Pháp Âm - 1993 - 1996

Pháp Âm - 1993 - MÙA XUÂN VĨNH CỬU

1993-MÙA XUÂN VĨNH CỬU

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1993

1- TU SINH ĐẢNH LỄ TÁC BẠCH NGÀY MÙNG MỘT TẾT

(0:00) Thầy Chân Tịnh: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính bạch Thầy!

Hôm nay con có duyên sự đầu thành đảnh lễ xin tác bạch.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính bạch Thầy!

Hôm nay là ngày mùng một Tết, ngày đầu xuân năm Quý Dậu. Theo tục lệ ngày đầu năm ở mọi gia đình cũng như trong các chùa đều đón năm mới chúc mừng tuổi thọ. Vậy, chúng con cúi xin thỉnh Thầy quang lâm đến thiền đường để chúng con mừng và chúc tuổi thọ Thầy. Ngưỡng mong Thầy từ bi hoan hỉ chứng minh để chúng con tỏ chút lòng thành kính tri ân sự dạy dỗ của Thầy.

Trong tương lai, kính xin Thầy dìu dắt chúng con đến nơi đến chốn, giải thoát đau khổ và chấm dứt tái sanh luân hồi. Xin Thầy từ bi lân mẫn hứa khả để chúng con được ân triêm công đức!

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

2- MÙA XUÂN CỦA ĐẠO PHẬT LÀ MÙA XUÂN VĨNH CỬU

(1:20) Trưởng lão: Hôm nay quý thầy thỉnh Thầy đến thiền đường để mừng chúc tuổi thọ Thầy trong đầu năm mới, và chúc thọ tuổi thọ Thầy. Thầy sẽ giảng nói về “Mùa xuân vĩnh cửu” cho quý thầy nghe.

Bắt đầu quý thầy cùng Thầy niệm hồng danh Đức Phật.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần).

Theo thông lệ và phong tục của mỗi dân tộc trên thế giới thì ngày đầu năm là ngày Tết Nguyên Đán. Đối với dân tộc Việt Nam và Trung Hoa, ngày Tết là ngày đầu của mùa xuân, mà nói đến mùa xuân là nói đến thời tiết ấm áp, mát mẻ, dễ chịu cho loài người, loài vật và cả loài cỏ cây. Ngày ấy bắt đầu một năm mới, ngày ấy cũng là ngày mà mọi người trên thế gian này bắt đầu nhận thêm một tuổi. Vì thế, ai cũng lấy ngày này làm ngày mừng tuổi hay là ngày chúc thọ cho nhau. Do đó, họ mới bày ra đầy dẫy những thực phẩm, bánh trái, ăn uống.

Sau một năm lao động bằng tay chân và bằng cả trí óc, vì cuộc sống người ta quá vất vả và quá mỏi mệt, nên lấy ngày này làm ngày nghỉ ngơi và ăn chơi suốt cả tuần lễ, có người nghỉ suốt cả tháng hoặc suốt cả mùa xuân ba tháng. Vì thế, những ngày này trông rộn rịp và náo nức đối với mọi lứa tuổi, từ trẻ con năm tuổi đến cụ già tám mươi vẫn thấy có một sự gì nao nao, náo nức trong lòng.

Ngoài đường lộ, xe cộ dập dìu, tới lui rầm rộ, phố xá hôm nay trưng bày sáng choang đủ loại mặt hàng hóa, dập dìu trai thanh, gái lịch tưng bừng, nhộn nhịp. Mọi người ai cũng ăn mặc chỉnh tề, nhất là trẻ con, quần này áo kia kiểu nọ nhởn nhơ khoe màu, khoe sắc với nhau.

Còn nói về các loài hoa thì đủ loại: hoa mai, hoa thọ, hoa cúc, mẫu đơn, thược dược, hoa lài v.v…​ đua nhau rộ nở, khoe sắc, khoe hương muôn màu, muôn vẻ để đón chúa xuân về.

Cảnh vật bên ngoài trông có vẻ đổi mới hẳn bộ mặt hằng ngày của nó. Nhà cửa phố xá cũng sáng sủa, tưng bừng náo nhiệt hơn. Tiếng pháo thường nổ vang khắp nơi tạo thành một âm thanh vang động của mùa xuân, càng thêm rộn rã tưng bừng náo nhiệt. Lòng người bên trong cũng vậy, náo nức, hân hoan, vui cười giòn giã trong những dịp đón đầu năm mới.

(5:39) Nhưng xét cho cùng tận, trong những ngày này, trong những dịp này, kẻ vui cũng lắm mà người khổ buồn cũng nhiều, kẻ dư ăn thừa của cũng nhiều mà người thiếu ăn mang nợ nần cũng lắm. Đó là cái sinh hoạt đầu năm: buồn vui, khổ đau, rầu rĩ, ưu tư của con người trong cái thế gian này.

Còn hiện giờ chúng ta là những người tu sĩ Phật giáo đang hướng về mục tiêu giải thoát. Cho nên hiện giờ chúng ta phải nhìn ngày Tết, ngày xuân, ngày đầu năm cũng như ngày cuối năm và tất cả những ngày khác trong năm đều giống như nhau cả. Không có gì gọi là xuân, gọi là vui mà cũng không có gì gọi là buồn, là đầu xuân, là cuối xuân.

Nếu cái nhìn của chúng ta được như vậy thì làm gì có náo nức? Thì làm gì có hân hoan, thích thú trong lòng? Thì làm gì có vui đùa, cười cợt? Vì vậy làm gì có du xuân ngoạn cảnh đi đây, đi đó cho tổn hao, tổn phí tiền bạc!

Này quý thầy!

Đối với đôi mắt của người tu sĩ đạo Phật phải nhìn mùa xuân là mùa xuân bất diệt, là mùa xuân vĩnh cửu, cũng như phải nhìn tuổi thọ: tuổi thọ phải lâu dài không thể với tuổi 100 năm, mà phải nhiều, nhiều hơn nữa, thọ vô cùng vô tận.

Cho nên, thiền sư Thiền Lão trong thời nhà Lý đang tập sống thiền tuổi thọ vô cùng vô tận, và đang tập nhìn mùa xuân vĩnh cửu bằng thể hiện qua hai câu thơ dưới đây:

“Đản tri kim nhật nguyệt

Thùy trúc cựu xuân thu”.

Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch:

“Chỉ biết ngày tháng này

Ai rành xuân thu trước”.

Ở đây, Thầy giải thích để quý thầy hiểu rõ thêm.

Câu đầu: “Chỉ biết ngày tháng này” nghĩa là sống với hiện tại, biết hiện tại, mà chẳng biết chẳng lo ở ngày mai.

Câu thứ hai: “Ai rành xuân thu trước” nghĩa là sống hiện tại, sống cho bây giờ, chẳng nhớ chẳng nghĩ về quá khứ.

Hôm nay, quý thầy đã đủ duyên lành được gặp Thầy nơi cái đất Trảng Bàng cằn cỗi, không có núi to, sông rộng mà cũng không có đất đai màu mỡ như ở nơi khác. Ở đây, không phải là nơi để hướng dẫn và đào tạo những bậc xuất chúng siêu quần, nhưng dù sao cũng có đủ duyên lành quý thầy đã được gặp Thầy thì không ít thì nhiều, Thầy cũng chỉ dạy và hướng dẫn, chỉ đường cho quý thầy đi tìm một mùa xuân vĩnh cửu, một mùa xuân mà hằng muôn, hằng vạn người ước mơ.

Quý thầy cũng nên hiểu ở đây lời nói của Thầy là một lời chân thật không phải là một lời nói suông ở đâu. Vậy trước khi chỉ lối cho quý thầy thì quý thầy phải chịu khó lắng nghe cho kỹ, và tự trong lòng trả lời những câu hỏi của Thầy.

3- PHONG TỤC MỪNG XUÂN CỦA THẾ GIAN GIẢ DỐI VÀ ĐỘC ÁC

(9:45) Vậy các thầy có biết ngày hôm nay là ngày gì không? Ngày vui hay là ngày buồn đây! Các thầy tập hợp lại đây để chúc thọ và mừng tuổi Thầy có đúng theo tinh thần giải thoát của đạo Phật không?

Này quý thầy!

Quý thầy hãy lắng tai nghe cho kỹ, Thầy sẽ giảng nói đây.

Ở đây chúng ta là những người tu sĩ của đạo Phật, tại sao chúng ta lại đi bắt chước theo những phong tục, tập quán của con người ở thế gian? Tại sao chúng ta lại để cho đạo Phật bị đồng hóa với những phong tục đó?

Này quý thầy!

Chỉ vì từ lâu quý thầy đã từng sống trong các chùa, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường, tu viện, thiền viện và Phật học viện lâu đời nên đã từng sống quen đi với những phong tục dân gian của con người. Những phong tục này không đúng với đường lối từ bi và giải thoát của đạo Phật.

Bởi quý thầy ở các nơi đó đã từng tổ chức đón xuân, vui xuân, chúc thọ, cho nên đã quen đi rồi, đã bị ảnh hưởng những phong tục đó lâu đời rồi. Ở các nơi đó quý thầy cũng giống như các cư sĩ sống tại thế gian, cũng náo nức, rộn rịp, sửa sang, sơn phết chùa miễu làm cho mới toanh, và chưng dọn bàn ghế bóng loáng, sáng choang để đón xuân chúc tuổi thầy, mừng tuổi Phật.

Những điều làm này thật là tội lắm! Phải nói rằng thật là lầm lạc!

Quý thầy là những người đệ tử của Phật, là những vị Tỳ Kheo, là những bậc Sa Môn, là những bậc Phạm Hạnh, là những bậc làm gương sáng đạo đức cho mọi người, ai cũng thấy ai cũng biết. Quý thầy đã từ bỏ gia đình, từ bỏ thế tục, đã cắt ái ly gia thế mà quý thầy đã để cho Phật giáo bị đồng hóa thế gian tục.

Từ lâu, tâm hồn của quý thầy đã bị ngăn cách bởi không gian và thời gian của mùa xuân thế tục, cũng vì thế mà quý thầy đã lầm lạc nhận mùa xuân thế tục làm mùa xuân vui đẹp của đạo, mà quên mất mình trong mùa xuân bất diệt, mùa xuân vĩnh cửu của đạo Phật, mùa xuân bất diệt, mùa xuân của đạo trong lòng của quý thầy, mà người đệ tử của Phật hôm nay đã đánh mất đi rồi.

(13:03) Vì quý thầy đã chạy theo sự dục lạc của thế gian quá nhiều, cho nên, mùa xuân thế gian mới xâm chiếm quý thầy được, mới lôi cuốn, ngự trị trong tâm hồn quý thầy được.

Mùa xuân Di Lặc, mùa xuân của đạo Phật bây giờ không biết đâu mà tìm nữa, nó đã biến mất trong tâm hồn của mọi người và chính ngay của quý thầy, của người con Phật, đã từ lâu rồi.

Hôm nay, quý thầy về đây tu tập với Thầy, quý thầy phải từ bỏ những dục lạc, phong tục thế gian này đi. Những phong tục, những dục lạc này rất là phàm tình, nó còn rất là trẻ con, mà phải nói rằng rất là đầy giả dối, giả dối đối với mọi người, giả dối đối với chính bản thân của nó.

Những phong tục này không thể lường gạt dối trá với một người tu sĩ của đạo Phật chân chánh được, chỉ lường gạt và dối trá với những người vô minh tâm còn tham đắm dục lạc, tâm còn đang ô trược dục lạc.

Họ đâu hiểu Phật là đấng giác ngộ, đã vượt không gian và thời gian thì còn đâu là ngày Xuân, ngày Hạ, ngày Thu, ngày Đông. Tuổi thọ của Phật là tuổi thọ vô lượng không cùng tận, vì tuổi Phật không có không gian và thời gian thì lấy gì mà mừng, lấy gì mà cầu?

Tăng tức là thầy, thầy là những người nối gót theo chân Phật, thì thầy phải hướng đến tuổi thọ vô lượng của Phật, cớ sao hôm nay quý thầy còn bày vẽ theo kiểu cách thế tục phàm phu, mừng xuân, chúc thọ, lại còn bày ra ăn uống bánh trái vật này thứ kia? Trên bàn thờ Phật, thờ Tổ lại còn bày vẽ chưng dọn bông hoa, bánh trái, hương đăng, trà quả đủ điều!

Điều đáng tiếc nhất là quý thầy đã bỏ ra rất nhiều thì giờ quý báu để làm một sự việc không đúng đường lối tu hành của đạo Phật. Thay vì những thì giờ quý báu này quý thầy nỗ lực tu hành, có đâu lại để những thì giờ quý báu này hơn cả tháng nay phải lo sơn, phết, chưng, dọn, chùi, rửa bàn ghế, lư đồng, mâm thau v.v…​

Bởi vậy, hiện nay trong quý thầy cũng có vẻ rộn rịp, náo nức, tưng bừng. Nếu quý thầy xét cho kỹ thì quý thầy không thua gì người thế tục chút nào.

Này quý thầy!

Hôm nay quý thầy mời Thầy đến đây để mừng tuổi thọ của Thầy, để chúc thọ Thầy! Đừng! Đừng! Quý thầy đừng! Đừng làm những điều thế gian đó, nó không đúng là con đường của đạo Phật đâu. Quý thầy có nhận xét, có thấy điều đó đúng như vậy không?

(17:04) Ngày mà quý thầy cùng mọi người trên thế gian này gọi là mừng xuân, vui xuân, mừng tuổi, chúc thọ, ngày mà quý thầy áo quần chỉnh tề cũng như mọi người khác để đón giao thừa, để mừng năm mới, ngày ấy quý thầy có chịu khó để ý một chút, một chút mà thôi, quý thầy sẽ thấy ngày ấy là ngày tang thương, sầu khổ và đau đớn nhất của các loài vật, nhất là loài gia súc. Ngày đó là ngày gà, vịt, heo, dê, trâu, bò, cá, tôm, sò, hến được đem ra giết để lấy thịt, làm thịt, làm thực phẩm để ăn mừng năm mới, để đón xuân về chúc tuổi thọ cho nhau.

Quý thầy phải hiểu, việc làm này thật là mâu thuẫn. Đoản mạng loài vật lấy thịt ăn mừng, vui chơi thỏa thích, gọi là chúc mừng tuổi thọ, để được sống lâu muôn tuổi. Xét cho kỹ quý thầy sẽ thấy rõ những việc làm này rất là độc ác. Vậy mà chúc thọ để thọ cho lâu và để tiếp tục làm những điều ác độc cho nhiều thì thử hỏi việc làm này có thọ được không?

Chỉ việc làm ác độc mà không thấy ác độc, còn lại vui chơi trên đau khổ, trên sự chết chóc, trên xương máu, trên tiếng kêu la thảm thiết, trên sự giãy giụa, lăn lộn, quằn quại đau thương trên bàn tay của con người.

Quý thầy là những người tu sĩ trong đạo từ bi mà chẳng có một chút lòng thương xót nào chăng? Quý thầy là những người tu hành theo đạo từ bi mà lại còn a dua vui theo những cái phong tục tập quán của con người độc ác, của loài người độc ác, sát hại sinh linh thì còn gì là đạo từ bi? Thì còn gì gọi là vui xuân chúc thọ? Phải không hỡi quý thầy?

Bởi ngày Tết của loài người là ngày đau khổ thương xót cho loài súc sanh. Vì nghiệp mang (nợ) máu mà chúng phải đền, vì nghiệp ác mà chúng phải trả. Nếu hiểu biết được ngày đó là ngày khổ đau thì quý thầy đừng có vui cười, mà hãy nhỏ từng giọt nước mắt thương xót cho tất cả các loài chúng sanh, chúng đã vì vô minh mà giết hại lẫn nhau.

Mọi người đâu biết, họ đang giết cha, mẹ, anh, chị và em của họ để vui mừng tuổi thọ của họ. Họ đâu có biết nên họ ăn thịt lẫn nhau mà còn vui đùa, cười cợt thỏa thích trên đống xương, máu thịt của nhau.

Ngày đó là ngày tang tóc, là ngày đau khổ cho những người có trí tuệ, thấy biết rõ sự vô minh kia che khuất khiến cho mọi người mê mờ, giết hại lẫn nhau mà không biết. Vì thế, mà họ không còn có chút lòng thương yêu nhau, bởi người hiểu biết thấy rõ thì thật là thương tâm.

Vì thế mà không thể nào Thầy ngồi làm thinh để cho quý thầy còn vui theo như vậy được nữa.

(20:41) Bây giờ quý thầy đã biết rõ rồi thì quý thầy có còn vui theo những phong tục đó nữa hay không? Có còn đón xuân chúc tuổi thọ nữa hay không?

Đạo Phật là đạo từ bi, làm sao chấp nhận những phong tục có nhiều sự độc ác, có nhiều sự ích kỷ đó được. Muốn cho mình được tuổi thọ sống lâu và nhiều hạnh phúc an vui, ngược lại lại cướp mạng sống của kẻ khác, lại lấy sự đau khổ của kẻ khác để làm ngày vui cho chính mình, để cầu tuổi thọ cho chính mình, thì quý thầy suy nghĩ chúc tuổi thọ, mừng tuổi thọ theo những phong tục này có được kết quả chăng?

Luật nhân quả quý thầy phải xét kĩ, làm một điều ác thì phải gặt lấy những quả khổ, làm một điều thiện thì gặt hái những quả vui. Vậy, ở trên luật nhân quả thì ngày xuân, ngày Tết mà quý thầy đang tổ chức vui mừng thì sẽ gặt hái những quả gì? Nhân đoản mạng chúng sanh, nhân độc ác, nhân bất thiện thì quả phải yểu tử, thì phải khổ đau.

Vì thế, Đức Phật dạy chúng sanh toàn là vô minh, là đui mù nên không bao giờ thấy được mùa xuân vĩnh cửu.

Hôm nay, quý thầy là những người đệ tử của Phật, quý thầy đừng bịt tai, bịt mắt để chạy theo thế gian tục, đừng vui chơi dục lạc thế gian trong những ngày này. Dục lạc thế gian rất là ngắn ngủi, vui đó khổ đó, chỉ trong chớp mắt là đã tan biến như mây khói. Bởi thế gian một năm của con người rất là ngắn ngủi, đó chỉ là một chu kỳ của trái đất mà thôi.

Bởi người tu sĩ Phật giáo phải sống như Thiền Lão chẳng biết ngày tháng năm, tức là vượt không gian và thời gian, như vậy mới có thể gọi là sống trong mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân bất diệt.

Quý thầy có khi nào tự nghĩ trong lúc chúng ta vui xuân mừng tuổi thọ thì súc vật khổ đau và tử vong không? Quý thầy có khi nào tự nghĩ rằng khi loài người vui đùa, cười cợt, chè chén thỏa thích thì trong khi đó các loài vật đang giãy giụa, khổ đau, lăn lộn, rên la trên thớt dưới dao, máu đổ thịt rơi chăng? Có khi nào quý thầy nghĩ rằng ngày vui xuân, ngày Tết nhất của loài người là ngày tang tóc, thê lương, ảm đạm, chết chóc của loài vật chăng?

Rồi có khi nào quý thầy tự nghĩ rằng ngày Tết, ngày xuân mà mọi người đang tổ chức là ngày hạnh phúc an vui, hay là ngày đau khổ, lo lắng, ưu tư, sầu khổ của con người chăng?

Có bao giờ quý thầy tự suy nghĩ như vậy không?

Này quý thầy!

Chúng ta phải xét, chỗ này vui chỗ kia khóc, đây là đối với con người, thì cái vui đó có trọn đầy không hỡi quý thầy? Chỗ này no, chỗ kia đói thì cái vui đó có vui được không hỡi quý thầy?

(24:56) Bởi vậy, Phật dạy người cư sĩ cũng như người tu sĩ đừng giết hại chúng sanh, đứng thấy người giết hại mà vui theo, đừng sai bảo người giết hại, phải từ bỏ sự giết hại, từ bỏ sự vui theo người giết hại. Tất cả những điều giết hại là nhân đoản mạng của chúng ta, sau này chúng ta sẽ thọ quả yểu tử. Mà đã yểu tử thì không bao giờ được sống lâu trên đời này.

Đứng trên luật nhân quả mà suy xét cho kỹ: Tại sao con người muốn sống lâu trăm tuổi, và hơn nữa, và còn muốn sống lâu hơn nữa, mà tại sao lại cầm dao cắt cổ, nhổ lông, đập đầu, thọc huyết các loài chúng sanh?

Không sợ luật nhân quả à? Không sợ luật nhân quả hay sao? Nó không tư vị một ai. Nếu làm ác phải thọ chịu khổ, nếu đoản mạng chúng sanh phải sống yểu tử. Các thầy phải hiểu luật nhân quả là như vậy.

Bây giờ quý thầy đã được nghe giảng đến đây, quý thầy có còn vui xuân, chúc thọ và mừng tuổi như vậy nữa hay không? Quý thầy nên biết nỗi mừng vui của chúng ta vô tình đã tạo nhân ác. Rồi đây chúng ta phải thọ khổ, sự vui của con người chẳng mấy lát mà sự khổ thì vô cùng tận.

Nhân nào quả nấy, vì thế, sự vui của chúng ta luôn có những sự đau khổ. Bằng chứng sau những ngày Tết thì cuộc sống đâu cũng hoàn đấy, chỉ còn lại một chuỗi ngày dài thê lương đầy lo âu, sợ hãi, đói rét, bệnh tật và nhiều thứ tai nạn đau khổ đến cuộc sống ác độc của loài người, nên nghiệp quả khổ đau đang đè nặng trên cuộc đời của họ thế nào, họ đã biết.

Chỗ này chấm dứt chiến tranh, chỗ kia chiến tranh bùng nổ. Khắp trên thế giới, lúc nào giờ nào cũng có chiến tranh, tại làm sao? Tại vì con người quá ác độc, lấy ngày vui cho chính mình lại là ngày thảm khốc cho các loài khác.

Bởi vậy, con người chỉ biết cười khi thỏa mãn dục lạc và chỉ biết khóc khi không thỏa mãn dục lạc, khi tai nạn bệnh tật đến.

Vậy hôm nay quý thầy đã hiểu rõ ý nghĩa Tết nhất, đón xuân, mừng tuổi thọ của con người trên thế gian này là độc ác, là một chuỗi ngày liên tục khổ đau của kiếp người, là một chuỗi ngày dài nối tiếp tâm độc ác của loài người, mà cũng chính vì thế tuổi thọ của con người bị ngắn ngủi đi.

4- HÌNH PHẠT HAY PHƯỚC BÁU ĐỀU DO NHÂN QUẢ

(28:40) Hôm nay, Thầy sẽ đưa đường dẫn lối cho quý thầy đi tìm một mùa xuân vĩnh cửu, một mùa xuân không có giờ nào, ngày nào, tháng nào, năm nào mà không có xuân, không có an vui hạnh phúc.

Vậy con đường thực hiện một mùa xuân vĩnh cửu, một mùa xuân an lạc hạnh phúc cho muôn loài là phải thực hiện một mùa xuân như thế nào?

Này quý thầy!

Quý thầy hãy lắng nghe cho kỹ, để hiểu cho rõ ràng để mà thực hành đúng lời dạy của Thầy. Nhớ lời dạy này, quý thầy không được hành sai, phải hành cho thật đúng.

Trước khi theo Thầy, để khơi dậy một mùa xuân hạnh phúc và an lạc thì quý thầy phải để ý đến điều quan trọng độc nhất và tối thượng đang chi phối mọi hoàn cảnh cuộc sống con người, đó là luật nhân quả.

Luật nhân quả có hai phần rõ rệt: Một, nhân ác quả khổ. Hai, nhân thiện quả phước.

Ở đây quý thầy phải hiểu luật nhân quả không thiên vị một ai, nó cũng không sợ một ai, dù kẻ đó là Đức Phật, là Đấng Chúa trời, là Đức Thế Tôn, là bậc Thánh hiền, là Thượng Đế, là Ngọc Hoàng, ma quỷ.

Dù kẻ đó là các vua chúa đầy đủ uy quyền nó cũng chẳng nể. Dù kẻ đó là kẻ nịnh bợ, a dua, ton hót nó cũng chẳng tha. Dù kẻ đó là người giàu sang tột đỉnh trong thế gian này nó cũng chẳng vị tình nể mặt. Dù kẻ đó nghèo hèn mạt tận, cùng đinh khốn khổ nó cũng không vì thế mà tha thứ.

Từ những bậc tạo hóa vạn năng tối thượng chí đến kẻ cùng đinh khốn khổ, luật nhân quả luôn luôn lúc nào cũng bình đẳng đối xử như nhau. Nếu một kẻ làm ác, làm điều bất thiện, nó sẽ phạt kẻ đó phải thọ lấy những cực hình đầy khổ đau, và còn có thể chấm dứt mạng sống của kẻ đó, nếu kẻ đó đoản mạng chúng sanh, làm cho người khác chết.

Trên đời này, quý thầy có thấy nhiều người yểu tử không? Điều này chắc chắn ai cũng thấy. Đó là do nhân đoản mạng giết hại chúng sanh mà ra.

Khi làm một điều ác dù cho quý thầy có tiền bạc, châu báu chất đầy ngập cả không gian này đem lo lót cho nó, nó cũng chẳng tha mạng sống của quý thầy đâu. Làm một điều ác, điều bất thiện dù kẻ đó có tài cao, trốn giỏi, dù trốn nơi đâu nó cũng tìm ra hình phạt đúng lẽ công bằng khi thời tiết nhân duyên đã đủ. Bởi vậy, vua chúa, quan quân giàu sang tột đỉnh cũng không thoát khỏi bàn tay hình phạt của nó.

Luật nhân quả có đầy đủ quyền uy để hình phạt mọi người làm ác và ban phước cho mọi người làm thiện.

Luật nhân quả khiến cho kẻ nào làm người khác khổ đau thì phải chịu lấy đau khổ, làm cho người khác gian nan vất vả thì phải chịu lấy vất vả gian nan, làm cho người khác nghèo cùng khốn khổ thì phải chịu lấy khốn khổ nghèo cùng, làm cho người khác cơm không đủ ăn áo không đủ mặc hoặc hủy hoại thực phẩm thì phải chịu lấy cảnh cơ hàn, cơm không đủ ăn áo không đủ mặc, làm cho kẻ khác đau khổ trong cảnh chia lìa tang tóc thì phải thọ lấy những cảnh tang tóc chia lìa, làm cho chúng sanh tử vong, đoản mạng thì phải thọ lấy yểu tử phân thân.

(33:09) Nghĩa là, kẻ nào làm khổ mình, khổ người, khổ mình khổ người, đều phải nhận lấy nhân quả như nhau cả.

Trong cuộc đời này những ai đã lợi dụng quyền uy thế lực hoặc tiền bạc châu báu cướp vợ người, đoạt tài sản và cướp lấy mạng sống của người khác và của chúng sanh, để thỏa thích dục lạc, thỏa thích lòng ham muốn của mình trong những trò chơi tiệc tùng linh đình, luật nhân quả sẽ xử họ rất công minh.

Nếu kẻ nào làm một điều thiện, điều lành nó sẽ ban thưởng kẻ đó phước báu, hưởng những quả vui vi diệu và đầy đủ hạnh phúc, tuổi thọ sẽ được dài lâu mà khỏi cần phải lo lót hay cầu xin cúng bái gì cả.

Ở đây, quý thầy cũng nên hiểu rõ điều này, luật nhân quả sẽ không từ nan thưởng phạt đối với một đấng thiêng liêng vạn năng sáng tạo hoặc thánh thiện nào.

Ví dụ, đấng ấy là Đức Phật, là Đấng Chúa trời, là Thánh tiên, là thần quỷ mà vì một nải chuối, một nén hương, một đồng bạc, một trái cam, một bình hoa, một tách trà mà gia hộ cho kẻ làm ác, làm quấy, làm việc chẳng phải, gây tạo muôn vàn thứ khổ cho chúng sanh, thì luật nhân quả sẽ gia trị những đấng ấy, và nó sẽ hình phạt những đấng ấy như kẻ phàm phu tục tử. Nghĩa là đấng ấy phải chịu, phải thọ chịu mọi sự đau khổ sinh ly tử biệt như chúng sanh khác.

Bởi vậy, quý thầy là những người đệ tử của Phật, quý thầy đừng để phong tục hóa của con người đồng hóa quý thầy, và lôi cuốn quý thầy đi sai con đường của đạo Phật.

5- PHẬT GIÁO BỊ BIẾN THÀNH THẦN GIÁO MÊ TÍN DỊ ĐOAN

(35:17) Quý thầy là người giữ gìn mạng mạch của Phật pháp, cớ sao quý thầy lại biến Phật giáo thành thần giáo để Phật giáo trở thành một thứ tôn giáo mê tín, dị đoan như hiện giờ?

Chắc quý thầy ai cũng thấy Phật giáo hiện giờ như thế nào? Phật giáo hiện giờ đang bị bốn hàng đệ tử của ngài biến ông Phật thành ông thần. Đường lối tu tập, tu hành của Phật giáo là phải tự lực cứu lấy mình, thế mà hôm nay đường lối của đạo Phật trở thành một đường lối tiêu cực bị động, toàn là cầu xin, cầu khẩn, cúng bái, lễ lộc.

Vì thế, mà hàng cư sĩ đến chùa hiện giờ cúng Phật thì cầu khẩn đủ thứ điều. Nào là phò hộ cho bệnh tật tai qua nạn khỏi, nào là cầu xin chư Phật tiếp độ vong hồn cha mẹ siêu sinh cực lạc, nào là cầu tự cầu con, nào là gia hộ cho gia đình được an cư lạc nghiệp, thậm chí có người cúng một nải chuối mà còn cầu xin trúng vé số độc đắc.

Còn quý thầy và quý sư cô thì như thế nào? Luôn luôn quý thầy và quý sư cô thì bày ra cúng bái lễ lộc tụng niệm, cầu nguyện phục nguyện, cầu an cầu siêu, trừ linh trừ thần, tiến vong, đốt tiền vàng mã quần này áo kia, kho tàng đủ loại vân vân và vân vân.

Bởi thế, đạo Phật mà dạy con người tu hành như vậy thì cần gì phải đi tu cho cực khổ? Phải giữ gìn giới luật chi cho cực khổ? Phải thức đêm, thức khuya mà thiền định chi cho cực khổ? Chỉ lo làm ra tiền của được nhiều thì sẽ cầu chi được nấy.

Bởi những nhà giàu có tiền, có bạc chỉ cần bỏ tiền bạc ra trai tăng cúng dường là quý thầy và quý sư cô sẽ lo tất cả chu toàn, từ khâu ăn uống của cư sĩ cho đến khâu cúng bái quần này áo kia, kho tàng cho đến sớ điệp tụng kinh niệm chú để cầu van xin, cầu khẩn chư Phật, chư Hiền Thánh mọi việc sẽ được toại như ý nguyện!

Vì thế mà người cư sĩ đến chùa cứ quăng tiền ra là các thầy, các sư cô sẽ phục vụ họ đầy đủ từ khâu cúng bái cho đến khâu ăn uống của họ. Họ đến chùa xem như đến nhà hàng, chỉ có tiền là có người hầu hạ trên hết.

Nhờ có sự trao đổi như vậy, quý thầy và quý sư cô tiếp tục trên cuộc sống tu hành bằng cách lấy tà nghiệp nuôi tà mạng của quý thầy, quý sư cô, như vậy làm sao con đường của đạo Phật mà đúng được? Càng ngày đạo Phật càng bị dìm xuống bằng cách sống tà mạng như vậy, bằng cách lấy tà nghiệp trao đổi để mà sống như vậy.

Còn người cư sĩ thì tiếp tục trên cuộc sống làm đầy dẫy tội ác miễn là có tiền, chẳng hề sợ nhân quả, vì họ tin rằng khi hữu sự gặp tai nạn đau khổ chỉ cần bỏ tiền ra là sẽ được mọi việc, cầu gì được nấy.

Bởi vậy, bốn hàng đệ tử của Phật hiện giờ họ đã xem, đã tự xem thường Đức Phật của họ. Họ đã hạ ông Phật xuống thành một ông thần để ông thần ấy luôn luôn ở vị trí phò hộ sự sống và công ăn việc làm của họ. Họ xem thường cái thế giới của chư Phật chẳng khác gì cái thế giới của kẻ phàm phu chúng ta hiện giờ.

Ở đây quý thầy đừng biến ông Phật thành một ông thần để quý thầy núp dưới bóng ông ta mà tạo danh tạo lợi một cách táng tận lương tâm, thiếu bổn phận, thiếu trách nhiệm và thiếu đức hạnh của người tăng sĩ.

(40:08) Ngày xưa, Đức Phật chỉ đi ăn xin mà tu hành, ngày nay chúng ta làm đủ mọi nghề: thầy cúng, thầy thuốc, thầy pháp, thầy bùa, thầy giáo, thầy thông, thầy kí, làm môi giới chính trị, làm các nghề nghiệp khác, cày ruộng, cuốc đất, trồng tỉa đủ loại để mong làm sao làm ra được tiền nhiều như những người khác là hơn hết.

Một kẻ trộm cướp giết người chỉ đem tiền và châu báu đến cúng dường thì quý thầy sẵn sàng cầu khẩn cho kẻ đó thoát khỏi các tai nạn và được mạnh khỏe an vui. Được như vậy kẻ giết người cướp của lại tiếp tục hành thêm tội ác, thì tội ác đó quý thầy sẽ được xem như đồng lõa với kẻ cướp!

Một việc làm sai không đúng đường lối của đạo Phật thì làm sao hướng đến một mùa xuân vĩnh cửu? Những việc làm này của quý thầy sẽ hướng đến quả dục lạc thế gian đầy dẫy tội ác, thì chừng đó quý thầy sẽ mở mắt mà thấy cảnh đau khổ của quý thầy, sẽ đọa địa ngục tại thế gian này mà quý thầy đã từng chứng kiến, đã thấy được các bậc tôn túc của chúng ta.

6- CÓ NHÂN QUẢ LUÂN HỒI MỚI CÓ THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN

(41:53) Ở đây, quý thầy cũng cần để ý chỗ này hơn một chút. Tại sao khi có nhân quả luân hồi là có thời gian và không gian? Để trả lời câu hỏi này quý thầy phải hiểu rõ nghĩa nhân quả.

Vậy nhân quả là gì?

Nhân là cái hạt giống, từ hạt giống nảy mầm trưởng thành thành cây, rồi từ cây ra bông, kết trái gọi là quả.

Cái hạt giống của con người do từ thân, khẩu, ý và ái dục mà ra. Làm một điều ác cũng do từ nơi thân khẩu ý và ái dục, làm một điều thiện cũng do từ nơi đó. Người ở trên đời thường sống khổ nhiều, vui ít, đây là do nhân ác nhiều mà nhân thiện ít. Xét phải xét qua hành động thân khẩu ý của họ rồi mới thấy việc này rõ ràng.

Quả là trái, là sự kết quả, là sự thọ hưởng, thọ chịu hay chịu lấy.

Quả vui thì hưởng sự phước lạc, sự an ổn, hạnh phúc, vui tươi, sự không chướng ngại tâm, sự không sân hận phiền não, sự không bệnh tật, tai nạn, sự không chia lìa, thường sống hòa hợp, thường sống yêu thương nhau, chẳng xa lìa nhau.

Quả khổ là thọ chịu sự khổ đau, sự đau đớn, sự bệnh tật, sự tai nạn, sự phiền não sân hận, sự sợ hãi, ưu sầu và tất cả các tai nạn bệnh tật chết chóc, vân vân và vân vân.

Chúng ta đã sanh ra đời, được may mắn làm người, được có thân người, nhưng thân người là cái quả của nhân tiền kiếp, của hột tiền kiếp. Vì thế, chúng ta có thân là có quả, mà có quả thì phải có thọ. Thọ khổ là chịu khổ, thọ vui là hưởng vui và sự an lạc hạnh phúc, nhưng điều, sự vui, sự hạnh phúc, sự an lạc thì rất ít, sự khổ thì rất nhiều đối với con người.

Cũng từ trong quả thân người, chúng ta thường tạo nhân mới như ở trên thầy đã dạy, từ thân, khẩu, ý và ái dục làm chủ khiến chúng ta có những hành động thiện hoặc ác. Bởi hành động thân khẩu ý thường xảy ra trong thiện hoặc trong ác, vì thế có khi trong ác có thiện, trong thiện có ác, bởi vậy mà sự thọ chịu của chúng ta cũng có lúc khổ thì có vui, cũng có lúc vui thì có khổ. Vì thế, đời sống của con người khổ vui lẫn lộn, mới vui đó liền khổ đó, mới khổ đó liền vui đó.

Bởi có thân tức là có sắc tướng. Phàm một vật gì có sắc tướng là phải chịu sự hoại diệt, sự vô thường, do đó mới có nhiều sự ưu bi khổ não.

Nhưng có sắc tướng là phải có không gian, và khi có không gian thì phải có một quá trình thời gian, mà đã có một quá trình thời gian thì thời gian phải bị chia cắt thành quá khứ, vị lai và hiện tại.

Vì thế, chúng ta phải biết thời gian đã bị chia cắt bởi không gian, có không gian thì phải có thời gian, có thời gian thì phải bị không gian chia cắt. Có sự chia cắt thời gian không gian, phải có khi thành khi hoại, do đó vạn vật phải vô thường.

Bởi sự nhận xét về thời gian hiện tại mà hiện tại chúng ta có thân, mà đã có thân tức là có không gian, mà đã có không gian thì không gian là quả, mà đã có quả tức là phải có nhân. Vậy nhân nó phải ở trong thời gian quá khứ.

Vì thế, quả hiện tại là thân, mà trong thân thì có ba hành động thân khẩu ý. Để tạo nhân hiện tại thì quả sẽ ở vị lai, vì thế mới có tái sanh luân hồi, nếu không có nhân ở hiện tại thì không có quả ở vị lai. Do đó, người tu hành theo đạo Phật thì phải giữ gìn hành động thân khẩu ý không cho tạo tác nhân thời vị lai.

Thời vị lai không có quả, nghĩa là vị lai không có tái sanh đối với pháp môn tu hành của chúng ta hiện giờ. Thân khẩu ý luôn luôn được giữ gìn trong hơi thở, trong trạng thái thanh tịnh thì nơi đó không còn nhân quả. Mà không còn nhân quả thì không có tái sanh luân hồi, tức là chấm dứt tái sanh.

7- CHẤM DỨT ÁI DỤC LÀ CHẤM DỨT TÁI SANH LUÂN HỒI

(47:125) Vậy hiện giờ chúng ta đang tu hành là giữ gìn cái gì? Giữ gìn thân khẩu ý, giữ gìn thân khẩu ý để làm gì? Để không còn gieo nhân, mà không còn gieo nhân tức là chấm dứt tái sanh luân hồi. Đó là mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân Di Lặc.

Từ Đạo Hạnh vì sự sống của mình, vì gia đình của mình và vì Phật pháp, nên sợ ngài Đại Diên trả thù, ngài bèn dùng bùa chú giết Giác Hoàng là con nuôi của nhà vua thời nhà Lý. Giác Hoàng là kiếp tái sanh của ngài Đại Diên. Khi Giác Hoàng chết, nhà vua bắt buộc Từ Đạo Hạnh phải tái sanh làm thái tử nối ngôi.

Lúc bấy giờ, Từ Đạo Hạnh mới nói với Thuần Hầu xin cho xem lén phu nhân lúc đang tắm và dặn chừng nào phu nhân sanh thì phải báo cho hay. Đến khi phu nhân đau bụng mà chưa sanh được, Thuần Hầu nhớ lời dặn năm trước nên sai người đến báo cho Từ Đạo Hạnh hay. Từ Đạo Hạnh hay tin liền nhập định bỏ xác ngay, thì ngay lúc bấy giờ phu nhân sinh ra một hoàng nam.

Bởi khi còn khởi tâm sắc dục đó là nhân của sự tái sanh luân hồi, là nhân của sự thọ báo thân về sau, người tu hành mà không đoạn diệt được tâm ái dục thì lúc nào cũng còn sắc dục, nếu sắc dục còn thì phải thọ thân đời sau. Nhưng khi đã đoạn được ái dục thì chấm dứt tái sanh luân hồi thì thân sau không còn nữa.

Ở đây, quý thầy phải hiểu, chỉ có con đường tu theo đạo Phật thì mới đoạn diệt được ái dục, nếu đoạn diệt được ái dục thì phải trải qua tám giai đoạn định mới đoạn diệt nó tận gốc.

Nếu một người tu hành không trải qua tám giai đoạn định này thì chưa đoạn dứt ái dục. Muốn trải qua tám giai đoạn định này thì quý thầy phải tìm một minh sư có kinh nghiệm đã nhập tám giai đoạn định này hướng dẫn thì quý vị mới mong đoạn diệt được ái dục, còn những loại thiền khác thì không thể nào đoạn diệt được nó.

(49:38) Bởi vậy, đạo Phật dạy quý thầy, muốn thoát khỏi vòng trầm luân đau khổ của đời người và chấm dứt tái sanh luân hồi thì quý thầy phải hiểu rõ ái dục. Từ nơi ái dục sinh ra muôn vàn thứ khổ đau cho con người, muốn chấm dứt ái dục có 3 cách:

Một: Quý thầy phải vượt ra khỏi những phong tục tập quán của mọi dân tộc trên thế gian này. Nếu quý thầy để những phong tục tập quán đó đồng hóa Phật giáo thì đạo Phật sẽ không còn là đạo giải thoát nữa mà chỉ là một thứ hình thức tôn giáo để phục vụ tham vọng của con người, thì mục tiêu của đạo Phật chủ trương giải thoát sẽ tan biến như sương, như khói, như mây.

Hai: Quý thầy phải sống ly dục bằng cách sống đúng giới hạnh của Phật, và sống độc cư, cô đơn, không tiếp chuyện, nói chuyện với ai. Là tu sĩ Phật giáo phải giữ gìn 250 giới, là cư sĩ phải giữ gìn 8 giới căn bản, kế tiếp phải tạo mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh để sống đạt được độc cư và sống cô đơn, thì cuộc sống có sống đúng như vậy mới có thể ly dục được.

Ba: Quý thầy phải sống đoạn ái dục, nghĩa là quý thầy phải nhập tám thứ thiền định mà Phật đã dạy, nếu không tu tập được như vậy thì không bao giờ đoạn được ái dục. Mà không đoạn được ái dục thì quý thầy dù có thông suốt Tam Tạng kinh điển và các Ngữ Lục Thiền Đông Độ, hoặc có đầy đủ thần thông, phép tắc thì cũng vẫn tái sanh luân hồi mãi mãi và thọ khổ vô lượng vô tận, vô cùng vô tận.

Bởi vậy, đạo Phật dạy quý thầy thoát ra khỏi vòng trầm luân đau khổ thì phải đoạn dứt tâm ái dục, bởi vì từ ái dục sanh ra muôn ngàn thứ khổ đau cho cuộc đời của con người, của quý thầy.

8- MÙA XUÂN THUẦN THIỆN LÀ MÙA XUÂN VĨNH CỬU

(51:54) Cho nên, muốn chúc thọ Thầy, mừng tuổi Phật là phải ở chỗ nỗ lực, kiên trì, bền chí, tận lực làm tất cả các pháp thiện, và diệt trừ chấm dứt các pháp ác, thì đây quý thầy mới bắt đầu dựng lại một mùa xuân vĩnh cửu.

Một mùa xuân không có hoa mai, không có bánh trái cây, không có thịt cá, không có thực phẩm ngon ngọt, cao lương mỹ vị, không có pháo, không có bánh chưng xanh và cũng không có cây nêu, thì đó mới là một mùa xuân vĩnh cửu, một mùa xuân hạnh phúc và an lạc cho muôn loài.

Một mùa xuân vĩnh cửu là một mùa xuân thuần thiện, một mùa xuân không có chết chóc và không có đau khổ. Đó là một mùa xuân mà các đệ tử của Phật gọi là mùa xuân Di Lặc. Từ lâu người ta đã mạo danh mùa xuân Di Lặc là mùa xuân thế tục, cái điều đó làm cho đau khổ Phật pháp nhiều hơn.

Ở đây quý thầy cần phải hiểu rõ thêm chỗ này, Thầy vừa mới dạy ở trên. Chỉ khi nào quý thầy sống thuần thiện thì đó mới bắt đầu dựng lại một mùa xuân vĩnh cửu.

Tại sao mới bắt đầu? Như quý thầy đã biết và đã học giáo lý của đạo Phật thì đạo Phật có ba giai đoạn tu hành:

(53:33) Một: Phải sống đúng giới luật của Phật, tức là sống đúng, sống thuần thiện, sống Phạm Hạnh của người tu sĩ đạo Phật. Trong oai nghi tế hạnh phải thể hiện đầy đủ, ăn, uống, ngủ, nghỉ phải thể hiện đúng Phạm Hạnh. Đó là giai đoạn ly dục.

Hai: Phải nhập tám thứ thiền định đó là: Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, Không Vô Biên Xứ Định, Thức Vô Biên Xứ Định, Vô Sở Hữu Xứ Định, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định và Diệt Thọ Tưởng Định. Đó là giai đoạn đoạn dục.

Ba: Phải thể hiện được Tam Minh:

1- Túc Mạng Minh

2- Hai Tha Tâm Minh (Thiên Nhãn Minh)

3- Ba Lậu Tận Minh

Đây là giai đoạn tuệ giải thoát.

Ở đây, quý thầy phải nhận rõ, giai đoạn thứ nhất để chúng ta bắt đầu xây dựng một mùa xuân vĩnh cửu. Nếu không rõ giai đoạn này chúng ta sẽ tu hành lầm lạc đường lối của đạo Phật. Hầu hết, hiện giờ người ta tu hành theo đạo Phật lạc lối là ngay từ lúc ban đầu, ngay từ nơi giới luật.

Bởi vậy, Đức Phật còn dạy chúng ta để nhận xét được ba thứ thọ:

1- Thọ lạc.

2- Thọ khổ.

3- Không thọ lạc, không thọ khổ.

Ba thứ thọ này là một tâm của kẻ phàm phu chưa có tu hành, chưa có giữ giới luật gì hết.

Trong thời Đức Phật còn tại thế có một lục sư ngoại đạo cho không thọ lạc, không thọ khổ là Niết Bàn, là cứu cánh. Trong thời đại các vị tổ sư bên Trung Hoa cũng nhận lấy sự không thọ lạc, không thọ khổ này cho là đạo, là sự giải thoát, là Niết Bàn.

“Bình thường tâm thị đạo” hoặc “không ngại là đạo” đó là hai câu nói của hai vị tổ sư Thiền Đông Độ danh tiếng nhất của Trung Hoa. Hai câu này cũng giống như một lục sư ngoại đạo trong thời Đức Phật, cũng cho đó là cứu cánh, là sự giải thoát của con người, là Niết Bàn.

Tâm bình thường là tâm không lạc, không khổ thì đây không phải là sự giải thoát, là đạo, là Niết Bàn mà là một tâm phàm phu không lạc, không khổ. Tâm không lạc, không khổ là tâm không chướng ngại bởi lạc, bởi khổ, thì chỗ này cũng không phải là cứu cánh Niết Bàn.

Bởi vậy, tỳ kheo ni Dhammadinna đã trả lời cư sĩ Visakha:

  • Thưa ni sư, bất khổ, bất lạc thọ lấy gì làm tương đương?

Ni sư trả lời:

˗ Này hiền giả Visakha! Bất khổ, bất lạc thọ lấy vô minh làm tương đương.

Chữ vô minh ở đây chỉ cho một tâm còn phàm phu, vì tâm phàm phu là tâm vô minh, mà tâm vô minh thì còn tham đắm trong ngũ dục lạc, không thể nào gọi là tâm giải thoát được, là đạo được.

Đấy, quý thầy đã hiểu rõ được chỗ này chớ? Đây, quý thầy sẽ nghe tiếp tục:

Ni sư trả lời tiếp tục câu hỏi của Visakha:

˗ Vô minh lấy gì làm tương đương?

˗ Vô minh lấy minh làm tương đương.

Này quý thầy!

Ở đây, minh không phải là thứ trí tuệ tổng hợp do học hỏi, do giải ngộ, do tưởng giải, mà minh ở đây là thứ trí tuệ giải thoát. Trí tuệ giải thoát là trí tuệ Tam Minh.

(58:18) Khi chúng ta tu hành diệt tâm lậu hoặc đoạn dứt tâm ái dục, thì tuệ giải thoát mới xuất hiện, đó là tâm Tam Minh. Vậy minh ở đây phải biết là tâm Tam minh chớ không phải là thứ trí tuệ phàm phu lanh lợi xảo ngôn.

Vậy quý thầy nghe tiếp ni sư Dhammadinna trả lời cư sĩ Visakha:

˗ Thưa ni sư: Minh lấy gì làm tương đương?

˗ Minh lấy giải thoát làm tương đương.

Đến đây, Thầy xin nhắc lại một lần nữa, quý thầy đã rõ tuệ giải thoát là minh, mà minh ở đây là Tam Minh, không phải là thứ trí tuệ phàm phu tổng hợp, vì Tam Minh phải từ thiền định xuất hiện. Mà thiền định là sự đoạn diệt tâm ái dục, mà ái dục là nguồn gốc khổ đau của chúng sanh. Vậy muốn có tâm giải thoát là phải đoạn dứt ái dục.

Bây giờ quý vị nghe tiếp giữa ni sư Dhammadinna và cư sĩ Visakha hỏi đáp:

˗ Thưa ni sư, giải thoát lấy gì làm tương đương.

˗ Này Visakha, giải thoát lấy Niết Bàn làm tương đương.

Vậy tâm giải thoát là tâm phải có đầy đủ Tam Minh, tâm giải thoát phải là tâm đoạn dứt ái dục, tâm giải thoát là tâm Niết Bàn không phải còn là thứ tâm phàm phu tục tử không thọ lạc, không thọ khổ.

Vậy “bình thường tâm thị đạo” và “không ngại là đạo” của thiền sư Đông Độ chỉ tương đương với tâm đang ly dục của đạo Phật mà thôi. Nghĩa là đạo của Thiền Đông Độ chỉ ở giai đoạn tu tập giới luật của đạo Phật, là giai đoạn ly dục, chưa phải là thiền định, chưa phải là cứu cánh.

Tâm không lạc, không khổ thọ là tâm dễ lạc vào định tưởng, mà đã lạc vào định tưởng thì không bao giờ đoạn dứt được tâm ái dục. Không đoạn dứt được tâm ái dục mà cứ tiếp tục tu trong định tưởng như vậy thì sẽ rơi vào thiền định của ngoại đạo, từ đó nuôi lớn thêm ái, thêm ngã, thêm danh, thêm lợi.

Theo đạo Phật, tâm giải thoát là tâm đoạn lìa ái dục, tâm Tam Minh, tâm Niết Bàn, là tâm mùa xuân vĩnh cửu, là mùa xuân hạnh phúc của muôn loài.

Vậy ở đây quý thầy đã hiểu rõ mùa xuân vĩnh cửu là mùa xuân ở trong tâm nào rồi, phải không?

Hôm nay, là cái ngày đầu xuân, là cái ngày Tết, ngày mà những đứa con Phật phải trân trọng ngồi lại trong tư thế kiết già để giữ tâm thiền định, để lắng lòng mình trong sạch, để quán xét các thiện pháp, để tăng trưởng và thực hiện các thiện pháp, để giữ gìn và bảo vệ các thiện pháp, để chấm dứt và loại trừ các ác pháp. Thân, khẩu ý phải thanh tịnh, phải thuần thiện.

9- CHÚC THỌ, MỪNG XUÂN THEO ĐÚNG CÁCH CỦA ĐẠO PHẬT

(1:01:45) Đó, quý thầy phải hiểu là hành động cao quý đầy cung kính mới chúc thọ Thầy và mừng tuổi Phật được. Đó mới đúng nghĩa chúc thọ trong mùa xuân vĩnh cửu.

Còn nếu quý thầy chẳng nghe theo lời dạy của Thầy, mà cứ chạy theo phong tục của thế gian Tết nhất như ngày hôm nay, thì không đúng là chúc thọ, là mừng tuổi trong mùa xuân của đạo Phật.

Này quý thầy!

Quý thầy đừng có bày ra bánh trái hoa quả, sửa sang chùa miễu sạch sẽ, làm cho khang trang mới mẻ, rồi bây giờ họp nhau trước Thầy đảnh lễ, chúc thọ, mừng tuổi qua những lời văn hoa sáo ngữ ngoài đầu môi chót lưỡi, hoàn toàn một cách giả tạo, khách sáo! Đối với đạo Phật, lối chúc thọ như vậy chẳng chúc thọ được những gì. Lối chúc thọ này quý thầy đã bị đồng hóa phong tục thế gian, đó là lối chúc thọ mê hoặc con người, phàm phu, dối trá, gian xảo.

Mà cái gọi là mùa xuân, là mùa xuân ấy chỉ hạn hẹp trong vòng năm bảy ngày. Mùa xuân ấy là mùa xuân đau khổ của con người, của loài người và cả loài vật.

Đạo Phật chỉ xem lối chúc thọ đó không chân thật, xảo trá, giả tạo làm trái ngược với tâm chân thành giải thoát của đạo Phật.

Không chúc thọ thì thôi, mà đã chúc thọ thì phải chúc thọ cho đúng cách, đúng hạnh của đạo Phật. Ở trong thiện pháp, ở trong giới luật của Phật mà thực hiện thân khẩu ý mình thanh tịnh, thì đó quý thầy phải hiểu mới bắt đầu chúc thọ trong mùa xuân vĩnh cửu.

Còn chúng ta muốn hưởng trọn một mùa xuân vĩnh cửu và chúng ta chúc thọ Thầy và chư Phật, thì phải bằng cách vượt không gian và thời gian, có nghĩa là thân, khẩu, ý chúng ta thực hiện thiền định. Nơi đó không có nhân, không có quả, nơi đó mới xứng đáng là lòng thành kính, cung kính của quý thầy gởi lên chúc thọ Thầy, mừng tuổi Phật.

Khi tâm niệm của quý thầy đặt ở chỗ không có không gian và không có thời gian thì ở đó không còn pháp đối đãi nữa. Ở đó quý thầy mới cảm nhận ra được một mùa xuân vĩnh cửu chơn thật. Ở đó quý thầy sẽ chẳng còn dục và chẳng còn dục lạc nữa, và vì vậy mà ở đó phải hiểu không có cảnh buồn, cũng không có cảnh vui.

Ở đó không phải là một trạng thái bình thường của tâm, ở đó cũng không phải là một trạng thái của tâm không chướng ngại. Ở đó phải hiểu nó không còn thiện, không còn ác. Ở đó tuổi thọ không còn ngắn dài mà vĩnh cửu vô cùng, vô tận, ở đó không còn có tái sanh luân hồi.

Ở đó không còn có sự chết chóc, giết hại lẫn nhau, và ở đó cũng chấm dứt sự đau khổ, sự dày vò, sự sân hận, sự thù hận. Ở đó là mục đích của đạo Phật thường hướng dẫn và đưa dắt chúng sanh về đó. Ở đó mới chính là một mùa xuân vĩnh cửu của muôn loài.

Nhưng quý thầy phải nhớ, ở đó chỉ có loài người mới thực hiện được mà thôi. Quý thấy phải nhớ điều đó, chỉ có con người mới thực hiện được mà thôi.

10- TRÁNH LÀM CHIA RẼ THÊM PHẬT GIÁO

(1:05:46) Đến đây Thầy xin chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay. Và để kết thúc buổi nói chuyện này bằng những lời cảnh giác, để quý thầy ngăn ngừa và giữ gìn những lời dạy này để tu chớ không phải để phổ biến ra ngoài.

Ở đây, lời dạy của Thầy là tiếng gọi từ bản thân của Phật giáo, tiếng gọi ấy với một tâm thành tha thiết chấn hưng Phật pháp, tiếng gọi ấy chơn thật không có ý nghĩ xấu xa, không có ý nghĩ tranh chấp, chia rẽ những người con Phật, những Phật tử. Mà tiếng kêu ấy chỉ là tiếng gọi những người con Phật cùng nhau chung lưng đấu cật đoàn kết lại, tay nắm chặt lấy bàn tay, xây dựng lại ngôi nhà Chánh Pháp đúng đường lối của đạo Phật mà từ lâu người ta đã ném, đã quăng bỏ nó đi.

Tuy biết rằng tiếng kêu gọi của Thầy lúc này chưa phải lúc, nhưng vì với tâm tha thiết tu hành của quý thầy muốn hướng về đúng đạo Phật mà chẳng biết lối đi. Do đó, tiếng kêu gọi này với tâm thiết tha của Thầy mong sách tấn và khích lệ quý thầy:

Trước tiên, là để quý thầy nhận biết rõ đường đi lối tu hành chơn chánh của đạo Phật đang bị người ta ném bỏ, quăng đi bởi những pháp môn khác.

Thứ hai, là do sự tự nhận xét của quý thầy để nhận lấy trách nhiệm và bổn phận của mình đối với Phật giáo hiện giờ.

Vì vậy mà quý thầy cần phải kiên trì, bền lòng, chặt dạ, cố gắng vượt lên, nỗ lực thực hiện những gì mà Đức Phật đã dạy cách đây 2536 năm, để làm sống lại Phật giáo chơn chánh, để thắp lên ngọn đuốc sáng nhiệm màu của đạo Phật, và cũng nói lên được con đường thiền định, đâu là đúng của đạo Phật, đâu là không đúng của đạo Phật.

Và cũng xác định cho mọi người thấy con đường thiền định của Việt Nam, của Phật giáo Việt Nam không bị ảnh hưởng ngoại lai: Tàu, Tây, Nhật, Mỹ, v.v. và v.v. Tự nó phải được lưu xuất từ bản thân Phật giáo chính gốc.

Này quý thầy!

Khi quý thầy đọc lại lịch sử Phật giáo Việt Nam và gần đây quý thầy đọc thiền sư Việt Nam do Hòa thượng Thích Thanh Từ viết rất công phu, góp nhặt được 129 vị tu hành theo đạo Phật. Nhưng xét cho cùng, từ đời sống đến cách thức tu hành của các vị thì một số rất ít, không trên mười vị thì tu đúng con đường của đạo Phật, còn bao nhiêu đều bị ảnh hưởng lai căng của Phật giáo các nơi khác và của các tôn giáo khác trên thế giới này, trên thế gian này.

Cho nên, hiện giờ quý thầy đang tu theo Phật giáo mà chưa chắc đã tu theo đúng Phật giáo. Do đó, quý thầy phải hiểu rằng tiếng kêu chân thật của Thầy là để quý thầy tu hành đúng với đạo Phật, với con đường chơn chánh của đạo Phật. Người tu hành sai đường lối của đạo Phật mà không biết mình tu hành sai đường lối của đạo Phật, thì đó là một điều đau lòng nhất cho thời đại của chúng ta hiện giờ.

Thầy xin nhắc lại một lần nữa, tuy biết rằng thời điểm này chưa phải lúc nói lên, nhưng vì quý thầy đang theo Thầy tu hành ,vì vậy Thầy phải nói, nói để quý thầy tu hành, nói để quý thầy có đủ niềm tin đối với Phật pháp, đối với đạo Phật, đối với con đường đang tu hành của quý thầy.

(1:10:47) Bởi lời nói này chỉ ở trong Tu viện mà thôi, vì thế những lời này quý thầy không được quảng bá lưu hành, không được nhắc đi nhắc lại vì chẳng lợi ích gì cho Phật giáo hiện giờ. Quý thầy nên giữ ở trong tâm của mình để tu hành mà thôi.

Tại sao vậy? Tại vì thời điểm này khoa học đang tiến triển mạnh, môn sử học đã được khai triển khám phá tận gốc, vì thế kinh điển Phật đã được phơi bày trước ánh sáng khoa học. Kinh nào là của Phật thuyết và kinh nào là của người sau thuyết, điều ấy sẽ lần lượt được chứng minh, phơi bày rõ ràng cho mọi người thấy. Vì thế, con người trên thế gian đang bị sốc về tôn giáo Phật giáo rất nặng.

Họ đang hoang mang, dao động trong kiến chấp, tưởng chấp của họ, bây giờ nghe những lời dạy này họ sẽ không còn đủ bình tĩnh sáng suốt để nhận định đâu là chơn, đâu là giả, vì thế họ sẽ hiểu lầm và đánh giá những lời dạy này, làm mất ý nghĩa cao đẹp của nó.

Họ sẽ cho rằng những lời này là những lời khích bác, chống đối nhau. Họ sẽ cho rằng những lời dạy này là những lời không đúng con đường trung đạo của đạo Phật. Vì họ thấy rằng chúng ta sống đúng trong giới hạnh của Phật, ly dục, họ cho rằng chúng ta ép xác và khổ hạnh, vì thế, họ sẽ tìm mọi cách mà chống đối lại những lời dạy này.

Họ sẽ không hiểu được đây là những lời thành thật, không ngụy biện, không dối trá, không khích bác, thành thật, ngay thẳng, chỉ thẳng để mọi người thấy rõ con đường của đạo Phật thật sự chơn thật. Họ sẽ không hiểu được rằng những lời dạy này là những lời tốt đẹp cao cả, chỉ để khuyến khích tăng ni và cư sĩ trên đường tu tập theo Phật giáo mà không sợ lạc lối lầm lạc ngoại đạo.

(1:14:20) Lại một lần nữa: Quý thầy chỉ nên lấy những lời dạy này sách tấn tâm mình tu tập mà thôi. Không nên đem những lời dạy này ra phổ biến khiến cho Phật giáo hiện giờ ngày càng chia rẽ lại càng chia rẽ trầm trọng hơn. Bởi vì, chính vì họ đang tu sai con đường của đạo Phật, bởi vì, chính vì họ đang chấp sai con đường tu hành của họ, bởi vì, chính vì họ đang bị những lý luận làm mờ mắt họ.

Muốn phá một điều gì, mà điều đó không đúng của đạo Phật thì trước tiên chúng ta phải lo xây dựng cái mới, cái cho đúng của đạo Phật. Còn hiện giờ chúng ta đừng dùng mồm mép nói tốt, nói xấu, nói đúng, nói sai, thì đó là cách thức tạo thêm mâu thuẫn cho nhau mà chẳng xây dựng được những gì, càng gây thêm tình trạng chia rẽ gay gắt, chẳng ích gì cho Phật pháp, còn làm cho hoang mang dao động ở hàng Phật tử.

Hiện giờ, quý thầy chỉ được hiểu lời dạy này là tiếng gọi sách tấn cho quý thầy, giúp cho quý thầy đầy đủ lòng tin trên đường tu tập. Vì vậy, Thầy nhắc lại lời kêu gọi này chỉ được thực hiện trong nội bộ của chúng ta mà thôi.

Nếu quý thầy không nghe lời dạy này, không nghe lời dạy của Thầy, mà vì lòng thương người khác lưu hành những lời dạy này thì lỗi của quý thầy. Khi quý thầy chưa tu hành xong, chưa thực hiện xong mà đem những lời dạy này cho người khác tức là quảng cáo, thì quý thầy chưa thấy được đúng thời điểm của nó, nếu có sự gì xảy ra quý thầy sẽ chịu trách nhiệm đối với đạo Phật.

Còn riêng Thầy, lời dạy này chỉ là tiếng gọi quý thầy cố gắng tu hành cho đúng đường lối của đạo Phật mà thôi. Thầy không có ý gì khác hơn là ý ấy.

11- ĐỪNG ĐỂ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT CỦA ĐẠO PHẬT BỊ DÌM MẤT

(1:17:43) Tóm lại, để kết thúc bài nói chuyện hôm nay, buổi nói chuyện hôm nay:

Hiện giờ, quý thầy đã nhận rõ đường lối và phương hướng tu hành của đạo Phật. Vậy, từ đây quý thầy phải lấy giới luật làm nền tảng vững chắc cho con đường tu của mình. Đừng bao giờ vì dục lạc thế gian mà phạm giới thể, đừng bao giờ vì dục lạc thế gian mà biến Phật giáo thành thần giáo, đừng bao giờ vì dục lạc thế gian mà biến ông Phật thành ông thần!

Này quý thầy!

Quý thầy phải cố gắng giữ gìn, bảo vệ đạo Phật, đừng để mọi phong tục, tập quán của con người bất cứ đến từ nơi đâu đồng hóa đạo Phật, dìm mất đạo Phật, làm sai lạc đường lối giải thoát của đạo Phật.

Nếu quý thầy đã xuất gia, đã ly gia cắt ái, quý thầy đã từ bỏ tất cả mọi gì trên thế gian này, chỉ còn một bát, ba y để sống ăn xin như một người không có gì hết, như một người vô gia đình, như một người không có một vật gì tùy thân ngoài ba y một bát, thì quý thầy phải thấy được bổn phận và trách nhiệm của mình đối với đạo Phật hiện giờ.

Quý thầy là những sứ giả Như Lai, nếu quý thầy còn chạy theo ngũ dục lạc thế gian mà mặc chiếc áo Như Lai, mà ngồi tòa Như Lai thì Thầy e rằng quý thầy không thể tránh khỏi đọa địa ngục.

Quý thầy có nhìn thấy các bậc tôn túc của chúng ta trải qua một thời gian mà chúng ta đã chứng kiến chưa: hình thức đạo Phật, danh nghĩa đạo Phật, dưới lớp áo đạo Phật mà làm tất cả những việc thế gian. Vì thế, mà các bậc tôn túc ấy khi bỏ thân này họ phải chịu lấy một sự đau khổ đôi ba năm trên giường bệnh, họ phải chịu rên la cùng khổ trên giường bệnh, họ phải chịu sự hôi thúi do cơ thể của họ trên giường bệnh để cho mọi người chứng kiến.

(1:21:53) Thầy không kể ra đây những tên tuổi các bậc tôn túc ấy làm gì, nhưng Thầy tin rằng quý thầy đều biết rõ. Danh lợi của các bậc ấy càng cao tột đỉnh, hàng giáo phẩm của các bậc ấy càng cao tột đỉnh thì sự ra đi của các bậc ấy càng khổ đau, càng dày vò nhiều! Đó là chứng tỏ các vị đọa địa ngục tại thế gian này.

Này quý thầy!

Quý thầy hãy lấy những gương hạnh này để quý thầy soi mình, để quý thầy cảnh giác mình, để quý thầy hãy lo lấy thân mạng mình, rồi đây không khéo quý thầy cũng đọa địa ngục tại thế gian như vậy.

Đừng có lý luận che đậy những tội lỗi này bằng cách trả nghiệp, dồn nghiệp. Chúng ta đã được thân này, đã được phước báu ly gia cắt ái, mặc áo Như Lai, ba y một bát tu hành như thế này, thì tất cả nghiệp ác của đời trước chúng ta đã chấm dứt từ lâu, hôm nay chúng ta mới được như thế này, chớ không còn mang theo những nghiệp ác đời trước đến với chúng ta nữa đâu. Chỉ có nhân quả hiện đời mà chúng ta làm thì chúng ta phải chịu lấy, chịu lấy để cảnh tỉnh cho người sau, để nhắc nhở cho người sau, chớ không phải chịu lấy để mà lý luận, bịt mắt, che đậy người sau.

Đến đây Thầy xin chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay. Quý thầy cùng Thầy niệm hồi hướng:

Nguyện đem công đức này hồi hướng cho tất cả pháp giới và chúng sanh đều trọn thành Phật Đạo!

HẾT BĂNG

Pháp Âm - 1993 - MỤC ĐÍCH TU HÀNH CỦA TU VIỆN CHƠN NHƯ

MỤC ĐÍCH TU HÀNH CỦA TU VIỆN CHƠN NHƯ

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1993

Thời lượng: [43:59]

PHẢI XÁC ĐỊNH RÕ MỤC ĐÍCH TU HÀNH CỦA MÌNH

(01:02) Do duyên này, Thầy sẽ nói rõ mục đích tu hành của Tu Viện Chơn Như để quý Thầy hiểu rõ hơn. Này quý Thầy! Bây giờ, quý Thầy hãy lắng nghe cho kỹ, Để nhận rõ mục đích tu hành của chúng ta. Và cũng nhân dịp này, Thầy khuyên quý Thầy cần nên suy ngẫm lại mục đích tu hành ở đây có phù hợp với nguyện vọng, thiết tha, ao ước và điều mong cầu của quý Thầy hay không? Nếu mục đích tu hành ở đây không đúng, và không phù hợp với sự mong cầu và nguyện vọng của quý Thầy, thì quý Thầy đừng nên theo tu hành, mà hãy chọn những pháp môn nào đúng nguyện vọng của mình thì thực hiện. Không phí thì giờ vô ích, không uổng cuộc đời tu hành của mình. Và lại, quý Thầy đã bỏ cuộc đời để đi tìm đường giải thoát, đi tìm chân lý cứu cánh cho mình. Mà lại tu sai nguyện vọng thì làm sao tu hành được?

(02:45) Nếu có một người hỏi quý Thầy, thưa quý Thầy! Quý Thầy tu hành để làm gì? Nếu quý Thầy không rõ mục đích tu hành, thì không thể nào trả lời được câu hỏi này. Và nếu quý Thầy có trả lời, chăng cũng chỉ trả lời loanh quanh, mơ hồ, không đúng mục đích tu hành và nguyện vọng của mình.

Thường con người, hay chịu ảnh hưởng của các xu hướng khi nghe đồn đại, huyền thoại, thần thánh hóa một bậc minh sư nào đó. Rồi tin bừa, tin đại, không chịu suy xét cho kỹ trước sau. Chỉ nông nổi, vội vàng, chấp nhận, rồi nhắm mắt đưa cuộc đời vào tu hành. Để đến khi vỡ lẽ, không đúng với nguyện vọng thiết tha của mình, và không thực hành được những gì mình mơ ước thì lúc bấy giờ mất hết niềm tin, bỏ cuộc tu hành, thối chuyển đạo tâm, rồi đâm ra vô vọng như người mất phao.

Hôm nay, đã đúng lúc để được nghe Thầy trả lời chung cho tất cả mọi người muốn hướng về đây tu hành với Thầy. Vậy trước khi nghe Thầy trả lời riêng cho hai người cư sĩ này đã có thư hỏi, nhưng Thầy cũng sẽ trả lời chung cho tất cả quý Thầy, quý Phật tử đang hướng về đạo Phật. Trước tiên, quý Thầy được nghe hai bức thư của hai người cư sĩ đã gửi đến hỏi Thầy.

NỘI DUNG BỨC THƯ THỨ NHẤT

(06:13) Đây là bức thư thứ nhất Thầy sẽ đọc lại cho quý Thầy nghe :

Quy Nhơn ngày 23 tháng 11 năm 1992

Kính gửi: Thiền sư Thông Lạc

Được nghe biết về Thầy con rất mừng, con rất muốn đích thân về đến đất Tây Ninh để trực tiếp bái kiến Ngài. Song vì những lý do thuộc về tài chánh, điều kiện thời gian không khắc phục được con đành viết thư thôi. Song vẫn hi vọng có ngày nào đó, con sẽ được ở cạnh Thầy. Thưa Thầy, quả rằng Thầy đã đáo đạt chân lý rồi chăng? Thầy cũng có luôn cả lục thông nữa? Con muốn được biết rõ sự thật này của Thầy để biết chắc được rằng có giải thoát không như Phật Thích Ca giới thiệu. Mọi lý thuyết đều có thể có được và đạt được, song thực hiện lý thuyết đó lại là một việc khác hẳn. Con đang là một cái thư viện đầy sách và đóng cửa, chả ích lợi chi hết cho chính con và người khác, con chỉ mong gặp minh sư chân thật. Con cứ nghe rằng: có thật xưa nay là có minh sư, kể cả Phật Thích Ca. Con nghĩ Ngài chỉ là nhân vật của huyền sử, được mọi người thần thoại hóa, thân hóa thêm. Bạch Thầy! Thầy nghĩ biết gì về Chúa Giêsu? Chúa Giêsu có phải là Thánh không? Là hiện hữu nhiệm mầu, là Chơn Như, là chơn lý giải thoát?

(08:58) Kính mong Thầy bỏ ít thì giờ hồi đáp thư cho con. Hay nếu có dịp, Thầy có dịp tiện và là con có nhân duyên với Thầy, gặp minh sư để đạt đích cuộc đời thì ghé về Quy Nhơn để con được cần hỏi và hưởng từ phước của Thầy phát tác bao trùm lấy con.

Kính chào Thầy

Con Nhân

NỘI DUNG BỨC THƯ THỨ HAI

(09:54) Và đây là bức thơ thứ hai, Thầy sẽ đọc để quý Thầy nghe bức thư này.

Quy Nhơn, ngày 1 tháng 1 năm 1993

Ôi Thầy Thông Lạc ơi! Thầy đã gần 70 tuổi rồi phải không? Con xin phép được xưng con là phải. Thầy là thiền sư chơn chánh và đã đạt đạo rồi ư? Có thể có một người như thế thật sao? Có thể có chân lý thật để đạt ư, hở Thầy?

Thầy ơi! Chân lý của Thầy nhận ra là gì đó? Có thể chia sẻ cùng con chăng? Liệu Thầy có phải cũng mơ theo một cách riêng của Thầy, như con đã từng biết, từng thấy hàng trăm giấc mơ độc đáo đủ dạng, loại.

Thầy ơi! Thầy có lục thông đúng nghĩa thật sự, chứ không phải nghĩa bóng theo kiểu phải hiểu bằng trí tuệ Ba-La-Mật chứ? Hay lại là chỉ những lời đan dệt của một số đệ tử hâm mộ Người?

(11:49) Con cứ bơi mãi mệt nhoài, trong cả đống các kết luận, mà mỗi kết luận là một chơn lý của một Giáo phái. Các chân lý đều bất toàn và phi lý ở một góc độ nhất định. Con có những chứng minh cụ thể không thể chối cãi nổi. Con đã từng tự thuyết phục và an ủi mình chịu du di cho một chơn lý khả dĩ, dễ ưa nhất, lợi lạc, thông minh cho người và cho mình nhất. Song lại không thể chịu được. Chúa Giêsu con cũng đã từng kinh nghiệm, Ngài thú vị hay lắm. Song con lại có những chứng minh khác cụ thể, rõ ràng để phủ nhận Ngài. Còn kinh Lăng Nghiêm, Viên Giác của Thích Ca Mâu Ni con cũng có kinh nghiệm của khoảng hai phần ba các cung bậc trong đó. Kể cả cảnh ma và từng lớp chứng đạt, và với sách tâm thần hiện đại con cũng là bệnh nhân chính cống. Ngài ơi! Thầy Lê Ngọc An ơi! Hiện giờ có một vị minh sư mà con cũng chưa đủ điều kiện để có thể nhận ra minh sư, hay tiên tri giả, giáo sư giả, ma vương nữa. Đó là Vô Thượng Sư Thanh Hải bên trời Tây kia. Thuyết pháp hay tuyệt vời, lại rất hợp với hầu hết các kiến giải của con về đạo. Song còn một ít chỉ kiện khác khiến con băng khoăn và nghi ngại nên chưa quyết định nên theo để được truyền Tâm Ấn hay không? Vì Tâm Ấn theo kiểu Phật truyền cho Ca Diếp hay Huệ Năng truyền cho Châu đệ tử ngày xưa, về bản chất khác 180 độ. Hay bây giờ, là lúc gần tận diệt nên mở rộng cửa và thu hồi đại trà.

(15:03) Con cũng chưa biết rõ Thầy. Song Thầy có vẻ kính nhiệm, chẳng chịu xưng là Phật, giống kinh Lăng Nghiêm Phật Thích Ca có dặn là đấng A La Hán, Bồ Tát chỉ khi tịch diệt mới tạm để lộ tông tích. Với lại, con được biết Thầy qua một người mà đối với con không phải xoàn về độ phát triển tinh thần tâm linh. Song anh ta hãy còn mơ. Con cứ tin đại Thầy trước. Hỏi Thầy những điều này. Ôi thật tội nghiệp cho con. Thầy là ai? Đã đến đâu? Người thứ thiệt hay cũng thông thường như lắm kẻ mà con cũng đã từng nghe ca tụng, đơm đặt về. Rồi con cũng đã từng tìm cách tiếp xúc để rồi thất vọng. Ôi, Phật khi xưa nói rõ ràng: “Ta là Phật đã thành, là đấng không đến, không đi, là người giác ngộ hoàn toàn, đã giải thoát khỏi sanh tử luân hồi, đã luôn được thường lạc ngã tịnh”.

Hiện Phật cũng có phải là người đang mơ còn mơ không? Và nếu vậy thì không cần nói Thầy cũng là một đệ tử mơ của Phật, một đệ tử xuất sắc. Xin Thầy cũng cứ vài dòng cho con, cọng rơm đang bị trôi trong nước lụt. Rất mong thư Thầy.

Thôi thì Thầy cứ giải lao là trò chuyện với cô phụ nữ tâm thần này vậy.

Kính chào Thầy

Con Nguyên Trí

NỘI DUNG BỨC THƯ THẦY TRẢ LỜI CHO HAI CƯ SĨ

(17:23) Đến đây, quý Thầy đã nghe xong hai bức thư, quý Thầy sẽ được tiếp tục nghe bức thư trả lời của Thầy. Nội dung bức thư trả lời quý Thầy phải lắng nghe cho kĩ từng ý, từng lời văn. Nếu không sẽ không hiểu gì hết, hay chỉ hiểu chung chung thì chẳng ích lợi gì cho quý Thầy. Đây là bức thư Thầy gửi cho hai vị cư sĩ đó.

Ngày 14 tháng 2 năm 1993

Kính gửi hai cư sĩ Nguyên Trí và Nhân

Hai cư sĩ đã thành thật kể lại nội tâm bi quan của mình, trên đường tìm chân lý vô vọng. Hiện giờ, phải nói mọi người đã và đang tìm chân lý trong Phật giáo cũng như trong các Tôn giáo khác. Đều mang một tâm niệm như hai cư sĩ nếu họ không tìm danh lợi trong đó. Này hai cư sĩ khi hai cư sĩ chưa gặp một người có kinh nghiệm sống thật trong đạo Phật hướng dẫn, mà vội vàng đánh giá đức Phật thì chúng tôi e rằng quý vị quá nông nổi. Quý vị dựa vào một đống kinh sách khổng lồ của Phật giáo hiện nay, mà cho đó là con đường đưa đến cứu cánh chân lý của đạo Phật. Rồi ra công tìm kiếm ở trong đó không được, quý vị đâm ra hoang mang, dao động, mất hướng rồi sanh tâm nghi ngờ, phỉ báng Phật Pháp. Điều này rất là tội lỗi.

(19:42) Này quý vị, đống kinh sách đó, toàn những thứ ô hợp. Chỉ được gạt những kẻ mù mắt, những kẻ đầy tham vọng khát chân lý mà thôi.

Này hai cư sĩ: “Đạo Phật thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy”. Thật vậy, ai sống đúng đời sống của đức Phật, người ấy sẽ thấy giải thoát ngay trong hiện tại bây giờ, chẳng cần phải đi tìm đâu xa, chẳng cần phải bỏ nhiều thì giờ nghiên cứu học hỏi. Xưa Phật không để lại một cuốn kinh nào, chỉ nói những gì Ngài sống, Ngài biết, không có quảng cáo, không có viết lách kinh sách như thời đại chúng ta. Không có nghĩa thời đại đức Phật chưa có chữ viết, bằng chứng đã có các bộ kinh Vệ Đà, chỉ vì Ngài không hiếu danh.

TÌNH TRẠNG ĐẠO PHẬT NGÀY NAY

(20:50) Này hai cư sĩ, đạo Phật hôm nay không còn nữa. đạo Phật ngày nay chỉ là một thứ Tôn giáo do các thời đại và hai giai cấp của con người đẻ ra.

  1. Giai cấp tri thức: đã biến Phật giáo thành một thứ triết lý cao siêu màu nhiệm tuyệt đỉnh, để thỏa mãn nhu cầu ảo tưởng của họ. Và họ cũng biến Phật giáo thành một khoa tâm lý học tinh vi.

  2. Giai cấp bình dân: biến Phật giáo thành Thần giáo để phục vụ đời sống của họ. Gần đây, khắp trên thế giới con người đã biến Phật giáo thành một cơ quan từ thiện để phục vụ xã hội, gọi là Bồ Tát hạnh.

Vì thế hai cư sĩ tìm chơn lý trong đống kinh sách ảo tưởng, nên bảo sao chẳng thành mộng tưởng. Tìm Phật giáo trong đống kinh sách của hai giai cấp này nên bảo sao chẳng vô vọng. Những điều đã dạy tu hành trong kinh sách từ nhiều thế kỷ nay cho đến hôm nay vẫn chưa có ai thực hiện được chứng quả A La Hán. Chỉ chứng những định tưởng thuộc về tà giáo ngoại đạo, không làm chủ được thân tâm, không làm chủ được tâm tham, sân, si và chấm dứt tái sinh luân hồi. Chỉ thể hiện những điều kỳ quặc, những thần thông gạt người, mê hoặc người để cầu danh, cầu lợi. Bởi họ viết ra bằng những tưởng giải do tâm háo danh của họ, họ viết ra chính họ thực hành cũng chẳng được, họ viết ra có rất nhiều điều phi lý, nhưng khéo lý luận che đậy, khiến con người không thể hiểu được, họ viết ra tưởng chừng con người là cây đá, thế mà mọi người đều tin đó là của Phật, họ viết ra như những nhà giải phẫu, phân tích tâm con người manh mún từng mảnh nhỏ. Để làm gì? Để làm một trò chơi cút bắt tâm, để lý luận cho vui tai chứ không ít lợi gì cho con người cả. họ viết ra những điều úp úp mở mở để khiến cho con người tò mò tưởng chừng như trong đó có những điều kỳ đặt, mầu nhiệm, để rồi toàn là một thứ lý giải suông.

(23:56) Đã trải qua bao nhiêu thế kỷ, người ta đã tu theo những kinh sách này, đều dở sống dở chết. Thế mà cho đến hôm nay mọi người vẫn đều tin theo, chạy theo, một cách mù quáng. Không chịu nhìn lại cha đẻ của những pháp môn này, họ đã làm được những gì chưa? Nếu chỉ nhắm mắt tu đùa, tu đại, chừng thực hành không được thì lỡ vỡ cả đời người. Rồi đây, bổ ngửa ra cả đám thất vọng, vô vọng, đâm ra mất hết niềm tin, cũng giống như hai cư sĩ bây giờ vậy.

TÌNH TRẠNG TU HÀNH CỦA CON NGƯỜI THỜI NAY

(24:38) Con người thời nay cũng quyết tâm tu hành cầu giải thoát rất đông đảo. Nhưng họ đang nuốt không vô, nhả không ra, nhầm những triết lý cao siêu mầu nhiệm, còn đi tìm người có kinh nghiệm thì chẳng biết tìm đâu ra, chỉ toàn những bậc minh sư lên đồng, nhập xác, tự xưng Ông này, Bà kia thì nhiều hoặc gặp những thiền sư miệng, đạo sĩ bùa chú thì không thiếu gì trong thời đại này. Trong thời đại này, quý vị có tìm được một minh sư chân thật, chắc quý vị cũng chẳng đủ lòng tin. Vì quý vị đang thần thánh Hóa một vị minh sư siêu việt, có đầy đủ thần thông, Tam Minh, lục thông. Vì thế, mà quý vị chẳng bao giờ gặp được minh sư chân thật của quý vị.

Xưa, Vua Louis đến thăm một vị hiền nhân trong thất hiền của nước Pháp thời bấy giờ. Nhà Vua thấy ông ta đang xay bột giúp vợ làm bánh bán trong cảnh nghèo túng khổ khốn khổ. Nhà Vua liền ban cho vàng bạc, châu báu nhưng ông khéo từ chối. Thế mới biết trong cái tầm thường có cái phi thường. Cái phi thường không phải ở thần thông phép tắc, mà cũng không phải ở chỗ mầu nhiệm kỳ đặt ngoài sức con người làm được, mà ở chỗ con người làm được thoát ra khỏi sự cám dỗ danh lợi, sắc tài, ăn và ngủ của đời người. Và còn làm được của con người là thoát ra khỏi những thú tính mà con người đang mang trong người.

(26:52) Này hai cư sĩ, hai cư sĩ đã từng nghe trên báo chí hoặc đài phát thanh đăng tin những đạo sĩ Ấn Độ chìm trong nước, chôn trong đất không chết. Đi trên lửa, mặc áo mỏng bên trời Liên Xô dưới không độ không run rẩy. Đó là những trò gian xảo, lừa bịp, quảng cáo gạt người bằng những khổ công tu hành của những Pháp môn Yoga, hoặc những Pháp môn khác để được người ta thần thánh mình, và để làm gì? Làm gì nữa? Để tìm danh lợi trong đó. Nếu được sự chứng kiến này chắc quý vị sẽ xem họ là minh sư của mình.

Này hai cư sĩ, chúng tôi tu theo đạo Phật không như lời người ta giới thiệu, đã đạt đạo, chứng đạo, có lục thông. Chúng tôi theo đạo Phật rất thực tế hơn nhiều, không mơ mộng những điều như vậy. Tu tập để làm chủ thân và tâm của mình, để giải thoát bốn sự khổ đang ràng buộc chúng tôi sanh lão bệnh và tử.

MỤC ĐÍCH TU HÀNH CỦA ĐẠO PHẬT

(28:11) Này hai cư sĩ, mục đích của đạo Phật là giải quyết Bốn sự khổ này của loài người, để thoát ra sự trói buộc của nó chứ không phải đi tìm lục thông, Tam minh, Phật tánh, Chơn Như, bản thể, v.v…​ Mà cũng vẫn không phải đi tìm nghĩa lý trong các kinh sách, ngữ luật, công án, v.v…​ Hoặc tu thế này, thế kia để có thần thông, phép tắc hoặc để triệt ngộ, thông suốt những điều bí mật trong các kinh sách.

Chúng tôi tu theo đạo Phật cũng không xây dựng một thế giới Cực Lạc tưởng, một cõi trời tưởng, để đến khi chết được sinh về đó. Chúng tôi tu theo đạo Phật với một vị trí tuệ sẵn có của mình, biết chọn lựa cách sống của đạo Phật, sống ly dục.

Khi sống ly dục, chúng tôi từng chiến thắng lại tâm mình bằng những trí tuệ và kinh nghiệm từ bản thân, không dựa vào kinh sách nào cả. Sau khi tạo hoàn cảnh sống ly dục được, chúng tôi tiếp tục sống đúng đời sống của đức Phật, sống đoạn dục.

Khi sống đoạn dục, chúng tôi từng ức chế vọng tưởng, nhưng không diệt và không đè nén nó, biết dẫn dắt nó tưới mát tâm chúng tôi, khiến cho đời sống chúng tôi tâm được an vui và giải thoát mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng.

(29:55) Chúng tôi không phải là thiền sư và cũng không đạt đạo. Chúng tôi cũng không thấy có chân lý gì để đạt. Chúng tôi chỉ sống như mọi người khác, nhưng sống thật giải thoát khỏi tâm ham muốn của mình. Chúng tôi không có lục thông, không có bùa chú linh thiêng và cũng không có gì kỳ đặc, độc đáo cả. Chúng tôi là một người thường, không phải A La Hán, Bồ Tát và Phật. Chúng tôi chỉ là những người biết sống, khéo sống. Chúng tôi sống không mơ mộng, không ước ao và không cầu mong một điều gì khác hơn là chúng tôi sống với ý thức sẵn có của chúng tôi. Chúng tôi từng biết rõ việc làm của mình, từng ý niệm của mình, từng hành động và lời nói của mình. Chúng tôi đã tự điều khiển và quản lý được tâm của chúng tôi. Do đó, chúng tôi đã làm chủ được thân tâm hoàn toàn. Chúng tôi không còn bị nô lệ bất cứ một vọng tưởng nào của chúng tôi. Bệnh tật, tử vong, đau khổ không làm chúng tôi sợ hãi. Chúng tôi lại cũng biết rõ, chúng tôi không còn bị danh, lợi, sắc, ăn và ngủ lôi cuốn chúng tôi được nữa. Vả lại, chúng tôi cũng còn biết rất rõ ràng sanh, lão, bệnh, tử không còn trói buộc chúng tôi.

(31:39) Này hai cư sĩ, điều tôi nói trên đây là sự thật, tin hay không tin là ở quý vị. Riêng chúng tôi, chúng tôi chẳng cần ai tin mình. Tôi giải thoát cho tôi, không thể giải thoát cho quý vị được. Cũng như quý vị giải thoát cho quý vị, không thể giải thoát cho tôi được. Tôi không có mộng làm Bồ Tát độ chúng sanh. Danh lợi đối với chúng tôi, chúng tôi đã chấm dứt nó từ lâu. Cho nên Bồ Tát đối với chúng tôi vẫn còn danh lợi. Chúng tôi hiểu rất rõ điều này.

Đến đây tôi xin thành thật bảo quý vị, thực hiện được sự thật này là một công trình vĩ đại khó hơn việc “Dời non lấp biển”.

Một người có đầy đủ ý chí, bền lòng, chặt dạ, kiên trì “mài sắt thành kim” mới thực hiện được.

Những người đứng núi này trông núi khác, thì chẳng đời nào thực hiện được.

Những người đi tìm thần thông, phép tắc, Tam minh, lục thông thì cũng chẳng đời nào thực hiện được.

Những người ban ngày thắp đuốc đi tìm chân lý như hai cư sĩ cũng chẳng thực hiện được.

(33:06) Một lần nữa, chúng tôi xin thành thật khuyên hai cư sĩ, nên sống một đời sống của người cư sĩ giữ trọn đức hạnh làm người. Biết tha thứ, biết san sẽ, biết nhận những lỗi nhỏ của mình và biết khắc phục tâm tham muốn của mình. Thế đủ lắm rồi, đừng mơ gì nữa!

Chúng tôi thăm và chúc hai cư sĩ thân tâm an lạc và thường vui vẻ.

Tu Viện Chơn Như kính thư.

Sau khi nghe bức thư của Thầy trả lời, Quý Thầy đã rõ mục đích tu hành của Tu Viện Chơn Như. Vậy quý Thầy hãy xét lại mình. Nếu họa chăng mục đích tu tập của quý Thầy sẽ đúng vào mục đích này, thì quý Thầy sẽ ở lại đây cùng Thầy tu tập với sự hướng dẫn tận tâm của Thầy. Bằng thấy mục đích tu hành này không phù hợp với nguyện vọng của mình, thì Thầy rất hoan hỷ để quý Thầy rời khỏi Tu Viện, để đi tìm đúng mục đích mà quý Thầy từng ôm ấp trong lòng.

TÌNH TRẠNG ĐẠO PHẬT QUA BA THỜI KỲ

(34:36) Quý Thầy đừng nghĩ rằng, thời kỳ mạt Pháp không thể nào thực hiện được mục đích tu hành tại Tu Viện này được. Điều nghĩ này sai. Tại sao? Tại vì trong mọi thời kỳ, trong mỗi thời kỳ đều có người tu chứng. Tuy rằng, người ta đã phân chia 3 thời kỳ như trong kinh đã dạy:

  1. Thời kỳ chánh Pháp

  2. Thời kỳ tượng Pháp

  3. Thời kỳ mạt Pháp

Hòa Thượng Thiền Tâm đã nói rõ trong cuốn Phật Học Tinh Yếu. Sao gọi là chánh, tượng và mạt Pháp?

Sở dĩ, nói chánh Pháp, vì chánh có nghĩa là chứng. Trong thời kỳ này, đức Thế Tôn tuy đã nhập diệt. Những Pháp nghi của Ngài chưa sửa đổi, có giáo lý, có kẻ hành trì, có nhiều người chứng quả. Như trong kinh đã dạy: “Sau Phật diệt, nhập Niết Bàn 500 năm gọi là thời kỳ chánh Pháp”, người tu có chứng quả A La Hán.

Sau thời kỳ chánh Pháp là thời kỳ tượng Pháp. Nói tượng Pháp, vì tượng có nghĩa là tương tợ, tức là mường tượng. Trong thời kỳ này, đạo hóa chỉ còn mường tượng, Pháp nghi lệch lạc, kinh điển giáo lý có nhiều sự sửa đổi, tuy giáo lý có, cũng có nhiều người hành trì nhưng rất ít kẻ chứng đạo. Thời kỳ tượng Pháp cách Phật 1.000 năm.

(36:56) Sau thời kỳ này là thời kỳ mạt Pháp. Nói mạt Pháp, vì mạt là làm, “Làm ý di mạt” nghĩa là mang manh, nhỏ nhiệm, như chóp đầu lông, chia nhỏ như hạt bụi, điểm sương. Trong thời kỳ này, đạo hóa suy vi, tuy có giáo lý, kinh sách rất nhiều, song ít kẻ hành trì đúng Pháp, huống chi là chứng đạo.

Theo kinh Nhân Vương nói:

  • Có giáo lý, có hành trì, có quả chứng, gọi là chánh Pháp.

  • Có giáo lý, có hành trì, không chứng quả, gọi là tượng Pháp.

  • Có giáo lý, không hành trì, không quả chứng, gọi là mạt Pháp.

Thật ra, thời tượng Pháp chẳng phải là không có quả chứng. Song bậc chứng quả như sao buổi sáng trên nền trời, khó tìm, khó gặp. Thời mạt Pháp chẳng phải là không có người hành trì, song kẻ hành trì đúng theo giáo lý rất ít, hầu như không có, nên mới gọi là không hành trì.

(38:34) Để kết luận buổi nói chuyện hôm nay, theo lời dạy của Hòa Thượng Thiền Tâm dẫn chứng trong các kinh sách thì chúng ta nhận thấy cũng khá rõ ràng. Nhưng đó là kinh, còn theo Thầy nghĩ trong ba thời kỳ này, thời kỳ nào cũng có người tu chứng quả A La Hán. Bằng chứng hiển nhiên rất cụ thể, do sức Thiền Định mà các vị tu hành để lại nhục thân cho đến ngày nay. Gần đây 300 năm, tại quê hương chúng ta, đất nước Việt Nam có Ngài Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường đã để lại nhục thân ở chùa Đậu miền Bắc nước ta. Đó là vì họ tu đúng. Tu đúng như thế nào?

· Thứ nhất là phải thực hiện giới luật nghiêm túc.

· Thứ hai là tập luyện Thiền Định phải đúng cách và phải do những kinh nghiệm của những bậc Độc Giác Phật.

Còn những ai dựa vào kinh sách mà tu hành trong thời kỳ mạt Pháp thì khó thành tựu. Bằng chứng hiển nhiên chúng ta thấy hiện giờ, người ta dựa vào kinh sách tu hành đã nhiều thế kỷ nay, không thấy có ai chứng quả A La Hán, chỉ toàn học giáo lý mà thôi! Tại sao vậy?

(40:56) Tại vì kinh điển đã bị người sau thêm thắt quá nhiều, làm lệch lạc tất cả kinh nghiệm tu hành của đạo Phật. Cho nên xét về quá trình thời gian, thì thời nào cũng có những bậc Độc Giác ra đời. Đó là để giữ gìn giềng mối của đạo Phật. Nếu không có các bậc này, thì đạo Phật ngày nay sẽ đi về đâu? Chắc chắn, sẽ trở thành một môn học cho người sau mà thôi. Chúng ta cũng nên xét kỷ, vì mục đích của đạo Phật hiện giờ đã bị lệch lạc, cho nên khiến người sau chẳng biết đường lối nào tu hành.

(41:57) Sau khi quý Thầy đã hiểu rõ mục đích tu hành tại đây và trong ba thời kỳ mà là kinh sách đã chia cắt ra. Nhưng kết luận chúng ta nhận xét kỹ trong mỗi quá trình thời gian, thời kỳ thì thời kỳ nào cũng có bậc Độc Giác Phật xuất hiện ra đời. Nhưng có điều họ không phát triển kinh nghiệm tu hành sâu rộng trong mỗi tầng lớp con người, mà chỉ giữ mãi chiều sâu của đạo Phật còn trụ thế mà thôi. Bởi vì, họ gặp một thế lực Phật giáo kinh điển chèn ép mạnh mẽ. Đây cũng là duyên của chúng sanh. Vậy một lần nữa Thầy khuyên quý Thầy, sự tu hành là sự ích lợi cho bản thân cá nhân của quý Thầy hơn hết, hơn tất cả. Quý Thầy cứ tư duy cho chính chắn rồi mới thực hiện, đừng vội vàng, nông nổi mà hãy cẩn thận và cẩn thận hơn.

Đến đây, Thầy xin chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay quý Thầy cùng Thầy niệm hồi hướng:

Nguyện đem công đức này

Hồi hướng cho tất cả

Pháp giới và chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo.

HẾT BĂNG

Pháp Âm - 1993 - ĐƯỜNG LỐI TU HÀNH CỦA TU VIỆN CHƠN NHƯ

ĐƯỜNG LỐI TU HÀNH CỦA TU VIỆN CHƠN NHƯ

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Thời gian: 1993

Thời lượng: [43:39]

1- NĂM ĐIỀU KIỆN TU TẬP

(00:00) Hôm nay, nhân dịp Từ Minh làm lễ phát nguyện nhập thất với một tâm đại hùng, đại lực, nguyện thành tựu đạo pháp mới mở cửa thất bước ra. Bằng không thì dù có tan xương nát thịt vẫn không ra khỏi thất. Do nhân duyên này, Thầy nói chuyện cùng các con đang tu tập ở đây. Muốn tu tập với Thầy, quý Thầy và quý Phật tử phải chấp nhận năm điều kiện:

  1. Phải tin nơi Thầy sẽ đưa dắt quý Thầy đến nơi đến chốn, giải thoát hoàn toàn đúng con đường của đạo Phật.

  2. Quý Thầy phải có một cơ thể khỏe mạnh, nếu không có một cơ thể khỏe mạnh thì đừng có bao giờ theo Thầy tu hành, vì có theo Thầy tu hành cũng vô ích, không có kết quả tốt.

  3. Quý Thầy phải thành thật không được dối trá, tu được nói tu được, tu không được nói tu không được, tự dối mình dối Thầy mà chẳng ích lợi gì. Nếu thường bị hôn trầm hoặc phạm tất cả những lỗi nhỏ không được che dấu, phải phát lồ sám hối trước đại chúng và Thầy để xin phép đối trị.

(01:53) 4. Phải siêng năng, tinh tấn giữ gìn giờ giấc nghiêm túc, không được che dấu sự lười biếng, sự bỏ giờ giấc của mình. Mà lỡ có sự sai lầm bỏ giờ giấc hoặc lười biếng thì phải thành tâm phát lồ trước đại chúng những thói hư, tật xấu này để sớm khắc phục và răn chừa, may ra mới có tiến tu trên đường giải thoát.

  1. Phải có trí tuệ, ở đây không phải trí tuệ của kẻ xảo trá, không phải trí tuệ tổng hợp do vay mượn trong các kinh sách hoặc kiến giải của người khác. Mà trí tuệ ở đây phải là thứ trí tuệ rất thành thật, chân thật. Cái gì chưa hiểu, chưa tu tập được là phải thưa hỏi lại, không hiểu tưởng là đã hiểu đó là người không có trí tuệ, tu không được mà không chịu thưa hỏi là người thiếu trí tuệ.

(03:37) Với năm điều kiện này, nếu quý vị không chấp nhận thì đừng theo Thầy tu hành, vì có theo Thầy tu hành cũng chẳng ích lợi gì cho quý vị, còn hoài công, mất thì giờ vô ích. Quý vị đã không chấp nhận năm điều này thì quý vị sẽ thường che dấu những lỗi lầm của mình, thì sự che dấu này sẽ khiến cho sự tu tập của quý vị chẳng có kết quả. Nghĩa là về giới đức cũng như về thiền định, tu hành không thành tựu được.

(04:33) Này quý Thầy và quý Phật tử, ở đây không phải chỗ ăn và chỗ ngủ cho quý vị đến đây. Mà là chỗ thực hiện con đường giải thoát của đạo Phật, con đường đưa quý vị đến cứu cánh làm chủ thân tâm và chấm dứt tái sanh luân hồi. Ở đây, có một thiền tăng bảo rằng: “Ở đây không có gì thú vị cả”. Đúng vậy, ở đây không có thú vị gì. Ở đây chỉ phải chấp nhận một sự sống rèn luyện thân tâm của mình để làm chủ nó. Ở đây làm ngược lại tất cả những gì mà thế gian đang sống. Ở đây cuộc sống của quý vị còn chịu khổ gấp trăm, ngàn lần ở thế gian. Ở đây làm ngược lại những gì ham muốn ở thế gian, cho nên không có gì gọi là thú vị cả. Nếu quý vị muốn đi tìm sự thú vị thì ở đây không có chỗ cho quý vị tìm. Ở đây toàn là những thứ cay đắng mà quý vị phải nhận lấy, ở đây toàn là những thứ khắc khổ mà quý vị phải chịu trong lúc quý vị tu tập.

(06:44) Này quý Thầy và quý Phật tử, quý vị đừng nghĩ rằng, ở đây là nơi hướng dẫn cho quý vị tu tập có thần thông, phép tắc, biết chuyện quá khứ, vị lai. Ở đây cũng không phải là nơi quý vị tu tập có bùa linh, có thần chú giỏi, để trị bệnh, trừ tà yếm quỷ v.v… Ở đây cũng không phải chỗ hướng dẫn cho quý vị xuất hồn, nhập xác, đi chu du các cảnh tiên hoặc cõi địa ngục hoặc cõi thiên đàng. Ở đây cũng không phải chỗ dạy cho quý vị làm thơ, văn, thi, phú hoặc soạn kinh, viết sách hoặc dịch thuật các loại kinh sách. Ở đây cũng không phải nơi đào tạo cho quý vị trở thành những nhà hùng biện, những nhà giảng giả, triết giả, luận giả, luật giả v.v…​ Ở đây cũng không dạy cho quý vị lưu xuất những ngôn từ độc đáo của thiền Đông Độ, của Bát Nhã. Ở đây cũng không phải nơi giải ngộ những công án thiền Đông Độ và giảng nghĩa lý kinh Đại Thừa cho quý vị. Ở đây cũng không phải là trường học để cho quý vị học tập, thi cử, cấp bằng này bằng kia của Phật giáo. Ở đây cũng không phải nơi giảng đường để cho quý vị đến đây nghe thuyết pháp các loại kinh điển.

2- PHẢI ĐẦY ĐỦ OAI NGHI ĐỨC HẠNH

(08:47) Này quý Thầy và quý Phật tử, ở đây chỉ có dạy tập luyện cho quý vị sống một đời sống phạm hạnh ăn uống có tiết độ, ngủ nghỉ có giờ giấc, không được ăn uống phi thời, ngủ, nghỉ sai giờ giấc. Ở đây mọi người phải tập sống thường có ý, có tứ trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín phải đầy đủ đức hạnh.

Khi đi, phải nhẹ nhàng, phải thong thả, không được thô tháo, không được vội vàng, hấp tấp, không được chạy nhảy lăng xăng, không được vừa đi vừa chạy.

Khi đứng, phải tránh chỗ đông người, tránh chỗ có đàn bà, con gái, tránh chỗ đánh lộn, chửi lộn, tránh chỗ có trộm cướp, tránh chỗ có đấu tranh làm chính trị, tránh chỗ biểu tình.

Khi nằm, không phải đụng đâu nằm đó, tránh nằm chỗ đàn bà đang nằm, tránh nằm võng đưa tới, đưa lui, tránh nằm chỗ đông người. Nằm cho đúng chỗ, đúng cách, nằm không được nằm ngửa, nằm sấp, phải nằm theo kiểu kiết tường, nằm phải vén khéo không được bày ngực, bụng và đùi vế hở hang một cách thô lỗ, phải dùng y, áo che đậy kín đáo rồi mới nằm.

(11:02) Khi ngồi cũng vậy, phải lựa chọn cho đúng chỗ mới ngồi, ngồi không được ngồi lắc qua, lắc lại, ngồi không được nhịp tay, nhịp chân, ngồi không được kéo chân một cách phách lối, ngồi không được gác chân trên bàn, ngồi phải tề chỉnh, ngay ngắn, y, áo phải thẳng thớm.

Nói không được khoe khoang điều này điều kia, không được khoe tu chứng cái này, cái kia. Nói không được đem thiền đạo hoặc kinh sách ra thuyết giảng cho người khác không đúng lúc, không đúng thời. Nói không được tranh luận cao thấp, hơn thua, thấy ai tranh luận cao thấp, hơn thua thì bỏ đi nơi khác. Trên xe, bên lộ, hè phố, bên giếng nước, giữa đám đông, đám tang, đám cưới, đám giỗ không được nói cười thiếu tư cách đạo đức của người tu hành, phải ít nói khi ở giữa các đám đông người hoặc không nói thì tốt hơn hết. Khi nói không được cười, khi ăn không được nói, phải nghiêm chỉnh, không được nói chuyện tào lao, nói chuyện vô ích. Không được nói về chiến tranh về chính trị, nghe ai nói về chiến tranh, về chính trị, bỏ đi nơi khác. Không được đem giáo hội ra nói thế này, thế khác. Không được bàn quốc sự nước này thua, nước kia thắng.

(12:58) Khi nói không được nói láo, phải nói những lời chân thật, nói những lời chắc chắn, đúng đắn đáng tin cậy, nói những lời hứa với ai phải giữ gìn, đúng đắn, phải danh dự, không bao giờ sai lời hứa, không bao giờ trễ hẹn, lúc nào cũng giữ gìn đúng lời hứa, lời hẹn.

Không được nói lưỡi hai chiều, nghe điều gì ở chỗ này không đi nói chỗ kia để sanh chia rẽ ở những người này, hoặc nói xấu người kia, hoặc nói xấu người này, không đem chuyện chỗ kia nói xấu chỗ này gây những sự chia rẽ chẳng hòa hợp.

Không nói lời độc ác nguyền rủa, thường nói những lời hòa nhã, đẹp tai, dễ thương, thanh tao, nhã nhặn, ôn tồn.

Không bao giờ nói lời phách lối, nói lời khinh khi người, nói lời khinh chê người, nói lời phỉ báng người, thường dùng lời khen tặng người, lúc nào nói cũng đúng thời, lời nói phải đầy đủ ý nghĩ, chân chánh.

Không nói mỉa mai, không nói móc họng, không nói lời chua chát, thường nói những lời khuyên lơn, an ủi, thường nói những lời hợp thời, thuận lý, lời nói có mạch lạc, có hệ thống và có ích lợi cho mọi người.

Không bao giờ nói đùa, nói giỡn, nói giễu cợt, nói xối xả, nói vu khống người, nói oan ức người.

(14:47) Không bao giờ nói lời lừa đảo, xiểm nịnh và a dua.

Nín khi không nói, chúng ta làm thinh phải đúng cách, không khéo người khác nghĩ rằng mình khinh chê họ. Người tu hành không nói là điều tốt nhất, không nói gì cả, chỉ cười vui vẻ, ai nói gì chỉ gật đầu hoặc bỏ đi chỗ khác là tốt. Người tu hành phải tập sự nín lặng, phải giữ gìn sự nín lặng, ít nói, chẳng nói lời nào là tốt hơn hết.

Nín là vàng là ngọc, nói là đất là cát, nói là tạo ra khẩu nghiệp khiến không được yên thân tu hành. Nói là động, làm bất an khó yên thân tu hành, gây đau khổ, phiền toái trong lòng mình và người khác. Vậy cuộc đời tu hành của chúng ta phải thấy sự ích lợi của nín lặng, nếu không thấy là tại hại sẽ đến cho quý vị. Ở đây, chúng ta sống là chúng ta tu, sống và tu gắn liền với nhau.

(16:18) Này quý Thầy và quý Phật tử, ở đây quý vị tu tức là quý vị tập sống, quý vị sống tức là quý vị tu, sự tu tập không lìa sự sống, sự sống không lìa sự tu tập. Ở đây không có học tập, không có tích lũy kiến thức của người khác. Ở đây không có huân tập một số kiến giải, tưởng giải, kiền chấp, tưởng chấp của người khác dù là của Thầy, chỉ tự tâm của quý vị lưu xuất mà sử dụng trong cuộc sống hàng ngày của quý vị. Ở đây, không giúp cho quý vị có một trí tuệ tổng hợp, vay mượn bằng cách nhai lại bã mía của người khác. Ở đây, chỉ giúp đỡ cho quý vị một cách sống thực của đạo Phật, sống giải thoát khỏi triền phược dục lạc thế gian, chân thật như đức Phật còn tại thế lúc thời xưa. Sáng đi khất thực, trưa ăn cơm, chiều tọa thiền, tối đi kinh hành, khuya tọa thiền, đời sống ngày ngày trôi qua đều như vậy. Nghĩa là cuộc sống dính liền với cuộc tu, không bao giờ có sự sai khác. Ngày nào cũng như ngày nào tu và sống như vậy.

(17:45) Này quý vị, như Thầy đã dạy ở trên, quý vị thường sống phải có ý tứ, đừng nghe người ta dạy vô phân biệt, vô sai biệt rồi dẹp ý tứ của chúng ta để trở thành một con người ngu ngơ, phá giới luật của Phật. Không sống đúng trong giới hạnh đạo đức của đạo Phật, đó là điều làm cho đạo Phật suy đồi. Ở đây, quý vị phải giữ mình đầy đủ oai nghi, đức hạnh, phải có ý, có tứ từng trong mỗi hành động thân, khẩu và ý của quý vị, để quý vị sống đúng con người phạm hạnh của đạo Phật. Vì thế, thân hành của quý vị không phạm những hành động ác. Khẩu hành của quý vị không đem chuyện người này nói chuyện người kia, không đem chuyện người kia nói cho người này biết. Quý vị phải hoàn toàn giữ gìn khẩu nghiệp thanh tịnh, ít nói, lời nói của quý vị ở đây khi phát ngôn phải là lời nói có ích lợi, là vàng, là ngọc. Vì vậy khi nói phải đúng thời, đúng lúc, không được bạ đâu nói đó, phải tập sống một đời sống đức hạnh của người tu thiền định mà Thầy đã dạy trong bài: “Thực hành thiền hơi thở”.

3- HAI GIAI ĐOẠN TU TẬP

(19:28) Này quý Thầy và quý Phật tử, ở đây quý vị muốn tu hành thiền định của đạo Phật, thì trước tiên quý vị phải tập sống phòng hộ, bảo vệ các căn và tâm của quý vị. Muốn phòng hộ, bảo vệ các căn và tâm của quý vị thì ở đây có hai cách phải sống:

  1. Cách thứ nhất: Phải an trú trong giới luật của Phật đã dạy, nghĩa là, quý vị phải sống và tu là một không hai như Thầy đã dạy ở trên: “Sống tức là tu, tu tức là sống”.

  2. Cách thứ hai: Phải sống độc cư, sống cô đơn, nghĩa là, sống không tiếp duyên với ngoại cảnh, không nói chuyện với một ai, hoàn toàn phải cắt đứt các duyên bên ngoài.

Ở đây, Thầy đang tìm mọi cách và cố tạo cho quý vị một môi trường sống, sống đúng phạm hạnh, sống đúng giới luật, đó là giai đoạn phòng hộ, hộ trì và bảo vệ tâm của quý vị thứ nhất. Ở đây, Thầy cũng đang tìm mọi cách để tạo cho quý Thầy sống độc cư, sống cô đơn, sống ít nói chuyện và cắt dứt các duyên bên ngoài, đó là giai đoạn phòng hộ, hộ trì, bảo vệ tâm của quý vị thứ hai. Hai điều kiện sống này bắt buộc quý vị phải thực hiện cho bằng được.

(21:22) Nếu quý vị thấy mình không sống được, tu tập được theo hai điều kiện trên đây thì quý vị xin xuất viện, đừng ở đây mà mang nợ của đàn na thí chủ, đời đời, kiếp kiếp quý vị không trả được, rồi đây phải làm thân trâu ngựa mà trả nợ này và còn đọa địa ngục. Nếu quý vị thấy mình sống được, tu tập được, chấp nhận hai điều kiện trên. Nghĩa là, quý vị giữ gìn giới hạnh và phòng hộ tâm mà không sợ gian lao, khổ nhọc thì quý vị cố gắng sống đúng lời dạy của Thầy, đừng hành sai, đừng làm sai, những gì không hiểu phải thưa hỏi lại cho kỹ lưỡng.

4- SỐNG ĐỜI SỐNG GIỚI LUẬT ĐỨC HẠNH ĐỂ LY DỤC

(22:19) Nếu quý vị quyết tâm tu hành theo đạo Phật thì đừng sợ những gian lao khổ nhọc trong cuộc sống hàng ngày ở đây, chắc chắn quý vị sẽ ly được dục lạc thế gian. Chừng đó chưa tu thiền định mà quý vị đã có thiền định như Phật đã dạy “Giới sanh Định”, điều này chắc chắn. Ở đây, Thầy đang cố gắng khéo tạo môi trường sống đúng giới luật, để quý vị thực hiện một đời sống phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo. Nhờ sống đúng giới luật, quý vị sẽ ly được dục lạc thế gian, ly được dục lạc thế gian thì quý vị sẽ có hỷ lạc, giải thoát tâm của quý vị. Đó là quý vị chưa ngồi thiền, nhập định một ngày, một khắc, một giây mà quý vị đã nhập Sơ thiền. Đó là một thứ thiền định đầu tiên trong đạo Phật, mà chỉ có đạo Phật mới có mà thôi, nghĩa là, không tu thiền định mà có thiền định.

(23:36) Bây giờ, quý vị cứ suy nghĩ kỹ lại lời dạy của Thầy mới thấy kỷ luật ở đây và cách khép quý vị vào khuôn khổ tu tập thiền định là đúng con đường của đạo Phật, không sai chút nào cả. Nếu quý vị đã từng chịu khó nghiên cứu kinh điển Nguyên Thủy của đạo Phật, thì quý vị sẽ thấy đường lối tu tập ở đây rất đúng với đường lối tu tập của đức Phật ngày xưa, không bị lai căng các pháp môn khác. Bởi vậy, quý vị đừng bảo rằng Thầy khó, chỉ vì Thầy khó là vì muốn cho quý vị được giải thoát như Phật, được làm chủ sinh tử, chấm dứt tái sanh luân hồi. Đó là điều Thầy khó, để làm lợi ích cho quý vị.

(24:35) Ở đây trước kia có một thiền tăng bảo rằng: “Thầy cứ nói về ăn uống mãi”. Đúng vậy, trong ngũ dục lạc ở thế gian có thực, thùy mà thực, thùy là ăn và ngủ. Ăn và ngủ là một điều quan trọng của đời sống con người, cho nên con người thế gian thường ham ăn, thích ngủ. Vì ăn và ngủ là hai thứ dục lạc tối cần thiết của đời người. Dục lạc ăn ngủ là thứ dục lạc sống của đời người nên khiến cho người ta càng ham thích ăn và ngủ. Vì vậy tu sĩ Phật giáo hiện đời nay, tu theo kiểu này, kiểu nọ, chỉ chuyên môn tụng niệm và học tập giáo lý, ngồi thiền thì lấy lệ cho có chừng, nên khó mà lìa được dục lạc ăn và ngủ.

(25:44) Vậy quý vị nghĩ sao khi đến Tu viện này, trước tiên được khép mình trong khuôn khổ ly dục lạc ăn và ngủ. Điều này đã khiến cho nhiều người trước kia đã từng ở đây bỏ đi nơi khác để tìm cái ăn, cái ngủ thỏa thích. Kỷ luật ở đây không thể chấp nhận ăn và ngủ như các chùa khác, bắt buộc quý vị phải thực hành đúng kỷ luật ở đây khi mới bước chân vào Tu viện. Nếu quý vị thấy tu được thì theo tu, còn nếu thấy tu không được thì xin Thầy về, Thầy rất hoan hỷ.

(26:19) Đạo Phật không quyến rũ một ai và cũng không dụ dỗ, mua chuộc một ai. Một người quyết tâm tu theo đạo Phật không vì lợi dưỡng hoặc vì buồn khổ gia đình mà vào đây tu hành, không vì tù tội, trốn tránh hoặc thất vọng trên đường danh nẻo lợi, hoặc tiền tài, vật chất không thỏa mãn, hoặc vì tình duyên lỡ dở, hoặc thi cử không thành mà vào đây tu hành, hoặc vì thất nghiệp, nghèo khổ, không đủ cơm ăn, áo mặc mà vào đây tu hành, hoặc vì sự cúng bái, lễ lộc, ăn trên, ngồi trước mà vào đây tu hành.

Này quý Thầy và quý Phật tử, ở đây chúng ta tu hành theo đạo Phật là vì muốn vượt thoát ra khỏi biển khổ trầm luân của sanh, lão, bệnh, tử của cuộc đời, chứ không phải vì danh vì lợi mà vào đây. Chỉ vì giải thoát những điều lớn lao và quan trọng cho đời sống của chúng ta, vì thế mà chúng ta mới quyết tâm chịu những gian lao, những thử thách, khổ nhọc để chiến thắng lại những cái ăn, cái ngủ, cái nói chuyện, để chúng ta ly khỏi những dục lạc hèn hạ thế gian. Tại sao Thầy bảo dục lạc thế gian là hèn hạ? Vì nó có lạc là có khổ, vì nó có lạc là có ác, cho nên Thầy gọi nó là hèn hạ, cần phải lìa nó đi, cái dục lạc này mà ngàn đời, muôn đời người ta khó thoát khỏi vòng tay của nó. Vậy ở đây, quý vị có liệu sức mình đủ khả năng lìa nó hay không, nếu đủ sức thì theo Thầy mới nổi, nếu thấy không đủ sức thì đừng theo Thầy tu hành vô ích, mất thì giờ quý báu, hãy trở về đi. Bây giờ chưa có muộn màng còn có thể chọn các pháp môn khác dễ dàng hơn và sự lợi dưỡng cũng đầy đủ hơn, còn ở đây, quý vị muốn tu thiền thì thiền ở đây không có để quý vị tu.

(28:59) Quý vị hãy tu tập sống, ăn, ngủ, nói chuyện cho đúng cách, cho đúng phạm hạnh, giới luật thì ở đây đang dạy cho quý vị, đang tập luyện cho quý vị sống đúng giới luật, phạm hạnh của đạo Phật.

Nếu quý vị cần cầu mong tu thiền, mà không cầu mong tu giới luật thì ở đây không có dạy điều đó. Nếu ở đây, quý vị không thực hành được đời sống giới luật, phạm hạnh thì quý vị đừng mong tu thiền định. Đức hạnh giới luật mà không tu hành được thì thiền định là mộng ảo, là mộng tưởng, thì con đường giải thoát của quý vị là ảo tưởng, ảo mộng, ngàn đời, muôn đời quý vị chẳng thực hiện được gì hết. Thầy bảo thực với quý vị, chừng nào quý vị sống đúng giới hạnh của Phật thì Thầy mới dạy thiền định. Còn bằng không thực hiện được giới luật thì ngàn đời Thầy vẫn mang theo cái kinh nghiệm thiền định này xuống tận đáy mồ mà thôi, chẳng truyền cho ai hết. Tại sao vậy? Tại vì thiền định của đạo Phật phải lấy giới luật, phải lấy đức hạnh làm nền tảng. Nếu không đức hạnh, đó là thiền của ngoại đạo, không phải của đạo Phật, đó là sự xác quyết của Thầy mà không một ai chối cãi được, chống báng được, tranh luận được.

(30:35) Thầy ở đây, chẳng cầu danh, chẳng cầu lợi, chẳng cầu Phật tử đông đảo để cúng dường nhiều. Ở đây, Thầy cũng chẳng cầu đệ tử có hàng trăm, hàng vạn người, mà thực chất những người đệ tử này đức hạnh, thiền định chẳng có ra gì. Ở đây, Thầy chẳng cầu mong cất chùa to, miễu rộng, tháp lớn. Ở đây, Thầy chỉ cần một người đệ tử dạy đâu thực hành đó, đúng đó, không làm sai lời dạy của Thầy, người như thế mới giữ gìn trọn giới luật của Phật, mới thực hiện được thiền định của Phật, mới thể hiện được trí tuệ giải thoát của Phật. Ở đây, Thầy không cần nhiều đệ tử mà chẳng nghe lời dạy của Thầy, lúc nào cũng ồn náo, tranh luận, tuyên truyền, xuyên tạc pháp môn này, pháp môn khác, lúc nào cũng làm động trong chùa, dạy Đông tu Tây, dạy Nam tu Bắc thì thử hỏi những người học trò đó ở đây có lợi ích gì. Chẳng lợi ích cho bản thân họ, chẳng lợi ích cho Thầy và cũng chẳng lợi ích cho Phật pháp.

(31:55) Cho nên, muốn ở đây tu hành thì quý vị phải tự giác cao độ, phải rèn mình trong gian khổ, phải thử lửa như vàng thiệt, phải chiến đấu ngũ dục lạc thế gian mà ngàn đời, muôn đời quý vị đã bị nhiễm ô. Ở đây, quý vị phải gan dạ, phải trui mình trong lửa đỏ, nghĩa là quý vị phải sống trong hạnh nhẫn nhục tối đa. Nếu chấp nhận vào đạo Phật mà quý vị không thực hiện hạnh nhẫn nhục thì đừng nên theo đạo Phật, vì có theo nhưng chẳng ích lợi gì cho quý vị, thà quý vị sống ngoài đời, ăn ở có đạo đức thì còn hơn tu hành. Ở chùa mà còn sân ầm ầm dữ tợn như vậy thì không phải là người đệ tử của Phật. Người đệ tử của Phật phải thực hành hạnh từ bi, biết thương mình, thương người, biết chị ngã em nâng, biết lá lành đùm lá rách mà không cầu mong một điều ân nghĩa gì. Thiền định của đạo Phật không thể để cho kẻ thiếu đức hạnh, giới luật mà thực hiện được, bởi con đường tu chân chánh của đạo Phật thì phải lấy giới luật làm đầu.

(33:23) Tại sao ở đây, Thầy còn gọi là con đường tu chân chánh của đạo Phật? Vì đạo hiện nay có nhiều con đường tu hành mà những con đường này không đưa hành giả đến nơi, đến chốn giải thoát hoàn toàn, mà đưa hành giả đến chỗ phá giới luật, làm mất phạm hạnh của người tu theo đạo Phật. Vì thế, quý Thầy và quý Phật tử cần phải sáng suốt nhận định để không lạc lầm những pháp môn tệ hại này làm mất uy tín đạo Phật. Ở đây, con đường tu chân chánh của đạo Phật, lấy giới luật làm đức, lấy nhẫn nhục làm hạnh.

(34:13) Này quý Thầy và quý Phật tử, nếu máu trong thân của quý vị chưa khô, xương trong thân của quý vị chưa nát thì dục lạc thế gian của quý vị chưa lìa được. Đời sống của đức Phật ngày xưa khi khổ hạnh vì ăn quá ít, nên sờ da bụng đụng xương sống, sờ xương sống, đụng da bụng, đó là máu phải khô, xương phải nát. Thầy mười năm trong thất, ngày một bữa cơm rau lang luộc với nước muối, hoàn toàn chẳng có thứ gì khác hơn. Người thời nay, tu hành ăn uống đầy đủ các thứ món ngon vật lạ, cao lương mỹ vị lại còn thêm bánh, trái, sữa, bơ đầy đủ, thế mà còn muốn ăn ba, bốn bữa lại còn ăn uống lặt vặt phi thời, ăn đêm là khác nữa. Như vậy, con đường giới đức của đạo Phật có còn hay là mất, quý vị nghĩ sao? Thân này quý vị còn lo bồi dưỡng cho đầy đủ dưỡng chất, thừa thãi sự sống thì thử hỏi dục lạc thế gian đối với quý vị, quý vị có hàng phục được nó chăng? Nếu thân này đầy đủ sung mãn dưỡng chất thì sự đòi hỏi dục lạc rất mạnh mẽ. Chúng ta khó chiến thắng được nó. Bởi vậy, nếu thân quý vị máu chưa khô, xương chưa nát thì làm sao quý vị thắng được dục lạc thế gian?

(36:00) Này quý vị, Phật giáo hiện giờ chỉ có lý thuyết suông mà thôi, chẳng bao giờ tìm cách tu thực tế để ly được dục lạc. Thầy nói như vậy ở đây quý vị còn sẽ thấy và còn chứng kiến một cách thực tế những lời dạy trên đây của Thầy không sai chút nào cả. Bởi tu hành như đạo Phật hiện giờ chỉ là một hình thức không thể nào nhập định được. Còn thích ăn ngon, mặc đẹp, còn thích trang điểm cho thân đẹp đẽ, bệ vệ tăng tướng, bệ vệ trang hoàng trong hàng giáo phẩm như con vua, cháu chúa thì thử hỏi phạm hạnh giới luật còn ở đâu?

(37:07) Tóm lại, trong buổi nói chuyện hôm nay, Thầy khuyên quý vị hãy tu hành những giới đức ăn, ngủ, nói, nín và nhẫn nhục. Nếu quý vị thực hiện được những điều dạy này thì Thầy mới tiếp tục dạy quý vị thiền định, còn bằng không thì thôi. Ngày xưa đức Phật đuổi năm trăm vị tỳ kheo làm ồn náo không giữ hạnh khẩu nghiệp thanh tịnh, thì hôm nay, quý vị phải cố gắng giữ gìn thân, khẩu nghiệp thanh tịnh thì mới sống đúng con đường tu của đạo Phật. Phật không cấm tịnh khẩu, nhưng quý vị phải biết cắt các duyên, tức là tịnh khẩu thì sự tu hành của quý vị mới có kết quả. Nếu không cắt các duyên thì sự tu hành của quý vị hoài công vô ích. Trước kia Thầy từng dạy sống cô đơn, sống độc cư, ngày ăn một bữa, tịnh khẩu nhưng không nói là giới luật, chỉ nói là bí quyết của thiền định.

(38:29) Vậy hôm nay, quý vị đã rõ, Thầy đã dạy con đường tu học của đạo Phật như thế nào rồi, đúng hay sai thì hiện giờ quý vị đã thấy rõ ràng. Xưa không đủ duyên nên Thầy tùy duyên hòa hợp để chấn hưng Phật pháp, để mong thắp lại ngọn đuốc của đạo Phật. Nhưng chúng sanh thiếu phước không có duyên với Phật pháp nên Thầy muốn ra đi. Thầy muốn ra đi từ lúc Thấy mới ra thất chứ không phải mới bây giờ, nhưng vì thương xót vài người đệ tử còn bám theo Thầy, vì thế Thầy thẳng thắn chỉ rõ mà chẳng sợ mất lòng một ai. Nếu quý vị muốn tu hành thì phải theo kỷ luật của Thầy, còn không muốn tu hành thì thôi, đừng phá giới luật ở đây mà tạo tội đọa địa ngục. Nếu muốn tu giải thoát thì phải vâng lời dạy của Thầy, phải giữ gìn khẩu nghiệp thanh tịnh, suốt ngày, suốt tháng, nhiều năm không một lời nói. Suốt ngày, suốt tháng, suốt năm sống một mình không chơi với ai, không trò chuyện với ai. Suốt ngày, suốt tháng, suốt năm, ngày ăn một bữa, không ăn uống lặt vặt phi thời. Suốt ngày, suốt tháng, suốt năm luôn giữ gìn giờ giấc nghiêm túc, không bao giờ biếng trễ thì mới theo Thầy tu hành. Còn bằng không giữ được như vậy, quý vị hãy xin về để Thầy được yên ổn nhập diệt bỏ thân này. Đừng ở đây mà không giữ được giới luật thanh tịnh thì uổng ngày, tháng của Thầy và cũng uổng ngày tháng của quý vị, chẳng ích gì.

(40:57) Đến đây, Thầy xin chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay. Riêng phần Từ Minh, con đã phát nguyện xong, phải cố gắng giữ gìn giới đức để tạo mọi điều kiện ly dục thế gian thì mới thành tựu được giới hạnh.

Đến đây, các con cũng đã hiểu rõ đường lối tu tập của Thầy. Ở đây, trước phải dùng giới luật để sống, sống ly dục. Sau dùng thiền định ức chế tâm mình, nhiếp phục tầm và ý tứ để đoạn ái dục thế gian. Đó là đường lối để thành tựu cứu cánh của đạo Phật.

(42:14) Một lần nữa, Thầy xin nhắc lại: “Muốn theo tu hành ở đây, trước tiên phải dùng giới luật để sống, sống một đời sống ly dục. Sau đó chúng ta dùng thiền định để ức chế toàn tâm, nhiếp phục sự suy tầm và ý tứ để đoạn được ái dục thế gian”. Quý Thầy phải biết, đó là đường lối thực của đạo Phật để thành tựu cứu cánh để giúp cho quý vị chấm dứt tái sanh luân hồi. Vậy quý vị hãy cố gắng thực hiện hết bổn phận của mình và để làm tròn trọng trách, trách nhiệm mà chúng ta là những người tu sĩ của đạo Phật. Đến đây, quý Thầy và quý Phật tử cùng Thầy niệm.

HẾT BĂNG

Pháp Âm - 1993 - ĐƯỢC THÂN NGƯỜI LÀ KHÓ

1993 - ĐƯỢC THÂN NGƯỜI LÀ KHÓ

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Phật tử

Thời gian: 1993

1- ĐƯỢC THÂN NGƯỜI LÀ KHÓ

(00:00) Bắt đầu ngày 14 tháng 9 năm Quý Dậu (1993), Thầy sẽ tiếp tục nhập định 48 tiếng đồng hồ. Do nhân duyên này, Thầy có lời xin nhắc nhở cùng quý thầy: “Được Thân Người Là Khó”.

Trong cuộc đời tu hành, quý thầy sẽ gặp một hạng người tiêu cực, họ cho rằng chúng ta là những người có đủ phước duyên với đạo Phật. Nhưng trong chúng ta cũng có kẻ hạ căn, người trung căn và cũng có kẻ thượng căn. Kẻ hạ căn và trung căn thì không thể tu một đời mà thành Phật được, phải trải qua nhiều đời nhiều kiếp. Lời nói này có đúng hay không?

Thầy sẽ phân tách và dạy cho quý thầy thấy rõ lối lý luận này không đúng. Lối lý luận này là lối lý luận của kẻ lười biếng; của kẻ lợi dưỡng; của kẻ tham dục; của kẻ bắt cá hai tay; của kẻ mất hết ý chí tu hành. Muốn làm Phật mà không muốn lìa thế gian; muốn giải thoát sanh tử luân hồi, đau khổ, phiền não mà không muốn bỏ ái dục, dục lạc thế gian. Những kẻ lý luận này là ma vương trong đạo Phật. Lối lý luận này khiến cho chúng ta mất hết ý chí tu hành, chỉ còn biết tu cầm chừng cho qua ngày tháng, để mà hưởng thục dục lạc thế gian.

Này quý thầy! Trên đường tu hành, chúng ta sẽ đương đầu với nghiệp báo và tâm tham dục của chính chúng ta. Khi chúng ta tu hành, thường chiến đấu với tâm ham muốn của chính mình là để giữ gìn giới luật; là để bảo vệ tâm mình xa lánh ngũ dục lạc thế gian, thì tâm này sẽ có nhiều phản ứng và làm cho chúng ta khổ sở, gian nan vất vả. Trong lúc chúng ta tu hành, nhiều khi chúng ta cảm thấy mình không còn đủ sức để chiến đấu với chúng. Chúng khởi lên những loạn tưởng, cộng với cơ thể đang mệt nhọc, uể oải, rã rời, lười biếng. Do đó chúng ta không còn vững chí, mất hết lập trường tu hành, rồi sinh tâm hoang mang dao động.

(02:27) Bỗng nhớ lại lời nói này cho là chư Phật đã dạy, nên dựa vào đó, cho mình là hạ căn. Từ đó lại sinh ra lười biếng, hết muốn tu thiền định giải thoát, chỉ còn biết tu thiện, làm các pháp thiện. Rồi cũng từ đó, chúng ta bắt đầu thay đổi lối tu. Giới luật cũng từ đó đã vi phạm, oai nghi tế hạnh cũng từ đó không còn nữa. Luôn luôn tiếp duyên với ngoại cảnh; ăn nói xô bồ đụng đâu nói đó; cười cợt không đúng cách; đi đứng không khoan thai đằm thắm; lúc nào cũng ăn uống phi thời.

Tuy là thường làm việc từ thiện xã hội, bố thí, cúng dường hoặc làm thầy thuốc trị bệnh, hoặc làm thầy tụng niệm cầu siêu cầu an, hoặc làm thầy thuyết pháp giảng kinh. Họ cho đó là những hành động Bồ Tát hạnh, là Như Lai sứ giả. Trong số quý thầy này, cũng có một số người cư sĩ cùng nguyện tu Bồ Tát hạnh. Họ cũng bố thí cúng dường, làm lành lánh dữ, công quả trong các chùa để mong tạo phước báo về sau.

(4:37) Này quý thầy và quý cư sĩ! Khi quý thầy không vượt qua tâm ái dục, tâm ham thích dục lạc thế gian, thì dù cho quý thầy có công quả ngàn đời, bố thí cúng dường trăm kiếp cũng chẳng bao giờ thoát ra khỏi tâm ái dục và tâm dục lạc. Do đó, đời đời kiếp kiếp của quý thầy phải chịu trôi lăn trong biển khổ sanh tử luân hồi. Bởi câu nói “hạ, trung, thượng căn” là câu nói vô trách nhiệm, vô ý thức; câu nói có nhiều tai hại cho những người tu hành về sau.

Này quý thầy! Việc tu hành không phải là một việc dễ làm. Khi bắt đầu tu hành chân chính, quý thầy sẽ thấy được sự khó khăn vô vàn. Từ việc sửa đổi tâm tánh hung ác của chúng ta để trở thành hiền dịu. Từ việc sửa đổi tâm ham muốn dục lạc để trở thành tâm không ham muốn dục lạc, nghĩa là quý thầy phải làm ngược lại cuộc sống của thế gian. Từ đó thân dục, tâm dục của quý thầy sẽ phản ứng, tìm mọi cách cản lối ngăn đường, làm cho quý thầy khó khăn tiến tới giải thoát.

Người ta chỉ nghe nói “hạ, trung, thượng căn”, chứ có mấy ai biết rằng “hạ, trung, thượng căn” là ở mức độ nào? Chỉ biết nói một cách khơi khơi để gây sự thối tâm của kẻ tu hành chưa lập chí vững vàng. Riêng ở đây, Thầy khuyên quý vị phải hiểu lời nói này là của những người lười biếng, của quỷ dục vọng, của ma dục lạc. Khi nói ra lời này, họ sợ rằng không ai tin theo, nên gán cho Phật nói. Chứ đâu biết rằng Phật đã dạy: “Được thân người là khó, được nghe pháp chân chánh còn khó hơn”.

(06:43) Lời dạy này rất đúng! Vậy được thân khó như thế nào? Và được pháp chân chánh khó như thế nào? Để trả lời hai câu hỏi này, Đức Phật có đem một ví dụ con rùa mù và cái bọng cây giữa biển.

Này quý thầy! Quý thầy có bao giờ đến bờ biển chưa? Có bao giờ đi biển chưa? Nói đến biển, là nói đến trời nước mênh mông, trên biển có một con rùa mù đang bơi lội tìm cái bọng cây, đó là một việc khó.

Chúng ta được thân cũng khó như vậy. Lời nói này chắc ít ai tin, nhưng đó là một sự thật. Biển nước mênh mông, một cái bọng cây nhỏ trôi dạt vào, và một con rùa mù không thấy đường thì thử hỏi làm sao thấy được bọng cây? Đó là một việc khó.

Trong mênh mông biển cả, bọng cây và rùa khó mà có hữu duyên tình cờ gặp nhau, đó là một việc khó. Có duyên, có đủ hữu tình của luật nhân quả để rùa gặp được bọng cây, đó là một việc khó.

Này quý thầy! Này quý thầy! Quý thầy chưa rõ được luật nhân quả, nên cứ tưởng rằng mất thân này sẽ có thân khác liền. Điều này không đúng. Dựa vào luật nhân quả mà xét, chúng ta cả quyết xác nhận: “Được Thân Người Là Khó”, khó vô cùng vô tận. Nếu không hữu duyên, chúng ta khó có thể được gặp thân người. Nếu chúng ta lỡ để mất thân này, thì chắc chắn chúng ta khó mà có thân người được nữa. Tại sao?

Luật nhân quả đã chi phối tất cả chúng sanh trong vũ trụ. Chúng ta quyết chắc trong cuộc đời này không có một sự việc nào xảy ra do tình cờ hay ngẫu nhiên cả. Mà phải nói rằng có một định luật tuy vô hình, nhưng rất hẳn hòi và rất công minh, không hề sơ sót một ly hào nào đối với tất cả chúng sanh. Chính trong mọi hành động của chúng ta, của tất cả chúng sanh, hành động đó gọi là luật nhân quả.

(09:23) Đối với luật nhân quả không một ai trốn thoát khỏi, do đó chúng sanh khó mà được thân người. Cho nên hiện giờ, chúng ta đã được thân người, phải xem thân này là một vật vô giá. Nếu chúng ta biết sử dụng đúng chánh pháp thì có lợi ích rất lớn, vô cùng. Còn ngược lại, sử dụng thân như một món đồ tầm thường, cũng ví như viên ngọc quý, người biết thì nó là vật quý báu, người không biết thì nó là miếng vỏ ốc tầm thường. Trong thế gian này có biết bao nhiêu người quý trọng thân không đúng cách, đem thân làm một vật để mưu cầu dục lạc, khiến cho thân mau tàn tạ khô héo và chết dần mòn trong vô nghĩa.

Này quý thầy! Khi mất thân này chúng ta đừng tưởng rằng sẽ có thân mới khác. Bao nhiêu sự ác tâm của quý thầy vì chạy theo danh lợi, ăn ngủ, sắc dục trong cuộc sống hiện tại, quý thầy đã hữu ý hay vô tình đoản mạng chúng sanh. Nợ máu phải đền nợ máu, quý thầy phải hiểu do nhân này mà mãi mãi quý thầy sinh ra làm chúng sanh trong vô lượng kiếp, để đền bù những giọt máu mà quý thầy đã từng gieo.

Này quý thầy! Quý thầy hãy xét kỹ trong cuộc sống của quý thầy, chắc chắn quý thầy chết đi sẽ không có thể sinh làm người được nữa. Nếu đã sinh làm chúng sanh, thì quý thầy sẽ không có trí tuệ và sự vô minh sẽ nhiều hơn nữa. Hàng ngày quý thầy thường thấy chúng sanh giết hại lẫn nhau, tàn sát lẫn nhau không chút thương tâm. Chúng sanh thường giết nhau để ăn thịt và để mình được sống, chúng chỉ biết có thế thôi.

(11:30) Trong kiếp chúng sanh, bấy giờ ai là người đã dạy làm lành lánh dữ, nhẫn nhục, bố thí, cúng dường, tu hành? Được thân người có trí tuệ, biết phải trái, thiện ác, biết nhân quả nghiệp báo đau khổ, tái sanh và luân hồi; lại hữu duyên có chư Phật ra đời thể hiện dạy chúng ta tu hành làm lành lánh dữ, nhẫn nhục, và còn dạy chúng ta tu hành thiền định để giải thoát.

Nếu con người có được thân người mà không đủ duyên gặp chư Phật, chư hiền Thánh ra đời chỉ dạy Phật Pháp, thì chẳng khác nào một con vật, và có thể còn gian ác xảo trá hơn con vật nhiều. Con người khéo che đậy, con vật để lộ liễu; cả hai vật và người chẳng khác nhau, chỉ khác ở chỗ người thông minh khéo che đậy, vật ngu tối để lộ liễu. Khi đã làm thân loài vật, thì sự giết hại lẫn nhau càng nhiều, đó là tạo nhân ác thì làm sao được thân làm người?

Này quý thầy! Đó là việc khó được thân người. Từ kiếp chúng sanh này chuyển kiếp chúng sanh khác, khó có sự ngẫu nhiên mà chuyển kiếp được thân người; phải nói không bao giờ làm thân người trở lại được. Bởi bản năng hung ác của loài vật, càng huân tập thì càng hung ác hơn nhiều, do đó khó làm được thân người.

Có người hỏi tại sao trên quả đất này con người càng ngày càng sinh ra đông đảo? Thậm chí người ta phải hạn chế sinh đẻ, kế hoạch hóa gia đình. Còn nói như trên đây thì quả đất này sẽ không có con người.

Này quý thầy! Ở đây Thầy bảo được thân người là khó, mất đi không thể tìm được. Nghĩa là chúng ta mất thân này, mãi mãi không tìm được nó nữa. Còn con người hiện giờ được sinh ra, là do nhân thiện của những con vật hiền lành như bò, trâu, nai, hươu v.v…​ Từ trong một kiếp chúng sanh hiền lành sống bằng cỏ, bằng lá cây, không cắn hại và giết hại lẫn nhau. Và nhiều khi vô tình đã xả mình giúp người khác, vật khác, có khi hy sinh mình để cho người khác, vật khác sống. Những nhân thiện vô tình này đã đưa chúng sanh đó có được thân người.

Cũng như bây giờ quý thầy được nghe Thầy dạy hành những hạnh lành như nhẫn nhục, bố thí, cúng dường, xả bỏ tâm ác, xa lìa tâm ham muốn dục lạc tội lỗi. Đó là quý thầy có đủ nhân duyên mới được nghe dạy những lời lành này. Rồi từ đó, quý thầy cố gắng tránh những việc ác, làm những việc lành. Nhờ gieo những hành động tốt này, mà quý thầy được sinh làm người kế tiếp.

(14:36) Nếu quý thầy không được nghe lời dạy này, trong cuộc sống hàng ngày quý thầy chạy theo danh lợi, ăn ngủ và dục lạc cho thỏa mãn cái tâm ham muốn, thì quý thầy tạo thêm nhiều tội ác, và không tránh khỏi sáu nẻo luân hồi, mãi mãi làm thân chúng sanh. Ở đây có được mấy người nghe lời dạy này, đó là một việc khó được thân người.

Hôm nay quý thầy đã đủ duyên lành được có thân người. Còn biết bao nhiêu chúng sanh khác từ loài côn trùng cho đến loài thượng cầm hạ thú chưa làm được thân người. Lời nhắc nhở và cảnh giác của Đức Phật là để quý thầy xét mình có đủ duyên lành phước báo mới được thân người. Cũng là lời khuyến cáo để quý thầy cố gắng tu hành, đừng bỏ phí thì giờ quý báu của kiếp người.

Này quý thầy! Hiện giờ có ai biết được cái thân quý báu này? Họ chỉ tiêu phí thì giờ chạy theo dục lạc thế gian, cái thứ dục lạc như bóng nước, như sương buổi sớm, lạc đó rồi khổ đó. Thế mà tất cả con người trên thế gian này đang tiêu phí thì giờ quý báu của một kiếp người cho việc không có ý nghĩa.

Họ chỉ biết si mê sử dụng thân họ để thỏa mãn dục lạc giả dối vô thường. Họ chỉ biết hành hạ thân họ khổ sở tận cùng bằng những thứ dục lạc mộng ảo. Trong khi thân họ là một vật quý giá vô cùng, phải trải qua trăm ngàn muôn kiếp chúng sanh mới có được thân người.

Họ u mê đến tận cùng, chẳng biết dùng thân như chiếc phao, chiếc bè để vượt ra ba cõi và sáu nẻo luân hồi. Họ không biết sử dụng thân này như một thần dược để cứu họ thoát khỏi bịnh tham, sân, si và thoát khỏi ba đường khổ. Họ không biết dùng thân này như chiếc chìa khóa vàng để mở cửa giải thoát. Họ chẳng biết dùng thân này như một phương tiện tối độc tôn để đưa họ từ phàm phu trở thành Thánh nhân toàn thiện siêu nhiên.

Bởi được thân là khó, khó vô cùng khó, thế mà họ sử dụng thân họ trở thành một con thú dữ, một con rắn độc, một con quỷ tinh khôn xảo trá và một con ma ác hiểm ghê tởm. Bằng chứng quý thầy đã chứng kiến những hạng người này; họ từng ở trong Tu viện này, họ dám cả gan đội lốt đệ tử Phật làm chuyện đồi bại bất tịnh, bán Phật, bán Pháp, bán Tăng để mưu cầu danh lợi, dục vọng, sắc dục. Họ xem địa ngục chẳng ra gì. Họ đâu biết rằng luật nhân quả sẽ trừng trị họ mãi mãi đời đời trong biển khổ sinh tử.

(17:57) Để kết thúc: “Được Thân Người Là Khó”, chúng ta nghe Trần Nhân Tôn, một vị thiền sư thành lập phái thiền Trúc Lâm đã nói:

Vĩnh vi lạc đãng phong trần khất
Nhật viễn gia hương vạn lý tình.

Hòa thượng Thích Thanh Từ dịch:

Lang thang làm khách phong trần
Quê nhà ngày một muôn lần dặm xa.

Đến đây, các thầy được nghe nói đến: “Được Nghe Pháp Còn Khó Hơn”.

2- ĐƯỢC NGHE PHÁP CÒN KHÓ HƠN

(18:43) Được Nghe Pháp Còn Khó Hơn, vậy nghe pháp khó hơn ở chỗ nào?

Này quý thầy! Quý thầy phải chú ý và lắng nghe cho kỹ để mà hiểu cho rõ.

Từ loài côn trùng, cho chí loài thượng cầm hạ thú đều không thể hiểu được Phật Pháp. Chỉ có loài người mới có đủ ý thức, có trí tuệ hiểu được lời dạy cao siêu màu nhiệm của Đức Phật. Những lời dạy này nhằm giúp cho con người chấm dứt sự đau khổ: Sanh, Già, Bệnh, Chết và thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. Hiểu được lời dạy này rất khó, nghĩa là phải hiểu cho đúng, hiểu không được lệch lạc.

Này quý thầy! Thời nay chúng ta hiểu Phật Pháp lệch lạc, phần nhiều tưởng giải những lời của Đức Phật, biến những lời dạy này, thay vì là những pháp môn thực hành trở thành một lý thuyết suông để trở thành một môn học. Do thế, chẳng có ai tu chứng quả A La Hán và được hoàn toàn giải thoát chấm dứt tái sanh luân hồi. Suốt bao nhiêu thế kỷ nay, Phật giáo đã có bao nhiêu người theo tu hành, thế mà chứng quả A La Hán thì chẳng có ai. Bởi vậy, được Pháp còn khó hơn là ở chỗ này. Hiểu đúng thì hành mới đúng; hiểu đúng thì tu mới có giải thoát. Hiểu sai thì hành sai; hành sai thì rơi vào những tà giáo ngoại đạo. Cụ thể quý thầy đã thấy, tu sĩ Phật giáo hiện giờ hành sai nên phá giới luật, sống đời như thế gian; mất hết phạm hạnh, làm mất uy tín của Phật Giáo; oai nghi tế hạnh không đủ. Vì thế “Được Pháp Còn Khó Hơn”.

Được thân người nhưng không có duyên với Phật Pháp, nên khó mà gặp được pháp chân chánh. Bằng chứng cụ thể quý thầy đã thấy hằng biết bao nhiêu kinh sách bày bán, và biết bao nhiêu thời thuyết pháp chùa nào đâu đâu cũng có. Vậy mà họ chẳng bao giờ được đọc và được đến chùa nghe thuyết pháp thì số người này cũng đông vô số kể, đó là cái khó “Được Pháp Còn Khó Hơn”.

(21:35) Có nhiều người được đọc kinh sách, được nghe thuyết giảng giáo lý của đạo Phật mà duyên không đủ để thực hành, thì số người này cũng đông vô số kể, đó là cái khó “Được Pháp Còn Khó Hơn”.

Có nhiều người được đọc kinh sách, được nghe thuyết giảng giáo lý của đạo Phật. Nhưng lạc vào đạo Phật phát triển theo hình thức triết lý học, tâm lý học, thần học, thì số người này cũng đông vô số kể, đó là cái khó “Được Pháp Còn Khó Hơn”.

Có nhiều người được đọc kinh sách và được nghe thuyết giảng giáo lý của đạo Phật, nhưng lại đi làm thầy cúng ma chay, cầu siêu, cầu an, thì số người này cũng đông vô số kể, đó là cái khó “Được Pháp Còn Khó Hơn”.

Có nhiều người được đọc kinh sách và được nghe thuyết giảng giáo lý của đạo Phật và được thực hành nhưng lại thiếu người có kinh nghiệm hướng dẫn, nên đã uổng phí một đời tu hành, thì số người này cũng đông vô số kể, đó là cái khó “Được Pháp Còn Khó Hơn”.

Có nhiều người được đọc kinh sách và được nghe thuyết giảng giáo lý phát triển bằng những tưởng giải của nhà học giả nên thực hành chẳng có kết quả, cái số này cũng đông vô số kể, đó là cái khó “Được Pháp Còn Khó Hơn.

Có nhiều người được đọc kinh sách, được nghe thuyết giảng giáo lý của đạo Phật, nhưng lại làm thầy bùa, thầy pháp, thầy coi ngày tốt xấu, thầy trừ tà ếm quỷ, trừ ma, thầy cúng sao cúng hạn, đó là một số người đông vô số kể, đó là cái khó “Được Pháp Còn Khó Hơn”.

(24:07) Có nhiều người được đọc kinh sách và được nghe thuyết giảng giáo lý chân chánh của đạo Phật, nhưng lại không có người có kinh nghiệm hướng dẫn nên thực hành sai, trở thành pháp môn của ngoại đạo, thì số người này cũng đông vô số kể, đó là cái khó “Được Pháp Còn Khó Hơn”.

Có nhiều người được đọc kinh sách và được nghe thuyết giảng giáo lý chân chánh của đạo Phật, nhưng không thực hành, chỉ học lý thuyết suông để cầu được cấp bằng cao học Phật học, thì số người này cũng đông vô số kể, đó là cái khó “Được Pháp Còn Khó Hơn”.

Có nhiều người được đọc kinh sách và được nghe thuyết giảng giáo lý chân chánh của đạo Phật. Và được thiện tri thức hướng dẫn, lại sinh tâm lười biếng, tu hành lơ là không tinh tấn, thì số người này cũng đông vô số kể, đó là cái khó “Được Pháp Còn Khó Hơn”.

Có nhiều người được đọc kinh sách và được nghe thuyết giảng giáo lý chân chánh của đạo Phật, và được sự hướng dẫn của thiện tri thức, nhưng thực hành theo ý muốn của mình, thì số người này cũng đông vô số kể, đó là cái khó “Được nghe Pháp Còn Khó Hơn”.

Có nhiều người được đọc kinh sách và được nghe thuyết giảng giáo lý chân chánh của đạo Phật, lại được thiện tri thức hướng dẫn, đầu tiên thì tinh tấn tu hành, sau lười biếng dần dần rồi bỏ cuộc, thì số người này cũng đông vô số kể, đó là cái khó “Được nghe Pháp Còn Khó Hơn”.

(26:25) Đức Phật thuật lại một câu chuyện Phật Pháp Khó Nghe”, để chúng ta suy ngẫm:

Một hôm, Đức Thế Tôn ngụ tại tịnh xá Kỳ Hoàn, có năm người đến xin Phật giảng pháp. Đức Phật hoan hỷ ân cần thuyết giảng cho họ nghe. Khi Đức Phật thuyết pháp, thì năm người này ngồi nghe pháp một cách lơ đãng. Một ông thì ngủ gục tới gục lui; một ông thì lấy tay gõ hoài trên mặt đất; một ông thì cứ loay hoay mãi một nhánh cây khô; còn một ông thì ngó nhìn lung tung trời, mây, rừng, núi. Chỉ còn lại có một ông ngồi nghe pháp chăm chú mà thôi.

Tôn giả A Nan đứng quạt hầu bên Phật, ngạc nhiên về những cử chỉ của năm ông khách xin nghe pháp. Nên khi họ vừa ra về, Ngài liền bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, thời pháp của Thế Tôn thuyết như sấm rền vang trong không trung mà chỉ có một người chăm chú nghe mà thôi, còn mấy ông kia thì lơ đãng. Bạch Đức Thế Tôn, tại sao vậy?

– Này A Nan, bộ ông tưởng giáo lý của Ta dễ nghe lắm sao?

– Bạch Đức Thế Tôn, chẳng lẽ Thế Tôn cho nó là khó nghe?.

– Đúng thế!

– Bạch Thế Tôn, tại sao?

(28:48) – Này A Nan, những người này trong vòng luân hồi đã trải qua nhiều kiếp chưa từng nghe đến tên Tam Bảo, huống là những pháp môn gì của Ta. Cho nên bấy giờ họ không thể thâm nhập giáo pháp của Ta được. Cuộc đời của họ ra vào sinh tử luân hồi vô tận. Họ từng nghe tiếng nói của súc sanh, của lòng tham, sân, si; của lòng tật đố ganh tỵ ngã mạn, cống cao; của lòng tham danh hiếu lợi. Hơn nữa, họ còn tiêu phí gần hết thời gian của kiếp sống trong việc ăn uống, ngủ nghỉ, vui chơi ca hát, bài bạc, rượu chè, hút xách. Vì thế họ còn đâu tâm trí để nghe lời dạy của Ta.

Đó chính là nguyên nhân Phật Pháp khó nghe. Bằng chứng quý thầy nhìn con người trong thế gian này, quý thầy phải hiểu rõ. Bởi vậy, “Được Thân Người Là Khó, Được Pháp Còn Khó Hơn”.

Này quý thầy! Quý thầy là người có đủ duyên với Phật Pháp. Hiện giờ quý thầy có được thân người, được nghe Phật Pháp chân chánh và còn được thiện tri thức hướng dẫn có kinh nghiệm. Cớ sao quý thầy bảo mình là hạng người hạ căn, trung căn? Quý thầy cứ suy nghĩ và xét lại xem, những lời Thầy đã dạy ở trên là một bằng chứng cụ thể.

(31:28) Hiện giờ trên thế giới này có rất nhiều tôn giáo khác nhau, và cũng có rất nhiều pháp môn tu hành khác nhau. Chỉ trong một Phật giáo cũng đã có nhiều pháp môn, nhưng chưa chắc đã là pháp môn chân chánh của Đức Phật. Người ta bảo rằng đạo Phật có 84.000 pháp môn. Vì pháp môn nhiều quá, nên chẳng ai tu chứng quả A La Hán. Và cũng vì pháp môn nhiều quá, nên chẳng có ai hành đúng Giới Luật của Đức Phật. Vì thế mà người tu sĩ đạo Phật hiện giờ đều phạm giới luật. Họ không thấy giới luật của Phật là chỗ nương tựa vững chắc cho họ. Họ không thấy giới luật của Phật là bậc thầy thanh tịnh của họ. Bởi vậy trong giai đoạn này, được pháp còn khó hơn, khó gấp trăm ngàn lần trong thời Đức Phật còn tại thế.

Trước kia, các bậc Tôn túc của chúng ta tu học đều theo giáo pháp Đại Thừa, chỉ vì các Ngài không đủ duyên gặp kinh tạng Pàli nguyên thủy. Họ chịu ảnh hưởng Thiền Đông Độ của người Trung Hoa và kinh sách Đại Thừa. Họ cho kinh tạng A Hàm là kinh điển Tiểu Thừa. Vì thế, các Ngài xem thường và coi rẻ, chỉ học cho biết mà thôi. Còn thực hành để tu thì họ theo giáo pháp Đại Thừa; tự cho đó là một pháp môn tối thượng. Nên biết bao nhiêu thế kỷ nay, từ ngày Đức Phật nhập Niết Bàn, cách năm trăm năm sau chẳng còn ai tu chứng quả A La Hán, chỉ toàn học lý thuyết suông.

(34:44) Hôm nay chúng ta may mắn hơn nhiều, hơn người xưa nhiều: sinh ra được làm người, được gặp kinh tạng Nguyên Thủy là kinh từ kim khẩu Phật đã thuyết. Nhưng biết rằng trải qua một thời gian quá dài, nên có những bài kinh do người sau thêm vào, tuy vậy vẫn còn được chất Nguyên Thủy của nó. Kinh này được dịch từ tiếng Pàli sang tiếng mẹ đẻ, do Hòa thượng Minh Châu người Việt Nam, một học giả tài ba, một nhà trí thức uyên bác đã làm công tác phật sự này. Do đó, chúng ta gặp được Pháp chân chánh của Phật đọc bằng tiếng mẹ đẻ, nhờ thế chúng ta dễ hiểu vô cùng.

Này quý thầy! Cớ sao chúng ta lại dựa vào những lý luận của kẻ lười biếng để làm mất sự tu hành quý giá của chúng ta. Chúng ta lại còn nghe theo những lời cống cao ngạo mạn của kẻ ngông cuồng, cho rằng lời dạy chân chánh của Đức Phật là Tiểu Thừa, để cho người đời sau theo đó mà lầm lạc. Rồi lại xem thường Phật Pháp chân chánh và ném bỏ những giáo lý chân chánh. Và chạy theo và ca ngợi những pháp môn mà không phải là Phật Pháp. Dịp may ít có, nếu chúng ta không tỉnh táo, dễ bị lường gạt bởi những danh từ rỗng và những lý thuyết suông, bỏ lỡ việc tu hành chân chánh trong một thời điểm tốt đẹp.

Này quý thầy! Đây là một sự hy hữu trong thời điểm sinh ra làm người, lớn lên đủ duyên với Phật Pháp. Do đó, chúng ta mới có được như ngày hôm nay.

(37:43) Đời người sinh ra được gặp Phật Pháp là một hy hữu ít có. Đời người sinh ra được gặp pháp chân chánh là một hy hữu ít có. Bởi sinh ra làm người mà gặp được Phật hoặc chân pháp thì chắc chắn chúng ta sẽ vượt ra khỏi tam giới và sáu nẻo luân hồi.

Một lần nữa, chúng ta tự xét thấy mình có đủ những duyên may mắn sinh trong thời điểm này:

  1. Có được thân người.

  2. Có được Phật Pháp chân chánh.

  3. Có được thiện tri thức hướng dẫn có kinh nghiệm.

Do những điều nhận xét trên đây, chúng ta xác quyết những bậc thượng căn không phải đâu xa, mà chính chúng ta. Lời Phật dạy đã rõ ràng, “Được Thân Là Khó”, “Được Nghe Pháp Chân Chánh Còn Khó Hơn”, thế mà chúng ta đã hội đủ. Vậy chúng ta hãy vui mừng, không còn ngờ vực gì nữa. Chúng ta là những người có hữu duyên, có đầy đủ phước báo tu hành giải thoát.

Tại sao chúng ta lại bỏ những phước báo này, để đi tìm cái gì hơn? Ở đây quý thầy cần phải xét cho kỹ: “hạ, trung, thượng căn” là những lý luận của kẻ thối chuyển đạo tâm, muốn tìm cách sống lợi lưỡng trong dục lạc thế gian bằng những chiếc áo tu hành. Nên dùng những ngôn ngữ để che đậy những lỗi lầm và tính lười biếng của mình.

Thầy xin nhắc lại một lần nữa: “Được Thân Người Là Khó”. Nhưng quý thầy phải biết thân người sống đời quá ngắn ngủi. Thân này nay còn mai mất như bóng câu cửa sổ, như phù vân trước gió, như hoa phù dung sớm nở tối tàn. Thế chúng ta lại ngu si ham mê dục lạc thế gian, chạy theo cái vòng đau khổ phiền lụy luẩn quẩn này, để bỏ trôi qua những thời gian quý báu, không chịu khó tu hành, thật là quá uổng phí.

(39:52) Này quý thầy, còn gì nữa? Thân này vô thường, thân này là ổ bệnh tật, già suy và đau khổ. Quý thầy hãy tinh tấn tu hành, hãy đem hết sức lực bình sinh của mình để chiến đấu lại tâm dục vọng thế gian của quý thầy! Quý thầy hãy mạnh dạn, can đảm, gan dạ, đừng để tâm quý thầy đam mê, bị cám dỗ, bị lôi cuốn trong dục lạc của đời người! Quý thầy hãy chán chê và ngao ngán dục lạc thế gian!

Này quý thầy, còn gì nữa? Quý thầy hãy cố gắng vươn lên chiến đấu lại tâm ham muốn của quý thầy, để thoát ra khỏi vòng thế tục và chấm dứt tái sinh luân hồi! Chỉ một đời này, đừng nên kéo dài hơn nữa. Mất thân là khó được thân; mất thân là không còn chỗ để tu hành nữa. Hãy nhớ kỹ lời dạy này mà phải có ý chí quyết tâm lớn, phải có lòng sắt đá kiên cường vĩ đại thì mới có ngày giải thoát được cảnh khổ đau của đời người. Chỉ có thân này tu hành mới chấm dứt được đường sanh tử luân hồi.

Này quý thầy! Danh lợi có gì đâu, quý thầy hãy bỏ xuống đi, bỏ xuống đi!

Hãy xét kiếp người mà bỏ xuống đi!

Hãy xét sự đau khổ của đời người mà hãy bỏ xuống đi!

Hãy xét lại sự luân hồi tái sinh mãi mãi không bao giờ dứt mà hãy bỏ xuống đi!

Hãy xét lại những dục lạc thế gian toàn giả dối và đau khổ mà hãy bỏ xuống đi!

Rồi đây, quý thầy đem hết nghị lực và cả sức mạnh tinh thần bình sinh của mình, tiến lên thực hiện những gì Thầy đã dạy. Đừng làm sai một ly hào nào, quý thầy sẽ đạt được những sự giải thoát nơi thân và tâm của quý thầy bằng cách quý thầy chứng nghiệm.

(41:43) Đây là một câu chuyện chết bất ngờ, hầu hết trong đời sống hàng ngày chúng ta cũng thường chứng kiến sự chết thình lình bất ngờ này:

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn ngự tại nước Xá Vệ. Có một thương gia giàu có chở hàng hóa đi bán, vừa đến thành Ba Na Nại, trời nhấp nhem tối. Ông ta phải dừng xe nghỉ tai bên dòng sông, chờ sáng để sang sông.

Đêm hôm ấy trời mưa như trút từ ngày này sang ngày khác, suốt bảy ngày đêm không ngớt, nước sông dâng cao, đường sá lầy lội. Nhà buôn ấy tự nghĩ: “Trong chuyến buôn này, ta phải bán cho hết hàng hóa rồi mới về. Dù hết mùa mưa sang mùa đông, rồi đến mùa hạ ta cũng quyết tâm ở lại bán cho hết”. Lúc bấy giờ, Đức Phật đi khất thực trên đường phố ngang qua đoàn xe buôn, Ngài mỉm cười.

Thấy Đức Phật mỉm cười, tôn giả A nan hỏi lý do.

Đức Phật đáp:

– Này A Nan, ông có thấy vị thương gia kia không?

– Bạch đức Thế Tôn, con có thấy.

– Đời sống của ông ta sắp hết rồi, vậy mà ông ta còn dự định ngụ tại đây hết mùa này sang mùa khác để bán hàng.

– Bạch Thế Tôn, ông ấy sắp chết sao?

– Này A Nan, chỉ bảy ngày nữa ông ta sẽ chết.

– Bạch Thế Tôn, như vậy con sẽ báo cho ông ta biết.

– Được, ông cứ đi đi!

Liền đó, tôn giả A Nan đến chỗ vị thương gia khất thực. Vị thương gia ấy cung kính cúng dường thức ăn để cho Ngài.

Tôn giả hỏi:

– Ông định ở đây bao lâu?

– Bạch Tôn giả, con định ở đây suốt năm; bao giờ bán hàng xong con mới về.

– Này cư sĩ, ông nên biết đời người thật ngắn ngủi, không biết sẽ chết vào lúc nào.

Vị thương gia ngạc nhiên hỏi: “Sao, bộ con sắp chết?”.

Ông A nan điềm nhiên đáp: “Phải đó cư sĩ, ông chỉ còn có bảy ngày nữa thôi”.

Quả đúng bảy ngày, vị thương gia cảm thấy nhức đầu và đi nằm, chẳng bao lâu chết.

Do nhân duyên này, Đức Phật nói kệ sách tấn chúng ta trên đường tu hành:

“Quý thầy hãy nhớ lấy
Hãy tinh cần nỗ lực
Làm những gì cần làm
Trong hiện tại mà thôi
Đừng để ngày hôm mai
Vì ngày mai ai biết
Ai cũng đều bất lực
Trước lưỡi hái tử thần
Hạnh phúc cho kẻ nào
Chỉ biết sống hiện tại
Đó là người khôn ngoan

Đến đây, Thầy cũng xin nhắc lại quý thầy một lần nữa: “Được Thân Người Là Khó, Được Nghe Pháp Chân Chánh Còn Khó Hơn”. Vì thế, các thầy phải siêng năng tinh tấn, nỗ lực tu hành để ra khỏi nhà sanh tử; để thoát khỏi vòng đau khổ của thế gian và để chấm dứt tái sinh luân hồi. Nhưng với việc làm này không phải dễ.

Một lần nữa, Thầy nhắc nhở quý thầy phải bền chí, chắc dạ, kiên trì thì mới đạt được sự giải thoát chân thật của Đạo Phật.

Và bây giờ, quý thầy cũng nhớ lời sách tấn của thiền sư Hoàng Bá:

Thoát khỏi trần lao việc chẳng thường
Đầu dây nắm giữ vững lập trường
Chẳng phải một phen sương lạnh buốt
Hoa mai đâu khá dễ ngửi mùi hương

Buổi nói chuyện đến đây thầy xin chấm dứt, chúc quý thầy tiến tu cho đến ngày viên mãn, Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Trước khi ăn cơm trưa, Thầy có một vài điều cần khuyên nhắc quý thầy trên đường tu tập thiền định.

3- TU THIỀN SAI LỆCH SANH MA CHƯỚNG

(45:05) Vừa rồi có một vị tu sĩ Nam Tông đến thăm tu viện và có trình lại cho thầy biết, sư đã từng ở Thái Lan và Miến Điện tu tập thiền định. Sư là người Việt Nam quê ở Cần Thơ đã sang Mỹ và có chùa tại đó. Trước sư thọ giáo theo Bắc Tông, sau sư theo Nam Tông. Do nhân duyên này, sư sang Thái Lan và Miến Điện tu tập thiền và nghiên cứu thêm giáo lý của Đức Phật.

Sư rất thích tu tập thiền định, nhưng sư lại bị nội ma, khiến sư không còn tu tập được nữa. Sư muốn đi tìm một vị minh sư để giúp sư vượt qua ma chướng, nhưng chưa gặp được người có khả năng thiền định cao. Hôm nay diện kiến cùng Thầy, sư có ý lưu lại đây một tháng để nhờ Thầy giúp đỡ.

Thầy bảo: Tình hình hiện nay tu viện không được phép cho người lạ ở, nhất là sư ở Mỹ. Vậy tu tập thiền định trong cả nước cần phải lưu ý và cẩn thận. Đừng quá vội vàng nhập định sai lệch tạo thành ma chướng nội tâm, khiến cho Phật Pháp trở thành tà giáo ngoại đạo.

Bằng chứng hiện giờ, Phật Giáo đã trở thành tà giáo mà chẳng hề ai biết. Đó là do sự tu hành không đúng, nên bị nội ma sai khiến làm mất chánh đạo của đạo giải thoát.

Đây là bức thơ gửi cho Minh Tâm và Tâm Như, Thầy sẽ đọc lại cho quý thầy nghe. Quý thầy cố lắng tâm và nghe cho kỹ. Những nơi nào cần giải thích, Thầy sẽ giải thích thêm để quý thầy hiểu cho rõ ràng.

(47:43) Đây bức thư:

“Ngày 6 tháng 10 năm 1993,

Gửi Minh Tâm, Tâm Như, Mai và các cháu Tuyền - Nô.

Về thăm Thầy lần này không gặp, các con đừng buồn. Đây là năm thứ ba nhập thất của Thầy để hướng dẫn quý thầy. Nhưng nay chỉ còn lại một mình Mật Hạnh cùng đi được với Thầy, tất cả đều bỏ cuộc. Nghĩa là họ theo không kịp, phải chờ đợi khoá sau. Các con hãy chờ đợi, sau khi ra thất, Thầy sẽ trả lời tất cả những điều mà tại sao quý thầy bỏ cuộc?

Phải nói, đó là một tâm bệnh chung của các con, của những người tu theo Đạo Phật ngày nay. Theo Thầy nghĩ đường đi không khó, nhưng khó vì lòng người chưa dứt dục lạc thế gian. Sau khi Thầy và Mật Hạnh nhập xong các định, Thầy sẽ mở cửa thất ra và gặp lại các con. Các con hãy chờ đợi. Các con thường về thăm Thầy, các con đừng buồn!

Sự nhiếp tâm của Mai khá tốt, hơi thở của Mai khá ổn định, cần phải tu tập thêm một thời gian nữa cho hơi thở rất thuần. Nhớ kỹ, đừng để hơi thở lặng quá và cũng đừng thở mạnh quá. Dùng ý thức tu tập, đừng dùng tưởng thức.

Thầy nhắc lại: Các con nên dùng ý thức tu tập, đừng dùng tưởng thức. Các con nhớ! Nhớ kỹ, cần nhiếp tâm kỹ, không nên để vọng tưởng và các trạng thái tưởng ấm làm chìm hơi thở, dù chỉ là một giây, một chớp mắt cũng không được. Phải vận dụng cố gắng, cố gắng hơn.

(50:32) Mai! Con đang vận dụng hơi thở đúng cách, nhưng thường bị tưởng ấm làm mờ ý thức, nên vọng tưởng còn chưa sạch. Có lúc tâm có trạng thái an lạc nhẹ nhàng, nhưng đó là một trạng thái xúc tưởng hỷ lạc. Vì hiện giờ tâm con chưa có định, chỉ đạt được nhất niệm trong thời gian còn ngắn lắm. Khi nào tâm có định, tức là có nhất tâm thì sự an lạc đó mới chính là “định sanh hỷ lạc”. Còn bây giờ chỉ là ma lạc mà thôi.

Hiện giờ hoàn cảnh của Mai, Tâm Như chưa cho phép các con ly cuộc sống thế gian. Các con còn phải cố gắng tập luyện hơi thở và xả bỏ tâm thế gian nhiều hơn nữa. Nếu xả tâm thế gian không kỹ, khi nhiếp tâm ức chế được vọng tưởng, thì điều này là tai hại lớn cho các con và cho con đường tu hành thiền định của các con. Tại sao? Vì lúc này vọng tưởng không có, nên tưởng tâm con rất mạnh. Tưởng tâm của các con cũng do từ gốc dục mà có. Nếu người tu thiền định xả tâm dục chưa hết mà vội ức chế vọng tưởng, thì tưởng dục sẽ là ngủ ấm ma của các con. Các con nhớ kỹ chứ!

(52:41) Chỗ này Thầy xin nhắc lại một lần nữa: Nếu một người tu thiền định xả tâm dục chưa hết mà vội ức chế vọng tưởng, thì tưởng dục sẽ là ngũ ấm ma của các con. Con đường tu của các con sẽ lạc hướng và có nhiều tai nạn xảy ra nơi đây:

  • Thứ nhất, các con bị điên khùng, bị ma nhập.

  • Thứ hai, lạc vào hang quỷ và chết luôn trong đó. Đó là trường hợp của một nữ cư sĩ ở Nha Trang. Và có nhiều sư bên phái Khất Sĩ đã lạc vào nơi đây và chết luôn trong đó.

  • Thứ ba, tâm dục của các con trở lại mạnh mẽ hơn trước.

  • Thứ tư, nói chuyện như lên đồng nhập xác, tự xưng ông này bà kia. Mà các con thường gặp một số người tu hành bị rơi vào trạng thái thứ tư này. Mà hầu hết mọi người đều gặp số tu sĩ này.

  • Thứ năm, có chút ít thần thông, biết chuyện quá khứ vị lai, từ đó tâm sanh ngã mạn cống cao, xem thế gian này mọi người không còn ai hơn mình. Như có một vài vị tự xưng giáo chủ, giáo chủ này hoặc giáo chủ kia.

  • Thứ sáu, tâm danh lợi phát triển, ham thích chùa to tháp lớn. Bằng chứng điều này quý hoà thượng của chúng ta đều gặp phải.

  • Thứ bảy, tưởng giải siêu việt, làm thơ, làm văn, viết kinh, dịch sách rất hay. Đó là trường hợp mà các bậc tôn túc của chúng ta gặp phải.

  • (55:18) Thứ tám, phá giới làm việc bất tịnh. Đó là trường hợp mà các bậc thầy của chúng ta cũng đang gặp phải.

  • Thứ chín, thích tranh luận cao thấp hơn thua, thường nêu cái của người khác, khoe cái hay của mình. Đó là một số tu sĩ thiền thời nay mà chúng ta đều thấy.

  • Thứ mười, thích ăn uống lặt vặt như người tầm thường thế gian. Điều này chúng ta cũng thường gặp trong các chùa.

  • Thứ mười một, thích ăn mặc sang đẹp, chải chuốt, thường soi gương làm đẹp. Điều này đâu đâu chắc cũng có, chùa nào cũng có.

  • Thứ mười hai, ngồi thiền lim dim nửa tỉnh nửa mê, từ ngày này sang ngày khác. Đó là trong các thiền viện mà chúng ta đã gặp.

  • Thứ mười ba, ngồi thiền thường thấy cảnh giới an lạc, thích thú; thường thấy tiên phật và các tổ. Đó là những người tu thiền bị lạc vào thứ mười ba này.

  • Thứ mười bốn, ngồi thiền thường thấy cảnh giới sợ hãi ghê tởm, thấy ác quỷ, ác ma, thú dữ như nhà sư Việt Nam có chùa bên Mỹ vừa gặp Thầy.

  • (57:32) Thứ mười lăm, ngồi thiền thấy thần nhãn, như trước đây Thầy có lần đã gặp.

  • Thứ mười sáu, ngồi thiền thấy ánh sáng hào quang. Trước đây Thầy cũng thấy điều này, và sau này Mật Hạnh cũng gặp điều này.

  • Thứ mười bảy, ngồi thiền thấy mình bay lên trên hư không. Điều này Thầy cũng đã gặp.

  • Thứ mười tám, ngồi thiền thấy các tổ về truyền tâm ấn và ấn chứng báo tin. Đó là sư cô Thanh Hải cùng một số tu sĩ thiền hiện giờ.

  • Thứ mười chín, ngồi thiền thấy mình xưa là vị tổ này, vị tổ khác.

  • Thứ hai mươi, ngồi thiền như người ngồi trong hang vị lim dim, chẳng mê chẳng tỉnh, ngủ chẳng ngủ, thức chẳng thức, gục tới gục lui như người say rượu. Đây là trường hợp Thầy đã gặp trong các thiền viện.

(58:52) Đây Thầy chỉ kể sơ hai mươi điều ma chướng mà người tu thiền sai lệch thường gặp phải. Và còn biết bao nhiêu trạng thái thiền tà làm mất ý thức, trở thành điên khùng, làm mất giá trị con người. Do lạc vào ma chướng này mà người thời nay tu hành không nhập được định, không chứng quả A-la-hán; không làm chủ thân tâm và sanh tử; không chấm dứt tái sinh luân hồi cũng từ chỗ lạc nẻo này. Có người cho là chứng đắc, chứ họ đâu biết rằng đó là tu sai lệch vào nẻo định tà. Bởi không tu giới luật, không chịu xả bỏ tâm ham muốn dục lạc của mình. Trước khi đi tu mà không có một tâm niệm chán chê, chán ngán dục lạc thế gian thì các con phải biết không bao giờ đắc được thiền định và trí tuệ giải thoát của Phật.

(01:00:18) Cũng chính nơi đây, người thời nay tu hành đều bỏ cuộc, trở về với đời sống thế gian với nhiều hình thức khác nhau để làm lại cuộc đời. Có người lấy con đường tà giáo ngoại đạo này để lường gạt, bịp người bằng chiếc áo tu hành. Tu hành nếu không gặp người có kinh nghiệm chứng quả giải thoát A-la-hán hướng dẫn nên tu đến đây biến Phật Giáo thành tà giáo; hoặc biến Phật Giáo thành môn học; hoặc biến Phật Giáo thành một thứ triết lý kỳ đặc; hoặc biến Phật Giáo thành thần giáo.

Bằng chứng các con đã nhận thấy Phật Giáo hiện giờ quá rõ ràng mà Thầy đã kể ở trên. Vậy các con muốn tu theo Phật Giáo phải cẩn thận và cẩn thận hơn, để không uổng phí một đời tu hành, và sẽ không bị người khác lường gạt.

Các con hãy nhìn xem, những gì của Phật Giáo chân chính đã bị xô ngã và dẹp bỏ, nên thời nay có biết bao nhiêu người tu hành theo Đạo Phật, nhưng cuối cùng có được mấy người được những gì? Hay chỉ là một số học thứ giáo lý suông của bao nhiêu người thêu dệt, thêm thắt vào hoặc giải thích một cách sai lệch. Cho nên, họ sống đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo, chỉ toàn chạy theo cuộc sống danh và lợi thế gian. Và rồi chỉ để hưởng thụ cá nhân của mình.”

4- PHÁP TU ĐỂ NHẬP ĐỊNH AN TOÀN

(01:02:51) “Nếu các con tu tập hơi thở kỹ càng, xả bỏ tâm dục lạc thế gian rốt ráo thì đến đây các con chỉ cần giai đoạn nữa mà thôi. Ly thế gian sống độc cư nhiếp tâm liên tục trong hơi thở mà các con đã từng tập luyện thuần thục.

Chỗ này thầy nhắc lại một lần nữa: Ly thế gian sống độc cư, nhiếp tâm liên tục trong hơi thở mà các con đã từng tập luyện thuần thục. Bấy giờ các con sẽ nhập định dễ dàng, một thứ định rất an toàn, không có ma chướng, cứ thẳng lối đó mà vào không khó khăn gì. Tại sao vậy?

Tại vì các con tu đúng, tu có căn bản. Nghĩa là các con tập tu từ Giới đến Định và Tuệ, đâu đâu thầy cũng vạch ra một lối tu quá rõ ràng. Từ chỗ dễ các con tu được đến chỗ khó khăn cao hơn, các con không làm được, rồi sẽ làm được. Từ diệt những ham muốn dục lạc tầm thường, đến diệt những ham muốn sâu sắc của tâm ái dục bằng con đường giới luật mà thầy đã vạch ra cách tu. Khi tu giới luật, diệt sạch ma ngoại cảnh, thì khi tu thiền định mới diệt sạch được ma nội tâm. Nếu không tu đúng như lời dạy của thầy, ma ngoại cảnh sẽ cùng với ma nội tâm quật các con ngã trên đường giải thoát, mà không bao giờ đạt được đến đích.

(01:05:09) Chỗ này Thầy xin nhắc lại các con một lần nữa: Khi tu giới luật phải diệt sạch ma ngoại cảnh, thì khi tu thiền định mới diệt sạch được ma nội tâm. Nếu không tu đúng như lời dạy của Thầy, ma ngoại cảnh sẽ cùng ma nội tâm hợp nhau Quật ngã các con trên đường giải thoát mà không bao giờ đạt đến đích được. Nếu không có sự quyết định cho một đời tu hành thì Mai, Tâm Như, các con sẽ mãi mãi vẫn còn đứng ngoài cổng. Đến giai đoạn này, các con phải hiểu, đó là giai đoạn cực kỳ quan trọng và quyết định sự (lạm dụng…​..) sáu trần, sáu căn và sáu thức. Nếu không được như vậy thì sự tu hành của các con chỉ còn lượm lặt những lợi ích nhỏ nhoi mà thôi.

Giai đoạn này là giai đoạn nhập định, nếu không sống độc cư, không sống cô đơn một mình thì:

  • Điều thứ nhất khó mà hộ trì và bảo vệ tâm các con được.

  • Điều thứ hai, khó mà tránh các duyên bên ngoài.

  • Điều thứ ba, khó mà giữ khẩu nghiệp thanh tịnh.

  • Điều thứ tư, khó mà nhiếp tâm liên tục trong hơi thở.

  • Điều thứ năm, khó mà nhìn tâm…​như vách đá.

  • Điều thứ sáu, khó mà phá các ma chướng nội thân.

  • Điều thứ bảy, khó mà vượt qua hơi thở.

  • Điều thứ tám, khó mà phá tưởng ấm.

  • Điều thứ chín, khó mà phá được thọ ấm.

  • Điều thứ mười, khó mà có tâm thanh tịnh.

  • Điều thứ mười một, khó mà có tâm tam minh.

  • Điều thứ mười hai, khó mà có trí tuệ giải thoát.

(01:07:12) Nếu các con tạo đủ điều kiện và sống độc cư được thì các con hộ trì bảo vệ tâm các con được. Hộ trì bảo vệ tâm các con được thì các con tránh các duyên bên ngoài được. Tránh các duyên bên ngoài được thì các con giữ được khẩu nghiệp thanh tịnh. Giữ gìn được khẩu nghiệp thanh tịnh thì nhiếp tâm liên tục trong hơi thở được. Nhiếp tâm liên tục trong hơi thở được thì nhìn tâm như vách đá được. Nhìn tâm như vách đá được thì phá được các ma chướng nội thân. Phá được các ma chướng nội tâm thì vượt qua hơi thở được. Vượt qua hơi thở được thì phá tưởng ấm được. Phá tưởng ấm được thì phá thọ ấm được. Phá thọ ấm được thì tâm mới có thanh tịnh. Tâm có thanh tịnh thì tâm mới có nhất tâm. Tâm có nhất tâm thì tâm nhập định. Tâm nhập định là tâm đoạn dục. Tâm đoạn dục là tâm lắng trong. Tâm lắng trong là tâm tam minh. Tâm tam minh là tâm giải thoát. Đến đây công đức tu hành đã hoàn mãn.

Nói thì dễ, nhưng tu tập rất khó. Các con đừng tưởng sự tu hành theo Đạo Phật là đơn giản, là dễ dàng, như các tôn giáo khác. Vì nó khó và hiếm người tu được, nên nó có một giá trị cao tuyệt. Sự tu hành theo Đạo Phật, các con cần để ý chỗ này. Hễ cái này tu được, cái kia mới tu được thì cái này tu chưa xong thì cái kia không bao giờ tu xong.

Ví dụ, một người tu giới luật mà giới luật chưa xong, vội vàng tu thiền định, thì thiền định ấy là thiền định tà, hoặc không bao giờ đạt đến. Bởi tu được cái này thì mới tu được cái kia, nếu cái này tu chưa được thì cái kia tu chưa được. Đây là một chuỗi dài của pháp môn GIỚI - ĐỊNH - TUỆ trong một quá trình tu tập từ dễ đến khó. Nếu ai tu ngang xương thì chẳng bao giờ nhập định được và chẳng bao giờ có giải thoát được, làm chủ sinh tử chấm dứt tái sanh luân hồi được. Biết khó như vậy, nhưng các con yên tâm, sự tu hành của các con có Thầy ở một bên.

Các con hãy nhìn lại gương hạnh của người xưa tu hành: Bồ-đề-đạt-Ma chín năm nhìn vách đá; Diệu Cao Phong Thiền sư 30 năm nhìn tâm không rời một phút, ngoại trừ hai thời cơm cháo; Đức Thích Ca Mâu Ni sống sáu năm khổ hạnh chưa từng ai sống được; ngài Đại An mười hai năm trong thất, mỗi cây hương tàn qua mà chưa nhiếp phục được tâm thì ngài rơi lệ.”

5- TU HÀNH CẦN BỀN CHÍ VÀ QUYẾT TÂM CAO

(01:10:00) Tại sao tu hành khó quá vậy?

Đây quý thầy nghe tổ Hoàng Bá sách tấn. trên đường tu tập, để chúng ta thấy rằng con đường tu không phải dễ. “Chẳng phải một phen sương lạnh buốt, hoa mai đâu khả dễ ngửi mùi hương”. Nếu trên đường tu tập mà quý thầy chỉ tu cầm chừng cho qua ngày tháng, thì dù cả trăm ngàn đời cũng chẳng thấy đạo. Bởi tu hành là phải đem hết sức tận cùng mà tu tập thì mới mong thấy được đạo. Nếu cho rằng tu là dễ thì sao Hoàng Bá lại bảo chẳng phải sương “một phen sương lạnh buốt”.

Trong tu viện Thầy đã chứng kiến thực tế, mới khép quý thầy vào ăn ngày một bữa, chỉ trong ba ngày là quý thầy đã kêu chóng mặt, mệt nhọc, thiếu dưỡng chất và không thể tu hành được nữa. Xin thầy cho tập ăn từ từ và cuối cùng ăn phải ba bữa, sáng tiểu thực, trưa ăn cơm chánh, chiều bún bò hoặc sữa. Đời sống tu hành này là đời sống của thiền Đông Độ, nó không phải là thiền của Đạo Phật, vì Đạo Phật ăn ngày một bữa mà thôi.

Đến khi Thầy khép giờ giấc công phu tu hành thì quý thầy lại bị hôn trầm thùy miên tấn công. Bây giờ, mọi người ngồi nghẻo cổ mà ngủ hoặc gục tới gục lui cho hết giờ. Lại có người lén vào thất nằm ngủ cho thỏa mãn sự ham ngủ của họ. Nhìn thấy cảnh này Thầy đã hiểu ngay, những người nhập thất một mình là để ở trong thất ăn và ngủ. Đến khi ra thất cơ thể mập như con heo và da trắng đỏ như cô gái đương xuân. Nhìn thấy như vậy, mọi người thường tấm tắc khen ngợi, người tu hành thật là tướng hảo quang minh. Mập, béo, trắng đỏ, thật là người đắc thiền thành Phật mới có tướng tốt như vậy. Quý thầy phải biết tướng tốt đó là tướng tốt của người thế gian, tướng tốt của ăn và ngủ nhiều. Riêng chúng tôi có kinh nghiệm, tu hành trong Đạo Phật, theo tinh thần giải thoát của Đạo Phật thì một người tu hành phải làm chủ cái ăn cái ngủ của mình. Mà đã là chủ cái ăn cái ngủ thì không thể nào ăn ngủ phi thời. Mà không ăn ngủ phi thời làm sao mà có cơ thể mập được? Giới luật của Đạo Phật được đặt ra là để tu tập làm chủ cái ăn cái ngủ đúng giờ, đúng giấc.

(01:13:02) Vương Bột là một vị quan tuần phủ trong, nghe trong phủ ngài có một vị thiền sư tu chứng đạo. Ngài đến thăm và vấn đạo, khi thấy thiền sư Trí Thường, ngài liền nói thấy không bằng nghe. Quả đúng như vậy, khi nghe người ta đồn Trí Thường chứng đạo, ngài cứ nghĩ Trí Thường sẽ là tướng hảo quang minh như trong kinh Đại Thừa thường diễn tả. Đến khi gặp thiền sư, chỉ thấy còn là một bộ xương gầy ốm, giống như một con khỉ già, chẳng có tướng hảo quang minh gì hết. Đó là một ông già ốm nhom chỉ da bọc xương mà thôi. Bởi vừa chợt thấy thiền sư thì bao nhiêu sự tưởng tượng đẹp đẽ trong đầu của ngài như trong kinh sách Đại Thừa đã dạy đã đổ tan nát.

Ngài thất vọng, nên thốt nên lời “Thấy không bằng nghe, nghe thì sao đẹp đẽ quá chừng, nghe thì cao siêu quá độ, thế mà thấy thì chẳng ra gì”. Mộng tưởng đã đổ vỡ, ông muốn lui bước trở về mà không cần gặp.

Nhưng Trí Thường bảo “đừng khinh mắt chê tai, đừng khinh mắt khen tai”.

Do câu này Vương Bột lưu lại và sau này trở thành đệ tử của ngài. Bởi tu hành quý vị không cố gắng, không gan dạ, không lìa bỏ dục lạc, lợi dưỡng thế gian thì không bao giờ thấy đạo. Mà nếu xa lìa rời bỏ dục lạc thế gian thì cơ thể của quý vị chỉ còn da bọc xương mà thôi. Nếu máu trong thân của quý vị chưa khô, xương trong thân của quý vị chưa nát thì đạo kia quý vị chưa thấy được. Con đường tu giải thoát là phải vất vả khổ sở, là phải bền chí chắc dạ, là phải dũng cảm gan lỳ, xem thân này nhẹ như lông hồng, xem cái chết như sợi chỉ mảnh treo chuông. Nếu quý vị còn tiếc thân này, Thầy e rằng quý vị khó mà đến Tây phương. Bởi “Thoát khỏi trần lao việc chẳng thường”. Việc ra khỏi sanh tử chấm dứt tại sinh luân hồi đâu phải việc thường. Việc mà hễ ai muốn làm là làm được thì đâu phải là việc chẳng thường.

(01:16:06) Thầy thông cảm với quý thầy, việc làm này không phải đòi hỏi ở người phi thường, mà chỉ đòi hỏi ở người bền chí và có sự quyết tâm cao. Việc làm này cũng khó, không dễ. Nếu ai lười biếng thì khó, còn ngược lại siêng năng tinh tấn thì sớm muộn gì cũng thành tựu. Nếu khó thì không ai làm được, còn nếu bảo rằng dễ thì sao mọi người làm không được? Khó dễ chính ở chỗ của quý thầy có thật dạ tu hành hay không? Có quyết tâm tìm sự giải thoát cho chính mình hay không? Có thấy trần lao này đầy đau khổ hay không? Nếu quý thầy có thật dạ, có quyết tâm, có thấy cuộc đời này đầy đau khổ thì sự tu hành không khó.

6- THIỀN CÓ XUẤT NHẬP CỦA ĐẠO PHẬT

(1:16:56) Tu hành thiền định thì có xuất có nhập, nếu thiền không xuất không nhập là thiền không phải của đạo Phật. Tại sao vậy?

Vì lúc Đức Phật nhập Niết Bàn, ngài lần lượt nhập các thứ thiền và các thứ định. Từ sơ thiền đến phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Nhập xuất, nhập xuôi, nhập ngược đến ba lần, rồi ngài nhập tứ thiền và nhập vào Niết bàn. Quý thầy phải hiểu đó là con đường thiền của Đạo Phật, có lối vào, có lối ra hẳn hòi.

Con đường dạy tu thiền định của Thầy cũng vậy, tuy danh từ dùng có khác với Đức Phật, nhưng sự nhập các thiền, các định giống nhau.

Bắt đầu Thầy dạy các con nhập sổ tức. Sau khi tu tập pháp sổ tức thuần thục, Thầy dạy các con xả sổ tức nhập tuỳ tức. Sau khi nhập tuỳ tức thuần thục, Thầy dạy các con xả tuỳ tức nhập trạng thái hỉ lạc. Sau khi ở trạng thái hỉ lạc thấm nhuần thuần thục. Thầy dạy xã hỷ xả lạc thọ khổ nhập tâm thanh tịnh. Lối xuất nhập thiền này tương đương với bốn thiền của Phật.

Giai đoạn thứ nhất Thầy dạy, các con tu tập sống đúng giới luật và phạm hạnh của Đạo Phật. Muốn sống đúng giới luật và phạm hạnh của Đạo Phật thì các con phải tu tập cách sống đúng như Phật sống ngày xưa. Cách sống như Phật sống ngày xưa thì chia làm 3 phần: Một ăn, hai ngủ, ba sống độc cư.

Các con phải chiến đấu để sống đúng cách ăn, cách ngủ, cách độc cư. Thời gian tập súng đống ba hạnh này thì các con tập ổn định hơi thở bằng pháp môn sổ tức.

Sổ tức là một pháp môn tu tập tỉnh giác để các con đủ sức bình tĩnh trước mọi sự cám dỗ và mọi sự thử thách của cuộc đời. Nhờ sự bình tĩnh đó, các con sẽ giữ gìn giới luật nghiêm túc; và cũng nhờ đó mà các con cũng ly được tâm dục lạc thế gian; và cũng nhờ đó oai nghi tế hạnh của các con mới được tròn đủ.

Sổ tức là pháp môn trợ duyên cho các con tu tập giới luật thanh tịnh. Sổ tức là pháp môn giúp các con có đầy đủ ý tứ để hoàn toàn chiến thắng những ác pháp trong tâm các con. Sổ túc là pháp môn giúp các con đầy đủ ý tứ sáng suốt để xả bỏ tâm dục lạc ham muốn của các con. Sổ tức cũng là một pháp môn giúp các con ly dục lạc thế gian nhập sơ thiền. Nếu trên đường tu tập thiền định mà các con xem thường pháp môn sổ tức thì chẳng bao giờ các con tu tập giới luật thanh tịnh. Chẳng bao giờ chiến thắng những ác pháp trong tâm các con; và cũng chẳng bao giờ xả bỏ tâm dục lạc thế gian. Và các con cũng nên biết chẳng bao giờ nhập được sơ thiền.

(01:20:51) Đó là một pháp môn sơ khởi cho sự tu thiền định. Nếu người tu thiền định thiếu căn bản này, thì sự tu hành hoài công vô ích. Bởi nó quan trọng, nhưng mấy ai đã biết, vì thế tu sĩ hiện giờ đều phạm giới.

Bạch thầy! Pháp sổ tức của thầy có giống pháp sổ tức của ngài Thiên Thai Trí Khải Đại Sư hay không?”

Trưởng lão: Không! Pháp sổ tức của thầy Thiên Thai Trí Khải Đại Sư trong Lục Diệu pháp môn là pháp môn ức chế vọng tưởng đển đi đến chỉ. Còn pháp môn sổ tức của Thầy chỉ giúp các con tỉnh giác để các con bình tĩnh trước mọi sự việc và mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng. Để chiến thắng tâm của các con trong việc ác và những điều bất thiện. Để chiến thắng tâm của các con lìa xa những ham muốn dục lạc.

Sổ tức của Thầy là pháp môn tu tập tỉnh giác để thấy đúng một sự thật, tư duy đúng chánh pháp. Để giúp các con ly dục lạc thế gian, để thắng lại lòng ham muốn của các con và để cho các con nhập được sơ thiền.

Vì muốn nhập sơ thiền thì phải “ly dục sanh hỷ lạc” mới nhập được sơ thiền. Đó là một loại thiền thứ nhất trong bốn thứ thiền của Đạo Phật. Cách tu hành sổ tức của Thầy là giúp các con giữ gìn giới hạnh nghiêm túc, lìa xa ngũ dục lạc thế gian để nhập sơ thiền. Đến đây quý thầy có thấy lối dạy của Thầy có cách thức, có sự tu tập từ chỗ dễ đến chỗ khó, để đạt được thiền định của Đạo Phật, không làm lệch con đường Đạo Phật? Đây cũng là người Việt Nam đầu tiên hướng dẫn thiền Việt Nam, nhưng đạt được đích giải thoát của Đạo Phật từ gốc Nguyên Thuỷ.

Quý thầy cứ xét lại có đúng không? Khi giới luật nghiêm túc, sổ tức tỉnh giác thuần thục, phạm hạnh đầy đủ, tức là quý thầy đã ly được dục lạc thế gian. Ly được dục lạc thế gian, tức là nhập được sơ thiền.

(01:23:14) Đến đây, Thầy dạy các con xả sổ tức nhập tuỳ tức. Tu tập tuỳ tức một thời gian cho thuần thục và nhuần nhuyễn. Khi tuỳ tức thuần thục và nhuần nhuyễn, Thầy dạy các con xả hơi thở, xả tùy tức nhập chỉ, tức là diệt tầm diệt tứ, tương đương nhập thiền thứ hai.

“Trong nhị thiền của Đạo Phật, bạch Thầy! Chỉ này có tương ưng trong Lục Diệu Pháp Môn của ngài Trí Khải Đại Sư hay không?”

Không! “Chỉ” của ngài Trí Khải Đại Sư chỉ là ngưng hơi thở, giữ tâm lặng lẽ đến để rồi quán. “Chỉ” của Thầy là ngưng hơi thở, diệt tầm tứ để nhập hỷ lạc, tức là nhập nhị thiền, tương ưng với thiền thứ hai của Phật. Khi tu tập “chỉ” thuần thục và thấm nhuần thì các con xả hỷ, còn giữ lạc nên nhập tam thiền tương ưng với thiền thứ ba của Phật.

Đến đây Thầy dạy các con xả lạc xả khổ, phá tưởng diệt thọ. Làm chủ thân tâm tự tại trong sinh tử, muốn chết hồi nào là chết, muốn sống hồi nào là sống, không còn bị sợ ngăn ngại của sanh tử. Chấm dứt tái sanh luân hồi, nhập tâm thanh tịnh tức là nhập tứ thiền tương ưng với thiền thứ tư của Đạo Phật. Đến đây công đức tu hành đã hoàn mãn.

Tóm lại, để các con dễ nhận định, thiền của Thầy không phải là thiền Lục Diệu Pháp Môn. Thiền của Thầy là thiền của Đạo Phật có đầy đủ kinh nghiệm từ bản thân của Thầy để dẫn dắt các con tu hành vào con đường của Đạo Phật không sợ lạc lối. Và lối thực hành có quy củ, có cách thức để mọi người ai khéo tu tập là đạt được kết quả giải thoát ngay. Thiền của Thầy tu tập đi từ đức hạnh đến giải thoát, không cầu kỳ, rất đơn giản; không mê tín dị đoan; chính xác như khoa học; không dài dòng lý thuyết như kinh Đại Thừa; rất trực tiếp và thực tế trong cuộc sống hàng ngày.

(01:25:51) Thiền của Thầy có lối vào có lối ra giống như thiền của Đức Phật ngày xưa. Còn thiền không xuất không nhập là thiền của Đại Thừa, Thầy không bàn vấn đề này. Vì ai có duyên với pháp môn nào thì nên tu pháp môn ấy, đừng tranh luận hơn thua để rồi chẳng ích lợi gì cho cả hai. Ai tu sao được giải thoát là điều quý. Chúng ta người thời nay chỉ mới tu một tháng hai tháng ba tháng đến một năm hai năm ba năm là đã muốn thối tâm. Tu thì muốn dễ, thành phật thì muốn mau, giải thoát sinh tử thì cầu mong mà dục lạc thế gian chẳng bỏ. Sanh lão bệnh tử thì quá sợ hãi, nhưng tâm ái dục thì chẳng muốn lìa. Tu hành kiểu như vậy thì làm sao có giải thoát được, chấm dứt tái sinh luân hồi được?.

Tâm Như, Minh Tâm, Mai và các cháu hãy chờ đợi Thầy, khi nào ra thất Thầy sẽ giúp các con tu hành. Cháu Tuyền cố gắng học tập, thường tập tỉnh giác và mục đích giải thoát. Khi nào Thầy hướng dẫn Mật Hạnh tu xong sẽ ra thất dẫn dắt các con.

Một lần nữa các con đừng buồn, hãy chờ đợi Thầy, ngày nào đó thầy trò sẽ gặp nhau, phải không các con? Thăm và chúc các con vui tươi và mạnh khoẻ. Các con cố gắng hằng tu tập những gì Thầy đã dạy, đừng bỏ trôi qua những thời gian quý báu. Thầy của các con!”

7- TU TẬP ĐỂ THẮP LÊN NGỌN ĐUỐC PHẬT GIÁO

(01:27:24) Đến đây, quý thầy đã nghe xong bức thơ Thầy gửi cho gia đình Minh Tâm và Tâm Như. Các thầy để ý trong bức thơ này, con đường tu tập thiền định của Thầy là con đường thiền định của Việt Nam. Hay nói thẳng là con đường Phật Giáo Việt Nam, do chính người Việt Nam tu tập thiền định, làm sáng tỏ Phật Giáo, không bị ảnh hưởng của Phật Giáo thế giới, đang làm sai lệch con đường của Đạo Phật.

Vậy quý thầy đã rõ, đọc thiền sử 129 vị thiền sư Việt Nam đều bị ảnh hưởng thiền Trung Hoa, Nhật Bản và Tây Tạng, biến Phật Giáo Việt Nam thành một tôn giáo triết lý. Vì triết lý biến Phật Giáo thành một môn học để đào tạo những ông tiến sĩ Phật Giáo, điều này sai. Phật Giáo Việt Nam phải thực tu thực chứng, để chứng minh cho Phật Giáo thế giới thấy rằng Phật Giáo Việt Nam là một ánh đuốc sáng để cả thế giới cùng soi. Vậy quý thầy hãy cố gắng tu tập để thắp lên ngọn đuốc Phật Giáo, để làm ánh hào quang sáng chói huy hoàng, để làm cái gương tốt cho mọi người, và để xây dựng xã hội đạo đức tươi đẹp ở ngày mai.

Này quý thầy! Có gì quý hơn là lấy mình làm gương đạo đức, để xây dựng con người đạo đức, xã hội đạo đức, đất nước đạo đức. Đó là bổn phận của quý thầy, trách nhiệm của quý thầy, của mỗi con người đang theo Đạo Phật. Đừng chối bỏ bổn phận này, đừng trốn trách nhiệm này hỡi những người con Phật! Quý thầy hãy cùng Thầy nỗ lực tu hành, đừng sợ gian lao khó khăn nhọc nhằn, hãy chặt dạ bền lòng, bên quý thầy còn có Thầy. Đừng chùn bước hãy tiến bước, Thầy là người dẫn lối cho các con, Thầy cầm đuốc soi đường cho các con đi, các con không còn sợ sa hầm lọt hố. Tình dục mà chi, tiền bạc mà chi, danh lợi mà chi, để rồi trên khắp thế giới chiến tranh máu đổ, thịt tan.

Đến đây, Thầy xin chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay. Chúc quý thầy tinh tấn tu hành.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

HẾT BĂNG

Pháp Âm - 1994 - PHẬT MÔN BẢO HUẤN (TRỞ VỀ ĐẠO PHẬT)

1994 - PHẬT MÔN BẢO HUẤN (TRỞ VỀ ĐẠO PHẬT)

1994 - PHẬT MÔN BẢO HUẤN (TRỞ VỀ ĐẠO PHẬT) - PHẦN 1PHẦN 2

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Phật tử

1- TRỞ VỀ ĐẠO PHẬT

(0:03) Trưởng lão: Mời quý Phật tử ngồi xuống hết!

Trước khi nghe chúng tôi kể lại sự tu hành trong ba năm nhập thất, xin quý vị Phật tử cùng chúng tôi niệm danh hiệu Phật. Trước là để tưởng nhớ công ơn của Người đã chịu bao nhiêu gian khổ và còn phải dày công tu tập trên đường tìm chân lý giải thoát. Người đã chứng nghiệm được sự giải thoát nơi thân tâm của mình rồi đem dạy lại cho chúng ta. Nhờ thế ngày nay chúng ta mới có đường lối tu hành chân chính.

Bây giờ, quý Phật tử cùng chúng tôi chắp tay lên đồng niệm Phật ba lần:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Niệm Phật xong, quý Phật tử cùng chúng tôi hãy chắp tay lên, đem cả lòng thanh tịnh, không còn chút bợn nhơ của thế tục, kính cẩn chào nhau, đó là chúng ta những người con Phật, phải thể hiện đức hạnh trong muôn ngàn đức hạnh của Đạo Phật. Bắt đầu, quý Phật tử chắp tay lên mặt hướng về tượng Phật, cúi đầu chào nhau.

Hôm nay là ngày ra thất của chúng tôi sau ba năm nhập thất tu hành.

Kính thưa quý vị Phật tử! Quý vị đã không ngại đường xá xa xôi, dành những thì giờ quý báu, cùng bỏ những công ăn việc làm để huân tập về Tu Viện Chơn Như với lòng chân thành ngưỡng mộ sự tu hành của chúng tôi và cũng để tìm hiểu pháp môn tu hành của chúng tôi. Sự tu hành của chúng tôi có kết quả hay không? Kết quả ấy có lợi ích thiết thực giải thoát cho đời sống con người hay không? Sự giải thoát có phải của Đạo Phật hay không? Để trả lời những câu hỏi thắc mắc trên đây của quý vị, tức là kể lại sự tu hành của chúng tôi và chính là giải được mối nghi trong tâm của quý vị.

(03:24) Kính thưa quý vị Phật tử! Từ lâu quý vị đã hướng thân tâm của mình về Phật pháp, từng đi chùa lễ Phật, tụng kinh, bái sám; từng đi nghe thuyết giảng các kinh sách; từng để tâm nghiên cứu học hỏi giáo pháp của Đức Phật, với một lòng chân thành. Nhưng quý vị rất đau lòng và còn nghi ngờ Phật pháp vì mắt quý vị, tai quý vị đã nghe các bậc chân tu mà quý vị đã từng gặp trong cuộc đời của mình. Các vị ấy là những bậc Thầy của quý vị, đã từng hướng dẫn cho quý vị biết Phật pháp, biết tu học Phật pháp, từng chỉ dạy cho quý vị biết cách thức tu tập như: niệm Phật, niệm chú, tụng kinh, ăn chay, làm các điều lành và còn dạy cho quý vị tu tập thiền quán, xả tâm, tham thiền nhập định…​​ Mỗi vị đều đem hết khả năng tu học của mình chỉ dạy cho quý vị để quý vị đạt được sự giải thoát. Nhưng khi ra đi các vị ấy lại không giải thoát, phải chịu đau khổ trên giường bệnh, nhức nhối khổ sở trong các cơn đau, mệt mỏi trong khi thở chẳng ra hơi, hay lẫn lộn quên trước, quên sau khi tuổi già sức yếu.

Suốt cuộc đời quý vị Phật tử đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh trạng đau lòng của những Thầy mình, thì làm sao quý vị không nghi ngờ Phật pháp được? Ngược lại, những gì quý vị đã được học trong kinh sử nói về các Tổ, các Thiền sư tu như thế nào mà khi chết được tự tại, hay đây chỉ là huyền thoại để lừa bịp người sau chăng?

2- GIỚI, ĐỊNH, TUỆ

(05:46) Kính thưa quý vị Phật tử! Bây giờ chúng ta dừng lại chỗ này và trở lại vấn đề chính của buổi nói chuyện hôm nay. Rồi sau này chúng tôi sẽ trả lời những điều thắc mắc của quý vị qua bài pháp này.

Để trả lời câu hỏi thứ nhất, chúng tôi xin lặp lại câu hỏi: “Pháp môn tu hành của chúng tôi là Pháp môn nào?”

Kính thưa quý vị Phật tử! Chúng tôi tu hành theo pháp môn GIỚI, ĐỊNH, TUỆ của Đức Phật. Trước khi chưa tu, là một tăng sinh đang học Phật Pháp, chúng tôi đã từng học qua những lời di chúc của Đức Phật. Lời di chúc là lời dạy sau cùng của Đức Phật trước khi Ngài nhập Niết bàn. Lời di chúc thứ nhất Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, các con hãy lấy Giới Luật và Giáo Pháp của ta làm Thầy, làm chỗ nương tựa để tu hành vững chắc khi ta nhập Niết bàn”.

Lời dạy này chúng tôi ghi khắc mãi không quên và không bao giờ quên ông Thầy của chúng tôi là Giới Luật, là chỗ nương tựa vững chắc cho sự tu hành của chúng tôi.

Lời di chúc thứ hai Phật dạy: "Giới Luật còn là Phật còn tại thế, Giới Luật mất là Phật mất".

Lời dạy này hình ảnh Giới Luật là hình ảnh của Đức Phật, nên chúng tôi quyết tâm nghiêm khắc mình trong Giới Luật, không để vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Chúng tôi lấy đó làm giai đoạn tu hành thứ nhất của mình.

Lời di chúc thứ ba không lời, trước khi nhập vào Niết bàn, Đức Phật nhập từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền, nhập xuôi nhập ngược đến ba lần rồi mới chịu nhập Niết bàn.

(08:14) Kính thưa quý vị! Ở đây ý Phật muốn nhắc nhở người sau phải ráng dụng công tu tập thiền định này, đừng bao giờ tu tập thiền nào khác. Vì trong cuộc sống của chúng ta, trong thời Đức Phật cũng vậy và trong thời hiện giờ cũng vậy, biết bao nhiêu thứ thiền mà chẳng có thiền nào đưa chúng ta đến sự làm chủ và giải thoát được thân tâm, nhất là chấm dứt sự tái sanh luân hồi. Cho nên Phật chỉ định chỉ có thứ thiền này mới làm chủ được sanh tử, tự tại bỏ báo thân và chấm dứt được tái sanh luân hồi mà thôi. Vậy xin quý vị Phật tử hãy lưu ý chỗ này.

Khi nhập xuôi nhập ngược ba lần xong thì thì Đức Phật nhập Tứ Thiền xả bỏ báo thân nhập Niết bàn. Thể theo những lời di chúc này chúng tôi thực hiện tu tập ngày đêm không biết mỏi mệt, dù khi đau ốm quyết không bỏ giờ tu. Suốt ba năm trời trong thất chịu từng đắng cay gian khổ để chiến đấu với tập khí thói quen, tật xấu với nghiệp lực quá nặng nề, với tâm tham ái, dục vọng dẫy đầy. Nhiều khi chúng tôi tưởng chừng không thắng nổi, nhưng với sức bền lòng, ý chí kiên cường, gan dạ, lòng dũng cảm quyết liệt, chúng tôi đã chiến thắng được thân tâm của mình và chứng nghiệm được sự giải thoát của Đạo Phật.

3- MỤC ĐÍCH GIẢI THOÁT

Để trả lời câu hỏi thứ hai, kính thưa quý vị, chúng tôi xin nhắc lại câu hỏi: “Sự tu hành của chúng tôi có kết quả như thế nào?”

(10:13) Kính thưa quý vị! Giới luật là pháp môn tu để giải thoát được đời sống của con người. Chúng tôi đã chứng nghiệm được điều này rất thực tế và cụ thể.

Ví dụ, trước kia chúng tôi ăn ngày ba bữa, bây giờ ăn ngày một bữa, không ăn uống lặt vặt phi thời gì hết, thân thì rất khỏe mạnh, ít bệnh tật, suốt ngày không lo ăn uống gì cả, ít vọng tưởng, ít ngủ. Đó là chúng tôi đã giải thoát được 2 bữa ăn và đầu óc ít nghĩ bậy bạ, tâm không ham muốn và không ham ngủ. Sự giải thoát chân thật cụ thể này thì quý vị không thể nào phủ nhận được. Cũng từ trong sự tu giới luật này chúng tôi đã tìm được giải thoát nhiều điều trong đời sống hàng ngày. Nhưng thì giờ có hạn không cho phép chúng tôi kể dông dài.

Kính thưa quý vị! Thiền định của Đạo Phật tử Sơ Thiền đến Tứ Thiền là những pháp môn giải thoát tự tại sanh tử, làm chủ đời sống thân chúng tôi bằng cách chứng nghiệm cũng rất cụ thể.

Ví dụ, chúng tôi nhập Tứ Thiền suốt một tuần lễ, nửa tháng hoặc một tháng, không ăn uống gì hết, không đi đại tiểu tiện, không có mệt nhọc, không có đau khổ và cũng không chết. Xuất định, chúng tôi cảm thấy nhẹ nhàng, an lạc. Đó là một bằng chứng rất cụ thể.

Sự tu hành của chúng tôi đã có giới luật, có Thiền Định nên chúng tôi phải có sự tỉnh giác cao độ. Vì thế chúng tôi phải có sự hiểu biết Vô Lậu. Sự hiểu biết Vô Lậu là trí tuệ của chúng tôi. Đến đây chúng tôi đã có đủ GIỚI - ĐỊNH - TUỆ, theo con đường tu tập của chúng tôi mà Đức Phật đã vạch ra chỉ dạy.

(13:06) Để trả lời câu hỏi thứ ba, kính thưa quý vị, chúng tôi xin lặp lại câu hỏi: “Kết quả ấy có lợi ích thiết thực, giải thoát cho đời người hay không?”

Sau ba năm nhập thất, không phải chỉ riêng có một mình tôi, mà còn có những người đang nhập thất với chúng tôi, ngoài ra có những người cư sĩ đang sống tại gia đình, cũng như cô Út, người phục vụ cơm nước nhà bếp ở đây và cháu Đào ở Phước Hải. Họ được nghe băng của chúng tôi, tự nghiêm khắc mình trong giới luật bằng ba hạnh: “Ăn, ngủ và độc cư”. Họ cũng đã chứng nghiệm được sự giải thoát, và đang chủ động diệt Tầm Tứ trong hơi thở tuỳ, để chuẩn bị sự nhập định phá thọ làm chủ thân tâm. Hiện giờ, chúng tôi chưa cho phép họ nhập định vì họ còn phải học thêm và sống đúng Giới Luật, Đức Hạnh giải thoát của Đạo Phật.

Tại sao? Vì Giới Luật, Đức Hạnh là pháp môn đầu tiên của Đạo Phật. Là bước đường đầu tiên đi vào con đường của Đạo Phật. Tóm lại, chúng tôi đã có những người chứng nghiệm được sự giải thoát chân thật. Dù bấy giờ đứng trước cuộc sống như thế nào, nghèo đói, bệnh tật, tử vong, chúng tôi chẳng hề nao núng. Chúng tôi không còn bị mọi chướng ngại hoặc bị cám dỗ bằng mọi hình thức nào và chẳng còn biết sợ hãi mọi điều gì. Chúng tôi đã biết rõ ràng.

4- PHẠM HẠNH

(15:12) Để trả lời câu hỏi thứ tư, kính thưa quý vị, chúng tôi xin lặp lại câu hỏi: “Sự giải thoát đó có phải của Đạo Phật hay không?”

Xin thưa quý vị, quý vị hãy vui lòng đọc lại các kinh điển của Đạo Phật rồi nghiệm xem đời sống của Đức Phật và đời sống của chúng tôi. Đời sống của Đức Phật:

  • Một: Ăn ngày một bữa không ăn uống lặt vặt.

  • Hai: Ngủ ít.

  • Ba: Không có của cải tài sản ngọc ngà châu báu tiền bạc, và cũng không có chùa to xinh đẹp.

  • Bốn: Chết dưới gốc cây.

Phần đời sống thứ nhất rất cụ thể, hiện giờ chúng tôi cũng sống như vậy: Không ăn uống lặt vặt, nhà ở bằng cây tầm vông, vách bằng liếp đan và nếu đủ duyên chúng tôi sẽ sống trong hang núi và cũng chết dưới gốc cây như Phật. Đó là lối sống của Đức Phật và lối sống của chúng tôi đều giống nhau. Quý vị không thể nào phủ nhận rằng chúng tôi sống và tu sai pháp Phật được.

Phần làm chủ thân thứ hai cũng rất cụ thể. Đức Phật tửyên bố trước mọi người còn ba tháng nữa Ta sẽ nhập Niết Bàn. Điều này Đức Phật đã giữ đúng lời hứa. Chúng tôi đã nhập được Tứ Thiền phá được thọ, cho nên chúng tôi cũng làm được những điều này khi chúng tôi muốn dứt bỏ báo thân.

(17:13) Kính thưa quý vị! Chúng tôi có sống và làm khác Đức Phật hay không? Ở đây, quý vị không thể nào viện một lý do gì bảo rằng chúng tôi tu sai pháp Phật được. Đức Phật đã làm được điều gì thì bây giờ chúng tôi cũng làm được như vậy. Tuy rằng chúng tôi không giảng Kinh thuyết pháp như các thầy khác nhưng chúng tôi thân giáo bằng hành động Thân, Khẩu, Ý; bằng sự sống của chúng tôi để hướng dẫn người qua kinh nghiệm bản thân của mình hơn là ngôn ngữ. Vì sự hướng dẫn này, theo chúng tôi nghĩ là thực tế và cụ thể hơn trên đường tu theo Đạo Phật. Chúng tôi tu hành như vậy, không còn sợ sai trái với Đạo Phật và không còn sợ mọi ảnh hưởng của các tôn giáo khác đang đồng hóa Đạo Phật.

Kính thưa quý vị Phật tử! Khi nghe chúng tôi nói đến đây thì quý vị nên nghỉ xả hơi một chút để ngồi suy ngẫm lại những gì chúng tôi đã nói ra đúng hay sai. Xin quý vị Phật tử nghiệm xem.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

5- GIỚI LUẬT LÀ MỘT VỊ THẦY ĐƯỢC ĐỨC PHẬT DI CHÚC

(19:01) Bây giờ chúng ta tiếp tục lại câu chuyện. Sau khi được trả lời những câu hỏi mà bấy lâu nay quý vị đã từng ôm ấp trong lòng, hằng chờ đợi đến ngày ra thất của chúng tôi. Nay quý vị đã được giải bày thông suốt. Nhưng chúng tôi biết chắc quý vị còn một điều muốn thưa hỏi, đó là: Con đường thiền Đông Độ mà Thầy chúng tôi (H.T.T.T) đã ra công triển khai và chấn hưng suốt 24 năm nay, một quá trình thời gian rất dài, nhìn lại trong đó có nhiều sự việc mà quý vị phải có một mối nghi trong tâm nhưng còn e ngại chưa dám hỏi chúng tôi. Chúng tôi hứa sẽ giải nghi cho quý vị nếu có đủ thì giờ, bằng không thì chúng ta phải chờ một dịp khác. Bây giờ chúng tôi xin trở lại vấn đề.

(20:23) Kính thưa quý vị Phật tử! Nãy giờ quý vị đã suy ngẫm những gì chúng tôi đã nói, chúng tôi xin nhắc lại quý vị đã biết ai là Thầy của quý vị, người đó sẽ đưa dắt quý vị trên đường tu theo Đạo Phật mà không hề sợ lạc lối. Chúng tôi xin hỏi quý vị một lần nữa: Thầy của quý vị là ai? Quý vị cứ thử trả lời xem.

Kính thưa quý vị! Nãy giờ quý vị không trả lời là vì quý vị còn dè dặt, để chúng tôi trả lời thay cho quý vị.

Xin thưa quý vị! Thầy của quý vị không phải là chúng tôi. Chúng tôi là những con người bằng xương, bằng thịt cũng giống như quý vị, chúng tôi cũng không được Đức Phật chỉ định làm người thừa kế dẫn dắt quý vị tu học theo Đạo Phật. Cho nên quý vị đừng nương tựa theo chúng tôi tu hành. Nhất là nương tựa theo chúng tôi tu hành sẽ có nhiều điều bất lợi và khó khăn cho quý vị:

1- Chúng tôi không phải là người thừa kế của Đạo Phật, vì thế chúng tôi không đủ niềm tin đối với quý vị. Khi quý vị bị một người nói xấu chúng tôi, cho chúng tôi tu hành không đúng Đạo Phật, thì chừng đó quý vị còn có đủ niềm tin đối với chúng tôi nữa chăng?

2- Thời điểm hiện giờ Phật giáo suy thoái. Người tu sĩ Phật giáo đắm danh ham lợi, lòng ganh tị nhỏ nhen ích kỷ hẹp hòi và tinh thần tị hiềm cao độ.

3- Pháp môn tu hành của Đạo Phật hiện giờ đã bị lẫn lộn nhiều pháp môn của ngoại đạo khó phân biệt tà chánh.

(23:13) 4- Các bậc Tôn túc đi trước tu hành sai, người sau không dám sửa đổi sợ Thầy Tổ buồn phiền. Thầy chúng tôi hoà thượng Thích Thanh Từ, tu thiền hòa thượng Thiển Hoa không vui.

5- Lòng người còn tham danh, đắm lợi, ham mê sắc dục không muốn xa lìa năm thứ dục lạc của thế gian. (danh, lợi, sắc, thực, thùy).

6- Đời người còn lạc hậu nặng lòng mê tín thường cầu khẩn bái lạy tụng kinh niệm chú lấy Đạo Phật làm chỗ tha lực nương tựa kinh hành, không tự lực cứu mình.

7- Ham mê thần thông, bùa chú linh hiển, tin chuyện quá khứ vị lai.

8- Lòng người hiện giờ thiếu thành thật, thường dối Thầy, dối Tổ, dối mình, dối người.

9- Tham danh học thức cao, chạy theo cấp bằng này, cấp bằng nọ.

10- Những bậc chân tu không xu hướng chính trị bên này hoặc bên kia đều bị chèn ép cô lập.

Do 10 điều trên đây, quý vị không nên theo chúng tôi tu hành, vì theo tu hành rất khó khăn cho quý vị và cho chúng tôi. Vả lại theo chúng tôi tu hành đông đảo chắc chắn sẽ để lại một trang sử chia rẽ Phật giáo không tốt đẹp. Xưa Huệ Khả bị giết, Lục Tổ Huệ Năng bị hành thích, gần đây Tổ Sư Minh Đăng Quang bị bắt cóc mất tích, ông Đạo nằm Nguyễn Văn Thế bị ám sát bắn chết tại chùa.

Kính thưa quý vị Phật tử! Người Thầy của quý vị không phải là chúng tôi mà chính Giới Luật. Giới Luật là người thừa kế của Đức Phật và đã được Đức Phật chỉ định trước giờ nhập Niết bàn. Chính chúng tôi tu học cũng từ ông Thầy Giới Luật mà có được như ngày hôm nay.

Vậy quý vị hãy trở về với ông Thầy Giới Luật của quý vị đi. Đừng đi tìm đâu xa, đừng nương tựa vào ai hết. Dù bất cứ ông Thầy nào, họ là những con mọt kinh sách, chẳng có một thứ kinh nghiệm gì trên đường tu tập. Họ chỉ nói bằng miệng họ mà cuộc sống tu hành chẳng có ra gì. Họ đâu biết rằng kinh sách hôm nay là do tam sao thất bổn, nghĩa là ba lần sao chép làm kinh mất gốc.

6- TĂNG, NI XEM NHẸ GIỚI LUẬT

(26:43) Kính thưa quý vị! Vả lại kinh sách còn do tưởng giải của người sau thêm bớt quá nhiều theo kiến thức hiểu biết của họ rồi cho rằng đúng, do đó họ đã làm lệch lạc con đường tu hành của Đạo Phật ở đời sau. Họ chẳng dám tu giới luật, lúc nào cũng tìm cách tránh né viện cớ này, cớ kia hoặc chạy theo con đường phá giới, phá oai nghi tế hạnh, đạo đức của Đạo Phật.

Tóm lại, Chỉ vì chẳng nghe ông Thầy Giới Luật nên tình trạng Phật giáo mới ra nông nỗi này. Họ dám bẻ vụn Giới Luật, biến Phật giáo thành Thần giáo, ông Phật thành ông Thần. Hiện giờ chùa là nơi để Phật tử cúng bái cầu siêu, cầu an, cầu tài, cầu lợi, xin xăm bói quẻ, cúng sao giải hạn, coi ngày tốt xấu, dựng vợ gả chồng …​Vì thế, chùa là nơi mê tín dị đoan. Họ dám bẻ hỏng Giới Luật, biến chùa thành nghĩa địa nhà mồ vì tư lợi nhỏ mọn cá nhân để Phật tử tới lui cúng bái và giỗ chạp làm tuần, làm tự cúng vong tiễn linh lúc nào cũng ồn náo biến thành nơi phục vụ mê tín cho những người Phật tử còn lạc hậu.

(28:40) Họ dám bẻ cổng giới luật và giáo pháp của Phật biến chùa thành khu du lịch để làm nơi ăn chơi của Phật tử, của khách tham quan du ngoạn. Bắt Tăng, Ni phục vụ cơm nước để được lòng, được sự cúng dường.

Họ dám bẻ cổng Giới Luật biến chùa thành chỗ tổ hợp buôn bán làm tương, làm chao, làm đủ mọi thứ nghề nghiệp, biến Tu sĩ thành công nhân sản xuất gia dụng v.v…​​ Còn đâu những thì giờ để tu hành, thật là phí uổng một đời người!

Họ dám bẻ cổng Giới Luật biến chùa thành cửa hàng ăn uống, bắt Ni chúng phục vụ chạy bàn, đi bán bánh theo bến xe, còn gì thể thống đạo đức của người tu.

Họ chỉ biết có tiền, có lợi mà không thấy việc làm của họ đúng hay sai; họ dám bẻ cổng Giới Luật biến chùa thành nông trại, tu sĩ thành nông dân để có miếng cơm manh áo hằng ngày không đúng cách người tu sĩ.

Họ dám bẻ cổng giới luật, biến nhà chùa thanh tịnh tu hành thành cơ quan làm việc từ thiện xã hội, nay kêu đoàn Phật tử này quyên góp tiền bạc và gia vật gia dụng đi cứu tế chỗ này, mai kêu đoàn Phật tử khác quyên góp tiền bạc và gia vật gia dụng đi cứu tế chỗ kia. Họ đâu biết rằng bổn phận của họ là lo giải quyết sanh tử trước mắt thì Phật giáo mới còn, chứ đâu phải làm việc này.

Họ dám bẻ cổng Giới Luật biến chùa thành Tuệ tĩnh đường, trạm y tế, bệnh viện, trạm xá, trường học, biến tu sĩ thành thầy thuốc ta, thuốc bắc, bác sĩ, y sĩ, dược sĩ, y tá, giáo viên,…​​ Khiến nơi tu hành mất hết vẻ tôn nghiêm thanh tịnh.

Họ dám bẻ cổng Giới Luật chuyên lo đào đất xây dựng chùa to tháp lớn, biến Tăng Ni thành lao công quanh năm suốt tháng lao động quần quật, còn sức đâu mà tu hành.

(31:23) Họ dám bẻ cổng Giới Luật đi quyên góp tiền Phật tử xây chùa to tháp lớn như đền đài, lầu các của các vua chúa và tạo cây cảnh vườn tược đẹp đẽ để quyến rũ Phật tử và khách tham quan. Những việc làm này ngược lại đạo giải thoát của Phật, không đúng cách.

Họ dám bẻ cổng Giới Luật đi khất thực không đúng oai nghi tế hạnh, xin tiền, xin đô la, làm những việc tồi bại như những người ăn mày.

Những điều quý vị đã làm ở trên đều phạm vào Giới Luật của Đức Phật, vì danh, vì lợi sang đẹp mà quý vị đã bắt chước các tôn giáo khác và người thế tục, việc làm này không phải là tu sĩ Phật giáo.. Nếu trong kinh sách của Phật có dạy làm những điều này là do những người sau họ bị ảnh hưởng của các tôn giáo khác mà thêm vào.

Kính thưa quý vị Phật tử! Những gì quý vị đã làm và chúng tôi đã nói ở trên không phải là những gì làm sai. Chỉ làm sai đối với Đạo Phật, nhưng đúng đối với các tôn giáo khác, cho nên chúng tôi nói Phật giáo chịu ảnh hưởng của các tôn giáo khác.

Phật giáo chủ trương đường lối buông xả, mục đích của Đạo Phật là giải quyết mọi cá nhân ra khỏi sự đau khổ, sanh, lão, bệnh, tử của một đời người. Cá nhân được thoát khổ thì xã hội mới được an vui. Cá nhân còn đau khổ thì dù quý vị có giải quyết bằng cách nào thì xã hội vẫn còn đau khổ và còn hơn thế nữa. Tuy rằng trước mắt tạm thời quý vị an ủi họ một chút mà thôi, vì bản chất dục vọng tham lam ham muốn ganh tị hơn thua gian dối xảo trá, trộm cướp giết người của con người ngàn đời không bao giờ từ bỏ được. Do nguyên nhân này mà con người bóc lột lẫn nhau bằng mọi thủ đoạn mánh khóe gian xảo. Ngoài mặt làm ra vẻ thương yêu bác ái, nhưng còn bên trong toàn là gươm đao, súng đạn. Giai cấp bị bóc lột đứng lên đấu tranh để bảo tồn quyền lợi sống của mình, do đó thế giới mới có chiến tranh liên miên không nước này thì cũng nước khác.

(34:36) Vì thế, Đạo Phật nhắm vào giải quyết cá nhân, giải quyết cá nhân là giải quyết xã hội. Cá nhân tốt thì xã hội mới tốt, cá nhân xấu thì xã hội xấu. Cá nhân hay tập thể làm từ thiện mà trong đó còn có tâm cầu danh từ thiện thì không phải là từ thiện.

Kính thưa quý vị Phật tử! Quý vị việc làm từ thiện xã hội mà cá nhân và gia đình quý vị toàn là là đau khổ không thiện chút nào.

Kính thưa quý vị Phật tử! Những điều chúng tôi nói ở trên, Tăng, Ni là những người từng học Giới Luật của Phật, họ đều biết rất rõ những điều ngăn cấm này. Nhưng có điều hiện giờ sự tu hành của họ không có chất liệu giải thoát. Họ chỉ học lý thuyết suông nên họ phải chuyển qua làm những việc từ thiện này không còn cách nào khác để tiêu thụ món nợ đàn na thí chủ.

Giới Luật của Phật còn đó, là bậc Thầy của quý vị, thường ngăn cấm quý vị làm những điều sai, cớ sao quý vị không nương tựa vào ông Thầy của mình, để sửa những điều sai, lại còn nương tựa vào những bậc vạn năng, vào những đấng sáng tạo, và vào những Thần, Thánh, Tiên để cho Phật giáo bây giờ mới ra nông nỗi này!

Nếu quý vị tu hành đúng Giới Luật nghiêm khắc mình trong Giới Luật thì đó chính là con đường của Đạo Phật, con đường giải thoát thật sự. Hình ảnh và hành động giới luật đức hạnh giải thoát của quý vị là quý vị đã chấn hưng Phật Pháp, chứ đâu phải cất chùa to tháp lớn. Hình ảnh và hành động giới luật đức hạnh giải thoát của quý vị là quý vị làm sáng tỏ Phật Pháp, chứ đâu cần có Tăng Ni cho nhiều mà Giới Luật chẳng ra gì. Hình ảnh và hành động giới luật đức hạnh giải thoát của quý vị là quý vị đã xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn một ngàn lần quý vị làm công tác từ thiện xã hội.

Kính thưa quý vị! Đến đây chúng tôi xin quý vị nghỉ xả hơi một chút để suy ngẫm lại những điều chúng tôi đã nói.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

7- VẤN ĐÁP VỀ LINH HỒN VÀ LUÂN HỒI TRONG ĐẠO PHẬT

(37:28) Phật tử: “Trong khi nghỉ xả hơi, chúng con xin phép cho chúng con được hỏi thầy”.

Trưởng lão: Được, quý vị cứ hỏi.

Phật tử: “Kính bạch thầy, theo lời dạy của thầy thì không có cầu siêu, cầu an, cúng vong, tiến linh. Vậy người chết có linh hồn hay không? Nếu không có linh hồn sao lại có tái sinh luân hồi. Xin thầy trả lời cho chúng con hai câu hỏi này”.

Trưởng lão: Để trả lời câu hỏi thứ nhất của quý Phật tử, người chết có linh hồn hay không?

Kính thưa quý vị Phật tử! Hiện giờ chúng tôi không đủ niềm tin đối với quý vị, vậy Đức Phật sẽ đủ niềm tin với quý vị trả lời thay chúng tôi.

Trong kinh phật có dạy: Ví dụ như một ngọn đèn với ánh sáng, khi mà ngọn đèn tắt ánh sáng có còn không? Quý vị cứ trả lời xem, khi mà đèn tắt thì ánh sáng đâu còn, cho nên chúng ta chết đi, thì thân này đã hoại diệt, đã tắc thở thì tâm của chúng ta cũng chẳng còn. Đức Phật lại còn cho một ví dụ khác nữa, ví dụ như một cây to thì phải có cái bóng mát của nó. Khi chặt đốn cái cây đi thì bóng mát của cây kia không còn nữa. Quý vị thấy Đức Phật ví dụ rất rõ ràng và cụ thể để chứng minh cho chúng ta, con người của chúng ta không có linh hồn, mà quý vị đã lầm tưởng mà đã hiểu Phật giáo qua một góc độ của tôn giáo khác.

Để trả lời câu hỏi thứ hai, nếu không có linh hồn làm sao có tái sanh luân hồi. Kính thưa quý vị! Người ta không bảo linh hồn luân hồi, tâm luân hồi, tánh luân hồi, thần thức luân hồi mà chỉ nói nhân quả luân hồi. Trong kinh sách của Đạo Phật cũng dạy nhân quả luân hồi. Nhân quả luân hồi nghĩa là như thế nào? Nghĩa là sự luân hồi đó do hành động thiện ác của quý vị, chứ không phải linh hồn đi luân hồi. Đến đây quý vị chắc có lẽ đã hiểu rồi chứ gì? Ở đây quý vị phải nên hiểu ở Đạo Phật, đừng nên hiểu ở tôn giáo khác.

Phật tử: “Kính bạch thầy, cho phép chúng con được hỏi thêm”.

Trưởng lão: Quý vị cứ tự nhiên hỏi.

(40:41) Phật tử: “Theo lời Phật và Thầy đã chỉ dạy thì không có linh hồn, vậy sao chúng con thường hay thấy ma, đồng cốt nhập là gì? Gần đây có một số kinh sách nói về thế giới siêu hình, nói về sự tu hành có những ma quỷ, gặp ma quỷ, vậy có hay không?”

Trưởng lão: Kính thưa Phật tử! Ma ở đây là trong tâm của quý vị lưu suất chứ không phải có hồn ma bên ngoài. Đứng trên góc độ của Đạo Phật không bị ảnh hưởng của các tôn giáo khác thì thế giới siêu hình của Đạo Phật là thế giới tam chủ quan của quý vị lưu xuất. Đồng cốt nhập tự xưng ông này bà kia cậu nọ…​ cũng đều do chính tâm của họ lưu xuất và kinh sách nói về thế giới siêu hình cũng vậy.

Kính thưa quý vị Phật tử! Quý vị là để tử của Phật mà tâm hồn của quý vị chịu ảnh hưởng rất sâu đậm của các tôn giáo khác. Nên mới có xây dựng tâm hồn đi đầu thai và có ma quỷ. Tóm lại Đạo Phật không có linh hồn luân hồi, chỉ có nhân quả luân hồi mà thôi. Các tôn giáo khác có linh hồn luân hồi nên phải có thế giới siêu hình khách quan bên ngoài.

(42:20) Kính thưa quý vị Phật tử! Quý vị là đệ tử của Phật không nên hiểu Phật giáo qua ống kính tôn giáo khác, để rồi tự quý vị đánh mất sự tự chủ của mình. Để rồi mãi mãi muôn đời không thoát ra khỏi mọi sự đau khổ của cuộc đời, vì thế mà hiện giờ quý vị phải chịu suốt cuộc đời tha lực, cầu khẩn, van xin, bái lạy, cúng tế…​.

Phải nói rằng thế giới siêu hình mà quý vị đã xây dựng để biến quý vị trở thành những con người lạc hậu mê tín dị đoan. Đạo Phật là đạo tự cứu lấy mình, không nhờ ai hết, không cầu khẩn van xin ai hết tự thoát ra khỏi sinh tử luân hồi và đau khổ do chính hành động tự mình vươn lên, tự mình biết sửa lỗi mình, tự mình biết khắc phục tâm mình, vì thế cầu an cầu siêu, cúng vong, tiễn linh, cúng sao giải hạn đều không phải là của Phật giáo.

Bây giờ trả lời xong với quý vị, những câu hỏi mà quý vị đã nêu lên.

8- XẢ BỎ DANH LỢI

(43:59) Kính thưa quý vị! Chúng ta nên trở lại vấn đề. Sau khi được nghe chúng tôi kể chuyện về sự tu hành và chỉ định ông Thầy của quý vị. Do sự cẩn thận suy xét chúng tôi tin chắc rằng quý vị sẽ hướng về chúng tôi. Nhưng thưa quý vị chúng tôi là những tu sĩ Phật giáo, chúng tôi đâu có chùa, đâu có chỗ ăn, chỗ ở cho quý vị, chúng tôi là những người ăn xin, ở trọ của người khác. Khi nghe chúng tôi nói đến đây quý vị rất lấy làm ngạc nhiên phải không? Tuy quý vị chưa dám nói ra, nhưng tự nghi vấn trong lòng mình: Tu Viện Chơn Như trước mắt đây mà Thầy nói rằng Thầy không có chùa thì bảo sao chúng tôi tin được? Xin thưa với quý vị Phật tử, từ những khu đất Chùa này được rộng rãi này đến những ngôi nhà chư Tăng, Ni ở, cùng trai đường, nhà bếp, điện thờ Phật, Thiền đường, Tổ đường, phòng vệ sinh, phòng tắm, hồ nước và tất cả tài sản trong chùa đều của các cư sĩ như: Cô Út Diệu Quang ở đây, vợ chồng Chơn Tâm, Tâm Như, Tâm Giác, Như Trì, Như Lý, vợ chồng Minh Tâm, Diệu Tâm, Diệu Mỹ, ông Mười, Diệu Hương, vợ chồng Thiện Hiển, Ngộ Ngọc và Cháu Phùng, v.v…​​

(46:19) Còn những cái ăn cái mặc hàng ngày cũng đều do các cư sĩ này và nhiều cư sĩ khác nữa. Từng thùng gạo, từng ổ bánh mì, từng chai nước tương, hạt muối, đường, sữa, trái cây, xà bông, bột ngọt, vải xồ, y áo và thuốc thang trị bệnh…​ Cho nên chúng tôi đâu có gì để nuôi quý vị. Xưa đức Thế Tôn không có nuôi một vị Tỳ kheo nào hết. Các vị muốn tu theo Đạo Phật thì phải tự đi xin mà ăn. Chúng tôi bây giờ cũng vậy, là người xin ăn ở trọ. Chúng tôi đâu dám làm phiền những vị cư sĩ này, vì kinh tế gia đình của họ có mức độ.

Kính thưa quý vị! Chúng tôi là những tu sĩ Phật giáo không bao giờ dám mở miệng xin tiền, cất chùa hoặc xin tiền để làm những việc gì khác cho cá nhân mình. Vì Đức Phật và Giới Luật không có dạy chúng tôi làm điều đó. Nếu quý vị Phật tử có nghĩ đến chúng tôi là những kẻ tu hành chơn chánh thì cúng dường cho chúng tôi được no lòng và y áo được lành lặn. Còn không cúng dường thì chúng tôi chịu đói lòng và rách nát. Dù sống trong cảnh trạng như vậy chúng tôi cũng chẳng hề mở miệng than thở xin xỏ cùng ai. Còn ngược lại quý vị cúng dường mà không có tâm thành thì chúng tôi thà chịu đói chứ không thọ dụng. Cúng dường những vật dụng không đúng cách thì chúng tôi cũng chẳng dùng.

Chúng tôi là những tu sĩ Phật giáo nghiêm khắc mình trong Giới Luật không thể dùng những lời hoa mỹ đẹp đẽ để giả dối đạo đức để gạt người, làm danh, làm lợi cho mình. Chúng tôi là những tu sĩ Phật giáo không dám dùng những điều mê tín, dị đoan bùa linh, chú giỏi, nói chuyện quá khứ vị lai, coi bói, xem tướng, coi sao giải hạn để gạt người làm tiền bằng cách vô lương tâm. Chúng tôi là những tu sĩ Phật giáo không thể tổ chức hành hương đi chỗ này chỗ kia hoặc đi mười chùa, hai mươi chùa để khéo léo móc túi tiền của Phật tử ham vui thích đi.

(49:06) Kính thưa quý vị Phật tử! Vì thế chúng tôi không có chùa, không có cơm để nuôi cho quý vị ăn, không có áo để ban cho quý vị mặc. Chúng tôi là những người giải thoát hoàn toàn không có gì cả ngoài cái bát để ăn cơm hàng ngày và vài bộ y áo để mặc kín thân. Nếu quý vị muốn tu theo chúng tôi thì chỉ khi nào có những vị cư sĩ tự phát tâm cúng dường, chứ quý vị không được kêu gọi họ. Chỗ ăn chỗ ở thì quý vị thỉnh mời chúng tôi về đó. Chúng tôi sẽ cho người hướng dẫn quý vị tu hành. Khi quý vị tu xong thì cũng là lúc chúng tôi liền rời nơi đó và ẩn mình trong hang đá gốc cây.

Chúng tôi là những người đã buông xả hết, vì thế chúng tôi được tự tại giải thoát không còn vướng bận việc trần ai và chuyện Phật Pháp nữa. Đủ duyên chúng tôi hướng dẫn quý vị, thiếu duyên chúng tôi ẩn mình trong non trong núi quý vị khó mà tìm. Sau ngày ra thất quý vị có về Chơn Như cũng khó mà tìm gặp chúng tôi.

Kính thưa quý vị Phật tử! Quý vị muốn tu theo chúng tôi, nếu quý vị là Tăng, là Ni thì quý vị hãy đến tu viện Huệ Quang và chùa Ẩn Quang xin gặp thầy Minh Cảnh và thầy Minh Hành, hai người này đã nhận lời di chúc của Hòa Thượng Huệ Hưng xây dựng tu viện chuyên tu cho Tăng và Ni, quý vị hãy về đó đòi hỏi hai Thầy này phải thực hiện lời di chúc để tăng ni có chỗ tu tập Giới Đức và Thiền Định. Nếu hai thầy này đứng ra làm công việc cho quý vị thì quý vị phải góp tay, góp sức, góp công, góp của với hai thầy này để công việc được sớm viên mãn, thì nơi tu hành quý vị mới được yên ổn, Nhà nước và Giáo hội sẽ giúp đỡ hai vị này. Khi công việc hoàn thành quý vị sẽ đến thỉnh chúng tôi, chúng tôi sẵn sàng cho người về đó hướng dẫn quý vị tu hành, bằng không thì chúng tôi ẩn bóng.

(51:35) Kính thưa quý vị!

  • Nếu quý vị muốn học kinh nguyên thủy thì quý vị đến Hoà thượng Thích Minh Châu ở Thiền Viện Vạn Hạnh thành phố H.C.M,

  • Nếu quý vị muốn tu Thiền Đông Độ thì quý vị hãy đến Hoà Thượng Thích Thanh Từ ở Thiền Viện Trúc Lâm Đà Lạt,

  • Nếu quý vị muốn tu Tịnh Độ thì quý vị hãy đến Hoà Thượng Thích Trí Tịnh ở chùa Vạn Đức Thủ Đức,

  • Nếu quý vị muốn tu theo Mật Tông thì quý vị hãy đến Hòa Thượng Tịch Chiếu ở Bình Dương,

  • Nếu quý vị muốn tu theo Thiền đốn ngộ thì quý vị hãy đến Hòa Thượng Bửu Thắng ở Gò Công,

  • Nếu quý vị muốn tu thiền Công Án thì quý vị hãy đến Hòa Thượng Duy Luật ở chùa Từ Ân Chợ Lớn thành phố H.C.M.

Tất cả những vị này sẽ chỉ dạy cho quý vị đúng với sở nguyện của mình.

Kính thưa quý vị Phật tử! Tại sao Tu Viện Chơn Như không đề Thiền Viện Chơn Như? Chúng tôi ở đây tu theo ba Pháp môn Giới, Định, Tuệ nên không thể nào đề “Thiền viện” được vì thế chúng tôi dùng chữ “Tu viện” mới đúng nghĩa của ba Pháp môn này. Ngày xưa Đức Phật không tự xưng mình là Thiền sư mà chỉ xưng mình là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.

Xin thưa quý vị! Một sự vô ý hay hữu ý mà người ta xu hướng chạy theo phong trào Thiền Tông rầm rộ, rồi tự đặt tên chùa là Thiền viện này Thiền viện khác để thu hút lòng hiếu tu thiền của người Phật tử. Chúng tôi tu theo Đạo Phật, không bị mọi xu hướng thời đại và không chạy theo mọi phong trào của quần chúng. Chúng tôi luôn luôn tự xét mình làm cái gì đúng và làm cái gì sai để không lầm lỗi, để không bị đồng hoá, ảnh hưởng mọi phong tục tập quán của con người. Vì vậy tên Tu Viện Chơn Như vẫn đứng vững vàng, không bị ảnh hưởng của Thầy Tổ. Tuy chùa xây bằng tầm vông vách bằng liếp đan, nhưng mãi mãi muôn đời người ta sẽ ghi nhớ không quên.

9- CHÚNG TÔI KHÔNG PHẢI PHẬT, BỒ TÁT, A LA HÁN

(54:18) Kính thưa quý vị Phật tử! Hôm nay quý vị đã được nghe chúng tôi kể lại sự tu hành, xin quý vị đừng nghĩ rằng chúng tôi là Phật, là Bồ Tát, là A La Hán.

Chúng tôi tu hành chẳng có chứng đắc gì cả. Chỉ hằng ngày tu tập làm chủ thân tâm của mình. Lâu ngày chúng tôi làm chủ được nó nên không thể nào gọi là Phật, là Bồ Tát, là A La Hán, vì chúng tôi cũng tự thấy mình bằng xương, bằng thịt, cũng ăn uống như quý vị vậy, cũng cười, cũng nói, vui vẽ như quý vị. Vì thế chúng tôi chẳng phải Phật, Bồ Tát, A La Hán.

Nhờ tu tập làm chủ thân tâm, chúng tôi trở thành những con người biết cách làm chủ mình nên tâm không buông lung, phóng dật, thân không hành động thô ác, miệng không nói lời hung dữ gian dối, xảo trá, ý không khởi niệm xằng bậy.

Chúng tôi cũng chẳng phải là Thánh Đức, Hiền Nhân, Siêu nhân.

Chúng tôi là con người tầm thường như bao con người khác, nhưng có điều chúng tôi biết chắc rằng chúng tôi không bao giờ làm khổ mình khổ người và cũng biết chắc rằng chúng tôi chẳng có thần thông phép tắc gì cả.

Chúng tôi không thể kêu mây, hóa lửa, làm gió.

Chúng tôi cũng chẳng biết chuyện quá khứ vị lai của ai hết.

Chúng tôi chỉ biết đủ và không cầu mong gì hết, cho nên quý vị đừng đảnh lễ chúng tôi.

Chúng tôi không phải Thầy của quý vị, không phải là Đức Phật, cũng không phải vị Tổ Sư, và cũng không phải Bồ Tát, A La Hán nữa.

Chúng tôi cũng rất bình đẳng như quý vị. Chúng tôi là bạn lành của quý vị.

(56:33) Chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa, lưu ý quý vị, chúng tôi là bạn lành của quý vị.

Vậy từ đây về sau quý vị đừng đảnh lễ chúng tôi. Nếu quý vị đảnh lễ chúng tôi là tự quý vị đã làm cách xa chúng tôi với quý vị. Quý vị đã biến chúng tôi thành ông Phật, ông Thánh, ông Vua để quý vị lạy chứ không phải để quý vị theo chúng tôi để tu hành qua kinh nghiệm của chúng tôi.

Đạo Phật không có giai cấp thế mà quý vị biến chúng tôi thành giai cấp bề trên để cho quý vị không bao giờ dám mở miệng khuyên ngăn khi chúng tôi làm những điều sai với Đạo Phật.

Nhiều khi quý vị còn a dua với chúng tôi để bây giờ quý vị chứng kiến sự tệ hại của Phật giáo đến tận cùng.

Kính thưa quý vị! Chúng tôi xin quý vị mỗi lần gặp nhau đều chấp tay lên xá nhau là đủ lắm rồi. Vì đôi bàn tay của quý vị chấp lại tượng trưng là búp sen. Sen là một loài thảo mộc mọc dưới nước bùn nhơ hôi thối, thế mà hoa sen vươn lên không hôi thối mùi bùn, còn toả hương thơm ngát. Cũng giống như chúng ta vậy, sống trong cõi đời đầy ô trược mà luôn luôn lúc nào cũng giữ thân tâm trong sạch như hoa sen kia. Vậy chúng ta chấp tay lại là tượng trưng cho hoa sen, nói lên được lòng trong sạch thanh khiết của chúng ta kính cẩn chân thành chào nhau, thì trên đời này không có gì quý bằng.

(58:33) Kính thưa quý vị! Quý vị đừng hồi sinh lại thời phong kiến, các bậc tôn túc của chúng ta đã bị ảnh hưởng vua chúa quá nặng, nên từ các thức sống của các ngài đều tỏa mùi phong kiến, khiến cho nhân phẩm của con người mất đi và tình cảm của chúng ta cách xa vì giai cấp quân thần.

Thưa quý vị Phật tử! Những gì chúng ta làm là chúng ta phải có ý thức đầy đủ đừng để phong tục tập quán của con người đồng hóa Phật giáo mà người ta coi rẻ và khinh thường Đạo Phật.

Đến đây chúng tôi xin tạm dừng nghỉ một chút để xả hơi.

Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật!

10- TỔNG HỢP CÁC PHÁP THEO KIẾN GIẢI

(59:46) Kính thưa quý vị Phật tử! Bây giờ chúng ta dừng câu chuyện tại đây để trả lời bức thư của một người Phật tử gửi đến hỏi chúng tôi cách thức tu hành của vị này có đúng hay không. Chúng tôi xin trả lời và xin mời người chủ của bức thơ chú ý nghe.

Trong thư Phật tử đã nêu năm Pháp môn:

1 - Quán tâm theo kiểu Đại thừa

2 - Mật Tông thần chú

3 - Tịnh Độ

4 - Giới Luật

5 - Hơi thở

(01:00:30) Phật tử đã tổng hợp 5 pháp môn này làm thành một pháp môn để tu hành. Tuy nhiên trước mắt Phật tử cảm thấy có một lợi nhỏ, tu sâu về sau không nhập được các chánh định của Phật, phần nhiều nhập vào định tưởng. Cách thức mà Phật tử đã trình trong thơ chúng tôi nghiệm xét thấy:

1 - Quán tâm chẳng ra quán tâm

2 - Mật Tông chẳng ra Mật Tông

3 - Tịnh Độ chẳng ra Tịnh Độ

4 - Giới Luật chẳng ra Giới Luật

5 - Hơi thở chẳng ra hơi thở

Trong thư Phật tử còn cho chúng tôi biết kết quả ưu điểm của sự tu tập này :

1 - Lúc nào con cũng thấy tâm con vui an lạc. Tối nằm xuống là ngủ liền, không trằn trọc, không chiêm bao mộng mị, không cảm thấy nhớ nhung gia đình, lòng dạ rỗng rang vô tư lự như trẻ con.

2 - Trạng thái thiền định của con cũng tốt, không bao giờ bị tán loạn hôn trầm. Con định tâm cũng dễ, đôi khi hơi thở và câu niệm PHẬT của con chỉ còn mong manh nhỏ nhuyễn như một sợi chỉ. Con chìm đắm trong một trạng thái tĩnh lặng rất dễ chịu, nhưng con vẫn tỉnh chứ không mê. Lúc đó con hoàn toàn không cần một chút dụng công nào. Con cứ để mặc cho hơi thở ra vào một cách tự nhiên và nó tự nhẹ lần, nhẹ lần, chứ con không tác ý.

(01:02:41) Chúng tôi xin trả lời gọn và dễ hiểu để không mất thì giờ.

Kính thưa quý vị Phật tử! Theo lối tu tập của vị Phật tử này không có kinh nghiệm chuyên môn mà chỉ chạy theo an lạc do xúc tưởng hỷ lạc sinh ra. Lối tu này là của Phật giáo cổ truyền trong các chùa Tịnh Độ thuộc Phật giáo cổ Sơn Môn, Lục Hòa Tăng theo nghi thức tụng niệm của họ.

Xin thưa cùng quý Phật tử, người Phật tử này đang đi tìm dục lạc mới hay đi tìm thế giới siêu hình trong các pháp môn. Chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa, người Phật tử này đang đi tìm dục lạc mới hay đi tìm thần thông phép lạ trong thế giới siêu hình ở trong các pháp môn tu hành, không phải là người tìm tu giải thoát của Đạo Phật. Đây cũng là một thứ bệnh tu hành thời đại, cầu mong tìm hỷ lạc, dễ chịu, trốn khổ của cuộc đời, hay đi tìm những thứ cao siêu vượt bậc hơn con người.

Kính thưa quý vị Phật tử, trong những ngày nhập thất chúng tôi đã được biết có một số Tăng Ni và Phật tử đều thuộc giới có học thức thế mà lại mê tín tu theo pháp môn của ngoại đạo. Những pháp môn này mạo danh là pháp môn của Đạo Phật. Họ thường sống ẩn dật trong núi non tu tập bùa chú thiền định xuất hồn, thiền định luyện tinh khí thần, thiền định luân xa, thiền định hiển linh vô vi tạo những điều linh hiển kỳ lạ, biến thế giới tâm tưởng thành thế giới siêu hình đầy dẫy linh hồn người chết, ma quái quỷ thần, Thánh, Tiên, Phật, Trời .v.v.​

(01:05:09) Đối với những người Phật tử, họ thường phô trương tiên đoán chuyện quá khứ vị lai của mọi người, thường làm thuốc, làm bùa chú, hoặc chuyển điển linh luân xa để trị bệnh một cách linh diệu khiến cho mọi người mê tín lại càng thêm mê tín hơn. Họ nói chuyện toàn là khoe khoang sự xuất hồn đi chu du trong các cõi Tiên, cõi Phật và làm những điều thần thông quái lạ khiến cho mọi người say mê thích thú và phục lăn họ, xem họ như Phật sống, như Thần, Thánh, Tiên đang sống tại thế vậy.

Đó là những hành động dối gạt, bịp người, làm những điều sai trái phạm Giới Luật của Phật. Xưa Đức Phật thường cấm các đệ tử không được thể hiện thần thông, không được làm những điều kỳ lạ. Những tu sĩ này đã biến Phật giáo thành một tôn giáo mê tín dị đoan, xa lìa mục đích tu hành chân chánh của Đạo Phật, khiến cho hàng Phật tử lòng dạ hoang mang chẳng biết Phật pháp như thế nào. Giống như người đứng trước ngã ba đường.

Hình ảnh Tế Công Phật sống và Phật sống Cựu Kim Sơn, đó là những tu sĩ ma quái mượn danh nghĩa Phật Pháp thể hiện thần thông trị bệnh làm những điều mê tín, dị đoan, “Cứu thế độ dân”. Đó là những hành động phá hoại Giới Luật đức hạnh giải thoát và những oai nghi tế hạnh của Đạo Phật. Xưa Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, Các Thầy hãy giữ gìn Giới Luật của ta thì hàng Phật tử sẽ kính mộ các Thầy, thường quỳ xuống trải tóc dài trên đường cho quý Thầy đi”.

Vậy mà hiện giờ có người vẫn còn tin đó là Phật sống và còn phổ biến kinh sách ca ngợi những hạng người này. Họ đâu biết rằng sự sống chết, sự đau khổ của cuộc đời con người là do nhân quả, không thể có một Tế Công Phật sống mà cứu họ được. Cho dù có một ngàn Tế Công Phật Sống cũng chẳng cứu họ được.

(01:08:05) Kính thưa quý vị Phật tử! Đạo Phật là Đạo làm chủ thân tâm, chứ không phải là Đạo đi tìm sự an lạc tiêu cực trong cuộc sống hoặc đi tìm thần thông phép lạ. Hầu hết quý Phật tử đến chùa tu, tập tu theo Đạo Phật là đi tìm dục lạc mới trong tôn giáo hoặc đi tìm sự an ủi tinh thần trong kinh điển vì cuộc sống ở thế gian quá khổ sở, quá cay nghiệt, quá phiền toái, hoặc đi tìm thế giới siêu hình để thoả mãn lòng mơ tưởng của mình.

Cũng vì thế vô tình quý Phật tử đã dùng tiền bạc sai quý Thầy phục vụ tinh thần trong đời sống mê tín của quý vị. Quý vị cúng dường bố thí trai tăng là luôn luôn đòi hỏi quý Thầy phải thuyết pháp giảng kinh hoặc cúng bái, cầu siêu, cầu an, coi bói xem tướng, v.v…​​ chứ không bao giờ quý vị đến cúng dường cho Chư Tăng với một tấm lòng cầu mong quý Thầy giữ gìn Giới Luật thanh tịnh để Tam Bảo được trường tồn. Quý vị đến chùa là đến với sự trao đổi, chứ không phải đến với tâm niệm giữ gìn Phật Pháp.

Còn riêng quý Thầy, chư Tăng, chư Ni cũng vì vật chất tiền bạc tình cảm cuộc sống, nêu quý thầy quý cô đã để Phật giáo bị đồng hóa theo phong tục tập quán của con người. Từ đó quý Thầy, quý Cô sản xuất ra những loại kinh sách cúng bái, kệ hát giọng cao, giọng thấp để cúng vong, tiễn linh theo tiếng trống, tiếng kèn, tiếng mõ nhạc dập dình du dương áo não để ru lòng người đam mê say thích. Làm những điều mê tín pháp giới luật của Phật.

(01:10:35) Rồi cũng từ đó, quý Thầy sản xuất ra những loại kinh sách để an ủi người Phật tử khi đau ốm bệnh tật, khi sân hận thù oán, khi phiền não tái tê, khi ganh tỵ hơn thua và khi tử biệt phân ly. Những kinh sách này không phải để tu hành làm chủ thân tâm giải thoát sanh tử, mà chỉ để làm dịu bớt cơn đau, cơn buồn khổ. Nhờ đó mà quý Thầy quý Cô mới tiêu thụ được món nợ trai tăng cúng dường của quý Phật tử.

Phải nói vì vật chất tiền bạc tình cảm và cuộc sống, quý Thầy, quý Cô đã trở thành những người phục dịch cho quý Phật tử từ cái ăn cho đến cái đi chơi và sự cũng bái của quý Phật tử mà quý Thầy và quý Cô đều phải lo toan hết. Do đó quý Thầy quý Cô phải thức thâu đêm dịch kinh viết sách cho quý Phật tử đọc. Quý Thầy quý Cô cũng nặng đầu bóp trán suy nghĩ tìm mọi cách tạo ra cây cảnh đẹp đẽ để cho Phật tử du ngoạn thưởng thức. Như vậy còn thì giờ đâu mà quý Thầy quý Cô tu hành. Tu không phải là một việc dễ làm, phải thường hằng tập sửa những sự sai lầm của chính mình. Phải thường hằng gìn giữ Giới Luật nghiêm túc cho nên không thể một sớm một chiều mà thành tựu được. Vì thế quý Thầy đã trở thành những công nhân viên chức của quý Phật tử mà không hề hay biết.

(01:13:02) Kinh sách Phật được bày bán la liệt không còn có vẽ tôn nghiêm ngoài hè phố, ngoài lề đường và cũng vì thế mà người tu theo Phật giáo thời nay rất là hời hợt. Đó là những điều làm sai của thời đại Phật giáo ngày nay. Quý Thầy, quý Cô đã quên hết, chỉ còn biết làm danh làm lợi trên những đống kinh sách này. Đem hết cuộc đời và công sức của mình, bỏ hết thì giờ quý báu, thay vì để tu tập giải thoát khỏi ra cảnh đời ô trược này thì quý Thầy quý Cô lại chôn mình trong bùn lầy danh lợi hôi tanh, làm mất giá trị Pháp Bảo của Phật.

Quý Thầy, quý Cô hãy nghiêm khắc mình trong Giới Luật thực hiện thiền định sâu màu là quý Thầy quý Cô đã phổ biến Pháp Bảo quý báu của Phật đến tận hang cùng ngõ hẻm của con người, chứ không phải việc in kinh viết kinh sách bày bán khắp chợ là phổ biến Pháp Bảo. Đó là quý Thầy, quý Cô đã ném Pháp Bảo xuống bùn nhơ hôi thối.

11- CHÙA LÀ NƠI TU HÀNH

(01:14:27) Kính thưa quý vị! Khi nghe chúng tôi nói đến đây quý vị hãy suy ngẫm lại, chứ đừng vội lên án chúng tôi. Kính thưa quý vị Phật tử! kinh sách bày bán la liệt mà người tu bây giờ chẳng ra làm sao! Ngay chính bản thân của quý vị tu hành thì quý vị cũng tự biết lấy rất rõ ràng. Kinh sách Phật là để cho người tu tập giải thoát, chứ không phải để an ủi người đời. Bởi vậy, Phật giáo ngày nay không người tu chứng là vậy.

Nếu muốn tu giải thoát thì quý vị phải đến chùa tu hành hẳn hòi, chứ không phải đi lang thang chùa này, chùa khác để nghe thuyết pháp chơi. Vả lại chùa cũng chẳng phải là chỗ để cho quý vị đi chơi ngắm cảnh giải trí an ủi tinh thần. Nếu quý vị muốn tu thì phải nghiêm chỉnh thực hành đúng như lời của Phật dạy và nghiêm khắc mình trong kỷ luật của nhà chùa. Chứ không phải dùng tiền bạc cúng dường bố thí trai tăng rồi muốn sai sử quý Thầy bằng cách nào cũng được. Từ lâu quý vị đã dùng tiền bạc của mình để an ủi tinh thần mình mà biến Phật giáo thành Thần giáo, ông Phật thành ông Thần, và quý Thầy trở thành công nhân viên của quý vị cư sĩ.

Một lần nữa chúng tôi xin nhắc lại chùa là nơi để tu hành giải thoát chứ không phải chỗ để là nơi để quý vị nghỉ mát, nghỉ hè làm việc mê tín, dị đoan. Chùa là nơi thanh tịnh, nghiêm trang để cho Tăng, Ni cư sĩ tu tập giải thoát khỏi sự khổ đau của cuộc đời và chấm dứt tái sanh luân hồi, chứ không phải là trường học, bệnh viện, trạm y tế, tuệ tĩnh đường, phòng thuốc từ thiện xã hội, khu du lịch…​

Kính thưa quý vị Phật tử! Quý vị đến chùa cốt là để học những lời vàng ngọc của Phật, để tu tập giải thoát thân tâm để vượt ra khỏi cảnh đời đầy ô trược, chứ không phải đi đến chùa để đi tìm cái ăn cái ăn của chùa, đi tìm cái được mạnh giỏi của Phật, để được đi tìm cái phù hộ, cái gia bị của Đức Phật. Điều đó là những điều mê tín, phi đạo đức, điều đó đó là những điều làm sai không đúng của Đạo Phật.

(01:17:55) Khi đến chùa quý vị đừng làm bận tâm những người tu hành ở đây, vì cái ăn cái ngủ của quý vị.

Khi đi đến chùa quý vị phải sẵn sàng, đừng để người tu hành phục vụ quý vị mà mất phước.

Khi đi đến chùa quý vị đừng ăn mặc hở hang bày da bày thịt, hoặc mặc quần áo màu sắc rực rỡ bông hoa đủ loại, đủ kiểu lòe loẹt.

Khi đi đến chùa quý vị đừng thoa son đánh phấn như đi dự tiệc tùng đám hỏi, đám cưới, lễ tết nguyên đán…​​ Khi đi đến chùa quý vị đừng cười nói ồn náo mà phải nghiêm chỉnh, thanh tịnh, đi đứng có trật tự, giữ mình có nết hạnh.

Khi đi đến chùa đừng ỷ mình giàu sang, có xe hơi, xe gắn máy chạy đậu sát thềm chùa. Đó là tư cách thiếu đạo đức, quý vị cần sửa lại.

Khi đi đến chùa quý vị phải đậu xe ở ngoài cổng hoặc chỗ đậu xe, cởi bỏ giày dép, dắt xe đi chân trần vào chùa và hết lòng cầu Pháp thì may ra quý vị mới hưởng được Pháp vị của Đức Phật.

Khi đi đến chùa quý vị đừng biến chùa thành cái chợ. Xưa vua A Xà Thế đến thăm Đức Phật phải bỏ xe ở đầu rừng rồi đi bộ đến gặp Phật.

Khi đi đến chùa đừng ỷ có tiền là có tất cả, đừng ỷ rằng mình có tiền quăng tiền ra là có đủ loại kinh sách và còn được ưu tiên nghe thuyết giảng các bài kinh của Phật, quý vị có biết đâu đó là những bài pháp đầu môi chót lưỡi, chính người thuyết pháp đó cũng chưa thực hành được. Những bài pháp này thường đem bán rẻ mạt ở các chợ. Những pháp này quý vị có tu ngàn đời cũng chẳng ra gì. Pháp không cầu mà được là pháp giả, pháp không cầu mà bày bán khắp nơi là pháp không có giá trị. Pháp ấy tu hành chẳng diệt được gì cả, Pháp ấy là pháp danh, pháp lợi, chứ không phải chân pháp của Đạo Phật.

(01:21:02) Kính thưa quý vị Phật tử! Khi đi đến chùa Tăng, quý vị là nữ cư sĩ hay là Ni cô thì quý vị phải đi từ hai người trở lên, không nên đi một mình vào Tu viện nam. Là người cư sĩ nam hay chư Tăng khi đến chùa Ni hoặc tịnh thất của cư sĩ nữ thì phải đi hai người trở lên chứ không thể đi một người vào chỗ đó được. Khi đi vào chỗ tu hành quý vị không thể đi xông pha mà phải theo người hướng dẫn, và đi không được nói chuyện, nhẹ nhàng để giữ gìn sự thanh tịnh cho những người tu hành tại đó.

Khi cần gặp người quen thì nhờ người tiếp khách gọi hộ chứ không được tự động đến chỗ người thân ở trong tu viện. Người thân đang tu hành tại tu viện, cũng không được đưa dắt bạn bè thân thuộc đi tham quan làm động chúng tu hành. Đó là điều làm sai xin quý vị lưu ý.

Một cư sĩ nữ hay một ni cô khi đi đến chùa tăng mà tự do đi lại, thì phải biết đó là người thiếu đức hạnh cần phải sửa lại. Ngược lại một cư sĩ nam hoặc một tu sĩ nam cũng vậy, không được ngang nhiên đi vào nơi tu hành của những người tu sĩ nữ.

Vậy xin lưu ý quý vị khi đến nơi tu hành thì quý vị phải cẩn trọng, không thể xem thường chỗ tu hành như chỗ du lịch, tham khoan, như chỗ ăn chơi, hẹn hò, một việc làm vô ý tứ, vô trách nhiệm, là một tai hại cho mình, cho người, ở trên đời người ta vẫn xem thường những hạng người thiếu tác phong đạo đức này. Ở trong nhà chúng ta sống như thế nào cũng được, nhưng chúng ta phải biết đó là những người thiếu đạo đức nhân cách. Ngược lại ra ngoài phải tuỳ nơi, tuỳ chỗ thì quý vị mới xứng đáng là đệ tử của Phật, đầy đủ tác phong đạo đức giải thoát của Đức Phật.

(01:23:56) Tám năm trời chúng tôi mở Tu Viện Chơn Như, chẳng tìm thấy một người cầu pháp chân thật, toàn là thứ ăn hại của đàn na thí chủ; phá hoại phật pháp, làm những điều tồi tệ phá Giới Luật cống cao ngã mạn, hiêu hiêu tự đắc coi mình là bậc Thầy, Tổ của thiên hạ. Xét lại họ chỉ toàn là những con mọt kinh sách. Tăng, Ni và Phật tử đối với Phật Pháp còn biết bao nhiêu điều sai trái nhưng không đủ thì giờ cho phép chúng tôi nêu ra đây hết được. Khi nào đủ duyên Cô Diệu Quang mở khóa tu đạo đức giải thoát thì chúng tôi sẽ giảng dạy cho quý vị.

Kính thưa quý vị Phật tử! Chúng tôi biết rằng lời thật mất lòng, nhưng chúng tôi phải nói. Nói vì sự tồn vong của Phật giáo, dù biết rằng chúng tôi đã nói không có chùa để ở, không có cơm để ăn, không có y áo để mặc thì chúng tôi cũng vẫn phải nói. Nói để cảnh tỉnh Tăng, Ni và quý vị. Nói để quý vị sửa sai; nói để quý vị không bị đọa địa ngục; nói để cho quý vị hiểu Phật pháp đúng cách, không có hiểu như thế này nữa.

Kính thưa quý vị Phật tử! Ở đây quý vị phải hiểu chúng tôi nói ở đây không có ý phê phán chỉ trích ai hết. Ai muốn tu sao cũng được. Chúng tôi chỉ biết nêu lên ở đây những ý này để quý vị đừng hiểu sai Đạo Phật, đừng lầm đường lạc lối tu hành của Đạo Phật, và biết rõ mục đích của Đạo Phật mà uổng phí thì giờ quý báu của quý vị.

Kính thưa quý vị! Chúng ta tu hành theo Đạo Phật mà không tu hành theo pháp môn của Đức Phật, lại đi tu hành theo pháp môn của các tôn giáo khác mà cứ tự nhìn nhận tu theo Đạo Phật. Sự lầm lạc này khiến cho Phật giáo không có người tu chứng, không có người giải thoát thật sự. Hiện giờ được xem như Phật giáo đã mất gốc chỉ còn cành lá mà thôi. Vì thế chúng tôi gióng lên tiếng chuông để cảnh tỉnh quý vị; để nhắc nhở quý vị. Còn nghe hay không là quyền của quý vị. Chúng tôi chẳng có ý gì khác hơn. Tu đúng tu sai là quý vị nhờ, chứ chúng tôi chẳng có ích lợi gì trong đó cả. Chúng tôi chỉ mong quý vị tỉnh ngộ quay về với con đường chân chánh của Đạo Phật để có sự ích lợi thiết thực cụ thể hơn. Những điều quý vị đã tu hành và những việc làm của quý vị đều tốt đều thiện, nhưng tốt và thiện đối với Tôn giáo khác, còn đối với Phật giáo thì quý vị đã lầm lạc. Bởi quý vị đã không tu Giới Luật mà còn phá Giới Luật, làm những điều sai trái phạm vào Giới Luật của Đạo Phật, trong khi Giới Luật là ông Thầy của quý vị mà quý vị từ bỏ không chịu tu theo. Chúng tôi chẳng biết nói thế nào nữa cho đúng. Nếu đi tu mà không nghe lời dạy, không chịu nương tựa vào ông Thầy của mình thì quý vị sống với ai, tu tập cái gì?

(01:27:06) Nếu chúng tôi tu tập giới luật, thiền định, trí tuệ của Đức Phật mà không có kết quả như ngày hôm nay thì chúng tôi cũng chẳng nói lên những điều này. Vì có kết quả quá rõ ràng cho nên chúng tôi cho nổi tiếng sấm sét để quý vị tỉnh cơn mơ mộng trong các kinh sách thời nay, trong các pháp tu thời nay.

Kính thưa quý vị Phật tử! Quý vị hãy cùng chúng tôi sửa sai lại những gì quý vị đã từ lâu không biết, đã làm sai từ lâu. Quý vị hãy chấm dứt, đừng vì lợi ích nhỏ mọn, ích kỷ cá nhân của quý vị mà đưa Phật giáo lạc đường. Vì thế bây giờ quý vị có tìm khắp nơi trên thế giới làm sao có một bậc chân tu giải thoát như Đức Phật. Trong khi phật giáo hiện giờ có hàng vạn triệu người theo tu hành, từ Đông sang Tây mà không có một bậc tu chứng. Vì sao? Vì hiểu sai Phật Pháp nên tu sai, do đó Phá Hoại Phật Pháp mà tưởng là bồi đắp xây dựng chấn hưng Phật Pháp. Đến đây chúng tôi xin tạm dừng nghỉ, ăn cơm buổi chiều lúc 1h chúng ta sẽ tiếp tục lại câu chuyện.

Bây giờ quý vị chắp tay lên cùng chúng tôi hướng về Đức Phật cúi đầu chào nhau tạm biệt.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

HẾT BĂNG 1

1994 - PHẬT MÔN BẢO HUẤN (TRỞ VỀ ĐẠO PHẬT) - PHẦN 2

1994 - PHẬT MÔN BẢO HUẤN (TRỞ VỀ ĐẠO PHẬT) - PHẦN 2

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Phật tử

Thời lượng: [01:28:46]

1- THẦY CHÚNG TÔI

(0:00) Mời quý Phật tử ngồi xuống hết, trước khi chúng ta tiếp tục câu chuyện xin quý vị Phật tử cùng chúng tôi niệm hồng danh đức Phật ba lần.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Niệm Phật xong xin quý vị Phật tử chắp tay lên hướng mặt về tượng Phật chào nhau buổi chiều.

Bây giờ là 1h, chúng ta phải tranh thủ thời gian để quý vị còn trở về nhà cho sớm.

Kính thưa quý vị Phật tử! Như chúng tôi đã hứa hồi sáng, nếu còn thì giờ chúng tôi sẽ giải nghi cho quý vị về con đường Thiền Đông Độ. Chúng tôi biết rằng khi nói đến Thiền Đông Độ là chạm đến Thầy chúng tôi. Nhưng chúng tôi tin rằng Thầy chúng tôi không phải là người tầm thường. Thầy chúng tôi luôn sáng suốt và thường để tâm theo dõi chúng tôi, sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi trên bước đường tu tập cũng như khai thác những kinh nghiệm gì mà chúng tôi đã gặt hái được kết quả lợi ích thiết thực và cụ thể giải thoát của đạo Phật, để lấy đó phục hồi chấn hưng làm sáng tỏ Thiền Tông Việt Nam.

(02:48) Kính thưa quý vị Phật tử! Cách đây 14 năm khi chúng tôi tu hành có được kết quả về trình lại với Thầy và có ý xin Thầy cho phép chúng tôi nhập diệt bỏ báo thân này. Thầy chúng tôi không bằng lòng và khuyên bảo chúng tôi ở lại giúp Thầy chấn hưng Thiền Tông Việt Nam. Chúng tôi nhận lời và ở lại giúp Thầy. Cho nên suốt 14 năm nay dù gặp bao nhiêu cay đắng phũ phàng và chịu nhiều gian khổ, chúng tôi cũng chẳng sờn lòng. Dù cho vật đổi sao dời, sông kia có thể cạn, núi kia có thể mòn, nhưng lòng dạ chúng tôi không hề thay đổi. Nguyện đem đời tu hành của mình làm viên đá để Thầy chúng tôi xây dựng lại ngôi nhà Thiền Tông Việt Nam như ước vọng của Thầy.

Chúng tôi biết rằng Thầy chúng tôi không bao giờ cố chấp, chịu khô cằn trong giáo điều Thiền Đông Độ và cũng không bao giờ chịu chết cứng trong giáo điều Thiền Trúc Lâm. Vì Thầy đã từng nói với chúng tôi: “Thầy trò hiểu nhau là hơn hết”. Mặc dù Thầy chúng tôi nói với quý vị chúng tôi tu là Thiền ngoại đạo, bị ngũ ấm ma, và còn nói với quý vị chúng tôi chẳng hiểu Phật Pháp hoặc nói chúng tôi tu theo Tiểu Thừa tiêu nha, bại chủng; hoặc nói chúng tôi khai trừ Thầy. Những lời nói này quý vị không thể hiểu được Thầy chúng tôi đâu. Quý vị nên nhớ, nhờ có Thầy chúng tôi mà quý vị mới biết được chúng tôi ngày nay. Một lát nữa chúng tôi sẽ giải thích cho quý vị nghe.

(05:37) Thầy chúng tôi đã tận tụy hy sinh cả đời mình vì Phật pháp. Tìm thấy cái gì hay trong kinh sách vội đem ra kêu chúng tôi về cho tu tập. Cho nên cuộc đời của Thầy chúng tôi nguyện đem hết sức mình lo cho Tăng, Ni và Phật tử quá nhiều. Luôn luôn lúc nào Thầy của chúng tôi cũng chịu cực khổ lo giảng kinh dạy đạo và còn dịch viết kinh sách Thiền để cho quý vị không lầm đường tu hành. Bởi vậy chúng tôi tin Thầy của chúng tôi hơn ai hết. Thầy chúng tôi nói điều gì về chúng tôi là nhắc nhở chúng tôi tránh những điều sai lầm. Như nói chúng tôi tu lạc vào thiền ngoại đạo là nhắc nhở chúng tôi kiểm tra lại đường lối tu hành của mình. Nói chúng tôi không hiểu kinh điển là bảo chúng tôi ôn cố lại kinh điển. Nói chúng tôi bị ngũ ấm ma là nói chúng tôi ý tứ từng lời nói và việc làm. Nói chúng tôi tiêu nha bại chủng là nói chúng tôi tận lực tu hành để trợ giúp Thầy chấn hưng Phật pháp làm Bồ Tát hạnh. Nói chúng tôi khai trừ Thầy là bảo chúng tôi gắn bó cùng Thầy để Thầy trò cùng nhau làm lợi ích chúng sanh.

(07:20) Kính thưa quý vị Phật tử! Những lời dạy bảo này là vì nguyên nhân Phật pháp hôm nay đã bị pha trộn đủ loại pháp môn tu hành. Người tu hành thường rơi vào ngũ ấm ma mà không hề hay biết, nên Thầy chúng tôi ngăn ngừa cảnh giác, nói thẳng về sự tu hành của chúng tôi để chúng tôi coi chừng lầm lạc.

Kính thưa quý vị! Những lời nói này là những lời khuyên vàng ngọc của Thầy đối với chúng tôi. Những lời nói này làm cho chúng tôi luôn luôn vẫn thấy thầy ở một bên mình, dìu dắt chúng tôi từng bước đi không để chúng tôi bị ngã té trên đường tu tập. Lòng thương yêu của Thầy chúng tôi không thể lấy trời biển núi non mà sánh được.

Kính thưa quý vị Phật tử! Tâm nguyện lớn lao hy sinh cả cuộc đời mình cho Phật pháp nên Thầy chúng tôi thường dạy bảo: “Một người tu chứng là Phật pháp thường còn”. Vì thế ngày nay đã biết bao nhiêu người thấm nhuần công đức của Thầy chúng tôi. Vì có hiểu Thầy như vậy nên chúng tôi không ngần ngại nói lên những điều mà chúng tôi đã thấy biết được để giúp Thầy chấn hưng Phật pháp và để giúp quý vị tu hành không hoài công phí cuộc đời.

2- SO SÁNH CÁC LOẠI THIỀN

(9:50) Kính thưa quý vị Phật tử! Con đường tu theo đạo Phật hiện giờ có muôn vạn nẻo, nếu chọn sai pháp môn tu hành thì uổng phí một đời không có kết quả. Theo sử 33 vị Tổ Sư Thiền Ấn Độ và Trung Hoa thì con đường thiền này do từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ dạy. Qua câu chuyện niêm phong trên núi Linh Thứu, Ngài Ca Diếp mỉm cười thì chắc quý vị ai cũng biết rõ. Chúng tôi chẳng cần thuật lại làm gì cho mất thì giờ. Ca Diếp tổ thứ nhất bên Ấn Độ truyền xuống đến tổ thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma. Bồ Đề Đạt Ma sang Trung Hoa và làm Tổ thứ nhất tại đất nước này. Người Trung Hoa đắc thiền này đầu tiên là Thần Quang, sau này gọi là Nhị Tổ Huệ Khả. Bồ Đề Đạt Ma truyền đạo thiền này cho Huệ Khả qua câu chuyện an tâm. Chúng tôi xin nhắc lại câu chuyện để quý vị thưởng thức.

Thần Quang đến tìm Bồ Đề Đạt Ma để mong cầu Pháp tu hành. Lúc bấy giờ Bồ Đề Đạt Ma đang ngồi nhìn vách đá, nên Thần Quang đứng đợi chẳng dám động. Mãi đến hôm sau tuyết phủ lấp gối Bồ Đề Đạt Ma mới quay ra hỏi:

  • Ngươi đến cầu gì mà phải khổ sở vất vả quá vậy?

  • Thần Quang đáp: Con đến cầu pháp.

  • Bồ Đề Đạt Ma: Ta có pháp gì để ngươi cầu?

  • Thần Quang đáp: Bạch Hòa Thượng tâm con bất an.

  • Bồ Đề Đạt Ma: Ngươi lấy tâm ta an cho.

  • Thần Quang đứng lặng, nhìn quanh quất chẳng tìm thấy tâm đâu, liền bạch: Bạch Hòa Thượng, tâm ở đâu, làm sao con lấy được.

  • Bồ Đề Đạt Ma: Ta đã an tâm ngươi rồi đó!

Thần Quang bèn quỳ xuống đảnh lễ Tổ nhận pháp an tâm”.

(12:30) Ngay câu nói mà liền hiểu gọi là đốn ngộ. Như vậy Thần Quang đã ngộ pháp an tâm tức là ngộ Phật tánh còn gọi là kiến tánh. Qua câu chuyện này quý vị có hiểu pháp an tâm không? Để chúng tôi so sánh chỗ pháp an tâm và kinh Nguyên Thủy thì quý vị thấy rõ ràng. Theo kinh Tứ Niệm Xứ Phật đã dạy: “vô thường, khổ, không, vô ngã”. Chỗ pháp an tâm của Bồ Đề Đạt Ma tương ưng chỗ Phật dạy tâm vốn không. Khi Thần Quang nhìn lại để tìm kiếm tâm thì tâm không thấy đâu, nhưng khi khởi niệm thì liền có tâm, không niệm thì không tâm. Vậy khi không niệm tâm quý vị có an không? Vì không niệm thì còn chỗ nào gọi là phiền não bồ đề; thì còn chỗ nào gọi là tham, sân, si, ái; thì còn chỗ nào gọi là đau khổ sanh tử. Cho nên Bồ Đề Đạt Ma gọi là an tâm. Vậy pháp môn an tâm của Bồ Đề Đạt Ma có giống pháp môn chẳng nghĩ thiện nghĩ ác, Bản Lai Diện Mục hiện tiền của Lục tổ Huệ Năng không? Kính thưa quý vị Phật tử, khi tâm chẳng nghĩ thiện nghĩ ác, thì tâm ở trong trạng thái không niệm. Tâm ở trong trạng thái không niệm là tâm không. Tâm không là tâm không phiền não. Không phiền não là tâm an ổn. Tâm an ổn là an tâm. Như vậy bây giờ quý vị đã hiểu rõ hai pháp giống nhau không khác nhau phải không?

(14:51) Chúng tôi xin kể lại câu chuyện Bản Lai Diện Mục để quý vị thưởng thức.

“Khi Huệ Minh đuổi theo Huệ Năng để dành y bát lại. Lục tổ Huệ Năng biết chạy không thoát khỏi, nên bỏ y bát bên vệ đường đứng đợi. Khi Huệ Minh đuổi kịp, Huệ Năng bình tĩnh bảo: Người đến đây cầu pháp hay cầu y bát? Nếu cầu y bát, thì y bát ở đây ngươi cứ lấy đi đi!

Huệ Minh cúi đầu đảnh lễ tác bạch: Con đến cầu pháp chẳng cầu y.

Lục tổ Huệ Năng đáp: Chẳng nghĩ thiện nghĩ ác cái gì là Bản Lai Diện Mục của Thượng tọa Huệ Minh?

Huệ Minh đảnh lễ Tổ nhận pháp Bản Lai Diện Mục rồi trở về.”

Kính thưa quý vị Phật tử! Bây giờ chúng ta đem hai pháp này so sánh với kinh Đại Thừa, vì lúc nãy chúng ta đã đem so sánh với kinh Nguyên Thủy rồi. Kinh Kim Cang Bát Nhã có câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” do câu kinh này mà Lục tổ Huệ Năng đã kiến tánh. Nghĩa của câu kinh này dạy đừng nên trụ chỗ nào thì tâm kia hiện tiền.

Xin thưa với quý vị Phật tử! Tâm của chúng ta thường trụ ở ba chỗ: niệm thiện, niệm ác và không niệm. Kinh này dạy chúng ta ở chỗ không trụ, không trụ tức là không niệm, không niệm tức là tâm vốn không, tâm vốn không tức là an tâm, an tâm tức là chẳng nghĩ thiện nghĩ ác, chẳng nghĩ thiện nghĩ ác tức là Bản Lai Diện Mục, Bản Lai Diện Mục tức là Phật tánh. Chỗ vô trụ này còn nhiều tên khác nhau mà chúng ta từng gặp trong các kinh sách Đại Thừa và kinh sách Thiền Đông Độ. Bấy giờ quý vị đã hiểu kinh và lời của Tổ đều khế hợp nhau, nên người đời sau gọi là Thiền Giáo đồng hành.

(17:26)Thiền Đông Độ chia làm ba giai đoạn:

  1. Giai đoạn thứ nhất gọi là giai đoạn đầu thiền.

  2. Giai đoạn thứ hai gọi là giai đoạn giữa thiền.

  3. Giai đoạn thứ ba gọi là giai đoạn cuối thiền.

    1. Từ pháp môn An Tâm đến pháp môn Bản Lai Diện Mục là giai đoạn đầu của Thiền Đông Độ.

    2. Từ số đệ tử của Lục tổ Huệ Năng đến Lâm Tế là giai đoạn giữa thiền.

    3. Từ số đệ tử của Lâm Tế đến Hư Vân Hòa Thượng và La Hỏa Thiền sư là giai đoạn cuối thiền.

Giai đoạn đầu, Thiền sư khai ngộ cho đệ tử dễ hiểu, dễ ngộ, cho nên lúc bấy giờ người theo tu rất đông nhất là thời kỳ Lục tổ Huệ Năng người nghe qua liền ngộ, không cần phải moi đầu nặn óc tìm kiếm. Chúng ta phải nói thiền Đông Độ cực thịnh nhất ở thời điểm này như hoa thiền đến thời kỳ rộ nở. Khi nhận ra pháp này Thiền Đông Độ gọi là đốn ngộ, ngộ xong rồi phải bảo nhậm còn gọi là tiệm tu, giữ tâm hay chúng sanh độ Phật. Vì vậy mà có từ ngữ “đốn ngộ rồi tiệm tu”. Tiệm tu có nghĩa là tu lần lần. Mục đích của thiền này là nhắm vào Phật tánh. Vì có ngộ được Phật tánh mới thành Phật nên gọi là kiến tánh thành Phật. Ngộ Phật tánh tức là nhận ra pháp môn tu hành. Nhận ra pháp môn tu hành tức là nhận ra chỗ chẳng nghĩ thiện nghĩ ác. Chỗ chẳng nghĩ thiện nghĩ ác là chỗ không có pháp môn, nên thiền này còn gọi là chẳng có pháp môn nào, chỗ không có pháp môn nào biết lấy cái gì tu hành?

(20:08) Do đó:

  • Kinh Kim Cang dạy cách tu “Bồ Tát độ chúng sanh mà không thấy mình độ, độ hết chúng sanh thì thành Phật”.

  • Bát Nhã Tâm kinh dạy: “Đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không”.

  • Kinh Lăng Nghiêm dạy : “Phản văn, văn tự tánh”.

  • Kinh Viên Giác dạy: “Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác”. Các tổ sư thiền dạy: “chăn trâu”, “gọi ông chủ”, “biết vọng liền buông”, “tham thoại đầu”, “tham công án”, “khởi nghi tình”, v.v…​

Thầy chúng tôi giải thích cách tu của kinh Kim Cang dừng hết vọng tưởng là thành Phật. Thiền sư Huệ Hải cũng dạy như vậy. Thiền sư Dược Sơn dạy: Ngàn Thánh cũng chẳng làm nghĩa là cái biết không cho mất, nhờ cái biết trong cái không niệm thiện niệm ác lâu ngày thuần thục nên gọi là da mỏng da dày đều rớt sạch. Giữ tâm chẳng niệm thiện niệm ác còn gọi là chăn trâu. Vọng tưởng hết gọi là hết chăn trâu. Hết chăn trâu là thành tựu cũng như kinh Kim Cang dạy độ hết chúng sanh là thành Phật.

Kính thưa quý vị! Việc làm này không phải dễ cho nên tổ sư Hoàng Bá đã dạy:

Thoát khỏi trần lao việc chẳng thường” hoặc

Chẳng phải một phen sương lạnh buốt

Hoa mai đâu há dễ ngửi mùi hương

Cho nên chăn trâu và độ chúng sanh mãi không hết. Thiền sư mới nghĩ ra cách biết vọng liền buông. Thầy chúng tôi triển khai diệu pháp này để hồi phục Thiền Đông Độ và chấn hưng Thiền Tông Việt Nam. Trong thời gian chúng tôi theo Thầy tu học tại Thiền viện Chân Không, Thầy chúng tôi dùng phép an tâm khai ngộ chúng tôi và dạy chúng tôi cách tu biết vọng liền buông.

(23:11) Kính thưa quý vị! Kinh Đại Thừa và Thiền Đông Độ dạy cách tu quá đơn giản, nhưng kinh phát triển và Thiền Đông Độ không ngờ khi tâm hết vọng tưởng thì tâm không bao giờ chịu đứng yên một chỗ chẳng niệm thiện niệm ác mà lại lặn xuống rơi vào trạng thái mất tiêu nên trong Thập Mục Ngưu Đồ tranh thứ 8 “Người trâu đều mất”, nhưng ở trạng thái hôn trầm, thùy miên vô ký, ngoan không đều có trạng thái mất tiêu người trâu đều mất. Ở chỗ trạng thái hôn trầm, thuỳ miên thì các Thiền sư điều biết mặt nó, do đó các Ngài lại một phen khổ sở không biết làm cách nào phá được nó. Qua những trang tự thuật của các Ngài tu hành chúng tôi biết các Ngài không có cách phá. Cho đến vô ký, quan không thì trong phần tự thuật các Ngài không có kể đến. Qua kinh nghiệm bản thân của chúng tôi thì các pháp tu từ pháp Độ Chúng Sanh, Chăn Trâu, Gọi Ông Chủ và Biết Vọng Liền Buông đều không đủ lực dừng niệm thiện, niệm ác thì làm sao phá được hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không, nên các Ngài phải lấy dùi đóng vào chân, trèo lên cây ngồi thiền, lấy gốc cây tròn làm gối kê đầu. Những việc làm này chỉ là một trò đùa với hôn trầm, thùy miên, không thể hàng phục được nó.

(25:14) Kính thưa quý vị! Chúng tôi xin lưu ý quý vị ở chỗ này khi Chăn Trâu, Độ Chúng Sanh, Biết Vọng Liền Buông, các pháp này chỉ dừng được niệm thiện niệm ác thô, còn niệm thiện niệm ác vi tế thì không thể diệt được nó. Nên chúng tôi bảo rằng các pháp môn này không đủ lực. Vì thế quý vị tu hành suốt một thời gian dài 24 năm nay mà chưa hết niệm vi tế.

Khi gặp nghịch cảnh quý vị nén được tâm nhưng không nén được loạn tưởng. Do nó mà chúng tôi bảo rằng quý vị không phá được hôn trầm, thùy miên, vô ký. Khi bị hôn trầm nặng, loạn tưởng, thì các Thiền sư thường gọi Ông Chủ. Ông Chủ là pháp môn tác ý, pháp môn tác ý có nhiều pháp như: Gọi Ông Chủ, Sổ Tức, Niệm Phật, Đề Khởi Thoại Đầu, Đề Khởi Nghi Tình, v.v…​​

Kính thưa quý vị Phật tử! Muốn chiến thắng được loạn tưởng, hôn trầm, thùy miên thì chỉ có Giới Luật của Phật mới hàng phục được nó. Do vậy đức Phật mới dạy: “Giới sanh định”. Không thể giữ tâm ức chế tâm mà có được định. Người ta đi tìm định ngoài Giới Luật thì không bao giờ có định chân chính, chỉ có những Định Tưởng mà thôi. Định tiếng động 500 cổ xe bò đi qua không nghe của ngoại đạo, định của ông Nhan Hồi tọa vong câu thân, định của Thiền sư Dược Sơn như trồng hoa trên đá, định của tổ Hám Sơn rung chuông gọi dậy, định của một vị Thiền sư nhập 1000 năm dùng đồng loa đánh xuất định, định Không Vô Biên Xứ Tưởng, định Thức Vô Biên Xứ Tưởng, định Vô Sở Hữu Xứ Tưởng, định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ đều không giải quyết được sanh, lão, bệnh, tử và cũng không chấm dứt tái sanh luân hồi, nên đức Phật đã ném bỏ như ném chiếc giày rách, chỉ có người sau không dám bỏ nên đem xếp loại trong các kinh điển của Phật.

(28:12) Những lời chúng tôi đã nói thẳng, quý vị đừng tin chúng tôi mà cứ về suy ngẫm kỹ. Sau này khi có thì giờ chúng tôi sẽ đem so sánh Bốn Thiền của Phật với thiền của kinh Đại Thừa và Thiền Đông Độ. Nếu quý vị muốn tu theo Phật mà quý vị sợ tu Giới Luật thì quý vị tu cái gì? Chúng tôi xin nêu lên một ví dụ để quý vị rõ.

Bây giờ quý vị hãy nhìn cây bồ đề trước cửa chùa cành lá đang xanh tươi tốt vì hằng ngày Chư Tăng bón phân, tưới nước rất kỹ lúc nào cũng không cho cỏ mọc ở gốc cây. Bắt đầu quý vị hái lá bỏ, khi hái sạch lá quý vị tưởng không còn lá nữa, nào ngờ trong một thời gian ngắn lá bắt đầu đâm ra rất mạnh như vậy biết bao giờ quý vị hái cho hết lá. Lá vì tự nơi gốc cây mà ra.

Chúng tôi tu Giới Luật đâu cần dừng vọng, giữ tâm, chỉ giữ gìn Giới Luật đừng cho sai phạm dù một lỗi nhỏ. Giữ gìn Giới Luật đừng cho sai phạm tức là chúng tôi đã xa lìa dục lạc thế gian, cũng giống như cây kia không bón phân tưới nước nữa thì cây phải cằn cỗi trơ cành trụi lá.

Còn quý vị cố dừng tâm, giữ tâm không cho niệm thiện niệm ác khởi mà cứ luôn chạy theo dục lạc thế gian thì cũng giống như cây kia cứ bón phân tưới nước được đầy đủ, thì làm sao quý vị hết vọng tưởng hết hôn trầm được. Cho nên người ta thường bảo ham ăn ham ngủ nghĩa là ăn nhiều phải ngủ nhiều.

(31:27) Qua kinh nghiệm bản thân của chúng tôi ăn ngày một bữa, ăn vừa đủ no không ăn ráng ăn thêm, thì hôn trầm vọng tưởng chẳng dừng thì tự nó cũng dừng. Ở đây chỉ ăn một bữa không ăn uống lặt vặt. Vậy mà có người sợ mất sức khỏe, ăn ngày một bữa mà ăn hơi nhiều hơn một chút còn bị hôn trầm, thùy miên tấn công huống là quý vị ăn ngày hai ba bữa còn ăn uống thêm lặt vặt thì thử hỏi làm sao quý vị phá hôn trầm, thùy miên, vô ký được! Nên đức Phật đã dạy: “Ăn ít ăn vừa đủ không nên ăn ráng”.

Kính thưa quý vị! Nếu quý vị tu hành mà không dừng được vọng tưởng cũng không phá được hôn trầm, thùy miên, vô ký thì lâu ngày quý vị rơi vào các định vong thân như định của Ngài Nhan Hồi, định trong Thập Mục Ngưu Đồ, tranh số 8 - Người trâu đều quên. Kinh Đại Thừa không có cách xuất nhập định, nên chỉ dừng hết vọng tưởng là thành Phật. Ở trạng thái này kinh Đại Thừa gọi là thường định, đại định, định không xuất không nhập. Thiền Đông Độ cũng vậy không có định xuất nhập. Còn Thập Mục Ngưu Đồ thì có nhập vào định vong thân người trâu đều quên. Theo kinh nghiệm bản thân của chúng tôi, nhìn cách thức buông vọng, dừng vọng thì biết cách thức nhập định của họ.

(34:20) Bây giờ chúng tôi so sánh hai thứ Thiền Định của Phật và Tổ để quý vị suy ngẫm. Theo thiền của Đạo Phật, thì muốn hàng phục vọng tâm của mình để nhập Sơ Thiền thì chúng tôi cần giữ gìn Giới Luật nghiêm túc. Sống lập ba hạnh: Ăn, ngủ và độc cư. Do ba hạnh này chúng tôi nghiêm trì được Giới Luật bảo vệ được sáu căn tức là bảo vệ được tâm của chúng tôi. Bảo vệ được tâm tức là không cho tâm tiếp duyên bên ngoài nhờ đó tâm chúng tôi thanh tịnh, không còn bị loạn tưởng hôn trầm nhiều. Chúng tôi rất tỉnh giác thường thấy cái tâm ham muốn và tham dục của mình còn nhiều hay ít, nhờ thấy được nó chúng tôi ly được dục; nhờ ly được dục chúng tôi thấy cuộc sống thoải mái, không bị ràng buộc bởi dục lạc. Tâm thường lặng lẽ, rỗng rang nhưng rất sáng suốt mọi vật không qua được ý tứ của chúng tôi, từ đó chúng tôi thấy mình làm chủ được tâm trong cuộc sống hằng ngày. Chúng tôi không làm khổ mình và cũng không làm khổ người. Điều này chúng tôi hiểu rõ lời Phật dạy “ly dục sanh hỷ lạc” là đúng. Chúng tôi nhập Sơ Thiền không có tốn công phu chút nào, chỉ cần sống đúng Giới Luật là đủ.

Kính thưa quý vị Phật tử! Chúng tôi xin lưu ý quý vị chỗ này, một người muốn nhập Sơ Thiền không phải là một việc dễ làm. Phải biết xả bỏ tâm ác, phải biết từ bỏ tánh xấu, phải biết từ bỏ bép xép nhiều chuyện, phải biết thương yêu mọi người, phải biết tha thứ mọi lỗi lầm của người khác, phải biết nhẫn nhục, phải biết tùy thuận, phải biết bằng lòng trong mọi hoàn cảnh, phải biết xa lánh sắc dục, phải biết ăn ngày một bữa, phải biết ngủ ít, phải biết sống độc cư, phải biết tu tập đức hạnh giải thoát. Tóm lại quý vị phải xa lìa tâm danh lợi và ly tất cả dục lạc thế gian, có được như vậy thì mới nhập được Sơ Thiền.

(38:00) Kinh Đại Thừa và Thiền Đông Độ dạy phải dụng công tu tập hết sức mới độ hết chúng sanh, mới giữ được tâm chẳng nghĩ thiện nghĩ ác. Khi độ hết chúng sanh và chẳng nghĩ thiện nghĩ ác thì mới tương ưng bằng chúng tôi tu Giới Luật nhập Sơ Thiền. Cùng một kết quả tu hành giữ gìn Giới Luật thì gọi “Giới sanh Định”. Kinh Nguyên Thuỷ gọi là “ly dục sanh hỷ lạc” nhập Sơ Thiền. Kinh Đại Thừa gọi là thành Phật. Thiền Đông Độ gọi là Bản Lai Diện Mục.

Kinh Nguyên Thủy và Giới Luật được giải thoát do ly dục. Ly dục là lìa tâm ham muốn nên giải thoát được cái ăn, cái ngủ và tất cả lòng ham muốn, nên cuộc sống không còn bon chen khổ sở, phiền não, sân hận, tham lam si mê ganh tỵ, v.v…​​ Còn kinh Đại Thừa và Thiền Tông thì khi dừng hết vọng tưởng thì tâm được tự tại vô ngại, đói ăn, khát uống, mệt ngủ; thậm chí ăn ngày 4, 5 bữa cũng chẳng sao; vui chơi ca hát đàn địch thỏa thích, sát sanh hại mạng cũng không tội. Những kết quả này của hai bên xin quý vị suy xét, chúng tôi chẳng có ý kiến gì về nó cả.

Kính thưa quý vị! Ở đây tu tập Giới Luật mới có diệt được tầm chưa diệt được tứ, nên chúng tôi tiếp tục nương vào hơi thở tuỳ tức để diệt tứ nhập Nhị Thiền. Đến đây chúng tôi cũng xin lưu ý nhắc quý vị khi nào quý vị hết vọng tưởng mới tu pháp tùy tức, còn nếu vọng tưởng chưa hết mà vội tu pháp tùy tức thì quý vị tu hành hoài công vô ích; mà còn làm điểm tựa cho hôn trầm, thùy miên, vô ký tấn công chứ chẳng ích lợi gì cho con đường tu hành của quý vị; mà về sau còn tai hại rất lớn cho quý vị.

(40:53) Khi chúng tôi tu Giới Luật ly dục diệt tầm tương ưng với tranh thứ 7 trong Thập Mục Ngưu Đồ của Thiền Tông - “Trâu quên còn người”. Chỗ này tương ưng với kinh Đại Thừa, “Độ hết chúng sanh thành Phật”. Khi chúng tôi diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền chỗ này tương ưng với bức tranh thứ 8 trong Thập Mục Ngưu Đồ - “Người trâu đều quên”. Chúng tôi biết rất rõ ràng diệt tầm là tâm không, diệt tứ là thân không. Xin lưu ý quý vị khi chúng tôi diệt tầm tứ thì chúng tôi không mất. Chúng tôi đang ở trong một trạng thái hỷ lạc do sức định của Nhị Thiền sinh ra. Trong Thập Mục Ngưu Đồ tranh 8 - “Người trâu đều quên” không có hỷ lạc, nên mất tiêu đó là trạng thái vong thân còn gọi là định tưởng vô sắc định, người nhập định tưởng còn mộng mị chiêm bao như Thiền sư Hoàng Bá, Hám Sơn, Trí Khải Đại sư, như Hư Vân Hòa Thượng, v.v…​​ Hầu hết phải nói rằng các Thiền sư Đông Độ đều còn nằm chiêm bao tức là còn tưởng dục. Xưa đức Thế Tôn đã nhập được các định tưởng và nhập đến định cao nhất của tưởng là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định. Khi nhập xong đức Phật xem xét lại thấy không có lợi ích thiết thực giải quyết cái khổ của đời người, nên đức Phật ném bỏ mặc dù Thầy dạy đức Phật tu pháp môn này rất tha thiết yêu cầu đức Phật ở lại chia nửa tòa, nhưng đức Phật từ khước ra đi tìm chân lý.

(43:30) Chỗ này thiền Đông Độ và Nhị Thiền của Phật không thể tương ưng nhau được, cũng như kinh Đại Thừa không thể tương ưng với Sơ Thiền được. Vì Sơ Thiền nhờ tu Giới Luật ly dục ly, tâm được an ổn thanh tịnh thường trống không lặng lẽ. Còn kinh Đại Thừa khi độ hết chúng sanh thì tâm như như bất động. Giống như một vị Thiền sư nào đó cứ ôm ấp chữ như trên đầu nên qua sông quên mặc quần áo. Cũng như trong cuốn Góp Nhặt Cát Đá có thuật lại một vị hiền sinh khi sư phụ sai lấy cái thùng thì mang cái rổ, Thiền sư cả cười cho là đệ tử của mình đắc đạo vô phân biệt.

Kính thưa quý vị! Chỗ vô phân biệt này không phải là chỗ vô tâm vì cái biết vẫn còn nhưng không có phân biệt. Ở đây kinh Đại Thừa và Đông Độ chấp nhận chỗ này là tu xong, còn Thập Mục Ngưu Đồ cho tu đến chỗ này chưa xong còn tiến tu đến tranh 8, tranh 9 và tranh 10. Kính thưa quý vị! Đến đây quý vị tự suy ngẫm sự chứng đạt này, chúng tôi không có ý kiến gì.

Kính thưa quý vị Phật tử! Người trâu đều quên mà trong Thập Mục Ngưu Đồ không xác định tu ở mức độ nào mới đúng là tranh số 8. Mọi trạng thái lặng hôn trầm, thùy miên, vô ký và ngoan không đều có trạng thái người trâu đều quên. Chỗ này khi quý vị về suy ngẫm lại khi nào bí quá quý vị về hỏi các vị Thiền sư Đông độ.

3- CHUYỂN ĐỔI NHÂN QUẢ

(46:19) Kinh Đại Thừa và Thiền Đông Độ cho rằng độ hết chúng sanh và chẳng nghĩ thiện nghĩ ác thì thành Phật. Vậy thành Phật rồi còn phải tu nữa hay không? Khi độ hết chúng sanh rồi có làm chủ được thân tâm và có chấm dứt tái sanh luân hồi chưa? Và cách thức làm chủ bằng cách nào đây?

Chúng tôi xin nhường lời lại cho Tổ Bách Trượng trả lời quý vị, Tổ Bách Trượng dạy: “Chẳng muội nhân quả”. Ở đây quý vị phải hiểu câu nói này, đau là phải chịu đau, chết là phải chịu chết, chứ không thể nào làm chủ được nó. Chỉ chẳng mê muội trước nó là đủ. Chúng tôi xin lập lại câu nói này để cho quý vị dễ hiểu hơn. Nghĩa là quý vị chẳng sợ hãi trước cơn đau bệnh, trước cái chết, trước cái tai nạn khổ sở là đủ, nghĩa là đừng sợ hãi. Vì quý vị thấy nó là huyễn giả, không thật, là không. Mọi vật, mọi hoàn cảnh, mọi sự việc xảy ra đều là không thật, đều là huyễn giả. Thì do hiểu biết như vậy thì quý vị sẽ không sợ hãi, không có khổ tâm, không có đau khổ nữa. Vì thế Nhị Tổ Pháp Loa bệnh đau rên hừ hừ. Tổ Bách Trượng mượn thuyết định mệnh để chứng minh Thiền Tông không làm chủ nhân quả. Câu chuyện Bách Trượng giả hồ, chúng tôi xin lưu ý quý vị, Tổ Bách Trượng mượn thuyết định mệnh chứ không phải là thuyết nhân quả. Thuyết nhân quả không có phải như vậy, nghĩa là không hiểu như vậy được. Đây là thuyết định mệnh. Còn đạo Phật thì chuyển nhân quả và làm chủ nhân quả. Ví dụ: Cùng hai đứa bé nhức răng ôm khóc, một đứa con nhà giàu, một đứa con nhà nghèo. Đứa bé con nhà giàu được cha mẹ đưa đến nha sĩ chữa trị hoặc nhổ chiếc răng hư, đứa này không còn đau nhức chạy chơi vui cười. Còn đứa bé con nhà nghèo, không có tiền đi nha sĩ nên phải chịu đau nhức khóc mãi suốt ngày này sang ngày khác.

(49:15) Kính thưa quý vị! Người giàu có là do phước báo hữu lậu, biết bố thí, cúng dường mà còn chuyển nghiệp nhân quả được, huống là chúng ta tu pháp môn giải thoát vô lậu thì phước báo vô lậu không thể nghĩ lường như muốn chết hồi nào thì chết, muốn sống hồi nào thì sống không có luật định mệnh hay luật nhân quả nào cấm cản được chúng ta.

Kính thưa quý vị! Xin quý vị lưu ý chỗ này, lúc nãy Tổ Bách Trượng dùng thuyết định mệnh, còn qua câu chuyện chúng tôi vừa kể về đứa hai bé là thuyết nhân quả, mà thuyết nhân quả thì làm chủ được vì di chuyển được nó. Còn thuyết định mệnh thì không thay đổi được. Cho nên dù có làm Phật thì cũng không làm chủ được cái nhân quả. Như vậy thì quý vị phải hiểu như vậy để phân biệt được luật nhân quả và luật định mệnh. Hai thuyết này khác nhau chứ không giống nhau, nhưng nó chỉ giống nhau ở hành động nhân - quả mà thôi. Có sự cố định đó là thuyết định mệnh, mà cái sự thay đổi đó là thuyết nhân quả. Bây giờ quý vị đã hiểu.

Ví dụ: Đức Phật, ông Xá Lợi Phất, ông La Hầu La tự tại nhập Niết Bàn…​ Bởi vậy người tu theo đạo Phật đến Tứ Thiền xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thì không còn nghiệp đau, nghiệp chết, tác dụng được vì thọ đã bị triệt tiêu trong định Tứ Thiền, như vậy mới gọi là làm chủ sanh tử. Làm chủ sanh tử là làm chủ nghiệp, làm chủ nghiệp là xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh. Xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh là xả thọ, xả thọ tức là đoạn ái, đoạn ái tức là chấm dứt tái sanh luân hồi. “Vì có thọ mới có ái”, cho nên khi thọ diệt thì ái phải đoạn. Ở đây quý vị đã hiểu rõ.

(51:54) Kính thưa quý vị! Đến đây quý vị biết Tứ Thiền là một pháp môn rất quan trọng của đạo Phật. Phật dạy 37 phẩm trợ đạo đều giúp cho pháp môn này để cho quý vị thành tựu sự giải thoát cá nhân của quý vị ra khỏi cuộc đời, ra khỏi thân đau khổ này. Chúng tôi xin quý vị lưu ý chỗ này thêm, thọ là then chốt của nghiệp, của ái. Chúng ta tự hỏi nghiệp để làm gì? Nghiệp để cho ai? Xin trả lời nghiệp để cho thọ. Ái để làm gì? Ái để cho ai? Xin trả lời ái để cho thọ. Vậy chúng ta tu hành dùng Tứ Thiền xả thọ thì nghiệp và ái còn tác dụng vào đâu cho nên gọi là diệt nghiệp đoạn ái. Diệt nghiệp là làm chủ thân tâm; đoạn ái là chấm dứt tái sanh luân hồi. Con đường của đạo Phật dạy chúng ta tu hành quá rõ ràng không giống như Thiền Đông độ và kinh Đại Thừa.

4- TÂM VÔ TÂM

Kính thưa quý vị! Chúng tôi xin chép ra đây một đoạn trong Thiền Luận của Đại Đức Suzuki : “Thấy tâm không thật thì tâm dứt, quên trâu tranh 7 - “Vong ngưu tồn nhân”, thấy người không thật thì người quên nốt tranh 8 - “Nhân ngưu câu vong”. Biết cái tâm là tâm không tâm, ấy là hiểu suốt Đạo Phật” (Thiền luận tập thượng trang 616 ). Nghe qua những lời dạy này quý vị có biết cách tu hay không? Hay chỉ cần thấy tâm không thật, người không thật là vọng tưởng hết là chẳng nghĩ thiện nghĩ ác. Nói được, không làm được, tri hành không hợp nhất. “Người và trâu đều quên thì từ lòng đất dõng mãnh vọt lên mặt trời tuệ, tượng trưng bằng cái vòng tròn viên giác, tranh 8 - đó là Tâm vô tâm” (Thiền luận tập thượng, trang 616).

(54:25) Kính thưa quý vị Phật tử! Đến tranh 8 Thập Mục Ngưu Đồ xác định người trâu đều quên mất, mới cho đó là tâm vô tâm. Còn kinh Đại Thừa và Thiền Đông Độ trâu mất mà thằng chăn còn nên gọi là vô phân biệt, qua sông quên mặc quần áo, sai lấy cái thùng mang cái rổ, chỗ này không phải là vô tâm. Ở chỗ Thập Mục Ngưu Đồ tranh 8 mới là chỗ tâm vô tâm. Chỗ này mới gọi là năng sở không còn. Thầy chúng tôi dạy năng sở không còn tức là vô tâm hay là tranh số 8. Thập Mục Ngưu Đồ cho chỗ vô tâm là chưa kết quả viên mãn nên bảo vô tâm còn cách một lớp rào, vì thế phải tiếp tục tu hành tiến tới tranh 9, tranh 10.

Kính thưa quý vị! Cái vòng tròn tượng trưng cho trí tuệ từ trong lòng đất người trâu đều quên sanh ra, Thập Mục Ngưu Đồ, Thiền Tông không xác định được người trâu đều quên ở mức độ nào mà trí tuệ phát sáng đúng. Hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không cũng có trạng thái người trâu đều quên, rồi cũng từ trong đó có trí tuệ phát sáng, cũng ngộ những công án, cũng thông suốt các lý luận của Thiền Tông và các kinh Đại Thừa. Những trí tuệ phát sáng này chúng tôi gọi là tưởng tuệ. Tưởng tuệ là do từ trong định tưởng phát ra, tùy theo ở mức độ nhập định tưởng lâu mau, sâu cạn và do đó có sự hiểu biết thấp cao. Tưởng tuệ là trí tưởng tượng suy nghĩ nghĩa lý trong các kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ chứ không có kinh nghiệm tu hành như kinh Phật, kinh Nguyên Thủy. Câu: “chẳng nghĩ thiện nghĩ ác, độ hết chúng sanh thành Phật, thấy tâm không thật thì tâm dứt, thấy người không thật thì người quên”. Những câu nói này là tưởng tuệ, không tu hành gì được, bằng chứng kinh sách thì nhiều mà người tu chẳng ra gì, nghe thì hữu lý mà thực hành thì không vô.

(57:05) Bởi vậy có hàng trăm hàng ngàn người theo tu với Mã Tổ mà người ngộ đạo, ngộ được tâm ngồi đạo tràng tu hành chỉ có 84 người nhưng đến khi thành tựu chỉ còn có 2, 3 người. Tức là những người nhập được định trong đó có Thiền sư Dược Sơn. Phải nói Thiền Đông Độ có nhiều đạo tràng chỉ có đạo tràng của Mã Tổ là số người tu đông nhất.

Kính thưa quý vị! Giai đoạn đầu thiền người ngộ thì đông mà tu thành tựu thì quá ít, không giống như câu nói kiến tánh thành Phật. Biết bao nhiêu người đã thấy chỗ không nghĩ thiện, nghĩ ác mà có làm Phật được đâu? Mà có thành Phật chỗ nào? Do sự tu không được, các Thiền Sư phải thay đổi cách khai ngộ và cách tu, bắt đầu họ dùng những công án rắc rối hơn, hoặc đánh hoặc la, hoặc hét để hạn chế người ngộ. Đó là giai đoạn giữa thiền. Bắt đầu từ các đệ tử của Lục tổ Huệ Năng đến Lâm Tế, về cách tu tập họ cũng còn giữ cách tu cũ, nhưng có thêm nhiều thứ thiền như:

  • Thiền Lục Diệu Môn: sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh.

  • Thiền Hơi Thở: phong, khí, suyển, tức.

  • Pháp môn Tịnh Độ

  • Thiền Lục Diệu Pháp Môn do Trí Khải đại sư sản sanh.

  • Thiền hơi thở phong, khí, suyển, tức do một vị Thiền sư mà chúng tôi không nhớ tên rõ.

Pháp môn Tịnh Độ do Thiền sư Huệ Viễn lập Liên Trì Thư Xã và sớ giải kinh Tịnh Độ. Thiền sư Diên Thọ Vĩnh Minh tán thán sương minh pháp môn này.

(59:33) Khi con đường thiền Đông Độ tu không có kết quả người ta mới sinh ra nhiều pháp môn như vậy. Nhưng mỗi pháp môn được sinh ra chỉ sống một thời với người cha đẻ của nó rồi cũng chết vì thiếu kinh nghiệm, do trí tưởng tượng tạo ra nên tu không có kết quả. Pháp môn Tịnh độ còn sống đến ngày nay là nhờ một nhóm Thiền sư khéo léo biến pháp môn Tịnh Độ làm chỗ nương tựa tinh thần như: cầu an, cầu siêu và niềm hi vọng người chết được sanh về Cực Lạc. Người sống tu chưa đạt được nhất tâm, sau khi chết cũng được sanh về Cực Lạc tiếp tục tu hành. Người ta đặt ra 48 lời nguyện của đức Phật Di Đà để mọi người dựa vào đó mà nuôi hy vọng như trong sám Từ Vân có câu :

Thiện nam tín nữ các người

Chí thành tưởng Phật niệm mười tiếng ra

Ta không rước ở nước Ta

Thệ không làm Phật chắc đà không sai

Nhưng đây chỉ là một thứ hy vọng ảo tưởng mà thôi.

Kính thưa quý vị Phật tử! Bấy giờ chúng tôi đem so sánh kinh sách Nguyên Thủy, kinh Đại Thừa, Thiền Đông Độ với Thập Mục Ngưu Đồ. Chúng tôi xin nhắc lại kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ chấp nhận khi hết vọng tưởng là thành Phật: “độ hết chúng sanh thành Phật, chẳng nghĩ thiện nghĩ ác Bản Lai Diện Mục hiện tiền hay kiến tánh thành Phật”. Chỗ này kinh Đại Thừa và Thiền Đông Độ chỉ tương ưng với Thập Mục Ngưu Đồ ở tranh số 7 - “Ngưu vong tồn nhân”. Thầy chúng tôi dạy trâu mất người chăn phải còn. Chỗ này Thầy chúng tôi cũng chỉ tương ưng với tranh 7 với kinh Đại Thừa, với Thiền Đông Độ, nhưng không thể tương ưng với Thập Mục Ngưu Đồ tranh 8 được.

(01:02:34) Kinh Đại Thừa và Thiền Đông Độ tu đến chỗ này được xem là thành Phật. Phật là Đại giác, giác là trí tuệ. Ngược lại Thập Mục Ngưu Đồ cho chỗ tu này chưa xong nên phải tiếp tục tu tới tranh 8 - “Nhân ngưu câu vong” - người trâu đều mất, người trâu đều quên. Kinh Đại Thừa và Thiền Đông Độ không có, nhưng kinh Nguyên Thủy thì tương ưng với Thập Mục Ngưu Đồ ở tranh 8, nhưng lại khác, khi người trâu đều quên thì Thập Mục Ngưu Đồ mất tiêu rồi phát ra trí tuệ, còn Kinh Nguyên Thủy thì ở trong trạng thái hỷ lạc do định Nhị Thiền sanh như chúng tôi đã nói ở trên. Khi trí tuệ hiện ra thì hành giả thấy mình và vạn hữu là một. Nên Thiền sư Thiền Lão dạy:

Thúy trúc huỳnh hoa phi ngoại vật

Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân

Dịch :

Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh ngoại

Trăng trong mây bạc hiện toàn chân

Thấy mọi vật là mình, mình là mọi vật là tranh số 9 - ‘Phản bổn hoàn nguyên” trong Thập Mục Ngưu Đồ. Tu đến chỗ này sau một năm nhập thất Thầy chúng tôi tuyên bố trước Tăng Ni và Phật tử Thầy đã về đến nhà tranh số 9 - “Phản bổn hoàn nguyên”. Sau khi ra thất Thầy chúng tôi cho xây cất Thiền viện Trúc Lâm, phát huy Thiền Tông Việt Nam để Tăng, Ni và Phật tử có chỗ tu hành chân chính, đó là Thầy chúng tôi đang ở tranh 10 - “Thõng tay vào chợ”.

(01:04:43) Kính thưa quý vị Phật tử! Thầy chúng tôi vừa dẫn dắt Tăng, Ni và Phật tử và còn phải tự tu cho mình. Thế là đến hôm nay Thầy chúng tôi đã đi suốt quãng đường Thập Mục Ngưu Đồ Thiền Tông.

Kính thưa quý vị! Như vậy xét qua cách thức tu hành để đi đến kết quả thì kinh Đại Thừa và Thiền Đông Độ giống nhau. Còn Thập Mục Ngưu Đồ thì không giống kinh Đại Thừa và Thiền Đông độ. Kinh Nguyên Thủy độc lập không giống kinh Đại Thừa, Thiền Tông và Thập Mục Ngưu Đồ. Cho nên pháp môn của đức Phật hiện giờ chúng ta đừng hiểu nó là phương tiện di chuyển mà phải hiểu mỗi pháp môn là một con đường đi. Mỗi con đường đi nó sẽ dẫn chúng ta đến một nơi riêng của nó.

Kính thưa quý vị Phật tử! Đến đây quý vị cần suy ngẫm kỹ chứ quý vị đừng hiểu trăm sông đều về biển cả. Đem pháp môn tu hành của đức Phật ví dụ như vậy là sai. Vì mọi pháp môn tu hành không phải là những môn học được xếp loại thấp cao để nối tiếp nhau theo lớp lang. Mọi pháp môn có thấp cao tự nó. Cho nên chúng ta tu đúng thì đúng ngay từ lúc ban đầu mà đã tu sai thì cũng tu sai ngay từ lúc ban đầu. Nếu đường đi về thành phố Hồ chí Minh thì phải về thành phố, nếu đường đi về Tây Ninh thì phải về Tây Ninh. Không thể đi Tây Ninh mà về thành phố được, ngược lại cũng vậy.

Kính thưa quý vị Phật tử! Tranh Thập Mục Ngưu Đồ Thiền Tông do các Thiền sư sau này tưởng giải sinh ra qua kinh nghiệm tu hành của mình nên đã đi khá xa hơn kinh Đại Thừa và Thiền Đông Độ. Nhưng các Thiền sư vẫn chấp nhận cho đó là kết quả của Thiền Tông. Vậy chúng tôi xin quý vị suy ngẫm, riêng chúng tôi chẳng có ý kiến gì hết.

(01:07:19) Kính thưa quý vị Phật tử! Bây giờ đến giai đoạn cuối thiền cách khai ngộ vẫn giữ nguyên như cũ, nhưng đánh, la và hét thì các Thiền sư giảm bớt. Cách tu thì hoàn toàn thay đổi hẳn. Họ không còn tu Chăn Trâu, Gọi Ông Chủ hay biết vọng liền buông nữa, mà Tham Thoại Đầu hoặc Tham Công Án Khởi Nghi Tình. Các Ngài cố ôm chặt khối nghi dùng sức mạnh của khối nghi để tập trung tư tưởng hầu để ức chế vọng tưởng cho bằng được. Những điều ức chế tâm quá mạnh này khiến cho các Thiền sư càng nén tâm nhiều. Và sự nén tâm nhiều này khiến cho các Ngài nổi lên những cơn sân quá dữ dội. Những hành động và lời nói rất thô lỗ và hung ác, khi các Ngài đối xử với các đệ tử cũng như các Phật tử như Thiền sư Chân Tịnh, La Quả Thiền sư. Mặc dầu các Thiền sư cố dùng khối nghi mong đè bẹp được vọng tưởng để đạt được định, nhưng sự thành tựu này cũng chẳng được gì vì chính họ đã đi xa lần Giới Luật và Đức Hạnh giải thoát của đạo Phật, nên càng ngày họ tu hành không có kết quả.

Trong cuối thế kỷ thứ 20 này Thiền Tông đã chết tại đất nước Trung Quốc. Thầy chúng tôi đã đi qua đó tham quan để tìm xem có vị Thiền sư nào hay không. Chuyến đi đó Thầy chúng tôi không gặp.

5- THIẾU GIỚI LUẬT SANH TỬ LUÂN HỒI

(01:09:46) Bởi Thiền Đông Độ không tu Giới Luật, nên Thiền sư Bạch Vân Nhật Bổn đã hướng dẫn tu thiền và khai ngộ cho người Tây phương rất đông. Họ đã được Thiền sư khai ngộ và đã tu hành chứng ngộ được đạo thiền, vậy mà họ kết hôn nhau làm thành vợ chồng (trong tập 3 trụ thiền của Philip Catro, do ông Đỗ Đình Đồng dịch). Thiền sư Suzuki vẫn có những tác phẩm thiền danh tiếng trong thế kỷ 20 này, vậy mà Ngài có một người vợ Mỹ, thì thử hỏi tu thiền như vậy làm sao thoát khổ chấm dứt tái sanh luân hồi được? Nhưng có người bào chữa cho Thiền sư, vì Thiền sư có người vợ Mỹ để cùng nhau hợp tác mà viết ra những tác phẩm thiền bằng ngoại ngữ. Lời bào chữa này theo chúng tôi nghĩ không đúng. Vì đối với Thiền sư Suzuki vẫn có những người bạn trai rất tâm đầu ý hợp. Qua việc làm của ông là muốn phổ biến thiền sang Tây phương, thì hầu hết những người bạn trai này cũng sẵn sàng giúp ông. Như vậy đó là một lý luận che đậy những sự phạm giới của đạo Phật. Bởi vậy nguyên nhân đau khổ là do ái dục, cớ sao người ta lại nuôi ái dục mà gọi là chứng ngộ thiền giải thoát. Ái dục còn thì làm sao chấm dứt sanh, lão, bệnh, tử được.

(01:11:43) Hiện giờ Thầy chúng tôi phục hồi giai đoạn đầu thiền Đông Độ. Hòa Thượng Dư Luật phục hồi giai đoạn cuối thiền Đông Độ. Hòa Thượng Dư Luật​ luôn luôn kích bác Thầy chúng tôi, đệ tử của họ đem cuốn thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ 20 mổ xẻ chống bác Thầy chúng tôi. Tôi nghĩ cũng buồn cười, một con rắn độc lấy cái đuôi chửi cái đầu.

Kính thưa quý vị Phật tử! Những người đang tu thiền Đông Độ hiện giờ trong cảnh chờ đợi chén rơi, bát đổ, mèo kêu, chó sủa, hoa rơi, lá rụng để chứng ngộ đạo thiền. Chúng tôi không biết nghĩ như thế nào mà các thiền sinh đang ở trong cảnh phải chờ đợi như thế này. Quý vị cứ suy ngẫm.

Kính thưa quý vị! Như chúng tôi đã nói ở trên, Thiền sư Bách Trượng đã xác định thiền Đông Độ không làm chủ sanh tử được, chỉ dùng những danh từ hoa mỹ và những câu chuyện huyền thoại về sự làm chủ sanh tử để lừa dối, bịp người sau. Thiền sư Thường Chiếu cũng xác định rõ ràng để chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa.

Một hôm Thiền sư Thần Nghi hỏi Thiền sư Thường Chiếu:

  • Bạch Hòa Thượng, khi Hòa Thượng trăm tuổi như thế nào?

  • Thiền sư Thường Chiếu bảo: Ta chết như người thường.

  • Thiền sư Thần Nghi ngạc nhiên hỏi: Như vậy Bồ Đề Đạt Ma là sao?

  • Thiền sư Thường Chiếu đáp: Đó là bọn đại bịp. Một con chó sủa một bầy chó sủa theo.

(01:14:21) Kính thưa quý vị! Bồ Đề Đạt Ma là vị Tổ sư thiền thứ nhất, người đại diện cho Thiền Đông Độ, cho nên hai thầy trò Thần Nghi ở đây không phải nói về cá nhân Bồ Đề Đạt Ma mà nói thẳng về Thiền Đông Độ. Như chúng ta đã biết Thiền sư Bách Trượng là một vị Đại Thiền sư danh tiếng nhất Trung Quốc, Ngài có bộ Thanh Quy Bách Trượng thì đủ biết Ngài là một người có sự điều khiển chỉ huy một Thiền đường lớn không phải nhỏ của Trung Quốc, mà Ngài còn xác định con đường Thiền tông như vậy thì chuyện cha con ông Bàng Long Uẩn chỉ là một câu chuyện huyền thoại mà thôi. Ở Việt Nam, Thiền sư Thường Chiếu là một danh tăng có nhiều uy tín trong đường Thiền Đông Độ, thế mà Ngài đã thành thật xác định với chúng ta như vậy. Thiền Trúc Lâm Yên Tử truyền đến Tổ Huyền Quang là mất, mặc dù sau này có nhiều người muốn phục hồi lại nó nhưng không thành tựu chỉ vì họ chết cứng trong giáo điều Thiền Trúc Lâm. Tổ Pháp Loa trước khi tịch đau rên hừ hừ,

  • Tổ Huyền Quang hỏi: Sao Hòa Thượng lại rên?

  • Pháp Loa trả lời: Gió thổi qua khe trúc và tống cho Huyền Quang một đạp.

Ở đây quý vị tự suy ngẫm, gió thổi qua khe trúc có thọ hay không? Do có thọ Pháp Loa mới rên, nếu không thọ làm gì có rên. Tổ Huyền Quang đã chứng kiến cái chết của tổ Pháp Loa, cũng như chúng ta đã chứng kiến cái chết của Hòa Thượng Thiện Hòa, Hòa Thượng Huệ Hưng, Bửu Huệ, Thiền Tâm. Và còn biết bao nhiêu vị Tôn túc khác nữa. Từ đó tổ Huyền Quang mới đem Mật Tông vào con đường thiền này làm thơ vịnh hoa bướm khiến cho nhà vua và ông Mạc Đỉnh Chi phải nghi ngờ mới dùng nàng Thị Bích thử Tổ.

 

6- SO SÁNH CHÁNH ĐỊNH VÀ TÀ ĐỊNH

(01:17:32) Kính thưa quý vị Phật tử! Để so sánh hai thứ định: Định của đạo Phật và Định Tưởng của ngoại đạo.

1 . Định trời sét không giật mình, định của đức Phật.

2 . Định tiếng động 500 cổ xe bò đi ngang qua, định của ngoại đạo.

Ở đây không phải chúng ta so sánh hai tiếng động lớn nhỏ mà so sánh ở trạng thái giật mình và ở mục đích giải thoát của định. Trời sét không giật mình dù quý vị có đánh bể đồng loa thì cũng không xuất định. Trời sét không giật mình tức là định đã xả thọ. Xả thọ tức là diệt ái như chúng tôi đã nói ở trên, diệt ái tức là Tứ Thiền. Tứ Thiền là xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh. Xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh tức là xả thọ, hay làm chủ thọ nên không còn giật mình.

Thiền Định Tưởng, dù định cao nhất của nó cũng còn giật mình, vì thế tiếng đồng loa, tiếng chuông lắc vẫn đánh thức họ trong lúc nhập định. Thiền sư Hám Sơn lắc chuông tỉnh lại, Thiền sư nhập 1000 năm dùng đồng loa đánh xuất định đều là những định chưa chưa xả thọ, nên chưa làm chủ thân, tâm, chưa chấm dứt tái sanh luân hồi. Phần nhiều các Thiền sư nhập vào định này đều còn tưởng dục. Chúng tôi xin lưu ý quý vị một lần nữa, còn tưởng dục tức là còn mộng mị chiêm bao.

(01:19:44) Kính thưa quý vị Phật tử! Thiền Định nào để lại nhục thân được?

Thiền Định nào cũng để lại nhục thân được trừ những người chưa nhập định. Để lại nhục thân không phải mục đích của đạo Phật, nên đức Phật và các đệ tử của Ngài không có để lại, vì để lại nhục thân còn có mục đích cầu danh trong đó.

Kính thưa quý vị! Những điều chúng tôi đã phân giải ra đây là những điều chúng tôi đã trực tiếp trong cuộc đời tu hành của chúng tôi. Chúng tôi đã thấu suốt rất rõ ràng từ đời sống tu sĩ, cư sĩ và đến các pháp môn, như thế nào đúng, như thế nào sai. Chúng tôi nói ra đây để Thầy chúng tôi và cũng như quý vị Tăng, Ni, Phật tử hiểu rõ Phật pháp, để trở về đúng với con đường tu hành của đạo Phật. Chúng tôi không có ý xấu xa bài bác mọi con đường, mọi pháp môn tu hành của quý Thầy, của Thầy chúng tôi. Chúng tôi nói ra những điều này là vì chúng tôi rất hiểu rất rõ ràng mọi pháp môn, mọi con đường tu hành từ Thiền Đông Độ đến kinh Đại Thừa . Mà chúng tôi cứ ngồi nhìn quý vị tu hành ngày tháng qua mau, sanh tử gần kề; chúng tôi cũng không thể chịu được nữa. Phải nói! Nói ra dù có tan xương nát thịt; nói ra dù chúng tôi có như thế nào, chúng tôi cũng đành cam chịu. Nói để Thầy chúng tôi chấn hưng Thiền Tông Việt Nam, làm sáng tỏ Thiền Tông Việt Nam, và Thiền Tông Việt Nam sẽ có ích lợi thiết thực cho loài người nói chung, cho dân tộc Việt Nam nói riêng, và thiền sẽ sống mãi muôn đời trên thế gian này.

(01:22:53) Kính thưa quý vị Phật tử! Khi chúng tôi nói ra điều này thì quý vị khó mà được gặp được chúng tôi nữa.Tại sao? Chúng tôi nói ra vì Phật Pháp, vì sự tồn vong của Phật Pháp chứ không phải nói ra vì danh, vì lợi, vì tranh hơn thua cao thấp với quý Thầy, với Thầy chúng tôi. Chúng tôi đã xả bỏ hết danh lợi của cuộc đời, cho nên chúng tôi chẳng màng quý vị biết đến chúng tôi làm gì? Chúng tôi sẽ ẩn bóng, để Thầy và huynh đệ chúng tôi hướng dẫn quý vị trên đường tu hành của đạo Phật. Tu Viện Chơn Như chúng tôi sẽ trao lại cho Cô Út Diệu Quang, khi cô nhập xong Tứ Thiền, cô sẽ đứng ra điều khiển và hướng dẫn các cháu con của những người cư sĩ quyết tâm theo cô tu hành. Tu Viện này sẽ trở thành Tu Viện Nữ cư sĩ thì lúc bấy giờ chúng tôi sẽ không còn ở lại đây nữa.

Kính thưa quý vị Phật tử! Tại sao chúng tôi phải ẩn bóng bỏ các vị mà đi? Xin thưa cùng quý vị có hai điều kiện:

  1. Quý vị sẽ hiểu lầm chúng tôi là những người đem kinh nghiệm tu hành của mình đã đạt được ra tranh chấp hơn thua với quý Thầy và Thầy chúng tôi.

  2. Chúng tôi không muốn manh múm chia chẻ Phật Pháp thành nhiều đoàn thể, nhiều tông phái khác nhau để làm tan nát ngôi nhà Phật giáo.

(01:25:05) Kính thưa quý vị! Chúng tôi chỉ muốn những kinh nghiệm của chúng tôi được trao lại cho một vị Thầy có đức độ, có uy tín với quý vị, để vị Thầy ấy xây dựng lại ngôi nhà chánh pháp của Đạo Phật. Những kinh nghiệm tu hành của chúng tôi chỉ là những viên gạch để chúng ta là những người con Phật phải xây dựng lại ngôi nhà Phật giáo mà từ lâu đã vô tình chúng ta đã bị ảnh hưởng mọi chiều hướng, đã khiến cho tòa nhà đạo đức Phật giáo sụp đổ tan tành.

Đến đây, chúng tôi xin chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay, gửi lời thăm và chúc cả gia đình của quý vị thân tâm thường vui vẻ.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Phật tử: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính bạch Thầy! Hôm nay chúng con đã đủ duyên lành phước báu nhiều đời mới được nghe giảng dạy quý báu của Thầy. Chúng con nguyện xin ghi khắc mãi những lời dạy này suốt đời và cố gắng sửa sai những gì mà Thầy đã nhắc nhở chúng con.

(01:26:55) Kính bạch Thầy! Chúng con thành tâm cúi xin đảnh lễ và ngưỡng mong thầy cho phép chúng con được in bài giảng này để tất cả Tăng, Ni và Phật tử chúng con được tu học theo đó, và lấy đó răn nhắc chúng con trên đường tu tập. Cúi xin Thầy mở rộng lòng từ bi lân mẫn, thương xót chúng con, hứa khả nhận lời, để cho chúng con được lợi ích trên đường tu hành. Và kính xin Thầy cho biết bài giảng hôm nay lấy tên gì? Cuối cùng chúng con không biết lấy gì hơn để tỏ lòng tri ân dạy bảo của Thầy. Xin thầy nhận ba lạy.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Trưởng lão: Kính thưa quý vị Phật tử! Bài nói chuyện hôm nay được lấy tên là Phật Môn Bảo Huấn hay Trở Về Đạo Phật tùy ý Phật tử muốn chọn tên nào cũng được. Còn việc in bài giảng hay thu vào băng thì quý vị phải chờ đợi chúng tôi sẽ gửi bài dạy này về cho Thầy chúng tôi, khi nào Thầy chúng tôi đồng ý thì chúng tôi chấp nhận cho quý vị in và thu băng.

Bây giờ xin quý vị cùng chúng tôi đứng lên chắp tay, mặt hướng về tượng Phật, kính cẩn chào nhau tạm biệt.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

HẾT BĂNG 2

Pháp Âm - 1994 - ĐẠO ĐỨC GIẢI THOÁT

1994-ĐẠO ĐỨC GIẢI THOÁT

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Phật tử

Thời lượng: [01:11:49]

Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/1994-dao-duc-giai-thoat.mp3

1- HÃY NOI GƯƠNG MẬT HẠNH VÀ TIN TƯỞNG THẦY

(00:00) Hôm nay Thầy nói chuyện với cháu Tuyền:

Này con! Đã lâu lắm rồi, Thầy dự định dạy con cách tu hành từ đức hạnh giải thoát cho đến Thiền Định và Trí Tuệ Vô Lậu. Nhưng Thầy có nhiều việc phải làm, nên phải dồn hết thì giờ để dẫn dắt quý thầy tu tập Thiền Định và Phạm Hạnh. Vì trải qua một thời gian dài, đã có nhiều người theo Thầy tu hành đến nay vẫn chưa có kết quả. Vì thế, Thầy không rảnh rang để hướng dẫn con được.

Hôm nay, thầy Mật Hạnh và thầy Từ Minh đã nhập được An Chỉ Định đầu tiên. Tâm thanh tịnh giải thoát đã xuất hiện! Quý Thầy đã nhận rõ kết quả vi diệu của đạo Phật không phải là lời nói suông, nên càng tinh tấn nỗ lực tu hành hơn, càng dũng mãnh tiếp tục nhập các định khác.

Phải nói, kết quả của một năm sáu tháng nhập thất tu đúng pháp, không sai lời dạy của Thầy nên đã có được hai người thành tựu sơ khởi Thiền Định. Xét lại tâm mình, quý Thầy đã nhận rõ con đường tu của mình không còn sợ lạc vào thiền tà, chính là con đường của đạo Phật.

Tại sao quý Thầy lại biết được như vậy?

Như Thầy đã nói, quý Thầy xét lại tâm mình thấy rõ sự thanh tịnh của tâm, tức là sự ham muốn dục lạc thế gian đã giảm đi rất nhiều tạo thành một tâm thanh tịnh, an lạc nhẹ nhàng, hỷ lạc khinh an. Đó là một trạng thái giải thoát tâm ra khỏi tham, sân, si và ái. Vì thế, chính đây mới là con đường tu thiền định của đạo Phật.

(02:17) Sự thành tựu của quý Thầy chứng tỏ đạo Phật sẽ được làm sáng tỏ và sẽ chấn hưng lại được. Nhất là thời đại hôm nay, các con là những Phật tử sống trong giai đoạn Phật pháp chánh tà lẫn lộn khó phân biệt. Vậy mà hôm nay có người tu được, chứng được để các con nhận rõ đây chính là duyên lành còn sâu đậm của các con với Phật pháp. Vì sự tu hành của hai Thầy này có kết quả, nên Thầy tạm yên lòng, ngồi lại ghi bài pháp hôm nay để hướng dẫn các con về ĐẠO ĐỨC GIẢI THOÁT, và chính con cũng phải biết bài pháp này là nền tảng cơ bản vững chắc cho con đường tu thiền định của các con về sau.

Mẹ con đã nhiều lần xin Thầy bài pháp về Đức Hạnh Giải Thoát để tự tu học và hướng dẫn các con. Thầy đã hứa, nhưng mãi đến hôm nay mới được yên tâm ngồi ghi lại bài pháp này. Vậy những gì Thầy sắp sửa dạy cho con, cũng như Thầy đã dạy cho Mật Hạnh và quý Thầy trong thất.

Mật Hạnh đã đặt trọn niềm tin ở Thầy từ lúc đến với Thầy mới 7 - 8 tuổi cho đến ngày hôm nay. Vì thế, Thầy dạy đâu Mật Hạnh cố gắng thực hiện đến đó và thực hiện rất đúng lời dạy, không bao giờ làm sai!

(04:28) Do sự không hành sai và cố gắng năng nổ tu tập, giờ giấc nghiêm túc, chịu khó sống độc cư, không nói chuyện với ai, dù là bạn bè thân thuộc, dù là cha mẹ anh em ruột thịt. Có ai hỏi, có ai nói điều gì thì chỉ cười gật đầu mà thôi, ít trả lời lại, thường sống thui thủi một mình trong thất và tìm mọi cách tránh né bạn bè. Đó là thực hiện những lời dạy của Thầy và rất tinh tấn không làm sai.

Còn hầu hết tất cả các tu sĩ cũng như cư sĩ về tu hành với Thầy đều không tu đúng lời dạy của Thầy: ăn uống thì lặt vặt, không điều độ; ngủ nghỉ tùy theo hứng riêng; sống độc cư thì không nghiêm túc, lén lút nói chuyện với bạn bè, với khách thập phương, với dòng họ bà con thân thuộc. Vì thế, trải qua 7 - 8 năm trời tu hành chẳng ra gì.

Giờ đây, nhìn lại gương Mật Hạnh, lấy đó mà làm khuôn mẫu để tu hành giải thoát. Cho nên, về đức hạnh Mật Hạnh cũng hơn ai hết; về thiền định thì cũng khó có ai sánh bằng. Nhờ tin ở Thầy mới có được như ngày hôm nay. Còn riêng tất cả các người khác không đủ niềm tin ở Thầy nên không thực hành đúng lời dạy, tự ý tu theo ý mình, do đó nên sự ra đi của họ không thể tránh khỏi. Cũng vì vậy, mà con đường tu hành họ không thành tựu, không có kết quả.

(07:07) Này con! Con cũng vậy! Con hãy đặt trọn niềm tin ở Thầy! Thầy sẽ dẫn dắt con đến nơi, đến chốn, giải thoát hoàn toàn. Tuy rằng, con không được Thầy trực tiếp hướng dẫn như Mật Hạnh nhưng ngày nào đó, con cũng sẽ được trực tiếp hướng dẫn. Bây giờ, những gì Thầy dạy trong băng, con cố gắng thực hành. Cái gì chưa hiểu hoặc chưa thực hành được, hoặc thực hành sai thì nên viết thư hỏi Thầy, hay mỗi tháng về tu viện một lần trực tiếp thưa hỏi để thấu rõ cách thức tu tập.

Này con! Thầy mong con cũng sẽ tu tập được như Mật Hạnh về đạo đức cũng như về thiền định. Vậy con hãy lắng nghe! Lắng nghe cho kỹ để tiếp nhận đầy đủ lời dạy của Thầy.

2- HÃY LÀM MỘT BÁC SĨ THIỀN SƯ ĐẦY ĐỦ ĐỨC HẠNH

(08:15) Con là một đứa trẻ sinh ra trong một gia đình đầy đủ phước báu. Đó là do tiền kiếp của con đã khéo tạo nhiều điều lành. Nếu con không được tu tập và rèn luyện về Đức Hạnh Giải Thoát thì sự hưởng thọ phước báu của con sẽ mòn dần cho đến khi không còn nữa.

Vậy con hãy cố gắng siêng năng tu tập những điều Thầy dạy. Nhờ phước báu sẵn có, con hãy cố gắng học tập để sau này con có một nghề nghiệp chuyên môn. Nghề nghiệp ấy, giúp cho tâm hồn con đẹp đẽ và cao quý, nghề thầy thuốc, “Lương y như từ mẫu”. Nghề ấy giúp con và mọi người thể hiện lòng thương yêu chân thật trong đạo Phật. Nghề nghiệp ấy con đã chọn là để bàn tay và tâm hồn con xoa dịu và băng bó vết thương đau của mọi người. Không có gì cao quý bằng một y bác sĩ có lương tâm trong nghề nghiệp, với lòng thương yêu chân thật đối với bệnh nhân.

(09:38) Này con! Con cứ tưởng tượng và hình dung một người bệnh phổi, là một thứ bệnh truyền nhiễm mà ai cũng sợ. Bệnh nhân vì sợ nước lâu ngày không tắm, mồ hôi của bệnh nhân rất khó chịu. Lúc bấy giờ, bệnh nhân đang cơn nguy ngập, miệng và mũi ra máu làm ngạt thở. Nếu không nhanh chóng và tận tâm trong nghề nghiệp thì bệnh nhân sẽ tử vong dễ dàng.

Bác sĩ, một y bác sĩ tuổi trẻ khoảng 40 tuổi trở lại ở Bệnh viện Lao Tây Ninh, lúc bấy giờ không còn kịp sử dụng dụng cụ y khoa, bác sĩ ôm ngay bệnh nhân như ôm một người thân của mình sắp từ trần, kê miệng nút máu trong mũi và miệng để kịp thời cứu một mạng người. Một hành động này, một y bác sĩ thiếu lương tâm không thể làm được. Những gì không ai làm được mà chúng ta làm được là những điều đáng ca ngợi.

Một y bác sĩ “Thiền sư” là một người phải đầy đủ đức hạnh, phải có đầy đủ lương tâm nghề nghiệp và còn phải có thiền định không thể thiếu được. Vậy hôm nay, Thầy khuyên con cố gắng học tập nghề y, Bác sĩ. Biết rằng, con phải đèn sách vất vả phải chịu khó nhiều năm tháng để có một nghề nghiệp chuyên môn và cao quý.

Trong thời gian này, Thầy dạy con và giúp con rèn luyện tu tập đúng cách để con có một trí tuệ thông minh sáng suốt. Nhờ đó, sự học hành của con có dễ dàng hơn và cũng nhờ đó tâm hồn con buông xả những việc không đâu khiến cho con minh mẫn, an vui, thanh thoát để học tập, để trở thành những đứa con hiếu thảo trong gia đình, ngoài xã hội là con người có đạo đức.

(12:16) Nhưng con phải hiểu, những gì đẹp đẽ và cao quý đều phải có một sự bền chí vững lòng, kiên trì rèn luyện tu tập thì mới có được. Không thể thiếu sự rèn luyện tu tập mà có được, nhất là cái đẹp đẽ và cao quý của Đạo Đức Giải Thoát trong tâm hồn của con người khiến cho cá nhân có một niềm vui an lạc, một gia đình đầy hạnh phúc, một xã hội tràn ngập lòng thương yêu.

3- 3 ĐIỀU CẦN NHỚ KHI RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC GIẢI THOÁT

(12:57) Này con! Muốn được vậy thì không thể thiếu sự siêng năng và hằng ngày phải tinh tấn khắc phục với chính thân và tâm của con. Trong khi rèn luyện thân tâm Đạo Đức Giải Thoát có 3 điều con cần phải ghi nhớ. Con có nhớ chăng?

Điều thứ nhất: Con phải chịu khó xét lại trong ba hành động của con do từ ý con nghĩ gì? Miệng con sắp nói gì? Thân con sẽ làm gì? Nếu mọi việc nó nghĩ, nó suy nghĩ là một điều thiện, tức là ý con nghĩ điều đó khiến cho mọi người được an vui quanh con và chính con cũng được an vui thì con cố gắng thực hiện ra bằng lời nói, bằng hành động của từ thân con, miệng con, để tạo sự an vui cho con, cho mọi người.

Bằng ngược lại, ý nghĩ đó là điều ác, tức là sự suy nghĩ đó sẽ khiến con không vui, phiền não, sân hận, đau khổ và người khác cũng vậy thì con nên chấm dứt ngay trong ý đó, đừng để phát ra lời nói hay hành động của thân khiến cho cả bầu trời đầy u ám và đau khổ.

Vì lẽ đó, con phải để ý từng giây từng phút để khắc phục chính trong con, chính con trong những lỗi lầm dù là những lỗi rất nhỏ.

(15:12) Con suy tư, ở trong cái thế gian của loài người không có một bậc Thánh nào mà không có lỗi. Có lỗi mà biết khắc phục không tạo lỗi nữa, biết ăn năn chừa bỏ, bỏ những lỗi, đó là những bậc Thánh.

Còn ngược lại, phàm phu có lỗi thì luôn luôn lúc nào cũng che giấu lỗi mình bằng cách lý luận che đậy gạt mình, gạt người và họ lầm tưởng rằng mình không bao giờ có lỗi, chỉ lỗi ở người khác mà thôi.

Bởi vậy, điều thứ nhất này con phải cẩn thận cảnh giác luôn luôn lúc nào cũng phải sửa mình và cố gắng ăn năn chừa bỏ những gì con đã làm lỗi.

Điều thứ hai: Con phải khắc phục sự lười biếng, con phải tập luyện ý chí cương quyết và nhẫn nại. Lúc nào con cũng phải đem hết nghị lực chiến đấu với tâm lười biếng, với tâm không tùy thuận, với tâm ích kỷ nhỏ mọn, với tâm ganh tỵ hơn thua, v.v…​

Điều thứ ba: Con phải giữ gìn giờ giấc nghiêm túc.

Khi con đặt ra thời khóa: Học, tu và làm việc giúp mẹ con như lau nhà, bếp nước, sửa sang lại ngăn nắp trong các phòng. Khi sửa sang con phải thưa hỏi ba mẹ con, nhất là nơi ngủ nghỉ và phòng học của con phải ngăn nắp, phải thứ tự, đơn giản nhưng sạch sẽ, không chưng dọn rườm rà, kiểu cách. Thì giờ nào làm việc nấy, không được bỏ trôi qua, hoặc làm lộn xộn: giờ học ra giờ làm, giờ làm ra giờ tu, giờ tu ra giờ chơi, nghĩa là, giờ này làm việc khác, giờ khác làm việc này. Nếu con làm việc như vậy, sau này sẽ khiến con trở thành người thiếu ngăn nắp. Cuộc sống của con trở thành bề bộn, lộn xộn và bừa bãi.

(18:03) Về các môn học, những môn học nào con thấy yếu và thua chúng bạn, con nên xin ba mẹ con cho con học thêm môn đó. Đừng nên nhờ vả vào bạn bè vì lòng tự trọng của con. Con phải hiểu, bạn bè khi nhờ họ dạy con, họ sẽ khinh khỉnh và xem thường con. Thà con dạy họ học hơn là để họ dạy con. Trong sự học phải có sự ganh đua, do vì thế mà lời nói hay hành động họ sẽ làm cho tâm con bất an. Điều này chỉ được áp dụng trong trường học, không được áp dụng vào đường đời.

Vì sao?

Ngoài đời, trong mọi công việc làm ăn của mọi người đều có những kinh nghiệm riêng tư trên thương trường, trên ngành nghề. Vì thế, con phải hạ mình để học, để học bài, học những điều hay, tránh những điều dở để thành công trong sự nghiệp. Còn trong học đường thì khác, họ không bao giờ dạy con qua sự hiểu biết chân thật để họ hơn con, giỏi hơn con. Vậy con nên xin ba mẹ con bỏ tiền mời gia sư chuyên môn đến dạy và hướng dẫn bài làm, bài học cho con. Vì họ nhận tiền công, họ phải tận tâm dạy con hết lòng. Có như vậy, việc học của con sẽ không thua bạn bè và mỗi kỳ thi sẽ kết quả tốt đẹp đứng hạng nhất.

Thầy chúc con thành công trong việc học. Trước tiên là làm vui lòng ba mẹ con, sau làm rỡ ràng tông môn và nở mặt cha mẹ với mọi người, đó cũng là một việc làm hiếu hạnh của con đối với ba mẹ con và làm gương cho em con.

(20:28) Bây giờ, Thầy dạy con về Đạo Đức Giải Thoát.

Đạo đức chia làm 3 loại:

  1.  

    Đạo đức luân lý của các tôn giáo như: Khổng giáo, Thiên Chúa giáo và các Tôn giáo khác, v.v…​

  2.  

    Đạo đức luân lý của con người tự sẵn có của mọi con người.

  3.  

    Đạo đức giải thoát còn gọi là đạo đức Nhân quả của Đạo Phật.

Những đạo đức luân lý ở trên ít nhiều mọi người đều có hiểu biết và chịu ảnh hưởng sâu đậm, nhưng nó không thiết thực giải thoát tâm hồn con người ra khỏi sự đau khổ, mà còn khiến cho con người vằn vặt đau khổ bởi những đạo đức này. Nó còn trói buộc khiến cho con người không thoát ra sự tự do của con người, sự giải thoát của con người nên Thầy không dạy, mà chỉ dạy con ở Đạo Đức Giải Thoát theo tinh thần giải thoát của Đạo Phật.

4- ĐẠO ĐỨC GIẢI THOÁT LÀ GÌ?

(21:50) Vậy Đạo Đức Giải Thoát là gì?

Đạo Đức Giải Thoát là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được mọi người thừa nhận có ích lợi cho mình, cho người. Nghĩa là giải thoát những sự buồn phiền đau khổ, sân hận, thù oán, tỵ hiềm, ganh ghét trong tâm của mình và của mọi người khác, khiến cho mình và mọi người được an vui hạnh phúc. Hay nói một cách khác là quy định hành vi quan hệ con người đối với nhau và đối với xã hội được an vui hạnh phúc của đôi bên.

Nhưng trước khi học về Đạo Đức Giải Thoát thì con phải tập luyện sức tỉnh giác. Nhờ có đủ sức tỉnh giác thì con mới sáng suốt, mới thấy đúng mọi sự việc và mọi hoàn cảnh. Nhờ đó con mới đủ sức tức khắc, khắc phục con trong chánh niệm, để chuyển hóa sự việc và hoàn cảnh, đem đến sự an ổn và yên vui hạnh phúc.

(23:18) Những sự chuyển hóa này gọi là Hành Vi Đạo Đức Giải Thoát. Nếu không tập luyện sức tỉnh giác mà vội vàng học về Hành Vi Đạo Đức Giải Thoát thì phải được xem đó chỉ là một bài học tập lý thuyết suông, không thể áp dụng vào đời sống hằng ngày của con được. Cho nên, cái học tu này chẳng đem gì ích lợi cho con và cho mọi người.

Này con! Con phải chú ý chỗ này, nó rất quan trọng cho đời tu hành về Đạo Đức Giải Thoát và Thiền Định của con sau này. Vậy ngay bây giờ, con phải tập luyện sức tỉnh giác trước khi được nghe Thầy dạy về Đạo Đức Giải Thoát.

Bắt đầu một ngày một đêm con có thể chia làm 4 thời tu tập. Mỗi thời, con chỉ tu 5 phút mà thôi rồi xả nghỉ. Khi bắt đầu tu pháp tỉnh giác con phải tọa thiền như người tu thiền, không nên mặc quần áo chật, không nên ngồi tu lấy lệ. Khi tập tu tỉnh giác, không được để tâm ý vội vàng hấp tấp, lo lắng bài học, bài làm hoặc những công việc khác.

Con phải nhớ kỹ, trong tâm không có một việc gì lo nghĩ và bận rộn. Còn có một tâm vội vàng hấp tấp, còn có nhiều việc cần phải giải quyết thì chẳng nên ngồi tu. Nếu còn có một tâm lo nghĩ điều này thế kia thì phải xả bỏ rồi mới tu tập. Nếu không xả được mọi tâm niệm ấy thì đừng nên tu. Con nhớ kỹ điều này chứ? Chỉ khi nào tâm được rảnh rang thơi thới, thư thả thì tu tập tỉnh giác mới có chất lượng.

(25:54) Khi ngồi tu tỉnh giác con phải ngồi tréo chân theo kiểu kiết già, sửa thân ngay thẳng rồi hít vào một hơi thở rất sâu. Khi hít vào, con nâng thẳng lưng theo hơi thở và giữ lưng thẳng ở cuối hơi thở, rồi từ từ thở ra. Bấy giờ con hít vô nhẹ nhàng nhưng mạnh hơn hơi thở bình thường, rồi thở ra nhanh và mạnh hơn hơi thở hít vô. Hơi thở ra phải gằn mạnh một chút để sức tập trung của con đối với hơi thở kế dễ dàng và lấy trớn.

Khi hơi thở ra được phân nửa, bắt đầu con đếm 1 và số 1 được trải dài trên hơi thở cho đến khi hơi thở ra hết. Con phải nhớ rõ số 1, cả hình dáng số 1 nữa.

Khi đếm xong số 1, con nhớ đến số 2, rồi nhưng chưa thở hơi thở thứ 2. Khi thở hơi thở thứ 2, đến nửa hơi thở con đếm số 2 trường dài trên nửa hơi thở và thấy bóng dáng số 2 rõ ràng.

Khi đếm hơi thở thứ 2 xong con nhớ 3. Khi nửa hơi thở ra thứ 3 con đếm số 3 và chú ý số 3 đang trường dài trên hơi thở thứ 3. Con thấy rõ cả bóng dáng số 3.

Đếm xong số 3, con nhớ số 4. Nửa hơi thở ra thứ tư con đếm số 4. Số 4 được trường dài trên hơi thở ra và hình dáng số 4 rõ ràng.

Khi đếm xong số 4 con lại nhớ số 5. Khi nửa hơi thở ra thứ 5, con đếm số 5 trải dài trên hơi thở ra và thấy bóng dáng số 5 rõ ràng.

(28:37) Đến đây, con đứng dậy và đi kinh hành một vòng trong phòng. Khi đi một vòng xong, bắt đầu con ngồi lại tiếp tục hít thở và đếm số như vậy. Cứ 5 hơi thở con lại đứng lên đi kinh hành một vòng cho đến khi đúng 5 phút con xả nghỉ luôn, hết một thời công phu.

Con nên nhớ kỹ, khi đi kinh hành con khéo giữ tâm thư giãn, không nương tựa hoặc chú ý vào hơi thở, không khởi lo nghĩ một điều gì, chỉ giữ tâm thanh thoảng nhẹ nhàng như người vô sự. Khi có một niệm vọng tưởng khởi lên, ngay lúc đó con vội vàng buông xuống, đừng nên tương tục nó, đừng nên theo nó.

Sự tu tập này, con phải tập luyện liên tục, không nên bỏ qua một ngày, một tháng, dù một phút, theo thời khóa biểu cứ tu tập đều đặn. Có như vậy, sức tỉnh giác của con mới hiển lộ. Nó giúp con học hành sáng suốt không thua ai, nó giúp con đời sống được an vui trong suốt cuộc đời, không có điều chi làm con buồn khổ, không có việc gì làm con chướng ngại trong tâm. Mọi sự việc đến với con như nước đổ lá sen, tâm hồn con nhẹ nhàng, thanh thoát, bao dung.

Này con! Con hãy vâng lời Thầy, cố gắng tu tập để được một sức tỉnh giác đáng kể và nhờ đó mọi sự việc khi lọt vào mắt con, tai con, con đều có ý có tứ một cách cẩn thận mà không cần ai nhắc nhở. Tự nó có tầm nhận biết sáng suốt, thông minh, lưu xuất từ tâm tỉnh giác của con, khiến con dễ hiểu bài học và tiếp nhận bài làm một cách dễ dàng.

(30:54) Sự tỉnh giác có ý, có tứ này còn giúp con nhìn mọi sự việc, mọi sự vật xảy ra trong tâm hồn tùy thuận và bằng lòng an vui của con. Do đó khiến tâm con không còn chướng ngại, nhờ vậy tâm con buông xả mọi việc dễ dàng. Từ đó, con nhận ra tâm con được thanh tịnh, không còn tham, sân, si và ái nữa. Cả thế gian này là một sự an lành, bình yên vĩ đại trong lòng con.

Nếu con kiên trì bền lòng siêng năng tu tập pháp môn này rồi con sẽ thấy kết quả mang đến của nó thật là vĩ đại không thể ngờ. Mật Hạnh đã nhận thấy điều này.

Trong sự học của con hay việc làm của tâm con, con không còn ganh tỵ hơn thua với ai hết, nhưng con học giỏi, làm bài hay, không bạn bè nào sánh kịp và làm tốt cả mọi việc chẳng còn thua kém ai.

Này con! Con phải hiểu do đâu mà có được như vậy? Do sự tỉnh giác giúp con có ý có tứ dù một việc nhỏ nhặt nào con cũng không bỏ qua. Những lời dạy trên đây con nên nhớ kỹ để thực hành nghiêm túc. Đừng xem thường nó! Nó sẽ giúp con tiến tới một đời sống hằng tỉnh giác trong chánh niệm hay chánh kiến và con sẽ đầy đủ sức chánh tư duy trong suốt cuộc đời của con.

Một lần nữa, Thầy xin nhắc lại, con hãy cố gắng và cố gắng hơn nhiều, bền lòng, trì chí thực hiện những lời dạy này. Vì chính nó sẽ giải thoát cho con ra khỏi tâm hồn đau khổ của chính con.

(33:14) Với pháp môn này, con hãy xem nó quý báu hơn vàng bạc châu báu trên thế gian này. Nó là một pháp môn vô giá, khi con thực hành đúng nó sẽ mang đến kết quả vô giá ấy.

Thay vì Thầy phải đợi một thời gian sau này con tu tập pháp môn tỉnh giác này có kết quả tỉnh giác một cách rõ ràng thì Thầy mới tiếp tục dạy con Đạo Đức Giải Thoát tức là dạy con Đạo Đức Nhân Quả. Nhưng thời gian tới đây, Thầy bận nhập các định sâu hơn để dẫn dắt quý Thầy nhập định nên không có thời gian rảnh rang nữa. Vì thế, hôm nay Thầy giảng dạy cho con sự tu tập Đức Hạnh Giải Thoát. Nhưng con phải hiểu, khi nào có tỉnh giác con mới áp dụng Đạo Đức Giải Thoát mới được.

Này con! Con phải để ý, về Đạo Đức Giải Thoát: Đạo Đức Giải Thoát tức là hành vi thân, khẩu, ý của con, con phải hết sức cẩn thận dè dặt, nếu vô ý vô tứ con sẽ làm khổ con, khổ người. Nếu con cẩn thận, dè dặt theo lời dạy của Thầy dưới đây, chắc chắn con sẽ được an vui hạnh phúc và mọi người quanh con cũng được như vậy.

Này con! Vì chính ở đời người ta không cẩn thận dè dặt hành vi thân, khẩu và ý của mình nên đụng đâu làm đó không ý tứ, và đụng đâu nói đó không suy nghĩ kỹ càng. Chừng xảy ra những chuyện khổ đau giận hờn, phiền toái thì đó là việc đã muộn rồi. Sự đau khổ của con người trên thế gian đều do hành vi thân, khẩu, ý của mình tạo ra, không những khổ cho mình mà còn làm khổ cho người khác.

5- BỐN HẠNG NGƯỜI

(35:24) Đạo Đức Giải Thoát chia con người ra làm bốn hạng người:

1- Hạng người tự làm khổ mình.

2- Hạng người làm khổ người.

3- Hạng người làm khổ mình và làm khổ người.

4- Hạng người không làm khổ mình và không làm khổ người.

Đạo Đức Giải Thoát không chấp nhận 3 hạng người trên, chỉ chấp nhận hạng người thứ tư.

Những chuyện không đâu ở bên ngoài tự mình đem vào nhà làm khổ mình. Những chuyện ngoài đường, ngoài phố, chuyện tào lao, chuyện khen chê người này người kia rồi gia đình mình sanh ra giận hờn, bất an. Chẳng hạn như chuyện cô Ngọc, chuyện bên ngoài mà gia đình ba mẹ con khổ. Tại sao? Chúng ta không sáng suốt để gánh vác việc người mà làm khổ mình, bất an cho gia đình mình.

Chúng ta nghĩ rằng, làm một việc thiện tức là phải được thọ hưởng sự an vui hạnh phúc. Cớ sao làm một việc thiện mà lại làm khổ mình, khổ gia đình mình? Điều này chúng ta muốn biết rõ cần phải tu pháp tỉnh giác để có đủ sức nhận định chân chính, suy tư chân chính mới bắt đầu làm việc thiện mà không thọ khổ.

Như ở trên Thầy đã dạy, Đạo Đức Giải Thoát tức là Đạo Đức Nhân Quả. Nếu chúng ta chưa có đủ Chánh kiến và Chánh tư duy mà làm việc thiện e rằng sẽ làm điều ác. Như người trị bệnh không đúng thầy thuốc tiền mất tật mang.

Vậy nhận định chân chính và suy tư chân chính như thế nào?

Nhận định chân chính tức là Chánh kiến. Chánh kiến là thấy đúng một sự việc trong nhân quả. Thấy đúng một sự việc trong nhân quả rồi tùy thuận sự việc ấy để tâm không bị chướng ngại; tâm không bị chướng ngại là tâm buông xả; tâm buông xả là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là tâm không còn tham muốn, hơn thua, ganh tỵ, nghi ngờ, sân hận, đau khổ; tâm thanh tịnh là tâm hạnh phúc, tâm an lạc.

(37:58) Bởi có chánh kiến thì mới có tùy thuận; có tùy thuận mới có buông xả; có buông xả mới không phiền não, đau khổ, chướng ngại; không phiền não, đau khổ chướng ngại thì mới có tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là tâm giải thoát; tâm giải thoát là tâm có Đạo Đức Giải Thoát; tâm có Đạo Đức Giải Thoát mới có hạnh phúc, an vui.

5.1- HẠNG NGƯỜI LÀM KHỔ MÌNH

(38:22) Này con! Bây giờ con nên để ý những hành vi: THÂN, KHẨU VÀ Ý CỦA CON ĐÃ LÀM KHỔ CON.

Ví dụ: Ba hay mẹ con thấy con làm sai một điều gì hay bê tha, ham chơi, bỏ học hoặc thấy con bị chúng bạn lường gạt hoặc ý tứ con sơ sót, thiếu cẩn thận rồi dùng lời dạy bảo con thì con đâm ra buồn khổ, đó là con tự làm khổ con. Tại sao? Tại vì con không thấy lỗi nhỏ của mình. Nếu có sức tỉnh giác và có ý tứ mọi sự việc tức là con có chánh kiến, con sẽ thấy các lỗi của con. Khi thấy được lỗi của mình, tự nhiên con không còn khổ nữa.

Như Thầy đã dạy, trước khi thành những bậc Thánh nhân các Ngài đều có những lỗi lầm, nhưng các Ngài biết khắc phục và biết sửa mình ăn năn chừa bỏ, chỉ có như vậy mà các Ngài đã trở thành Thánh nhân.

Chúng ta là phàm phu làm sao không có lỗi. Vậy con phải cố gắng tu tập sức tỉnh giác. Nhờ sức tỉnh giác con dễ nhận ra những lỗi lầm của chính mình, của chính con. Nhờ biết những lỗi lầm con sẽ hóa giải sự đau khổ phiền não trong lòng con dễ dàng. Bởi khi con biết con có lỗi là con đã hóa giải sự đau khổ.

(40:04) Nếu con dùng một lời nói không ý tứ, không suy nghĩ, nói theo thói quen tạp khí, khiến lời nói của con làm tức giận ba mẹ con. Ba mẹ con sẽ mắng con, con bị ba mẹ mắng con sanh ra buồn khổ đó là do thiếu suy tư ý tứ lời nói mà con đã làm khổ người, khổ con.

Cũng như con có những hành động thiếu ý tứ, thiếu tư duy, không giữ được hạnh nhu thuận, ôn hòa với một việc nhỏ mọn của em con, con sanh ra tức giận mắng hoặc đánh nó. Ba mẹ con nghe được, người sanh ra buồn giận và em con lúc bấy giờ cũng hờn giận con không còn vui vẻ như trước nữa. Những ngày ấy sống trong gia đình như sống trong địa ngục. Đó là do thiếu ý tứ, tư duy cẩn thận nó đã tự làm khổ mình khổ người.

Này con! Con nên để ý lời nói vì lời nói rất quan trọng, dễ khiến người khác khổ đau và làm con khổ đau. Như con dùng một lời nói hỗn láo, thô lỗ, thiếu thành thật, lời nói đó làm khổ người và làm khổ con. Vậy con nên dè dặt, cẩn thận trong lời nói. Lời nói phải được ôn tồn nhu thuận. Lời nói phải được đúng thời hợp lý. Lời nói lúc nào cũng phải ôn tồn, nhã nhặn.

Con hãy nghe lại đoạn băng Thầy dạy về đạo đức của một vị Thiền sư trong bài “Thực hiện thiền hơi thở” của Thầy.

Bởi lời nói rất quan trọng, nói ra lấy lại không được, dễ khiến con buồn, người khác khổ. Ít nói là tốt nhất. Do lời nói của mình tự làm khổ mình khổ người, con nên cẩn thận và cẩn thận hơn trong lời nói!

(42:33) Khi sanh tâm hơn thua, thấy ai làm bằng mình hoặc hơn mình rồi sanh tâm buồn khổ, đó là con tự làm khổ con. Thấy ai học hơn mình hoặc làm hơn mình hoặc đẹp hơn mình, hoặc giàu sang hơn mình rồi sanh tâm ganh tỵ, đó là con tự làm khổ con. Thấy ai thua mình, kém hơn mình thì sanh tâm khinh khi, chê bai đó là con tự làm khổ con. Thấy ai làm được việc mình làm rồi sanh tâm buồn khổ, đó là con cũng tự làm khổ con.

Thích làm đẹp mà sợ người khác chê mình không giản dị, đó cũng là tự con làm khổ con.

Này con! Mọi người ai cũng thích làm đẹp, nhưng cái đẹp giản dị vẫn hơn. Sắc đẹp không thể hơn tâm hồn đẹp. Người đứng đắn bao giờ cũng tôn trọng cái đẹp của tâm hồn. Còn những người thiếu đứng đắn, thiếu đạo đức thường chạy theo sắc đẹp bên ngoài, là những người chưa sâu sắc cuộc đời, là những người nông nổi, làm khổ mình khổ người.

Hy sinh mình để làm người khác thoát nạn, để người khác được an vui hạnh phúc, còn mình thì chịu nhiều đau khổ, nhiều điều khổ đau hoặc tử vong. Đạo Đức Thế Gian ca ngợi những người này nhưng Đạo Đức Giải Thoát thì cho kẻ ấy là ngu si thiếu chánh kiến, tự làm khổ mình.

Này con! Tất cả những sự việc và hoàn cảnh xảy ra trong gia đình cũng như ngoài xã hội đều có thể mang đến cho con những u sầu, sân hận, đau khổ và phiền lụy đều chính tự con làm khổ con. Nhưng người đời đều đổ tại hoàn cảnh, tại người khác, sự thật con phải hiểu rõ, tại tâm con.

(44:40) Này con! Các pháp thế gian là pháp động, không thể bắt nó nằm yên được mà phải bắt tâm con nằm yên thì mọi việc sẽ yên ổn bình an, nhờ đó con mới không làm khổ con.

Này con! Tỉnh giác là một sự việc sáng suốt, quan trọng cho cuộc sống của con người. Chính nhờ sức tỉnh giác, chúng ta mới có sự nhận định chân chính, có sự nhận định chân chính thì không bao giờ tự làm khổ mình.

Chẳng hạn có người chửi mình là chó, là trâu. Mình nhận định chơn chính rồi suy nghĩ chơn chính: “Một con người như mình không thể là chó, là trâu được. Chỉ vì họ buồn khổ, đau khổ đối với mình cho nên quá u mê, tối tăm, mờ mịt, tưởng chửi người khác chó trâu là sẽ trở thành chó trâu. Chửi như vậy là hạ nhục họ và làm nhục họ, làm xấu hổ họ và có nói như vậy họ mới hả được cơn giận, cơn tức của họ, nhưng không ngờ mình đã làm khổ mình”. Còn người có sức tỉnh giác, nhận định đúng thấy mình không phải chó trâu và lời hạ nhục kia vô nghĩa nên tâm không sân, không phiền não, không khổ đau, đó là người không làm khổ mình. Ngược lại tưởng mình là chó trâu thật, là lời nói kia rất nặng nề, hạ nhục sát đất, nghĩ như vậy rồi đâm ra tức giận đó là thiếu nhận định chơn chính, thiếu suy nghĩ chơn chính nên tự làm khổ mình. Bởi vậy trong cuộc sống hằng ngày biết bao nhiêu điều xảy ra mà chính mình đã làm khổ mình.

(47:02) Vậy con nên tập sức tỉnh giác để luôn luôn lúc nào con cũng thấy đúng, suy nghĩ đúng. Do đó, khi tâm con đau khổ, phiền lụy, giận hờn thì con dùng sức tỉnh giác đã tu tập được, rồi tự suy xét và tự hỏi con: “Cớ sao ta lại làm cho ta khổ đau như thế này?”.

Mọi sự việc trên đời đều là vô thường, nay còn mai mất. Tại sao ta còn chấp những gì, ham mê những gì, mà phải để tâm hồn ta đau khổ như thế này? Chính thân ta, thân này nay sống, mai chết ta chưa định đoạt được thời gian, cớ sao ta lại tiếc cái gì mà không chịu bỏ xuống để phải thọ khổ như thế này? Nhìn trong thế gian này, có ai mà còn giữ được gì dù là cái thân này?

Một giờ, một phút, một giây của ta bây giờ rất là quý báu. Tại sao ta lại phí bỏ thời giờ quý báu vô ích này để ta tự làm khổ ta. Thử hỏi khi chết rồi ta có mang theo được những gì gọi là đẹp đẽ, tốt xấu, gọi là danh giá, cao quý, giàu sang tột đỉnh trên cuộc đời này hay chỉ còn lại một đống xương thịt hôi thúi ngoài đồng mả?

Này con! Tất cả các pháp trên đời tức là mọi sự việc, mọi sự vật ngay cả thân và tâm của con đều là vô thường. Đã là vô thường, thì có một vật gì, việc gì mà hằng còn. Cho nên, vừa sanh rồi lại diệt đó. Đã biết các pháp là sanh diệt, không thường còn, cớ sao ta lại vì sự việc gì, vì vật gì; hoặc của cải tài sản, vật chất; hoặc tài ba lỗi lạc; hoặc vì sắc đẹp như Tây Thi, Bao Tự; hoặc giàu sang phú quý như Thạch Sùng mà để làm ta sầu khổ?

(49:43) Nếu như vậy chính ta đang bị các pháp làm khổ. Ta suy tư thấu rõ các pháp là vô thường, là sanh diệt, nên dù cho một việc xảy ra tày trời động đất ta cũng buông xuống được, bỏ xuống được để tâm hồn ta được an vui, thanh thoảng.

Một giây, một phút để tâm hồn thanh thoảng giá đáng hơn ngàn vàng nhưng người đời nào ai biết?

Này con! Con hãy tự xét mỗi sự việc xảy ra trong tâm hồn con khiến con phiền não, đau khổ, con đừng oán trời trách người, mà chính tự con phải trách con. Vì con không sáng suốt nên con phải thọ lấy những sự khổ đau, đó là con tự làm khổ con.

Một sự việc không đâu, một vật chẳng ra gì, một lời nói vô ý cũng có thể khiến tâm con bất an, gia đình mất vui nếu con không biết buông xuống. Người đời chỉ vì quá cố chấp mọi sự việc dù lớn hay dù nhỏ nên phải chịu khổ.

Bởi vậy, tùy thuận mọi tâm niệm người khác, mọi sự việc, mọi hoàn cảnh mà tâm an vui. Tùy thuận là buông xuống, là sống cho ý muốn của mọi người khác nhưng không bị ý muốn của người khác lôi cuốn. Nếu bị ý muốn của người khác lôi cuốn, đó là làm nô lệ, là hèn nhát, là làm mất sự tự chủ của mình, là làm đau khổ cho mình.

Cho nên, tùy thuận mà không bị lôi cuốn, buông xả mà không mất gì hết, mà còn được tâm hồn thanh thoát nhẹ nhàng, tâm không còn vướng bận việc gì trên thế gian này nữa.

Này con! Sau khi đã hiểu Đạo Đức Giải Thoát con hãy nhìn xem tất cả những sự việc trên thế gian này không có việc gì quan trọng đối với con. Nó đến với con rồi nó đi rất tự nhiên, chỉ có tâm con mới quan trọng mà thôi.

Bởi thế, chỉ cần giải quyết ở tâm con thì mọi việc được an vui, được ổn định. Còn giải quyết mọi sự việc, thì sự việc này giải quyết xong thì sẽ có sự việc khác đến. Cho nên, càng giải quyết sự việc thì tâm càng đau khổ. Do đó, đời người chỉ vì giải quyết sự việc nên cuộc đời đầy đau khổ và càng đau khổ hơn.

(52:52) Các pháp trùng trùng duyên khởi, không ai chấm dứt được nó, đó là quy luật tuần hoàn của vũ trụ, là luật nhân quả tái sanh luân hồi của vạn vật. Muốn các pháp không còn duyên khởi, muốn luật tuần hoàn vũ trụ không còn xoay quanh và luật nhân quả tái sanh luân hồi chấm dứt thì con phải giải quyết tâm con.

Bởi vậy, Đạo Đức Giải Thoát là đạo đức giải quyết tâm con người, nó không giải quyết mọi sự việc vì nó biết mọi sự việc là duyên khởi trùng trùng. Giải quyết sự việc ví như “con dã tràng xe cát”. Bởi giải quyết tâm mà mọi sự việc đều được an bài và yên ổn.

Tại sao vậy?

Tại vì tâm là chủ của các pháp, tâm an thì pháp an; tâm thanh tịnh thì pháp thanh tịnh; tâm không sanh thì pháp không sanh. Do đó, giải quyết tâm là giải quyết đầu mối của các pháp.

Bởi vậy, người học Đạo Đức Giải Thoát phải rõ mọi sự việc, mọi hoàn cảnh là nhánh lá của một cái cây, còn tâm chính là gốc cây. Cũng như mọi sự việc và mọi hoàn cảnh là quả mà chính tâm là nhân. Nếu giải quyết tâm là giải quyết nhân, mà giải quyết được nhân thì quả không có.

Cho nên, giải quyết tâm thì mọi việc đều tốt đẹp. Chỗ này con nên nhớ kỹ, chỉ vì tâm con người được an ổn mà mọi việc không sanh nữa.

(55:12) Này con! Con cần ghi nhớ chỗ này rất quan trọng cho đời người: Có tùy thuận tâm mọi người thì mới có bằng lòng mọi sự việc, mọi hoàn cảnh; tâm có bằng lòng là tâm không còn chướng ngại; tâm không còn chướng ngại là tâm buông xả; tâm buông xả là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là tâm thiền định; tâm thiền định là tâm lắng trong; tâm lắng trong là tâm hết ô nhiễm; tâm hết ô nhiễm là tâm đoạn dục; tam đoạn dục là tâm trí tuệ; tâm trí tuệ là tâm giải thoát.

Này con! Muốn tu Thiền Định Giải Thoát thì trước tiên phải tu tỉnh giác. Nhờ sức tỉnh giác áp dụng vào đời sống hằng ngày tu hành Đạo Đức Giải Thoát hay nói một cách khác là tu tỉnh giác để buông xả các pháp chướng ngại trong tâm mình. Đó là để giải thoát tâm, giải trừ tâm ác độc, tâm đau khổ của chúng ta. Muốn giải trừ tâm ác độc, tâm đau khổ thì con phải tập luyện chú ý hơi thở như Thầy đã dạy ở trên.

Tập chú ý hơi thở tức là tập ý tứ hơi thở. Tập ý tứ hơi thở là tập ổn định hơi thở. Tập ổn định hơi thở thì phải tập đếm hơi thở. Tập đếm hơi thở thì phải tập ý tứ số đếm hơi thở. Nghĩa là phải nương hơi thở mà đếm số rõ ràng. Muốn đếm số rõ ràng thì phải nhớ rõ từng số. Vừa đếm xong số này thì phải nhớ số khác, số tới và phải hình dung số tới. Cứ đếm như vậy thì gọi là sổ tức. Sổ tức như vậy gọi là ức chế vọng tưởng. Ức chế vọng tưởng là diệt tầm. Diệt tầm là diệt tư niệm lăng xăng. Diệt tư niệm lăng xăng là diệt sự suy tư hay gọi là diệt vọng tưởng. Diệt vọng tưởng tức là chúng ta sống thực tại trong ý thức an lạc, thanh tịnh của tâm. Lúc bấy giờ tâm không bị tưởng thức đánh lừa gạt chúng ta nữa.

(58:17) Đời người khổ chỉ vì sống bằng tưởng nhiều; tưởng nhiều thì tham, sân, si nhiều; tham, sân, si nhiều thì nghi, mạn nhiều; nghi, mạn nhiều thì đau khổ nhiều.

Người tu tỉnh giác là người sống trở lại với ý thức của mình và gạt bỏ tưởng thức qua một bên.

Này con! Nếu con tu tập tỉnh giác bằng cách đếm hơi thở, tập ý tứ hơi thở rõ ràng thì con sẽ có đầy đủ trí thông minh. Tại sao?

Tại vì con có một sức tập trung chú ý rất mạnh vào một đối tượng trong một thời gian khá dài. Tâm con không bị sao lãng hoặc chạy theo các đối tượng khác. Do sự tập trung không sao lãng, con mới phát xuất một trí thông minh. Nhờ đó con hiểu bài, học bài và làm bài một cách chu đáo tường tận. Vì thế, con thuộc bài và làm bài tốt như vậy gọi là trí thông minh.

Bởi tu tỉnh giác có lợi ích cho con rất lớn trong việc học hành và giải thoát tâm hồn con trong mọi trường hợp và mọi sự việc. Do thế, con học hành giỏi, buông xả tâm chướng ngại tốt, giải thoát tốt. Từ đó, mỗi hành vi thân, khẩu, ý của con đầy đủ Đức Hạnh Giải Thoát.

Khi bắt đầu tu tập tỉnh giác, con thường để ý tâm con. Lúc nào con thấy có sự buồn phiền hoặc sân hận đau khổ hoặc ganh đua tỵ hiềm thì con nên tránh. Con nên trách con không ý tứ thiếu sáng suốt. Nếu con trách người là con làm khổ thì sự đau khổ sẽ gia tăng trong tâm hồn con.

5.2- HẠNG NGƯỜI LÀM KHỔ NGƯỜI.

(01:00:23) Bây giờ, Thầy nói đến Đạo Đức Giải Thoát phần thứ hai, đó là: LÀM KHỔ NGƯỜI.

Trong cuộc đời này, phần đông vì lòng ích kỷ cá nhân của mình nên thường làm người khác khổ. Làm người khác khổ là một điều ác. Ví như: trộm cướp, lấy của cải người khác để cho gia đình mình và mình được đầy đủ sung túc. Người mất của thường đau khổ, có khi tự tử quyên sinh, đó là làm khổ người.

Giết mạng người cướp của hoặc vì thù oán mà giết nhau để lại cho bao nhiêu người còn sống trong đau khổ, đó là làm khổ người.

Giết một con vật để làm thực phẩm mình ăn ngon miệng, các con vật khác còn sống đều buồn khổ, đó là làm khổ người.

Tà dâm làm hại gia đình người khác, đó là làm khổ người.

Nói thêu dệt, nói lời nói ly gián, lời nói hung ác, lời nói vu khống, lời nói bịa đặt, lời nói mạ nhục, chuyện có nói không, chuyện không nói có, đó là làm khổ người.

Lời nói vô ý cũng làm khổ người. Lời nói không suy nghĩ đụng đâu nói đó cũng làm khổ người.

Này con! Trong cuộc sống hằng ngày sự làm khổ người rất là nhiều, không thể nào kể ra đây hết được.

5.3- HẠNG NGƯỜI LÀM KHỔ MÌNH VÀ KHỔ NGƯỜI.

(1:02:07) Bấy giờ Thầy dạy đến hạng người thứ ba: LÀM KHỔ MÌNH, KHỔ NGƯỜI.

Ví dụ: Con dạy em con học, nó còn nhỏ quá, trí nhận định còn non nớt, còn kém không thể như con được. Nó làm bài hay học bài không được như ý con. Con không đủ kiên nhẫn phát tức giận la rầy mắng em con. Vì thiếu tỉnh giác không sáng suốt, do đó con làm khổ con và làm khổ em con. Con đâu biết rằng, em con với trí còn non nớt chưa hiểu được bài học và bài làm như con nên học hành rất khó khăn. Do đó là con dằn không được đánh nó một bạt tai. Khi ba mẹ con nghe được thì buồn giận con, la rầy mắng con. Con đâm ra buồn khổ, bỏ ăn, bỏ uống, đó là con tự làm khổ con, khổ em con và khổ cả ba mẹ con. Và như vậy, con đã làm khổ mình, khổ người.

Thầy cho một ví dụ nữa: Có một người muốn tu theo đạo Phật, nghe thuyết giảng lý nhân quả quá hay. Sau khi về nhà khuyên cả gia đình ăn chay, cả gia đình đồng ý. Sau thời gian ăn chay, mọi người trong gia đình đều thấy khổ sở. Kẻ thèm cá, người thèm thịt, rồi bắt đầu bỏ cuộc ăn chay. Mọi người trong gia đình ăn mặn trở lại. Chỉ còn lại người ấy ráng ăn chay, nhưng lại sinh bệnh nay đau mai ốm rất là khổ sở. Đó là tự làm khổ mình, khổ người.

(01:03:53) Có một người đọc sách thiền thấy tu thiền rất hay rồi theo sách tu hành và đi tham cứu các vị thiền sư. Nhưng không đủ điều kiện để thực hiện một cách rốt ráo, chỉ sống trong gia đình nhưng ngày nào cũng tu tập thiền định. Sau 5 năm, 10 năm tu chẳng ra gì, nhưng chỉ được một số ngôn ngữ nói thiền, nói đạo. Tu thì chẳng tới đâu, lại muốn làm thầy thiên hạ nên đem pháp môn này chỉ dạy cho người khác. Cuối cùng, những người khác tu chẳng ra gì. Đó là tự làm khổ mình, khổ người.

Có một người thấy người khác xuất gia tu hành trong chiếc áo đạo có vẻ đạo mạo trang nghiêm và luôn lúc nào cũng thấy có người cung kính, kính trọng. Người ấy thích quá, nhưng không tìm hiểu kỹ vội vàng đến chùa xin xuất gia tu hành. Trong thời gian xuất gia tu hành, người ấy đã làm khổ biết bao nhiêu người trong gia đình. Sau thời gian xuất gia tu hành, người ấy tu chẳng ra gì và thấy sự tu hành rất khổ, nên đâm ra bất mãn, đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo, đó là tự mình làm khổ mình, khổ người.

Còn biết bao nhiêu việc trong thế gian này làm khổ mình, khổ người làm sao Thầy kể ra đây hết được!

5.4- HẠNG NGƯỜI KHÔNG LÀM KHỔ MÌNH, KHÔNG LÀM KHỔ NGƯỜI

(1:05:43) Bây giờ Thầy dạy đến hạng người thứ tư: KHÔNG LÀM KHỔ MÌNH, KHÔNG LÀM KHỔ NGƯỜI.

Hạng người này là hạng người mà Đạo Đức Giải Thoát chấp nhận như:

  • Mua chim cá phóng sanh là không làm khổ mình, khổ người.

  • Không ăn thịt cá, không ăn thịt chúng sanh là không làm khổ mình, khổ người.

  • Không tham lam trộm cướp là không làm khổ mình, khổ người.

  • Không tà dâm là không làm khổ mình, khổ người.

  • Không nói vọng ngữ, nói hai chiều, nói lời nói thêu dệt là không làm khổ mình, khổ người.

Tất cả, nói chung là tất cả những giới luật của đạo Phật dạy là không làm khổ mình, khổ người.

  • Bố thí giúp người là không làm khổ mình, khổ người.

(01:06:48) Nói tóm lại, chúng ta không còn tham, sân, si, mạn, nghi là không làm khổ mình, khổ người nữa.

Muốn được vậy chúng ta phải tu tập như thế nào?

Trước, chúng ta phải sống đời sống ly dục. Sau, chúng ta dùng cách ức chế tâm để đoạn dục thì chúng ta sẽ không còn làm khổ mình, khổ người nữa. Đó là con đường duy nhất giải thoát nhân quả của đạo Phật.

Con đường Đạo Phật tuy còn xa lắm, nhưng chúng ta hãy hướng mắt về phía trước mà tiến bước lên. Bước đi từng bước một vững chắc. Mỗi bước đi là thu ngắn lại khoảng không gian, mục đích giải thoát ngày càng gần hơn. Chúng ta cố gắng và cố gắng hơn, ngày thành công sẽ đến với chúng ta không còn xa nữa.

Để kết thúc buổi nói chuyện hôm nay, tất cả những gì Thầy đã dạy ở trên con sắp sửa thực hành, nên đặt trọn niềm tin ở Thầy, kết quả sẽ mang đến lợi ích to lớn cho đời con rất cụ thể và thiết thực.

Thầy chỉ mong sao con tu, con tin Thầy cũng như Mật Hạnh đã tin Thầy, thế cũng đủ lắm cho Thầy. Vì, chỉ vì lâu nay Thầy đi tìm người tin mình để dạy lại những kinh nghiệm nhưng khó tìm ra người ấy. Trong suốt thời gian 7 - 8 năm trời, tìm người Thầy chỉ có một Mật Hạnh mà thôi. Còn chẳng mấy ai tin Thầy trọn vẹn, chỉ vì họ nhìn Thầy qua chiếc áo phàm phu. Họ chỉ tin là tin ở kinh sách và tin ở những luận thuyết của các nhà học giả thiếu kinh nghiệm. Nhưng đó âu cũng là duyên Phật Pháp.

(01:08:57) Mẹ con tu tốt, nhưng cuộc sống còn gia duyên nhiều, sự đụng chạm với thế gian còn nhiều lắm nên thành thử tâm chưa thanh tịnh. Tâm chưa thanh tịnh thì làm sao nhập định được?

Con còn nhớ năm nào con hỏi Thầy: “Bí quyết thành công Thiền định là gì?”.

Thầy trả lời: “Bí quyết thành công Thiền định là sống độc cư!”.

Con còn nhớ chứ?

Nếu tâm chưa thanh tịnh mà tu thiền định và nhập định đó là thứ nhập định theo kiểu đồng cốt. Cho nên, đời nay có mấy ai nhập định được là vì tu theo kinh sách, tu theo những tưởng giải của kẻ tu thiền tà ngoại đạo. Đây là một kinh nghiệm thực sống của Thầy. Mười năm trong thất, Thầy đã tìm thấy sự giải thoát nội tâm của mình. Vì thế, Thầy tùy thuận mọi hoàn cảnh, mọi lòng người mà không hề có một chút gì gây chướng ngại trong tâm. Tùy thuận mà buông xả. Tùy thuận mà bằng lòng mọi ý muốn. Để làm gì? Để mình được giải thoát!

Hôm nay, Thầy dạy lại con, đó là một nền Đạo Đức Giải Thoát của đạo Phật mà đức Phật thường gọi là Phạm hạnh của người tu sĩ.

Muốn ai làm người. Nếu ai là người đặt trọn niềm tin ở Thầy, ở pháp môn này. Họ sẽ sống trong cõi thế gian đầy đau khổ, đầy nước mắt và đầy ô trược nhưng họ sẽ giải thoát tâm họ như sống trên cõi Thiên Đàng đầy hạnh phúc, an lạc, vi diệu.

Trong cuộc đời này, con chẳng nên tin ai! Hãy tin ở con mà cố thực hành những lời dạy của Thầy. Đừng đem pháp môn này trao cho ai vì họ không đủ niềm tin. Đừng nên đem pháp môn quý báu vô giá này mà trao cho người chẳng ra gì. Thầy không thích giảng, Thầy không thích quảng cáo một pháp môn nào của Thầy cả. Cuộc đời của Thầy thích mặc chiếc áo phàm phu để tránh mọi duyên tỵ hiềm ganh ghét.

Trước khi chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay. Một lần nữa Thầy xin nhắc lại, con không nên trao pháp này cho ai vì ai hiểu được sự lợi ích của nó!?

Thầy chúc con thành công trong việc học và thành tựu Đạo Đức Giải Thoát trong pháp môn này.

Thầy của con.

HẾT BĂNG

Pháp Âm - 1996 - BỐN CHÂN LÝ THAY ĐỔI KIẾP NGƯỜI

1996-BỐN CHÂN LÝ THAY ĐỔI KIẾP NGƯỜI

1996 - BỐN CHÂN LÝ THAY ĐỔI KIẾP NGƯỜI

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Phật tử

Thời gian: 1996

1- TỨ DIỆU ĐẾ CHỈ RA SỰ THẬT VỀ KHỔ VÀ CÁCH THOÁT KHỔ

(0:00) Hôm nay Thầy ngồi lại nói chuyện với cháu Thoa. Chẳng còn bao lâu nữa con phải rời khỏi Việt Nam - quê cha đất tổ để hòa mình trong cuộc sống mới, cuộc sống đầy cam go và thử thách nơi xứ lạ, quê người.

Ở góc độ nhân sinh quan, Đức Phật đã nhìn cuộc sống của kiếp con người bằng đôi mắt vượt lên trên để thoát khỏi sự bao vây và trói buộc bởi bao sợi dây xiềng xích vô hình đang và sẽ siết càng lúc càng chặt hơn. Vì thế, bài học vỡ lòng đầu tiên của đạo Phật: Đời là khổ. Nhưng mấy ai biết nó thật khổ?

Đời sống có năm thứ dục lạc đang cám dỗ, thu hút mọi người như đá nam châm, khiến cho mọi người mê mờ, ảo tưởng, cho đó là hạnh phúc, an vui chân thật. Nhưng nào ngờ nó là bong bóng nước, là hoa đốm giữa hư không; ở xa trông nó là hạt kim cương, nhưng đến gần nó là hạt nước mắt!

Cách đây 2540 năm, Đức Phật đã quả quyết xác định đời là khổ, dư âm còn vang dội đến ngày hôm nay, trên thế gian này không có một tôn giáo nào, một triết gia nào, một nhà khoa học nào dám phủ nhận lời nói của Phật là sai.

(2:09) Này con! Con phải hiểu đây không phải là một thông điệp chán đời, mà là một bằng chứng cụ thể, một chân lý thực sự, không có gì chối bỏ được! Hằng ngày sự đau khổ diễn ra trước mắt của mọi người nên làm sao phủ nhận được?

Đạo Phật đã vạch mắt chúng ta để thấy thật sự đời là đau khổ thật, không phải để trốn tránh nó, mà để biết nhìn thẳng nó, nhìn thẳng vào sự thật để chiến đấu vươn lên, vượt lên tận cùng và để chấm dứt đau khổ sinh tử luân hồi. Vì thế, đạo Phật không phải là đạo yếm thế, (mà là) đạo xuất thế, có nghĩa là đạo vượt lên trên cuộc đời.

Này con! Biết đời là khổ, hôm nay con sắp và đã trở thành người lớn, con phải chuẩn bị sẵn sàng đương đầu và đối phó mọi chiều hướng nơi tâm con. Con phải luôn sáng suốt, cảnh giác từng hành động, lời nói, ý nghĩ và còn phải gìn giữ, phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý, nếu không vậy, thân tâm con sẽ chẳng có phút an vui thanh thản.

Tứ Diệu Đế, bài pháp đầu tiên của Đức Phật mà mọi người trên thế gian này từ xa xưa đến bây giờ đều phải chấp nhận là một chân lý bất di bất dịch, không ai có quyền thay đổi dù chỉ thay đổi một phần ngàn, một phần triệu cũng không thay đổi được.

Vậy trước khi con lên đường, Thầy mang bài pháp này giảng trạch để trang bị cho con một tinh thần dũng cảm, một ý chí sắt đá, một tâm hồn bền vững, luôn luôn cảnh giác, ngăn ngừa, phòng hộ, giữ gìn sáu căn và sẵn sàng chiến đấu với nội tâm để lập đức nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng nhờ đó con mang lại thanh bình cho cuộc sống, không làm khổ mình, khổ người.

(5:24) Vậy Tứ Diệu Đế là gì?

Tứ Diệu Đế là một kinh nghiệm bản thân vô giá mà Đức Phật đã ban truyền để hướng dẫn nhân loại đau khổ, cởi mở những trói buộc, bất toại nguyện và (giải) thoát đến hạnh phúc tuyệt đối, thực tế tuyệt đối. Những chân lý thâm diệu ấy không phải do Ngài tạo nên, Ngài chỉ khám phá và nhận diện ra nó.

Tứ Diệu Đế là bốn chân lý thâm diệu, chỉ vạch cho con người nhận biết kiếp sống đau khổ vô cùng, vô tận không bao giờ dứt; và cũng để chỉ cách thức vượt thoát ra, chấm dứt khổ đau ấy.

Bây giờ chúng ta lần lượt triển khai từng Đế một.

2- KHỔ ĐẾ - CHÂN LÝ CUỘC ĐỜI KHÔNG AI CHỐI CÃI ĐƯỢC

(6:22) 1. Khổ Đế là gì?

Khổ Đế là chân lý thứ nhất chỉ rõ cho mọi người thấy đời sống con người là một chuỗi dài thời gian đau khổ bất tận. Nếu ai chịu khó suy tư, ngẫm lại, quán xét đời sống của mình, chắc quý vị phải công nhận: Đời khổ thật!

Khổ từ hành động do thân, miệng, ý của mình; Khổ từ những hành động của mọi người khác, từ miệng người khác; và từ những sự hao mất những vật chất, tài sản, những người thân thương xung quanh mình; Khổ vì cầu mong mà chẳng được; Khổ vì bệnh tật, tai ương, chết chóc, xa lìa, ly tán…​

Đời người còn biết bao nhiêu thứ khổ nữa, làm sao kể cho tận cùng, kể hết cho tận cùng! Nếu ai bảo đời là hạnh phúc, là an vui thì phải biết người đó là người mất trí!

Đức Phật dạy đời là khổ để làm gì?

Trong cái khổ của cuộc đời còn có rất nhiều sự vật cám dỗ và thu hút lòng tham muốn của con người rất mạnh, khiến cho mọi người dễ dính mắc. Mà khi đã dính mắc thì thành nghiệp, thói quen. Mà đã thành thói quen thì dễ sa ngã, càng sa ngã lại càng khổ đau.

Vì thế đức Phật nói đời khổ là để chỉ thẳng cho chúng ta tránh xa những cạm bẫy cám dỗ đó, chớ không phải ngồi đó than thở đời khổ, than thân trách phận, vì chính những sự cám dỗ này đã đưa con người đến chỗ tận cùng đau khổ của cuộc đời.

Đời đã có những cái khổ sẵn từ lúc mới sinh ra, nhưng vì không hiểu sống trên khổ mà không biết nên đã chạy theo danh, lợi, vật chất. Khổ mà không hay! Do vậy, càng đắm đuối, say mê, chạy theo và mơ mộng những hạnh phúc hão huyền nên đã khổ lại càng khổ hơn.

(9:36) Này con! Bài học đầu tiên - Khổ Đế của đạo Phật để nhắc nhở cho con người giật mình nhìn lại đời sống của mình, để nhắc nhở con người tỉnh thức lại đời sống của mình, và cũng để cảnh giác con người sự đau khổ không phải chỉ có một kiếp mà vô lượng kiếp giống như ngọn đuốc này sắp tàn thì mồi tiếp ngọn đuốc khác, và cứ tiếp tục mãi mãi trong vòng tròn luân hồi sanh tử và khổ đau.

Vì thế, khi hiểu được đời là khổ thì con phải tư duy cho thấm nhuần, biết rõ đời khổ như thật. Khi biết rõ đời khổ như thật, khổ thật thì tâm con không còn ham muốn gì cả trên thế gian này. Do vậy, con mới mạnh dạn từ khước mọi sự cám dỗ một cách anh dũng, thì con không còn bị sa lầy, đau khổ trên nó.

Nếu con chỉ biết đời khổ với một tâm hời hợt, với một sự biết khổ chưa thật khổ thì con khó từ khước những danh, lợi và vật chất đang cám dỗ và quyến rũ con, từ đó con sa lầy trên những sự cám dỗ đầy ô trược, khổ đau, và nó luôn luôn cuốn hút con trong đau khổ này.

(11:36) Nhìn lại cuộc sống hằng ngày, thân tâm con và vạn vật xung quanh con đang diễn biến từng phút giây vô thường, nghĩa là nó đang sanh diệt từng sát na không ngừng nghỉ. Do sự diễn biến vô thường này đã tự tạo ra muôn vàn thứ đau khổ cho con người, nó vì quá vi tế nên con người không nhận ra được.

Vì không nhận ra được nên con người lầm tưởng thân tâm của mình và vạn hữu xung quanh là thường hằng, vì thế đắm đuối chạy theo, dính mắc, ham mê say đắm. Càng chạy theo càng dính mắc, càng ham mê càng say đắm thì lại càng khổ đau nhiều!

Đời là một chuỗi ngày dài đau khổ của kiếp người, nếu con đã thấm nhuần biết đời là khổ thật, khổ như thật mà không có lối thoát thì con lại sinh ra tâm buồn chán, hết muốn sống. Trong thời đức Phật còn tại thế, khi các vị Tỳ Kheo quán xét đời sống là khổ thật, thân tâm vô thường và bất tịnh nên sinh ra ngao ngán và chán đời không còn thiết sống, vì thế các vị tự tử hoặc mướn người khác giết mình.

Có một số người nghe đến đây hiểu lầm lạc này nên cho rằng đạo Phật yếm thế, tiêu cực. Đó là người ta đứng ở góc độ phiến diện của đạo Phật, chỉ thấy cảnh khổ đời người mà không thấy cảnh giới giải thoát Niết Bàn tại thế của đạo Phật.

3- DIỆT ĐẾ - CẢNH GIỚI GIẢI THOÁT NIẾT BÀN NGAY TẠI THẾ GIAN

(13:46) Khi Đức Phật giảng trạch chỉ cho mọi người thấy đời là khổ, khổ thật thì ngay liền cũng chỉ dạy chúng ta thấy chỗ thoát khổ. Chúng ta chán ngán cuộc đời vì nó toàn là khổ, nhưng để thoát ra khỏi cảnh khổ không phải bằng cái chết. Chết chưa hẳn đã là hết khổ mà chỉ tiếp tục cho sự tái sanh kế tiếp, và như vậy kiếp này đến kiếp khác chỉ ở trong một vòng tròn đau khổ triền miên bất tận.

Đức Phật đã dạy: “Cuộc đời xuôi dòng là khổ, đi ngược dòng đời là thoát khổ”. Vì thế, cũng cùng một cuộc sống không có khác nhau chút nào, nhưng chạy xuôi theo dòng đời, thuận theo lòng ham muốn thì đời là khổ, là cảnh giới gian ác, uế trược, địa ngục, khổ đau; bằng ngược lại thì đời là Niết Bàn, cảnh giới hiền hoà, thanh tịnh, an vui, thiên đường, không có khổ đau.

Vì thế chân lý thứ ba được giảng trạch, chỉ dạy cho tất cả mọi người để tránh sự yếm thế, tiêu cực đối với cuộc sống. Diệt Đế là chân lý thứ ba trong Tứ Đế.

(15:26) 2. Diệt Đế là gì?

Diệt Đế là Niết Bàn, là cảnh giới không còn đau khổ sinh tử và luân hồi. Diệt Đế là một cuộc sống của con người đi ngược dòng đời mà mọi người đang sống. Diệt Đế là cuộc sống với thân tâm thanh thản, an vui. Diệt Đế là cuộc sống của con người không làm khổ mình, khổ người. Diệt Đế là cuộc sống toàn thiện, chân thiện, thánh thiện. Diệt Đế là cuộc sống nội tâm, sống với mình, sống cho mình, sống không động người. Diệt Đế là cuộc sống độc cư trọn vẹn.

Diệt Đế không phải là cảnh giới siêu hình để người tu hành chết được sinh vào đó. Diệt Đế không phải là cảnh giới mơ hồ, trừu tượng, tưởng tượng hão huyền do sự tưởng tượng mà ra. Diệt Đế là cảnh giới Niết Bàn, giải thoát chân thật, cụ thể, thực tế mà khi chỉ vào cho thấy thì ai cũng phải công nhận cảnh giới đó chân thật, thật sự.

Đạo Phật nói đời là khổ thì không ai phủ nhận được, nói Niết Bàn là giải thoát an vui thì cũng không ai phủ nhận được, bởi vậy mới gọi nó là chân lý bất di bất dịch, khi giảng trạch chỉ thẳng cho mọi người ai cũng đều nhận thấy hiểu biết rõ ràng mà không có một ý kiến nào cho là sai được, từ người thông minh đến ngu tối, giàu sang, nghèo hèn cho đến vua chúa, quan quân, sĩ tốt cũng đều nhận hiểu biết rõ ràng, không có ai bảo rằng không hiểu.

Kinh điển nguyên thủy Tiểu Thừa đều gọi là Niết Bàn, kinh điển Đại Thừa đều gọi là Phật Tánh, Chân Như, Bản Thể, Thiền Đông độ gọi là “bản lai diện mục”, ở đây Thầy gọi là “thân tâm thanh thản”. Cảnh giới Niết Bàn của đạo Phật dạy cho chúng ta thấy nó không phải ở đâu xa, ở ngay trong thân tâm của chúng ta và cuộc sống của chúng ta hằng ngày.

Khi chúng ta dừng tất cả mọi lo âu, sợ hãi, mọi phiền não cũng như u sầu, mọi nỗi buồn vui lẫn lộn, mọi sự giận hờn, ganh tỵ, nghi nan, mọi lòng ham muốn, đắm mê thì ngay đó cuộc sống nơi thân tâm ta là Niết Bàn. Vì thế, khi vượt ra khỏi sự phiền não, đau khổ của cuộc đời là ngay đó chúng ta đã vào Niết Bàn với một thân tâm thanh thản an lạc.

(18:37) Đến đây con đã hiểu Phật dạy “đời là khổ” là để bỏ cái khổ, vượt cái khổ để được thân tâm giải thoát trong cuộc sống hiện tại và tiếp tục cho mai sau, chứ không dạy chán đời, yếm thế, tự tử để mang theo một nỗi niềm đau khổ chán chường.

Phật dạy: “Đời sống thế gian là khổ, đời sống xuất thế gian là giải thoát”, nhờ sự chỉ dạy này mà người ta không mất hướng sống. Nếu nói đời sống khổ mà không có lối thoát khổ thì đưa con người vào bước đường cùng.

Bởi vậy theo Thầy thiết nghĩ, Khổ Đế phải được đi liền với Diệt Đế. Nghĩa là Khổ Đế được đặt ở chân lý thứ nhất thì Diệt Đế là chân lý thứ nhì. Đằng này Khổ Đế thứ nhất, Diệt Đế thứ ba, cho nên người nghiên cứu đạo Phật chưa thâm sâu cho đạo Phật yếm thế, chán đời, hễ thấy ai theo đạo Phật đều cho là yếm thế chán đời cả!

4- TẬP ĐẾ - LÒNG HAM MUỐN LÀ NGUYÊN NHÂN CỦA KHỔ ĐAU

(20:05) Này con! Đến đây con đã hiểu ở tâm con có hai trạng thái:

  1. Khổ đau;

  2. Giải thoát.

Đau khổ là Khổ Đế, giải thoát là Diệt Đế.

Chỗ này con đừng lầm ở Thọ, Thọ có ba trạng thái:

  1. Thọ lạc;

  2. Thọ khổ;

  3. Thọ không lạc, không khổ.

Khi nhận ra 2 trạng thái trong một tâm hồn cụ thể rõ ràng, chân thật và thực tiễn thì chắc mọi người ai cũng chọn lấy trạng thái giải thoát mà buông bỏ trạng thái khổ đau. Khi đã quyết định chọn lấy trạng thái giải thoát thì phải tìm mọi cách buông xả toàn triệt trạng thái khổ đau.

Nhưng trạng thái khổ đau của kiếp người vô cùng, vô tận và nhiều vô số kể thì làm sao buông xả hết được? Buông xả cái này thì cái khác sanh ra.

Do thế Đức Phật dạy cho chúng ta biết nguồn gốc sanh ra sự đau khổ, nhờ biết đó chúng ta chỉ biết buông bỏ cái gốc hay nói một cách khác chặt đứt lìa cái gốc khổ, cái gốc sanh ra khổ đã bị đứt lìa, đoạn lìa thì cuộc sống chúng ta hết khổ. Mà cuộc sống hết khổ thì đó là Niết Bàn cảnh giới thoát khổ của loài người nên Phật đã dạy Tập Đế.

Tập Đế là một chân lý thứ hai trong kinh điển Tứ Diệu Đế, theo Thầy nghĩ, nên đặt chân lý này vào hàng thứ ba.

(22:09) 3. Vậy Tập Đế là gì?

Tập Đế là một sự tập hợp tất cả những sự khổ, là một nguyên nhân sinh ra muôn ngàn thứ đau khổ của loài người. Đó là một chân lý bất di bất dịch, không thể thay thế được, nói khác được.

Nguyên nhân tức là nguồn gốc, vậy nguồn gốc sinh ra đau khổ này là gì? Là lòng ham muốn của con người. Chỉ khi nào chúng ta xa lìa lòng ham muốn thì cảnh giới hết đau khổ sẽ hiện ra trong thân tâm của chúng ta. Lòng ham muốn sanh ra đau khổ, điều này hẳn nhiên mọi người ai cũng phải công nhận như vậy.

Chúng ta nên biết lòng ham muốn mà không đạt được thì đau khổ vô cùng, nếu mà đạt được thì cũng đau khổ không kém. Bởi vậy cuộc đời càng chạy theo danh lợi vật chất thì càng rơi xuống biển khổ, càng đi ngược lại dòng đời, xa lìa sự ham muốn - tuy mới bắt đầu tu tập chúng ta cảm thấy như khổ sở, nhưng một thời gian rèn luyện tu tập ta nhận ra được trạng thái chấm dứt đau khổ.

5- ĐẠO ĐẾ - TÁM PHƯƠNG TIỆN ĐỂ THOÁT KHỔ

5.1- Hằng ngày sống mười giới là đi trên con đường Bát Chánh Đạo

(23:49) Khi biết rõ nguyên nhân đau khổ, chúng ta phải xa lìa, chấm dứt và đoạn dứt nó. Muốn xa lìa, chấm dứt và đoạn dứt nó không phải là một việc dễ làm nên Phật đã dạy cho chúng ta tám nẻo, nói một cách khác là tám phương tiện để xa lìa đoạn dứt tâm ham muốn, tám nẻo ấy gọi là Bát Chánh Đạo, gọi tắt là Đạo Đế.

4. Vậy Đạo Đế là gì?

Đạo Đế là nẻo đi, đường đi chân chính đưa đến mục đích cứu kính giải thoát Niết Bàn. Nói cho đúng: Đạo Đế là Bát Chánh Đạo, là tám nẻo, hay là tám phương tiện, và còn phải hiểu cho rõ hơn là tám cách thức tập luyện, ngăn ngừa, phòng hộ, bảo vệ, giữ gìn khiến cho tâm ham muốn xa lìa vật ham muốn. Tám nẻo đó sẽ chấm dứt được nguồn gốc đau khổ của chúng sanh nên Phật dạy, nên Phật gọi tắt là Đạo Đế.

Đạo Đế là con đường chân chánh giải thoát con người ra khỏi khổ đau. Cách đây 2540 năm con đường giải thoát này đã được ra đời để dẫn dắt tất cả chúng sanh thoát khỏi vòng đau khổ sanh tử luân hồi, cho đến ngày nay không có một pháp môn nào, không có một con đường nào thay thế được, cho nên gọi nó là Đạo Đế - một chân lý giải thoát loài người của Đạo Phật.

Tám nẻo này để thực hiện ba pháp môn vô lậu Giới - Định - Tuệ. Này con! Trước khi nghe Thầy giảng tám nẻo này thì con phải học thuộc mười giới của người cư sĩ.

(26:03) Mười giới đó là:

Về phần thân:

1. Không được hành động giết hại chúng sanh và làm đau khổ.

2. Không được hành động lấy của người không cho dù bất cứ việc gì.

3. Không được hành động tà dâm.

Về phần miệng:

1. Không được nói lời thiếu chân thật.

2. Không được nói lời hung dữ, độc ác.

3. Không được nói lời chia rẽ, thù hằn nhau.

4. Không được nói lời phù phiếm, vô nghĩa.

Về phần ý:

1. Không được ham muốn dù bất cứ việc gì.

2. Không được sân hận.

3. Không được ngu si.

Khi đã học thuộc mười giới, Thầy sẽ giảng trạch tám nẻo để áp dụng vào mười giới ngăn cấm này. Bây giờ con hãy lắng nghe, và lắng nghe cho kỹ để thực hành cho đúng lời dạy thì con sẽ sống một cuộc đời thanh thản an vui bên những người thân thương mà không có điều gì trái ý nghịch lòng.

Nếu con áp dụng và giữ gìn đúng thì dù cho bốn phương, tám hướng có dẫy đầy ác ma đến quấy nhiễu con, con cũng chẳng hề nao núng và còn chặn đứng chúng không cho xâm chiếm được tâm hồn con, nhờ thế con đang sống tại thế gian mà thân tâm con đang ở tại thiên đường. Nếu lấy Bát Chánh Đạo là con đường phải đi thì mười giới là sinh hoạt hằng ngày con phải sống.

Bát Chánh Đạo là gì?

Là tám nẻo tu tập để trở về mục đích giải thoát Niết Bàn, nói một cách khác là tám cách thức tu sửa rèn luyện thân tâm và giữ gìn bảo vệ để chấm dứt lòng ham muốn, vượt thoát mọi khổ đau của kiếp người.

Tám nẻo là:

  1. Chánh Kiến;

  2. Chánh Tư Duy;

  3. Chánh Ngữ;

  4. Chánh Nghiệp;

  5. Chánh Mạng;

  6. Chánh Tinh Tấn;

  7. Chánh Niệm;

  8. Chánh Định.

Này con! Bây giờ con hãy lắng nghe cho kỹ, hiểu cho rõ ràng để áp dụng tu tập đúng cách.

Đây là phần lý thuyết lẫn thực hành, nó không đơn giản, phải hiểu cho rõ, hiểu đúng, mà còn phải biết cách áp dụng tu sửa thân tâm. Nếu con bỏ qua một lỗi nhỏ, mà không sửa dù lỗi đó rất nhỏ thì đừng hòng sửa những lỗi lớn được. Luôn luôn phải áp dụng pháp môn từng chút vào thân tâm của mình để tránh có lỗi, nhờ thế cuộc sống thế gian đầy đau khổ ô trược địa ngục đã biến thành cõi thiên đàng với thân tâm thanh thản hồn nhiên của một anh nhi thánh thiện.

5.2- Chánh Kiến là phòng hộ sáu căn trong thiện pháp

(29:44) Bắt đầu con dùng phương tiện thứ nhất - Chánh Kiến để phòng hộ, giữ gìn và bảo vệ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình.

Muốn giữ gìn bảo vệ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của con trong Chánh Kiến thì con phải làm sao? Muốn giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý khi tiếp xúc sáu trần là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp trong Chánh Kiến thì con phải hiểu trong con mắt không có vật, trong vật không có con mắt.

Vậy sao nó lại dính mắc vật? Dính mắc vật là do tâm ham muốn của con! Vậy khi mắt thấy vật mà không dính thì con phải ngăn ngừa, giữ gìn lòng ham muốn của con, nghĩa là con đoạn dứt không cho nó ham muốn vật gì hết. Khi tâm con đoạn dứt ham muốn thì mắt thấy sắc không còn dính mắc. Tai, mũi, miệng, thân, ý cũng như vậy.

Nhưng con đừng quên rằng: Nếu để tâm ham muốn của con làm duyên thì mắt thấy sắc liền dính sắc. Vậy con là người mới tu không thể đoạn dứt tâm ham muốn ngay liền được nên phải phòng hộ mắt bằng cách ít tiếp duyên ra ngoài, nói cách khác là không nên tiếp xúc sáu trần nhiều, cố tránh tiếp xúc là tốt nhất.

Người ta bảo “tránh cảnh giữ tâm”, tức là độc cư. Khi tâm đã thuần thục thì mắt thấy sắc không dính sắc, tức là ta đã đoạn dứt tâm ham muốn, hay nói cách khác là ta đã ly dục, ly ác pháp.

Chánh Kiến là gì?

(31:41) Chánh Kiến là thấy, nghe một sự việc, một đối tượng, một hoàn cảnh, một sắc tướng, một âm thanh, một hương thơm, một mùi vị, một cảm xúc ngay thẳng, chính trực, đứng đắn, công minh.

Chánh Kiến thuộc về Lục Nhập tiếp xúc Lục Trần. Lục Nhập là: mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý; Lục Trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp.

Ngay thẳng, chánh trực, đúng đắn, công minh của Đạo Phật là gì? Là thiện pháp. Này con! Ở đâu có nghe thấy hiểu biết mà không có thiện pháp thì ở đó có đau khổ.

Vậy thiện pháp là gì? Là mười giới Thầy đã dạy con ở trên. Muốn thấy, nghe, hiểu biết chơn chính thì phải khép mình trong khuôn khổ giới luật mà con đã học.

Tóm lại Chánh Kiến là sự phòng hộ sáu căn, giữ gìn tâm lúc nào cũng thanh thản an vui, không bị cám dỗ và lôi cuốn bởi sáu trần. Nếu ngay trên cuộc sống hằng ngày mà con giữ gìn tâm được như vậy tức là con đã lìa xa tâm ham muốn. Mà đã lìa xa tâm ham muốn thì con hoàn toàn giải thoát khỏi đau khổ.

5.3- Chánh Tư Duy là suy ngẫm, nghiệm xét trong thiện pháp

(33:12) Bây giờ con tiếp tục tu tập nẻo thứ hai: Chánh Tư Duy.

Chánh Tư Duy là gì?

Chánh Tư Duy là suy nghĩ, nghiệm xét đúng đắn, chân chánh, ngay thẳng, công minh. Chánh Tư Duy thuộc về ý.

Ngay thẳng, đúng đắn, chân chính, công minh của đạo Phật là gì? Là thiện pháp. Này con! Ở đâu có sự suy ngẫm, có sự nghiệm xét trong thiện pháp, loại trừ các ác pháp là ở đó phải có một tư tưởng, ý nghĩ chân chính trong giới luật thì luôn luôn có tâm hồn thanh thản, an vui, hạnh phúc.

Thiện pháp của con là gì? Là mười giới mà Thầy đã dạy ở trên. Khi muốn suy nghĩ, nghiệm xét một điều gì thì lấy mười giới làm khuôn phép cho sự suy nghĩ nghiệm xét đó. Nếu những sự suy nghĩ đi ngược lại mười giới là con phải dứt ngay, chặn đứng ngay, đoạn dứt ngay, vì đó là sự tà tư duy.

Nếu con thường xuyên thực hành những điều này để giữ gìn, phòng hộ, bảo vệ tư tưởng con lúc nào cũng thanh tịnh và trong sạch, do đó thân tâm con sẽ được an lạc, thanh thản, giải thoát.

Chánh Tư Duy là sự bảo vệ tư tưởng trong sáng thanh tao, lúc nào cũng minh mẫn sáng suốt, tỉnh thức trong mọi sự suy nghĩ, nó đều gắn liền với thiện pháp, xa lìa hẳn những ác pháp.

Tóm lại đây là nẻo thứ hai. Nếu con siêng năng chịu khó hằng ngày rèn luyện, tu tập tư tưởng mình thì đó là tự con đã đưa tư tưởng con vào Niết Bàn, giải thoát cứu kính vĩnh cửu.

5.4- Chánh Ngữ là lời nói thiện

(36:09) Bây giờ con tiếp tục tu tập nẻo thứ ba: Chánh Ngữ. Chánh Ngữ thuộc về khẩu, miệng.

Chánh Ngữ là gì?

Chánh Ngữ là lời nói chân thật, công bằng, ngay thẳng hợp lý.

Chân thật, công bằng, ngay thẳng hợp lý của đạo Phật là gì? Là thiện pháp. Ở đâu có lời nói thiện, ôn tồn, nhã nhặn hòa hợp, êm ái, nhẹ nhàng an ủi, khuyên giải, thành thật thì ở đó thân tâm thanh thản an vui hạnh phúc.

Vậy thiện pháp của con là gì? Là mười giới mà Thầy đã dạy ở trên. Vì thế Chánh Ngữ là lời nói ra những lời lành bằng giới luật mà con đã học, ngược lại là lời nói ác.

Phật dạy Chánh Ngữ mục đích là giữ miệng lưỡi, vì miệng lưỡi sanh ra phiền não đau khổ cho mình, cho người. Cho nên người phụ nữ có chồng không nên đem chuyện xấu trong nhà thuật lại cho láng giềng đầu này hay đầu kia, hoặc cha mẹ ruột bởi vì “không có lửa nào có thể tệ hại như lửa ấy!”

“Nếu có người láng giềng đàn ông hay đàn bà nói xấu cha mẹ chồng hay chồng, không nên đem những chuyện lời phỉ báng ấy về nhà lặp lại và nói rằng người nọ, người kia nói xấu điều này, hay điều khác về ta, bởi vì không có lửa nào tệ hại như lửa ấy!”

Nói là một điều rất tai hại, người xưa dạy “họa tùng khẩu nhập”, nói ra lời nói mà tai họa đến thân, nói ra lời nói mà mình khổ, người khác khổ nên cần phải dè dặt, cẩn thận lời nói.

Vì thế, người đệ tử của Phật cần ít nói, nói ra phải suy nghĩ cho thật kỹ; Không dùng những lời nói thô lỗ, khiếm nhã; Không dùng những lời nói hung dữ, nguyền rủa, thề thốt v.v.; Không nên tranh luận hơn thua với ai dù bất cứ việc gì; Không chỉ trích khen chê ai; Nói phải ôn tồn, nhã nhặn, êm ái, nhẹ nhàng, từ tốn; Nói không được cướp lời người…​

Bởi vậy, Chánh Ngữ là lời nói làm mình vui, người khác vui. Nó là nẻo thứ ba trong tám nẻo đưa con người đến Niết Bàn giải thoát. Nếu ai đã quyết tu theo Đạo Phật mà xem thường miệng lưỡi của mình là người đó chưa hiểu Đạo Phật.

Đạo Phật biết rõ, miệng lưỡi của con người rất độc, độc hơn loài thú dữ, rất sắc bén, sắc bén hơn gươm đao. Bởi vậy, người đệ tử của Phật phải siêng năng tu tập miệng lưỡi, phải giữ gìn, phòng hộ miệng lưỡi từng phút, từng giây. Vì thế, nó được Đức Phật cho đứng vào hàng ngũ thứ ba trong tám nẻo đưa đến cứu kính Niết Bàn.

Tóm lại, trong cuộc sống hằng ngày muốn có được thân tâm thanh thản an vui và hạnh phúc thì con phải tu sửa lời nói. Khi lời nói thoát ra khỏi miệng con phải nhớ kỹ là không làm khổ mình, khổ người dù bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải cân nhắc lời nói.

5.5- Chánh Nghiệp là hành động, việc làm, nghề nghiệp thiện

(38:52) Bây giờ con tiếp tục tu tập nẻo thứ tư: Chánh Nghiệp. Chánh Nghiệp thuộc về thân.

Chánh Nghiệp là gì?

Chánh Nghiệp là những hành động, việc làm nghề nghiệp chân chính đúng với lẽ phải, phù hợp với chân lý, đem lại lợi ích cho mình, cho xã hội.

Vậy hành động, việc làm, nghề nghiệp chân chính đúng với lẽ phải, phù hợp với chân lý trong Đạo Phật là gì? Là thiện pháp. Ở đâu có hành động việc làm nghề nghiệp chân chính lương thiện đúng lẽ phải, hợp chân lý, làm lợi ích mình, lợi ích người, lợi ích xã hội thì ở đó mọi người có giải thoát, có thân tâm thanh thản an vui.

Vậy thiện pháp của con là gì? Là mười giới mà Thầy đã dạy ở trên.

Vì thế, Phật dạy Chánh Nghiệp là dạy chúng ta: Mỗi mỗi hành động của thân đều phải ý tứ cảnh giác từng ly từng chút, không để cho những hành động đó sơ sót phạm vào điều ác, cũng như phải chọn nghề nghiệp làm ăn sinh sống, nghề nghiệp phải lương thiện, không gian ác và không được làm những nghề nghiệp sát hại chúng sanh như săn bắn, bắt cá, nghề nghiệp giết trâu bò heo dê gà vịt, v.v.; Không được làm nghề ăn trộm, ăn cắp, móc túi, làm nghề gian lận, bài bạc, cá ngựa, hội hè…​

Tóm lại trong đời sống hằng ngày, muốn đi vào nẻo Chánh Nghiệp thì phải tu sửa mọi hành động của thân, thay đổi mọi nghề nghiệp bất thiện, chọn lấy nghề nghiệp thuần thiện. Nhờ đó mà thân tâm con và cả gia đình đều được an vui, thanh thản, hạnh phúc.

5.6- Chánh Mạng là nuôi sống thân mạng trong thiện pháp

(40:54) Bây giờ con tiếp tục tu tập nẻo thứ năm: Chánh Mạng. Chánh Mạng thuộc về pháp trần. Pháp trần có 2 loại: Một vật chất, hai tinh thần.

Chánh Mạng là gì?

Chánh Mạng là sự nuôi sống thân mạng bằng vật chất và bằng tinh thần chân chính, lương thiện, trong sạch.

Vậy nuôi sống thân mạng bằng vật chất tinh thần chân chính, lương thiện, trong sạch của Đạo Phật là gì? Là thiện pháp. Ở đâu có sự nuôi sống thân mạng bằng vật chất, tinh thần chân chính, lương thiện, trong sạch thì ở đó thân tâm giải thoát an vui, hạnh phúc.

Vậy thiện pháp của con là gì? Là mười giới mà Thầy đã dạy ở trên.

Vì thế Đức Phật dạy Chánh Mạng là để chúng ta hiểu rõ từ vật chất đến tinh thần để nuôi mạng sống:

Về thực phẩm nuôi sống phải làm bằng nghề nghiệp lương thiện không có sự đau khổ của chúng sanh trong đó, không có sự gian tham trộm cắp trong đó, không có máu xương chúng sanh trong đó, không có sự gian lận trong đó.

Về tinh thần phải bằng Chánh Pháp, không được gặp pháp nào tu theo pháp nấy mà phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng. Người theo Đạo Phật muốn nuôi tâm mình bằng thực phẩm tinh thần thì phải cân nhắc cảnh giác kỹ lưỡng vì tà pháp đang lẫn lộn trong Chánh Pháp, rất khó phân biệt.

Cho nên Chánh Mạng trong Đạo Phật là nuôi thân mạng vật chất lẫn tinh thần đều lấy giới luật làm thực phẩm mà con đã học.

Tóm lại, trong đời sống hằng ngày tu tập theo Đạo Phật, con phải sửa lại những thực phẩm nuôi mạng sống hằng ngày bằng những thực phẩm lương thiện do nghề nghiệp làm ra bằng mồ hôi nước mắt của mình, những thực phẩm đó không có sự đau khổ, chết chóc của chúng sanh; Về món ăn tinh thần: pháp môn không có mê tín, trừu tượng, mơ hồ, ảo tưởng, v.v…​ thì đó là thiện pháp, giới luật của Đức Phật; nhờ đó thân tâm con sẽ được thanh thản, an vui, hạnh phúc, giải thoát.

5.7- Chánh Tinh Tấn là tu tập gan dạ, bền chí, kiên trì, nghị lực

(43:17) Bây giờ con tu tập nẻo thứ 6: Chánh Tinh Tấn. Chánh Tinh Tấn thuộc về tâm.

Chánh Tinh Tấn là gì?

Chánh Tinh Tấn là kiên trì, bền chí, gan dạ, dũng cảm, đầy đủ nghị lực, cương quyết, hăng hái, cố gắng, quyết tâm, nhiệt tình, siêng năng, chuyên cần.

Vậy Chánh Tinh Tấn phải tu như thế nào?

Phải giữ gìn thời khóa tu tập nghiêm chỉnh, giờ nào việc nấy, không được bê trễ, không được bỏ qua; việc làm chưa xong, phải quyết tâm làm cho xong, một lần chưa xong, hai lần, ba lần, bốn, năm, mười, trăm ngàn lần phải xong đó là Chánh Tinh Tấn.

Quyết tâm đoạn dứt tâm ham muốn để thoát ra cảnh đau khổ của thế gian, nếu một lần chưa đoạn dứt được thì hai lần, ba lần, bốn, năm, mười, trăm ngàn lần phải làm cho được, phải đoạn dứt cho được đó là Chánh Tinh Tấn.

Làm một việc mãi mà tâm không thối chuyển, không nản chí đó là Chánh Tinh Tấn. Gặp khó khăn phải vượt qua cho được, làm cho được, thực hiện cho được đó là Chánh Tinh Tấn.

Người có nghị lực, có bền chí, có gan dạ thì có lo gì con đường giải thoát của Đạo Phật mà chẳng đạt tới đích? Bởi vậy Chánh Tinh Tấn là nẻo tu hành khó khăn nhất trong tám nẻo của Đạo Phật, nó là nẻo duy nhất rèn luyện tâm đầy nghị lực, bền chí. Có bền chí, có nghị lực mới gọi là Chánh Tinh Tấn.

Hằng ngày siêng năng, chuyên cần tu tập, ngăn ngừa, bảo vệ, phòng hộ 6 căn mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý, luôn lúc nào cũng cảnh giác bằng thiện pháp áp dụng vào năm nẻo Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng trọn vẹn trong giới luật không lúc nào lơ đễnh, biếng trễ thì đó là tu tập Chánh Tinh Tấn.

Chánh Tinh Tấn phải hiểu là tu tập gan dạ, bền chí, kiên trì, nghị lực. Ở đâu có Chánh Tinh Tấn sống trọn đầy trong thiện pháp, giới luật thì ở đó có bậc Thánh Hiền giải thoát, an vui, thanh thản.

Tóm lại, sáu nẻo tu hành này nếu trong đời sống hằng ngày của con thường áp dụng, phòng hộ, giữ gìn, ngăn chặn mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý không cho buông lung, phóng dật, không cho nó lang thang đầu phố, xó chợ, và tu sửa ý suy nghĩ, tu sửa lời nói, tu sửa hành động của thân, và nghề nghiệp làm ăn phải lương thiện, và thực phẩm nuôi mạng sống phải bằng những thực phẩm thiện; nếu con siêng năng, chuyên cần như lời Thầy đã dạy, đã giảng ở trên thì thân tâm con sẽ được giải thoát an vui, thanh thản. Đó là Niết Bàn thanh tịnh tại thế hiện tại!

5.8- Chánh Niệm và Chánh Định là hai nấc cuối cùng: tu tập thiền định

(46:25) Phần kết:

Để kết thúc buổi nói chuyện với con hôm nay trong Bát Chánh Đạo, Thầy chỉ giảng cho con tu tập sáu nẻo, còn hai nẻo Chánh Niệm và Chánh Định thuộc về tâm, thiền định. Hai nẻo này thuộc về tu Định dành riêng cho những bậc xuất gia, ly trần, còn năm giới kia tu Giới và một nẻo làm trung gian, khi nào con tu Giới tâm được thanh tịnh, ly dục, ly bất thiện pháp xong Thầy sẽ dạy tu tập 2 nẻo này.

Một cái thang có tám nấc: Năm nấc tu giới luật còn có tên là thiền quán, thiền tư; còn một nấc làm trung gian cho thiền tư và thiền định; hai nấc sau cùng tu Định còn gọi là thiền định. Con phải lần lượt tu tập bước lên từng nấc, nấc thứ nhất rồi mới bước lên nấc thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm và thứ sáu, không thể bỏ nấc nào mà bước lên trên được; bước nấc này xong rồi mới bước tới nấc kia được, có như vậy con sẽ không bị té!

Theo lời Thầy đã giảng dạy ở trên, con hãy ghi khắc tựa của bài giảng này: “Nếu lấy Bát Chánh Đạo là con đường phải đi thì mười giới luật hằng ngày con phải sống.”

Đến đây Thầy xin chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay. Chúc con sống đúng giới pháp của Phật để được một đời sống thanh thản, an vui, hạnh phúc giải thoát!

HẾT BĂNG

Pháp Âm - 1996 - THIỀN ĐỊNH CƠ BẢN - MỒNG 1 TẾT BÍNH TÝ

1996 - THIỀN ĐỊNH CƠ BẢN - MỒNG 1 TẾT BÍNH TÝ

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 01/01/1996 (AL)

1- 30 NGUYÊN NHÂN TU TẬP SAI LỆCH

(00:00) Trưởng lão: Bây giờ các con im lặng để nghe Thầy giảng trạch chỗ tu sai lệch trong một năm vừa qua. Chỗ nào đúng thì các con tiếp tục tu, chỗ nào sai các con sửa lại tu cho đúng. Các con cố gắng nghe cho kỹ.

Hôm nay, là ngày Mồng Một năm Bính Tý (1996), Thầy có đôi lời nhắn nhủ cùng các phật tử trong sự tu tập. Thời gian thấm thoát trôi qua quá nhanh. Mới đó mà đã hết một năm tu tập của các con. Để kiểm điểm lại sau một năm tu tập xem có tiến bộ hay không, hay còn dậm chân tại chỗ. Để xác định điều này, đã trắc nghiệm để chọn và đưa các con lên tu tập lớp Thiền định thứ 2 ở giai đoạn "DIỆT" tức là đóng mở sáu căn nhưng hoàn toàn thất vọng. Một năm tu tập đã qua…​ rớt. Chỉ có một mình cô Huệ Ân là đủ điểm đậu ở giai đoạn “LY” thứ nhất, phần I. Các con đành phải ở lại một năm nữa để tu tập ở giai đoạn I, để “LY” cho được bản ngã và ác pháp của mình.

Tại sao các con lại rớt? - Xét ra có nhiều nguyên nhân tu sai mà con không biết:

  1. Tu sai mà không biết mình tu sai.

  2. Cô Diệu Quang nhắc nhở mà không chịu nghe theo.

  3. Cứ dựa vào Thầy để nghe thuyết giảng, tích lũy sự hiểu biết suông nên tạo thành bản ngã to lớn.

  4. Học tập, thuộc nhiều, nói nhiều, đến khi hành thì sai hết; lớp này tu tập chưa xong lại tu lớp khác.

  5. Ăn, ngủ chưa trọn vẹn.

  6. Độc cư ở giai đoạn I chưa xong, lại vượt qua ở giai đoạn II, III.

  7. Nhẫn Nhục chưa tròn mà vội Tùy Thuận, Bằng Lòng là nén tâm là tu sai.

  8. Thiếu lòng tin ở người Thiện hữu tri thức ở gần gũi bên mình.

  9. Không nghe lời dạy bảo khuyên răn của Thiện hữu tri thức thân cận.

  10. (03:05) Thường sống trong bản ngã cố giữ kiến chấp không chịu thấy và xa lìa các lỗi lầm. Thường hay tự lý luận, che đậy tranh chấp, cãi lý, nên tâm bất an.

  11. Sống thiếu lục hòa, sanh tâm ganh tị.

  12. Sống độc cư sai, tạo cảnh nén tâm, ức chế không nói.

  13. Tu sai, không thưa hỏi kỹ Thiện hữu tri thức, để trở thành lối tu có hình thức bên ngoài.

  14. Tình cảm người thân không chịu quán xét, xa lìa, nên tâm thường bị phân tán.

  15. Khi nghe nhắc nhở, thiếu trí thông minh, không chịu thưa hỏi kỹ lại.

  16. Những lỗi lầm tu sai của nhau thường che giấu.

  17. Tâm luôn luôn sợ hãi, không dám chỉ mặt, vạch tên bạn đồng tu có lỗi lầm. Đó là thiếu lòng dũng cảm, không gan dạ xây dựng mình tốt, bạn tốt, tập thể tốt.

  18. Không dám thẳng thắn nhận lỗi mình, chỉ lỗi người là người hèn nhát.

  19. Vị tình, thương bạn đồng tu, không dám chỉ lỗi là đặt tình thương không đúng chỗ.

  20. Sợ bạn bè đồng tu xấu hổ vì phạm lỗi lầm, không dám chỉ sai cho người khác sửa đó là làm hại bạn mình, hại tập thể, hại xã hội.

  21. Mỗi bữa ăn nào cũng không giữ yên lặng để nghe lời chỉ bảo của Thiện hữu tri thức, để tu sửa thân tâm thường tranh luận, biện lý, che đậy lỗi lầm của mình.

  22. Thường nương tựa kiến thức thế gian, sanh kiến chấp, nuôi lớn ngã mạn, khinh thường người Thiện hữu tri thức giúp mình tu học.

  23. Không chịu nương kiến thức xuất thế gian để diệt ngã, xả tâm, kính trọng người Thiện hữu tri thức của mình.

  24. Thiếu lòng tôn kính với người Thiện hữu tri thức nghịch duyên thân cận.

  25. Không chịu động não, suy tư, quán xét để tìm ra các kiến chấp và sự tu tập sai của mình.

  26. Cứ dựa vào lời giải thích lòng vòng của Thầy, mà không chịu nghe lời chỉ thẳng của cô Diệu Quang.

  27. Không chịu động não, quán xét lỗi mình, để tu sai trong lời chỉ thẳng của cô Diệu Quang.

  28. (06:05) Thấy Thầy ở xa, không nghe cô Diệu Quang ở gần; đó là bỏ mồi, bắt bóng.

  29. Nghe tiếng nói của Thầy, không chịu nghe tiếng nói của cô Diệu Quang; đó là ôm vang, bỏ tiếng.

  30. Không nghe lời chỉ thẳng của cô Diệu Quang để triển khai trí tuệ vô sư, ly dục, ly bất thiện pháp.

Do 30 nguyên nhân ở trên đây mà các con đã thi rớt, và cũng nhờ sự tuyển thi này, các con mới được biết mình giải thoát rõ hơn ở mức độ nào trong một năm tu tập. Các con cần lưu ý trong sự tu tập thiền định, có mười hai điều quan trọng ở giai đoạn đầu ly dục, ly bất thiện pháp

2- 12 ĐIỀU QUAN TRỌNG ĐỂ LY DỤC LY BẤT THIỆN PHÁP

  1. (07:00) Thường tu tập tỉnh giác trong mọi hành động của thân, khẩu, ý.

  2. Thường tu tập cẩn thận, từ việc làm nhỏ nhất đến việc làm lớn nhất; đều phải dè dặt, kỹ lưỡng.

  3. Thường tu tập ý tứ trong mọi hành động thân, khẩu, ý trong thiện pháp và tránh ác pháp.

  4. Thường tu tập, bảo vệ và giữ gìn tâm mình thanh thản để được sáng suốt, bình tĩnh.

  5. Thường tu tập nghị lực để chiến đấu với tâm mình, ly dục, ly ngã, ly bất thiện pháp.

  6. Phải tỏ lòng tôn kính, cầu xin người Thiện hữu tri thức thân cận của mình để được nghe những lời chỉ thẳng, vạch trần lỗi lầm chỗ tu sai lạc để xả ngã và tu tập lại cho đúng.

  7. Khi Thiện hữu tri thức bảo làm gì thì phải làm đúng, không nên làm sai; đó là tu tập đức Tùy Thuận ở người. Làm sai lời dạy là Tùy Thuận ở mình.

  8. Khi người Thiện hữu tri thức nói oan ức và mắng chửi mình, là để mình tu tập đức Nhẫn Nhục.

  9. Khi người Thiện hữu tri thức nói trái ý mình là để dạy mình tu tập đức Bằng Lòng.

  10. Khi người Thiện hữu tri thức chê mình, là để rèn luyện mình cách thức xả ngã.

  11. Khi người Thiện hữu tri thức khen mình, là để xem mình có xả ngã được chưa.

  12. Khi người Thiện hữu tri thức bảo mình phải tự tìm cách xả tâm, ly dục, ly bất thiện pháp, không được học thuộc lòng; đó là chỉ cho mình động não, khai triển trí tuệ vô sư, ly dục, ly bất thiện pháp.

(08:46) Trong 12 điều trên đây, các con cần phải ghi nhớ kỹ. Những gì chưa hiểu, phải thưa hỏi thêm để biết cách tu tập cho đúng. Rút tỉa ưu khuyết một năm tu tập đã qua, các con đã có nhiều kinh nghiệm hơn. Bước sang năm mới, các con hãy chuẩn bị tinh thần dũng mãnh, nghị lực kiên cường để luôn luôn chiến thắng trong mặt trận sinh tử, ly dục, ly bất thiện pháp; để đem lại cho các con một tâm hồn thanh bình, yên vui và vô sự; để đem lại kết quả tuyển thi sắp tới; để bước sang giai đoạn tu học cao hơn. Để thực hiện được giấc mộng làm chủ sanh tử.

Cố gắng! Các con hãy cố gắng lên! Phần thưởng chiến thắng danh dự cho những ai biết cố gắng đang chờ phía trước. Đừng lấy những gì thất bại đã qua mà hối tiếc. Hãy nhìn hiện tại và vị lai tiến bước tu tập. Có quyết tâm phải có thành công. Sự tu tập không khó, khó vì những người không có quyết tâm. Những lời sách tấn này các con hãy ghi nhớ mãi trên bước đường tu tập thiền định. Các con đừng ngại khó khăn, vì bên cạnh các con đã có cô Diệu Quang, kế đó còn có Thầy. Đường đi khó là vì chưa biết đường. Nhưng khi đã biết đường, thì dù đường đi có khó đến đâu cũng vẫn đến đích. Mạnh dạn tiến lên hỡi các con! Để chấm dứt đau khổ, sanh tử luân hồi muôn đời. Đừng để thân tâm này trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, tiếp diễn mãi mãi đau.

Sau khi nghe lời Thầy giảng trạch chỗ tu sai, các con đã hiểu rõ rồi; và đã nhận ra; bây giờ các con cố gắng suy tư, động não, tìm hiểu chỗ sai của mình, để tu sửa lại, để được giải thoát, để được tu tập lớp cao hơn. Thầy sẽ bắt đầu giảng trạch bổ túc thêm những phần các con đang tu tập dở dang.

(11:24) Hôm nay bắt đầu cho một năm tu tập, Thầy xin nhắc lại, trên con đường tu tập theo Đạo Phật, có 3 giai đoạn tu Thiền định: Một là LY, hai là DIỆT, ba là XẢ.

  • LY có nghĩa là gì? - Có nghĩa là rời xa, lìa xa, tránh xa.

  • DIỆT nghĩa là gì? - Diệt nghĩa là đóng lại, làm cho ngưng hoạt động, dừng lại.

  • XẢ nghĩa là gì? - Xã nghĩa là là bỏ ra, ném ra, không cần dùng nữa.

Giai đoạn thứ nhất trong một năm tu tập, các con chỉ có tu tập LY DỤC, LY BẤT THIỆN PHÁP. Thế mà các con đã lầm lẫn nên chỉ tu tập DIỆT và XẢ. Vì thế sự tu tập của các con trở thành mù mờ, nên không biết tu cái nào chính, cái nào phụ. Cái chính là ly dục, ly bất thiện pháp; tức là tu tập BA ĐỨC, BA HẠNH. Còn cái tu phụ là nhiếp tâm trong hơi thở; nó chỉ phụ trợ cho sự tu tập LY mà thôi. Các con đã lầm, nên lấy cái tu chính làm cái tu phụ; còn cái tu phụ làm cái tu chính. Vì thế, khi thi các con đều rớt hết là phải. Qua một năm tu tập, khi tuyển thi lên lớp, mới nhận ra cái tu sai của các con.

3- GIAI ĐOẠN 1: LY DỤC, LY BẤT THIỆN PHÁP

(13:12) Bây giờ Thầy sẽ giảng trạch giai đoạn thứ nhất là LY, để các con hiểu đúng cách, rồi nương vào cô Diệu Quang chỉ thẳng, đập thẳng tu tập. Xưa, đức Phật Thích Ca Mâu Ni phải tu ở giai đoạn này sáu năm khổ hạnh mới ly dục. Còn ở giai đoạn II, III, Thầy không giảng, vì có giảng thì các con sẽ hiểu lộn xộn, rồi không biết lớp lang tu tập. Chờ khi nào các con tu tập xong giai đoạn thứ nhất, Thầy sẽ giảng giai đoạn thứ hai; tu xong ở giai đoạn thứ hai, Thầy sẽ giảng tiếp giai đoạn thứ ba.

(14:01) Tu tập ở Giai đoạn thứ nhất là phải xét lại Ba Đức, Ba Hạnh; Ba Đức, Ba Hạnh là phương tiện tu tập Ly Dục, Ly Bất Thiện Pháp. Ba Đức, Ba Hạnh là gì?

  • Ba Đức là Nhẫn Nhục, Tùy Thuận, Bằng Lòng.

  • Ba Hạnh là gì? - Ăn, Ngủ, Độc Cư.

Bây giờ Thầy triển khai giai đoạn I. Giai đoạn này Thầy chia làm hai phần:

  1. Ly Dục

  2. Ly Bất Thiện Pháp.

4- PHẦN I: LY DỤC

(14:28) Các con tu tập phần thứ nhất trước, đó là phần Ly Dục. Phần này các con phải lập ba hạnh:

  1. Ăn

  2. Ngủ

  3. Độc cư

Vậy ly dục là gì? Ly dục là rời xa, lìa xa lòng ham muốn của mình. Muốn lìa xa thì các con phải tìm xem đối tượng của lòng ham muốn là cái gì? Trong đời sống hàng ngày của con người có NĂM ĐỐI TƯỢNG DỤC LẠC khiến cho tâm các con sanh ra ham muốn; một là ăn, hai là ngủ, ba là sắc dục,bốn là danh, năm là lợi. Muốn xa lìa các thứ dục này, Thầy lấy ba hạnh để các con tu tập ly dục:

  • Hạnh thứ nhất: Ăn.

  • Hạnh thứ hai: Ngủ.

  • Hạnh thứ ba: Độc cư.

Muốn tu lập được ba hạnh này, thì các con đã xa lìa tâm ham muốn, mà còn gọi là tâm ly dục. Muốn lập được ba hạnh này, các con cần phải hiểu rõ nó, cái lợi và cái hại của ăn, ngủ, độc cư như thế nào?

4.1- HẠNH ĂN

(16:28) Bây giờ Thầy triển khai về hạnh ĂN, để các con thấu rõ.

Hạnh ăn uống là một phương tiện để tu tập ly dục về ăn uống. Người đời thường nói “ham ăn, hốt uống” là để chỉ những hạng người xấu, cố thực, tham ăn, tham uống. Chúng ta là những tu sĩ tu tập hạnh giải thoát, mà không giải thoát được cái ăn thì còn giải thoát được cái gì? Vậy chúng ta phải tập ăn, uống ngày một bữa để nuôi sống thân chúng ta mà thôi; không được ăn uống lặt vặt; không được ăn uống phi thời; không được chạy theo dục lạc về ăn uống; phải luôn luôn cố gắng khắc phục.

Theo Đạo Phật không có dạy người tu tuyệt thực, hay tiết thực (ăn quá ít). Xưa kia Ngài đã tu khổ hạnh, tối đa là tiết thực ăn quá ít, nên cơ thể hao mòn, tinh thần không còn sáng suốt, do chỗ tu sai này, không tìm được giải thoát. Nên đức Phật xả bỏ khổ hạnh tối đa, tức là bỏ hạnh tiết thực, chỉ còn giữ lại ăn uống đủ sống, để cơ thể khoẻ mạnh tu tập. Khi xả khổ hạnh tối đa, đức Phật trở về đời sống ăn ngày một bữa bình thường, vẫn khỏe mạnh và sống đến 80 tuổi Ngài mới chết. Chúng ta bây giờ cũng vậy, từ ngày các con đến tu viện, ăn mỗi ngày một bữa mà vẫn khỏe mạnh. Thường trong giờ lao động vẫn có sự lao động nhưng cơ thể vẫn khoẻ mạnh bình thường. Các con nên xét kỹ DỤC ĂN UỐNG rất là quan trọng trong cuộc sống hàng ngày. Các con có nhìn thấy chăng, vì ăn uống mà người ta xâu xé lẫn nhau, giết hại nhau, chà đạp lên nhau mà chẳng có chút lòng thương yêu nhau; so sánh với loài vật cũng như vậy.

(19:04) Vì ăn uống mà người ta nghèo đói, khổ sở, nợ nần; vì ăn uống mà người ta sanh ra trộm cắp, đủ điều gian lận, mánh khoé; vì ăn uống mà sản nghiệp tiêu tan; vì ăn uống mà cốt nhục tương tàn; vì ăn uống mà phải nhọc nhằn dầm sương dãi nắng; vì ăn uống mà phải chạy xuôi chạy ngược, buôn tảo bán tần.

Bây giờ các con biết rõ, sự dục về ăn uống là khổ biết dường nào đối với đời người. Vậy từ đây về sau, các con phải dùng nghị lực dũng mãnh chống lại sự tham ăn thích uống của mình. Miễn sao ngày một bữa, có gì ăn nấy, chỉ đủ sống mà thôi, ngon dở, nguội lạnh không màng. Chỉ cần giải quyết nghiệp đói của thân là đủ lắm rồi, là đủ để được thân yên ổn, thanh tịnh, tu tập Thiền định. Đừng nghĩ rằng nay đòi ăn thứ này, mai đòi ăn thứ kia. Ai cho gì ăn nấy; ngon cũng ăn, dở cũng ăn; không khen, không chê; không ham, không thích; chỉ đủ no lòng mà thôi. Đừng sanh tâm lý luận: “Ăn như vậy thiếu chất bổ”; đó là cái lý luận chạy theo ăn uống.

Các con phải hiểu thân là một do các duyên hợp lại mà thành, nên không có bản ngã thường hằng trong đó. Vậy mà muôn đời người ta lầm chấp cho cái khối duyên hợp này là cái ngã chân thật của mình. Lại có một số người cho rằng trong cái khối này có cái “Bản thể Chân thật” của mình trong đó. Chính từ chỗ lầm chấp đó nên luôn luôn lo bảo vệ và giữ gìn không cho ai chạm đến. Vì thế mà đời người do đó sanh ra muôn ngàn thứ đau khổ, phiền lụy và luôn luôn tranh đấu.

(21:19) Các con hôm cũng vậy, trải qua hơn một năm tu học, vẫn còn chấp ngã, cứng chặt khư khư chưa chịu lìa bỏ, bằng chứng các con hay lý luận tranh cãi, và đồng thời sanh ra nhiều các duyên mới, tạo cảnh bất an, tâm chưa hết thích ăn thích ngủ. Ngày nào các duyên tan rã thì ô hô!.. Cái gì còn của các con, hay chỉ còn là một khối nghiệp lực nhân quả, thiện ác khi còn sống, các con đã tích lũy. Từ cái chấp ngã này, do sự chấp ngã, các con đã tạo thành một khối nợ nần, khổ đau, triền miên, muôn kiếp không bao giờ tàn phai. Sự tiếp diễn khối nợ nần này, mãi mãi luân hồi muôn đời muôn kiếp để trả vay, vay trả từ kiếp này, đến kiếp khác.

Các con có biết chăng! Trong cuộc đời này không có một sự việc gì xảy ra ngẫu nhiên cả. Đều phải do một nguyên nhân, một lý do. Chứ không như một số nhà Nho ngày xưa cũng như bây giờ, có một số người đã bài bác lý nhân quả, cho mọi sự việc trên đời này xảy ra đều là ngẫu nhiên. Họ còn đem ví dụ giống như những chiếc lá vàng ở trên cây kia , chỉ vô tình cơn gió ngẫu nhiên, cũng đưa đẩy những chiếc là vàng này, cái rơi xuống đất, cái rơi xuống bùn, cái xuôi dòng nước; đời sống nghèo đói, giàu sang của con người cũng như vậy.

(23:38) Các con có biết không! Cơn gió không phải ngẫu nhiên mà có được, mà phải do các duyên như Mặt Trời nung đốt không khí; không khí bị cháy, trống đi một khoảng, các không khí chỗ khác ập vào chỗ trống không đó, tạo thành cơn gió, bão. Sự nghèo đói và giàu sang của chúng ta không thể do ngẫu nhiên mà có được. Hỏa hoạn, thủy tai, giặc giã cướp mất sự giàu sang, để lại sự nghèo đói cho muôn người. Đây là những cận duyên trong hiện kiếp, còn những duyên sâu xa trong quá khứ kiếp khác nữa. Chúng ta hãy lần theo dấu chân nhân quả mà truy tìm các duyên, các con sẽ thấy duyên nhân quả khởi trùng trùng, dẫn dắt khối nợ nần nhân quả của kiếp người tiếp diễn luân hồi, sanh tử và đau khổ mãi mãi muôn đời.

Đức Phật đã tóm lược qua một bài thuyết giảng Mười Hai Nhân Duyên để chỉ kiếp của một con người từ bắt đầu sanh ra đến tan rã chẳng có gì, chỉ là VÔ THƯỜNG, KHỔ, VÔ NGÃ mà thôi. Ngài đã xác định, không có một vật gì còn tồn tại trong đó, ở thế giới này cũng như ở thế giới khác. Có dịp Thầy sẽ giảng 12 Nhân Duyên mà Đạo Phật đã chỉ cho kiếp con người, số phận con người để các con hiểu. Phật đã đi trước, đã thấy rõ như vậy, Thầy đi sau cũng thấy rõ như vậy, rồi đây các con cũng thấy rõ như vậy.

(25:53) Cuộc đời con người chẳng qua chỉ là một khối Vô Minh nhân quả trả vay, vay trả triền miên, cùng với các duyên tan hợp, thân bằng quyến thuộc, cha mẹ anh em ruột thịt, vợ chồng, con cái cũng chỉ là nợ nần nhân quả muôn đời muôn kiếp, có gì phải thương nhớ, có gì phải tiếc mong, phải không hỡi các con? Bỏ xuống đi, hãy bỏ xuống đi! Đời chẳng có gì.

Quyết một đời tu tập không lui

Giữ thân tâm thanh thản, an vui

Nhập Thiền định, xa lìa nhân quả

Đạo quả viên thành, độ chúng vui

Thầy xin đọc lại chỗ này,

Quyết một đời tu tập không lui

Giữ thân tâm thanh thản, an vui

Nhập Thiền định, xa lìa nhân quả

Đạo quả viên thành, độ chúng vui

Bây giờ các con đã thấu rõ được hạnh ăn uống là đối tượng ly dục diệt ngã. Từ nay về sau, các con cố gắng khắc phục nó để một ngày ăn một bữa, đủ sống mà thôi. Nhưng các con phải nhớ không nên ăn quá ít, hoặc ăn quá nhiều. Ăn ít là tiết thực; điều này tai hại đến sự tu tập của các con, vì sức khỏe yếu kém. Ăn nhiều là dư thừa, sanh dục, ham ngủ, mê muội, cũng hại đến sự tu tập và sức khoẻ các con. Ăn ngày một bữa, nhưng tuỳ ở cơ thể của mình ăn nhiều hay ăn ít mà sử dụng đúng ăn uống, để cơ thể được khoẻ mạnh, để tu hành cho tốt, đó là một điều sáng suốt và linh động.

(28:40) Các con nên nhớ ăn đúng cách là tu; tu đúng cách là làm chủ cái ăn. Đừng thấy mọi người ăn ít, vì cơ thể của họ mà chúng ta vội bắt chước ăn ít theo họ, là điều đó là tu sai. Các con phải nhớ kỹ điều này, không nên bắt chước ai mà tuỳ ở cơ thể của mình, mà làm chủ được cái ăn uống của mình, đó là tu hạnh ăn.

4.2- HẠNH NGỦ

(29:16) Bây giờ Thầy giảng trạch về hạnh ngủ. Ngủ cũng là một đối tượng để chúng ta tu tập lập hạnh ngủ ly dục, mê muội. Ngủ là một nghiệp dục nặng của thân. Nếu thân không ngủ sẽ sanh ra bệnh, rồi chết; cũng như ăn vậy. Ngủ là một nghiệp lực thói quen muôn đời. Nó sanh ra vô minh, lười biếng, khiến cho thân tâm ta uể oải, bần thần, mỏi mệt, rã rượi. Do đó người ta không còn siêng năng, tinh tấn làm việc cũng như học hành và tu tập. Do đó người ta thích ở không mà ăn cho nên mới sanh ra tâm gian tham viển lạnh, trộm cướp. Do đó người ta đần độn, ngu si, không thông minh nên không bao giờ làm việc lớn, thường sống trong cảnh nghèo đói.

Ngủ là một dục lạc trong năm thứ dục lạc của thế gian, khiến người ta rất thích thú ham mê. Khi không ngủ là họ quá sợ, nhưng khi ngủ nhiều thì lại ám độn, mê muội. Người tu hành cần phải khắc phục nó, chiến đấu trường kỳ với nó. Vì nó là một bước cản đạo, không cho nó tiến sâu vào thiền định, không cho chúng ta tỉnh táo để phán xét mọi việc đúng sai, thiện ác trên bước đường ly dục, ly bất thiện pháp.

  • (30:40) Chính nó không cho chúng ta tỉnh giác, nên tâm thường ở trong tà niệm, sanh ra nhiều duyên làm đau khổ cho mình, cho người.

  • Chính nó khiến cho chúng ta thiếu ý tứ, thường hay làm càn, làm bậy, thiếu suy tư, cho nên dễ thất bại trong mọi công việc.

  • Chính nó khiến cho ta thiếu cẩn thận nên thường mắc phải lỗi lầm. Chính nó khiến cho tâm ta mù mờ, không thanh thản, vì thế sanh ra loạn tưởng, trạo hối.

  • Chính nó khiến tâm ta mất bình tĩnh, thiếu sáng suốt, vì thế dễ sinh hờn giận, đau khổ, nghi nan, phiền toái. Chính nó khiến cho tâm ta thu nhiếp hơi thở lờ mờ không rõ.

  • Chính nó khiến cho tâm ta rơi vào năm loại vô ký:
    1. Vô ký hôn trầm;
    2. Vô ký thùy miên;
    3. Vô ký mộng tưởng;
    4. Vô ký hôn tịch;
    5. Vô ký ngoan không.

  • Chính nó lặng đi, khiến ta tọa thiền mất tự chủ, thân nhúc nhích rung động, làm cho cơ thể bất an, khó nhập chánh định, rơi vào tà định.

Những điều Thầy đã nêu trên đây để các con thấu rõ những tai hại của nó đối với sự tu tập biết là dường nào! Đã biết rõ nó, các con phải cố gắng tu tập:

  1. Đi kinh hành nhiều;

  2. Vừa đi kinh hành, vừa hướng tâm theo bước chân đi;

  3. Thường xuyên nhắc tâm tỉnh giác;

  4. Thường xuyên nhắc tâm chớ ham ngủ;

  5. Phải nghiên cứu một điều gì để động não

  6. Phải làm một việc gì để động thân;

  7. Không được ngồi hoặc nằm;

  8. Chạy bộ, hoặc đi tắm;

  9. Phải tập thể dục, tập vài thế dưỡng sinh, hoặc đi một đường võ;

  10. Cử tạ, đào đất.

(33:30) Các con nhớ kỹ! Nó là một thứ dục lạc rất khó trị. Thế nên luôn luôn lúc nào cũng đề cao cảnh giác, chiến đấu với nó bằng tất cả nghị lực dũng cảm của mình. Nếu các con không chiến đấu hết sức, nó sẽ thành thói quen lười biếng; chứng đó các con sẽ thất bại ê chề trong cuộc đời tu hành. Là một điều rất khó vô cùng, vậy nên lưu ý nhớ kỹ lời dạy của Thầy phải cố gắng tu tập hết sức để tập luyện cho được hạnh ngủ.

Xa lìa được, ăn ngủ nghiêm chỉnh là xa lìa được năm thứ dục lạc. Sự tu tập này cũng phải khéo léo và linh động, tuỳ theo sức của mình tu tập tiến dần lên, không được ép chế ngủ. Ngủ phải đúng giờ khắc. Ngủ phải có tập luyện hướng tâm ngủ. Không được muốn ngủ hồi nào là đi ngủ, muốn tu hồi nào là tu. Ngủ đúng cách là tu tập đúng, tu tập đúng cách là làm chủ ngủ. Hành động làm chủ ngủ là tu; hành động tu là làm chủ ngủ, các con nhớ kỹ phải thuộc câu này.

4.3- HẠNH ĐỘC CƯ

(35:00) Thầy giảng trạch về hạnh độc cư, các con hãy lắng nghe cho kỹ. Đây là một hạnh khó tu tập nhất trong ba hạnh. Nghe thì như dễ dàng lắm, mà hành thì khó vô cùng. Hạnh độc cư là một phương tiện tu tập để bảo vệ, phòng hộ, giữ gìn, hộ trì, ngăn ngừa, che chở thân tâm được an ổn, tránh các ngoại duyên bên ngoài, khiến cho tâm cảnh an vui, tu tập dễ dàng. Độc cư còn giúp cho tâm các con có dịp tuôn tràn bao nhiêu ký ức, những kỷ niệm. Độc cư cũng là dịp giúp cho các con nhận ra được dục lạc ham ngủ, ham vui là tai hại trên đường tu tập. Độc cư là đối tượng để các con dùng mọi phương tiện tu tập thu nhiếp thân tâm thành khối nội lực.

(36:16) Người không sống trong hạnh độc cư được là người thường bị phân tâm. Người phân tâm là người không có sức tỉnh thức cao, không có sức tập trung mạnh, chỉ có ức chế tâm bằng tưởng pháp. Người thích quay ra ngoài thường rất sợ cô đơn, tâm thường bị phân tán theo các duyên. Tâm chúng ta có, vốn từ nhân quả mà ra, nên thường bị các duyên nhân quả chi phối. Vì thế tâm lúc nào cũng bị phân chia ta nát, nó không hợp nhất lại được. Chỉ một vài giây hợp lại là bị phân ra liền bởi các duyên trong ba thời gian: quá khứ, hiện tại, vị lai. Từ ngày này suốt ngày nọ, từ năm này đến năm khác, cho đến ngày tàn tạ xuống lòng đất, tâm chúng ta đều bị phân tán liên tục. Mục đích của người tu thiền là gom tâm lại, dù bất cứ thứ thiền nào, chỉ trừ loại thiền do các nhà học giả sản xuất ra.

Bởi thế, người tu thiền mà không sống trong rừng núi thanh vắng ĐỘC CƯ, thì không làm sao nhập định được.

  1. Vì tâm bị phân tán;

  2. Vì tâm không thành khối;

  3. Vì tâm không có nội lực;

Muốn cho tâm thành khối, có nội lực dũng mãnh, để đóng mở sáu căn và tiến vào giai đoạn II của Thiền định là DIỆT, thì phải sống độc cư một trăm phần trăm.

(38:12) Muốn tu tập sống hạnh sống ĐỘC CƯ, các con phải sống tu tập ba giai đoạn:

  • Giai đoạn thứ nhất, sống tập ít nói chuyện.

  • Giai đoạn thứ hai, tập sống riêng, làm việc riêng một mình;

  • Giai đoạn thứ ba, tập sống riêng không làm việc.

Ở đây Thầy sẽ giảng trạch phần thứ nhất của hạnh độc cư, là TẬP SỐNG ÍT NÓI CHUYỆN, để các con hiểu rõ, tu tập không sai lệch. Khi nào các con tu tập xong phần thứ nhất, Thầy sẽ giảng trạch phần thứ hai, tức là tập sống riêng, làm việc riêng một mình. Khi nào tu tập phần thứ hai xong, Thầy sẽ giảng trạch phần thứ ba, tu tập sống riêng không làm việc. Nếu giảng trạch ngay bây giờ luôn cả ba phần, các con sẽ bị rối rắm, không biết cách thức tu, cách thức nào tu tập cho đúng.

Ở giai đoạn một, sống độc cư là tập ít nói chuyện. Muốn tập ít nói chuyện con phải biết lựa chọn cái gì cần thiết mới nói, mới thưa hỏi; không cần thiết thì không được hỏi, không được nói. Chỉ duy nhất chỉ thưa hỏi về chuyện tu tập, và phải thưa hỏi riêng để được lắng nghe kỹ, còn thưa hỏi chung trong tập thể thì rất là khó lắng tâm theo sự hướng dẫn của thiện tri thức. Thưa hỏi về sự tu tập là mục đích để hiểu cho rõ, để thực hành cho đúng, còn ngoài ra tất cả những chuyện khác đều phải cẩn thận khi muốn nói ra

  1. (40:20) Tránh nói chuyện tào lao, nhảm nhí;

  2. Tránh kết tình nghĩa, kết bạn thân;

  3. Tránh nghe chuyện người khác, vì chuyện người khác khiến cho ta phải nói ra;

  4. Tránh gặp nhau, vì gặp nhau dễ sanh nói chuyện. Nhưng gặp nhau thì không nói chuyện là tốt nhất;

  5. Không nên đem sự hiểu biết cũng như kinh nghiệm về tu hành của mình dạy người khác khi mình tu chưa xong.

  6. Thấy bạn mình tu sai, không được đến dạy bảo, nên phải báo cho Thiện hữu tri thức biết để sửa lại, không được đến dạy bảo, vì đến dạy bảo làm động mình, động người và thành quen thuộc với nhau, nên không giữ hạnh độc cư được…​;

  7. Thấy bạn đồng tu buồn khổ, không được đến an ủi, chia sẻ; chỉ cần báo Thiện hữu tri thức đến giúp đỡ;

  8. Tránh đổ lỗi người khác, vì đổ lỗi người khác là tạo duyên bất an trong tâm, thường xảy ra duyên cãi cọ, tranh tụng;

  9. Tránh đi đến thất của người khác, vì đến thất người khác là làm động mình, và làm động tâm người;

  10. Làm lao động chung, tránh nói chuyện cười đùa;

  11. Khi giúp bạn đồng tu đang bệnh, tránh nói chuyện ngoài vấn đề bệnh; tốt hơn hết là hỏi bệnh để dùng phương tiện trị liệu;

  12. Khi làm chung một việc gì, cần phải làm theo ý muốn của người khác để tránh duyên cãi cọ, đổ thừa;

  13. Thường tập sống thơ thẩn một mình Luôn giữ tâm thanh thản, an lạc và hướng tâm đến thanh thản, an lạc;

  14. Luôn giữ tâm vô sự, và hướng tâm đến thanh thản;

  15. Thường giữ tâm vô sự và hướng tâm đến vô sự;

  16. Thường tránh xa các duyên để giữ tâm không bị phân tán;

  17. Không nên đem tâm sự của mình nói cùng ai ngoài thiện hữu tri thức của mình;

  18. Thấy việc làm nặng nhọc cùng nhau chia sẻ làm nhưng không nói chuyện;

  19. Thấy ai làm chưa xong cùng làm phụ nhưng không nói chuyện.

  20. Thường sống im lặng trong và ngoài tâm và hướng tâm đến sự im lặng.

(43:10) Hai mươi điều trên đây để giữ tâm im lặng. Điều tốt nhất là tránh xa, tránh xảy ra các duyên, tránh tạo các duyên mới. Càng tránh duyên bao nhiêu thì tâm càng ít phân chia ra bấy nhiêu. Càng cố tránh duyên tâm càng dễ hợp nhất thành khối. Càng cố tránh duyên tâm càng dễ hợp nhất thành khối. Càng cố tránh duyên thì hoàn cảnh mới thanh tịnh, yên vui tu hành. Càng tiếp duyên càng động khiến cho hoàn cảnh bất an khó tu hành. Càng tiếp duyên tâm thường bị phân chia, khó thành nội lực, tu tập sẽ dậm chân tại chỗ không tiến bố.

Các con nên biết, độc cư ở giai đoạn I là TỊNH KHẨU. Tịnh khẩu nghĩa là nói lời thanh tịnh, không nói lời bất tịnh. Nói lời thanh tịnh là nói lời thiện, nói lời thiện là nói lời làm vui lòng mình và vui lòng người. Nói lời bất tịnh là nói lời ác, nói lời ác là nói lời làm đau khổ mình và đau khổ người. Tịnh khẩu không phải là á khẩu. Tịnh khẩu là nói lời lành không nói lời giữ như Thầy đã giảng ở trên; á khẩu là câm, không nói được. Khi nghe giảng đến đây các con đã hiểu độc cư ở giai đoạn thứ nhất là tịnh khẩu, không phải á khẩu. Ở giai đoạn tu tập này phải hiểu cho thật rõ, nếu chưa hiểu phải hỏi lại cô Út Diệu Quang cho thật kỹ. Không khéo các con tu hành trở thành hình thức, ít nói mà thành nói rất nhiều, nghĩa là chuyện gì các con cũng nói; khi tâm bung ra, phân tán nói thôi không hết, như nước vỡ bờ.

(45:12) Hạnh Độc Cư khó lắm; nó là bí quyết thành công của Thiền định, nó có ba nhiệm vụ:

  • Nhiệm vụ thứ nhất, bảo vệ tâm tránh các duyên;

  • Nhiệm vụ thứ hai, gom tâm hợp nhất thành khối;

  • Nhiệm vụ thứ ba, làm cho tâm tuôn trào ra hết.

Sáu năm trời tu khổ hạnh của đức Phật Thích Ca là sáu năm tu LY DỤC, nhờ đó, đức Phật tránh được các duyên, thu nhiếp được thân tâm thành khối nội lực. Khi tâm đã thành khối có nội lực, đức Phật đã xả bỏ khổ hạnh tối đa, chỉ giữ lại khổ hạnh bình thường như năm anh em Kiều Trần Như, chỉ có hơn họ là dùng thêm sữa do cô bé chăn dê cúng dường. Bốn mươi chín ngày dưới cội bồ đề, đức Phật dùng nội lực nơi tâm đã có sẵn, đem ra chiến đấu ly bất thiện pháp. Lúc bấy giờ, đức Phật gọi là hàng phục Ma Vương diệt tầm tứ, đóng mở sáu căn, nhập Nhị Thiền và xả bỏ thân tâm nhập Tứ Thiền hướng đến Tam Minh, thành tựu giải thoát.

Tóm lại, ly dục là lìa xa ý muốn của mình. Khi mình còn làm theo ý muốn của mình tức là chưa lìa xa. Bởi nghe nói ly dục thì rất dễ dàng, mà lìa xa ý muốn của mình rất là khó khăn. Bậc Thánh như Đức Khổng Phu Tử đến 70 tuổi ông mới dám tuyên bố: “Ta đến tuổi này, mới làm theo ý muốn của mọi người”. Nghĩa là đến 70 tuổi, Ông mới ly dục được tâm Ông. Theo Thầy nghĩ, muốn ly dục ít ra phải ba năm rèn luyện. Còn nếu tu lơ mơ thì 30 năm cũng chưa chắc đã làm được. Cái ý muốn của mình là cái gì? - Là BẢN NGÃ. Bản ngã không ly thì làm sao có Niết bàn? VÔ NGÃ là Niết Bàn.

(47:32) Đi tu cũng như đi học. Ở đời người ta học tập đến nơi đến chốn mới có lợi ích cho mình, cho người, cho xã hội. Người học mà không đến nơi đến chốn thì chẳng có ích lợi gì cho mình, còn làm cho xã hội phải gánh nặng thêm. Đi tu cũng vậy, tu không đến nơi, đến chốn sẽ làm bại hoại tôn giáo. Người tu đến nơi đến chốn, làm sáng tỏ Phật pháp qua gương hạnh sống của mình, khiến cho mọi người quy ngưỡng và tôn kính Phật pháp. Chúng ta đã quyết chọn con đường tu là phải tu cho đến nơi đến chốn không thể tu lừng chừng. Người tu lừng chừng không ích cho mình, cho người, mà còn có hại người, hại tôn giáo. Các con đến đây là mục đích quyết tâm tu chứ không phải đì tìm cái sống. Đức Phật dạy: “Tu là phải lìa xa ý muốn của mình”. Đã tu là quyết tâm bỏ; bỏ để được giải thoát, bỏ để được thảnh thơi, an vui một đời. Mà bỏ cái gì? - Bỏ ý muốn.

Đến đây Thầy xin được nhắc lại, giai đoạn thứ nhất của Thiền Định là giải đoạn Ly như Thầy đã dạy ở giai đoạn này, chia ra làm hai phần tu tập.

  1. Ly dục

  2. Ly bất thiện pháp

Phần thứ nhất ở giai đoạn này Thầy đã giảng trạch xong, nghĩa là muốn ly dục chúng ta dùng ba hạnh ăn, ngủ, độc cư để tu tập. Như các con đã hiểu rõ ăn ngủ độc cư là đối tượng để tu tập khắc phục cho bằng được tâm ly dục. Nếu các con đã sống đúng ba hạnh thì các con đã ly được dục. Nếu chưa sống được ba hạnh thì các con hãy cố gắng tiếp tục tu tập hơn để hoàn thành được phần thứ nhất - Ly dục. Phần Ly Dục này ai cũng biết đức Phật Thích Ca Mâu Ni phải 6 năm khổ hạnh như Thầy đã dạy ở trên.

(49:28) Đến phần thứ hai là LY BẤT THIỆN PHÁP, Thầy giảng trạch cho các con để hiểu rõ cách thức tu tập đúng. Tóm lại buổi nói chuyện hôm nay các con nên nhớ, chúng ta là những tu sĩ của đạo tu hạnh giải thoát thì thời gian nào, ngày nào, tháng nào, năm nào toàn là mùa xuân; Mùa Xuân Vĩnh Cửu trong tâm hồn của chúng ta; mùa xuân không có nhân quả; mùa xuân không có diễn biến luân hồi. Vì thế chúng ta không có chúc thọ, không có mừng tuổi, mừng xuân thế gian. Hãy sống bình thường. Hãy giữ tâm bình thường trước mọi diễn biến thay đổi của không gian và thời gian, bằng một tâm hồn thanh thản. Bây giờ các con ăn cơm kẻo muộn, ngày mai Thầy sẽ giảng tiếp phần thứ hai LY BẤT THIỆN PHÁP. Nhưng trước khi ăn cơm các con hãy lắng nghe bài hồi hướng.

5- PHẦN II: LY BẤT THIỆN PHÁP

(50:30) Bây giờ Thầy giảng trạch phần thứ hai trong giai đoạn một của thiền định. Các con hãy lắng nghe cho kỹ, chỗ nào chưa thông suốt thì ghi chép lại rồi thưa hỏi cô Diệu Quang, để khi bắt đầu tu tập là phải tu tập cho đúng cách. Không được tu hành sai như năm rồi.

Phần thứ hai trong giai đoạn I của thiền đinh là ly bất thiện pháp.

  • Ly là gì? Ly nghĩa là lìa xa, rời xa.

  • Bất thiện pháp là gì? Bất thiện pháp là Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, những thói quen, tật xấu, những điều suy nghĩ, những lời nói, những hạnh động của thân và làm mọi việc đem đến cho mình khổ, người khác khổ. Bất thiện pháp còn gọi là pháp ác, pháp hung giữ, pháp khổ đau.

(52:20)Vậy muốn lìa xa pháp ác thì các con phải rèn luyện, tu tập mình bằng BA ĐỨC:

  1. Nhẫn Nhục

  2. Tùy Thuận

  3. Bằng Lòng.

Các con nên lưu ý ba đức tính giải thoát này là để lìa xa các pháp ác, rất là khó tu:

  1. Nếu không biết rõ, tu tập cho đúng cách thì sẽ hoài công, vô ích;

  2. Nếu không đủ nghị lực, bền chí, gan dạ, kiên trì, thì cũng bỏ cuộc giữa đường tu hành.

  3. Nếu không cầu xin pháp chỉ thẳng, đập thẳng mạnh mẽ của Thiện hữu tri thức, thì cũng khó lập được Ba Đức này vững vàng.

Thầy thường nhắc nhở với các con “Nhẫn một việc khó nhẫn, làm một việc khó làm”. Đó là nhắc các con ly dục, ly bất thiện pháp để vào thiền định là một việc tu tập rất khó khăn vô cùng. Cũng như Thầy đã từng dạy "Đường đi khó là vì chưa biết đường". Các con bây giờ cũng vậy, khi chưa biết cách tu giải thoát, mà cứ tu theo kiến giải, tưởng của các nhà học giả thì đó là đường đi khó (vì chưa biết đường). Cố đi mà đường đi chẳng thu ngắn lại, cũng mờ mịt vì đi loanh quanh, lòng vòng, mà chẳng có lối ra. Khi đã biết đường, thì dù đường đi có khó đến đâu nhưng vẫn đến đích. Cũng như bây giờ, các con đã biết rõ cách tu, thì sự tu tập có khó đến đâu các con cũng sẽ thành tựu.

Vì mỗi bước đi của các con là quãng đường sẽ thu ngắn lại.

(54:52) Trước khi bắt tay vào việc tu tập cụ thể ở phần II-Ly Ác Pháp, thì các con phải tu tập dứt điểm ở phần I là Ly Dục. Nghĩa là các con phải hoàn thành tâm mình Ly Dục hoàn toàn, nghĩa là diệt ngã. Vì thế bây giờ Thầy sẽ giảng trạch rõ người Ly Dục dứt điểm, không dứt điểm, để các con hiểu tu tập cho đúng cách.

Nếu một người chưa LY DỤC hoàn toàn mà vội LY ÁC PHÁP thì đó chỉ là một hành động điên rồ; tu tập nén tâm, chịu đựng, an phận. Nếu người đang sống trong cảnh dục lạc thế gian, tâm chưa ly dục mà theo học hỏi những thiện pháp trong kinh sách, thì chỉ mới gieo chủng tử ly dục, ly ác pháp của đạo giải thoát mà thôi. Chứ không phải sự học hỏi, sự hiểu biết đó là ly dục, ly bất thiện pháp được.

Nếu một người còn đang sống trong cảnh dục lạc thế gian, tâm chưa ly dục mà thường theo học hỏi những điều thiện pháp trong kinh sách để tích lũy sự hiểu biết các pháp giải thoát của Đạo Phật, thì người này chỉ nuôi lớn lớn bản ngã ác pháp, chứ không ly dục, ly ác pháp được.

Nếu một người còn sống trong cảnh dục lạc thế giản, tâm chưa ly dục, mà thường học hỏi những thiện pháp trong kinh sách để làm kiến giải riêng của mình, rồi dùng đó để tu quán xả ly ác pháp và tâm ham muốn của mình, thì không bao giờ ly dục, ly ác pháp được, mà đó chỉ là lối tu tập đè nén tâm mình, hoặc tránh né hay trốn chạy tâm ham muốn và ác pháp mà thôi.

(57:23) Nếu một người còn đang sống trong dục lạc thế gian mà tu Thiền định thì chẳng bao giờ có nhập được định cả; nếu có nhập được thì cũng chỉ rơi vào tà thiền, tà định mà thôi. Bởi vậy nếu một người tâm còn sống trong dục lạc mà tu đức Nhẫn Nhục, thì chẳng Nhẫn Nhục được gì, mà ngược lại, đó là lối tu tập nén tâm, làm cho thêm đau khổ.

Nếu một người dùng hình thức bề ngoài để ly dục, mà trong tâm không ly dục, vội tu đức Nhẫn Nhục, cũng chẳng tu Nhẫn Nhục được gì, trái lại, còn làm thêm tâm hồn còn thêm đau khổ. Như các con đã từng nói “bằng máu và nước mắt”. Đó là sự tu sai, do nén tâm chịu đựng mà thấy sự khổ đau như vậy.

Thầy nhắc lại cho các con hiểu, ly dục là lìa xa cái tâm ham muốn, chứ không phải ly vật dụng. Một người sống ở rừng núi không có vật dụng gì, như loài khỉ, vượn, người này ly vật dụng, chứ không ly tâm dục. Loài vật cũng vậy, ly vật dụng, chứ không phải ly tâm dục của nó.

  • Người nghèo khó không có vật tùy thân, không phải người này là ly dục.

  • Người có đầy đủ vật chất trên thế gian này nhưng không dính mắc vào những vật chất ấy, người ấy ly dục!

  • Người ăn thực phẩm dở mà không đòi thực phẩm ngon, không thích ngon, không chê dở, đó là người ly dục.

  • (59:37) Người ăn thực phẩm ngon mà không đòi ăn thực phẩm dở, đó là người ly dục.

  • Người ăn thực phẩm dở mà đòi ăn thực phẩm ngon là người không ly dục. Ngược lại cũng vậy.

  • Người không thèm thực phẩm này, thực phẩm khác là người ly dục.

  • Người còn thèm ăn cái này, cái khác là người chưa ly dục.

  • Ở cảnh động mà không đòi ở cảnh tịnh, là người ly dục.

  • Ở cảnh động mà đòi ở cảnh tịnh, là người chưa ly dục.

  • Người mặc áo đạo, xuất gia tu hành mà tâm còn ham muốn cảnh thế gian, là người chưa ly dục.

  • Người xuất gia tu hành, mà tâm còn làm những việc cầu danh ở thế gian là người chưa ly dục.

  • Ở trong cảnh động, cảnh chướng tai gai mắt mà không bị động, không gai mắt, không chướng tai, là người ly dục.

  • Người nào luôn giữ tâm thanh thản là người ly dục.

  • Người không giữa được tâm thanh thản, tâm hay sanh chuyện này, chuyện kia là người chưa ly dục.

  • Người thấy người có áo mới mà đòi hỏi áo mới, là người chưa ly dục.

  • Người thấy người khác có áo mới mà không đòi hỏi áo mới, là người sống an phận thủ thường, chưa phải là người ly dục.

  • Người thấy người khác có áo mới, mình cũng có áo mới mà không ham thích, là người ly dục.

  • Người đứng núi này trông núi nọ là người chưa ly dục.

  • Người sống trong cảnh tu hành này mà đòi hỏi cảnh tu hành khác, là người chưa ly dục.

  • Người sống trong hoàn cảnh này mà đòi hoàn cảnh khác, cũng là người chưa ly dục.

  • Sống trong hoàn cảnh này mà vui với hoàn cảnh này, là người ly dục.

(01:02:00) Còn biết bao nhiêu điều so sánh ly dục và không ly dục. Ở đây, Thầy chỉ nêu một vài vấn đề cụ thể để các con hiểu rõ, trong khi tu tập ly dục cho đúng cách.

6- TRẢ LỜI TU SINH VỀ LY DỤC LY ÁC PHÁP

(01:02:14) Khi giảng đến đây Thầy đã nhận được một số nhật ký, thời khóa tu tập của các con trong đó có nhiều câu hỏi về cách thức tu tập LY dục ly ác pháp, Thầy xin trả lời từng người một.

Cô Liên Pháp hỏi: Con thở 4 giây một hơi dài như vậy có dài lắm không và có trở ngại cho việc thiền định của con không?

Trả lời: Một hơi thở 4 giây không dài lắm và không có gì trở ngại cho thiền định. Tuỳ ở sự ổn định hơi thở đó, không bị rối loạn cơ thể thì đó là hơi thở rất tốt.

Trả lời: Câu thứ hai về hạnh độc cư, hạnh độc cư rất khó tu tập vì vậy Thầy đã chia thành ba giai đoạn tu tập, con hãy nghe lời giảng trong băng theo đó mà tu.

Trả lời: Câu hỏi thứ ba về việc xả tâm: Xả tâm tức là ly dục ly bất thiện pháp, Thầy đang giảng trạch ở trong băng hãy nghe lại kỹ để tu tập cho đúng. Về việc xả tâm ly dục ly ác pháp đòi hỏi ở trí thông minh rất nhiều, nên cần phải động não suy tư để tự triển khai trí thông minh tạo thế ly dục ly ác pháp nhanh chóng và dễ dàng. Những điều con đã trình bày trong tập nhật ký thời khóa cách thức tự triển khai trí tuệ xả tâm của con, điều này cô Diệu Quang đã từng chỉ thẳng, giải thẳng các con để tự khai triển trí tuệ này để buông xả ly dục ly ác pháp.

(01:03:55)Tự Hạnh hỏi:

Câu một về hơi thở: Quan sự trình bày về hơi thở, con đã tu tập tốt có chất lượng cao, hãy cố gắng tiếp tục tu tập rèn luyện hơi thở theo sự hướng dẫn của cô Diệu Quang. Có gì trục trặc cần phải thưa hỏi liền, để điều chỉnh cho kịp, tu hành đúng không mất thời gian.

Câu hai về việc xả tâm: Về phần xả tâm con phải nghe lời dạy của Thầy trong băng để biết cách tu cho rõ ràng.

Câu ba về khai triển trí tuệ: Các thức trình bày lý luận của con để tự xả tâm đó là điều tự triển khai trí tuệ ly dục ly ác pháp. Điều này rất cần thiết và quan trọng, ở giai đoạn Ly, Ly dục ly bất thiện pháp. Như Thầy đã giảng, muốn xả tâm ly dục ly ác pháp phải có nhiều phương cách tu tập rèn luyện, toàn bộ giáo điển của Đạo Phật đều dạy tu tập ở giai đoạn này hơn 90%, còn lại là thiền định và trí tuệ. Vì thế Thầy mới dạy các con lập ba đức ba hạnh như: Ăn, ngủ, độc cư; Nhẫn Nhục, Tùy Thuận, Bằng Lòng. Tu tập ba đức ba hạnh này chưa đủ, các con còn phải tu tập pháp hướng tâm, pháp tỉnh giác, pháp ý tứ, pháp cẩn thận, pháp kỹ lưỡng, pháp thanh thản, pháp trụ tâm, pháp gom tâm, và còn tập luyện ổn định đề mục thiền hơi thở để có một nội lực dũng mãnh, hầu đến giai đoạn diệt và xả tu tập được dễ dàng hơn. Các pháp này được Thầy giảng rộng để các con hiểu rõ để tu tập cho đúng. Hãy cố gắng tu tập đều đều, cô Diệu Quang đang tuyển chọn, nếu thấy được là đưa các con lên lớp thứ hai của thiền định.

(01:06:32) Từ Nguyện hỏi:

Câu 1: Hoàn cảnh xảy đến, tâm con đang giao động, con tu tập lui lại theo lời cô Diệu Quang dạy. Tu tập căn bản là điều cần thiết, tu tập đúng, tập chậm, tập kỹ là có kết quả tốt trên đường rèn luyện thân tâm. Tập nhiều, tập nhanh, tập không kỹ lưỡng là không có kết quả, uổng công tu tập vô ích. Có hoàn cảnh nghịch xảy ra mới biết được sự tu tập của mình. Nhưng đừng lấy đó làm buồn, làm hối tiếc, mà phải lấy đó rút tỉa kinh nghiệm ưu khuyết để tu tập tốt hơn. Người ta bảo, thất bại là mẹ thành công, hãy nghe lời dạy trong băng của Thầy để thiết lập một đường lối tu tập cho đúng cách, chỗ nào chưa thông, chưa hiểu thì hỏi lại cô Út Diệu Quang.

Diễm Thuý hỏi:

Câu 1: Giữ được trạng thái tâm rất vắng lặng, không bị một niệm xen vào khi đang thở, đó là trạng thái tùy tức.

Câu 2: Tâm bị động chỉ vài ba hôm sau thì con mới nhiếp tâm tốt lại, lúc đó con cảm thấy tâm con im lặng phăng phắc, thưa Thầy như vậy nó có rơi vào định tưởng không?

Đó là một trạng thái tâm phục hồi sau khi bị động, không phải định tưởng.

Câu 3: Về xả tâm, tâm chưa làm chủ được tức là tâm chưa xả. Vậy nên nghe theo lời giảng trong băng của Thầy để thiết lập.

(01:08:40) Câu 1: Về xả tâm, hãy nghe lời dạy trong băng của Thầy để biết cách tu tập cho đúng, cái nào tu trước, cái nào tu sau, cái nào tu chính, cái nào tu phụ để xả tâm ly dục ly bất thiện pháp.

Câu 2: Về hoàn cảnh xảy ra, mọi hoàn cảnh xảy ra trên bước đường tu tập là để thử thách và trắc nghiệm lại tu tập của mình. Con phải lấy đó rút tỉa kinh nghiệm ưu khuyết tu tập tốt hơn, đừng lấy đó hối tiếc mà phải lấy đà tiến thủ tu tập. Trước khi thành công đều phải có thất bại. Sau khi nghe băng phải vạch đường lối tu tập rõ ràng, cái trước, cái sau, cái phụ, cái chính.

Câu 3: Tất cả hành vi thân khẩu ý của mình đều phải ý tứ thân hành niệm thì tâm mới thanh tịnh được, thưa Thầy như vậy có đúng không?

Đây mới là ý hành niệm thanh tịnh của tâm, còn tu tập có nhiều điều tập luyện tâm mới được thanh tịnh. Phải nghe lại lời dạy trong băng của Thầy.

Câu 4: Im lặng mãi là nén tâm chứ tâm không thanh tịnh, thưa Thầy có phải vậy không?

Im lặng mãi là á khẩu, là câm, hình thức đó là nén tâm, cần phải tránh xa. Muốn tâm thanh tịnh phải tu tập nhiều phương cách trong đó tập ít nói.

Câu 5: Phân tích hiểu thấu suốt, quán sắc bén. Thưa Thầy đó có phải là pháp tu xả tâm không?

Phân tích hiểu thấu suốt, quán sắc bén là pháp môn tự khai triển trí tuệ buông xả ly dục ly bất thiện pháp mà cô Út Diệu Quang đã từng chỉ thẳng đập mạnh để cho các con tự khai triển nó.

(01:10:55) Câu 6: Điều quan trọng trong sự tu tập xả tâm diệt ngã là tịnh khẩu, pháp tu tịnh khẩu tập ít nói. Khi nói phải cẩn thận trong lời nói, không được nói cười đùa, không được nói tếu, không được châm chọc, không được nói mỉa mai, không được nói móc lò, nói phải suy nghĩ kỹ rồi mới nói. Lời nói rất quan trọng, nếu không suy nghĩ kỹ lời nói ra sẽ làm mất giá trị đạo đức của chính người nói, nên con phải cẩn ngôn, lời nói ra càng nuôi dưỡng thêm bản ngã to lớn hơn, nên cẩn thận ý tứ, tư duy lời nói để diệt ngã xả tâm.

Đào hỏi: Sau thời gian tu tập con được cô Út Diệu Quang chỉ thẳng, đập mạnh, phá vỡ màng vô minh, đen tối, ngã chấp. Hôm nay con có tiến bộ rất nhiều trong sự giữ gìn không đi đây đó, trong sự không khoe khoang, trong sự không xảo trá, luôn chân thật, không giận giữ, không phiền não đau khổ, mọi mặt này đều có tiền bộ.

Vậy từ nay con hãy cố gắng hơn, tu tập cẩn thận, kỹ lưỡng hơn, để trở thành người chân thật, khiêm hạ, ôn tồn, nhã nhặn…​.Đầy đủ đạo hạnh của người tu sỹ, con hãy nghe kỹ lời dạy trong băng để thiết lập đường lối tu hành trước sau rõ ràng. Về phần tu tập hơi thở, con đã nhiếp tâm tốt, nên thưa hỏi cô Diệu Quang để được kiểm tra kỹ rồi mới tiến lên, giữ thân tâm bất động. Cô Diệu Quang đang chọn người tu tốt về đức hạnh cũng như về hơi thở để đưa lên lớp thiền định thứ hai, tập luyện đóng mở sáu căn, con hãy cố gắng và giữ gìn tu tập xả tâm, diệt ngã, lập đức lập hạnh cho rốt ráo để được tuyển chọn lên tu ở lớp cao hơn. Đừng có nên tự mãn ở sự tu tập của mình, vì đường tu tập còn xa, sự ly dục ly ác pháp còn nhiều, chưa phải bấy nhiêu đó đã hết được, phải cố gắng và cố gắng hơn.

(01:13:58)Từ Đức: Phần thưa hỏi về bệnh tật của con Thầy sẽ trực tiếp trả lời.

Minh Cảnh: Cô Út thương con như một bà mẹ, biết rõ bản ngã to lớn theo sự công phu tu tập thiền định của con. Vì trong tu viện bên nữ con là người đã tu tập thiền định lâu, ngồi lâu, nhiếp tâm nhiều năm tháng nên có vững vàng hơn mọi người và do những điều tu tập này mà con cứ ngỡ rằng mình tu đúng, nên bản ngã của con to lớn.

Và cũng vì thế mà lòng tự đắc của con càng cao. Và con không bao giờ chịu nghe lời cô Út Diệu Quang sửa sai, cứ dựa vào Thầy cho cô Út Diệu Quang chẳng biết gì về pháp tu. Nhưng con phải biết một người mà Thầy đề nghị đứng ra để dẫn dắt các con tu tập là phải có đủ bản lãnh chứ nếu không chắc Thầy không giới thiệu cho các con.

Cô Út Diệu Quang rất biết tâm niệm con nhưng không nản chí, cố tìm mọi kẽ hở của con để đập phá. Cái ngã chấp vô mình đen tối muôn đời mà con chẳng biết thường lý luật che đậy, diệt ngã, xả tâm càng đập phá thì tâm con càng bị nén rồi dùng hạnh không nói của hạnh độc cư mà Thầy đã dạy để nén tâm hơn nữa thay vì xả tâm.

Chỉ vì con chưa nhận rõ đường lối tu tập của Phật, của Thầy ở giai đoạn đầu. Con chỉ chấp ở giai đoạn thứ hai và thứ ba là Định và trí tuệ vô lậu. Nên sự hiểu lầm này con đã nuôi lớn ngã của mình, tu tập nhiều lý luận, nên cuối cùng qua phần oai nghi tế hạnh, con là người không được trọn vẹn đầy đủ.

(01:16:50) Con nên biết toàn bộ giáo lý của đức Phật hơn 90% đều dạy cách xả tâm ly dục ly bất thiện pháp, chứ không phải tu điên tu khùng như con, chỉ biết ngồi thiền nhiếp tâm ở giai đoạn diệt và giai đoạn trí tuệ vô sư, vô lậu.

Phật xả tâm không nén tâm, vì thế Phật đã sống sáu năm khổ hạnh ly dục ly bất thiện pháp. Con hãy xét lại kỹ từ ngày tu theo Phật con thường sống theo ý muốn của mình, từ cái ăn, cái mặc, cái ở, cái ngủ đều theo ý muốn của con. Vì vậy càng nuôi lớn hình thức bên ngoài con ly vật dụng nhưng nội tâm bên trong con không ly ý muốn của mình, ý muốn là tâm dục của con.

Hãy nghe lời dạy của Thầy trong băng mà thiết lập một đường lối tu tập có đầu có đuôi, có dễ có khó, chứ không phải tu lộn xộn như thế này được nữa. Đừng có nhắm vào thiền định mà không có định gì được cả, mà nhắm vào đức hạnh, giới luật của Phật để xả tâm để ly ác pháp, tu tập phải biết cách, tu cái gì, làm cái gì, xả cái gì, ứng phó cái gì, đương đầu cái gì, ly như thế nào, diệt như thế nào, xả như thế nào?

Những bức thư con đã trình bày trong tập nhật ký thời khoá về sự ly dục ly bất thiện pháp và về hơi thở, cách thức tu tập chưa cụ thể, còn lộn xộn, đầu đuôi chưa phân minh, cũng vì thế mỗi lần bị động hay bị trắc nghiệm thì tâm con bất an. Thường nén tâm chịu đựng hoặc ôm hơi thở chịu đựng, hoặc dùng ý niệm thiện Phật pháp và nhờ thời gian làm giảm đi sự bất an đó.

Vì thế con cần phải thiết lập một đường lối cách thức tu tập phải rõ ràng để đương đầu với mọi việc mọi sự đều được hóa giải ngay. Không thể để nén tâm tức nước vỡ bờ như đã xảy ra trong những lần trắc nghiệm tuyển thi trước.

(01:19:41) Mỗi lần Thầy nhắc cô Diệu Quang, hãy xem cô Cảnh nhiếp tâm tốt mà tuyển thi, chọn cô tu tập lớp trên. Nhưng mỗi lần tuyển thi thì con đều bị rớt. Cuối cùng con cứ tưởng mình là xả tâm diệt ngã, nhưng hoàn toàn tâm ngã còn chắc khư khư.

Bây giờ con không nên quan tâm về việc toạ thiền mà phải nỗ lực tu tập ly dục ly bất thiện pháp, cốt tủy thiền định. Hay nói nền tảng thiền định của Đạo Phật là ở chỗ ly dục ly bất thiện pháp.

Nếu không hiểu, nên thưa hỏi kỹ lại cô Diệu Quang để tu tập xây dựng một con người đạo đức chân thật giải thoát trong Đạo Phật. Đừng thưa hỏi lòng vòng mà phải thưa hỏi đúng cách. Thưa hỏi lòng vòng là chỉ đem những kiến giải, tưởng giải trong kinh sách ra hỏi thì không đúng.

Thưa hỏi ngay chỗ tu của mình, chỗ làm sai của mình, chỗ không đúng của mình thì được giảng dạy ngay. Còn hỏi lòng vòng không đúng cách thì không được giảng dạy.

Huệ Ân hỏi: Thưa Thầy và cô Út, diệt ngã có phải là khi nghe bài học thử thách với ai con tưởng đó là của mình nên lấy đó quán xét lỗi mình và vui vẻ nhận lỗi để sửa. Như vậy có phải là xả tâm diệt ngã không?

(01:21:43) Đúng vậy, đó là lấy lỗi người sửa lỗi mình, hoặc ngừa lỗi mình để tiến tu diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp. Còn trực tiếp ngay lỗi mình cũng phải tự quán xét nhận ra lỗi lầm, nhận ra điều sai quấy để sửa mình, diệt ngã, xả tâm.

Mới bắt đầu tu tập ba đức ba hạnh, để diệt ngã, xả tâm, ly dục, ly bất thiện pháp thì pháp quán về nhân quả là cần thiết. Vì càng quán về nhân quả, thì trí tuệ vô sư, tư tuệ của chúng ta sẽ phát triển hiểu rõ đường đi lối về của nhân quả.

Nếu không chịu mà cứ dựa vào những lời của Thầy dạy về nhân quả thì không rõ đường đi của nhân quả, không rõ diễn biến của nhân quả, không rõ các duyên nhân quả đang trùng trùng khởi xung quanh chúng ta.

Cho nên muốn tu tập ba đức ba hạnh để ly dục xả ngã, ly ác pháp thì phải khai triển trí tuệ nhân quả, phải suy xét thấu đáo nhân quả. Từ đó cái Thầy chưa dạy chúng ta đã thông suốt và thông suốt hơn những điều Thầy đã dạy vì vậy mới thấu rõ đường đi lối về của nhân quả.

An Tịnh:

Xét qua nhật ký tu tập của con buổi khuya là giờ tu kém nhất, thường bị hôn trầm thùy miên, do đó đến giờ này con phải tập siêng năng dậy sớm đúng giờ, phải động thân, phải đi kinh hành nhiều và luôn nhớ hướng tâm tỉnh giác. Phải dẫn tâm vào một đối tượng mà tâm thích như đọc kinh, nghiên cứu pháp tu hoặc tư duy các lỗi lầm, hoặc quán xét các đề mục tu hành, thì mới mong chiến thắng được sự thuỳ miên, hôn trầm của con.

(01:24:21) Diệu Hảo:

Đáp: Cần lấy tất cả lỗi lầm của các bạn đồng tu để quán xét, để tự triển khai trí tuệ xả tâm, diệt ngã ác, ly dục ly ác pháp. Lấy những lỗi lầm của bạn đồng tu để ngăn ngừa tâm mình không còn phạm phải những lỗi lầm, đó là ly dục, ly ác pháp.

Về tu tập hơi thở, con cần phải tập kỹ, tập hơi thở cho đúng. Tức là đầu tiên con tập nhiếp tâm cho được trong hơi thở, rồi sau đó phải tu tập an trú trong hơi thở cho được. Nhớ tu tập cho có chất lượng, không nên tập trung cao; không được tu lờ mờ, tu lấy lệ.

Phải luôn nhắc tâm, không được để tâm mê trong hơi thở. Phải tu cho thật là tu; tu cho có sức chủ động, điều khiển hơi thở và trụ tâm vững chắc. Không cần ngồi nhiều, chỉ một phút có chất lượng chủ động điều khiển tâm.

Diệu Hảo! Con phải nhớ kỹ điều này: Đừng thích ngồi nhiều mà tu sai con đường Thầy đã dạy. Tu ít mà chất lượng cao, tu nhiều mà lờ mờ thì phí thời gian vô ích. Tuổi con cũng quá già yếu, chết nay, chết mai, nên phải tu cho đúng, để thời gian tu ngắn lại và tu mau có kết quả.

Tú (Mỹ Linh):

Đáp: Mười hơi thở trong nửa phút thời công phu nào cũng tốt, đó là một sự tu tập có tiến bộ, trong hơi thở có tỉnh giác cao mới đạt được như vậy. Về phần xả tâm, thì con còn yếu lắm nên con cần phải hệ thống cách thức tu tập như Thầy đã dạy trong băng: Cái nào tu trước, cái nào tu sau, một ngày tu bao nhiêu thứ, tu cái gì, tập cái gì.

(01:26:26) Muốn tu tập ly dục, ly bất thiện pháp xả tâm, diệt ngã con phải luôn luôn dè dặt ý tứ từng lời nói. Trước khi nói phải tư duy rồi mới nói. Đối với người khác không được nói, cười đùa; không được nói mỉa mai, không được nói móc lò. Phải cẩn thận trong lời nói.

Phải tập suy nghĩ kỹ rồi mới nói. Lời nói rất quan trọng, nếu không suy tư kỹ, lỡ nói ra không lấy lại được và nó sẽ làm mất giá trị của con người. Nên phải cẩn ngôn, lời nói ra càng nuôi dưỡng bản ngã thêm to lớn. Nên cần phải ý tứ tư duy lời nói để ly ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp.

Đây là phương pháp cách bảo vệ tâm qua khẩu nghiệp để xả tâm, ly dục ly ác pháp. Con cần thường xuyên tu tập giữ gìn khẩu nghiệp để diệt ngã ác, xả tâm rốt ráo.

Diệu Hồng

Đáp: Về phần diệt ngã xả tâm, con đã được cô Út Diệu Quang tuyển thi đập phá. Nhờ đó con đã ly được ác pháp, xả được ngã ác, nhưng chưa trọn vẹn đâu, còn phải cố gắng nhiều hơn nữa để xả cho thật rốt ráo.

Trong tập nhật ký thời khoá con đã trình, từ ngày được cô Út Diệu Quang đập vỡ màn vô minh, ngã chấp, con đã nhận ra ánh sáng giải thoát, niềm tin mãnh liệt. Nhưng từ đây về sau, con đều phải nhận tất cả mọi người là Thiện hữu tri thức, không phải chỉ có một cô Út Diệu Quang, mà tất cả đều là cô Út Diệu Quang. Có như thế, tâm con mới xả ngã ác và ly ác pháp rốt ráo.

Về hơi thở, con tu rất tốt, nhưng phải cẩn thận tỉnh giác từng hơi thở. Phải siêng năng hướng tâm, giữ gìn thân bất động, trụ tâm tại một điểm duy nhất. Từ bắt đầu tọa thiền cho đến xả thiền, phải tỉnh giác hoàn toàn trong hơi, không có gì trong hơi thở. Có gì chưa rõ về hơi thở hoặc tăng thêm, con nên thưa hỏi cô Diệu Quang để được chỉ dạy cặn kẽ về cách thức tu tập và muốn biết cách thức sống độc cư cũng nên thưa hỏi cô Diệu Quang, hoặc nghe lời dạy trong băng của Thầy.

Ghi chép kỹ, nhớ kỹ, thực hành đúng, không nên được tu sai cách độc cư. Như con đã biết, thời gian đối với con thật là quý báu, vì tuổi càng cao, sức càng yếu, đường tu tập của con càng xa, phải hỏi kỹ để tu tập cho đúng, thu ngắn được thời gian.

(01:29:37) Để kết thúc buổi nói chuyện hôm nay, Thầy tóm lại, phàm là con người tất yếu phải có sự sai lầm, nhưng có sai lầm mà biết tu sửa là sẽ trở thành những bậc thánh nhân.

Đạo Phật là một tôn giáo không có chỗ để con người dựa lưng nương tựa, chỉ có con người biết tu sửa những lỗi lầm của mình mà giáo pháp của đức Phật đã vạch ra để chỉ dạy cho.

Nhờ có sự tu sửa đúng lời dạy của đức Phật thì chính mình đã tự cứu mình thoát cảnh khổ đau và hưởng được sự an vui, hạnh phúc. Một lần, hai lần, ba lần chưa sửa được thì hãy tiếp tục bền chí tu sửa mười lần, trăm lần, ngàn lần sẽ có kết quả tốt. Đừng lấy việc tu sửa một hai lần chưa được, mà bỏ cuộc, thì đó là người hèn kém, thiếu nghị lực, thiếu bền chí.

Trong cuộc đời của chúng ta đã có biết bao nhiêu người tu sửa được. Từ ngàn xưa đức Phật và các đệ tử của ngài, và hiện tại trong đời nay chúng ta cũng có người tu sửa được tất nhiên các con cũng tu sửa được, không có gì phải nản chí.

Bây giờ Thầy trở lại bài giảng LY BẤT THIỆN PHÁP, muốn tu tập ly bất thiện pháp thì các con phải dùng ba đức.

  1. Nhẫn Nhục

  2. Tuỳ Thuận

  3. Bằng Lòng

(01:31:36) Muốn tu tập đức Nhẫn Nhục, Tùy Thuận, Bằng Lòng thì phải đứng trước mọi hoàn cảnh, mọi sự việc mọi đối tượng, các con phải tu tập pháp hướng tâm còn gọi là pháp dẫn tâm.

Pháp hướng tâm như thế nào? Pháp hướng tâm là pháp dẫn tâm vào một lý chân chính giải thoát của đạo. Pháp chân chính giải thoát của đạo là gì, là chỉ thẳng vào mọi duyên, mọi hoàn cảnh, mỗi đối tượng mọi sự việc xảy ra đều hiểu biết rõ nó là vô thường, khổ, và không có thực thể bản ngã trong đó, chỉ do các duyên hợp mà thành, các duyên tan mà mất, không có một cái gì mà tồn tại.

Khi đã hiểu rõ như vậy, và thấy rõ như thật, thì dùng pháp hướng mà nhắc tâm như vậy, cái tâm từ đây về sau không được kiến chấp các duyên là thật, mà phải thấy nó vô thường, khổ, vô ngã, nên không còn phiền não, đau khổ trong tâm nữa.

Hai, các duyên tan hợp theo nhân quả diễn biến luân hồi nên không có thực thể bản ngã, toàn là vô thường, khổ, vô ngã. Vậy từ nay về sau cái tâm không được chấp các duyên là ngã mà hãy bỏ xuống đi, không còn được giận hờn, phiền não, đau khổ.

Ba, đời sống của con người là duyên tan hợp của nhân quả, cho nên không có bản ngã chân thật toàn là vô thường và đau khổ. Vậy từ đây cái tâm hãy bỏ xuống, không được chấp cái ta nữa, vì chấp cái ta là tạo thêm đau khổ và ác pháp trong tâm.

(01:33:46) Bốn, ai theo các duyên nhân quả tạo ác là phải thọ lấy cái khổ, ta không dại gì đem khổ vào thân. Từ đây cái tâm hãy bỏ xuống đi để được an vui thanh thản. Các con phải cố gắng động não triển khai những trí tuệ nhân quả, duyên tan hợp để thấu rõ lý vô thường, khổ, vô ngã của đạo thì chừng đó các con mới Nhẫn Nhục, Tùy Thuận, Bằng Lòng được. Đây là pháp dẫn tâm lập đức Nhẫn Nhục và tam ấn của Phật theo duyên tam hợp diễn biến luân hồi của nhân quả.

Khi có một niệm khởi ra trong đầu, thì các con mau dẫn tâm vào lý giải thoát, giữ tâm thanh thản. Muốn dẫn tâm cho được thanh thản, các con phải nhắc tâm như thế này, khi có một niệm tào lao khởi lên:

Một, cái tâm phải thanh thản không được nghĩ ngợi tào lao vì nghĩ ngợi tào lao cái tâm bị phân chia ra tan nát, khó mà nhập thiền định được.

Hai, khi biết tâm mình thường dễ giận hờn, phiền não đau khổ, thì phải dẫn tâm như thế này "cái tâm phải thanh thản, không được giận hờn đau khổ phiền não nữa" vì đau khổ phiền não là các pháp ác.

Ba, khi có một niệm thương nhớ, lo sợ thì phải dẫn tâm như thế này, cái tâm phải thanh thản không được thương nhớ lo sợ vì các pháp là do duyên tam hợp, theo nhân quả nên không có gì là của mình, vậy hãy bỏ xuống, đừng thương nhớ lo sợ, vì thương nhớ lo sợ là ác pháp, là pháp làm đau khổ trong tâm hồn của mình.

Bốn, Khi tâm không có niệm khởi, đang ở trong trạng thái thanh thản, thì nên dẫn tâm như thế này "cái tâm phải thanh thản trong trạng thái thanh thản", vì có thanh thản tâm mới có nội lực, tâm có nội lực tâm mới nhập được thiền định.

Trên đây pháp hướng tâm thanh thản để giữ tâm thanh thản, muốn giữ tâm thanh thản thì phải nương vào hơi thở tùy tức, thỉnh thoảng lại nhắc tâm thanh thản một lần. Trên đây là giữ tâm thanh thản trong hơi thở, lúc nào, giờ nào, ngày nào hễ có rảnh là dẫn tâm vào thanh thản. Đó là tu pháp hỷ, mà cũng là chính cách thức dẫn tâm trong trạng thái thanh thản này là dẫn tâm tập lập Sơ Thiền để lập đức Nhẫn Nhục ly ác pháp.

(01:36:52) Tâm có thanh thản thì tâm mới có bình tĩnh sáng suốt, tâm có bình tĩnh sáng suốt thì tâm mới Nhẫn Nhục được, tâm có Nhẫn Nhục được thì tâm có Tùy Thuận. Tâm có Tùy Thuận được thì tâm mới có Bằng Lòng. Tâm có Bằng Lòng được thì tâm mới xả được. Tâm có xả được thì tâm mới ly được ác pháp. Tâm có ly được ác pháp thì tâm mới có an vui hạnh phúc. Tâm có an vui hạnh phúc là tâm nhập Sơ Thiền. Trên đây là pháp hướng dẫn tâm thanh thản để ly các ác pháp, nhập Sơ Thiền, lập đức Nhẫn Nhục.

7- ĐỨC NHẪN NHỤC

(01:37:40) Bây giờ Thầy dạy các con tu tập pháp ý tứ ly ác pháp, lập đức Nhẫn Nhục.

Bắt đầu các con nên tu tập ý tứ, Ý Hành Niệm. Khi tâm khởi một niệm, các con phải quan sát niệm đó, phân tích, tìm nguyên nhân và mục đích của nó; nó đến với các con là có sự việc gì trong tâm. Khi thấu rõ các pháp ác thì nó đều tan biến. Đây gọi là tu tập Ý TỨ Ý HÀNH NIỆM LY ÁC PHÁP, lập đức Nhẫn Nhục.

Khi các con muốn nói ra một lời nào đó, các con phải khởi ra một ý niệm trước; khi ý niệm khởi xong, các con quan sát ý niệm đó, tìm nguyên nhân, mục đích của nó; khi đã thấu rõ ý niệm đó, các con mới nói ra lời. Đây là tu tập Ý TỨ KHẨU HÀNH NIỆM, để LY BẤT THIỆN PHÁP, lập đức Nhẫn Nhục.

Khi thân các con muốn làm một điều gì, thì các con phải khởi ra ý niệm của việc làm đó, rồi cũng tìm nguyên nhân, mục đích của nó; khi đã tìm xong, biết nó là thiện pháp thì bắt đầu thân mới bắt đầu làm việc. Đó là tu tập Ý TỨ THÂN HÀNH NIỆM để LY CÁC ÁC PHÁP, để lập đức Nhẫn Nhục.

(01:39:27) Khi thân làm việc gì phải ý tứ, cẩn thận, kỹ lưỡng trong việc làm đó; không làm bừa bãi, không làm dối trá. Đây là tu tập cẩn thận Ý TỨ KỸ LƯỠNG THÂN HÀNH NIỆM để LY BẤT THIỆN PHÁP, thực hiện đức Nhẫn Nhục.

Khi tu tập ý tứ Ý Hành Niệm, Khẩu Hành Niệm, và Thân Hành Niệm thì dùng Tư Tuệ quán sát ý niệm, lời nói, việc làm; biết rõ đúng sai, thiện ác, có lỗi hay không lỗi, phạm giới hay không phạm giới, diệt ngã hay nuôi ngã, xả tâm hay dính mắc, v.v…​ đây là tu tập triển khai Tư Tuệ trong Ý Hành Niệm, Khẩu Hành Niệm, Thân Hành Niệm để ly dục, ly ác pháp; để tu luyện tập đức Nhẫn Nhục.

Tóm lại, đức Nhẫn Nhục giúp cho con trở thành người hiền hòa, bình tĩnh và sáng suốt, ôn tồn, nhã nhặn và từ ái. Nó giúp cho con người từ phàm phu trở thành bậc Thánh nhân. Đức Nhẫn Nhục giúp các con xa lìa các ác pháp trong và ngoài tâm, diệt sạch bản ngã, tiêu trừ tánh hung ác, nham hiểm, tị hiềm, ganh ghét. Đức Nhẫn Nhục còn mang đến cho các con một niềm an vui, an lạc hạnh phúc đời đời, không còn biết sợ hãi, oán thù ai hết.

Đức Nhẫn Nhục còn mang đến cho các con những lời nói hiền hòa, những hành động nhẹ nhàng, êm ái; những ánh mắt dịu hiền, đầy lòng thương yêu đối với mọi người. Đức Nhẫn Nhục đi đến đâu thì chuyện lớn thành chuyện nhỏ, chuyện nhỏ mất tiêu và thường mang đến nguồn an vui ở đó. Đức Nhẫn Nhục đi đến đâu thì an lạc đi đến đó cho mọi người.

Đến đây Thầy xin dừng lại, hôm nào có dịp Thầy sẽ giảng tiếp để các con tu tập đức Tùy Thuận.

8- ĐỨC TÙY THUẬN

(01:42:04) Bây giờ Thầy giảng trạch đức Tùy Thuận để các con hiểu rõ hơn. Đức Tùy Thuận là một phương tiện ly bất thiện pháp, xả ngã rốt ráo. Nếu một người còn chấp một chút ác ngã cũng không tu tập đức Tùy Thuận đúng cách được. Ở đời, người ta ai cũng muốn làm Thầy thiên hạ, chỉ huy thiên hạ, luôn luôn thấy mình hay, giỏi hơn thiên hạ; nên ít ai Tùy Thuận ai được. Bởi Tùy Thuận là một đức hạnh cao quý để xây dựng, rèn luyện con người trở thành người khiêm hạ, luôn luôn biết làm cho người khác vui lòng.

Nó cũng xây dựng, rèn luyện cho con người trở thành người ý tứ trong công việc làm, không để cho thất bại. Nó cũng xây dựng, rèn luyện con người thành người biết tôn trọng ý kiến của người khác. Nó cũng xây dựng, rèn luyện con người thành người biết học hỏi cái hay và biết cái dở của người khác. Nó cũng xây dựng, rèn luyện con người trở thành người sáng suốt và bình tĩnh trước mọi ý kiến của người khác.

Điều quan trọng nhất trong sự tu tập đức Tùy Thuận là xây dựng, rèn luyện con người để trở thành người đầy đủ nghị lực, gan dạ chấp nhận mọi ý kiến của người khác, để trở thành người nhỏ nhất, mà cũng là người lớn nhất.

Vậy, đức Tùy Thuận là gì? Tùy là dựa theo, làm theo; thuận là hòa thuận, không chống trái nhau; Tùy Thuận là dựa theo, làm theo hòa hợp ý kiến, việc làm của người khác, mà không chống trái nhau. Ở đời, vì thiếu đức Tùy Thuận lẫn nhau, ai cũng cố chấp ngã, chấp kiến nên mới sanh ra biết bao sự chống trái nhau, tạo nên cảnh nghịch ý trái lòng, do đó gây ra biết bao ác pháp, khiến cho mình khổ, người khổ. Vì thế, chúng ta là những tu sĩ của Đạo Phật, phải cố gắng tu tập và rèn luyện đức Tùy Thuận.

(01:44:37) Muốn rèn luyện tu tập đức Tùy Thuận, để ly ác pháp và diệt bản ngã ác, thì các con phải luôn luôn thực hiện:

  1. Làm theo ý kiến người khác, bất cứ người nào, ở giới nào, giai cấp nào, già hay trẻ, bé hay lớn, nam hay nữ, sang hay hèn, hay vua quan trong xã hội; đó là tu tập đức Tùy Thuận ly ác pháp, xả ngã.

  2. Không làm theo ý của mình, dù ý kiến của mình có đúng một trăm phần trăm; đó là tu tập đức Tùy Thuận ly ác pháp, xả ngã.

  3. Làm theo ý muốn của Thiện hữu tri thức mà không làm theo ý muốn mọi người thì đó không phải là Tùy Thuận, ly ác pháp; đó là tu tâm sợ hãi. Ở đây chúng ta phải hiểu làm theo ý của Thiện hữu tri thức mà không làm theo ý của mọi người khác là tu tập tâm sợ hãi. Làm theo ý của thiện hữu tri thức và cũng làm theo ý muốn mọi người mới là tu tập đức Tùy Thuận ly ác pháp, xả ngã.

  4. Trước khi muốn làm một việc gì đều thưa hỏi ý kiến của Thiện hữu tri thức và của mọi người khác. Không được tự ý làm, vì có tự ý là có hành động theo bản ngã, nuôi dưỡng bản ngã và các ác pháp; như thế thì không thể nào tu tập đức Tùy Thuận được.

  5. Khi thưa hỏi xong, phải làm đúng ý của mọi người; đó là tu tập đức Tùy Thuận ly ác pháp, diệt ngã ác.

  6. Khi thưa hỏi xong để tu tập đức Tùy Thuận nhưng khi làm có sơ sót, bị la rầy, liền tức khắc chuyển sự tu tập Tùy Thuận qua tu tập Nhẫn Nhục, để ly ác pháp. Có như vậy mới gọi là tu tập đức Tùy Thuận trong đức Nhẫn Nhục.

  7. (01:47:16) Luôn luôn phải tôn kính mọi ý kiến của mọi người, vì có tôn kính ý kiến của người khác ta mới Tùy Thuận được ý kiến người khác, mà không làm theo ý kiến của mình. Gọi là là ly dục, ly bất thiện pháp.

  8. Điều quan trọng và cần thiết cho sự tu tập này là phải luôn luôn tỏ lòng tôn kính mọi ý kiến, việc làm của người khác, đó là những ý kiến và việc làm đúng, còn những ý kiến và việc làm sai của họ thì chúng ta Tùy Thuận nhưng không để bị lôi cuốn. Tùy thuận là để ly ác pháp nhưng không để lôi cuốn trong ác pháp. Bởi vậy tu tập đức Tùy Thuận rất khó, Tùy Thuận mà không bị lôi cuốn là một việc làm khó khăn vô cùng, không phải việc dễ làm, chỉ có sống độc cư tránh các duyên và bảo vệ tâm, giữ gìn sáu căn mới giữ gìn sáu căn mới ly dục ly ác pháp dễ dàng mà thôi.

Đức Tùy Thuận có hai chiều, Tùy Thuận người mà còn Tùy Thuận ở mình nữa. Như Thầy ở dạy Tùy Thuận là tôn kính mọi ý kiến, mọi việc làm của người khác, còn Tùy Thuận ở mình mà tôn kính như vậy thì không khéo mình lại nuôi tâm ham muốn, chạy theo dục, nuôi ác pháp, nuôi ngã mình.

Tùy Thuận mình là tùy ở sức lực, ở khả năng, không nên làm quá sức vượt khả năng của mình, không khéo Tùy Thuận mình để trở thành lười biếng, không khéo Tùy Thuận mình trở thành nuôi dục, nuôi ngã. Điều quan trọng này các con lưu ý.

Khi giảng đến đây các con đã hiểu rõ đức Tùy Thuận là ly ác pháp, diệt ngã, mục đích của nó không phải ở ý kiến và việc làm, mà chính là để được tâm hồn giải thoát, an vui, thanh thản, mà cũng là bước đầu ngăn chặn và chấm dứt các duyên nhân quả, không cho tiếp diễn theo nghiệp lực của nó.

9- ĐỨC BẰNG LÒNG

(01:50:00) Bây giờ Thầy dạy các con tu tập đức Bằng Lòng. Đức Bằng Lòng tu tập rất khó. Nếu tu được đức Tùy Thuận, đức Nhẫn Nhục mà tâm chưa bao giờ Bằng Lòng thì chẳng được an ổn, yên vui. Tâm các con chưa được an ổn yên vui thì tâm còn trong ác pháp, trong tâm dục.

  1. Muốn tu tập đức Bằng Lòng thì phải lập hạnh tôn kính, kính trọng mọi người. Xưa, Thường Bất Khinh Bồ Tát lập hạnh kính trọng mọi người, ông gặp ai lớn hay nhỏ, giàu sang hay nghèo đói, vua chúa hay nhân dân, Ông đều cúi đầu đảnh lễ tôn kính như đức Phật. Nhờ tu hạnh tôn kính, nên tâm hồn Ông lúc nào cũng ly được ác pháp, đời sống ông thanh thản an vui trong đức Bằng Lòng, vì có Bằng Lòng mọi duyên, mọi đối tượng, mọi hoàn cảnh, mọi việc làm đều xa lìa các ác pháp, được giải thoát thành Phật.

  2. Muốn tu tập đức Bằng Lòng thì phải có Chánh kiến; muốn có Chánh kiến thì tâm phải ly dục, ly bất thiện pháp. Nhưng bây giờ, tâm các con chưa ly dục, ly bất thiện pháp, còn đang tu tập đức Bằng Lòng để ly ác pháp thì tâm các con làm sao có chánh kiến được? Không có Chánh kiến thì làm sao phán xét mọi người, mọi việc đúng sai? Không có Chánh kiến thì không thể nào hiểu mình, hiểu người bằng Chánh kiến được?Vì vậy muốn tu tập đức Bằng Lòng chỉ có con đường duy nhất là phải can đảm, dũng mãnh nhìn nhận tất cả ý tưởng, lời nói, việc làm của người khác là đúng, là tốt, là thiện. Nhờ đó thế các con sẽ thực hiện đức Bằng Lòng dễ dàng.

(01:52:22) Như Thường Bất Khinh Bồ Tát, dù là người hung ác, ngu khờ, đê hèn nhất trong xã hội, Ông vẫn kính trọng, tôn kính đức Phật; đó là hạnh Bằng lòng, để thực hiện sự giải thoát trong tâm của mình. Khi thực hiện hạnh Bằng Lòng, là các con ly được ác pháp trong, ngoài tâm. Ly được ác pháp trong, ngoài tâm thì bây giờ các con mới có Chánh kiến. Thầy đã dạy, chỉ có tâm LY DỤC, LY BẤT THIỆN PHÁP mới hiểu được mình và người bằng CHÁNH KIẾN.

Tóm lại muốn tu tập ba đức ba hạnh ăn ngủ độc cư Nhẫn Nhục, Tùy Thuận, Bằng Lòng để ly dục ly bất thiện pháp.

Điều cần thiết và quan trọng nhất, là phải TRIỂN KHAI TRÍ TUỆ VÔ SƯ ly dục, ly bất thiện pháp.

10- BA LOẠI TRÍ TUỆ CỦA ĐẠO PHẬT

(01:53:23) Theo Đạo Phật có ba loại TRÍ TUỆ: Một là Văn Tuệ, hai là Tư Tuệ, ba Tu Tuệ.

1. VĂN TUỆ LÀ GÌ? Văn tuệ là trí tuệ hiểu biết bằng cách tích lũy những kiến giải, tưởng giải của cổ nhân trong kinh sách, hoặc nghe thuyết giảng, hoặc học thuộc lòng. Trí tuệ này là trí tuệ tránh né, trốn chạy các dục, các ác pháp. Trí tuệ này còn gọi là sở tri chướng; người càng học tập, nghe thuyết giảng và tích lũy nhiều thì kiến chấp, ngã chấp càng thêm sâu dày thường nuôi dưỡng bản ngã to lớn. Trí tuệ này rất nguy hại cho người tu theo đạo giải thoát của Đạo Phật. Xưa, ông A Nan vì có trí tuệ này nên sự tu hành rất chậm lụt.

2. (01:54:28) TƯ TUỆ LÀ GÌ: Tư là trí tuệ suy tư, nghĩ ngợi, tìm tòi, nghiên cứu khai triển sự hiểu biết của riêng mình, không vay mượn trong kinh sách; nó còn gọi là trí thông minh. Tư tuệ là trí tuệ thông minh của riêng mình để phát minh những điều chưa ai tìm được, để hóa giải tâm đau khổ, phiền não, sân hận, tị hiềm nhỏ nhen, ích kỷ, để được thực hiện ba đức, ba hạnh cho rốt ráo. Bởi vậy, tư tuệ là một trí tuệ thông minh rất cần thiết cho sự tu tập ở giai đoạn I, tu ly dục ly bất thiện pháp. Nếu các con không chịu triển khai trí tuệ thông minh này theo như lời cô Út đã chỉ dạy, thì các con khó mà thực hiện được ba đức, ba hạnh. Nếu không thực hiện được ba đức, ba hạnh thì làm sao ly dục, ly bất thiện pháp được? Đó là một trí tuệ thông minh, vô sư trí của mọi con người, nên phải động não, làm việc thì mới có thể triển khai được nó.

3. TU TUỆ LÀ GÌ: Là trí tuệ do tu tập thiền định sanh ra; trí tuệ này còn gọi là Trí Tuệ Vô Sư Tam Minh, gọi tắt là Trí Tuệ Vô Lậu. Trí tuệ này là là trí tuệ siêu đẳng, viên mãn, thành tựu được đạo giải thoát của đức Phật. Trí tuệ được khai mở khi thiền định viên mãn, vì thế trí tuệ này được xem là trí tuệ cuối cùng của Đạo Phật. Nó chứng minh rõ ràng sự làm chủ, chấm dứt sự khổ đau trong sanh tử luân hồi của chúng ta. Nó không giúp ích gì cho sự tu tập ly dục, ly bất thiện pháp; nó chỉ là một sự minh xác chân thật, kiểm nghiệm sự thành tựu tu tập của chúng ta mà thôi.

(01:56:48) Tóm lại của đoạn văn này thì ba thứ trí tuệ: Văn, Tư, Tu, chỉ có Tư Tuệ là trí tuệ cần thiết cho ta để tu tập ly dục, ly bất thiện pháp ở giai đoạn thiền thứ nhất. Nếu một người chưa ly dục, ly bất thiện pháp thì không nhập định được. Mà không nhập định được thì làm sao khai mở trí tuệ vô sư, vô lậu được? Do thế Minh Cảnh hiểu lầm cứ tu tập thiền định, rồi từ thiền định phát ra trí tuệ vô sư, từ trí tuệ vô sư, vô lậu sẽ diệt sạch bản ngã, không còn lậu hoặc nữa. Như Thầy đã daỵ ở trên ba trí tuệ chỉ có tư tuệ là quan trọng và ích lợi trong sự tu tập. Văn tuệ là sở tri chướng; Tu Tuệ để xác minh sự tu tập kết quả cho rõ ràng.

Nếu một người tu tập có ý tứ, cẩn thận từng lời nói, hành động, việc làm biết sống hòa hợp thương yêu và tha thứ cho nhau, không tị hiềm ganh ghét, không tranh đua hơn thiệt, không châm biếm mỉa mai, giữ gìn kỷ luật Tu Viện nghiêm túc, không vi phạm lỗi lầm, đó là người ly dục, ly bất thiện pháp. Sống như vậy là tạo hoàn cảnh yên tịnh, thanh nhàn để cùng nhau tu hành. Sống mà nay sanh chuyện này, mai tạo duyên này, khiến cho hoàn cảnh bất an, mất thanh tịnh, mình tu khó, mà người khác tu cũng khó.

Người nuôi lớn bản ngã là người thường thấy lỗi người khác không thấy lỗi mình, thấy cái sai của người khác không thấy cái sai của mình, người ấy không ly dục ly bất thiện pháp.

(01:59:01) Đến đây Thầy xin chấm dứt bài pháp hôm nay. Các con hãy ghi nhớ kỹ, cố gắng tu tập. “Có công mài sắt, có ngày nên kim”. Sự giải thoát đang chờ các con ở phía trước nếu các con tu tập đúng lời Thầy đã dạy.

Trong bài giảng vừa rồi, Thầy dạy các con phải tự hệ thống đường lối tu tập từ dễ đến khó, từ bắt đầu đến cuối cùng, từ sự tu phụ đến sự tu chính đâu đâu phải rõ ràng. Nhưng Thầy nghĩ rằng phải giúp các con chứ không thể để tự các con hệ thống hoàn chỉnh được, vì còn những điều chưa giảng dạy thì làm sao các con hệ thống được. Bây giờ, Thầy sẽ giúp và giản lược sơ đồ đường lối tu tập phần đầu mà các con đã được học và đã được tu tập. Còn những phần chi tiết thêm thắt vào các con phải chịu khó động não thiết lập phương án tu hành cho phù hợp với cơ thể và tinh thần các con, tức là tuỳ căn cơ của các con.

Những vị sáng lập ra các tôn giáo, Phật là người Thầy duy nhất không theo đuổi cái gì khác hoài, việc trở thành một con người trong sạch và giản dị, Phật không xem mình thần thánh và thượng đế, Phật chỉ nhìn mình là một con người như bao con người khác. Vì thế chúng ta chọn Đạo Phật là chọn sự thật của kiếp con người, dù con đường tu hành theo Đạo Phật có khó khăn muôn vàn đến đâu, chúng ta cũng quyết tâm đeo đuổi cho đến cùng.

Bởi tu theo Đạo Phật là phải có một công trình tu tập vĩ đại, phải biết tự răn mình, tự sửa lỗi mình để được trở thành một con người trong sạch và giản dị. Không phải sự tu hành này chỉ có đổi lấy bằng sức lực và tinh thần mà còn phải đổi bằng máu và nước mắt của chúng ta nữa. Tu tập theo Đạo Phật, nếu không tôi luyện mình trong lửa đỏ, thì sự tu hành cũng chỉ là hình thức suông mà thôi. ​

(02:02:12) Các con được về đây tu tập với Thầy và cô Út Diệu Quang. Nhất là phần cô Út Diệu Quang, chỉ thẳng đập mạnh, không nhân nhượng một ai; hễ thấy ai lui, ngã, chạy theo dục và sống trong ác pháp liền đập thẳng tay những nhát búa như trời sấm sét.

Chỉ mong sao các con xa lìa bản ngã, tâm ham muốn và ác pháp, để được một tâm hồn an vui, thanh thản, để đi vào Thiền định một cách vững chắc cũng.

Vì thế mà các con hôm nay mới nhận ra đường lối tu hành của Đạo Phật vô cùng khó khăn, vì học rồi áp dụng liền, áp dụng rồi học liền ngay trên cuộc sống, không có giờ phút nào không tu không học, “Tu bằng cách sống, sống bằng cách tu. Tu bằng học, học bằng sự sống. Sống bằng sự triển khai trí tuệ thông minh của mình”.

Thầy thì giảng trạch, an ủi, sách tấn, khích lệ, khuyên bảo…​ Cô Út Diệu Quang thì gởi lên chỉ thẳng chỗ sai, chỗ đúng, phạt dạ răn đe, la hét…​ Cho nên tu hành không dị như người ta nghĩ. Nếu các con để ý một chút thì thấy những gì Thầy và cô Diệu Quang chỉ dạy một cách thiết thực, cụ thể con đường giải thoát của Đạo Phật.

Các con càng suy ngẫm càng thấm thía cuộc đời do chính mình lầm lạc, tạo ra biết bao điều cay đắng, khổ đau cho mình. Càng suy ngẫm càng thấm thía cuộc đời, chừng đó mới biết được mình, hiểu được người rõ hơn.

(02:04:40) Khi các con đã quyết tâm tu hành, không sợ gian nan, khó khổ thì không những Thầy và cô Út Diệu Quang sẵn lòng giúp đỡ, chỉ dạy tận tình, mà còn đem hết lòng thương yêu, vì cảm thông đường tu hành khó khăn vô cùng, để cùng nhau cùng sống, để cùng nhau cùng xây dựng lại ngôi nhà Phật pháp mà chúng ta là những đứa con phải có bổn phận.

11- 42 GIAI ĐOẠN TU TẬP GIỚI - ĐỊNH - TUỆ

(02:05:14) Hệ thống con đường tu tập Giới - Định - Tuệ của đức Phật chia làm 42 giai đoạn tu tập. Trong mỗi giai đoạn tu tập có nhiều cách thức tập luyện, rèn luyện không đơn giản như lý luận và thuyết giảng suông trong các kinh sách.

  1. Phải luôn luôn cảnh giác, dẫn tâm vào đạo, đừng dẫn đạo vào tâm.

  2. Dẫn tâm vào đạo bằng cách sống lập ba đức, ba hạnh. Một ăn, hai là ngủ, ba là độc cư - đây là ba hạnh. Một Nhẫn Nhục, hai Tùy Thuận, ba Bằng Lòng - đây là ba đức.

  3. Ba đức, ba hạnh là phương tiện tu tập ly dục, ly bất thiện pháp.

  4. Chỉ có tâm ly dục, ly bất thiện pháp mới hiểu được mình, được người bằng Chánh kiến.

  5. Hiểu được mình, được người thì mới hiểu được Phật pháp chân chính.

  6. Hiểu được Phật pháp chân chính là tâm thường ở trong Chánh niệm.

  7. Tâm thường ở trong Chánh niệm là tâm Tĩnh giác.

  8. Tâm tĩnh giác là tâm sáng suốt và bình tĩnh.

  9. Tâm sáng suốt và bình tĩnh là tâm chủ động điều khiển nhân quả thân, khẩu, ý.

  10. Tâm chủ động điều khiển nhân quả thân, khẩu, ý là tâm không còn tham, sân, si.

  11. Tâm không còn tham, sân, si là tâm hết chướng ngại.

  12. Tâm hết chướng ngại là tâm giải thoát tâm.

  13. (02:07:25) Giải thoát tâm là tâm thanh thản.

  14. Tâm thanh thản là tâm ly dục, ly bất thiện pháp.

  15. Tâm ly dục, ly bất thiện pháp là tâm nhập nhập Sơ Thiền.

  16. Tâm nhập Sơ Thiền là tâm ly ý muốn và diệt Tầm ác.

  17. Tâm ly ý muốn và diệt Tầm ác là tâm thanh tịnh.

  18. Tâm thường thanh tịnh là tâm tùy tức.

  19. Tâm tùy tức là tâm diệt Tầm thiện.

  20. Tâm diệt Tầm thiện là tâm dừng được sáu thức.

  21. Tâm dừng được sáu thức là tâm diệt Tứ.

  22. Tâm diệt Tứ là tâm nhập Nhị Thiền

  23. Tâm nhập Nhị Thiền là tâm chủ động điều khiển sáu Thức.

  24. Tâm chủ động điều khiển sáu Thức là tâm đóng mở sáu Căn.

  25. Tâm đóng mở sáu Căn là tâm chủ động điều khiển Sắc ấm.

  26. Tâm chủ động điều khiển Sắc ấm là tâm điều khiển vượt qua sáu trạng thái Tưởng ấm: 1- sắc tưởng,2- thinh tưởng, 3- hương tưởng, 6-vị tưởng, 7-xúc tưởng, 8- pháp tưởng.

  27. Tâm điều khiển vượt qua sáu trạng thái Tưởng ấm là tâm xả Hỷ.

  28. Tâm xả Hỷ là tâm xả tưởng ấm hết chiêm bao.

  29. Tâm xả tưởng ấm là tâm nhập Tam Thiền.

  30. Tâm nhập Tam Thiền là tâm điều khiển xả Thọ ấm.

  31. Tâm điều khiển xả Thọ ấm là tâm có nội lực.

  32. Tâm có nội lực là tâm chủ động điều khiển Thọ ấm.

  33. Tâm chủ động điều khiển Thọ ấm là tâm có Định lực.

  34. Tâm có Định lực là tâm xả Thọ ấm.

  35. Tâm xả Thọ ấm là tâm điều khiển Thức ấm.

  36. Tâm chủ động điều khiển Thức ấm là tâm xả Hành ấm.

  37. Tâm xả Hành ấm là tâm nhập Tứ Thiền.

  38. Tâm nhập Tứ Thiền là tâm xả Thức ấm.

  39. (02:10:20) Tâm xả Thức ấm là tâm điều khiển chủng động hướng về Tam Minh.

  40. Tâm hướng về Tam Minh là tâm nhập trí tuệ vô lậu.

  41. Tâm nhập trí tuệ vô lậu là tâm nhập trí tuệ giải thoát.

  42. Tâm nhập trí tuệ giải thoát là tâm chấm dứt đau khổ sanh tử và luân hồi.

Đây là “Sơ Đồ 42 Giai Đoạn Tu Tập” để giải thoát đời người, chấm dứt đau khổ, sinh tử luân hồi. Thầy sẽ giảng trạch sự tu tập và rèn luyện của từng giai đoạn; giảng đến đâu, các con tu tập đến đó; tu được giai đoạn đó sẽ giảng giải giai đoạn khác.

Đến đây là Thầy đã giảng xong nội dung việc tu thiền giai đoạn thứ nhất. Khi nào các con tu xong, Thầy sẽ giảng giai đoạn thứ hai, thứ ba như Thầy đã hứa, còn bây giờ Thầy bổ túc thêm Sơ Đồ Đường Lối Tu Tập, để bổ sung cho giai đoạn tu thiền phần thứ nhất (ly dục, ly ác pháp).

12- DẪN TÂM VÀO ĐẠO ĐỪNG DẪN ĐẠO VÀO TÂM

Đây là giai đoạn thứ nhất, phải luôn luôn cảnh giác "dẫn tâm vào đạo, đừng dẫn đạo vào tâm". Câu này dạy người mới bắt đầu tu tập thiền định theo Đạo Phật phải đề phòng cảnh giác, cẩn thận, không được đụng pháp môn nào tu theo pháp môn ấy, mà phải dè dặt chọn lựa kỹ lưỡng pháp môn tu tập. Vì nếu đã lỡ tu tập pháp môn không đúng, sẽ trở thành thói quen và sửa lại tu tập lại rất là khó khăn, và còn nhiều khi không còn sửa lại được nữa.

Ví dụ, một người tu lạc thiền, nhiếp tâm ức chế không đúng cách, gây ra bệnh rối loạn thần kinh, điên khùng, không còn tỉnh táo, do đó không thể sửa lại được nữa, trở thành phế nhân tàn tật. Cũng như người học nhiều giáo lý đủ loại người này cũng không thể cứu chữa được, họ đã nuôi lớn bản ngã bằng trời. Đó là do huân tập sở tri chướng quá nhiều. Con đường tu tập giải thoát của họ qua những kiến thức này đã chấm dứt đời tu của họ. Nếu một người tu tập có thần thông bùa chú thì cũng khó sửa lại, vì bản ngã kiến chấp của họ chết cứng trong lớp vỏ này. Nếu một người tu lạc vào Thiền định Tưởng, có trạng thái khinh an, hỷ lạc, người này cũng khó sửa lại và cũng chết cứng trong lớp vỏ này.

(02:13:18) Bởi vậy ngay từ Giai đoạn I này, Thầy luôn luôn nhắc nhở các con phải luôn cảnh giác, nếu không cảnh giác tu hành sai thì sẽ thành thói quen lười biếng, mất hết nghị lực, khó tiến vào Định. Đó là những người mới tu mà không được sự hướng dẫn cặn kẽ, tu tập theo ý muốn của mình, rồi sinh tâm lười biếng làm tiêu hao nghị lực, và đồng thời thường bị lạc vào những trạng thái của định tưởng, khiến cho đời tu chẳng đi đến đâu. Tu hành phải biết giờ giấc nghiêm chỉnh, giờ nào việc ấy. Đó là :

  1. Giữ gìn tâm bất động, chuyên ròng một hơi thở, không được xen tạp niệm; Đó là phải luôn luôn cảnh giác.

  2. Khi tọa thiền, phải giữ thân bất động, không nhúc nhích, lắc qua lắc lại. Không được ngồi thẳng quá (ưỡn ngực), không được ngồi chùn quá (khòm lưng); Đó cũng phải là luôn luôn cảnh giác.

  3. Không được huân tập, học nhiều các pháp không đúng là Phật pháp;

  4. Không được học lối lý luận, hý luận của các pháp, mà phải học pháp chuyên ròng tập luyện làm chủ thân tâm;

  5. Không được học pháp ở đầu môi chót lưỡi, cật vấn thiên hạ, tranh chấp hơn thua để nuôi lớn bản ngã.

Các con phải luôn luôn đề cao cảnh giác những loại này, và luôn luôn các con hãy bắt chước Phật khi có một tà sư ngoại đạo cật vấn hỏi đúng đường lối tu tập thì Phật trả lời, hỏi không đúng đường lối tu tập giải thoát thì Phật không đáp, làm thinh hoặc trả lời: “Đó không phải là vấn đề của Ta, không phải là đường lối của Ta”. Đức Phật không để thì giờ hý luận, tranh đua với thiên hạ vô ích. Vậy từ đây về sau các con phải bắt chước Phật. Có ai hỏi đạo mà có lòng tha thiết cầu pháp tu tập, kính trọng thưa hỏi với một tâm thành thì các con hãy chỉ dạy.

(02:15:59) Còn những hạng người hiu hiu tự đắc, cật vấn, hỏi điều này thứ kia thì các con sáng suốt nên làm thinh, hoặc bảo: “Những điều quý vị hỏi không đúng cách thức tu tập ở đây, chúng tôi xin miễn nói, vì ở đây chỉ biết tu tập để được giải thoát khỏi sự đau khổ của kiếp người, chứ không có tranh luận hơn thua. Xin quý vị vui lòng”. Đó là phải luôn luôn cảnh giác những hạng người này. Khi thưa hỏi pháp tu, không được đòi hỏi giải thích, vì giải thích sẽ làm mất trí vô sư của các con. Người giải thích cho dễ hiểu là Giảng sư; người không giải thích là Thiền sư. Tùy ở người Thiện hữu tri thức, khi họ cần giải thích thì họ giải thích, không cần thì không giải thích. Thiện hữu phải biết linh động, khéo léo, lúc đóng, lúc mở; lúc đóng là để cho đệ tử khai triển trí tuệ; lúc mở là để khuyến khích, khích lệ, sách tấn cho đệ tử nỗ lực tu tập. Những điều này phải luôn luôn cảnh giác.

Tập ít nói, không nói chuyện tào lao, không đến nói chuyện người ngày người khác; luôn luôn giữ tâm thanh thản và hướng tâm đến thanh thản. Đó là phải luôn luôn cảnh giác. Thường sống thơ thẩn một mình và hướng tâm đến sống độc cư một mình; và luôn giữ tâm vô sự và hướng tâm đến vô sự. Đó là phải luôn luôn cảnh giác.

Thường giữ gìn ý tứ làm moi công việc cũng tiếp xúc với mọi người, nên dè dặt, cẩn thận từng lời nói, hành động, luôn phải giữ gìn, ôn tồn, nhã nhặn, êm dịu, từ ái. Những hành động này phải luôn luôn cảnh giác. Nhờ có luôn cảnh giác giữ gìn tâm tu tập như vậy thì đó gọi là dẫn tâm vào đạo. Nhờ có thường xuyên dẫn tâm vào đạo nên tâm ly dục, ly bất thiện pháp, tâm được giải thoát, an vui, thanh thản.

(02:18:43) Vậy từ nay, các con phải nỗ lực tu tập hàng ngày, thường xuyên không nên gián đoạn. Lúc nào, giờ nào, ngày nào, tháng nào, năm nào đều phải cảnh giác giữ gìn tâm, dẫn tâm vào đạo. Có như vậy mới ly dục, ly ác pháp được. Như các con đã biết trong lần chuyển pháp luân lần đầu tiên, đức Phật đã thuyết Tứ Diệu Đế, nguyên nhân đau khổ của con người là tâm ÁI DỤC. Ái dục là gì? Ái dục lòng tham muốn, yêu thích, say đắm, đam mê. Vậy muốn xa lìa nó thì phải "luôn luôn dẫn tâm vào đạo, đừng dẫn đạo vào tâm".

Đừng dẫn đạo vào tâm như thế nào? - Dẫn đạo vào tâm là nghe nhiều, học nhiều kinh sách mà không có thực hành, hoặc có thực hành thì cũng chỉ là thực hành bằng hình thức, lấy lệ. Càng học nhiều, càng nghe nhiều bản ngã càng to lớn thì tâm tham danh, thích lợi càng nhiều, nên làm bít mất đường lối tu tập giải thoát của họ. Cho nên suốt đời của họ chẳng có sự giải thoát mà chỉ có sự đam mê. Bởi vậy Thầy dạy đừng dẫn đạo vào tâm là vậy.

(02:20:21) Cô Diệu Quang dạy không chịu giải thích cho các con, mà phải tự các con xả ngã, diệt tâm ham muốn của mình. Và cũng từ đó phải tự triển khai trí tuệ thông minh vô sư của tư tuệ. Phần nhiều đời nay người ta dẫn đạo vào tâm, chứ ít có ai biết cách dẫn tâm vào đạo. Trong kinh nguyên thủy, Phật dạy NHƯ LÝ TÁC Ý, đó là dẫn tâm vào đạo. Trong kinh Tiểu thừa, Phật dạy PHÁP HƯỚNG TÂM, tức là pháp dẫn tâm.

Xưa đức Phật còn tại thế, không có cho ghi chép kinh sách, chỉ vì sợ các đệ tử dẫn đạo vào tâm, nên đức Phật chỉ nói để cho tu tập, mà không cho ghi chép lại. Đến sau này, kết tập mới có kinh sách. Nhưng từ khi có sách thì người ta khó chứng đạo, chỉ vì họ dẫn đạo vào tâm quá nhiều, rồi phát triển những kiến giải, tưởng giải, viết rất nhiều kinh sách, làm lệch lạc con đường của Đạo Phật. Đạo Phật bây giờ là Đạo Phật triết lý, Đạo Phật mê tín, Đạo Phật khoa học, Đạo Phật siêu việt…​ không có một tôn giáo nào hơn Đạo Phật được! Theo Thầy thiết nghĩ Đạo Phật không có triết lý, không có mê tín, không có khoa học, không có siêu việt. Đạo Phật chỉ thuần là đạo của con người, như bao nhiêu con người khác trong thế gian này. Nhưng người đó phải biết sống một đời sống an vui, sống không làm khổ mình, khổ người, sống thanh thản trước mọi diễn biến của nhân quả, và luôn luôn lúc nào cũng làm chủ được nhân quả.

Khi nghe đến đây các con hãy cố gắng tu tập khắc phục tâm mình cho được, chừng nào khắc phục được Thầy sẽ giảng tiếp.

HẾT BĂNG

Pháp Âm - 1996 - ĐẠO ĐỨC TRONG GIA ĐÌNH

ĐẠO ĐỨC TRONG GIA ĐÌNH

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Phật tử

Thời gian: 1996

Thời lượng: [1:29:03]

1- BÌNH TĨNH MỌI HOÀN CẢNH, Ý TỨ CẨN THẬN THÂN KHẨU Ý TRONG ĐỜI SỐNG ĐỂ KHÔNG LÀM KHỔ MÌNH, KHỔ NGƯỜI

(00:00) Trưởng lão: Con đi con nhìn, thằng trộm không dám lấy thì nó đâu có tội ăn trộm. Nó không lấy được, còn để cho nó lấy được thì con có tội đó chứ, trong cái đó nó có cái phần tội của con trong đó. Mặc dù nó ăn trộm của con, con mất của con khổ sở chứ tội có một phần của con. Con là người vô ý cho nên vì vậy mà con mới mất của.

Đó vì vậy đó, đó là bởi vì đạo Phật kỹ lắm dạy đạo đức con người rất kỹ. Cho nên cách thức của chúng ta không làm cho người khác tội, nếu mà người nào cũng giữ gìn cẩn thận như vậy thì làm sao thằng ăn trộm nó còn hành nghề đó được. Nó hành nghề không được thì nó giải nghệ, nó trở thành người tốt chứ sao. Còn mình cứ vô ý, mình cứ mải vui chơi quên nó đi để đó chúng để (ý) thì nó thấy nó làm ăn được thì bao giờ nó cũng phải trở thành người xấu rồi. Cho đến khi nó bị ở tù hay này kia nọ, bị đánh đập đủ thứ hết. Cho nên cái tội đó cũng là có phần của con trong đó, con hiểu chưa? Cho nên vì vậy mà đạo Phật dạy chúng ta tu, tu từng cái cuộc sống của chúng ta, chứ đâu phải tu cái chuyện mà nói bây giờ tôi niệm Phật, tụng kinh hay hoặc là tôi ngồi thiền đâu, không phải! Tu từ cái chuyện nếp sống của con, cho nên từng chút đó mà tâm hồn con giải thoát.

Đợi mất chiếc xe con về con rầu rĩ: “Trời ơi, mới sắm chiếc xe đây mà thằng ăn cắp nó lấy rồi!” Ba, bốn ngày đi ngó, đi đâu cũng dòm thử xe mình nó có ở đâu không để lấy lại. Trời ơi, nó cởi rồi còn cái gì mà tìm nó được. Thất tha thất thểu đi từ đường này qua đường kia coi nó có chạy ra bắt nó không, làm sao mà tìm được. Các con thấy chính mình không tu được cái tâm của mình, không ý tứ được cái tâm của mình vì vậy mà mình phải khổ. Chứ còn nếu mà sự thật ra, hằng ngày mình ý tứ từng chút thì cái tâm này đâu có khổ quá vậy.

Trong gia đình cũng vậy, nếu ý tứ từng lời nói mình nói ra cái lời nói mà cả gia đình vui thì mình nói, mà nói ra lời nói buồn thì mình đừng nói. Khi không nghe con mình làm sai cái gì, la rầy um sùm lên, đã làm nó khổ mà đã làm cho mình mệt mỏi, khổ tâm nữa, phải không? Nghe nó sai thì để xét lại coi thử coi có không rồi tìm coi lời nói nào khuyên nó bỏ, chứ đâu có la mắng vậy. La mắng vậy thì cái thứ nhất là mình khổ, mang tính lời nói dữ, chửi mắng con mình, phải không? Cái thứ hai làm cho đứa con không sáng suốt, nó đau khổ.

(02:30) Nói thí dụ bây giờ Thầy nói đơn sơ như thế này. Con mình ở nhà thôi, nó lỡ nó cầm cái bát nó đổ, nó làm rớt cái bốp bể nát cái bát, bát kiểu tốt quá. Cho nên: “Bộ đui sao mày đứng vậy, mày làm đổ vậy”, chửi con cái đã. Có phải đầu tiên là mình mang cái nghiệp khổ không? Giận nó làm bể cái bát nhưng mà tâm nó có phải nó muốn làm bể đâu. Vì nó đi, nó vấp, nó té, nó làm bể, phải không? Con hiểu chỗ đó. Cho nên thứ nhất là mình an ủi, nó quá sợ, nó rớt cái tô rồi, nó sợ thế nào mẹ cũng rầy mà nó sợ không khỏi. Thay vì thế, người mẹ bình tĩnh, mất cái bát không lẽ mình đánh con mình, nó (có) hất cái bát nó lật đâu. Cho nên vì vậy đó mà: “Con đừng sợ, mai mốt đi cho cẩn thận. Lỡ con cầm một cái vật gì đi coi ý tứ dưới chân con. Để con vấp một cái sợi dây hay một cục sỏi như vậy, thì thứ nhất là nó xảy ra như con bị thương hay hoặc này kia thì nó đau nhức con khổ. Còn cái bát nó bể rồi nó không có khổ đâu, mai mốt mẹ làm có tiền mẹ mua lại được. Con đừng có sợ, mẹ không có đánh con!” Không, cái này mình tiếc của, thôi mình la mắng nó cái đã, mà không biết con mình nó có trầy da hay nó có gãy chân chưa đây không biết nữa, mà không có để ý điều đó. Chừng mà thấy nó đi không được, cái chân nó trật đi. Lúc bây giờ mới thương con mà lại quên cái bát, lo con chở đi nhà thương, phải không? Các con phải hiểu đó là những cái sai mà chúng ta thiếu bình tĩnh, mà đạo Phật dạy chúng ta bình tĩnh. Phải tập mình bình tĩnh trước mọi cái hoàn cảnh, như vậy là đem lại hạnh phúc cho mình. Đứa con nó vừa sợ mà nghe lời bà mẹ nói cái nó hết sợ, nó làm cho nó an ổn. Tức là ban sự lưu ý cho nó chứ gì, con hiểu không? Thầy nói bởi vậy, đạo Phật dạy từng cái đạo đức ở trong cái gia đình của chúng ta để mà chúng ta có một cái thiên đàng ở trong đó. Còn không hở chút cái có rầy, hở chút có buồn, hở chút cái giận. Đứa thì ngó bên đây, người thì ngó bên kia, không nói chuyện. Cơm chẳng lành canh chẳng ngon, ở trong cái mâm cơm ăn thôi không có ngon chút nào hết.

2- LÀM HẾT BỔN PHẬN, TRÁCH NHIỆM, VUI VẺ TRẢ NỢ NHÂN QUẢ TRONG GIA ĐÌNH

(4:40) Phật tử: Con cũng xin nhờ Thầy dạy giùm con, con có một thằng cháu nội nó cũng không hung dữ; nó cũng không dám nói lời vô phép nhưng mà nó rất là cứng đầu. Mà trong gia đình con cũng tìm hết lời an ủi ngọt ngào, vì cha mẹ nó không nuôi nó từ nhỏ, tới chừng 7-8 tuổi thì giao con, năm nay nó là 18 tuổi nó học, năm nay nó thi đậu lên lớp 12. Mà nó muốn bỏ nhà đi, về nhà lúc nào nó bỏ, mà nói ngọt nói ngon, nói về tương lai, nói về cuộc sống. Con nói về đạo đức cho nó nghe thì nó nghe ròi nó giãn giãn được 2-3 ngày, rồi thỉnh thoảng nó cần tiêm chích là nó bỏ nhà nó đi sau ngày mai nó trở về. Nhiều khi má Tư nó, cô ruột nó đánh đập nó, giận quá phải đánh nó mà nó cứ làm như vậy hoài. Con không có kìm nén không có cách nào để dạy nó.

Trưởng lão: Thì như vậy, bây giờ mình đem hết cái sự mà hướng dẫn nó rồi, tức là mình phải thấy được cái nghiệp của nó. Như vậy là mình không nên (bỏ), cũng rầy, cũng khuyên, cũng dạy chứ không nên bỏ. Nhưng mà nó có làm, không làm thì đừng nên bận tâm. Trách nhiệm của mình có rầy, có dạy, có khuyên lơn nhưng mà hiện giờ đừng có bỏ phí nó. Nó bây giờ đi chơi thì có nói rầy nó vậy thôi, nhưng mà đừng có để cái tâm của mình khổ tâm đối với nó, phải không? Vì nó lên nó đòi nợ mình đó. Mình làm thiếu nợ nó, nó đòi mình đủ cách, cho nên đừng có bỏ mặc vì bỏ mặc thì tội nó, phải không? Nhưng mà phải nhắc nhở nó, dù nó bớt đi một ngày nó không đi chơi hay là nó không bỏ một ngày đi nữa, cũng là mình thấy mình làm tròn bổn phần. Nhưng mà cái nên cái hư thì là do cái nghiệp của nó, chứ giờ mình đâu có muốn nó hư, phải con hiểu không? Cái bổn phận của mình thì mình làm, nhưng đừng để cái tâm của mình: “Tại sao tui dạy nó không được?”. Cái nghiệp của nó mà, chứ ngồi làm sao mình dạy cái nghiệp nó được.

(06:38) Phật tử: Thầy nói con cũng an tâm, chứ con thấy sao con khổ. Nuôi cả cha nó rồi nuôi hết hai đứa con, mà hai đứa nó con nuôi mà hồi đó con nghèo con đâu có nuôi được bằng tụi lớn bây giờ. Nuôi rất là đầy đủ từ ăn học, học thi. Đưa tiền học mà nó muốn học thì học, không học thêm thì nó lấy tiền đó xài. Rồi nó làm trong nhà buồn khổ vì nó dữ dội.

Trưởng lão: Thì đó là mình trả nợ đó, nó đòi nợ đó mà mình biết từ cái nợ, vừa trả nợ mà vừa vui còn con vừa trả nợ mà lại vừa khổ. Mà trả nó chưa hết thì nó cứ đòi hoài, khi mà con trả xong hết nợ rồi thì một là nó chết. Nó chết thì mình đâu còn nữa, chỉ có lần khổ nữa thôi, thương nó thôi, hết. Hai là nó trở về con đường thiện nó làm cho mình vui, nó biết ăn năn sám hối, nó biết xin lỗi. Từ lâu con dạy dỗ này kia, nó gặp cái trường hợp nào đó cho nó một bài học xứng đáng của cuộc đời. Bắt đầu từ đó, nó hối hận, nó trở về xin lỗi mình thì nó phải mua một cái giá đắt của xã hội chứ. Nhưng mà từ cái ngày mình dạy nó không nghe, cho nên vì vậy mà bây giờ nó mới mua cái giá đó, nó mới thức tỉnh. Tức là mình hết nợ rồi, nó mới gặp cái trường hợp đó, nó thức tỉnh. Còn bây giờ nó chưa mà, nó chưa gặp, cho nên nó còn thấy cái bóng đèn đẹp quá thì nó cứ bay theo thôi. Bây giờ con có nói gì nó, nó đâu có theo con đi về.

Phật tử: Con bây giờ nhiều khi mà khóc chứ hết biết nói sao dạy cũng hết lời, nói to nói nhỏ ngọt ngào đủ cách hết trơn. Thì cách đây hai bữa, con với Nga tính đi nhà xe của bác Hai đó có rảnh không, để đi trước đi ít ngày thì nó nghe vậy là đêm đó nó bỏ nhà nó đi. Nó biết tụi con đi là nó đi, nó đi trước. Rồi mai tụi này ở lại thì nhận thấy rằng nó về, nó giật mình thấy tụi nay còn. Nó ăn cắp hàng ngày cả trăm ngàn để trong đó, mà hở mà nóí thì nó khổ, vừa khó vừa khổ.

(08:20) Trưởng lão: Thì thôi, vui mà trả, phải vui mà trả cái nợ. Bởi vì nó sinh ra trong gia đình của mình, nó là con cháu của mình rồi thì tức là nó có cái nghiệp nợ vay với nhau rồi. Cho nên mình mới thương nó, mà thương nó thì nó đòi cái này, nó đòi cái kia chứ đâu phải là mình thiếu dại dột, nhưng mà phải vui mà trả. Nhưng mà phải cẩn thận kỹ lưỡng ở trong nhà. Bởi vì Thầy nói, mình lơ đãng mình để cái xe, thằng ăn cắp có tội và mình cũng có tội. Mà tiền bạc mình cất cho kĩ lưỡng, đàng hoàng không khéo nó lén nó lấy thì nó có tội, mình cũng có tội trong đó. Nên phải cố gắng mà giữ chứ đừng có để, nhờ như vậy đó…​ Thầy nói thà có một cái gì ở trong cái nhà mình nó có cái ác pháp ở trong đó rồi thì mình rất là bận tâm. Nhưng mà mình bận tâm tức là ý tứ tư duy từng chút, cẩn thận kỹ lưỡng từng chút, đó không thể hời hợt được. Nhiều khi hồi trong nhà mình không có đứa nào mà vậy đó, thì mình mới bỏ tiền bỏ bạc, bỏ gì đâu đó cũng được hết, không ai lấy. Nhưng mà có nó thì không được đâu, mình phải cẩn trọng. Nếu không nó còn chồng thêm cái tội lỗi đó nữa, nó tạo cái nhân đó là cái hiện tại đó là cái ác của nó mà, sau này nó thọ lãnh cái quả nữa.

Phật tử: Nó là cháu nội Hai, cha nó bỏ, mẹ nó cũng bỏ, nuôi mà nó hành khổ sở. Còn một đám con con đứa nào đứa nấy nó cũng dễ dạy. Cha nó, nghĩa là không có hỗn với ông còn mà cũng người dưng nó không xa lánh gì hết Thầy, tới bây giờ cũng vẫn còn nuôi được, nó đẻ ra cho hai đứa con mình nuôi được nuôi luôn nó nữa Thầy. Tiền bạc người này cho người kia cho, con toàn ở không, không làm cái gì mà cũng làm khổ hoài. Không biết cái nghiệp không biết chừng nào mà trả xong cho dứt khổ.

Trưởng lão: Thì mình cứ vui vẻ trả bởi vì hồi đời trước mình vay nó bao nhiêu thì bây giờ nó đòi mình trả bấy nhiêu, con phải trả thôi chứ con đừng có than phiền. Bây giờ, mình đang là người thiếu nợ mà mình cứ trả: “Trời ơi, trả hoài mà sao không hết giờ?” thì chưa hết nó còn đòi, chứ hết rồi ai đòi nữa. Cũng như bây giờ con thiếu nợ người ta một triệu, bây giờ con trả người ta mới có trăm mà con cứ than hoài: “Trời ơi, khổ tui quá trời!” Mà trả ta có trăm à, còn chín trăm ngàn nữa chưa có trả, phải không? Bây giờ ta đòi thêm chút nữa thì con lại than: “Trời ơi, vậy thì chết chứ còn gì nữa!”. Con mới có trả được ta có hai trăm còn tám trăm nữa, chưa hết mà cứ than không. Thành ra mình còn nợ, cho nên vì vậy mà con trả hết nó thì nó sẽ hết.

Thì thí dụ như bây giờ có một đứa con mình sinh ra, thôi nó đau, thôi liên miên hết bệnh này tới bệnh khác. Vừa mạnh bữa, hai bữa đau nữa, đùng cái nó chết. Mình hết nợ, hết nợ lại khóc, lại khóc thương: “Trời ơi, tội nghiệp thằng nhỏ này, sanh ra mà bây giờ nó lại đau bệnh riết bây giờ nó tới chết thôi. Thấy tội thằng nhỏ này sao thông minh quá, dễ dạy, dễ thương, nói đâu nó cũng nghe lời”. Bởi vì nó vậy nó mới làm cho mình khổ, coi chừng nó đòi nợ mình dữ tợn nữa, mà nó siết mình có thời gian cái mình trả hết cái nó chết. Chết rồi cái, bắt đầu mình khỏe re mà không thấy khỏe, mà lại bữa nào cũng thắp cái hương: “Con về đây con ăn cơm, hay này kia”. Nó nợ nó đi mất rồi mà giờ kêu nó về ăn cơm, phải không? Biết thương nó: “Thằng này nó dễ dạy nè, nó dễ thương nè, sao đủ thứ”

Phật tử: Như lời Thầy nói giờ cũng phải làm thinh để cho nó làm gì nó làm, khuyên lơn nó cũng phải khuyên lơn.

(11:43) Trưởng lão: Không, theo Thầy thấy thì mình nợ mà, cái khuyên lơn của con là con trả từng đồng nó đó. Chứ con mà không khuyên lơn nó thì coi như là con cũng thiếu bổn phận của nghĩa tử. Đã là con cháu trong gia đình thì phải khuyên lơn, cho nên mình bỏ mặc thì không có được. Con thấy mình bỏ mặc, nó còn làm cái điều gì thì mình còn hối hận. Chứ còn con khuyên lơn nó, con không có đánh rầy mắng nó nhiều, đừng có tạo thêm cái hành động rầy mắng. Con nói nhẹ nhàng thôi: “Cái điều mà con làm nó sai, không đúng, con hãy chừa bỏ đi!”. Con nói như vậy thế thôi, đó là cái bổn phận của con, mà vừa là cứu con khỏi con trả nợ mà con lại không khổ. Còn con giận quá, con rầy con mắng nó này kia nọ đó là con tự con lại chuốc lấy cái nhân ác cho con nữa. Tức là con vừa trả mà vừa vay nó nữa đó, bởi vậy phải biết mình trả mà mình không vay là mình không giận, không mắng, không chửi nó.

Cũng như Nga nó giận nó mà đánh nó, tức là con nhỏ này vay nợ, sau này chúng đánh lại. Chứ đâu phải mình đánh người ta roi, chừng đó người ta đánh mình mười roi, phải không? Mình mắng nó một, chứ người sau mắng mình mười. Cũng như hồi đó con vay nó chỉ có trăm, bây giờ nó lời tới triệu rồi đó. Hồi đó mình vay ít chứ đâu, nhưng mà tính mẹ đẻ con đẻ ra tới bây giờ thì nó phải nhiều hơn cho nên bây giờ con phải khổ hơn. Hồi đó con chỉ làm ít nhưng mà bây giờ con phải trả nhiều, người ta nói vay một trả mười mà đâu có cái chuyện một mà trả một đâu.

3- TU TẬP GIỮ GÌN VÀ HƯỚNG TÂM ĐẾN THANH THẢN

(13:21) Đó thì hôm nay Thầy muốn nói như vậy, để chúng ta luôn luôn lúc nào cái tâm của chúng ta phải đứng ở trong cái nhân quả. Để mà giải quyết cái tâm của mình thoát ra cái cảnh khổ, không để cho cái tâm mình giận dữ đối với gia đình của mình, đối với những người xung quanh mình thì như vậy cũng là tu rồi đó. Chứ các con tu sao? Nghĩ mình vô chùa rồi trốn ở trong đó tụng kinh gõ mõ tối ngày tu, đâu phải! Tu là ngay trong cuộc sống của mình, giữ gìn được cái tâm hồn của mình thanh thản, an vui. Nó không có bận bịu, không có lo lắng, không có sợ hãi, không có phiền não thì đó là tu đó. Mà tu như vậy là cái gì? đức Phật nói là Niết Bàn tại thế (gian) mà đức Phật gọi là Hữu Dư Niết Bàn, nơi mà cái tâm mình thanh thản, không có buồn, không giận, không hờn, không có gì hết. Cái đó là cái cảnh giới giải thoát của một con người tu.

Phật tử: Cái đó là hết luân hồi luôn?

Trưởng lão: Đâu còn luân hồi, cái tâm không phiền não ai thì đâu luân hồi, vì còn phiền não là còn luân hồi. Nghĩa là tham, sân, si, trong đó nó có sân, si phiền não đau khổ thì cái đó còn luân hồi. Mà cái tâm không thấy nó có cái gì trong đó thì đó là hết luân hồi. Bấy nhiêu đó là chúng ta đã biết rồi, chúng ta chấm dứt luân hồi rồi. Mà còn chút phiền não, còn chút giận hờn, còn chút đau khổ trong đó, còn chút thương ghét thì cũng là luân hồi. Mà cái tâm đó nó thanh thản, mà thanh thản thì dễ quá mà đâu có gì, Thầy ngồi như vậy đâu có gì trong đầu Thầy đâu, nó thanh thản. Cũng như bây giờ mấy con đừng có nghĩ gì hết, mấy con ngồi đây thanh thản, đừng có nghĩ đói, nghĩ no thì thanh thản được rồi. Mà nghĩ không biết ngày mai lấy gì ăn thì không thanh thản rồi.

Phật tử: Nhưng mà như vậy chỉ có một chút xíu thôi rồi nó nhào vô nữa hả Thầy?

Trưởng lão: Thì như vậy, nó nhào vô thì mình đuổi nó ra, hằng ngày đuổi nó ra như vậy. Cứ lúc nào cũng siêng năng nhắc tâm thanh thản, giữ gìn thanh thản ngày này qua ngày khác, ba năm nó đi sạch, nó để lại cho mình thanh thản. Còn con không siêng năng, con không chịu mà giữ gìn nó, giữ gìn cái tâm mình, không siêng năng giữ gìn dẫn cái tâm mình như vậy thì nó cứ nhào vô, nhào vô rồi nó đầy ắp ở trong đó.

Phật tử: Con cũng nhớ là lời Thầy nói thanh thản. Con cũng thường thường nhắc cái tâm lời Thầy nói. Lúc nào mà con nhớ là con nhớ đến Thầy thì vậy đó. Cái vấn đề thanh thản làm sao con đuổi không nổi.

Trưởng lão: Nó có hai cách, cách thứ nhất là bình thường nó thanh thản thì mình nhắc nó thanh thản, phải không? Rồi cách thứ hai là giữ gìn cái tâm thanh thản. Khi nó có chuyện này, chuyện kia mà con đã đuổi không nổi đó. Con phải cố gắng tìm cách đuổi cho ra để mà giữ gìn nó lại thanh thản, cái đó gọi là giữ gìn tâm thanh thản. Còn bây giờ nó thanh thản thì hướng tâm đến thanh thản, nhắc nó để đừng có xảy ra chuyện gì nữa, có bấy nhiêu đó mà tu không nổi.

(15:50) Tu để giải thoát, mà thấy thanh thản là giải thoát rồi! Tại sao cái chỗ giải thoát lại không chịu mà cứ đưa cái đầu xuống Địa Ngục, ở dưới lại chịu khổ? Cái chỗ Thiên Đàng rõ ràng, cũng ở trong cái tâm con. Con thấy khi nào mà con thanh thản là có phải Thiên Đàng không? Nghe nó nói đâu có khổ sở, đâu có buồn lo, đâu có gì đâu. Mà hễ nó có buồn lo, thì Địa Ngục rồi, phải mau mau, mau mau bay lên chứ đừng có ở dưới, mau mau bay lên là xả nó chứ gì. Mà con cứ ở dưới mà phiền não, lo lắng, đau khổ thì tức là con trị dưới Địa Ngục, con nằm dưới chứ con không chịu đi lên. Cho nên mau mau khi mà chúng ta thấy cái tâm vậy, chúng ta biết là Địa Ngục rồi, cần phải dọt lên trên Thiên Đàng chứ điên gì mà ở dưới.

Cũng như chẳng hạn bây giờ Thầy nói như thế này, cái chỗ đó người ta nói đó là cái chỗ nguy hiểm nhất, chỗ đó rắn độc, cọp dữ, đi đến đó nó sẽ giết mình, con dám tới không? Vậy mà cái Địa Ngục ở trong tâm của mình, chỗ đó nó là cọp dữ, rắn độc đó, hãy mau mau đi ra đừng có vô đó. Tại sao con điên con cứ đi vô đó cho nó cắn con? Con không thấy chỗ đó sao? Thấy thì phải mau mau đi ra khỏi chứ, mà đi ra khỏi là thắng rồi. Cái chỗ độc địa mà cứ nhào vô mà thiên hạ ai cũng ngu hết, phải không? Các con thấy Thầy nói có không? Chỗ ngu mà cứ đưa cái đầu vô đó mà chịu khổ, mà biết nó vậy sao không đi ra đi, lo ta đi ra chứ. Nghe người ta đều chỉ, Thầy đều chỉ cho các con biết: “Chỗ đó là nguy hiểm lắm, rắn độc mà, thú dữ ở đó, cọp beo đó, đi vô đó nó cắn mình cắn đau khổ chết”. Thôi tôi thấy thứ đó, thôi tôi tránh đi ra chỗ khác không dám vô đâu. Mà lỡ mình có đi tới rồi thì mau mau mình chạy ra cho khỏi. Các con hiểu không?

Thầy nói chung như vậy là ở đây các con ai cũng biết cách tu của đạo Phật chứ gì? Khi cái tâm ở Địa Ngục thì mau mau bay lên Thiên Đàng, đừng ở dưới, ở dưới khổ lắm. Cho nên Thầy làm con người không có điên, cho nên Thầy luôn luôn ở Thiên Đàng. Còn mấy con nhìn chung mấy con điên đảo, cứ nhào dưới Địa Ngục mà cứ ở dưới không chịu lên, đau khổ thì cứ trì dưới không chịu lên, như cục đá mà nó rớt xuống ao cứ nằm ở dưới không có chịu lên.

Thầy như giọt dầu cho nên nó nằm ở trên mặt ao, cho nên tâm Thầy lúc nào cũng thanh thản. Mà bây giờ mời Thầy xuống Địa Ngục, thầy không xuống, phải không? Các con làm gì thì Thầy xuống. Cô Út thì xuống Địa Ngục lôi các con lên, lên rồi thì cười cho nó tan ra chứ còn không khéo ở dưới Địa Ngục luôn với mấy con, phải không? Cho nên cô Út quá khổ. Còn Thầy, bao giờ Thầy cũng ở trên như cái giọt dầu nằm trên mặt nước. Không bao giờ ai làm Thầy khổ hết! Ai làm, mặc. Cho nên Thầy hoàn toàn ở trên mặt nước.

(18:12) Mà Thầy đâu có điên gì mà Thầy lặn xuống dưới, Thầy đâu có dại Thầy lặn xuống dưới đâu. Xuống dưới ngộp nước cho nên Thầy không lặn xuống ao, cho nên hoàn toàn Thầy giải thoát. Thầy không có chịu cái cảnh mà độ chúng sanh cực lắm. Các con rớt xuống đó mà xuống lôi các con Thầy cũng ngộp nước với các con luôn, cho nên Thầy không xuống mà Thầy chỉ ở trên Thầy nói: “Bây giờ như vậy như vậy đó…​”. Thầy chỉ là một cái người mà biết cái chỗ đó là chỗ nguy hiểm, chỉ các con. Các con đi tới hỏi: “Bây giờ còn đoạn đường tới đây như thế nào Thầy?”. Thầy trả lời: “Cái đoạn đường từ đây tới đó là có cái chỗ rắn độc ở, các con nên tránh chỗ đó đừng có đi, đi chỗ này nè!”

Các con nhớ Thầy nói như vậy là các con đừng có vô đó, nhưng mà hầu hết là Thầy nói thì nói nhưng mà các con cứ đi. Cô Út thì nhào vô cái hang rắn lôi các con ra, cho nên cũng bị rắn cắn, phải không? Các con thấy rõ mà, thầy nói có mà, cô Út lôi các con ra, nhưng mà điều kiện lôi ra như vậy chứ cô Út bị rắn cắn chứ đâu phải không.(biết nó có độc) Còn Thầy cứ đứng ở đây chứ Thầy không vô đó mà các con đi ngang hỏi là: “Chỗ đó đó, độc đó đừng có vô, ở đây này, chỗ này!” Thì các con không nghe, các con đi rớt, rớt dưới rồi bắt đầu cô Út nhảy xuống lôi ra. Quá khổ, bởi vậy các con quá khổ!

Đó thì các con thấy không? Thầy thì khi mà học Phật pháp, khi tu hành rồi, Thầy mới thấy cái chỗ đó là cái chỗ độc. Còn cô Út thì không có học Phật pháp, chỉ có tập thực hành tu để cho được giải thoát mà thôi. Cho nên vì vậy mà ông Phật ông ngăn ngừa dữ lắm, ông dạy cách thức ngăn rồi cho nên Thầy ngồi tại cái chỗ này là cái chỗ không có độc, ai đi qua nhắc nhở: “Vậy là chỗ đó thôi, phải đi đường này, đi đường này là giải thoát”. Thì ai không cãi thì họ đi đây thì được, mà người nào cãi thì đi vô đó thì gặp rắn cắn ráng chịu, chứ Thầy không có dám lại đó Thầy lôi. Ở đây nhờ có cô Út, cô xông vô cô lôi, để con ở là chết luôn. Lôi ra nhiều khi Thầy thấy quá vất vả, cực khổ.

Thầy không làm cái điều đó. Thầy thì Thầy nói để các con cố gắng các con sửa mình, chứ còn đập phá để cho các con bỏ nhanh chóng, Thầy không đập phá được điều này. Tại vì Thầy đã hiểu biết quá sâu xa rồi, cô Út mà cô hiểu biết cô không làm vậy. Bởi vì Phật dạy các con biết, Phật dạy rất là kĩ, những cái bài kinh của Phật đều là bài kinh ngăn ngừa hết, phòng hộ cái tâm mình trước chứ không để cho rớt, không bao giờ để cho cái tâm mình rớt trong đó.

(20:51) Đầu tiên thì các con biết đức Phật dạy như thế nào? Nghĩa là phải sống độc cư, phải sống khổ hạnh, phải sống ly dục, phải tập sống cái đó. Tức là ngăn ngừa hết cái tâm của mình, phòng hộ sáu căn không cho tiếp xúc sáu trần cho nên nó đâu sinh ra cái dục được, đâu có sinh ra cái ham muốn được. Cho nên đức Phật dạy ngăn ngừa, Thầy dạy ngăn ngừa, chứ sự thật ra họ chưa ngăn ngừa. Thí dụ như dạy ăn một bữa để ngăn ngừa cái tâm ham muốn ăn nhiều của mình, hoặc là ăn ngon ăn dở của mình. Nhưng mà làm sao các con làm một bữa được, phải tập dần dần chứ. Do đó, thì các con còn đi sâu vô cái hang rắn độc đó chứ không phải là không đâu. Cho nên tất cả những cái này, những cái bài kinh mà Phật dạy nó rất là rõ ràng và cụ thể. Thầy biết rằng các con cố gắng mà nỗ lực giữ tâm thanh thản và hướng tâm đến đó, thường xuyên tập giữ tâm vô sự và hướng tâm đến vô sự thì các con sẽ không có lọt vào hang đó.

Chúng ta thường nhắc tâm rồi thường giữ gìn nó ý tứ, cẩn thận bằng những cái Thân Hành Niệm, cái thân mình làm cái gì thì mình phải ý tứ cái đó cẩn thận. Rồi cái ý hành Niệm, cái ý mình suy nghĩ cái gì đó thì mình phải nghĩ đâu cho nó đúng cách của nó, cẩn thận. Rồi bắt đầu cái miệng mình muốn nói cái gì thì mình phải suy nghĩ để rồi mình nói, không nói đại, không nói bừa. Nói ra một cái lời nói làm cho mọi người vui, không bao giờ có cái khổ trong đó thì ngay đó là chúng ta đâu có vào hang độc nữa, phải không? Đâu có vào hang rắn độc nữa, cho nên không bị rắn cắn nữa, cuối cùng chúng ta giải thoát. Còn con ở trong gia đình, nghe lời Thầy hằng ngày cứ giữ tâm thanh thản, hằng ngày cứ hướng tâm đến thanh thản thì có chuyện gì mau mau dù giờ này chưa xả được thì giờ kế tiếp tục xả hoài, xả cho thật sạch nghĩa là mau mau để mà chạy ra cho khỏi cái hang rắn độc này. Biết nó là Địa Ngục của con người, như vậy tuy rằng các con bây giờ có ở bao xa đi nữa thì cũng là ở gần bên Thầy.

(22:48) Bởi vì cái tâm hồn thanh thản là cái tâm hồn của Thầy chứ gì? Cho nên những cái tâm hồn mà thanh thản nó sẽ hòa hợp với tâm hồn thanh thản. Cho nên trong đêm khuya, lúc 11-12 giờ Thầy đi kinh hành, cái tâm hồn Thầy thanh thản mà trong cái Tu viện này người nào có tâm hồn thanh thản đều gặp Thầy, mà người nào tâm hồn nặng trịch thì không gặp Thầy, phải không? Các con thấy cái tâm hồn thanh thản nó hòa hợp với nhau, cho nên cả không gian vũ trụ sẽ hòa hợp trong cái thanh thản đó, trong một cái sự giải thoát đó. Cho nên Niết Bàn thì nó giống nhau mà cái tâm của chúng sanh thì không giống nhau, cái tâm giải thoát thì phải giống.

Cho nên, trong nửa đêm vậy mọi người im giấc ngủ, trong mê muội của họ đang ở Địa Ngục họ đâu biết. Thầy tỉnh táo, các con phàm, đi tới đi lui trong khu vực Tu viện của mình, cho nên thấy các con còn phàm phu chưa ra khỏi. Giờ này ngủ queo hết, không có người nào thức mà thanh thản, phải không? Có không các con? Có chứ, thầy nói có chứ! Giờ này nghĩa là từ 11-12 giờ, cái người nào mà bù đầu bù óc làm việc tìm ra tiền là còn thức, còn hầu hết là người ta ngủ rồi, người ta mê muội không thấy được sự thanh thản. Còn cái người nào mà tỉnh táo thì từ ở trên non núi, những nơi mà tu hành thì trong giờ này là giờ người ta thức dậy người ta tỉnh táo. Người ta tu hành chứ đâu có nằm ngủ queo như mình, phải không các con? Tập riết rồi các con tới đó các con sẽ thấy mình không có ngủ nữa, mà không ngủ nữa thì tâm hồn ở đâu? Ở thanh thản chứ đâu. Tỉnh táo mà thanh thản, tỉnh táo mà giải thoát, các con thấy không? Thôi bây giờ chưa được nhưng mà cuối cùng các con sẽ biết được.

Thầy làm được, con cũng người như Thầy, con thua gì Thầy, con cũng phải làm được chứ! Nhưng mà Thầy nghĩ rằng tuổi con già nhưng mà Thầy cũng già, Thầy làm được con cũng phải làm được chứ, đâu gì mà làm được mà sợ. Các con có quyết tâm cao, có một cái chí hướng lớn thì các con sẽ làm được như Thầy thôi. Mình làm đâu phải vì ích kỷ cho mình để mình được giải thoát thanh thản đâu. Mình làm như vậy là mình thắp được cái ngọn đèn của Phật pháp, người ta thấy mình giải thoát thì ai cũng ham giải thoát, người ta đến với mình, mình giúp đỡ người ta tu hành thì cái đó là cái tốt chứ sao. Cho nên cứ thắp sáng đi, cái thân sáng của mình bằng cái hành động đạo đức, bằng cái hành động giải thoát của mình thì sẽ là giúp người ta tu hành.

Thôi hôm nay Thầy nói như vậy các con thấy mình phải ráng, rồi các con sẽ tìm thấy ở trong cái Định lực, cái Niệm lực nó vi diệu làm sao. Thầy nói, càng tu theo đạo Phật chúng ta càng thấy nó hay ho vô cùng. Cuộc đời bao nhiêu người đang khổ mà mình giữ cho tâm thanh thản mà mình hết khổ. Cuộc đời biết bao nhiêu thân bệnh tật đau khổ, chết chóc thế mà mình làm chủ được nó. Đòi quyền làm chủ sanh tử, nó muốn chết hồi nào mình cho nó chết, nó không dám mà chết theo kiểu mà nó làm chủ mình. Còn bây giờ như các con giờ nó muốn chết, các con muốn sống không được, nó làm chủ các con cái sống chết rồi, phải không? Còn như Thầy bây giờ Thầy làm chủ nó nè, muốn chết Thầy chết, muốn sống nó sống.

Như vậy là Thầy làm chủ sanh tử chứ gì, Thầy đòi quyền làm chủ Thầy được, các con còn chưa đòi quyền làm chủ được cho các con. Cho nên các con sống cứ chạy theo ăn, ngủ, dục lạc thế gian bằng cách này cách khác, nhà cao cửa rộng là thích thú. Trời ơi, đó là cái Địa Ngục của các con mà, nó mở cửa để mà nó đưa các con đi vào trong cái khổ đau chứ đâu phải cái sung sướng gì đâu!

(26:08) Các con lầm chấp. Các con càng cất nhà lớn, nhà cao chừng nào thì cái Địa Ngục các con chắc chắn chừng nấy. Xây bao nhiêu tầng, gạch cho tốt, ốp lát cho đẹp thì đây là cái Địa Ngục kiên cố của các con. Còn Thầy cất cái nhà bằng liếp, Thầy chỉ tông một cái nó bung ra kia, Thầy đi tuốt luốt hết. Còn cái kia các con bung được không? Trời ơi! Xây tường hai mươi vậy, bung sao cho nổi. Bởi vậy, Thầy nói nó buộc chặt các con trong đó, nó giam cứng, cái Địa Ngục nó cứng lắm. Còn cái nhà của Thầy nó không có cứng đâu, nó bở rẹt. Mấy con chó nó bữa nào nó giỡn nó chạy qua chạy lại. Trời ơi! Nó coi cái vách này cũng (không) thường, các con thấy mấy cái lỗ đó, thầy nói có không? Còn huống hồ là quý thầy đạp cái là đi tuốt luốt hết, có gì mà cản Thầy được. Còn cái nhà mà các con xây vách mười, vách hai mươi, trời ơi như vách đá thôi, cái kiểu đó thôi chắc chết.

4- THẦY DẠY ĐI KINH HÀNH, TRÁNH MUỖI VÀ PHÓNG SANH

(26:56) Phật tử: Thầy giờ con thức dậy thay vì hai giờ dậy, giờ hai giờ rưỡi con thiền cho tới bốn giờ, thì bốn giờ con ngủ lại cái năm giờ rưỡi con thức dậy, vậy giờ con thức luôn, tập thức luôn.

Trưởng lão: Tốt chứ, bởi vì càng thức càng thích, miễn là đừng có thức mà nó buồn ngủ quá rồi con cứ…​

Phật tử: Mới đầu con thức thì con xem cái này kia?

Trưởng lão: Được, bắt đầu thì tập vậy nhưng mà sau đó thì con sẽ đi kinh hành nhiều. Nghĩa là nói đi kinh hành nhiều tức là mình phải tập, chứ không có nghĩa là bữa nay chưa có đi một cây số mà con cứ đi cho tới một cây số con đi cho thiệt nhiều, mỏi rục chân con, con ớn mai mốt con không dám đi nữa, không!

Thí dụ: Bữa nay con tập mà đi nhiều thì bữa nay con đi một vòng, thì ngày mai con tăng lên hai vòng, ngày mốt con tăng lên ba vòng, lần lượt tăng lên tăng lên, con đi tới một hai cây số không sao. Chứ con đừng có điên gì mà nói đi nhiều, bắt đầu một ngày con đi hoài đi hoài. Đi rộp cái chân rồi, rồi bắt đầu ngày mai đó ngồi đó không đi được nữa, thì cái chuyện đó không phải, phải tập từ từ, từ từ! Muốn đi kinh hành mà không mỏi chân, mà nó tỉnh táo, nó vui vẻ, nó làm cái thân không có mệt nhọc, thì mình phải tập dần dần dần dần. Cái gì người ta cũng nói tu tập, con hiểu không?

Chẳng hạn bây giờ con mới tập thì con đi một vòng từ cửa ngõ con đi vô ở trong cái nhà khách rồi con đi ra ngoài đó một vòng. Ngày mai con đi tăng thêm hai vòng, ngày mốt con tăng ba vòng, bữa kia con tăng năm vòng rồi sáu vòng, bảy vòng lần lượt lên mười vòng, hai chục vòng vậy thì con đi không mỏi chân. Con nhớ không? Tập như vậy đó!

(28:45) Phật tử: Con cũng thường đi kinh hành, mỗi lần mà con thở ra một hơi rồi con đứng dậy con đi kinh hành, tập hai vòng rồi con trở lại con ngồi, ngồi xong rồi con đi kinh hành như mỗi lần thở con ngồi con đếm, rồi trong khi chưa có tới nửa tiếng nghỉ ngơi đó, thì nửa tiếng đó có khi con đi mười lăm phút hoặc hai mươi phút kinh hành. Con đi như vậy.

Trưởng lão: Bắt đầu con tu như vậy là đúng đó, và cố gắng tiếp tục tu như vậy. Thì con thấy, cái phần tâm giữ thanh thản còn cái phần thân mà đi kinh hành thì cái con người lần lượt con thấy không có bệnh đau. Nhất là sau khi mà ổn định được cái hơi thở, nó thở đều đặn, đều đặn lúc nào nó cũng quân bình cái hơi thở thì nó hết bệnh đau, bệnh gì cũng hết.

Còn mình cứ bệnh đó mình nằm lì đó mình cứ thở, mình cứ rầu rĩ, cái tinh thần thì xuống dốc cứ lo, lo bệnh đau. Rồi còn cái thân thì bắt nằm hoài, cho nên vì vậy nó bệnh, vừa bệnh cái này mà vừa bệnh cái kia. Còn cái thân nó cứ động dụng hoài là cái người ta ít bệnh, pahir không? Con thấy không? Rồi bắt đầu cái tâm thì nó thanh thản nó thơi thới, nó không lo cái gì hết thì hai cái này rồi thêm cái hơi thở mà ổn định nữa, thì ba cái vấn đề cho cái cuộc sống của con người thì người đó có khổ không? Người đó thanh thản lắm! Mà người ta nói, người ta nói như thế nào? Câu tục ngữ nói như thế nào “Không bệnh, không đau…​”

(30:30) Phật tử: “Ăn được ngủ được là Tiên. Không ăn không ngủ được như tiền mất đi”

Trưởng lão: Cái câu nói đó nó như vậy, rõ ràng mình ăn ngủ không được tức là bệnh với đau chứ gì, là tiền nó phải mất. Còn ăn được ngủ được là Tiên tức là mạnh khỏe. Mà bây giờ trong khi mình tâm thanh thản nè, thân nó an ổn nè, thì là mạnh khỏe chứ gì. Vậy làm sao mà mất tiền được, mà không phải là Tiên sao? “Ăn được ngủ được là Tiên, ăn không được ngủ không được là tiền mất đi!” Đó, cái câu tục ngữ nó nói như vậy đó, thì Thầy thấy rất hay.

Có gì con?

Phật tử: Con thưa Thầy, cái giới sát sinh, con của con có cái tật cứ đập muỗi, con con cảm thấy nó nhỏ nhặt.

Trưởng lão: Cái thân nó nhỏ như vậy chứ cái tâm nó lớn lắm đó con.

Phật tử: Nó ưa đập muỗi mà con kiến, con thấy nó giết, nó giết…​

Trưởng lão: Thôi bây giờ con tránh muỗi đi, bởi vì con giết chúng sanh thì vô minh lắm! Mình đau bệnh nếu mà có bị về sốt rét rồi đó thì chắc chắn là đây không có muỗi mà sốt rét đâu. Bố thí nó một chút máu cũng không sao, đừng có giết nó! Mình có biết bao nhiêu lít máu mà cho nó chút vầy, bố thí có chút vầy mà đâu có tiếc, đập chi. Cho nên vì vậy đó bắt đầu, bắt đầu con xả mùng xuống thì con lại quạt cho nó ra, đi đừng đập! Đó là cái thứ nhất. Trong mùng mình không có thì tối mình ngủ nó không vo ve, mình ngủ nó khó ngủ đi. Nó cứ vo ve lỗ tai mình thì mình ngủ không được, cho nên vì vậy mình đuổi nó ra đi chứ đừng giết nó. Bởi vì đời sống nó quá ngắn, con không giết nó cũng chết. Nó quá ngắn, cho nên con giết nó chết sớm nữa, tội nó! Bởi vì nó được cái khoảng thời gian quá ít.

Phật tử: Cái đường lối là con đã trên mười năm, con tu là không có dám đập muỗi. Chừng nào con vô tình con đụng nó thì thôi con không biết phải làm sao nữa. Khi ngứa quá rồi cái tay quơ.

Trưởng lão: Lật đật đập, lật đật con quơ nó, phải không? Nó ngứa nhiều, thỉnh thoảng nó ngứa chút không sao. Mình thấy nó ngứa ngứa, mình lấy cái tay từ từ nhẹ nhẹ chỉ cho nó đi đi thì tức là đừng có đập vậy. Nghe ngứa chỗ này cái đập cái bốp, chắc chắn là tan nát hết.

Phật tử: Khi con đau con cũng ráng, con thấy được, con không đập.

Trưởng lão: Tan nát nó hết, gãy chân, gãy cẳng hết, một đống! Đổ máu một đống thành ra một cái thây ma nó nằm ở trên cái thân của con, quá chừng! Thầy thấy một đống thấy ớn, nát bấy ra!

(32:34) Phật tử: Còn cái mà về phóng sanh thả chim hay thả cá rồi này kia nọ, con thấy nó cũng đều lợi ích hơn là bố thí vật chất.

Trưởng lão: Cái nhân nào thì cái quả nấy, nếu mà con thường xuyên, con có dư tiền thì ngày nào cũng là ngày mà phóng sanh tốt hết. Chứ không phải đợi ngày rằm, ngày vía gì mới phóng sanh. Mà phóng sanh thì không phải đọc chú hay là đọc kinh gì hết, chỉ có tâm thành là thấy chúng sanh bị giam cầm, bị chết chóc ở trên dao dưới thớt thì mình thả nó mà thôi. Với cái tâm mình thương xót nó đó, mình chỉ có cái tâm là biết thương chúng sanh đau khổ thôi.

Thì con bây giờ có tiền con đến đó con mua con cá, thì con cá nào mà con vô đó, đâu phải con mua hết cá mà con phóng sanh mà gọi là hết đâu. Vì nó có cái duyên với mình cho nên mình thấy con cá này tôi mua tôi phóng sanh. Mình mua con cá người ta cho vô cái bọc, về đem xuống sông thả liền. Thôi, vậy rồi thôi, nghĩa là thương được chút tình.

Phật tử: Con mua con cá mà nhỏ nhỏ, con cá mà cầm con thấy nhiều quá nhiều nên con mua con cá đó.

Trưởng lão: Bởi vì con nghĩ như thế này: “Bây giờ mình ít tiền mà mình mua những con cá nhỏ nhỏ thì mình mua được nhiều, còn để mình mua con cá bự vậy đó thì nó phải tiền nhiều mà mua được có một con”. Con thích con thả nhiều cho được phước. Không phải. Thật ra cái con cá lớn đó, con cá bự vậy, thiệt ra nó cái nghiệp quá nặng, chúng sanh không dám bỏ tiền mua nó. Bởi vì nó mắc mà mua thả có được một con, còn kia thả được nhiều cho nên vì vậy mà nó chưa đủ cái phước báo của nó, cho nên thân nó lớn nó quá khổ!

Thầy thì không nghĩ, nếu mà đầu tiên Thầy vào mà Thầy gặp một con cá lớn thì Thầy mua một con một cũng được, tại vì cái duyên mà gặp đầu tiên nó, phải không? Chứ còn đi lựa cá nhỏ mà bỏ con cá lớn thì mình đi lựa tức là mấy con cá nhỏ thì nó có phước, chứ Thầy cũng không nói sao. Nhưng mà do cũng có cái tâm phân biệt, phải không? Con thấy còn có phân biệt để mà lựa nhiều con mình thả, ở đây Thầy không có. Bây giờ Thầy có được năm ngàn, Thầy vô Thầy thấy con cá nào đầu tiên đó là con vật có nhân duyên với mình để độ nó, để cho nó thoát khỏi cảnh khổ đó, chứ còn không đi lựa.

(34:56) Phật tử: Vậy thì mình thả chim rồi người ta nói giá cao rồi mình có quyền được trả giá này kia nọ…​

Trưởng lão: Trả chứ! Mình trả chứ sao không trả, đâu có điên gì mà để mấy cái thằng bắt chim nó ăn gian, nó nghe mình phóng sanh nó lại bắt mắc mình! Thành ra mình cũng khôn chứ đâu có điên gì, thật sự thì người ta nói “trả giá”. Sự thật ra, con thấy mình dòm, mình có quyền, mình đi vào trong một cái khám, người ta cho mình được thả một người tù mà trong khám đó là cả trăm người tù lận. Thì con nhìn thấy. Trời ơi! Nó nhao nhao nó nhìn lên, nó trông cho mình chỉ nó, đặng lôi nó ra khỏi tù chứ gì. Chắc chắn là người nào ở trong tù cũng mong cho mình chỉ cho họ ra chứ gì, nhưng mà mình dòm, mình đi chọn lựa, cuối cùng mình mới dẫn ra một người. Nhưng mà mấy người kia đau khổ vô cùng, phải không? Người ta chờ đợi để được dẫn ra, họ đau khổ. Cho nên đi vào, cái thằng nào mà đứng đầu đó thì dẫn cái thằng đó ra liền thì mấy thằng kia không có trông mong đợi, đỡ đau khổ, phải không? Nó làm cho mấy người kia mong đợi quá. Thì như vậy là Thầy nói trên cái vấn đề phóng sanh, nó có cái lợi, cái lợi là cái tuổi thọ của các con với cái nhân quả đó được kéo dài, kéo dài thêm.

5- CHẤT ĐỘC TRONG THỰC PHẨM CHAY

(36:20) Còn cái vấn đề mà ăn thịt chúng sanh là các con huân cái đau khổ, mà huân đau khổ thì thân các con phải bệnh. Còn các con mà ăn rau cải, nó không huân đau khổ của các chúng sanh thì các con ít có bệnh đau ngặt nghèo. Nhưng mà bây giờ thì ăn chay nó cũng ngặt nghèo đau lắm đó con, tại sao vậy? Quất ba bột ngọt nhiều nó đau chứ không có gì, bởi vì chất hóa học độc lắm. Cho nên đường hóa học, chất hóa học, cái súp mà nó làm nước tương đó, ăn nó ngon ngon vậy chứ trong cái chất đó cũng là chất hóa học đó, nó độc lắm. Cho nên ăn chay mà nó chạy theo cái ngon nó cũng nguy hiểm lắm chứ. Không phải là ăn thịt cá mà nó bệnh đau mà ăn chay sẽ tránh ung thư, u nhọt ở trong bụng, trong gan của mình đâu. Phần nhiều là Thầy thấy các bậc Hòa thượng ăn chay đồ này kia mà ăn cho ngon miệng, thành ra sau này các vị đau đều bị ung thư ở gan hoặc là ở ruột, đủ loại. Rồi bán thân nữa, bán thân là tại vì làm biếng đi, không có chịu đi nhiều.

Cho nên Thầy ở đây nước tương mà các con đem ra ngoài đó, biết không? Quý thầy người nào chưa biết thì họ ăn, chứ Thầy thì hoàn toàn ăn với muối, không ăn nước tương. Còn khi nào mà các con rót nước tương ở trong cái mâm thì buộc lòng Thầy ăn thôi chứ không có bỏ. Còn cái chai nước tương thì hoàn toàn Thầy không rót, không xài nó là không xài nó. Vì biết trong đó biết có thuốc độc, các con hiểu không? Thầy ăn muối không, muối thôi, ăn cơm muối mà ngon, cơm với muối mà nó ngọt. Còn cái bột ngọt mà thường thường canh mà mấy con nấu vậy Thầy ít có ăn lắm. Là tại sao? Tại vì nêm canh phải bỏ bột ngọt, không có bột ngọt thì các con nấu làm sao? Cho nên nó cũng độc Thầy ít có ăn, Thầy ăn rau tươi với muối thôi, nó là cái duy nhất.

(38:17) Những cái củ mà khoai lang tây mà các con luộc hoặc là các con chiên rồi thì ăn được. Nấm, Thầy rất sợ. Nấm rơm, đông cô gì Thầy không có ăn, quá sợ! Nó ngon thật, Thầy biết ngon chứ nhưng mà Thầy biết nó độc, Thầy ít có ăn. Như nấm dai thì nó ngọt nhưng mà nó dai, nó cũng độc. Nó làm cho bao tử khó tiêu vì nó dai quá, bao tử bóp không được, nó phải bóp hoài bóp hoài nó mỏi mệt, nó nghỉ không được. Mình ngồi thiền nghe trong (bao tử) làm việc quá cực khổ. Thành ra mình thấy ai mà làm việc như vậy mình thấy cực quá mình thương, vì vậy mình cũng thương bao tử. Vì chính Thầy thương bao tử cho nên Thầy ăn có một bữa, còn các con không thương bao tử mới ăn ba bữa. Các con không biết thương bao tử, nó làm việc hoài mà cứ nhét vô cho nó làm hoài, nó bóp hoài. Trời nó khổ!

Phật tử: Nếu con ăn một ngày mà một bữa như hồi con ở đây, thì con ăn được. Còn con về trên nhà, rồi các cháu nó tẩm bổ vì thấy con ốm quá. Thì con ăn quen mà tới giờ không cho nó ăn, buổi sớm mai là con thấy mồ hôi rịn rịn nó mệt, thở thì không có nổi. Ăn vô rồi mới tỉnh táo được, nó khổ như vậy! Con cũng không hiểu phải làm sao?

Trưởng lão: Nó đâu có sao, bởi vì cho mày chết đi thì nó hết. Còn con không sợ, con sợ nó không? Vậy nếu con không dám, nó sẽ thành cái chướng cho con. Thành ra con không thắng.

Phật tử: Ban tối mà nó không làm sữa cho con uống…​, sau con ăn chất lỏng gì vô, con cũng mệt nữa.

Trưởng lão: Đó thì bây giờ nó đã thành cái bệnh rồi, cái bệnh ăn bệnh uống rồi làm sao mà cứu được! Thầy nói nó khó lắm. Bởi vậy coi vậy chứ nó khó thảnh thơi lắm. Khỏi mất công ai hết. Thầy ăn ngày một bữa thôi. Thấy như Thầy ăn ngày một bữa nó cũng khỏi mất công, chiều không làm sữa, không làm bột, không làm thức ăn thức uống, bao tử nó nằm im re nó ngủ.

Phật tử: Nó khỏe như bình thường ạ?

Trưởng lão: Nó khỏe, bởi cái tuổi thọ có thể kéo dài. Chẳng hạn bây giờ con sống bảy mươi tuổi, Thầy phải sống một trăm bốn chục tuổi bởi vì cái bao tử Thầy làm việc ít hơn con quá nhiều. Mà cái phần bao tử làm việc con biết không, con phải làm gấp hai, gấp ba lần thì nó mau mòn. Nó mòn thì nó phải mau chết chứ sao, nó mau hư. Còn Thầy ngày có làm việc có lần, rồi nó nghỉ khỏe re thì Thầy mới sống tới một trăm ba mốt, ba mươi.

Cái thân của Thầy nó đòi hỏi có chút dinh dưỡng. Còn con bị như vậy đó, thành ra nó dư đủ thử ở trong đó chứ nó đâu có thiếu. Ăn bữa là nó đủ hết trong đó rồi. Còn con bây giờ nó ăn nó thừa, nó thừa nó phải bài tiết. Cũng như bây giờ con bổ rồi mà con ăn, cái thân của con mập rồi con uống thuốc bổ là thừa cân. Cho nên nó là thừa, mà con ăn ba bữa là kể như thừa rồi. Thừa thì nó phải bài tiết nó bỏ chứ nó làm sao. Tại vì mình quen ăn thôi chứ đâu phải là cái gì, rồi mới bắt đầu đó.

Con thấy Thầy có ốm không? Bình thường chứ đâu có ốm, phải không? Nếu mà Thầy bây giờ ăn cho nó nhiều hơn, nó mập lên tức là thừa. Thừa thì để làm gì? Mà hại bao tử mình, nó làm việc nó mệt nhọc, cái máy của mình nó làm nhiều nó lại còn mau mòn nữa. Cho nên cuối cùng thì Thầy khỏe mà con cứ bồi dưỡng bồi dưỡng. Mà bây giờ con bồi dưỡng con có mập hơn đâu, nó đâu có mập chút nào đâu? Nó gầy chút rồi mai mốt nó lấy lại quân bình của nó bình thường.

Ngay bây giờ thôi như má cô Trang, con thấy sao? Thấy không, cũng bình thường thôi chứ đâu có gì đâu. Mà giờ hôm đó còn ốm còn đau bệnh, nay Thầy thấy con khá. Còn tụi nó này, nó ăn cũng bữa. Hôm đó, Trang nó mới lên, nó ốm nhom ốm nhách chứ, bữa nay nó có bữa mà nó cũng thấy nó bình thường. Thúy hôm đó nó còn ốm hơn nữa, bữa nay đứa nào nó cũng bình thường hết.

Phật tử: Nó ăn một bữa mà nó ăn nhiều lắm Thầy. Còn con thì một buổi ăn con ăn nhiều không được. con đổ hết, thành ra con…​

Trưởng lão: Không biết tụi nó ăn bao nhiêu chứ Thầy thấy Thầy, nghĩa là ăn chừng khoảng độ chừng một cái chén cơm vậy, thì một cái chén cơm với đồ ăn tụi nó làm mà Thầy ăn gần không hết ấy, chứ đâu do ăn cơm nhiều đâu.

(42:02) Phật tử: Giờ con ăn khoảng hai chén, trước con ăn bốn chén, nhưng giờ con tự nhiên hôm nay ăn hai chén giống như con tự quên.

Trưởng lão: Lần lần, lần lần mới đầu thì nó còn đói thì ăn nó nhiều. Sau đó nó lần lần, lần lần ăn ít trở lại, người nào cũng vậy.

Phật tử: Ăn nhiều nó mệt mỏi!

Trưởng lão: Ăn vừa bao tử chứ còn ăn mà ăn căng bao tử, cái đó là ăn thành bệnh đau khổ đó. Trong thời đức Phật, vấn đề mà dạy về cái ăn này đức Phật cũng có nói kĩ trong những bài kinh. Mới đầu thì quý thầy ăn mới vô xin tu ăn ngày bữa thì quý thầy sợ đói cho nên ăn rất nhiều, đức Phật rầy liền: “Ăn vừa cũng như mình ăn ngày ba bữa, nếu cái bữa ăn của mình ba bữa thì mình ăn cho nó vừa, nó sẽ không bệnh tật. Rồi tuần tự nó sẽ quen”. Mới đầu nó sụt cân xuống, vì mình ăn ba bữa thì cơ thể mình nó mập vậy. Bây giờ mình ăn bữa nó sụt xuống, nó sụt xuống liền. Trong cái thời gian một tháng, hai tháng nó sụt xuống. Bắt đầu từ tháng thứ ba bắt đầu nó tăng dần lên, cái cơ thể nó quân bình trở lại. Nó không có thừa thãi, nó bỏ cái chất bổ đâu mà nó sử dụng hết toàn bộ trong một bữa ăn của mình.

Còn bây giờ mình ăn bữa đó, mình ráng ăn cho nhiều thì cái bao tử mình nó bị căng nên nó đau bao tử. Cho nên trong thời đức Phật cấm không cho ăn nhiều. Thà là mình chịu đói mình khỏe hơn bởi vì lúc mà mới đầu mình vô ăn bữa, nó làm cho mình mệt, khó chịu đủ cách hết, xót ruột, đủ loại ở trong đó hết. Nhưng mà ráng chịu đựng thời gian sau đó nó quân bình trở lại. Bắt đầu nó sụt cân nó ốm thì bắt đầu mình lo rồi, hễ cái người nào mà thấy mình sụt cân là lo rồi. Nhưng mà đức Phật “Đừng lo, cứ việc ăn ngày một bữa đi!”

6- TU TẬP GIAI ĐOẠN ĐẠO ĐỨC GIẢI THOÁT TRONG GIA ĐÌNH, SỐNG TRONG THIỆN PHÁP, THẤY NHÂN QUẢ THIỆN ÁC, GIỮ TÂM THANH THẢN

(44:01) Phật tử: Con nghe Thầy về, con đi về. Tới nay, trong tâm con rất hổ thẹn là con không giữ được cái lời hứa mà con về trị bệnh chừng một tuần nửa tháng con mới đi. Nhưng mà hoàn cảnh ràng buộc, bệnh tình của con cũng không quá nặng, tình cảm con cũng không quá nặng về gia đình nữa. Sau khi chuyện chẳng thành, nó bỏ dòng tộc. Hôm nay con cũng xin thưa với Thầy, thầy cho con biết được cái duyên nghiệp con như thế nào, coi con có thể còn sống sót con trở lên đây con tu hành, để con vô con hoàn thành của con. Bởi vì, con Nga thì nó quá dở đi, cái chuyện thằng em mà không có con lo về vấn đề giấy tờ …​.

Trưởng lão: Không sao đâu con, cái điều đó là cái điều cái duyên, nghiệp của mình phải trả cho nó hết chứ dứt đi đâu được. Cho nên nó chưa có dứt được là cái duyên của mình chưa trọn mà có thể ly gia cắt ái đi được. Nhưng đạo Phật, nó đâu có phải mà dạy cho người ly gia cắt ái không. Dạy luôn cả những người cư sĩ đang sống ở trong gia đình mà tu được giải thoát chứ đâu phải không giải thoát. Tại vì ở trong gia đình mình không biết cách tu thôi chứ mình biết cách tu thì tâm hồn của mình cũng được giải thoát.

Nhưng mà nói về thiền định thì không thể nào tu được. Bởi vì thiền định là cái giai đoạn cao hơn. Cái giai đoạn mà đạo đức giải thoát, cái giai đoạn mà giới luật đức hạnh của con người. Thì cái giai đoạn đầu, cái giai đoạn đó thì hàng cư sĩ đều tu được hết. Nhưng mà đến thiền định thì hàng cư sĩ tu không có tu được là vì không thể nào mà một ngày mà làm thinh được. Có chuyện này chuyện kia cũng phải nói, rồi tâm cũng phải lo lắng chuyện này chuyện kia. Cho nên vì vậy mà tu thiền định mà ở trong gia đình thì không thể tu được. Mà phải đi vào trong cái Tu viện hoặc là trong một cái ngôi chùa. Nó cái thuận lợi, bởi vì nơi đó nó thanh tịnh hoặc là cái môi trường nó phải tạo cho mình sống độc cư.

Như Thầy đã nói nếu đi tu thiền định, mà cái bí quyết thành công được thiền định là sống độc cư. Đã nói là bí quyết thì nó phải có cái gì quan trọng lắm. Mà mình sống ở trong gia đình làm sao mình tu thiền định được. Cho nên hoàn toàn là những người tu thiền định mà sống mà gần gũi gia đình tới lui hoặc này kia mà nói chuyện mãi mãi đó. Hầu như người ta tu chơi chứ thật sự ra thì không có thiền định gì cả. Cho nên họ mới đẻ ra cái Thiền Đông Độ đó. Là họ chỉ giữ chẳng Niệm thiện Niệm ác, rồi họ tiếp duyên xúc cảnh nhưng không thấy ông nào nhập định được hết.

(47:08) Đó là cái con đường mà tu trong đó để an ủi cho cái người tham tu thiền chứ còn tu không nỗi. Hầu hết thì con thấy như về cái pháp Yoga các đạo sĩ bên Ấn Độ, người ta muốn luyện tập mà phương pháp thiền định Yoga. Người ta cũng phải vào trong Hy Mã Lạp Sơn, trong núi rừng hoang vắng thì người ta mới tập thiề được. Còn huống hồ mà cái con đường thiền của đạo Phật, nó lại còn thiền hết sức chứ không phải là chuyện dễ. Thầy nói khi mà luyện cái lực của thiền định, nó đến nỗi mà chúng ta phải dùng cả thân tâm của chúng ta, tập luyện hết mức chứ không phải là tập luyện thường. Còn con mà bệnh như vậy mà cỡ Thầy dạy con hít một cái thì chắc là con đi luôn. Cho nên đâu có nói thiền định thì con không tu được.

Nhưng mà về cái giữ gìn cái tâm thanh thản của mình, giữ gìn cái tâm an ổn của mình, có thể con tu được. Con lo lắng cho mọi sự việc trong gia đình con, miễn là con có những cái ý mà con góp ý với mấy cháu. Để mà nó giữ vững cái gia đình của mình yên ổn thì nó cũng là thiện pháp rồi. Thí dụ như nó làm cái gì mà bất thiện, con khuyên nó thì đó là con đã lôi nó trở về thiện pháp rồi. Cái trách nhiệm bổn phận của con là như vậy. Chứ đâu có bỏ tụi nó được, bỏ tụi nó rồi nó làm cái chuyện ác mà nó không biết, lầm lạc thì nó tạo ra những cái nghiệp khổ cho nó sau này nữa.

Cho nên khi đó, ở trong nhà mà tu tại gia đình thì con phải tu các pháp thiện. Luôn luôn mình phải giữ cái tâm thanh thản, rồi mình phải hướng tâm đến thanh thản. Mình phải giữ tâm của mình cho nó luôn luôn lúc nào nó cũng an ổn. Có chuyện gì thì mình suy tư quán xét mình xả, bởi vì biết Phật pháp rồi thì có chuyện gì mà quan trọng đâu. Nó đâu có chuyện gì quan trọng nữa.

(49:03) Cho nên ở đây hầu hết mà chúng về đây tu tập thì Thầy thường dạy nhìn cuộc sống đó bằng đôi mắt thiện ác, chứ không nhìn nó bằng sự đúng sai phải trái. Các con thì hay nhìn cái sự đúng sai phải trái, lấy cái tiêu chuẩn nào mà biết rằng đúng, mà lấy cái tiêu chuẩn nào mà sai. Đúng, sao mình lại giận? Đúng, sao lại mình lại khổ? Nếu đúng thì mình phải có sự an vui chứ, sao mà đúng lại giận quá vậy? Thì con thấy cái đúng đó nó đâu có lấy tiêu chuẩn nào mà làm cho chúng ta được hạnh phúc đâu mà gọi là đúng.

Cho nên trong cái bước đường tu tập thì các con nên nhìn rõ bằng cái sự nhân quả, tức là thiện ác thì tâm hồn nó được giải thoát chứ không có gì oán ghét. Mà hằng ngày mình cứ biết sửa từng chút từng chút những cái lỗi lầm, những cái nhìn sai của mình từ lâu nó quen đi, mình cứ thấy cái đó là đúng. Cho nên hai người, người nào cũng nhận là mình đúng, có ai nhận mình sai đâu. Cho nên cuối cùng thì sanh ra giận hờn, phiền não, đau khổ.

Sự thật ra thì nhìn nó thiện pháp thì mới đúng, chứ đừng có nhìn nó đúng sai. Đó thì nghe lời Thầy dạy thì các con cứ tập nhìn cho nó đúng, mà nhìn đúng như vậy, Phật dạy gọi là Chánh Kiến. Mình thấy đúng không sai, còn nếu mà mình thấy đúng sai theo cái tâm của thế gian thì nó làm sao nó có cái tiêu chuẩn đúng được. Cho nên nó làm cho mình khổ và người khác khổ, do đó nó không phải là Chánh Kiến nữa mà nó là tà kiến. Vì vậy cho nên trên cái đường mà tu tập thì con cũng tự sống ở nhà cũng tu tập được. Mỗi cái tâm Niệm nó làm cho mình lo lắng phiền não gì đó, phải xả nó ra liền, phải suy nghĩ những cái này nó đem đến cho mình khổ, mình để trong lòng của mình làm gì, cho nên vì vậy mà con xả. Ngay cả cái thân bệnh của con, con thấy bệnh đau, con cũng xả nó. Đã mang thân là mang thân nghiệp thì nó bệnh là hẳn nhiên rồi. Bởi vì có thân này phải có bệnh, có người nào mà có thân không bệnh đâu. Ai cũng bệnh hết thì mình bệnh, có gì mà phải buồn. Cũng như mọi người chớ!

Phật tử: Con cũng không có nghĩ gì tới vấn đề bệnh hay là nhiều khi con thấy nó khổ tâm. Đôi khi nó mệt lắm, con muốn chết được chết cho nó rồi cho nó khỏe.

(51:12) Trưởng lão: Con đừng có chết! Con không có sợ chết. Nhưng mà con thấy chết thì trong khi mấy cháu nó còn nhỏ nó chưa có đủ sức, đừng chết! Nhưng mà mình không sợ chết, mình đừng có nói cho nó chết. Tức là mình nói mình biết mình đó đó, mình nói: “Nó chết đâu nó chết”. Tức là coi như mình không sợ đó.

Phật tử: Không sợ, nhưng mà con thấy chán và khổ.

Trưởng lão: Chán đó, có cái chán trong đó không được. Mặc dù là bây giờ một lát nữa nó chết nhưng mình vẫn thấy không sợ chết mà không chán: “Mày chết tới chừng đó mày chết, mà không chết thì thôi”. Chứ không có phải chết đâu, chết đại để đau quá. Cái đó có chán ở trong đó.

Phật tử: Con cũng có một cái ý nghĩ con thưa Thầy. Có một thời gian nào con cũng lo thân được cho tụi nó tạm yên, đặng con có thể con trở vào đây nữa xin Thầy, con có thể trở về được không?

Trưởng lão: Thì cứ, Thầy nói bây giờ con tám mươi tuổi mà con còn trở về đây được Thầy cũng cho tu tập nữa. Bởi vì tất cả những con người mà ở trong thế gian này, mà đã quy hướng được về Phật pháp dù một ngày vào đây. Thì thật sự ra phải là một ngày mà gần bên Thầy là một ngày phải nỗ lực tu cái tâm này nó được thanh thản, nó được giải thoát. Mặc dù là rất khó khăn nhưng mà mỗi lần có một cái điều gì mà nó làm cho tâm mình chướng ngại. Là mỗi lần đó mình tiến lên để mình vượt qua cái tâm chướng ngại đó mà xả nó xuống. Thì ở đây là cái môi trường để mà chúng ta vượt qua từng cái tâm của chúng ta, từng cái chướng ngại đó để chúng ta trở về với một cái tâm hồn giải thoát thực sự, đó là cái cách thức như vậy. Bây giờ tới chừng mà thí dụ như, Nga nó lập gia đình đi thì không lẽ con theo nó con nuôi nó hoài hay sao? Có chồng con thì phải chồng con phải nuôi chứ, ở đó sao mà bắt mẹ nuôi nữa.

7- DUYÊN ĐỘC THÂN, HƯỚNG VỀ CON ĐƯỜNG TU

(53:13) Phật tử: Vì nó không có gia đình nếu nó có gia đình rồi con cũng đỡ khổ nữa Thầy ạ. Nó không có gia đình.

Trưởng lão: Nó chưa, mai mốt nó chưa gặp, chứ ít bữa nó gặp rồi nó phải lập gia đình chứ. Chứ bây giờ không lẽ nó ở mình nó vậy sao? Nó cũng nghĩ rằng bây giờ, còn con thì nó không lập. Chứ chừng mà con chết rồi thì nó cũng phải lập thôi, chứ không lập rồi ai nuôi nó, không lẽ anh em nó nuôi nó được sao, phải không? Bây giờ anh em nó nuôi nó nhưng mà chị dâu, em dâu nó làm sao nuôi nó được, phải không? Đâu có thể nào, khó lắm chứ đâu phải dễ. Cho nên vì vậy nó cũng phải lập gia đình, rồi gia đình nó thì nó phải có con, rồi con nó mới nuôi nó chứ còn ai nuôi nó nữa. Còn con thì bây giờ con chết rồi, làm sao phải không? Điều đó là hẳn nhiên thôi. Nhưng mà tại cái nhân duyên nó chưa có gặp, chứ còn nó gặp rồi thì nó phải có lập gia đình thôi. Như bao nhiêu người, tại cái duyên nó chưa đủ, phải không? Cho nên nó chưa có gặp thôi, chứ còn nó đâu phải không gặp.

Phật tử: Thưa Thầy, cháu nó cũng có cái ý nó muốn ở vậy. Cho nên Thầy, con thấy như nó cuối cùng rồi nó cũng nghĩ tới con đường đạo là nó thấy hạnh phúc rồi. Mà không biết cháu nó có được như vậy không? Nếu mà cháu nó được như vậy thì con cũng rất mừng.

Trưởng lão: Thì từ hồi nào tới bây giờ đó, nó lớn tuổi vậy mà chưa lập gia đình đó thì nó cũng là cái duyên độc thân rồi chứ gì. Cái duyên độc thân, nhưng bây giờ muốn độc thân mà mình sống cho tới già, tới chết mà mình không sợ, không lo phải người này nuôi người kia nuôi, thì tức là nó phải hướng về con đường tu. Chứ bây giờ sao? Chứ không lẽ bây giờ vậy tới chừng đau rồi ai nuôi nó, phải không? Nó phải có tiền nhiều chứ tiền ít chưa chắc gì cháu nó nuôi nó đâu. Vô bệnh viện không bỏ tiền ra chưa chắc họ đẩy cho mình cái cục cơm đến ăn đâu, nó phải có tiền chứ.

Bây giờ con cháu cũng vậy, nó cũng phải có tiền nó mới nuôi chứ đâu phải. Con cháu nó có thương mình đó, thương một bữa, hai bữa thôi. Mình không tiền nó thương bữa, hai bữa mà nó vô nó chăm sóc mình đau cỡ chừng nằm đó chừng một năm thử coi. Thấy khổ không? Nó không bao giờ thăm. Nhưng mà cha mẹ mà sinh nó ra thì nó phải ráng nó chịu bởi vì cha mẹ sanh nó mà nó phải chịu thôi. Chứ còn mình có sanh nó đâu, mình cô bác hay là dì nó, chắc chắn là nó phải bỏ thôi, nó không thể nào mà nó nuôi kỹ lưỡng được, phải không?

Cho nên vì vậy nếu mà nó sống độc thân thì nó phải hướng con đường tu, bởi vì chỉ còn con đường tu nó mới có cái sự giải thoát cho nó thôi, chứ chính nó, nó phải cứu nó rồi, phải không? Nó cũng phải giải quyết điều đó thôi. Mà hiện bây giờ, cái Tu viện này hầu hết là mọi người đều độc thân. Đâu có ai mà có chồng, có vợ vô đây mà tu đâu, phải không? Vô đây đâu có ai đem chồng, đem vợ, đem con theo được. Chỉ độc thân một mình thôi, bao nhiêu bỏ lại hết chứ, còn đi theo đâu có được. Bởi như vậy là độc thân mới ở đây chứ còn người nào mà không độc thân thì không ở đây được. Đó thì hôm nay Thầy nói như vậy thì con đừng có lo. Cái duyên nó tới rồi con bảo nó đừng tu nó cũng trốn đi tu, phải không? Đừng có lo, Thầy nói mọi người đều có cái nhân duyên đó sẵn mà tiền kiếp, cái kiếp trước nó đã gieo bây giờ nó chờ. Tại sao mà mọi người mới có mười lăm, mười sáu tuổi có chồng, còn nó bây giờ bao nhiêu tuổi rồi?

Phật tử: Dạ năm nay nó ba mươi bảy tuổi rồi.

(56:17) Trưởng lão: À, nó như vậy mà nó chưa có chồng là nó có phước hơn người ta đó chứ. Thầy nói có phước là phải. Bởi vì bây giờ nếu mà hồi đó nó chừng khoảng mười bảy mười tám tuổi có chồng, bây giờ nó mấy đứa con. Nếu mà không kế hoạch bây giờ nó cả bầy, nó chạy cứ như một tiểu đội, phải khổ không? Chưa chắc bây giờ mình nó, nó lo chưa xong mà giờ nó nuôi thêm một tiểu đội nữa thì chắc là nó phải chết luôn chứ đâu có chuyện.

Phật tử: Nó thì nó không được tỉ mỉ, tánh nó thì tánh nam tính nhiều nhưng mà nó cũng có cái tâm đạo, con cũng hướng về đạo…​

Trưởng lão: Nam tính nhiều thì điều đó là điều tốt bởi vì nam tính mới là dời non lấp biển chứ. Còn nữ tính thì làm cái chuyện nội trợ chứ đâu có làm cái chuyện lớn được, phải không? Vậy thì càng tốt không sao. Nam tính nhiều vô đây, tính tình nó như con trai thì tức là tu hành nó phải là nỗ lực kinh khủng mới được. Bởi vì Thầy nói con trai nó nỗ lực nó tu, nó tu dữ tợn lắm chứ không phải thường đâu. Còn con gái coi vậy chứ nó tu đến cái mức nào đó chứ nó tu không có nỗi đâu.

Nhưng mà nó cũng không phải là nó tu không nổi đâu, nó tu đi từ từ, con gái cái sức của nó nó đi chậm chậm, nó tiến dần lên. Còn con trai nó ồ ạt nghĩa là đá cục lớn lớn vậy, nó vác đi nó lấp biển. Còn con gái thì nó rinh từng cục nhỏ nhỏ như vậy, hễ đứa nào nó bền chí thì nó lấp cũng được hết. Còn con trai thì nó xốc vác nó làm dữ tợn, nam tính thì nó vậy. Hễ không làm thôi, làm thì ồ ạt. Nhưng mà con gái thì nó tỉ mỉ, kỹ lưỡng hơn, nó tập dần dần đi lên từng chút từng chút. Thì đó là cái bản chất của mọi người, nhưng mà cái sự thành công thì đứa nào nó cũng thành công hết, thành tựu hết. Cho nên con đừng lo xa nó nữa, theo Thầy thấy con đừng lo mà chính con bây giờ đang lo cho con đó. Tại sao? Tuổi con nó gần quá rồi, nó gần xuống dưới lòng đất. Chứ còn nó, nó còn dài, không sao đâu!

8- SỐNG HIỆN TẠI TRONG THIỆN PHÁP, ĐỂ CHUYỂN HÓA ÁC PHÁP QUÁ KHỨ - GIỮ TÂM THANH THẢN

(58:26) Đói no thì chắc có lẽ là nhân duyên. Nhân quả nó sắp xếp cho chúng ta sẵn ở trong cái đời trước chúng ta đã gieo cái nhân nào thì cái quả của đời nay nó như vậy rồi. Bây giờ có muốn cãi nó cũng không có cãi được bao nhiêu đâu, muốn chuyển đổi nó thì không chuyển đổi được bao nhiêu đâu. Cho nên an phận mà thực hiện những cái gì trong hiện tại bằng những thiện pháp, bằng những tấm lòng tốt trong hiện tại. Thì chuyển hóa tất cả những nghiệp xấu ở đời trước của chúng ta mà hôm nay chúng ta mang cái thân này. Như vậy nó sẽ có sự an bài cho tương lai chúng ta tốt đẹp.

Nghĩa là trong hiện tại chúng ta không nghĩ gì tương lai chúng ta tốt hay xấu. Nhưng mà trong hiện tại chúng ta hoàn toàn làm những điều tốt, suy nghĩ những điều tốt. Đừng làm cho ai khổ, đừng làm cho ai buồn thì tương lai chúng ta sẽ tốt. Còn quá khứ, chúng ta hiện làm điều gì, bây giờ thân chúng ta khổ đau bệnh tật hay này kia, mặc (kệ)! Chúng ta vui vẻ để trả những cái nghiệp này. Nhưng hiện tại chúng ta làm tốt thì chúng ta cũng sẽ chuyển được cái thân nghiệp đau khổ này. Nó cũng sẽ giảm bớt xuống hoặc nó sẽ hết luôn, nó không có nữa, nó chuyển sạch luôn nữa đó. Đó là hiện tại sống ở trong hiện tại.

Cho nên con đừng có lo gì hết, đừng có nghĩ gì hết. Bây giờ hãy nghe Thầy nói, về cố gắng mà giữ tâm thanh thản. Khi nào mà có những duyên sự thì tư duy, suy nghĩ. Cái suy nghĩ như thế nào để cho cái tâm nó trở về thanh thản, nó đừng có lo lắng, đừng có sợ hãi, đừng có phiền não buồn giận ở trong lòng của mình. Để mau mau nó trở về với cái trạng thái thanh thản. Bình thường nó thanh thản thì con nhắc cái tâm thanh thản, đừng để cho nó có những chuyện gì nó xảy ra làm cho con không có được an ổn. Con cứ tu như vậy thì cái tâm con sẽ được an ổn. Rồi luôn luôn lúc nào cũng nhìn cái cuộc sống, chuyện này chuyện kia mà có xảy ra.

Chẳng hạn, bây giờ con làm ăn gặp thất bại, đây là nhân quả thiện ác, lo gì. Mặc dù là hiện giờ mình không có nhưng mà thấy trước cái người mà khổ, vẫn cầm nửa bát cơm của mình trong khi mình còn có một bát cơm. Mình chia cho họ nửa bát cơm họ sống thì cuộc sống con không đói đâu, biết san sẻ thì không đói đâu. Bởi vì mỗi một con người đều có cái thiện ở trong mỗi con người, nhưng mỗi con người đều có cái ác ở trong con người. Cho nên mình chia sẻ những cái tâm tốt của mình tới với mọi người thì cái phước tức là cái thiện của họ nó vẫn huân tập lại một cái khối lượng lớn, cho nên cuộc đời chúng ta không thể nào mà đói.

(1:01:09) Đó thì cho nên con cứ yên tâm mà nỗ lực thực hiện những lời Thầy dạy, đơn giản không có gì hết. Bình thường ngồi thì nhắc tâm mình thanh thản, có chuyện gì tâm không được yên thì tìm mọi cách xả cái tâm đó ra để cho nó yên ổn. Giải quyết mọi cách để cho cái tâm nó yên ổn thì đó là trở về với tâm thanh thản. Phải cố gắng giữ cái tâm đó, bệnh đau đớn sắp sửa chết cũng giữ cái tâm thanh thản, không sợ. Chết thì ai cũng chết hết nhưng đừng có nói như con hồi nãy: “Chết ở đâu chết cho rồi, đỡ khổ”, có chán ở trong đó thì không được, không có chán gì hết. Thật ra thì hoàn toàn phải chuyển cái lực của nhân quả. Đó nghe lời Thầy như vậy thì con đã tu đúng. Mà đến một ngày nào đó, mà con thấy duyên nó sắp đủ rồi, mấy cháu này đứa nào nó cũng có lông cánh đầy đủ. Nó có làm ăn đâu nó cũng sống, mà con chỉ (thấy) thừa đó, kêu mình sống thừa, đối với tụi nó bây giờ chỉ có cháu nó thôi đó thì coi như thừa rồi. Thì bắt đầu mới xin Thầy về, thầy cũng cho nữa chứ Thầy không nói: “Già quá tu hành gì”.

9- TÂM KHÔNG CÒN DỤC VÀ ÁC PHÁP, LUÔN THANH THẢN, KHÔNG CÓ NIỆM THÌ CHẤM DỨT TÁI SANH LUÂN HỒI - BỀN CHÍ ĐUỔI NIỆM

(1:02:06) Phật tử: Con cũng hy vọng một ngày nào con sẽ trở về đây…​

Trưởng lão: Một ngày nào đó thì trở về đây, không phải mình trở về để mình an nghỉ cái thân dưỡng lão của mình đâu. Mà mình trở về đây một ngày để nghe Thầy dạy pháp tu cái tâm của mình để xả ly, để cho mình được giải thoát cái tâm của mình, đạt được cái Hữu Dư Niết Bàn ở trong cái cuộc sống hiện tại. Còn thiền định mình có tu được được, không được không lo. Bởi vì cái sức của mình già rồi thì mình chỉ cần làm sao cái tâm của mình giải thoát thôi. Nó cũng đoạn dứt mình không còn tái sanh luân hồi nữa.

Bởi vì cái tâm là cái nhân, mà cái nhân nó không còn ham muốn, nó không còn ác ở trong đó nữa thì tức là nó đoạn dứt cái sự tái sanh luân hồi. Còn cái tâm mà nó còn ham muốn, nó còn những cái Niệm ác, nó còn Niệm thiện, thì nó tiếp tục nó đi tái sanh luân hồi đó. Mình phải cố gắng mà tu tập như vậy đó thì nó mới giải thoát.

Phật tử: Đôi khi thì cũng có cái niệm, cái Niệm ác nào mà không được vừa lòng mình, có cái ý hờn giận. Cái Niệm đó, khi nó có mà mình cũng chưa có xả, chưa có thực hành rồi nó có gieo nhân không?

Trưởng lão: Đó là cái nhân để tái sanh luân hồi đó. Mặc dù là mình chưa có biến ra thực hành cái Niệm đó bằng cái hành động, bằng cái lời nói của mình nhưng nó là cái nhân tiếp tục đi. Vì vậy cho nên ở đây người ta lo là lo ở chỗ cái tâm, luôn luôn thanh thản, nó không có cái Niệm gì trong đó hết thì nó chấm dứt tái sanh luân hồi. Còn nó có Niệm là nó có một cái nhân để cho nó đi tái sanh luân hồi. Nó khó như vậy…​

Phật tử: Dạ thưa Thầy, muốn đuổi mấy cái Niệm đó nó cứ lảng vảng hoài, phải chi nó quên mà quên không được đó thì nó cứ trở tới.

Trưởng lão: Nó trở tới trở lui, bởi vì đạo Phật nói mình bền chí. Bây giờ mình đuổi nó chạy ra khúc cái nó chạy vô nữa, phải đuổi nữa. Một lần chưa đi, hai lần nó chưa đi, ba lần tới trăm lần nó phải đi. Cho nó ngàn lần nó cũng phải đi hết, bền chí mà đuổi. Cũng như cô Út kìa, bền chí mà đuổi thì nó phải đi thôi. Không bền chí chắc là nói hơi sơ sơ để đó thì chắc nó không đi. Rồi nó có xảy ra chuyện này chuyện kia, nó làm cho mình khổ sở nữa, cho nên bắt đầu tu hành là bền chí lắm. Bây giờ cái Niệm sân của mình nó phiền não trong lòng, mình suy nghĩ cái nghe nó nhẹ xuống mà nó chưa chịu đi đâu, nó lát nữa nó trở lại. Trở lại mình suy nghĩ nữa, cái nó chạy ra khúc, chạy ra khúc đường chứ nó không có chạy xa, rồi nó trở lại nữa. Cứ bền chí, chừng nào mày đi cho xa, mà diệt mày cho mất thì tao mới yên thôi.

Chừng nào mà cái tâm thanh thản thật sự nó không còn chạy tới lui nữa thì chừng đó mình mới yên. Tức là mình đuổi giặc chạy hết rồi, chứ còn không nó chạy ra đó nó núp hầm núp hố đâu đó, một hơi nó nhào vô nó đánh con nữa. Cho nên bền chí, bởi vì đạo Phật luyện cho mình cái bền chí mà đuổi giặc. Đuổi cho chạy thật xa còn không thì diệt cho sạch, cho hết. Thì nó mới nó yên được cái tâm của con, chứ còn con mà diệt không hết mà con: “Thấy sao mà đuổi hoài nó cứ tới lui tới lui hoài”. Đừng có chán nó mà hãy bền chí đi, đuổi hoài, đuổi chừng nào cho được thôi.

Thì lúc bấy giờ con mới thấy cái tâm con thật sự chỉ một lần mà con bền chí con đuổi như vậy. Lần sau có cái gì đó con cũng bền chí, chừng ba bốn lần con đuổi nó, nó đi. Rồi cuối cùng, con tu tập như vậy nó vừa đến thì con lại đuổi đi là nó đi liền. Mới đầu thôi, không biết là trăm ngàn lần nào nó cứ tới lui hoài, đuổi hoài mà nó không ra. Nhưng mà cuối cùng thì nó bỏ, đánh đuổi nó được một lần sau đó rồi con đuổi nó mau hơn. Thầy nói như vậy thì bền chí mà đuổi giặc, giặc ở trong tâm mình chứ không đâu hết.

10- LÀM ĂN THẤT BẠI, THẤY NHÂN QUẢ, TIẾN TỚI LÀM ĐIỀU THIỆN, TRONG CẢNH NGHÈO BỐ THÍ CÚNG DƯỜNG PHƯỚC RẤT LỚN

(1:05:30) Phật tử: Thưa Thầy, nhưng mà cái chuyện kiểu như con thấy cái chuyện làm ăn nó sắp thất bại, rồi con muốn tính cái chuyện sắp tới. Rồi cái chuyện sắp tới nó không biết sẽ ra sao mà con cứ lảng vảng lảng vảng vậy hoài. Nhiều khi con mất ăn mất ngủ tại vì có lỡ có việc gì đi mấy đứa nhỏ nó đói khổ…​

Trưởng lão: Tại con không suy nghĩ đúng. Bởi vì con cứ suy nghĩ cái chuyện làm ăn mà con không suy nghĩ cái chuyện phước thiện của con. Bây giờ đó con suy nghĩ này, từ lâu tới giờ đó, con làm những cái điều lành điều tốt. Bây giờ gặp cái thất bại này con mới suy nghĩ phải chuyển qua làm ăn cái này, chắc chắn làm ăn cái này phải thành công. Tại sao? Tại vì luôn luôn cuộc đời mình sống trong hiện tại mình đã làm điều tốt, mà bây giờ gặp thất bại này là cái hoàn cảnh này không có làm cái này được, cho nên nó gặp thất bại rồi. Đầu óc mà con khởi nghĩ ra thì do một cái tâm thiện con từ lâu con đã làm. Cái đầu óc mà nghĩ thiện thì nó phải nghĩ ra cái chuyện làm ăn tốt, tiếp tục cho cái cái đời sống con phải tốt, cho nên con gặp cái sự làm ăn tốt. Chứ con đừng có nghĩ nó thất bại. Bởi vì con sống ở trong cái đầu óc bằng cái đầu óc nhân quả rồi. Con làm đây là do nhân quả thúc đẩy trong cái đầu con suy nghĩ ra.

Thay vì bây giờ con đang làm, con đang bán tiệm buôn bán ăn uống đi. Rồi bắt đầu bây giờ con thấy nó ế ẩm quá, không có thể đủ sống được, rồi con mới nằm con suy nghĩ. Bỗng dưng con nhớ: “Bây giờ mình phải đi ra bán vải mới được”. Hoặc là con nghĩ là trong cái lúc này, người ta bán những cái vật gì mà thấy nó nảy trong đầu óc con. Hoặc là có người nào đó họ nhắc con: “Bây giờ mình phải bán đồ mà người ta may nệm xe hay may những cái đồ mà (tút) sách, bóp này kia nọ”, con mua đồ đó về con thử con bán. Thì trong lúc đó con nghĩ: “À như vậy không biết là mình bán vậy được không?”. Mình nghĩ rằng mình làm người thiện, nói chắc, buôn chắc không có nói láo ở trong đó mà sợ. Khi đó con dẹp cái tiệm này thì đổ vốn qua bên đây. Con mua đồ, con về con làm thì con đường mà nhân quả nó dẫn dắt cho con đi làm ở chỗ này mà con kiếm sống rất dễ dàng. Mà có thể giàu hơn, đi lên không chứ không có đi xuống.

(1:07:55) Còn con cứ áy náy, áy náy trong lòng, lượng ước không dám làm mà không nhìn cái nhân quả của mình. Nếu chăng mà nó suy sụp xuống nữa, nếu nó thất bại nữa ờ con chuyển qua cái thất bại nữa. Đây là cái nhân quả để cho chúng ta phải sống trong khổ để mà trả nhân quả chứ gì, chúng ta vui vẻ. Như vậy là con đâu có chùn bước, phải không? Cuộc đời mình đâu có chùn bước được vì chùn bước đứng đó thì ăn nó cũng hết. Mà mình không làm thì ăn cũng phải hết thôi. Giờ đi ra làm mà nó lại sụp xuống nữa thì đây là phải trả nhân quả.

Liên tục, tiến tới, làm điều thiện trong cái cảnh mà mình suy sụp xuống. Không vì đó mà mình bỏn xẻn, ích kỉ mà mình càng bố thí càng rộng rãi ra nữa. Đang lúc trong khi mình đói, người ta nói: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Các con nghe cái câu nói khi chúng ta khổ sở mà chúng ta bố thí cho người khác, một đồng bạc bằng cái người giàu có đó mà bố thí bằng cả triệu bạc, phải không? Các con hiểu cái điều đó. Cho nên trong khi đó mình dám dứt ra được cái đói của mình mà cho người khác, thì cái phước nó lớn kinh khủng lắm. Do cái tâm thiện của mình rất lên. Còn giờ mình dư giả hàng tỷ bạc đem ra cho họ, năm triệu, mười triệu đó là cái chuyện thường. Nó đâu có bằng cái giá trị của người đang đói, mà người ta cầm một cái đồng xu của người ta để cho một cái người đói khác thì đâu phải là cái chuyện dễ làm đâu, cái đó là cái khó lắm chứ đâu phải dễ.

Cho nên bố thí nó cũng có ba cái trường hợp chứ không phải là một trường hợp. Trường hợp thứ nhất là chúng ta giàu có mà bố thí cái đó dễ lắm, cái người đó không có phước báo, bố thí không phước báo. Còn cái người thứ hai là chúng ta có ăn không đói không khổ, mà chúng ta bố thí thì cái đó là rất dễ chứ không khó. Nhưng cái người đói mà bố thí thì cái đó khó. Họ ăn trộm ăn cắp thêm thì được, họ lấy của người khác thêm thì họ làm được, mà họ đem họ cho người khác không được.

(1:09:51) Cho nên trong thời đức Phật, có một bà già ăn xin rất nghèo khổ thì ông Ca Diếp, ông dùng thiên nhãn ông quan sát ông thấy bà này rất là đáng thương: “Nếu mình đem mà cho bà thì bà càng nghèo. Nhưng làm sao khai mở được cái lòng của bà, mà bà đem cho mình thì bà sẽ được giàu liền tức khắc”. Ông không biết làm sao, cho nên ông mới đi khất thực, ông đến chỗ bà. Bà đi xin được hai đồng xu mà bà ngồi đó, bà định bà mua cái gì bà ăn bà đói quá. Thì ông mang cái bình bát ông đến ông đứng trước mặt bà ông xin. Bà già bà nói: “Tôi đói gần chết, tôi xin được có hai xu, ông còn đến ông xin tôi nữa tôi lấy gì tôi cho ông. Tôi đói gần chết tôi rồi, ông đi đi! Tôi không có đâu cho ông”. Thì ông Ca Diếp nói: “Bà, bà hãy mở cái lòng cái lòng của bà rộng ra đi. Bà hãy bố thí cho tôi cái gì bà có cũng được. Bà có được cái gì bà bố thí cho tôi đi thì bà sẽ được sự giàu sang, sự sung sướng, sự đầy đủ. Còn bà đuổi tôi, bà không bố thí cho tôi thì bà sẽ nghèo đói dài. Và bà chết trong cảnh đó”.

Thì ông Ca Diếp nói vậy cái bà chợt bà tỉnh, cho nên bà nói: “Tôi đi xin từ hồi sáng tới bây giờ được hai đồng xu, tôi định mua một miếng bánh ăn cho đỡ lạnh nhưng mà ông nói thì tôi xin thành kính mà dâng lên cúng dường ông. Với tâm thành của tôi, cái này là vật tôi đi xin mà tôi có được, bây giờ tôi nhịn đói tôi cúng dường ông. Nếu mà đêm nay tôi có đói, tôi chết tôi cũng vui lòng vì tôi cúng dường được cho bậc Thánh đã dạy tôi đúng cách xả tâm của mình”. Trong khi bà nói xong, bà dâng hai đồng xu bà lên bà bỏ trong cái bát của ông Ca Diếp. Rồi ông Ca Diếp bưng cái bát đi, cái đêm đó thì bà chết, bà sanh lên được cõi Trời Đâu Suất. Mà lên cõi Trời Đâu Suất thì các con biết có thiếu cái gì ăn không, phải không? Còn sống như vậy đi xin mà đói lên đói xuống cũng phải cực khổ không? Chết để chuyển qua một kiếp khác để sung sướng hơn không? Như vậy bà được là thiên tử, trong một cái cõi Trời ở Đâu Suất rồi thì bà thảnh thơi, không còn lo đói lo no, không còn chống gậy, không còn run rẩy, ăn uống sung sướng.

Thì các con thấy từ cái chỗ đó, cái bài kinh đó có nghĩa là nói chúng ta trong cảnh nghèo, chúng ta bố thí nó có một cái giá trị rất lớn. Đây có một bài kinh nữa.

(1:12:26) Trong thời đức Phật, trong cái ngày mà Tự tứ thì nhà Vua Ba Tư Nặc ông mới xin đức Phật: “Cho con thắp sáng cái khu rừng của đức Phật là một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo”, nghĩa là đốt sáng như thành phố mình dưới vậy đó. Ông cứ cách khoảng độ chừng mười thước thì một cây đèn mười thước, mười thước một cây đèn mà khắp cùng ở trong khu rừng đó như vậy. Hàng mấy trăm cái ngọn đèn, năm sáu trăm cái ngọn đèn sáng cái rừng. Thì có một bà già đi xin, bà rất nghèo. Bà nghe nhà Vua cúng dường thắp sáng cái đêm Tự tứ cho đức Phật ở trong khu rừng của đức Phật ở, thì bà nói: “Bây giờ mình cũng làm sao mình cúng dường cho đức Phật một ngọn đèn để cho đức Phật thắp sáng cái đêm đó”. Thì bà đi xin bà được hai đồng xu, bà đến nhà cái người mà bán đèn bà mới nói: “Tôi có hai đồng xu này, tôi xin được ông bán cho tui cây đèn, đặng tôi đêm nay tôi đem tôi cúng dường Phật đặng cho thắp sáng cái chỗ Phật”. Cái ông bán đèn đó: “Có hai đồng xu làm sao tôi bán cho bà được cây đèn. Nhưng mà nghe nói bà mua bà cúng dường cho Phật thôi tui bố thí cho bà cây đèn”, rồi bà nói: “Bây giờ cây đèn thì nó có dầu đốt mà bây giờ không có dầu làm sao đốt mà thắp sáng cho Phật được?”. Cái ông bán đèn ông nói: “Thôi được, tôi cũng cho bà cân dầu”, rồi ông rót cái cân dầu đó vô cho bà. Rồi bà mới bưng đến, đêm đến bà mới dâng lên cúng cho Phật thì đức Phật nhận cây đèn đó.

Nhưng mà suốt đêm cây đèn đó khỏi chế dầu thêm, cháy hoài mà không có rót dầu thêm. Còn đèn nhà Vua thì hàng mấy trăm cây đèn mà phải sai lính tráng cứ rót dầu hoài, cứ cạn dầu hoài. Còn cây đèn của bà có châm dầu có chút xíu nhỏ vậy mà cháy sáng đêm mà không cạn dầu. Có người mới lạ hỏi vậy: “Tại sao mà cái ngọn đèn của bà già ăn xin này khỏi có rót dầu, còn đèn nhà Vua sao mà rót dầu dữ vậy? Rót dầu nhiều mà lại cạn mau vậy?”, thì đức Phật mới nói “Đó là cái tâm thành của bà. Cho nên cái công đức của nhà Vua mà thắp sáng bao nhiêu trăm cây đèn, nó không bằng cái công đức của bà già”.

Đối với một cái đêm mà cúng dường như vậy là cái công đức của bà rất lớn. Bà không có đủ khả năng mà phải nhịn đói trong một ngày đi xin đó để mà cúng dường Phật ngọn đèn, cái giá trị nó rất lớn, lớn hơn. Còn nhà Vua bây giờ ông bỏ ra hàng trăm hàng vạn ngọn đèn mà cúng Phật, ông đâu có đói, ông cũng thừa sức, phải không? Còn bà phải một đêm nay nhịn đói, cho nên vì vậy mà cái tâm thành của bà ta đó nó là cái ngọn đèn, nó đốt sáng lên không có thắp dầu nữa. Đó, các con hiểu điều đó. Cho nên càng nghèo chừng nào mà mình chứng tỏ cái lòng thiện mình cao chừng nấy thì con sẽ vượt thoát ra cái cảnh đau khổ.

Cho nên chẳng hạn bây giờ con cứ lo nghĩ: “Mấy đứa này nó sợ đói”, nó càng ở trong cảnh nghèo mà nó càng thực hiện cái tâm thiện thì cái đó là cái phước báo của gia đình con. Mà nó càng ở trong cảnh giàu mà nó thực hiện điều ác thì cái đó là cái tội lỗi rất lớn cho gia đình con chứ không phải thường đâu. Con nên nhớ điều đó Thầy nói!

Cho nên, bởi vì trong cảnh nghèo mà thực hiện được thiện pháp, cái tâm nó an mà không có một cái giá trị, không có một vàng bạc châu báu ở trong cuộc đời này mà đổi lấy cái tâm an được. Ngày nó ăn bữa cơm, bữa cháo nó không đầy đủ với thiên hạ, nhưng mà cái tâm hồn của nó thanh thản. Nó không bận bịu tiền bạc, của cải, nhà cửa sang đẹp, so sánh chạy với thiên hạ, thì con mình mà nó sống được như vậy, đó là cái phước báo lớn. Ngay cả cảnh cuộc sống của nó tức là nó ở cõi Trời rồi. Vật chất nó không bằng ai hết nhưng con người nó là con người của cõi Trời, chứ không phải là con người của phàm phu nữa. Còn mình cứ vật chất đầy đủ, nhưng mà đầu óc của họ sao? Thôi thôi, nó như một cái đống rác ở trong. Nó đủ thứ ác, đủ thứ tùm lum, nó lo nghĩ đủ thứ hết, nó khổ sở. Cho nên thấy nhà lầu, nhà đài chứ Thầy thấy Địa Ngục của họ cất kiên cố. Còn con mình nhà tranh vách lá chứ mà tâm hồn của nó thảnh thơi thì đó là Thiên Đàng chứ không phải thường đâu. Ngai vàng cung vua của cõi Trời ở đó, ở chỗ mà cái nhà tranh vách lá mà tâm hồn nó không có vướng bận, không có chạy đua theo thiên hạ. Đó là cái điều mà giải thoát của Đạo đó. Các con thấy chưa? Trong cảnh nghèo mà Thầy ca ngợi hết sức, mà trong cảnh giàu Thầy bác hết sức. Con thấy chưa? Thấy cái chỗ nào là cảnh Trời, chỗ nào là cái cảnh Địa Ngục?

11- CÚNG DƯỜNG, BỐ THÍ ĐÚNG CHÁNH PHÁP

(1:17:02) Phật tử: Dạ con xin thưa với Thầy, con lúc nào con cũng muốn tu mà con tu không có được. Thành ra có một Ni cô đó muốn tu mà không có được cái chỗ mà ở, thưa Thầy. Thì lúc đó con cũng không được có dư giả gì nhiêu. Con cũng có mua cho cô một miếng đất đặng để cô ở, đặng mà cất cái thất cho cô luôn đặng để cô tu.

Con đi mượn tiền, con cũng không nhớ sao mấy đứa nhỏ này nó biết. Nhưng mà chị ấy tu không có tu được, chị để thất trở lại rồi này kia kia nọ. Rồi con thấy làm như vậy không có cái ý nghĩa gì, rồi làm như vậy con thấy như một sự sai lầm hả Thầy?

Trưởng lão: Điều đó là sai lầm chứ sao! đức Phật nói như thế này, khi mà chúng ta làm một điều gì thiện thì như đem cái hạt giống tốt mà chúng ta gieo trồng. Nhưng mà cái mảnh đất mà chúng ta gieo trồng nó, nó có tốt không? Nếu là một cái gò mối thì con bỏ hạt giống, nó có lên không? Chắc không lên đâu phải không? Thì như vừa rồi con bố thí cho Sư cô đó để tu hành mà cô tu kiểu đó cũng như con bỏ hạt giống tốt ở trên gò mối. Cho nên cái hạt giống con nó bị lép đi rồi, nó bị khô đi rồi, nó không lên đâu. Đó thành ra nó đâu có được phước đâu. Con phải chọn người chứ, cái cô này đâu có…​ Nghe nói tu chứ mà con thấy cái hình dáng là tu, nhưng mà sự thật trong tâm cô có tu thật đâu.

Phật tử: Thầy, như vậy là con không hiểu được tâm cô được?

Trưởng lão: Con muốn hiểu thì đức Phật có nói mà, đức Phật có dạy cái này rất rõ mà: “Một ngày chúng ta sống gần mà chúng ta chưa biết thì hai ngày. Hai ngày chúng ta chưa biết thì một tháng. Một tháng chúng ta chưa biết người này thì một năm. Chừng nào chúng ta biết rõ người này tốt, đàng hoàng thì chúng ta cúng dường”, thấy phải không? Bây giờ mình sống một ngày mình thấy cô này không có giận hờn, không có ham muốn thì mình thấy tốt rồi. Nhưng mà hai ngày cho đến tuần lễ, mình thấy cô này bắt đầu có chuyện này, chuyện kia rồi. Thì một năm sau, con phải thấy cô ta là để tóc rồi chứ gì, vậy thì không cho. Như vậy thì đức Phật cũng có dạy chứ đâu có Thần thông gì đâu, thấy không?

(1:19:39) Bây giờ đức Phật nói, con muốn bố thí cho một người nào đó, không phải đi lên xe thấy người ta ăn xin là con bố thí. Con làm sao con biết! Con muốn bố thí thì cái người ở gần bên nhà con, con thấy người này nghèo, con biết rõ ràng vì ở gần nhà con, con không biết sao được, phải không? Vì vậy con nên bố thí cái người ở gần bên con mà họ nghèo khổ. Nhưng mà cái người nghèo khổ này mà hung dữ, không bố thí. Họ nghèo khổ tại họ hung dữ, họ tham lam thì họ chịu chứ làm sao tôi đem tiền cho họ ăn, bộ tôi ngu hả? Như vậy là tôi đem hạt giống tui bỏ trên trên gò mối rồi làm sao nó tốt được. Họ ăn không rồi họ mai mốt họ còn chửi mình nữa, xong họ nói: “Bà đó ngu”, phải không? Các con hiểu không? Mấy người dữ họ vậy đó, cho nên mình đâu có ngu gì đem hạt giống tốt mình cho nó. Cho nên, mình thấy cái người này tốt lương thiện mà rất nghèo, mình giúp đỡ mình cho họ một phần. Đấy, Phật dạy rất kĩ mà…​

Phật tử: Còn như mình giúp đỡ, mình cúng chùa thực phẩm: Kiếng, đèn, vàng, nén, ủng hộ trong chùa cái từ miếng ăn uống. Rồi đến sự tu hành của quý vị đó như thế nào? Mình cũng không có cách nào mình phân rõ được?

Trưởng lão: Biết chứ! Cái chùa đó mà ăn ngày ba bữa thì không cúng, cúng vô đó là Phật nói đó là Ma Ba Tuần chứ gì. Những người đó là không nên cúng dường. Bởi vì họ ngồi không đó mà họ lợi dụng cái chuyện mê tín cúng bái này kia, để cho mình lên đấy cúng cho họ ăn không ngồi rồi. Như vậy là họ làm hư đạo Phật, người ta thấy như vậy là sai. Cũng chùa, cũng này kia mà cái chỗ đáng cúng là cái chỗ…​, đức Phật có dạy mà: “Muốn cúng dường hay bố thí, cá nhân thì phải thanh tịnh, tập thể phải thanh tịnh”, phải không? Thanh tịnh là như thế nào? Thanh tịnh là phải những người đức hạnh, những người giới đức, những người tốt chứ không thể người xấu. Những người ác làm sao mình cúng dường bố thí được. Còn những người mà làm cái chuyện như vậy là họ đã phá giới rồi, họ là tu sĩ mà phá giới thì làm sao mà cúng dường? Con cúng dường thì con được phước đâu? Cho nên không cúng dường, thà không cúng còn hơn mà con cúng kiểu đó còn tội lỗi nữa.

(1:21:22) Phật dạy: “Trùng trong lông sư tử giết sư tử chết”. Con biết con rận, con chí nhỏ ở trong lông sư tử, nó cắn riết con sư tử chết. Rồi còn con vật gì mà giết con sư tử nữa, phải không? Cho nên đức Phật mới nói: “Đạo ta không ai giết được, chỉ do mấy ông thầy chùa tu sai, làm bậy nó mới giết đạo ta chết”. Chẳng hạn là bây giờ ông thầy chùa mà ông chở một cái cô nào trên xe, đi ra ngoài thiên hạ họ cười chê chứ gì. Họ cười chê phỉ báng ai? Phỉ báng Phật pháp.

Họ thấy đạo Phật ngao ngán quá, phải không? Ông thầy chùa gì kì vậy? Còn cô này sao tu một thời gian bây giờ để tóc? Ờ, Hết hồn! Như vậy làm sao? Các con thấy bởi vì cái đó…​, trong thời đức Phật thì đức Phật không có ở một cái chỗ nhất định. Bữa nay ở chỗ này năm ba bữa thì đức Phật di chuyển, bởi vì thời đức Phật là du Tăng khất sĩ. Nghĩa là đi từ chỗ này đến chỗ khác rồi trở về chỗ này, rồi ở năm ba bữa, rồi đi lại chỗ khác nữa chứ không ở chỗ nhất định, cho nên nó di chuyển liên tục. Vì vậy trong cuộc đời đức Phật không có cái chùa to, không có cái tháp lớn, không có gì dính mắc hết.

Còn thời nay, ông thầy nào ở cái chùa đó, rồi không phải ông làm ra tiền mà ông sửa sang cái chùa, kêu gọi Phật tử đóng góp rồi ông dính đó. Ông coi như cái chùa của ông. Chứ cái chùa này là của mồ hôi nước mắt Phật tử đó, của mọi người đó chứ đâu phải của ông. Mà ông bây giờ ai lại đem ông văng đi, chưa chắc ông bỏ cái chùa đó ông đi đâu. Đâu phải của ông, mà chưa chắc đuổi ông đi đâu. Các con hiểu chỗ đó. Đó cho nên vì vậy ông bị chết dính ở trong đó rồi, cho nên ông tham đắm, ông dính mắc rồi. Thì chúng ta phải cúng dường, cúng như thế nào cho đúng cách? Chứ đâu phải cúng dường như vậy.

Cho nên Phật đã dạy, những cái bài kinh Phật đã dạy rất kĩ, dạy cho cái hàng cư sĩ. Bởi vì trong một cái buổi đó, tất cả chư Tăng và có vua Ba Tư Nặc dự cái buổi thuyết pháp đó thì vua Ba Tư Nặc mới hỏi: “Chúng con là hàng cư sĩ cúng dường và bố thí như thế nào đúng chánh pháp?”. Đó cái lời vua Ba Tư Nặc hỏi đức Phật vậy đó, đức Phật mới nói: “Cúng dường và bố thí cho đúng chánh pháp thì phải lựa cá nhân, tập thể phải thanh tịnh”. Tức là đức Phật muốn nói phải người phải tốt, người phải thiện, cái tập thể cũng phải tập thể thiện. Còn tập thể ác thì cũng không có làm điều đó, gian xảo trong đó thì không có bố thí, không có cúng dường trong đó.

(1:24:07) Phật tử: Vậy thì con cũng có cúng dường. Ngày thứ năm với chủ nhật, con không có buôn bán thì mỗi ngày đều dặn con cũng có cúng dường trong chùa. Con có cúng được hai chùa mỗi ngày vậy thì cũng được miếng đậu hũ thì con nghỉ để buổi ăn có chất dinh dưỡng, chút vị. Con cũng đều đều là bốn năm nay là con cũng vẫn làm như vậy. Con không biết làm như vậy rồi hôm nay Thầy nói, con cũng không biết nghĩ làm sao…​?

Trưởng lão: Thì bây giờ, thầy nói như thế này. Con không nghĩ cái điều gì ở ngôi chùa nhưng mà con nghĩ như thế này. Con nghĩ con bố thí như vậy đó, từ ngày con làm thiện, làm tốt vậy thì trong gia đình con nó có những cái gì tốt hay là nó cứ xấu. Không lẽ tôi làm thiện mà bây giờ trong gia đình tôi không được phước? Phải được phước chứ! Phải mình làm thiện thì phải có phước, làm thiện mà không phước tức là cái thiện đó nó chưa đặt đúng chỗ. Chứ không phải là không làm thiện hay là có phước mà phước ít thôi, nó cũng có phước mà phước ít thôi. Thì cái điều đó là mình phải xét trong cái chuyện thiện của mình thôi.

Đó hôm nay, cái nhân duyên mà con hỏi Thầy, Thầy nói hết để cho con thấy. Cho nên, theo đạo Phật thì làm một cái việc từ thiện, làm một cái việc mà cúng dường phải hết sức cảnh giác. Bởi vì trong thời đức Phật cũng có những người gian xảo chứ không phải là không có những vị gian xảo.

(1:25:35) Thầy nói như thế này. Trong cái thời đức Phật có một người Bà-la-môn có con ngựa rất đẹp. Một hôm ông cưỡi đi trên đường thì có một cái người đó họ thấy cái ông Bà-la-môn này. Tức cái người Bà-la-môn là cái người có tôn giáo đó, thì trong cái thời đức Phật gọi là Bà-la-môn. Thì cái ông này thấy con ngựa đẹp, ông ta muốn trộm con ngựa. Nhưng mà không làm cách nào mà vô cái nhà ông này được. Cho nên bữa đó thì biết ông đạo Bà-la-môn, ông đi ngang ông cưỡi ngựa ông đi qua thì lát nữa thế nào cũng về đây. Cho nên cái ông này muốn bắt con ngựa của ông này. Vì vậy đó, mà ông này lấy vải lấy đồ, bó cái chân của mình. Rồi lấy đồ trét đỏ đỏ như mình vừa té gãy chân vậy, rồi vừa ngồi đó chờ. Khi mà thấy con ngựa ông kia cưỡi về gần tới thì ông ôm chân ông khóc, ông làm như là mình mới bị té gãy chân vậy.

Thì cái ông này, ông đạo Bà la môn này ông thấy vậy ông mới xuống ngựa nói: “Ủa anh, sao mà như thế này?”, nói: “Tui bị lỡ té, nó gãy cái chân thành ra bây giờ đi không có được nữa”. Thì ông đạo Bà-la-môn nói “Thôi bây giờ anh đi không được, nhà anh ở đâu, tôi sẽ đỡ anh lên trên ngựa rồi tôi dẫn con ngựa, nó chở anh về nhà”. Cái người tôn giáo người ta phải tốt thôi, người ta phải giúp đỡ người trong cảnh ngộ mà. Thì cái ông này nói: “Nhà tôi ở đó chỗ đó, chỗ đi qua khỏi đây là tới cái nhà tôi rồi. Thì anh làm ơn anh đỡ tôi lên ngựa”. Lên ngựa thì ông đạo Bà la môn ông dẫn con ngựa, ông kia ngồi trên ngựa. Con ngựa đi chầm chậm thì ông này ông: “Đi vậy làm sao bắt con ngựa người ta được?”. Cho nên ông mới nghĩ kế: “Ông dẫn con ngựa đi như vậy nó xóc, đau cái chân tui quá. Ông đưa cái dây cương cho tôi cầm, đặng tôi cầm tôi giữ dây cương đi nó không có xóc như vậy”. Ông đạo Bà-la-môn này ông cũng tin, tin thật cái người bị nạn cho nên mới đưa dây cương ông này. Khi mà cầm dây cương rồi, ông này ông thúc vào không ngựa, con ngựa phi chạy. Thì ông đạo Bà la môn ông mới kêu: “Anh ơi, anh dừng lại chút rồi anh muốn cưỡi đi đâu cũng được”. Kêu cái ông mà giả vờ cướp được ngựa ông đó thì ông này ông thúc ngựa ông đứng lại: “Nếu sau này mà có những người tốt như tôi thì người ta sẽ không tốt đâu. Đáng thương cho những người bất hạnh thì người ta không được người tốt mà người ta giúp đỡ. Thôi anh cứ đánh ngựa đi đi!” Ông nói câu nói vậy đó.

Thì các con biết là cái xã hội của chúng ta có nhiều người bất hạnh thật. Mà nếu mà không đúng theo lời Phật dạy thì làm sao chúng ta biết đâu được mà chúng ta giúp đỡ được.

Cho nên vì vậy mà chúng ta muốn làm cái gì tốt thì chúng ta hãy sống gần họ từ một ngày, đến một tháng, đến một năm rồi chúng ta biết rõ cái người đó. Còn cái chuyện khổ, cái chuyện đau là nhân quả của họ chứ đâu phải mình làm cho họ khổ sao mình lại sợ. Con thấy bây giờ trước mặt thấy người ta khổ, cái mình động lòng mình thương, cái đó là mình thương bậy rồi. Người ta làm như vậy người ta gạt mình. Trời! Thầy nói như thế này. Có một cái người họ muốn giựt tiền mình, họ lại họ nói, than thỉ ỉ ôi, họ khóc lóc, họ nói đủ thứ chuyện gia đình họ thế này thế khác. Họ xin mượn thôi, mượn rồi cái họ đi luôn mất, không bao giờ họ trả. Con thấy không? Họ gieo đúng cái tình cảm của mình để họ giựt tiền mình. Thì cuộc đời này rất nhiều cái điều đó, cho nên chúng ta phải sáng suốt. Vì phải sáng suốt, cho nên vì vậy mà đời chúng ta không bị gạt.

HẾT BĂNG

TOÀN BỘ PHÁP ÂM 1993 - 1996