩnh về ở đó tu tập. Chứ còn về nhà thì không tu tập được. Thì Sư Tuệ Tĩnh về, thì có nói với con, nhờ con là hộ thất giùm Sư Tuệ Tĩnh. Thì trong lúc đó nếu Sư Tuệ Tĩnh tạo nên được một cái chỗ như vậy rồi đó, thì Sư Tuệ Tĩnh tu, con thì lo về vấn đề ăn uống.
Thì sáng ra con lo ăn uống cho Sư Tuệ Tĩnh xong rồi thì con tu tập. Thì con thấy vậy cũng được, tuy rằng con tu có phân nửa thôi, nhưng mà con cũng lo được Sư Tuệ Tĩnh hoặc là những anh em khác, ở tiểu bang khác, hoặc là ở châu khác, mà nếu có biết thì về đó, thì cũng mỗi người một cái thất. Có thể xây một cái, ban đầu tụi con tính kéo cái caravan, mỗi người một cái nhà nhỏ vậy đó, kéo đó. Sau này có thể là cất một cái garden khác, tạo thành một cốc nhỏ như ở đây. Với miếng đất như vậy thì rất là rộng, cất được rất nhiều thất.
Con về đây rồi thì chắc hổm rày ở nhà, anh Tịnh Minh đó, chắc cũng ngưng kiếm, bởi vì có mình con với ảnh là lo đi kiếm đất, kiếm chỗ thôi. Thành ra chắc phải đợi con về thì mấy cái chuyện đó mới xúc tiến nữa. Nếu mà cái chuyện đó được rồi, con cũng ước ao rằng có tạo được đó rồi thì có dịp thì thỉnh Thầy qua, rồi mời anh em ở các châu khác về đó, cho Thầy cho nhập hạ.
(49:14) Trưởng lão: Được mà, đâu có gì, có duyên. Mà biết đâu mà chừng con mà tạo được rồi, biết chừng có người mà tu xong rồi, Thầy cho qua bên đó luôn, ở bên đó để mà hướng dẫn ấy chứ, đừng có lo. Người ta có kinh nghiệm rồi, bắt đầu người ta qua người ta lấy kinh nghiệm người ta dạy mấy con, mấy con tu rất dễ mấy con, không có khó đâu.
Phật tử 1: Thầy cho con thấy mà nếu mà về bên Thầy rồi, thì tụi con về nhà thì cũng như không. Nhà khó mà tu được.
Trưởng lão: Đúng rồi, Sư Tuệ Tĩnh với mấy con tính mà làm cái nơi đó, thì Thầy cho đó là cái tốt nhất đó con. Cho nên hôm ông Thạch mà ở bên đây mà về đó thì Thầy cũng có nói với ông Thạch là tìm cái nơi, nói Kim Tiên là tìm cái nơi mà cái điều kiện…
Phật tử 1: Thầy nói ông Phạm Ngọc Thạch, Từ Quang, ở bên Mỹ?
Trưởng lão: Phạm Ngọc Thạch, ở bên Mỹ. Thì do đó thì Thầy có nói với ông Thạch vấn đề mà tìm một cái cơ sở, chứ mình đến chùa người ta mình tu không có được đâu.
Phật tử 1: Không có được, anh Từ Quang ảnh về chùa ở bên Đại thừa anh tu, chùa tu theo Tịnh Độ, ảnh đi vòng vòng, vòng vòng, ảnh đi, ảnh ráng ôm mà cũng không được, ngồi tu không được. Tại vì khác người ta thì cũng không thể nào mà…
Trưởng lão: Cho nên Thầy cũng, bây giờ Thầy thấy nó còn làm việc nhiều quá, nhưng mà điều kiện nó mới thôi, để rồi ăn Tết xong rồi đó, thì khép vô từ từ, chặt chẽ, để cho nó tu được. Nếu mà nó tu được, thì đưa nó về bên đó là chắc ăn, bởi vì nó hộ khẩu ở bển.
Phật tử 1: Ai hả Thầy?
Trưởng lão: Từ Quang con, nó lên trên mạng đó. Nó lên trên mạng. Tất cả những cái bộ sách Thầy nó lên mạng.
Phật tử 1: Anh Từ Quang ảnh cũng quyết tâm dữ lắm Thầy?
Trưởng lão: Nó quyết tâm, nhưng mà có điều hoàn cảnh Thầy nói rất động đấy. Nó về đây nó ở mà Thầy thấy động dữ lắm.
Phật tử 1: Ảnh hiền, với con thấy ảnh cũng tốt.
Phật tử 2: Mục đích của Sư Tuệ Tĩnh và tụi con, thì là tạo ra một cái chỗ tu đó, để anh em mà ở bên Úc hay là ở các châu khác, khi không ở được với Thầy, thì về ở cái chỗ đó được. Thì trước kìa, hôm anh Từ Quang ở với Thầy rồi thì ảnh trở về bển đó, thì ảnh đến một cái chùa bên, Amitabha, theo Tịnh độ.
Ảnh ở trong đó ba tháng chung với người ta. Cái đó là chùa Tàu. Rồi cái chị Ngọc Hương, chỉ bây giờ thì chị sáng ra cái chị đi vô chùa chị nhờ cảnh để mà chị đi tu tập. Như vậy là cũng mấy cái chùa kia rồi chị cũng phải tùy thuận theo cái sư cô ở chùa, thành ra cái tu tập cũng không được gì.
Trưởng lão: Nó không có đi sâu được, nó không có đúng cái môi trường đó con. Nó không phải dễ đâu.
Phật tử 2: Nếu mà tụi con tạo được cái đó thì anh Từ Quang hay là chị Ngọc Hương gì đó, về ở tu tập với tụi con.
(51:52) Phật tử 3: Đất sao rẻ quá vậy anh, một trăm tám chục ngàn mà bốn mẫu.
Phật tử 2: Nó ở vùng xa, nó về như là cái vùng quê rồi.
Trưởng lão: Quê quê cho nó quê, nó yên tĩnh lắm.
Phật tử 1: Ở bển đó đất rộng thênh thang mà cảnh đẹp lắm Thầy.
Phật tử 2: Chớ còn mà ở gần phố mua không nổi. Phải tìm cái vùng xa, rừng.
Phật tử 3: Giống như Thủy cũng đang ở L.A đó, cũng đang đi kiếm một cái nơi cái chỗ đó đẹp lắm, núi nhưng mà bây giờ tuyết phủ nhưng mà cũng rất là đẹp. Thì cây cối cũng nhiều lắm, chỗ đó đất cũng rẻ. Mà gần mấy anh hơn là con. Con thì nếu mà cất cái chùa ở đó thì con đi lên đó thì nó xa lắm. Đi xuống thì nó xa lắm. Nhưng mà chỗ đó thì rẻ. Chỗ đó thì cái nhóm có khả năng mua.
Trưởng lão: Kệ cũng được con. Xa xa, mình cứ miễn mình tu, còn hơn là mình đi về Việt Nam, nó còn xa hơn, còn khó hơn.
Phật tử 3: Bởi vậy con nói thôi giờ để về bên đây đó cố gắng tu tập.
Trưởng lão: Đúng rồi con.
Phật tử 3: Rồi khi mà trở qua đó, thì tính tới chuyện đó.
Trưởng lão: Nó có cái căn bản rồi, nó cũng dễ con.
(53:05) Phật tử 3: Nhưng mà làm sao để mà Thầy…
Trưởng lão: Thầy nó dễ mà. Chuyện mà Thầy đi nó rất dễ không khó gì đâu. Thầy nói Thầy không muốn thôi, chứ mà Thầy muốn đi. Khi nào mà Thầy viết xong cái bộ sách Đạo Đức Làm Người xong rồi, tức là Đạo đức nhân quả xong rồi heng, thì chừng đó bây giờ nó rảnh rang rồi, thì bắt đầu Thầy muốn đi chỗ nào là Thầy đi chỗ nấy, không có ai mà cản trở Thầy được đâu. Thầy muốn đi là xin phép đi hà.
Phật tử 3: Bây giờ Thầy xong chưa hả Thầy?
Trưởng lão: Chưa. Cái bộ sách đó mười tập lận con. Thầy đang tính ẩn bóng để mà Thầy viết cho nó nhanh đó. Một, hai năm Thầy viết cho rồi, cho nó kịp thời đó, chứ không thì…
Phật tử 3: Tức là chưa xong nữa hả Thầy?
Trưởng lão: Chưa con. Cái bộ sách đó chưa đâu.
Phật tử 3: Mà Thầy nói tận tới một, hai năm nữa lận?
Trưởng lão: À một, hai năm nữa mới xong mà con, chớ không phải dễ đâu.
Phật tử 3: Mà xong rồi thì Thầy mới đi?
Trưởng lão: Ờ xong rồi mới đi, chứ bây giờ không có thì giờ đi đâu. Trời ơi, cái bộ sách đạo đức mà con biết, mười tập dày cũng như Đường Về Xứ Phật phải không. Nó cũng y như vậy. Mà Thầy phải viết coi như ngày đêm để mà …
Phật tử 3: Vậy mà mấy anh, mấy chị cứ nghĩ là Thầy mùa hè này Thầy đi.
Trưởng lão: Úi trời đâu có gấp vậy con. Chưa, cho nên Thầy khéo léo Thầy từ chối. Thầy nói: “Tiền nó ăn quá trời Thầy không có đi nữa, biết không”. Gì mà người ta đi có hai trăm mà Thầy đi tới bốn triệu rưỡi lận, đâu có được. Thầy cũng là một công dân mà sao mà ăn Thầy dữ vậy. Chỉ có cái áo không Thầy cởi bỏ, Thầy để tóc, Thầy mặc cái đồ tây Thầy đi à, không có tốn tiền nhiều đâu.
Thầy thì hễ tới chừng mà Thầy muốn đi đâu Thầy cũng đi được hết à. Mà Thầy chưa muốn đi là tại vì công việc của Thầy thôi. Còn Thầy ẩn bóng là vì Thầy tránh cái duyên động thôi, để mà có nhiều thì giờ mình lo làm công việc, để rồi…
Phật tử 3: Như vậy Thầy cũng ở trong cốc Thầy viết?
Trưởng lão: À lẽ đương nhiên là bây giờ Thầy đang soạn thảo, Thầy đang lo cái… Ít bữa Thầy, chừng ba, bốn bữa Thầy gửi cho mấy con cái tập Mười Giới Đức Thánh Sa di đó. Bắt đầu bây giờ cái bộ giới đức Thánh nó ra đời rồi đó. Mà mới có mười giới thôi đó, để mấy con học mười cái giới đức Thánh, mỗi cái giới đức Thánh nó ly dục, ly ác pháp, nó hướng dẫn cho mình cách thức tu tập rõ ràng, hẳn hòi. Giới luật của Phật mà.
(55:05) Đức Thánh đó con. Người nào mà phạm giới là mất cái Thánh Hạnh rồi đó, chứ không phải không đâu. Mình là toàn là, tu tập đây là toàn là sống tu tập để mà làm Thánh không, chứ không phải thứ thường đâu, cái thứ dữ không à. Thứ Thánh không chứ không phải…
Phật tử 3: Nếu mà đã tập được rồi, mình đâu có làm cái gì, mình bỏ nó uổng.
Trưởng lão: Đâu có, mình được rồi đâu có bỏ đâu, không bao giờ. Mình sống quá là hạnh phúc, quá giải thoát rồi, ai mà phá nó được đâu. Cho nên cái Giới đức Thánh là sống kèm với cái con người đó rồi.
Cho nên con biết như Tuệ Trung Thượng Sĩ nè, mà ăn thịt uống rượu là bị Thầy đã nêu vô, Thầy nói, đã cho cái Giới nó đập ông ấy tan nát rồi, đâu có nói ông ấy được Thánh Tăng đâu. Rồi Tế Công Hòa Thượng nè, Tế Điên Hòa Thượng đó, mà ở bên Trung Hoa với Phật sống Cựu Kim Sơn bị Thầy đập xuống hết.
Với Thiền sư Phần Dương đó, làm một bữa cỗ mà cúng giỗ cha mẹ của mình mà cúng bằng thịt, cá đó, Thầy lôi ra Thầy đập hết mấy ông thiền sư này, đừng có nói chuyện mà tự tại vô ngại được đâu. Mấy ông Thánh hạnh mấy ông chỗ nào? Giới luật của Thầy mà đi tới đâu là nó sạc hết tới đó.
Phật tử 1: Bởi vậy bên Đại Thừa có nhiều khi người ta thấy vậy, mấy người, có nhiều người khuyên con, cũng tu nói về tự tại đi không sao, ăn chay cũng như ăn mặn, đâu có gì, miễn mình, cũng như Tế Điên Tăng, so sánh vậy, mình còn chấp.
Trưởng lão: Ừ, mình đừng có chấp. Rồi cái Thánh hạnh của người ta là cái Thánh hạnh là cái sự giải thoát của người ta mà. Các con biết rằng khi mà người ta tu rồi bao giờ mà người ta phạm giới được, nghiêm chỉnh lắm chứ. Ông Phật tám mươi tuổi chưa bao giờ mà ăn ba bữa. Tám mươi tuổi bệnh đau mà nhất định ông A Nan đi xin cháo về đó, ông Phật nhất định là không ăn là không ăn. Đúng giờ là mới ăn. Cái Thánh hạnh của người ta mà. Ly dục rồi nó đâu có còn tham ăn nữa đâu.
Đó cho nên vì vậy mấy con thấy, Thầy đưa cái bộ Giới Đức Thánh đó ra thì nó rất đụng chạm, nhưng mà điều kiện nó rất lợi ích cho những người tu chúng ta biết cách mà vậy chúng ta thực hiện trong đời sống chúng ta cho đúng cách. Mà nó chỉ mới có mười cái Đức Thánh thôi, chứ còn nếu mà một trăm mấy chục cái giới kia mà Thầy đưa ra nữa là coi như chới với hết.
(57:10) Cho nên đối với Hòa thượng Thanh Từ còn, là hoàn toàn cái bộ Giới Đức Thánh này Thầy chưa có… Mà Thầy chỉ cho mấy con đọc mới có mười cái Giới đức Thánh thôi mà mấy ông Hòa thượng này tiêu muốn tiêu hết, người ta đã thấy là không có còn cái chỗ nào. Mà nếu mà đưa vô xin phép Nhà nước này cho nữa, thì kể như là Đại Thừa là tiêu rồi đó. Nhà nước mà cho phép cái bộ Giới Đức Thánh, Mười Giới Đức Thánh Sa Di, nó một trăm sáu chục trang giấy con.
Phật tử 1: Nhưng mà cho … (Không nghe rõ) họ gạt bớt những cái gì không Thầy, hay là họ giữ nguyên?
Trưởng lão: Lẽ đương nhiên là họ, Thầy không có nói động chạm, nhưng mà Thầy chỉ nói những tu sĩ mà tu phạm giới, phá giới thì không phải là đệ tử của Phật. Thầy chỉ nói vậy thôi, chứ Thầy không có nói là Đại Thừa, Tiểu Thừa hay là, không có nói gì.
Phật tử 3: Nhưng mà ngày xưa đức Phật cũng có nói vậy hả Thầy?
Trưởng lão: Cũng có nói vậy đó con. Mà cái người phạm giới, phá giới là Ma Ba Tuần, Thầy cũng nói là Ma Ba Tuần thôi. Thì ai mà phạm giới, phá giới là ma, còn ai không phạm giới, phá giới thì thôi. Chứ Thầy không nói Đại Thừa, Tiểu Thừa, Thầy không có nói cái ông nào hết.
Phật tử 1: Có nói sao thì họ biết… (Không nghe rõ).
Trưởng lão: Ừ vậy đó.
HẾT BĂNG
ĐỘC CƯ - ĐỘC BỘ - ĐỘC HÀNH
Trưởng lão Thích Thông Lạc
(00:00) Trưởng lão: Tức là không có hai người đi. Toàn bộ là bước, là đường đi. Có nghĩa là mình đi ở trên đường có một mình mình thôi. Ờ! "Nhất bái tam bộ" đó. Thì ráng, ráng cố gắng.
Phật tử: Thưa hỏi
Trưởng lão: Con cứ có thất rồi, con cứ sống độc cư thôi con, nỗ lực tu đi con. Chứ đừng có nghĩ lăng xăng, đừng có nghĩ chuyện gì, đủ thứ chuyện hết. Bởi vì…
Phật tử: Con có điều thắc mắc muốn hỏi, xin Thầy giải đáp.
Trưởng lão: Thì cứ hỏi, Thầy chỉ. Cái gì về vấn đề thực hành ấy, còn cái vấn đề mà linh tinh ở ngoài thì thôi con hãy giải quyết.
Phật tử: Thưa hỏi
Trưởng lão: Thì cứ hỏi về cái thực hành. Nó không mất thì giờ.
Phật tử: Thưa hỏi
Trưởng lão: Cứ hễ… cái sự tu á, Thầy nói như thế này các con, đừng có vội tin Thầy, mà hãy thực hiện, mà thấy có kết quả thì tin, mà không có kết quả thì coi như đừng có tin. Phải nói như vậy.
Phật tử: Thưa hỏi. Con thực hành thấy có kết quả ạ
Trưởng lão: Rồi. Bây giờ mấy con còn hỏi thêm gì nữa không con? Con, cái gì mà có hỏi thêm gì…Hết rồi phải không? Cố gắng. Cố gắng thực hành.
Phật tử: Chúng con đội ơn Thầy… Chúc Thầy có nhiều sức khoẻ.
(01:56) Trưởng lão: Tới nơi tới chốn…Khi nào mà Thầy còn mà Thầy dẫn dắt mấy con tới Tam Minh rồi, ờ bây giờ mấy con lậu Tận Minh rồi. Mấy con biết đường về, mấy con thấy được cái nơi về rồi. Thì đó là Thầy đã dẫn dắt mấy con đến chỗ rồi, Thầy xong rồi, đừng có kéo níu Thầy nữa. Phải không? Bây giờ Thầy đi á. Ráng mà tu, mà Thầy dẫn cho tới nơi con.
Phật tử: Chúng con sẽ ráng tu đến nơi đến chốn ạ.
Trưởng lão: Ờ lẽ đương nhiên, mấy con không tu thì mai mốt Thầy cũng đi. Bởi không lẽ Thầy chờ hoài sao. Mang cái thân này khổ lắm, chứ đâu sung sướng gì. Đối với Thầy là tịch nay là năm 1980 á. Tức là 1980 là Thầy tịch năm đó, năm mà Thầy tu xong là Thầy tịch. Thầy không muốn sống, mang cái thân này khổ lắm mấy con. Thầy, ai ham sống chứ Thầy không ham nữa đâu. Nhưng mà vì, Thầy vì lợi ích chúng sinh mà hôm nay Thầy còn kéo dài thêm đó. Rồi vì bộ sách Đạo Đức mà Thầy còn sống thêm mấy năm nữa. Thì các con liệu mấy năm nữa mà mấy con tu. Đức Phật nói: "Bảy ngày, bảy tháng, bảy năm". Mà Thầy sống tới nay là bao lần bảy năm rồi, mà các con chưa tu xong.
Phật tử: Dạ. ba lần rồi Thầy. Từ năm 1980 đến nay 2001 là ba lần rồi ạ.
(02:57) Trưởng lão: Thì đó mấy con lượng. Chớ mà Thầy viết bộ sách Đạo Đức rồi, đứa nào mà tu được, không được, Thầy phủi tay Thầy đi chứ Thầy không dẫn đâu. Ở đó mà sau này, có người khác thay Thầy, họ dẫn đi.
Phật tử: Sao Thầy giảng cái pháp tu nó ngắn gọn dễ hiểu lắm mà Thầy viết được mấy trăm trang ạ!
Trưởng lão: Thôi giờ mấy con nghỉ con. Tắt máy con.
(3:24) Trưởng lão: Mình có cái nghiệp, mình phải vui vẻ mình trả nghiệp. Còn bây giờ nó bỏ ăn thì nó chết.
Phật tử: Tại vì vấn đề nó ung rồi, mà mổ cũng chết.
Trưởng lão: Chúng ta coi như là mình cái phần nào mà mình uống thuốc được mình uống. Coi như là mục đích của mình là trị bệnh.
Phật tử: Nó là ung thư gan. Uống cũng chết.
(3:59) Trưởng lão: Trong khi đó theo Thầy…coi như nó uống nước mà nó có thể nó giảm bớt. Mình sống bình thường vui vẻ. Bây giờ đó, mình phải lấy cái tâm của của mình để đối trị bệnh đau. Cho nên khi đức Phật mà bệnh đau. Đức Phật nói: “Ông có thấy cái thân là vô thường không? Thọ là vô thường.” Vị tỳ kheo nói: “Vô Thường …. Như vậy thì chết sống ông có còn ngại gì nữa không? có đau bệnh ông có còn ngại nữa không?” Ta chấp nhận cái điều đó.
Cho nên vì vậy đó, do vì vậy đó trong cái vấn đề mà tu tập, khi có cái thọ, mà biết cái bệnh của mình sẽ không có sống được nữa, mình vui vẻ, chấp nhận hoàn toàn thì cái bệnh của chúng ta. Đức Phật có nói mà: "Khi mà cái thọ nó tận cùng cái sức sinh mạng chịu đựng của thân chúng ta, thì cái thọ sẽ hoàn toàn mát lạnh". Chúng ta đừng sợ, tâm dao động thì bệnh nó tăng mà tâm không dao động thì bệnh nó giảm. Dù là bệnh ung thư. Thầy nghĩ rằng, khi một cái cơn đau mà nó đến, người ung thư khi mà họ đau, họ đau dữ lắm, cho nên khi mà đến, thì nhất định có những cái pháp hướng: "Thọ là vô thường, ta không hề sợ". Thì khi mình nhắc được cái tâm vậy, nó vững vàng lắm.
Sống chết là cái sự vô thường, không phải là tôi, con người ai cũng có sống chết. Ta không ngao ngán, đừng có sợ, cứ hướng tâm làm sao cho cái tâm nó bất động, nó đừng có sợ, nó đừng có lo, đừng có nghĩ rằng phải uống thuốc này, phải ăn cái kia. Bây giờ thấy nó không cần uống thuốc, không cần ăn. Thì cái tâm giữ cho vững, cái tâm nó bình thường và pháp hướng: "Thọ phải đi", cứ nhắc nó đi thôi. Nếu mà cái nhân quả chúng ta nó còn, tất cả các bệnh này sẽ đi, ung thư cũng đi. Thầy nói cứ về đây mà Thầy dạy mà nghe lời Thầy bây giờ bệnh ung thư nè cũng đi nữa, cũng hết chứ không phải.
Bởi vì cái tâm lực của chúng ta, mà cái tâm không sợ hãi thì nó hết. Mà bây giờ chúng ta vừa sợ hãi mà vừa dùng tâm lực thì không hiệu quả. Tại sao? tại vì vừa uống thuốc để cho nó hết bệnh tức là sợ rồi, mà vừa lại dùng tâm lực tức là chúng ta kết hợp hai ba cái, nó không có hiệu quả. Nhất định bây giờ sống chết, nhất định là lấy tâm mình trị bệnh, chứ không lấy thuốc nữa. Bởi vì thuốc không thể trị hết được. Cho nên đừng có uống thuốc nữa. Mà chỉ lấy tâm trị. Với cái bệnh ung thư là có thể trị hết. Nhưng mà uống nó làm giảm đau hoặc khi nó đỡ vậy thôi. Chứ sự thật ra.
Cho nên vì vậy mà cứ dùng pháp hướng: "Thọ là vô thường, ta không sợ hãi nó". Để nhắc như vậy, để tâm mình nó vững vàng, nó không rung động. Và đồng thời: "Thọ là phải đi khỏi thân này đi", ta sẽ chuyển hoá tất cả những cái nghiệp khổ này, nhất định phải giữ giới luật, không ăn phi thời. Khi đau như vậy, bắt ăn nhiều bữa nhất định là không ăn, ăn chỉ một bữa mà thôi, giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, không nghe ca hát, không giải trí để cho nó quên cái đau đó. Không nói chuyện với ai hết, sống một mình. Hoàn toàn độc cư, bệnh nó hết. Thầy nói nghe tin Thầy đi bởi vì Thầy đã có những trường hợp Thầy trị hết bệnh. Tâm lúc nào cũng thanh thản để chiến đấu.
Phật tử: Nó đau nhức quá thì mình thì làm sao thanh thản được Thầy?
(6:53) Trưởng lão: Thì nó đau nhức quá mình có pháp hướng mà: "Thọ là vô thường. Không có sợ hãi. Tâm phải thanh thản an lạc." Cứ nhắc như vậy
Phật tử: Nhắc thầm hay lớn tiếng ạ?
Trưởng lão: Mình nhắc thầm, chứ không cần nhắc lớn tiếng.
Phật tử: Mình cứ định tâm, coi như là cái đó nằm chứ đâu còn ngồi được hả Thầy?
Trưởng lão: À lúc bấy giờ mình bệnh, mình đâu có ngồi. Đây nè các con sẽ đọc tới cái cuốn 4, cuốn 3 của "Giáo án tu tập của người tu sĩ", có cô Liễu Kim ở ngoài Hà Nội, cô ấy bị ung thư mà bảy lần mổ đó. Mà mỗi lần mổ, tâm cô rất là tỉnh. Cô nhờ vô cái pháp hướng của Thầy, tâm không hề sợ hãi, con không hề sợ hãi. Mà con vẫn sống, vẫn sống bình thường, chồng con, nó thấy con sao mà gan dạ kinh khủng, cô nói thực sự ra nhờ pháp của Thầy, mà con bình tĩnh trước mọi sự đau khổ, mọi sự sống chết như là sợi chỉ mành treo chuông.
Bây giờ cô viết cái bài ra cô gửi cho Thầy, bây giờ cô sẽ còn đi mổ một lần nữa, nếu nó hết là nó hết, nếu nó không hết là cô sẽ vui vẻ mà cô sẽ bỏ thân cô đi, cô không sợ. Thầy nhắc lại cái quá trình mà cô dùng Như Lý Tác Ý thì tâm cô bình tĩnh. Trước khi đến ca mổ, ai cũng sợ, cô không sợ. Cô coi thường tất cả những cái điều đó.
Phật tử: Thưa hỏi. Thì Bây giờ cũng dùng pháp hướng ạ?
Trưởng lão: Thì cũng dùng pháp hướng à, nó bình tĩnh. Cô nói coi như là cô chết mấy lần chứ không phải một lần.
Phật tử: Một giây phút nào khi mình tỉnh táo là cứ dùng pháp hướng hả Thầy?
Trưởng lão: Cứ dùng pháp hướng.
Phật tử: Đến khi nào hết biết thì thôi
Trưởng lão: Hết biết thì thôi. Cho nên…Ví dụ như cô chết mất đi, thì trong khi cô chết nhưng cô vẫn ở trong cái tâm thanh thản, cho nên mọi người ở trong nhà mới chở cô đi vào viện để mà người ta hô hấp, mà người ta cứu cô sống lại. Rồi cô sống lại. Hỏi cô lúc bây giờ đến mà cái giờ phút mà nó đau đến cái mức độ như vậy đấy, thì cô vẫn giữ cái tâm thanh thản, không hề dao động trước cái sự đau khổ, nhắc lại mà. Do đó đến bệnh viện mà cứu thì khi mà cô thấy tỉnh lại cô cũng thanh thản, an lạc, vô sự. Cô không thấy sợ hay mừng hoặc cái gì…
Phật tử: Mình tự lực chứ không cầu tha lực nữa hả Thầy.
(8:53) Trưởng lão: Không có cầu tha lực, không có… nghĩa là bây giờ coi như là không có kêu Quan Âm mà cứu khổ. Con sẽ thấy là cô Liễu Kim, Thầy nói thật đúng là Thầy bảo khi mà Thầy viết bức thơ ra đó, Thầy khuyên cô hãy sử dụng cái thanh Thư Hùng Kiếm, mà cô sẽ thoát sạch tất cả những cái Thọ mà cô đã gánh chịu cái nhân quả của cô. Bởi vì đây là nhân quả của cô, là không phải người nào gánh đâu mà chính cô phải gánh. Mà chỉ có cái thư hùng kiếm là cái pháp hướng tâm sẽ giúp cô đi trong an ổn đi trong sự sống chết của mình. Nếu cô sống thì cô cũng bình an, mà cô chết thì cũng thanh thản. Và khi đó, cô sẽ gặp Thầy.
Nghĩa là lúc nào mà tâm thanh thản an lạc là lúc bây giờ con sẽ gặp Thầy ở đó. Cho nên vì vậy mà cái cô Liễu Kim này, cô rất vững tâm, là cô cái giờ phút cuối cùng mà cô, cô sắp sửa mà cô chết, thì cô ấy nói như thế này, khi mà cô ….chết, cô kêu Thầy: "Con sẽ sống mãi bên thầy". Nghĩa là tâm con đang thanh thản an lạc trước cái thọ khổ nhất đời con mà con vẫn thấy an lạc là con sẽ sống bên Thầy. Thì cô nói vậy cái cô đi mất. Rồi người ta đem cứu cô sống lại. Cô bây giờ cô viết lại cô mới thuật như vậy. Nghĩa là cô đang sống ở trong lòng chư Phật chứ không phải là riêng Thầy đâu. Thầy đã viết bức thư ra Thầy đã dặn cô mà, từ cái giờ phút nào, này nào chứ không cần ai mà hộ niệm cho mình. Phải tự cứu mình.
Phật tử: Đó cũng là một phương pháp chuyển đổi nhân quả.
Trưởng lão: Một phương pháp và cái bài này của cô sẽ giúp cho các con, là cách thức để các con sống được trong lúc mà quá khổ đau. Mấy con biết cái bệnh ung thư mà, mà cô là ung thư ở tử cung, ở buồng trứng.
Phật tử: Con bạch thưa Thầy, con…con bỏ hết coi như là …. Xin Thầy hướng dẫn cho cuối cuộc đời còn lại của con.
(11:06) Trưởng lão: Thầy nói bây giờ mấy con đừng có nghĩ gì hết, mà cứ từ cuộc sống các con giữ được tâm thanh thản, ly dục ly ác pháp. Không ai làm được động tâm con, không dễ giận hờn, mỗi mỗi vật chất nó không làm cho con ham muốn. Con giữ được cái tâm đó. Cho đến khi cái giờ phút chết, con vẫn giữ được tâm thanh thản an lạc, không hề sợ hãi bất động tâm, thì lúc bấy giờ các con bỏ thân này các con sẽ gặp được chư Phật. Sẽ ở nơi chư Phật đang ở. Ở mãi mãi, không còn tái sinh nữa bởi vì cái tâm đó là cái tâm không còn cái nhân để đi tái sinh.
Cho nên các con đừng nghĩ rằng phải tu tới Tứ Thiền làm chủ được. Đúng là để chứng minh cho chúng ta biết cái năng lực của tâm chúng ta có được sự màu nhiệm làm chủ được sự sống chết như vậy, biết được Tam Minh, như vậy. Nhưng mà sự thật đó chứng được Sơ Thiền là đủ, ích lợi chúng ta là tâm bất động.
Cho nên chúng ta chỉ cần giữ được cái tâm bất động. Mà cái pháp hướng, cái pháp Như Lý, thì nó giúp cho chúng ta giữ được tâm bất động mà, có cái gì đau khổ thì chúng ta cứ nhắc nó thôi, thì nó vẫn giữ được sức bình thường, nó không hề sợ hãi đâu. Mà nó không sợ hãi thì nó bất động. Nó bất động thì lúc bấy giờ chúng ta có chết đi, thì chúng ta ở chỗ bất động đó. Tức là “Giới Bất Tử" đó, Đức Phật gọi trong Kinh đó là "Giới Bất Tử". Cái chỗ cái giới đó là nó giữ được nó là không có chết, không có sống chết nữa rồi. Gọi là Giới Bất Tử, các con nghe cái Giới Bất Tử, thiện hạ hỏi: “Thầy cái Giới Bất Tử là gì?”. Thầy nói: “Tâm bất động”. Có vậy thôi. Cái giới mà. Mà đã Giới thì phải giữ. Giữ được cái tâm vô đó thì nó là bất động rồi, cho nên nó là Bất Động Tâm Định
Phật tử: Con thưa Thầy, cái lúc mà nó cuối cùng, nó đuối quá, không còn dùng pháp hướng được nữa thì…
(12:44) Trưởng lão: Nó sẽ lạc vào, coi như đuối quá là nó lạc, tỉnh đến cái giờ phút mình phải tập tỉnh cho tới cái giờ phút khi mà hơi thở dừng.
Phật tử: Đó nghe hơi thở ra vô hoài
Trưởng lão: Được nhưng mà điều kiện là phải luôn luôn phải có pháp hướng tâm.
Phật tử: Chứ nếu mà cái lúc mà hết hướng nổi rồi mà thì còn nghe được hơi thở.
Trưởng lão: Ờ! Nó còn cái biết hơi thở là nó. Thực sự ra thì theo đúng là cái phương pháp mà cái tâm bất động, đến khi mà hơi thở dừng, thì cái tâm thanh thản của nó vẫn biết, cái tâm bất động của nó vẫn biết. Còn mình chỉ còn tập trung ở trong hơi thở. Thì đó cũng là cái biết ở trong hơi thở. Cái biết hơi thở thì nó cũng tốt đó nhưng không tốt bằng cái chỗ giữ tâm sức tỉnh. Nghĩa là mọi người xung quanh, và đồng thời mình vẫn giữ được cái tâm của mình. Bởi pháp hướng đó là pháp giữ tâm bất động. Mà mình lìa cái pháp đó thì mình nương vào cái chỗ nào để bám trụ vào chỗ đó? Định cái chỗ hơi thở là định vào Thân của mình chứ gì, cái Tâm… Khi mà cái hơi thở mất thì nó mất Định rồi là nó tan hoại.
Cái đó cũng tốt nhưng mà khi đó thì chúng ta còn cái giờ phút cuối, ví dụ như bây giờ chúng ta vừa hướng cái câu tâm: "Tâm nhiếp vào hơi thở". Nhắc nó thêm để nó vào hoặc là "Tâm bất động, không có dao động trước cái thọ". Mình còn biết, vừa nhắc rồi thì biết hơi thở ra vô chừng ba, hai, ba hơi thở thì nó tắt thở. Thì đó là cái pháp hướng đó kèm theo với cái tâm đó thì nó hay nhất. Còn bây giờ mình kéo dài mình nằm 1 ngày 2 ngày, mình biết hơi thở ra vô thì coi như là cái sức tỉnh của mình nó còn trong hơi thở, nhưng mà mình bị mê. Sợ nó lọt vào cái định tưởng rồi. Nó mê, nó không còn nhớ tác ý ra nữa.
Phật tử: ở nhà con tập chết …. Bây giờ con gặp được Thầy, con hết sợ chết nữa.
Trưởng lão: Bởi vậy, Thầy căn dặn cho mấy con là cái chỗ cho mấy con biết chỗ bám chặt, đừng có để cái tâm dao động. Sớm muộn rồi mình cũng chết, cái đau nhức thì ai cũng đau nhức. Mà điều kiện của mình phải thọ cái đau nó quá tận cùng. Còn cái nghiệp người ta đau sơ, giống như người ta bị cảm rồi người ta chết. Còn mình bị ung thư nó đau quá, quá sức. Nhưng mà đau tối đa cách nào nó cũng là Thọ. Mà nó đau sơ nó cũng là Thọ. Cái đó là cái Thọ thôi. Cho nên đau ít cũng Thọ, đau nhiều cũng là Thọ. Nhất định là tâm bất động. Có vậy thôi. Không có sợ hãi nó. Thì như vậy đức Phật đã xác định cho chúng ta biết là: "Thọ là vô thường mà". Mà vô thường là khổ cho nên vì vậy mà chúng ta không có ngại, không có sợ Thọ. Do đó, mà chúng ta lấy cái chuẩn đó. Cuộc đời chúng ta đối với Thọ, cứ vững tâm. Thành ra lúc bây giờ chúng ta yên tâm ra đi với cái trạng thái tâm đó không còn tái sinh luân hồi, chấm dứt đi để nó khổ lắm.
(15:35) Nó còn tái sinh là còn khổ. Mà nó còn cái nghiệp thiện, nghiệp ác của nó, nó còn cái nghiệp mà ham muốn của nó, thì tức là nó phải tái sinh, còn mình bất động trước các cái ham muốn, trước các đau khổ này, thì nó không tái sinh. Bị Nghiệp đi tái sanh chứ đâu phải mình đi tái sanh đâu. Mà cái Nghiệp nó còn là nó phải đi tái sanh. Mà bây giờ cái Nghiệp đó nó hết thì nó làm sao tái sanh. Mà bây giờ Nghiệp nó hết thì nó tạo ra thành cái Nghiệp, cái Nghiệp không tái sanh, là Nghiệp không tham, sân, si, cái Nghiệp tâm thanh thản thì cái này vẫn còn cho mình, chứ đâu phải là cái thân hay linh hồn mình còn đâu.
Hai cái này, một cái thì tham, sân, si thì nó luôn luôn nó mãi đi tái sanh luân hồi; một cái nghiệp không tham, sân, si, thì cái này nó chấm dứt tái sanh luân hồi. Cái này cũng phải còn chứ. Cho nên mà Thầy tu thì Thầy cũng phải có chứ không lẽ Thầy tu thì Thầy bị đơ sao.
Mà có là có gì đây. Không lẽ giờ có Phật tánh được ở trong này sao? Hoặc có cái kia. Nhờ cái pháp hướng này mà Thầy huân thành cái nghiệp không tham, sân, si. Phải không? Cho nên cái này nó còn. Cho nên làm sao, cho nên đức Phật nói: "Một cái cây mà chúng ta gọt vỏ, bỏ cái vát đi thì nó còn cái lõi chứ". Nhưng mà cái cây mới mọc có lõi được không? Nếu nó không do cái công phu mà đối trị với cái ác pháp thì làm sao có cái lõi này được, phải không?
Nó thành ra cái này là cái Nghiệp đi tái sanh, còn cái này là cái Nghiệp không tái sanh. Thì bây giờ mình muốn cái Nghiệp không tái sanh thì phải huân tập Nghiệp không đi tái sanh thì nó mới không đi tái sanh chứ. Cái nào nó cũng còn chứ. Cái này thì nó tái sanh, nó khổ hoài; còn cái này nó không tái sanh thì nó không khổ. Mà mình không có tạo ra cái nghiệp này thì phải có cái nghiệp này.
Hai cái, bây giờ hai con đường, nếu con đường tái sanh luân hồi thì cứ đi theo cái nghiệp này thì nó sẽ tái sanh luân hồi; mà cái đường này là không tái sanh luân hồi, thì cứ huân cái nghiệp này đi. Thì cái nào nó cũng còn chứ đâu phải mà nó mất. Cho nên tu vẫn còn.
Phật tử: Con bạch Thầy con có một ước nguyện, ý chí như vậy. Bổ sung cho con đầy đủ
(17:26) Trưởng lão: Ờ! Bây giờ con nghĩ một điều nhưng còn cái hiểu pháp là một điều, rồi còn cái tu là một điều nó đòi hỏi. Bây giờ mình hiểu mà không tu tới chừng đó, cái Nghiệp lực mình, nó lôi cuốn ra, nó không có đủ cái năng lực chống lại nó đâu. Cho nên trong cái đời sống, mình hiểu rồi, thì mình nỗ lực mình biết tu, biết tu. Thành ra từ cái Nghiệp tham, sân, si nó sẽ trở thành cái Nghiệp không tham, sân, si. Mà cái Nghiệp không tham, sân, si này có rồi nó mới đối trị được Nghiệp tham, sân, si.
Do đó chừng mà mình sắp sửa mà mình chết, cái Nghiệp tham, sân, si này nó rất mạnh, nó lôi mình đi, mà mình có cái lực của Nghiệp không tham, sân, si này, nó mới chống lại. Do đó mình mới hoàn toàn mình giữ được cái này. Còn cái này nó mới tan hoại, mất hết. Tức là nó chuyển hết rồi cái khổ đau rồi, không tái sanh.
Phật tử: Con nghe lời Thầy để con cố gắng con tu.
(18:16) Trưởng lão: Thầy nói giữ, đó bây giờ thì các con thấy yên tâm rồi, thấy hiểu biết rồi. Thì ráng lo tu, chứ đừng có cứ mở băng, cứ đọc kinh sách Thầy hoài thì nó cũng không có gì đâu. Thầy nói thực ra thì chỉ là mình giải trí mua vui vậy thôi để nó an ủi cái tánh mình, trong khi đó mình thấy mình buồn buồn. Mình buồn chừng nào, tu luôn chừng ấy, chứ đừng có đọc, đừng có nghe, nói thực sự ra ba cái băng này dẹp hết đi. Cho nên Thầy khi giảng sáu mươi mấy cuộn băng rồi, Giáo án tu tập của Phật giáo cho nó làm sống lại rồi thì Thầy không giảng nữa. Thầy giảng nữa đây Thầy là đào kép, cứ hát nó thu âm nó nghe hoài.
Các con đã hiểu rồi thì bây giờ chỉ còn cứu mình, thắp đuốc lên mà đi, còn ba cái này thì thôi lỉnh kỉnh lắm, bỏ xuống. Sách vở Thầy đọc để hiểu, hiểu rồi dẹp hết, không đọc nữa. Nắm gọn được cái gì tu trước, cái gì tu sau. Cho nên Thầy nói thực sự ra, nếu mà cái người nào tin Thầy, đừng có thèm kinh sách gì hết, lại đây Thầy dạy bây giờ ra lệnh nè, ngồi xuống ra lệnh đứng dậy nè, ra lệnh hít thở này, ra lệnh đi nè. Cứ như vậy làm vậy đi. Rồi Thầy dạy tới dạy tới chắc chắn là chắc ăn rồi. Còn bây giờ đọc kinh sách cho nhiều rồi, Thầy hay quá, cái này là tuyệt diệu, đủ thứ hết. Nó làm cho trong bụng này một bụng, cuối cùng không biết cái pháp nào tu hết. Có phải không mấy con?
Bây giờ thì mấy con phải ráng tập. Rồi ngày mai buổi sáng 7 giờ gặp Thầy, rồi Thầy sẽ dạy về pháp Tứ Niệm Xứ. Thầy dạy cho cách thức biết tu pháp Tứ Niệm Xứ. Để rồi lúc nào mà tu Tứ Niệm Xứ đâu phải mình về. Cũng như bây giờ con về gia đình của mình; mình sống ở trong nhà của mình, thì mình tu pháp nào, rồi bắt đầu cái giờ phút nào, giờ nào mình tu. Chứ đâu phải con tập nó để rồi sau khi nó có đủ duyên, mình mới khép chặt mình trong cái khuôn khổ, một tháng, nửa tháng nào đó, mình thực hiện Tứ Niệm Xứ, tức là như con gà ấp trứng á, hoàn toàn ra con sẽ được nở hết.
Phật tử: Mô Phật! Con cảm ơn Thầy.
(20:13) Trưởng lão: Thì mấy con nhớ lời Thầy dạy thì ráng tập đi, về tập cái này cho thuần. Rồi Thầy sẽ giảng từ cái pháp hướng nó sẽ đi vào, từ cái giai đoạn nào mình nương vào cái Pháp hướng nào. Chứ còn mình chưa có tỉnh thức, mình lo mình hướng những cái tâm ly tham, sân, si. Sức tỉnh thức nó chưa có đủ để mà nó tiếp nhận các ác pháp bên ngoài để nó ly tham, sân, si. Chưa nổi đâu. Cho nên mình cần tập tỉnh thức trước đã. Tập tỉnh thức tức là mình tập mình phá cho được cái buồn ngủ của mình, các con hiểu không? Phá cho được cái buồn ngủ hôn trầm rồi, bắt đầu bây giờ mới có câu: “Tâm như cục đất, quán ly tham, quán ly sân, quán ly si, quán vô ngã”.
Rồi nó mới biết nhiếp phục theo chứ còn bây giờ nó chưa có tỉnh thức, nó còn gục tới gục lui đây mà, biểu nó ly tham, sân si sao được? Nó ngu quá mà, làm sao nó ly! Phải không, các con hiểu không? Tu nó phải vậy. Mình phải ly cái si của mình ra, thì mình mới tham với sân nó mới diệt được, chứ còn si nó còn thì tham, sân nó làm sao diệt được. Cho nên tu tập phải có từng bước, cũng như lớp Một mình phải học cho hết rồi đến lớp Hai, lớp Ba, lớp Bốn. Còn đây Lớp Một chưa rồi muốn lên Lớp Ba, lớp Bốn. Nhưng mà đại khái chúng ta phải biết rằng, chúng ta có những thì giờ mà chúng ta có thể học thêm, học thêm để chuẩn bị cho mình bước lên cái lớp khác, mà mình có căn bản chứ gì.
Đó là những cái học thêm, học thêm mà thì nó đâu phải là cái chuyên môn của chúng ta học tại cái lớp đó đâu. Bây giờ Thầy phải học thêm cái gì cái gì để sau này Thầy lên cái Lớp Hai này đỡ Thầy được bao nhiêu chuyện. Coi như là ông Thầy giáo, ông cho cái bài đó. Thầy là học trò giỏi. Thôi xá Thầy thôi! Con còn hỏi gì nữa con? Hết rồi hả con. Rồi…
(21:54) Mà ở trong Bát Chánh Đạo á, gọi là Chánh Niệm, này có thể quan trọng bởi vì nó còn cái nẻo thứ bảy và một cái nẻo thứ mười là Chánh Định. Thì Chánh Niệm là cái phương pháp dùng để cho người tu sĩ tu, chứ không phải cho người cư sĩ. Cho nên cái pháp Tứ Niệm Xứ là cái pháp rất là tuyệt vời người tu sĩ còn nếu mà người cư sĩ mà không biết tu á vào trong thất chừng ba bữa là cái pháp đó nó cũng đuổi đi ra chứ không cho ở. Cho nên cái pháp mà Tứ Niệm Xứ là một cái người phải “im lặng như Thánh” mới tu được, cái người mà không im lặng như Thánh…
Cho nên các con nhớ kỹ những cái điều mà quan trọng. Nếu mình là tu sĩ tu pháp Tứ Niệm Xứ tức là Chánh Niệm, còn nếu là cư sĩ á, chúng ta có những giờ tu hay chứ không phải không tu Tứ Niệm Xứ được. Nghĩa là chúng ta không tu liên tục hằng ngày, suốt ngày được hoặc là ngày này qua ngày khác được. Nhưng chúng ta có giờ tu. Ví dụ như buổi khuya, buổi tối trong gia đình yên tĩnh.
(23:13) Tất cả những cái hoàn cảnh thuận tiện, trong cái cảnh yên tĩnh. Còn trong những cái cảnh động á thì chúng ta luôn …. Cho nên khi mà hiểu được những cái cách thức và phương pháp tu nó đúng, đúng cái thời của nó, thì nó mới có kết quả. Còn mình hiểu pháp mà tu không đúng thời, và không đúng cái đối tượng tu nữa. Cái thời tu ví dụ như giờ ở giữa chợ mà đem Tứ Niệm Xứ tu thì chắc không được rồi. Cho nên vì vậy ở giữa chợ thì chúng ta chỉ có tu Tứ Chánh Cần là tốt nhất, cho nên nó hợp với cái pháp đó, chứ không hợp với cái pháp kia được. Mà Tứ Chánh Cần mà đem vô rừng thanh vắng một mình ngồi tu á thì tu cũng không được. Nó cũng sai pháp rồi. Cái thời của, cái thời gian mà tu nó phải hợp.
Cho nên hôm nay Thầy nói như vậy thì các con biết cái phương pháp, áp dụng pháp môn của Phật phải đúng cách, đúng thời. Cho nên đức Phật nói mình tu tập đúng thời thì có kết quả, mà không đúng thời thì không kết quả. Cho nên đúng thời của Phật muốn nói là áp dụng đúng với hoàn cảnh mình.
(24:18) Vậy thì hôm nay các con sẽ học cái pháp mà Thầy dạy là Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ nó có bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Nhưng cái pháp Tứ Niệm Xứ là cái pháp của Phật dạy là Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Bây giờ chúng ta học cái pháp đó rồi, chúng ta quan sát lại Thân, Thọ, Tâm, Pháp của mình.
Cho nên Đức Phật nói: "Trên Thân quán Thân” trên cái Thân của Pháp mà đức Phật dạy, mình hiểu cái Thân của Pháp này là khổ, là vô thường. Bây giờ đó, mình quán lại cái thân của mình, quán lại cái thân của mình xem coi nó có phải là khổ thật vậy không? Nó có phải là vô thường không? Khi mình đem nó ra mình quán xét mình thấy pháp Tứ Niệm Xứ nó nói rất đúng. Rất đúng cái Thân Thọ Tâm Pháp của mình, không có chỗ nào sai hết. Vậy thì từ đây mình mới ôm, mình mới nương vào bốn chỗ Thân Thọ Tâm Pháp của mình đây, mà mình nương vào cái pháp, pháp Tứ Niệm Xứ, cái pháp Thân, Thọ, Tâm, Pháp của Phật dạy á để quan sát trên bốn cái chỗ Thân Thọ Tâm Pháp của mình. Rồi hàng ngày hàng giờ, hàng phút, hàng giây không có biếng trễ được, nghĩa là phải là Chánh Tinh Tấn, luôn phải là tinh tấn, siêng năng luôn luôn quan sát lại bốn chỗ này.
Mà hễ thấy nó có một cái chướng ngại pháp nào á chúng ta mau mau đẩy lui nó, không có cho nó ở lại trên bốn chỗ này. Chỉ vậy thôi. Đó là Tứ Niệm Xứ. Chứ không phải ngồi đây mà Quán Bất Tịnh, ngồi đây mà quán Xương Trắng, ngồi đây mà quán thân sình trương hôi thối. Hoặc Quán cái này, Quán cái kia. Không phải đâu.
(25:54) Bởi vì trong cái bài Tứ Niệm Xứ của Phật nó có gồm chung cho nên bài nó không có cụ thể, nó làm cho chúng ta rất khó hiểu. Đức Phật bảo mình Quán Bất Tịnh thì nó cũng nằm trong bài Tứ Niệm Xứ; bảo Quán bất tịnh rồi Quán hơi thở, đủ thứ hết, rồi Quán Chánh Niệm Tỉnh Giác, đi kinh hành, Thân Hành Niệm, đều là nó đã dạy tùm lum trong đó rồi, đều gọi là Tứ Niệm Xứ.
Cho nên người ta đọc Tứ Niệm Xứ, người ta không hiểu. Thực sự ra, thì trong khi đó, trước khi mà chúng ta thực hiện Tứ Niệm Xứ, thì chúng ta đã trở thành một con người rất là thanh tịnh, cái thô nó không còn nữa, cái tâm tham dục, tham ái nó không còn nữa. Chứ bây giờ nếu như mà cái tâm chúng ta còn tham ái, mà ngồi đó Quán Bất Tịnh thì làm sao mà chúng ta ở đây chúng ta quét sạch những chướng ngại nho nhỏ trên thân của chúng ta ra được. Cho nên Tứ Niệm Xứ không phải là cái chỗ mà để cho các người mà còn thô, mà còn tâm tham ăn, tham uống, tham vui, tham dục lạc, tham xe cộ, tham chùa to, Phật lớn mà tu Tứ Niệm Xứ được.
Cho nên quán gì cũng không được hết. Mà đây là cái tâm của chúng ta đã hoàn toàn thanh tịnh, cái thô đã hết rồi, nó còn cái vi tế lăn tăn, nhỏ trong tâm chúng ta thôi. Cho nên chúng ta ngồi tu Tứ Niệm Xứ. Coi như là cái thời khoá tu tập của đức Phật là cái thời khoá để dạy cho người ta tu chứng chứ không phải là…. Không phải ngồi đó mà Quán Bất Tịnh nữa. Mà đây gọi là quét, quét những cái rác rến ở trên Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Nó đang bị nhiễm. Đó là cách thức tu Tứ Niệm Xứ.
(27:24) Như vậy Tứ Niệm Xứ là lúc nào mà người cư sĩ như các con mà muốn tu thì lúc đó là khuya, một - hai giờ khuya, trong gia đình ai cũng ngủ hết rồi, chỉ có mình thức dậy, rồi mình mới tập thể thao cho cơ thể giãn gân, giãn cốt, cho nó tươi tỉnh, nó không còn buồn ngủ nữa, nó không còn lười biếng nữa. Lúc bây giờ thấy nó tỉnh táo xong rồi, bắt đầu chúng ta mới vào, ngồi kiết già hoặc ngồi bán già hoặc ngồi trên ghế, rồi chúng ta tập quan sát bốn chỗ Thân Thọ Tâm Pháp của chúng ta.
Thứ nhất chúng ta quán thân, quán thân chúng ta xem xét từ trên đầu chúng ta tới dưới cái chân, coi nó có cái gì còn cái chướng ngại pháp gì ở trên cái thân không? Nếu không có thì chúng ta tiếp tục chúng ta quán Thân, Thọ, bây giờ cái Thọ của cái Thân có không? Nãy mình quan sát từ đầu tới chân rồi không thấy có cái gì hết, không thấy có một cái vật gì. Bây giờ ví dụ như bây giờ mình quan sát từ ở trên thân của mình tới dưới chân, mình không thấy một cái chướng ngại nào hết.
Bây giờ, mình mặc cái áo rách, bây giờ gió nó lạnh, thì tức là cái áo gió nó bắt buộc mình hoặc là mình mặc cái áo ngắn, hay hoặc là mình ở trần đi, mình không có mặc áo. Thì mình quan sát từ ở trên này thấy, kỳ này mình tu Tứ Niệm Xứ là mình nghiêm chỉnh, nghiêm chỉnh chứ không thể nào mặc áo thun, mặc cái áo ngắn hoặc là ở trần mà ngồi quán Thân, Thọ, Tâm, Pháp, như vậy là thiếu đức hạnh, thiếu đức hạnh ăn mặc. Bởi vì trong giới luật của Phật có dạy đạo đức về ăn mặc mà. Mình phải ăn mặc kín đáo. Trong khi mình ngồi tu như vậy, thân tâm mình thanh tịnh, tức là mình phải ăn mặc thanh tịnh chứ không thể nào như một võ sĩ mà vận công, hay vận nội công hoặc là khí công bằng cách ở trần để mà gồng, để mà vận công. Như vậy mình là một võ sĩ chứ không phải một tu sĩ đạo Phật.
Người tu sĩ đạo Phật, khi quan sát thấy như thế này mặc cái áo này là mình thấy không hợp rồi, thân mình phải mặc cái này không hợp, thôi bây giờ mình mặc cái áo kín đáo. Cái áo đơn giản như cái bình thường, như cái áo vạt mĩa của mấy con như cái áo bà ba vậy nhưng dứt khoát đừng để hở hang, tức là mình tránh những cái gió lạnh này kia. Do đó mình quan sát, thấy lạnh thì mình mặc đàng hoàng, ăn mặc đàng hoàng. Vô mình ngồi lại, mình quan sát từ trên đầu chí xuống, thấy như vậy là được rồi. Mà giờ nghe gió nó thổi lạnh, do đó mình lấy cái khăn mình quấn lên cổ, hoặc lấy cái nón mình đội lên đầu cho nó ấm áp, đàng hoàng. Mình quan sát, mình thấy cái sự thiếu, thiếu ở trên cái thân của mình.
Cho nên do đó gọi là tu Tứ Niệm Xứ. Thấy không? Cái hành động làm như vậy nghĩa là tu Tứ Niệm Xứ chứ gì. Bảo vệ được cái thân của mình nó không bị chướng ngại pháp. Chứ lát đây mình ngồi đây cái gió lạnh quá, chạy đi xách cái nón thì như vậy là mình bị động nhiều rồi. Cho nên mình chuẩn bị được cái thân của mình cho nó yên ổn, thanh thản được, không có bị động. Cho nên gọi là tu Tứ Niệm Xứ. Bây giờ trên Thân, quán Thân rồi, rồi bây giờ Thân nó đã yên rồi, áo y đồ này kia ăn mặc đàng hoàng rồi, nghiêm chỉnh rồi. Bây giờ mới Quán cái Thọ xem nó có cái Thọ như nào, có đau có nhức chỗ chân này, đau nhức chỗ kia, mỏi chỗ nọ không, hoàn toàn không có Thọ. Thấy không?
(30:40) Rồi bắt đầu bây giờ mình quán xét cái Tâm. Mình biết được Thân, Thọ, Tâm mà. Bây giờ tới cái Tâm, quán xét cái Tâm coi nãy giờ mình đã tác ý ra hay hoặc là nó tự phóng ra. Nãy giờ mình hoàn toàn mình chủ động mình tác ý ra để mình quan sát, thì đây là đúng, mà nãy giờ tự động nó phóng ra cái niệm này phóng ra, thì cái Tâm này nó còn phóng dật. Tự nó, nó phóng ra, như vậy là sai. Như vậy mình phải cảnh giác….
Cho nên vì vậy mình phải nỗ lực ngăn ác, diệt ác hơn nữa. Nghĩa là mình tiếp duyên ban ngày, bây giờ mình ngồi lại có hay lăng xăng nè. Phải không? Bởi vì cái người cư sĩ mà còn tiếp duyên, mà giờ mình tu Tứ Niệm Xứ, thì đâu có yên được cho mình. Bây giờ tu sĩ cũng chưa chắc yên nữa. Cho nên nó lăng xăng. Vì vậy mình thấy cái tâm của mình nó lăng xăng như vậy, như vậy hằng ngày là sống tiếp duyên với các pháp cần phải ngăn ác diệt ác rốt ráo hơn nữa. Vì vậy cho nên quan sát rồi mình thấy nhắc cái tâm từ đây về sau phải nỗ lực tu Tứ Chánh Cần nhiều hơn. Nhắc nó như vậy để cho nó nhớ.
Rồi kế đó mình tiếp tục mình quan sát thấy cái Tâm của mình, khi mình biết nó phóng thì nó không phóng nữa. Bắt đầu bây giờ mình mới nhắc nó, cái Tâm mà nếu muốn không phóng ra nữa thì cái Tâm phải định vô hơi thở. Bởi vì nó có chỗ nó định. Mình kêu nó: "Cái tâm phải định vô hơi thở". Bắt đầu mình dặn nó: "Tâm phải định vô hơi thở, nhớ kỹ nha". Bắt đầu mình bảo nó định trên hơi thở của nó định. Thì không phải bây giờ như mình ngồi mình tu Định Niệm Hơi Thở mình nhắc nó, biết hơi thở ra, hơi thở vô rồi. Bây giờ mình ngồi đó mình biết. Không phải đâu, bắt đầu mình lại nhắc nó rồi, mình không có chú ý hơi thở đâu.
(32:13) Bây giờ mình quan sát các Pháp, bây giờ các pháp cái nhà nè có tiếng gió không nè? Tất cả các âm thanh, sắc tướng gì bên ngoài nè, có có ai làm động không? Nghe mọi người im ngủ ngáy khò, im phăng phắc, lặng lẽ là như vậy tốt. Các pháp không làm động mình nữa rồi.
Như vậy các pháp đều rất tốt không có tiếng động lớn, không có tiếng động nhỏ, hoàn toàn là giúp cho mình yên tĩnh. Như vậy các pháp này không có xâm chiếm mình rồi. Do đó, chứ bây giờ khi mình đương ngồi mà nghe hát radio, hát ti vi, nó la um sùm. Thì tức là mình bị các pháp đánh mình rồi. Thôi bây giờ mình không ngồi trên Tứ Niệm Xứ được mà mình ngồi chơi để mà tu Tứ Chánh Cần để mà ngăn ác, diệt ác. Không có gì khó. Tu Tứ Niệm Xứ khi mình quan sát nó không có tiếng động, nó không có, nó yên tĩnh.
(33:11) Rồi bây giờ đó, thì khi bắt đầu bây giờ đó mình nhắc lại một lần nữa: "Tâm phải định lại hơi thở". Khi mình quan sát các pháp nó không làm động mình nữa, tức là không làm chướng ngại trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp của mình rồi. Do đó mình mới nhắc: "Tâm định trên hơi thở đi", bắt đầu bây giờ mình mới thở ra thở vô. Thì trong khi đó thở ra, thở vô, mình độ chừng, chứ không đếm. Độ chừng khoảng thời gian hoặc 10 hoặc là 5 hoặc là 20 hơi thở để cho nó yên tĩnh. Nhưng mà phải nhớ, nhớ nhắc bây giờ quan sát trở lại Thân, Thọ, Tâm, Pháp để xem coi.
Rồi bắt đầu bây giờ mình cũng quan sát cái thân của mình từ đầu chí cuối, rồi cái Thân mình thấy hoàn toàn yên lặng, rồi bắt đầu bây giờ mình vừa quan sát thì nó có Thọ và Thân ở đó nó một lượt. Nếu có cái Thọ con muỗi cắn, hoặc con kiến cắn, hoặc con vật gì, nó làm cho chúng ta đau nhức hoặc ngứa ngáy gì đó thì nó hiện ra liền. Vì khi mà quan sát tới nó thì nó sẽ thấy được những cái vi tế ở trong thân của chúng ta. Ngay liền, ngay liền nó có những chướng ngại pháp đó, chúng ta quán. Bắt đầu mở ra một cái mặt trận, mặt trận tức là cái mặt trận Định Vô Lậu, quán xét coi nó lậu hoặc gì? Dục Lậu, hữu Lậu, vô minh Lậu. Khi mà quán xét những lậu hoặc đó, chúng ta đã biết được cái này là hữu Lậu, cái này là vô minh Lậu. Rồi cái gì là nhân quả, cái gì là không nhân quả, cái gì là duyên hợp, cái gì không duyên hợp.
Chúng ta thông suốt được cái lý này rồi, chúng ta đẩy lui nó bằng cách nào? Nếu Thọ thì đẩy lui theo kiểu Thọ. Mà bây giờ nó lỡ nó bị đau nhức cái đầu hoặc là nhức cái tay. Thì cái Thọ nó nằm ở trong thân nó bệnh, nó đau nhức, chúng ta phải dùng pháp hướng mà đẩy lui. Rồi bắt đầu chúng ta gọi cái tâm tập trung, tức là định vào hơi thở, khi mà cái tâm nó bám vào hơi thở thì cái Thọ nó sẽ đẩy lui đi.
(34:46) Nghĩa là chúng ta có cái mục đích là cách ly khỏi cái Thọ. Cái Tâm với cái Thọ nó rời nhau, bằng cách nó trụ vào cái chỗ khác. Và đồng thời cái pháp hướng ra lệnh cho Thọ rời khỏi Thân, cái Thân của nó hay là cái Tâm của nó để hoàn toàn nó được trở về sự thanh thản an lạc và vô sự của nó. Đó là cách thức tu Tứ Niệm Xứ, cho nên nó rất khoẻ, người biết tu Tứ Niệm Xứ rồi, suốt 1 ngày 1 đêm người ta ngồi, người ta giữ bốn chỗ này thanh tịnh, người ta quét. Nếu mà mình chịu khó mà quét, Thầy nói thực sự trong 7 ngày là chúng ta đã chứng đạo. Nó không có khó, bởi vì tu Tứ Niệm Xứ là sẽ sung mãn, nó làm cho tâm chúng ta ly dục, ly ác pháp rất trọn vẹn và đầy đủ. Siêng năng hằng ngày siêng năng tập luyện thì trong cái thời gian rất ngắn để chúng ta chứng được đạo quả giải thoát hoàn toàn.
Cho nên đức Phật nói tu Tứ Niệm Xứ là 7 ngày, 7 tháng, 7 năm thì nó sẽ viên mãn, nó sẽ thành tựu. Mà đúng cái lời đức Phật nói. Nghĩa là Đức Phật nói 7 ngày chứ không có nghĩa là 7 ngày, bây giờ chúng ta ngồi tu mà tới chiều, tới sáng ngày hôm nay. Nội mà ở trong cái vòng thời gian là 7 ngày. Một ngày hoặc hai ngày, ba ngày là chúng ta thành tựu, chứ đâu phải bảy ngày mới đúng, mới giải thoát được sao, mới chứng đạo được sao. Nó chỉ trong cái thời gian đó có chuyên cần hay không chuyên cần thôi.
Mà chuyên cần mà suốt cái thời gian 24 tiếng đồng hồ hoàn toàn không có một cái chướng ngại gì mà xảy ra trên thân của nó được hết, thì lúc bấy giờ là nó là chứng đạo, chớ không phải gì. Cho nên vì vậy đâu phải mình tu tới bảy ngày, chỉ cần 24 tiếng đồng hồ là chúng ta tập đủ là chúng ta sẽ chứng đạo.
(36:23) Mà nếu mà trong suốt bảy ngày mà chúng ta vẫn còn bị chướng ngại pháp trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp đó thì chúng ta sẽ tiếp tục, tiếp tục tu nữa, thì không có nghĩa là 7 tháng mà chỉ cần có 15 ngày hoặc là 1 tháng là chúng ta đã xong. Chớ đâu phải là phải căn cứ vào tu phải 7 tháng mới được đâu. Mà nếu suốt bảy tháng mà chúng ta chưa làm xong, thì cái người này có tệ nhất đi nữa là phải bảy năm. Nhưng mà đâu có nghĩa là bảo phải đúng bảy năm mới thành tựu. Nhưng có thể một năm hay chín mười tháng. Một năm nó hơn cái số 7 tháng thì nó cũng có thể thành tựu. Đó là cái điều đức Phật đưa ra điều kiện để mà chúng ta thấy. Nhưng mà chúng ta có tệ nào đi nữa, bảy năm là quá sức tưởng tượng rồi, quá lâu rồi. Vậy mà người ta tu bây giờ hai ba chục năm mà chưa làm chủ mà vẫn tu, mà vẫn hi vọng. Thiệt là nuôi hy vọng ảo.
Bởi vì cái thời gian xác định của đức Phật có bảy năm à. Nghĩa là tối đa chúng ta bỏ ra bảy năm. Thế mà có vị Tổ tu hai chục năm, ba chục năm. Như ngài Diệu Cao Phong phải tu ba chục năm. Mà ba chục năm không biết là đúng không nữa. Thực sự ra cái tu của ngài là tu tưởng rồi đâu có chắc gì đúng. Bởi vì ngài đâu có làm chủ sinh già bệnh chết được. Ngài đâu có thực hiện được Tam Minh, cho nên đâu có chắc gì ngài đã được, phải ba chục năm trời tu như vậy. Ngài Đại An phải mười hai năm mới gọi là kiến tánh thành Phật, mười hai năm ông mới kiến tánh không, thực ra Thầy chỉ dạy một chút xíu thì quý thầy đã kiến tánh liền tức khắc. Thấy được cái Tâm biết đó. Nhưng mà cái tâm tham, sân, si, chúng ta còn.
Cho nên vì vậy sự thực ra tu thì rất vất vả cực khổ. Cuối cùng thì trở về. Còn cái này, đằng này chúng ta tu, thực sự ra nếu mà chúng ta giữ gìn được cái tâm mình thanh thản, an lạc vô sự như vậy. Ly tham, sân, si thì tham, sân, si phải hết chứ. Thì tham, sân, si hết tức là giải thoát chứ còn gì nữa. Chứ đòi cái gì nữa? Đòi cái gì nữa? Bây giờ Thầy có đòi Thiền Định gì đâu. Mà Thiền Định ngay chỗ cái tâm không tham, sân, si chứ đâu phải định ngoài tham, sân, si mà được. Tâm tham, sân, si ly hết rồi, Thiền Định ngay tại đó. Cho nên nó quá đơn giản, quá dễ, và cái thời gian đâu có phải kéo dài tới mấy chục năm. Bảy năm là tối đa, nhưng mà bảy năm đó thực sự ra Thầy nói cái người đó vô chắc chơi, chứ không phải tu.
(38:41) Chứ còn thiệt tu, thiệt quyết tu thì dốt đặc như ông Bàn Đặc, học chẳng biết cái gì hết. Ông dốt ông học câu kệ hoài bốn câu kệ mà không thuộc, thiệt là ông tối thật tối. Thế mà Phật dạy ông Tứ Niệm Xứ, tức là ông ngồi ông quét tâm chứ gì. Các con đọc đến cái bài kinh mà nói về ông Bàn Đặc, thực sự ra khi ông quét sạch cái tâm ông không phóng dật nữa tới chừng đó người ta thỉnh mọi thầy, mọi vị Tỳ kheo đi với Phật đi thọ trai, còn ông ấy là người tu không ra gì, có ai thèm mời ông ăn đâu.
Cho nên ông ở lại cái khu rừng đó. Hôm đó thì ông quét sạch tâm ông rồi, cho nên ai cũng đi vắng hết. Ông ra lệnh thân ông biến ra cả ngàn ông Bàn Đặc ngồi khắp rừng. Nhưng mà chỉ có ông Phật, ông (Phật) đi thọ trai là ông (Phật) biết thôi. Cho nên ông (Phật) mới bảo với ông chủ nhà đó: "Gia chủ hãy đến rừng, kêu ông Bàn Đặc đến đây thọ trai, nói đức Phật mời". Cái ông chủ nhà, ông mới đến khu rừng chỗ đức Phật ở, sao mà dòm sao chỗ nào cũng có một ông cái mặt giống nhau, cái ông vị Tỳ kheo giống nhau cứ ở dưới gốc cây, ngồi đầy rừng hết trơn, biết ông nào là ông Bàn Đặc mà kêu.
Cho nên ông này mới trở về nói với Phật: "Bây giờ con vào cái khu rừng đó thấy, tu sĩ ngồi đặc hết, gốc cây nào cũng có hết. Như vậy biết kêu ông nào giờ". Đức Phật mới nói: "Bây giờ gọi tên: "Ông nào là ông Bàn Đặc ôm bát đi xuống thọ trai, đức Phật mời". Thì ngay đó, cái ông nào mà đi ra khỏi rừng thì ông hướng dẫn ông ấy về đây". Thì lúc bấy giờ ông ta đến cái đầu rừng ông ta đứng kêu: "Vị Tỳ kheo nào là Bàn Đặc thì đức Phật mời đi thọ trai." Thì tất cả những ông Bàn Đặc đều mất hết, chỉ còn có một ông ôm bình bát đi ra.
(40:22) Đó thấy như vậy rõ ràng cái năng lực của người ta khi quét sạch cái tâm tham, sân, si rồi thì nó có năng lực màu nhiệm, một thân biến ra hàng vạn thân mà. Thế mà sao chúng ta không tu. Để cái tâm tham, sân, si này nó khổ chứ làm gì? Thôi bây giờ giả dụ bây giờ ông Bàn Đặc ông ấy tu được như vậy đó, nói thôi bây giờ để mình, mình ra lệnh cho cái khu rừng này có một cái chùa đẹp nhất đẹp hơn các lâu đài vua Chúa, làm được không?
Các con thấy cái năng lực đó nó làm hơn cái gì nữa chứ đừng nói. Phải không? Cho nên vì vậy đó, cái khả năng đó có thể làm được tất cả hết. Tại sao chúng ta không tu mà chúng ta cứ ôm ấp cái tâm tham, sân, si mà nó trôi lăn ở trong lục đạo? Bởi vì cái tham, sân, si nó còn thì nó phải còn cái nghiệp của nó, nó phải đi tái sanh luân hồi. Nó làm cho chúng ta khổ đau mà cái pháp rất tuyệt vời, ngồi đây để mà xả những cái vi tế của tâm mình đến hết tham, sân, si chứ đâu phải là xả cái gì. Bởi vì nó chướng ngại là có tham, sân, si chứ.
(41:15) Mà nó không chướng ngại. Bây giờ con muỗi, nó cắn ở đây, mà biết ngứa là chướng ngại. Mà chướng ngại là do có tham, sân, si, chứ không tham, sân, si làm sao ngứa. Vậy thì phải xả tham, sân, si ra, thì xả cái ngứa ra thì nó sẽ hết chứ có gì đâu. Như vậy rõ ràng là chúng ta đã biết phải xả ra hết. Tới con muỗi mà nó còn ghét, nó cắn mình là vay nợ nhân quả như thế nào rồi.
Cho nên một người tu người ta ngồi một đống, muỗi nó không lại cắn là tại vì người ta hết nhân quả rồi, có nợ nó đâu mà nó đòi. Còn mình thử ngồi thử coi. Mấy con cứ ngồi đi, nhân quả nó còn hay hết là mấy con biết liền. Hết sao mà muỗi bu nó đòi máu mấy con. Đòi nợ máu đó. Phải không? Các con thấy rất rõ mà, chứ nếu là các con hết nợ rồi thì làm sao mà nó lại nó đòi. Tự nhiên cái từ trường của các con mà cái thiện, nó bảo vệ các con. Bởi vì đức Phật nói giới luật là Thần hộ mạng của chúng ta mà. Cho nên thiện pháp nó bảo vệ các con, cái từ trường bảo vệ, làm sao nó có cái nghiệp gì của ai mà đến đây đòi nợ nó được nữa. Phải không? Nó nợ nhân quả mà, rõ ràng mình ngồi đây, muỗi cắn tôi, rồi nói con muỗi cắn chứ không ngờ nó là con nợ của mình nó lại nó đòi nợ máu mình đó. Nó chích mình dù một chút máu đi nữa cũng là nợ máu. Nợ máu sao? mình ăn thịt nó, biết bao nhiêu máu người ta, mình ăn trong bụng mình, bây giờ trả nợ chút xíu mà mình rên à. Cha chút xíu cái la ngứa. Ta lấy có chút xíu.
Mà nhiều con như vậy, nó đòi nợ máu mình có bao nhiêu đâu. Rồi phải dùng cái này, dùng cái kia để tạo những nhân quả, giết hại nó thêm, để tạo cho cái nhân quả ác thêm, chứ làm gì? Có phải không các con nào là dùng thuốc, dùng này kia đủ thứ để ngừa con muỗi, để giết con muỗi vậy, không ngờ là tạo nhân quả ác. Không ngờ là con muỗi là hiện thân để đi đòi nợ máu của chúng ta. Đó bây giờ Thầy nói để mà thấy rõ, khi nào các con có đôi mắt nhân quả, suốt rõ cái đường đi của nhân quả, các con sẽ thấy chúng ta là những người vay nợ của nhân quả. Mỗi mỗi đều có vay nợ.
Nếu mà chúng ta sống toàn thiện, thì chúng ta chuyển hết nhân quả thì không có ai đòi nợ mình nữa thì không có con kiến lại cắn mình. Mình hết nợ rồi, nó đâu có lại nó đòi. Tự cái từ trường của mình, nó làm cho con kiến không đến đó cắn được mình. Từ trường thiện mà, nó có cái sự bảo vệ của từ trường đó. Cho nên vì vậy một người sống đúng giới luật nghiêm chỉnh thì nó sống hoàn toàn an ổn, không có một cái pháp trần nào mà có thể xâm chiếm họ được.
Cho nên Thầy nói cái người nhập Diệt Thọ Tưởng Định, cái từ trường nó bao bọc như cái lồng kiếng, mưa không ướt, nắng không nóng họ. Nó làm như có một cái lồng để che. Cho nên đời nay, Thầy nói dễ gì có người nhập Diệt Thọ Tưởng Định. Mấy ông nói chuyện đâu phải chuyện dễ đâu, chuyện người ta có một từ trường như vậy như một cái lồng kính giữ gìn cái nhục thân của người ta ở trong này thì mấy ông phải biết làm gì mà có bụi bặm dính trong người ta được, làm gì có mưa gió mà huỷ hoại cơ thể của người ta được, giữ gìn ngàn đời nó không hư hoại hết. Nhưng mà đây là cái trò ảo thuật thôi. Như vậy mà nó còn màu nhiệm như vậy. Huống hồ là cái Tâm chúng ta hết tham, sân, si là nó đạt mục đích của chúng ta đạt rồi. Chúng ta đâu có cần cái thứ đó. Đó là cái trò ảo thuật để cho người ta biết sự màu nhiệm của đạo Phật như vậy đó. Cái lực nó như vậy đó. Chúng ta không phải vì đó mà chúng ta ham.
Mà vì cái mục đích giải thoát, vì cái sự làm chủ, chấm dứt luân hồi, nó không còn mang cái thân khổ đau này nữa. Đây là mục đích của đạo Phật. Chúng ta không ham Thần thông. Thầy muốn nói Thần thông để rồi Thầy bác Thầy thông là vì mục đích đó. Để không, chúng ta cứ chăm chú vào cái thần thông đó. Thấy nó huyền diệu, mầu nhiệm nhưng mà sự thực cái huyền diệu mầu nhiệm chỉ là cái ảo, trò ảo thuật. Còn cái chính của chúng ta là làm sao cái tâm chúng ta hết tham, sân, si nè? Làm sao chúng ta ly dục, ly ác pháp nè để cho chúng ta bất động trước các pháp trước các cám dỗ của dục lạc thế gian thì đó là chúng ta giải thoát.
Mà giải thoát rồi, thì tức là cái tâm của chúng ta ở chỗ nào, chúng ta biết. Nghĩa là chết chúng ta biết đường chúng ta về, sống chúng ta cũng biết đường chúng ta về. Còn bây giờ chúng ta chưa tới đó thì chúng ta thấy, nghe Thầy nói "Thanh Thản An Lạc Vô Sự" nhưng mà nó có chỉ một chút rồi nó mất. Còn người ta sống hằng ngày người ta sống ở trong đó hoài hoài, người ta sống trong đó, người ta không có mất cái chỗ đó. Cái Niết Bàn của người ta, cái thường hằng, vĩnh viễn đó. Tâm nó không tham, sân, si thì nó phải có trạng thái không tham, sân, si chứ.
(45:16) Trạng thái không tham, sân, si thì trạng thái không nghiệp lực thì nó đâu có làm sao mà tái sanh luân hồi được. Cho nên chúng ta chấm dứt luân hồi. Mà chấm dứt khổ đau ngay liền, chúng ta ở trong trạng thái đó là chấm dứt khổ đau rồi, không còn giận hờn, phiền não gì nữa. Không ai làm gì mình được.
(45:38) Bởi vì khi nào mà chúng ta sống đúng nghiêm chỉnh, giới luật hẳn hòi, đàng hoàng rồi. Thì bắt đầu chúng ta mới kiểm nghiệm từng phút, trước các ác pháp, tâm chúng ta bất động. Người ta chửi mắng, mình không có giận hờn, phiền não, không tham, sân, si nữa. Mình thấy rằng là mình đã ly dục, ly ác pháp. Bấy giờ cho nên ác pháp không có tác động mình nữa. Thấy không?
Cho nên do vì vậy đó, thì chúng ta biết rõ ràng, thì bây giờ chúng ta mới ngồi lại, chúng ta để cho cái tâm nó tự động nó ở trên hơi thở, mà chỉ có quyền nhắc chứ không có được tập trung. Mình không có tập trung trên hơi thở nữa, mà chỉ có quyền nhắc. Bây giờ chúng ta quan sát trên từng Thân - Thọ - Tâm - Pháp của chúng ta xong rồi, bây giờ chúng ta nhắc: "Cái tâm định trên hơi thở". Rồi bắt đầu mình nhắc, cái tâm nó sẽ biết hơi thở ra, vô. Trải qua thời gian mình tu Định Niệm Hơi Thở tức là mình tu hít thở 5 hơi thở đi kinh hành, từ mình nhắc: "Thở ra tôi biết tôi thở ra, hít vô tôi biết tôi hít vô", hoặc "Tôi thở tôi biết tôi đang thở", cái sự tu tập của các con đã thuần quen với hơi thở cho nên khi mà nhắc nó, khi quan sát Thân- Thọ -Tâm- Pháp xong rồi bắt đầu mình nhắc: "Tâm phải định vô hơi thở, đừng có phóng dật ra bên ngoài", do đó bây giờ mới thấy nó biết hơi thở ra vô. Để tự nó biết chứ không có gom vô như hồi mình mới tu 5 hơi thở đi kinh hành, là phải gom cái tâm vô cái hơi thở. Còn bây giờ thì không gom chỉ nhắc, rồi tự động để cho nó biết, chớ không có. Bởi vậy khi mình nhắc vậy thì tự nó, nó định trên hơi thở.
Cho nên mình chỉ cần coi như mình là một người đứng để xem coi cái tâm của mình nó định hơi thở, chứ không phải là mình ngồi đó mà mình ôm ấp nó hoặc là tập trung gom cái tâm của mình vô hơi thở. Mà mình chỉ đứng quan sát để coi nó, cái tâm của mình nó quay vô hơi thở thôi. Coi như là mình người thứ ba để đứng coi tâm nó quay vô hơi thở. Hơi thở là cái đối tượng của cái tâm, coi thử coi nó có định lên không. Mình đứng đây mình xem thôi chứ mình không có tập trung
Phật tử: Vậy là chỉ xem hơi thở ra vào ạ?
(47:34) Trưởng lão: Chỉ xem hơi thở ra vào không có gom tâm trong tụ điểm. Gom tâm vô tụ điểm là khi chúng ta còn tu Định Niệm Hơi Thở, còn tu Tứ Chánh Cần thì chúng ta sẽ tập trung gom lại còn bây giờ không có gom lại, mà chỉ nhắc nó rồi chúng ta chỉ quan sát coi thử coi nó có thở không đó. Nó thở nặng, thở nhẹ, thở chậm, thở dài, thì kệ nó, không có cần phải thở cho nó có vận dụng để cho nó tập trung. Không có, không có vận dụng bất cứ cái gì hết. Hơi thở sao cứ để vậy rồi coi thử coi cái Tâm của nó sao, có biết hơi thở không? Mình biết, tu một thời gian sau mình sẽ thấy mình đứng mình xem hơi thở, mình xem cái tâm nó bám vô hơi thở không? Hoặc là…
Bởi vì Thầy nói thực sự ra khi mình luyện rồi nó có một người thứ ba với mình. Bây giờ mình hướng tâm: "Tâm như cục đất", thì mai kia mốt nọ có sự kiện xảy ra thì thực sự ra ở trong tâm mình nó nhắc liền: "Tâm như cục đất", khi có chuyện tức giận là bắt đầu nó nhắc ra liền. Thì đó là mình đã tạo được người thứ hai của mình, ngoài mình ra nó còn có người thứ hai tức là người Niệm Xứ rồi.
Cho nên vì vậy khi mà tu Tứ Niệm Xứ, thì ngay đó mình nhắc, cái lệnh của mình nhắc thì mình chỉ nhắc nó là cái lệnh của mình là người chỉ huy rồi thì mình thử coi cái tâm có quay vô không. Thì mình thấy rõ ràng, cái tâm nó quay vô, nó biết hơi thở, cho nên mình không có tập trung, không có gì hết. Nó nhẹ nhàng ghê gớm lắm. Thầy nói thực sự ra tu đến đây là phần vi tế rồi.
Cho nên vì vậy nó không phải còn tập trung như các sư, các Thầy mà tu tập. Nó quá thô rồi, nó không phải đâu, ở đây nó khác. Tới cái giai đoạn của cái tâm nó tự nhiên. Rồi bây giờ nó tự nhiên như vậy, nhưng nó chưa hẳn hoàn toàn là nó kéo dài được, cho nên thỉnh thoảng chúng ta lại nhắc. Bây giờ khi mà nó đưa như vậy, không phải là chúng ta cứ để cho nó vậy hoài, mà chúng ta phải tác ý ra. Bây giờ phải quan sát lại Thân, thọ, tâm, pháp coi có chướng ngại không? Chứ không khéo cứ để cho nó biết hơi thở thì cái xúc tưởng hỷ lạc nó sẽ xuất hiện ra liền. Nó xuất hiện ra thì mình cảm giác ra như nó an ổn, chứ sự thực ra mình không có ý thức ở trên Thân- Thọ- Tâm- Pháp của mình.
Mà mục đích của Tứ Niệm Xứ là mình dùng ý thức, tức là Chánh Niệm mà, cái ý Chánh Niệm trên đó, chứ có phải là cái Tưởng ra đâu. Cho nên vì vậy, mình cứ ngồi yên lặng, nó tưởng. Cho nên lúc bấy giờ, chúng ta lại nhắc: "Cái tâm bây giờ phải quay trở lại" nghĩa là lìa hơi thở đó, "phải quay trở lại quan sát Thân- Thọ- Tâm- Pháp" của mình nữa.
Bây giờ nó bắt đầu quay lại nó quan sát y như vậy lần lượt, lần lượt cho đến Pháp xong rồi, bắt đầu nó ra lệnh, tự nhiên nó phản xạ một cách, khi mà tu nó quen rồi, nó ra lệnh nó nhắc "Tâm định lên hơi thở liền", bắt đầu thì cứ mình quan sát Tâm nó quay vô nó biết hơi thở ra vô, cái hơi thở của mình. Khi mình nhắc rồi, thì cái hơi thở nhẹ chậm như thế nào, thì cái tâm bắt đầu nó quay vô, thì nó vẫn thấy biết như thường.
(50:13) Còn mình ra lệnh thì mình thấy cái lệnh của mình hoàn toàn nó đứng ở ngoài góc độ quan sát. Cho nên cái lệnh đó là lệnh của Pháp Như Lý Tác Ý, cái đạo lực của Pháp Như Lý. Mà mình tu tập được đến cái người thứ Ba ngoài đối tượng của Tâm, với Tâm rồi. Tức là cái người thứ Ba đó là đạo lực của mình. Khi nào nó hiện ra cái đạo lực nó mới đúng. Còn chưa có đạo lực là người phải tu tập Tứ Chánh Cần rất nhiều, chứ tu lơ mơ không được.
Cho nên vì vậy nhớ, là cư sĩ các con luôn luôn lúc nào những buổi tối trong gia đình mình, buổi tối thì nó sinh hoạt thì có hát ti vi, này kia. Chỉ có buổi khuya là tốt nhất cho quý vị tu. Không lẽ mình bây giờ mình lại còn ham ngủ nữa sao. Cho nên các con nhớ Thầy dặn con, khi nào về vợ con tối ngủ rồi kệ nó. Khuya mình ngủ chừng ít tiếng đồng hồ, thức dậy lúc đó khuya hai, ba giờ cũng được miễn là mình thức dậy mình tập cho nó tỉnh táo cho nó đàng hoàng. Rồi bắt đầu vô ngồi quyết định là ngồi tu một giờ Tứ Niệm Xứ. Rồi tu rồi đi ngủ, không cần nữa. Mà tu một giờ thôi rồi đi ngủ, mà tu rồi đi ngủ khoẻ lắm. Mà trước khi đi ngủ phải nhắc nó: "Tâm ngủ không có chiêm bao, mộng mị gì hết, ngủ cho ngon, ngủ cho tốt, ngày mai làm việc nữa".
Cứ như vậy, rồi ban ngày sống ngăn ác, diệt ác; ban đêm tu Tứ Niệm Xứ. Rồi tới lúc tự cái tâm nó quay vô rồi, thì bất kỳ ở nơi đâu cũng phải về đây hết để Thầy dạy nhập Định. Chứ còn Tâm nó quay vô, biết hơi thở ra vô mà không có về đây thì kể như là không biết các phương pháp hướng tâm để nhập các Định. Không phải là, giai đoạn này là giai đoạn tu Tứ Như Ý Túc. Bốn cái Như Ý của mình. Lúc bấy Thầy mới dạy cách thức tu Tứ Như Ý Túc.
Chứ bây giờ mình hướng bậy thì không được à, mình hướng bậy tới chừng đó nó đi lạc rồi vô đó không được. Ví dụ bây giờ mình thấy nó được vậy mình nhắc "Tịnh chỉ hơi thở đi. Vô đi", trong khi đó nó tịnh chỉ bất tử đó, mình không có thở nữa, bà con người ta xúm chôn mình đó, uổng của đó, tu tới đây rồi mà người ta chôn cất oan mạng đó. Phải không? Hồi đó cái tâm để nó định lên hơi thở, một thời gian bao lâu tuỳ theo nó, khi nó muốn hướng ra, ví dụ như độ khoảng chừng 10 hay 20 hơi thở, thì bắt đầu mình phải tác ý thì nó an lạc. Nhưng mà con phải tác ý.
Phật tử: Thưa hỏi
(52:35) Trưởng lão: Không được, cảm giác đó thuộc về tưởng rồi. Tiến trình bằng ý thức không được tiến trình bằng tưởng thức. Còn cái cảm giác đó là tưởng thức đưa đi.
Ờ! Đó là một cái năng lực của tưởng mà. Như vậy là con dùng cái pháp tưởng nó cũng hết nhưng mà không phải. Bởi vì cái pháp tưởng nó chỉ hà hơi cho con thôi. Bây giờ có người nói bệnh ma tà rồi rước tới ông Thầy phù thuỷ, ông cũng vẽ bùa, ông đọc Thần chú rồi ông tụng kinh tụng kệ gì đó, ông kệ một hơi, con ma nó xuất ra thì họ cũng thấy hết à.
Bởi vì nó có cái năng lực của tưởng. Nó giúp cho hết nhưng mà mai mốt nó trở lại. Còn cái này không, con nếu mà con trị bằng ý thức của con, bất kì nó đau ở chỗ nào đó, như ở cái lưng con. Bắt đầu con ra lệnh: "Cái Thọ là vô thường, cái lưng đau này phải rời khỏi cái thân này đi". Con ra lệnh như vậy bằng ý thức của con thôi, cái năng lực của ý thức của con sẽ mạnh, nó mạnh mà nó thực tế hơn. Còn cái kia tưởng thức, khi con điều khiển bằng cách con phải giữ tâm yên lặng vậy, mà con không có cái năng lực của cái pháp truyền lệnh.
Do đó, con không thể nào mà làm chủ được nó đâu. Bây giờ nó trị hết, mai mốt nó sanh bệnh khác nữa. Và cứ như vậy, nó chỉ chẳng qua là cái nhân quả thiện ác của nó giảm theo năng lực của tưởng thôi. Bởi vì dù là các pháp nào nó sinh diệt vì nó ở trên cái tâm của con nó khởi ra thì lúc bây giờ nó là chướng ngại pháp của con. Bởi vì hoàn toàn cái thật là thanh thản an lạc, vô sự ở trên bốn cái chỗ này. Mà nó có một cái gì khởi lên ra trên Tâm con, nó sanh diệt trên tâm con là sai hết.
(54:10) Cái đó con tu theo Thân Hành Niệm. Cái đó đúng theo cái pháp Thân Hành Niệm chứ không phải Tứ Niệm Xứ. Ờ! Rồi bây giờ bắt đầu Thân Hành Niệm thì cái thân của mình hành cái động nào đó, mình theo dõi nó. Bây giờ nó đau nhức, cũng là cái hành động thôi, mình biết. Đó là Thân Hành Niệm. Không phải Tứ Niệm Xứ con. Còn Tứ Niệm Xứ là hoàn toàn ngồi đây quan sát bốn chỗ để đẩy lui chướng ngại pháp thì Tứ Niệm Xứ. Còn cái đó là Thân Hành Niệm, bây giờ thân nó đưa lên, nó biết, hạ tay xuống nó biết.
Bây giờ cái mình cúi xuống mình lạy nghe nó đau cái lưng, mình biết. Thì đó là cái hành động của cái thân nó làm cho mình cảm giác. Gọi là mình biết từng chút, từng chút cái động dụng cái thân của mình lúc đó. Thì cái đó gọi là Thân Hành Niệm. Nó vừa là hành động nội, mà vừa là hành động ngoại. Cho nên hành động nội và hành động ngoại của nó, đó là nó thuộc về Thân Hành Niệm. Thân Hành Niệm trên Tứ Niệm Xứ chứ không phải tu Tứ Niệm Xứ. Bởi vì con không có hỏi rành. Bởi vì ở trên Tứ Niệm Xứ nó thực hiện nhiều cái pháp, cũng như bây giờ con tu cái Tứ Chánh Cần con cũng phải thực hiện trên Tứ Niệm Xứ, chứ ngoài Tứ Niệm Xứ lấy gì con biết nó là ngăn ác, diệt ác ở đâu.
Cũng phải là ngăn ác diệt ác ở Tâm, Thân con chứ đâu. Thì đó cũng là Tứ Niệm Xứ nhưng mà ví dụ như con tu Định Niệm Hơi Thở, nó cũng là Tứ Niệm Xứ bởi vì nó là hành động của nội của Thân cho nên con tập trung ở trong hơi thở, con nhiếp tâm ở trong hơi thở. Con cũng đều tu Tứ Niệm Xứ gọi là tu Thân Hành Niệm trên Tứ Niệm Xứ chứ không phải là tu Tứ Niệm Xứ. Thân Hành Niệm…
Phật tử: Thầy dạy dùm con về Tầm, Tứ.
(56:14) Trưởng lão: Tầm, tứ phải không? Tam Ấn, tứ Ấn, theo con nói cái
Phật tử: Con gọi là… Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã đó… tới mấy trăm … ngồi đó mà quán giống như Thầy dạy vậy đó…mình quán ở trên Thân … còn cái Thọ đó đến với mình nó lại ra đi chứ đâu phải nó ở hoài với mình đâu.
Trưởng lão: Không phải. Bây giờ Thầy nói như thế này, đức Phật đã xác định cho tam Ấn và tứ Ấn ở trên Tứ Niệm Xứ. Bây giờ đức Phật nói: "Thân là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã" là Tứ Ấn, mà nói: "Thân vô thường, khổ, vô ngã" thì nó là Tam Ấn. Thì đây là xác định gọi là Ấn là xác định cho chúng ta cái này là chắc chắn hễ cái gì vô thường là cái đó khổ, mà cái đó khổ là vô ngã thôi, không có cái ngã. Cho nên đây là cái xác định thôi. Vì vậy, mà chúng ta nắm được cái xác định này chúng ta biết các pháp là khổ, vô thường, vô ngã thôi.
Cho nên đó là để cho chúng ta xác định được các pháp như vậy, để mà chúng ta đừng có dính mắc. Nhưng mà sự thật chúng ta chỉ học cho nó suông. Chứ nó không phải vậy, mà trên con đường tu nó phải tu nó khác. Nó không phải theo cái kiểu, cái kiểu con hiểu, con hiểu như vậy nó thành ra Tưởng. Cho nên phải biết cái Pháp tu. Thí dụ như bây giờ trong cái giai đoạn con, con phải tu Tứ Niệm Xứ mà Tứ Chánh Cần, hoặc Tứ Niệm Xứ mà Tứ Bất Hoại Tịnh, hay hoặc Tứ Niệm Xứ mà tu Tứ Niệm Xứ; hay hoặc Tứ Niệm Xứ mà lại tu Tứ Thánh Định. Bởi vì trên cái thân này nó có Định ở trên này Thân nên tu Tứ Niệm Xứ. Cho nên vì vậy, thì cái hiểu biết của con nó có cái hiểu biết tổng quát mà nó kêu là nó tạp nhạp như ở trong bài kinh của kinh, nó lộn xộn lắm nó không có thứ tự.
Phật tử: Thưa hỏi
(58:22) Trưởng lão: Còn bây giờ Thầy dạy cho các con thì khi nào nó có những điều kiện gì cần thiết thì hỏi thêm thì Thầy dạy cái đó để mà tu. Còn bây giờ dạy Tứ Niệm Xứ trên thân này để đẩy lui chướng ngại pháp thôi. À con phải biết, cho nên vì vậy thứ nhất là thường xuyên để tác ý ra để dùng ý thức chứ không được dùng tưởng.
Nghĩa là đừng dùng cái tưởng, thí dụ như bây giờ cái hơi thở, thở ra thở vô chỗ mũi này mà mình thấy nó đi vô phổi của mình là mình tưởng. Thực sự ra con đường đi mình thấy nó vô phổi rồi nhưng mà đừng có tưởng theo nó, như vậy cho nên mình biết ra biết vô ở đây thôi. Một cách tự nhiên, hơi thở ra biết ra, hơi thở vô biết vô.
Bởi vì đức Phật không có dạy chúng ta dùng cái tưởng mà để đưa nó đi. Thành ra do vì vậy mà chúng ta theo cái lộ trình của đạo Phật nó thoát ra khỏi cái vọng tưởng bởi vì cái tưởng nó sẽ dẫn chúng ta đi vào cái lệch, cái lệch cho nên chúng ta đừng có dùng tưởng trong bước đường tu. Mà nếu mà muốn không dùng tưởng thì luôn luôn phải tác ý. Tác ý ra thì cái ý thức của chúng ta mới có, chứ nếu mà không tác ý thì cái tưởng nó sẽ làm cho ý thức mất đi, thì chúng ta tu không có đến đâu được hết đâu. Cho nên ở đây mục đích của chúng ta là đường đi chúng ta thấy rất rõ. Là tới cuối cùng nó phải là Định Hữu Sắc- Định của ý thức chứ không phải Định của tưởng thức. Cho nên chúng ta phải thực hiện tới Tứ Thiền. Từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền.
Vì vây cái Định này nó xác định cho con đường của chúng ta đi nó cụ thể rõ ràng mà cái Chánh Định này thì nó nằm cái nẻo thứ Tám của Bát Chánh Đạo. Cho nên vì vậy nó xác định được cái Tứ Thánh Định là con đường của đạo Phật. Là cái Định đó mới đúng. Cho nên vì vậy mà, chúng ta phải xả hết tất cả những cái tưởng của chúng ta ra thì chúng ta mới đi vào cái Định Hữu Sắc này. Mà nói Định Hữu sắc tức là định của ý thức, mà định Vô sắc là Định của tưởng thức.
Chúng ta phải hiểu như vậy. Chúng ta bây giờ là phải hoàn toàn lìa xa cái Định Tưởng- cái Định mà vô sắc, không có được để cho một chút xíu nào mà xen trong đó. Bởi vì nhiều khi chúng ta ngồi đây mà cái tâm không vọng tưởng mà lại là Định Vô sắc, chứ nó không phải thuộc ý thức. Ý thức của chúng ta là phải ly tham, sân, si, nó mới thuộc về định của ý thức. Nó như vậy nó mới là Sơ Thiền mới được.
Cho nên vì vậy luôn lúc nào chúng ta cũng phải luôn tác ý. Cho nên đức Phật nói phải tác ý mà, thiện xảo tác ý, khéo léo tác ý chứ không phải là dụng nó thì nó cũng không giải quyết được, nó sẽ bị tưởng xen vô. Cho nên phải khéo léo trên bước đường tu. Bây giờ, Thầy dạy thì các con cứ theo chỗ nào hiểu, chỗ nào tu, đừng bao nhiêu cái gì mà tới giờ hiểu, xả xuống, bỏ hết đi. Nó trật rồi, nó trật con đường rồi.
(1:01:00) Không có nên mà tu theo đó. Không phải là Thầy bác các pháp của các Thầy đâu nhưng mà vì nó không đưa các vị Thầy của chúng ta đi đến cái nơi cuối cùng, đến nơi làm chủ. Cho nên bây giờ coi như bây giờ chúng ta bỏ hết, coi như chúng ta bắt đầu đi trở lại. Bây giờ bắt đầu đi trở lại thì Thầy dạy sao cứ làm vậy. Bây giờ về tập ngồi 5 hơi thở rồi đứng dậy đi kinh hành. Ra lệnh từng hành động đứng lên ngồi xuống để chúng ta có cái quyền làm chủ nó. Đó là cách thức thứ nhất.
Cách thức thứ hai là hằng ngày chúng ta sống tiếp duyên với các pháp chúng ta phải luôn luôn thấy bằng đôi mắt nhân quả thiện ác, không được thấy nó đúng sai. Đó là cách thức để mà cứu chúng ta để ngăn ác, diệt ác. Đó là cái phương pháp tu để mà sống trong các pháp. Gọi là phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, không bị dính mắc.
Cái thứ ba là trong những đêm khuya thanh vắng thì chúng ta phải tu, ngồi quan sát trên bốn chỗ Thân - Thọ - Tâm - Pháp có chướng ngại thì đẩy lui, mà không chướng ngại thì để cho nó thanh thản an lạc vô sự. Còn một niệm gì khởi ra đều là hoàn toàn tưởng hết. Chúng ta phá hết. Có như vậy thì chúng ta mới tu được. Và như vậy thì coi như là Thầy đã nói như vậy thì giờ chúng ta về cần phải thực tập. Rồi thực tập rồi thì còn phải thưa hỏi. Chớ đâu phải là nói mà về nó làm đúng được đâu. Nó còn sai. Cho nên vì vậy mà bây giờ về thực tập, về thực tập rồi mới thưa hỏi lại.
(1:02:13) Còn bây giờ con chuẩn bị con về. Thì lúc bấy giờ đó sẽ trình lại Thầy. Sau đó viết thơ gửi lên Thầy. Giờ con tu đêm như vậy, con tu như vậy con thấy nó thanh thản an lạc, rõ ràng. Bởi vì Thầy đã đặt cho các con những cái từ: "Thanh thản, an lạc, và vô sự". Mà cái Tâm hoàn toàn nó mất thanh thản, an lạc, vô sự. Bốn chỗ Thân- Thọ- Tâm- Pháp này nó không có thanh thản an lạc vô sự thì nó sai. Mà có thanh thản an lạc vô sự là đúng. Con nhớ chưa? Cứ như vậy rồi sau đó viết thơ trình bày. Không phải nói bây giờ cái làm được liền đâu. Mà phải tu, rồi mới rút tỉa từng kinh nghiệm mới thấy được. Có những cái gì Thầy chỉnh lại hết. Bởi vì còn Thầy, chứ nếu mà mất Thầy thì chắc chắn là không ai chỉnh cho.
Phật tử: Con về con tu rồi con kiếm được Thầy con mừng.
Trưởng lão: Chớ còn bây giờ các con hỏi lung tung đây, Thầy một mớ kinh sách, kêu là một mớ kinh sách, một mớ hiểu biết thì coi như là các con rối nữa. Cho nên Thầy không muốn cho các con thêm rối. Bởi vì nó nhiều quá, nó rối lắm. Tốt hơn các con cứ giữ đúng theo lời Thầy dạy, cái nào đã tập hôm nay thì phải làm cho đúng.
Phật tử: …Con quyết chí theo Thầy…
Trưởng lão: Rồi bây giờ mấy con chuẩn bị đi về. Lo về tu, nói nhiều quá.
(1:03:31) Phật tử: Xin Thầy giảng cho con lại về Dục Lậu, Hữu Lậu và Vô Minh Lậu ạ?
Trưởng lão: À. Bây giờ Thầy nói như thế này để cho thấy cái Dục Lậu. Cái Dục Lậu là khởi ham muốn. Ví dụ như mình thấy cái bánh muốn ăn thì mình biết đây là Dục Lậu, phải không? Còn cái Hữu Lậu, một cái vật mà mình có mà người ta xin mình không cho là mình bị Hữu Lậu. Mình tiếc đó là Hữu Lậu đó. Cũng như bây giờ Thầy có đồng hồ mà con xin, Thầy không cho con là Thầy bị Hữu Lậu. Còn Thầy cho con là Vô Lậu. Thầy cho con biết thêm là cái Vô Minh Lậu, người ta nói gì đó mà mình phiền não tức là mình Vô Minh. Còn mình không có Vô Minh thì không có phiền não. Rõ chưa?
Phật tử: Dạ
Trưởng lão: Rõ rồi. Khi nào mà có cái gì mình sinh chướng, thấy người ta đi đó mà mình chướng thì tức là Vô Minh, còn mình không chướng tức là Không Vô Minh. Thầy giải thích để rõ thôi.
Phật tử: Trong lúc tu Tứ Niệm Xứ, con thấy có 6 cái Tưởng, tức là Sắc Tưởng, Thanh Tưởng, nó tới thì có phương pháp gì để đẩy lui nó?
Trưởng lão: Mình đối trị cái pháp đó bằng cái Pháp Như Lý Tác Ý của mình. Mình biết "Đây là cái Sắc tưởng, mày hãy lui đi. Ở đây hoàn toàn, ta sử dụng ý thức cho nên mày không được xen vô." Mà nếu mà nó không chịu lui. Nó cứ hiện hình ảnh đó hoài thì tức là tao đứng dậy đi cho mày hiện. Mình đứng dậy đi kinh hành. Tao không thèm ngồi đó nữa thì nó sẽ xả. Còn Thinh Tưởng nó cũng vậy. Bây giờ cứ nghe âm thanh nói hoài. Nhất định "Mày là thinh tưởng, mày phải rời khỏi đây. Tâm phải thanh tịnh, không có nghe tiếng bậy bạ. Vậy cái Thinh tưởng này phải đi. Mà nếu mà không đi tao đứng dậy tao xả. Mày cũng phải đi”.
Phật tử: Thưa Thầy, trong lúc tu mà chưa đến bữa ăn mà nó đói tức là Dục Lậu ạ?
Trưởng lão: Là Dục Lậu đó!
Phật tử: Khi đó thì quán thế nào?
Trưởng lão: Quán mình nói: "Giờ ăn thì phải đúng giờ ăn thì ăn chứ không phải mày đòi. Bây giờ đây mày đòi là do cái tâm tham của mày rồi. Dục Lậu rồi, cho nên vì vậy còn lậu hoặc là còn thấy đói. Cho nên mày phải đi đi. Tao nhất định là tao không theo mày". Do đó tới giờ ăn, ít bữa hôm sau, cứ đúng giờ ăn con ăn, nó quen. Còn con thấy bây giờ đói, giờ mới chưa tới 11 giờ mà nó muốn đi ăn, con đi ra bưng cơm ăn thì nó sai con rồi đó. Tức là con bị Dục Lậu. Phải không?
Phật tử: Như con lúc 2 giờ dậy tu hành thì bắt đầu nó đói mà mình ngủ thì nó không có đói.
Trưởng lão: Vậy là nó bị Dục Lậu cho nên mình ra lệnh: "Mày là Dục Lậu, mày làm cho tao khổ, mày đói, mày là cho tao muốn ăn cho nên nó mới khổ. Nó mệt hoặc này kia, do đó nhất định là mày không có được đói. Tao bây giờ tao chết, nhất định là tao cũng phải giữ giới luật."
Cho nên mình ép, mình ra lệnh nó, mình không làm theo nó. Ít bữa cái nó hết trơn, mà nó không có đói. Mình là anh hùng, mình chiến thắng. Mình là chiến sĩ mà. Mình thắng mình là cái chỗ này nè. Nhất định nó thế nào nó cũng sai mình tầm bậy rồi. Thì do cái sai tầm bậy đó là Dục Lậu rồi cho nên mình quyết định là thấy mặt: "Tao biết mày là Dục lậu, mày làm khổ biết bao nhiêu đời rồi. Bây giờ tao đi tu rồi, mày còn muốn đến đây mày làm khổ nữa sao được. Tao nhất định tao quyết dứt mày ra".
Bây giờ thí dụ nó làm gì đi nữa. Con không làm theo nghe nó thì tức là con làm chủ đó. Hiểu không? Cho nên vì vậy gặp Thầy mà thứ đó là Thầy quét nó ra, đói chết bỏ bây giờ mày nằm đó mày chết, chứ tao nhất định không ăn. Đúng giờ ăn. Mà như vậy mà nó quen đó mấy con. Mình phải làm chủ chứ. Bây giờ lý luận gì tao cũng không nghe. Bây giờ mày chết bỏ chứ nhất định, tao không nghe lời mày nữa. Tao làm chủ mày mà chứ đâu để mày sai tao.
Phật tử: 5 hơi thở kinh hành là mình ước lượng 5 hơi thở chứ không có được đếm ạ?
Trưởng lão: Ban đầu mình đếm, sau đó nó quen rồi thì ước lượng. Nghĩa là tới khoảng thời gian đó buộc cái pháp hướng nó phải đi ra thôi.
(01:07:11) Bởi mình tu tập quen rồi. Mới đầu thì mình đến một, hai, ba, bốn, năm hơi thở. Nhất định là phải hướng ra. Chứ mới đầu mà con ước lượng, nhiều khi ngồi im quá mà tác ý ra cái nó động, cứ ngồi luôn đó, tức là nó mất pháp hướng rồi. Phải không? Cho nên bây giờ mình đếm một, hai, ba, bốn, năm. Tác ý ra, không có cãi lệnh, tác ý ra nó hướng tâm nó nhắc, rồi mình hít thở lại một, hai, ba, bốn, năm thì mình tác ý. Mình làm chủ, mình điều khiển mà.
Sau khi quen rồi, con không ước lượng, tới đó, nó cũng nhắc nữa. Con cứ thở tự nhiên, con không đếm, cái tới chừng đó, nó nhắc ra à. Tự nó, nó nhắc ra tới đó nó nhắc, nó giữ ý tứ của chúng ta. Còn chừng nào cái tâm nó không phóng dật, nó quay vô được rồi thì con không cần nhắc gì nữa. Nó định rồi. Tới đó tại nó định rồi, nó không nhắc nữa.
Phật tử: Tức là có người thứ ba rồi đó
Trưởng lão: Đúng rồi, nó có người thứ ba rồi đó.
Phật tử: Kính bạch Thầy, giống như ngồi ở môi trường thân cho ấm áp, kín đáo, đừng có để muỗi cắn. Chọn môi trường không có tiếng ồn, rồi quán xét thấy Thân- Thọ- Tâm- Pháp không có chướng ngại, thì bắt đầu nó kêu nó vô hơi thở.
Trưởng lão: Kêu nó định vô hơi thở. Mình ngồi quan sát coi nó theo hơi thở làm sao
Phật tử: Đồng thời mình hướng tâm, mình nhắc tâm. Kiểm lại nữa.
(01:08:24) Trưởng lão: Hướng tâm nhắc lại nữa. Đúng đó. Cái đó là Tu Tứ Niệm Xứ đó. Con có trục trặc không? Nó không trục trặc thì nó thanh thản. Biểu nó định vô hơi thở.
Phật tử: Thí dụ như nó bị tê giò, tê cẳng thì ra lệnh
Trưởng lão: Ra lệnh: "Bây giờ tê giò, tê cẳng phải xả đi. Cái Thân Thọ mà tê này phải xả". Mà mình ngồi thấy nó không hết tê. Tao biểu mày xả, mày không nghe tao, tao đứng dậy, xem mày còn tê không. Rồi nó phải xả thôi. Phải không, con thấy không? Thì sau đó, mình ra lệnh cái nó ngán mình rồi. Ông này ông bảo đừng có tê mà nó còn tê, thì coi chừng ông ấy đứng dậy.
Cho nên vì vậy mà bắt đầu nó hết tê. Mình ngồi nó cũng không tê, bởi vì mình tập ra lệnh, sau đó nó có đau nhức cái chỗ nào, mình ra lệnh, tự nó, nó đi chứ mình khỏi cần phải xả như vậy. Như bây giờ, rù rì nó không nghe, nó còn tê. Mình đứng dậy đi, cái nó hết. Con hiểu chỗ đó không? Chứ đừng có để ráng ngồi chịu tê
Phật tử: Cái Tứ Niệm Xứ đó Thầy. Mình ngồi, rồi mình đi, mình đi kinh hành, bình thường trong bốn oai nghi ạ?
(1:09:28) Trưởng lão: Thân - Thọ - Tâm - Pháp chứ không phải là tu Thân Hành Niệm hay Chánh Niệm Tỉnh Giác. Nó không có cần, Thầy nói bây giờ đứng dậy đi. Bây giờ ví dụ như mình tu Tứ Niệm Xứ, đứng dậy đi cũng vẫn là quan sát Tứ Niệm Xứ đó. Mình đi mà trong khi mình giữ hơi thở, tâm nó quay vô.
Nhưng mà khi đi đúng cái khoảng thời gian năm- mười hơi thở cái mình nhắc quan sát Tứ Niệm Xứ, vẫn đi mà quan sát Tứ Niệm Xứ đó. Tứ Niệm Xứ là đi, đứng, nằm, ngồi đều tu hết. Mà ngồi tư thế nào cũng được chứ không phải đợi ngồi kiết già đâu. Nghĩa là tu Tứ Niệm Xứ là nó không có đòi hỏi phải kiết già. Lúc nào cũng tu được, chỗ nào cũng tu được hết nhưng mà phải yên tĩnh, phải sống độc cư. Cái điều đó là đặc biệt phải có. Chỗ không yên tĩnh là không tu được.
Phật tử: Kính bạch Thầy, con làm việc con hay tu tập trung trên hơi thở cũng được ạ?
Trưởng lão: Cũng được. Coi như cái chỗ mà để cái tâm nó nghỉ ngơi là hơi thở. Gọi là định đó, là nó nghỉ.
Phật tử: Thưa hỏi
(1:10:39) Trưởng lão: Nó bị nó bám vô hơi thở. Nó định, thì biết rồi như vậy, nhưng mà cái Định đó nhiều khi nó bị tưởng nữa. Con nên nhớ rằng cái tâm mình chưa ly dục, ly ác pháp. Người ta còn nói mình còn tức giận thì mình biết cái định này là định tưởng. Nó cũng bám vô hơi mà nó là định tưởng là cái tâm chưa ly dục.
Phật tử: Nó có thời gian, nó bị gián đoạn… nó đòi, nó tham, nó muốn …
Trưởng lão: Nó quán hơn, đừng có để cho nó định. Bởi định đó là định tưởng. Thành ra nó gây cho mình thích thú ở trong cái định. Nó tham cái định. Thì cái đó là cái sai rồi. Ở đây nó không có ham, mà nó ham ly dục ly ác pháp thôi.
Phật tử: Trong vòng năm hơi, mười hơi là phải quán ạ?
(1:11:22) Trưởng lão: Phải tác ý, phải quán thôi, để cho nó giữ ý thức của nó chứ không khéo nó thích thú ở trong cái định. Mà cái định đó là định tưởng. Thầy nói định tưởng còn định của Phật là do ly tham, sân, si. Tâm hết tham, sân, si là tự động nó quay vô thôi. Chứ nó không phải bây giờ mình ngồi là nó bắt đầu nó quen bởi vì mình tập, hồi nào tới giờ mình chưa có biết cách thức tu cho nên mình cứ lấy hơi thở để mình tập trung cho nên bây giờ cái tâm của mình nó quen với hơi thở chứ còn sự thật ra cái tâm chưa ly dục ly ác pháp, nó ức chế.
Cho nên bởi cái người mà hướng dẫn sai rồi nó sẽ tu sai, đến bây giờ nó khó gỡ. Bởi cứ ngồi lại nó quay vô nó định mà nó định nó ức chế. Nó không chịu xả cho nên nó tác ý ra nó cũng không chịu nữa. Nó không chịu tác ý, tác ý ra bị động. Cho nên nó cứ ngồi im vậy, nó biết hơi thở ra vô thì nó thích. Cho nên đó là cái bệnh, cái bệnh thiền. Mấy người tu thành bệnh thiền chứ không phải thiền, không phải định.
Phật tử: Thầy nói con hiểu rồi.
Trưởng Lão: Cái bệnh thiền. Cho nên nó thành bệnh nó mới thích. Còn cái này tự động nó không có thích. Ly dục ly ác pháp nó sinh hỷ lạc. Hỷ lạc không phải cái thích của mình. Nó đến với mình mà nó đến một cách tự nhiên do ly dục sinh hỷ lạc. Thành ra cái hỷ lạc đó nghe nó thanh thản, an lạc, nó không có thích. Mà tại vì cái tâm nó an lạc chứ mình đâu có thích gì đâu. Nó không có cái thích ở trong đó. Có cái thích là nó trật. Quý vị cứ ngồi thiền mà thích thì tức là mấy người đang dục.
Phật tử: Đúng rồi nó tham.
Trưởng lão: Tham! Bởi vậy Thầy nói nó sai. Thầy nói ngưng, xả cái này đi. Tu cho đúng. Không chịu.
Thôi bây giờ các con chuẩn bị về. Lo để tối rồi. Còn con bây giờ cần cái gì Thầy sẽ dạy cho.
(1:13:04) Phật tử: Bạch Thầy, con muốn hỏi trạng thái của ý thức hoạt động và trạng thái của tưởng thức hoạt động. Hai cái trạng thái nó khác nhau như thế nào?
Trưởng lão: Khác nhau chứ con. Đâu có giống nhau. Cái trạng thái của ý thức là có đối tượng trước mặt. Còn trạng thái của tưởng thức là không có đối tượng. Con hiểu chỗ đó không?
(1:13:20) Nghĩa là không có vật trước mặt mà con lại nghĩ đến vật đó là tưởng nó hoạt động. Còn có cái vật này trước mặt, con thấy có cái máy này trước mặt con thấy rõ ràng cái máy này, cái này nó tròn, cái này nó sao, con thấy. Còn giờ không có con cũng thấy nó tròn nó méo ở trong đó thì đó là con bị tưởng.
Phật tử: Theo như Thầy nói, mình đang đi kinh hành, mình cứ mãi đi là cũng rơi vào tưởng là như thế nào ạ?
Trưởng lão: Nó cũng sẽ vô tưởng bởi vì Thầy nói cứ tác ý ra. Cái ý thức của mình tác ý ra nó mới hết. Còn mình cứ để mình giữ…
Phật tử: Biết môi trường mình đang đi, chẳng hạn như cái nền sân nó thế nào, nhà như thế nào?
Trưởng lão: Phải rồi. Nó là ý thức
Phật tử: Dạ, đó là ý thức còn mình quên đi. Chân mình cứ bước, không biết được cái điều đó thì đó là tưởng thức.
Trưởng lão: Con đi hả con? Con có đi với nó không con? Vậy hả con? Có lấy áo mưa theo không con? Ờ!
(1:14:16) Trưởng lão: Đó thì Thầy nói như vậy. Con thấy, bởi vì cái ý thức với cái tưởng thức, chúng ta thấy dễ lắm, nếu mà chúng ta ngồi mà yên lặng như vậy mà quên tác ý là bị tưởng rồi, tưởng nó xen vô rồi. Cũng biết đó chứ mà tưởng mà không hay.
Phật tử: Tức là cái thân làm việc theo cái tưởng hoạt động. Ý thức không hoạt động nữa thì nó không có biết được con kiến hay cái gì nó ở dưới chân mình nữa.
Trưởng lão: Nghĩa là cái ý thức của mình, đi mình thấy con kiến biết liền, đó là ý thức. Mà đi mà không biết con kiến, thì nó thành tưởng thức. Bởi vậy Thầy nói ý thức là phải có cái vật ở trước mặt của mình. Có cái đối tượng trước mặt là ý thức. Mà nó không có cái vật trước mặt của mình thì nó không phải là ý thức. Bây giờ hơi thở mình có thấy được đâu, mình có nghe được hơi thở đâu mà bây giờ nó ngồi nó cũng biết hơi thở thì rõ ràng nó là bị tưởng. Cho nên vì vậy tu hơi thở người ta phải nhắc: "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra". Nhắc là ý thức. Còn nếu không nhắc là bị tưởng . Phải không?
Phật tử: Không nhắc là tưởng. Câu tác ý của mình là đối tượng của ý thức
Trưởng lão: Đối tượng của ý thức. Còn cái kia nó đâu có đối tượng được bởi hơi thở đâu có thấy. Nó chỉ có cái rung động của cái thân.
Phật tử: Sợ cái tĩnh lặng. Mà tĩnh lặng không có đối tượng để ý thức hoạt động.
(1:15:28) Trưởng lão: Bởi vậy cái người không hiểu không có kinh nghiệm tu rồi cứ dạy chúng ta tu. Tưởng mà không biết. Trời ơi! Tới chừng mà Thầy biết được, Thầy nói đúng là thiên hạ tu sai rồi. Ai cũng tu sai hết, không có người nào tu đúng hết. Còn bây giờ mình nói mình đúng thì người ta nói mình thằng điên, ai cũng tu vậy hết, có mình mình không giống ai hết thì người ta nói mình điên chứ sao. Cho nên nó khổ cái nỗi như vậy, Thầy sửa không biết bao nhiêu năm mà Thầy ở đây, Thầy sửa chúng không, mà họ cứ cãi Thầy, họ bỏ Thầy họ đi bởi vì Thầy là thằng điên. Nói không có giống ai hết. Còn họ mới giống người này, giống người kia. Thì nó mới… (Thầy cười)
Phật tử: Thưa hỏi. Mai con có được gặp Thầy không?
(1:16:28) Trưởng lão: Cứ hễ có cái gì trục trặc cứ xin cô Út ra gặp Thầy. Còn không có trục trặc thì cứ phải tập. Nó không biết cái gì thì mình phải hỏi, còn nó có những cái gì nó, nó không đúng thì phải hỏi mới biết được. Chứ không có gì.
Đó cho nên hôm nay, Thầy nói các con thấy, mình làm sao mình phân biệt được tưởng thức và cái ý thức. Mà Thầy nói, các con nhận xét nó dễ quá mà. Mà vốn cái mục đích của Thầy muốn phân biệt cho các con thấy Thiền Định của Phật nó ở trong cái Thiền Định của Phật, là Thiền Định của ý thức chứ không phải Thiền Định của tưởng thức.
Các con hiểu không khi đức Phật theo ngoại đạo thì tu, nó nhằm ở trong cái Thiền Định của tưởng thức cho nên nó nhập từ Không Vô Biên Xứ cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Đó là Thiền Định của tưởng. Cho nên đức Phật đã bỏ cái này rồi.
Thế mà đi trở lại Tứ Thiền thì đức Phật đã thực hiện Tam Minh để làm chủ rồi. Mà bây giờ các Tổ lại xách cái định này vô trong này nói của Phật. Chứ Thầy nói trong Kinh Phật, bài Kinh nào nó cũng có ba cái Tứ Không này hết. Thầy nói thiệt là, sao mà người ta ngu quá vậy? Ông Phật ông đã quăng ra rồi bây giờ lại xách vô đây rồi nói ông Phật nói.
Bây giờ cho nên vì vậy nó rối ren. Có một số tu sĩ, họ rối ở chỗ cái thiền Hữu Sắc với thiền Vô Sắc, con thấy không? Họ rối dữ lắm, họ không biết tại sao kinh cũng có cái bài kinh này nói Tứ Thiền thôi mà không nói Tứ Không, mà có những bài kinh thì nói Tứ Không. Họ không biết sao. Mà không ngờ là các Tổ đút vô, đưa vô chứ trong kinh điển của Phật hoàn toàn Phật quét ra hết. Phật không chấp nhận cái ngoại đạo. Cái đó là không đúng rồi, nó không giải thoát rồi.
Thế mà bây giờ mình đọc những bài kinh trong đó đức Phật đã xác định mình tu không có thấy nó chứng được, đức Phật bỏ rồi mà giờ lại đút vô. Mà may có những bài kinh mà đức Phật bỏ ra đó. Bây giờ còn chúng ta mới biết được. Chứ còn nếu mà không có bài kinh đó, Thầy biết nói sao giờ đây.
(1:18:10) Ông Phật ông nói không chấp nhận. Ông đâu có nói bỏ cái đó đâu. Mà tại sao Thầy bỏ. Còn bây giờ có những bài kinh đức Phật bỏ mà nói họ còn không nghe, huống hồ là nếu mà không có những bài kinh đó thì làm sao Thầy nói. Khó cái lòng, mình thấy mình hiểu biết, mà nói người ta không nghe. Nói thật sự như vậy, mình muốn dẫn dắt họ đi đúng để cho họ được giải thoát. Họ không biết ơn mà họ còn oán giận.
Phật tử: Thầy dạy cho con biết về chữ Chánh Niệm?
(1:18:40) Trưởng lão: Chánh Niệm- thì con thấy rằng cái Chánh Niệm- thì là cái niệm thiện chứ không phải là niệm ác, phải không? Bởi vì Chánh Niệm là niệm thiện vì vậy mà luôn mình ở trong Chánh Niệm. Bởi vậy Tỉnh Giác thì Chánh Niệm. Thì luôn luôn á, người Tàu thì họ phải lật ngược lại câu này. Họ nói Chánh Niệm Tỉnh Giác. Thay vì Chánh Niệm nó mới tỉnh giác chứ gì? Không phải. Tại người Tàu, thực sự người Việt của mình thì Tỉnh Giác rồi mới Chánh Niệm. Mình có tỉnh mình mới được ở trong Chánh Niệm chứ mình mê thì mình làm sao mình ở trong Chánh Niệm được.
Mà Chánh Niệm tức là niệm thiện không thể niệm tà được. Bởi vì Tà Niệm rồi Chánh Niệm, phải không? Nếu mình ở trong Tà Niệm thì niệm ác nó khổ mình, khổ người. Phải xác định được cái Niệm mà làm khổ mình, khổ người, nó là tà niệm. Mà cái niệm mà không làm khổ mình, khổ người nó là Chánh Niệm.
Cũng như bây giờ Thầy, ví dụ như Thầy nói một cái điều mà người ta vui, người ta không có khổ thì đó là Chánh Niệm. Mà Thầy nói một điều là người ta buồn thì cái này là Tà Niệm. Cho nên Thầy viết sách, Thầy nói cái đúng nhưng mà Thầy không cho người ta phổ biến ra là tại vì phổ biến ra cái người ta đang ở trong cái sai, người ta đau khổ. Người ta đang ở trong chùa đẹp, người ta đau khổ, người ta không ở được trong chùa đẹp. Người ta ăn ngày ba bữa, bây giờ nói ra người ta ăn một bữa người ta thấy khổ quá. Cho nên Thầy không muốn làm khổ ai hết.
Cho nên vì vậy, mặc dù là Chánh Pháp vẫn còn không muốn làm khổ người ta huống hồ là Tà Pháp. Cho nên cái nói của Thầy, Thầy biết lúc nào phải nói, mà lúc nào không nói. Đó là cái Chánh Niệm. Còn nếu là tà niệm, mình nói được, mình nói bừa ra cho người ta khổ mặc người ta. Thì cái điều đó không được.
Cho nên bây giờ ví dụ như Minh Điền, con xin Thầy để đưa những bài kinh này lên đài truyền hình, đài phát thanh phải không? Nhưng mà Thầy thấy giai đoạn này không được, làm khổ thiên hạ. Đã là Chánh pháp mà còn làm khổ thiên hạ, nhất định chưa được lúc. Bởi vì cái thời điểm đó chưa được, người ta còn đắm chìm ở trên đó rồi thì từ từ mình sẽ đưa một cái nền đạo đức.
Từ cái nền đạo đức, nó khẽ đi, người ta bớt đi. Bây giờ người ta bớt khổ nhiều là nhờ cái đạo đức rồi. Bắt đầu mình đưa cái này ra thì người ta bừng sáng, người ta xả bỏ, người ta không có khổ. Chứ không người ta khổ, người ta gây ác nữa. Người ta khổ, nghe những lời Thầy nói rồi, bắt đầu ăn cũng không dám ăn. Bởi vì mình ăn phi thời, Phật tử thấy không cúng dường. Người ta ở chùa tốt cũng bị rồi, do đó không lẽ giờ đập phá mấy cái chùa tốt này được sao? Cho nên vì vậy bây giờ mình phải xúm nhau lại, mình phải diệt ông đó cho ông đừng có nói nữa.
Thì tức là bắt buộc họ phải nghĩ ra cái điều ác, làm cho họ rơi vào cái ác pháp. Nếu mà mình không nói ra thì họ đâu có nghĩ giết người. Mà tại vì mình nói ra người ta mới nghĩ giết người đó để cho người ta yên ổn người ta sống. Do đó tạo cho người ta tội ác. Còn bây giờ đưa sách Đạo Đức ra lần lượt người ta thấm nhuần được đạo đức rồi thì lúc đó Thầy đưa ra người ta thấy phải, người ta không có khởi ra cái niệm ác, người ta xả ra.
Thì cái đó là chuyện cái của một cái người như, Thầy tu Thầy phải làm cái điều lợi ích cho xã hội chứ Thầy đâu có ghét mấy ông thầy Đại thừa. Nếu mà Thầy ghét thì Thầy bung ra Thầy nói tùm lum để cho mấy ông ấy khổ chơi. Còn cái này Thầy đâu có ghét cho nên Thầy phải làm sao cho có lợi ích. Các con hiểu chưa? Cái lòng thương Thầy đối với cái người nào, bây giờ họ nói Thầy gì Thầy vẫn thương họ. Bởi vì đối với Thầy, nó là thiện pháp rồi cho nên lúc nào lòng từ cũng phải thương họ, làm sao giúp cho họ thoát ra khỏi nỗi khổ. Mặc dù Thầy nói rát cả cổ nhưng Thầy vẫn nói.
(1:21:55) Phật tử: Bạch Thầy, các sư Nam Tông người ta ăn ngày chỉ một bữa sáng, chiều có thì ăn không có thì thôi. Còn ăn ai cho gì người ta ăn nấy. Người ta không có sát sanh hại vật … như vậy người ta vẫn ăn thịt, cá, đủ thứ. Vậy có phạm giới hay không?
(1:22:19) Trưởng lão: Phạm chứ. Phạm tội bởi vì đức Phật cấm cư sĩ mà, cấm cư sĩ không được cúng dường thực phẩm động vật cho chư Tăng và Phật. Nếu mà người nào cúng dường điều này là có 5 điều phi công đức mà. Bài kinh ViPaka đã dạy rõ ràng mà. Bây giờ Phật tử không làm thịt, không làm cá cúng dường thì mấy ông này làm sao có ăn. Tại mấy ông xui khiến người ta làm sao mà người ta làm cá thịt cúng dường mấy ông nè.
Bây giờ đức Phật đã cấm như vậy, cấm cư sĩ rồi thì bây giờ coi như cái mầm để cúng dường cho mấy ông, bố thí cho mấy ông đó mà cư sĩ không dám cúng thì phải cúng rau cải cho mấy ông chứ làm sao dám cúng thịt cá được. Đức Phật đã dạy rồi mà, phải không? Bây giờ mấy ông nói ăn không thấy, không nghe, không nghi thì rõ ràng Phật tử làm chứ mấy ông đâu có làm. Mấy ông có bắt con vật đâu mà làm. Nhưng mà ông Phật cấm Phật tử, cấm mấy người cư sĩ. Mấy ông cư sĩ mà làm thịt động vật, thực phẩm cho chư Tăng và Phật ăn thì mấy người bị năm cái điều phi công đức, đã không được công đức mà còn lại tội lỗi đó.
Phật tử: Bạch Thầy, con đọc kinh nào ạ?
Trưởng lão: Kinh Trung Bộ. Bài kinh ViPaka tức là Thừa xứ ViPaka hỏi. Hình như là quyển 1, nó có 3 tập Trung Bộ. Nó quá rõ ràng rồi. Kinh Nguyên Thuỷ đó. Mà các nhà sư Nguyên Thuỷ ăn thịt chúng sanh thì đủ biết rồi. Họ đã bị lừa như thế nào, họ ăn được thì Thầy không hiểu.
Phật tử: Con theo mẹ con ăn chay, con ăn từ lúc nhỏ cho tới. Con đi tới đâu, con mang đồ của con ăn, người ta nói cô tu giỏi quá ha …
Trưởng lão: Đó họ châm biếm con
Phật tử: Con cảm thấy …, từ đó tới giờ, con nghe được Thầy là một vị cứu tinh, Thầy phù hợp về cách ăn, Thầy dạy độc cư. Từ nay về sau Thầy cố gắng cứu con.
Trưởng lão: Cái cứu con là con phải tự thắp đuốc. Thầy chỉ là người chỉ đường chứ Thầy không có nắm tay kéo con được đâu.
Phật tử: Con cố gắng đi.
(1:24:49) Trưởng lão: Ráng cố gắng. Thì bây giờ Thầy nói thực sự ra khi người ta làm điều gì thì người ta khéo lý luận để cái người không hiểu biết thì người ta chấp nhận cái lý luận đó thôi. Chứ còn người hiểu biết thì người ta thấy rõ ông Phật nói chung là ông đã dạy đủ cho chúng ta, coi như là trang bị cho chúng ta hành trang để chúng ta đi trên con đường giải thoát này rồi.
Kinh điển của đức Phật là trong Bốn cái bộ Kinh của đức Phật từ Trường Bộ, Trung Bộ, Tăng Chi, Tương Ưng. Bốn bộ Kinh này, đức Phật đã trang bị cho chúng ta cái hành trang để đủ đi trên con đường, không còn ai lừa đảo chúng ta được. Những bài kinh của đức Phật trong bốn bộ Kinh Nguyên Thuỷ là không có cái giáo pháp ngoại đạo nào khi chúng ta thâm nhiễm những bộ kinh này rồi không có giáo pháp ngoại đạo nào có thể lừa đảo chúng ta được.
Tại vì chúng ta không có chịu đọc những bộ kinh này cho nên chúng ta bị lừa đảo. Thậm chí ngay cả các sư Nguyên Thuỷ cũng vẫn bị lừa đảo đó, bị Thầy Tổ lừa đảo rồi các sư cũng theo đó mà sống. Rồi sống trong dục lạc thì cứ thích thôi. Ăn thịt, ăn cá là phải ngon, phải thích thôi. Bây giờ ăn chay nghe nó trai quá.
Tại vì con có cái duyên, duyên đó là duyên Đại thừa, con ăn như con bò ăn cỏ đó, con ăn thịt không được.
Phật tử: Con ăn thịt nó nghẹn
Trưởng lão: Thì nó đã vậy. Con ở đó mà con không ăn thì con cũng không yên.
Phật tử: Con độc cư cũng khổ lắm. Cứ lôi con ra vô ban điều hành hoài, con sợ quá. Con mới quyết định là con không tu nữa. Xin Thầy hoan hỉ. Con nghe lời Thầy lắm. Thầy dạỵ cho con ngắn, Thầy rút kinh nghiệm trong suốt cuộc đời Thầy đọc Kinh, giờ Thầy dạy con. Thầy nói con nghe, con khỏi đọc nữa, con chỉ hành theo.
(1:26:55) Trưởng lão: Lẽ đương nhiên Thầy bảo sao thì làm vậy thôi chứ đọc nó càng rối nữa. Cái trí tuệ của các con không thể hiểu được lời của đức Phật đâu. Các nhà học giả, người ta có Tiến Sĩ Phật học, mà người ta đọc người ta còn không hiểu lời của ông Phật nói. Chỉ có người tu, người ta thực hiện được người ta mới thấy được cái lời của đức Phật nói chứ còn nếu cái người mà không có tu hành thì kể như là chỉ tưởng giải, giải ra lý luận cho nó nghe cho nó vui tai chơi vậy, để cho người ta thấy ông đó nói đúng, còn không nếu mà nó đúng thì hầu hết người ta đã thành Phật hết rồi.
Còn bây giờ Thầy nói là tại vì Thầy nói không có trúng ai, cho nên vì vậy người ta chống Thầy thôi. Chứ còn cỡ mà Thầy hùa theo số người cứ giảng theo kiểu của họ thì chắc chắn họ cũng nói Thầy nói đúng. Tại vì Thầy nói theo kiểu tu của Thầy. Cái kiểu mà Thầy đã giải thoát được mình. Cái kiểu mà Thầy sống ly dục ly ác pháp được. Cho nên vì vậy họ thấy Thầy không có giống họ cho nên thường thường họ không ưa Thầy chút nào hết. Họ sợ Thầy khi mà Thầy đến Thầy nói họ khép cái mỏ của họ lại, họ không có luận được cái gì hết.
Phật tử: Lời thật mất lòng hả Thầy?
Trưởng lão: Thì lẽ đương nhiên là cái điều đó. Cho nên thôi bây giờ, thì các con cố gắng các con tu cho được giải thoát thôi. Cái gì thì hỏi ngay trên những cái pháp hành của mình liền Thầy dạy. Nó không có mất thì giờ mấy con nhiều. Mà nó cứ hành để cho nó đi tới. Cái đó là cái quan trọng nhất. Cho nên cố gắng mà hành thôi. Cái hành đó thì nhờ Thầy uốn nắn cho nó đi ngay thôi. Chứ không nó lệch bởi vì con đường thiền tưởng, nó luôn luôn nó kề bên. Trật là nó nhào vô trong cái thiền tưởng liền
Phật tử: Thưa Thầy bữa nay con bắt đầu tu Tứ Niệm Xứ?
Trưởng lão: Thử thôi. Chứ bây giờ giai đoạn của con chưa phải tu Tứ Niệm Xứ được. Nó chưa được, cho nên vì vậy khi nào mà Thầy xác định Tứ Niệm Xứ thì mới tu. Còn hôm nay Thầy dạy tại vì Minh Điền nó sẽ về dưới. Trong những buổi khuya thanh vắng thì thay vì những buổi đó thay vì tu Định Niệm Hơi Thở thì nghe nó uổng thời gian quá. Bởi vì Định Niệm Hơi Thở nó chỉ nhầm để ngăn ác diệt ác mà thôi chứ nó không phải trên Tứ Niệm Xứ ngăn ác diệt ác mà thôi.
Còn bây giờ nó chuẩn bị trong những buổi khuya thanh vắng để mà nó thực hiện Tứ Niệm Xứ để nó ngồi đó quan sát Thân Tâm của nó, để coi như nó có một người, một con người của nó đứng ở ngoài để nhìn coi thân tâm của nó đang làm việc ở trên đó. Đó là cách thức dạy Tứ Niệm Xứ để quét sạch những cái tàn tích, những cái ô nhiễm ở trên Thân- Thọ- Tâm- Pháp của mình
Phật tử: Con gần Thầy, con thực hành rồi có gì con xin hỏi Thầy.
(1:29:27) Trưởng lão: Ở đây thì con thực hành được. Nhưng thực hành rồi. Sau khi về thì cũng vẫn những buổi khuya tối. Chứ con ở chỗ người ta mà con sống độc cư.
Phật tử: Con bạch Thầy, con có một thất riêng độc cư.
Trưởng lão: À! Thì như vậy ở trong thất của mình thì mình lo mình tu thì tu Tứ Niệm Xứ được. Chứ tiếp duyên ra ngoài là tu Tứ Chánh Cần chứ tu Tứ Niệm Xứ không được.
Trưởng lão: Phải sống độc cư, con cho nên phải nghe Thầy nè. Nếu mình muốn tu Tứ Niệm Xứ là phải độc cư, độc bộ, độc hành.
Phật tử: Thưa hỏi
Trưởng lão: À! Bây giờ Thầy giải thích về chữ "Độc bộ”. Chữ "Bộ" có nghĩa là đường đi. Nghĩa là mình đi có một đường của mình chứ không đi chung với đường ai- Nghĩa là độc Bộ. Độc hành là không có đi hai người trên cái đường đó được. Con hiểu không? Độc cư là sống có một mình, chứ họ không sống chung với ai.
HẾT BĂNG