VẤN ĐẠO 01
TU HÀNH PHẢI THIỆN XẢO
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [46:30]
Thời gian: 2002
Tên cũ: 01A-TuHanhPhaiThienXao
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-01-tu-hanh-phai-thien-xao.mp3
(00:00) Sư Tuệ Tĩnh: Con cũng nhờ nương theo pháp hướng mà Thầy chỉ, thì con cũng đang theo con tu cái pháp đó để bảo đảm, tại vì bây giờ con đang theo có gì thì con thưa lại với Thầy.
Trưởng lão: Thì cứ tiếp tục mình tu mà nó cảm thấy nó được an ổn, nó được thích thú ở trong cái sự tu, thì nhất là mình sống một mình mà mình cảm thấy nó vui đó, thì cái đó là một cái quan trọng nhất. Còn mà nghe nó buồn, mà nó suy tư hay nó đủ thứ hết, nó không đúng đâu, thì đó là bị chướng ngại pháp. Thì phải thưa hỏi lại cách thức như thế nào để mình chiến đấu sống cho được cái độc cư đó, nó cũng không phải là thường.
Sư Tuệ Tĩnh: Bởi vậy con thưa hỏi liền, con về con mới tu.
Trưởng lão: Bây giờ con trên con đường tu, con hỏi pháp chứ mình đừng có thưa hỏi cái chuyện bậy bạ. Cũng như đến đây mà đem cái chuyện đời mà nói chuyện với Thầy, Thầy cũng ngao ngán quá rồi, mà Thầy có đâu, tốn thì giờ. Mà đem đến hỏi những cái tu hành để cho cái tâm mình được an ổn Thầy ra Thầy mới nói.
Thầy bao giờ phải chịu cực khổ Thầy ngồi Thầy nghe những cái điều đó mà mấy con cũng đâu có biết, phải không? Nên Thầy, Thầy nghe cái chuyện đời, cái chuyện gì đâu không à. Sư Phước Nhẫn có thưa hỏi gì không?
Sư Phước Nhẫn: Dạ con cũng có nhiều vấn đề là. Kính thưa Thầy viện chủ ở đây thời khóa biểu, là con không có áp dụng nó giờ giấc, nhưng mà áp dụng được theo cái tình hình. Thì vừa rồi nhờ Thầy viện chủ phân cách cho một cái giờ tu đó, cái pháp này nửa tiếng, cái pháp kia nữa tiếng hoặc năm, mười phút.
Thì con tu, con ví dụ như mình đang đi kinh hành, cái tự nó không còn an nữa. Cái mình cố gắng cũng ngăn nó tạp niệm gì nhiều hết, con nghỉ, con vô con thư giãn.
Sau đó rồi con thư giãn, ví dụ như mình lui lại chỉ còn năm phút, nhưng mà nó còn an thì mình cứ thư giãn tiếp tục, mà nó tạp niệm nó nhiều là đi kinh hành. Cho nên nó không có cái thời khóa biểu mà mình tùy theo cái tình thế. Cũng như là nó gặp trận nào đánh trận nấy vậy đó. Đó con áp dụng như vậy được không hay là phải theo hướng dẫn.
(02:22) Trưởng lão: Ừm, cái đó là cái tốt nhất đó, bởi vì mình tu hành mình phải khéo léo lắm. Tuy rằng cái thời khóa mình không có giờ giấc, nhưng mình phải khéo léo, khéo léo trong cái từng pháp môn tu nữa.
Bây giờ đang ngồi mình tu trong cái Định Niệm Hơi Thở, nhưng mà bây giờ mới có hít vô cái nó có cái niệm, thì mình phải tu một cái định khác chứ không phải ngồi không. Nó theo cái từng pháp môn, phải theo đúng cái pháp môn để mà khắc phục và hàng phục được cái tâm mình. Khi mà khắc phục tâm tham ưu của mình, cái chướng ngại pháp trong tâm của mình nó như thế nào mình linh động, khéo léo.
Bắt buộc mình áp dụng vào cái thời khóa biểu, hoặc cái pháp nào phải theo suốt nó cái thời gian nó sẽ sai, nó sẽ làm chướng ngại. Mình dùng nó mà ức chế cái tâm của mình, không có đúng đâu.
Cho nên bây giờ mình hiểu rồi, mình cố gắng mình nương vào cái hơi thở để cho cái tâm mình đừng có vọng tưởng nữa. Nhưng mà mình quên rằng nó có khởi một cái niệm rồi, thì cái niệm đó cần phải quán xét nó để mà đẩy lui nó đi. Chứ không phải để mất ngang nó, để ức chế nó, bằng cách là mình dừng nó để tiếp tục cái hơi thở ra, thì cái đó là con tu sai, con tu ức chế.
Cho nên mình phải làm sao cho mình thông được cái niệm mà nó đang khởi, mình thông suốt nó. Mình phải thấy nó nằm ở trong cái dục lậu, cái hữu lậu, cái vô minh lậu, hay hoặc là cái nhân quả nào. Hay hoặc là trong cái Thập Nhị Nhân Duyên, nó là cái duyên nào.
Khi mình thông suốt tất cả nó, còn mình chưa thông suốt tức là mình bảo nó ngưng ngang. Mà mình nói nhiều khi mình, thì tuy là nói: "Tôi đã hiểu nó như vậy rồi, bây giờ tôi ngưng ngang nó", thì không được. Tại mình không hiểu cho nên nó còn ra, chứ còn mình thông suốt nó rồi nó không còn có niệm nữa. Thì do đó nó nhiều lần, mình cũng phải tìm mọi cách mà mình tư duy, mình xả nó ra thì nó mới hết.
Thí dụ như bây giờ mình nói cái tâm mình nó khởi lên cái niệm sắc dục đi. Đó mình quán bất tịnh, mình thông suốt cái thân nó bất tịnh, nó không thanh tịnh. Nhưng nó vẫn còn đến chứ, nhưng mà quá nhẹ. Cho nên nó mới có những cái đề mục mà mình đưa ra để quán bất tịnh mà, quán thây ma sình chết đồ đó, có đề mục. Tại vì nó cứ tới lui hoài, buộc lòng bây giờ mình phải đưa ra để mình quán xét mình thấy.
Cho nên trong Thanh Tịnh Đạo có một vị Tỳ kheo quán mà thấy cái, khi mà ông ta thấy cái cô phụ nữ cười mà ông ta thấy là cái bộ xương đó, cái bộ xương trắng đó, quán chứ đâu. Đó thì chúng ta thấy bây giờ mình mang nợ, cái đặc tướng của mình, cái tình dục nó mạnh quá, mình biết, mình biết mình hơn ai hết.
Cho nên cái đặc tướng của mình vì vậy mà mình dùng cái quán bất tịnh, mình dùng cái bộ xương trắng, mình dùng cái thây sình trương lên, cái đề mục đó để mình quét cho sạch. Chứ nó cứ đến lui, đến lui hoài, nó không có thường đâu. Mình hồi nào giờ mình cũng biết là cái thân mình thì bất tịnh, nó hôi thối như vậy mình biết rồi, chứ sự thật ra chưa phải vậy. Cho nên phải đưa cái đề mục đó ra để mà quét cho sạch.
(05:21) Thì do vì vậy mà khi mà, khi tu tập như vậy Thầy thấy rất hay, chứ đừng có cố chấp theo cái thời khóa. Thời khóa có đặt ra để chúng ta biết như vậy, để mà chúng ta thực hiện, chúng ta không có lười biếng, nhưng mà chúng ta linh động rất khéo.
Cho nên đức Phật nói thiện xảo mà, thiện xảo nhập định và thiện xảo an trú trong định, thiện xảo để mà quét sạch những cái tâm tham ưu của mình nữa, cho nên nói thiện xảo. Đó như vậy thì, làm như vậy là Thầy thấy thật khéo.
Bởi vì mình mục đích của mình tu để vốn để cho mình thấy được sự an ổn. Cho nên trong cái bài kinh Khu Rừng, đức Phật nói: "Chỗ nào mà mình tu hành, mà chỗ đó vừa không có cơm ăn, không có gì, đói nữa, mà chỗ đó tu an ổn được thì cứ ở tu, giờ đuổi không đi. Còn cái chỗ nào mà bây giờ đó cơm ăn, áo mặc đầy đủ, mà cái tâm không an trú, chuyện này chuyện khác đến đó, thôi bây giờ không đuổi cũng đi nữa".
Đó là cái bài kinh Khu Rừng Phật dạy rõ như vậy đó. Cái chỗ nào mà mình tu an, thì bất kỳ chỗ đó Thầy nói cứ ở, đuổi cũng không đi nữa. Bây giờ công an bắt cũng không có sợ nữa, cứ ở tu đi. "Làm gì làm, tôi chỗ này tôi thấy an ổn. Còn chỗ đó bây giờ cơm ăn, áo mặc đầy đủ sống sung sướng, nhưng mà về tâm hồn không có an". Nhất định đi, không ở cái chỗ đó.
Cho nên ở đây chúng ta tu làm sao mà chúng ta thấy được cái tâm an. Cái tâm mà nó an ổn thì nó sanh an ổn và vô sự, như Thầy dùng ngay cái vô sự đó để trị được cái tâm. Còn nó có chướng ngại pháp nó làm cho mình buồn, làm cho mình nhớ cái này, lo cái kia rồi thì cái này không đúng rồi.
Mà mình không biết cách đẩy lui, mình không biết tu, mà mình cứ ức chế nó thì mình sẽ thua. Ức chế tức là mình dùng cách này, cách khác để cho đừng có nhớ ra nữa, thì mình thua. Mà mình thấy làm sao mà mình đẩy lui nó, mình thấy tâm hồn mình cởi mở an ổn là đúng rồi.
Đó, rồi mình xả ra mình sống bình thường mà nó an ổn. Còn bây giờ mình ngồi lại, thì mình ngồi lại mình nhiếp tâm trong hơi thở, hoặc mình đi kinh hành mình không thấy nó. Nhưng mình ngồi lại bình thường thì mình thấy nó hiện ra, mà nó hiện ra nó làm cho mình buồn khổ này kia, thì tại mình bị ức chế nó, thì mình tu sai pháp.
(07:34) Trưởng lão: Trong khi mà sư tu như vậy, sư thấy sao? Khi mình linh động rồi sao, mình có thấy an ổn không?
Sư Phước Nhẫn: Mình thấy nó dễ chịu hơn là theo thời khóa biểu, nó không bị ràng buộc, nó bức xúc.
Trưởng lão: Ừm, như vậy thì hãy cố gắng tiếp tục nó.
Sư Phước Nhẫn: Một cái nữa là con mới có một tuần là có hai ngày, tự nhiên nó tuôn trào nhiều quá. Con định hỏi Thầy coi mình nên cắt nó, hay là mình nhìn nó tuôn trào để cho nó ra hết hay là thế nào?
(08:02) Trưởng lão: Bây giờ nó có cái phần tuôn trào nó như thế này, coi như là nó tuôn, nó trào ra quá nhiều, cái chuyện này rồi nó nối tiếp chuyện khác, chuyện khác. Lúc mình tìm hiểu cái niệm tuôn trào đó coi nó có cái lý do để cho nó phá độc cư của mình không? Đó bắt đầu nó bị cô đơn rồi đó, nó mới tuôn trào đó.
Mà nếu mà nó phá cái niệm cô đơn, ví dụ như muốn phá niệm cô đơn: "Mình lấy kinh sách mình đọc tức là mày phá niệm cô đơn". Đó bây giờ nó tuôn trào rồi, bây giờ mình cứ, bây giờ mình thấy mà để vậy thì không được, mình tìm làm sao mà cho nó im.
Thì bắt đầu bây giờ đó, thí dụ như nó muốn lấy kinh sách, nó muốn nghe băng, nó muốn nghe cái gì, nó tuôn trào là nhất định là vô sự đó. Nghĩa là luôn luôn chịu đựng với nó, nó tuôn trào: "Kỳ này mày tuôn trào, nhưng tao nhất định là không phá độc cư, chết bỏ nhất định không phá độc cư. Không đi, không nói chuyện, không gì hết". Nó tuôn trào một thời gian sau nó sạch bóng. Lúc mà nó tuôn trào dữ tợn, nó tuôn trào ba, bốn lần là nó hết.
Sư Phước Nhẫn: Mình cắt nó hay là mình cho nó ra luôn?
(09:06)Trưởng lão: Bắt đầu nó cứ nó muốn nghĩ gì thì nghĩ nhưng mà mình không phá độc cư thôi. Để cho nó nghĩ gì thì nghĩ, mình không cắt. Nó nghĩ chuyện gì miên man thì nó nghĩ gì thì nghĩ. Nhưng mà nhất định là nó sai mình làm cái gì thì mình giữ chặt, bám chặt cái độc cư của mình. Nghĩa là nhất định không rời độc cư. Nó nói gì riết rồi bắt đầu nó luận riết rồi nó luận không được thì nó đi mất.
Cái giai đoạn mà, tại vì ở đây cái thầy Mật Hạnh đó, trong khi mà Thầy bắt buộc, thì là sống ba năm độc cư không được nói chuyện với ai hết. Nó ba, bốn lần như thế này, một lần nó tuôn trào, tuôn trào chịu không nổi đâu. Nhưng mà bị có Thầy, Thầy nói: "Chết bỏ nhất định là không có phá hạnh độc cư".
Nó cái vắng bóng, vắng bóng cái bắt đầu cái tâm nó quay vô, nó luôn luôn nó định trên hơi thở, mình khỏi cần nhiếp tâm nữa, nó luôn luôn nó biết hơi thở nó. Thầy mừng quá, thầy nói: "Ngon quá, bây giờ nó hết rồi". Nhưng nó trở lại chứ chưa phải đâu.
Bởi vì nó trở lại, nó trở lại rồi bắt đầu thầy chịu đựng với nó một lần nữa, nó đánh mạnh lắm. Nhưng mà nó đánh lần mà tới cái tất cả những cái tuôn trào đó hết rồi, tới chừng đánh thọ cái thầy không chiến thắng nổi nó. Chứ phải thầy chiến thắng nổi là thầy xong hết con đường tu rồi.
(10:15) Bởi vì Thầy dặn trước rồi, những cái này là kinh nghiệm hết rồi. Cho nên khi mà nó tuôn trào nhiều đó, là mình thấy nó đổ ra cho hết rồi đó. Mình mừng, chứ mình đừng có lo, đừng có sợ. Đó, "nhưng mà duy nhất là tao giữ cái hạnh độc cư của tao, sống trầm lặng một mình thôi, mày làm gì thì làm nhất định là không phá độc cư".
Tại đó là qua những kinh nghiệm của Thầy nó phá như vậy đó, có kinh nghiệm đó, cho nên đừng có ngán. Nhưng mà sợ tới đánh thọ đó, đánh thọ là mình một mình chết, hai mình sống đó. Bởi vì nó đau, nó nhức cái này, kia.
Thầy nói nếu mà nó đánh mình ruột thừa một cái là thấy mình cũng tiêu luôn đó, chứ đừng có nói. Ruột thừa chịu hết nổi rồi, nó đau kinh lắm. Vậy mà cái người mà quyết tử rồi, đau chết bỏ. Coi như là không có nhà thương vô đây.
Bởi vì đau ruột thừa người ta nói: "Tiếng thét của cơ thể", nó đau dữ lắm. Thế mà cái người mà tới cái giờ phút đó mà nó đánh đau ruột thừa rồi thì một chết, hai là sống. Nếu mà ta chết trong cái đời nay thì đời sau ta tiếp tục, ta tu tốt hơn nữa. Còn cái đời nay mà nhân quả chưa hết thì nó không chết đâu, cái ruột thừa tự nó, nó cũng lặn. Kinh lắm, nó đánh như vậy chứ không phải.
Bởi vậy Thầy nói ở đây là có những kinh nghiệm trên bước đường tu, vì chết mà. Cho nên khi mà nghe cái ông Phật mà ổng ức chế, ổng tiết thực quá độ, rồi ổng đi không nỗi, ổng nằm bẹp xuống, ổng thở hết ra hơi đó. Chúng ta nghe thì nó thường, chứ không phải chúng ta làm mà nó thường vậy đâu. Nghĩa là nó sắp sửa chết rồi nó không phải bình thường, nó đau khổ lắm. Đó như vậy là trong những cái phút mà chiến thắng.
Rồi trong lúc mà đức Phật nói về cái Ma Vương mà hiện đến, đúng là cái tâm niệm của chúng ta hiện đến đủ loại hết. Nó hiện đến nào dục thì nó hiện đến phụ nữ, có phải Ma Vương hiện không? Thì nó hiện đến những cái điều kiện làm cho chúng ta sợ hãi, có yên hay không? Nhưng mà nó hiện đến cái tướng thọ là Thầy nói thiệt nó kinh thiệt, chứ không phải không.
Con thấy như, thí dụ như thầy Minh Tông đó, thầy tu sai, nhưng mà vẫn là một cái tướng của Ma Vương nó hiện, chứ không phải không. Thầy khạc ra máu là tại tu sai, không nghe lời thầy. Chứ còn nghe lời Thầy thì nó không đánh đến cái mức độ đó đâu. Bởi vì cái thọ hành mà, chứ đâu phải cảm thọ do bệnh mà sanh ra, do sự tu của mình mà sanh ra. Mình tu cũng vậy, do mình tu mà nó sanh ra, nó sanh ra đó, nó thuộc về Ma chướng.
Còn Thầy là tu vì tổn thương cái vết thương, tổn thương cái cơ thể, sai pháp mà tổn thương. Bởi vì hơi thở mình nó tịnh chỉ, chứ không phải là đình chỉ. Còn cái này Thầy đình chỉ hơi thở để nhập Tứ Thiền thì nó sai. Cho nên thầy nín thở, thầy thở chậm, nhẹ rồi thầy nín thở. Cho nên vì vậy mà nó không đúng cách.
Còn cái người mà tập luyện Yoga đó, họ nín thở đó, họ có phương cách tập luyện để mà nín thở. Còn cái này chúng ta chỉ tâm thanh tịnh mà nó chỉ cái hơi thở mà thôi. Còn cái tâm mình chưa thanh tịnh mà mình muốn chỉ thì chỉ ngang sao được? Cho nên cái gì nó cũng phải có cái phương pháp và cách thức của nó.
Cho nên cái phương pháp của Phật để tịnh chỉ hơi thở, là nói cái phương pháp là cái tâm nó phải thanh tịnh, nó không còn tham, sân, si nữa, nó không còn bị ái kiết sử nó ràng buộc. Còn đằng này mình còn đủ mà mình muốn nó chỉ thì không được. Mình muốn nó chỉ tức là định chỉ. Còn Yoga nó chỉ bằng nó dùng tưởng. Nó nghĩ rằng nó thở bằng lỗ mũi, hay hoặc lỗ chân lông, hay hoặc là rốn, thì nó chỉ được cái hơi thở chỗ mũi nó, cho nên là nó thở chỗ khác.
(13:56) Cũng như cái cây kia nó thở, chứ nó đâu phải nó không thở, mà nó thở bằng lá. Còn mình mà muốn không thở lỗ mũi, thì phải thở bằng da, bằng lỗ chân lông thì nó mới được. Thì cái chỗ đó là cái chỗ luyện tập của người ta mà, người ta có pháp môn.
Cho nên người ta có ba hơi thở: Hơi thở thở ra, hơi thở dài và hơi thở nín. Cho nên Yoga nó có ba cái hơi thở nó luyện tập. Còn mình không có thở nín thì mình không có tập hơi thở nín. Mà khi nín thì người ta phải tập như thế nào? Còn cái này, mình không được luyện tập cái này mà mình nín thở thì mình phải chết thôi.
Mình chỉ tập tịnh để mà chỉ. Tịnh là cái tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh tức là cái tâm không phóng dật nữa.
Do đó thì mục đích của mình là mình tạo cho nó đừng có phóng dật. Mà bây giờ nó tuôn trào là nó phóng ra nhiều quá, nó phóng nhiều quá rồi. Thì nó phóng mặc nó nhưng mà đừng dật. Gọi là "phóng tâm chứ không được, tao không cho mày phóng dật". Mà hễ nó phóng dật tức là nó sai mình đi, nó làm cho mình mất độc cư.
Cho nên Thầy nói thấy đống rác đó mà mình lấy, mình muốn cho nó sạch, mình lấy chổi quét là bị phóng dật. Còn nó khởi "ờ cái đống rác đó dơ", thì thấy biết dơ đó. Nó khởi niệm thấy dơ đó thì biết, thì nó mới phóng tâm. "Phóng tâm mặc mày, tao không thấy cây chổi đâu", thì nó không phóng dật.
Cũng như bây giờ mình sống độc cư, mà bây giờ nó phóng, tâm nó khởi cái này, cái kia, cái mình đi theo nó, đó thì mình phá độc cư thì mình bị phóng dật. Cho nên khi mà phóng tâm mà chúng ta không để cho nó phóng dật thì chúng ta sẽ. Cái tâm thật là thanh tịnh, nó sẽ thành tựu, nó hết phóng dật nữa rồi. Nó mặc nó phóng tâm. Bởi vì nó tuôn trào là phóng tâm, chứ không phải phóng dật. Mà mình đi theo cái niệm đó là bị phóng dật.
Cũng như bây giờ nó tuôn trào về cái, nó đánh mình cái thọ, nó làm cho mình đau. Nó làm cho mình nhức chỗ này, đau chỗ kia, để rồi mình đi ra mình trị bệnh. Thì mình đi ra trị bệnh là mình phóng dật, mình theo cái thọ đó là mình bị phóng dật.
(16:02) Đó nó rõ ràng ngay trong thân mình thôi. Mà bây giờ nó nhức cái tay này quá trời, chịu không nổi, đau quá. "Thôi giờ đi bác sĩ coi sao để trị", thì khi đi bác sĩ mình bị phóng dật.
Đó mấy sư thấy chỉ rõ chỗ phóng dật, phóng tâm chưa? Mà bây giờ nó đau nhức vậy là phóng tâm chứ gì? Mà mình dời cái tâm mình đi chỗ khác không được, cho nên vì vậy mà phải đi bác sĩ.
Còn: "Mặc mày, mày đánh cái chuyện tầm thường mà, tao đâu có sợ mày".
Luận cớ: "Tu như vầy buồn khổ như vầy làm sao phải tu thấy an ổn", nó luận hay lắm. "Tu mà vầy thì làm sao?". Nhưng mà khi mà tuôn trào rồi mình luận kiểu đó là mình tiêu. Bình thường nó một, hai niệm, nó khởi một, hai niệm thì mình quán xét được, mà nó tuôn trào thì quán xét không nổi rồi.
Bởi vì bây giờ nước ở trên thác nó đổ xuống mà chặn thì không nổi đâu. "Ờ nó đổ, mặc tình đổ, tao không có theo mày thì thôi, tức tao không phóng dật thôi". Có vậy thôi, âm thầm chiến đấu "Mày phóng tâm gì đó phóng, mày phóng bây giờ kêu là hàng vạn, hàng lố tao cũng không ngán đâu". Đó cứ vậy thôi.
Nghĩa là: "Bây giờ tao khép chân ở đây, tao cũng nương theo các pháp, giờ giấc tao cũng nương như vậy, mà hễ xả ra thì mày phóng mặc tình, tao không thèm".
Đó hồi mình, như vậy chứ thật sự ra thì mình có pháp mà. Mà nó tuôn trào vậy chứ lúc mình nhiếp hơi thở thì nó cũng vắng hoe, tại vì mình biết cách. Do đó mình đi kinh hành nó cũng vắng hoe, nhưng mà mình xả ra là nó tuôn.
Chứ không phải là mình để, mình ngồi đó nó tuôn hoài đâu, không phải đâu. Mình cũng cứ giờ giấc, mình cũng tới giờ: "Ờ bây giờ mình chưa tuôn, nhưng mà tao không có lo mày đâu".
Hễ nó nhiều, nó liên tục nhau đó thì mình không quán nó hết đâu, không có dừng mà quán đẩy lui nó. Một, hai niệm thì mình còn quán, tư duy, còn nhiều thì không quán. Nhiều thì mình giữ chặt độc cư, cũng như ôm cái phao mà chịu sóng gió. Lúc bấy giờ chỉ ôm cái độc cư mà chịu sóng gió thôi.
(17:56) Cho nên Thầy nói: "Bí quyết thành công Thiền định là độc cư". Nghe chữ bí quyết, mà đức Phật dạy bốn mươi hai bài kệ độc cư rõ ràng mà. Mà thường ở trong kinh, đọc lại trong kinh Tăng Chi có nè, Tương Ưng có nè, Trung Bộ có nè. Mấy bộ kinh, bộ kinh nào đức Phật cũng nhắc về độc cư hết. Chứ không có nói mà chỉ có bốn mươi hai bài kệ đó đâu. Nghĩa là luôn luôn nhắc cái đời sống trầm lặng, đời sống độc cư. Mà trong cái bài kinh nào đó mà đức Phật đuổi năm trăm vị Tỳ kheo, đệ tử của ông Xá Lợi Phất và ông Mục Kiền Liên đó, đến mà làm ồn náo, đức Phật đuổi đi.
Thì quý sư biết rằng cái hạnh mà im lặng, chịu đựng, đó không phải là một cái sự dễ đâu. Nghe mình nói như vậy đó chứ không phải là sống đơn giản.
Vua A Xà Thế mà khi mà vào thăm đức Phật mà nghe một cái khu rừng một ngàn mấy trăm vị Tỳ kheo mà im phăng phắc như vậy đó, nhà vua giật mình hỏi vị quan mà hướng dẫn đi đó, nói: "Bộ ông gạt ta hay sao? Đâu có lý mà cái số người đông mà im phăng phắc như vậy". Cho nên chỗ đức Phật ở là im lặng độc cư hết.
Còn mình ở đây đó, Thầy nói thật sự ra Thầy thấy quý thầy làm củi, làm này kia, Thầy thấy không đúng cách rồi, làm ồn náo. Nhưng mà vì cuộc sống của mình còn nấu nướng, này kia, thôi quý Thầy tùy duyên thôi. Chứ còn thật sự khu vực, chỗ này là khu vực mà không có tiếng động nào cả. Trừ ra chim kêu, vượn hót chứ còn chúng ta không được làm động.
Bởi vì Thầy chưa có đủ cái duyên để mà tạo được cái cơ sở để cho quý Sư tu mà. Người nào đến đó lộn xộn, Thầy cho đi xin ăn. Chỗ nào mà ra xin ăn thì thôi, chứ mà không có lộn xộn, không có nấu nướng gì hết. Ở ngoài đó có tiệm cơm người ta nấu, người ta làm cái gì người ta làm, mình lại đó xin thôi. Còn ở đây kẹt quá, bởi vậy Thầy nói khó lắm, nó không đơn giản, tạo cái môi trường để cho quý vị tu.
(19:56) Người nào tu được thì vô tu, mà tu không được thì cứ về, chứ đừng có làm động, Thầy nói thẳng. Bởi vậy đức Phật nói: "Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia sống không nhà cửa, không gia đình". Chúng ta đã chấp nhận cái phạm hạnh đó rồi thì nhất định đời sống chúng ta chỉ còn đi xin. Mà nếu mà chúng ta làm cái chuyện khác là không được rồi. Đi cúng bái, tụng niệm là sai, không đúng. Chùa thì đánh chuông, gõ mõ là không được, cấm bặt hết thứ đó rồi, thứ đó là thứ đời.
Mình tối thì để yên tịnh. Tối thì gõ chuông, gõ mõ, rồi đánh hồng chung đồ nghe rền vang hết. Bộ cái đó nó đưa chúng ta đi lên thiên đàng được sao? Làm hao tốn, một cái chuông là bao nhiêu tiền, bạc, vàng đổ trong đó mà đúc. Chứ đâu phải khi không mà được cái đó, thế mà làm có lợi ích gì đâu?
Bởi vậy Thầy nói những cái hiểu sai lệch nó làm cho chúng ta mất yên ổn. Còn bây giờ thí dụ như mình đi làm cái này, cái kia, chặt cây, đốn củi, làm rần rần, rộ rộ, nó cũng phải động chứ. Thầy nói thật sự ra mà làm những cái điều đó là nó không đúng, nhưng mà ngay bây giờ biết làm sao?
(21:05) Chứ Thầy mà nếu mà Thầy mà có được cái chỗ nào mà yên ổn, mà như ở trong cái. Bởi vì nhà nước này họ bắt buộc mình phải làm để sống, chỗ nào cũng có lao động với làm này kia. Cái người tu, người ta tu, người ta chiến đấu với tâm người ta, ai làm nổi không?
Đức Phật nói: "Thắng trăm trận không bằng thắng mình, thắng mình mới là chiến công oanh liệt". Mà một khi mình chiến thắng mình, đâu phải chuyện làm ít đâu. Hằng ngày người ta chiến đấu từng phút, từng giây, từng niệm, tâm niệm người ta, còn bắt người ta đi làm cái chuyện đó. Đi làm đẹp cảnh cho thiên hạ tới xem chơi nữa, có phải đúng không? Đâu có đúng cái chỗ tu hành đâu.
Cho nên tu là phải tu đúng, mà không tu thì thôi. Không có tạo cảnh cho bà con đến đây xem. Nói thật sự ra Thầy nói thật sự ra bây giờ đây nè, những cái đường xá của chúng ta bây giờ còn có đường mòn vậy thôi, nên không cần mà phải quét, không cần mà phải làm cho nó rộng rãi, sạch sẽ gì hết. Chúng ta đi cho nó, dưới chân chúng ta chừng một khoảng nhỏ như vậy, như đường mòn như vầy cũng đủ rồi. Cũng đủ đi kinh hành rồi, không cần phải dẹp.
(22:11) Đời sống chúng ta là đời sống vô sự, không có phóng dật.
Còn làm cho lớn, thì ta thấy chỗ đó dơ cũng phải đi quét, phải không? Thầy nói thật sự nó phóng dật hết ráo, nó không còn cái gì mà sống gọi là tu nữa đâu. Như vậy là chúng ta muốn giải thoát hay là chúng ta muốn thế tục? Còn nếu mà chúng ta làm sạch sẽ, cảnh quan đẹp đẽ, đó là bị thế tục hoá. Đời người ta cũng chưng kiểng, cũng làm cái đẹp, cảnh đẹp cho người ta sống, người ta hưởng thụ những cái dục lạc đó, mình bằng vua chúa sao?
Hồi xưa mà chúng ta nghe như vua Đường Minh Hoàng, hay hoặc là mấy nhà vua coi. Những cái cảnh mà vườn thượng uyển của họ coi đẹp bao nhiêu không? Mà có còn chỗ nào đâu? Đó! bây giờ chúng ta trở về Huế, chúng ta thăm những cái nơi mà đền vua của nhà vua mà nhà Nguyễn. Bây giờ chúng ta ra miền Trung thì chúng ta thấy có phải đẹp không? Chúng ta bằng họ không? Thế mà bây giờ chúng ta đi tạo những cái chùa để mà làm như cái cung điện ở ngoài Huế, vậy thì thử hỏi chúng ta làm cái thứ gì? Ra cái ôn gì mà chúng ta đi làm cho thiên hạ đi, cho nó làm động.
Thầy nói thực sự tu là tu, vô trong khu rừng đó ở, mai mốt đi chỗ khác, không có ở đó để làm cảnh quan. Đó là một cách thức mà chúng ta tu. Cho nên chúng ta phải nỗ lực tu cho đúng, sống cho đúng hạnh thì chúng ta sẽ đạt.
Cho nên Thầy xét rồi Thầy thấy cuộc đời này, người tu mà, ai cũng ham nhưng mà tu không được. Tâm của họ không vô sự. Họ không vô sự thì họ không giải thoát đâu. Cho nên Thầy nói Thầy chỉ còn hy vọng là ở chỗ viết ra những cái sách đạo đức dạy người ta có đạo đức, người ta giảm bớt được những cái điều ác. Người ta đặt đúng cái lòng thương của họ, để cho họ không làm khổ mình, khổ người. Sống đúng cái đạo đức nhân quả, cái đạo đức nhân bản của con người để cho họ không còn sợ hãi.
(24:08) Chứ còn tu giải thoát mà tu theo kiểu mà gọi là để mà nhập định, để mà làm chủ sự sống chết thì nó không có đâu. Họ sống theo kiểu đó thì kể như là tu nhân quả. Chứ còn tu mà theo mà tu mà giải thoát, Thiền định nó không bao giờ vô hết.
Sư Tuệ Tĩnh: Chứ vậy mà mấy ổng cũng cố ngồi thiền dữ lắm.
(24:30) Trưởng lão: Thầy nói ngồi là ngồi, chứ không làm gì được hết, không có làm cái gì được hết. Bởi vì cứ nhìn đi, từ thầy Tổ của mình cho đến bây giờ mà mọi người họ ngồi rất nhiều, họ tập ngồi rất nhiều. Nhưng mà họ làm được những gì? Không có làm được cái thứ gì hết. Thầy nói thật sự, có ông nào mà ngồi mà làm chủ được sự sống chết đâu?
Thầy nói cái đó là nó cũng thuộc về loại thần thông rồi đó, mà có làm chủ được sự sống chết chưa? Ngồi để mà tìm thần thông chứ gì? Trong khi cái tâm mình như cái bãi rác, mà ngồi ở trên cái bãi rác mà để cho nó thanh tịnh mà nó thành công thì, thôi nói mình, nói làm chủ được sự sống chết thì cái chuyện đó không có đâu. Cái đống rác hốt cho sạch, thì chừng đó nó mới có được những cái điều đó, nó mới đúng. Còn bây giờ nó có những cái điều đó là không hề đơn giản, viễn vông.
Cho nên ở đây thì tu thật, làm thật. Còn chúng ta thấy tu không nổi thôi chúng ta cứ ra đời sống với cư sĩ đi. Chứ đừng có thèm tu mà nó không tới đâu rồi nó mang tiếng. Nó làm cho người ta thấy tu sĩ mà nó vẫn y như người đời, nhận không ra. Chỉ có chiếc áo với cái đầu trọc của chúng ta, bởi vậy không có lý gì hết. Chúng ta (tất cả tu sai), đừng có làm điều giả dối. Thầy nói mình tu sai một chút là mình giả dối đó, mình làm cho người ta phỉ báng Phật pháp.
(25:55) Cái đó là Thầy nói, Thầy nhắc nhở. Bởi vì Thầy tiếc rằng cái duyên của Thầy trong cái kiếp này nó chưa có đủ để mà xây dựng cái cơ sở làm trong cái xã hội này, cái xã hội này không cấp phép. Chứ mà nếu mà nó hiểu biết được nó cho phép thì. Bởi vì bây giờ nó cho phép thì Thầy đâu có cần gì mà Thầy phải đi cất một cái chùa đâu.
Bây giờ cho phép Thầy, Thầy sẽ cho ngươi vô xây dựng nó, ở trong đó. Nó sợ nhất là người ta có cái chùa. Bởi vì cái người làm chính trị họ nói: "Có chùa đẹp đó, thì cái ông đó ổng không dám làm gì hết. Vì ổng làm, ổng sợ nhà nước tịch thu cái chùa ổng sao. Còn cái ông mà không có chùa đó, ông dám làm chính trị lắm đó. Ổng làm rồi, ổng chạy tuốt xứ có cờ thì mình hồi ổng rình đó. Bởi ổng không có chỗ nào nói thành ra nó khó quá. Còn cái ông này có cái chùa đẹp, dụ cho ông cất cái chùa đẹp, cái ổng không dám làm gì hết, không dám chống mình gì hết. Còn cái ông mà ở chòi tranh, vách lá thì sợ lắm. Ổng làm cái chỗ này một keo cái ông nhảy chỗ khác, ông bỏ. Ổng không có tiếc gì hết".
Hồi Thầy mới về đây, Thầy cất ba cái thất nhỏ, mấy ông Nhà nước vô đây: "Cái ông này tổ chức cái gì đây?". Họ nói vậy mà. Chính những người mà bà con xung quanh đây đó, được nhà nước đặt để mà theo dõi. Hỏi: "Ổng làm cái gì ở đây? Mấy người phải theo dõi xem để coi thử coi ổng làm cái gì, ông cất chòi chòi như vậy? Biết đâu chừng ở cho, cái ổng dẫn ra ngoài huyện, cái ông biểu tình một bữa là chắc tụi tui cũng tiêu luôn". Nó dám nói như vậy đó.
Nhưng mà những người này họ đều là mến Thầy, mới đến nói với Thầy nên Thầy mới biết, chứ làm sao mà Thầy biết được điều đó đâu. Bởi vì mình đâu có lưu ý những cái chuyện đó đâu. Thành ra mình chỉ "à bây giờ chỉ làm những chuyện gì đó mình cứ làm thôi", nhưng mà nó thấy cất nhà là nó sợ. Mình cất nhà theo cái kiểu mà cất nhà dã chiến mà. Nó ngán là dựng lên ở vậy, chứ ít bữa đập bỏ, nó sợ lắm. (27:59) Nhưng mà thời gian sau theo dõi đúng là Thầy tu thiệt, cho nên cái chùa này bắt đầu ở nơi đây nó mới được yên ổn.
Thì quý sư nhớ là đầu tiên mà Thầy Như Hải, cô Bảo, cô Chánh, Thiện Ngộ, bốn người về đây ở tu là. Bữa nay về ở đây lên trình giấy tờ xin giấy tạm vắng, tạm trú đàng hoàng. Lên trình rồi thì bữa nay trình thì ngày mai nó vô nó bắt, Nó vô nó mời ra huyện chứ nó không có lên trên xã nữa mà ra huyện nó nhốt ở ngoải. Thì các sư biết nó không phải đơn giản với nó đâu.
Bởi vì khi mà nó mời ra thì nó nói có chuyện, nó mời thôi. Nhưng mà ra ngoải nó bắt nó giam, nó điều tra nó hỏi. Nó hỏi: "Tại sao mấy ông thấy cái chùa người ta ở đây, chùa nào nó cũng khác, tại sao cái chùa này lạ lùng vậy? Chuyên là chòi tranh, vách lá không, mà lại không ở chung, người cái, người cái, có nghĩa là gì? Mấy ông làm cái gì? Mấy ông nói đi". Rồi nó hăm he đủ thứ.
Cái chú Thiện Ngộ là cái chú thanh niên đó, trời ơi. Nó hành chú dữ lắm, nó nhốt chú ở trong cái xô. Cái xô là nó có cái phòng như vầy mà nó chật, ngồi cái đầu phải khum vậy nè, nó nhốt ở trong đó. Mà ở trên là nó lợp thiếc, nó nóng. Chú nói phải cởi quần, cởi áo đó, chứ không phải đâu.
Nhưng mà nó điều tra, nó hỏi ở đây làm cái gì? Như vậy rồi. Còn thầy Như Hải thì ổng già, cô Bảo thì cổ bảy chục tuổi rồi, còn thầy Như Hải thì ổng sáu mươi mốt, sáu mươi hai tuổi rồi, ổng cũng lớn rồi. Còn cô Chánh đó thì có gia đình liệt sĩ, cổ có giấy tờ đàng hoàng. Thành ra mấy ông, mấy người kia thì không có, nhưng có cô Chánh thì có.
Mà bởi vì mỗi người ở một xứ, cô Chánh thì ở dưới Cao Lãnh, thầy Như Hải thì ở Nha Trang, Thiện Ngộ thì ở Bình Dương, còn cô Bảo thì ở Long Đất, Đồng Nai. Bốn người thì ở bốn tỉnh mà tập trung về một chỗ. Nó nói Thầy về đây đặng mà huấn luyện cán bộ, đặng về tỉnh mình mà hoạt động, nó điều tra đó.
(30:14) Thì các sư thấy, Thầy khi mà về đây, Thầy tổ chức một cái nơi để mà đi xin. Thầy tổ chức mà, nhưng mà nó làm xấu lắm, không được. Nó sẽ ảnh hưởng đến cái gia đình của cái người ta khi người ta phát tâm, thành ra không dám. Do đó mới ở trong này mấy cô nấu cơm sớt. Chứ Thầy đề nghị là cô Út nên ra ngoài, ở ngoài tổ chức một cái nơi để mà nấu cơm giúp cho chư Tăng ở trong khu vực này, chứ không phải là ở đây.
Nhưng mà ra ngoài thì mới vừa định tổ chức như vậy thì cái gia đình đó họ cũng rất mến Phật giáo. Họ thấy cái sự tu hành của mình, họ cũng mến. Họ sẵn sàng họ trợ giúp để mà thành lập một cái nơi, để mà mình đến đó thì người ta cúng dường mình, mình chỉ đến xin mình ăn thôi. Cách đây chừng khoảng độ chục cây số, chứ không có xa đâu. Chung một ấp thôi chứ không có gần, không có gần đây. Để cho mình ôm bát, mình bữa nào mình cũng đi ra đó mình xin.
Đó! Thì lúc bấy giờ tính dự định chương trình như vậy rồi, thì cô Út sẽ là điều khiển ở trong cái tiệm cơm chay đó, cái nơi đó. Nhưng mà phía nhà nước họ làm gắt quá, bốn người về chóng mặt rồi. Mà mình hế, mình mở cái tiệm cơm chay ra nữa thì chắc nó nói: "Đây là cái trại tiếp tế lương thực". Nó làm luôn liền đó, chứ đừng có nói chuyện, cho nên Thầy thôi.
Thì hôm nay Thầy nói thật sự ra Thầy thấy, mặc dù là ở đây, nhưng mà ai cũng quyết tâm đến. Quý vị đều về là muốn tu hết chứ không có gì, nhưng mà tu sai pháp. Cho nên tu sai làm sao để giải thoát đây? Nhưng mà bây giờ không có rầy nói thì làm sao các vị nghe.
Chứ Thầy mà nếu mà có cơ sở mà Thầy tổ chức đi xin ăn rồi. Bây giờ muốn tu là phải sống đời sống phạm hạnh đúng. Đời sống phạm hạnh như thế nào sao, sao Thầy xong hết rồi. Mà vô đó thì bắt đầu bây giờ đó, sắp xếp chuyện gia đình gì đó sắp xếp hết. Như bây giờ thí dụ như con phải không? Là sắp xếp được thì mới vô, mà không sắp xếp được thì khoan vô đã. Còn dính líu cái gì thì đừng có vô, vô đây thì phải ái kiết sử phải cắt.
(32:27) Cho nên vì vậy mà Thầy nói có người nói thế này: "Nói cái đó là cái pháp của Thầy đặt ra, cho nên Thầy lấy pháp đó mà thí nghiệm đệ tử của mình". Họ nói vậy nữa. Họ nói: "Thầy bây giờ Thầy nói như vậy, chứ cuối cùng Thầy cũng vẫn còn cô Út, vẫn còn Mật Hạnh, là con cháu của Thầy chứ gì? Biểu người ta cắt đứt hết mà Thầy vẫn còn".
Chứ ngày xưa ông Phật cũng còn La Hầu La, cũng còn ông A Nan, là cũng là anh em của ổng, con của ổng. Rồi vợ ổng đi tu, rồi dì ổng cũng đi tu. Bởi vì người ta đi tu, chứ phải người ta còn ở ngoài đời sao? Còn mình, con cái của mình còn ngoài đời, nhưng mà mình cũng muốn còn nữa, thì mình tu thì tu sao được? Còn Thầy bây giờ cô Út cũng đi tu mà, Mật Hạnh cũng đi tu mà, phải không?
Thì đức Phật ổng nói: "Mình cắt đứt hết thì mình mới được chứ". Còn cái này ổng không thấy. Ổng thấy, ổng tưởng là Thầy còn mấy người đó. Mấy người đó phải chi mà ở ngoài đời thì chắc chắn là không có được. Mấy con thấy đến đây đó, anh em dòng họ của Thầy không bao giờ mà Thầy đến nhà. Nghĩa là coi như Thầy cắt đứt hoàn toàn. Thầy cũng không ngắm nghía ai hết. Mà ai muốn tu thì vô Thầy nhận, mà không tu thì thôi, chứ Thầy không có.
Thầy thì không bao giờ mà Thầy đến Thầy thăm chú, thăm bác, thăm cô, thăm cậu, thăm mợ, thăm người nào hết. Thầy không thăm người nào hết, Thầy cắt đứt hoàn toàn. Bởi vì đối với Thầy, ái kiết sử nó toàn mọi thứ là nhân quả. Ai có duyên cô, bác, anh em ruột thịt, dòng họ của Thầy có duyên thì cứ đến, mà không duyên thì thôi.
Thí dụ họ đến họ thăm Thầy thì thăm, nhưng Thầy không bao giờ đến đó. Cho nên nhiều khi bà con dòng họ Thầy mới nói: "Thầy tu hành không còn bà con dòng họ ai nữa hết". Bởi vì Thầy ái kiết sử Thầy cắt đứt hết rồi, Thầy nói không còn để nữa.
Nhưng mà dòng họ, anh em của Thầy luôn luôn biết được cái sự tu hành, đến Thầy tiếp nhận liền, sẵn sàng hướng dẫn, dạy, Thầy không bỏ. Nhưng mà dính mắc về tình cảm mà gia đình, không dính mắc, không dính mắc ai hết. Đó là những cái cụ thể rõ ràng mà.
Ví dụ bây giờ cô Út nè, mà cổ không tu nè, cổ không sống. Cổ có chồng mà cổ vô đây cổ làm thì Thầy đuổi ra rồi, ở đây không có tình cảm. À, cổ hy sinh cái đời của cổ, cổ ở đây cổ nấu cơm, cổ giúp cho chúng Tăng này, kia. Cổ thực hiện cái tâm cổ tu hành để xả thì được, tốt. Cô Út cổ đang tu thì cứ ở đây.
Còn thầy Mật Hạnh, thầy tu thì thầy ở đây, mà thầy không tu thì ra, Thầy cũng vậy đó. Còn Mật Hạnh hiện giờ các con có biết không? Là nó đi trắc nghiệm sau những lần mà tu ở đây để xem coi tâm nó còn bị động không? Còn bị lôi kéo không? Ở đây tu rồi để thử mà. Nếu mà mình tu mà mình thấy mình còn bị lôi kéo thì mình còn yếu, mình tu nữa. Còn mình thấy không có ai lôi kéo mình được hết thì tốt rồi.
Thì do đó mà những cái trắc nghiệm để cho thấy được cái pháp tu của mình xả tâm đến cái mức nào? Và mình đã làm chủ được mình ở chỗ nào? Và trí tuệ của mình đương đầu với sự vật đó, mọi pháp ở ngoài như thế nào, để rút tỉa những kinh nghiệm đó trong cái pháp có đúng không? Đó! Thầy nói như quý sư thấy rất là rõ trong cái vấn đề mà tu hành một người tu sĩ theo đạo Phật.
(35:54) Còn vừa rồi Thầy đọc cái tập không biết của sư Chương đó, có lẽ chưa đọc. Người ta chỉ trích thầy Chân Quang, tức là thầy Thông Huyễn đó. Phật tử họ mang về cho Thầy. Có nhiều người chứ không phải một người. Nhưng mà cái chỉ trích đúng cũng có, mà cái chỉ trích sai cũng có.
Thầy Chân Quang thì thầy nói thầy ở trong cái thế giới siêu hình thầy ra, cho nên thầy muốn hơn ông Phật. Cho nên họ chỉ trích đó. Bác Đại thừa không đúng, bác Tịnh Độ không đúng. Thầy mượn cái sự nghiên cứu khoa học mà thầy nói đông, tây. Cho nên nói cõi Cực Lạc là cõi Tây Phương đó, luận không đúng. Cho nên chúng nó đập thầy cũng phải. Nó không có đúng cách.
Bởi vì cái ông Phật là ổng là một cái người mà có thể nói là tu chứng cái trí tuệ siêu việt. Không thể nào là con người chúng ta, sau này các Tổ không có người nào mà hơn ông Phật. Các tôn giáo, cái giáo chủ mà của tôn giáo đó, nó chưa có phải là những ông Phật của chúng ta. Cho nên kinh sách đó được cái người sau thêm thắt vào để làm cho cái tôn giáo đó sáng tỏ thêm.
Thí dụ bây giờ cái tôn giáo nào đó, cái ông giáo chủ đó ổng sáng lập ra. Nhưng mà nhờ các cái đệ tử của ổng sau này nó bổ sung thêm những cái kinh sách. Nó làm cho những cái bộ sách - nó chân lý của ông ta, nó sáng tỏ thêm là nhờ cái số đệ tử của mình. Thí dụ như Khổng Tử thì phải nhờ Mạnh Tử, phải không? Đó là những người mà có thể nói là làm cho thêm cái đường lối của Khổng Tử sáng tỏ thêm.
Còn ông Phật Thích Ca nói đủ rồi, nó không cần ai nữa hết. Mà nếu cần thì ông đó không thể nào mà luận nổi, các sư hiểu điều đó. Bởi vì ông Phật là một cái người mà phải nói rằng, khi mà ổng thuyết pháp thì không thể nào thiếu mà cũng không thế nào thừa. Cho nên người sau mà đặt thêm ra nữa thì đó là sai hết.
(38:05) Thí dụ như ông Long Thọ, ổng đặt cái Trung Quán Luận, phải không? Nhưng mà Trung Quán Luận của ổng là của ổng chứ không phải của Phật. Người ta thấy là nó hay, nhưng mà sự thật nó hay của ông Long Thọ chứ không phải là của Phật. Phật vừa đủ cho chúng ta để xây dựng một con người có đạo đức, một con người có làm chủ sự sanh tử luân hồi. Có thần thông đầy đủ nhưng không quan trọng đối với thần thông. Không có những cái lý luận, lý luận rất là thực tế, cụ thể, không có lý luận mơ hồ.
Còn ông Long Thọ ổng lý luận, lý luận cái kiểu lý luận mơ hồ, trừu tượng. Người ta thấy hay nhưng mà cái hay ở trong cái tưởng rồi đó, chứ không thể là cái hay ở trong thực tế. Còn ông Phật, cái lý luận của ổng, cái lý luận đơn thuần, cái lý luận mộc mạc nhưng rất thực, mỗi pháp đều chỉ rõ.
Chúng ta đọc lại kinh Nguyên Thủy, chúng ta thấy không thể nào mà ai sửa gì được hết, mà cũng không ai thêm được cái gì vô trong đó nữa. Nói rõ, nói đúng đời sống của chúng ta khi mà thực hành. Cho nên người nào mà thêm vào đạo Phật, tưởng là hay, tức là muốn làm hơn ông Phật thì không được đâu. Đối với ông Phật không thể kẻ nào mà hơn được.
Cho nên người sau chúng ta học của ông Phật chưa hết thì không thể nào mà làm hơn ông Phật được. Bất quá Thầy có thực hiện được những cái thần thông như ông Phật, nhưng mà đối với cái sự mà ổng đã nói, đã luận ở trong kinh sách thì Thầy không thể nào đi qua khỏi ông Phật. Nội hiểu cái của ông Phật không mà hiểu còn không nổi, thì thử hỏi hiểu cái gì? Làm sao thêm ở trong đó được? Cho nên các Tổ của chúng ta làm những cái điều đó, cái thực chất muốn hơn ông Phật.
(39:48) Thì bây giờ đó, ngay cả bây giờ Thầy thấy, những cái. Mặc dù Thầy chưa có được nghe những cái lời thuyết giảng của thầy Chân Quang như thế nào, nhưng mà ở trong đó họ trích ra. Bởi vì đưa trên mạng internet mà, đưa lên trên mạng để cho cả thế giới người ta xem. Cho nên Thầy không có được nghe cái băng, nghe những cái lời giảng của thầy Chân Quang. Nhưng mà trong khi mà họ trích ra, thì những cái đoạn đó Thầy đọc sơ qua, Thầy thấy có nhiều cái sai.
Chính ông Phật đã nói rằng: "Thế giới siêu hình là thế giới tưởng". Thì có cái thế giới siêu hình nào mà thầy Chân Quang ở mà đi ra? Thầy tưởng mà thôi. Ông Phật nói đúng là không có cái gì cả, đó là bằng chứng sự thật mà. "Tưởng tri chứ không phải liễu tri mà", nói rõ ràng mà. Thế mà bây giờ nói như vậy là sai.
Còn mượn mà nếu mà nói rằng: "Một cái tôn giáo phải có người sau thừa kế để mà chỉnh đốn những cái tạng kinh như rừng của mình mà bây giờ đó, thì Phật giáo phải có như vậy thì nó mới là, mới hay, mới đúng". Sự thật không phải đâu, cái đó là cái sai của Phật giáo rất lớn. Bởi vì như vậy ông Phật là cái người chưa đại giác, chưa có đủ cái trí tuệ. Cho nên người sau họ còn thêm thắt, họ còn luận cái này, luận cái kia thêm ở trỏng, thì nó không có đúng. Đó là những cái sai.
Thỉnh thoảng thì nó có những dịp Thầy sẽ vạch ra hết những cái này, để cho thấy là cái người sau đã thêm không có đúng, chớ không phải là của Phật. Nhưng rất đụng chạm. Nhưng đụng chạm là đụng chạm, phải chỉnh đốn lại Phật giáo. Bởi vậy Thầy tiếc, quý sư cố gắng nỗ lực tu hành, để rồi chúng ta có đủ cái khả năng, cái khả năng chúng ta chỉnh đốn lại Phật giáo.
Khả năng của chúng ta là khả năng không có thời gian, để chúng ta trở về cái quá khứ, chúng ta quan sát lại những cái lời đức Phật dạy ngày xưa. Cái này thật sự không có cái nào giả dối đâu. Cái thời gian nó sẽ bị cô đọng lên trên một điểm quá khứ, vị lai và hiện tại. Lúc bấy giờ chúng ta sẽ phá vỡ cái thời gian, thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ ở trên một cái điểm. Trên một điểm chúng ta sẽ nghe được những cái lời của Phật dạy ở trong những cái bài kinh, bài kinh đó có hay không?
(42:03) Thí dụ bây giờ chúng ta lật kinh Trung Bộ ra, chúng ta coi thử cái bài kinh đó như thế nào, có hay không? Ví dụ bài kinh Gopaka, xem coi có cái bài kinh này không? Ai đặt cái bài kinh này? Thì lúc bây giờ chúng ta trở về cái thời điểm mà cái bài kinh này đức Phật đã thuyết.
Thì cái thời gian nó nằm ở trên một cái điểm đó, thì lúc bấy giờ chúng ta, ý muốn của chúng ta nghe cái bài kinh đó là chúng ta đã nghe liền, chứ đâu có cái gì đâu. Bởi vì cái pháp hướng của chúng ta đã tinh nhuệ, tức là nó đủ cái lực của chúng ta. Cho nên khi mà tâm chúng ta khởi muốn cái bài kinh này, cái thời điểm đó coi có hay không? Thì ngay đó chúng ta nghe tiếng nói của Phật còn vang rền trong tâm tư của chúng ta. Lời nói rất rõ ràng, từng chữ, từng nghĩa, chứ không phải như mấy ông kết tập đâu.
Sư Tuệ Tĩnh: Cái đó là trong Tam Minh hả Thầy? Khi mình tu tập được Tam Minh hả Thầy?
(42:50) Trưởng lão: Tam Minh đó.
Sư Phước Nhẫn: Xin bạch Thầy, trường hợp mà Đức Phật nói tiếng Pali đó thì người Việt mình nghe được, hiểu được?
(42:58) Trưởng lão: Nghe toàn bộ, nghe hết. Khi mà ở trong tâm thì không có tiếng nào mà mình không nghe, nó không có cách. Cái loài chim nói mình cũng nghe được nữa, chứ đừng nói loài người. Nghĩa là bây giờ thí dụ như cái ý của người đó khởi ra là mình đã hiểu ở trong đó chưa nói ra lời, huống hồ là ngôn ngữ. Cho nên khi mình ở trong tâm mình, mà ở trong cái Tam Minh rồi đó, thì không có cách biệt cái không gian và thời gian. Tức là không có bị cái ngôn ngữ nữa, hết bị ngôn ngữ. Còn mình không có ở trong cái Tam Minh thì bị ngôn ngữ.
Bởi vậy mình đâu có cần phải học, từ điển thông suốt hết à. Mình học để cho mình sử dụng mình nói ra thôi. Chứ còn cái hiểu của cái người đó, người ta như thường. Nhưng mà lúc bấy giờ người ta ở trong đó mà người ta sử dụng cái thân người ta để nói, người ta điều khiển nói tiếng Anh, tiếng Mỹ như thường, không có khó khăn, không phải cần học đâu. Nói giống giọng, nói đúng giọng tiếng Pali, hay tiếng Sanskrit gì thì nói không có trật.
(43:55) Kinh lắm! Thầy nói, bởi vậy Thầy nói: "Chúng ta chỉ bây giờ chỉ đi ăn mót từng chữ sinh ngữ để mà ráng học, để rồi đi ra làm để thông dịch viên, để mình đi nói chuyện".
Thầy nói: "Đi tu đi, rồi chúng ta sẽ dùng nó khi cần". Chúng ta chỉ cần ở trong Tam Minh là chúng ta đã thực hiện được những cái gì mà khó khăn nhất, mà cuộc đời này nó phải là năm năm, mười năm mà học. Còn chúng ta chẳng học gì, bởi vì tu mà, không học gì hết, nhưng mà rất thông. Thầy nói thực sự, chúng ta không muốn sử dụng thôi, chưa muốn sử dụng thôi.
Bởi vậy Thầy chỉ mong rằng có một người, hai người để chứng minh cho lời nói của Thầy là có. Còn không người ta chỉ nói Thầy nói láo, Thầy chỉ nghĩ vậy thôi.
Sư Tuệ Tĩnh: Cái thời gian mà mình tu đó Thầy, trong những lúc mình mà Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, cái khoảng thời gian đó bao lâu thưa Thầy?
(44:51) Trưởng lão: Khoảng từ Nhị Thiền cho đến Tứ Thiền chỉ trong vòng cao lắm mà dùng pháp Hướng, ba ngày là xong. Còn cái Sơ Thiền ba năm chưa rồi. Bởi vì cái đời sống phạm hạnh của nó không phải đơn giản đâu.
Người ta sống trong dục lạc rồi, mà đời sống phạm hạnh là nghịch lại với nó toàn bộ rồi thì người ta khó lắm. Mặc dù bây giờ mình ráng mình ức chế cái thân mình để nó sống vậy, chứ cái tâm mình nó vẫn còn ham muốn, chứ chưa phải hết.
Sư Tuệ Tĩnh: Phải gột rửa cái tâm cho thiệt sạch.
(45:22) Trưởng lão: Thiệt sạch rồi thì cái Thiền Định nó rất dễ, nó không còn khó nữa. Bởi vì tâm nhu nhuyễn nên dễ sử dụng. Còn tâm mình nó chưa nhu nhuyễn thì không sử dụng nổi đâu. Cho nên đừng có mong Thiền Định. Thiền Định nó để dành cho những cái người tâm thanh tịnh, chứ mình không thanh tịnh thì không được đâu.
Cho nên Thầy nói đó ba bữa đó là nó lâu đó. Nghĩa là tâm thanh tịnh mà ba bữa là dùng pháp Hướng là lâu đó. Chứ trong một đêm là nó xong rồi. Mà muốn nhập định nào là trong một đêm hướng năm, mười lần là nó đã vô rồi.
Mà khi vô rồi thì người ta không cần hướng nữa, người ta chỉ khởi muốn một cái là nó vô. Muốn Nhị Thiền là nó có Nhị Thiền, chứ chưa có nói u ờ mình phải ra lệnh, nó phải nhập liền. Bởi vậy người ta nói hướng tâm tức là người ta nói khởi muốn thôi, chứ không phải gì. Dục Như Ý Túc mà. Bởi vì Tứ Như Ý Túc thì nó có Dục Như Ý Túc mà, mình muốn Định Như Ý Túc thì nó.
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 02
SỐNG PHẠM HẠNH VÌ
SANH TỬ - LUÂN HỒI
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [46:29]
Thời gian: 2002
Tên cũ: 01B-SongPhamHanhViSinhTuLuanHoi
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-02-song-pham-hanh-vi-sanh-tu-luan-hoi.mp3
Để mà chúng ta làm chủ sự sống chết, cái này là khó nhất. Nói vậy thôi chứ không có vậy. Mà vì một cái gì mà chúng ta phải chấp nhận sống phạm hạnh? Vì sinh tử luân hồi, vì khổ đau của kiếp người, chúng ta mới phát hạnh. Chứ đời sống mà phạm hạnh khổ lắm! Lấy gốc cây mà làm giường nằm, ăn thì đi xin từng nhà, chứ không phải là được một nhà cung cấp mình, cũng không đúng đâu.
(0:26) Như đức Phật nói mà xin ăn, mà phải xin nhà cho miếng, miếng. Chứ còn mà một nhà cho đủ ăn là thấy cũng chưa phải đúng đâu. Cho nên, thí dụ bữa nay nhà này cấp đủ ăn bữa nay, nó cũng chưa đúng cái hạnh đâu. Ờ, lại chỗ này họ cho chén cơm, lại kia họ cho miếng muối, chỗ nọ họ cho cọng rau thì cái đó là đúng cách, là cái phạm hạnh đó. Kinh lắm chứ không phải dễ đâu.
Còn y áo mà nó lành lẽ như quý sư thì không phải y phấn tảo đâu. Nghĩa là dơ bẩn mà như cái áo của Thầy như thế này ấy, rồi vá víu là đúng phấn tảo rồi. Thì các sư nên nhớ rằng hết còn có làm đẹp chỗ nào nữa hết. Chứ nhiều khi nó làm như thế này, nó còn đẹp đó, là ông sư cũng đẹp lắm ấy chứ. Còn ông sư mà bận đồ vá, đồ dơ, đồ bẩn như Thầy vầy đây, ông sư hết đẹp rồi. Thấy là hết có muốn có tình cảm gì ông sư đó nữa.
Như vậy mới dễ tu đó. Chứ Phật tử nó có tình cảm, nó cung cấp thôi ăn, uống, mặc đầy đủ hết thì chắc ông sư đó chết luôn rồi. Còn nó không tình cảm, nó không cúng dường. Ông đến, thấy nó nghèo quá họ thương, họ cho để sống vậy chứ, thấy ông sư cũng thấy không ưa. Đó! Thầy nói thật sự, càng mà ăn mặc xấu. Người ta cảm tình được là thấy ông đó đẹp. Còn thấy ông đó mặc đồ bẩn thỉu, dơ dáy người ta không có cảm tình bằng cái người mà sang đẹp. Cái tình cảm con người họ đặt sai hướng. Họ chỉ có thương thôi. Thương là tại ông đó nghèo quá, không có quần áo, rách rưới, mặc đồ bẩn, thương! Thương hại đó, chứ không phải là thương thật. Còn thấy cái ông đó ăn mặc sang đẹp, cái tình cảm của họ đặt vào đấy. Cho ổng ăn cái này, giúp cho ổng cái kia nữa, ổng là Phật, đẹp!
(2:19) Cho nên người ta tưởng ông Phật đẹp lắm như là cái cốt tượng, nhưng không phải. Ông Phật xấu lắm, như cái ông già lụm cụm. Ăn ngày một bữa, đâu có ăn nhiều được, đâu có mập được. Còn bộ xương không, chứ làm gì mà mập được. Thế mà ông Phật của mình như búp bê. Như đứa bé mà nó đã sổ sữa vậy, cha mẹ cho uống sữa quá tay, nó ú nù. Bởi vậy từ cái tượng Phật, nó đã hiểu lầm ông Phật rất đẹp. Thì Thầy thấy không phải, ông Phật không đẹp. Đẹp sao ông bảo: "Cạo bỏ râu tóc khoác áo cà sa?". Là đâu còn đẹp nữa. Nghĩa là làm cho hết đẹp rồi mà, còn cái gì đẹp nữa? Thế mà bây giờ chúng ta lại sai, hiểu sai. Tưởng ông Phật đẹp lắm, nào hào quang, tướng hảo quang minh. Thầy nói cái thân này bây giờ có tướng hảo quang minh, nó cũng là một đống rác hôi thúi, chứ có gì? Phải không? Có cái thân ai mà đẹp đẽ mà gọi là nó không thơm bao giờ đâu?
Bây giờ chúng ta thấy có một cái người đó đẹp thật đẹp. Nhưng mà họ nhổ nước miếng ra, họ khạc đàm ra, chúng ta thấy đẹp chỗ nào? Ghèn cháo đẹp chỗ nào? Cứt mũi nè, cứt ráy nè, chỗ nào đẹp nữa đâu?! Đâu thấy đâu có đẹp đâu! Thật sự ra, cứ hễ mang cái thân này thì không bao giờ đẹp hết. Thậm chí như có người đến đây hỏi Thầy, nghe nói: "Một người tu cái thân không có cần tắm nữa, mà nó thơm tho". Thầy nói: Chỉ có con chồn hương hay là con chồn đèn, chồn xạ nó vậy thôi chứ. Còn không có con người mà mang cái thân này mà gọi là thơm tho nữa. Chỉ có con chồn xạ là nó thơm theo kiểu nó. Tu mà thành chồn xạ chắc Thầy không có ham đâu". Thầy nói thẳng mà, cái thân này là cái thân hôi thúi mà, nó bẩn thỉu mà.
Cái thân là do đất, nước, gió, lửa hợp lại mà, làm sao mà gọi là tu mà để cho thơm tho? Mấy người nói, cái đó là cái sai! Người ta tu là người ta ra khỏi cái thân cũng như người ta ra khỏi cái tù. Còn vầy để cho thơm tho đặng mang đi. Thầy nói thật sự, Thầy mua một lố nước thơm, một lố dầu thơm, đi đâu Thầy cũng xịt vô trong đó thì chắc là thơm dữ lắm. Thì Thầy cần gì mà Thầy phải đi tu chi cho nó cực, để mà cho cái thân nó thơm. Chỉ đem dầu thơm mà xịt cho nó cũng thơm chứ gì?
(4:47) Thành ra những cái lý luận đó sai!
Có cái thân của chúng ta nhập định nó cứng, có. Nó cứng như đồng sắt, có. Chứ còn cái mà nó thơm tho thì không có đâu. Đó là những cái lý luận nó không có logic, nó tưởng tượng quá nhiều. Mà đó là cũng những bậc mà gọi là những bậc mà thuyết giảng uy tín lắm. Mà dám nói với Phật tử điều đó, huyền ảo thêm cái điều đó. Nói sự thật thì họ chỉ nghe vậy.
Mà ngài Thường Chiếu nói:"Một con chó sủa, một bầy chó sủa theo", chẳng có biết cái đúng cái sai gì hết. Thấy cái nhành cây rục rịch cái là một con chó sủa lên, một bầy chó cũng nhóng sủa lên. Mà cái rừng cây nó gió nó thổi nghe rục xột xạc cái là nó sủa lên. Chẳng biết đó là ma hay là người ta hay hoặc cái gì, nó chỉ nghe rục rịch cái là sủa thôi, có phải là con chó ngu không?
Mình đâu phải là con chó ngu mà đụng đâu sủa đó. Bữa cái bà Phật tử hỏi Thầy, Thầy nói hơi nặng bả. Thầy nói mình đâu phải con chó ngu, nghe người ta nói đâu cái sủa theo đó, không có suy tư gì hết. Cái thân bà thơm tho lắm sao? Bà tu đi cho nó thơm, hay là bà ra ngoài chợ bà mua, bữa đó Thầy nói mà: “Hay là bà ra chợ bà mua một lố dầu thơm?”, thì bà xịt vô cái nào thơm? Bà phải lý luận cho nó có cái gì cho nó đúng đắn, cho nó logic. Chứ bà lý luận kiểu gì kỳ vậy, nghe người ta cái tin theo hà.
(6:28) Cho nên ở đời, mình đừng có nghe cái gì hết. Người nào lý luận thì thấy ờ cái đó đúng, nhưng nhiều khi nó sai. Người ta ghét mình, thí dụ như người ta ghét Thầy. Cái câu của Thầy nó đầy đủ ý nghĩa, họ cắt bớt đi, nó làm lạc nghĩa đi, rồi họ chỉ trích mình. Cho nên chưa chắc đã là nó, cái chỉ trích đó là đúng. Cũng như ông Phật, thí dụ như ổng, bốn câu kệ của ổng:
Thiên thượng thiên hạ,
Duy ngã độc tôn.
Nhất thiết thế gian,
Sinh lão bệnh tử.
Ổng cắt hai câu, còn hai câu ông để ông nói cái chuyện khác. Nó làm cho lạc cái ý của người ta mất đi. Rồi bây giờ bà con mình cũng xúm nhau đó mà sủa nhau cũng y như vậy hết, có phải không?
Bây giờ cứ: "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn" thôi, còn hai kia ăn mất đi. Rồi bà con cũng xúm nhau sủa nhiêu đó thôi, không phải là chúng ta ngu hay sao? Có thông minh chỗ nào đâu? Mà các Tổ dám làm chuyện đó, thử hỏi coi? Nói hơn Phật đó.
Bây giờ bốn câu kệ của Phật, Phật nói như vậy là thừa, dở, còn phàm phu. Giờ cắt nó ra thì nó là cao siêu chứ gì, thì có phải ngon hơn? Bởi vậy luận như vậy nên nó ngon lắm. Sự thật nó là cách, nó cách lìa con người, cách lìa cái sự sống thật.
Còn bốn câu kệ người ta, nó gắn liền với đời sống của con người. Còn cái kia nó cắt, nó lấy hai câu đó, nó làm cho cái đạo Phật nó lên ở trên mây xanh. Nó ủy mị, nó lừa đảo, nó lường gạt người ta, có phải đúng không? Thì phải suy nghĩ tới cái điều đó. Nó dám cắt để cho nó đưa cái ông Phật, đưa cái đạo Phật lên trên tận đỉnh mây xanh. Để rồi từ trên đó rớt xuống, nó chẳng có gì hết.
Sư Phước Nhẫn: Cái đó bên Đại thừa cắt ra hả Thầy?
Trưởng lão: Đại thừa chứ ai dám làm cái chuyện. Chỉ có ông Đại thừa.
(8:15) Còn Nguyên Thủy đâu có dám chơi kiểu đó đâu. Bởi vì Nguyên Thủy là giữ nguyên cái gốc, vậy mà người ta còn chen vô đó được. Huống hồ là Đại thừa thì nó bay bổng ở trên mây mà. Trời! Nó luận như ông Long Thọ, ông Mã Minh, ông… mấy ông đó những cái tay luận mà. Ông Thế Thân, mấy cái ông đó là mấy ông luận dữ tợn, Bà La Môn luận dữ tợn mà. Luận riết rồi thành ra Phật giáo nó đi trên mây xanh, nó Đại thừa, tối thượng thừa hết.
Còn Phật giáo bây giờ, nói thật sự ra nó còn Tiểu thừa, nó còn nhỏ quá, thua mấy ông hết hà. Bởi vậy, nó nhờ đệ tử nó mới đưa được Phật giáo mới cao. Chứ còn nếu mà không có mấy ông đó, thì kể như Phật giáo bây giờ nó cũng còn nằm Tiểu thừa, chứ đâu có lên tới Đại thừa, Tối Thượng thừa đâu, nó nhờ đám đệ tử đó.
Sư Tuệ Tĩnh: Lên mà ở dưới chân mình hổng hết trơn.
Trưởng lão: Thì dưới chân này nó còn… Mà sự thật nó lên mà nó lên tầm bậy, chứ lên đúng sao.
Thầy nói lên tầm bậy, nó lên, bây giờ có ai làm được như Phật không? Chứ phải mà nó lên được mà người nào cũng chứng như Phật, Thầy nói, hay à! Cái này nó lên đúng. Còn cái này nó lên sai, cho nên ông nào cũng chết nhăn răng méo miệng hết. Có phải ông Tổ nào cũng chết nhăn răng méo miệng không?
Mấy ông đừng có nói “thu thần nhập diệt”. Không! Thầy nói thật sự. Có nhiều ông, bây giờ Hòa thượng mình họ tịch, họ chết đem nhà thương mổ xẻ tan nát hết, cũng nói thu thần nhập diệt. Mà không biết thu thần thu cái thứ gì đó mà thu, mà chết chúng mổ cho tan nát hết. Còn ông thì ung thư méo miệng, méo mồm, nó đau, rồi cũng thu thần nhập diệt. Đau quá chịu không nổi rồi cũng chết, chứ ở đó thu thần nhập diệt. Bởi vậy mấy ông nói, thật sự ra nói những cái nói của mấy ông đó thì nó không đúng cái sự thật. Nó làm cho chúng ta, cái người Phật tử không có hiểu, họ mới tin theo.
(10:12) Cho nên hôm nay Thầy nói thật sự, chúng ta ráng làm sao mà chỉnh đốn lại Phật giáo. Một mình Thầy chưa đủ. Chưa đủ. Mà quý sư thì ráng nỗ lực sống cho đúng phạm hạnh. Thầy nói sống cho đúng phạm hạnh: ăn, ngủ, độc cư. Mà ăn với ngủ, phải cố gắng chiến đấu, mà cố gắng chiến đấu ngủ là đi kinh hành nhiều. Còn độc cư là nhất định, niệm nào phá độc cư, nhất định là phải phá. Độc cư là không được nói chuyện phiếm nè, không được nói chuyện nè, không được làm công việc gì hết, mới gọi là độc cư. Sống một đời sống như vậy mới đúng nghĩa của phạm hạnh. Cho nên chúng ta sống những thứ đức hạnh này, thì chúng ta sẽ làm sáng lại đạo Phật. Chỉ có sống mà thôi. Bởi vậy Thầy thường nhắc: “sống là tu, tu là sống”.
(11:00) Nhớ kỹ! Những cái lời dạy này ở trong băng thu rồi không mất đâu, nhớ về mở lại nghe tới nghe lui mà sống cho đúng những cái lời mà Thầy dạy. Vì Thầy nói rằng ông Phật sao, mình như vậy, Thầy làm được những gì thì các sư sẽ được như vậy. Không, dù bây giờ, Thầy không hiện thần thông. Thầy sợ Thầy hiện thần thông là làm cho người ta nhắm vào cái thần thông, mà không nhắm vào cái phạm hạnh. Người ta ráng, người ta sống phạm hạnh là vì thần thông chứ không phải là vì phạm hạnh. Mà ở đây chúng ta tu vì phạm hạnh chứ không phải vì thần thông. Vì tâm bất động trước các pháp, trước các cảm thọ chúng ta. Chúng ta tu vì sự giải thoát, chứ không phải vì thần thông.
Còn thần thông nó là cái thứ huyễn hóa, cái thứ phụ. Nhưng chúng ta vẫn có đủ, chúng ta sẽ chứng minh được những cái điều này. Đó, thì cho nên chúng ta phải nhìn vào cái chính mà không nhìn vào cái phụ, cái phụ sẽ được. Bởi vì Thầy nói, tâm thanh tịnh thì nhu nhuyễn rồi thì dễ sử dụng, muốn làm gì cũng được, nhưng mà chúng ta không ham nó đâu. Chúng ta làm sao cái mục đích bấy giờ chúng ta làm, mà bây giờ chúng ta còn ham, mình ráng mình tu để cho có thần thông, thì cái phạm hạnh này không được. Thầy nói bởi vì còn cái tâm tham này thì không được.
Cho nên bây giờ, Thầy thể hiện thần thông, Thầy bay lên trời được, Thầy hóa hào quang. Tối Thầy hóa hào quang Thầy sáng trời kia kìa. Nhưng mà quý sư có cái tâm niệm đó rồi thì ông không xả nổi cái tâm này. Vì muốn được cái kia mà ông thực hiện cái này, ráng tức là ức chế rồi. Ráng mà sống phạm hạnh để cho được cái này chứ gì? Thì cái tâm tham nó trở thành cái gánh nặng, tham thần thông. Cho nên nó không đạt được! Cho nên Thầy nói nó là huyễn hóa, nó không thật. Đức Phật đã nói huyễn hóa rồi, thì chúng ta biến thành cái mục đích này không có được.
Thị hiện là đối xử. Thầy nói, bây giờ có ông đó tu Mật Tông, ổng có thần thông. Mà ổng bây giờ ông nghe Thầy bác ổng là Mật Tông thế này thế khác. Ổng đến để ông thi triển để mà ông quyết tâm ông hại Thầy, thì Thầy sẽ thực hiện thần thông với ông. Đối phó, chứ còn không thực hiện tầm bậy. Thực hiện tầm bậy thì đệ tử của mình, nó cứ nó nhìn cái thần thông đó, nhìn làm sao mình ngồi mình phóng hào quang được, như Thầy là ngon. Thì cái tâm này nó không diệt được, mà nó không diệt được thì cái tâm thanh tịnh này nó không được, nó khổ đến nỗi không vô nổi.
(13:11) Chứ phải chi, mình luyện một cái khác để có thần thông. Cái này, bây giờ luyện cái bùa cái chú gì để nó phóng hào quang lên. Cái đó nó ngoài cái tâm thanh tịnh của mình rồi thì nó được. Còn cái này nó do cái tâm thanh tịnh mà nó được cái này. Thì bây giờ cái tâm nó mất cái này mà nó không thanh tịnh được, thì nó không được cái này. Bởi vì Thầy biết được cái đó, cho nên nó khó đó đó.
Cho nên ví dụ như, chẳng hạn bây giờ cái tâm niệm của quý sư như thế nào, là một người nhập Nhị Thiền người ta đã biết. Như trong cái bài kinh, vừa rồi in tập I, Thầy có in nhuận lại cái chỗ mà ba cái loại thần thông đó. Thì cái chỗ loại thần thông đó, trong cái bài kinh Phật cũng nói rất rõ mà. Thấy tướng, người ta biết được tâm niệm, nghe tiếng nói, người ta biết được tâm niệm, phải không? Còn bây giờ không cần thấy, không cần nghe, không cần thấy tướng, không cần nghe gì, mà có người hỏi người đó như thế nào? Biết rõ nói hết, nói không sai chỗ nào.
Mà cái thiền đó là Nhị Thiền, chứ đâu phải, nhập diệt tầm tứ, nhập Nhị Thiền là cái đó được rồi. Chứ đâu có phải cần phải nhập tới Tứ Thiền. Chúng ta thấy, từ cái Sơ Thiền tâm thanh tịnh mà chúng ta được thì cái Nhị Thiền rất dễ. Mà Nhị Thiền rất dễ thị hiện ra cái thần thông chúng ta thấy rõ rồi. Mà nó đâu có cái quan trọng gì đâu, chỉ nói chơi vậy thôi, chứ nó ích lợi gì cho người ta đâu!
Như vậy Thầy nói thật sự, kinh điển Phật đã xác định thì rõ ràng và cái sự thực hiện của Thầy, Thầy thấy rất cụ thể. Cho nên, ai làm sao hơn ông Phật được?! Ông Phật đã nói mình chỉ có làm lợi mà làm chưa hết, làm sao mình luận hơn ông Phật được? Còn mấy ông Đại thừa như ông Long Thọ nè, ông Mã Minh nè, ông Thế Thân ổng nói vậy chứ ông có làm được không? Ông có tàng hình biến hóa được không? Hay là ông luận suông ở trong kinh sách ông nói thôi? Ông nói hay mà ông có làm gì được không? Ôi! Bộ Bát Nhã của ông quá trời quá đất. Cái bộ Trung Quán Luận của ông luận về Tánh Không, nó quá trời hay. Nhưng cuối cùng ông có làm được những gì? Chỉ thấy nói vọng ngữ thôi. Có phải không?
(15:12) Cho nên ở đây Thầy thấy hầu hết là các Tổ mình chỉ nói cho cao, chứ còn làm không được. Lời nói với cái hành động nó không đi đôi, tức là không nhất quán. Còn lời nói của Phật nó đi đôi với cái hành động. Đức Phật nói đâu làm được đó, nói ba tháng ta nhập Niết Bàn là ba tháng ta nhập, không sai chỗ nào. Mà nhập Niết Bàn bằng cái đường lối nào, nhập cho chúng ta xem. Ba lần nhập tới nhập lui để chúng ta thấy, chứ không phải gạt chúng ta.
Còn mấy ông nói cũng tự tại sinh tử, mấy ông trèo lên sàng thiền, mấy ông ngồi, mấy ông nhập. Nhập cái gì đó? Cái pháp nào mấy ông nhập được cái đó? Mấy ông có làm như ông Phật không? Mấy ông chỉ láo. Thì mà ông Bàng Uẩn, cha con ông Bàng Uẩn chết, chúng ta đọc thấy có không? Trèo lên sàng thiền ngồi, chui lên chiếu ngồi, nhập định cái rồi bỏ thân. Nhập cái định nào đây? Còn ông Bàng Uẩn thì nằm ở trên bắp đùi ông ta nhập định cái rồi bỏ thân, nhập cái định nào mà ông bỏ thân? Không có nói.
Ông Phật rõ ràng lắm, chứng minh rõ ràng, chúng ta thấy được cái chỗ mà nhập diệt đó, nhập Tứ Thiền là xả bỏ bảo thân. Đúng! Không sai. Bởi vì Tứ Thiền tịnh chỉ hơi thở, hơi thở không thở là con người chúng ta chết. Còn mấy ông nhập cái Định gì mà hơi thở mấy ông dừng? Mấy ông nói đi. Mấy ông không nói được mà mấy ông nói cái chuyện. Cũng như là quý Hòa thượng bây giờ đó, chết ở trong đau khổ mà nói là “thu thần nhập diệt”. Cái đó là nói láo, nói không thật.
Đó thì hôm nay, Thầy nói, cái con đường của Phật nó cụ thể rõ ràng. Thứ nhất chúng ta là con người phải sống Đạo Đức Làm Người. Đạo Đức làm người như thế nào? Không làm khổ mình khổ người. Mà không làm khổ mình khổ người thì tức là ly dục ly ác pháp rồi. Nếu mà còn dục thì không thể nào mà chúng ta gọi là không làm khổ mình khổ người. Hễ còn dục, tức là còn khổ mình. Hễ còn dục, tức là người ta nói nặng mình là mình giận liền, mình sân liền. Mà sân tức là mình là khổ mình rồi, thì làm sao gọi là không làm khổ mình khổ người? Thì đủ biết tuy rằng nói rằng Đạo Đức không làm khổ mình khổ người là phải tu tập, mà phải biết đủ mọi cách nó mới không làm khổ mình khổ người, chứ không phải đơn giản. Nội học cái đạo đức đó cũng thấy là đủ cái đời sống của chúng ta là giải thoát rồi.
Còn cái phần kia chúng ta không quan trọng đâu. Nhưng mà cái đạo đức này có được thì cái phần kia chúng ta làm được, tâm nhu nhuyễn rồi. Chúng ta tu có một cái à, có phần này thôi à, còn cái phần kia chỉ ra lệnh thôi.
(17:38) Thì như vậy là Thầy nói, một đêm là đức Phật đã Tam Minh đã xong rồi, có đúng không? Còn ba ngày đó là tại vì chúng ta, nói chung là cái pháp hướng chúng ta còn phải nhắc tới nhắc lui nhiều lắm, ba ngày là tối đa.
Sư Tuệ Tĩnh: Cái Tứ Thiền tới Tam Minh mấy ngày Thầy?
Trưởng lão: Coi như là nhập Tứ Thiền thì kể như là canh một, canh hai, canh ba giữa, đầu canh phải không? Rồi canh giữa, canh cuối là xong Tam Minh.
Sư Phước Nhẫn: Cái đó là tập. Còn Thầy, Thầy được là bao lâu Thầy?
Trưởng lão: Thầy nói, nó chỉ có một đêm là xong rồi. Phật cũng vậy, Thầy cũng vậy à. Bởi vì nó nhu nhuyễn quá.
Sư Tuệ Tĩnh: Thời gian Tứ Như Ý Túc đó hả?
Trưởng lão: Tứ Như Ý Túc, tức là mình từ cái Định Như Ý Túc, từ cái này kia tập luyện đồ đó. Thì cái đó nó, mình tập luyện nó lâu lắm.
Nhưng mà lâu nhất là cái chỗ mà tâm ly dục ly ác pháp. Còn cái kia mình chỉ hướng một lần, hai lần, mười lần là nó thấy tới. Cũng như bây giờ cái tâm thanh tịnh rồi, mình hướng vô để mình nhập vô cái Nhị Thiền, mình nói: "Tầm Tứ tịnh chỉ đi, ngưng đi, diệt đi". Mình ngồi im lặng. Thấy nó chưa, hướng lần nữa, hướng lần nữa, ba lần, bốn lần, rồi hết, nó vô hà. Nó vậy. Chứ đâu phải mình ngồi mà nó vô đâu.
Sư Phước Nhẫn: Muốn nhập Tam Thiền thì phải ra Nhị Thiền?
Trưởng lão: Phải xuất ra, hướng ra. Bởi vì nó vô rồi, thì tức là ở trong đó mình hướng ra. Mình hướng ra nó ra, chứ mình không hướng ra nó không ra, nó ở trong đó. Cho nên phải xuất rồi nhập.
Cho nên đức Phật mới nói, thí dụ như, nhập Sơ Thiền rồi, thì phải xuất Sơ Thiền rồi nhập Nhị Thiền. Rồi xuất Nhị Thiền, rồi mới nhập Tam Thiền. Xuất ra rồi thì mới nhập cái khác, chứ không phải ở đó mà nhập tới tiếp nữa, không được. Đừng có nghĩ nó chồng lên không phải đâu. Thiền Định nào nó riêng nấy, chứ không phải đâu. Vậy mình phải xuất cái đó ra rồi mình mới nhập cái khác. Thì đọc lại cái bài kinh Niết Bàn mà đức Phật nhập Niết Bàn đó, xuất nhập, xuất nhập, xuất nhập, ra vô, ra vô, ra vô. Hễ nhập cái đó vô rồi thì bắt đầu xuất cái đó, nhập tới cái khác. Rồi bắt đầu xuất cái Định đó, nhập tới cái khác nữa.
(19:42) Cho nên xuất nhập, mình mà nếu mà không có cái pháp hướng là xuất nhập không được. Bởi vậy Thiền Định nó chỉ còn duy nhất có pháp hướng. Mà người dạy Thiền Định mà không dạy pháp hướng là Như Lý Tác Ý, là cái người đó hết biết rồi, người đó dạy thiền điên. Bởi vậy, Thầy nói khi mà tu rồi, mới dám chắc rằng mấy ông Tổ này dạy thiền điên, bởi vì không thấy Pháp hướng. Còn ông Phật có Pháp Như Ý Tác Ý, đúng là ông Phật dạy đúng.
Sư Tuệ Tĩnh: Vậy là Thầy ra tu là nhiêu đó hả Thầy?
Trưởng lão: Đó thì vậy, mới thấy mới biết rõ. Chứ còn cỡ không tu thì không biết cái pháp Như Ý Tác Ý đâu.
Có tu rồi mới thấy được cái giá trị của pháp Như Ý Tác Ý. Vì vậy mà Thầy lấy những bài kinh của Phật mà Thầy ghi vô để các con thấy cái chỗ Pháp Như Ý Tác Ý. Đức Phật nhắc đi nhắc lại. Đó! Đó là nó quan trọng đến cái mức độ đó mà ông Phật nhắc như vậy “có một pháp này, có một pháp này”, chứ không phải hai pháp đâu, có một pháp này.
Sư Tuệ Tĩnh: Trong trường hợp mình chứng đạt được rồi đó thì có phải ôn tập thường thường.
Trưởng lão: Khỏi. Khi tâm thanh tịnh rồi, không ôn tập gì nữa hết. Muốn nhập hồi nào nhập, không muốn thì thôi, chứ khỏi cần phải… Chỉ bây giờ, quý sư sống ở đây đó, Thầy làm gương là khuya Thầy thức dậy, Thầy đi kinh hành, đi tới đi lui để cho quý sư thấy vậy thôi. Chứ còn bây giờ Thầy đi làm cái gì? Muốn là nhập hồi nào cũng được, nó tỉnh bơ nó không có ngủ đâu. Nhưng mà cái cuộc sống của con người nó, nếu mà chúng ta ngồi không mà chúng ta không có đi tới đi lui đó, thì nó là cái cục bột, cục đất. Cho nên cơ thể nó phải hoạt động, nó mới có khỏe khoắn. Chứ ngồi nó riết rồi nó ngồi không nó cũng sanh bệnh nữa. Cho nên cái đi kinh hành của đạo Phật, là đi kinh hành là đi tốt nhất. Ông Phật già, ông cũng còn đi.
Sư Tuệ Tĩnh: Thưa Thầy, như vậy trong trường hợp mình tập đi vòng tròn đó, thì mình kinh hành đủ vòng mình có cần đi ra tập thể dục nữa không?
Trưởng lão: Không! Không tập thể dục thể thao gì hết. Không tập Yoga, không tập gì hết. Đi kinh hành là đủ rồi. Cứ nhớ kỹ, ông Phật ở trong kinh điển, ông Phật không dạy chúng ta phải tập thể thao thể dục gì nữa, mà chỉ nhắc nhở chúng ta đi kinh hành. Chúng ta làm đúng, cho nên không cần, không cần lo thể thao thể dục nữa.
Sư Tuệ Tĩnh: Kính bạch Thầy con hỏi thêm.
Bên Nam Tông thì thường có đề cập là, như Thầy ở đây nói là chứng quả cái Tam Minh gì thì mới chấm dứt được (22:23 thì đúng rồi), nhưng mình đó là quả A La Hán. Nhưng mà bên Nam Tông người ta cũng nói tương tự Tu Đà Hoàn, A Na Hàm, A La Hán. Như vậy trong trường hợp của Thầy dạy chúng con là có di nguyện, những người này chưa tới A La Hán thì những quả kia có không?
Trưởng lão: Có. Có chứ không phải không.
Sư Tuệ Tĩnh: Cũng như Sơ Thiền là cái gì đó hả Thầy?
Trưởng lão: Sơ Thiền là Tu Đà Hoàn. Nhập vào dòng Thánh rồi, ly dục ly ác pháp, cái búp, búp Thánh rồi.
Sư Tuệ Tĩnh: Bạch Thầy, con còn hỏi Thầy vấn đề.
Trong trường hợp mà bên đó người ta nói là ví dụ Tu Đà Hoàn thì còn tới bảy kiếp trở lại thế gian thì mới lên tới quả A-la-hán. Như vậy là, nhưng mà trong khi những kinh Phật, con có đọc qua kinh Nhân Duyên kỳ rồi Thầy có đề cập đó, là đi mất lên cái cõi Thiên đó, rồi đệ tử của Phật sau khi hết cái cõi thoát cõi Thiền đó, thì đi về Niết Bàn. Còn như tu, Thầy nói rằng ví dụ người đó đạt được quả Tu Đà Hoàn bảy kiếp, Tư Đà Hàm thì còn mấy kiếp gì đó, còn cái tu các A Na Hàm một kiếp, còn cái nào đó mới là Bất Lai. Còn cái lời sau trong kinh Phật thì nói về ở cõi đó rồi, sau khi mãn số kiếp đó thì đi thẳng vô Niết Bàn chứ không có trở lại nữa.
Trưởng lão: Đúng rồi. Bởi vậy tâm mà ly dục ly ác pháp rồi, tức là Tu Đà Hoàn rồi, tức là nhập vào dòng Thánh rồi đó, thì không lý nào mà ở trong dòng Thánh này mà không tiến tới diệt Tầm Tứ.
Sư Tuệ Tĩnh: Con đồng ý điểm đó. Nhưng mà, tại sao không đi luôn mà trở lại nói nó là bảy kiếp hoặc là mấy kiếp?
Trưởng lão: Nói trở lại có nghĩa là nói người không tu, nói cái người không tu.
(24:04) Bây giờ Thầy đang tu nè, Thầy đang ở trong ly dục mà cái cơ thể của Thầy thì vừa mới ly dục. Phân nửa thôi à, chứ chưa hết ly dục đâu, nghĩa là chưa hoàn toàn. Thì bây giờ Thầy có chết, Thầy cũng ở trong cái trạng thái phân nửa đó. Phải không? Phân nữa đó. Thì phân nửa như thế nào? Bởi vì cái nhân quả Thầy còn, cho nên Thầy tiếp tục sanh làm người, tiếp tục ở trong cái phân nửa đó Thầy tu để mà ly dục ly ác pháp hoàn toàn.
Nhưng mà khi mà ly dục ly ác pháp hoàn toàn rồi, thì nó là Tu Đà Hoàn chứ gì? Cái này Thầy nói phân nửa cái Tu Đà Hoàn thôi, phải không? Bây giờ đã ly dục ly ác pháp rồi thì cái quả Tu Đà Hoàn này là nhập vào dòng Thánh rồi. Thì không lý mà trong khi mà Thầy ở trong cái trạng thái của dòng Thánh này, Thầy không tiếp tục? Bởi vì cái đường này Thầy hoàn toàn Thầy chưa hết mà, Thầy còn con đường đi mà, chứ đâu phải là còn hoàn toàn sao?
Cho nên cái tâm nguyện Thầy là cái tâm nguyện đạt đến mục đích cuối cùng mà, chứ đâu phải là đạt đến giữa đường. Cho nên bây giờ Thầy bỏ thân này, thì Thầy không sanh làm người. Bởi vì nó ly dục ly ác pháp mà, Thầy ở trong cái quả Thánh mà. Tức là Thầy phải ở trong cái trạng thái Thánh. Tức là trạng thái Thánh này Thầy tiếp tục đi tới nữa, diệt Tầm Tứ Thầy đi tới Tứ Thiền, Thầy đi luôn. Cho nên phải đi tới Niết Bàn thôi. Không ai mà điên gì mà tới nhập Sơ Thiền rồi bây giờ bỏ cái Nhị Thiền để trở về phàm phu đâu. Không bao giờ có đâu.
Chỉ có bây giờ phân nửa, mà phân nửa cũng không mất nữa. Thầy nói, bây giờ tại sao mà không mất?
Hôm nay đó, quý sư làm cư sĩ đi, đến đây Thầy dạy thọ Bát Quan Trai cho. Một ngày một đêm giữ cái hạnh của người tu sĩ chứ gì? Tức là phạm hạnh chứ gì? Phải không? Vậy mà người ta cái kiếp sau, người ta còn sinh lên, người ta trở thành những tu sĩ đó, người ta không mất. Còn huống hồ là chúng ta hàng ngày sống, cố gắng sống những cái phạm hạnh như thế này. Rồi chúng ta tu ly dục được phân nửa đi, làm sao chúng ta mất? Tới Niết Bàn đó rồi. Đường đi chúng ta là hoàn toàn, nó chỉ duy nhất con đường đi tới, chứ không có đi lui nữa. Phải không?
Sư Tuệ Tĩnh: Cái đó, nhưng mà trong trường hợp mà Thầy nói là những người đó đã đạt cho mình, còn những gì người ta nói A Na Hàm hay là Tư Đà Hàm gì đó, cái ông Tu Đà Hoàn, kiểu cái ông mới đó là ổng bảy kiếp, còn cái ông sau đó chưa tới A la hán quả thì…
Trưởng lão: Nhất lai.
Sư Tuệ Tĩnh: …Còn hai vị bảy kiếp, ba kiếp, bốn kiếp gì đó, đại khái vậy đó, cũng như con nói như vậy là đúng không Thầy?
Trưởng lão: Nói đúng, bởi vì người ta phân cái… Thí dụ như bây giờ nói nhập vào dòng Thánh, thì mình còn bảy kiếp, mình mới có chứng Niết Bàn đi. Phải không?
(26:45) Rồi bây giờ, Nhất Lai còn một kiếp, phải không? Một kiếp thì người ta, bởi vì người ta định cái quả đó, bởi vì nói là Tứ quả, Tứ quả Sa môn chứ gì? Mà mỗi cái quả của nó, cái quả này nó mới nhập vào dòng Thánh thôi. Rồi cái quả này nó một kiếp nè, cái quả này nó còn bảy kiếp nè, cái quả này nó một kiếp nữa. Cũng như A Na Hàm đó, là nó một kiếp, mà A La Hán thì hoàn toàn hết rồi, phải không? Bây giờ Tu Đà Hoàn nó mới nhập vào dòng Thánh. Còn cái quả Tư Đà Hàm, Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, phải không? Tư Đà Hàm thì nó bảy kiếp, ờ nhất Lai chứ. A Na Hàm mới bảy, nhất Lai là một kiếp, còn cái Tu Đà Hoàn là nó bảy kiếp. Còn cái Tu Đà Hoàn thì nó mới nhập vào dòng Thánh thôi, phải không? Còn A La Hán nó hoàn toàn. Còn cái A Na Hàm, A Na Hàm rồi mới A La Hán. A Na Hàm thì mới Nhất Lai. Còn cái Tư Đà Hàm thì nó Thất Lai, còn cái này mới nhập vào dòng Thánh. Mình mới vào dòng Thánh thôi, mà vào dòng Thánh người ta còn không mất kia mà. Rồi bắt đầu bây giờ đó mới là còn bảy kiếp nữa, tức là Tư Đà Hàm.
Sư Tuệ Tĩnh: Kính bạch Thầy, bảy kiếp nữa nhưng mà bảy kiếp đó phải trở lại thế gian hay là đi luôn?
Trưởng lão: Không! Không! Không có.
Nói bảy kiếp là nói cái thời gian, trong cái khoảng thời gian tu của mình, nó lâu dài như vậy. Chứ nó không phải là bảy kiếp mà mình phải trở về thế gian này sinh lên bảy kiếp người tu nữa, không phải! Ờ, Một kiếp này mình tu mà… Thầy nói ly dục ly ác pháp rồi, kiếp này là Thầy quét luôn, chứ Thầy không có bao giờ nói bảy kiếp.
(28:41) Nhưng mà trong cái so sánh bảy kiếp, tức là bảy cái việc làm của chúng ta nó còn nặng nhọc, một kiếp thì nó nhẹ kìa. Nghĩa là bây giờ thí dụ như Thầy ly dục ly ác pháp, Thầy nhập Sơ Thiền đi ha. Bây giờ đó, thì bắt đầu bây giờ Thầy muốn vào dòng Thánh nè, tức là Thầy phải bảy lần tu tập nữa mới có thể mà, mới thấy chứng được cái quả này. Rồi bắt đầu bây giờ, Thầy nỗ lực, Thầy thực hiện tu tập nữa thì nó mới được một kiếp nữa. Nỗ lực cuối cùng nữa để chứng quả A La Hán thì một kiếp nỗ lực cuối cùng. Thì đây là muốn nói cái cách thức mà chúng ta phải có bảy lần nó còn một lần. Hiểu Thầy nói đúng không? Bảy lần không phải là, nói bảy kiếp không có nghĩa là phải sinh ra bảy lần mới làm được cái này, không phải đâu.
Bây giờ, khi mà vô cái dòng Thánh đó, chúng ta vất vả vô cùng, phải không? Nó khó vô cùng, nghĩa là ngàn ngàn triệu kiếp. Thầy muốn nói ngàn ngàn triệu kiếp mới vô được dòng Thánh, mà đến đây nó chỉ còn bảy lần để mà được cái quả này, phải không? Tức là bảy kiếp chứ gì? Mà hồi đó ngàn ngàn kiếp mới được vô dòng Thánh, chứ Sơ Thiền đâu phải ngàn ngàn kiếp. Còn cái này có bảy kiếp, trời đất ơi! Nó dễ quá vậy. Còn cái này còn một kiếp nữa thì quá dễ. Phải không? Mình nghe kiếp cái là mình tưởng, trời đất! Bảy lần sinh tử vậy chắc tiêu rồi còn gì, không phải đâu! Hiểu không?
(30:04) Bởi vậy Thầy nói tới cái chỗ mà Nhị Thiền cho đến Tứ Thiền, Tam Minh, trời ơi! Nó dễ quá, cho nên đức Phật nói bảy kiếp. Bởi vậy có tu rồi mới thấy một kiếp của đức Phật nó xác định chỗ cái quả này, Thầy thấy nó dễ. Còn đối với chúng ta bây giờ một người phàm phu mà nhìn vào cái chỗ mà Sơ Thiền của chúng ta, chỗ mà ly dục ly ác pháp này, họ nói ngàn ngàn kiếp mới làm được. Trời đất ơi! Đâu phải dễ, làm ăn một bữa họ ăn không nổi mà. Có khó không? Phải hiểu được chỗ này mới thấy được cái Thầy muốn nói cái chỗ này.
Còn bây giờ mình vô dòng Thánh rồi, thì cái này bảy kiếp một kiếp, trời đất ơi! Như đồ bỏ rồi. Còn cái này nó còn ngàn ngàn kiếp. Bây giờ một cái ông nào ở ngoài đời bây giờ họ còn tham tiền, tham bạc đi, mà ông vô đây mà ăn một bữa, họ ăn nổi không? Bảo đừng có đồng bạc nào đi xin cho rồi được không? Trời đất ơi! Khất thực khó quá trời quá đất. Mà sống có một mình buồn bã thấy mồ thấy tổ, ở đây chịu sao cho nổi, có phải ngàn ngàn kiếp không?!
So sánh được cái chỗ này mới thấy được cái chỗ đức Phật nói bảy kiếp, một kiếp mình thấy… Trời ơi! Nếu mà thật sự ra một kiếp, bảy kiếp vậy là đồ bỏ của mình rồi.
Sư Tuệ Tĩnh: Bây giờ chúng con có luyện tập trở lại vấn đề này…
Trưởng lão: Không! Không trở đâu.
Bởi vì cái hướng đi. Bởi vì đức Phật mới dạy Phật tử, Phật tử thọ Bát Quan Trai để cho cái hướng, người ta có cái hướng. Cho nên đức Phật nói cái hướng mà ngả đi đâu, cái cây mà ngả đi đâu thì cái bóng phải ngả vô đó mà. Mình đã hướng theo con đường của Phật thì nó không lạc nữa.
Còn mình hướng trật thì bây giờ mình hướng đi cái đường này không được. Chẳng hạn bây giờ mình ăn phi thời này, sống phá giới này, ngồi thiền thì nó cũng lọt vào trong ba thiền ngoại đạo đó, muôn kiếp đó. Các Tổ mình nó rơi trong đó muôn kiếp không có đường ra đó. Bởi vì mình phá giới rồi thì không có cái đường ra rồi, mà mình sống đúng giới là mình có hướng đi rồi.
Cho nên đức Phật, ngày cái người cư sĩ mà vô để mà một tháng hoặc là một tháng hai ngày để mà thọ Bát Quan Trai. Cái mục đích tu của đức Phật là dạy chúng ta cái cửa cụ thể, cho chúng ta có cái hướng thôi. Mà cái hướng đó nó sẽ dẫn cho mình đi tới cuối cùng mà nó không mất trong cái dòng Thánh được. Thấy chưa, thấy rõ lắm không? Bởi vậy mình, quý sư là bên Nam Tông, quý sư thấy cái đường hướng của Phật dạy rõ lắm. Không có dạy chúng ta Niệm Phật bằng kiểu đó đâu, mà dạy chúng ta thọ Bát Quan Trai, giữ gìn tám giới. Mà tám giới là chín giới Sa di đó, phải không? Cho nên cái hướng nó rõ ràng cụ thể, cho chúng ta có cái hướng, gieo chúng ta đi đúng vào cái quỹ đạo của nó để mà đi đến, đạt đến cái đích của nó là giải thoát thôi. Nó không phải, nó.
(32:21) Cho nên chúng ta nỗ lực mà chúng ta tu. Quý sư có cái duyên phước mà đã thực hiện được rồi đó, cắt ái mà bỏ hết rồi, mà nỗ lực thực hiện đúng phạm hạnh rồi, mà theo lời Thầy, trong đời nay chúng ta giải quyết. Đừng có nghĩ rằng phải nhiều đời, đừng có nói theo kiểu Đại thừa, làm chúng ta mất cái niềm tin, làm chúng ta mất sức tự lực. Cứ sống mà sống đời sống giải thoát, chúng ta nghiệm chúng ta thấy giải thoát mà.
Vô đây rồi chúng ta không còn lo đói lo no, không còn thương nhớ dòng họ bà con ruột thịt gì hết, ai mình cũng thấy là bình đẳng như nhau hết, nó cắt đứt tui không độ. Cho nên thấy nó thanh thản vô cùng, nó không còn lo gì hết. Mà nó còn có chút xíu nào đó thì nghe tin con cháu mình cái, có cái gì là thấy trong bụng nó bồi hồi lắm, bồn chồn rồi.
Sư Tuệ Tĩnh: Thầy nói vậy con vô tình nghĩ, như vậy là cái vị Angulimala đó với lại cái vị mà cưới vợ rồi đi theo Phật, Phật hướng dẫn vầy. Hai cái vị, một vị là không có muốn tu rồi cũng ráng tu, để lên cứu năm trăm bà vợ ở cõi Thiên đó. Rồi một vị là sát nhân rất nhiều, khi mà trở lại có cái thân người rồi, mà tu theo Phật thì chỉ còn chút đó đã…
Trưởng lão: Đúng vậy! Bởi vì người ta chuyển được nhân quả mà, chứ đâu phải nhân quả bất thối định. Còn mình tu mà mình còn tham dục thì đời đời nó không ra gì hết.
Sư Tuệ Tĩnh: Với cái điểm này con thấy đó là, đức Phật thì không có nói láo. Bởi vì đức Phật nói trong vòng bảy ngày, bảy tháng, bảy năm. Trong khi những vị kia nói cứ kiếp này kiếp nọ như vậy là coi như nói như vậy là ông Phật nói láo sao?
Trưởng lão: Cái đó là nói phản lại ông Phật.
(34:03) Mà thật sự, khi mình hiểu rồi xóa bỏ để bước đi. Nhưng mà tại vì cái nghiệp của mình nó còn, cho nên mình phải sống, rồi mình phải tập cho nó thành thuần quen. Và đồng thời cứ, bởi vậy đức Phật mới dạy những cái pháp hướng Như Lý Tác Ý để cho nó thuần theo cái đường lối lại. Chứ còn nếu mình không nhắc làm sao nó thuần?! Cho nên nó phải có pháp. Chứ còn cỡ mà người ta ngộ được, người ta xả được, người ta bứt hết, tới nay có thành Phật rồi còn gì? Cần gì phải tu, thì cần gì phải có pháp.
Cho nên từ cái chỗ ngộ để mà trong một ngày, rồi một giờ nữa chứ đừng nói. Sáng nghe chiều đã chứng đạo rồi, chứng quả A-La-Hán rồi. Nó kinh khủng như vậy đó, đạo Phật nó dễ như vậy đó. Nhưng mà vì cái nghiệp của chúng ta tạo, cái nghiệp thế gian nó quá lớn, cho nên, nó bứt không có được liền. Cho nên phải có theo những cái pháp này mà sống mà tu.
Còn cái người mà người ta bứt được liền người ta cần gì phải tu? Nó dễ như vậy. Bởi vì biết rõ cái này là nghiệp chướng, cái này là oan gia, cái này là sự trói buộc làm cho chúng ta khổ sở không giải thoát nè. Bứt hết, không còn thương ghét, không còn gì nữa hết, thì ngay đó nó hết liền. Mà những cái bậc đó đâu phải là bậc thường đâu, bậc đó là nghĩa là cũng là đã Nhất Lai. Thầy nói Nhất Lai chứ không phải đâu. Không ai điên gì, vào dòng Thánh mà người ta còn trở lại đâu, không có đâu. Người ta chưa có mà bây giờ người ta ngộ được mà người ta cái lý đó được, là người ta đã có cái hướng sống, cũng như người cư sĩ mà thọ Bát Quan Trai. Chứ không phải như mình mà sống đời sống tu sĩ Phật.
Thầy nói người mà đã thọ Bát Quan Trai, cái đời khi nghe đức Phật rồi họ cũng ngộ rồi. Họ đã bỏ hết, họ đã bứt hết, bị vì họ đã từng tập cái hạnh đó rồi. Cho nên khi mà bỏ cái thân này rồi, cái kiếp sau đó, họ nghe sạch họ lên đó thì ngay liền đó, họ nghe được cái chánh pháp. Cái duyên của họ đến họ nghe được chánh pháp. Còn mình thọ Bát Quan Trai trật thì nó cũng trật đường nữa, chứ đừng có nói tôi cũng thọ Bát Quan Trai.
(35:53) Bởi vì Đại thừa nó hay mượn cái danh từ của Phật: "Thọ Bát Quan Trai" lắm. Nó thọ mà nó vô nó Niệm Phật, nó tụng kinh, rồi nó nghe thuyết giảng rùm beng hết à. Thì thử hỏi cái hướng đi nó trật lất à. Rồi cho đó mà đời đời nó cũng là đi qua cái góc độ Tịnh Độ thôi, chứ nó không làm gì được hết, nó không giải thoát.
Còn mình thọ, mình phải sống đúng những cái giới luật của Phật, trầm lặng, độc cư. Trong ngày hôm đó, mình phải sống như thế nào để ly dục ly ác pháp, thì nó đúng chứ! Còn cái này hướng dẫn mà theo kiểu đó, vô tụng niệm rồi đã rồi, bắt đầu nghe thuyết giảng. Thuyết giảng đã rồi, nó Niệm Phật, rồi đi kinh hành cũng Niệm Phật ó é, hay hoặc ngồi thiền bằng cách ức chế tâm, nó không đúng. Rồi lại còn bày đặt sáng lại nấu cháo đồ ăn nữa. Trưa ăn bữa cơm, rồi chiều thôi ai về nhà nấy, còn không thì uống sữa rồi đi về.
Thật sự ra dạy như vậy đâu có đúng đâu. Hạnh ông Phật đi xin mà làm sao chiều có ăn, sáng có ăn được? Trưa đi xin bữa người ta còn không muốn cho mình nữa, phải không? Cho nên ở đây, mình cho đúng cái hạnh của Phật trong một ngày đi, một ngày đêm thôi, Thầy nói không nhiều. Nhưng mà đó là giải thoát đó.
Còn mình bây giờ đã tu rồi, thì cái gì mà chưa bứt thì phải cố bứt, bứt nghĩa như thế nào? Mình là con người có đạo đức, đức Phật nói Đạo Đức mà chứ đâu phải là người thiếu đạo đức sao? Tại vì cái nhân quả của mình nó gieo rồi, thì mình phải làm sao cho nó trọn đạo đức của mình. Chứ không phải nói bứt cái bỏ đi. Bỏ đi chắc được không? Mình giải quyết cho con cái mình lớn khôn có công ăn việc làm, đời sống của nó như thế nào? Rồi bắt đầu đứa nào muốn tu, thì hướng dẫn cho nó phải đi tu cái hướng nào cho đúng, đừng có để cho nó tu tầm bậy tầm bạ. Cái trách nhiệm của mình là bổn phận mà, mình phải hướng dẫn con phải tu như thế nào cho đúng cái chánh pháp.
Nếu mà theo Phật thì phải theo hẳn Phật, chứ đừng có theo tà đạo mà cứ mô Phật thì cái chuyện đó oan ức cho ông Phật, ông không có dạy mình làm cái điều đó. Cho nên mình phải hướng dẫn cho nó, xong xuôi rồi, bắt đầu đứa nào nó ra đứa nấy hết rồi. Bây giờ mình mới yên tâm, mình mới ngồi mình tu được chứ. Đừng nói: “Ờ, bỏ mẹ mày, tao không có thèm lo mày nữa”, thì cái chuyện đó không được đâu. Con người mình chứ đâu phải cây đá sao?
(37:56) Cho nên Thầy nói thật sự, các sư có gia đình, có con cái, các sư đừng có làm ngơ được những cái này. Cái Đạo Đức con người chúng ta không cho phép chúng ta làm. Bởi vì nó là nhân quả của chúng ta rồi. Nhân quả thì chỉ có đạo đức mới giải quyết nó thôi, chứ còn thiếu đạo đức là giải quyết không được. Chứ đừng nói mà tui bứt ngang nó, tui bứt đại nó không được đâu, đừng có nghĩ như vậy là sai. Một ngàn lần chúng ta không bứt được nó đâu.
Sư Tuệ Tĩnh: Lỡ bứt rồi làm sao Thầy?
Trưởng lão: À, bây giờ mình lỡ bứt mà bứt không nổi đâu.
Thầy nói bứt, mình lỡ mà bứt không nổi. Nghĩa là bứt phải có kế hoạch, phải có cách thức. Đúng là trong con đường Đạo Đức của đạo Phật, không làm khổ mình khổ người. Mình vứt ngang mình đi, mình không khổ nè, mình nói ờ: "Tâm mình như sắt đá nè, như cây đá này rồi mình không thương nhớ gì nữa". Nhưng con mình nó vẫn thương cha. Nó chưa biết mà.
Thầy đã nói rằng con người, cái Đạo Đức mà về tình thương con người, thì con người con vật mà sinh ra thì người nào cũng có mang tình thương. Loài động vật là có tình thương hết. Cho nên một con chim mà tha mồi về mà nuôi con, đó là tình thương chứ gì? Nếu nó không thương, nó làm sao nó tha mồi cực khổ mà nó đem cho con nó ăn? Nó nhịn đói cho con nó ăn, phải không? Cho nên mỗi mỗi đều là cái tình thương. Nhưng cái tình thương của chúng ta, nó phải đặt như thế nào để không làm khổ mình khổ người.
Hễ bây giờ mình cắt ngang ra: "Thôi tao bây giờ đi tu, tụi bây làm gì làm tao không biết nữa". Nói vậy chứ, mình nói được chứ chưa hẳn đã được như vậy, tâm mình chưa được như vậy. Nhưng thử hỏi con của mình nó biết không? Cha mình đi tu, nhưng tu mà nó khổ quá. Nó đau khổ nó cũng không mà nó làm sao nó hiểu, phải không? Như vậy là rõ ràng là mình tạo cho con mình khổ mà.
Rồi bây giờ, “Tụi bây không có được xuống đây nữa à”. Trời ơi! Cha mà. Mà mình bỏ được, mình làm ngơ được sao? Mình không đến được sao? Ít ra nó phải hiểu như thế nào? Để rồi nó không đến. Chứ còn nó không hiểu, thì tức là mình đã làm khổ rồi. Mình làm khổ con mình là những người thân của mình, mình nỡ không? Mình là con người có đạo đức hay không? Đâu chứ Thầy không chấp nhận điều đó đâu.
(39:57) Cho nên, trước khi chưa có đạo Phật, ông Phật bỏ cha bỏ mẹ đi tu, có phải không? Sau khi đạo Phật có rồi, mà người nào cha mẹ không cho, là nhất định ông Phật không cho, không cho xuất gia tu, có không? Vợ không bằng lòng, nhất định không cho. Ở trong Thánh Ni có một cô đó, cô gặp ông Phật lúc hai mươi, ba mươi tuổi gì đó, mà có chồng rồi. Xin theo ông Phật tu, chồng không cho. Đến ông Phật nói: "Không được, chồng không cho thì cứ về, chứ còn không được theo tu". Cho đến khi chồng chết rồi, thì cô bảy mươi tuổi rồi, thì đến xin ông Phật. Ông Phật cũng già khú khụ rồi, ông Phật nhận cô này vô tu. Thì đủ biết là Đạo Đức của đạo Phật kinh lắm, chứ không phải thường.
Trước kia chưa có đạo Phật thì chưa có Đạo Đức, chứ có đạo Phật rồi có Đạo Đức. Đó, thì chúng ta đọc lại những cái trang sử, những cái kinh sách của Phật, chúng ta thấy rất rõ. Cho nên chúng ta đã lỡ có, thì chúng ta rất khó hơn những người không có. Những người mà không có vợ có con, người đó dễ. Vậy mà, cha mẹ họ không được bỏ. Chứ không phải là nói ờ, không có vợ con rồi bây giờ còn cha mẹ, bỏ đi tu không được đâu. Cha mẹ đồng ý chấp nhận cho đi tu thì mới được đi tu. Vui vẻ cho đi tu, chứ không phải buồn rầu mà cho đi tu, ép buộc. "Con tôi tại muốn vậy, chứ tôi thiệt không muốn", thì cũng chưa được đâu. Đó Thầy nói thật sự, đó là một cái Đạo Đức của đạo Phật mà, Đạo Đức không làm khổ mình khổ người.
Sư Tuệ Tĩnh: Với cái quan niệm mà, nói đây là nhân duyên gặp với nhau mà trả nợ thôi chứ không có là cái gì.
Trưởng lão: Thì đó là cái kiểu mình quán.
Cái kiểu quán để thấy nhân duyên, để cho cái tâm mình nó đừng có cắn rứt. Nhưng mà cái trách nhiệm bổn phận, mình phải giải quyết như thế nào? Chứ không, mình quán cái kiểu đó là mình thiếu đạo đức, làm khổ mình khổ người. Cho nên bài kinh mà đức Phật giảng cho chú cư sĩ Pessa: "Có bốn hạng người, hạng người làm khổ mình, hạng người làm khổ người, hạng người làm khổ mình khổ người, hạng người không làm khổ mình khổ người". Mà mình có một chút xíu nào làm khổ người thì không chấp nhận. Hiểu cái bài kinh đạo đức Thầy nói rất là hay, cái bài kinh này dạy về cái chú Pessa.
(42:11) Đọc lại những cái kinh Phật thấm thía lắm, Thầy thấy hay thật hay. Cho nên chúng ta không khéo, chúng ta lại dùng cái lời đức Phật quán, rồi chúng ta lại phi đạo đức. Cho nên vì vậy mà nghe đức Phật nói: "Vô thường, khổ, vô ngã”, cái bắt đầu lấy vô ngã nói đạo Phật đạo vô ngã, trật!
Cho nên có một vị Hòa thượng viết một cuốn sách… Chứ đâu phải là cái chỗ mà nó không không là Niết Bàn, như vậy là cây đá nó Niết Bàn hết sao? Bởi vậy nó hiểu sai một chút. Thầy nói thật, nó không phải vậy! Cho nên Thầy, lập luận của Thầy là “Vô ngã Ác pháp”, chứ “Hữu ngã Thiện pháp” chứ. Làm gì chúng ta tu mà mất luôn hết sao? Phải hiểu được như vậy.
(43:52) Còn bây giờ “Vô ngã Niết Bàn”, nghe nói, nghe đức Phật bảo mình quán các pháp, quán thân này, quán thọ, quán tâm của mình là vô ngã, phải không? Coi như nó mình không chấp dính cái nào đâu. Để dùng cái pháp quán đó, để quán cho chúng ta đừng dính mắc, đừng chấp thôi. Chứ không có nghĩa là đạo… Cái gì thật là thật, cái gì đúng là đúng. Chứ đừng có nói quá, nó không được.
Thật sự ra thì người ta cũng muốn đạo Phật cho tuyệt, tuyệt đỉnh, cho nên luận viết đưa Phật đi(…) Cách đời sống con người xa thì chúng ta mó không tới. Như cái Bát Nhã đó, như trí tuệ Bát Nhã, nói cái trí tuệ đó chắc con người không mó tới. Nó không có làm được, thành ra mình nói quá.
Đó, thì hôm nay có cái nhân duyên gặp Thầy thì suy ngẫm những cái lời Thầy nói, cái nào đúng thì tin, cái nào không đúng đừng tin. Ông Phật cũng vậy, ông Phật ổng bảo đừng có tin cái lời của ông Phật. Cái nào đúng, cái đó có kết quả. Nghĩa là có lợi mình lợi người, thì cái đó đúng. Có cái bài kinh…
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 03
TU PHẢI CÓ GIẢI THOÁT
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [44:05]
Thời gian: 2002
Tên cũ: 02A-TuPhaiCoGiaiThoat
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-03-tu-phai-co-giai-thoat.mp3
(00:08) Sư Phước Nhẫn: Kính bạch Thầy, con vô đây được mấy bữa, thấy nó thoải mái … con tu tập thấy loạn ở trong đầu nó còn … cái thân, ăn uống thì thấy con tiếc quá, phải hồi xưa con biết như vậy nó khỏe gì đâu! Phi thời, nó đủ thứ chuyện.
Hồi đó con nghe nói ăn một bữa chắc có lẽ mất quân bình, nó mất sức, thì con nghe bị bệnh con sợ, chừng vô đây ăn một buổi sao thấy nó… Đi cầu cũng khỏe, mà đi tiểu cũng ít, uống nước cũng ít, chẳng những nó không mất sức mà nó lại điều hòa hơn. Mình không biết thì nó sợ, chừng vô Tu viện rồi cái… con tiếc quá, hồi nào tới giờ phải được gặp Thầy sớm mà tu học thì đỡ biết bao nhiêu. Xuất gia tới giờ đi đảo qua, đảo lại hoài. Toàn là, không có đủ duyên thành ra không được tốt.
Còn cái phần học thì con hai bữa nay con không biết hành làm sao? Hồi tối con có gặp cô Út con có nói để xin sách hoặc là thâu băng con nghe, con tập hành. Cô Út nói vô đây phải bỏ hết, cô không đồng ý. Cái ly nước củ đổ nước hết hứng ly nước mới, chứ không có phải để nữa, vì kiến thức ngày xưa học thì không có đúng với chánh pháp. Như vậy con cũng thấy nó có nhiều cái không có thỏa mãn.
Đến đây bước đầu thì phần thân thì con thấy an ổn, còn cái phần tâm thì con xin Thầy trước nhất là chỉ con cách tu tập cái pháp môn nào trước, pháp môn nào sau, để nó không thiếu sót và để nó không phát triển về nhiều chuyện đó… cái căn bản nhất là pháp hành.
(02:01) Bởi vì con cũng như sơ cơ nên không có biết gì hết, chớ hành theo cái kiểu mà mình ở ngoài thì nó không đúng.
Trưởng Lão: Thầy sẽ chỉ… Bởi vì cái pháp hành nó không phải là mình lý thuyết suông mà cả lố đó, dạy cái nào là tu tập cái nấy thôi.
Ví dụ như bây giờ dạy về tập hơi thở bình thường, thì mình về mình tập hơi thở bình thường. Thầy dạy cái pháp trong vòng hai bữa, ba bữa, hoặc một tuần lễ. Mình tập, rồi mình đến mình trình "Hôm nay con nhận thấy được hơi thở của con". Rồi bắt đầu Thầy dạy kế, cứ dạy từng cấp, từng cấp… Sau khi dạy tất cả những cái căn bản đó rồi, từ cái đi kinh hành cho tất cả những các pháp mà có thể rất là căn bản.
Sau khi đó mình tổng hợp trở lại, mình mới bắt đầu thực hành ngay những cái pháp mà đức Phật đã dạy.
Chứ còn bây giờ nói… Ngay vô đó đức Phật nói Định Niệm Hơi Thở hay là Quán Niệm Hơi Thở, nó phải có cái căn bản nào, chứ vô mà hít thở coi chừng nó loạn bậy hay mình ức chế.
Mình phải tập như thế nào cho đúng, bởi vì mình lấy cái hơi thở chuẩn của mình là cái hơi thở sống bình thường, nó không ngoài cái hơi thở bình thường. Nếu mà tập mình thở chậm quá cũng không được, mà thở nhanh quá cũng không được.
Cho nên bắt đầu đó thì Thầy sẽ dạy cách thức, bắt đầu ngồi thì quý thầy sẽ ngồi, coi thử coi cách thức ngồi như thế nào? Nó có đúng hay không? Để mình chuẩn bị cái ngồi trước cái đã. Sau khi ngồi rồi, thì bắt đầu đó mới dạy cho mình cái hơi thở bình thường. Mình biết được cái ngồi và cái hơi thở bình thường.
Rồi dạy mình đi kinh hành, cách thức mình đi kinh hành như thế nào, coi thử coi cái đặc tướng của mình, tướng riêng của mình, có người đi nhanh, có người đi chậm. Nếu mà mình đi chậm, mà mình muốn đi nhanh để mà tập cho đi nhanh thì không tốt. Tướng của mình đi nhanh mà bây giờ tập lại cho mình đi rất chậm để mình tập trung thì cũng không tốt.
(04:00) Đi cho tự nhiên. Thì cái gì mà nó tự nhiên với đặc tướng của mình thì mình sẽ có kết quả và nó sẽ an ổn. Còn mình, tướng mình, cái người của mình thích đi nhanh mà giờ bắt buộc là phải đi chậm để cho tập trung thì nó bị ức chế.
Thì tất cả những cái này đều là qua kinh nghiệm tu hành của Thầy, Thầy thấy lấy từ cái đặc tướng của mình, cho nên Phật dạy cũng rất rõ. Nó có ba tướng của mình: Nhân tướng, Hành tướng và Đặc tướng. Thì cái Đặc tướng là cái tướng riêng. Trong cái tướng riêng, cái Hành tướng riêng của mỗi người nó cũng có riêng nhau. Và cái Nhân tướng thì cái tướng của mình nó cũng có người cao, người thấp, người mập, người ốm, cũng tùy theo mỗi cái.
Cho nên do cái Đặc tướng đó mà chúng ta mới biết được cái căn cơ của mình tu như thế nào, tập như thế nào cho nó phù hợp với mình cho có kết quả. Nếu mình không nắm được cái Đặc tướng của mình thì mình sẽ tu không có kết quả.
Kết luận: Đưa ra một cái pháp nào đó rồi bắt buộc mọi người đều tu phải giống nhau hết thì không được, cái đó là trật, nó sẽ đi đến cái không lợi ích.
Khó là nó khó là cái chỗ đó, chứ nó cũng không có khó gì là khó. Pháp của Phật thì rất dễ. Khi mình tập cái hơi thở mình bình thường được. Tập cách thức mình đi kinh hành theo cái Đặc tướng của mình được, thì trong khi đó mình sẽ hợp lại, lấy cái hơi thở làm cái sức Tỉnh, dùng cái Pháp Như Lý Tác Ý mình xả tâm. Cứ như vậy mà xả riết, tức là ly dục ly ác pháp cho sạch, thì nó sẽ đạt được kết quả của tu hành của mình, chứ cũng không có khó gì.
Nhưng mà mình không quen, mà mình không tập luyện trước những cái căn bản này. Mình vô, mình ngồi cái mình lo mình ức chế, thì tức là mình sẽ bị ức chế. Mặc dù mình nói, mình nghĩ rằng mình cũng sẽ… Như Định Niệm Hơi Thở của Phật dạy: "Quán ly tham, quán ly sân, quán ly si". Ví dụ như mình cũng hít vô, thở ra, mình cũng quán vậy, nhưng mà cuối cùng thì mình bị ức chế. Bởi vì hễ mình thở chậm quá không được, mà thở nhanh quá. Mình thở chậm là mình sẽ bị ức chế, mà thở nhanh cũng bị ức chế.
Cái pháp Phật thì nó đúng, nhưng mà mình tu sai chút nó cũng trật nữa. Chứ đừng nói rằng bây giờ pháp này Pháp của Phật, mà mình dạy như vậy, mình tu như vậy. Coi chừng mình tu sai thì nó thành sai, mình tu đúng thì nó thành đúng. Bởi vì nó khó là khó cái chỗ mình hiểu cho đúng và mình thực hành cho đúng thì nó mới có kết quả.
(06:11) Cho nên khi mà tu đúng kết quả thì nó thấy giải thoát. Cũng như bây giờ mình ngồi, cái sức của mình nó chỉ ngồi có ba mươi phút, mình ráng cho được một giờ thì mình sẽ bị đau. Và khi bị đau thì nó không đúng pháp, bởi vì đó không giải thoát. Thân của mình nó không được an tịnh, nó bị đau nhức. Cho nên mình tùy theo cái thân của mình, mình ngồi tới mức nào đó, mà nó vừa thấy nó mỏi mệt là xả.
Mình còn giữ được cái thân mình nó tốt thì mình ngồi, mà giữ không được thì đừng để cho nó thụng, cũng đừng để cho nó đau nhức. Bởi vì hễ đau nhức, mình nói nó đau, rồi mình ráng mình ngồi thì nó sẽ hết đau, nhưng mà nó tới thời gian, kéo dài ra nữa nó cũng bị đau nữa, hoàn toàn nó không hết đâu.
Mình cứ tu sao mà mình thấy cái giờ, phút… một giây, một phút mình tu mà nó có sự giải thoát, nó không có làm khổ mình thì nó được, mà nếu có làm khổ thì không nên. Đừng có bắt buộc, đừng ức chế nó, nó sẽ lần lượt, cái tâm nó xả thì cái thân nó sẽ an tịnh, nó sẽ tăng lên. Chớ mình ép buộc cho nó để nó tăng nhanh thì tức là bị ức chế nó, thì nó sẽ sai pháp. Lưu ý cái phần này là cái phần, nó tu thì phải có giải thoát, chứ không thể nào làm cho mình khổ.
Cho nên một chút xíu mình ngồi tu, mình ham tu là một cái điều tốt. Nhưng mà mình làm cho mình khổ thì nó là sai, nó là ác pháp.
Thì hôm nay đến đây Thầy dạy thực hành chứ không thể nào lý thuyết nữa. Nãy giờ đó cũng là cái lý thuyết của Thầy thôi. Thì thay vì bây giờ thì phải ngồi, phải thở như thế nào, Thầy sẽ dạy những cái điều đó.
Bây giờ Sư muốn hỏi Thầy gì thêm nữa thì hỏi, lát rồi Thầy sẽ dạy.
Sư Tuệ Tĩnh: Con muốn hỏi thêm cái câu hỏi bữa hổm đó Thầy, con cũng đang thắc mắc cái…
Trưởng lão: Phần oai nghi.
Sư Tuệ Tĩnh: Cái oai nghi đó Thầy, như Định Niệm Hơi Thở với Chánh Niệm Tỉnh Giác nó trợ duyên cho Tứ Oai Nghi hả thưa Thầy? Đi, đứng, nằm, ngồi, tắm rửa, mặc y, ăn cơm đồ đó, nó trợ duyên cho Tứ Oai Nghi?
(08:09) Trưởng lão: Nó trợ duyên Tứ Oai Nghi, nhưng mà Phải phân biệt được cái Chánh Niệm với cái Tỉnh Giác.
Bây giờ thường thì Phật dạy mình, trên cái hành động nội và trên cái hành động ngoại, trên thân quán thân tu về hành tướng nội, hay hoặc là hành tướng ngoại.
Hành tướng nội thì tức là cái hơi thở gọi là Định Niệm Hơi Thở hay là Quán niệm hơi thở. Mà hành tướng ngoại thì mình đi, đứng, nằm, ngồi, mang bát mặc y, cái gì mà động dụng cái thân của mình mà bên ngoài, như quét sân hoặc là đi tới, đi lui. Cái đó gọi là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định.
Lấy cái sức Tỉnh Giác đó, nhưng mà luôn luôn nó còn có cái Chánh Niệm. Không phải mình chú ý ở trong cái hành động của mình gọi là Chánh Niệm đâu, cái đó là cái niệm chánh đâu, không phải. Cái đó là mới có Tỉnh Giác ở trong cái hành động mà thôi.
Cái thân hành của mình, thân hành ngoại và thân hành nội. Mà cái thân hành nội là cái hơi thở, mình Tỉnh Giác trong hơi thở, chứ chưa phải có cái Chánh Niệm của mình.
Cái Chánh Niệm tức là cái niệm mà nó không tham, không sân, không si, thì nó là Chánh Niệm. Còn cái này cái niệm, cái hành động của mình nó không có cái niệm gì hết. Nghĩa là cái động dụng đó để cho mình Tỉnh Thức ở trong cái động dụng đó mà thôi. Phân biệt được như vậy. Chứ có nhiều người họ nghĩ rằng mình tỉnh ở trong cái hành động, thở ra biết ra thở vô biết vô, cái niệm đó là Chánh Niệm thì không phải.
Cái niệm Chánh và cái niệm Tà. Cái niệm Tà là cái niệm đau khổ, niệm ác. Mà cái niệm Chánh là cái niệm thiện, nó không làm cho mình đau khổ.
Như vậy thì cho nên trong mười sáu đề mục mà Phật dạy Định Niệm Hơi Thở đó, thì "Quán ly tham, tôi biết tôi hít vô. Quán ly tham, tôi biết tôi thở ra”, thì cái mà ly tham, cái ly sân, cái ly si này, cái vô ngã. Thì những cái quán này, nó là cái Chánh Niệm. Làm cho chúng ta không tham, sân, si, tức là không ở trong ác pháp. Đó là cái Chánh Niệm. Còn cái Tỉnh Giác là chúng ta biết được cái hơi thở ra vô.
Phải lưu ý cái phần này, chứ không khéo thì mình không biết cái Tỉnh Giác ở chỗ nào, mà Chánh Niệm ở chỗ nào. Vì vậy mà mình thấy bây giờ cái Chánh Niệm, thì mình cho rằng cái hơi thở, mình biết hơi thở ra vô, đó là cái Chánh Niệm. Cái niệm này nó không thiện, không ác thì làm sao gọi nó Chánh Niệm được.
(10:12) Nó có cái niệm thiện, niệm ác và cái niệm không thiện không ác. Thì cái hành động của cái thân mình đi và cái hơi thở mình thở ra thì nó không thiện không ác. Cho nên vì vậy mà trong Thiền tông, mình phải lấy cái chỗ mà “chẳng niệm thiện, niệm ác”. Nhưng ở đây Phật dạy chúng ta đó: "Ngăn ác, diệt ác. Sanh thiện, Tăng trưởng thiện". Tức là bảo chúng ta ở trong niệm thiện, chứ không phải ở trong cái vô niệm. Còn cái kia nó bảo ở trong cái vô niệm; không có niệm thiện, niệm ác là nó vô niệm chứ gì.
Phải lưu ý về cái chỗ Thầy nói rất rõ. Đây là cái kinh nghiệm bản thân mà Thầy, trải qua thời gian Thầy mới biết được những cái danh từ này, chứ không khéo chúng ta sẽ bị lầm. Bởi vì người ta đã hiểu, và các nhà học giả đã hiểu như vậy. Bây giờ tới mình, mình cũng vẫn phải hiểu như vậy, chứ không làm sao cách nào khác.
Qua cái kinh nghiệm tu mới nhận được cái chỗ này. Vì vậy cho nên cái bài kinh Định Niệm Hơi Thở đó, Phật mới dạy chúng ta: "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra". Đó là dạy chúng ta ở trong Chánh Niệm của cái hơi thở. Cái niệm đó là cái niệm hơi thở, tức là mình nhắc nó đó là ở trong cái Chánh Niệm của hơi thở. Nhưng mà cái niệm này nó không phải niệm thiện niệm ác. Bởi vì cái niệm hơi thở làm sao ác thiện được?
Vì vậy cho nên bây giờ chúng ta biết, bắt đầu chúng ta tập Tỉnh Thức. Tức là người mới tập hơi thở để lấy hơi thở bình thường mình thở. Thì ngay cái câu đầu "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra", "Hơi thở dài tôi biết hơi thở dài. Hơi thở ngắn tôi biết hơi thở ngắn" đó. Câu này để chỉ chúng ta Tỉnh Thức, tập ngay liền Tỉnh Thức trước tiên, lưu ý Tỉnh Thức. Tức là bây giờ mình ngồi đây ba mươi phút này, không có một niệm nào, chỉ biết duy nhất một hơi thở. Thỉnh thoảng mình hướng tâm Như Lý Tác Ý để cho cái tâm nó nhắc, thì cái tạp niệm nó không xen vô được. Mình không nhắc thì có tạp niệm xen vô.
(11:57) Mình cố gắng mình thở mà mình đếm thì trật. Bởi vì các Tổ dạy mình đếm, tức là phải luôn luôn phải tác ý ra ngoài. Coi như niệm cái sổ tức, niệm cái đếm hơi thở thì như vậy nó không đúng.
Trái lại cái phương pháp của Phật dạy Như Lý Tác Ý, nó không có được nhắc hoài. Như Lý Tác Ý tức mình ám thị nó rồi, mình cứ mình thở, tự động cái tâm mình biết. Thỉnh thoảng tác ý ra cái hơi thở để cho nhắc tiếp tục thêm cái thời gian nữa, cho nên mình không đếm. Mà trái lại mình có được cái khoảng thời gian yên lặng của mình, cái tâm đang biết hơi thở. Mình nhắc cho nó biết, mà mình không nhắc tức là không tác ý ra. Không có Như Lý Tác Ý cái hơi thở ra, thì cái tạp niệm khác nó sẽ… Khi mà nó yên ổn thì không nói gì, mà nó không yên ổn thì cái tạp niệm nó phóng vô liền.
Còn cái Như Lý Tác Ý thì nó chận đứng tất cả những niệm khác, nó không xen vô để chúng ta có được cái khoảng thời gian. Có được cái khoảng thời gian năm hơi thở hay mười hơi thở, khoảng thời gian một phút, hai phút đó chúng ta lại tác ý một lần nữa. Cứ ám thị nó hoài, ám thị nó để cho kéo dài thêm cái thời gian.
Vì vậy mà trong khi cái thân của chúng ta - an tịnh thân hành mà - trong khi cái thân mình nó đang thở, nó đang ngồi yên lặng đó, mà nó nghe an ổn đó thì nó được, mà nó không an ổn thì xả ra. Bởi vì an tịnh… Còn nó không an tịnh thì xả ra. "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra". Rõ ràng bây giờ thân mình đang an. Mà bây giờ cái thân mình nó không an, nó đau, nó nhức, nó tê là trật rồi. Mình xả ra liền, chứ không thể mà ngồi mà tập như vậy. Tập như vậy gọi là ức chế thân, làm cho thân khổ. Mà thân đang khổ, đang bị thọ khổ đó, đó là đang ở trong ác pháp.
Cho nên vì vậy mà phải xả cái ác pháp ra. Bởi vì Phật nói: "Ngăn ác, mà diệt ác". Bây giờ đang ở trong ác pháp mà cứ ngồi đó chịu đau như vậy, tức là mình tự làm khổ mình, tức là khổ hạnh. Đức Phật không chấp nhận. Cho nên cái khổ hạnh, là cái gì làm cho mình khổ?
Cũng như bây giờ ví dụ như Thầy ăn ngày một bữa, Thầy sống được, không có gì hết. Mà Thầy ăn ít, thay vì một bữa ăn ba chén cơm. Mà bây giờ Thầy ăn có một chén cơm làm cho cơ thể Thầy bị đói và cơ thể Thầy càng sa sút, rồi mệt nhọc khổ sở. Thì lúc bấy giờ đó là Thầy ức chế về cái ăn, tiết thực để cho thân Thầy quá khổ. Thì như vậy là Thầy đã ở trong ác pháp, chứ không phải thiện pháp, phải hiểu được vậy.
(14:04) Cho nên "Ngăn ác, diệt ác", mà giờ mình cứ nuôi dưỡng ác pháp, mình nghĩ rằng đó sẽ giải thoát, mình không giải thoát mà mình làm khổ mình.
Còn bây giờ Thầy ăn một bữa mà cơ thể Thầy nó suy yếu, nó lần lượt nó cảm giác như nó khổ sở, nó sinh bệnh thì như vậy ăn một bữa không được, phải ăn hai bữa. Chứ ông Phật ổng bảo mình không có nên ức chế nó, không có làm khổ nó. Ở trong ác pháp thì không được, phải ở trong thiện pháp. Mà nếu mình hơn cái thiện pháp tức là bị lợi dưỡng, tức là mình chạy theo dục. Mình chỉ đủ nuôi sống, đừng có để cho nó kiệt quệ, đừng có để cho nó bệnh đau thì nó đúng. Mà mình bây giờ nó mập mà còn lại ăn uống cho nó mập hơn nữa, để nói nó khỏe, sự thật ra nó bị dục. Mình chạy theo lợi dưỡng nó sinh dục. Mà nó sinh dục thì bao giờ mình ly dục được?
Cho nên ở đây Thầy nói, ví dụ như đức Phật cho biết rằng ăn ngày một bữa là đủ sống rồi. Thực sự là đúng như vậy, nó không sai đâu. Bởi kinh nghiệm bản thân của các vị Tỳ kheo ngày xưa, với Phật ngày xưa mà, người ta biết rõ. Cho nên người ta không cần ăn buổi sáng, buổi chiều người ta không cần uống cái gì thêm, người ta thấy nó đủ sống rồi.
Vì vậy sau cái thời gian tu tập thì Thầy ở đây Thầy cũng cảm thấy, đúng là đức Phật có kinh nghiệm trong cái bữa ăn, ngày ăn một bữa đủ sống. Còn bây giờ ăn một bữa mà mình ăn ít quá, mình tiết thực ít quá, cơ thể sẽ kiệt quệ. Đó! Thì do như vậy đó mình đã thấy được cái mầu nhiệm, nhất là từ cái chỗ ăn mà nó ly được cái dục. Từ cái chỗ ăn mà chúng ta không còn tham ăn nữa. Thì tất cả những cái dục khác nó sẽ lần lượt, nó sẽ ly được, nó lìa ra được hết.
Đó thì bắt đầu bây giờ chúng ta thực hiện là chúng ta phải nắm cho vững, là cái Chánh Niệm là cái niệm nào, mà cái Tỉnh Giác là cái chỗ nào Tỉnh Giác. Hai cái này quan trọng lắm. Mà thường thường cái Giáo pháp của đức Phật để, coi như là Tứ Niệm Xứ thì đức Phật nói “Trên thân quán thân, trên tâm, trên thọ, trên pháp mà quán, thì luôn luôn để khắc phục tham ưu”. Khắc phục cái tâm tham ưu của mình, làm cho nó ly dục ly ác pháp hết.
(16:00) Thì như vậy chúng ta rõ biết được cái mục đích của đức Phật nhắm vào để làm cho chúng ta hết tham, sân, si. Vậy thì muốn hết tham, sân, si thì chúng ta phải đi trên con đường ngăn ác, diệt ác rồi. Vậy thì bắt đầu muốn ngăn ác, diệt ác được, thì phải có sức Tỉnh Thức. Mình phải có tỉnh mình mới ngăn, mình mới diệt nó được. Chứ mình không tỉnh thì mình mê thì làm sao mà mình diệt nó được? Cho nên vì vậy bắt đầu mình phải tu cái Thân Hành Niệm, đi đứng nằm ngồi, tất cả những cái hành động của mình, ở bên ngoài cái gì đó, đó gọi là Thân Hành Niệm.
Thân Hành Niệm Nội thì tức là cái hơi thở của mình, nó có hai cái hành động, hành động nội và hành động ngoại của thân. Do đó lấy hai hành động này mình tu tập trước, để tập cái gì? Tập Tỉnh Thức.
Tỉnh Thức, khi mà được Tỉnh Thức một cái thời gian, thí dụ từ mười phút đến ba mươi phút, mình không cần một giờ đâu. Khoảng độ chừng mười phút, năm phút cũng là được rồi, bắt đầu từ đó chúng ta sẽ lần lượt chúng ta xả tâm, chứ chúng ta không có chuyên để đi vào cái Tỉnh Thức cho nhiều. Chúng ta không cần Tỉnh Thức nhiều, chỉ cần năm hoặc là mười phút, trong khoảng thời gian đó thì chúng ta tiếp tục, chúng ta xả tâm được rồi. Mà xả tâm tới đâu, cái tâm mà chúng ta xả tới đâu thì cái Tỉnh Thức nó tăng lên.
Bởi vì mình xả là cái tâm nó thanh tịnh, nó thanh tịnh thì nó tăng lên. Chứ mình đừng có ức chế cái vọng tưởng của mình thì sai. Mà do cái chỗ xả tâm đó mà cái tâm thanh tịnh nó yên lặng. Tâm nó quay vô nó vẫn biết hơi thở hay hoặc vẫn đi, là cái chỗ mà chúng ta xả tâm, chứ không phải chỗ mà chúng ta cố gắng tập để cho nó luôn luôn kéo dài cái thời gian không vọng tưởng thì cái đó là trật.
Do cái chỗ xả mà nó được cái này, chứ không phải do chỗ mình ngồi mình tập, mình ức chế nó mà được cái chỗ này.
Cho nên ví dụ như bây giờ mình không hiểu đó, mình cứ lo mình ngồi để mình cố gắng mình hít thở, hay là hoặc mình tìm một cái đối tượng nào đó, để mình giữ cái tâm mình không có vọng tưởng đó, thì nó không đạt chất lượng thời gian dài đâu. Nó chỉ có thể sức của mình, mình có thể một giờ hoặc đến hai giờ, nhưng mình ở trong khoảng thời gian đó mình vẫn bị những cái trạng thái Tưởng. Chứ nó không phải là hoàn toàn nó tỉnh bơ như mình ngồi hoàn toàn bình thường vậy đâu. Nó xảy ra nhiều cái trạng thái, nó đem ra hỷ lạc, rồi hơi thở nó thay đổi. Lúc thì nhỏ nhiệm, lúc thì như nó gần như mất, nó làm đủ cái trạng thái ở trong đó. Cho nên vì vậy chúng ta bị rơi vào các trạng thái của Tưởng mất rồi. Chứ nó không có được mà như mà chúng ta ở trong cái tâm thanh thản bình thường.
(18:11) Khi mà nó ly dục rồi thì cái tâm nó quay vô, nó không phóng dật, nó luôn luôn nó biết hơi thở. Mình đi nó biết đi, mà mình ngồi thì nó biết hơi thở của mình. Tự nó, nó không phóng ra thì nó không nghĩ gì hết. Nó quay vô thì nó yên lặng, thì lúc bấy giờ tâm chúng ta đã ly dục ly ác pháp, thanh tịnh.
Cho nên chúng ta ngồi đó mà chúng ta tác ý ra, khởi một cái ý gì đó, tức là Tầm Tứ chúng ta khởi ra được, hoàn toàn chúng ta chủ động được cái Tầm Tứ của chúng ta.
Mà chúng ta ngồi im lặng thì nhứt tâm hoàn toàn, nó ở trong, duy nhất nó tự động nó trụ vào cái hơi thở. Nó vẫn biết hơi thở thì hoàn toàn đó là chúng ta đã biết mình đã nhập được Sơ Thiền.
Chứ không phải Sơ Thiền mà chúng ta ngồi như thế này nó không vọng tưởng rồi trong một tiếng, hai tiếng, chúng ta xả ra, bao nhiêu thứ vọng tưởng khác, nói: “Ờ! Hồi nãy tui ngồi, tui nhập Sơ Thiền. Sự thật không phải đâ, mình ức chế nó, chứ không phải Sơ Thiền.
Sơ Thiền là lúc nào? Bây giờ chúng ta ngồi thì cái tâm nó quay vô. Nó quay vô tức là không phóng dật. Thì nó quay vô, nó biết cái gì đây? Nó biết hơi thở nó, chứ không có gì hết. Còn mình đi thì nó tập trung với cái hành động đi của nó, nó biết. Mình làm gì, nó không khởi niệm nào hết.
Khi mà mình không điều khiển để mà tác ý ra, tức là không điều khiển Tầm Tứ, thì tức là nó sẽ không bao giờ mà nó phóng ra nó khởi một niệm gì hết. Nó chỉ luôn luôn, nó chỉ biết như vậy rất là an ổn và rất là thanh thản và vô sự. Nó không khởi một niệm nào mà làm cái chuyện này, chuyện kia, chuyện nọ, nó không nghĩ tất cả những cái gì hết. Lúc bấy giờ mới gọi là tâm chúng ta ly dục ly ác pháp, mới gọi là nhập Sơ Thiền. Phải lưu ý cái phần đó.
Vì vậy trong cái thời gian mà tu tập đây, cái điều kiện, mà cái bí quyết thành công ở đây là phải thấy, phải nói là cái bí quyết là nó phải có cái gì đặc biệt mới gọi là bí quyết. Cho nên Độc Cư là bí quyết. Tại sao mà độc cư để mà bí quyết? Lưu ý cái phần này.
Bây giờ chúng ta có tu, có ngồi cách gì đi nữa mà chúng ta không giữ trọn độc cư thì chúng ta không đạt được cái tâm này, không đạt được cái Sơ Thiền. Coi chứ Sơ Thiền nó là Giới Luật, mà giới luật nghiêm túc được thì tức là chúng ta phải tu tập mọi cách nó mới giới luật nghiêm túc. Chứ cái tâm của chúng ta nó hay phạm giới lắm. Hành động thân, miệng của chúng ta, chúng ta giữ gìn được, chứ cái ý chúng ta không giữ gìn được, nó khó lắm. Mà muốn cho nó thanh tịnh được thì tâm nó không phóng dật, nó quay vào, nó không nghĩ ngợi nữa thì nó mới được, chớ còn không, nó khởi niệm.
(20:18) Thí dụ như bây giờ Thầy nói thấy cái miếng ăn, nó khởi thèm tức là nó cũng bị tham rồi, nó cũng bị phạm giới rồi. Ví dụ như bây giờ trưa mình ăn, nhưng mà giờ này người ta đem cái bánh đến, mình thấy muốn ăn thì tức là đã ăn phi thời rồi đó, ăn trong ý đó. Thì cái đó là nó phạm giới ở trong cái ý rồi.
Cho nên vì vậy người tu, người ta ly dục ly ác pháp, giờ này không phải giờ ăn, đem món ăn đó tới người ta cũng không thèm, tức là tâm nó không có tham, nó ly.
Còn bây giờ thấy cái bánh, hay ly sữa, hay cái gì mà đem đến nó khởi muốn ăn uống, thì tức là cái ý nó ăn uống phi thời. Còn cái thân của chúng ta, thì nó không ăn uống phi thời vì chúng ta giữ gìn giới luật, nhưng cái ý giữ không được đâu. Cho nên khi mà mình tu tập để mà giới luật thanh tịnh của tâm, tâm ý của mình thanh tịnh thì mình phải thực hiện đến cái mức độ, nó mới thanh tịnh thực sự.
Thì nói đến Giới, tức là nói tâm ly dục ly ác pháp, đức Phật xác định điều đó rất rõ trong kinh, rất rõ ràng mà. Đức Phật nói đến ly dục ly ác pháp thì tức là nói Giới Luật Thanh Tịnh. Mà nói Giới Luật Thanh Tịnh không có nghĩa là nói thân chúng ta giữ gìn giới luật thanh tịnh, mà nói ý giữ gìn giới luật thanh tịnh. Tức là nó không khởi nghĩ tầm bậy tầm bạ nữa, nó dữ tợn như vậy đó.
Cho nên ở đây, khi mà chúng ta thực hiện như vậy thì cái bí quyết mà để thực hiện được cái Ý mà thanh tịnh Giới, thì là pháp môn Độc cư. Chúng ta sống một mình không nói chuyện ai, không đi tới đi lui ai trong vòng ba tháng, một năm đến ba năm, thì chúng ta sẽ thấy tâm chúng ta quay vào.
Nghĩa là không hề sợ hãi trước cái chết. Ví dụ bây giờ cái thân đau, chết bỏ nhất định là không đi ra. Mà đi ra bệnh viện rồi, thì bắt đầu nó động rồi. Nghĩa là mình gọi bác sĩ vô thì mình… Khi mà vào phát tâm mà tu hành nguyện nhất định giữ độc cư. Nếu mà cái duyên phước của mình nó đầy đủ thì trong cái thời gian đó, nó không có bệnh, mà nó bệnh nhất định là chết bỏ.
(22:02) Bây giờ Thầy nhắc lại để cho thấy được cái pháp môn về Hạnh Độc Cư để cho cái tâm nó không phóng dật, nó quay vô mà để cho nó thanh tịnh đúng Giới của nó đó.
Thì trong cái khoảng thời gian mà Thầy về đây nhập thất, thì một hôm đó ở phía trước mà chỗ cái nền, chỗ tượng Phật mà bây giờ Thầy đặt cái tượng Phật nằm đó, cái thất của Thầy cất ở đó. Mà giữa cánh đồng ruộng như vầy, hồi đó không có cây gì hết. Thì cũng làm bằng thiếc vầy Thầy ở nóng lắm, nhưng mà Thầy ở Thầy tu. Thì trong lúc đó coi như là cái vùng này nó mới có giải phóng, nó mới có yên thôi.
Thầy về Thầy làm cái thất đó Thầy ở, Thầy tu. Thì lúc bấy giờ đó, thì coi như người dân họ đâu có ở trong cái vùng này. Bị chiến tranh, cho nên họ không có ở vùng này, họ phải chạy ra ngoài chợ Trảng Bàng họ ở ngoài đó. Còn cái vùng này là vùng cách mạng. Cho nên hoàn toàn ở đây coi như là bom cày đạn nổ, không có người nào ở.
Thầy về đây coi như là một khu, một cánh đồng rừng mênh mông vậy chứ còn cây tranh với cái cây hôi đó, cây mà bông trăng trắng mọc đầy, không có cái cây gì lớn hết. Nó ủi phá sạch, khai hoang hết, nó chỉ còn có những cây cỏ như vậy.
Thầy về đây, Thầy cất cái thất Thầy ở. Trong khi đó Thầy nguyện nhất định là không ra thất, nhất định là chết bỏ, giữ độc cư hoàn toàn. Mà khi lúc bấy giờ cái thân Thầy đau, Thầy nhất định là ngồi, dựng cái thân ngồi trên bồ đoàn mà chịu chết với nó. Nhất định là không rời mà không kêu ai hết, không có đi trị bệnh, quyết định là nhất định. Do đó hoàn toàn là Thầy chủ động được, mình liều chết chứ không.
Còn một lần nữa trong cái thời gian chiến tranh, coi như cái vùng này là ai ở trong này là bị chết đó. Thầy nói, mọi người người ta bỏ đây, người ta đi mà. Còn Thầy, hoàn toàn Thầy ở Thầy tu, Thầy nguyện, Thầy nhất định, Thầy tu chết bỏ mà.
Cho nên khi mà máy bay, khi mà hai bên quân đội bên này với bên kí nó bắn nhau đó, Thầy ở giữa cái trận chiến của họ như vậy mà Thầy vẫn ngồi sừng sững trước cái tượng Phật. Cái tượng Phật ở trước chùa, cái tượng đó đó, Thầy để trong thất của Thầy. Thầy để cái tượng lớn như vậy, Thầy ngồi đối diện với tượng Phật Thầy tu.
(24:11) Do đó mà khi hai bên, hồi mà khi giải phóng, cách mạng nó đến đây, nó đóng trong khu vực, nó đào hầm đào hố xung quanh, nó bảo Thầy đi đi. Thầy nói: "Bây giờ tôi phát nguyện, tôi ở tu tôi không có đi." Nó bảo Thầy, nó đuổi Thầy, nó không cho ở đây, chỗ này đánh giặc. Nó đuổi Thầy, không cho Thầy ở. Thầy nói: "Bởi vì tôi nguyện tôi tu rồi, tôi giờ chết bỏ thôi". Nó đào hầm đào hố, vòng vòng đây nó đào hết. Nghĩa là hố cá nhân rào hết.
Khi đó bắt đầu máy bay của chế độ cũ đó, của Quốc gia hồi đó, nó vô nó bắn. Nó dập tan nát, bỏ bom hết trong khu vực này. Họ nằm hố cá nhân, họ nằm đó hết. Cái bắt đầu xe tăng nó đổ vô. Đổ vô nó bắn kinh khủng lắm, rồi cái bộ binh nó đi theo xe tăng nó vô. Tới chừng mà bộ binh nó vô, mấy ông giải phóng này bị máy bay rồi pháo nó dập, mấy ông phải rút đi bỏ, đánh không thấu.
Thành ra cái bộ binh nó vô, thấy Thầy ngồi sừng sững đó: "Trời! Bộ Thầy muốn chết sao mà Thầy ngồi đây?" Thầy nói: "Bởi vì Thầy phát nguyện Thầy tu", rồi thôi. Rồi nó đi qua luôn, nó không bắt. Nó không hỏi Thầy gì hết, đi luôn hết, Thầy an ổn Thầy tu.
Thầy nói mình chết là mình chết ở trên bồ đoàn, chứ không chết dưới bồ đoàn. Mà thật sự ra Thầy nói Giới Luật nghiêm chỉnh thiệt. Thầy giữ Giới mà hộ trì Thầy được, chứ còn không cách gì mà độ Thầy nổi. Nhờ cái oai lực của Giới Luật, Thầy sống. Thầy lấy Giới Luật mà Thầy làm cái chuẩn Thầy tu.
Cho nên trong những cái giờ phút đó, người ta ai cũng sợ Thầy hết, nghĩa là Thầy gan dạ quá. Thầy nói chết cũng một lần thôi. Cho nên vì vậy nhất định là không rời khỏi thất mà. Khi mà Thầy phát nguyện, Thầy vào thất Thầy tu mười năm, Thầy nói: "Nếu mà làm chủ được sanh tử luân hồi thì mới ra thất, mà không làm chủ được sanh tử luân hồi là hoàn toàn là chết trong thất, chứ không ra khỏi thất".
Thầy không hiểu tại sao mình hiểu? Nhưng mà sau đó, Thầy sau khi tu xong nhìn lại, Thầy mới thấy được cái bí quyết thành công trên cái sự tu tập là chỉ có Độc Cư. Không tiếp duyên với ai hết, chỉ sống một mình mình. Cho nên thất Thầy luôn luôn lúc nào, ban ngày thì cũng đóng cửa lại hết, Thầy không có mở ra, Thầy không có đi ra ngoài đâu. Ra ngoài sợ họ gặp, cái họ nói chuyện.
(26:12) Cho nên vì vậy mà Thầy cứ đóng cửa, ai vô thì Thầy, cứ thỉnh thoảng là Thầy đi kinh hành là khi không có ai, chứ mà Thầy thấy có ai là Thầy lo Thầy ngồi. Họ thấy Thầy ngồi là họ không nói chuyện. Mà thấy Thầy đứng, hay hoặc Thầy đi chơi thì họ nói chuyện. Đang đi kinh hành là họ lại nói chuyện. Thầy sợ lắm, Thầy tránh duyên tất cả. Mà suốt mười năm không hề Thầy nói tiếng nói.
Sau đó Thầy suy gẫm Thầy biết, từ cái chỗ mà không nói đó, cái tâm nó tuôn trào. Nó nghĩ cái này, nó nghĩ cái kia đủ thứ, nó tuôn trào ra hết. Thầy hoàn toàn Thầy cầm chân Thầy, không có cho nó tiếp duyên. Nó lý luận đủ cách để mà nó phá độc cư nó đi ra. Cái tâm nó dữ lắm, chứ nó không có hiền đâu. Đến khi mà đau nó cũng lý luận nữa, phải đi uống thuốc, phải này kia để cho mạnh mới tu được, nó luận đủ. Thầy nói nhất định là Thầy thà chết, chứ Thầy nhất định là chống lại, chứ Thầy không có bao giờ mà nó sai bảo Thầy được cái gì hết. Cho nên cuối cùng cái nó tuôn ra hết, nó tuôn ra hết, rồi bắt đầu nó quay vô.
Thầy mới hiểu không phải mình ngồi mà có thể nó có thiền Định được. Mà do mình xả hết, mà cái tâm của mình không khởi ra. Bởi vậy cho nên nó quay vô. Nó quay vô, Thầy nói ngồi đâu, cái tâm của Thầy nó vẫn biết hơi thở, mà Thầy không cần phải tu tập gì hết. Nó không phóng ra cái gì nữa hết, nó hoàn toàn nó quay vô. Nó quay vô suốt ngày, Thầy nói nó an tịnh vô cùng lận. Cho nên vì vậy Thầy nói: "À! Như vậy Thầy là sẽ nhập định được rồi". Thầy sẽ nhập định được rồi, Thầy thấy rõ ràng cái kết quả này rồi.
Cho nên Thầy mới nói với mẹ Thầy, Thầy nói: "Con sẽ nhập định, nếu mà con không… Mẹ đem cơm vô trong thất con mà không thấy con ăn thì mẹ bưng ra đừng để thiu. Nhưng mà mẹ đừng có lo lắng, con không chết đâu, con nhập định, chứ không chết đâu". Thầy nói dặn mẹ Thầy trước như vậy.
Cho nên suốt bảy ngày Thầy ở trong thất, mà cả hai tháng trời Thầy mới xuất định ra. Thầy ra lệnh, Thầy bảo: "Tịnh chỉ hơi thở". Nó tịnh chỉ, Thầy ngồi luôn mà.
(27:57) Hai tháng luôn đó, chứ không phải là trong bảy ngày đâu. Ban đầu Thầy thử một đêm một ngày, Thầy thấy được rồi. Sau đó Thầy nói với mẹ Thầy rồi, Thầy định là bảy ngày. Nhưng mà Thầy nói, Thầy dặn mẹ Thầy: "Chừng nào mà con… Mẹ đừng có gọi ai, mẹ đừng có sợ, con không có chết đâu". Thầy dặn trước mà. Thầy sợ bà sợ quá, bà gọi bà con lối xóm. Thầy chưa có ra định được, họ tưởng Thầy chết đó, họ đem họ chôn. Thầy dặn trước: “Mẹ đừng có sợ. Chừng nào mà con có thúi thì mẹ chôn. Còn không có thúi thì mẹ đừng có đụng tới con cái gì hết. Mẹ đừng có kêu gọi bà con. Mẹ đừng có sợ, mẹ cứ bình thường thôi. Con ăn, không ăn kệ nó. Mẹ yên tâm, chớ đừng có gì hết”. Thầy dặn trước hết.
Bởi vì Thầy thấy Thầy làm chủ được cái chỗ mà cái hơi thở Thầy rồi. Thầy bảo nó ngưng, nó ngưng rồi. Vì vậy mà Thầy thấy khi mà cái tâm nó quay vô, nó không phóng dật. Nó quay vô, nó biết hơi thở của nó rồi, Thầy ra lệnh cái nó làm được. Thầy ra lệnh, bởi vì Thầy biết nhập Tứ Thiền là hơi thở nó tịnh chỉ. Phật dạy mà.
Cho nên khi mà Thầy ra lệnh diệt Tầm Tứ, nó hoàn toàn nó không tác ý ra được nữa. Thầy nhập Nhị Thiền, Thầy ra lệnh: "Tầm Tứ tịnh chỉ, ngưng đi", tức là diệt Tầm Tứ. Tầm Tứ nó tịnh chỉ thì mình tác ý không có được. Mình vô định nó rồi, cái Nhị Thiền không có tác ý được, chứ không phải ngồi đây nó có vọng tưởng đâu.
Cái Sơ Thiền mình tác ý ra, mình nghĩ, mình suy tư cái này kia được. Nhưng mình chủ động, chứ không phải tự động nó nhảy vô được. Còn cái Sơ Thiền của mình cho nên nó có Tầm, có Tứ, có Nhất tâm, có Hỷ Lạc của nó. Cho nên nó năm chi thiền của Sơ Thiền.
Nhưng đến Nhị Thiền thì hoàn toàn là tác ý không được. Khi vô đó rồi tác ý không được. Bởi vì cái tầm tứ nó diệt mà, đâu có còn tác ý được. Nó cao hơn một bậc rồi, nó định rồi. Nhưng mà cái hơi thở nó còn thở.
Cho đến khi mà Thầy ra lệnh cho hơi thở nó ngưng, Thầy thấy rõ ràng là Tứ Thiền nó cao, cái sức nó làm cho cái thân bất động. Cho nên bây giờ ngồi bao lâu cũng được rồi. Vậy nếu mà người ở ngoài người ta không biết, người ta nói mình chết. Vậy cho nên Thầy mới dặn mẹ Thầy kỹ lưỡng lắm, rồi bắt đầu Thầy mới nhập định, hai tháng trời Thầy mới xuất định. Thầy dặn trước mà, Thầy vô định Thầy dặn: "Tịnh chỉ hơi thở, hai tháng ra định”
Sư Tuệ Tĩnh: Không ăn hả Thầy?
Trưởng lão: không ăn uống gì hết, hai tháng ra.
Sư Tuệ Tĩnh: Sao lúc đó mình biết Thầy?
(29:57) Trưởng lão: Vẫn mình ở trong cái trạng thái rất rõ ràng lắm. Hễ mình hướng tâm cái mình biết hết hà. Mà mình không hướng tâm, mình ở trong cái trạng thái im phăng phắc.
Sư Phước Nhẫn: Ai tới lui mình cũng biết hả Thầy?
Trưởng lão: Không! Tới lui thì mình.. Khi mình vô thì không biết. Nhưng mà mình hướng ra thì ai làm gì mình biết hết hà. Mà mình không hướng, mình cứ ở trong đó để kéo dài cái thời gian đó ra. Chứ không phải mình ngồi, mà ai làm gì xung quanh mà mình biết đâu, không có.
Nó ở trong cái Nhị Thiền thì tuy rằng diệt tầm tứ, chớ ai xung quanh gì mình biết hết.
Còn cái Tứ Thiền nó tịnh chỉ luôn, mình không biết đâu. Coi như nhập Tứ Thiền thì hoàn toàn, nó ở trong một cái trạng thái, nó không có không gian và thời gian. Mà không có bao giờ mà ai ở ngoài này mà mình lưu ý hết. Nó không bao giờ tập trung ai, nó không biết đâu.
Nhưng mà khi mình hướng ra, mình hướng ra mình xem coi thử coi cái, ở ngoài có cái gì, thì hướng ra ai làm gì làm mình biết hết. Mà mình hướng tâm trở vô trong định, thì mình hướng tịnh chỉ hơi thở, thì ngay đó là mình hoàn toàn không biết nữa, nghĩa là còn có một cái trạng thái của mình. Thầy biết cái trạng thái đó là cái trạng thái bỏ thân mà; chúng ta không mất, nghĩa là còn biết cái đó thôi. Rõ ràng là bây giờ mà nếu mình tịnh chỉ hơi thở là mình sẽ đi vào chỗ đó. Coi như là phải nhập tới Tứ Thiền mới xả bỏ được báo thân.
Chứ còn người mà không nhập được Tứ Thiền không xả bỏ được báo thân. Nghĩa là làm chủ được cái hơi thở, xả cái hơi thở được, nó không thở thì mình bỏ cái thân mình được. Nhưng mình giữ cái thân của mình được cái thời gian nào thôi, chứ còn mà giữ xa hơn nữa không được.
Cái trong cái Tứ Thiền nó không có thể giữ hơn được, cho nên tới đó nó phải thở ra. Còn mình làm chủ thì mình bắt nó thở ra được, mình thở vô được. Cho nên trong suốt cái thời gian đó thì Thầy có thử, thử tất cả những cái đó Thầy biết.
Nhưng mà đến cái Diệt Thọ Tưởng Định thì nó không có cái thời gian dài. Có nhập thử được, nhưng mà không có thời gian dài. Thầy định Thầy nhập luôn suốt, bởi vì cái thời gian Diệt Thọ Tưởng Định nó có cái từ trường, nó bảo vệ cái thân của mình. Hoàn toàn cái thời gian rất dài hoặc là một năm, hai năm mình nhập trong đó, nhưng mà chưa có thời gian ở trong đó.
Thầy nghĩ rằng, trong những ngày giờ phút gần đây, tất cả chúng mà không có ở đây nữa, Thầy không có hướng dẫn, coi như mình không có trách nhiệm gì nữa hết thì mình sẽ nhập vào cái định đó để xem. Bởi vì từ lâu đến giờ mình đâu có biết. Nghĩa là từ nào tới giờ chưa có người nào mà nhập như vậy, thành ra mình cũng chưa biết thời gian nó sẽ như thế nào, trong cái thời gian của Diệt Thọ Tưởng Định như thế nào.
(32:19) Còn Sơ Thiền Thầy biết rồi, nhưng mà nó có cái khoảng thời gian. Chứ cái thân của mình nó không thể nào nó lâu ăn lâu uống mà trong khoảng thời gian dài. Mà trong khi đó Tứ Thiền mà nó kéo dài được, xa như vậy được, nó chỉ trong cái thời gian ngắn nào đó thôi.
Cho nên Thầy thử, Thầy thử rồi Thầy ra, ra phục hồi lại rồi thử vô. Cho nên trong khoảng cái thời gian đó Thầy cứ ra vô, ra vô vậy. Thí dụ như Thầy cho nó một tuần lễ, Thầy bảo "tịnh chỉ hơi thở một tuần lễ". Cái bắt đầu một tuần lễ nó bung ra. Nó bung ra, nó thở trở lại. Thở trở lại rồi cái bắt đầu Thầy cho nó vô nữa. Cứ như vậy Thầy không ăn uống mà Thầy có ra, có vô, chứ không phải là nó liên tục như vậy là hai tháng. Không phải đâu.
Phải hiểu được cái chỗ mà Thầy nói. Thành ra mình, bởi vì mình mới vô, mình chưa có biết như thế nào. Phải ra vô để tự động, chứ còn không khéo nó đi luôn rồi làm sao? Nó đi luôn, nó chết mất rồi, mình không có làm sao mình hồi phục lại được. Thì như vậy là mình biết làm sao giờ?
Bởi vì trước khi mà Thầy vào thất thì có thầy Như Hải, ổng nói ở ngoài quê ổng, ngoài Nha Trang có một người đó cũng cất cái chòi, rồi nhập định hai mươi mốt ngày, thì người ta thấy bà ta chết luôn rồi. Họ đem họ chôn đi. Cho nên vì vậy mà Thầy được nghe cái tin đó Thầy cũng lo, lo cho cái thân phận của mình. Không biết rồi đây, rồi mình nhập như vậy rồi nó đi luôn vậy. Rồi nó cứng ngắc luôn như vậy, rồi nó không thở luôn, rồi mẹ mình không biết đây, rồi cũng chôn. Cho nên Thầy dặn mẹ kỹ rất kỹ. Nhưng mà Thầy cũng phòng ngừa, vì vậy mà Thầy vô bảy ngày, rồi Thầy ra hay hoặc là cái thời gian mà Thầy định nó là bao lâu. Thầy cứ ra vô, ra vô để phục hồi lại coi nó có thở được hay không, để cho biết. Cho nên suốt hai tháng Thầy cứ ra vô, ra vô.
(33:59) Chứ không phải là Thầy ngồi liệt, mà ra vô có nghĩa là Thầy ngồi tại chỗ, chứ không phải đi. Chứ không phải xuất mà đi chỗ này chỗ kia hay hoặc ăn cơm. Ngồi tại chỗ, nhưng mà xuất ra là bằng tâm mình nó ra, cái thân thì ngồi bất động.
Nhưng mà xuất ra, cái tâm mình quan sát được chung quanh của mình cái này, cái kia, cái nọ. Xong rồi, bây giờ nhập trở lại vô, hoàn toàn là không thấy biết gì hết. Nó không phải là ở trong cái trạng thái của Nhị Thiền, mà nó lại ở trạng thái của Tứ Thiền. Nó khác rồi, toàn bộ nó ngưng hoạt động hết. Thân hành nó ngưng hoạt động hết, nó không còn hoạt động nữa.
Còn cái Nhị Thiền thân hành nó còn hoạt động, chỉ có khẩu hành nó ngưng mà thôi. Khẩu hành tức là tầm tứ đó, Nhị Thiền đó, cái khẩu hành nó ngưng. Còn cái Tứ Thiền thì hơi thở nó ngưng, tịnh chỉ hơi thở, cho nên nó khác rồi.
Thì trên cái bước đường tu hành cho nên hôm nay Thầy nhắc lại cái Thiền Định nó không phải là quan trọng. Mà nó quan trọng ở chỗ Sơ Thiền, ở chỗ ly dục ly ác pháp, cái đó khó nhất.
Mà cái tâm mà tuôn trào, cách thức mà chúng ta sống độc cư là để cho tâm tuôn trào. Bởi vì độc cư nó cô đơn, nó cô đơn nó nhớ… Thầy nói hồi mà Thầy học ở lớp đệ tứ mà học Kiều á, nó nhớ ra. Nó tuôn trào, cái bài thơ Kiều nào nó cũng nhớ. Thậm chí như Huy Cận, hay hoặc là Thế Lữ, Khái Hưng hay hoặc là những nhà thơ nào đó, hồi nhỏ mình đi học là nó quay lại, nó nhớ hết. Rồi hồi nhỏ mà đi học mà đánh lộn với nhau chỗ nào nó cũng nhớ ra hết. Nó tuôn ra hết, nó không còn cái chỗ nào, nó tuôn ra sạch. Rồi nó lý luận cái này, lý luận cái kia, lý luận đủ cách để cho mình phá vỡ, mình bỏ ra đi. Bỏ thất ra đi, nó đủ mọi cách hết. Cái tâm của con người thiệt nó độc lắm.
Cho nên do cái chỗ đó đó mà Thầy đã biết được cái pháp này, nó sẽ tâm nó quay vô. Mà quay vô, khi mà tâm nó quay vô, tức là ly dục ly ác pháp rồi, thì cái Thiền Định nó dễ rồi, nó không còn khó nữa. Cái tâm thanh tịnh, nó đúng giới luật nó rồi, thì tự nó sanh định, chứ không có ai làm ra định đó được.
(35:58) Cho nên mình bây giờ mình ngồi thì nó sẽ không bao giờ nó có định. Mà mình giữ gìn đúng giới luật của Phật, nói giữ gìn đây là phải tu. Cái tâm nó thanh tịnh, nó mới giới luật nghiêm chỉnh. Chứ còn không phải là mình cố gắng, mình bắt buộc cái thân mình phải ăn uống, phải sống oai nghi tế hạnh này kia, mà cái ý nó tùm lum trong này thì nó không thanh tịnh Giới đâu.
Phải hiểu nó có ba cái hành động của nó: thân, khẩu, ý. Mà cái khẩu nó giữ giới được, cái thân nó giữ giới được. Mình bắt buộc nó được, nhưng cái ý bắt buộc nó không có được. Nó khó lắm, nó thấy cái gì là nó phạm giới ngay cái nấy, nó khó ở chỗ này.
Do đó nó có những cái pháp môn tu. Vì vậy mà trên Tứ Niệm Xứ hay hoặc là Tứ Chánh Cần thì mình phải tu những cái định gì, định gì, để rồi cái ý nó mới thanh tịnh, nó mới ly dục ly ác pháp trong cái tâm ý của mình. Từ đó cái tâm nó quay vô. Mà khi nó quay vô được rồi thì bắt đầu cái định nó dễ rồi. Mình chỉ ra lệnh là nó tịnh chỉ các hành của mỗi thứ định. Cái định nào nó có cái chuẩn của nó rồi. Cho nên Phật dạy những cái chuẩn đó, mình nắm được những cái chuẩn đó thì chỉ có pháp hướng của mình, mình truyền lệnh nó sẽ vào đó. Mình ngồi như thế này, mình đứng mình ra lệnh nó cũng nhập nữa, chứ đừng nói mình ngồi không.
Đó là những cái mà qua kinh nghiệm của Thầy. Cho nên vì vậy mà Thầy nói đây là cái pháp mà chúng ta biết được cái bí quyết của nó. Chẳng hạn bây giờ như hai sư đến ở đây tu hành, mà Thầy biết được thành công hay không là Thầy nhìn qua cái sự tu. Cái sự tu như thế nào? Thầy thấy cái đời sống độc cư trầm lặng, sống một mình, không nói chuyện ai hết hoàn toàn. Người này sống từ một tháng, đến hai tháng, ba tháng, đến một năm, hai năm, ba năm. Thầy biết người này sẽ đạt được, sẽ đạt được đến kết quả cuối cùng của nó.
Còn Thầy thấy bây giờ cố gắng mình sống cho được một năm, không hề nói chuyện ai hết. Nhưng mà hết năm đó, qua cái năm thứ hai là bắt đầu nói chuyện. Chỉ tiếp duyên một chuyện thôi thì cái năm đầu tiên đó kể như là hủy hết rồi. Bởi nó tuôn vô. Hễ ở ngoài kia mình tiếp duyên rồi, bao nhiêu cái mà trong tâm của mình nó tuôn trào đó. Mình đã giữ được cái sự tu tập của mình để xả được những cái niệm mà một năm đó đó, nó gian khổ lắm. Nhưng mà khi mình tiếp duyên rồi thì bao nhiêu cái niệm nó sống lại hết. Nó uổng công mình, bắt đầu coi như là tu trở lại, phải sống độc cư trở lại. Trước kia mình nỗ lực, mình sống được một năm. Nhưng mà khi tiếp duyên rồi thì bắt đầu ít bữa nó kiếm chuyện nó tiếp nữa, nó không bao giờ dừng đâu. Cho nên cuộc đời của mình hết tu rồi.
(38:25) Cho nên Thầy nói bắt đầu vô là phải vô quyết tử với nó. Mà nếu không quyết tử thì kể như là mình sẽ bị cái tâm của mình nó sai mình, nó phá cái hạnh đó thì tâm mình nó sẽ bị phóng dật theo thôi. Cho nên từ xưa đến giờ mình phải thấy rằng cái người tu mà để đạt được cái mức Thiền Định của Phật thiệt là ít có. Ít có lắm, là tại vì người ta không nắm được cái bí quyết này, bí quyết độc cư.
Đức Phật nói trong kinh thì nó đơn giản lắm. Nghĩa là thí dụ như mình sống độc cư như con tê ngưu một sừng thì mỗi tâm niệm của mình trong này mà nó có khởi lên thì mình không độc cư đâu, mình phải xả nó. Mà muốn xả được như vậy, thì mà mình tiếp duyên, mình nói chuyện với người khác thì hết được rồi. Mình phải hiểu được cái lý của Phật.
Cho nên ở đây bây giờ mình tập. Mình tập, rồi sau đó mình gom lại, bắt đầu mình mới đi vào trên Tứ Niệm Xứ mình tu. Nghĩa là bây giờ tập hơi thở, phải không? Rồi bắt đầu mình tập những hành động đi kinh hành. Rồi bắt đầu mình tập tới cái sức mà gom cái tâm của mình nữa, để cho nó được Tỉnh Thức chứ. Tâm mình, người mới tu mà chưa biết cái hơi thở mà để gom, bây giờ Thầy nói kỹ để cho quý thầy để lưu ý.
Bây giờ đó mình tập cái hơi thở bình thường trước. Đây là mới vô căn bản mình tập hơi thở, mình thở. Từ lâu tới giờ mình cũng thở bình thường, nhưng mà mình không có lưu ý. Hôm nay Thầy nhắc thở bình thường. Vậy thì hôm nay, một ngày nay mình tu hơi thở bình thường thử coi.
Thì mình đi kinh hành mình cũng lưu ý cái hơi thở của mình, mà mình ngồi mình cũng lưu ý hơi thở.
Chứ không phải đi kinh hành mình tập trung. Khi nào nói đi kinh hành mà để tập trung dưới bàn chân đi kinh hành của mình thì mình sẽ tu cái khác.
(39:57) Nhưng bây giờ mình đi, mình cũng tập trung trong hơi thở. Mình coi đi như vậy cái hơi thở mình bình thường hay như thế nào? Nó bình thường theo kiểu đi, chứ không phải bình thường theo kiểu ngồi, mình phải lưu ý nó.
Cũng như bây giờ nó bình thường của buổi chiều, nó không thể bình thường của buổi sáng. Mình phải lưu ý cái phần này, chứ không phải. Mình bắt buộc, bây giờ ví dụ như cái hơi thở của mình là ba giây phải không? Nhưng buổi sáng nó ba giây, chứ buổi chiều chưa hẳn đã ba giây. Bởi vì cái thân của mình mà, cái đặc tướng của mình buổi chiều nó phải khác, chứ nó đâu có phải giống là buổi sáng đâu? Cho nên đó mình tu cái hơi thở bình thường.
Vì vậy cho nên thí dụ như mình tập bình thường đó, Thầy nhắc nhở đây hết để cho mình lưu ý cái phần mà, nắm cho được vững chắc cái này thì bắt đầu mình ngồi lại. Khi mình tập trung mình chú ý nó thì nó không bình thường. Nhưng mình sẽ biết nó bình thường là vì mình thở, mình thấy không có mệt. Mình thở mình nghe nó thoải mái, dễ chịu, an ổn thì nó là bình thường.
Hãy lưu ý, thử hỏi bây giờ Thầy thở nè. Thầy hít thở, Thầy hít chậm chậm chậm chậm không bình thường chứ gì? Thầy thở ra cũng chậm chậm, một chút Thầy có mệt không? Mệt.
Bây giờ Thầy thở nhanh. Thầy thở nhanh thì một hơi Thầy thấy cũng mệt, phải không? Nhưng mà Thầy thở để sao mà Thầy thấy cơ thể Thầy thấy nó an ổn mà không mệt thì đó là bình thường. Lưu ý cái phần Thầy muốn nói nó đơn giản. Nhưng mà không lưu ý, có lúc mình thở nhanh một chút nào đó, nó chưa hẳn là nó mệt mình đâu. Nhưng mà cái đó nó cũng sai bình thường rồi.
Cho nên từ cái chỗ mà hơi thở bình thường nó sẽ đi vào cái trạng thái thân tâm nó an ổn, ờ lưu ý. Thì cái hơi thở mà nó an ổn, thì nó sẽ bình thường trong cái an ổn, thì nó phải nhỏ nhiệm hơn nữa. Sư lưu ý cái phần đó phải không?
Nghĩa là bây giờ Thầy đang, cái tâm Thầy chưa an ổn đó thì Thầy thở bình thường. Thì cái mức bình thường của nó, nó ở trong cái tâm chưa an ổn. Nhưng mà khi nó bắt đầu nó có an ổn rồi, thì cái hơi thở nó thay đổi theo cái bình thường của sự an ổn đó.
(41:49) Phải lưu ý. Bây giờ nó an ổn ở trong cái chỗ mà nó đã an ổn. Nó thở như vậy, mình bắt buộc nó phải lôi trở lại cái bình thường của mình đang chưa an ổn thì như vậy mình sai. Sư hiểu chỗ đó chưa? Cho nên đừng có buộc nó cái này kia, để cho tự nó, nó đi thì mình biết đây là hơi thở bình thường, nó theo. Cho nên nhiều khi nghe nó hơi thở bình thường, người ta bắt buộc nó phải đúng cái tiêu chuẩn nó ba giây. Thì bây giờ nó đang an, thì nó phải nhẹ xuống. Nó nhẹ xuống, nó đi bốn giây, hay năm giây không chừng. Mà mình bắt nó lôi trở lại là ba giây là mình bị mất bình thường ở trong cái trạng thái an, thân tâm của mình an, thì nó sai bình thường của nó rồi. Mình đừng có bắt buộc nó, mà mình để tự nhiên của nó, và mình biết trong lúc này nó phải thở như vậy thì đó là bình thường.
Cũng như buổi sáng trời lạnh thì nó thở như vậy, buổi chiều trời nóng nó thở khác, mình bắt nó thở như buổi sáng, không được, mất bình thường. Phải lưu ý cái chỗ bình thường. Vì vậy mình biết được, như vậy là mình điều khiển được, cái hơi thở của mình bình thường trong mọi thời tiết, trong mọi thân tâm của mình nó lúc an, mà lúc không an. Chứ đừng có bắt buộc nó phải như vậy, như vậy, như vậy… thì không tốt.
Đó là những cái mà nói về tập luyện về hơi thở bình thường để mình nắm cho vững được cái cách thức này, mình luyện cái hơi thở bình thường của mình. Luyện hơi thở bình thường thì nó cũng không khó, tập trong vòng chừng một tuần là cao lắm là mình đã biết được cái hơi thở bình thường của mình. Bởi vì mình tập, mình lưu ý để mình biết nó thôi, chứ không có gì.
Cho nên khi mình vào định mình xuất định, mình ra lệnh nó: "Bây giờ hơi thở phải phục hồi lại. Thở." Bắt đầu bây giờ hơi thở nó thở lại mà nó thở chậm, chứ nó không phải là thở nhanh được. Bởi vì nó còn đang ở trong định, nó chưa xả ra. Cho nên khi mà nó thở ra rồi thì bắt buộc mình hướng tâm mình nhắc: "Hơi thở phải thở lại bình thường". Thì bắt đầu hơi thở nó theo cái lệnh đó mà nó thở lại bình thường.
Mình biết cách mà xả, chứ không phải xả thiền bằng cách mình xoa tay xoa chân mà xả thiền. Mình xả cái thân của mình bằng cách mình ngồi co tê này kia đó, bây giờ mình xả ra, mình đứng dậy mình đi té đó, mình mới ngồi mình xoa chân, xoa tay này kia gọi là xả thiền, thì không phải.
Mình xả Thiền đây, thiền là cái tâm…. (44:05)
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 04
TU TẬP CĂN BẢN TỪ THẤP LÊN CAO
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh, Sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [43:01]
Thời gian: 2002
Tên cũ: 02B-TuTapCanBanTuThapDenCao
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-04-tu-tap-can-ban-tu-thap-len-cao.mp3
(00:01) Lần lượt mới xả tới cái thân. Đó là những điều kiện mà nó cần thiết mà Thầy hôm nay Thầy nhắc, để cho biết như vậy, để cho mình biết cách thức mình tu.
Thì bắt đầu bây giờ đã nghe Thầy nói rất rõ rồi. Thứ nhất là độc cư, mình không có nên mà ép buộc mình phải là một tháng, một năm, hai năm mà này kia. Mình chỉ độc cư trong một ngày, theo như thọ Bát Quan Trai mà. Rồi mình độc cư hai ngày, ba ngày, bảy ngày mình tập dần lên thì mình không bị ức chế.
Còn bây giờ chưa gì mình không biết độc cư ra sao hết, tôi cũng nguyện là ba tháng, hai tháng nhập thất độc cư hoàn toàn, coi chừng mình đổ vỡ, mình đổ vỡ. Mình tập dần, dần dần, cứ tăng dần, tăng dần lên. Nó thoải mái, nó giải thoát, nó làm cho mình thích thú tới đâu là mình tăng tới đó. Còn nó chưa thích thú mình ép nó làm cho nó buồn bã cô đơn, làm nó sanh ra nhiều cái, thì cái đó là mình ức chế nó. Mình làm cho mình khổ, thì như vậy không đúng pháp Phật.
(0:51) Coi vậy chứ độc cư nó làm cho mình khổ lắm. Nó cô đơn, nó không có làm, nó không có khởi ra được một cái gì, nó không ham muốn được cái gì, nó làm cho mình bực bội ở trong người lắm, chứ không phải dễ. Thay vì bây giờ, mình từ lâu tới giờ, con người của mình thì nó thích vui, mà bây giờ mình vô mình sống trầm lặng một mình thì mình buồn lắm, cô đơn, mình buồn. Đó là cái người mà người ta còn đời nhiều. Còn mình bây giờ mình biết đạo rồi, mình tu mình thấy cảnh yên tịnh thanh vắng, đó là mình có căn bản độc cư đó. Nó thích cái cảnh vắng, nó ưa thích cái trầm lặng độc cư rồi, thì mình ưa thích được, đó là mình đã đi được nửa đường rồi.
Nhưng mà mình khép mình vô trong cái thời gian mình tu, bây giờ mình tu trong một tháng. Mình thấy thích ở trong cái tháng này, mình tăng lên tháng nữa, mình thích nữa, mình tăng lên nữa. Còn mình không thích đừng ép nó, đừng ép nó. Nhưng mà mình tập dần, mình đừng có tăng hai tháng liên tục. Mà bây giờ nó thích được tháng, thì tháng này đó mình xả ra, mình nghỉ ngơi cái đã, mình chuẩn bị tháng sau mình tập nữa. Mình thấy trong một tháng, mình thấy nó thoải mái dễ chịu lắm, bắt đầu mình mới tăng lên.
Bởi vì cái thân và tâm của mình, mình tập dần, mình huấn luyện dần. Chứ không thể nào mình bắt buộc nó một lần mà được, mình đừng có muốn mau. Bởi vì cái nghiệp của mình nặng lắm. Cho nên mình muốn mau là mình sẽ chậm mất đi. Còn mình tập dần, mình chứng nghiệm dần dần nó sẽ đi tới cái kết quả của mình rất rõ ràng.
(2:07) Thì bây giờ đó, thì bắt đầu tu, coi như là nếu mà từ lâu tới giờ mình đã có tu tập, có tu tập không có nghĩa là mình bỏ hết những cái công phu này. Thầy muốn nói mình có lại cái công phu tu tập, ví dụ như từ lâu bây giờ mình có tu Định Niệm Hơi Thở, mình có tập trung, mình gom tâm. Mình có gom tâm, mình biết. Nhưng bây giờ trở về lại cái căn bản nó không có nghĩa là cái công phu đó nó phí hết của mình từ lâu tới giờ đâu. Nó có căn bản, cho nên vì vậy bây giờ mình ngồi lại, mình tìm cái hơi thở bình thường của mình.
Sáng mình thở bình thường, mình coi thân tâm của mình như thế nào? Coi nó an ổn hay không? Coi nó có như thế nào không? Thì mình ngồi lại mình thở. Bây giờ mình ngồi xếp bằng xuống mình thở, mình thở thì mình thấy nó an ổn. Mình đừng có ức chế, mình đừng có khép nó có vọng tưởng hay không vọng tưởng, mình không cần đâu, mình không cần đâu. Mình chỉ lo cái hơi thở mình bình thường thôi.
Còn nó khởi niệm nào đó, nó nghĩ gì đó thì bắt đầu bây giờ mình đang ổn định cái hơi thở bình thường mình gì, thì mình khoan dùng mà để quán xét cái niệm đó để xả nó. Mình dừng ngay cái niệm đó đi, bây giờ để mình quan sát lại hơi thở thôi, chứ mình không có nghĩ gì đến cái niệm đó. Chừng nào mà tới khi mà mình tu tới cái gì đó mà cái niệm đó khởi ra, thì mình sẽ tu cái pháp gì để cho mình xả cái niệm đó, thì lúc bấy giờ nó mới áp dụng. Áp dụng vào trong các định vào ở trong cái tâm của mình trong cái thời gian mà mình tu cái tâm của mình. Thì mình mới có cái phương cách của nó để đối trị. Còn bây giờ mình mới luyện từng phần nhỏ, cho nên mình không có quan trọng về cái vọng tưởng của mình. Cho nên bây giờ, mình ngồi tu, mình hít thở.
Nếu mình kéo dài trong vòng một phút cho đến mười phút, hai mươi phút hoặc ba mươi phút nó không có niệm gì cũng được, mà mình vẫn tìm được cái hơi thở bình thường của mình thôi. Cái mục đích của mình là làm sao nhận ra được cái hơi thở bình thường thôi. Buổi sáng mình thở như vậy, thấy nó cũng an ổn; buổi trưa mình thở vậy thấy cũng an ổn; buổi chiều cũng vậy mình thấy cũng an ổn; tối cũng vậy, khuya cũng vậy. Đó là trong một ngày đêm.
Bây giờ mình đi kinh hành, mình cũng thấy vừa đi, mình cũng vừa thở. Mình tập trung ở trong hơi thở, mình thở, nó có niệm gì kệ nó, mình không có cần thiết. Mình chú ý, có cái chú ý là mình thở hơi thở bình thường. Mình đi mình thở nghe cũng thoải mái dễ chịu, cơ thể đi tới đi lui, mà hơi thở mình cũng đều đặn, nhẹ nhàng. Thì biết như vậy là cái hơi thở bình thường của mình.
Trong hơi thở bình thường đó mình có nhiều rút tỉa nhiều kinh nghiệm khi mình nhận ra được cái hơi thở bình thường này. Mình rút tỉa nhiều kinh nghiệm trong bước đường tu chứ. Chứ không thể lấy kinh nghiệm của Thầy mà trao kinh nghiệm này cho một cái đặc tướng của người khác được. Mà chính mình tu tập cái hơi thở bình thường, mình mới thấy: "Cái hơi thở bình thường này nó nằm ở chỗ trạng thái nào?", buổi sáng, buổi chiều, buổi trưa buổi nào mà nó an ổn nhất mình biết liền. Mình biết liền cái buổi đó là cái buổi làm cái chuẩn của mình, để bước sang qua những cái thời gian khác, của những buổi khác. Đó là cái quan tâm của mình.
(4:51) Thí dụ như bây giờ sáng, trưa, chiều, tối, khuya mà mình thấy buổi khuya mình thức dậy mình ngồi tu, mình thở hơi thở bình thường thấy nó an ổn vô cùng, nghe nó không vọng tưởng. Ah! Mình biết buổi khuya. Rồi ngày mai mình tu, mình cũng thấy buổi khuya cũng được vậy, ngày mốt cũng vậy, thì mình biết đây là buổi khuya là buổi tốt nhất của mình. Cái đặc tướng của mình, cái thân của mình nó hợp với cái buổi này.
Còn có người, người ta hợp với buổi chiều, có người ta hợp buổi sáng, mà buổi khuya người ta nó buồn ngủ quá trời. Đó nó hiểu được cái chỗ này, cho nên mình tìm được đặc tướng của mình, mình tìm được cái hơi thở bình thường của mình trong cái đặc tướng đó, để rồi mình thực hiện cái buổi đó. Thì cái buổi đó coi như là khi mà bắt đầu mình tu với cái pháp khác mà hợp lại để mình tu đó, thì mình lấy buổi đó làm cái chuẩn tu trước. Để rút tỉa từ kinh nghiệm của cái chuẩn này mà mình đi sang vào những cái thời, cái buổi khác, cái thời gian khác. Để lấy nó làm cái chuẩn mà lấy kinh nghiệm đó để mà tu tập chủ động ở trong cái thời gian khác.
Hôm nay Thầy nhớ nhắc như vậy. Bởi vậy về cái vấn đề này Thầy phải soạn thảo thành một cái chương trình để khi in ra thành sách, chúng ta đọc chúng ta mới biết để mà căn cứ vào đó, mà theo đó để mà thực hiện cái bước đường tu của mình. Coi như là mình áp dụng vào là mình thấy có sự an ổn giải thoát, không có bị khổ ở trong đó, không có bị ác pháp ở trong thân tâm chúng ta.
(6:05) Thì bắt đầu, thì nãy giờ như Thầy đã nói, thì chúng ta thấy cái bí quyết thành công mà của chúng ta tu tập để mà Thiền Định đó, là nó độc cư. Nhưng mà không phải bắt buộc chúng ta bây giờ mà phải phát nguyện là một năm, hai năm, ba năm hay là ba tháng. Mà bây giờ chúng ta phát nguyện một ngày. Một ngày chúng ta giữ độc cư, nhất định là một ngày phải trọn vẹn.
Bây giờ vô đây đã là có cái môi trường độc cư rồi. Nghĩa là mình không tiếp duyên ai, nhưng mà ngày hôm nay mình quyết định là độc cư. Thì ai đến thất mình là đóng cửa lại không có tiếp ai hết, ngày nay tôi quyết định. Nhưng mà ngày mai tôi không có quyết định như vậy. Vì ngày nay tôi nỗ lực, tôi tận lực giữ cái hạnh này. Do đó ai đến thất tôi, tôi hoàn toàn tôi không tiếp, ai nói gì tôi cũng không ngại hết. Bởi vì đây là cái giai đoạn quyết liệt của tôi trong cái thời điểm này.
(6:48) Sau đó thì tôi qua cái ngày hôm sau, thì ai muốn nói chuyện gì cũng được hết. Nhưng mà mốt, bữa kia tôi chấp nhận làm hai ngày, hay là ba ngày thì quyết định là tôi nhất định không nói. Bởi vì lúc bấy giờ là tôi khép chặt. Cho nên khi mà tôi thấy lần lượt mà được rồi, tôi khép chặt một tháng, hai tháng, ba tháng liên tục. Chừng đó tôi thấy tôi giải quyết được, tập được, tôi biết cách. Khi mà tôi quyết liệt như vậy rồi thì tôi có cái nghị lực của tôi trong cái ngày này.
Còn nếu mình không tập đó, thì mình thiếu nghị lực, người ta đến cái bắt đầu mình bị động rồi. Rồi mình bị động, thứ nhất là mình cố mình khép chặt mình để rồi mình bực tức. Mình nỗ lực mình tu mà cái ông đó đến, nó làm mình bực ông ta nữa. Đó, đó là những cái mà có thể trường hợp xảy ra làm chúng ta thêm những ác pháp trong tâm, mình phải lưu ý.
Còn hôm nay mình quyết một ngày nay, thì bắt đầu, khi đó mình đóng cửa lại, mình không có tiếp duyên. Hoặc là khi thấy người ta đó, mình tránh, mình tránh liền, mình không có để. Vì mình có một ngày nay mình có đủ cái sự kiểm soát của mình chặt chẻ để mình bảo vệ cái độc cư của mình. Còn bây giờ mình vô đây, mình một tháng, mình đâu có biết huynh đệ của mình ở trong này tu nhiều người chứ đâu phải một người đâu. Mình đâu có nỗ lực mà tận cùng trong như một ngày kia được.
Cho nên vì vậy đó, mà khi đó hơ hỏng một chút là người ta. Mình vô tình thôi, chứ mình nói là mình độc cư, chứ sự thật mình đâu có canh gác hết cái thời gian dài của mình là một tháng trong ba mươi ngày đâu. Cho nên vì vậy, mà trường hợp người ta đụng mình, cái người ta nói chuyện, cái bắt đầu đó, coi như là mình không có lưu ý cho cái độc cư của mình nhiều. Cho nên vì vậy, bản chất của mình nó phản ứng cách tự nhiên lắm. Khi mà người ta vừa hỏi, nó phản ứng nó trả lời đi, thì ngay đó là mình đã phạm lỗi độc cư rồi.
(8:24) Cho nên vì vậy, mình chuẩn bị cho một ngày, cái ngày này đó mình có cái sự chú ý của cái sự độc cư của mình. Cho nên ai vừa láng cháng là mình lo. Còn khuyên cả ba mươi ngày mình không có đủ sức đâu. Thầy nói cái nghiệp, cái sự chú ý của mình, cái sự kiểm soát cho mình trong ba mươi ngày không có bằng một ngày, mình dồn lại một ngày. Nếu mà ba mươi ngày này mình luôn luôn lưu ý vậy thì mình rất mệt, mình rất nặng nhọc, mình không giải thoát được, mà mình rất khổ tâm.
Trái lại, mình chỉ tập trung trong một ngày nay mình giữ, thì cái ngày nay mình đem dồn hết cái nghị lực cái sức của mình để mình bảo vệ cái độc cư của mình thì mình bảo vệ trọn vẹn và được lần lượt nó dần nó tăng lên. Chứ còn không khéo mình bảo vệ không trọn thì nó sẽ bị động, bị động hoài.
Coi vậy chứ nó không đơn giản đâu, các pháp bên ngoài luôn luôn nó tìm cách nó đánh mình, nó không đơn giản. Cho nên thí dụ như bây giờ, mình đương yên vậy, bỗng dưng cái _ đang sống độc cư tốt vậy _ bỗng dưng cái người ta bệnh đau. Cũng như cái người ở gần bên thất mình họ đau, họ đau cái bắt đầu đó, mình bị động liền đó. Họ rên la hay hoặc này kia họ chạy lại thất mình, họ nhờ mình cạo gió hay này kia đồ thì bị động rồi.
Cho nên trong khi đó, mình độc cư mà sống chung ở trong chúng mình lưu ý cái phần này. Chọn lấy một ngày rồi tập dần tập dần, cho đến khi mà mình thấy được, thấy được hoàn toàn mình có nghị lực, mình có sự chiến đấu, mình có kinh nghiệm rồi. Mới xin Thầy cho con ở trong cái thất nào để hoàn toàn con giữ hạnh độc cư, để mà con nhập định. Tức là, cái thời gian mình đã thấy được, thấy được cái khả năng của mình được và tâm mình, mình thấy nó có cái hướng quay vô rồi.
Bởi vì thời gian này mình tập, trong khi mình tập độc cư mà mình chủ động cái ý của mình, mình ngồi chơi chứ mình không có ngồi thiền đâu. Thầy nói thật sự, ngồi lên ghế chơi, ngồi xếp bằng đất vậy chơi, ngồi dựa vách chơi vậy thôi. Mà luôn luôn lưu ý cái phần là cái tâm nó luôn luôn nó biết hơi thở. Nó không tập, mình không có tập trung, không gom nó lên hơi thở, nhưng mà nó biết.
Thì mình ngồi chơi mà thường thấy nó như vậy đấy, thì mình sẽ xin Thầy liền: "Xin Thầy cho con độc cư một trăm phần trăm, con thấy tâm con độc cư rồi". Cái đó là nó độc cư, nó không phóng dật rồi. Thì lúc bấy giờ, Thầy sẽ cắt đặt cho một cái khu vực nào đó, bảo vệ hoàn toàn. Tức là bản thân Thầy đến bảo vệ, nghĩa là ai đến đó không được hết. Nghĩa là trợ giúp cho cái người đó họ thực hiện đến Tam Minh hoàn toàn. Không để cho họ lỡ dở cái cuộc đời tu. Bởi vì những giờ phút đó là giờ phút rất là khó.
(10:39) Qua kinh nghiệm của Thầy mà. Giờ phút đó, bây giờ các con, các thầy, các sư cứ nghĩ đi: khi các sư mà đau chết, nhất định là các sư ở trong thất, chứ các sư không được ra, nghĩa là đau chết bỏ. Chứ còn bước ra là các sư sẽ uổng cuộc đời tu của mình, cái đó là giờ phút cuối cùng, giờ phút quyết liệt mà. Nó có những cái nghiệp nó phá mình, cái giờ phút nó phá mình, cái ma chướng nó sẽ phá mình.
Thầy bảo vệ cho các con, các thầy để mà cho yên ổn ở trong cái sự tu tập, nhưng cái thân nghiệp nó không bảo vệ được. Mà mình phải có cái sự nghị lực và gan dạ, quyết tử thì nó mới thoát ra được cái này, mới thực hiện được Tam Minh, chứ không phải thường đâu. Coi vậy, bởi vì nói trước khi đức Phật mà chứng đạo, Ma vương nó hiện ra đủ thứ là không phải có hình ảnh ma nào đâu, mà chính ma nội tâm của đức Phật hiện ra, nó phá đủ thứ.
Thậm chí như thầy Mật Hạnh, cái thầy nhỏ nhỏ ở đây đó, nếu mà thầy nghe lời Thầy, thầy đừng có đi ra trị bệnh là thầy đã xong rồi. Nghĩa là tâm hoàn toàn quay vô rồi, thầy chủ động, thầy điều khiển được Định rồi. Nhưng mà bây giờ cái bệnh của thầy ỉa không được. Thầy bảo: "Chết bỏ, nhất định ở trong thất". Thầy nói thầy chịu không nổi. Ngày thứ nhất nghe Thầy nói thầy cũng ráng, ngày thứ hai thầy chịu không nổi, thầy nói: "Con phải đi nhà thương". Đi nhà thương, Thầy nói đổ vỡ hết rồi. Thà liều chết đi, mà mình cứu mình đó.
Đó thì các thầy biết, nó không đánh mình mà nó đánh cái thọ, nó đánh cái thọ bệnh của mình, cái thân nghiệp của mình, nó đánh mình như vậy. Nó không phải, trong cái giờ phút đó nó làm như vậy, coi như là mình muốn chết rồi, để cho mình đi ra rồi, cái thì bắt đầu nó buông ra. Cái tâm nó hết quay vô rồi, nó bung ra, nó luận, nó đem cái thọ nó luận. Nó luận làm cho mình thấy là phải mạnh mới tu, chứ còn đau ốm vậy không được. Nhưng mà giờ phút đó là, đã cái tâm nó quay vô rồi thì nó tịnh rồi. Tức là, nó thanh tịnh giới hoàn toàn cái tâm rồi. Thì nó còn cái giai đoạn Định để cho chúng ta thực hiện Tam Minh mà làm chủ hoàn toàn. Thì cái thọ, thân thọ nó đánh mạnh, nó là ma chướng dữ lắm.
(12:32) Cho nên chúng ta nhất định chết bỏ, nhất định không đi. Nó không chết đâu, cái nhân quả của mình giờ chết, mình bây giờ đi uống thuốc cũng chết nữa. Mà cái nhân quả nó không chết, bây giờ không uống thuốc, nằm đó nó cũng sống nữa. Bởi vậy, Thầy nói tin nhân quả đừng có sợ, mà không có pháp nào, không có thuốc nào hơn là cái thuốc mà lấy tâm mà trị. Thầy nói thật sự, người bệnh mà lấy tâm trị là hết bệnh, còn lấy thuốc bệnh uống thì trị bệnh này, chứ nó có bệnh khác.
Quý sư cứ tin lời Thầy đi, Thầy nói thật sự. Bây giờ chúng ta uống thuốc này nó hết cái bệnh này chứ nó sẽ có bệnh khác. Còn cái người mà lấy tâm mà trị bệnh thì nó sẽ không có bệnh nữa. Cho nên lấy tâm bệnh, cái đầu Thầy nhức đầu nè, Thầy bị bệnh nhức đầu nè, Thầy bảo: "Cái đầu này không có được nhức". Cái tâm Thầy ra lệnh thì cái đầu không nhức nữa, thì nó sẽ khỏi cần uống thuốc mà cái đầu không nhức nữa.
Bởi vì nó cái lực của pháp của đức Phật nó vi diệu ở chỗ mà nó làm chủ được sanh, lão, bệnh, tử mà. Mà người ta không tin nó, cho nên người ta không biết pháp nó, người ta tu. Vì vậy mà đến những giờ phút mà nó như vậy mà mình không biết sử dụng nó để mà mình trị cái bệnh của mình, để rồi mình bị cái nghiệp nó lôi đi như vậy. Rồi bắt đầu bây giờ, đâu phải chuyện dễ đâu. Cái tâm nó quay vô, rồi nó quay ra, nó khó lắm, nó không phải dễ đâu. Nó phóng dật, rồi nó không phóng dật, rồi nó phóng dật trở lại, nó khó lắm.
Cho nên hôm nay, Thầy nói bây giờ mình đã quyết tu bỏ hết rồi, thì phải nắm cho vững tất cả những cái điều kiện để cho mình biết, để cho mình chuẩn bị, cho mình có một cái tinh thần vững chắc, trước cái chết không hề sợ. Mình phải coi nhẹ cái chết chứ còn không lúc đó mình sợ lắm.
(14:11) Thì tất cả những cái sự mà Thầy dạy ở đây, hôm nay nhớ kỹ để rồi chúng ta còn bước đi tới. Chứ không phải là chúng ta tu để mà như các Thầy các Tổ dạy chúng ta từ lâu, nó lừng chừng lừng chừng vầy, coi như là tu lừng chừng đó. Nghĩa là tu phải tu phải làm sao làm cho được. Thà chết chứ không thể nào mà mình sống mà là một người mặc chiếc áo tu sĩ như thế này, mà không làm chủ được là nhất định là hoàn toàn là không mặc chiếc áo này nữa. Phải nói như vậy, mặc chiếc áo này xấu hổ lắm. Thì chúng ta phải nỗ lực, phải tận cùng như vậy.
Thì đây là con đường mà Thầy vạch ra để chúng ta thực hiện cho được, thì nó có những cái khó mà Thầy báo trước. Bởi vậy không lẽ mà quý thầy bây giờ về đây, mà Thầy nhận cho vào đây tu, Thầy có cái trách nhiệm phải dẫn người ta đi tới nơi. Mà không nói những cái khó khăn này trước, thì quý thầy sẽ không thấy được. Tới chừng đó đổ vỡ ra thì coi như là cái trách nhiệm Thầy không tròn mà quý thầy cũng không tròn được. Nó uổng cả cuộc đời của mình rồi. Cho nên, Thầy bảo trước hết tất cả mọi cái, bây giờ tu là tập dần dần dần từng chút, từng chút, chứ đừng có vội.
Ở đây có nhiều người nghe nói độc cư dễ, tưởng đâu dễ. Vô nỗ lực trong vòng một năm, sau đó bị đổ vỡ. Có người thì ráng được ba tháng, có người ráng được một tuần lễ là đã sợ hãi hết rồi. Nó tuôn trào một cách gì họ chịu không có nổi. Họ quá sợ hãi. Thầy nói ăn, người ta không sợ, ngủ phá hôn trầm người ta không sợ, vậy mà người ta còn ngán hôn trầm. Thế mà tới độc cư người ta quá sợ đó. Cho nên vì vậy mà Thầy nói bây giờ mình tập dần thôi. Rồi nó tuần tự tuần tự, nó sẽ đi dần đi dần tới.
(15:38) Mỗi một tâm niệm của mình thì mình đã có những cái Định, Định Vô Lậu đó. Mình quán xét, mình xả những tâm niệm đó, để mình khắc phục được tham ưu của mình. Mình luôn luôn, mình ở trong hành động hơi thở, hành động đi đứng nằm ngồi. Thân Hành Niệm của mình đó, mình luôn luôn ở trong hành niệm đó để cho mình xả cái tâm, mình ngăn các pháp ác.
Lưu ý cái phần này, cái Định Niệm Hơi Thở, tức là người ta nói quán niệm hơi thở, là mục đích của nó để ngăn các pháp ác. Đi kinh hành hoặc làm tất cả những công việc mặc y, mang bát ăn cơm, tất cả những hành động đó mà chúng ta tập trung ở trong những hành động đó đó. Để biết rõ những hành động đó thì mục đích của nó để giúp cho chúng ta ngăn các pháp ác, nó không xen vô được.
Còn khi các pháp ác đã xen vô rồi, thì chúng ta dụng cái Định Vô Lậu tức là quán ngay cái niệm đó, quán cái tâm niệm đó, cái thọ đó. Bây giờ cái niệm mình không có nhưng cái thọ nó đau nhức này, thì lấy ngay cái thọ đó quán. Rồi bây giờ, nếu mà các pháp nó đến, nó ập chúng ta thì lấy các pháp đó mà quán để cho cái tâm chúng ta nó trở về thanh thản bình thường, nó vô sự, nó không có bị động.
Thì như vậy, chúng ta mới sử dụng những cái Định này để mà chúng ta ngăn ác diệt ác. Chứ không có ở trên Tứ Chánh Cần nói ngăn ác diệt ác, mà chúng ta không pháp, không pháp tu thì ngăn ác diệt ác lấy cái gì? Chúng ta có pháp tu ngăn ác diệt ác. Vì vậy mà chúng ta luôn luôn sống ở trong thanh thản vô sự, đó là thiện pháp và tăng trưởng cái thời gian dài ra gọi là tăng trưởng thiện pháp.
(17:01) Chứ không phải là đi xin tiền bạc người ta mà cho người này người kia gọi là tăng trưởng thiện pháp. Nói cho nhiều là tăng trưởng nhiều, không phải đâu. Hay hoặc là làm những việc từ thiện này, từ thiện kia gọi là thiện pháp, không phải đâu. Thiện pháp của Phật là Thiện Vô Lậu, chứ không phải thiện hữu lậu. Lưu ý được cái vô lậu và cái hữu lậu. Cái vô lậu là nó làm cho tâm chúng ta thanh thản an lạc cho đến khi lậu hoặc không còn có nữa. Nói lậu hoặc tức là nói đau khổ phiền não. Mà nói không có lậu hoặc, tức là không còn phiền não đau khổ.
Cho nên nói Định Vô Lậu nó làm cho cái niệm, làm cho chúng ta lo lắng, buồn phiền, giận hờn, thì những cái niệm đó nó không còn có nữa, do đó nó gọi là Định Vô Lậu. Cho nên, mỗi niệm, mỗi pháp, mỗi cái thọ mà đến làm chúng ta khổ sở đó, thì chúng ta dùng cái Định Vô Lậu mà xả nó. Đó là cách thức chúng ta tu Tứ Chánh Cần.
Tu Tứ Chánh Cần, tức là chúng ta sử dụng được cái tâm thanh tịnh của chúng ta, tức là giới luật nghiêm chỉnh đó. Thì lúc bấy giờ cái tâm thanh tịnh, thì nó sẽ không phóng dật. Nó không phóng dật thì nó quay vô, nó ở đâu? Ở trong hơi thở. Thì lúc bấy giờ nó đang ở trong hơi thở thì chúng ta mới nhập tất cả các Định khác, đó hiểu vậy. Chứ bây giờ đừng có nghĩ là tôi sẽ nhập Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền. Tôi không có nhập được cái gì đâu. Cái Sơ Thiền này phải làm cho được ly dục ly ác pháp này nè, cái này là cái khó nè.
Cho nên cái bước đầu mà vô cái cửa này, Thầy thấy hầu hết là người ta rớt, người nào cũng rớt vào cái chỗ này hết. Mà cái cửa này được rồi thì từ Nhị Thiền đến Tứ Thiền, Tam Minh nó không khó nữa. Cho nên các Thầy thấy đức Phật, từ đầu canh cho đến canh giữa, tới canh cuối thì đức Phật thực hiện Tam Minh rõ ràng mà. Nhưng mà trải qua cái thời gian để ly dục ly ác pháp đâu phải chuyện dễ. Còn thực hiện Tam Minh, Thầy thấy chỉ có một đêm à, mà đức Phật đã ba Minh rất rõ ràng rồi.
Thì cái Thiền Định với cái trí tuệ Tam Minh thì nó không khó. Mà cái Giới Luật, cái mà Ly Dục - Ly Ác Pháp này rất khó. Đó, nó phải đòi hỏi sự sống cho đúng để thân không phạm giới nè, miệng không phạm giới nè, để thực hiện các pháp Ngăn ác - Diệt ác cho ý không phạm giới nè. Đó là cái chỗ để cho giới luật thanh tịnh chứ không gì hết. Tức là giới luật nó được rồi thì Thiền Định nó không khó nữa.
Cái pháp Như Lý mà chúng ta thực hiện ở trong cái giới luật, để cho giới luật được thanh tịnh thì nó trở thành cái lực, cái định lực của nó. Cái lực của đạo rất mạnh, cho nên chúng ta ra lệnh là nó làm được hết.
(19:16) Thì như vậy là rõ ràng. Hôm nay Thầy nói rất rõ ràng cách thức để mà chúng ta nắm vững được cái đường lối mà chúng ta đi, Giới - Định - Tuệ hẳn hòi:
Giới thì chúng ta thấy rõ ràng là tất cả các giới của luật, của Phật dạy là mục đích của nó để ly dục ly ác pháp, để khắc phục tham ưu của mình, để khác phục tham, sân, si chứ không có gì.
Mà bây giờ nó đã thanh tịnh rồi thì tới Định, thì Thiền Định, thì Nhị Thiền. Bởi vì cái Sơ Thiền nó là giới luật, mà cái Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền nó là Định.
Mà khi nhập được Tứ Thiền rồi thì mới Tam Minh, Tam Minh nó là Tuệ. Nó dẫn tâm đi đến đó để nó hiểu biết cái này, cái nọ, kia đó, thì cái đó là cái Tuệ của nó.
Cho nên ở đây, nó ba cái Giới - Định - Tuệ nó rõ ràng và cụ thể. Mà cái Định nào để xác định nó là cái Định để mà thực hiện được Tam Minh thì nó chỉ có bốn Thiền. Chứ nó không phải là bốn cái Định Vô Sắc là: Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ rồi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, nó không phải bốn cái Định này đâu. Nó không cần phải đi ngang qua bốn cái này đâu.
Trong cái bài kinh Saccaka, khi đức Phật trở về với cái Thiền Định đó, thì đức Phật tu bốn cái loại Thiền Định này. Thì cái Sơ Thiền nó thuộc về Giới, mà cái Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền nó thuộc về Định. Cho nên khi mà nhập Tứ Thiền rồi thì “thân định trên tâm, tâm định trên thân” thì đức Phật mới thực hiện Tam Minh. Chứ không phải cần đi qua bốn cái Định Vô Sắc của nó. Nhưng mà khi mà thực hiện được vậy thì bốn cái Định Vô Sắc chúng ta vẫn nhập rất dễ dàng không khó đâu.
Tu sĩ: Mình muốn nhập là nhập?
Trưởng lão: Ờ! Mình nhập là tại vì mình đã biết được cái Định Vô Sắc, nó Không Vô Biên Xứ nó phải nhập cái trạng thái nó như thế nào, thì ra lệnh nó, nó sẽ vô, nó không còn khó nữa.
Mà vô đó thì nhập để chơi vậy thôi, để cho mình biết những cái Định đó thôi và thể hiện thần thông ở trong những cái Định của Tưởng nó được, chứ không phải không. Nhưng mà nó thuộc về Thần Thông Tưởng, chứ không phải là thuộc về Tam Minh của trí tuệ Tam Minh. Nó thuộc về Lục Thông của Tưởng.
(21:14) Đó thì, hôm nay Thầy nói hết. Bây giờ thì bắt đầu, thì tốt hơn hết chúng ta sẽ thực hành, thì bây giờ Sư có hỏi gì không? Bởi vì Sư nhớ, cái Chánh Niệm như hồi nãy Sư hỏi đó, thì cái Chánh Niệm với cái Tỉnh Giác:
Cái Tỉnh Giác là chúng ta tỉnh giác ở trong cái hơi thở hay hoặc là khi bước đi.
Mà cái Chánh Niệm là phải cái quán niệm xả tâm: "Tâm như cục đất".
Thật sự trong thất, Thầy có sáu tháng ở trong thất mà Thầy thực hiện con đường mà của đạo Phật. Chứ chín năm trời coi như mười năm, mà chín năm trời Thầy tu pháp Tri Vọng của Hòa thượng. Thầy thấy nói rằng tâm không có vọng tưởng, hết vọng tưởng. Cả ba tiếng đồng hồ không vọng tưởng, nhưng xả ra có. Xả ra nó nghĩ ngợi tùm lum hết à. Mà vô, thì bắt đầu ức chế vô, thì vô nó không có. Thầy ngồi tới ba tiếng đồng hồ lận mà, chứ đâu có ít đâu.
Nhưng mà, Thầy trở về với cái pháp của Phật. Bởi vì Thầy sống, từ ngày mà Thầy vô thất tu suốt chín năm trời mà tu pháp Tri Vọng đó, với cái giới luật của Thầy sống ăn uống đều là ngăn ác diệt ác, không tiếp duyên và sống đúng giới hạnh. Cho nên khi trở về, thì coi như là thân với khẩu của Thầy rất là giới luật nghiêm chỉnh, nhưng còn cái ý chưa được.
Cho nên, Thầy dùng pháp Hướng. Thầy dùng pháp hướng bởi vì Thầy không biết ly dục ly ác pháp như thế nào. Thầy nói: "Tâm như cục đất, tâm ly dục ly ác pháp đi, nhập Sơ Thiền". Thầy cứ nhiêu đó Thầy nói hoài, Thầy ra lệnh hoài. Thầy ngồi nó yên tịnh, bởi vì Thầy ngồi đó là nó gom lại, nó không có vọng tưởng rồi. Cho nên cứ thỉnh thoảng Thầy cứ nhắc, Thầy nhắc: "Tâm như cục đất, không có tham, sân, si nữa, ly dục ly ác pháp đi, nhập Sơ Thiền". Bởi vì, Thầy không biết cái trạng thái Sơ Thiền nó ra sao nữa. Chỉ biết cái danh từ nó vậy thôi, ra lệnh nó thôi. Thầy ra lệnh, Thầy cứ vô ngồi.
Coi như là sáu tháng sau mà Thầy ra lệnh như vậy, bắt đầu nó quay vô, Thầy không cần ngồi mà tập trung mà gom nữa. Nó quay vô, nó biết hơi thở hoàn toàn, hơi thở rất nhẹ nhàng. Nó an ổn vô cùng lận, thật là hỷ lạc đúng đó, đúng là chỗ Sơ Thiền thật. Đúng là Thầy bảo nó nhập vô Sơ Thiền được. Do đó, Thầy mới ra lệnh coi thử coi mấy cái kia nó làm được không, nó làm được rồi. Thầy nói như vậy là Thầy sẽ nhập Định được. Bấy giờ Thầy mới biết được cách thức mà làm chủ như thế nào, thế nào rồi.
(23:12) Cho nên có sáu tháng à, quý sư sống đúng, làm đúng sẽ sáu tháng được. Như vậy Thầy biết rằng, một cái người mà chưa được tỉnh thức đó. Nghĩa là cái thời gian mà tập luyện, mà để cho có tỉnh thức đừng có vọng tưởng đó, như cái người mà mới ngoài đời, vô ngồi chỉ trong vòng hai, ba phút đó thì có vọng tưởng lăng xăng rồi, thì khó mà xả cái tâm này lắm. Cho nên vì vậy mà bây giờ chúng ta nương vào hơi thở bình thường, để tập để khoảng thời gian chúng ta từ năm phút cho đến mười phút, nó không có được cái niệm xen vào, tức là nó được tỉnh thức. Được tỉnh thức rồi thì mình dùng cái pháp Như Lý Tác Ý đó, mình cứ tác ý để cho mình hướng mình xả tâm thôi, có vậy thôi. Cho đến khi mà nó xả hết thì tự động nó quay vô, nó không phóng dật. Thì lúc bấy giờ đó, mình mới sử dụng cái tâm mà nó thanh tịnh đó đó, mới sử dụng nhập các Định. Có vậy thôi, đơn giản vậy thôi đó.
Thì bắt đầu bây giờ, có gì đâu, quý sư, quý thầy mà đã tu tập, đã ngồi được ba mươi phút hay một giờ mà không vọng tưởng rồi thì đó là cái căn bản của mình tỉnh thức. Còn nếu mà mình để cho nó lặng, nó đi vào tĩnh lặng, nó yên lặng nó sanh hỷ lạc ra thì trật. Cho nên không có được để cho nó sanh vô cái Định Tưởng mà nó sanh ra hỷ lạc, mà cứ hướng tâm nhắc xả, nhắc xả, nhắc xả.
Bởi vì nó xả nó mới có hỷ lạc của ly dục. Còn bây giờ mình có ngồi đây mà hết vọng tưởng, mình nghe hỷ lạc đó, thì Thầy gọi đó là hỷ lạc của Tưởng. Là tại vì nó chưa có ly dục mà nó có hỷ lạc, đây là do Dục Tưởng nó sanh ra cái trạng thái này. Lưu ý cái đó Thầy nói rõ há, bởi vì, mình còn dục. Cho nên bây giờ đó, mình ngồi lại, mình không cho ý thức dục của mình nó sanh ra. Vì vậy cái ý thức nó khởi niệm, nó không có thì cho nên nó nghe nó an ổn, nó sanh ra cái trạng thái, thì cái đó Dục Tưởng nó sanh ra. Bởi vì cái tâm mình nó còn dục chứ có phải nó ly đâu, phải hiểu vậy.
Cho nên khi mà mình ly ra hết rồi thì nó hết dục rồi, cho nên cái Định của mình là Chánh Định. Còn cái tâm của mình mà nó còn dục, mà mình nhập Định đây nó không có vọng tưởng, mình nhập ở trong này thì nó là Tà Định, nó còn dục.
(25:00) Cho nên nó thị hiện thần thông, nó biết chuyện quá khứ thì nó khoe khoang lên, nó xưng nó giáo chủ này kia. Cho nên vì vậy nó làm cho người ta thấy, người ta quá kính nể nó, cuối cùng nó bị tiêu ma ở trên danh với lợi với sắc đẹp. Cho nên thường thường có những người có thần thông, cuối cùng rồi thì họ mất thần thông hết. Bị họ rơi vào danh với lợi với sắc đẹp là họ tiêu hết. Bởi vì đó thuộc về dục tưởng rồi, thần thông tưởng rồi, cho nên nó bị mất.
Còn mình ly dục hết mà mình có thần thông thì không mất, bởi vì dục mình đâu có. Cho nên mình đâu có thị hiện tầm bậy tầm bạ đâu, mình đâu có đem cái đó để mà cầu danh mình đâu. Đó, cho nên vì vậy đó mà nhớ kỹ những cái điều mà Thầy dạy.
Bây giờ tốt hơn là chúng ta thực hành. Nãy giờ Thầy lý thuyết như vậy, là bây giờ mở băng nghe là chúng ta thấy rõ há, Thầy nói hết. Bây giờ nghe rồi thì mình hiểu rồi. Nhưng mà sau đó mình nghe một vài lần, dẹp hết. Bây giờ còn thực hành, không nghe nữa.
Bởi vì mình nắm vững được cái đường lối cách thức, từ cái chỗ mà bắt đầu để cho đến khi mình thực hiện tới Tam Minh. Để cho nó có được cái Lậu Tận Minh này, nó mới diệt hết cái gốc, cái gốc mà sanh - tử - luân hồi của mình. Chứ còn cái Lậu Tận Minh không có thì coi như nó diệt không sao hết đâu. Cái đó là cái nghiệp lực của nó mà nó sẽ đi tái sanh đó. Cho nên cái Lậu Tận Minh nó mới quét sạch hết cái lậu hoặc của chúng ta. Cái lậu hoặc là cái nghiệp của chúng ta tạo ra những cái nhân duyên, chứ không phải là tâm chúng ta đi tái sanh. Mà cái nhân quả tái sanh của nó, cái hành động thiện ác của chúng ta, mà nó trở thành cái lậu, cái nghiệp lậu đó, chứ không phải gì hết.
(26:20) Cho nên ở đây chúng ta biết rõ con đường rồi, thì bắt đầu bây giờ chúng ta nghe kỹ để cho chúng ta nắm cho được con đường mà chúng ta đi. Nghe kỹ như nãy giờ Thầy nói đó, đó là cái đường đi rồi. Chúng ta nghe rõ rồi thì bắt đầu thực hành, thì bây giờ bắt đầu Thầy dạy thực hành. Bây giờ thực hành, thì bây giờ đó, thì như Sư hôm rày biết cách rồi chứ gì?
Sư Phước Nhẫn: Giờ Thầy chỉ lại hết giùm con. Con cũng học lại từ đầu.
Trưởng lão: Bây giờ, muốn học lại từ đầu Thầy sẽ dạy lại hết. Bây giờ, mỗi người ngồi một bên, sư qua bên kia. Bây giờ thực hành không có nói gì hết, đã nói thực hành rồi, còn hỏi Thầy thêm gì để cho hiểu thêm không?
Sư Phước Nhẫn: Dạ thưa thôi, có một hai cái à, không quan hệ lắm.
Trưởng lão: Thôi được.
Sư Phước Nhẫn: Để Thầy chỉ dạy…
Sư Tuệ Tĩnh: Con hỏi về hơi thở. Mình định nó ngay mũi hay bụng hay theo hơi thở luôn?
Trưởng lão: Không theo, không được theo cái hơi thở lên xuống, mà không được định dưới bụng. Mà nó chỉ xuất phát ở chỗ mũi của mình, thì mình biết hơi thở ra vô nơi mũi thôi.
(27:13) Sau này dạy cho để gom tâm, thì hai con mắt của mình còn nhìn cái chóp mũi để cho mình biết được hơi thở nó ra vô chỗ mũi. Đừng có theo nó, mình theo hơi thở nó đi lên, đi xuống vậy thì nó sai, bởi vì Tưởng rồi. Rồi bắt đầu mình trụ nó dưới bụng cũng trật rồi, theo cái cơ bụng phình lên xẹp xuống thì nó cũng trật. Mình chỉ tập trung ngay cái điểm của nó là ở đây, nó không có nguy hiểm. Chỗ này là không bao giờ, nó ở chỗ mình tập trung ở chỗ trán của mình cũng không được, mà bất kỳ ở chỗ nào trong thân mình.
Ở đây Thầy có một chú, chú tu chú tập trung ở chỗ cổ chú này. Chú thở ở trong cổ để mà phát ra tiếng động, mà chú gom cái tiếng động theo trong cổ chú, để mà nó tập trung nó gom cho mạnh, nó không có bị vọng tưởng. Nhưng mà chú quen ở chỗ này rồi, sau đó cái cổ chú nó bị khô. Nó khô, rồi nó sanh ra nó đau ở trong, viêm khí quản của chú, chú khạc ra máu. Tới chừng mà Thầy hay được thì nó quá trễ rồi. Nó vậy, bởi vì cứ lo vọng tưởng thôi, cho nên đừng có, đừng. Tập trung đây, không bao giờ mà có bệnh tật gì hết à.
Sư Tuệ Tĩnh: Tại vì là hơi thở vào ra là có cảm thọ.
Trưởng lão: Có cảm thọ đó, có cảm thọ.
Sư Tuệ Tĩnh: nhưng có làm thời gian lâu sao tự nhiên nó cũng đau chỗ này, rồi làm gì để phồng xẹp phồng xẹp làm sao đó rồi để ở đây, thấy ở đây, cái nó tự nhiên nó êm, thấy nó cũng tốt
Trưởng lão: Đó là tại tập trung quá. Ở đây cái mục đích mình không có tập trung như vậy. Mình đừng có tập trung gom quá mạnh ở chỗ đó. Bởi vì mình gom quá mạnh ở chỗ này, chỉ có cái người mà bị loạn tưởng nhiều đó, thì người ta bắt đầu người ta sử dụng có một hơi thở. Bởi vì lẽ ra thì cái này Thầy cũng nói luôn để cho mình biết.
Bây giờ mình muốn tập trung để gom cái tâm mình cho hơi thở chỗ này, thì mình hít vô chậm chậm chậm chậm chậm, hai con mắt mình nhìn cái chóp mũi thôi. Mình hít vô chậm chậm chậm chậm chậm thì cái tâm mình nó gom ở chỗ này, nó gom rất chặt, nó bám rất chặt cái hơi thở. Rồi mình thở ra chậm chậm chậm chậm chậm một hơi thở, cho đến khi mình hết thở thì nó bám chặt. Bắt đầu mình thở bình thường, cái tâm mình nó vẫn còn bám chỗ này. Chỉ có dùng một hơi thở chậm đó mà thôi, hít vô thở ra chậm mà thôi.
(29:04) Nhưng bây giờ, Sư đã có cách mà Sư biết gom rồi đó, cho nên gom đến nỗi mà cái mũi mình nó đau. Đó là gom tâm dữ lắm đó, chứ gom sơ sơ không có đau đâu. Thầy biết đó là gom nhiều, gom để cho nó không vọng tưởng, gom nhiều đó. Cho nên sau khi bị đau đó mình mới dời xuống bụng. Mình dời xuống bụng thì nó theo phình xẹp nó không đau, nhưng mà có cái điều kiện nó không đúng, bị tưởng. Vì mình theo cái hơi thở mà phình xẹp của mình thì cái cơ bụng nó lên xuống, lên xuống, mình tập trung ở tại đó, mình đặt nó ở chỗ bụng thì nó không đúng đâu.
Mà đặt nó ở chỗ này nó mới đúng cách của nó. Nhưng mà mình chỗ này nó để chỉ cho mình cái sự tập trung của mình, nó không phải ức chế quá độ gom quá độ, nó tự nhiên thì nó không đau. Đó là tại sư thở hồi đó tới giờ không ai chỉnh cho mình, mình đâu có biết. Mình chỉ ráng mình gom ở chỗ này đó, thành ra nó bị đau rồi mình dời xuống đây. Mình dời xuống đây thì mình không thấy nó đau. Bởi vì mình dời xuống đây thì nó đâu có tập trung ở chỗ này nữa.
Nhưng mà không phải, mình để cho nó tự nhiên. Vì nó có những cái điều kiện tự nhiên của nó. Thí dụ như bây giờ mình thở bình thường mà mình gom quá, thì mình nghe nặng. Hễ mình gom tập trung nhiều cái chỗ đó, nó có cảm giác tưởng của nó, nó thành ra như cái mặt mình nặng ra hay hoặc căng.
Ở đây Thầy có thầy Chí Thiện hồi đó học ở Vạn Hạnh này, thầy về đây tập, thầy không biết thầy cũng gom. Gom cho đừng có vọng tưởng mà, gom tập trung, nó căng mặt thầy. Nó căng mặt thầy, sau này thầy bị đau viêm xoang nữa, rồi thầy phải lột cái này, nó nạo ra nữa. Mà hễ thầy ngồi tu là nó căng lên, cái mặt thầy nó căng lên. Bởi vì nó tập trung nó gom quen rồi, nó căng lên, căng lên nặng, do đó nó thành bệnh. Bệnh nặng. Do đó nếu mà sư không biết, sư mà không có tập trung dưới này mà cứ tập trung mũi là sư bị bệnh mũi rồi đó.
Sư Tuệ Tĩnh: Giờ con sợ quá rồi.
Trưởng lão: Nó bị bệnh mũi rồi đó, chứ không phải không đâu. Cho nên dời xuống bụng. Bởi vì cái đó là cái tu sai của mình nó mới tạo ra như vậy, đừng có tập trung như vậy. Để rồi Thầy dạy nó sẽ, ờ bây giờ đó, trong lúc bây giờ đó, mình biết cái cách thức rồi thì không có cần mà phải gom tâm tập trung vậy đi. Mình cứ để tự nhiên cho nó biết nhẹ nhàng thôi. Bắt đầu bây giờ mình thở ra thở vô nè, quan sát hơi thở tự nhiên thôi. Lưu ý đừng có tập trung, đừng có gom cho nó hết vọng tưởng, nó có cũng được, nó không cũng được. Để ý nhẹ nhàng kiểu đó thôi.
Sư Phước Nhẫn: Trước tiên mình phải tập như vậy trước hả Thầy?
Trưởng lão: Ờ, tập để tự nhiên đó, đừng có gom.
Còn nhiều khi mình không biết đó, mình gom lại cho nó hết vọng tưởng. Mình ráng chăm chăm mình nhìn, mình gom hết cả cái tinh lực của mình vào cái chỗ hơi thở thì nó sẽ căng cái chỗ đó. Bởi vì nó trụ chỗ đó nó mạnh, nó căng, bởi vậy nó sai một chút là nó sai. Mình để tự nhiên, Thầy nói Thầy chống tay như vầy, mà nghe nó có cảm giác gì nặng là xả ra. Nghĩa là mình tập trung như vậy mà nghe cảm giác gì nặng hơn cái chỗ lỗ mũi mình nghe có cảm giác gì hơi khó chịu là xả liền.
(31:45) Bởi vì, cách thức ông Phật dạy mình đừng có làm khổ mình mà đừng có làm khổ người, mà mình tu tức là phải giải thoát. Mà tu mà làm khổ mình thì trật, nó là pháp ác rồi. Cho nên vì vậy, mà khi nghe căng cái chỗ nào là ngay đó là mình xả cái hơi thở liền, xả hơi thở liền. Cho nên thậm chí có người như thầy Chí Thiện, sau này gặp Thầy, Thầy bảo: "Không nên tu hơi thở nữa, bởi vì thầy tu hơi thở là bao giờ ngồi lại thở thầy cũng bị tập trung gom rồi, nó quen chỗ đó rồi, không có. Thầy bây giờ chỉ tập trung ở trong hành động đi đứng nằm ngồi, hoạt động thân của thầy, thầy cũng tập trung được tỉnh thức chứ đâu phải cần hơi thở. Nó đâu phải cần hơi thở vô Thiền Định đâu. Chỉ cần làm sao mà thầy xả cho được cái tâm thầy vào Định à, chứ không phải là chỗ hơi thở nữa. Chứ không phải là chỉ duy nhất có hơi thở mới vô Định đâu, không phải đâu". Thầy nói không phải cái chỗ đó đâu.
(32:28) Mà bây giờ, thí dụ như bây giờ mình tu về cái hơi thở mà mình thấy mình có cái thời gian mình tu, mình không có biết cách mình đã tạo nó ra thành bệnh rồi, thì mình không nên còn tập trung nó nữa, mình không sử dụng nó nữa. Mình sử dụng đi kinh hành, động thân, mình đi tới đi lui này kia hoặc mình làm gì đó mình tu. Còn không thì mình ngồi, mình thư giãn bình thường, không tu..
Sư Tuệ Tĩnh: Con đi kinh hành thấy nó tỉnh thức dễ hơn là ngồi.
Trưởng lão: Đó, thì cái duyên của mình nó ở đó thì mình tu cái đó, chứ mình không có ngồi nhiều. Mình lấy cái nào, cái đặc tướng của mình.
Sư Tuệ Tĩnh: Mình đi nó dễ, nó dễ tỉnh thức.
Trưởng lão: Đó, mình đi tỉnh thức, rồi vừa tỉnh thức. Nếu mà cái thời gian mình tỉnh thức mình thấy, thí dụ như mình đi được mười phút, hoặc là ba mươi phút mà không có cái tạp niệm xen vô ha, đi kinh hành.
(33:05) Thứ nhất, kinh hành nó có lợi ích là nó không bị hôn trầm, bị mình đi mình ít hôn trầm lắm. Cái thứ hai, nó tỉnh thức, nó tỉnh thức trong bước đi của mình. Cái thứ ba, mình tìm thêm cái pháp hướng để mình xả. Chứ đừng có đi không không, đừng có đi để cho mình biết mình đi không, thì nó không có lợi ích gì đâu. Nhớ kỹ nha, khi mình biết được cái sức tỉnh của mình, từ mười phút, từ mười năm phút cho đến ba mươi phút há, thì nó có cái khoảng thời gian mà tỉnh, mình đi kinh hành không có tạp niệm thì sử dụng cái khoảng thời gian đó.
Bây giờ mình biết khả năng của mình được ở đó rồi thì bắt đầu cứ hễ mình bước đi chừng năm mười bước, độ chừng chứ mình không đếm. Mình đếm là mình bị chi phối tâm mình rồi, mình không đếm. Mà khi mình đi khoảng độ vậy đấy cái bắt đầu mình hướng: "Tâm như cục đất, ly tham ly sân si hết đi". Mình đi cứ chút mình nhắc, chút mình nhắc. Nhưng mà nhắc rồi thì mình tỉnh ở trong cái bước đi của mình. Chứ đừng có để mà mình cứ nhắc hoài vậy thì không được. Mình nhắc nó rồi thì mình nhớ lại trong bước đi.
Sư Tuệ Tĩnh: Con đi kinh hành vậy được không Thầy, thí dụ con đang đi thì con vừa đi con vừa đi cảm nhận Thân – Thọ – Tâm – Pháp, thí dụ như cảm thọ con biết cảm thọ, vọng niệm nào đến thì con biết, bây giờ các pháp khác đến thì con biết, chứ không phải đi với tâm thanh thản. Đi như vậy được không Thầy?
Trưởng lão: Mình giữ cái đi, mình biết hết tất cả những cái cảm thọ của mình, tất cả mọi cái nó xảy ra mình biết hết.
Thì trong cái thời gian mà mình tu tập đó, mình chia ra làm nhiều cái thời gian, làm nhiều cái thời gian trong một buổi. Thí dụ như mình chia ra mấy thời gian, bây giờ đi để mà biết tất cả cảm thọ, để cảm thọ gì? Để sau này mình còn có sử dụng. Nó sử dụng như thế nào? Bây giờ cảm thọ này nó đau nhức hay hoặc nó mỏi hay này kia, thì mình dùng cái pháp như thế nào để xả cái ác pháp này ra, hiểu không? Đó, bây giờ thì mình đi trong cái khoảng thời gian mình tập, thì mình tập để cho mình biết hết tất cả những cái động dụng của Thân – Thọ – Tâm – Pháp của mình hết. Thì đó là mình lưu tâm, chứ không riêng gì mà mình chỉ có biết bước đi. Đó, đó là cái phần đó của trong một cái thời.
Thí dụ như bây giờ mình chọn cái thời đó là buổi chiều hay buổi sáng mình tu một thời nó là ba mươi phút. Chứ không phải là tu suốt như vậy đâu, hiểu không? Mình tu cái thời này để làm gì? Để sau này, để mình áp dụng vào khi mà mình quán Thân – Thọ – Tâm – Pháp mình, trong khi mình đi kinh hành đó, mình quán Thân – Thọ – Tâm – Pháp, coi nó xảy ra cái gì? Nó an ổn thì thôi.
Mà nó không an ổn, thì trong khi đi mà trong thời gian tu đó đó, bởi vì cái pháp này chúng ta phải câu hữu tất cả các pháp lại trong (khi) Thân – Thọ – Tâm – Pháp của chúng ta, chúng ta sẽ sử dụng Định Niệm Hơi Thở nè, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác nè, Định Vô Lậu nè. Chúng ta sẽ áp dụng nó trong một cái Thân – Thọ – Tâm – Pháp, trong cái bước đi kinh hành của mình.
(35:25) Thì lúc bấy giờ, thí dụ như bây giờ mình đang đi như vầy mà cái thân của mình bị con kiến hay hoặc là bị con gì cắn đau, thì mình ngay đó mình đem cái thọ ra liền. Cảm giác thọ mà, bởi vì mình cảm giác toàn thân của mình mà. Cảm giác cái thọ này, thì ngay cái thọ đem quán cái vô lậu để mà phá đi cái thọ của mình. Cái thọ, cảm giác đau đó, mình biết nó, vì vậy bây giờ mình phải xả nó. Biết đâu có nghĩa là biết để mà biết nó đâu, biết mà xả.
Thí dụ mình đang đi vầy, bỗng dưng cái đầu mình nhức, phải không? Thì cái thọ rồi, bởi vì mình đi, mình hoàn toàn mình quan sát cả Thân – Thọ – Tâm – Pháp của mình mà. Cho nên mình thấy cái gì nó xảy ra mình biết, chứ đâu phải tập trung có một chỗ. Nếu mình tập trung chỗ thì cái thọ đau mình đâu biết. Nhưng mà Thầy nói như vậy chứ, sự thật cái thọ đau nó lôi cái tâm mình về đó liền tức khắc à.
Bây giờ mình đang tập trung ở trong cái bước đi của mình nè, mình không có lưu ý cái thọ nè, mà cái sức tập trung của mình mạnh ở dưới bước đi thì cái thọ này đau, mình không biết đâu. Ngặt vì cái thọ nó đau, nó mạnh hơn cái sức tập trung của mình đây, cho nên nó lôi cái tâm mình về cái thọ. Cho nên khi đó, nó có cái cảm giác thọ đó, thì lúc bấy giờ đó mình đưa cái niệm thọ ra, mình dùng quán xét cái thọ, rồi mình dùng pháp hướng mình đẩy lui nó đi. Để cho nó…
Sư Tuệ Tĩnh: Cũng đi hả Thầy?
Trưởng lão: Cũng đi, cũng đang đi. Vừa đi vừa quán, quán để xả.
Sư Tuệ Tĩnh: Thì trong lúc mình quán mấy cái kia nó mất hết? Chỉ còn một niệm quán.
Trưởng lão: Nó mất hết. Chỉ có một niệm quán tức là mình trở về cái Định Vô Lậu liền, mình phá sạch cái niệm thọ đi.
Mà nếu các pháp nào mà xen vô thì mình đem nó. Rồi bây giờ nó không có thọ không gì hết mà bây giờ có cái tâm, nó khởi cái niệm. Mình đem cái niệm đó mổ xẻ liền, chứ không có được ở trong cái chỗ đó mà bỏ ngang cái niệm đó, mà để trở về với cái trạng thái quan sát hết bốn cái Thân – Thọ – Tâm – Pháp của mình, không có. Đem cái niệm đó ra mổ xẻ để mà xả cho được, hiểu như thế.
Tức là mình câu hữu các pháp để cho mình luôn luôn là, hoàn toàn là khắc phục tham ưu mà. Hoàn toàn đem lại cái tâm mình thanh thản, vô sự, an lạc của nó không có được cho cái niệm nào xen vào mất cái chỗ an lạc của mình. Chứ không phải mình ở trong cái trạng thái quan sát hết Thân – Thọ – Tâm – Pháp của mình này hoàn toàn như vậy là giải thoát đâu. Mà chính cái chỗ mình xả được những cái này để đem lại cái tâm của mình thanh thản vô sự này, thì là nó mất cái giải thoát của nó, hiểu vậy không?
(37:21) Đó, thì bắt đầu cái này là buổi sáng, mình chọn lấy ba mươi phút mình tu cái đi kinh hành này; buổi chiều ba mươi phút; buổi tối ba mươi phút; buổi khuya ba mươi phút, mình cho một cái trạng thái mà quan sát chung. Bắt đầu bây giờ đó mình mới tu về cái Thân Hành Niệm của mình, bắt đầu tập trung trong cái hành động đi. Đi không, không quan sát cái đó, mình đi không.
Nhưng mình đi để tỉnh thức ở trong cái này thì lại dùng cái pháp hướng Như Lý Tác Ý, mình hướng tâm mình nhắc để xả tâm: "Tâm như cục đất, ly tham ly sân ly si". Rồi bắt đầu nó trở về với cái bước đi của mình, mình biết bước đi. Rồi đi một đoạn nào đó mình lại nhắc nữa, đi đoạn nhắc nữa, nhắc cho hết ba mươi phút. Đây là lúc này là lúc mình sử dụng để luyện tập cái pháp Như Lý Tác Ý nó trở thành cái lực đạo, để sau này mình sử dụng để điều khiển cái khác.
Còn cái kia mình dùng Định Vô Lậu để xả những cái niệm mình ly tham, sân, si, để cho tâm thanh tịnh. Còn này dùng cái pháp Như Lý mình đi mình tập trung sức tỉnh này, để dùng cái pháp Như Lý này để luyện cái lực của nó để sau mình ra lệnh nó nghe theo. Chứ mình không luyện nó, nó không có cái lực, nó không lực mình ra lệnh nó không nghe. Đó, đó là cách thức xả tâm.
Sư Tuệ Tĩnh: Như vậy thì mình có làm Thiền..
Trưởng lão: Không.
Sư Tuệ Tĩnh: Cho thuận cái đi. Còn cái ngồi?
Trưởng lão: Bây giờ ngồi, mình coi như là đi rồi ha.
(38:23) Nhưng mình không ngồi thiền, có nghĩa là mình ngồi ít. Mình cũng tập ngồi, mình ngồi, mà ngồi ít. Bởi vì mình ngồi, thí dụ như mình biết ngồi như thế nào thế nào, biết rồi. Chẳng hạn như bây giờ mình ngồi, thay vì bây giờ mình ngồi năm phút hay là ba phút hay là một phút, mình chỉ ngồi cần một phút cũng được, cũng như mình ngồi nghỉ vậy thôi, hiểu không? Bây giờ đó, mình xếp chân lại mình ngồi, mình nghỉ. Mình ngồi, thí dụ như bây giờ ngồi có nhiều cái tư thế ngồi. Bây giờ mình đi kinh hành (một) hơi cái mình vô mình ngồi trên cái ghế.
Bắt đầu ngồi trên ghế hay ngồi giường, mình không cần ngồi xếp bằng lên nữa. Mình cũng không cần tập trung cái gì nữa hết. Mình ngồi thư giãn, các cơ buông xuống, tâm buông xuống thư giãn đi, thư giãn cho nó khỏe. Bởi vì hồi nãy mình tu như vậy nó đã mệt rồi, thì cái ngồi để mà thư giãn, đó là cái ngồi bình thường ha. Bây giờ ngồi kiết già, ngồi bán già, ngồi kiết già, mình không tập trung trong hơi thở, nhưng mình ngồi thư giãn làm cho cái tâm sáng suốt gọi là Định Sáng Suốt đó. Làm cho cái tâm mình nó trở về với cái sự bình tĩnh của nó, nó không còn bị dụng công bị cái gì hết á. Coi như nó không cực nhọc cái gì hết, nó xả hết, nó vô sự hết hoàn toàn, thì đó là thư giãn gọi là sáng suốt đó.
Sư Tuệ Tĩnh: Mình đang ngồi, bây giờ nó khởi niệm lên thì làm sao Thầy?
Trưởng lão: Bây giờ mình đang ngồi vầy, nó khởi niệm mặc nó, mình không quan trọng nó nữa.
(39:35) Coi như là khi mà thư giãn, thì không có dụng cái Định Vô Lậu mà tu. Ngay đó nó khởi niệm, thì tâm mình nó muốn theo niệm thì cho nó theo, mà nó không theo thì nó thư giãn xuống đi, bỏ xuống đi, đừng có nghĩ nữa. Bây giờ nó khởi niệm phải không, mình bảo: "Thư giãn đi, bỏ đi, không có nghĩ". Chứ không có quán như khi dùng Định Vô Lậu quán xả. Bởi vì mình dùng Định Vô Lậu quán xả tức là mình đã dụng công rồi.
Còn cái này mình thư giãn xuống, đừng có cho nó dụng công để cho nó nghỉ ngơi thôi, đừng có cho nó theo niệm. Vì nó theo niệm nó phải làm việc, nó làm việc nó suy tư. Cho nên mình thư giãn là mình cho nó nghỉ, buộc nó nghỉ. Cho nên vậy: "Bỏ xuống đi, thư giãn đi, cái niệm đi, thư giãn đi, giờ không có nghĩ". Mình nhắc nó, mình hướng tâm mình nhắc. Bởi vậy, Thầy nói luôn luôn lúc nào mình cũng phải dùng cái pháp hướng.
Mình nhắc cái nó thư giãn xuống, nó không nghĩ nữa. Mình cứ ra lệnh nó để cho nó thư giãn. Nhớ là cái pháp Như Lý Tác Ý là trạch pháp, nó phải sử dụng nó tất cả mọi cái hành động tu của mình. Lúc nào mà nó có cái gì khác lạ là phải dùng cái pháp hướng để mà xả.
Thí dụ mình đang ngồi, cái mình thấy hào quang ánh sáng: “Xả đi!”. Mình nghe âm thanh ở trong tai, mình nghe o o hoặc là nghe tiếng ai nói hoặc ai nghe kêu, mình bảo: “Xả đi! Cái tưởng hãy lìa đi, không được nghe nữa”. Mình ra lệnh vậy, một lát nó mới hết, chứ không phải dễ đâu. Tất cả mọi cái đều là dùng pháp hướng mà đẩy lui đi hết. Nhờ đó mà cái pháp này, nhờ đó mà sau này mình làm chủ được sự sống chết của mình. Cho nên cố gắng mà luyện cái này cho được. Bởi vì đó là cái pháp Như Lý Tác Ý.
Sư Tuệ Tĩnh: Có những thói quen, bây giờ mình phải sửa lại, tu tập cho nó theo Chánh Niệm Tỉnh Giác được hả Thầy. Vậy phải sửa lại thói quen..
Trưởng lão: Được. Mình nhắc.
Sư Tuệ Tĩnh: (41:16–(41:22): Để con sửa lại, chứ nó quen rồi, con sửa lại…
Trưởng lão: Được. Bảo ra lệnh nó: "Chánh Niệm Tỉnh Giác đi. Đừng có Niệm Phật nữa".
(41:14) Ra lệnh để cho nó xả từ cái kia, chứ không nó thành cái thói quen. Hễ khi mình bị niệm rồi đó, nó huân nó quá nhiều rồi, nó quen rồi, nó thành một cái lực của nó rồi. Cho nên khi mình nằm im cái nó bắt đầu nó niệm, gọi là nó tự động nó niệm, cái lực của nó. Cho nên bây giờ mình muốn phá cái này thì mình phải dùng cái pháp hướng: “Phải chánh niệm lại, không có được niệm!”, phải ra lệnh vậy. Rồi cứ hễ nó vừa yên, nó phát khởi thì mình ra lệnh. Nó chưa phát khởi mình cũng ra lệnh, cứ một khoảng thời gian là mình ra lệnh.
Chứ đừng có niệm: “Chánh Niệm, Chánh Niệm, Chánh Niệm!” thành ra nó một cái niệm khác nữa rồi, nó cũng không được, nhớ kỹ. Cứ mình phải có cái khoảng thời gian, thí dụ như mình bảo: "Phải Chánh Niệm", rồi bắt đầu đó mình để thời gian nó yên tĩnh chút, cái mình nhắc lại. Nếu mình không nhắc thì cái niệm kia nó xen vô. Rồi mình nhắc, nhưng mà mình đừng có niệm liên tục: “Chánh niệm, chánh niệm” hoài không được.
Sư Tuệ Tĩnh: Cuối đoạn đường con nhắc một lần, cái đi tới cuối đoạn đường con nhắc lần nữa
Trưởng lão: Rồi vậy được. Đó vậy được.
Sư Tuệ Tĩnh: Cái đó lúc mình đi tác ý được không Thầy?
Trưởng Lão: Được, cái đó là hướng tâm đó. Để cho cái tâm mình nó tập trung, nó chú ý, cái đó được. Mình nhắc gọn, mình nhắc cái câu ngắn gọn để cho cái tâm mình nó chú ý lại cái chuyện mình đang làm.
Sư Tuệ Tĩnh: …
Trưởng lão: Đó, thì đó là cái ý của mình. Mình tác ý ra, trong cái ý của mình, mình tác ý ra vậy đó. Chứ không phải mình phát ra âm thanh.
(42:37) Còn thật sự ra, nhiều khi mình cần phải ra lệnh bằng âm thanh nữa, chứ không phải đâu. Bởi vì cái ý của mình nó phát ra, nó nằm ở trong đó mà mình thấy nó điều khiển nó không nổi mình phải ra lệnh. Mình phải ra lệnh phát bằng âm thanh nữa, cũng như chỉ huy đó. Phải dùng cái đó. Phải nhớ kỹ những cái này là cái pháp tu của mình dữ lắm.
Sư Tuệ Tĩnh: Dạ
Trưởng lão: Thầy nói làm chủ sanh tử chứ ở đó.
Sư Tuệ Tĩnh: Tại con niệm Phật riết cái con quen luôn, cứ niệm Phật hoài.
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 05
CÁCH DÙNG PHÁP HƯỚNG TÂM
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh, Sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [44:50]
Ngày giảng: 20/3/2006
Tên cũ: 03A-CachDungPhapHuongTam
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-05-cach-dung-phap-huong-tam.mp3
(00:00) Sư Tuệ Tĩnh: Về cái phần mà hướng tâm đó, xin Thầy giảng rõ lại cái kỷ thuật hướng tâm như thế nào cho có kết quả mau.
Trưởng lão: Hướng tâm mà có kết quả đó, là khi cái tâm nó vừa yên lặng, khi mình ngồi mình nghe thân tâm của mình nó yên lặng an ổn đó. Khi mình bây giờ mình hít thở, mình biết hơi thở ra vô mà cái thân tâm an ổn. Chứ nó còn có vọng tưởng hay là nó còn hôn trầm, thì nó còn lừ đừ buồn ngủ gì đó, thì hướng tâm không có kết quả đâu. Nó cho tỉnh táo cho tỉnh giác, thì mới hướng tâm nó mới có hiệu quả, Như Lý Tác Ý đó.
Vậy cứ nhớ khi nào mình cứ hít thở, mình nghe nó yên ổn, cái tâm nó lặng lẻ, lúc nó thanh tịnh thì hướng tâm. Cái hiệu quả nó ở chỗ thanh tịnh, cái lực nó có ở ngay chỗ đó. Còn bây giờ mình cũng hướng mà mình chưa có quan sát được thân tâm mình yên lặng, mình cứ độ chừng năm mười hơi thở mà mình cứ hướng, hướng thì nó không có hiệu quả, lưu ý cái phần này.
Bởi vì khi mình thấy thân tâm mình nó yên ổn được thì bắt đầu mới bảo nó. Mặc dù bây giờ nó chưa có phải là cái tâm mình hết phóng dật, bởi vì nó hết phóng dật cái mình ly dục ly ác pháp rồi, thì tự nó, nó quay vô với hơi thở, tức là nó định trên thân. Cho nên đức Phật nói "Tâm định bằng tâm, tâm định trên thân", tức là nó định trên hơi thở, Thân Hành Niệm. Thân Hành Niệm Nội trên hơi thở đó, nó định trên đó.
Còn nếu mà nó chưa định nó còn phóng, thì bây giờ mình ép buộc nó, thì nó chỉ có thời gian nào đó nó chịu đựng đó thôi. Chứ hể xả ra thì nó bung nó đi tùm lum hà. Hễ nếu mà nó chịu quay vô không phóng dật thì tức là nó định vô trên thân, nó định ngay trên hơi thở. Lưu ý, mà nếu mà hướng tâm con bảo nó: "Tâm ly dục ly ác pháp đi", nhưng nó chưa đâu, nó chưa có quay vô đâu. Nhưng mà mình cứ mình bảo hoài, riết rồi nó đi.
Mà khi mà cái tâm mình giữ yên lặng, tức là tỉnh thức đó - cái tỉnh thức, đừng có tĩnh lặng mà tỉnh thức. Tỉnh thức thì được mà tĩnh lặng không được.
Tỉnh lặng nó làm cho mình có cái trạng thái hỷ lạc. Nó lặng, thì không được, không tốt, nó đi chỗ khác rồi. Thì lúc bấy giờ đó hể mình tác ý, mình hướng tác ý thì nó mất cái sự tĩnh lặng đó đi, nó làm cho mình thấy nó bực. Phải không?
Cho nên lưu ý cái phần này thì cái pháp hướng nó hiệu quả. Bởi vì vốn mình luyện cái pháp hướng để cho có cái lực, cái lực điều khiển chớ không phải, sau này mình vào thì nó dễ. Đó nhớ lưu ý cái chỗ đó.
(2:39) Bây giờ thí dụ như mình ngồi, mình không hít thở, mình cứ để tự nhiên cái tâm của mình, mà mình nghe thân tâm nó an ổn thì hướng tâm tốt. Chứ đừng nói chi là mình nương hơi thở. Còn mình nương hởi thở là tại vì nó nương cái hơi thở là nó giúp cho mình sự tĩnh lặng dễ hơn […] Mình biết thân tâm mình rõ ràng là yên lặng tốt, đó là đi hướng đúng. Kỹ chỗ đó chứ còn không khéo mình hướng mình cũng như mình niệm đó thì, nó động không đó.
Sư Tuệ Tĩnh: Bởi vậy thưa Thầy con thấy nó không có hiệu quả nhiều, bởi vậy con mới hỏi kỹ lại cái đó. Cái này cũng như mình tụng kinh vậy, nó không có kết quả.
Trưởng lão: Bởi vậy phải để đợi cho cái tâm. Mà bây giờ mình ngồi, mình ngồi chơi hay hoặc mình ngồi tu hay hoặc mình đi kinh hành. Mình đi mình cũng lắng mình nghe thân tâm của nó, nó theo cái nhịp bước đi mà nó yên ổn. Mà hễ nó còn phóng tâm, nó còn phóng dật, nó nghĩ ngợi, nó còn này kia thi nó. Mà đi mà nó còn có chú tâm bên đây, bên kia, nó cũng còn lăng xăng, mình ráng cố gắng, mình ức chế cho nó theo cái bước đi của mình đó, cố kềm nó thì nó còn động rồi.
Chừng nào mình nghe nó yên lặng, không có dụng công nhiều, thì mình dùng câu pháp hướng. Đó là chỗ khéo léo lắm đó, chứ không phải không. Mình coi vậy dẫu biết rồi mình niệm không, chớ mình tụng đâu. Cho nên nhiều khi mình lưu ý, thà là mình tu ít mà kết quả rất lớn. Còn mình tu rất nhiều, mà thành ra như là người gõ mõ tụng kinh, cũng như người niệm Phật tụng kinh thôi, không có kết quả.
Bởi vì tâm nó còn động, nó chưa có chịu tỉnh giác. Phần nhiều là khi mình nhập thất, mình tu một thời gian thì tâm nó yên tịnh nhiều. Cho nên lúc bấy giờ mình chú ý nhìn hơi thở, mình nghe một lúc cái nghe nó tự nhiên của mình, cái tâm bám vô hơi thở, lúc bây giờ thấy thân tâm yên lặng. Mình tu lâu rồi mình quen, mình biết chừng chỗ đó là mới dùng pháp hướng được. Còn cái kia thì khi mà nó như vậy, nó nhớ Như Lý Tác Ý nó khác, mà tác ý nó khác.
(5:05) Cái Như Lý Tác Ý nó khác. Cái Như Lý Tác Ý là cái pháp Hướng. Còn Tác Ý để mình quán xét một cái niệm, thì cái đó là vô dùng quán rồi, quán vô lậu. Mình tác ý ra, tức là mình tác ý ra rồi mình tư duy.
Còn cái Như Lý Tác Ý, như cái lý đó mình tác ý tức là mình hướng tâm, mình ám thị, không có tư duy. Cho nên thí dụ như cái câu, trong cái Mười Sáu cái Đề Mục của Định Niệm Hơi Thở, thì đức Phật dạy: "Quán ly tham tôi biết tôi hít vô". Thì chữ “quán ly tham tôi biết tôi hít vô” đó, nó là Như Lý Tác Ý chứ không phải là quán.
Bởi vì mình quán như vậy, cái thời gian mà với một cái hơi thở hít vô hít ra mà quán, quán thì nó phải có sự tư duy, nó dài, thì cái đó là tác ý quán, chứ còn không phải là Như Lý Tác Ý. Lưu ý mấy cái chỗ đó, chứ không có nó trật đó.
Sư Tuệ Tĩnh: Mười sáu cái đề mục đó toàn là “Như Lý” hết?
Trưởng lão: Như Lý hết, bởi vì nó theo cái nhịp hơi thở mà nó Như Lý mình tác ý ra.
Sư Tuệ Tĩnh: Dạ. Bao nhiêu ông Thiền sư, bao nhiêu ông giảng sư giảng khác chỗ này hết trơn hết trọi.
Trưởng lão: Bởi vậy mới chết, nó trật rồi. Bởi vì qua cái kinh nghiệm, rồi mới thấy được cái lời của Phật dạy, chữ với nghĩa. Cái nghĩa thì nó là cái vô hạn, mà cái chữ thì nó hữu hạn. Cái ngôn ngữ thì nó hữu hạn, mà cái nghĩa thì nó vô hạn.
Cho nên cái nghĩa thì vô hạn, cho nên người ta hiểu như vầy, hiểu như khác đủ thứ hết. Còn cái chữ thì nó chết đứng đó, thí dụ như nó tác ý hay Như Lý Tác Ý thì nó đứng đó vậy thôi, chớ nó không. Mà cái hiểu làm sao cho trúng? Bởi vì nó vô hạn, mình hiểu tùm lum đủ thứ, mà nó có hạn thôi.
Có khi Phật nói “Tác ý”, mà có lúc Phật nói “Như Lý Tác Ý”, hai cái khác chứ không có giống nhau. Mà Như Lý Tác Ý như thế nào? Mà tác ý thì như thế nào? Nếu không trải qua kinh nghiệm thì chắc chắn là chỉ nằm ở trong chữ nghĩa mà thôi. Cho nên cái Như Lý Tác Ý là phải đợi cái tâm mình thanh tịnh mới tác ý, tâm chưa thanh tịnh thì không được tác ý.
Cho nên nếu mà mình thấy người ta dạy mình ám thị phải không, nhưng mà có người ám thị người ta hiệu quả, mà có người ám thị không hiệu quả. Ai cũng biết cái đó chớ, ai cũng biết, nhưng mà ám thị có hiệu quả, ám thị không hiệu quả. Đó, quan trọng là cái chỗ tâm nó yên lặng hay nó chưa yên lặng, cái chỗ tâm thanh tịnh hay nó chưa thanh tịnh. Cho nên có nhiều người nghe cái pháp Như Lý Tác Ý, rồi mình làm cái gì mình cũng tác ý ra. Nhưng mà trong khi tâm mình nó chưa yên tịnh mà cứ tác ý, nói sao tôi tu hoài mà không được.
(7:51) Mà chờ cho được cái tâm yên tịnh thì tác ý nó hiệu quả, mà trong một ngày nhiều khi nó chưa thanh tịnh một lần, thành ra mình cứ tụng với niệm thôi. Cho nên vì vậy đó, mình khép mình trong cái khuôn viên độc cư mà sống trầm lặng một mình. Cho nên Phật mới ca ngợi, ưa thích sự trầm lặng, ca ngợi sự trầm lặng ưa thích sự trầm lặng. Thì mình sống ở trong khuôn viên, mình yên lặng rồi, thì bắt đầu tâm mình nó tuôn trào thì mình bắt đầu dùng phép quán.
Quán để xả những cái niệm đó. Khi mà cái niệm thương niệm nhớ, cái niệm mà tham, sân, si, cái nghịch, mình phải phân biệt cái này nữa. Nó có cái nhân quả nghịch và cái nhân quả thuận. Thí dụ như tình thương của mình, thương người thân của mình, đó là cái nhân quả thuận. Còn cái người ta chửi mắng mình, người ta làm cho mình khổ, giận hờn phiền não đó, là nhân quả nghịch. Hai cái nghịch thuận.
Cũng như bây giờ, con cái hay cha mẹ mình, đó là cái nhân quả thuận, phải trả cái nhân quả đó bằng cách thuận. Còn những cái mà làm đau khổ giận hờn tức giận đó, cái đó là nhân quả nghịch, nó thương ghét. Nhưng mà cái nghịch thì dễ xả, mà cái thuận nó khó xả. Cái thương khó xả mà, cái ghét nó dễ xả. Phải không? Cho nên vì vậy đó, khi mà so sánh được những cái pháp ác này, nó đều là pháp ác hết chứ không phải pháp thiện. Nó là pháp ác, thương cũng là pháp ác, vì nó có cái khổ trong cái chỗ đó.
(9:23) Cho nên cái phước vô lậu với cái phước hữu lậu, cái phước vô lậu thì nó hết khổ. Người có cái phước vô lậu thì hết khổ, mà người có cái phước hữu lậu là có khổ. Mặc dù có phước giàu sang như vua chúa nhưng vẫn khổ, bởi vì nó hữu lậu. Nó có cái lậu, mà nói đến lậu hoặc tức là nói khổ. Vì vậy cho nên khi mình tu thì mình, cái tâm mình nó còn lậu hoặc thì mình hướng tâm không hiệu quả. Mà tâm nó thanh tịnh yên lặng được, bởi vì mình có lúc mình thấy nó yên lặng mà, thì lúc bấy giờ dùng pháp hướng thì rất tốt.
Nhưng mà khi mà tâm chưa yên lặng thì dùng pháp Tác Ý thì tốt. Bởi vì nó còn động, mình phải tác ý thì nó tốt. Chẳng hạn như bây giờ thí dụ như cái đề mục mà thứ nhứt của Định Niệm Hơi Thở: "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra", hay là "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra", đó là những cái để nhắc cho nó được sự yên lặng tỉnh giác. Mà nếu mình không nhắc, thì nó sẽ không tỉnh giác.
Mình nhắc cho nó tỉnh giác, tỉnh giác rồi bây giờ mới quán ly tham, quán ly sân, quán ly si, quán vô ngã. Phải hiểu cái Mười Sáu Đề Mục của Phật. Bao giờ mới vô mà đức Phật dạy mình quán ly tham, quán ly sân ly si đâu? Phải không? Trong Mười Sáu Đề Mục mà. Vô đó thì nhắc cho mình để trụ trong hơi thở cho nó yên tĩnh, nó an tịnh. “An tịnh thân hành”, “An tịnh tâm hành”, nó an ổn hết rồi, thì bắt đầu mới kêu ly tham, ly sân, ly si.
Thì rõ ràng là cái, mình đọc bài cái bài kinh rồi đó, thì mình thấy rõ ràng là có cái pháp hành nó rõ ràng, có cái kinh nghiệm đàng hoàng chứ không phải thiếu kinh nghiệm đâu. Cho nên phải tỉnh thức rồi mới Như Lý Tác Ý mới được. Còn lúc đầu nó chưa có thì tác ý đó. Những cái câu đầu đó cũng là pháp hướng, nhưng mà tác ý đó. Tác ý rồi quan sát, quan xem coi như thế nào, coi như là quán xét nó.
Còn khi nó yên tịnh rồi thì Như Lý Tác Ý đó, coi như quán ly tham rồi, thì không có quan sát nữa. Bởi vì bây giờ tâm mình đâu có tham đâu mà quan sát nữa. Mà chỉ đuổi nó ra thôi, nó yên tịnh rồi đuổi ra. Còn cái kia, mình quán ly tham, quán ly sân, quán ly si thì đó là đuổi. Còn cái mà "An tịnh thân hành”, “an tịnh tâm hành" là hướng tâm tác ý ra, rồi quan sát coi nó yên tịnh chưa, nó thanh tịnh chưa? Nó thanh tịnh rồi mới yên tâm, mới khắc phục tham, sân, si.
Đó cách thức nó như vậy, mà mình không hiểu thì coi như là mình cứ niệm. Cho nên khi mà hướng tâm thì mình quan sát lại coi cái hơi thở của mình, coi nó, mình biết hơi thở không? Mình nhớ coi mình biết hơi thở không hay còn tạp niệm, hay còn vô ký. Phải không? Nếu mà nó còn tạp niệm, còn vô ký thì phải nhắc nó: "tôi thở vô tôi biết tôi hít vô, tôi thở ra tôi biết tôi thở ra", để cho nó tập trung trong hơi thở. Mà nếu mà bây giờ nó đã yên rồi, nó đã thanh tịnh rồi, mà mình cứ để cho nó tự biết hơi thở ra vô thì giống như “tùy tức”, nó không phải là Định Niệm Hơi Thở nữa.
(12:23) Đó cho nên vì vậy nếu mình đi vào con đường Tổ Lục Diệu Pháp Môn thì là "sổ tuỳ" rồi. Bây giờ là nó "tuỳ tức", hồi nảy thì mình nhắc "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra" dường như là mình sổ rồi, cũng vậy phải không? Mà bây giờ khi đó, khi mà nó biết hơi thở ra vô mà mình không cần nhắc nữa, thì tức là mình sẽ bỏ cái nhắc. Tức là mình "tuỳ" rồi, thì như là Lục Diệu Pháp Môn rồi. Trật rồi, không đúng.
Cho nên đức Phật thấy khi mà mình nhắc nó đó, tức là như là sổ. Như sổ để cho tâm nó gom vô, đừng có chạy lăng xăng nữa, đừng có phóng bậy bạ nữa. Mà khi nó chịu gom rồi, nó yên tịnh rồi thì không tuỳ tức, mà lại quán ly tham, quán ly sân, si. Có phải rõ không? Nó đâu có để mà nó yên, nó yên lặng ở trong tuỳ tức đâu. Nó tuỳ tức, nếu mà nó tuỳ tức thì nó phải “chỉ” . “Sổ, Tuỳ, Chỉ”, nó đi đến cái chỗ “chỉ”, chỉ tức là nó ngưng cái ý thức đi.
Mà nó ngưng ý thức thì tưởng thức hoạt động, nó sanh ra cái trạng thái Xúc tưởng - Hỷ lạc. Hay là Sắc tưởng hay là Thinh tưởng, nó sanh ra cái trật đường rồi. Phật biết cái chỗ này cho nên lái cho mình đi qua cái chỗ xả, chớ không để cho mình rớt cái chỗ này. Đọc cái bài kinh Mười Sáu Đề Mục của Định Niệm Hơi Thở, mình thấy đức Phật dạy có kinh nghiệm đàng hoàng. Nhưng mà vì người sau này không có kinh nghiệm, rồi rơi vào cái Lục Diệu Pháp Môn, mới đẻ ra Lục Diệu Pháp Môn.
Mà từ cái chỗ mà quán Định Niệm Hơi Thở, thì mình trở thành quán niệm hơi thở. Cho nên thí dụ như mình không biết đó, mình dùng như là Thiền Minh Sát Tuệ, nó dùng cái cơ bụng để phình xẹp lên đó, để tập trung. Tới chừng đó là mình mới Minh Sát nè, đợi cho yên rồi Minh Sát mà không ngờ là nó không phải là Minh Sát. Mà trái lại là ly tham, ly sân, dùng Như Lý Tác Ý để nhờ cái lực của pháp hướng, của sự ám thị của tâm, để sau này dùng cái đó mà mình nhập các Định, tịnh chỉ tầm tứ, tịnh chỉ hơi thở, mình nhập các Định khác, mình ra lệnh nó. Chớ không phải mình ở trong trạng thái đó rồi mình vô Định được.
(14:27) Sư Tuệ Tĩnh: Thầy diễn tả cái câu mà "Quán ly tham, tôi biết tôi thở vô, quán ly tham, tôi biết tôi thở ra", lúc đó tình trạng mình thực hành như thế nào?
Trưởng lão: Lúc bấy giờ tình trạng, khi đó cái tâm mình nó yên, yên tịnh rồi. Yên tịnh tức là tự, nó có cái lúc mà nó bám vô hơi thở, nó thở ra thở vô nó tự biết, nó rất nhẹ nhàng nó tự biết mình. Thì lúc bấy giờ là quán ly tham, quán ly sân, tức là mình nói, mình dùng cái pháp hướng để nó lìa những cái tâm tham, sân, si của mình, tức là Ngũ Triền Cái đó.
Sư Tuệ Tĩnh: Mình hướng làm sao Thầy?
Trưởng lão: Mình hướng, thí dụ như nó, cái tâm nó yên lặng rồi, "Quán ly tham, tôi biết tôi hít vô, quán ly tham, tôi biết tôi thở ra", y như cái câu của mình. Còn không thì mình nói: "Tâm ly dục ly ác pháp, đi đi, nhập Sơ Thiền", mình ra lệnh cho nó vậy, cũng y như là quán ly tham, ly sân, ly si. Bởi vì dục, trong dục nó có tham, sân, si trong đó. Cho nên quán, cho nên mình nói, bảo " Tâm ly dục ly ác pháp, nhập Sơ Thiền đi", cái câu đó là câu chuẩn nhứt.
Sư Tuệ Tĩnh: Vậy là mình theo hơi thở, cái mình tác ý: “Ly tham đi, ly tham đi”, tới cái mục kia thì mình “Ly sân, ly sân”, tới cái mục vô thường thì mình cũng tác ý là “Vô thường đi, vô thường đi.” Vậy thôi?
Trưởng lão: Vậy thôi. Đó là mình như cái lý của nó mình tác ý, bảo nó phải “vô thường đi”. Đó, vậy thì nó, nghĩa là mình chọn, Trạch Pháp Giác Chi đó, mình chọn ra một cái câu pháp nào cho đúng, cho hợp với mình, với đặc tướng của mình, mình hướng nó mới hiệu quả. Chẳng hạn có nhiều câu, thí dụ như mình hướng mà không có hiệu quả, mình thay đổi. Mình thay đổi cái câu nào mình hướng mình thấy hiệu quả, thì mình lấy câu đó làm chuẩn là đúng.
Sư Tuệ Tĩnh: Dạ, mình trong thời gian bao lâu, một câu mình thực hành bao lâu?
(16:03) Trưởng lão: Thí dụ mình thực hành mà mình thấy, bắt đầu thấy mình bảo nó, thí dụ như bây giờ mình bảo nó: "Tâm ly dục, ly ác pháp, nhập Sơ Thiền đi". Mình bảo nó chừng năm ba lần, hay mười lần, trong khoảng thời gian mà tâm yên lặng, mười lần. Cái mình thấy nó tự, nó có nó vô thẳng cái Định, cảm thấy hỷ lạc đàng hoàng rõ ràng. Rồi mình để yên lặng thử coi nó ở trong cái trạng thái đó coi bao lâu.
Mà nó thấy kéo dài được cái thời gian, dài được năm, mười phút, à như vậy là được rồi. Do đó mình biết nó sẽ vô đó được rồi, thì cái câu pháp hướng đó hiệu quả được. Sau đó lấy câu đó mình nhắc nó vô Định đó. Lấy câu đó, chứ đừng lấy câu khác, câu khác nó không vô đâu, nó như vậy đó. Lưu ý cái chỗ mà cái câu trạch pháp đó. Còn nếu câu đó mà một thời gian mình thấy nó không vô, là sai rồi.
Thí dụ như câu, cái người nào nó cũng có những cái duyên với cái câu đó, tức là Thầy nói là nó đặc tướng với cái tác ý đó. Thí dụ như mình có cái đặc tướng với cái tác ý câu của mình. Cái câu thí dụ như Thầy có cái đặc tướng là hai cái câu "Tâm như đất" câu thứ nhứt mà Thầy tu. Câu thứ hai là Thầy lấy cái câu mà Thầy nhớ lại _ trong khi mà ông Phật ổng nhớ lại, là lúc nhỏ ông nhớ ông “ly dục ly ác pháp, nhập Sơ Thiền” đó _ Thầy lấy câu đó Thầy làm cái chuẩn Thầy tu.
Sau, cái đầu tiên Thầy vô: "Tâm như đất, không có tham, sân, si nữa, đi hết đi", Thầy chỉ ra lệnh vậy. Trong cái thời gian đó cái Thầy thay đổi: "Tâm ly dục, ly ác pháp, nhập Sơ Thiền", cứ kêu tâm. Kêu cái tên tâm này: "Tâm ly dục ly ác pháp, nhập Sơ Thiền", Thầy cứ kêu cái tâm thôi. Rồi cứ hể nó tăng vừa cái, vừa nương hơi thở yên lặng, thấy nó yên lặng. Bởi vì mình đã tu, Thầy tu chín năm mà, tâm nó dễ yên lặng lắm, vô cái yên lặng, hướng vô yên lặng.
(17:43) Tâm mà yên lặng được rồi thì hướng tâm có hiệu quả. Còn cái tâm mình nó còn động nhiều quá, người mới tu coi vậy chứ lâu lắm. Thật sự ra nhờ mà khi Thầy tu cái pháp Tri Vọng đó, chín năm trời mà, cho nên nó ba mươi phút không vọng tưởng, một giờ không vọng tưởng, ngồi đó yên lặng. Nó an ổn lắm, nhưng mà nó xảy ra những cái trạng thái tưởng nó quá nhiều, cho nên nó không đi tới đâu.
Sau đó dùng cái pháp hướng đó, thành ra nó cứ yên lặng, rồi cái mình sốc động lên, tác ý cái nó sốc động lên, nó không bị rơi trong đó. Rồi cái nó yên lặng lại liền, vì cái tâm mình nó không có chạy bậy bạ. Yên lặng liền cái mình cứ khống, mình cứ tác ý ra hoài. Sáu tháng sau đó mình ra lệnh nó vô Định. Nó đâu có gì, tại vì cái tâm mình nó chưa có yên, cho nên mình hướng tâm không có hiệu quả.
(18:43) Đó, nhớ mình tu tập riết một thời gian, bắt đầu mình bền chí lắm, mình cũng tu tập cho nó tỉnh thức cái đã, chớ đừng có vội, đừng có vội dùng các pháp hướng. Mình cứ dùng cái pháp hướng "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra", nhắc để cho nó theo hơi thở cho riết, đừng có tạp niệm. Khi mà mình nhắc mình thấy nó hết tạp niệm rồi, thì mình thỉnh thoảng mình nhắc "An tịnh thân hành, an tịnh tâm hành" cho thân tâm mình nó an tịnh thôi.
Đó cứ như vậy thôi, mà khi mà thấy rõ ràng nó an tịnh rồi, mà khi mình hít thở. Thậm chí như Thầy còn dạy một cái câu hơi thở để mà gom cái tâm nữa, đó nhớ cái chỗ này nữa, cái phần này nữa. Bởi vì tâm mình nó mới tu thì nó loạn, nó chưa. Với mình chưa có bao giờ mình khép mình ở trong cái khuôn viên mà độc cư trầm lặng. Thành ra nó, hể mình khép vô đó thì bắt đầu nó tuôn trào ra. Nó tuôn trào, nó nghĩ ngợi cái này kia.
Ngồi lại cái bắt đầu nó yên lặng, cái thân nó vừa yên, cái bắt đầu nó cứ phóng ra. Phóng ra nhiều lắm, chuyện này hết tới chuyện kia. Cho nên vì vậy đó thì mình muốn mà cho nó khắc phục, nhiếp phục nó được, thì mình nương vào cái hơi thở mình tác ý, mình nhắc nó. Nhắc nó riết cái bắt đầu, mình phải chủ động, từ khi bắt đầu vô tu là chủ động không được để vọng tưởng.
Chớ có vọng tưởng ra vô ra vô, nó quen rồi, cũng khó lắm. Chỉ có mình tu lâu, rồi lần lượt nó thưa, vậy chứ nó không hết. Còn không thì nó rơi vào trạng thái Tưởng thì nó mới hết. Bởi vì khi mình ngồi mà mình không có chủ động điều khiển được nó, cho nên nó cứ ra vô. Mà khi tự động nó yên lặng, cái bắt đầu nó thấy nó bám vô hơi thở, nó thở nó biết đều đều đều đều, cái nó lặng vô trong Tưởng. Thì nó hết vọng tưởng, nhưng mà nó bị rớt trong Tưởng, thì nó không đúng.
(20:24) Còn mình điều khiển vô, cho nên đức Phật dạy cách thức điều khiển "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra", hoặc là mình hướng tâm theo hơi thở ra vô y như vậy. Thí dụ như hít vô, thì mình đồng thời mình hướng tâm, mình tác ý theo hơi thở mình hít vô. Và đồng thời mình tác ý theo hơi thở ra, là người đó hơi thở phải chậm.
Còn cái người mà hơi thở nhanh thì không kịp, bởi vì cái tác ý của mình với cái hơi thở nó không kịp, nó mệt. Còn nếu mà hơi thở mà người đó thở chậm, thì tác ý mới kịp, thì nó dễ lắm. Nhưng mà mình tác ý không kịp thì thôi, mình cứ tác ý theo tự nhiên nó thôi. Nhắc, cũng như mình nhắc chừng cho nó, mình biết hít vô hít ra mình đang thở như vậy thôi, để cho nó đừng có.
(21:05) Nhưng mà mình mới đầu mình tu ít, đừng tu nhiều. Thí dụ cái sức của mình cỡ tu chừng khoảng độ chừng một phút, thì mình tu một phút, đừng có tu nhiều. Mình ngồi lại một phút mình tu, thì mình chủ động mình điều khiển cái hơi thở của mình nó không vọng tưởng, rồi lần lượt mình tăng lên. Chứ còn mình đừng có ngồi một lần mười phút, hay ba mươi phút thì nó có vọng tưởng. Bị lâu quá mình không có đủ sức tỉnh thức lâu.
Mà hễ nó lâu quá thì một lúc có thời thì mình ngồi thấy nó không vọng tưởng, đó là nó vô chứ không phải là tự mình điều khiển vô. Mình làm sao mình chủ động mình điều khiển mình vô kìa, thì nó mới đúng. Cho nên nó sai chút là nó dậm chân tại chỗ mất đi.
Sư Phước Nhẫn: Mình ngồi thiền một phút thôi hả Thầy?
Trưởng lão: Một phút mà chủ động điều khiển vô. Thí dụ như bây giờ thầy khép chân thầy ngồi há. Thầy ngồi, khép chân lại thầy ngồi, thì bắt đầu thầy chỉ cần thầy thở một hơi thở chậm nhẹ trước cái đã để gom tâm. Thầy nói: “tâm gom gom, cái nhân trung biết hơi thở ra vô”, nó vậy. Bắt đầu hai con mắt thầy nhìn cái chóp mũi. Thầy hít vô, hít vô chậm chậm chậm chậm, chứ không hít như bình thường. Hít vô chậm thật chậm để cho cái, hể càng chậm thì cái tâm nó gom càng chậm, phải không?
Rồi bắt đầu thầy cũng thở ra chậm chậm chậm chậm cho hết rồi, Thầy thở lại bình thường. Chứ Thầy gom quá, Thầy ức chế nó thì không được, nó mệt. Nếu mà thở chậm thì nó gom dữ lắm, nhưng mà nó mệt. Nhưng mà sau này nó bị ức chế, nó sanh Tưởng mau, chứ không gì. Thành ra thầy chỉ dùng nó để gom thôi, rồi bắt đầu thở lại bình thường. Thở lại bình thường thì nó còn sức gom nữa, cho nên nó tập trung vô đây, nó dễ.
Rồi thường mình nhắc nhẹ nhàng, mình nhắc cái câu pháp hướng: "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra". Rồi để trong khoảng thời gian cho nó hít vô hít ra, coi như “tuỳ tức” đó. Rồi bắt đầu đó mình mới nhắc lần nữa, rồi mình để cái thời gian dài ra coi thử coi nó có vọng tưởng gì không? Coi thử coi nó có chịu bám vô không? Nếu mà nó không chịu bám vô hơi thở thì phải hít một hơi thở chậm thiệt chậm nữa, rồi thở ra để cho nó gom trở lại, nó gom lại.
Cách thức mới tu tập đó là phải tu tập như vậy để cho nó tập trung được, nó gom được để nó quen. Chứ cái tâm của mình mới tu là nó chưa có quen gom vô đâu, nó còn phóng lung tung. Cho nên mình ngồi lại yên lặng, thân yên lặng thì cái tâm nó mới lắng.
(23:21) Sư Phước Nhẫn: Như giả sử con bây giờ, thí dụ nếu trường hợp mà tập theo cái phương pháp của Thầy đó, giờ phải bỏ hết cái cũ làm lại cái mới, như vậy có một phút có ngắn quá không Thầy?
Trưởng lão: Có, nó ngắn. Nhưng mà nó chủ động được. Chứ còn mà dài quá mình không có sức chủ động nổi. Mà nếu mình dài quá thì mình sẽ tu nữa tiếng, phải không? Nữa tiếng thì cái sức của mình không được. Mà mình cố gắng mình ngồi lâu thì nó sẽ, thời gian lâu nó rơi vô trong Tưởng. Nó ngăn không thích yên lặng rồi. Thành ra nó nhiều khi Thầy nói, bởi vì nó tu có tu rồi có trật rồi, nó cũng khó sửa.
Hay là chẳng biết, người nào chẳng biết tu gì, chưa có biết gì hết đó, vô bắt đầu dạy đúng theo cái cách thức này, thì mỗi một lần tu của mình là một cái, mỗi một giờ tu của mình là một kết quả rõ ràng. Và cái kết quả đó là cái niềm tin của mình. Chứ còn mình tu như vậy là cái kết quả không có đâu, mình xét lại thời gian là giảm tin rồi. Còn kia là kết quả từng chút từng chút nó đi lên, tới chừng người ta dùng pháp hướng người ta hướng có hiệu quả liền.
Bởi vì cái tâm người ta nó yên tịnh được rồi, người ta hướng cái nó xả, nó xả ly. Còn mình hướng nó như cục đất, mà cuối cùng đụng chuyện gì cái nó không như cục đất. Bởi vì cái tâm của mình nó chưa có tịnh. Thân tâm thanh tịnh thì pháp hướng mới thành được, nó nhu nhuyễn nó mới dễ sử dụng. Tâm thanh tịnh tức là tâm nhu nhuyễn. Ở trong kinh Phật nói tâm nhu nhuyễn mới dễ sử dụng, mới hướng tâm mới có hiệu quả.
Đó thì cái câu mà nếu mình muốn hướng tâm đến Tam Minh, thì lúc bấy giờ tâm phải nhu nhuyễn dễ sử dụng. Nhu nhuyễn, thì nó thanh tịnh là nó nhu nhuyễn, mà nó chưa thanh tịnh là chưa nhu nhuyễn. Câu nói đó phải hiểu cho rõ cái nghĩa của nó thì, nó chưa nó còn lăng xăng thì nó không có sử dụng nó được, không có dễ sử dụng nó được.
Sư Phước Nhẫn: Như vậy thì bây giờ tụi con phải bỏ hết cái cũ hả Thầy ha? Tại vì mấy năm nay đó con ngồi, cứ muốn ngồi cho nó lâu, cứ ngồi cho nó yên tịnh, như vậy thì đâu có đúng với cái pháp môn của Thầy.
(25:20) Trưởng lão: Nó không đúng theo cái đường lối của Phật dạy. Bởi vì chính đi từng bước từng bước mình tập. Thật sự ra thì cái câu mà của ông Châu Lợi Bàn Đặc, ông quét cái tâm thì ông chỉ có tu có nhiêu đó thôi mà kết quả. Rõ ràng là khi đức Phật dạy quét cái tâm của ông ta thì ông chỉ dùng cái pháp hướng mà nhắc. Nhưng mà lúc bấy giờ ông là người tha thiết tu, cho nên ông không còn nghĩ ngợi điều gì nữa. Cũng thiết thực nữa, cho nên ổng cứ nỗ lực tối ngày ông nhắc, thì cái tâm của ổng thanh tịnh thôi.
Có thời gian sau thì ông tu xong, thì rõ ràng là chỗ đó rồi. Còn bây giờ cái tâm của mình nó còn lúng tung lắm, coi vậy chứ mình tu chớ nó còn nhiều phóng dật nhiều, cho nên vì vậy phải khép chặt mình.
Bây giờ cái mục đích chính là chỗ chúng ta tu, là làm sao mình độc cư trọn vẹn, ít ra phải một năm không có tiếp duyên ở bên ngoài.
Đó khi mà mình độc cư đó, mình độc cư nó sẽ tuôn trào. Cái vọng tưởng của mình nó tuôn ra, tuôn ra hết. Nó tuôn ra hết mà mình đừng tiếp duyên vô. Mà mình tiếp duyên thì nó nhét vô trở lại. Tiếp duyên vô thì cái đầu trống của mình nó sẽ nhận trở lại. Còn mình không tiếp duyên thì cứ, trong cái thời gian mình sống độc cư thì nó tuôn.
Nó tuôn ra thì mình chỉ còn cái tác ý để mình quán thôi, mình quán mình xả tâm mình thôi. Xả những cái niệm đó để giữ cái độc cư của mình đừng có vi phạm vào cái độc cư. Thì cái thời gian mà mình không vi phạm vào độc cư đó, tức là mình không tiếp duyên ra ngoài. Thì lúc bấy giờ đó mình quán mình xả được cái tâm nó thúc đẩy mình đi.
(26:52) Nhất là thậm chí như cái thân của mình nó cũng là cái trắc trở cho mình trên cái bước đường mình tu nữa. Nó sanh ra bệnh. Nhưng mà trong cái thời gian tu thì quyết liều chết, không sợ bệnh. Chứ còn không mình bị, nguy hiểm lắm. Thí dụ như bị bệnh cái mình lo mình đi trị bệnh, đi trị bệnh tức là mình ra ngoài tiếp duyên. Tiếp duyên thì tức là mình bị động rồi, mình không có xả hết tâm mình, nó đặc biệt.
Bây giờ ở đây, cái chú Mật Hạnh đó, chú đó Thầy khép, Thầy bắt buộc là khép ba năm độc cư đó. Thì trong khi ba năm độc cư thì có một năm thì nó quay vô, tự động nó quay vô. Nó luôn luôn nó định ở trên cái hơi thở, coi như là nó nhập Sơ Thiền rồi đó. Nó là đang ở cái trạng thái Sơ Thiền rồi, tâm định rồi. Nhưng mà cái thân bệnh. Thầy trong lúc đó Thầy mới bảo nó, nó chỉ có cái đi cầu là không được thôi, nó bón đó.
Thì nó xin Thầy đi bác sĩ, Thầy nói “lúc này là lúc con phải liều chết, có một lần chết thì mới có một lần sống.” Nó không nghe nó nói “Thầy nuôi con mà bây giờ con bệnh mà Thầy không lo cứu chữa, để con phải chết.“ Thầy nói “Thôi được, con cứ đi đi, nhưng mà công trình của con ba năm, thì trong một năm là nó đã, coi như là ảnh hưởng sức thức tỉnh của tâm rồi. Mà con bung ra thì nó sẽ, tâm nó không thức tỉnh, chắc chắn nó sẽ…”
Nó bung ra đi bệnh viện. Đi bệnh viện thì bệnh viện cũng đâu có thấy bệnh. Nó thuộc về loại tưởng ma rồi, thành ra nguy hiểm phát sinh. Cuối cùng rồi thì bây giờ nó phải bắt đầu trở lại hết. Bắt đầu trở lại là khó lắm, không phải dễ như hồi trước kia. (Tu sinh: lúc nó liên tục liên tục, nó dễ)
Cho nên đây là những cái kinh nghiệm. Chú Minh Tông hồi đó về ở cái thất ở bên chỗ Sư Nguyện. Chú đó ở năm năm với Thầy, mà năm đầu Thầy bắt độc cư một năm, không giao tiếp. Chú nhớ vợ nhớ con quá, chú xin Thầy Tết thì cho chú về dưới đó. Thầy nói nếu mà tu như vậy sẽ uổng công của con.
Cho nên một năm mà chịu đựng một năm không gặp vợ con, bỏ hết mà, là cả một vấn đề. Đúng là, Thầy nói cả một cái công phu mà chịu đựng như vậy đó, tu tập như vậy, thì thấy nó bỏ đi về thì nó quá uổng đi. Nhưng mà nó không nghe, thành kéo dài cái thời gian. Thầy nói thôi, đạo Phật không dạy vậy thì con cứ, cuối cùng không được.
(29:36) Nghĩa là sau khi đó nó cũng nghe, nó tịnh chỉ hơi thở. Bởi vì đọc ở trong kinh Tăng Chi - Tương Ưng, Phật thường hay nhắc về cái Thiền mà Tứ Thiền mà tịnh chỉ hơi thở. Thì nó cũng đọc nó cũng thấy rõ phải tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền, cho nên nó gom tâm. Nó có cái sức gom mạnh lắm, một tiếng hai tiếng đồng hồ không vọng tưởng, rớt vào trong những trạng thái Tưởng.
Nó cảm giác như là nó ra lệnh, tức là nó dùng pháp hướng nó bảo thân bay lên. Nó cảm giác như ở, hồi trong Định là nó thấy thân bay trên nóc nhà mà, thân này bay lên trên mà. Nó nói nó có Thần thông rồi. Nó trình với Thầy rằng, cho nên con chỉ còn một chút xíu nữa là con sẽ tịnh chỉ hơi thở là con ngưng.
Cho nên vì vậy mà nó bắt đầu nó thở chậm, nó thở chậm rồi nó ngưng, nó nín thở, tập nín thở. Thầy nói không có được, để tự động cái thân của con chứ còn con tập là không được. Cái điều kiện hơi thở quan trọng cho cái sự sống chết của con. Nó không nghe. Nó tập lần thứ nhứt, nó thấy khi mà cái hơi thở nó thở nhẹ chậm thì nó hướng, thân nó ra lệnh là nó bay được. Nó cho rằng có Thần thông rồi, nó không sợ.
Bắt đầu nó suốt trong một tháng, nó không nghe lời Thầy. Suốt trong một tháng nó ở trong thất nó nổ lực nó tu tịnh chỉ hơi thở. Thì sau tháng đó nó khạc, một hôm đó nó khạc ra máu, nó khạc ra mấy miếng máu. Nó tịnh chỉ hơi thở nó ngưng, mà nó kéo dài cái hơi thở nó ngưng một phút hai phút rồi đó. Thấy kinh lắm, sợ lắm. Do đó Thầy mới nói không được, con phải xả ngay cái pháp hành đó, không có được tu vậy nữa, con phải theo đúng cái pháp của Phật dạy, phải ly dục ly ác pháp. Trong cái cuốn năm Thầy có nhắc đến Minh Tông đó.
Lần thứ hai nó nghĩ đến thần thông, mà nó cứ nghĩ tới thần thông, nó thấy rõ ràng nó bay được mà. Cho nên vì vậy mà nó tiếp tục nó khạc ra máu. Lần thứ hai là nó khạc nhiều hơn. Nhưng mà tới lần thứ ba là nó khạc ra đống đống. Thầy nói khạc đống đống vậy. Nó ảnh hưởng tới những cái mạch máu trong phổi hay như thế nào Thầy không biết, bởi vì nín thở nó ảnh hưởng những cái mao quản.
Cho nên cuối cùng thì Thầy bảo đình chỉ ngay liền. Nhưng mà đình chỉ ngay liền thì ít hôm nó bị bệnh, bệnh phổi đó. Vi trùng phổi nó sẵn sàng, nó đã có sẵn mà bây giờ, cái phổi mình nó bị tổn thương rồi thì nó đánh vào liền. Bởi vì gây tổn thương đứt mạch máu ở trong đó rồi, thì nó theo những chỗ đó mà nó tác động. Thì Thầy, hôm đó nó _ ở thất của Thầy, thất của Thầy thất giữa đó _ cái thất nó bên đó đó, Thầy nghe nó ho nhiều.
(32:12) Sáng ra Thầy qua Thầy hỏi: “Tại sao đêm nay con ho vậy?” Nó nói: “Nay con không biết làm sao mà nó ho. Tại vì đầu này kia sao nó nghẹt cổ, nó bắt con phải ho như vậy, suốt đêm nay tu không có được”. Thầy nói: “Con phải đi bác sĩ liền, chớ không được. Cái điều kiện mà con cãi Thầy, con phải đi bác sĩ”. Sáng Thầy sai Mật Hạnh lấy xe Honda chở đi ra bệnh viện chụp phim, rồi thì ở ngoài đó nó xác định là phim bị nám. Nó không biết là mình như thế nào, phim bị mấy cái lỗ.
Thầy bảo Mật Hạnh đưa nó đi xuống cô Cúc Hương. Cô Cúc Hương là bác sĩ chuyên môn về bệnh phổi, cô làm dưới bệnh viện Hồng Bàng đó. Đưa xuống dưới, cái đưa phim phổi, cô nói cái phổi nó bị cái lỗ lớn như vầy, nó tới mấy phân, chứ không phải ít. Nghĩa là cái đường kính của nó, nó có cái lỗ ở trong phổi, mà hai chỗ. Thầy bảo phải đi trị bịnh, chứ còn không cách gì, mà xả hết không được tu nữa. Con thấy không, nguy hiểm ghê gớm.
(33:20) Cho nên mình đừng có nghĩ rằng mình ức chế, mình vô Định mà nguy hiểm. Nó, ví dụ như nó ức chế, nó do mà ức chế quá độ của cái đường hô hấp, nó ảnh hưởng phổi. Mà ức chế quá độ của cái thần kinh của mình nó sẽ rối loạn nó điên. Căng quá nó cũng điên, nguy hiểm lắm. Cho nên tu theo đạo Phật, Thầy cứ dặn là phải giữ cái tâm tự nhiên, hơi thở cũng tự nhiên.
Chỉ khi mình mới tu đó, mình tập hơi thở chậm nhẹ, một hơi thở chứ không được thở nhiều, thở nhiều là cũng nguy hiểm lắm. Thở chậm nhẹ để cho tâm mình nó quen mà nó gom thôi. Sau đó mà nó gom được rồi, thì mình chỉ ra lệnh: “Tâm phải tập trung trong hơi thở, biết hơi thở ra vô”, mình nhắc vậy. Cái hai mắt mình nhìn xuống chóp mũi, cái bắt đầu thấy nó nằm đó à, nó biết hơi thở ra vô ra vô là biết nó đã quen rồi.
Mình ra lệnh cái bắt đầu thấy nó tập trung đó, hai mắt nhìn xuống cái chóp mũi mình. Cái thì bắt đầu thấy cái tâm nó ở đó nó thở ra thở vô, nó không có một niệm vọng tưởng, là biết tâm mình nó đã quen rồi, nó đã quen ở cái chỗ tập trung rồi. Từ đó thì mình sẽ nghe thân tâm, mình quan sát thân tâm im lặng tốt rồi, thì bắt đầu dùng pháp hướng tác ý. Như Lý Tác Ý, cứ vậy thôi. Chỉ có bây nhiêu đó thôi thì mình sẽ thành tựu cái chuyện lớn hơn.
(34:39) Sư Phước Nhẫn: Bây giờ con nhắc lại Thầy. Một khi mà mình ngồi thiền một phút đồng hồ. Sau khi một phút rồi mình ra, xả thiền. Ra rồi mình làm cái gì?
Trưởng lão: Ra rồi mình ngồi mình nghỉ chơi. Chớ không có đi tập trung mà đi kinh hành để tập trung nữa, không có. Ngồi nghỉ chơi, ngồi dựa vách, thí dụ mình không có ngồi ghế, mình ngồi dựa vách mình chơi, coi như là mình nhắc tâm thư giãn, nghỉ. Rồi mình ngồi đó mình ngó trời ngó đất mình chơi, mình không nghĩ gì hết. Rồi nó muốn nghĩ gì đó nó nghĩ, mà nó không nghĩ thì nó nghe tâm nó rỗng rang thanh thản lắm.
Thường thường là mình tu là cái tâm mình nó, khi mình xả ra nghỉ nghe nó rỗng rang, nghe nó nhẹ nhàng lắm. Còn mình tu chứ rồi mình dụng công, có ít nhiều gì thì cũng phải có dụng công, chứ đâu có được thanh thản. Mình tới giờ mình thư giản ra rồi mình mới thấy, tâm mình với vạn hữu, với ánh sáng, với cây cỏ vây quanh, nó bàn bạc nhau, cái tâm nghe nó rỗng rang dữ lắm. Mình bảo thư giản nghe nó khoẻ.
Sư Phước Nhẫn: Mình phải bảo nó?
Trưởng lão: Mình phải bảo nó, bảo nó thư giãn. Mình dặn nó, mình bảo "Cái tâm thư giản, buông xuống hết đi, đừng có nghỉ ngợi, đừng có tập trung, đừng có gom gì nữa hết, ngồi thư giản". Cái bắt đầu nó nhìn trời nhìn đất nhìn mây, mình nghe nó rỗng rang vô cùng.
Sư Phước Nhẫn: Rồi bao lâu mình mới…
Trưởng lão: Rồi bắt đầu bây giờ, mình không cần có cái thời gian quy định, quy định là lúc nào mình tu. Mình ngồi đó, bây giờ muốn tu thì vô ngồi tu. Vậy thôi. Mà hễ mình thấy được rỗng rang nghe nó nhẹ nhàng, thư thái thì mình cứ ngồi đó cỡ mấy tiếng cũng thây kệ. Nhưng mà hễ nó muốn tu là vô tu, chớ không bắt buộc đâu. Nhưng mà nó ngồi đó mà nó lăng xăng nó nghĩ chuyện này chuyện kia thì không được, đi kinh hành liền, lập tức trở lại.
Tức là nó ngồi rỗng rang thì được, mà nó ngồi nó thư giản thì được. Mà nó ngồi mà nó, mình ngồi chơi lâu một hơi cái thì mình bị. Cho nên hể khi bị thì mình bắt buộc nó phải tu, đi kinh hành. Đi kinh hành xong rồi bắt đầu ngồi lại thư giản nữa. Nó có cái khoảng thư giản bởi vì nó cái Định Thư Giản, cái Định Sáng Suốt nó làm cho chúng ta sáng suốt lắm. Nó yên lặng, nó giữ yên lặng, nó sáng suốt, nó không bị dụng công ở chỗ nào cho nên nó vô sự đó, thì cái định đó là Định Sáng Suốt.
(36:48) Do khi mà mình tu như vậy đó thì, mình đứng dậy mình đi kinh hành rồi, rồi mình ngồi xuống thư giản nữa, phải có cái thời gian nghỉ. Chứ không phải là đứng dậy đi kinh hành rồi, cái vô ngồi xếp bằng tu nữa thì không được. Bởi vì nó dụng công cái này, rồi tới dụng công cái khác, nó mệt. Nó làm cho mình mất giải thoát, mất an ổn. Đó thì mình dụng công phải cho đúng cách, tu có lúc tu có lúc nghỉ, chứ không phải lúc nào cũng tu hết.
Cho nên đừng nghĩ rằng đi đứng nằm ngồi, vì niệm Phật hay đi đứng nằm ngồi? Con người mình nó có sức có hạn, mình không thể nào như Thánh được đâu. Người ta đi đứng nằm ngồi mà thiền là tại vì người ta thiền rồi. Còn mình chưa có thiền, chưa có định gì hết vì mình là người đang tu tập.
Cho nên, mà tu tập thà là một phút mà có chất lượng hơn là mình tu mà không làm chủ. Mình tập đây là cách thức mình tu thiền là muốn tập làm chủ. Thiền có nghĩa làm chủ cái ý muốn gì ở trong cái Định đó, để cho mình làm được cái chủ gì của cái cơ thể thân tâm của mình. Chứ không phải là Thiền Định để mà Thiền Định.
Còn mình cứ ngồi Thiền Định để mà Thiền Định thì nó có nghĩa gì? Cho nên thí dụ như "Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu". Chớ không phải trên thân quán thân để quán cái thân đó không, để khắc phục cái tham ưu. Phải hiểu được trong Tứ Niệm Xứ mà, nói mà, "Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu", hay "Trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu", chứ không phải trên tâm quán tâm để biết quán tâm đó, không phải. Phải hiểu cái chỗ ý của bài kinh nó như vậy, thì mình sẽ tu nó có kết quả. Mình biết cái chuyện mình làm đây nó sẽ làm cái gì? Chứ không phải làm cái này để biết cái này.
(38:24) Cho nên trong khi đức Phật nói, nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định để mà biết Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định thì không có nghĩa. Mình nhập cái Định đó để biết cái Định đó thì không có nghĩa. Mà nhập cái Định đó để làm cái gì, giải thoát cái gì cho đời sống của mình thì nó mới có nghĩa.
Cũng như bây giờ mình nhập Sơ Thiền, đâu có phải ở trong cái trạng thái Sơ Thiền. Mà ở trong trạng thái Sơ Thiền là cái mục đích ly dục ly ác pháp, chứ không phải là Sơ Thiền. Tại vì ly dục lý ác pháp thì nó phải có cái trạng thái đó, chứ không phải là đi tìm cái trạng thái của Sơ Thiền, để mà ly dục ly ác pháp. Mà chính ly dục ly ác pháp mới chính, mà còn cái Sơ Thiền chỉ là một trạng thái để chỉ cho mình ly dục ly ác pháp.
Đó, còn cái mục đích của Nhị Thiền, là mục đích để chúng ta đạt được cái mục đích của nó là cái làm chủ được cái gì? Cái kia làm chủ cái Tâm, cuộc sống của mình làm chủ cái Tâm. Cho nên nó bất động trước cái pháp, nó không có động, do ly dục ly ác pháp nó không động. Nhưng mà đến khi mà làm chủ cái thân này, đừng cho già, tức làm chủ cái già chứ gì? Thì cái mục đích của nhập Nhị Thiền diệt Tầm Tứ để mà làm chủ cái già, chứ không phải để biết cái diệt Tầm Tứ này.
Phải thấy rõ chứ. Bây giờ thí dụ như mình ngồi đây mà cái miệng không nói này, cái ý không khởi này, tức là nó diệt Tầm Tứ rồi thì nó làm sao có Tầm có Tứ nữa? Tức là cái ý mình hoàn toàn nó không có Tầm Tứ nữa rồi. Mà bây giờ mình ngồi đây bất động, cái thân không động, phải không? Cái miệng không nói, phải không? Cái ý nó không khởi niệm gì, bởi vì nó diệt Tầm Tứ rồi.
Cho nên ba cái chỗ hoạt động của Nhân Quả nó không có hoạt động được nữa. Nó không hoạt động được thì cái thân Nhân Quả nó không có già, đó là làm chủ cái già. Thì cái mục đích của Nhị Thiền là làm chủ cái già, chứ không không phải mục đích của Nhị Thiền để mà diệt Tầm Tứ. Cái chuyện làm của nó ở đây mà cái kết quả của nó ở chỗ nào? Phải thấy.
(40:31) Còn cái mục đích của Tam Thiền là ly Hỷ là làm chủ cái gì? Chứ đâu phải ly Hỷ để mà nhập Tam Thiền để biết cái ly Hỷ đó không. Ly Hỷ nhập Tam Thiền là làm chủ cái giấc mộng, không còn chiêm bao nữa. Ly Hỷ tức là Hỷ tưởng. Nghĩa là mình ly hết cái tưởng thì tức là không mộng, cho nên nhập Tam Thiền là người đó hết chiêm bao. Cho nên dục tưởng thì nó không còn nữa, nó ở chỗ Tam Thiền. Chứ còn không cái ý dục của mình nó đã diệt, mà cái dục tưởng còn thì chúng ta bị chiêm bao. Cũng như bây giờ mình ngồi, mình ức chế cái tâm mình không cho ý khởi, tức là Ý dục không có, thì nó phải sanh ra Tưởng dục.
Cho nên người mà mới tu, mình vừa tu mà vọng tưởng thấy nó không còn nữa. Ngồi tu, thì nó, mình vừa chợp mắt là có chiêm bao, vừa chợp mắt là có chiêm bao, nó đi qua khỏi đó. Nó thực hiện qua cái. Thay vì cái tâm lăng xăng thì nó thực hiện qua cái Tưởng, cái mộng tưởng. Đó thì nó rõ ràng nó đi. Cho nên Tam Thiền là mục đích là diệt cái Tưởng, diệt cái Tưởng hết, cho nên chiêm bao không có. Rồi bắt đầu mới Tứ Thiền, mới làm chủ cái thân.
(41:40) Bởi vậy, mà khi mà hết Tưởng, thì người đó mới làm chủ cái bệnh, thường thường minh bị bệnh Tưởng. Đó cho nên Mật Hạnh là trường hợp bị bệnh tưởng. Bệnh đó không thuốc thang trị, ông bác sĩ bó tay. Nó bị thọ tưởng rồi. Cho nên khi đó, mình không bệnh mà mình tưởng mình thành bệnh. Cho nên cái mà người ta nói cái gì đó thì nó ảnh hưởng cho mình. Mà ảnh hưởng cho mình, mình nghĩ mình sẽ bệnh.
Thí dụ như bây giờ mình không có bệnh phổi nè, mà ông bác sĩ ổng nói mình bị bệnh phổi rồi. Thì cái ảnh hưởng đó, cái ảnh hưởng lời nói đó mình tin ông bác sĩ, ít hôm mình bị bệnh phổi à. Đó là một cái bệnh, bệnh đó nó thuộc về tưởng nhiều hơn, nó ảnh hưởng đến cái thân.
Còn khi mà làm chủ cái chết, thì lúc bấy giờ đó là phải tịnh chỉ hơi thở làm chủ hơi thở. Mà làm chủ hơi thở, tịnh chỉ hơi thở để làm gì? Để làm chủ cái sự chết của mình. Mà nếu mình tịnh chỉ hơi thở không được thì không làm chủ được sự chết. Cho nên cái mục đích Tứ Thiền không có nghĩa là để mình nhập Tứ Thiền để mình tịnh chỉ hơi thở chơi, mà chính là để mà làm chủ cái chết của mình.
(42:51) Còn cái Tam Minh, Lậu Tận Minh để mục đích nó là để quét sạch cái mầm tái sanh, cho nên mới thực hiện Tam Minh. Chứ còn không, ai mà thực hiện Tam Minh làm chi? Nó có phải có, nhưng mà trên cái bước đường mà thực hiện Tam Minh, thì nó phải có Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh mới tới Lậu Tận Minh. Mình tu như vậy thì nó mới có cái hướng mình đi, chứ còn không thì mình không có hướng mình đi.
Cho nên thí dụ như bây giờ Thầy nhập Tứ Thiền, Thầy cũng chỉ ở trong trạng thái của Tứ Thiền Thiên thôi chứ. Cảnh giới Thiên trong Tứ Thiền, chứ nó đâu có làm sao mà chấm dứt được tái sanh luân hồi. Cái mầm tái sanh nó còn mà, tức là Lậu Tận Minh nó chưa có thì nó vẫn tiếp tục tái sanh. Nó hết cái phước ở trong cái Tứ Thiền Thiên này rồi. Mặc dù là cái Tứ Thiền là nó tịnh chỉ hơi thở, thì nó có cái trạng thái của Tứ Thiền Thiên, chứ đâu phải nó là Niết Bàn đâu.
Sư Phước Nhẫn: Chưa tới Niết Bàn?
Trưởng lão: Chưa. Bởi vì Niết Bàn là phải diệt hết cái mầm tái sanh luân hồi kìa, nó mới là cái trạng thái Niết Bàn, nó mới thật sự. Cũng như bây giờ mình ly dục tức là mình, tâm mình bất động, mình làm chủ được cái tâm của mình thôi chứ, sự thật nó chưa phải là cái Niết Bàn đâu. Bởi vì cái mầm mà tái sanh nó còn, mặc dù là thiện nó cũng vẫn còn.
(44:01) Đó, cho nên vì vậy trên bước đường tu nó phải đi từng bước căn bản. Thầy mới nói, nếu mà theo Thầy thì cứ dẹp quách hết tất cả mọi cái. Bây giờ mình thấy mình có được sự tỉnh thức, mình từ lâu tới giờ mình có sự tỉnh thức, thì mình không có dẹp. Mình lấy cái sự tỉnh thức đó, mình dùng pháp hướng kế tiếp mình xả.
Còn bây giờ nó cứ tạp niệm, nó lăng xăng, nó cái này cái kia. Rồi sống độc cư, rồi nó mới tuôn trào ra những cái vọng tưởng nhiều quá, mà mình không có sử dụng được, cho nó yên tĩnh mình được. Hể mình sống một thời gian mà nó, không ai nói chuyện với ai rồi bắt đầu nó tuôn. Nó sẽ, nó mạnh lắm, cái lực của nó, bởi cái lực đời của nó mạnh, nó sẽ tuôn.
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 06: CÁCH THỨC NHẬP BỐN THIỀN
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Thời lượng: [44:52]
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh, Sư Phước Nhẫn
Tên cũ: 03B-TamTuonTrao
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-06-cach-thuc-nhap-bon-thien.mp3
(00:06) Thầy nói thậm chí như trong thời gian mà mình độc cư, phải nhớ: Mình không tu gì hết thì mình không có pháp tu, thì mình chịu không nổi với sự tuôn trào của tâm. Nếu không có Định Vô Lậu, không có Định Niệm Hơi Thở, không có đi kinh hành thì mình chịu không nổi. Nó sẽ thay thế hai cái: loạn tưởng với hôn trầm. Hễ nó hết loạn tưởng thì nó bắt đầu nó hôn trầm. Nghĩa là mình sống một mình rồi mình sẽ biết cái đó. Mà mình có pháp tu: Định Niệm Hơi Thở nè, đi kinh hành nè, Định Vô Lậu nè, mỗi niệm nó lên đều tùy theo cái niệm đó mà mình quán vô lậu hay hoặc là mình nương vào hơi thở để cho nó đừng tuôn ra nữa. Hay hoặc là đi kinh hành để nó bớt tuôn ra nữa, để mình chịu đựng được cái thời gian mình sống độc cư ở trong thất.
Chừng nào mà hoàn toàn nó hết phóng dật, tức là nó không phóng ra nữa, cái đó gọi là tâm phóng dật. Còn tâm duyên cảnh nó khác, tâm này tự nó phóng ra, cho nên tâm phóng dật. Khi mà nó hết phóng dật rồi thì tự nó định lại; lúc bấy giờ chúng ta mới gọi là ly dục ly ác pháp. Nó định, nó định được là nó ly dục, nó mới nhập được Sơ Thiền của nó.
Sư Tuệ Tĩnh: Đó là tới Sơ Thiền…
Trưởng Lão: Ờ nó Sơ Thiền…
Sư Tuệ Tĩnh: Chứ không phải Sơ Thiền là mình ngồi nó định…
Trưởng Lão: Cái đó không có đâu, mình ngồi mình. Tới chừng nó định rồi, Thầy nói thực sự tới chừng nó định rồi, đi nó cũng ở trong hơi thở, không cần lưu ý bước chân đi. Nó định vô cái hơi thở của nó, định nội thân của nó, Thân Hành Nội của nó. Nó định vô cái hơi thở. Tới khi mà cái hơi thở mà nó yên lặng quá, đến khi mà cái nhịp tim đập nó cũng nghe, mà cái mạch máu nhảy nó cũng biết.
Đó, cái đó là cái Sơ Thiền của nó sâu rồi. Nghĩa là cái vi tế nhất là của Sơ Thiền là lúc bấy giờ nó nghe trong thân hoạt động của nó, ngay cả bộ óc rung động ở chỗ cái nhóm nào nó cũng biết cái nhóm ấy nữa. Nghĩa là bây giờ cái đầu của mình nó rung động ở chỗ nào mình không biết, mình chưa biết đâu, mình chỉ biết có hơi thở. Nhịp tim của mình, mình cũng chưa có nghe được đâu, phải không?
(02:11) Nhưng mà sau đó, mình vừa nghe được cái hơi thở, mà đến cái nhịp tim mình vừa nghe thì cái hơi thở mình không có lưu ý đến hơi thở, nó vi tế nó đi vô, nó đi nó trụ ở trong cái hành động thân của nó sâu rồi. Nó nghe nhịp tim đập. Rồi tới chừng đó nó không nghe nhịp tim đập nữa, nó nghe mạch máu nhảy. Mạch máu trong thân mình nhảy chỗ nào, chỗ nào nó nghe nhảy bịch, bịch, bịch chỗ đó vậy đó. Nó chạy, cái lưu thông cái mạch máu mà nó chạy chỗ nào nó nhảy bịch, bịch, nghe nó đi, đi…. Đó là cái hoạt động ở trong thân, cái mạch máu nó luân lưu. Còn mình bây giờ thì mình không nghe nó được đâu. Rồi sau cái nghe được cái mạch máu của mình nhảy rồi, thì bắt đầu nó nghe được cái bộ óc nó rung động. Nó đang hoạt động ở trên đó, mà nó rung động ở chỗ nào thì mình biết ở chỗ đó.
Ví dụ bây giờ con mắt mình nhìn cái cây đó thì mình thấy nó rung động ngay chỗ đó liền. Nó vi tế lắm, cái Sơ Thiền nó những cái đặc biệt lắm. Bởi vì hoàn toàn nó có tầm ý mà. Hễ mình lấy mắt mình, bởi vì mình còn tác ý mà, tác ý mình nhìn cái cây đó thì mình nghe chỗ đó nó rung động. Tức là cái tâm nó trụ, nó định vô chỗ đó, thấy được cái rung động đó.
Cái đầu của mình một lát nó rung chỗ này, một lát nó rung chỗ này. Mình ở được cái Sơ Thiền thấy nó rung. Người ta, cho nên hầu hết là người ta chưa có ai nhập Sơ Thiền, cho nên họ không biết. Chỉ có nói bậy bạ định gì đâu không à. Họ chưa biết cái… Cho nên khi nó định vô hơi thở rồi, mình đi nó cũng định vô hơi thở, mình ngồi nó cũng tự động nghe nó biết hơi thở. Không bao giờ nó lìa khỏi hơi thở, gọi là nó định trên thân nó rồi, tâm định trên thân. Cái Sơ Thiền, mục đích là mình đi vào cái chỗ ly dục ly ác pháp để cho nó định vô thân, cái tâm định.
Còn cái thân định thì nó phải trải qua ba cái giai đoạn định nữa là từ cái Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, đó là nó trải qua ba cái đó nó mới thân định.
Nếu mà cái Tầm Tứ mà nó không diệt thì không thể nào mà tịnh chỉ hơi thở được. Mà cái Tưởng, cái ly Hỷ nó không ly được thì cái hơi thở không tịnh chỉ được, nó phải, bởi ba cái định này nó một loạt với nhau. Hễ cái này được, cái này được thì cái Tứ Thiền này mới được. Còn cái Nhị Thiền không được thì Tứ Thiền cũng không được. Tịnh chỉ hơi thở ngang xương cũng không được. Mà cái Tam Thiền không ly Hỷ được thì cái Tứ Thiền cũng không làm được, ba cái này nó một lượt.
(04:23) Còn cái này nó do ly mà có, cho nên cái này nó thuộc Giới, nó rất khó. Còn cái này thuộc Định, cái nhóm này nhóm thuộc Định. Còn cái Tuệ của Tam Minh nó khác. Giới, Định, Tuệ mà, nó khác nó phân rõ. Cho nên nói khi mà diệt Tầm Tứ thì mới Định sanh Hỷ Lạc. Còn hồi nãy do ly dục sanh Hỷ Lạc, nó khác, nó không giống.
Bắt đầu Nhị Thiền nó mới Định sanh Hỷ lạc, còn cái Sơ Thiền nó chỉ do ly dục sanh Hỷ Lạc.
Sư Phước Nhẫn: Cách đây khoảng bốn, năm năm lúc con vô ngồi thiền, khoảng năm phút tự nhiên tim nó đập rất mạnh. Hồi đầu không có nghe, mà vô ngồi năm phút sau nghe phình, phình… Nghe rõ thật rõ, con giật mình không biết tại sao, mọi lần mình ngồi đâu có, sao bây giờ tự nhiên ngồi thời nào cũng nghe hết. Con trình thiền sư thì thiền sư nói “tiến bộ”. Ủa, bộ mình bệnh tim hay sao mà nghe nó “tiến bộ”? Nói vậy chứ hồi đó hằng ngày ngồi có nghe tim đập đâu, vô đây ngồi nghe tim đập là tiến bộ đó chứ. Con cũng không biết làm sao, con xin hỏi Thầy đây là tình trạng Tưởng hay là cái gì, lúc đó con đâu có Sơ Thiền hay cái gì đâu?
Trưởng Lão: Cái đó là Tưởng, bị Tưởng. Bởi vì trong khi Tưởng nó cũng thể hiện ra những cái điều kiện trong nội thân của mình nó có. Cho nên mình chưa có ly dục ly ác pháp mà tại sao có những cái này? Là Tưởng.
Sư Tuệ Tĩnh: Mình không nghĩ gì, tự nhiên nó nhảy à.
Trưởng Lão: Nó nhảy, mình không có tưởng ra, nhưng mà cái trạng thái Tưởng nó hoạt động ra, hiểu không? Bây giờ mình xét nè mình chưa ly dục ly ác pháp, giới luật mình chưa nghiêm chỉnh, mà tại sao nó lại có những cái này? Thì cái này là nó không phải là chính của cái Tâm Định đâu, mà chính Tưởng Định.
(06:10) Tưởng Định nó cũng làm cho mình thấy, nhưng mà nó là Tưởng. Bởi vì tâm mình chưa ly dục ly ác pháp. Bởi vì cái Ly dục - Ly ác nó pháp thuộc về Giới rồi. Mà Giới chưa thanh tịnh, mà sao lại có những cái trạng thái này thì mình đâm nghi. Vì vậy mà có khi được, có khi mất. Còn mình ly dục ly ác pháp thì nó được hoài. Bởi vì mình chủ động rồi.
Còn cái này, cũng như Sư có thời gian Sư thấy vậy, còn có thời gian Sư không thấy, cái đó thuộc về Tưởng. Cho nên mình xét rõ, cứ xét ngay cái Giới không thanh tịnh mà sao được cái này thì phải nói là Tưởng.
(06:41) Cho nên nó dễ lắm, đạo Phật nó dễ, nó có cái chuẩn hết. Thành ra mình cứ căn cứ vào được cái chuẩn đó thì mình biết được cái tu sai, tu đúng của mình. Mà mình không, bỏ giới luật rồi thì mình thấy, mình biết, tức là cây thước mà đo đó, mình không có cây thước đo.
Cũng như bây giờ mình muốn biết một vị Thiền sư đó tu chứng hay không, là mình lấy cây thước của Giới Luật mình đo thì mình biết ông đó là người tu đúng Phật giáo hay là không đúng. Mặc dù ông có thần thông, nhưng mà giới luật không đúng thì mình biết rằng ông này không phải. Mặc dù ông mang danh từ là Lạt Ma Phật giáo Tây Tạng, hay là Thiền tông Phật giáo Đại thừa gì đó, nhưng mà mình thấy ông giới luật không đúng là mình biết rằng ông này ngoại đạo, không phải Phật giáo.
Bởi vì Phật giáo là Giới Luật, “Giới Luật còn là Phật giáo còn”. Giới Luật còn tức là ông tu đúng, là Phật pháp còn. Cái câu nói đó có nghĩa là ông giữ gìn giới luật đúng thì Phật pháp còn là tại vì giới luật đó, ông còn ông giữ được, thì đó là Phật pháp còn. Mà giờ ông không giữ được thì Phật pháp trong ông không còn. Ông nói gì thì nói chứ ông không còn.
Cái nghĩa của nó như vậy, chứ không có nghĩa là Giới Luật còn là Phật giáo có chùa có này kia, người ta tu theo nhiều. Không phải. Mà cái nghĩa của Phật muốn nói là nếu mà ông giữ được Giới Luật thì Phật pháp trong ông còn, mà ông không giữ được Giới Luật thì Phật pháp trong ông không có. Không có thì tức là ông ngoại đạo. Ý ông Phật muốn nói vậy, tại chúng ta không suy ra cho kỹ. Chúng ta nghe nói thì như một lời thường, Phật nói như đúng như vậy. Phật giáo không có nhìn nó một cái hình tướng của nó. Hình tướng của nó như chùa này, tu sĩ đông này, hàng ngàn người…
(08:25) Mà Phật giáo nhìn ở chỗ Giới Luật để nhận xét đoán nó là người tu đúng hay sai. Có vậy thôi, Phật giáo còn hay mất là ở chỗ Giới Luật. Mà cái người mà… Cho nên khi đức Phật mà di chúc thì mới nói: "Khi mà Ta nhập diệt, thì các vị Tỳ kheo hãy lấy Giới Luật và Giáo Pháp Ta làm chỗ nương tựa vững chắc mà tu hành, lấy chỗ đó mà làm Thầy mình, đừng có nương ai hết".
Thì rõ ràng là khi mà Giới Luật còn thì ông Thầy ổng sẽ dạy mình đi vào đúng chỗ ly dục ly ác pháp thì Sơ Thiền có. Mà Sơ Thiền rồi thì Nhị Thiền, Tam Thiền, đâu phải là chuyện khó đâu, phải không? Mà Giới Luật nó là thầy mình thì nó sẽ hướng dẫn mình đi đúng vào những cái Thiền Định đúng. Mà Giới Luật không đúng rồi thì không có làm sao mà hướng dẫn mình đi đúng lối được. Cho nên lấy ông thầy Giới Luật mà làm Thầy mình thì chắc chắn là đúng. Bao nhiêu Giới Luật của Phật giữ gìn nghiêm chỉnh, cách thức tu hành để tu sao cho đạt được Giới.
Mà hễ đạt được Giới thanh tịnh thì tức là tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì nhập Sơ Thiền, tức là ly dục ly ác pháp. Nó đơn giản như vậy, chứ đâu có khó gì đâu. Mà chính mà khi mà mình tu tập mà mình dùng Pháp Như Lý Tác Ý mà cái tâm mình thanh tịnh được rồi thì cái pháp này nó sẽ sử dụng các định, nhập vô các Định, chứ không phải mình ngồi Thiền mà nhập Định được. Mình ngồi lại, mình ra lệnh nó vô, chứ không còn nữa… Bởi vì mình hồi đó mình muốn ly được nó, ly được tâm dục và ác pháp thì lúc bấy giờ cũng nhờ nó mà tác ý mà ly. Còn mình sống đúng Giới Luật là mình bắt buộc mình phải sống trong cái khuôn khổ đó để mà bắt buộc nó phải theo đó mà nó làm. Cái Pháp Hướng, tác ý, hướng tâm là bắt buộc nó phải theo đúng cái Giới Luật đó mà nó sống cho đúng.
(10:12) Cho nên hướng để cho nó sống, chứ không có gò bó ép buộc nó. Mà hướng cho nó bây giờ nó sống nó thích thú như vậy, đó là giải thoát của nó. Cho nên nó mới có giải thoát, còn nếu không mình bắt buộc mình sống trong Giới Luật một thời gian mà không có pháp tu rồi thì nó đổ vỡ hết. Cột nó không được đâu, nó sẽ bung ra, nó sẽ lén lút.
Bởi vì có một lúc mà Thầy đi bên Khất Sĩ, bên chư Tăng Khất Sĩ của tổ sư Minh Đăng Quang, Thầy đi với một số Khất Sĩ. Khi ở Chơn Không ra rồi, Thầy đi với hai vị Khất Sĩ. Qua bên đó coi thử coi cách thức người ta tu như thế nào, Giới Luật? Thật sự ra Thầy biết rằng họ hình thức, họ giữ Giới mà bên trong họ phạm. Thầy đến ở Sóc Trăng, đến ở sóc Sải, sóc Thôm, vô mấy cái Tịnh Xá của chư Tăng. Họ thì ăn một bữa, nhưng mà ban đêm nó nấu họ ăn thêm. Trời! Mấy sư mới vô đó, Thầy mới nói thiệt ra, Thầy nói nó đau lòng lắm, nhưng mà cái hình thức thiệt là gạt Phật tử, đúng. Là ban ngày thì làm cho thanh tịnh thật sự đúng cách, là đi xin đồ này kia, rồi đứng ôm bình bát. Thầy cũng ôm bình bát, nhưng mà tối đó thì mấy ông sai đệ tử riêng của mình đi mua này kia về nấu nướng rồi ăn tối như vậy. Rõ ràng là Thầy thấy thiệt là tệ, quá tệ. Thà là như bên Bắc tông nó ăn mấy bữa cũng được, mà người ta nói lên, không có làm cái xấu đó. Còn cái này cũng mang cái hình thức, che đậy như vậy mà bên trong làm chuyện tồi tệ quá.
Thầy không chấp nhận, Thầy bỏ đi liền. Chứ Thầy đến, tính khi mà rời khỏi Hòa thượng Thanh Từ thì Thầy thấy ở bên Khất Sĩ giới luật nghiêm chỉnh vì ngày ăn một bữa, sống đi xin ăn, thấy cái hạnh quá cao đẹp, cho nên Thầy đi qua đó. Mình đi qua đó, Thầy đi một vòng tới mấy cái Tịnh Xá hết rồi, Thầy thấy cái hình thức thôi, nó không có gì hơn. Thôi Thầy rời khỏi. Không biết là hồi đó mà Tổ Sư Minh Đăng Quang thì sao không biết, nhưng mà tại quý sư nhiều khi làm tội lỗi lớn quá, chỉ có hình thức che đậy. Thôi Thầy bỏ bên Khất Sĩ, Thầy không đi nữa, Thầy về tự tu thôi.
(12:20) Sư Tuệ Tĩnh: Từ đó Thầy mới về, Thầy mới lập ở đây?
Trưởng Lão: Mới lập ở đây, Thầy đi một thời gian rồi mới về đây mới cất cái thất ở đây tu.
Sư Tuệ Tĩnh: Rồi chừng đó Thầy mới nhập được bảy ngày thưa Thẩy?
Trưởng Lão: Ờ, trong cái thời gian mà ở đây suốt chín năm trời. Cái năm mà bước qua năm thứ mười thì mới có nhập được. Nhập được là trở về với cái Pháp Hướng. Nói chung là tâm mình nó cũng quyết tu, nó cũng nhuần nhã, nỗ lực trong chín năm trời ở trong thất mà tu pháp Tri Vọng của Hòa thượng. Chứ giờ đâu còn biết pháp gì nữa tu, chỉ có một pháp đó thôi.
Rồi tu như vậy, nhờ vậy, nhưng mà có điều kiện là nó sanh Tưởng quá nhiều, vì nó thần thông, phép tắc gì, nó đủ thứ, đủ loại. Thậm chí như nó có những cái trực giác, nó biết được ruột gan người ta nữa, nó hay lắm. Có lúc nó muốn làm thầy bói nữa, nó đi ra nó nói cái chuyện… Thành ra thấy nó kỳ lạ.
Nếu cuối cùng là Thầy bỏ hết, Thầy đi vào trong con đường Giới và vì vậy mà nó nhớ. Quý sư bây giờ nếu mà cảm thấy mình nó chưa có chủ động điều khiển từng bước một thì hãy trở lại điều khiển từng bước. Chứ đừng có để mà tu lềnh lềnh thì không được, nó sẽ dập chết mất đấy.
(13:29) Mình phải làm chủ, ngồi một phút, phải làm chủ một phút. Tức là mình vô đó thì mình hướng tâm, mình nhắc rồi thì tâm mình nó sẽ, cái khoảng thời gian mà một phút cái tâm nó dễ làm chủ lắm. Rồi từng đó mình tu tập, từng đó thì mình cứ dùng cái Pháp Hướng mình nhắc để cho tâm mình nó tập trung, nó gom vô cái hơi thở. Nó gom được rồi thì mình tăng dần, tăng dần lên. Chừng, Thầy nói chừng mười phút thôi, năm phút, mười phút là mình hướng tâm được, không cần tu dài hơn nữa. Nghĩa là cái tâm yên tịnh được thì mình hướng, mình xả được rồi.
(14:01) Chừng năm phút, mười phút là hai cái khoảng thời gian đó là được chứ không đợi đến ba mươi phút. Thì Thầy nghĩ rằng con người chúng ta tu tập mà để cho chúng ta được nhận thức yên lặng được, thân tâm trong mười phút nó yên lặng được, năm phút yên lặng được. Còn một hai phút đầu nó lao chao lắm, thì chưa được. Nhưng mà nó được chừng năm phút, mười phút là được rồi.
Thì lúc bấy giờ mình thấy mình không có dụng công nhiều, mà mình chỉ hướng tâm cái thấy nó vô, hơi thở ra vô, ra vô nhẹ nhàng đều đều. Khi mà cái hơi thở nó nhịp nhịp với cái tâm nó bám, thì hơi thở nó tự động nó thở đều đều, đều đều, tự nó. Còn bây giờ mình cứ hít thở thì mình không nhận ra cái sự đều đặn của hơi thở. Còn hễ nó bám thì tức là nó đều, đều. Tự nó cái hơi thở nó nhịp nhịp theo cái tâm của mình nó theo, theo, nó nương theo, nó không có rời ra. Thì lúc bấy giờ là cứ dùng Pháp Hướng đừng để cho nó vô lặng thôi, đừng có để sanh Tưởng thôi. Thì mình cứ dùng Pháp Hướng, thì lúc bấy giờ hiệu quả. Nội bao nhiêu đó tu một thời gian sau mình sẽ có kết quả.
Sư Phước Nhẫn: Mình phải bao lâu mới vô được cái đó thưa Thầy? Bây giờ mình điều khiển hơi thở cho nó quen đi. Khoảng bao lâu mình mới theo dõi hơi thở được?
Trưởng Lão: Bây giờ mình điều khiển cho nó gom, thì bắt đầu từ mình tu một phút, mình xả, mình nghỉ. Mình nghỉ rồi, mình mới đi kinh hành. Đi kinh hành tập cho nó tỉnh thức ở trong cái bước đi của mình, đặng cho nó quen, nó cũng tập trung thôi, chứ không có gì hết. Nhưng mà mình không cho tạp niệm, mỗi tạp niệm xen vô là mình gạt ra liền.
Mình gạt, đừng có để mình quán xét. Bởi vì người ta tu rồi người ta quán xét người ta xả. Còn mình người mới tu, đây là Tỉnh Thức thôi. Mới tập tỉnh thức, chứ đừng ở trong Chánh Niệm. Mình bỏ cái Chánh Niệm của mình ra đi, mà mình lấy cái Tỉnh Thức thôi, bởi vì mình tập từng phần. Chứ bây giờ Chánh Niệm Tỉnh Giác, cái Tỉnh Giác của mình thì mình chưa có mà mình lo mình ở trong Chánh Niệm thì không được. Mình phải ở trong cái Tỉnh Giác. Bây giờ mình tập Tỉnh Giác, thì mình lấy hơi thở, lấy hành động thân, thân nội, thân ngoại mình tập.
(15:55) Thì mình tập, thí dụ như bây giờ mình tập đi kinh hành cũng trong một phút, chứ đừng tập nhiều. Mình tập nhiều nó sẽ đi, vừa đi vừa loạn ở trong đó, không có được. Mình phải chủ động ở trong thời gian ngắn nhất là một phút. Còn nếu mà một phút mình chưa có làm chủ được, một phút coi vậy chứ nó cũng dài lắm, chứ không phải dễ đâu, thời gian coi vậy chứ mà cũng dài lắm.
Nếu mình chưa làm chủ được một phút thì ít ra mình cũng phải làm chủ năm hơi thở. Lúc bây giờ phải đếm hơi thở để căn cứ trong hơi thở để làm chủ. Tập dần đi lên, chứ không thể nào mà mình tu mà… Nhiều khi mình tu dài quá, thời gian dài quá rồi nó bữa thì được, bữa thì không, lộn xộn, nó mất cái sự làm chủ của mình. Còn cái này, phải ngồi vô là mày phải làm chủ, quyết định! Tức là mình phải ra lệnh mình như vậy. “Không tu thì thôi, hễ tu là phải làm chủ”. Mình ra lệnh vậy. Thì bắt đầu hít thở, là tập trung, hết sức nhiệt tâm với nó, chứ không phải tu chơi chơi đâu.
Bắt đầu hễ mình nhiệt tâm vậy thì bắt đầu nó, hễ khi nhiệt tâm mà nó gom được rồi thì nó bắt đầu nó an tịnh liền. Nó gom chưa được, nó không an tịnh; mà nó gom được nó an tịnh. Mà mình điều khiển như vậy, mình nhiệt tâm như vậy, thì hễ mình không chú ý nó thôi, chú ý nó là yên tịnh.
Cho nên tiếc là những người mà tu tập lâu, họ có cái sự chú ý yên tịnh được. Họ tập trung, họ gom vô cái được liền. Nhưng mà gom được liền thì lại rơi vào Định Tưởng. Tội cái chỗ đó, là tại vì họ đã kéo dài cái thời gian gom được lâu, rồi họ ngồi kéo dài cái thời gian ở trong đó, cho đến khi mà hỷ lạc nhồi họ bằng cách bồng lên, bồng xuống, thân họ lúc lắc đủ cách hết. Nhưng mà họ tưởng đó là cái thiền pháp, cái định pháp nó hiện tướng ra như vậy, chứ sự thật ra nó trật rồi. (17:32)
Thay vì cứ yên lặng, vừa thấy thân tâm yên lặng thì hướng tâm xả. Mà hướng tâm xả thì nó không rơi trong này được, vì nó động rồi. Mình Như Lý Tác Ý thì nó cứ yên lặng để mà tác ý Như Lý Tác Ý, tức là Chánh Niệm chúng ta có để mà chúng ta ly dục ly ác pháp rồi. Chánh Niệm của chúng ta bây giờ nó kèm vô với, nó câu hữu đó. Cho nên cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác là nó hai cái: cái Tỉnh Giác với cái Chánh Niệm, nó câu hữu với nhau lại, để nó kết hợp với nhau lại.
(18:04) Trong cái Định Niệm Hơi Thở thì Phật kết hợp cái Pháp Như Lý Tác Ý với cái hơi thở, nó rõ ràng ở trong đó. Nhưng mà nói về Thân Hành Niệm, mà đi kinh hành Phật không nhắc. Nhưng mà chúng ta biết rằng cái Tỉnh Thức này cũng phải dùng cái Chánh Niệm này. Lúc nào chúng ta cũng dùng đúng pháp thì nó mới khắc phục để mà ly tham, ly sân, ly si.
Thì mình phải thấy được cái kết quả của Thầy. Thầy nói bây giờ cứ, mình đừng có hiểu lung tung nhiều, mà ngay bây giờ là tập trung làm sao làm chủ được một phút. Mục đích của mình làm chủ được một phút, gom tâm được một phút.
Bây giờ cứ để đồng hồ đó đi, cho cái đồng hồ để đó. Bắt đầu bây giờ cái kim nó chỉ số mười hai, kim phút, kim dài nó chỉ số mười hai. "Bây giờ mày phải tu một phút". Dặn nó vậy rồi, cái thấy cây kim nó chỉ số mười hai, rồi bắt đầu hít thở. Cứ đếm hay hoặc là mình cứ để tự nhiên hít thở. "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, nhắc vậy. Rồi bắt đầu nó chỉ lại đúng số mười hai, xả nghỉ, "Tao tập, tao làm chủ".
Sư Tuệ Tĩnh: Dầu mình có định thêm, nó có yên lặng thêm cũng nghỉ luôn?
Trưởng Lão: Cũng nghỉ luôn, nghĩa là làm chủ một thời gian nhắn thôi.
(19:22) Có gì không con? vậy hả… ờ… ờ, con cho ở đỡ nhà khách, nhà khách có ai ở không? Con cho ở nhà khách đi, rồi lát nữa Thầy ra Thầy tiếp (19:50)
Thì cứ tập như vậy đi, thí dụ như trong vòng cho một tuần lễ, mà lúc nào mình cũng làm chủ được hết. Mình muốn là được, muốn là được, thì gặp Thầy, Thầy dạy tới cho.
(20:06) Sư Tuệ Tĩnh: Dạ
Trưởng Lão: Nó chắc ăn à, bởi vì ở gần bên Thầy rồi. Mà từ cái bước căn bản này tới chừng đó nó sẽ đi nhanh lắm, thời gian thu ngắn lại.
Sư Tuệ Tĩnh: Còn mình ngồi lâu mà không có kết quả gì hết thì cũng mất công
Sư Phước Nhẫn: Như vậy là mình tập điều khiển chứ chưa phải theo dõi hả Thầy?
Trưởng Lão: Chưa, chưa theo dõi, tập điều khiển thôi.
Sư Phước Nhẫn: Rồi mình bỏ ra, mình ngồi chơi, vọng niệm mạnh quá thì mình đi kinh hành…
Trưởng Lão: Đi kinh hành, nhớ vậy đúng rồi đó.
Sư Phước Nhẫn: Hết vọng niệm trở lại ngồi. Trong lúc đi kinh hành có vọng niệm thì mình cúp nó thôi?
Trưởng Lão: Cúp, xả nó.
Sư Phước Nhẫn: Khỏi tu Định Vô Lậu.
Sư Tuệ Tĩnh: Mình xả, mình nghỉ, mình xả kêu là gì? Dạ, kêu bằng thư giãn.
Sư Phước Nhẫn: Không có xài Chánh Niệm.
Trưởng Lão: Không có xài Chánh Niệm.
Sư Phước Nhẫn: Chỉ Tỉnh Giác thôi.
Sư Tuệ Tĩnh: Bắt đầu tập lại từ đầu đi Thầy.
Trưởng lão: Bắt đầu, từng phần, từng phần đặng cho mình nó từ đó mình căn bản lại. Mình thấy có căn bản này rồi, bắt đầu mình câu hữu, kết hợp lại thì nó mới được. Chứ bây giờ mình kết hợp một cách lềnh lềnh như vậy thì không được. Dậm chân mất.
Sư Tuệ Tĩnh: Dạ, thấy nó lu bu quá.
Sư Phước Nhẫn: Mấy hôm rày mình tập thấy có kết quả, con làm mười hơi thở thư coi, thấy mười hơi thở nó êm, không có sao.
Bởi vì trong sách có nói, sách An Ban Thủ Ý, tập mười hơi thở, cách đây mấy bữa con tập thử mười hơi thở, con thấy không có vọng niệm. Nhưng mà giờ để đồng hồ một phút thì coi nó ra sao, mười hơi thở đâu được một phút.
Trưởng lão: Đâu được, chưa được. Cho nên mình tu một phút đi, mình ráng thêm, một phút thôi. Chứ thực sự ra nếu mà một phút mình còn vọng niệm thì mình tu chỉ năm hơi thở hay là mười hơi thở thôi, chứ không có được hơn.
Phải lấy cái thời gian tiêu chuẩn ngắn nhất cái sức của mình, tức là đặc tướng của mình.
Hồi xưa mà Thầy lên Chơn Không Thầy tu, là Thầy có một cái sức nhiếp tâm nó cực kỳ là hơn người ta hết, mới vô tu mà ngồi ba mươi phút không vọng tưởng. Nghĩa là Thầy nương hơi thở, hơi thở ra, hơi thở vô, không vọng tưởng.
(22:04) Bởi vì hồi mà ở chùa, Thầy ở chùa bên Tịnh Độ, quý thầy đã dạy Niệm Phật, Thầy đã niệm Phật dữ tợn lắm, cho nên nó cũng được nhất tâm đó, chứ không phải không. Cho nên khi mà qua Thiền, nương vào hơi thở thấy nó cũng nhất tâm dễ dàng lắm. Như vậy là rõ ràng nó cũng có cái căn bản chỗ đó, mà có thể mình dùng Pháp Hướng sau này nó tiện lắm. Bây giờ mình không được cái chỗ này thì mình phải tập cho được chỗ này.
Thì quý Sư bây giờ mình thấy mình, mình biết mình chứ, mình không có nên mà che đậy nó. Mình phải biết mình ở chỗ nào, cái đặc tướng của mình ở chỗ nào. Đối với cái pháp này thì mình sẽ mười hơi thở, hay là hai mươi hơi thở, hay là một phút, hai phút, ba phút, mình phải biết rõ cái sức của mình. Chứ còn mình quá sức thì coi như bữa được, bữa không, thì cái đó quá rồi. Có khi nó được, có khi nó ba mươi phút không có vọng tưởng, có khi thì vô năm hơi thở nó cũng có vọng tưởng, thì cái chuyện đó là mình không làm chủ rồi.
Mà cái mục đích mình tu tập là tập làm chủ, chứ không phải là tập như vậy. Tập làm chủ, nó phải được, luôn luôn được.
Sư Phước Nhẫn: Trong thời gian này con có được đọc cuốn Đường Về Xứ Phật của Thầy, hay là nghỉ đọc luôn?
Trưởng Lão: Không, theo Thầy thiết nghĩ cứ hỏi Thầy tu thôi, hơn là đọc. Bởi vì mình đọc nó không bằng cái mình hỏi trực tiếp qua cái chỗ tu. Mà cái chỗ tu người ta dạy cho mình có căn bản đi từng bước, từng bước. Còn cái mình đọc trong đó là mình hiểu tổng quát, nó mênh mông đủ thứ. Coi như là mình thấy cái nào nó cũng tu được hết, nó lộn xộn ở trong đầu của mình, rồi không biết… Đọc rồi, thật sự mình đọc bộ sách rồi mình không biết mình tu cái gì? Cái nào mình thấy nó cũng hay, cũng được hết, không biết tu cái gì? Còn trái lại bây giờ có người Thiện Hữu Tri Thức, người ta dạy mình thì mình cứ bắt đầu cái gì người ta dạy mình thì mình làm cái nấy thôi. Mình chẳng biết cái bước đi tới nó sẽ như thế nào, mình chỉ tin tưởng người đó dẫn mình đi.
Sư Tuệ Tĩnh: Mình chỉ biết ông dẫn mình đi, mình chỉ biết ông dạy tới đây thì biết tới đây thôi.
(23:58) Trưởng lão: Tới đây thôi, mình cứ làm cái này cho được cái này rồi thì người ta dạy tới, dạy tới, dạy tới… Thì cái đó là sẽ tiến lắm. Chứ còn mình biết mênh mông rồi tới chừng đó thôi, nó khó lắm.
(24:08) Sư Phước Nhẫn: Hôm rày con đọc cuốn Đường Về Xứ Phật, cuốn VII của Thầy đó, có mấy cái thắc mắc về Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, bữa nay tính hỏi… Thôi.
Bây giờ hỏi Tam Thiền còn Tầm Tứ hay không? Trong Tam Thiền mười tám loại Hỷ Tưởng là mười tám loại Hỷ Tưởng gì? Thêm cái nữa lúc tịnh chỉ hơi thở thì mình đâu có biết gì, mà muốn biết thì phải hướng, thí dụ cái thân này nó mất đi thì mình dùng chỗ nào mà hướng được? Bộ não cũng chết queo rồi thì làm sao mà hướng? Con có nhiều cái thắc mắc lắc nhắc như vậy.
Trưởng Lão: Thật sự ra thì bây giờ thắc mắc cái đó là mình thắc mắc cái ngoài cái sức của mình, để mình hiểu chơi, chứ không thực tế.
Bởi vì thực sự ra cái hơi thở là nó thuộc về thân hành, mà diệt Tầm Tứ của mình nó thuộc về khẩu hành. Còn mình nhập tới Diệt Thọ Tưởng Định hay Diệt Tận Định thì nó là ý hành. Ý hành nó thuộc về bộ óc, còn cái thân hành nó chỉ hơi thở thôi. Cho nên trong khi hơi thở tịnh chỉ, chứ cái bộ óc của mình chưa tịnh chỉ, cho nên mình không như người chết.
Vậy mà nhập Diệt Thọ Tưởng Định, ý hành nó ngưng, mà người ta không diệt cái thân được, nó không hoại diệt được đâu, nó sẽ có cái từ trường của cái định đó, nó sẽ bảo vệ cái thân. Nó cũng giống như người chết vậy, nó toàn bộ, nó ngưng hoạt động hết mà. Nhưng mà nó có cái từ trường riêng của cái định đó.
Còn cái Tứ Thiền thì nó không có cái từ trường riêng của nó, cho nên nó còn cái bộ óc hoạt động, vì vậy mà chúng ta hướng tâm.
Sư Phước Nhẫn: Còn trạng thái Diệt Thọ Tưởng Định không có hướng tâm luôn?
Trưởng Lão: Không có hướng tâm à.
Sư Phước Nhẫn: Coi như số không…
Trưởng Lão: Nó số không hoàn toàn, bởi vì cái hoạt động của bộ não không còn, ý căn không có. Cái ý căn mình là cái bộ óc của mình, bộ não.
Có người nói ý căn là cái tâm, cái tim của mình là trật. Cho nên nhãn căn là con mắt, phải không? Ý căn là bộ não, nhĩ căn là lỗ mũi, thiệt căn là cái lưỡi của mình, thân căn là cái thân của mình. Nhưng mà cái ý căn là cái bộ não, quan trọng là chỗ ý căn.
(26:05) Sư Phước Nhẫn: Diệt Thọ Tưởng Định là coi như không còn gì hết, không có đi tái sanh gì luôn?
Trưởng Lão: Không còn gì hết… Nó coi như tiêu luôn…
Sư Phước Nhẫn: Mất luôn, cũng như con đọc mấy cuốn sách nói mấy cái xác trong cái bọng cây, người dân họ đốt làm củi, họ nhìn thấy ông đó ló ra, ông tỉnh dậy, người ta mới hỏi ổng… Người đó, người đó làm sao, kể như mấy đời rồi, ổng cũng nhập cả trăm, hai trăm năm gì đó…
Trưởng Lão: Diệt Thọ Tưởng Định nó đó, đốt không cháy à.
Sư Tuệ Tĩnh: Hỏi lại câu chuyện thì mấy ông già kể lại cái ông đó, ông đó hồi xưa, cách đây mấy đời rồi. Ủa sao vậy… Mấy trăm năm chứ ít đâu…
Trưởng Lão: Nó đâu phải ít đâu, cả ngàn năm nó cũng. Đốt không cháy, đâm không lủng. Cái Diệt Thọ Tưởng Định nó có cái từ trường nó bảo vệ cái thân nó dữ lắm, không ai làm gì được nó hết.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra còn ở đó chứ không đi đâu hết trơn.
Phật tử 3: Còn ở đó, nó không đi đâu, nó không mất, không hoại diệt nó được…
Sư Tuệ Tĩnh: Nhưng mà không được vào Niết Bàn.
Trưởng Lão: Nó không vào Niết Bàn, nó ở trong cái trạng thái…
Sư Tuệ Tĩnh: Đâu có làm cái gì đâu, không làm được cái gì…
Trưởng Lão: Nó diệt Thọ Tưởng Định nó diệt luôn.
Còn cái Tứ Thiền nó vào Niết Bàn được, nó hoại diệt, nó diệt cái thân nó, nó bỏ cái thân nó được. Người mà nhập Tứ Thiền thì tự tại sanh tử, họ hướng tâm họ đưa họ đi, bởi vì họ còn giữ được. Chứ cái tâm của họ, cái Thức của họ giữ. Cái Thức của mình, thay vì mình chết rồi, nó bị hoại diệt theo cái Thân Ngũ Uẩn của mình.
Nhưng mà cái người nhập Tứ Thiền họ giữ được cái Thức. Họ giữ được cái Thọ, cái Hành với cái Thức. Còn cái Sắc với cái Tưởng họ diệt. Bởi vì họ diệt, họ mới nhập được Tứ Thiền. Mà Tứ Thiền thì họ giữ cái Thức. Cái Thức, cái Hành, cái Thọ, ba cái này họ giữ lại. Cho nên họ hướng tâm, hướng là động mà, tức là Hành rồi đó, cho nên cái Hành của họ còn hoạt động. Còn cái Thọ là họ còn cảm giác, chứ không phải mất. Mặc dù thân họ hoại diệt hết, nhưng mà… Bởi vì khi mình ngủ chiêm bao đó, mình thấy lửa cháy, mình thấy nóng, nhưng mà nó không bỏng thân mình. Rõ ràng là thân mình không có cảm giác cái kiểu đó mà cái Tưởng cảm giác.
(28:06) Sư Phước Nhẫn: Mắt thấy làm sao xả được thưa Thầy? Tức là vô Diệt Thọ Tưởng Định không có Ý luôn…
Trưởng Lão: Không có Ý luôn, tức là mình không có xả đâu. Nghĩa là nó, thí dụ như ai làm cái gì nó động là nó bung ra thôi, nó xả ra. Còn không ai làm động nó thì nó nằm hoài đó à. Nó nằm cả triệu năm cũng chưa…
Sư Tuệ Tĩnh: Cái đó là Diệt Thọ Tưởng Định?
Trưởng Lão: Diệt Thọ Tưởng Định.
Sư Phước Nhẫn: Thế là mình hết xả luôn…
Trưởng Lão: Hết xả đó. Còn cái kia người ta còn cái Ý, cho nên người ta tác ý ra…
Sư Phước Nhẫn: Mấy kỳ đầu Thầy nhập thử rồi sao Thầy xả?
Trưởng Lão: Bởi vậy Thầy mới nói Thầy không có đủ cái duyên để mà nhập Diệt Thọ Tưởng Định. Còn nhập vào Diệt Thọ Tưởng Định thì mình phải hướng tâm nhắc nó: "Nhập vào Diệt Thọ Tưởng Định một tuần lễ rồi xả ra thử coi", dặn nó trước. Chứ không khéo nó không biết đâu, nó nằm luôn ở trong đó thì…
Sư Phước Nhẫn: Dặn người khác lại kêu mình.
Trưởng Lão: Còn không thì mình phải dặn người khác, phải đến đó, phải rung chuông, đập trống cho dữ đó, làm động nó bung ra. Mình dặn người ta, chứ còn không thì người ta cũng bỏ luôn, người ta chôn mình luôn. Phải dặn trước, còn không thì mình phải hướng tâm: "Bây giờ nhập thử Diệt Thọ Tưởng Định bảy ngày đêm thử coi, nhập rồi ra nha”, dặn nó vậy nó ra. Chứ còn mình không có hoạt động được nữa.
(29:17) Thậm chí như Thầy nói cái Nhị Thiền thôi, cái Nhị Thiền không đơn giản được đâu. Nó diệt Tầm Tứ rồi, tức là mình không tác ý ra được nữa, mình cũng không ra được nữa. Cũng phải nhờ cái lệnh truyền, bởi vậy sau này phải học những cái này hết, chứ còn không khéo mình vô rồi mình ra không được, chết luôn ở trỏng. Cái Nhị Thiền thôi, bảo: "Diệt Tầm Tứ nhập Nhị Thiền". Nó diệt rồi, nó không tác ý ra, nó ở trong đó luôn, nó ngồi đó. Nó cũng nghe, thấy, biết mà nó không nói gì được hết à. Nó không tác ý ra được. Nó còn biết, chứ không phải như Tứ Thiền. Nó còn biết, tất cả mọi cái nó còn thấy hết mà, nó đâu có gì. Nhưng mà có cái là nó không tác ý ra được thôi. Nó không tác ý ra được thì nó không xuất ra được. Cho nên phải dặn nó thôi.
(29:58) Sư Phước Nhẫn: Như người bị cùm.
Trưởng Lão: Nó như vậy đó, nó vô đó nó diệt Tầm Tứ. Đã nói diệt mà, diệt thì nó không tác ý ra được nữa. Tầm Tứ… nó không suy nghĩ gì được nữa, không tác ý ra được nữa. Mà lúc bấy giờ mình không suy nghĩ được thì làm sao mình tác ý ra được.
Sư Phước Nhẫn: Ở Tam Thiền còn Tầm Tứ không thưa Thầy?
Trưởng Lão: Tầm Tứ ở Tam Thiền đâu còn, bởi vì Tầm Tứ diệt rồi mới vô Tam Thiền được. Bởi vì nếu mà không ở Nhị Thiền thì không làm sao mà nhập Tam Thiền được. Bởi vì ba cái Thiền này nó là một loạt với nhau.
Khi mà Tầm Tứ nó diệt rồi thì cái Tưởng nó mới xuất hiện. Tưởng nó xuất hiện mới ly Hỷ, Tưởng Hỷ, đó mới ly Hỷ. Còn nếu mà Tầm Tứ không diệt thì Tưởng nó đâu có xuất hiện thì làm sao mà gọi Tam Thiền được.
Cho nên mình phải diệt Tầm Tứ, ở trong trạng thái Tầm Tứ đó mình ly nó ra, mình xả cái này ra. Để rồi mình mới ở trong cái chỗ mà đường dây hơi thở, mình mới dùng Pháp Hướng, mình tác ý ra. Chứ còn mình ở trong Nhị Thiền là mình tác ý sao được? Cho nên mới Xuất Nhị Thiền mới nhập Tam Thiền, mình phải ra khỏi cái Nhị Thiền, chứ mình ở trong đó mình đâu có tác ý được. Mình không tác ý được, làm sao mình xả được cái Hỷ Tưởng. Mà mình biết mình nhập Tam Thiền được là mình biết tịnh chỉ được Tầm Tứ rồi. Tức là dừng được Tầm Tứ rồi, mình biết rồi. Cho nên bây giờ mình phải ra, nương vào hơi thở để cho cái tác ý mình có. Nương vào đường dây hơi thở, bắt đầu đó mình ở trên hơi thở. Thì ở trên hơi thở mà mình đã diệt Tầm Tứ rồi, thì tức là ly dục ly ác pháp mình cũng ly rồi. Thì cái Thiền thứ nhất là cái Sơ Thiền, cái Nhị Thiền mình biết rồi. Thì bây giờ mình ở trên hơi thở thì nó là trạng thái của hơi thở có tác ý, có Tầm Tứ đàng hoàng, nhưng mà nó không phải Nhị Thiền, không phải Sơ Thiền. Mà nương vào hơi thở để rồi bây giờ mình mới xả, mình mới dùng Pháp Hướng mà mình ly Hỷ, mới xả mười tám loại Hỷ Tưởng. Thậm chí như nó có Ngũ Thông Tưởng ở trong đó đó, xả luôn đó, chứ không xài cái thứ Thần Thông Tưởng đó nữa, xả luôn. Nó có trực giác, nó có này kia, xả luôn hết. Thì do đó bây giờ đó, thì mình dùng cái Pháp Hướng mình sử dụng, sử dụng cho nó hết. Nó hết rồi thì bắt đầu mình thấy nó tỉnh bơ, nó không có buồn ngủ đâu.
(31:55) Lúc bấy giờ nó không ngủ, nó không ngủ thì nó không chiêm bao. Còn mình tập mất ngủ là mình bị bệnh. Còn chỗ mình cứ hướng, mình xả hướng, xả hướng, xả… Cho nên nó tỉnh suốt đêm, suốt ngày nó liên tục. Mình thấy nó không buồn ngủ, không gì hết mà cơ thể nó bình thường, nó không mệt mỏi gì hết, thì biết rằng nó đã ly Hỷ hết, tức là nó hết chiêm bao rồi.
Mình nằm xuống như vầy đó, bắt đầu đó, mình thấy nó tỉnh bơ nó không có ngủ, biết nó không chiêm bao. Nó không chiêm bao tức là nó không ngủ. Nó không chiêm… Nó không ngủ rồi, bây giờ đó mình mới ra lệnh: "Diệt Tầm Tứ nhập Nhị Thiền" thì bắt đầu nó diệt Tầm Tứ nhập Nhị Thiền, thì bắt đầu đó mình ra lệnh. Mình ra lệnh diệt Tầm Tứ rồi, thì bắt đầu đó, nó ở trong cái Nhị Thiền, cái trạng thái diệt Tầm Tứ rồi. Thì bắt đầu bây giờ mình qua bên đây mình bảo, mình ra lệnh, mình ra hơi thở mình xuất cái Nhị Thiền mình ra hơi thở mình mới bảo; "Ly tất cả mười tám loại Hỷ Tưởng, nhập Tam Thiền", cái bắt đầu nó nhập Tam Thiền, thì tịnh chỉ Tầm Tứ luôn. Ở trong cái này nó không tác ý ra được, nó hết tác ý ra. Bắt đầu bây giờ ở chỗ này đó mới là tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền.
Bởi ba cái định này nó là định rồi, nó đi một loạt với nhau. Cái Nhị Thiền, cái Tam Thiền và cái Tứ Thiền là nó một loạt với nhau. Từ cái chỗ mà Tứ Thiền này nó mới hướng tới Tam Minh mới được.
(33:15) Mà khi mình bỏ thân ở chỗ Tứ Thiền rồi, thì tức là mình không mất mình. Tức là mình muốn đưa cái Thức mình đi tái sanh chỗ nào đó. Cái mầm mống mà tái sanh nó đã diệt rồi. Tức là cái tâm tham, sân, si, cái nghiệp lực của mình đã bị diệt rồi, nó không còn nữa.
Cho nên vì vậy nó còn cái lực Đạo, cái lực Đạo là cái Pháp Hướng của mình, mình ra lệnh nó đưa đi. Mình muốn tái sanh, ví dụ như mình muốn tái sanh thì mình phải quan sát, mình dùng cái Thiên Nhãn Minh mình quan sát, coi cái chỗ nào mà mình tương ưng để mình độ chúng sanh, thì mình sẽ hướng tâm đi đến chỗ đó liền. Tái sanh lại trong cái nhà đó liền, để mà sanh lên, để mà độ người tu hành.
(33:53) Mình ra lệnh là nó đi à, ra lệnh nó tái sanh. Mình biết cái thời gian nào… Bởi vì khi mà cái Thiên Nhãn Minh mà mình có rồi, thì cái không gian này nó không có trải dài. Cho nên bây giờ ví dụ mình tái sanh ở bên Mỹ, bên Tây đều là ở tại chỗ sự hướng của mình.
Còn cái Túc Mạng Minh cái thời gian nó không có, mà mình đã thực hiện Túc Mạng Minh rồi, cho nên vì vậy mình biết cái thời gian này, là cái người này sẽ sinh con, hay hoặc là người này sẽ có bào thai. Mình biết liền và cái duyên của mình nó ở chỗ nào mình sẽ đưa cái tâm của mình để vào cái duyên đó để mà độ chúng sanh.
Sư Tuệ Tĩnh: Lúc đó là mình đã đi tịch diệt rồi thưa Thầy?
Trưởng Lão: À mình đã… Coi như là mình bỏ cái thân này rồi đó. Bây giờ đó mình mới đưa minh đi tái sanh. Còn mình không tái sanh thì mình sẽ vào Niết Bàn vĩnh viễn, coi như mình ở trỏng vĩnh viễn.
Còn như bây giờ mình muốn như thế này nữa, bây giờ tái sanh nó sẽ thành một đứa trẻ thì nó khó lắm. Bây giờ đó mình sẽ sử dụng. Bây giờ có một người nào họ làm Tổng Thống, cái ông đó đương làm Tổng Thống. Bây giờ cái ông đó còn tuổi thanh niên, mới chừng ba mươi tuổi mà vừa lên làm Tổng Thống Mỹ. Mình muốn đem Phật giáo cho nước Mỹ, bằng cách là mình thực hiện làm Tổng Thống. Lúc bấy giờ mình hướng tâm về đó, thì cái ông đó không mất cái gì hết, hoàn toàn mình… Chỉ cái trí tuệ của ổng, bây giờ ổng thích Phật giáo thôi. Ổng muốn tập trung làm sao cho Phật giáo cho tốt. Ổng nghiên cứu về kinh sách Phật giáo, nghiên tới đâu ổng thông suốt tới đó hết. Bắt đầu ổng nghĩ là phải làm thế này, thế khác. Thì đó là mình thị hiện qua vị Tổng Thống.
Sư Tuệ Tĩnh: Cái đó là thị hiện.
Trưởng Lão: Thị hiện, thị hiện qua. Thầy nói khi mà mình có Thiên Nhãn Minh, túc Mạng Minh, lậu Tận Minh rồi, thì mình sử dụng cái này, mình thấy dễ dàng vô cùng.
Cũng như bây giờ Thầy sử dụng qua Sư, thí dụ như vậy đó. Bắt đầu Thầy sử dụng qua Sư, Thầy nhập vào trong cái Tứ Thiền rồi, Thầy hướng tâm. Bây giờ Thầy bỏ cái thân này đi, Thầy nói: "Bỏ cái thân này đi để qua Sư Tuệ Tĩnh". Thì trong khi Sư Tuệ Tĩnh, cái Thức của Sư Tuệ Tĩnh hồi nào tới giờ nó vậy, nhưng mà khi Thầy đã đưa cái Thức, cái Thức là cái trí tuệ, làm cho Sư Tuệ Tĩnh không còn như hồi xưa nữa…
(36:02) Sư Phước Nhẫn: Như ma nhập…
Trưởng Lão: Y như ma nhập vậy đó, nó thay đổi vậy đó.
Sư Phước Nhẫn: Lúc đó không phải Sư Tuệ Tĩnh nữa…
Trưởng Lão: Không phải Sư Tuệ Tĩnh. Người ta vẫn kêu Sư Tuệ Tĩnh, nhưng mà cái hoạt động, cái cách thức giảng Đạo nó khác. Nó thông minh hơn, nó đủ cách, mà nó nhập định đồ…
Phật tử: nó thông minh hơn…
Sư Phước Nhẫn: Dễ hơi là vô bào thai…
Trưởng Lão: Vô bào thai nó phải trải qua cái thời gian. Còn cái này, người ta đã sẵn có, nó đang phát triển rồi, mình chỉ chuyển qua một cái Trí của mình qua bên đó thôi, thì người ta sẽ sử dụng được.
Sư Phước Nhẫn: Lúc đó là mình nằm ở trong cơ thể đó luôn.
Trưởng Lão: Ở trong cơ thể luôn, hoạt động luôn, coi như điều khiển bằng cái trí. Bởi vì cái Thức của mình mà mình giữ, tức là cái Trí. Mà vì mình giữ được cái Trí này nó bằng cái Đạo Lực Pháp Hướng Như Lý Tác Ý. Nếu không có cái Đạo Lực thì không giữ được nó đâu.
Mình đưa nó đi, tức là mình hướng tâm. Mà đưa nó đi lại chỗ khác để thực hiện cái Trí của cái người đó. Bởi vì cái người đó cái Trí họ, cái Thức của họ nó mù mờ. Mình đưa cái Trí, cái Thức của mình vô thì họ phải sáng suốt, họ thay đổi.
Cho nên nó đâu có gì đâu, cái bộ óc cũng là bộ óc y như thường. Nhưng mà khi mà đưa vào đó thì nó chỉ người ta cần, người ta làm cho bộ óc đó hoạt động cái số Thần kinh nào đó. Người đó họ chỉ có số tế bào não của họ, họ nằm im lìm, họ chưa hoạt động.
Tại vì họ tu tập chưa có tới, họ không hoạt động được cái này. Khi mà người ta hướng tâm đến đó thì nó hoạt động cái này. Bộ não của họ hoạt động, cái điều đó thì nó giống như cái ông mà đã tu chứng rồi chứ gì. Coi như người ta mượn bộ não của người khác người ta hoạt động, chứ không có gì.
Còn bây giờ mình tái sanh làm chú nhỏ, mình sanh ra nó lâu lắm, mất thì giờ.
Sư Tuệ Tĩnh: Dạ
Trưởng Lão: Cho nên Thầy cũng nghĩ rằng, cuộc đời Thầy mà làm chưa xong cái Giáo Trình Đạo Đức Nhân Quả, và cái Trung Tâm An Dưỡng nó chưa xong, cái Bệnh Viện Từ Thiện chưa xong để giúp cho con người thì Thầy có hai đường phải đi.
Cái đường thứ nhất là Thầy đã chọn là cái đường mà tìm một cái người nào đó, mình chỉ khơi dậy cái bộ óc của họ thôi. Nghĩa là mình nhập qua đó để mình khơi dậy cái bộ óc của họ, để bắt đầu họ làm việc. Sẵn họ có cái địa vị, cái thế thần của họ, họ làm việc dễ hơn.
(38:10) Còn mình tái sanh một đứa bé, mà trong cái môi trường phải lớn lên rồi đi học này kia… Mặc dù là mình thần đồng đi, nhưng mà nó còn trải qua thời gian dài…
Sư Tuệ Tĩnh: Mấy chục năm.
Trưởng Lão: Nó lâu lắm, còn giờ ta sẵn rồi, thì mình mượn đó mình xài…
Sư Phước Nhẫn: Ảnh hưởng đến cái mạng đó không thưa Thầy?
Trưởng Lão: Lẽ đương nhiên là khi mà Thầy qua đó rồi thì ảnh hưởng đến thân mạng của họ. Toàn bộ coi như là cái thân mạng của họ đều qua cái sử dụng của Thầy hết rồi. Họ không còn sử dụng cái tạp niệm, cái phàm phu của họ nữa.
Thì cho nên toàn bộ cái thân của họ là hoàn toàn họ tạm biệt hết
Sư Phước Nhẫn: Cái nghiệp lực của họ làm sao?
Trưởng Lão: Cái nghiệp lực của họ. Tức là coi như là cái nghiệp lực của họ khi mà họ tạo đó, khi mà Thầy chuyển qua đó thì cái nghiệp lực của họ nó chiêu cảm đi tái sanh, coi như họ chết. Thầy chỉ mượn cái thân xác của họ, Thầy làm việc Phật pháp, còn họ coi như. Tức là họ phải lìa ra, cái nghiệp đó nó phải lìa ra.
Sư Phước Nhẫn: Như vậy có trái luật không thưa Thầy?
Trưởng Lão: Đây nó nói, thật sự ra thì nó phải… Thí dụ như biết rằng cái người này họ sẽ, phước báo của họ đến đó là hết, nó không trái luật.
Chứ còn người ta chưa hết mà mình mượn như vậy kể như là không được.
Bởi vì Nhân Quả người ta hết, nếu mà không thì xe đụng người này cũng chết thôi. Nó phải tương ưng, nó phải đúng lúc, mình mới mượn được. Chứ khi không mình mượn thì không đúng.
Người ta bị xe đụng, người ta chết thì người ta cũng bỏ thôi. Mà thay vì bây giờ cái vị trí của người này làm Tổng Thống mà để chết như vậy thì uổng. Thay vì Phật pháp đang cần thiết cái này, mình hãy mượn cái này và vị vậy mà cái thân của họ, thì coi như là cái thân của họ mình mượn, chứ sự thật cái thân họ đã chết. Cái nghiệp lực họ đi tái sanh trở lại.
Sư Phước Nhẫn: Vậy cũng như là con nghĩ như vậy, ví dụ như mình mượn, mình mượn họ thì là phước báo của họ hết thì mình mượn được. Do phước báo họ hết thì làm sao họ làm Tổng Thống nữa, nó mất Tổng Thống rồi.
Trưởng Lão: À, không cái phước họ hết, nhưng mà vì mình muốn mượn cái này để làm, cho nên cái vị trí của mình nó còn. Bởi vì họ hết cái phước Tổng Thống rồi. Nhưng mà vì cái phước của mình là cái phước nó Vô Lậu, cái phước nó vừa Hữu Lậu, Vô Lậu, nó vĩ đại lắm.
(40:04) Thay vì mình phải đi từ… Mình muốn, thí dụ bây giờ Thầy muốn sanh vào cái gia đình này trở thành đứa trẻ, lớn lên thì đứa trẻ này phải học tập để thành một vị Tổng Thống. Thí dụ Tổng Thống Mỹ, thì Thầy phải tạo… Thầy là người tu hành có đủ phước rồi, tức là cái này nó quá dễ đối với Thầy chứ gì?
Bây giờ chỉ cần sanh, Thầy biết rằng cái đứa bé này sanh ra, nó sẽ lớn lên, nó sẽ được lồng ở trong khuôn học tập như thế nào, thì nó sẽ là làm Tổng Thống của nước này. Bởi vì cái thời gian đối với người tu, người ta thấy rất rõ. Người ta mượn cái này, người ta làm cái chuyện này. Cho nên vì vậy mà khi người ta hướng tâm đến đây, sanh ra đứa nhỏ này thì cái thời gian nó còn dài quá.
Rồi bây giờ cái ông này làm Tổng Thống, ông hết cái phước Tổng Thống của ông rồi. Nhưng mà khi Thầy thế vô để làm cái chức Tổng Thống này, để mà làm Phật pháp, thì cái dân tộc này nó phải có duyên với Phật pháp đó. Chứ nó không duyên thì cũng mượn không được đâu.
(40:51) Bởi vì nó do chúng sanh, chứ đâu phải là do cái ông thị hiện này rồi, mà do cái phước báu của chúng sanh. Bởi vì khi đó mình quan sát, mình quan sát mình thấy. Mà cái chương trình mình làm đây là vì chúng sanh, do chúng sanh tại đất nước này có phước hơn là ở Việt Nam. Cho nên ở Việt Nam mình làm không được, mình phải bỏ thân này. Cho nên mình phải qua đây mình làm cái việc này, đó nó vậy.
Còn không có đủ duyên nữa thì phải đi tái sanh như vậy. Mà tái sanh như vậy thì cả vấn đề vất vả, thời gian nó còn dài, nó khó lắm, nó không phải dễ đâu.
Ở đây, thật sự ra thì nói như vậy. Chứ đối với một vị… Cho nên một vị tu chứng như đức Phật Thích Ca, tại sao mà Ngài không ra đời? Tại sao Ngài không ra? Tại vì cái duyên chúng sanh nó hết rồi, ra cũng đâu có độ ai được, cũng đâu có làm cái gì được. Nó có duyên mới làm được. Cho nên khi đó mình thấy mình còn duyên, mình đưa ra cái chương trình này mà còn duyên thì mình làm được, mà hết duyên cũng không làm được. Bởi vì duyên chúng sanh không có thì không làm được, thì coi như là mình nhập Niết Bàn.
(41:52) Cho nên vì vậy thí dụ như bây giờ trong cái khoảng thời gian nó có nhiều người Độc Giác, họ tu tự tu, họ chứng. Mà Phật giáo thì nó bị chen tất cả những cái giáo pháp của ngoại đạo rồi, nó làm cho người ta… Tại cái duyên của chúng sanh nó như vậy, chứ không phải là Phật pháp muốn như vậy. Bởi vì Phật pháp không có cuộc mà đấu tranh để bảo vệ cái tôn giáo của mình như các tôn giáo khác. Mà cái duyên của nó, nó có thì nó tồn tại, mà nó không có thì nó mất.
Cho nên thí dụ như trong cái thời mà Phật giáo, chúng ta phải xét thấy nè, trong cái thời Phật giáo… Khi mà cái thời chia bộ phái là sau khi đức Phật tịch rồi, thì một số các đệ tử của Ngài nó cũng lần lượt nó tịch. Những người mà Chân Tu ấy lần lượt tịch. Tuy vậy chứ chứ những người Chân tu người ta vẫn còn có, thì trong khi đó nó đã bị phân hóa. Nhưng mà những vị Chân tu này họ biết đó là cái sai, nhưng mà họ không tranh đấu. Bởi vì người tu mà, đâu có tranh đấu.
Nói mấy ông đó “ờ bây giờ cái này là mấy ông làm sai nè, không có đúng nè”. Nói là nói, chứ còn mấy ông làm gì làm. Chứ không có mà phải tổ chức làm cho mạnh, làm này kia, này nọ, không phải vậy đâu. Nhưng mà cái gì đúng thì nhắc nhở rồi thôi. Mà mấy ông không nghe, thì mấy ông phân hóa làm gì làm, chứ nó không có cái cuộc đấu tranh như mình, phải bảo vệ nó bằng cách này, cách khác, không phải.
Cũng như bây giờ Thầy nói như vậy, trong những kinh sách mà Thầy nói như vậy thì người ta thấy được, thì người ta hướng về tốt được là do cái duyên. Mà người ta không hướng được thì thôi, chứ còn mình không có đấu tranh, mình không có làm cách này, cách kia được để làm cho được. Coi như là một cuộc cách mạng Phật giáo thì không làm.
Nhưng mà nói lên cái đúng, cái sai, tùy cái duyên của chúng sanh, nó có duyên thì nó hướng theo cái chánh pháp. Nó thấy được cái quá trình của các giáo pháp đó không đưa dắt người ta đến được thì nó hướng dần đi về cái nẻo tốt của nó thôi.
Thì nó nếu mà nó hướng về, rồi có những người mà nối tiếp, mà thực hiện được thì đó là cái ngọn đuốc nó thắp sáng lên.
Còn nếu mà không có người mà thực hiện được thì kể như ngọn đuốc tự tắt thôi. Nó không có cái chứng minh cụ thể. Cho nên Thầy muốn quý sư tu tập, mà cố gắng đi từng bước nhỏ để chúng ta thực hiện thắp sáng lại ngọn đuốc.
Thầy sợ nhất, có cái khó là vì trong cái quá trình mà hướng dẫn cũng như trong cái sự tu tập, Thầy biết cái độc cư là khó nhất. Nó khó lắm, chứ không phải dễ.
Bởi vì mình sống một mình rồi nó rất khó, cái tâm nó tuôn trào, mình giữ chân mình không được. Tới những giờ phút cuối cùng là những giờ phút mà mình sắp sửa được những cái mà giải thoát gần như là hoàn toàn thì nó lại đụng những cái ma chướng ở thân nghiệp của mình, nó cũng nặng lắm.
Đó như thầy Mật Hạnh, thấy cái tương lai sáng lạn lắm, nhưng mà có cái điều kiện là cái duyên nó cũng chưa có trọn vẹn. Độc cư tới giờ phút đó mà nó phải bung ra.
Sư Phước Nhẫn: Thầy Mật Hạnh tập lại được không thưa Thầy?
Trưởng Lão: Bây giờ tập lại.
Sư Phước Nhẫn: Thầy vẫn được, chứ không có mất?
Trưởng Lão: Không có mất, nhưng mà vất vả tạm thời. Thành ra phải tập trở lại.
Sư Phước Nhẫn: Còn cái duyên…
Trưởng lão: Mà nếu mà mất cái duyên, kể như nó bung ra rồi là kể ra đời luôn đó. (44:52)
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 07
QUẢ VÀ CÁCH ÁP DỤNG
ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [29:58]
Thời gian: 2002
Tên cũ: 04A-QuaVaCachApDungDNHT
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-07-qua-va-cach-ap-dung-dinh-niem-hoi-tho.mp3
(00:00) Trưởng Lão: Sai lệch. Nó không bị làm như cái người Phật tử phàm phu hung dữ như một con thú vật, nó trở về cái con người thật sự. Nó còn một cái quả nữa. Tu tập trên đây thì sẽ được những bảy cái quả lận. Nghĩa là nó có kết quả là bảy cái quả của nó chứ không phải là một cái quả. Sự tu tập mà như hồi nãy cái bài mà Định Niệm Hơi Thở nó đem lại cái quả của nó như vậy, nó làm chúng ta tiến tới cái Thiền Định rất dễ. Bảy quả của nó, cái quả thứ nhất là Thắng trí, nó sẽ đoạn diệt được năm Hạ Phần Kiết Sử. Nghĩa là phải nói rằng mười phần Kiết Sử nhưng mà kết lại thì chúng ta sẽ thấy Thất Kiết sử. Nhưng mà nó sẽ diệt được năm Hạ phần kiết sử. Định Niệm Hơi Thở đó nó diệt được năm Hạ Phần Kiết Sử.
Cái trạng thái, thường thường cái người đó họ được ở trong trạng thái của cái tâm thanh thản của họ, chứ không phải là nó mất tiêu đâu. Họ thường thường, họ cũng có thanh thản ở trong tâm của họ, cho nên họ cũng vẫn đạt được bát Niết Bàn.
Rồi cái quả của họ, trong hiện tại thì nó cũng sẽ có những cái Niết Bàn nó hiện tướng ra, nhưng mà cái Vô hành Niết Bàn. Nghĩa là có lúc nó ở trong cái vô thức của họ, nó cũng có cái trạng thái nó làm cho họ rất là an ổn, gọi là Vô Hành Niết Bàn.
Rồi Ngũ Hành Niết Bàn. Nghĩa là bình thường trong những hành động hàng ngày của cái người này nó có những cái hành động, mà cái hành động mang đến cho họ có cái niềm vui. Cái niềm vui đó là cái niềm không tham, không sân, không si, không giận hờn. Nó có cái trạng thái gọi là trạng thái giải thoát của họ. Mặc dù nó không được thường xuyên, nó không được sống thường nhưng mà quả đó nó vẫn có đối với người mà tu Định Niệm Hơi Thở. Hoàn toàn, trong khi nó ngủ, tức là vô hành đó, nó không có hoạt động, thì nó cũng đạt được cái trạng thái yên tịnh trong giấc ngủ. Chớ không phải là những cái ác pháp ở trong giấc ngủ nó hoặc là làm bất an trong giấc ngủ nó, không có. Nó được cái Vô Hành Niết Bàn.
(02:05) Vì vậy người tu Định Niệm Hơi Thở nó sẽ đạt được cái bậc Thượng Lưu. Thượng Lưu đây Đức Phật muốn nói là cái tâm Thượng lưu của chúng ta, biết xả bỏ, biết xả những cái lỗi lầm của người khác, tha thứ của người khác, cho nên nó được cái quả của nó là Thượng Lưu. Luôn luôn lúc nào nó không có hẹp hòi, nó không ích kỷ, nó không xấu xa mà luôn luôn lúc nào nó có cái hành động cao quý của nó và nó đạt được cái Sắc Cứu Cánh Thiên. Là khi cái người này mà có chết đi thì họ cũng sanh vào cái cảnh Trời Sắc Cứu Cánh, chứ nó không có mất cái quả.
Mà cảnh Trời Sắc Cứu Cánh thì các thầy biết rằng ngay trong khi mà cái người tu đó họ đang sống trong mọi cái cảnh của thế gian này, nhưng mà tâm họ luôn luôn ở trong cái cảnh Trời Sắc Cứu Cánh đó.
Đó thì nó được bảy cái quả tốt đẹp của nó. Kế đó thì người tu Định Niệm Hơi Thở này thì họ thân không rung động, tâm không dao động, hai cái. Thân không rung động. Nghĩa là ngồi Thiền thì nếu mà hướng tâm mà như vậy thì thân không rung động, bởi vì tỉnh, nó không mê. Còn nó mê, nó chạy theo an lạc, thì thân nó bồng bềnh, nó dao động. Cho nên nó mình hướng cái Pháp Hướng để nhắc tâm. Cho nên mình không có nhắc nó, cho nên cái thân mình nó bị dao động, nó bồng bềnh, bồng bềnh. Như cháu Trang hồi còn ở đây tu hành, hay nói: “Sao cái thân con ngồi, khi mà nó hết vọng tưởng, nó bồng bềnh, bồng bềnh, rồi một lúc nó mất”. Thì đó là nó bị rơi vào cái trạng thái của Tưởng, rồi nó thấy cái thân nó bồng bềnh, bồng bềnh, như nổi, như chìm, nó dao động đó chứ.
Ở đây, người mà tu theo kiểu cách của Đức Phật như vậy là cái thân không bị rung động, và cái tâm cũng không dao động.
Nhờ tu tập Định Niệm Hơi Thở vô, hơi thở ra như vậy, làm cho sung mãn như vậy nên thân không rung động, tâm không dao động.
(04:02) Nó có những cái kết quả, và những kết quả đó là Định Niệm Hơi Thở chúng ta luyện tập để nó mang lại những kết quả này. Để sau khi mà chúng ta đi vào Thiền Định khác thì nó không có bị cái thân rung động, cái tâm dao động. Mà nó có một phần giải thoát được các lậu hoặc nữa. Cái Định Niệm Hơi Thở này tu thì nó có một phần nó giúp chúng ta cũng giải thoát được các lậu hoặc.
Trước khi giác ngộ chưa chứng Chánh Đẳng Giác, (đây là lời Đức Phật nói) khi còn là Bồ Tát ta tu tập nhiều với pháp môn này. Do ta tu tập nhiều với pháp môn này, thân ta và con mắt không có mỏi mệt, không có mỏi nhọc và tâm ta giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.
Nghĩa là các pháp này, pháp kia Đức Phật không bị dính mắc, không có chấp thủ là dính mắc đó. Cho nên do nhờ cái tu tập này mà Đức Phật không có bị dính mắc. Mặc dù là tu với cái pháp của một vị thầy dạy cho mình tu cái Vô Không Biên Xứ cho đến cái Định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Nhưng mà tu được rồi thì Đức Phật cũng không dính mắc vào cái chấp thủ những cái pháp này. Cho nên nó có thoát ra khỏi một số lậu hoặc rất là lớn. Cho nên Định Niệm Hơi Thở có giá trị như vậy.
Mà ngay từ đầu các con cũng như các thầy về đây, Thầy bắt buộc phải tập ổn định hơi thở nè, rồi tập làm cho có tụ điểm để mà bám chặt hơi thở nè, rồi luyện hơi thở dài, chậm để tạo thành tụ điểm. Từ luyện hơi thở bình thường, mấy giây, tu tập để cho nó thuần thục ở trong hơi thở.
Vì Định Niệm Hơi Thở nó có nhiều cái lợi ích như vậy và nó cũng là một pháp để mà chúng ta trợ duyên cho các pháp khác. Cũng như một người học Pháp Văn, thì người ta bắt buộc mình phải học chia động từ Avoir hoặc Être, nó phải cho làu thiệt làu để rồi dùng nó mà chia các động từ khác cho nó dễ dàng.
Thì ở đây, các thầy cũng thấy Thầy đã nhào nặn quý thầy: Các con phải luyện tập cái hơi thở, không có nói pháp nào hết, mà cứ vô cứ luyện tập hơi thở để cho nó thuần thục, nó quen với hơi thở, nó rất là thuần. Do đó bây giờ mới áp dụng vào những cái khác, thì nó mới dễ. Sau khi áp dụng vào cái khác, thì vừa biết thở, mà lại vừa nhắc cho mình về cái pháp đó để xả tâm.
(06:15) Như bây giờ ví dụ như: “Hít vô tôi biết tâm tôi phải xả tâm tham, thở ra tôi biết tâm tôi xả tâm tham”, đó là mình câu hữu với Định Vô Lậu chứ gì? Mình biết như vậy. Bây giờ: “Hít vô tôi biết thân tôi không phải là ngã, thở ra tôi biết thân tôi không phải là ngã”. Đó là mình câu hữu với Định Vô Lậu để mình diệt ngã chứ gì?
Tất cả những cái này, nếu mà mình chưa thuần thục hơi thở thì mình hít vô, thì mình nói chưa có kịp, mà mình thở ra rồi mình cũng nói chưa có kịp. Còn mình thở vô, mình đã quen rồi. Cho nên vì vậy mà mình thở vô, cái mình nói, thì trong khi đó cái tâm mình nó hướng theo, nó lại đặt thêm một cái Định Vô Lậu. Nó câu hữu với cái Định Vô Lậu, nó phá đi cái ngã, nó phá đi cái chấp ngã của nó. Nó làm cho mình không còn tham, sân, si, giận hờn nữa.
Hay hoặc là bây giờ: “Hít vô tôi biết tâm tôi như cục đất, thở ra tôi biết tâm tôi như cục đất”, thì mình hít vô mình cũng nói. Nó nương vào cái hơi thở, nó rất tỉnh.
Như Thầy nói, bây giờ ví dụ các con thấy này, mình nương vào hơi thở mà mình tu Chánh Niệm Tỉnh Giác ở bên ngoài nữa. Thí dụ như mình vừa đi mà mình vừa biết hơi thở, tức là mình câu hữu giữa hai cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác của nội và Chánh Niệm Tỉnh Giác của ngoại. Hai cái mình câu hữu, thì mình thấy sao mình đi sao nó tỉnh quá, nó đi hai, ba vòng mà nó không có tạp niệm, thì đó là mình câu hữu giữa hai cái hơi thở và hành động đi của mình.
Cũng như bây giờ mình vừa quét, mà mình câu hữu được với hơi thở của mình nữa. Mình biết cái hơi thở ra, vô mà mình vừa quét, nó làm cho mình rất tỉnh trong thời gian đó. Tức là gọi là nương hơi thở để mà biết rõ hành động đang quét sân hay quét nhà.
Cách thức tu tập nó như vậy đấy, tức là câu hữu như vậy. Cho nên cái Định Niệm Hơi Thở là nó để dùng, để mình nhờ nó mà mình tu tập các định khác, mình vào định. Cũng như Thầy nói bây giờ ví dụ mình tu về Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền. Thì mình biết rằng Nhị Thiền là phải diệt Tầm Tứ, mà Sơ Thiền phải ly dục ly ác pháp. Mà bây giờ mình chưa có ly dục ly ác pháp thì mình hít vô: “Hít vô tôi biết tâm tôi ly dục ly ác pháp, thở ra tôi biết tâm tôi ly dục ly ác pháp”, mình nhắc tâm mình ly dục ly ác pháp. Nhưng bây giờ nó chưa ly mà mình nhắc nó, tức là ý của mình là muốn cho nó ly dục ly ác pháp. Đó là mình câu hữu với Sơ Thiền.
(08:18) Và đồng thời mình nhắc như vậy để thấm cái Giới Hạnh. Thì cái Giới Hạnh nó giúp cho mình ly những cái dục và ly những cái ác pháp và mình tập Tứ Chánh Cần, nó làm mình lìa các ác pháp ra. Do sự tu tập đó, và do sự câu hữu này nó nhắc, nó làm cho những cái này nó kết hợp, nó thành một cái Đạo lực. Khi đó mình nhắc: “Tâm như cục đất, không có giận hờn, phiền não”. Thì do đó là tâm mình như cục đất, không phiền não, thì nó sẽ ly dục. Vì vậy mình nói: “Tâm phải ly dục ly ác pháp, nhập Sơ Thiền”, là ngay đó nó sẽ nhập liền.
Nó sẽ ở chỗ trạng thái mà không có ham muốn, mà không có ác pháp. Cho nên mình câu hữu như vậy thì mình nhắc, ngay đó là nó vô Sơ Thiền liền tức khắc. Thì bắt đầu bây giờ nó vô Sơ Thiền thì mình bị vì mình nương hơi thở mình nhắc nó. Thì khi mình nhắc như vậy thì cái hơi thở ra, vô này thì nó là cái đường để cho mình đi vào cái Sơ Thiền. Mà khi mà nó ly ác pháp rồi, thì bắt đầu nó còn hơi thở, thì hơi thở nó do ly dục ly ác pháp sanh Hỷ Lạc. Nó sanh hỷ lạc thì cái Hỷ Lạc đó làm cho chúng ta không có thấy hơi thở của chúng ta đang thở ở chỗ Sơ Thiền. Vì vậy chúng ta còn thấy một cái trạng thái ly dục ly ác pháp. Đó là cái Sơ Thiền.
Bây giờ Nhị Thiền thì chúng ta nhắc: “Tâm phải tịnh chỉ Tầm Tứ”. Thì bắt đầu mình nhắc như vậy, thì khi mà mình bảo “Cái tâm phải nương hơi thở phải tịnh chỉ Tầm Tứ ”. Thì lúc bấy giờ nó nương hơi thở ra, hơi thở vô. Vì hàng ngày mình nương hơi thở, mình thở ra, thở vô để cho mình diệt Tầm, diệt Tứ. Như hồi nãy Thầy nói tu diệt Tầm mà giữ Tứ đó: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài, thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài”. Đó là cái chỗ tu tập làm cho tâm của chúng ta nó nương vào cái hơi thở mà nó diệt Tầm Tứ.
Thì bây giờ mình nhắc nó, thì ngay đó là nó đã diệt Tầm Tứ, để nó nương vào hơi thở, rồi từ đó nó nhập vào cái Nhị Thiền.
(10:01) Đó thì các con và các thầy thấy Định Niệm Hơi Thở nó có một giá trị rất cao là nó trợ giúp cho chúng ta đạt được những kết quả mà chúng ta mong muốn. Thì đây là cái phần về Định Niệm Hơi Thở. Coi như là Thầy dạy hôm nay là các con biết rằng từ căn bản sơ cơ cách thức tu tập về Định Niệm Hơi Thở, chứ không phải là dạy Sổ tức Tùy tức đâu.
Nhưng mà trước kia là vì dạy theo các pháp môn của Đại Thừa, của kinh sách Nguyên Thủy, của các pháp mà của các Tổ dạy thì Thầy thấy từ cái Pháp Sổ tức, Tùy tức thì nó cũng là do cái chỗ mà tu tập để làm cho Tầm Tứ nó diệt, vọng tưởng nó hết. Cho nên hướng dẫn mà các con nương vào cái chỗ mà Sổ tức, chớ không hướng dẫn theo kinh sách của Đạo Phật.
Mà bây giờ thì chúng ta đã thành lập một cái Giáo án Đường lối của Đạo Phật, thì tất cả những cái gì mà của các Tổ đặt ra, nó không phải của Đạo Phật mà của các Tổ, thì chúng ta để qua một bên. Sau đó thì chúng ta sẽ có một bài kết hợp, cái gì mà làm cho lợi ích trên bước đường tu tập thì chúng ta lấy để mà nương theo đó mà hướng dẫn người tu. Cái gì mà nó không có lợi ích bằng cái pháp mà Phật dạy thì chúng ta nên bỏ nó.
Thí dụ như bây giờ cái pháp Sổ tức, nó là cái pháp ức chế tâm, thì nó không bằng cái pháp mà chúng ta hướng tâm về cái hơi thở, do đó chúng ta thấy nó không có kết quả, vì nó ức chế tâm thì dễ rơi vào các trạng thái định Tưởng. Vì nếu ức chế tâm thì ý thức của mình nó không hoạt động thì Tưởng thức nó phải hoạt động. Còn cái này chúng ta ý thức nó vẫn còn hoạt động theo cái Pháp Hướng, cho nên nó không mất đi. Do đó chúng ta không ức chế tâm. Mà do vì vậy mà chúng ta hướng để mà xả tâm. Từ cái xả tâm nó hết vọng tưởng, nó diệt Tầm Tứ bằng cách là nó ly, ly cái tâm ra.
(11:38) Bây giờ đến cái giai đoạn mà tu tập Tứ Niệm Xứ rồi. Vậy thì tiếp tục ở trên cái bước đường mà tu tập Tứ Niệm Xứ, thì chúng ta đã bước qua một cái giai đoạn Niệm thì tức là phải tới Định. Chữ Niệm ở đây thì có bốn chỗ để mà chúng ta niệm. Nhưng mà chữ niệm, Tứ Niệm Xứ đây là bốn cái chỗ để đặt pháp, chữ niệm ở đây là pháp. Cho nên chúng ta đặt cái pháp ở trên cái chỗ đó, cái nơi đó để mà chúng ta tu tập cái nơi đó. Chúng ta tu làm sao cho đạt được cái chỗ đó.
(12:10) Cho nên khởi đầu tu tập Thiền Định, bởi vì ở đây đạo Phật nói chung hoàn toàn là Thiền Định, không có pháp nào là không Thiền Định. Mới đầu vô chúng ta tu tập Chánh Niệm Tỉnh Thức thì cũng là Thiền Định. Nếu không có cái pháp này, không có pháp Chánh Niệm Tỉnh Thức thì chúng ta không ngăn chặn được ác pháp, thì Tứ Chánh Cần chỉ là nói suông, không có nghĩa gì hết, không có cách thức tu rồi.
Cho nên nếu mà dạy tách riêng từng cái pháp, như Tứ Chánh Cần riêng ra thì chúng ta nói: “Các pháp ác chưa sanh, không cho sanh” thì lấy cái gì không cho nó sanh đây? Mà người ta bảo là mình đừng cho sanh. Không cho sanh là tôi làm sao tôi không cho sanh? Nó từ ở trong tâm tôi, nó từ ở các pháp ở ngoài nó đập vô, nó chửi mắng tôi. Nó làm cho tôi khổ, thì tức là tôi phải sanh, mà bảo tôi đừng sanh thì tôi lấy cái gì tôi chận nó được đây?
Cho nên vì vậy nếu mà chúng ta lấy riêng nội cái pháp Tứ Chánh Cần mà tu thì chắc chắn là chúng ta không biết đâu. Cho nên hầu hết là các thầy, các hòa thượng mà giảng dạy về Tứ Chánh Cần nó độc lập riêng nó ra thì coi như là các thầy đó không biết pháp tu đâu.
Cho nên nói Tứ Chánh Cần, chứ sự thật ra chúng ta đang tu những cái Thiền Định: Chánh Niệm Tỉnh Giác định, Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu. Ngay trên đó chúng ta mới ngăn chặn được các pháp ác và không cho các pháp ác tăng trưởng. Đó thì nó phải có cái pháp để mà chúng ta tu tập. Bây giờ chúng ta đã hiểu được như vậy, thì cho nên tất cả các pháp của Phật đều gọi là Thiền Định hết, không có pháp nào là không Thiền Định.
Chúng ta có cái quan niệm sai lầm là hễ khi nào mà nói Thiền Định là phải khoanh chân ngồi kiết già, rồi ngồi đó hít thở hay niệm Phật mới gọi là Thiền Định. Hễ thấy ai ngồi thì gọi là Thiền Định, còn cái người mà đi họ không cho Thiền Định. Mà ngay cả khi mà chúng ta đi kinh hành, mà chúng ta nhiếp tâm, đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định của người ta mà, cái định ở trên cái hành động đi của người ta mà.
Trong khi người ta quét sân, người ta lặt rau, người ta nấu cơm, người ta làm mọi công việc, thì người ta đang tu ở trong cái định chánh niệm rồi. Cái tâm người ta đang giữ cái chánh niệm đó, cái niệm chân chánh đó, để ở trong cái tỉnh thức đó.
(13:59) Thế mà mình không cho người ta định. Bảo là mình phải ngồi trước bàn thờ Phật cà, đốt cây hương lên cà, rồi mới ngồi tréo chân lên trên đó, rồi ngồi hít thở nó. Mà trong khi hít thở đó chắc gì mà cái tâm của người hít thở đó là nó đang yên tịnh, nó không có vọng tưởng đâu. Nó nghĩ tầm bậy, tầm bạ, nó ham. Nó ngồi đây mà nó nghe ở ngoài bếp người ta chiên xào gì đó, bắt đầu nó nước miếng chảy ra, nó nhớ ba cái đồ chiên, đồ xào. Thì thử hỏi như vậy là lúc đó nó thiền hay là lúc đó nó thèm ăn? Cho nên khi mà ngồi thiền như vậy thì thử hỏi khi mà người ta đi kinh hành, người ta có ngủ không? Còn mình ngồi thì một lúc nghe nó an an, cái thân nó lặng lặng cái bắt đầu gục xuống cái như vầy, thì cái đó là thiền gì? Thiền gục chứ thiền gì?
Bởi vì người ta nhập Tứ Thiền thì cái anh này lại nhập Ngủ Thiền. Anh ngủ ở trong thành ra anh nhập Ngủ thiền chứ sao? Anh hơn Phật là cái chỗ anh nhập Ngủ thiền. Cho nên cái ngồi nó không có phải là cái chỗ thiền, nhiều khi nó lại sai lệch đi, nó chưa đúng. Nhưng cái ngồi cũng là một cái tu thiền, nếu mà tu đúng. Còn bây giờ mình tu mình cứ gục lên, gục xuống thì cái đó là thiền gì? Hay hoặc ngồi đó mà loạn tưởng, nhớ cái này, nhớ cái kia, thì cái đó là thiền gì? Đó là không phải thiền.
Còn bây giờ người ta đi như vậy, mình cho là người ta không tu thiền thì cái đó sai. Ờ tu là phải vô chùa gõ mõ, tụng kinh, cái đó là trật nữa. Cái đó là chửi lộn với ông Phật, chứ tu cái gì? Lâu lâu Ông Phật ông làm thinh, Ông ngồi bằng xi măng, Ông ngồi đó, mình cứ réo tên “Nam Mô A Di Đà Phật” tức là chửi Ông chứ gì? Kêu tên Ổng, chửi Ổng. Nếu mà Ổng không bằng xi măng chắc là Ổng cũng không chịu nổi, buông chân xuống Ông cũng rầy dữ: “Sao mày cứ kêu tên tao hoài?”. Bây giờ thử hỏi đi mình ngồi đây, mà ai kêu tên mình có tức không? Cứ réo tên mình hoài không tức sao? Còn bây giờ Ông Phật ngồi đó, thí dụ Ông Phật Di Đà mà cứ: “Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật…”. Ông tức mình: “Tên tao sao mày cứ gọi hoài”. Đó là những cái sai, nó không có đúng đâu!
Cho nên ở đây phải thực hiện là làm sao cho Thân-Thọ-Tâm-Pháp của mình nó được thanh tịnh, nó không bị ác pháp, nó làm cho được giải thoát ngay đó, thì cái đó là cái đúng. Cho nên ở đây thì phải biết rằng tất cả những pháp của Phật đều là Thiền Định.
Khởi đầu tu tập Thiền Định là bắt đầu từ Định Tư Cụ. Định Tư Cụ tức là Tứ Chánh Cần.
(15:59) Các thầy thấy rất rõ. Bởi vì cái pháp này là pháp đầu tiên để mà chúng ta thực hiện Thiền Định. Mà Định Tư Cụ thì nó đã xác định cho chúng ta được ba cái định ở trên cái chỗ tu tập đó rồi. Mà quý vị đã được học và thực hiện trên Tứ Niệm Xứ, nghĩa là trên cái Định Tư Cụ này, là Tứ Chánh Cần này. Nó được thực hiện ở trên Tứ Niệm Xứ, chớ không phải bốn chỗ mà chúng ta tu tập. Thì lấy cái Định Tư Cụ này, đặt ở trên bốn chỗ đó để tu tập cho bốn cái chỗ này nó được thanh tịnh, tức là Thân-Thọ-Tâm-Pháp của chúng ta.
Cho nên Tứ Niệm Xứ là bốn lĩnh vực được quý vị thực hiện các loại Thiền Định trên đó, gồm có mười sáu loại định.
Nghĩa là Đạo Phật đâu có nói một cái thứ Thiền Định đâu, mà mười sáu cái loại định. Mà lấy bốn cái chỗ Thân-Thọ-Tâm-Pháp, mà gọi cái tên chung của nó là Tứ Niệm Xứ. Lấy bốn lĩnh vực này để chúng ta thực hiện mười sáu cái loại định ở trên đó. Để làm cho bốn chỗ này nó sạch sẽ, nó thanh tịnh, nó không còn ô nhiễm, nó không còn ác pháp nữa. Bốn cái chỗ này giải thoát là chúng ta giải thoát.
Chứ không phải là chúng ta tu cái vấn đề ngoài. Thí dụ như bây giờ niệm: “Nam Mô A Di Đà Phật” để cầu cho mình được vãng sanh Cực Lạc, thì cái đó là vấn đề ngoài rồi. Mà ngay cái thân này không có gột rửa cho sạch sẽ thì thử hỏi làm sao mà cho nó hết giận, hết hờn? Ngay cái tâm này mà không có gột cho nó sạch sẽ thì nó buồn phiền, lo lắng, sợ hãi, thương, ghét, giận hờn, đủ thứ. Cho nên Thân-Thọ-Tâm-Pháp là bốn chỗ để mà chúng ta tu tập làm cho nó không giận hờn, phiền não, không đau khổ nữa. Như cái thân của chúng ta nè, bị cái thọ nó làm cho cái thân chúng ta phải đau nhức cái chân, nhức cái đầu. Mà chúng ta không tu ở trên cái này, để khi mà cái thọ nó có đánh vào cái thân thì chúng ta không thấy đau đớn gì hết.
Thì cái đó là mới cụ thể để giải thoát được cái bệnh trên thân của chúng ta. Còn cái này chúng ta tu những bề ngoài. Ví dụ Niệm Phật nó có nhằm nhò gì ở trên thân này đâu? Cầu vãng sanh Cực Lạc thì nó có ăn thua gì? Còn bây giờ mình giữ Phật Tánh, thì Phật Tánh nó có nhằm nhò gì ở trên cái thân này đâu? Phật Tánh vô hình này kia, tôi kiến tánh thì thành Phật rồi, cần gì mà phải tu cái tâm này đâu?
(17:57) Do đó thì cuối cùng thì mình không giải thoát cái thân tâm của mình, mà ngay trên cái này, cái thân tâm mình đang khổ nè mà không có tu tập. Còn ở đây chúng ta ngay ở trên bốn cái chỗ đó gọi là Tứ Niệm Xứ, trên bốn chỗ đó để mà tu tập. Tu tập làm cho bốn chỗ đó nó không còn đau khổ, nó không còn chết chóc, nó không còn sinh tử luân hồi. Thì ngay bốn chỗ này là bốn chỗ chúng ta cần phải lấy các pháp, cần phải rèn luyện, cần phải làm cho nó sạch sẽ, làm cho nó không còn đau khổ nữa. Bốn chỗ này không còn đau khổ nữa thì chúng ta gọi là giải thoát.
Vì thế bốn lĩnh vực này rất quan trọng. Một con người ai cũng có bốn chỗ này.
Người nào, chúng ta cũng thấy là Thân-Thọ-Tâm-Pháp, phải không? Trong thân người, người nào cũng có bốn cái này hết, không có người nào là không có, ai cũng có hết.
Nhưng đối với người chưa tu tập, còn phàm phu thì bốn chỗ này là bốn chỗ ô nhiễm bất tịnh.
Nghĩa là tâm tham ăn, thân này ăn nè. Rồi tâm ham muốn cái này, cái nọ kia, nó ô nhiễm đủ thứ hết, mà nó bất tịnh, nó đủ cách hết. Cho nên Thân-Thọ-Tâm-Pháp của người phàm phu thì nó là bất tịnh. Nhưng mà đối với người mà tu tập thì Thân-Thọ-Tâm-Pháp của họ lần lượt nó mới thanh tịnh. Bốn chỗ này thường sanh khởi, vì nó bất tịnh đó, mà nó đem đến cho chúng ta nhiều cái đau khổ. Cho nên nói:
Bốn chỗ này thường sanh khởi mọi thứ đau khổ của kiếp người.
Nghĩa là nơi thân nè, nếu mà thân không bệnh thì chúng ta không thấy khổ, mà thân có bệnh chúng ta thấy khổ không? Khổ nè. Mà tâm chúng ta không bị ai chửi nè, mà nếu bị chửi chúng ta có thấy khổ không? Rồi tâm của chúng ta nó không có bình thường, nó không có gì hết, mà nó khởi nó thương, nó nhớ hay hoặc là cha mẹ nó bệnh đau, chết, nó khóc lóc bù lu, bù la bù lê thì thử hỏi nó có khổ không?
Đó! Rõ ràng là nơi bốn chỗ này nó thường sanh khởi những niệm đau khổ của kiếp người. Thì chúng ta biết được bốn cái chỗ đó như vậy, thì nó là Địa Ngục hay Thiên Đàng cũng nơi bốn chỗ này mà thôi. Cho nên bốn chỗ này mà không lìa xa ác pháp thì ngay đó là Địa Ngục cho kiếp người.
(19:57) Nghĩa là ác pháp là cái tâm khổ. Như mình sân là ác pháp, như mình tham là ác pháp, như mình ngu si là ác pháp, mình ham ăn, ham ngủ là ác pháp đó. Cho nên nếu mà mình không lìa các ác pháp này thì ngay đó là Địa Ngục của cái kiếp mình đó, luôn luôn lúc nào mình cũng khổ.
Còn nếu bốn chỗ này, Thân-Thọ-Tâm-Pháp này, mà chúng ta lìa xa ác pháp thì nơi đó là Niết Bàn. Chứ đâu cần đi tìm Niết Bàn ở chỗ nào? Nơi bốn chỗ này mà chúng ta lìa được ác pháp thì nơi đó là Niết Bàn. Chắc chắn ai cũng biết được cảnh giới Niết Bàn dễ dàng lắm, cụ thể lắm, nó rõ ràng. Không có ác pháp thì đó là Niết Bàn, có ác pháp thì nó là Địa Ngục, nó là đau khổ.
Tất cả các pháp môn Phật đều lấy bốn chỗ này thực hiện.
Nghĩa là cho nên luôn luôn pháp nào của Phật cũng ở trên bốn cái chỗ này để mà thực hiện. Cho nên tu tập, trau dồi, rèn luyện hay dứt bỏ đều ở trên bốn chỗ này. Bây giờ ví dụ như cái thân chúng ta nghiện thuốc, nghiện cà phê, nghiện thuốc phiện, nghiện rượu. Thì ở chỗ cái thân nghiện này, nó muốn uống rượu, nó muốn hút thuốc, nó muốn uống cà phê, nó thèm, nó khát nè. Thì do đó chúng ta phải nỗ lực, muốn làm cho nó thanh tịnh, không còn ham muốn đó nữa thì phải dứt bỏ, không có được uống rượu, không được hút thuốc, không được uống cà phê, không được hút á phiện.
Thì như vậy mình tự dứt bỏ mình, chứ không ai dứt bỏ cho mình được hết. Bởi vì cái này là do nhân quả mình đã tạo ra, thành thói quen, thành nghiệp thì mình phải chịu bỏ chịu lấy, chứ ai mà làm giúp cho mình được? Cho nên ở đây thì ngay từ ở trên cái chỗ Thân-Thọ-Tâm-Pháp này mà mình dứt bỏ, mình rèn luyện, mình trau dồi thì nó sẽ trở thành những thiện pháp, nó làm cho mình được giải thoát.
Chứ không phải ngoài cái chỗ này mà mình đi cầu khẩn, mình tu tập cái gì để cho nó giải thoát được, thì không bao có được. Mà phải ngay ở trên bốn cái chỗ này, gọi là Tứ Niệm Xứ. Cho nên chúng ta học Tứ Niệm Xứ, chúng ta phải hiểu được rành cái chỗ này. Chứ nếu mà học Tứ Niệm Xứ mà không rành thì chúng ta coi như là cái pháp Tứ Niệm Xứ, cho nên người ta nói Tứ Niệm Xứ là trái tim Thiền Định, gọi đặt cái tên vậy trúng không?
(21:56) Các Thầy thấy, đặt cái tên nó đâu có trúng, bởi vì nó là trái tim Thiền Định, mà thật sự ra ở đây mình làm cho nó thanh tịnh, chứ nó là trái tim cái thứ gì? Mà bao nhiêu thứ định mà đem đặt lên đây để mà tu nó, chứ đâu phải nó là cái nhịp tim của chúng ta để mà chúng ta thực hiện cái Thiền Định của Tứ Niệm Xứ này đâu!
Nếu mà nói như vậy thì Tứ Niệm Xứ là một loại Thiền Định để mà chúng ta để thực hiện các loại Thiền Định cao thiệt cao siêu của nó. Nó là cái gốc, nó là trái tim mà, cái nhịp tim, cái nhịp máu của chúng ta mà.
Nhưng mà nói như vậy không có nghĩa là đúng đâu. Bởi vì bốn cái chỗ này là bốn cái chỗ ô nhiễm của một con người phàm phu tục tử. Chúng ta muốn giải quyết cho nó thoát khỏi bốn cái chỗ ô nhiễm này, để cho nó được thanh tịnh thì chúng ta dùng các pháp Thiền Định khác, đem về đây để mà rèn luyện nó.
Cũng như bây giờ Thầy ví dụ để cho thấy, như cái nhà mình ở đây, cất lên bằng tầm vông, trúc tre. Nó xấu quá, nó không có đẹp đẽ. Cho nên từ đó mình mua những cái mành bằng nylon, mình trang trí cho những cửa sổ, rồi cửa cái để làm, hay hoặc là mua vài cái đèn như thế này để treo lên, để làm cho nó đẹp thêm cho nó coi nó được một chút, thí dụ vậy. Thì cái kia mình cũng phải đem những cái pháp khác để mà gột rửa, để làm cho nó sạch ra. Cũng như cái nhà mình bây giờ nó dơ, thì bắt đầu mình phải đem nước mình rửa cho nó sạch. Chứ cái nhà dơ, rồi mình lấy cái nhà dơ này mình làm cho nó nữa thì nó dơ nữa làm sao?
Cho nên ở đâu mình biết cái nơi này nó đang bị bụi bặm, dơ bẩn, ô nhiễm, không có sạch. Cho nên mình mới lấy cái bàn chải nè, mình mới lấy cái thùng nước nè, lấy xà bông, thuốc tẩy mình đem vô đây, mình mới tạt nước, mình rửa mình cọ cái chỗ này cho nó sạch. Thì cái chỗ này đang bị cọ rửa sạch mà gọi nó là Thiền Định thì Thầy thấy nó là Thiền Định gì? Có hiểu vậy thì mới biết được cái chỗ tu tập của chúng ta.
Chính thân-thọ-tâm-pháp của chúng ta nó đang ô nhiễm, nó đang tham mê, nó đang giận hờn, nó đang phiền não. Mà bây giờ nó đang nhiễm như vậy thì chúng ta phải lấy Định Niệm Hơi Thở, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Tứ Chánh Cần, Định Vô Lậu, Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền để mà rửa nó, làm cho sạch ra đi.
(24:14) Nhờ các Thiền Định này mà làm cho nó sạch. Thí dụ như các Thiền Định này nó cũng như là cục xà bông, bàn chải, bàn chà, chúng ta chỉ còn ra công mà chà cái nền này làm cho nó sạch, vách này chà rửa cho nó sạch. Thì như vậy rõ ràng là bốn niệm xứ này nó có phải pháp để chúng ta tu đâu? Mà nó là nơi để mà chúng ta chùi rửa cho sạch, bởi vì nó đang dơ bẩn, nó đang ô nhiễm, có đúng không?
Thầy nói đây, quý thầy cứ suy ngẫm có phải không? Thân của quý thầy hiện bây giờ, nếu mà nói là tôi không ô nhiễm thì tức là thanh tịnh rồi. Mà thanh tịnh rồi thì cái thân quý thầy nó đâu có còn mà bẩn thỉu như thế này? Tức là nó đâu còn bất tịnh. Cho nên do vì vậy mình mới xét cái thân mình nó còn bẩn thỉu lắm, nó còn bất tịnh lắm. Cho nên mình phải còn gột rửa, mà còn gột rửa tức là còn tu. Cho nên phải lấy cái pháp mà để gột rửa nó, mà pháp còn gột rửa nó thì tức là tu. Cho nên ở đây không thể nói Tứ Niệm Xứ là pháp môn được, mà Tứ Niệm Xứ là bốn chỗ để chúng ta dùng các pháp môn khác để tu tập trên đó. Cho nên Thầy mới nói Tứ Niệm Xứ nó sẽ xác định được các loại thiền ở trên đó. Trước kia Thầy có tuyên bố những cái lời nói đó.
Hầu hết là người ta giảng về Tứ Niệm Xứ, người ta không lột trần được cái này. Dường như là Tứ Niệm Xứ là một cái pháp môn để tu, chứ không phải là thấy nó được, ở trên đó nó xác định được. Cho nên cái người mà giảng về Tứ Niệm Xứ, họ không xác định được các định ở trên Tứ Niệm Xứ.
Như “trên thân quán thân” nè, tu cái định gì? Họ không xác định được. Mà họ xác định được, thì họ mới biết rằng cái thân này nó đang dơ bẩn cái này nè, nó đang nhiễm ô cái này nè. Thì bắt đầu mình phải đem cái định này, tức là cái bàn chải nè, cái cục xà bông nè, đem đến đây rửa chỗ đó cho nó sạch.
(25:59) Thì nếu mà đem cái bàn chải, cái cục xà bông, rồi đem nước đến mà rửa nó thì cái đó nó gọi là cái tên gì? Rồi đem một cái vật khác để mà lau cho nó khô thì nó gọi là tên gì? Nó phải có cái tên. Ví dụ như “Trên thân quán thân” tu về nhân tướng thì nó là Định Vô Lậu, nó “ Khắc phục tham ưu”. Mà “Trên thân quán thân” tu về hành tướng ngoại, thì nó có cái tên Chánh Niệm Tỉnh Giác Định. “Trên thân quán thân” tu về hành tướng nội thì có tên là Định Niệm Hơi Thở. Rõ ràng nó xác định được cái định đem lại rửa sạch cho cái chỗ đó, cái chỗ đó đang bẩn thỉu đó thì chúng ta rửa cho nó sạch. Mà rửa cho nó sạch thì tức là nó phải có một cái tên của Thiền Định đó, của cái pháp môn đó, làm cho nó sạch. Thì như vậy gọi là chúng ta đã hiểu được Tứ Niệm Xứ. Còn nếu mà không thì chúng ta không hiểu Tứ Niệm Xứ.
Bởi vì hầu hết là từ xưa đến giờ, các thầy, quý Hòa thượng họ thuyết giảng từ Nam Tông cho đến Bắc Tông, mà thuyết giảng về Tứ Niệm Xứ thì họ đều thấy Tứ Niệm Xứ là pháp môn, chứ không phải Tứ Niệm Xứ là bốn chỗ để chúng ta đem các pháp đến tu tập.
Bây giờ ví dụ như một người mà họ lấy Tứ Niệm Xứ để niệm Phật, như Thầy dạy lấy thân mà niệm Phật, tức là cái thân này nó đang ô nhiễm, đang bẩn thỉu. Mà cái thân Phật kia nó sạch sẽ, nó thanh tịnh. Cho nên muốn cái thân này cho nó sạch sẽ, nó thanh tịnh như thân Phật, thì như vậy gọi là lấy thân niệm Phật. Lấy cái thân này niệm cái thân Phật, làm cái thân này nó giống như thân Phật. Cho nên vì vậy mà cái người niệm Phật là sẽ được giải thoát liền, cho nên gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh. Cái bài pháp này Thầy đã giảng rồi.
Cho nên hôm nay để nói, để thấy rằng chúng ta bước vào Tứ Niệm Xứ, chúng ta phải hiểu rõ được cái vị trí nó đang bất tịnh, đang ô nhiễm mà chúng ta dùng các pháp khác để đến mà rửa, để chùi lau cho nó sạch, để mà quét dọn cho nó sạch bốn cái chỗ này. Mà bốn chỗ này sạch rồi, thì đó là giải thoát.
(28:01) Cho nên ở đây chúng ta thấy rất rõ, nếu bốn chỗ này mà lìa xa ác pháp như trong bài Tứ Chánh Cần, nếu mà chúng ta không lìa ác pháp thì ngay đó là Địa Ngục. Nghĩa là cái kiếp người mà của quý cô, cũng như là của quý thầy mà không lìa được ác pháp, thì ngay đó quý thầy có buồn rầu, giận hờn, phiền não, ham ăn, ham ngủ, ham vật chất, ham danh, ham lợi đủ thứ. Nó làm cho quý thầy lăng xăng, tức là khổ.
Trái lại các thầy lìa ác pháp, thì nơi đó là Niết Bàn. Tức là mình buông xả ra hết, không còn cái gì hết, thì đó là mình được giải thoát.
Tất cả các pháp môn của Đức Phật đều lấy bốn chỗ này thực hiện.
Lấy bốn chỗ này mà để thực hiện trên đó, “tu tập, trau dồi, rèn luyện và dứt bỏ”.
Bằng mọi cách làm sao bốn chỗ này xa lìa ác pháp và đoạn dứt tận gốc rễ của ác pháp, khiến cho bốn chỗ này được toàn thiện. Khi bốn chỗ này đã được toàn thiện.
Bằng mọi cách làm sao bốn chỗ này xa lìa ác pháp và đoạn dứt tận gốc rễ của ác pháp, khiến cho bốn chỗ này được toàn thiện. Khi bốn chỗ này đã được toàn thiện thì Đạo Phật gọi là thanh tịnh, gọi là giải thoát, gọi là Niết Bàn.
Toàn thiện là nghĩa là không còn một chút nào chút nào mà ác ở trong đó hết, không còn một chút xíu nào ác trong đó hết. Dù là một chút xíu như là một cái đầu cọng tóc của chúng ta, nó không còn một chút xíu nhỏ như vậy nữa. Hoặc là như một hạt bụi rất nhỏ nó không còn có trong đó, thì gọi là toàn thiện. Mà toàn thiện thì nó là thanh tịnh, nó là giải thoát, nó là Niết Bàn. Nghĩa là bốn chỗ đó phải đạt được tới chỗ mà toàn thiện.
Thì đạo Phật đâu có khó gì đâu, chúng ta thấy đâu có khó gì, mà chính cái chỗ này nó mới là Thiền Định.
Bởi vậy người tu theo Đạo Phật mà không biết rõ bốn lĩnh vực này, tu hoài bốn lĩnh vực này thì dù có tu ngàn kiếp cũng chẳng chấm dứt khổ đau và sinh tử luân hồi.
Nghĩa là mình tu hoài bốn chỗ này. Cho nên cái người mà xem nó là cái pháp môn để tu thì thử hỏi họ lấy Tứ Niệm Xứ này tu cái chỗ nào để họ được giải thoát? (29:59)
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 08
ĐẶT PHÁP TU TRÊN 4 CHỖ
THÂN THỌ TÂM PHÁP
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Ngày giảng: 2002
Thời lượng: [30:11]
Tên cũ: 04B-DatPhapTuTren4ChoThanThoTamPhap
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-08-dat-phap-tu-tren-4-cho-than-tho-tam-phap.mp3
(00:00) Để họ được giải thoát. Họ chỉ lý luận, tôi phải quán như thế này, thế khác, gọi là Minh Sát Tuệ chứ gì? Sự thật ra đâu có phải cái điều đó đâu.
Cho nên tất cả những cái thiền mà gọi là Minh Sát Tuệ, rồi thiền này, thiền nọ kia, đều là đặt ngoài cái vấn đề của Thân – Thọ – Tâm – Pháp của chúng ta. Mà khi họ có đặt đúng đi nữa ở trên đó họ tu, mà họ không có được xác định được cái vị trí họ tu cái gì nữa, thì họ tu bậy rồi.
Bây giờ thí dụ như Thiền tông, họ đặt họ lấy cái tâm của họ nè, biết vọng liền buông nè, họ lấy cái tâm họ, họ giữ cái tâm họ nè, không có vọng tưởng nè. Thì ngay đó là họ cũng lấy cái tâm họ tu chứ gì? Nhưng mà họ không xác định được bốn vị trí họ đang tu. Họ chỉ tu có cái tâm họ, thì họ có đạt được cái tâm họ giải thoát, còn cái thân họ bỏ.
Cho nên họ nói, bây giờ thí dụ như các pháp đến với họ, họ thấy toàn là huyễn giã. Đối với trí tuệ của họ Bát Nhã thì họ thấy nó là không, không có bệnh gì mà hiện hữu, không có gì mà nó thường hằng. Cho nên họ thấy nó là vô thường (0:58) thì cái phần họ đứng ở trên góc độ của tâm, họ quét sạch cái tâm họ, chứ còn cái thân với cái thọ của họ đâu có sạch.
Cho nên cái đau của họ, họ cũng rên la như thường, họ đâu có làm chủ được. Rồi cái thân họ, bây giờ bảo ngưng thở, họ cũng không có làm được nữa. Thì như vậy, họ chỉ tu có cái phần tâm à.
Mà bốn cái chỗ tu chứ. Ông Phật ông dạy bốn chỗ Tứ Niệm Xứ mà họ đâu, họ tu có nhất xứ à. Nghĩa là họ lấy Phật Tánh họ, bây giờ chẳng niệm thiện, niệm ác, thì ở trong tâm của mình chẳng niệm thiện, niệm ác. Thì họ tu có phần đó thôi, mà họ làm chủ làm sao toàn diện được cái Thân – Thọ – Tâm – Pháp của họ?
Cho nên cái mà họ hiểu sai, là vì họ đứng ở trên một cái góc độ của Thân – Thọ – Tâm – Pháp, họ tu có một cái mà họ tưởng là họ giải thoát toàn diện, làm sao được? Người ta tu trong bốn cái này mà người ta còn chưa có giải thoát toàn diện, chưa có thoát ra khổ. Huống hồ là, tu có một cái nhỏ của một cái bốn chỗ này. Nghĩa là trong bốn chỗ chúng ta tu có một cái mà thôi, thì làm sao mà chúng ta thoát ra được.
“Ở đây phải rõ, trên bốn lĩnh vực này nếu đặt sai pháp cũng tu không thành tựu nữa”. Nghĩa là bốn cái chỗ này mà chúng ta đặt không đúng pháp, nghĩa là bây giờ bốn chỗ này, đầu tiên chúng ta phải đặt pháp gì? Tứ Chánh Cần. Nghĩa là chúng ta phải dứt ác mà tăng thiện, thì nó mới có sẽ … Bởi vì hiện bây giờ Thân – Thọ – Tâm – Pháp chúng ta đang ở trong ác pháp chứ đâu phải thiện pháp.
Nếu mà thiện pháp sao người ta chửi mình giận? Nếu thiện pháp thì nó đâu có giận ai đâu? Còn này mình dễ giận, dễ hờn. Mà nếu nó thiện pháp sao cái thân này người ta đánh cái vầy mình biết đau? Nếu nó thiện thì nó đâu có đau. Còn cái này nó không thiện cho nên nó đau. Nó nhiều cái như vậy. Mình nói là các pháp đều thiện, vậy thì người ta ở ngoài người ta chửi mình, tại sao nó thiện mà mình lại giận? Thì nó phải là ác pháp, cho nên nó chưa có thiện.
(2:39) Vì vậy đó, cho nên vì vậy mình phải tu để cho các pháp dưới cái tầm mắt của mình, dưới cái lỗ tai nghe của mình, dưới cái ý mình tiếp xúc với cái pháp đó, hoàn toàn người ta chửi mình mà mình vẫn thấy thiện.
Cho nên ông Phú Lâu Na, ông Phú Lâu Na đức Phật hỏi: “Người ta chửi mắng ông, thì ông nghĩ như thế nào?”. Thì ông nói: “Người ta chửi mắng con, thì người ta còn thương con, người ta chưa có lấy gậy gộc, người ta đánh con”. Rồi ông Phật hỏi: “Người ta lấy gậy gộc, người ta đánh ông, thì ông nghĩ như thế nào?”. Thì ông nói, người ta đánh ông, thì người ta còn thương ông, người ta chưa lấy gươm dao giết ông. Rồi ông Phật mới nói: “Nếu người ta lấy gươm dao, người ta cắt cổ ông, người ta đâm ông cho ông chết đi, thì ông thấy như thế nào?”. Nhưng vì vậy, người ta cũng còn thương ông, cho nên người ta mới giết cái thân này để cho ông được giải thoát, thì người ta vẫn thương ông. Cho nên đức Phật nói: “Được. Ông đi ra (3:34) xứ đó được, độ người ta”.
Tức là, đức Phật đã trắc nghiệm được cái người đệ tử của mình, xứng đáng là người đi độ chúng sanh rồi. Còn mình chưa có được, người ta vừa nói cái gì đó mình giận, chưa có đánh mình đâu. Chứ phải đánh mình cầu, mình giãy nảy lên, cầu mình nằm đó mình đòi mạng, (3:53) rồi thường mạng nữa, người ta nữa.
Cho nên, do những cái chuyện đó, vì vậy mà chúng ta phải thấy rằng cái chỗ Thân – Thọ – Tâm – Pháp chúng ta phải thực hiện sao nó cởi bỏ được những cái này. Thì chính là những cái pháp Phật đã đặt ra để chúng ta tu tập ở trên bốn chỗ này.
Mà cái người đời, người ta, cái người tu hiện giờ, họ chưa biết bốn chỗ này. Họ cứ ngỡ rằng Tứ Niệm Xứ là một cái pháp môn. Cho nên hầu hết, Thầy đọc lại các kinh sách mà của người ta triển khai những cái pháp Tứ Niệm Xứ này, hầu hết đó là cái pháp tu của họ. Chứ không phải là bốn cái chỗ bất tịnh, để mà chúng ta thực hiện các pháp khác.
Cho nên mười sáu cái loại Định của Phật đó, thì chúng ta đem áp dụng ở trên bốn chỗ này hết. Không có cái Định nào mà chúng ta không có tu tập ở trên này. Mà tu tập ở trên này, không có nghĩa là tu tập để cho cái pháp định đó nó trở thành cái định, không phải đâu. Mà tu tập cho cái bốn chỗ này nó thanh tịnh. Mà nó, sự thanh tịnh của nó, tức là bốn cái chỗ này nó đạt được nhập định. Cho nên, Phật nói: “Thân định trên tâm, mà tâm định trên thân”.
(4:48) “Ví dụ trên bốn lĩnh vực này đặt pháp môn Tịnh Độ, niệm Phật A Di Đà để cầu vãng sanh Cực Lạc, Thiền tông để ngộ Phật tánh, Mật tông để có oai lực thần chú v.v… Thì các Tông phái này, chưa rõ Tứ Niệm Xứ”. Nghĩa là người ta nói rằng, Tịnh Độ tông nè, rồi Thiền tông nè, rồi Mật tông nè đều là pháp của Phật. Nhưng mà, pháp của Phật mà không hiểu Tứ Niệm Xứ thì đó là đâu phải là pháp Phật. Đặt không đúng chỗ. “Mục đích ở đây là đem các pháp nên trau dồi, tập luyện, làm cho bốn chỗ này thanh tịnh. Vì bốn chỗ này đang bị ô nhiễm, uế trược, nên những pháp nào làm cho nó không còn ô nhiễm, uế trược nữa thì đúng Chánh pháp của Phật”.
Còn cái pháp nào mà đem lên đó, mà không có rửa sạch nó, mà còn thêm cho nó nữa. Ví dụ bây giờ, Thầy niệm chú nè, Thầy có thần thông nè, Thầy có phép tắc nè thì cái tâm tham của Thầy nó lại lớn lên nữa, nó ham nữa, nó thấy như vậy người ta phục mình, người ta ghê gớm. Người ta thấy mình kêu mây hú gió, hóa lửa, phóng hào quang được, người ta sợ. Thầy niệm chú một cái, nó hiện ra đủ thứ, ai cũng mê hết, coi như Thầy là bậc giáo chủ rồi, người có đủ thần thông rồi. Nhưng mà không ngờ, nó lại làm cho Thầy lại thêm những cái ô nhiễm thêm. Từ đó người ta đến, người ta lạy lễ cúng dường Thầy cái này cái khác, người ta sắm xe hơi này kia, cái gì thầy cũng chấp nhận. Cái tâm của Thầy nó đâu có xả, có ly đâu, cho nên cái gì cúng dường cũng chấp nhận hết. Người ta cúng dường tiền nhiều thì cất chùa to tháp lớn, xe hơi có, tiền có rồi cái gì cũng có.
Rồi bắt đầu bây giờ sao? Cái tâm dục nó phải sanh thì nó phải thích phụ nữ, từ đó ông giáo chủ nào cũng rớt ở trên thân phụ nữ hết ráo. Thì như vậy là còn cái gì là gọi là thanh tịnh đâu? Cho nên từ cái chỗ thần thông nó mất tiêu thần thông hết, không còn cái gì hết. Cho nên, báo Công An nó thường đăng giáo chủ này đến giáo chủ kia.
Thầy có đọc cái tờ báo Công an, một Phật tử đem về, nhắc đến cái vị giáo chủ của xứ sương mù là ở Đà Lạt. Thầy thấy ông ta cũng là từ cái chỗ mà ông có thần thông, nói cái chuyện mà quá khứ xảy ra này kia, cuối cùng ông rơi trên phụ nữ rồi thì bắt đầu ông nói gì cũng không trúng. Công An bắt ông ta, ông cũng không làm sao biết trước được. Mất các cái pháp mà biết cái chuyện xảy ra.
(6:51) Cho nên tất cả những cái bị ô nhiễm, mà từ cái pháp tu sai lệch đó, đặt cái Mật tông mà tu đó, nó làm cho người ta có thần thông đó, để rồi người ta bị ô nhiễm lại còn ô nhiễm nặng, bẩn thỉu lại càng bẩn thỉu nặng hơn nữa, ô trược lại càng ô trược hơn nữa. Còn Tịnh Độ thì như Thầy đã nói mơ hồ trừu tượng, một cái thế giới siêu hình mà chưa hề có ai đi hết, mà ở đây cứ chổng khu tin rằng có.
Cho nên, gia đình ai có người chết thì chổng khu rước thầy chùa đến, tụng niệm cho cầu về đó. Ông nội về đó thì chắc ông Phật Di Đà mà có thật, ông cũng chạy về cái trần gian này, ông kêu công an lên trển còng đầu giùm mấy cái ông đó kéo về đây (7:28) làm phước. Nó thật sự như vậy, chứ làm sao chịu nổi?
Ở đây cái tâm tham chúng ta tham quá trời quá đất, tiền nhiều cất đủ cách, mà tham ô đủ cách mọi thứ. Mà giờ cứ ai cũng đụng cái rước ông thầy chùa để, cầu để về trển. Ai cũng cầu về được hết ở trên, thì chắc chắn cái xứ đó nó thành cái địa ngục ở trên đó. Ông Phật Di Đà, ông làm vua trên đó, bây giờ ông cũng sợ luôn rồi, ông cũng không có dám ở trên đó.
Cho nên thật sự là, không có, chứ phải có là phải có ông Phật Di Đà chạy trốn về đây rồi, Thầy nói thật sự. Đem ba cái người trần gian này lên trển, thì cái xứ đó nó thành cái địa ngục. Ở đây, nhiều khi chúng ta hở ra chút là chúng ăn trộm, ăn cắp đủ thứ. Mà đem cái thứ này về trển thì trộm cắp nó đầy xứ ở trên đó, làm sao mà ông Phật Di Đà ở yên được? Tức bây giờ, ông phải tổ chức một dàn công an kêu là dữ tợn, chứ còn lơ mơ làm sao mà sống nổi? Khó lắm, chứ đâu phải dễ đâu.
Cho nên ở đây, chúng ta nhầm cái mục đích của đạo Phật, chúng ta phải hiểu rõ là nhầm ở chỗ cái Thân – Thọ – Tâm – Pháp, tham, sân, si của chúng ta. Chúng ta phải diệt nó được. Mà diệt vực được thì phải bằng cái pháp nào chứ đâu phải bằng cái pháp, cầu khẩn về Cực Lạc như vậy, đó là cái hiểu sai.
Rồi bây giờ chúng ta lại chấp nhận cái Thiền tông, rồi giờ chúng ta chấp nhận cái Phật tánh, để chúng ta ôm cái Phật tánh đó, để rồi nó có hết được cái tham-sân-si, có làm chủ sinh tử này không? Hay là tới khi mà thọ, thân chúng ta đau nhức, chúng ta cũng nhăn răng, cũng méo miệng ở trên giường bệnh.
Tất cả những cái này là những cái mà chúng ta đã đặt sai cái pháp ở trên bốn cái chỗ này, để làm cho nó thanh tịnh giải thoát. “Đằng này các pháp môn trên không nhằm mục đích làm cho bốn chỗ này thanh tịnh”. Nghĩa là các pháp đó đặt không có đúng chỗ, nó không có làm cho nó được thanh tịnh.
(8:58) Cũng như bây giờ, thay vì chúng ta phải có nước, xà bông nè, rồi có bàn chải nè hay hoặc cái giẻ nè, để mà chúng ta lau cái sàn này. Trái lại, chúng ta lấy thảm, chúng ta trải thêm ở trên này nữa, thì cái lớp bẩn ở dưới này nó càng thêm bẩn thêm, chứ có làm cái gì? Trải thêm nữa thì nó có tốt lành gì đâu? Bẩn là bẩn, chứ bây giờ có trải thêm nó là Cực Lạc đi nữa, nó cũng đâu có làm sao mà nó hết.
Người ta đặt cái pháp môn nó không đúng cái chỗ của nó, mà cái pháp môn nó không đúng cái. Cũng như bây giờ thay vì mình dùng cái miếng giẻ để mình lau cái sàn này cho nó sạch, thì người ta lại dùng cái tấm thảm người ta trải lên, người ta làm cho nó khuất cái bẩn thỉu này đi. Nhưng mà che đậy sao được? Thầy nói che đậy không được đâu.
Cho nên nói, bây giờ mình cầu về Cực Lạc, thì đó là cái tấm thảm để che đậy cái lớp bẩn của bốn cái chỗ bẩn thỉu này. Thiền tông cũng vậy, nó cũng đi tìm một cái Phật tánh, nó che đậy trên cái bẩn thỉu của thân nó, thì làm sao mà nó hết bẩn thỉu được.
“Thiền tông cũng vậy, đi tìm một cái Phật tánh tưởng tượng, mê hoặc kẻ khác bằng bốn tánh Niết Bàn Thường – Lạc – Ngã – Tịnh thì có giải quyết gì được cho Thân – Thọ – Tâm – Pháp thanh tịnh đâu”. Thật sự ra, lấy cái Phật tánh là làm cái tấm thảm để che trên cái sàn nhà dơ, thì nó cũng chẳng giải quyết gì được hết.
(10:21) Ngược lại, chúng ta đem Tứ Chánh Cần đặt ngay trên bốn lĩnh vực này, áp dụng ba loại Định, Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Định Niệm Hơi Thở và Định Vô Lậu siêng năng tu tập, trau dồi, dứt ác, tăng thiện khiến cho bốn chỗ này có sự giải thoát an vui thanh thản ngay liền tức khắc. Rõ không? Các thầy thấy rất rõ mà.
Ngay ở trên chỗ đó, mà mình đặt Tứ Chánh Cần, rồi mình thực hiện bốn cái loại Thiền Định này, nó làm cho ngăn được ác, nó làm cho chúng ta tăng trưởng cái thiện pháp. Sống một cái cuộc sống an lạc, thanh thản ngay liền tức khắc, trong cái kiếp đời tu. Chứ đâu phải mà tu đợi tới chừng chết rồi mới đi về Cực Lạc. Đó, thì nó rõ ràng và cụ thể.
Mà nếu mà, người mà biết được cái sự giải thoát đó thì chúng ta còn tha thiết gì với cái sang, cái đẹp, cái tiền bạc, của cải, xe hơi, nhà lầu ở thế gian này nữa không? Thử hỏi bây giờ mình có khả năng mình làm được những cái đó đi, mà mình cứ giữ được cái đó, đời này đến đời khác cho mình không? Hay là chỉ có cao lắm là trăm tuổi rồi cũng bỏ đi. Làm chi cho cực mà bỏ đi cho người ta ăn.
(11:23) Thành ra trong cái vấn đề đó, chúng ta đam mê nó sai, chạy theo những cái dục lạc thế gian đó, nó có ích lợi gì? Mà nó làm cho bốn cái nơi của Thân – Thọ – Tâm – Pháp của chúng ta càng ô nhiễm thêm, càng đau khổ thêm, có ích lợi gì?
Cho nên chúng ta hiểu biết, cái trí tuệ chúng ta hiểu biết. Chúng ta vô minh, chúng ta thấy mình làm được vậy là thiên hạ nói: mình giàu sang này kia, mình đi ngoại quốc rồi có tiền nhiều. Sự thật ở bên đó hốt rác mới có, dành dụm tiền mới gửi về đây, chứ ở bên đó bộ giàu hơn mình đây sao? Họ còn mạt rệp hơn mình ở đây nữa.
Cho nên thật sự ra, lấy cái giàu thì chúng ta sẽ thấy chúng ta chẳng bằng ai hết. Mà lấy cái nghèo thì chúng ta cũng chẳng nghèo hơn ai hết. Bởi vì chúng ta nghèo còn có người nghèo hơn, mà giàu thì cũng có người giàu hơn. Cho nên chúng ta phải lấy cái trung đạo, chúng ta chẳng sợ nghèo mà cũng chẳng sợ giàu.
Chỉ giữ làm sao cái tâm chúng ta thanh thản an lạc, lìa xa các ác pháp, thì lúc bấy giờ, chúng ta mới thấy được cái sự giải thoát. Còn giàu, biết chừng nào mà gọi là cái mức giàu cho gọi là thỏa mãn chúng ta. Mà nghèo đến cái mức độ nào gọi là nghèo cơ cực của chúng ta đâu.
Cho nên có nhiều người đứng ở trong cái danh giả mà họ tưởng rằng đó là thật. Bây giờ gia đình mình nghèo, ai đâu mà mang cơn mang vở cứ chê gia đình mình hoài sao? Sự thật nghèo mà không khổ, còn người ta giàu người ta khổ thì sao?
Cho nên ngày xưa, ông Trang Tử, ông đi đường, ông mặc quần áo rách rưới, rách vá tùm lum, đội cái nón lá rách bên đây, bên kia tơi tả. Có cái người bạn gặp ông: “Trời ơi! Tôi lâu nay mới gặp ông, ông nghèo khổ quá trời”. Ông nói: “Anh nói trật rồi, tôi nghèo thì có nghèo, chứ tôi đâu có khổ, anh đâu biết tâm tôi khổ không?”.
Có nhiều người nghèo mà người ta không khổ, còn có nhiều người nghèo mà khổ. Nghèo mà nghĩ rằng: “Mình thua người ta”, mình này kia thì mình khổ. Mà cái nghèo mà mình không thấy mình thua ai hết: “Tôi thấy tâm hồn tôi thanh thản, ngày có bữa cơm cũng tốt, mà không có tôi cũng vui, tôi đâu có đòi hỏi cái vấn đề đó đâu. Nghiệp của tôi nó vậy thì tôi an vui nó vậy, cho nên tôi hoàn toàn giải thoát, không ngó lên mà không ngó xuống. Phước báu tôi có, tôi chẳng lo nó cũng giàu, mà tôi không có phước báu thì bây giờ tôi có muốn giàu, nó cũng không giàu được”.
(13:31) “Cho nên, cái lý của Phật pháp là giúp cho chúng ta từ cái tri kiến hiểu biết đó, nó giúp chúng ta làm cho bốn cái chỗ này càng thanh tịnh”. Bởi vậy khi mà, chúng ta tu hành mà chúng ta không có đặt cái pháp mà tu đúng thì chúng ta không có giải thoát được, một kết quả không có thời gian, chờ đợi.
Nghĩa là, khi mà chúng ta đặt Tứ Chánh Cần vào mà chúng ta tu ba cái Định rồi, thì kết quả nó ngay liền tức khắc, chứ không phải có thời giờ. Chúng ta sẽ thấy có sự giải thoát nơi Thân – Thọ – Tâm – Pháp của chúng ta. “Chỉ ai có nhiệt tâm, quyết tìm đường thoát khổ của kiếp làm người thì sẽ được giải thoát liền”. Nghĩa là ngay liền chúng ta được giải thoát hoàn toàn.
Chứ không phải là tu phải năm tháng, ba tháng mà ngay liền chúng ta thấy sự giải thoát. Từ cái sự giải thoát nhỏ đó, chúng ta kéo dài cái thời gian đó, chúng ta sẽ thấy cái sự giải thoát lớn. Từ đó, chúng ta sẽ thấy làm chủ được sự sanh tử chấm dứt được luân hồi. “Đây là đặt đúng pháp, tu đúng chỗ nên cuộc sống được giải thoát hoàn toàn”. Nghĩa là chúng ta đặt đúng cái pháp, cái pháp đó phải đặt đúng.
Cũng như bây giờ, chúng ta chưa có tu Tứ Chánh Cần, mà chúng ta vội ức chế tâm của mình bằng pháp môn Sổ Tức hay hoặc là Định Niệm Hơi Thở đi, đó tức là chúng ta đã đặt pháp sai. Thay vì cái pháp đó đúng chứ không phải sai, từ cái Định Niệm Hơi Thở cho đến cái Tứ Chánh Cần. Nhưng mà biết rằng chúng ta phải tu như thế nào? Cái pháp nào đặt đúng cái vị trí nó? Mà trong cái lúc chúng ta mới tu hay là tu lâu? Tu lâu thì chúng ta phải đạt được những kết quả nào? Rồi chừng đó, chúng ta mới tiến tới tu các pháp khác.
Còn bây giờ, chưa gì chúng ta đảo lộn. Cũng như một người chưa có tu giới luật, thì bắt đầu họ lại tu trí tuệ hay hoặc là họ tu thiền định. Thì thử hỏi họ tu ngược ngạo như vậy, làm sao họ có được cái Chánh Định đâu? Họ làm sao họ được cái Chánh Tuệ đâu? Cho nên tất cả những cái mà họ được đều là tà Tuệ, tà Định chứ không phải là Chánh Mạng. “Cho nên mình tu hành mà không có bậc thiện hữu tri thức chỉ cho mình biết cái pháp, đặt đúng cái thời điểm, đặt đúng trong cái giai đoạn của mình tu tập thì mình sẽ tu sai”.
Như từ lâu tới giờ, Thầy không dám triển khai các cái pháp này sợ đụng chạm. Các vị Tôn túc, các bậc Hòa thượng họ đã giải thích sai cái Phật pháp. Cho nên sợ làm động các thầy, mà các thầy đó là những bậc thầy Tổ của mình. Mình nói ra thì sợ làm mấy ổng mắc cỡ đi, rồi mấy ông gây gổ với mình đi, rồi coi mình không ra gì đi. Thì thầy trò nó có những cái sự chướng quá, cho nên không dám nói, làm thinh mà chịu.
(16:03) Cho đến bây giờ, mới dám bạo gan, hé miệng nói chút là tại vì mình lớn tuổi rồi, sắp sửa chết rồi, không dám nói, để mai mốt chết rồi ai nói cho. Cho nên Thầy thấy, bây giờ Thầy sáu mươi mấy tuổi rồi, mà Thầy không dám nói nữa đâu thì chắc chắn là mai mốt chết rồi ai dám nói? Còn nhỏ nhỏ tuổi thì đâu dám nói. Lúc mà Thầy mới bốn mươi, năm mươi tuổi còn sức khỏe, nói đâu được. Mấy ông đó ông lớn tuổi, ông nẹt mình chết được. Còn giờ lớn rồi, chắc ông cũng thấy mình già rồi, thôi cũng nói sơ sơ thôi, chứ cũng không dám nói lung.
Chứ còn nhỏ nhỏ như thầy bây giờ, như Mật Hạnh nhỏ nhỏ vậy đó, mà nói bậy là Thầy tát tai liền. Bởi vì nó còn nhỏ, mình có thể la mắng nó được, dù la bậy nó cũng không dám nói. Còn bây giờ, Thầy già rồi như cỡ này, mà các Hòa thượng có rầy đi nữa, họ cũng nói nhẹ nhẹ, chứ họ cũng không nói quá lố. Cho nên già rồi, dám ăn dám nói, chứ còn nhỏ nhỏ nói bậy chúng đánh được. Cho nên ở đây, bây giờ Thầy nói thẳng thì họ có rầy la thì họ cũng nói: “Ờ, nó cũng lớn rồi thôi ít ít, nói ít ít thôi”. Đó là cái tâm lý mà, mình phải hiểu chúng vậy.
Cho nên bây giờ, dám nói thẳng, từ cái ngày nói thẳng thì cho nên phải đặt đúng pháp để mà tu. Vì vậy mà trong lúc này, người nào mà đủ duyên bước vào, mà mới tu đó, Thầy nói đúng pháp thì các con sẽ tu nhanh.
Mà trước kia không có dám nói, nói sợ các thầy mình, ổng buồn thứ nhất. Thứ hai ông già rồi, ông buồn ông chết thì ông đổ tội cho mình, là tại mình nói ông buồn tức ông chết, thì mình cũng ăn năn hối hận. Còn bây giờ đó, mình già rồi, thì ông cũng già rồi, bất quá thì mình nói, ông có giận mình ổng chết, mình cũng chết theo ổng cũng không gì, thầy trò cùng chết nhau có gì đâu.
Cho nên bây giờ cứ nói thẳng thôi, mà nói thẳng thì để làm sao? Để cho cái thế hệ sau này, người ta biết được cách thức tu tập, người ta không có lầm lạc đường tu của đạo Phật. Người ta không mất thì giờ, người ta tu mau thành tựu, người ta mới tu giải thoát được. Cho nên ở đây, Thầy mới mạnh.
“Nếu chúng ta đặt Tứ Thánh Định trên bốn lĩnh vực này, để trau dồi tu tập và rèn luyện, khiến cho bốn chỗ này trở thành một đạo lực kinh khủng, một đạo lực kinh hồn làm chủ được sự sống chết của kiếp người”.
Nghĩa là khi mà chúng ta đặt cái Tứ Chánh Cần trên cái này, chúng ta tu các Định thì chúng ta sẽ dứt ác mà tăng trưởng thiện pháp làm cho tâm của chúng ta giải thoát. Làm cho cuộc đời chúng ta sống cuộc sống của chúng ta hàng ngày chúng ta thấy an vui thanh thản. Không có còn khổ sở, không còn lo lắng, thương, ghét ai hết, không còn giận hờn cái gì hết, đó là chúng ta đặt đúng cái Tứ Chánh Cần.
Còn bây giờ, nếu mà chúng ta đã thấy được cái tâm ly dục, ly ác pháp rồi, thì bắt đầu chúng ta đem Tứ Thánh Định chúng ta đặt lên trên đó mà chúng ta tu, nghĩa là trên bốn cái chỗ này nè. Chứ Tứ Niệm Xứ nó không có pháp nào hết, nó phải lấy các pháp đó mà để thực hiện ở trên nó.
(18:39) Cho nên lúc bấy giờ, chúng ta đặt Tứ Thánh Định trên này mà chúng ta tu. Thì từ cái chỗ Tứ Thánh Định này, nó tạo thành cho chúng ta có một cái đạo lực kinh hồn. Nghĩa là muốn làm chủ được cái sự sống chết của chúng ta rất dễ dàng. Chỉ có Tứ Thánh Định này, nó mới có thể làm chủ được sự sống chết.
Còn ngoài cái bốn Thánh Định này, thì không có một thứ thiền định nào mà làm chủ được sự sống chết đâu. Bởi vì, có thứ thiền định nào mà nói rằng tịnh chỉ hơi thở, các hành trong thân ngưng? Chỉ có Tứ Thánh Định này mới dám xác định được. Khi mà tu mà nhập vào cái định đó thì hơi thở phải ngưng, các hành trong thân ngưng, không có thở nữa.
“Vì thế mà chúng ta biết nó đã lầm …”. Vì cái người sống là còn thở, mà người chết có thở không? Ở đây, quý thầy và các con, bên nữ các con thấy rõ không? Cái người chết có thở không? Nếu mà còn thở ai dám nói người đó chết. Thế mà cái người mà nhập Định, hơi thở ngưng hoàn toàn mà không chết, thì không phải là làm chủ được cái sự sống chết sao? Nó rõ ràng.
“Vì thế, chúng ta đã làm chủ được sanh, già, bệnh, chết đạt được mục đích thoát khổ của đạo Phật”. Bởi vì, chính cái mục đích của đạo Phật là nhắm vào cái chỗ sanh, già, bệnh, chết để mà chúng ta đạt được cái đó. Chứ không phải đi đạt được cái Phật tánh hay hoặc là đạt được cái cảnh giới Cực Lạc. Hay hoặc là đạt được cái thần thông phép tắc như Mật tông, nó không có chuyện đó đâu.
Ở đây cái mục đích của nó là nhắm vào sanh, già, bệnh, chết bốn cái khổ của kiếp người. Mà chúng ta đạt được cái mục đích đó, thì tức là đạt được cái mục đích của đạo Phật. Đạo Phật ra đời là nhằm giải quyết cái khổ của con người, là giải quyết cái đời sống.
Sanh là cái đời sống hàng ngày chúng ta tiếp duyên nhau, chúng ta sanh sống. Chúng ta làm chuyện này, chuyện khác, mà luôn luôn lúc nào chúng ta cũng thanh thản, an vui, không có sự gì buồn rầu, giận hờn, phiền não thì như vậy là chúng ta đã làm chủ được cái sanh.
Rồi bây giờ già, chúng ta làm chủ cho cái thân của chúng ta nè, đừng có già nè. Thì chúng ta đi vào ở trong bốn cái thiền định này thì chúng ta sẽ làm chủ ngay. Bây giờ cái bệnh này, bệnh thì nó đau, nó nhức, nó khổ sở. Mà bây giờ cái thân của chúng ta, nó làm chủ được cái bệnh. Khi nó đau chúng ta bảo đừng đau thì nó không đau, thì đó thật là chúng ta làm chủ được nó rồi.
Cho nên, nhân quả chúng ta làm chủ rồi, và bây giờ chết thì hơi thở phải ngưng. Thế mà nó ngưng mà chúng ta chưa có bỏ cái thân này, thì chúng ta phục hồi cái sự sống, nó thở lại nó sống, rõ ràng là chúng ta làm chủ được cái sống chết rồi. Đó là cái mục đích của đạo Phật.
(21:13) “Ngược lại các pháp môn kia, giỏi lý luận, hí ngôn, mơ hồ, trừu tượng, huyễn hoặc, không thực tế và cụ thể. Nên càng tu thì càng chạy theo danh lợi, ác pháp trên bốn lĩnh vực này càng tăng trưởng nhiều hơn”. Nghĩa là trong khi đó, người ta tu những cái pháp kia đó, thì mình thấy rõ ràng, càng ngày nó càng sai lệch, nó càng phá giới.
Tịnh Độ, thì các thầy tu riết rồi, thì ông nào cũng có vợ có con, rồi cái chùa biến thành cái gia đình, sanh sống làm ăn, làm nghề này nghề kia. Người khéo léo thì làm nghề thầy thuốc, người vụng thì họ làm những cái chuyện khác, cày bừa, nuôi heo, gà, vịt.
Chắc chắn là quý thầy có tiếp giới trong cái thời mà Tịnh độ hưng thịnh, thì các chùa đều là sống cái kiểu đó. Thậm chí như bây giờ, cái ông thầy chùa ở cái chùa đó mà ông có ruộng, có lúa này kia. Qua cái mùa có cá, ông (22:00) cầm sào ông bắt cá, ổng ăn thịt hết. Thì như vậy là rõ ràng là như thế nào? Y như cái người thế gian, chứ đâu còn cái gì nữa, đâu có khác nhau.
Mà bây giờ đó, thí dụ như mấy vị đó hiện bây giờ, họ đều là nằm ở trong Tịnh Độ, và bây giờ họ lại làm lớn ở trong giáo hội nữa. Rõ ràng là họ đi làm (22:20) sai bắt cá, họ chích lù, họ đi đặt ở theo cái đường nước chảy ở ruộng để mà bắt cá ăn. Mà bây giờ họ làm lớn, thì thử nghĩ coi cái giáo hội của chúng ta như thế nào? Nó lạ lùng lắm, nó lạ lùng lắm, thật sự nó rất là lạ lùng. Đạo Phật gì kỳ cục, thầy chả biết được.
Mà từ cái chỗ những pháp môn sai đó nó không làm cho họ thanh tịnh, nó không làm cho họ dứt ác, mà họ làm ác, mà họ vẫn là một vị tu sĩ. Nó nhục nhã, vì thấy những hình ảnh đó mà đau lòng, mà đau đớn.
Còn ngồi ăn, trong cái mâm ăn như thế này, bình thường họ ăn thịt cá chúng sanh như thường, họ coi không có thương yêu gì hết. Thậm chí, có thầy họ cũng làm lớn chứ không phải không, bánh mì người ta nhồi thịt vậy, ổng lại, ổng (23:00) nắm xé hai vậy cái ổng ăn. Ông coi như ở trong đó đậu hũ không à. Trời đất! Thầy nói thiệt ra, Thầy ngồi mà Thầy sượng sùng. (23:06)Trời ơi! Mình cái đầu cạo cũng giống như ổng, ổng đầu cạo mà làm như vậy, không biết là thiên hạ biết được họ cười cả đám nhau hết. Họ nói: “Ông này cũng khéo giữ vậy thôi, chứ cũng vậy thôi, không có gì hết”. Đó là những cái mà làm đau khổ, mà chính Mật Hạnh là đi với Thầy đã chứng kiến được cái điều đó rất rõ.
“Chúng ta lần lượt triển khai Tứ Niệm Xứ, mà đức Phật đã xác định dạy chúng ta tu tập những pháp nào trên đó”. Nghĩa là chúng ta triển khai ra cái Tứ Niệm Xứ này, và trong khi đó, chúng ta tu về cái thân như thế nào? Tu về cái tâm như thế nào? Tu về cái thọ như thế nào? Tu về các pháp, phải dùng các pháp như thế nào để tu? Thì ở trên cái chỗ mà chúng ta tu tập đó, thì chúng ta phải biết rất rõ những cái pháp nào đặt ở trên bốn chỗ này mà tu tập.
(23:55) “Trước tiên thì chúng ta nên theo cái bảng tóm lược của Tứ Niệm Xứ”. Nghĩa là nó tóm lược lại, chứ Tứ Niệm Xứ nó rộng rãi lắm, nó mênh mông lắm. Bốn cái chỗ này, chứ mỗi một cái chỗ nói ra nó rất nhiều. Cho nên chúng ta phải theo cái bảng tóm lược, để rồi từ cái chỗ tóm lược đó, chúng ta mới giảng ra từng cái phần một. Và mỗi cái phần một, nó sẽ sử dụng cái pháp gì ở trên cái phần đó để tu tập.
Cho nên càng giảng ra thì Thầy e rằng các thầy và cũng như là các con nó hơi rối trí. Nhưng nhớ kỹ, những gì mà Thầy dặn, đừng có nên mà để cái tâm nghe để mà hiểu biết Tứ Niệm Xứ. Bởi vì từ lâu tới giờ, Thầy không muốn giảng Tứ Niệm Xứ là vì cái Tứ Niệm Xứ là cái nơi mà để chúng ta đem các pháp đến đó, mà để chúng ta gọt rửa, trau dồi làm cho bốn cái chỗ này thanh tịnh.
Cho nên, nó phải có những cái chi tiết của nó ở trong đó. Thân – Thọ – Tâm – Pháp nó có những cái chi tiết của nó trong đó rất là lớn. Mỗi chi tiết nó phải thực hiện như thế nào? Chứ không phải là đơn sơ đâu. “Để nhận xét phải tu chỗ nào trước, chỗ nào sau, pháp nào trước, pháp nào sau”.
Nghĩa là chúng ta phải tóm lược cái bảng này. Để rồi từ cái chi tiết đó chúng ta mới đặt. Bây giờ muốn tu cái chi tiết chỗ này của Tứ Niệm Xứ nè, thì phải tu như thế nào? Bởi vì trong cái, thí dụ như bây giờ trên cái thân nó là tổng quát hết cái thân. Nhưng mà cái thân hành nó khác, mà cái nhân tướng của nó khác, mà cái hành tướng nó khác. Rồi hành tướng ngoại, hành tướng nội, rồi vừa hành tướng nội vừa hành tướng ngoại, nó nhiều cái việc ở trong đó lắm. Cho nên, nó không thể đơn giản được.
Vì vậy mà giảng về cái thân, rồi cái thọ, rồi cái tâm, rồi cái pháp mà cái nào nó cũng nhiều như vậy hết thì thử hỏi, nếu mà đem ra giảng sơ sơ thì chúng ta không thấy lối đâu. Mà chúng ta phải giảng từng cái, Rồi từng cái định, chúng ta đặt trên đó, chúng ta phải tu như thế nào để cho nó phù hợp, để cho nó đúng pháp.
Đó là cái phần mà giới đầu, giáo đầu cho cái Tứ Niệm Xứ hôm nay và cái phần mà đi vào chi tiết để Thầy sẽ… Bởi vì, sau khi nó sẽ trở thành, viết thành một cái cuốn sách, cái pháp tu nó thành khi in ra thành sách. Để sau này cái này khi mà in ra rồi, như Thầy giảng ở trong này, thì các con thấy rằng cái lời nói của Thầy thì nó hơi đụng chạm với các Ngài. Nhưng mà khi viết nó thành sách thì không có đụng chạm ai hết. Nghĩa là trên bốn lĩnh vực này làm cho nó thanh tịnh. Cho nên cuốn sách này, chúng ta có thể xin phép ở đâu cũng được.
Nhưng dù có muốn xin phép như thế nào, chắc chắn là Thầy cũng gửi cho Chánh Trực, cho Chánh Đức là vì có cái sự quen thân, có sự quen biết rồi. Từ cái cuốn đầu tiên được cái giấy phép, cho đến những cái cuốn kế sau đó, nó khỏi mình phải đi lòng vòng chỗ này, chỗ kia rồi phải…
Bởi vì đời nó không có đơn giản, muốn làm cho nên việc một cái gì, thì tức là phải có quà biếu hay hoặc là có cái này kia, chứ khi không người ta không có làm cho mình được đâu. Và cái chỗ nào mà nó đã quen rồi thì nó dễ hơn, và đồng thời người ta cũng thấy rằng cái sách của mình nó không có ảnh hưởng chính trị.
(26:47) Cho nên người ta thấy đó là cái đường xây dựng tốt cho Phật pháp, cũng là một cái điều nêu lên để rõ ràng cái pháp tu. Thì Chánh Đức cũng quen thân được từ cái tác phẩm thứ nhất, xin phép được cho đến những cái tác phẩm thứ hai, thứ ba. Chắc chắn là trong cái vấn đề mà xin phép thì Thầy giao cho Chánh Đức sau này.
Thì đây là những cái điều kiện mà Thầy viết ra. Nhưng mà cái tài liệu viết ra đây được thì Thầy cũng in một số ít, phát cho quý thầy trong nội bộ của mình biết để mà tu tập. Cho nên cái bảng tóm lược này, rồi sau cái bảng tóm lược này, thì chúng ta sẽ giảng từng chi tiết của nó.
Cái bảng tóm lược thứ nhất là về cái bài pháp Tứ Niệm Xứ này, thì trước tiên là về cái mục lục của nó thì chúng ta cũng phải cho lời tựa rồi. Lời tựa để giới thiệu về cái bốn lĩnh vực này. Thì cái chương thứ nhất của nó, thì nó nói về bốn cái lĩnh vực quan trọng, tức là bốn cái nơi quan trọng này. Tức là cái đề mục của chương thứ nhất là bốn cái lĩnh vực quan trọng, chứ nó không nói Tứ Niệm Xứ. Mà nó nói bốn lĩnh vực quan trọng, nó rất quan trọng cuộc đời tu tập của chúng ta.
Cái tiểu mục của nó trong bốn lĩnh vực này, thì cái tiểu mục của nó là bốn cái chỗ thường sanh đau khổ của kiếp người. Nghĩa là mình nêu lên cái thân nó sẽ sanh đau khổ gì? Cái tâm nó sanh đau khổ gì? Cái thọ nó đem đến cái đau khổ gì? Và các pháp nó đem đến đau khổ gì cho chúng ta?
Thì mình muốn biết rõ được bốn cái lĩnh vực này nó quan trọng đến cái mức độ nào cho cái cuộc đời tu hành, thì chúng ta phải biết cái khổ của nó trước tiên để rồi chúng ta mới tu tập. Làm cho bốn cái chỗ này nó thanh tịnh, nó không còn khổ đau nữa.
Cho nên, đem bốn cái chỗ này ra, để mà chúng ta nói, thấy cho rõ, phân tích cho rõ, cho rõ ràng, để chúng ta thấy được cái khổ của cái thân như thế nào, rồi cái tâm như thế nào, rồi các cái cảm thọ của chúng ta đối với Thân – Thọ – Tâm – Pháp. Rồi các pháp ở ngoài nó đánh đập vào, nó xâm chiếm vào, nó làm cho chúng ta vì các pháp nó làm chúng ta dễ phiền não, sân, hận, sợ hãi, lo lắng, buồn phiền, thương ghét, nhớ mong đủ cách, các pháp nó đến với chúng ta.
Bốn cái chỗ này là bốn cái chỗ, nó đem đến cái đau khổ của kiếp người. Mà chúng ta vạch cho họ thấy từng cái chỗ đau khổ của bốn cái chỗ này, cho ai cũng thấy cho rõ ràng.
(29:09) Thì trong bốn cái chỗ này, nó phải có cái nhân tướng của nó, rồi nó phải có hành tướng của nó, rồi nó có đặc tướng của nó. Thì cái nhân tướng của nó, do cái thân nó có cái nhân tướng, do cái tâm nó có nhân tướng, do cái thọ có nhân tướng của thọ, do các pháp có nhân tướng của các pháp. Rồi trong những cái nhân tướng của Thân – Thọ – Tâm – Pháp đó, thì nó có cái hành tướng của Thân – Thọ – Tâm – Pháp của hành tướng. Rồi hành tướng nội, hành tướng ngoại, rồi cái hành tướng nội và ngoại đồng thời luôn.
Thì trong mỗi một cái tiểu mục như vậy ấy, nói về hành tướng của nó, thì chúng ta cũng phải nói tất cả những cái hoạt động. Nói về hành thì tức là nói về hoạt động, còn nói về cái nhân tướng, tức là nói cái tướng của nó. Cái tướng trạng của nó, để chúng ta hiểu biết được cái tướng trạng của nó. Như bây giờ nói về thân tướng của chúng…
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 09
KHAI THỊ GIỚI ĐỊNH TUỆ
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [45:58]
Thời gian: 2002
Tên cũ: 05A-KhaiThiGioiDinhTue
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-09-khai-thi-gioi-dinh-tue.mp3
(00:00)…Sanh Tuệ là vậy, Tuệ không có nghĩa là trí tuệ hiểu mênh mông, cái gì cũng hiểu hết, mà không đúng vào con đường giải thoát thì cái sự hiểu đó cũng là cái hiểu sai, không có đúng. Cho nên cái hiểu này, bây giờ nó rõ thấu được, thứ nhất là do lậu hoặc mà con người khổ. Nó rõ thấu được là Tứ Diệu Đế là: cái khổ, nguyên nhân mà nó tập hợp những sự đau khổ, rồi diệt cái khổ đi, diệt nguyên nhân khổ đi thì ngay đó là một trạng thái giải thoát. Rồi từ đó nó suy ra, nó biết được tám cái nẻo để đi đến cái chỗ mà Diệt Đế, đi đến cái chỗ giải thoát đó.
Cho nên nó thấu rõ, thấu rõ thật rõ. Vì vậy mà nó thấu rõ thật rõ thì hoàn toàn lậu hoặc nó sẽ đoạn dứt. Còn bây giờ chúng ta hiểu biết bằng cách là chúng ta được người khác dạy cho hiểu biết, nhưng chúng ta chưa thấu rõ. Thấu rõ phải do có định, tâm có định, nó lóng sáng thì lúc bấy giờ chúng ta mới thấu rõ nguồn gốc của sự đau khổ của con người.
Cho nên trong Tứ Thánh Định Đức Phật dạy rằng: “Ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền, do ly dục sanh Hỷ Lạc”. Khi nào tâm định trên thân, thân định trên tâm thì hướng đến Tam Minh sẽ thấy rõ.
Bây giờ từ cái chỗ mà chúng ta ly dục ly ác pháp chúng ta mới nhập được Sơ Thiền. Thì ở trong Tứ Thánh Định xác định rõ từ cái chỗ mà Thiền thứ nhất thì chúng ta phải đi vào cái Giới nó mới sanh ra được cái Định. Từ cái định đó thì chúng ta mới thấy được thân định trên tâm và tâm định trên thân. Lúc bấy giờ cái thân mà nó định thì nó bất động, nó không còn thở nó mới định, nó còn thở thì làm sao mà nó định được. Cho nên khi mà nó định trên tâm của nó được rồi, lúc bấy giờ chúng ta hướng tâm của mình đi đến Tam Minh thì mình sẽ thấu rõ.
Thấu rõ thứ nhất như thế nào? Một là Túc Mạng Minh, hai là Thiên Nhãn Minh, ba là Lậu Tận Minh. Ba Minh này đã viên mãn tức là trí tuệ giải thoát của Đạo Phật hiển hiện. Hành giả sẽ hoàn toàn giải thoát, làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi. Ngược lại Đạo Phật Đại Thừa…
(02:13) Đó thì cái đạo Phật mà chúng ta tu theo cái đường lối của Đạo Phật thì khi mà chúng ta đủ Tam Minh thì chúng ta chấm dứt sanh tử luân hồi. Chúng ta hoàn toàn là không còn tu tập nữa, nghỉ ngơi cho khỏe, chớ chúng ta hết có cái pháp nào mà gọi tu nữa.
Còn bây giờ nói về cái Đạo Phật Đại Thừa, tức là đạo Phật Phát Triển. Ngược lại đạo Phật Đại Thừa thì Bắc Tông và Thiền Tông thì:
Lấy kiến thức học tập làm trí tuệ. Lấy sự mà huân học, hiểu bài học này, bài kinh kia, hiểu biết rộng rãi thì đó gọi là trí tuệ, sự hiểu biết.
Lấy ức chế tâm làm Thiền Định. Lấy cái chỗ mà ức chế dùng cái pháp môn mà ức chế cái tâm mình, để làm cho cái Tầm Tứ nó không khởi lên cái niệm, thì họ lấy cái pháp đó họ tu. Lấy cái học và lấy cái pháp ức chế đó mà họ tu tập.
Còn giới Luật thì không cần giữ gìn nên Đức Hạnh của một vị Tỳ Kheo và Tỳ Kheo ni không có. Cho nên nhìn vào cái Giới mà Phật Giáo Đại Thừa với Thiền Tông, thì cái Giới Luật họ không có nghiêm chỉnh.
Họ ăn uống phi thời, họ sống trong chùa to tháp lớn, họ sống trong những cái vật chất đầy đủ, không thiếu một thứ gì hết. Do đó cái tâm của họ nó chạy theo những cái dục lạc của thế gian. Đời có những vật gì, thì ở thế gian người ta giàu có, người ta có vật gì thì ở trong chùa họ cũng có những vật nấy, họ không thua gì ở ngoài đời chút nào hết. Nghĩa là đời sống của họ cũng đầy đủ vật chất như các người khác, chứ không có thua.
Do cái chỗ mà họ không có giữ gìn Giới, cho nên cái đời sống của họ nó thiếu cái hạnh, nó thiếu cái Đức Hạnh của một vị Tỳ Kheo. Họ cứ nghĩ rằng khi mà họ tu, họ học hiểu rồi, họ tu cái pháp Thiền Định mà ức chế tâm, sau khi đạt được thì Giới Luật họ nghiêm chỉnh, họ nghĩ như vậy.
(04:05) Cuộc sống của tu sĩ “Đời chẳng ra đời, Đạo chẳng ra Đạo, danh lợi giống như người thế gian”.
Đó thì các thầy quán xét những cái lời mà Thầy giải thích cho cô Diệu Quang có đúng hay là không? Rất là đúng trong cái hiện đại. Vì chúng ta đang tiếp xúc với các thầy tu Thiền Tông và các thầy tu theo pháp môn Đại Thừa, thì chúng ta thấy được đời sống của họ rõ ràng cụ thể, chứng minh cho lời nói của Thầy không có vu khống họ chút nào.
Nhưng chúng ta cũng biết rằng trong cái giới tu sĩ hiện giờ, có những người rất là tha thiết, họ không có nề hà cái sự mà giữ gìn Giới Luật. Nhưng họ chưa biết pháp môn, cho nên họ đang sống trong cảnh họ đang lầm lạc mà họ chưa biết cái pháp môn chân chánh để họ quày đầu, đi hướng về con đường của Đạo Phật. Nếu một ngày nào họ biết rằng Giới Luật để đưa họ đi vào cái chỗ giải thoát, tâm thanh tịnh. Để đi đến Thiền Định chân chánh của Đạo Phật, nhập được bốn thiền, Tứ Thánh Định đó, thì chắc chắn là họ sẽ quày đầu trở lại rất nhanh. Họ không có hề mà ham danh, ham lợi, ham chùa to, tháp lớn, mà họ chỉ còn đi chọn lấy một cuộc đời giải thoát như Đức Phật và các bậc Thánh Tăng mà thôi. (05:20)
(05:30)…của các tu sĩ hiện giờ bị cám dỗ là độc cư. Các thầy và các con nghe Thầy giải thích cái chỗ độc cư. Bởi vì cô Út hỏi để cho biết rõ, để không khéo các con chỉ hiểu một cách rất phiến diện. Chỉ biết á khẩu làm thinh là độc cư, điều đó là điều sai.
Trước các pháp tâm không bị cám dỗ là độc cư. Trước những người thân quyến thuộc tâm không động lòng thương ghét là độc cư. Trước những lời mạ nhục, phỉ báng tâm không giận hờn, phiền não là độc cư. Trước những cảnh thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất thọ khổ tâm không dao động là độc cư. Trước những cảnh éo le đau khổ của kẻ khác tâm vẫn thanh thản, an nhiên, bất động là độc cư. Trước những cảnh chết chóc như chỉ mành treo chuông, tâm vẫn thản nhiên, bất động là độc cư. Trước những cảnh ác thú và giặc cướp tâm vẫn an nhiên, bất động là độc cư. Chứ không phải độc cư là không nói chuyện.
(06:26) Đó cuối cùng Thầy xác định cho các thầy thấy trong cái vấn đề đó như vậy. Nhưng mà hạnh độc cư …
Thân hành Niệm, kinh Thân Hành Niệm. Cái tên kinh nó là Thân Hành Niệm. Bài kinh nó như thế này, Thầy xin đọc lại cái nguyên văn của nó:
“Như vầy tôi nghe, một thời Thế Tôn trụ ở nước Xá Vệ, tại rừng Kỳ Đà, tịnh xá của ông Cấp Cô Độc, rồi một số đông đảo Tỳ Kheo sau khi buổi ăn, sau khi đi khất thực trở về đang ngồi tụ họp tại hội trường, câu chuyện này được khởi lên giữa Tăng chúng.”
Nghĩa là sau khi đi khất thực, ăn cơm xong rồi thì các vị Tỳ Kheo này mới hội họp ở hội trường, rộng lớn như là cái Tổ đường của mình ở đây vậy đó. Họ họp nhau, rồi họ ngồi mới nói chuyện với nhau về cái pháp tu. Thì có một vị Tỳ Kheo mới khởi sự nói ra cái điều này:
“Thật là vi diệu thay này chư Hiền Giả, hy hữu thay chư Hiền Giả. Thân Hành Niệm khi được tu tập và làm cho sung mãn, có được quả lớn, có được công đức lớn như đã được Thế Tôn, bậc Trí giả, Kiến Giả, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố. Và câu chuyện này, giữa các vị Tỳ Kheo ấy đã bị đoạn diệt.”
Nghĩa là cái câu chuyện mà đang tuyên bố, nói ra như vậy thì đến đây thì cái câu chuyện đó bị gián đoạn đi, bị không có còn nói nữa. Thì lúc bấy giờ Đức Phật trong cái buổi chiều, mà họ đang bàn bạc về cái vấn đề Thân Hành Niệm, cái pháp Thân Hành Niệm thì trong khi đức Phật từ cái Thiền Tịnh Độc Cư, Ngài mới đứng dậy đi đến cái hội trường, đi đến cái chỗ mà các chúng Tỳ Kheo mà đang ngồi mà nói chuyện, bàn chuyện nhau, thì đức Phật đi đến đó thì các vị Tỳ Kheo ngưng, không có nói nữa. Tức là gián đoạn cái câu chuyện, không có tiếp nữa. Cho nên khi mà đức Phật đến hội trường, thì đức Phật mới hỏi: Đây cái đoạn mà chỗ mà đức Thế Tôn, Thầy xin đọc tiếp:
(08:37) “Thế Tôn vào buổi chiều từ Thiền Tịnh Độc Cư đứng dậy đi đến hội trường. Sau khi đến ngồi lên chỗ soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Ở đây này các Tỳ Kheo, các ông hiện nay đang ngồi bàn vấn đề gì, câu chuyện gì mà các ông bị gián đoạn?”.
Nghĩa là các ông thấy tôi mà các ông ngưng lại đi, không có nói nữa, đó là câu chuyện gì? Thì đức Phật hỏi các vị Tỳ Kheo như vậy. Thì có một vị Tỳ Kheo đứng lên bạch như thế này: “Ở đây, bạch Thế Tôn, sau khi ăn xong, sau khi đi khất thực trở về, chúng con mới ngồi tụ họp ở hội trường và câu chuyện sau này được khởi lên. Được một vị Tỳ Kheo khởi lên nói:
“Thật vi diệu thay chư Hiền Giả, thật hy hữu thay chư Hiền Giả. Thân Hành Niệm này được tu tập làm cho sung mãn, có quả lớn, có công đức lớn đã được Thế Tôn, bậc Y giả, Kiến Giả, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố. Bạch Thế Tôn câu chuyện này của chúng con chưa bàn xong thì Thế tôn đã đến. ”
Thì đức Phật nghe vị Tỳ Kheo đó nhắc trở lại cái chuyện mà các vị đang bàn về cái vấn đề mà cái pháp Thân Hành Niệm. Thì đức Phật nói:
(09:59) “Này các Tỳ Kheo Thân Hành Niệm tu tập như thế nào làm cho sung mãn? Như thế nào có quả lớn, có công đức lớn?
Ở đây này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo đi đến một khu rừng, hay đi đến một gốc cây, hay đi đến một ngôi nhà trống và ngồi kiết già, lưng thẳng, và an trú chánh niệm trước mặt.”
(10:18) Chánh niệm là cái niệm, giữ lấy cái niệm chân chánh đó là về cái niệm hơi thở. Thì thay vì thì ở đây cái bài Thân Hành Niệm, đầu tiên thì chúng ta phải dạy Thân Hành Niệm ngoại. Mà ở đây, cái bài này ngay từ vô thì Đức Phật lại dạy cái Thân Hành Niệm nội, tức là hơi thở. Cho nên nó không có thứ lớp, cái (mà) chúng ta thấy nó rõ ràng.
Theo Tứ Niệm Xứ thì Đức Phật có dạy rất rõ “Trên thân quán thân mà tu về nhân tướng để khắc phục tham ưu thì tu về nhân tướng của nó”. Nó không có hành, mà tu về cái nhân tướng, chứ không phải hành tướng.
Mà trên thân quán thân tu về Hành Tướng Ngoại thì đó là tu ở trong hành động như đi kinh hành, hoặc làm công việc của thân của mình, gọi là hành tướng ngoại.
Trên thân quán thân mà tu về Hành Tướng Nội, đó là hơi thở ra, hơi thở vô thì nó mới đúng cách. Đó là trên Tứ Niệm Xứ đã dạy như vậy.
Còn ở đây vào cái bài Thân Hành Niệm thì chúng ta phải dạy ngay cái hành động ngoại trước, và hành động nội sau. Bởi vì hành động nội, nó nhắc cho chúng ta để đi vào một cái con đường Thiền Định, để làm chủ được sự sống chết. Vì vậy mà nương vào hành động nội này thì chúng ta sẽ khắc phục. Như Thầy đã dạy Tứ Chánh Cần, thì chúng ta nương vào hành động ngoại để mà ngăn chận không cho các ác pháp sanh và nương vào hơi thở để ngăn chặn không cho các ác pháp sanh. Hành động nội và hành động ngoại chúng ta phải tu cái nào trước?
Bởi vì cái hành động nội nó rất khó, là vì chúng ta ngồi kiết già, thì chúng ta không thể kéo dài cái thời gian dài một, hai tiếng đồng hồ, không thể dài được. Thứ nhất là ngồi kiết già hai chân đau tê, thì không thể ngồi rồi. Mà bị Thọ đánh thì không bao giờ mà còn nhiếp tâm, ở trong tỉnh thức, ở trong hơi thở được. Chúng ta phải thấy cái kinh nghiệm dạy chúng ta biết điều đó mà.
(11:58) Cho nên ở đây mà nếu mà ngồi như vậy, hít thở như vậy thì cái thời gian chúng ta chỉ có ngắn ba mươi phút mà thôi. Cái sức chúng ta mà người chưa ngồi thiền lâu, chưa ngồi kiết già lâu, ba mươi phút là chịu không muốn nổi rồi đó. Bây giờ chúng ta mà ngồi hít thở như vậy, thì chúng ta dễ bị rơi vào hôn trầm, thùy miên, vô ký. Nghĩa là cái tâm mà chúng ta giữ cho nó hoàn toàn tỉnh giác không có tạp niệm xen vào để tỉnh thức, để ngăn chặn các ác pháp thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ rơi vào hôn ký, thùy miên. Không có thể nào trật được.
Cho nên chỉ có khi mà chúng ta đi kinh hành, lao động thì chúng ta không bị rơi vào hôn trầm, vô ký, thùy miên, chúng ta không bị rơi. Cho nên ở đây chúng ta thấy rằng cái bài pháp mà do Đức Phật dạy như vầy là thiếu trước, thiếu sau. Như vậy là người sau này đã kết tập, làm sai, không hiểu, không có kinh nghiệm. Chứ ông Phật dạy không phải thiếu kinh nghiệm như thế này. Nghĩa là ông Phật phải dạy cái nào trước, cái nào sau. Còn cái này dạy như vậy là sai. Mặc dù là cái bài pháp nói đúng, chớ không sai, nhưng mà điều kiện là thứ tự sắp xếp như vậy là sai. Cái người mà sắp xếp này là cái người không đúng.
Thầy mạnh dạn dám phê phán cái sai, cái đúng và Thầy nói rằng quý thầy đừng tin nơi cái miệng Thầy nói, mà hãy suy ngẫm coi có đúng không? Qua sự kinh nghiệm của quý thầy, quý thầy suy ngẫm có đúng không? Nếu quý thấy chưa có tỉnh thức bằng hành động bên ngoài, mà quý thầy vội tỉnh thức bằng hơi thở thì quý thầy sẽ bị hôn trầm, thùy miên, vô ký. Bởi vì hết vọng tưởng là quý thầy sẽ bị. Thầy nói quý thầy cứ rút tỉa kinh nghiệm coi có không?
Còn quý thầy cứ đi kinh hành, cứ lao tác đi, quý thầy không rơi vào vô ký, hôn trầm thì sức tỉnh thức quý thầy càng ngày càng tăng lên. Ông Phật dạy có kinh nghiệm hẳn hòi đàng hoàng, nhưng người sau sắp xếp lại bài kinh này là người sau làm sai, họ là người không có kinh nghiệm. Chứ không lý mà ông Ca Diếp mà không biết điều này mà để mà kết tập Kinh Điển bằng cách là lấy trái làm phải, lấy phải làm trái như thế này sao? Cho nên nếu mà các thầy, các con, mà chúng ta có đủ cái Túc Mạng Minh, chúng ta trở về với cái thời quá khứ, chúng ta nghe cái bài pháp Thân Hành Niệm này Đức Phật đã dạy. Thì chúng ta biết rằng đúng hay sai, và người viết lại bài kinh này sai hay đúng? Chúng ta biết rõ.
(14:04) Bây giờ một mình Thầy khó mà xác định, nhưng mà Thầy dám xác định ở đây trước quý thầy. Nhưng không phải là chỗ quý thầy đem cái bài kinh này ra mà nói người ta làm sai, này kia. Quý thầy lấy chỗ nào chứng minh? Cho nên quý thầy hãy tu như Thầy đi, rồi quý thầy trở về nghe Đức Phật Thích Ca nói lại cái bài kinh này Thân Hành Niệm. Trong khi Đức Phật dạy cho một số Tỳ Kheo này thì quý thầy sẽ nghe rõ từng bài trước, bài sau rất rõ ràng, chứ không phải như thế này.
Đây bây giờ Thầy nói về cái bài đầu tiên Thân Hành Niệm mà Đức Phật dạy là Chánh Niệm Hơi Thở. Thầy xin đọc tiếp: “Chánh niệm vị ấy thở vô, chánh niệm vị ấy thở ra”. Chánh niệm tức là biết hơi thở, biết hơi thở vô và biết hơi thở ra.
Hay “Thở vô dài vị ấy biết tôi thở vô dài, hay thở ra dài vị ấy biết tôi thở ra dài”.
Hay “Thở vô ngắn vị ấy biết tôi thở vô ngắn, hay thở ra ngắn vị ấy biết tôi thở ra ngắn.”
“Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập.
- “An tịnh thân hành tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “An tịnh thân hành tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập.
Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy này các thầy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo tu tập Thân Hành Niệm.”
Cái bài pháp nó như vậy. Bây giờ Thầy sẽ giải thích cho các thầy thấy: “Chánh niệm vị ấy thở vô, chánh niệm vị ấy thở ra”, nghĩa là Chánh niệm, tức là Đức Phật muốn nhắc là mình phải biết, chứ chưa có nhắc gì hết. Bây giờ mình hít vô mình biết mình hít vô, thở ra mình biết mình thở ra, gọi là Chánh niệm.
(16:04) Còn bây giờ kế thì Đức Phật dạy: “Thở vô dài, vị ấy biết tôi thở vô dài” hay “thở ra dài, vị ấy biết tôi thở ra dài”. Thì câu “thở ra dài” hay là “tôi thở vô ngắn” hay “tôi thở vô dài”, thì cái thở ra, thở vô…
Bắt đầu cái chữ Chánh niệm là mình chỉ cần biết mà mình không có hướng tâm, mình không có nhắc. Mà đến cái chỗ mà thở “Tôi thở vô dài, tôi biết tôi thở vô dài”, hay là “Tôi thở ra dài, tôi biết tôi thở ra dài”, thì cái đó là Pháp Hướng kèm theo. Cho nên nó thường đóng và nhấn mạnh cho chúng ta biết rằng cái chỗ đó, để mà chúng ta nhắc cái tâm của mình kèm theo cái Pháp Hướng.
Cho nên ở đây chúng ta mới thấy cái kế của Đức Phật dạy: “Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô”, nghĩa là mình hít vô, mình nhắc. Bây giờ mình không có nhớ cái thân của mình là cảm giác như thế nào, nhưng mình nhắc thì mình thấy có cái cảm giác của thân của mình. Cho nên “Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra”, phải không? Mình nhắc như vậy làm cho cái tâm mình nó chú ý vào cái cảm giác của cái thân của mình trong lúc mình đang tu.
Rồi “An tịnh thân hành tôi biết tôi thở vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Đó thì cái bài Pháp Đức Phật bảo mình nhắc mình như vậy để cho mình biết cái sự an tịnh, rồi “an tịnh thân hành”. Thì ở đây do cái chỗ chúng ta tu tập cái thân, cho nên “cảm giác toàn thân”, rồi “an tịnh thân hành”, thì rõ ràng là chúng ta đang tu tập ở trong cái Thân Hành.
(17:52) Nhưng có cái bài pháp, để sắp tới đây thì Thầy đọc tới. Thì trong cái Thân Hành Niệm mà lại dạy nó lộn nữa. Ở đây thì “An tịnh thân hành” là đúng pháp, mà “An tịnh tâm hành” là sai.
Mình đâu phải tu trên cái tâm hành, mà mình tu trên cái thân hành, phải không? Mà mình nhắc “An tịnh tâm hành” là sai. Hay “ Cảm giác toàn tâm tôi thở vô, cảm giác toàn tâm tôi thở ra”, thì cái đó là ở đây không phải là cái Thân Hành Niệm, mà cái Tâm Hành Niệm. Cho nên từng cái pháp ở đây, thì trong cái bài Thân Hành Niệm, nó có cả cái cảm giác Tâm Hành, thì Thầy sẽ đọc tới.
Cho nên ở đây cái bài này nó rất đúng là vì:
“Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra, cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô”.
Rồi “An tịnh thân hành tôi sẽ thở ra, an tịnh thân hành tôi sẽ thở vô”.
Ở đây mình đọc cái bài kinh, mình phải thấy rõ: Khi mà nói về thân hành thì cái cảm giác này là cảm giác của thân. Mà khi nói về tâm hành thì nó là cảm giác của tâm, hít vô, hít ra, nó do cảm giác của tâm.
PHÁP THÂN HÀNH NIỆM CÂU HỮU VỚI TỨ CHÁNH CẦN
Bây giờ đó khi mà mình đã hướng tâm, mình nhắc như vậy, thì vị ấy phải sống như thế nào? Sống tâm không phóng dật. Chứ không phải là mình phóng dật, mình phóng dật mà mình hướng tâm, mình tu vậy không kết quả đâu. Cho nên Đức Phật dạy ở trong cái bài kinh này trong khi vị ấy mà tu tập như vậy thì “cái tâm không có được phóng dật; nhiệt tâm, tinh cần, siêng năng”, tức là nhiệt tâm đem hết cái sức nhiệt tâm của mình, và tinh cần là siêng năng. “Các niệm và tư duy thuộc về thế tục đoạn trừ”: lúc mà mình tu tập cái pháp hơi thở như vậy, thì mình đoạn trừ các cái pháp đó đi.
Thì sự thật ở đây nó chưa phải là trên cái pháp vô lậu, mà nó cũng chưa phải là trên cái Tứ Niệm Xứ. Mà nó chỉ mượn cái Thân Hành Niệm, mượn cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác ở trên cái hơi thở này mà để tu tập làm cho các ác pháp, ngăn chặn không cho sanh khởi.
(20:07) Ngăn chặn không cho sanh khởi. Mà ác pháp không sanh khởi, thì các thầy thấy cái câu chỗ này nè, thì cái tâm của người đó có phóng dật không? Không có phóng dật, phải không? Cái tâm của người đó phải siêng năng rồi, thì những cái chuyện mà thế tục, những cái chuyện ham muốn, những chuyện danh, chuyện lợi thì có đoạn trừ không? Lúc bây giờ mà mình cứ giữ cái niệm hơi thở như vậy thì nó sẽ đoạn trừ tất cả những cái tâm đó. Và vì vậy mà mình an tọa ở trong cái chỗ tu hành của mình, mình ngồi nó rất là an ổn. Chuyên nhất và định tĩnh, cái tâm mình nó định tĩnh ở trong cái hơi thở đó.
Như vậy là một vị Tỳ Kheo tu về Thân Hành Niệm. Mà ở đây chúng ta thấy cái bài Thân Hành Niệm này, nó không phải độc lập là cái pháp Thân Hành Niệm, mà cái pháp này nó giúp cho chúng ta để đoạn trừ các pháp ác trong Tứ Chánh Cần.
Bởi vì khi mà tâm mình hướng ra, hướng vô như vậy thì nó có một ý gì mà nảy sinh ở trong đầu của chúng ta được không? Mà nó không có nảy sinh ra được thì cái tâm có phóng dật không? Không có phóng dật! Mà nó không có phóng dật thì các cái việc mà về thế tục, mà nó ham muốn thì nó có đoạn trừ không? Nó đâu còn ở trong tâm của mình được nữa.
Cho nên nó cụ thể và rõ ràng. Và vì vậy mà ác pháp không có sanh khởi được, và thiện pháp thì tăng trưởng. Thì ngay về hơi thở thì chúng ta đã tu tập được như vậy rồi.
Thì bây giờ kế tiếp Đức Phật lại dạy cái (Thân Hành Ngoại đây) Thân Hành Nội. Thay vì cái Thân Hành Ngoại đi trước, mà Thân Hành Nội phải đi sau mới đúng cách. Bởi vì mình phải tu tập Tỉnh Thức, rồi mình mới ngồi lại mình mới tu tập mới được.
Bây giờ Đức Phật lại dạy tới cái Thân Hành Nội. Thì trong khi ở đây, cái bài đầu tiên thì các thầy lại thấy nè: “Các vị Tỳ Kheo đi đến một khu rừng hay đi đến một gốc cây hay một ngôi nhà trống” rồi mới tu về hơi thở đó. Mà nếu bây giờ “Lại nữa”, cũng đang ngồi mà làm sao đi?
Thì ở đây “Lại nữa” là cái bài kế, Đức Phật lại dạy Thân Hành Niệm đây:
(22:06) “Lại nữa, này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo đi biết rằng tôi đi, hay đứng biết rằng tôi đứng, hay ngồi biết rằng tôi ngồi, hay nằm biết rằng tôi nằm. Thân thể được sử dụng như thế nào, vị ấy biết thân thể như thế ấy. Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần các niệm và tư duy thuộc về thế tục đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo tu tập Thân Hành Niệm.”
Như vậy là cái bài này ở cái đoạn sau này, Thầy nói rằng khi mà chúng ta thực hiện Tứ Chánh Cần thì cái chỗ “Trong khi vị ấy sống không phóng dật”, chúng ta lúc bấy giờ có phóng dật không? Bây giờ cái hành động Thầy đưa tay, Thầy biết Thầy đưa tay. Thầy đi, Thầy biết Thầy đi. Thầy ngồi Thầy, biết Thầy ngồi. Thầy nói, Thầy biết Thầy nói. Thầy nằm, Thầy biết Thầy nằm. Thầy mặc y, Thầy mang bát, Thầy biết. Mỗi hành động Thầy làm Thầy đều biết cái hành động đó.
Cũng như bây giờ Thầy đang quét sân, Thầy biết Thầy đang quét sân. Mà Thầy sợ nó quên quét sân đi thì Thầy nhắc: “Tôi quét sân, tôi biết tôi quét sân”. Thì như vậy luôn luôn lúc nào, Thầy giữ gìn cái tâm của Thầy luôn luôn lúc nào cũng ở trên cái hành động của mình. Thì như vậy là những dục lạc của thế tục nó còn cám dỗ Thầy được không? Tâm Thầy nó còn phóng ra theo các pháp được không? Nếu mà phóng ra, thì nó là niệm ác mất rồi.
Cho nên áp dụng vào Tứ Chánh Cần thì chúng ta thấy rằng trong cái Thân Hành Niệm nó làm chúng ta tỉnh táo, rất tỉnh táo và chúng ta đoạn dứt, chấm dứt các pháp ác, không có cho nó sanh khởi. Đó là cái pháp tu Thân Hành Niệm.
Và như vậy cái đầu tiên chúng ta thấy bài kinh này Đức Phật phải dạy đi, đứng, nằm, ngồi, hành động của chúng ta bên ngoài trước, thì tới cái hơi thở sau là nó hay nhất. Bởi vì cái ngồi nó có thời gian ngắn, mà cái đi, mà làm tất cả những công việc nó có thời gian dài chúng ta để tập tỉnh thức.
(23:53) “Lại nữa, này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo khi bước tới, bước lui biết rõ mình đang làm. Khi ngó tới, ngó lui biết rõ mình đang làm”.
Nghĩa mà biết mình đang ngó tới, ngó lui.
“Khi co tay, khi duỗi tay biết rõ mình đang làm. Khi mang áo Tăng Già Lê, mang bát, mang y biết rõ mình đang làm. Khi ăn, uống, nhai, nếm biết rõ mình đang làm. Khi đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng biết rõ mình đang làm. Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ, nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo tu tập Thân Hành Niệm.”
Rõ ràng đây là phần chúng ta tu tập Thân Hành Niệm, rất rõ mà. Nhưng mà để ý ngược lại, cái bài tu tập này nó nằm ở trước, thứ tự của nó phải trước. Rồi sau đó chúng ta mới tu tập về hơi thở của chúng ta về Thân Hành Niệm, thì cái đó nó hay, quá hay và tuyệt vời. Đúng là biết cách sắp xếp cho từng cái giai đoạn tu trước, tu sau.
Còn bây giờ ngay vô tu hơi thở thì người đó ngồi chút xíu là bắt đầu họ bị đau hoặc này kia, họ bất an rồi, họ bị Thọ đánh rồi. Rồi họ ngồi một hơi đó thì bắt đầu họ rơi vào vô ký, hôn trầm. Bởi vì đang ở trong cái chánh niệm thì họ không có vọng tưởng thì họ cũng bị rơi vào vô ký. Chừng đó họ biết ở đâu mà họ lại chánh niệm được nữa, họ mất đi. Cho nên đây là cái sai.
Mà khi mà tu tập Thân Hành Niệm ngoại này, nó đã tỉnh thức rồi, bắt đầu họ ngồi nửa tiếng, một tiếng là tỉnh thức, nó không bị rơi vào hôn trầm, thùy miên, vô ký. Đó là những cái kinh nghiệm đã dạy mình. Cho nên mình biết rằng khi mà bố cục một bài pháp thì phải cái pháp nào nói trước, cái pháp nào nói sau. Bố cục như vậy là bố cục sai.
(25:41) “Lại nữa, này các thầy Tỳ Kheo! Các thầy quan sát thân này, từ bàn chân trở lên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da chứa đầy bởi những vật bất tịnh, sai biệt. Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật , đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu. Này các Tỳ Kheo, cũng như một bao đồ, hai đầu trống, đựng các loại hột như gạo, lúa, đậu xanh, đậu mè, gạo đã xay rồi. Một người có mắt, đổ các hột ấy ra mà quan sát: đây là hột gạo, đây là hạt lúa, đây là đậu xanh, đây là đậu lớn, đây là mè, đây là hạt lúa đã xay rồi.
Cũng vậy, này các Tỳ Kheo! Một Tỳ Kheo quan sát thân này từ dưới bàn chân trở lên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da chứa đầy bởi những vật bất tịnh, sai biệt. Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu.
Khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần các niệm tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo tu tập như vậy gọi là tu tập Thân Hành Niệm.”
Cái bài pháp này có phải Thân Hành Niệm không, các thầy? Khi nghe như vậy, có phải là Thân Hành Niệm không? Bây giờ chúng ta ngồi đây, cái ý của chúng ta quan sát cái thân này như một cái bao, nó chứa nào là răng, móng, lông, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, phèo, phổi. Thì đây là cái bao nó chứa đầy đủ các thứ ở trong đó hết. Mình ngồi mình quan sát cái thân của mình, như vậy có phải là Thân Hành Niệm không?
(27:54) Đối với bài kinh như thế này mà gọi nó là Thân Hành Niệm thì các thầy có chấp nhận không? Như vậy có phải là cái người mà kết tập kinh điển này là kết tập sai không? Thân Hành Niệm là cái thân phải có sự động của nó mới Thân Hành Niệm chứ, còn đằng này có động đâu. Cái ý của chúng ta đang quan sát cái thân, tức là quán sát cái thân của chúng ta nó như là một cái bao để chứa tất cả những cái đồ bất tịnh này, phải không?
Như vậy là Định Vô Lậu quán bất tịnh, chứ không phải là Thân Hành Niệm. Nó đâu phải là Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Bởi vậy khi đọc cái bài kinh, chúng ta mới biết được bài kinh sai hay bài kinh đúng. Mà đây là kinh Nguyên Thủy hẳn hòi, đàng hoàng, kinh Pali, chứ đâu phải là kinh Đại Thừa đâu. Còn nếu mà Đại Thừa mà Thầy đọc, bởi vì Thầy viết cái bộ Đường Về Xứ Phật mà trước đây, Thầy bác biết bao nhiêu bài kinh của Đại Thừa không? Thầy đập xuống biết bao nhiêu. Nhưng bây giờ Thầy không có cho ra những thứ đó đâu, nó động chạm biết bao nhiêu. Còn đây là bài kinh Nguyên Thủy mà họ dám kết hợp như thế này, để mà gọi là Thân Hành Niệm trong cái bài như thế này, thì thấy chỗ này có phải là cái bài Thân Hành Niệm không?
Đây là Thầy muốn nói để chúng ta biết được cái sai, cái đúng của kinh sách hiện giờ là nó quá, người ta không biết được cái đúng, cái sai. Mà đặt một cái tên Thân Hành Niệm là nó phải thực hiện, hồi nãy Thầy có giải thích từ cái tên của nó phải thực hiện hành động của nó ở trong cái pháp môn. Mà đây đặt cái tên của kinh này là Thân Hành Niệm, mà chỗ này có phải là Thân Hành Niệm không?
Ngồi quán sát thân, cái thân nó cứng đờ đó, chớ nó có rung động chỗ nào mà gọi là nó hành, như vậy nó có đúng với cái tên không? Như vậy là sai. Nó chỉ có một cái bài thứ nhất là hơi thở, một cái bài thứ hai là hành động của thân của chúng ta bên ngoài, đó là đúng nhưng mà sự sắp xếp thì nó không đúng, cái trước, cái sau.
Các thầy cứ lấy trí tuệ, suy nghĩ của mình mà nghe những lời Thầy nói có đúng hay là sai. Chớ đừng có tin cái miệng của Thầy. Thầy nói theo cái ý của Thầy, cái sự hiểu biết của Thầy, còn quý thầy suy nghĩ cái lời của Thầy nói là đúng hay là sai. Bởi vì hầu hết quý thầy đều có một cái trí tuệ ở trong cái trí tuệ. Cho nên Đức Phật ngày xưa cũng nói: “Ta nói đừng có tin Ta, những gì Ta nói mà làm có ích lợi, có sự giải thoát thì hãy tin. Mà không có ích lợi, không có sự giải thoát, người ta chê thì đừng có làm, nó không đúng đâu”.
(30:04) Thì những lời mà Thầy nói ở đây, thì các thầy còn suy nghĩ những lời Thầy nói đúng hay sai.
Đó thì toàn bộ cái bài kinh này nó rất nhiều, chứ không phải họ nói kết hợp lại nó đủ thứ ở trong này, nó tất cả những cái. Thậm chí như bốn Thiền nó cũng ghép vô đây, bốn cái Định nó cũng ghép vô đây, mà nó nói gọi là Thân Hành Niệm của nó. Thì tất cả những cái này đều là cái sai của nó. Thân Hành Niệm chỉ có một cái khoảng thời gian hành động nội và hành động ngoại và nội, ngoại một lượt mà thôi.
Cho nên trên Tứ Niệm Xứ, Thầy giảng về Tứ Niệm Xứ, các con sẽ thấy rõ. Ở trên Tứ Niệm Xứ, bắt đầu thì chúng ta tu về Nhân Tướng nó trước. Rồi sau đó chúng ta mới tu về cái Hành Tướng của nó, Hành Tướng Ngoại và Hành Tướng Nội. Sau khi Hành Tướng Ngoại và Hành Tướng Nội xong rồi thì chúng ta tu Hành Tướng Nội và Hành Tướng Ngoại đồng thời một lượt. Nó hai cái, vừa tu ở ngoại, mà vừa tu ở trong nội nữa.
Cũng như bây giờ quý thầy tu Chánh Niệm Tỉnh Giác, vừa đi mà vừa nương hơi thở, cả hai cái chứ không phải một cái, thành ra nội và ngoại. Thì hơi thở của chúng ta như thế nào, là nội, phải không? Mà ngoại là hành động của chúng ta đi kinh hành là ngoại. Lấy cái hành động nội này mà thực hiện với cái hành động ngoại kia, thì hai cái nội, ngoại đồng thời tu một lượt. Thì do đó không phải là sức tỉnh của chúng ta cao lên sao? Cho nên ở trong Tứ Niệm Xứ xác định rõ mà, nội, ngoại đồng tu mà. Còn bắt đầu tu cái ngoại, rồi tu cái nội, rồi mới nội, ngoại đồng tu.
Thì ở đây nó có những cái sai mà Thầy phải dạy để cho các con thấy rằng trong khi chúng ta phải lấy được những cái đúng, thế nào đúng để mà chúng ta tu tập. Chứ không phải đọc bài kinh như thế này rồi bắt đầu chúng ta ngồi đây mà quán bất tịnh. Mà Quán Bất Tịnh tức là tu Định Vô Lậu để đoạn diệt các pháp ác, đoạn dứt các pháp ác.
Các pháp ác chưa sanh thì tu Chánh Niệm Tỉnh Giác và Định Niệm Hơi Thở để ngăn chận, không cho nó sanh. Các thầy hiểu chứ? Bởi vì ngăn chận tức là chúng ta tu ở trong tỉnh thức thì không có nó khởi ra được, phải không? Tỉnh thức ở trong hành động ngoại, tỉnh thức ở trong hành động nội, rồi tỉnh thức ở trong hành động nội và ngoại. Đó là như quý thầy kết hợp giữa hơi thở và bước đi kinh hành của mình hay việc làm của mình, đó là nội - ngoại.
(32:12) Còn bây giờ mà quán bất tịnh, tức là tu Định Vô Lậu, mà vô lậu là các pháp ác đã sanh cho nên chúng ta phải đoạn diệt. Mà nó sanh các pháp gì? Bây giờ nó chấp cái ngã nè, nó sân, si, nó phiền nào nè, thì chúng ta phải coi nó chấp cái thân này là ngã hay chấp cái tâm. Mà nếu chấp thân thì chúng ta mới quán bất tịnh. Quán xem coi cái thân này, là cái bao da này nó sẽ chứa những cái gì, cái gì hôi thúi bẩn thỉu như thế nào, thì đó để mà chúng ta đoạn dứt cái chấp ngã của chúng ta.
Mà nó kiến chấp thì nó thuộc về tâm, thì chúng ta phải quan sát cái tâm để mà chúng ta tu Định Vô Lậu, “Trên tâm quán tâm” mà, tu Định Vô Lậu để quét sạch cái kiến chấp của chúng ta, nó làm cho chúng ta đi vào đúng con đường của Đạo Phật.
Như vậy thì quý thầy thấy rằng trong con đường tu tập của mình, thì những cái bài kinh như vậy, thì chúng ta làm sao mà tin nổi được, mà chúng ta theo đó mà chúng ta tu? Mà nếu mà cứ đọc bài kinh Thân Hành Niệm này rồi tôi tu đủ thứ, tôi cứ đọc như vậy, mà cái danh từ đọc thì các thầy thấy cái chỗ mà để khắc phục tham ưu, cái chỗ mà đoạn trừ các ác pháp thì Đức Phật nói như thế này, chúng ta biết cái pháp nào mà chúng ta đoạn dứt nó nè:
“Trong khi vị ấy sống không phóng dật”.
Sống không phóng dật, bây giờ chúng ta sống không phóng dật, chúng ta làm sao? Cái tâm mình, nó cứ ngồi đây mà nó phóng, nó nhớ cái này, nhớ cái kia, nó không phóng dật sao? Nó phóng dật đó chứ. Vậy thì muốn không phóng dật thì phải làm sao? Thì rõ ràng là cái pháp hồi nãy, mà chúng ta nương vào cái hơi thở, mà nương vào cái hành động đi thì cái tâm nó phóng được không? Cái pháp đó nó làm cho chúng ta có phóng được không? Bây giờ chúng ta đang biết hơi thở, đang biết hành động đi thì cái tâm nó còn cái chỗ nào mà nó phóng ra không? Nó có phóng dật đâu. Cho nên chúng ta nhiệt tâm, tinh cần ở trong giữ gìn trong cái hành động thì nó không còn cái kẽ hở, thì cái tâm nó không phóng dật. Rồi bây giờ:
(33:57) “Các niệm và tư duy thuộc về thế tục.”
Tư duy tức là suy nghĩ. Các cái niệm nó chưa có khởi ra, nó vì cái pháp mà Chánh Niệm Tỉnh Giác, nó làm cho các pháp đó đoạn dứt đi, nó không có khởi ra được thì chúng ta có pháp nào đâu mà chúng ta lại tư duy nó, suy nghĩ nó như Định Vô Lậu để mà chúng ta đoạn trừ? Cho nên chúng ta có đoạn trừ gì đâu? Do cái pháp Chánh Niệm đó mà chúng ta ngăn chận các pháp ác thì các pháp ác không sanh. Cho nên chúng ta đâu có cái pháp nào mà chúng ta cần phải đoạn trừ?
Do đó thì tâm chúng ta như thế nào? Bây giờ nội tâm chúng ta sẽ an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Rõ ràng là quý thầy cứ giữ gìn vừa hơi thở, vừa hành động đi, hay hoặc trong hành động đi, hoặc chuyên nhất một hơi thở, thì do đó các thầy có thấy tâm của mình chuyên nhất và định tĩnh không? Và có thấy sự an tọa, sự ngồi hay sự đi của mình an ổn không? Chắc chắn là có sự an ổn.
Như vậy thì chúng ta có cần quán xét đoạn trừ không? Mà ở đây thì viết như vậy. Bây giờ đã tu cái pháp đó rồi, mà bây giờ còn phải đoạn trừ nó thì cái bài kinh như vậy là chúng ta đã có pháp, đã ngăn chận, đã làm cho nó không sanh thì cái gì mà còn sanh trong này mà phải đoạn trừ? Cho nên ở đây chúng ta có pháp chúng ta tu thì chúng ta không có còn lo nó nữa.
“Lại nữa, này các Tỳ Kheo! Tỳ Kheo như thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa một ngày, hai ngày, ba ngày. Thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen, nát thối ra. Tỳ Kheo quán thân ấy như thân này, tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi bản chất ấy.”
(35:48) Nghĩa là mình quan sát cái thây ma phồng lên như vậy là. Bây giờ thì quý thầy thấy trong bài kinh này, nó là một cái quan sát một cái thân mà sình, hôi thúi như vậy, để chúng ta tu, phá cái ngã của chúng ta. Chấp cái thân là cái ngã của mình, như vậy là mình tu Định Vô Lậu, chứ không phải là tu Định Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Cho nên ở đây, mình biết rằng trong cái pháp mà Tứ Chánh Cần thì mình cần phải tu ba cái định: Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi Thở và Định Vô Lậu, nó ba cái định.
Nhưng Định Chánh Niệm Tỉnh Giác và Định Niệm Hơi Thở là nó ngăn chận các pháp ác, Định Vô Lậu thì nó đoạn dứt các pháp ác.
Chúng ta đã hiểu được như vậy, thì ở đây chúng ta chỉ nói về Thân Hành Niệm. Tức là chúng ta chỉ nói về cái thân, cái phần hoạt động của cái thân, tu ở trong các hành động của cái thân để ngăn chận các pháp ác, chứ không phải tu ở trong Định Vô Lậu, để mà quán xét. Vì chưa tới cái phần này, cho nên cái Định Vô Lậu thì phải nói trong cái phần khác, không phải nói ở trong Thân Hành Niệm, trong cái bài kinh này.
Cho nên ở đây tuy rằng chúng ta tu tập cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác và Định Niệm Hơi Thở thì như Thầy đã nhắc lại ở trong bài kinh này rồi. Thì chúng ta đã thấy rằng từ các hành động đi, đứng, nằm, ngồi, co tay, mặc áo, ăn, uống, tất cả mọi cái hành động đó, đều là tỉnh thức trong hành động đó gọi là Chánh Niệm Tỉnh Giác. Rồi đồng thời cái hơi thở ra biết thở ra, mà hơi thở vào biết vào thì chúng ta biết được hơi thở ra, vào như vậy, đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác của hơi thở.
Danh từ của nó nó gọi là Định Niệm Hơi Thở. Vì Định Niệm Hơi Thở Thầy đã nói nó là trợ pháp, để cho nó trợ các pháp khác, sau này chúng ta nhập Thiền Định thì cũng đều nương vào hơi thở này mà chúng ta nhập các Thiền Định. Nhưng đầu tiên mà chúng ta tu nó thì đương nhiên được xem nó là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định chứ không phải là Định Niệm Hơi Thở. Bởi vì giúp cho chúng ta tỉnh thức ở trong hành động nội. Mà hành động nội tức là hơi thở ra, hơi thở vô.
(38:09) Cho nên ở đây gọi nó là Định Niệm Hơi Thở thì cũng được, hay gọi nó là Chánh Niệm Tỉnh Giác trong nội thân của chúng ta thì cũng được. Vì vậy mà cái phần, cái bài kinh này, Thân Hành Niệm thì nó chỉ có hai phần: một phần hơi thở và phần hành động thân của chúng ta. Nó xác định cho chúng ta biết hai cái định đó để ngăn chận các pháp ác ở trong Tứ Chánh Cần, nó không cho sanh ra.
Và đến cái Định Vô Lậu thì nó phải quán xét thân bất tịnh, những các pháp đều vô thường, khổ, không, vô ngã của nó. Tất cả những cái pháp đều là nó không thường còn, cho nên làm cho cái tâm của chúng ta không dính mắc và chấp đắm. Đó là Định Vô Lậu. Để các pháp khác mà nó khởi trong đầu của chúng ta ra thì ngay đó chúng ta phải quán sát nó, rồi chúng ta diệt xả nó đi, đoạn dứt nó đi, không được kéo dài nó, thì đó là chúng ta đã đoạn các pháp ác.
(39:07) Như vậy khi mà ngăn chận không cho các pháp ác sanh khởi và đoạn dứt các pháp ác đã sanh khởi thì chúng ta đã có ba cái Định để mà chúng ta tu tập, để thực hiện được Tứ Chánh Cần. Mà khi thực hiện được Tứ Chánh Cần như vậy rồi thì ngày ngày chúng ta sống trong thiện pháp. Mà trong thiện pháp thì cái thiện pháp đó thì như Thầy đã nói. Thầy xin nhắc lại là cái thiện pháp đó nó không phải là một cái việc đi làm việc từ thiện. Như từ lâu tới giờ, như các cô, các thầy ở đây tu hành, thì nghe thiện pháp thì người ta không biết là cái thiện nào đúng, mà cái thiện nào sai.
(39:58) Nhưng không ngờ là cái tâm chúng ta hoàn toàn nó không tham, không sân, không si, nó không ở trong Thập Ác thì nó là Thiện Pháp. Chứ đâu phải là cái chuyện ở ngoài kia mà đem vào nó là thiện pháp. Chuyện ở ngoài mà đem vào thiện pháp, đó là chuyện phóng sanh, chuyện đem việc bố thí, từ thiện, đó là chuyện ở ngoài. Còn cái chuyện mà thiện pháp ở trong của chúng ta nó là thập thiện. Không tham, không sân, không si, không trộm cắp, không tà dâm, không sát sanh, không nói vọng ngữ, ác ngữ, lưỡng thiệt, không nói phiếm ngữ, thì tất cả những cái đó là những cái ác pháp.
Còn cái mà chúng ta hiện giờ đã giữ gìn được, cái tâm của chúng ta không có sanh khởi những cái ác pháp đó thì tức là thiện pháp. Mà tăng trưởng cái thiện pháp đó ra, tức là chúng ta kéo dài cái thời gian của cái tâm của chúng ta không có ác pháp đó thì tức là tăng trưởng thiện pháp.
Chứ không phải là làm việc từ thiện bên ngoài mà đem vào gọi là tăng trưởng thiện pháp. Như mua chim cá phóng sanh, bây giờ mua một con, hai con, ba con là ít, bây giờ mua nhiều gọi là tăng trưởng, không phải. Mua một trăm, hai trăm, một ngàn, một triệu con gọi là tăng trưởng, không phải. Cái chuyện đó không phải là cái chuyện làm của một người tu ở trong Tứ Chánh Cần.
Cho nên hiểu đúng thì nó sẽ được giải thoát, mà hiểu sai thì không giải thoát. Mà hiểu đúng thì tức là chúng ta có pháp môn tu tập đúng. Đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, đó là Định Niệm Hơi Thở, đó là Định Vô Lậu. Vì vậy ba định này nó đã giữ cho chúng ta thực hiện được thiện pháp ở trong tâm của mình, tức là thực hiện được sự giải thoát ở trong tâm của mình. Một người biết được cách thức tu tập Tứ Chánh Cần thì Thầy tin rằng các thầy sẽ được giải thoát.
Và đồng thời hôm nay, sẽ đem cái bài Thân Hành Niệm, tức là cái hành động của cái thân, để mà chúng ta đặt cái niệm mà chúng ta tu Tứ Chánh Cần, như cái bài pháp Thân Hành Niệm mà Phật đã dạy ở trong Trung bộ.
(41:54) Nhưng vì cái bài kinh này nó lộn xộn, nó đủ cách, đủ thứ của nó ở trong này, cho nên Thầy đọc ra để mà quán xét được cái sai của kinh và đồng thời để nhắc lại cái bài kinh Phật dạy đúng như vậy là Thân Hành Niệm. Còn những cái khác thì chưa phải là Thân Hành Niệm để chúng ta biết. Sau này, vì cái thời gian mà các con tu xong rồi, các con cần phải nghiên cứu kinh sách này lại. Đọc lại tất cả những kinh sách hết, nghĩa là…(42:33)
(Ghi chú của người trước: Đoạn sau này hình như được thêm vào từ các bài pháp thoại khác?)
(42:32) Cho nên vì vậy đó mình muốn mà cho nó nhiếp phục được thì mình nương vào hơi thở, mình tác ý, mình nhắc nó, mình phải chủ động…
(42:42 Trước khi mà học về Tứ Niệm Xứ thì Thầy sẽ nhắc lại để cho chúng ta rõ được cái Định Niệm Hơi Thở mà Chư Phật, nhất là Đức Phật Thích Ca, Ngài đã dạy rất rõ ràng trong Định Niệm Hơi Thở. Mà từ lâu thì Thầy chỉ dựa vào theo các hơi thở của các Tổ dạy như pháp An Bang, như Sổ Tức Quan tức là đếm hơi thở. Hoặc là Tùy Tức, tức là khi mà đếm quá thuần thục, thì chúng ta xả cái đếm, để chúng ta còn nương theo hơi thở gọi là Tùy Tức. Nhưng những pháp đó nó không đúng với cái Định Niệm Hơi Thở của Phật đã dạy.
Hôm nay vì soạn và viết ra để thành một cái giáo án Đường Lối Tu Tập Của Đạo Phật, cho nên những gì mà Đức Phật đã dạy thì chúng ta dạy lại, Thầy triển khai, Thầy dạy lại. Còn những cái gì không phải của Đạo Phật thì Thầy không có dạy như trước kia mà Thầy tùy thuận Đại Thừa, kinh điển Phát Triển, mà Thầy không có bỏ ra.
(43:57) Hôm nay là vì bỏ ra để chúng ta thanh lọc lại cái nào là của Đạo Phật và cái nào không phải của Đạo Phật. Cho nên chúng ta thấy Đức Phật cũng có dạy hơi thở_ Định Niệm Hơi Thở_ nhưng mà dạy khác hơn các Tổ. Do như vậy thì hôm nay Thầy thêm để cái phần mà định niệm hơi thở. Vì chúng ta biết rằng hơi thở ra, hơi thở vô mà khi để tu mà ngăn chặn các pháp ác thì chúng ta nó có khác.
Là vì chúng ta tỉnh thức ở trong hành động nội thân chúng ta. Như ở trong Tứ Niệm Xứ “trên thân quán thân” tu về hành tướng nội. Hành tướng nội là cái hành động của cái thân nội của mình, là cái hơi thở ra, hơi thở vô. Nghĩa là hơi thở chúng ta dài thì chúng ta nương theo dài mà chúng ta nương vào đó tỉnh thức ở trong hành động đó để làm cho các pháp ác không sanh ở trong tâm của chúng ta. Thì cái Định Niệm Hơi Thở đó là trong khi đó nó trợ giúp cho cái Tứ Chánh Cần. Trong khi mà tu Định Niệm Hơi Thở như vậy, thì các con cũng như quý thầy cũng phải biết rằng đây là tỉnh thức chánh niệm ở trong hơi thở, cho nên chúng ta thường dùng cái Pháp Hướng.
Nói chung là cái pháp nào như Chánh Niệm Tỉnh Giác Định tu ở trong mọi hành động thì chúng ta cũng có Pháp Hướng. Chứ không phải là Thầy dạy đây, Thầy không nhắc Pháp Hướng, nhưng mà quý thầy cũng nhớ là phải có Pháp Hướng. Ví dụ như mình đi mười bước, hai chục bước thì mình nhắc: “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”. Hoặc là tôi quét sân, mình quét năm, mười chổi thì mình nhắc: “Tôi quét sân, tôi biết tôi quét sân”. Đó là Pháp Hướng mà, để nó kềm theo, nó giữ cho cái tâm mình đi dài, một thời gian dài ra mà không có tạp niệm, hoặc không có vô ký, quên đi hành động mình đang làm công việc đó (45:58)
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 10
ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ BỔ TRỢ CÁC
PHÁP TU KHÁC
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [45:43]
Thời gian: 2002
Tên cũ: 05B-TinhThucVaDNHTBoTroChoCacPhapTuKhac
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-10-dinh-niem-hoi-tho-bo-tro-cac-phap-tu-khac.mp3
(00:00) Không có cái vô ký quên đi cái hành động mình đang làm công việc đó. Thì cái Định Niệm Hơi Thở mà chúng ta hướng về cái hơi thở, hướng tâm về hơi thở để cũng là nhắc. Tức là cái pháp hướng này là pháp hướng nhắc tâm, để cho nó tỉnh thức ở trong cái hơi thở. Cái tâm chúng ta tỉnh thức mãi mà nó không bị mê hay hoặc là không bị có một cái niệm khác xen vô.
Cho nên thí dụ như, mình tu về tỉnh thức cái hơi thở của mình, thì cái pháp hướng, các thầy cũng nhớ rằng mình nhắc. Thí dụ như mình hít thở, năm mười hơi thở thì mình nhớ: “Tôi thở vô, tôi biết tôi thở vô, tôi thở ra, tôi biết tôi thở ra”. Tức là mình nhắc để cho mình biết mình thở vô, thở ra, thì đó là mình tập tỉnh thức. Tỉnh thức.
(0:39) Còn trái lại, cái Định Niệm Hơi Thở thì nó cũng bắt đầu từ cái tỉnh thức đó, nhưng nó còn có những cái khác nữa, chứ không phải có bấy nhiêu đó không. Cho nên ở đây, Thầy muốn nhắc lại về cái Định Niệm Hơi Thở là tại vì nó là một cái pháp môn trợ cho tất cả các pháp môn khác. Như Thầy có nói, nó là một cái trợ động từ, nó cũng giống như một cái trợ động từ của pháp ngữ, để mà chia tất cả những cái động từ khác.
Thì hôm nay, thì chúng ta thấy rằng trong cái hơi thở, cái Định Niệm Hơi Thở là cái Định Hơi Thở đó, nó là cái pháp để mà giúp chúng ta tu hành các pháp khác. Cho nên mới đầu thì chúng ta học, chúng ta thấy, chúng ta chỉ hướng có: “Hơi thở vô tôi biết tôi thở vô, hơi thở ra tôi biết tôi thở ra”. Đó là mình nhắc, rồi mình thở năm, mười hơi thở mình lại nhắc một lần.
Thì như vậy, nó giúp cho mình tỉnh thức ở trong ba mươi phút hay là một giờ khi mình tu tập. Để cho mình tỉnh thức đó để mà ngăn chặn, nó ngăn chặn cái mục đích của cái tỉnh thức đó không phải nó đem lại cái kết quả của cái hơi thở đó mà chúng ta nhập thiền, nhập định gì cả. Mà nó ngăn chặn được cả ác pháp không sanh khởi ở trong tâm của chúng ta như tham, sân, si, ham muốn cái này, thương nhớ cái kia, giận hờn cái nọ.
Cái mục đích của nó sẽ đạt được, là ngay chúng ta giữ gìn được cái tâm, ở trong cái hơi thở, thì chúng ta biết rằng tâm chúng ta không khởi ra niệm ác, không có thương, ghét, giận, hờn ai hết. Vì nó mắc tỉnh thức ở trong cái hành động của hơi thở, cho nên nó đâu có sanh được pháp nào.
Cho nên ngay liền chúng ta thấy có sự giải thoát, nó không còn một cái tâm niệm làm chúng ta buồn khổ, hay là thương ghét hay là giận hờn ai nữa, nó không có ác pháp. Đó là chúng ta đã đạt, Nhờ cái Định Niệm Hơi Thở như vậy, mà chúng ta đã đạt được cái cứu cánh, cái cứu cánh là cái giải thoát. Cái mục đích mà chúng ta thực hiện trong cái pháp tu đó. Cho nên ngay liền thì chúng ta thấy có sự giải thoát thật sự.
(2:28) Thì cái sự giải thoát thật sự đó, nó giúp cho chúng ta một cái kết quả rõ ràng và cụ thể, là khi trong cái giờ phút tu thì chúng ta cũng thấy, mà sau cái giờ phút tu chúng ta bắt đầu đi vào những cái hành động như đi, đứng, nằm, ngồi. Tất cả những cái hành động mà ngoại thân đó, chúng ta không tu cái Định Niệm Hơi Thở nữa, thì chúng ta cũng đang giữ cái tâm của mình không có cái niệm khởi, do đó ngày này qua ngày khác thì chúng ta hoàn toàn là không có ác pháp.
Đó là cái mà chúng ta vừa cái Định Niệm Hơi Thở mà cũng vừa với cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, nó ngăn chặn được các pháp ác không sanh khởi trong tâm chúng ta. Và khi nào mà lỡ nó có sanh một cái pháp gì đó thì chúng ta đoạn dứt liền bằng cái Định Vô Lậu, như các con và cũng như các thầy cũng biết.
Bây giờ, Thầy kế tiếp cái bài Định Niệm Hơi Thở để chúng ta biết nó không phải tu có bao nhiêu đó, để mà đạt được cái niệm ác mà thôi, tăng trưởng cái niệm thiện mà thôi. Nó còn có những cái đặc biệt của nó để nó tự thân của nó cũng có giải quyết cho cái giải thoát của cái Thân-Thọ-Tâm-Pháp của chúng ta.
Bởi vì, ngoài cái Thân-Thọ-Tâm-Pháp, Tứ Niệm Xứ này, bốn cái nơi mà để chúng ta tu tập tức là bốn cái lãnh vực mà để tu tập, thì chúng ta đều đặt các pháp trên đó mà tu tập. Tu tập cho tất cả cái bốn cái chỗ này nó trở thành tốt đẹp và nó trở thành thanh tịnh. Chứ không phải là Tứ Niệm Xứ là có một cái gì mà có cái pháp để làm cho một cái khác thanh tịnh, không phải. Tứ Niệm Xứ là chỉ bốn cái chỗ để chúng ta đặt các pháp trên đó mà chúng ta thực hiện cho nó thanh tịnh, bốn cái chỗ đó thanh tịnh.
(04:07) Bây giờ nói về cái Định Niệm Hơi Thở. Cái bài tập thứ nhất về Định Niệm Hơi Thở, nó có từng bài tập thứ nhất, bài tập thứ hai, bài tập thứ ba, chứ nó không phải có một cái bài mà: “Hơi thở ra tôi biết tôi thở ra” mà: “Hơi thở vô tôi biết tôi thở vô” đâu. Đó là cái Chánh Niệm Tỉnh Thức của cái hơi thở đầu tiên chúng ta tu.
(4:26) Cho nên ở đây đầu tiên thì đức Phật có khuyên như thế này nè, một người mới tu tập cái Định Niệm Hơi Thở, thì cái vị đó phải đi đến một khu rừng. Khu rừng là cái nơi vắng vẻ, cái nơi không có người ta đến. Hay đi đến một cái gốc cây, một cái gốc cây ở cái nơi nào mà có cái gốc cây hoặc này kia, để cho mình ngồi ở bên gốc cây đó mình tu tập.
Tức là cái cây có cái gốc, thì cái cây nó có cái tàn nó mát mẻ, cho nên mình ngồi dưới gốc cây đó mình tu. Hay đi đến chỗ một cái nhà trống, chỗ nhà trống tức là cái nhà mà không có ai hết, họ bỏ trống rỗng đó. Chúng ta sẽ vào những cái nơi vắng vẻ đó, cái nơi yên tịnh đó mà chúng ta tu tập, tu tập cái Định Niệm Hơi Thở.
Thì trước tiên chúng ta muốn tu tập nó thì chúng ta đi chọn cái chỗ, cái chỗ mà vắng vẻ như vậy. Rồi bắt đầu chúng ta ngồi kiết già. Ở đây đức Phật không có dạy chúng ta ngồi bán già mà dạy chúng ta ngồi kiết già, nghĩa là phải tréo hai chân. Lưng thì thẳng lên, rồi đặt cái niệm hơi thở trước mặt của chúng ta. Nghĩa là như Thầy đã nói, cái Niệm Hơi Thở chúng ta mà đặt trước mặt, tức là cái tụ điểm. Cái tụ điểm chỗ đó, cái hơi thở ra và hơi thở vô.
Như vậy thì cái nhân trung của chúng ta là cái chỗ mà nó từ cái hơi thở hít vô thì nó cũng đi ngang qua đó, mà từ cái hơi thở thở ra nó cũng đi ngang qua đó. Cho nên lấy cái chỗ tụ điểm đó mà chúng ta làm cái chỗ để tâm chúng ta tập trung ở chỗ đó, để biết cái hơi thở ra và hơi thở vô.
Cho nên đặt niệm ở trước mặt của chúng ta, tức là ở trước cái mặt của chúng ta là cái nhân trung của chúng ta, đặt cái niệm chỗ đó đó. “Vị ấy Chánh Niệm”, Chánh Niệm đây là không phải là tà niệm, tức là cái Chánh Niệm ở đây là cái tập trung tâm của chúng ta đó, gọi là Chánh Niệm. Tức là mình đặt cái niệm hơi thở ngay tại cái chỗ tụ điểm, tức là mình chọn lựa cái chỗ nào đó thì mình mới đặt cái niệm hơi thở của mình, cho nó thở ra, thở vô ở đó.
Cho nên Phật nói: “Chánh Niệm hơi thở vô và Chánh Niệm hơi thở ra”. Nghĩa là mình đặt cái chỗ nào đó để cho cái hơi thở từ đó, nó xuất phát ra vô. Cho nên gọi là: “Chánh Niệm hơi thở vô, Chánh Niệm hơi thở ra”. Đó là cái thứ nhất để mà chúng ta biết chọn cái tụ điểm.
(6:34) Nếu mà tu tập không có chọn được tụ điểm, thì bây giờ chúng ta thở, thấy nó thở chỗ này, lát nữa chúng ta thấy thở chỗ kia, lát nữa chúng ta thấy từ ở ngoài này nó xa rồi nó đi vô hoặc là đi theo hơi thở, chạy theo đủ thứ cái chỗ, nơi. Cho nên nó không có lại tập trung được, cái tâm nó không có gom tập trung được. Cho nên, chúng ta phải đặt cho nó nằm yên một chỗ.
(06:55) Bây giờ cái bài tập thứ nhất. Khi mà chúng ta đã đặt niệm đúng chỗ rồi, tức là có tụ điểm rồi, hơi thở ra hơi thở vô tại chỗ đó rồi, thì bắt đầu chúng ta tập cái bài tập thứ nhất. Đây, quý thầy và các con hãy nghe cái bài tập thứ nhất về hơi thở. Mà từ lâu, thì Thầy cũng dạy hơi thở, Thầy cũng nhắc đi nhắc lại nhưng mà không có nói rõ ràng như hôm nay. Vì hôm nay là dạy về cái giới hành, sự tu tập nó làm cho chúng ta thanh tịnh ở trong giới. Thân tâm chúng ta thanh tịnh, không có phạm giới, nó làm cho chúng ta có đầy đủ đức hạnh giải thoát, làm cho mình không khổ mà người khác không khổ.
Thì cái hơi thở, bây giờ bài tập thứ nhất thì chúng ta tập như thế nào? Chúng ta ngồi ngay ngắn rồi, bây giờ chúng ta mới nhắc: “Thở vô dài, tôi biết tôi thở vô dài”. Bây giờ mình thở vô tức là hít vô đó, mà cái hơi thở của mình dài thì mình biết: “Tôi thở vô dài”.
Bây giờ, mình bắt đầu mình thở vô dài rồi, cái thứ hai thì mình phải thở ra. Bởi vì nó hai hơi thở nó mới vào một cái tức. Tức là một hơi thở, một trọn vẹn một hơi thở. Cho nên bây giờ hít vô rồi thì bắt đầu thở ra: “Thở ra dài, tôi biết tôi thở ra dài”. Đó, rõ ràng là mình nhắc, tức là nhắc cái tâm của mình.
Như hồi nãy đó: “Tôi thở vô, tôi biết tôi thở vô, tôi thở ra, tôi biết tôi thở ra”, đó là mình nhắc như vậy. Nhưng bây giờ thì lại về cái bài tập này, nó thuộc về Định Niệm Hơi Thở mà nó không phải trợ giúp cho Tứ Chánh Cần, mà nó tập luyện cho nó thuần thục. Để rồi mình dùng nó mà mình câu hữu với tất cả, tức là kết hợp với các pháp khác để mà tu tập.
(8:30) Cho nên cái bài tập thứ nhất của nó: “Hít vô dài (hay là thở vô dài) tôi biết tôi thở vô dài”. Tức là mình nương theo cái hơi thở rồi mình nói, mình hướng tâm mình nhắc ở trong đầu của mình cái câu này, rồi: “Thở ra dài, tôi biết tôi thở ra dài”. Đó, là hai cái câu này nó kết hợp lại nó làm một cái hơi thở của chúng ta, một hơi thở tức là hít vô thở ra.
Rồi kế đó mình thấy, bây giờ cái hơi thở của mình nó không có dài mà mình nói dài là trật, nó không đúng. Cho nên, mình thấy cái hơi thở mình nó ngắn, vậy cho nên bây giờ đó, mình mới sửa lại cho đúng theo cái hơi thở của mình.
Mà muốn sửa đúng cái hơi thở của mình, thì mình thấy nó ngắn, cho nên mình nói: “Thở vô ngắn, tôi biết tôi thở vô ngắn”. Cho nên thì, tức là đây là một hơi thở nè, mình hít vô thì mình nói: “Thở vô ngắn, tôi biết tôi thở vô ngắn”. Rồi bắt đầu bây giờ mình thở ra thì mình nói theo cái hơi thở mình đang ra: “Thở ra ngắn, tôi biết tôi thở ra ngắn”. Rõ ràng là nhắc cho mình, cái pháp hướng này nhắc cho mình biết cái hơi thở của mình.
Rồi trong khi mình nhắc như vậy, thì mình lại làm thinh, mình không nói nữa. Mà mình cứ thở ra thở vô để cho cái tâm mình nó biết, nó biết cái hơi thở ra vô ngắn như vậy. Rồi một lúc nữa mình lại nhắc: “Thở vô ngắn, tôi biết tôi thở vô ngắn, thở ra ngắn, tôi biết tôi thở ra ngắn”. Tức là mình nhắc theo đúng với cái hơi thở của mình.
Do đó thì, nó nhắc làm cho mình kéo dài được năm mười hơi thở nữa, mà không có một tạp niệm. Và đồng thời, nếu mà mình cứ để như vậy hoài, mình thở không nhắc nữa thì lát nó quên đi. Nó quên đi thì nó có những cái vọng tưởng, cái tạp niệm khác. Do vì vậy đó, mà mình phải nhắc lần nữa.
Mà mình tu tập như vậy ấy, cái bài tập thứ nhất này mình tu tập như vậy đó, không có nghĩa là tu tập tỉnh giác ở trong hơi thở, tỉnh thức ở trong hơi thở. Mà cái bài tập này vốn để cho mình luyện tập để điều hòa cái hơi thở của mình, để ổn định cái hơi thở mình. Để mình biết rõ nó dài, nó ngắn theo cái đặc tướng riêng của mình để mình tu tập cho nó không có mệt, không có khó khăn, không có khổ sở cho cái thân của mình. Đó là cái bài tập thứ nhất.
(10:35) Và cũng vì cái chỗ tu tập này, nó làm cho mình quen đi với cái hơi thở. Mình mới, coi vậy chứ nó không quen đâu. Và đồng thời khi mình nhắc tới nhắc lui, đồng thời vừa thở mình vừa nhắc, thì nó cũng phải khéo léo mình mới nhận ra được, cái hơi thở mình ngắn hay là hơi thở mình dài. Hay hoặc cái sức mình thở dài mình chịu đựng nổi mà nó không mệt, thì do đó mình tùy theo chỗ cái hơi thở đó mà mình rèn luyện. Và cái mà đầu tiên để cho chúng ta thấy rằng ở chỗ này, nó không phải là cái Chánh Niệm Tỉnh Giác, Tỉnh Giác của trong hơi thở. Mà cái chỗ này, nó là cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ.
Cái bài tập thứ nhất này là cái định tu tập như vậy, nương vào cái hơi thở mà tu tập như vậy, để cho nó không có những cái niệm vọng tưởng xen vô. Thì cái định mà không có những cái vọng tưởng xen vô, thì cái chỗ mà tập luyện cái bài tập thứ nhất này, thì chúng ta tập luyện cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ. Đó nó không phải là cái định này là cái Định Niệm Hơi Thở mà dùng cái hơi thở để chúng ta tu tập cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ.
Có hiểu như vậy thì mới thấy được cái vấn đề mà đức Phật dạy chúng ta từng bước một, tu tập từng chút, từng cách thức tu tập, chứ không phải là, ào vô cái ngồi đó hít thở, hít thở cho hết vọng tưởng. Thì cái chuyện đó thật sự ra chúng ta chưa biết cách tu tập, và cái người chánh niệm..
Cho nên qua những cái bài mà đức Phật dạy chúng ta tu tập, thật là cơ bản… Định (12:01) nào là… Cái loại Định nào để cho chúng ta biết. Cho nên cái bài tập thứ nhất của Định Niệm Hơi Thở, thì nó là cái bài tập để chúng ta tu tập cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ, đó nó có cái tên, cái tên định của nó là Định Diệt Tầm Giữ Tứ.
Mà khi mà nói, bây giờ tôi tu cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ ở trên thân quán thân, tu về hành tướng nội, mà tu có Định Diệt Tầm Giữ Tứ thì lúc bấy giờ quý thầy biết là cái định gì rồi, phải không? Tức là mình phải biết cách thức mình tu cái gì rồi. Tức là cái Định Niệm Hơi Thở trong cái bài tập thứ nhất của nó. Lấy trong cái bài tập thứ nhất của cái Định Niệm Hơi Thở thì chúng ta biết đó là cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ.
(12:37) Nó có như vậy chúng ta mới biết được cái pháp của Phật, nó rất là tỉ mỉ để cho chúng ta luyện tập từng chút một. Chứ khi không mà nhảy vô, mà để tu mà hết vọng tưởng liền, thì thật sự ra thì các thầy phải tu mất cái thời gian rất lớn để mà ức chế tâm của mình. Còn cái này Phật dạy chúng ta tu tập (12:54) thử coi, kết quả dữ lắm á, chứ không phải là không đâu. Thầy thấy đây là trải qua, trước kia Thầy cũng chưa biết cái đường lối này đâu. Nhưng mà sau khi mà tu tập xong rồi, nhìn lại cái lời của đức Phật dạy, thật là có đủ kinh nghiệm, chứ không phải là không có kinh nghiệm. Kinh nghiệm rất kinh nghiệm.
Từ cái chỗ mà hướng tâm, nhắc từng câu như vậy để cho cái tâm nó không có tạp niệm xen vô. Cho đến khi mà kéo dài ba mươi phút hay một giờ mà không có một cái vọng tưởng nào xen vô. Thật sự ra thì Thầy thấy không có cái pháp nào hơn là cái pháp này. Mặc dù là quý thầy có sổ tức đi nữa đến từng hơi thở, cho đến cả trăm hơi thở nhưng vọng tưởng vẫn xen vô. Còn cái này chúng ta tu, chúng ta sẽ thấy một cái sức của chúng ta, tức là tùy theo cái đặc tướng của chúng ta mà chúng ta sẽ nỗ lực tu thì không có tạp
(13:38) Ở đây tới cái bài tập thứ hai, ở đây cái bài tập thứ nhất thì Thầy đã xác định cho quý thầy biết là cái định đó là cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ đó. Bây giờ tới cái bài tập thứ hai, bài tập thứ hai cũng nương vào cái hơi thở mà tu tập.
Cho nên ở đây thì đức Phật hướng tâm, nhắc như thế nào trước: “Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô”, hít vô tôi biết nè: “Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra”, tức là cái hướng tâm theo. Nghĩa là bây giờ đó, khi mình tu tập cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ nó đã không có tầm nữa rồi, thì tức là nó sẽ có một sự an ổn.
Mà cái sự an ổn đó, thì tức là cái gì mà an ổn đó cho cái thân này? Thì cái cảm giác, cái cảm giác toàn thân, chúng ta thấy nó có cái sự an ổn đó. Cho nên cái cảm giác toàn thân tôi biết, bởi vì lúc bấy giờ nó tỉnh thức. Do cái chỗ mà không có cái tạp niệm xen vô, thì cái cảm giác mình toàn thân mình thấy rất rõ. Nó xảy ra cái gì mình thấy rất rõ, nó an lạc, nó không an lạc biết rất rõ, nó rất là kỹ lưỡng.
(14:48) Cho nên ở đây đầu tiên vô, cái bài pháp thứ hai này, thì đức Phật dạy: “Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra”, thì nó cũng nương theo hơi thở. Và khi mình nhắc như vậy, mình lại thở năm, mười hơi thở, thì cái cảm giác đối với thân của mình nó vẫn còn bàng bạc ở trong cái thân của mình, chứ chưa phải mất đâu. Cho nên lúc bấy giờ, mất cái cảm giác đó, mà cái bài tập thứ hai này nó làm cho cái tâm của chúng ta, nó có một cái trạng thái rất là an ổn, nó có một cái trạng thái rất là an ổn.
Từ đó, chúng ta tiếp tục, chúng ta tu cái hơi thở này. Cái hơi thở mà cảm giác toàn thân này, chúng ta tu. Tu cho đến một lúc, thì chúng ta lại thuần thục. Thuần thục thì nó lại thấy rõ ràng một cái sự an tịnh của thân hành của mình. Nghĩa là cái hơi thở ra vô mà nó có cái an tịnh ở trong đó.
Cho nên lúc bấy giờ, chúng ta cảm thấy có một cái sự an tịnh thật sự, tức là cảm giác toàn thân chúng ta thấy có sự an tịnh. Vì vậy, vào cuộc đầu thì chúng ta nói: “An tịnh thân hành tôi sẽ thở vô, an tịnh thân hành tôi sẽ thở ra”. Bây giờ mình có cái cảm giác của sự an tịnh của cái thân của mình, mà thân hành là cái động dụng của cái hơi thở chúng ta ra vô mà chúng ta thấy rất là an ổn, mà rất là thanh tịnh.
Cho nên mình nhắc cái câu đó, mình hướng tâm để cho cái trạng thái đó nó được an trú. Cho nên Phật dạy như thế nào? “Thiện xảo an trú trong Định”, Thiện xảo là mình phải khéo léo. Mà khi nó có cái đó rồi thì mình nhắc cái đó đó, nó sẽ kéo dài cái đó ra. Mình nhắc cái trạng thái đó, nó sẽ kéo dài ra.
Thí dụ bây giờ mình có sự an tịnh rồi, mình nhắc: “An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô”, thở vô tức là mình nương vào hơi thở. Nhưng mà cái cảm giác mà an tịnh đó là nó làm cho cái tâm của mình ở trong cái trạng thái để cho nó thích thú, để cho nó ham tu, để cho nó thoái mái dễ chịu. Mình nương hơi thở mà mình thấy không có sự an tịnh, không có sự thoái mái dễ chịu, thì mình tu mình lười biếng lắm. Nhưng mà ở đây mình thấy, toàn thân an tịnh rồi, qua cái hành động của nội thân của mình, mình nghe nó rất an ổn.
Cho nên ở đây: “An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô”, thở vô là cái hành động của cái thân nội thân, “An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra”. Thì bây giờ đó, mình thấy cái sự an tịnh nó đã được có rồi, có rồi nó làm cho mình thấy thích thú. Rồi bắt đầu mình thấy, bây giờ cỡ mình không nhắc nó nữa nó vẫn còn có, nó vẫn còn có. Cho nên cái tu tập của mình nó vẫn còn có liên tục, chứ nó không có mất.
(17:16) Thì trong cái bài tập thứ hai này, thì chúng ta thấy đây là cái thân, cảm giác toàn thân, rồi cảm giác thân hành, an tịnh thân hành hai cái này nó thuộc về thân. Cho nên bây giờ đó, khi mà cái bài tập thứ hai này, mà nó đã được cái sự an tịnh, thì an tịnh nó sẽ có một cái cảm giác của nó. Một cái cảm giác của nó như thế nào? Cái cảm giác vui mừng, lâng lâng ở trong lòng của mình.
(15:42) Cho nên ở đây, qua cái phần mà kế của cái an tịnh này, thì đức Phật dạy: “Cảm giác hỷ thọ tôi sẽ thở vô, cảm giác hỷ thọ tôi sẽ thở ra”. Nghĩa là bây giờ, mình thấy có cái niềm vui. Cái niềm vui là do cái sự an tịnh này, nó thấy mình có những cái sự tu tập của cái Định Niệm Hơi Thở. Cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ này nó mang lại cho mình có cái niềm vui, có sự an tịnh, có sự cảm giác toàn thân. Có sự an tịnh, rồi có một cái niềm vui nho nhỏ trong tâm hồn của mình, trong hơi thở ra và hơi thở vô của mình. Khi mà nó có cái niềm vui đó rồi, thì cái thân của mình nghe nó nhẹ nhàng, khinh an vô cùng lận.
Cho nên, tiếp tới thì đức Phật cũng nương theo hơi thở để mà lắng nghe được cái trạng thái an ổn, khinh an của cái thân của mình. Cho nên đức Phật dạy, mình cũng nương hơi thở chứ đâu có lìa hơi thở được. Lìa hơi thở thì coi chừng nó sẽ lôi vào chỗ xúc, lạc, hỷ, tưởng mất đi. Cho nên cứ ôm chặt hơi thở mà nhắc những cái đó, để cho nó, cái trạng thái do cái định mà nó xuất hiện, do cái định mà nó sanh ra mà nó không bị mất. Cho nên: “Cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở vô, cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở ra”.
Hồi nãy hỷ, hỷ là cái niềm vui, cái niềm mà nó có được cái sự an ổn thân tâm của mình, qua những cái hành của thân, qua những cái cảm giác của toàn thân. Bây giờ cái hỷ đó, nó đã làm cho mình vui. Làm mình vui thì mình thấy rằng cái thân của mình, bây giờ nó an lạc, nó nhẹ nhàng, nó phơi phới. Cái thọ lạc nó đi đến, nó làm cho chúng ta thấy quá là khinh an ở trong cái thân và tâm của chúng ta.
(19:23) Cho nên ở đây khi mà có cái trạng thái đó rồi, thì lúc bấy giờ chúng ta cũng nương vào hơi thở. Thỉnh thoảng chúng ta lại nhắc, nhắc nó một câu: “Cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở vô, cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở ra”. Và đây là, các thầy cũng như các con nếu mà học thuộc lòng cái này, thuộc lòng cái này khi nó có đến thì chúng ta hướng ra, bởi vì nó thuộc lòng.
Còn khi mà nó có đến rồi, chúng ta quên không biết làm sao đây, nói làm sao đây? Thầy có dạy rồi mà mình không biết, mình nói như thế nào đây? Lúc đó, cứ nhớ chữ lạc, chữ hỷ rồi không biết nói sao, quên chữ cảm giác hay hoặc là quên chữ an tịnh mất đi rồi. Cho nên mình không biết sao mà cấu kết được cái pháp hướng. Do vì vậy đó, mà các con và các thầy ghi chép lại cái câu này.
Câu này từ trong kinh đức Phật đã chọn để cho các đệ tử của Người thực hiện, cho nên chúng ta cũng nên ghi chép. Nhưng mà chúng ta có thể, chúng ta viết những cái câu pháp hướng khác, tùy theo cái đặc tướng của chúng ta mà nó phù hợp hơn là những câu này của Phật dạy. Nhiều khi chúng ta dẫm lại cái pháp hướng của Phật, nó không trúng cái đặc tướng của chúng ta, nó làm cho chúng ta khó chịu.
Thí dụ như câu này nó dài quá, bắt buộc mình phải thở chậm quá, cho nên nương theo hơi thở, mình nói hơi. Mình hướng tâm vừa thở mà vừa nói, mình phải ráng mình thở cho thiệt chậm đặng cho nó hết câu nói chứ gì. Do đó, hết câu nói nó mệt muốn đứt hơi mình. Vì vậy mà an lạc không thấy, hỷ thọ không thấy, khinh an không thấy mà thấy mệt, mà thấy khổ sở, đó là mình tu sai.
Cho nên do vì vậy mà cái đặc tướng của cái hơi thở của mình nó dài, thì mình tạo cái câu dài hơn để mình nhắc nhở. Mà cái thân của mình nó có cái đặc tướng thở cái hơi thở ngắn, mà mình thở chậm mà dài để cho nó mình hướng tâm cho hết cái câu theo hơi thở của mình. Thì lúc bấy giờ mình sẽ, hoàn toàn là mình sẽ thấy khó chịu. Cho nên nó tùy theo hơi thở ngắn, hơi thở dài, rồi mình chế biến cái câu này, nó nói theo cái hơi thở ngắn của nó, nó nhanh chóng hơn.
(21:23) Thí dụ như nói: “An tịnh thân hành”, thì mình chỉ bỏ chữ “thân hành” đi, thì mình nói: “An tịnh tôi sẽ thở vô, an tịnh tôi sẽ thở ra”, tức là mình biết cái gì an tịnh, cái thân của mình chứ gì? Thì mình bỏ bớt đi, thì nó làm cho nó vừa với cái hơi thở vô và hơi thở ra của mình. Đó là khi mà tu hành, thì mình còn phải khéo léo để trạch pháp, chọn lấy một cái câu, nó vừa hợp với cái khả năng riêng biệt của mình.
(21:50) Bây giờ cái phần kế nữa, thì chúng ta đã tu tới: “Cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở vô, cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở ra”. “Cảm giác tâm hành”, bây giờ tới về phần tâm rồi, hồi nãy là phần thân, rồi phần thọ. Bây giờ về tới phần tâm: “Cảm giác tâm hành tôi sẽ thở vô, cảm giác tâm hành tôi sẽ thở ra”. Thì hồi nãy thân cũng cảm giác, rồi tâm cũng cảm giác. Bây giờ cái tâm nó cảm giác, tâm khác à.
Các con cũng như các thầy nên lưu ý về cái phần thân và phần tâm. Nó hai cái, nó tuy rằng, nó một cái danh từ gọi vậy chứ cái tâm nó khác, mà cái thân nó khác. Rồi bây giờ cái tâm của mình, cái tâm nó hành của mình mà mình thấy nó an ổn thì cho nên mình thở hơi thở mình cũng nương vào: “An tịnh tâm hành tôi sẽ thở vô, an tịnh tâm hành tôi sẽ thở ra”.
Thì bây giờ đó, mình đã thấy cái sự an tịnh của tâm của mình như thế nào. Thì mình biết cái tâm mình nó rất an tịnh như thế nào, thì mình rõ để mình hướng theo hơi thở. Để mình an trú ở trong cái an tịnh đó, nó kéo dài ra. Tức là nhờ mà hướng như vậy, nó sẽ kéo dài cái trạng thái an tịnh đó. Còn nếu mình không hướng, thì nó một lúc thì nó lại mất đi, nó không còn có nữa.
Bây giờ đó, khi mà cái tâm của mình nó có sự an tịnh như vậy đó, thì mình có cái sự tỉnh thức đối với cái tâm rất là rõ ràng và cụ thể lắm. Cho nên cái cảm giác về tâm thì mình thấy rất rõ tâm mình như thế nào. Còn bây giờ nhiều khi cái thân của mình nó có những cái thọ. Cái cảm thọ, mát, lạnh, nóng đồ thì mình biết. Nhưng mà đối về cái tâm thì mình thấy, mình không biết cái tâm cảm giác như thế nào? Như thế nào thì mình không biết.
(23:38) Nhưng mà, khi mình tu thì từ đó nó có cái sức tỉnh, thì mình thấy cái cảm giác về cái tâm của mình nó sao? Nó không giống như cái thân đâu. “Cảm giác về tâm tôi sẽ thở vô, cảm giác về tâm tôi sẽ thở ra”. Và khi mà mình tu tập tới cái hơi thở tới chỗ này rồi, thì mình thấy cái thân tâm của mình nó rất là an ổn, nó rất là khinh an, nó rất là nhẹ nhàng.
Cho nên lúc bấy giờ, luôn luôn lúc nào mình cũng vui vẻ, mình cũng thích thú ở trong cái sự tu tập. Cho nên cái bài tập kế này về cái Định Niệm Hơi Thở, thì quý thầy cũng nên nhớ rằng, khi mà nó đạt được những cái kết quả về tâm như vậy rồi, thì cái tâm vui mừng của mình, tức là cái tâm hân hoan nó sẽ thể hiện, lúc nào nó cũng vui vẻ. Cho nên người ta chửi mình không biết giận là tại vì mình vui, quá vui rồi, cho nên mình không biết giận ai hết. Người ta nói mình (24:30) chó trâu mình thấy mình cũng vui nữa, không có buồn nữa.
Cho nên hầu hết là mình tu, tại vì mình tu không đúng cách. Cho nên do vì vậy mà mình cố mình dùng cái Định Vô Lậu, mình cố mình hướng tâm, mình xả nó. Nhưng mà mình nhớ rằng mình tu tập đúng cách rồi, tự nhiên cái tâm nó vui. Nó vui rồi mình cũng dễ tha thứ mọi người nữa. Mình vui quá mà đâu có còn giận ai nữa. Cho nên khi nghe người ta chửi mình cũng không biết giận nữa, vì cái tâm mình hân hoan.
Cho nên ở đây, cũng nương vào cái hơi thở mà tu tập cái tâm: “Với tâm hân hoan tôi sẽ thở vô, với tâm hân hoan tôi sẽ thở ra”, nó rõ ràng, mình nhắc. Ở đây nó có phần: “Có tâm hân hoan” nhắc, thì rất là cụ thể. Mà không có tâm hân hoan nhắc, thì mình tu một lúc sau thì lại có hiện ra tướng hân hoan của cái tâm của mình. Cái gì cũng vậy, mình cố gắng, mình tu tập thì đầu nó chưa có nhưng mà sau nó lại có. Thì khi mà cái tâm hân hoan mình nó đã có rồi, thì cái sức định tĩnh nó, nó sẽ làm cho chúng ta biết rõ ràng hơi thở.
(25:34) Còn đằng này, quý thầy tu thiền định, quý thầy ngồi khi mà có cái trạng thái mà hỷ lạc, an ổn cho quý thầy, thì lần lần cái tỉnh thức đó lại mờ mờ mờ mờ, nó lần lần lần, nó theo cái sự sai sai của hỷ lạc đó, nó làm riết cái tâm của quý vị nó mất, nhiều khi nó vô ký nó không biết nữa. Nó thích, nó thích cái an lạc, nó thích khinh an lắm. Nhưng mà nó cứ ôm chặt theo cái đó, thì nó đi riết cái nó lạc mất.
Còn cái này đó, càng lúc nó lại càng tỉnh táo lên, nó càng rõ ràng lên. Cái sự hân hoan, cái sự an tịnh của tâm của mình như thế nào? Nó càng biết rõ. Càng lúc nó tỉnh táo, nó càng nhiều sức tỉnh táo hơn. Cho nên lúc bấy giờ do cái sức tỉnh táo đó thì chúng ta cũng nương vào hơi thở để mà an trú cái sức tỉnh táo đó kéo dài trong cái thời gian mà chúng ta tu tập thiền định.
“Với tâm định tĩnh”, bây giờ nó có tỉnh thức rồi, cho nên mình mới nhắc: “Với tâm định tĩnh tôi sẽ thở vô, với tâm định tĩnh tôi sẽ thở ra”. Nhưng mà mình tu một thời gian mà mình thấy cái tâm mình nó không định tĩnh, nó luôn luôn nó mờ mịt, nó muốn buồn ngủ, nó muốn hôn trầm gì đủ thứ, làm sao nó cũng không có tỉnh táo, mình nhắc: “Với tâm định tĩnh tôi sẽ thở vô, với tâm định tĩnh tôi sẽ thở ra”. Mình nhắc một hơi thì mình nhìn lại, mình thấy nó định tĩnh, một hơi nó sáng suốt ra.
Rồi bây giờ trong cái hoàn cảnh của mình, nó có những cái đối tượng. Khi mình ngồi mình xếp chân lại để mình tu cái tâm không tầm tứ đó, diệt tầm giữ tứ đó, mà mình tu thì cái sự việc đó nó làm cái tâm của mình nó bận rộn, nó suy tư, nó lo lắng. Thì bây giờ mình làm sao để cho nó hết suy tư lo lắng đây, để cho mình ngồi lại mình tu cho được? Nhiều khi nó có chuyện gì, rồi bắt đầu mình ngồi vô cái mình lo lắng. Mình ngồi đó mình nhiếp tâm không được, nó cứ nghĩ ngợi cái này kia. Rồi lớp nhất là cái sợ hãi, nó làm cho mình không có yên tâm chút nào mà ngồi đó mà nhiếp tâm nổi hết. Cho nên vì vậy, mình phải nhắc cái tâm của mình: “Với tâm giải thoát tôi sẽ thở vô, với tâm giải thoát tôi sẽ thở ra”.
(27:38) Thí dụ như, vừa lúc nãy có người chửi mắng mình, bây giờ mình ngồi lại nghe nó tức tối quá. Mà nó không có được giải thoát như vậy, thì nó làm sao nó yên mà mình tu? Cho nên mình phải dùng câu pháp hướng này. Nghĩa là nó đang giận hờn tức bực ai đó, uống thuốc không hết rồi chết đi, mình sẽ mất mẹ mất cha mình đi, buồn quá. Cho nên cái tâm nó làm cho mình bồn chồn, lo sợ đủ cách. Thì ngay đó mình phải nhắc: “Với tâm giải thoát tôi sẽ thở vô, với tâm giải thoát tôi sẽ thở ra”. Mình nhắc một hơi, thì cái tâm nó bắt đầu nó an trú, nó không có còn sợ hãi, bồn chồn nữa, nó không còn lo lắng nữa.
Tùy theo mỗi cái đặc tướng, mỗi cái hoàn cảnh của mình nó xảy ra một cái gì, thì mình dùng cái câu pháp hướng đó để nhắc, để dẹp cái đó xuống đi. Để đem lại cái sự bình tĩnh, định tĩnh cho cái thân tâm của mình.
Mới đầu, bởi vì cái tu tập này nó rất khéo léo, cái tâm của mình nó chưa được định tĩnh. Ngồi lại thì chuyện này đến chuyện kia nó lăng xăng ở trong đầu, thì mình nhắc: “Với tâm định tĩnh tôi sẽ thở vô, với tâm định tĩnh tôi sẽ thở ra”. Rồi mình thở năm, ba hơi thở mình lại nhắc nó, để cho nó định tĩnh. Cho nên nó định tĩnh được rồi, bắt đầu nó không có còn mà rối nữa ở trong đó, nó không loạn tưởng nữa ở trong đó.
Còn bây giờ cái hoàn cảnh của mình nó không giải thoát, mình ngồi lại thì tâm mình nó lăng xăng, lộn xộn nó khó quán, cho nên mình nhắc tâm mình phải giải thoát, làm cho nó giải thoát. Cho nên nhắc riết một hơi cái nó xả những cái điều mà lăng xăng ở trong đầu nó, những cái lo lắng, suy tư, những cái sợ hãi của nó. Xả nó được rồi chúng ta bắt đầu thấy, mình an tịnh ở trong cái hơi thở. Cho nên cái lúc bây giờ, tâm của mình an tịnh hay là thân của mình an tịnh. Thì khi mình thấy nó an tịnh rồi, mình mới kéo dài cái trạng thái đó ra thì mình nhắc: “An tịnh tâm hành tôi sẽ thở vô, an tịnh tâm hành tôi sẽ thở ra”.
Chứ không phải các thầy nghĩ rằng mình không phải là mình sắp xếp từ bài một cho đến bài hai như thế này rồi, mình mới tu tuần tự, thứ tự như vậy, không phải đâu. Ở đây, nó lộn xộn đủ thứ tùy theo cái tâm của mình, lúc bấy giờ nó ở trạng thái nào thì mình phải dùng cái câu pháp hướng đó ở trạng thái đó.
Hoặc là mình đang muốn được ở trạng thái đó, cái tâm ước muốn mình được an ở trong cái trạng thái đó. Mà cái trạng thái đó bây giờ nó đang buồn khổ, thì mình nhắc cái trạng thái mình ước muốn để cho nó hân hoan, để cho nó vui vẻ. Thì mình nhắc một hơi, mình nương theo hơi thở. Thì một lúc, thì nó sẽ đạt được cái kết quả của cái pháp hướng. Các thầy, các con nhớ được không?
(29:56) Nhớ như vậy thì chúng ta mới biết rằng, ở đây không thể nào mà sắp thứ tự là chúng ta phải tu cái pháp bài thứ nhất, bài thứ hai, bài thứ ba đâu. Mà ở đây những cái câu này, nó tùy theo những cái trạng thái khi bắt đầu từ cái chỗ: “Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra”. Tùy theo mọi cái hoàn cảnh mà chúng ta sử dụng câu đó trước, hay hoặc là câu kia sau, chứ không phải là có một thứ lớp.
Còn nhất định là chúng ta, mới đầu chúng ta tu tập cái bài thứ nhất về Định Niệm Hơi Thở, để mà chúng ta biết cái hơi thở, Chánh Niệm ở trong hơi thở dài, hơi thở ngắn của chúng ta. Khi mà chúng ta nói dài trước thì chúng ta biết rằng mình theo không có kịp, hơi mệt. Cho nên vì vậy mình mới thở ngắn. Mình thở ngắn thì tức là nó vừa với sức của mình, thì mình hướng câu hướng đó, hoặc nhanh hơn, hoặc là chậm hơn một chút để cho nó vừa với cái đặc tướng hơi thở của mình. Vì vậy mà cái bài tập thứ nhất, thì các con sẽ đạt được những cái kết quả đầu tiên, tức là Diệt Tầm Giữ Tứ, đó là cái Định Diệt Tầm.
Bài tập thứ hai là tùy theo những cảm giác thân tâm của mình, mà có thể hướng tâm an tịnh trước, Hoặc hướng tâm hỷ trước, hoặc hướng tâm lạc trước, hoặc hướng tâm cảm giác tâm hành trước hay hoặc là thân hành trước. Tùy theo, nó ở trạng thái nào thì chúng ta sử dụng cái pháp hướng đó ở cái trạng thái nấy.
Cho đến cái câu mà: “Với tâm giải thoát tôi sẽ thở vô, với tâm giải thoát tôi sẽ thở ra”. Thì cái câu mà tâm giải thoát thở vô thở ra này, thì rõ ràng là nó sẽ áp dụng đầu hay hoặc là áp dụng đuôi, tùy theo cái chỗ đó. Bây giờ tới cuối cùng mình, với tâm định tĩnh, với tâm hân hoan, với cảm giác về tâm, rồi cảm giác an tịnh tâm hành, tất cả mọi cái. Khi mà nó cuối cùng, nó thấy được cái sự giải thoát của nó thì mình lại nhắc, lại nhắc. Nghĩa là ở trạng thái tâm nào thì chúng ta phải tu cái pháp hướng đó ở trạng thái nấy.
(31:43) Bây giờ tới cái phần mà số sáu này thì chúng ta thấy rằng cái phần này là cái phần mà chúng ta tu tập để xả cái tâm, để ly cái tâm của mình tham-sân-si. Nó cũng là cái phần để mà chuẩn bị cho cái sự thần thục, để mà thực hiện cái Định Vô Lậu làm cho Tâm Tham-Sân-Si của chúng ta sạch. Và cũng là một cái pháp trợ giúp thêm cho cái Tứ Chánh Cần để thực hiện được các thiện pháp cho trọn vẹn.
Bây giờ ở đây, câu thứ nhất của nó đó, cũng nương vào cái hơi thở mà tu tập cái pháp này: “Quán vô thường tôi sẽ thở vô, quán vô thường tôi sẽ thở ra”, Tại sao vô thường? Vì đây là mình tu các pháp mà, các pháp đều vô thường, thân chúng ta vô thường, tâm chúng ta vô thường, thọ chúng ta vô thường, tất cả mọi cái đều vô thường.
(32:32) Chúng ta đã hiểu như vậy, cho nên chúng ta ở đây, chúng ta tu rất dễ dàng. Là vì chúng ta chỉ cần: “Quán vô thường tôi sẽ thở vô, quán vô thường tôi sẽ thở ra”. Đó, thì như vậy là rõ ràng là mình thấy vạn pháp đều là vô thường. Không có một cái vật gì mà nó thường hằng hết mà nó phải thay đổi. Nó thay đổi hết, bữa nay nó vầy, ngày mai nó khác.
Cái bàn này trước kia nó mới, bây giờ nó cũ, rồi nó gảy, nó sắp hư thì đó gọi là vô thường. Cho nên thân này hồi nhỏ nó khác bây giờ nó già nó yếu, nó không còn mạnh khỏe nữa thì nó là vô thường. Cho nên mình chỉ cần nhắc: “Quán vô thường tôi sẽ thở vô, quán vô thường tôi sẽ thở ra”. Đó là cái pháp tu, tu để nhắc cho mình biết vạn pháp đều vô thường.
Để không khéo rồi mình thấy, “A! Cái bàn này đẹp quá”, Nhưng nó đẹp có một thời gian của nó trong hiện tại này, chứ ngày mai ngày mốt nó sẽ cũ. Cũ rồi, nó sẽ bị mục nát đi, nó đâu có còn thường nữa. Cho nên do mình biết nó vô thường, vì vậy cái đẹp của nó, nó không quyến rũ mình được. Cho nên không tham nữa.
Bây giờ, mình biết rõ là cái tâm của mình nó còn tham, tham ăn, tham ngủ, còn tham ái. Tức là còn thương, còn giận hờn, ghét cái người này, người kia cho nên nó còn tham. Vì vậy đó mình cũng nương vào cái hơi thở, cái Định Niệm Hơi Thở này để mình tu, để mình ly tham. Mình xả nó ra, mình làm cho nó rời ra, nó không còn dính ở trong cái lòng ham muốn của mình nữa.
Cho nên ở đây, thì Phật dạy: “Quán ly tham tôi sẽ thở vô, quán ly tham tôi sẽ thở ra”. Nghĩa là mình hít vô đó, thì mình hướng tâm theo cái hơi thở vô của mình, thì mình nói: “Quán ly tham tôi sẽ thở vô”. Rồi bây giờ cái hơi thở của mình đi ra nè, thì mình cũng nói: “Quán ly tham tôi sẽ thở ra”.
Nghĩa là mình ly cái lòng tham, sân, si của mình thì tức là mình ly cái tham, thì mình nhắc cái ly tham đó. Thí dụ như bây giờ, mình quán đoạn diệt cái tham của mình, làm cho nó đừng có ham muốn, đừng có này kia. Bây giờ mình ly rồi, nhưng mà nó chưa có lìa, tức là chưa có đoạn được nó.
Cho nên mình bắt đầu, mình sẽ tiếp tục nương vào cái hơi thở. Mình tu một cái thời gian để ly cho được cái tham của mình. Mà bây giờ tiếp tục, thì mình thấy nó ly được nhiều rồi, thì do đó mình, trên bước đường tu tập về Định Niệm Hơi Thở thì mình phải quán thêm: “Quán đoạn diệt tham tôi sẽ thở vô, quán đoạn diệt tham tôi sẽ thở ra”.
Nghĩa là mình đoạn diệt cái lòng tham của mình để cho mình nương theo hơi thở, là mình nhấn mạnh để cho mình diệt nó đi, đừng có để cái (35:03) tâm của nó ở trong cái tâm của mình. Đó thì, như vậy là cách lối của đức Phật dùng cái pháp hướng rất nhiều để cho mình ly tham, đoạn diệt, để mình được giải thoát.
Bây giờ đó, nó nếu mà đoạn diệt được mà thôi, mà nó không có đoạn diệt được, mà nó cứ lầy nhầy hoài thì mình rằng cái pháp hướng này nó chưa đúng cách nó, nó còn dai quá. Mình ly, mình lìa ra rồi mà mình đoạn không có được. Nó cứ còn, thỉnh thoảng nó còn chen vô, nó còn tới lui. Cho nên mình hướng tâm, mình đoạn không được, mình thay đổi liền. Mình phải hướng như thế nào để cho đúng cách đây? Để cho rồi từng đó mình mới đoạn diệt nó được.
(35:38) Thì do đó mình phải: “Quán từ bỏ tham tôi sẽ thở vô, quán từ bỏ tham tôi sẽ thở ra”. Đó thì thấy như vậy thì, bây giờ đó mình đoạn diệt nó không được, sao nó không dứt? Cho nên mình từ bỏ nó trước đã. Hồi nãy mình ly nó ra, rồi bây giờ mình từ nó ra đi, mình từ bỏ nó nữa đi. Ly nó mà nó không có chịu ly cho thật ly đi, nó cứ còn bám bám theo mình hoài, bây giờ mình từ bỏ nó đi. Mình từ bỏ nó, thì mình nương vào hơi thở để mình hướng tâm mình nhắc, mình nhắc nó mình từ bỏ.
Như vậy thì, chúng ta sẽ thấy có một cái tâm tham, mà ở đây chúng ta đã tu ba cái giai đoạn quán ly tham, rồi quán đoạn diệt, và quán từ bỏ.
Bây giờ tới cái sân, cái tham rồi, thì bắt đầu mình có thể mình thêm chỗ tham, mình bỏ chữ tham mình thêm chữ sân: “Quán ly sân tôi sẽ thở vô, quán ly sân tôi sẽ thở ra”. Đó mình chỉ thêm, mình bỏ cái chữ tham đi, mình thêm chữ sân vô. Thì như vậy là làm cho mình không còn sân nữa chứ gì?
Rồi bắt đầu mình: “Quán đoạn diệt sân tôi sẽ thở vô, quán đoạn diệt sân tôi sẽ thở ra”, mình đoạn diệt cái sân đi, đừng có để cho nó còn nữa. Nhưng mà mình thấy sao nó cũng còn, cho nên mình phải quán từ bỏ, do đó mình: “Quán từ bỏ sân tôi sẽ thở vô, quán từ bỏ tham tôi sẽ thở ra”. Thấy như vậy, Tham-Sân-Si, tham, sân mình đã tu tập rồi, bây giờ trong cái Si.
Si là cái vô minh, mà đây chữ si của Phật muốn nói ở đây là cái chỗ ham ngủ. Si là thùy miên, vô ký, ham ngủ đó hay là hôn trầm. Cho nên chữ Si chỗ này không phải là chữ minh và chữ vô minh đâu. Nếu mình nói vô minh thì mình phải có một cái sức Định để mình vén được cái màn vô minh của nó.
Nhưng mà muốn vén được cái màn vô minh đó, thì trước tiên mình phải đậpcái hôn trầm, cái thùy miên, cái vô ký phải đập sạch nó. Nó không còn ham ngủ nữa, nó không còn ngồi đó mà ngủ gục nữa, thì nó sẽ minh được, nó sẽ sáng suốt, nó có trí tuệ.
(37:40) Muốn được như vậy thì mình phải nhắc: “Quán ly si”, ly si tức là ly cái buồn ngủ. Hay hoặc là: “Quán lìa xa cái tâm ngủ tôi sẽ thở vô, quán lìa xa cái tâm ngủ tôi sẽ thở ra”, mình lìa xa cái lòng tham ngủ của mình. Thì như vậy rõ ràng là mình lìa cái si.
Bây giờ mình dồn lại, nếu mà mình dùng ngắn thì: “Quán ly si (quán lìa cái si đi) tôi sẽ thở vô, quán ly si tôi sẽ thở ra”. Hay hoặc là tùy theo cái chỗ mình dùng chữ: “Quán ly vô minh tôi sẽ thở vô, quán ly vô minh tôi sẽ thở ra”. Chữ vô minh cũng là si, mà ngay chữ si thì mình cũng quán được. Mà ngay chữ ngủ, hôn trầm: “Quán ly hôn trầm tôi sẽ thở vô, quán ly hôn trầm tôi sẽ thở ra” Hay hoặc là: “Quán ly thùy miên tôi sẽ thở vô, quán ly thùy miên tôi sẽ thở ra”.
Mình chỉ có thay đổi những cái chữ đó mình dùng thì mình bị cái bệnh nào, bệnh tham của mình thì mình quán ly tham, đoạn diệt tham, từ bỏ tham. Mà nếu mình hay sân dễ, chuyện gì nó cũng dễ sân, thì mình lại dùng cái câu này nương vào hơi thở để nhắc, để lìa cái sân của mình.
Tùy theo mọi cái đặc tướng. Có nhiều người tham nhiều mà sân ít. Có nhiều người sân nhiều mà tham không có, có nhiều người thì ham ngủ nhiều mà sân cũng không có mà tham cũng không có, mà ham ngủ. Cho nên tất cả những cái này, do tùy theo những cái đặc tướng mà chúng ta có ba cái hành tướng, nhân tướng và đặc tướng. Do cái đặc tướng này mà chúng ta phải quán. Vì cái đặc tướng nào thì chúng ta đặt cái niệm đó ngay ở chỗ đó mà chúng ta quán ly nó, đoạn diệt nó và từ bỏ nó.
(39:20) Hôm nay về cái Định Niệm Hơi Thở là cái mục đích của nó để giúp cho chúng ta ly tham, ly sân, ly si. Mà nó đã ly tham đoạn diệt sân và từ bỏ sân, thì nó trợ duyên cho Tứ Chánh Cần, nó giúp cho Tứ Chánh Cần toàn ở trong thiện pháp. Nó trợ giúp mà không trợ giúp trực tiếp, mà đây là cái sự trợ giúp gián tiếp của cái Định Niệm Hơi Thở.
(39:42) Còn cái Định Niệm Hơi Thở mà Chánh Niệm Tỉnh Giác, nó trực tiếp để ngăn chặn các pháp ác không sanh. Các thầy thấy cái pháp mà gián tiếp rồi cái pháp mà trực tiếp. Thì mỗi một cái pháp nào nó cũng có cái sự trợ giúp ở trong đó, nhứt là cái Định Niệm Hơi Thở thì nó trợ giúp, nhưng mà trợ giúp bằng trực tiếp và trợ giúp bằng gián tiếp. Thì ở chỗ mà quán từ bỏ tham, sân, si này, nó là cái gián tiếp.
Còn như Thầy xin nhắc lại đó, cái phần thứ nhất là Chánh Niệm Tỉnh Giác định trong hơi thở. Còn cái kia là Chánh Niệm Tỉnh Giác định trong cái hành động, cái hành động của thân bên ngoài. Thì chúng ta thấy hai cái pháp này đều là cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác cả hết. Nhưng mà tỉnh giác hơi thở và tỉnh giác trong hành động. Hai cái này nó thuộc về hành động nội và hành động ngoại mà thôi.
Còn cái Định Niệm Hơi Thở thì nó giúp cho chúng ta là tu cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ đó là cái pháp đầu tiên của nó. Cái đó là những cái pháp mà nó trợ giúp gián tiếp, gián tiếp cho cái Tứ Chánh Cần làm cho các ác pháp sẽ bị đoạn diệt. Và nó giúp cho cái thân của chúng ta nó có những cái cảm giác làm cho chúng ta thấy an lạc, làm chúng ta thấy hân hoan, làm chúng ta thấy định tĩnh, làm chúng ta thấy giải thoát. Nó giúp cho chúng ta thực hiện trên con đường, càng tu càng thấy những kết quả thích thú ham tu hơn.
Đó là Định Niệm Hơi Thở, nó chưa có áp dụng vào những cái định như Tứ Thiền hay hoặc là cái định khác nữa. Nó áp dụng tất cả mọi cái loại định, thì cái Định Niệm Hơi Thở nó áp dụng rất nhiều. Thậm chí như Thất Giác Chi nó cũng áp dụng vào cái Định Niệm Thất Giác Chi nữa. Nhưng ở đây vì chưa dạy tới Thất Giác Chi cho nên Thầy không có giảng dạy.
Nhưng ở đây bây giờ, chúng ta sẽ thấy được cái kết quả của cái Định Niệm Hơi Thở này. Nó giúp cho cái thân và tâm của chúng ta thanh tịnh. Thanh tịnh tức là nó không còn tham, sân, si nữa tức là thanh tịnh, nó ly dục ly ác pháp cho nên nó thanh tịnh. Đây ở đây đức Phật khuyên chúng ta tu cái Định Niệm Hơi Thở. Cái Định Niệm Hơi Thở để cho nó đạt được cái sự thanh tịnh. Nếu mà chúng ta tu tập thì chúng ta sẽ đạt được cái kết quả thanh tịnh đó.
(41:54) “Tỳ kheo đi đến một khu rừng hay đi đến một gốc cây hay đi đến một căn nhà trống, ngồi kiết già lưng thẳng, đặt niệm trước mặt, vị ấy Chánh Niệm thở vô, Chánh Niệm thở ra”. Thì như vậy là nãy giờ thầy đã đọc lại cái Định Niệm Hơi Thở, cách thức tu.
Thì bây giờ, muốn cho cái thân và tâm và thọ của mình được thanh tịnh. Thân, Tâm, Thọ và các Pháp được thanh tịnh, tức là bốn chỗ này thanh tịnh đó, thì chúng ta thường xuyên mà tu tập như thầy đã giảng hồi nãy, thì nó sẽ như thế nào? Tu tập như vậy làm cho sung mãn. Làm cho sung mãn, tức là làm cho đầy đủ đó. Như vậy “Niệm hơi thở vô, hơi thở ra sẽ có quả lớn thì sẽ lợi ích rất lớn”. Nghĩa là nó có cái quả lớn để cho chúng ta. Vì nó đem đến cho chúng ta được một trạng thái thanh tịnh, chứ không phải không.
Thì đó là cái thứ nhất, và đồng thời cái quả như thế nào? Ở đây Phật cũng có dạy, như vậy là trước khi mà chúng ta đi tìm cái nơi yên tịnh để chúng ta tu hành đó, rồi chúng ta tịnh quán. Bây giờ, từ cái chỗ mà chúng ta quán cái hơi thở của chúng ta, như bắt đầu cảm giác toàn thân. Cái bài thứ nhất mà hơi thở dài, hơi thở ngắn thì đó là cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ, (43:07) nó không quan trọng rồi. Đến cái bài thứ hai thì chúng ta cảm, từ cái chỗ mà cảm giác toàn thân, cho đến cái mà quán từ bỏ Tham-Sân-Si (43:16) của chúng ta đó. Từ bỏ đoạn diệt, rồi ly tham đồ đó, thì cho đến cái chỗ quán từ bỏ đó. Thì cái phần này nó sẽ giúp cho chúng ta có được những cái quả lớn của nó.
Niệm hơi thở vô, hơi thở ra sẽ được, mà tu tập làm như vậy cho sung mãn, thì chúng ta sẽ đạt được. Đạt được cái gì? Đạt được hai quả. Ngay ở trong hiện tại thì chúng ta có sự Chánh trí. Nó làm cho chúng ta sáng suốt, lúc nào nó cũng có sự hiểu biết, ai làm gì chúng ta cũng hiểu biết. Nếu mà người ta chửi mình, mình cũng vẫn hiểu biết. Mình hiểu biết, mà cái hiểu biết của chánh trí, nó làm cho chúng ta không có giận, giận cái người đó mà ghét cái người đó. Nó đạt được cái Chánh trí đó.
Nếu có cái quả thứ hai, thì ngay đó là chúng ta có được một cái quả, cái quả Bất Lai. Nghĩa là nó không có trở lui lại với cái đời sống phàm phu.
(44:11) Đây! Bây giờ Thầy nói ví dụ nè, như Mật Hạnh bây giờ đã tu tập như vậy. Khi bây giờ Mật Hạnh có ra đời, có thực hiện cái cuộc đời, Mật Hạnh cũng vẫn là một người tốt. Chứ không bao giờ mà có phạm những cái bậy bạ, cái tầm bậy như con người chưa tu. Nghĩa là không có ác pháp đối với nó. Nghĩa là ác pháp đến với nó, nó vẫn có một cái chánh trí, nó biết được liền.
Cho nên ở đây nó có hai cái quả. Cái quả hiện tại mà cái người tu mà cái tâm nó quay vô thì nó đạt được cái chánh trí, nó thấy được cái đúng cái sai. Nó không bao giờ nó bị cái đam mê của cái tà pháp bên ngoài làm cám dỗ nó. Nghĩa là nó không tiếp tục tu lại trên con đường tu nữa, nhưng mà nó vẫn có cái chánh trí.
Và nếu cái chánh trí đó, nó sẽ có cái quả, cái quả đó là cái quả Bất Lai. Nó không đưa cái con người trở về cái phàm phu tục tử của cái đời sống, của từ cái con người thô lỗ cho đến cái loài thú vật. Nó không đưa cái người đó trở về đó. Mà từ cái chỗ đó nó sẽ đưa trở về bậc Thánh. Bởi vì cái chánh trí đó, nó sẽ có cái kết quả nó trở về bậc Thánh, nếu nó đi tới. Còn nếu nó đứng lại đó thì nó vẫn chủ động được những cái xấu của thế gian, cái xấu của người thế gian, cái ác của người thế gian.
Để Thầy nói ở đây rồi, sau này thì các con sẽ tìm ở lại trong huynh đệ của các con. Các con sẽ thấy lời nói của Thầy là đúng, cũng là cái lời nói ở trong kinh sách của Phật. Đây là cái quả, cái quả của cái người mà tu tập, nó sẽ không mất cái quả giải thoát. Cái quả đức hạnh đó nó không mất, nó không làm mất cái quả đó.
Chẳng hạn bây giờ các con thấy tu mà chưa có làm chủ sanh tử, chưa có gì hết. Nhưng mà các con cũng sẽ được những cái quả, cái quả rất lớn. Mà cái quả đó nó đạt được cái chánh trí. Nó làm cho chúng ta vững vàng ở trong bước đường đời. Hơn là lúc kiếp trước mà chúng ta chưa tu nó có ác pháp, mà ác pháp trong lúc đó chúng ta không biết nó là…
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 11
LỰC KHÔNG THAM SÂN SI
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời lượng: [46:58]
Thời gian: 2002
Tên cũ: 06A-LucKhongThamSansi-ThayKeVeDuyenGiacHoa
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-11-luc-khong-tham-san-si.mp3
(00:00) Trưởng lão:… Cách tu, cho nên từ đó mình tu cái lực không tham, sân, si này nó có thì cái lực này nó diệt. Cái lực này diệt tức là chấm dứt tái sanh luân hồi chứ gì? Diệt lậu hoặc hết rồi, do đó cái lực này nó. Có hai cái lực.
Mà giờ mình không có pháp tu, mình cứ ngồi Thiền mà không tu cái lực, làm sao có lực? Cho nên tui tu hoài tham, sân, si sao không hết? Còn đằng này người ta có lực.
Thầy nói bây giờ, cái tay mình đau là cái nghiệp chứ gì? Mà mình dùng cái lực của nó: "Thọ này đi đi", tức là cái lực của mình chứ gì? Bây giờ cái lực nó yếu thì nó còn đau, mà lực nó mạnh thì nó đi, phải rõ không? Bởi vậy Thầy nói cái pháp nó rõ ràng như vậy mà. Mà Thầy nói có người làm được rồi. Ông Phật làm được, Thầy làm được, còn những người bây giờ chút, chút. Mấy con nói sao mà, mấy con thấy mình hướng tâm có cái sao hiệu quả, thì đó là được rồi. Nó bảo chứng cho mình thấy mình làm được cái nhỏ này được rồi, thì cái lớn này nó sẽ làm được hà.
Sư Tuệ Tĩnh: Tu tiếp theo nữa.
(00:58) Trưởng Lão: Tiếp theo nữa, để cho tạo cái lực, vì cái lực của mình yếu quá. Cái lực này yếu quá, tức là mình biết cái sức nó chưa có đủ, mình nỗ lực. Hồi đó mình đâu có nó, phải không? Mà bây giờ mình tu một thời gian, nó có được chút chút rồi. Bây giờ mình tu nữa, nó có nhiều nữa. Tu nữa có nhiều nữa.
Hàng ngày mình bồi dưỡng thêm nó, bồi dưỡng riết thì nó đủ hết, thì cái này nó mất. Nó mất thì bây giờ bắt đầu nó đau thì cái nghiệp lực này đẩy nó đi mất.
Cho nên cái thân này thì nó hoại diệt, nhưng mà nó là do thân nghiệp, nó phải hoại diệt, nó phải đau nhức, nó phải bệnh chứ gì? Nhưng mà có cái lực này rồi, phải không? Cái lực mà không đau nhức, không có Nhân Quả này rồi, thì cái thân này nó sẽ phục hồi, nó sống bao lâu cũng được hết. Hiểu vậy chưa? Cho nên nó muốn sống bao lâu cũng được. Đức Phật nói sống bao nhiêu kiếp cũng được.
(01:44) Tại Ông A Nan không yêu cầu thôi. Còn bây giờ mấy con yêu cầu, chứ cỡ không yêu cầu, Thầy đi lâu rồi đó, đừng nói. Thật sự không ai yêu cầu Thầy, yêu cầu Thầy còn ở lại, Thầy viết Đạo đức liền. Bởi vì cái duyên của người ta còn cầu khẩn, mình đâu có bỏ được. Người ta tạo cái duyên, chứ mấy con không cầu là Thầy đi.
(02:07) Nghĩa là Thầy Thanh Từ mà không cầu lần đầu tiên, là Thầy đi lúc cách đây gần hai chục năm.
Năm một ngàn chín trăm tám mươi, Thầy tu xong rồi. Thầy về thầy xin thầy Thanh Từ cho Thầy nhập diệt. Thầy chỉ nghĩ là cái pháp khó lắm, không tu được. Người ta sống Giới không nổi.
Bởi vì Thầy thấy hầu hết là, chỉ bây giờ, chỉ do mình lên đó đó, mình xin Hòa thượng để nhập Niết Bàn. Bằng cách là mình nhập định, làm chủ được từng hơi thở của mình chết để cho mọi chúng xem thấy thôi, rồi mình đi. Cho người ta tin rằng Phật pháp có người tu chứng được.
Thầy lên xin Hòa thượng Thanh Từ, Hòa thượng yêu cầu Thầy ở lại giúp Hòa thượng, cho nên Thầy ở lại. Người đầu tiên yêu cầu Thầy đó là Hòa thượng Thanh Từ. Chúng sinh có phước lắm có Hòa thượng yêu cầu, chứ còn cỡ Hòa thượng muốn: "Bây giờ để thử coi có làm được hay không, bây giờ Thầy chấp nhận cho con ở lại đây để mà thực hiện cái sự nhập diệt".
Thì được rồi, Thầy sẽ ở lại Chơn Không một tuần lễ, họp tất cả Phật tử … (03:17) tự tại, bây giờ Thầy ra đi làm sao? Tịnh chỉ hơi thở, bỏ thân cho chúng xem, Thầy đi.
Bắt đầu từ đây Thầy khuyên, từ đây về sau phải noi theo cái đường lối của Hòa thượng mà thực hiện cái giới luật, thực hiện cho được cái sự nghiệp của mình. Cuối cùng nhắc Phật tử rồi Thầy ra đi, nếu Hòa thượng không yêu cầu.
Nhưng mà Thầy về Hòa thượng yêu cầu. Hòa thượng nói với Thầy như thế này: "Thầy thì đang chấn hưng Thiền Trúc Lâm, thiền Việt Nam, mà chú tu được thì mừng lắm. Chú hãy ở lại giúp thầy". Đó, Hòa thượng nói vậy mà, Thầy mới hỏi Hòa thượng: "Bây giờ con ở lại giúp Thầy, giúp như thế nào?"
Hòa Thượng nói: "Đọc lại tất cả những kinh sách, các sử đồ này kia, đọc lại hết. Chừng đó có cái chỗ để viết sách". Rồi Hòa thượng trao cho Thầy những kinh sách này, kia, nọ.
(04:10) Thầy về hai năm trời ở trong thất liên tục ngày đêm Thầy đọc, Thầy viết thành cái bộ sách Đường Về Xứ Phật. Thầy phân tích từng cái bài kinh, bài nào đúng, bài nào sai Thầy gạt sạch ra hết.
Thầy làm vậy, cuối cùng luồn lách ở dưới Hòa thượng để cuối cùng để trao cái bộ kinh, nhưng Hòa thượng không thấy được, đành thôi.
Sư Phước Nhẫn: Hay là ổng thử Thầy? Kêu mình đọc lại, Thầy tu xong còn đọc lại làm chi nữa?
(04:27) Trưởng Lão: Không! Không phải! ông biểu Thầy, có nghĩa là ổng nghĩ rằng Thầy chưa có thông kinh sách. Cái ý của ổng mà, thành ra ổng biểu. Nhưng mà không ngờ Thầy đọc lại để mà Thầy phân tích cái nào của Phật, mà cái nào của ngoại đạo.
Sư Tuệ Tĩnh: Thành ra ổng thấy cái chỗ Thầy phân tích rõ ra.
Trưởng Lão: Thì đó. Thầy mới đưa ra hai cuộn băng, ông thấy không có đúng ý rồi. Thành ra từ đó bác luôn.
Ý của Hòa thượng khuyên là cũng thật sự, là bởi vì Hòa thượng nghĩ rằng Hòa thượng thông suốt như vầy là do học, do hiểu biết các tạng kinh. Cho nên bảo Thầy bây giờ muốn giúp Hòa thượng là phải thông suốt các tạng kinh. Cũng như là Thầy Nhật Quang ở Thường Chiếu vậy, phải thông suốt vậy mới viết được, sẵn cái tu của mình nữa. Chứ không ngờ Hòa thượng nghĩ rằng cái tu, là người ta tu như vậy là người ta thông suốt hết rồi. Chỉ bây giờ có cái là người ta gạt cái nào không đúng ra thôi. Chứ không phải cần đọc nữa.
Còn ông Tổ nào mà làm sai hoặc làm đúng, người ta cũng đều biết. Nhưng mà Hòa thượng không nghĩ là phải đọc sử của các Tổ mới biết Tổ này truyền thừa sao, sao, sao với nhau? Nối cái đăng như thế nào, cái đèn Tổ như thế nào? Đó, thì Hòa thượng muốn Thầy đọc lại để cho nó vững, để giúp Hòa thượng ở trên cái đường mà gọi là thừa kế đi thuyết pháp như Hòa thượng vậy, ý như vậy. Chứ không ngờ là Thầy lại bác ra.
Sư Tuệ Tĩnh: Nghịch ý với nhau.
(05:58) Trưởng Lão: Nghịch ý. Cho nên vì vậy mà Thầy trò nó lần lần… Nhưng mà Thầy cố gắng. Thì khi mà Thầy biết rồi, Thầy cố gắng để mà núp sau lưng Hòa thượng giúp Hòa thượng thôi.
(06:08) Nhưng mà không được. Bởi vì mấy ông đệ tử, huynh đệ của Thầy. Mấy ổng cứ hễ thấy Thầy chui bên đây, vô trong Thường Chiếu thì mấy ổng lôi Thầy ra, không có để… Cho nên mấy bài thỉnh nguyện của Thầy, là Thầy chui vô đó. Thầy chui không được, mấy ông khôn lắm. Mấy ông sợ vô trong này, nó tan nát hết. Thầy thì không phải là vô trong đó tan nát đâu, mà Thầy vô củng cố. Những người nào quyết tu, Thầy xin, Thầy cho những người đó theo Thầy vào khu chuyên tu, thầy trong đó Thầy huấn luyện.
Sư Tuệ Tĩnh: Khác đường lối, khó quá!
(06:44) Trưởng Lão: Thành ra nó như vậy. Cho nên cuối cùng thì Thầy thấy chính Thầy cũng khơi mào cái khu vực mà Trung Tâm An Dưỡng là biết như thế nào?.
Hồi đó Tâm nó mua khu đất đó, rồi nó đem về cúng dường cho Thầy. Thầy nói không có được, đem về cúng dường cho Hòa thượng, Rồi Hòa thượng sẽ giao lại cho Thầy để mà đoàn kết nhau. Thì nó nghe lời Thầy, nó về cúng dường cho Hòa thượng. Nhưng mà nó khéo lắm, nó gợi ý: "Con cúng dường Hòa thượng, con thấy trong đệ tử của Hòa thượng thì chỉ có thầy Thông Lạc thì có thể khả năng làm cái đó được. Có thể Thầy nên giao cho Thầy Thông Lạc làm cái này. Con thu dọn lại, con đường của Hòa thượng nó sáng lắm".
Ờ lúc đó, cho nên do đó Hòa thượng mới kêu Thầy về, mới viết một bức thư giao cái đất này, Tâm bây giờ nó vẫn còn giữ cái bức thư của Hòa thượng mà.
Hòa Thượng mới, nó cúng dường, nó làm giấy tờ nó giao cho Hòa thượng. Bấy giờ Hòa thượng mới làm cái giấy giao lại cho Thầy chủ quyền để sử dụng cái này để xây dựng cái Tu viện Chơn Lạc. Hòa thượng cho luôn cái tên mà, tên Chơn Lạc, chứ không phải đâu.
(08:00) Sau này Thầy lấy cái tên Chơn Lạc, Thầy mới đặt là Trung Tâm An Dưỡng Từ Thiện Chơn Lạc, để xin phép Nhà nước. Chứ mình không có xin làm cái chùa được. Đó là cách thức như vậy. Đó! Mới có những điều kiện đó chứ.
Khi mà Hòa thượng bệnh, Hòa thượng đi xuống nằm ở dưới Chợ Rẫy. Ở trên này Thầy với thằng Tâm, tụi nó mới đem xe rước Thầy xuống dưới thăm Hòa thượng. Khi vô thăm, thì trong lúc đó Thầy mới xin Hòa thượng cho cái tên của cái khu đất đó, sau này thành lập một cái Tu viện như thế nào. Hòa thượng mới cho cái tên, Hòa thượng nói: "Thôi bây giờ chú là Thông Lạc, cho nên Thầy thích chữ Lạc. Cái dòng tu của mình lấy chữ Chơn, ví dụ Chơn Không, thì bây giờ lấy cái chữ Chơn mà làm cái chuẩn của nó đi", thì Hòa thượng mới cho là Chơn Lạc. Hòa thượng đặt cái tên luôn mà, hòa hợp lắm chứ, không phải không đâu, cấu kết được có chút hà.
Khéo léo, cư sĩ nó cũng khéo léo lắm, kết hợp, kết hợp, cuối cùng không được, do cái duyên.
Sư Tuệ Tĩnh: Thành ra nó khó.
(09:06) Trưởng Lão: Bởi vì lúc bấy giờ thì coi như là quý thầy, Thầy nói thật sự ra, nó không phải là xấu hết. Cho nên quý thầy thấy Hòa thượng, mà quý thầy thấy Thầy gần gũi nhau mà giao phó vậy đó. Chừng đó quý thầy đồng tu, Thầy luận như Pháp, Quang, Phước Tú này kia, thuyền nữa, thì quý thầy rất ngại, ngại sợ Thầy nắm quyền, có vậy thôi. Cho nên mấy ông này tìm mọi cách, tìm mọi cách để mà tách ra. Bởi vì ở gần bên Hòa thượng mà, nói ra nói vô, nói tới nói lui, nói này kia đủ thứ hết.
Sư Phước Nhẫn: Như khảo nguyên hay hành tẩu ngày xưa vậy.
(09:40) Trưởng lão: Cuối cùng Hòa thượng không có chấp nhận Thầy, là tại vì mấy ông biết trước thật sự, nếu mà thật sự ra mà Hòa thượng giao thì Thầy đủ khả năng Thầy điều chỉnh mấy cái Tu viện hết, chứ không phải không! Mà bây giờ Thầy nói, thật sự uy tín của Hòa Thượng dữ lắm.
Sư Tuệ Tĩnh: Bây giờ con thấy vậy là ở khắp các nước đó Thầy, họ mến phục Hòa thượng dữ lắm, nếu mà còn cuộn băng đó, hai cuộn băng, Thầy thỉnh nguyện với Hòa thượng, Thầy nói cái vụ hồi nãy đó Thầy, mà Thầy có, Thầy cho con sang cái đó, con mang về bển cho họ nghe cái đó.
Bởi vì nếu mà bất chợt, bây giờ họ đang tin tưởng và theo, người ta nghe nói Thầy chen vô như vậy, họ nghĩ là Thầy không có trước, có sau.
Cho họ nghe mấy cuộn băng đó, họ mới thấy được là Thầy đã cố tình cấu kết với Hòa thượng rất nhiều lần nhưng mà không được. Để cho họ biết, Thầy chứ không họ không biết đâu Thầy.
(10:50) Trưởng Lão: Đúng rồi! Bây giờ thì ai cũng không biết hết. Nhưng mà họ đâu có biết được cái tình tiết của chuyện Thầy trò. Thầy nói thật sự khi mà Thầy lên Chơn Không rồi cái tình nghĩa thắm lắm. Chúng thì trưa đồ ngủ, còn Hòa thượng thì lên trước thiền đường, ổng ngồi trên cái ghế. Cứ khoảng độ chừng mười hai giờ rưỡi, một giờ, nghỉ có chút hà, ăn cơm rồi nghỉ có chút hà. Nghỉ khoảng độ nửa tiếng thì ổng ra ngoài trước ổng ngồi. Thì Thầy cũng khoảng đó Thầy ra Thầy ngồi. Cũng như ổng ngồi ông ngó trước vầy, Thầy ngồi bên hông vầy, nó có cái ghế vầy. Thầy ngồi với thầy, thầy trò ngồi đó. Rồi lát cái ổng kêu Thầy, ổng kêu tâm sự này kia với Thầy. Hòa thượng nói với Thầy: Hòa thượng thấy trong tâm nó sao ấy: Hội chúng này tu chưa có được gì nhiều, để cho Thầy phát triển còn có khả năng phục hồi, chứ tu theo kiểu này chắc là Phật pháp mất quá.
Sư Tuệ Tĩnh: Ông cũng thấy được.
Trường lão: Hòa Thượng nói với Thầy, tâm sự với Thầy. Cho nên Thầy cũng chết sống nhất định làm cho được, nhất định làm cho được cái ý của Hòa thượng. Bởi vậy Thầy nói, đối với Hòa thượng Thầy thấy không có cái gì mà Thầy chê Hòa thượng hết.
Sư Phước Nhẫn: Vì sao giờ chót ổng bác Thầy?
(12:05) Trưởng Lão: Bởi vì sao cái giờ chót bác? Là tại vì Thầy không có ở gần Hòa thượng.
Quý Thầy kia ở gần Hòa thượng họ nói ra nói vào. Thầy nói họ nói một lời Hòa thượng không tin đâu. Cho nên một lần Thầy về Thường Chiếu, Thầy mới nói với Hòa thượng, Thầy biết rõ hết mà, quý thầy sao, Thầy biết hết. Thầy mới nói với Hòa thượng, Thầy nói: "Chỉ mong sao Hòa thượng hiểu con chút thôi". Thì Hòa thượng nói: "Thầy trò hiểu nhau thôi, đừng có tin ai nữa hết". Hòa thượng nói với Thầy mà: "Thầy trò hiểu nhau, đừng thấy ai nói gì cũng tin”. Thầy mừng lắm. Nhưng mà, Thầy nói thật sự, người ta nói một lần Hòa thượng không tin đâu. Trách gì, ngày xưa Thầy đọc lại cái chỗ mà bà Mạnh Mẫu. Đầu tiên người ta nói con bà giết người, bà không tin.
Sư Phước Nhẫn: Ba lần.
(12:53) Trưởng Lão: Ba lần, bà cắt cái khung cửi của bà liền, bà phải tin thôi chứ làm sao. Không tin sao được
Cho nên ba lần thì Hòa thượng làm sao mà chịu đựng được nữa. Nghĩa là họ nói những cái ý đồ của Thầy thế này thế khác, làm sao Hòa thượng …
Bởi vậy Thầy nói trừ ra có những bậc Thánh người ta mới thấy được cái tâm niệm đó thôi. Chứ còn phàm phu làm sao người ta thấy được cái tâm niệm của cái người đệ tử với một cái nguyện vọng lớn như mình. Hòa thượng có cái nguyện vọng lớn lắm, nhưng mà cái điều kiện là cái tâm niệm của Hòa thượng không có hiểu được cái tâm niệm của Thầy, sao mà biết được.
Nhưng mà trước kia, từ ngày Thầy lên Chơn Không Thầy tu, rồi Thầy về, rồi Thầy trình bày, tình nghĩa thắm thiết, từ đó thầy trò rất mừng. Cho nên khi mà Thầy về trình rồi, Hòa thượng tuyên bố ngay liền Phật tử đến tuyên bố: "Ở trong Chúng chúng ta có người tu chứng". Bởi vì Thầy trình cái sự tu của Thầy, Hòa thượng biết nó không phải là con đường Thiền Đông Độ. Nhưng mà Hòa thượng nói với Chúng, với Phật tử, nói: "Ở trong Chúng của Thầy có người tu chứng A La Hán”. Nhìn cách thức nhập định như vậy là Hòa thượng biết chứng được A La Hán rồi. Hòa thượng tuyên bố như vậy.
(13:58) Cho nên từ những Phật tử ở Châu Đốc là ông Chánh Giải, là người đầu tiên nghe được cái tin đó, tìm đến đây để tìm gặp Thầy. Đó là Hòa thượng, nhưng mà cuối cùng Hòa thượng nghe người ta rồi, nghe huynh đệ của Thầy rồi, thì bây giờ Hòa thượng đụng ai Hòa thượng cũng nói. Nói Thầy là ngoại đạo, kinh sách của Thầy đừng có nên đọc. Thầy biết hết.
Sư Tuệ Tĩnh: Cũng như bên Úc đó Thầy, con có quen một bà cư sĩ, bà nói với con lâu rồi, bà nói có ông thầy Thông lạc hồi đó nói tên thôi chứ không nói ở đâu, ổng ngồi thiền đến bảy ngày đêm. Con không tin, chưa tin là vì lúc đó mình hướng theo Hòa thượng, mình thấy Hòa thượng ngồi đâu có lâu. "Ông này ngồi những bảy ngày đêm sao mà dữ vậy? Không tin".
Tới chừng sau con qua bên Miến Điện gặp ông Chơn Thông đó Thầy, ổng nói như vậy. Con về đây, ông này ổng gợi ý về Thầy, con mới nghĩ, con mới nghe, con không tin, chưa tin. Bà đó, bà qua bển chín, mười năm nay, bà mới biết, mà con không tin.
(15:08) Trưởng Lão: Cái đó là Hòa thượng nói. Thầy về gặp Hòa Thượng Thầy xin Hòa thượng nhập diệt, ở đó Thầy nhập định bảy ngày, bảy đêm.
Sư Tuệ Tĩnh: Bả cũng nói Thầy là đệ tử của Hòa thượng.
Trưởng lão: Thầy tiếc là Thầy không có được gần gũi với Hòa thượng. Bởi vì khi mà Thầy tu, Thầy về đây Thầy sống, Thầy không có làm Giáo hội, thì khoảng thời gian quá dài mười năm. Sau đó trình thì nó không có gì hết.
Tình hình bắt đầu khi trình đó rồi, Hòa Thượng tuyên bố, người ta thấy, huynh đệ mất cái giá trị của mình, mất quá xa. Đối với Thầy. tu như vậy thì quý thầy không có gì hết, cho nên coi như là mất góc đứng. Cho nên từ đó nó có cái sự ganh tỵ trong đó.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra như bác bỏ đó Thầy
Trưởng lão: Cho nên từ đó đến sau này Thầy bắt đầu… Bởi vì Hòa thượng tuyên bố sớm quá, chứ để đừng có tuyên bố gì hết, để Thầy cứ núp sau lưng Hòa thượng viện chủ. Thì khi mà nghe rồi Hòa Thượng cũng mừng lắm, bởi vì cái tâm nguyện của Hòa thượng rất tốt. Nghe đệ tử của mình tu được, thấy làm chủ được sống chết thì mừng vì mình chưa được.
Bởi vì khi mà ngồi tâm sự với Thầy, Thầy biết mà, nếu Hòa thượng làm được thì Hòa thượng không có nói: "Thầy tìm chưa được giải pháp, mong sao trong huynh đệ của mình, làm sao có người chứng thì Phật pháp mới còn, chứ mà tu như bây giờ thì Phật pháp sẽ mất"
Sư Tuệ Tĩnh: Bởi vì con thấy cái đó, Thầy cho in sang mấy cuộn băng, con đem về bển, cho bà con người ta biết. Bởi vì có nhiều khi người ta còn tin cậy Hòa thượng dữ lắm. Hổng phải mình muốn diệt phần kinh kệ đó, nhưng mà họ thấy, đây này, có một người tu chứng đây này. Mà rõ ràng, đệ tử của Hòa thượng.
(16:54) Trưởng Lão: Sống tình nghĩa với Hòa thượng, con nghe cái bài thỉnh nguyện của Thầy thì biết.
Sư Tuệ Tĩnh: Dạ có, con cũng muốn có hai cuộn băng mà Thầy nói với Hòa thượng, lúc mà Thầy thỉnh nguyện, có hai ông sư để nhục thân lại đó Thầy, Thầy mới nói hồi nãy đó.
Trưởng Lão: Thì mấy cuộn băng đó con chưa có nghe, Phật Môn Bảo Huấn, trở về Đạo Phật.
Cuốn băng Trở Về đạo Phật là cuốn băng Thầy nói. Nghĩa là Hòa thượng nói Thầy ngoại đạo, đủ cách hết. Thầy phá giải những lời nói của Hòa thượng hết. Thầy nói Thầy lạc vào ngũ ấm ma, rồi Thầy cũng phá giải cái ngũ ấm ma như thế nào, để cho cấu kết lại.
Thầy nói Hòa thượng thương yêu, Hòa thượng nhắc nhở vì sợ Thầy rơi vào ngũ ấm ma. Lời của Hòa thượng nói Thầy bị lạc vào ngũ ấm ma, tức là cảnh giác Thầy. Đó là cái tình của Hòa thượng rất là lớn.
(17:58) Thầy phá giải những điều mà Hòa thượng nói. Còn Hòa thượng nói gì mà bỏ Hòa thượng này, kia đồ đó, Hòa thượng nói từ Hòa thượng gì đó. Thầy nói là Hòa thượng nói như vậy để cho những người đệ tử, nhất là Thầy là phải luôn luôn gắn bó với Hòa thượng. Nói đệ tử từ mình có nghĩa là nhắc nhở đệ tử khỏi về thăm mình, để lo cho công việc lớn Phật pháp.
Nghĩa là Thầy phá giải được cái điều kiện. Nghĩa là sau khi phá hết những cái lời của Hòa thượng, bởi vì Hòa thượng nói gì Thầy biết hết rồi. Hòa thượng nói với ai sao sao Thầy cũng biết hết rồi.
Cho nên những cái đó Hòa thượng cũng không ngờ, không ngờ mình nói với người ta mà Thầy ở đây biết. Cho nên vì vậy mà khi Thầy phá giải cái này hết để cho kết Thầy với Hòa thượng như một. Những cái lời đó là an ủi, những cái lời đó là lời khuyên thành thật của Hòa thượng như thế nào, sách tấn người đệ tử của mình, trợ giúp mình như thế nào. Cuối cùng Thầy so sánh hai cái con đường này ra.
Rồi bắt đầu Thầy sẽ nguyện là Thầy sẽ làm viên đá cho Hòa thượng xây cái tòa nhà của Phật pháp. Nguyện cái đời mình làm viên đá cho Phật pháp. Ở trong cuộn băng Thầy còn mà, chứ không phải không.
Sư Phước Nhẫn: Con lúc đó con có ý nghĩ như vậy, lúc mà gặp Thầy để chọn mở, mà mở cho Thầy cái trung tâm chuyên tu, Thầy đừng có đối ngoại, chỉ có đối nội thôi, thì không có chuyện gì hết. Rồi kiếm khu rừng nào đó kế rồi mở, về chuyên môn thì Hòa thượng biết mấy người như thầy Thông Huyễn gì đó đưa về đây Thầy dạy.
(19:31) Trưởng Lão: Hòa thượng lại không nghĩ cái điều đó. Mà trong cái lúc đó là lúc ngặt nghèo ghê gớm, khi mới giải phóng. Hồi năm 1980 Thầy đi, Thầy nói Thầy đi lên trên đó mà đi ngang cái đồn Cỏ May ở ngoài Vũng Tàu, trời ơi! Thầy chùa nó không có cho vô. Nó sợ vô Hòa thượng Thanh Từ. Nó không cho vô. Thầy phải cải trang, mặc đồ tây, đội nón cối. Chính Thầy phải cải trang, cải trang như vậy đó, rồi Thầy ôm theo một cuốn, Thầy mua một cuốn kêu là Đảng Cộng Sản, Lịch sử Đảng Cộng Sản. Cầm cái cuốn Đảng Cộng Sản Thầy đi, nó tưởng Thầy là Đảng Cộng Sản gộc, nó mới cho qua, chứ không phải dễ đâu. Nghĩa là tu sĩ lên đó, nó đuổi xuống.
Hòa thượng mới rời khỏi đó xuống Thường Chiếu đó. Cho nên cái giai đoạn mà Thầy trình là giai đoạn rất ngặt nghèo không phải dễ.
Nếu mà nó thuận thì trong cái sự mà đề nghị của Thầy thì nó dễ lắm. Nó còn trong cái chế độ cũ đó, thì lúc bấy giờ Phật tử mà nghe như vậy là họ sẽ nhường đất cho Tu viện dữ tợn lắm.
Sư Phước Nhẫn: Thưa Thầy lúc đó con nghĩ mà mở cái Tu viện chuyên tu thì nó khỏe
(20:48) Trưởng Lão: Lúc đó mà nó yên thì kể như là Hòa thượng mở giao cho Thầy. Tức là cái khu đất mà Phật tử cúng ở Thường Chiếu. Lúc mà chưa có, ở Chơn Không còn yên, chưa có gì thì họ đã cúng cho Hòa thượng rồi. Nhưng mà Hòa thượng chưa có làm cái gì, họ cúng thì giao giấy tờ vậy thôi.
Mà khi giải phóng rồi thì mới có cái hướng đi về đó, bởi vì nó ngặt nghèo quá, cơm không có ăn, Chúng phải làm rau sống, ai cũng khổ trong nước hết. Nhà nước họ, gạo thóc với vải sồ họ bán, mua phải xuất hàng, phải có phiếu. Gạo thì cấm không có, kêu là ngăn sông cấm chợ đó. Cái chỗ vùng mà gạo thôi quá trời thì không được đem đi chỗ khác, chỗ khác phải tự túc mà làm lấy. Cho nên Vũng Tàu nó cũng đói nhăn, làm sao, ở biển mà làm sao có gạo? Bởi vậy kinh lắm.
Sư Phước Nhẫn: Phật pháp chưa đủ duyên.
Trưởng Lão: Nó không đủ duyên, còn khi mà nó được đủ duyên thì nó lại nghịch rồi.
Sư Phước Nhẫn: Với lại con nghĩ như Sư gì ở Úc, ở bển có nói là theo cái luật ba không, Thầy trình như vậy là ba lần, thực chất có phạm Giới gì nữa đâu. Khi mình thấy Thầy mà không đúng, mình có quyền trình ba lần, nếu trình ba lần Thầy không chịu thì mình có quyền bỏ Thầy mình đi, đi mất không có gì.
Sư Tuệ Tĩnh: Là mình muốn cho rõ hơn.
Sư Phước Nhẫn: Được đi mất, người ta đi mất sau khi trình ba lần là đúng luật.
Trưởng Lão: Ráng tu tiếp với Thầy
Sư Tuệ Tĩnh: Nhiều khi con nhớ Thầy có một mình, Thầy Mật Hạnh chưa biết làm sao, nếu Thầy Mật Hạnh có hoàn thành thì tuổi đời còn nhỏ, đối với cái…
Trưởng Lão: Cũng khó đủ uy tín.
Sư Phước Nhẫn: Khó chấn hưng lắm. Thầy đào tạo mười người…
Sư Tuệ Tĩnh: Thầy còn ở đây còn lâu mà, công việc chưa xong mà.
(22:55) Trưởng Lão: Thầy ráng, Thầy kéo dài…
Sư Phước Nhẫn: Mười người thì mạnh lắm.
(23:06) Trưởng Lão: Thầy nói làm sao mà Thầy được mười người, được đông chừng nào tốt chừng đấy.
Sư Phước Nhẫn: Con nghĩ Thầy chưa xin chứ ngoài chắc có nhiều người hay lắm
Trưởng Lão: Bây giờ nói chung là nó, Thầy đi xin thì có chứ không phải không. Chỉ cần Thầy chấp nhận một cái là có người đến lãnh việc. Có điều kiện là ngặt cái nỗi môi trường nó vất vả lắm.
Bởi vì có học trò mà không có trường thì coi như là cũng khó đào tạo, bởi vì nó không đơn giản đâu. Chứ ngày xưa thời Ông Phật nó khác, vì người ta tự đi xin ăn, rồi về tu tập. Mà hễ mình tập trung đông thì phải nấu nướng này kia thì trời ơi nó vất vả lắm.
Sư Phước Nhẫn: Ở Chơn Lạc, con nghĩ nếu không có cái bệnh viện đó thì mình thành lập cái trường thuốc, trong vòng một trăm người thì đâu có khó khăn gì về vấn đề ăn.
Trưởng Lão: Bây giờ, bởi vì Nhà nước nó không đơn giản. Nếu mình lập cái trường kêu không, mà nếu dựa vào Giáo hội thì họ thấy cái đường lối của mình, họ cũng bác. Thay vì có Giáo hội đứng thì nó mới có xin phép, phải không? Cho nên mình đứng dựa vào cái góc độ từ thiện, thiện nguyện để làm cái khu an dưỡng.
Sư Phước Nhẫn: Con cũng nghĩ về mặt hành chánh, hành pháp có thu phí đó Thầy. Thành ra cái bệnh viện cứ lập, phục vụ với tính cách là thí công chứ không có thí của. Mình vẫn điều trị đàng hoàng, về thuốc thì hạn chế. Nó nặng vụ thuốc thôi, chứ cái phục vụ không có nặng thưa Thầy. Nó nặng cái tiền thuốc khủng khiếp lắm. Thầy mở năm trăm giường, bác sỹ, ý tá phục vụ không có bao nhiêu tiền. Trong khi tiền thuốc cho năm trăm giường khủng khiếp lắm. Có cái bệnh viện rồi Thầy mới mở cái này, con thấy cái đó nó…
(24:44) Trưởng Lão: Mình sẽ đi từng phần.
Sư Phước Nhẫn: Sau này mấy cái cơ sở mà Thầy có mình sẽ miễn phí từng phần, từng phần, miễn phí từng phần một. Mới đầu vô thi miễn phí cái công, nằm miễn phí, ăn miễn phí, điều trị, phục vụ miễn phí hết. Nhưng thuốc không miễn phí. Không có bao nhiêu tiền, nặng nhất là tiền thuốc dữ lắm.
Thí dụ một bệnh nhân vô nhẹ nhẹ cũng vài trăm ngàn, nặng thì ba, bốn triệu, nó nặng cái đó. Còn họ ăn ngày có bao nhiêu đâu, còn người bác sỹ mình trả lương đâu có bao nhiêu. Nội cái tiền người ta cúng dường vô cũng đủ bù lỗ rồi. Cái đó Thầy khởi công nó lẹ, nó mau đó thầy.
(25:31) Trưởng Lão: Cái đó là ý kiến hay, để khoan, để từ từ Thầy suy tư vấn đề này. Đó là những ý kiến đóng góp để mà thấy từng bước, mình phải làm từ thiện bước nào, mà bước nào chưa từ thiện. Chứ làm trật chuyện một lần, phải có nguồn kinh tế dữ tợn chứ không phải không.
Sư Phước Nhẫn: Ở ngoài mấy ông Nhà nước, mấy ổng cũng không dám nữa. Có công chuyện là kêu đóng góp vô, mấy cái nhà máy đâu có đủ sức. Cũng như trước đây con gặp nhiều người họ nói, thí dụ như mình lập cơ sở, tiền đâu ra? Kê khai hay gì, kiểm toán ai làm đây, họ cũng phải đánh giá nữa.
Còn một cái nữa, ở trong Phật giáo mình mấy ông chính trị thí dụ có người cũng hợp với Thầy nhưng cái chóp bu của Bộ chính trị chưa hợp với Thầy, nó thấy Thầy hợp với bên kia thành ra Giáo hội cũng khoái nữa..
Thành ra cái chỗ Thầy mở thì con thấy nó đúng về mặt luật pháp. Có gì mình mở Tu viện thì mình phải kiếm mấy người Giáo hội, mà Giáo hội lại không muốn, xem xét nó không được. Chỉ có cái làm cái Tu viện thì được, như vậy nó sẽ đụng chạm đến vấn đề tạm trú tạm vắng thì nó cũng dễ chứ không khó. Khó là việc đăng ký với Giáo hội, nên cần tiến hành sớm. Vấn đề về thuốc chữa bệnh, bỏ thuốc thì dễ, không có thuốc thì dễ làm.
(27:05) Trưởng Lão: Cái này để Thầy bàn, Thầy có bàn cái ý về làm kinh tế, về cái lò thiêu nữa, có bàn với tụi nó
Sư Phước Nhẫn: Bỏ thuốc dễ lắm.
Trưởng Lão: Thầy góp ý với tụi nó, mọi cái, cái gì Thầy cũng góp ý hết, ngày xưa, Nhẫn có cái ý cũng hay
Sư Phước Nhẫn: Mình đâu có xây kiên cố đâu, ví dụ chỗ khám bệnh, mình xây đơn sơ, đâu có tốn bao nhiêu tiền.
Trưởng Lão: Ở ngoài văn phòng ở Biên Hòa, Giáo hội Phật giáo có xin Nhà nước lập cái bệnh viện, lập cái trạm xá chứ không phải bệnh viện, trạm xá từ thiện để giúp Tăng Ni trị bệnh, mà chưa cho.
Sư Tuệ Tĩnh: Cái đó cũng bên Giáo hội xin.
Trưởng Lão: Bên Giáo hội xin mà chưa cho.
Hôm đó thì Chơn Huệ về đây, có nói với Thầy: "Con ở ngoài đó, Giáo hội có quyền, xin Thầy giao cho con quyền điều khiển,… Quyền điều khiển đó thì con thấy là, bên Ni thì con rành…. Xin phép tắc như thế nào… Thầy về…"
Sư Phước Nhẫn: …. KT3… Căn cước…
Trưởng Lão: Có cái cuộn băng…
Sư Phước Nhẫn: … Sự thật…
Nội dung đoạn này trùng với băng: Vấn đạo 02A-Tu Phải Có Giải Thoát (từ phút (27:30) đến 43:53). Mời quý vị đọc lại băng Vấn đạo 2A.
VẤN ĐẠO 12
THỌ HÀNH VÀ ĐẨY LUI CHƯỚNG NGẠI PHÁP
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Thời lượng: [41:01]
Thời Gian: 2002
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và Sư Phước Nhẫn
Tên cũ: 06B-DayLuiChuongNgaiPhapThoHanh
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-12-tho-hanh-va-day-lui-chuong-ngai-phap.mp3
(00:00) Trưởng lão: Buông xuống cái phiền não đi!
Sư Phước Nhẫn: Tu cứ dậm chân tại chỗ đó Thầy, cái Thọ hành nó quậy quá, uống thuốc nó cũng không hết, dùng Pháp Hướng nó cũng không hết. Ngày hôm qua con nhập thất, kiểm nghiệm lời Thầy dạy về tiếp duyên, nhập thất, nghe băng thì nó không có lợi cho mình, con thấy vậy con quăng hết, Trong lúc này không nên, con quăng hết, không thèm nghe nữa, không tiếp duyên nữa. Từ lúc bắt đầu tập, nó làm đủ chuyện hết trơn, hết trọi, nó lí luận đủ thứ, nó chướng ngại đủ thứ.
(02:08) Trưởng lão: Nó chung là Thầy thấy nó là cái nghiệp chứ không có gì khác. Cho nên khi tu.. Đức Phật nói Ma Vương mà… Đức Phật nói nó là cái nghiệp, cái thần nghiệp của mình, cái nghiệp thế gian, nó dữ lắm. Khi tu mình quyết tìm con đường giải thoát, cho nên cái đó nó biết là khổ, là cực, nên nó sợ, nó bung ra, nó làm cho mình ngán,.., đó là nó chặn đầu. Cho nên khi mình quyết tử với nó rồi thì mình không sợ.
Nó đánh mình bằng Thọ Hành. Cái Thọ nó hành, làm cái đường tu hành của mình hướng ra. Chứ không phải thực sự (nghe không rõ…). Còn cái cảm thọ là cái thần bị đau, nó sinh ra thì uống thuốc rồi này kia thì nó dễ.
Cái Thọ Hành thì chỉ xả ra, không tu nữa, về chơi thì hết luôn, mà hễ ở đây tu thì nó đánh nữa. Nhưng mình bền chí một thời gian, triệt hạ nó bằng Pháp Hướng thì mình đẩy lui nó. Hễ nó đánh mình chỗ ngực thì mình đánh nó bằng Pháp Hướng của mình, đẩy lui nó …(không nghe rõ). Nó có phương pháp để mình đánh Thọ Hành. Nó đánh, mình khổ sở lắm, nó đau mà, không khổ sao được.
Nó sanh ra loạn tưởng, nó nghĩ nó đau, nó nghĩ mình tu sai hoặc thế này thế khác, mình chưa đủ duyên, nó luận để cho mình bỏ cuộc. Nó là Ma chứ đâu phải là, nó không bao giờ để cho mình giải thoát đâu. Do đó: "Tao thà chết chứ nhất định tao đánh mày tận cùng, chứ không có thua". Mình lý luận để giữ lập trường của mình. Nghị lực của mình từ đó mới có mới chịu đựng nổi với nó.
Do đó nó đánh chỗ nào thì mình trạch pháp chỗ đó. Dùng pháp hướng, thì trong khi dùng pháp hướng, không phải mình dùng Pháp Hướng mà cứ để tâm mình bám vô chỗ đó thì nguy hiểm lắm, chịu không nổi đâu. Bởi cái tâm mình cứ ở ngay chỗ đau đó, mình khó chịu lắm. Cho nên khi đó minh lôi cái tâm mình đi chỗ khác.
(04:10) Ví dụ bây giờ đau cái tay chỗ này, thì mình lôi nó cho nó nằm ở hơi thở, đừng để nó tập trung… "Tao chỉ biết hơi thở thôi, nhất định tao ôm chặt hơi thở để cho mày chết"
Cho nên vì vậy Thầy dạy hơi thở chầm chậm để gom cái tâm. Khi bị Thọ Hành thì chỉ còn biết gom tâm mà chuyển nó. Kéo cái tâm mình ra khỏi chỗ đau, rồi khi cái tâm mình ôm được hơi thở rồi, bắt đầu cái đau nó đi, bởi vì tâm nó rời chỗ này rồi.
Phần nhiều có một số cư sĩ, họ về đây, Thầy dạy họ, bây giờ họ làm có kết quả rồi. Họ lôi được tâm họ ra khỏi chỗ đau, họ không còn thấy đau.
Hôm qua có chú Mười Quang, hồi đầu tiên ông theo Thầy mười mấy năm rồi. Hồi Thầy ra ngoài Phước Hải, chỗ Thầy Chân Quang, tức là Thầy Thông Huyễn, ra ngoài đó đó. Ông đã theo Thầy ra ngoài đó, giúp đỡ để Thầy Chân Quang cho chỗ ở, ông cúng dường, ông lo, tới bây giờ không có bỏ. Kết quả ông làm chủ được bệnh rồi. Có bệnh ông cột tâm ở chỗ khác, nhất là ông cột nơi hơi thở. Đó là phải gom được rồi.
Còn mình gom không được thì mình biết ở đây còn dao động, gom không được. Còn mình gom được chặt rồi, bắt đầu…. Làm chủ được cái Thọ, đánh Thọ Hành…
Khi nào gom chặt được rồi thì không có sợ Thọ nào hết. Còn không Thọ Hành đánh dữ lắm. Khi mình còn yếu, chưa gom được…
Sư Tuệ Tĩnh: Lúc đó con ngồi, con ngồi Thiền, nó hết trơn, sợ vô cái Tưởng, con không dám ngồi lâu, ngồi nó khỏe lắm, nó mất hết trơn à…. Mà lên ngồi một cái, tất cả chuyện gì cũng mất tiêu hết trơn, như mình lên Thiên Đàng mình ngồi. Thầy nói ngồi lâu không được, lọt vô Tưởng nữa. Đánh bên này, thì nhảy qua bên kia, hai bên dính màu đen hết thì coi không được thành ra con không dám.
(06:26) Trưởng lão: Mình ôm chặt nó rồi bắt đầu mình xả ra. Xả ra thì mình ôm cái khác, đừng ôm chỗ đó nữa. Ôm chỗ đó lâu quá sanh Tưởng. Nó quen chỗ này, mà nó làm cái Tưởng ra.
Sư Tuệ Tĩnh: Người ta ngồi được.
Trưởng Lão: Ngồi được, ngồi mà bắt đầu nó phát ra, nó khởi đau thì mình gom tập trung tâm vô, rồi bắt đầu mình ngồi, thí dụ như bây giờ cái cây hoặc nhìn ngoài trời, nhìn coi như tâm mình ở ngoài đó, không có ở đây nữa. Cái lối gom tâm của mình là đặt nhiều chỗ để cái Tưởng không sanh. Chứ không đặt một chỗ bắt đầu nó sanh.
Thí dụ như mình để tâm mình ở vạn vật, trời, cây, cỏ…. nó thấy như là tâm nó phủ trùm vạn hữu, bây giờ nó hòa đồng với vạn hữu rồi. Tự nó luận ra, nó thấy, thì tức là bị Tưởng rồi.
Mặc dù mình thấy tâm mình luôn luôn lúc nào nó bàng bạc ở trong mọi cây cỏ, mà nó không khởi niệm thì thôi, mà khởi niệm thì bị Tưởng. Nó khởi niệm là nó phủ trùm vạn hữu, nó "Phản bổn hoàn nguyên, phủ trùm vạn hữu" thì ngay đó là bị Tưởng rồi.
Để nó tự nhiên vậy, đừng nghĩ gì hết, đầu óc đừng tác ý gì hết. Để nó xa lìa Thọ Hành. Phải lưu ý phần này, nó khó lắm, hễ có cái gì nghe nó an ổn chút là tâm nó tác ý ra, nó được cái đó, nó khoe. Không ngờ là Ma, nó đánh vô, làm cho mình thấy mừng, vui, gọi là Hỷ, nguy hiểm lắm.
(08:06) Cho nên: "Mày không có được khởi niệm gì hết", Nó vậy đó, tác ý ra: "Không có được", nghĩa là dằn mặt nó liền: "Không có được nghĩ gì hết, phải im lặng như Thánh". Trong khi mà ông Mục Kiền Liên mà ông tu, ông khởi cái khởi niệm là ông thấy tâm ông được này, kia thì Phật đến dằn mặt liền: "Phải im lặng như Thánh", thì sau đó có niệm gì mình cũng "Im lặng" hết. Cái niệm đó là cái niệm của trạng thái của Tưởng, mình phải im lặng, tác ý cái chỗ đó, tác ý vào cái trạng thái đó thì cái trạng thái đó không bị Tưởng. Nó đúng là cái chỗ Chân Pháp do mình tác ý ra cái Tưởng nó không vô được.
Thành ra chỉ chút xíu mà mình không khéo sẽ lạc vô Tưởng. Phải lưu ý phần đó thì mới bứng gốc, Thọ hành nó đánh dữ lắm, nó đánh trốc gốc, nó đánh kinh lắm, nó đánh người ta sợ. Bởi vì tới chỗ giờ phút cuối cùng, kể như mình chết rồi mới sống lại. Thọ Hành nó đánh ghê lắm, nó đánh người ta ngán lắm. Ở đây nhiều người bị Thọ Hành đánh tan tác. Nó đánh để cho cái tâm của mình nó luận ra để nó bỏ cuộc, chứ không phải dễ đâu. Coi vậy chứ cái giờ phút cuối cùng là giờ phút quyết tử, coi như là chết bỏ, không lay động được, không làm sao rời khỏi đây được hết. Nó khó…
Sư Tuệ Tĩnh: Lúc mình nghỉ rồi mình ngồi không có lâu được?
Trưởng Lão: Ngồi không có lâu được.
Sư Tuệ Tĩnh: Nó hết vào thì mình bỏ ngồi.
Trưởng Lão: Bỏ, xả, không ngồi nữa. Hễ khi còn đau thì mình gom vì bị cái Thọ của mình, cái Tưởng đánh vô chịu không nổi. Khi nó hết, nó yên, bắt đầu nó an ổn dữ tợn rồi thì xả ra… Mình đuổi được cái Thọ đi khỏi cái thân của mình thì mình xả ra. Mình xả ra thì nghe nó hết, nhưng nó còn trở lại, nó đánh đợt nữa, nhiều đợt. Mỗi lần đánh là mình vô gom.
(10:11) Sư Tuệ Tĩnh: Tối ngày, nó đánh liên tục.
Trưởng Lão: Liên tục, vậy thì mình cứ vô, yên thì mình xả. Vô, yên thì mình xả…. nó đánh nữa, kêu nó công thì mình thủ, cứ mãi như vậy, chừng nào nó hết thì thôi, riết nó hết.
Sư Tuệ Tĩnh: Cái Pháp Hướng mình không có dùng lâu, lát mình nghỉ.
Trưởng Lão: Lát mình nghỉ, nhất là khi mình đánh Thọ Hành, khi mình hướng mình đuổi nó rồi, mình vô ôm chặt pháp hướng, mình hướng nữa, cái tâm nó nhảy lại chỗ đó, để mình tác ý ra thì cái tâm ngay chỗ… Cho nên ôm chặt, để nó ôm thiệt chặt, nó đánh sạch cái Thọ rồi, tức là nhờ cái tâm gom vô điểm đó, tác ý ra, cái tâm nó nhảy ra điểm Thọ, nó không có bị, nó rời cái điểm tựa của nó.
Sư Tuệ Tĩnh: Vậy là con hướng rồi lên…..
Trưởng Lão: Lên… hướng rồi, bắt đầu mình ngồi, ôm chặt cái thì nó hết. Hết Thọ rồi bắt đầu mình thấy an ổn, cảm nhận cái thần mình nó vô Tưởng, để mình tránh cái Tưởng. Nếu mà đừng có cái Tưởng thì mình ôm Pháp nó dễ, lâu quá phải chi.
Sư Tuệ Tĩnh: Nó đánh bên đây.
Trưởng Lão: Đánh bên đây, bởi vậy, nó cho hai ngả. Một bên thì Tưởng, một bên cái Thọ, nó đánh, nó kẹp mình lắm. Mình đánh được cái Thọ thì coi chừng cái Tưởng. Vì vậy cho nên khi đánh cái Thọ, nó lui rồi thì xả, xả ra thì không đau nữa nhưng mà chút nó đau lại. Bởi vì xả ra thì coi như mình tấn công nó nữa rồi thì bắt đầu nó công mình, coi chừng chuẩn bị nó công…
Sư Tuệ Tĩnh: Thì mình gom lại
Trưởng Lão: Mình gom lại nữa, chịu khó lắm. Đuổi được cái Thọ hành rồi thì các sư sẽ thấy nó có cái trạng thái… Đủ lực. Nghĩa là từ hồi mình chưa có lực, đánh thắng trận rồi, thì lấy vũ khí của giặc trở thành cái lực của mình. Coi như là quân đội cũng Tăng, người ta thấy mình thắng trận người ta vô quân đội liền. Vũ khí mình lấy của giặc làm của mình cũng nhiều, mạnh lên. Khi mà thắng được trận Thọ rồi thì coi như là mình có cái lực của pháp hướng, mạnh lắm, gom tâm cũng mạnh, tăng lên, tăng cái lực đó lên.
(12:30) Còn mình đánh không lui thì coi như là mình yếu…. Dần mòn… coi chừng bỏ cuộc, hễ thua trận coi chừng mình bỏ cuộc.
Sư Tuệ Tĩnh: Hễ mà…. ngồi thì nó hết, lát nó đánh nữa, nó cứ làm liên tục, có lúc con đi kinh hành, nó dội, nó không muốn đi. Ngồi tu nó cũng không muốn ngồi tu, nó bần Thần, nó làm như nó mất sự tinh tấn, nó không muốn tu, nó làm biếng. Mặc dù cái tâm mình muốn, tâm mình muốn dữ lắm, chứ không phải không muốn. Bước đi nó dội, bước đi nó dội…
Trưởng Lão: Phải chiến đấu dữ lắm, tu là sự chiến đấu. Cho nên trong cái thời gian, nếu mà biết được cách thức gom tâm, tập được cơ bản…. để cho có sự gom tâm, để gặp trường hợp đó mình đẩy lui, chứ không phải dùng cái đó mình tu. Khi mình đẩy lui rồi thì tu chơi chơi, ngồi không, coi chừng chướng ngại pháp có khởi ra không, quán xét đẩy lui nó để giữ cái tâm mình nó yên, suốt ngày chơi không vậy đấy. Đừng có đọc, đừng có làm gì hết, nó gom rồi, đừng có làm, làm nó chướng pháp tu của nó.
Đừng làm, đừng làm gì hết, bởi vậy Thầy chỉ tu, không làm gì hết. Chỉ ăn rồi chơi, sống xin ăn rồi bắt đầu ngồi coi như người chơi vậy, chứ làm việc dữ lắm, luôn luôn lúc nào cũng cảnh giác cái tâm.
(14:02) Thật sự phương pháp rất đơn giản, không khó, bởi vì đọc lại cái thời khóa thời đức Phật: đi hoặc ngồi đều đẩy lui chướng ngại pháp. Nhưng mà trước khi đẩy lui được chướng ngại pháp, chúng ta phải có đủ sức quán. Khi chướng ngại pháp nó đến thì mình phải quán đẩy nó đi. Bây giờ Thọ Hành đến phải có sức gom, chứ không biết gom thì sao mà ngồi đó mà đẩy lui chướng ngại pháp nổi.
Nó không đơn giản, nói thì ông Phật nói vậy, chứ Phật trang bị cho mình đầy đủ vũ khí, từ hơi thở gom, từ hơi thở bình thường, từ mọi cái hết rồi, nắm vững rồi, bây giờ có đủ vũ khí rồi. Bắt đầu bây giờ mình mới tu đánh chương ngại pháp, chứ không phải mới vô mà đánh chướng ngại pháp thì không có nổi đâu.
Cho nên Thầy dạy bài bản lắm, nhưng thực sự chưa có làm được. Chứ làm được, biết nó ló mặt, nó dùng pháo, dùng phi hoặc là dùng máy bay hay phản lực, mình biết loại nào hết, … Cũng được hết, nó vô, bởi vì đây là cuộc chiến đấu với nội tâm mình.
(15:07) Thân-Thọ-Tâm-Pháp là bốn chỗ chiến đấu của nó. Nó đánh mình bốn chỗ đó tan nát hết. Hễ nó không đánh chỗ thần thì nó đánh Thọ, không đánh Thọ thì nó đánh thần Thọ Tâm, nó đánh Tâm mình, không thì nó đánh các Pháp tới.
Bà còn ở đâu đến làm động mình, cái chuyện tầm bậy, tầm bạ lạc vô, thì đó là pháp chứ gì. Đây là Thầy nói cái đơn giản để cho mình thấy, ví dụ như mình đang tu vậy, có bà con ở đâu đến thăm, bạn bè đến thăm, mà không ra tiếp họ sao được, mà hễ tiếp thì kể như…Còn bao nhiêu thứ chuyện nữa, pháp mà, nhiều thứ chứ đâu phải một thứ đâu, nó trải ra nó đưa đến. Mình đi tu vậy chính quyền lại hỏi giấy tờ, tùm lum tà la, cũng là pháp đấy.
(16:01) Cho nên Thân-Thọ-Tâm-Pháp mà, bốn chỗ này thường xuyên, không chỗ này thì chỗ khác, nó cũng…… Mà mắc mớ gì lúc mình tu tốt….. . Còn khi không….. tới cái giờ đó mình tu vậy, bao nhiêu đồ cũng xài hết, ba cái y cũng lấy, nó làm động, lấy gì giờ đây, pháp nó đến mà. Cho nên mình đẩy lui hết, chết bỏ. Bởi vậy Thầy nói, đủ thứ hết chứ chưa nói nội cái thần với Tâm với Thọ nó đánh mà còn cả các pháp bên ngoài, nó chờ, khi nào mình thấy yên được rồi là nó đánh. Khi nào mình thấy tâm mình không chướng ngại pháp, nó làm chướng ngại pháp tới.
Có bốn chỗ chứ phải chi chỉ có một chỗ thì dễ cho mình, bốn chỗ xảy ra. Cho nên bốn chỗ tu mà đức Phật gọi là Tứ Niệm Xứ, Tứ Niệm Xứ tại mình đặt nó thành niệm chứ sự thật là bốn nơi để thực hiện tu tập, bốn chỗ để tu tập.
Sư Phước Nhẫn: Đúng chỗ nào mình tu chỗ nấy.
Trưởng Lão: Đúng chỗ nào tu chỗ nấy. Cho nên khi mà mình trang bị được những pháp hành đàng hoàng rồi, mình giữ đúng, giữ gìn pháo Tăng của mình bằng giới luật, bằng sự phòng hộ rồi thì bắt đầu bây giờ ở trên Thân-Thọ-Tâm-Pháp xảy ra cái gì là mình sử dụng ngay pháp đó, mình đẩy lui gọi là "đẩy lui chướng ngại pháp". Nắm vững hết rồi mới thực hiện được thời khóa biểu đó, chứ còn chưa thì coi như mình đang tập luyện từng cái, từng cái để cho mình có đủ các phương pháp đối trị tất cả mọi cái xảy ra trên bốn chỗ này, tức là Tứ Niệm Xứ. Hoàn toàn ngoài bốn chỗ đó mình không có chỗ nào tu.
(17:57) Các Sư nghĩ có phải không? Ngoài bốn chỗ đó mình tu cái gì bây giờ? Ở trên bốn chỗ đó mà cái tham, sân, si của chúng ta nhiều tham ưu khổ não, ở trên đó mà khắc phục từng giờ, từng phút. Cho nên mình hiểu rõ được về Tứ Niệm Xứ, không phải Tứ Niệm Xứ là ngồi đó mà tu theo kiểu…. Tầm bậy, tầm bạ….
Nó khó nhưng mình phải chiến đấu để mà thoát ra khỏi cuộc đời khổ đau của con người. Khó lắm chứ không phải dễ. Bởi vậy đọc lại cuốn I, khi mà người học trò hỏi Thầy: "Con làm sao tu cho được, con đã thực hiện mà tâm chưa có…. Được", là tiếng khóc trong tâm người đệ tử của mình, tiếng kêu cứu. Biết làm sao, các con biết là cái lực Nhân Quả nó công lý và công bằng, không thể nào cứu được.
Mình biết cách làm nhưng người đệ tử chỉ còn nhiệt tâm, nhiệt huyết….. Chứ…. người Thầy không cứu được. Cho nên đức Phật, nghe cây nói của đức Phật: "Các con tự thắp đuốc lên mà đi", các con, tự các con… Nói bằng nước mắt, đức Phật nói bằng nước mắt, chứ không phải nói thường. Bởi vì "Đạo cảm ứng giao nan tư nghì", hiểu biết sự khổ đau, khổ ải. Muốn vượt qua đâu phải dễ, cho nên nói: "Các con tự thắp đuốc lên mà đi", câu nói bằng nước mắt của Đức Phật….
Trước sự khổ của các con…. Bởi vì cái lực Nhân Quả nó ghê lắm, mình đã huân tập thành nghiệp rồi thì chỉ có mình gỡ nó ra, còn ai gỡ ra được? Nếu mình không nhiệt tâm, nhiệt huyết thì mình làm sao gỡ. Mình không chịu nổi cơn Thọ Hành, làm sao chiến đấu được đây?
(19:59) Ông Phật đâu có làm sao, cũng như Thầy, mỗi khi các con tu không kết quả thì Thầy coi như nỗi niềm đau xót, biết nhưng mà sợ nó không đủ nghị lực, không đủ nhiệt huyết, thắng không nổi. Chứ nếu đủ thì nó sẽ vượt qua, mà nếu không vượt qua được, các con cũng biết cuộc đời có nhiều…. Không phải trong một đời.
Mỗi một đời làm người được rồi, nhiều đời làm chúng sanh rồi mới làm người, chứ không phải đời nay là người…. Bởi vì trong một đời của mình nhiều khi mình làm tội ác, không phải tu xong là không có tội ác. Trước khi mình đi tu, mình…. Mình sanh ra ăn chay được liền. Mình vô tình vẫn ăn thịt cá để mình sống. Lớn lên mình biết được Phật pháp là cả một vấn đề…. Của đời hiện tại…. Quá khứ …. Nhiều đời…. Sâu dầy, mà dứt bỏ ngay liền…. Thọ Hành… Nó cũng phải nhiều đời nhiều kiếp chứ đâu phải, có một đời nay rồi cởi bỏ chưa sạnh, nhiều đời chồng lên sao mà một giây phút xả sạch xuống được.
Khó lắm, chứ đâu phải dễ, cho nên nếu mình không quyết tử thì khó mà…. Chỉ có nhiệt tâm, quyết tử thì mới có đủ nghị lực mà chịu đựng. Nó đau, kêu là đau … nó đau… Đứt ruột, nó đánh mình kinh khủng lắm.
Mỗi lần người đệ tử của Thầy mà bị Thọ đánh rồi… Nước mắt… Thầy đâu phải cây đá, Thầy là con người mà. Tình cảm của mình thương những người đồng cảnh quyết đi tìm con đường giải thoát, chịu đựng những sự khổ đau đó.
(21:55) Mình đã hiểu biết sự khổ đau đó như thế nào, bây giờ người đệ tử của mình đang gặp khó mà mình không làm cách nào gỡ, mình chỉ cố gắng sách tấn, khuyên lơn, nó cho họ để họ cố gắng vượt lên bằng sự cố gắng của mình, không thì đành chịu thôi, chính họ phải vượt lên.
Thầy nói thật sự mỗi lần nghe quý sư tu được Thầy mừng, mà nghe không được thì …. Ngoài đời đủ vật chất cám dỗ, chứ đâu phải đời đẹp, bởi vì chính đức Phật nói nó có cái Lạc của nó, không tu hành người ta mới đâm đầu vào đó, chứ nếu không có Lạc thì chắc chắn không có đẹp,… Cám dỗ. Ráng cố gắng, làm sao trang bị, mình tập, coi như bây giờ mình tập, ví dụ như mình tập cách gom tâm, thì khi có Thọ mình thử gom xem có được không? Nếu chưa được thì mình tập, sau khi tập được, trang bị được các pháp cụ thể rồi thì bắt đầu mình mới… Khỏe lắm bây giờ mình có đủ rồi.
Hễ Thân-Thọ-Tâm-Pháp mình chỗ nào khởi là mình đánh ngay chỗ ấy, còn không thì mình sống với tâm thanh thản, có vậy thôi. Nếu sống được với tâm thanh thần và khi nào có giặc đến đánh mình, tức là trên bốn chỗ này có xảy ra điều gì, nhảy ra trong tâm mình thì cứ đẩy lui liền. Do đó cứ lôi cái tâm trở về thiện pháp như vậy thì trong vòng ba tháng, sáu tháng là quý sư tu xong. Thầy nói xong, Thầy bảo đảm với quý sư, nghĩa là khi tâm thanh tịnh rồi thì Thiền Định với quý sư không khó nữa.
(23:46) Tập I Thầy nhuận lại, sau này khi Thầy in rồi, quý sư sẽ đọc thấy chỗ này, nghĩa là ở trong đó Thầy có nêu ra ba loại thần thông: thần thông Biến hóa, thần thông Ký thuyết, thần thông Giáo hóa hay là thần thông giới luật.
(24:03) Ba loại thần thông, hai loại thần thông kia đức Phật chưa có dạy, còn loại thần thông giới luật, tức là Giáo hóa thì dạy vì nó không làm khổ mình, khổ người, nó thực tế và cụ thể. Còn loại thần thông kia chỉ là huyễn hóa, ảo thuật. Bởi vì đức Phật nói là mình có thể hiện nó cũng không lợi ích gì cho mình cả. Bay lên trời có làm lợi ích gì cho mình đâu, phóng hào quang có lợi ích gì cho mình đâu?
Còn thần thông Ký thuyết là mình biết tâm niệm của người ta, người ta muốn gì, người ta không nói ra nhưng mình biết. Mình biết, nhưng mà đức Phật ở trong bài đó chỉ cho chúng ta rõ là thần thông từ chỗ nhập Nhị Thiền, chỗ diệt Tầm Tứ, chỗ đó là có thần thông Ký thuyết. Nghĩa là người nhập Nhị Thiền rồi là người đó biết tâm niệm của người ta.
Đức Phật xác định cho chúng ta biết được thần thông xuất phát từ định nào. Còn định Sơ Thiền là định của thần thông Giáo hóa, giới luật, chỗ đó là thần thông, thần thông đó được đức Phật chấp nhận.
Cái kia là thần thông Ký thuyết. Từ Tứ Thiền đến Tam Minh là thần thông Biến hóa. Nó rõ ràng, đức Phật xác định bài kinh hay lắm, để rồi Thầy lôi bài kinh đó ra cho quý sư đọc, quý sư thấy. Cho nên chúng ta điên đảo, chúng ta ham mê cái không có thực giải thoát cho mình mà chỉ là trò huyễn hóa, trò ảo thuật. Mình hiện thần thông phóng hào quang sáng trời, người ta coi mình như Phật chứ sự thật có lợi ích gì cho họ đâu. Làm trò giải trí cho người thấy, mất công, làm đồ chơi, không có ích lợi.
Còn thần thông này, không làm khổ mình, khổ người, có phải không? Nó là đức hạnh, cho nên là thần thông Giáo Hóa, nó… Mà Thầy vạch ra rồi, kẻ nào ham thần thông là kẻ ngu si.
(25:57) Chúng ta phải phải lo đẩy lui chướng ngại pháp, đẩy lui được chướng ngại pháp thì không làm khổ mình, khổ người. Như vậy là đủ rồi…. Cho nên trong bốn Thiền, Tam Minh cuối cùng đức Phật chỉ lấy Sơ Thiền…. Làm chuẩn, mà Sơ Thiền là khó khăn vô cùng bước vô sao như muốn nghẹt thở. Bởi vì bốn chỗ, Tứ Niệm Xứ, bốn chỗ Thân-Thọ-Tâm-Pháp của mình mà….. Định chỗ nào coi bộ cũng chới với mình hết, nó không đơn giản. Chỗ nào cũng đánh nó muốn chết nó mới lui, chứ lơ mơ nó đâu có chịu lui.
(Có gì không con?…. )
Nghĩa là đi trong cái dòng Nhân Quả, đi từng chi tiết để cho họ nắm được mọi thứ, để cho họ… để giúp cho con người thoát ra. Mục đích của Thầy là đi từ cái chỗ luy dục ly ác pháp. Lần lượt Thầy bác hết những cái thần thông, bùa chú, trò ảo thuật…..
Thầy biết làm chuyện đó, thần thông Thầy biết, Thầy làm được, nhưng mà từ hồi nào đến giờ không làm, tại vì Thầy nhắm vào chỗ thực tế mà đức Phật đã nói rồi. Chúng ta thì nghe nói Phật cấm không cho thể hiện thần thông chứ gì, chúng ta hiểu như vậy là trật lất. Phật không có cấm. Phật nói: Ta biết thể hiện thần thông, nhưng mà ta chấp nhận… (27:24) Chứ không phải ta không biết…. (27:33) Nó không ích lợi, ta vạch ra cho thấy sự thật nó không ích lợi. Bây giờ ta phóng hào quang có lợi cho ai đâu, chỉ xem chơi thôi, họ khen Ta, có lợi ích gì cho họ, có đem cơm cho họ ăn đâu? Có làm cho họ giảm cơn sân đâu? Họ cũng sân, họ thấy gì họ cũng giận hờn, cũng khổ.
(27:54) Còn cái Thầy dạy họ, cái này họ sẽ không còn khổ, không còn giận.
Sư Phước Nhẫn: Cái thức.
Trưởng Lão: Bởi vì cái thức của họ, cái thức sai lầm để cho họ đi đến chỗ loạn, thể hiện thần thông ra, thích làm Phật, ham mê thần thông, lạc đường rồi. Cho nên từ chỗ dẫn dắt, mình lấy chỗ này để dựa vào, không phải để họ tập trung vô chỗ này. Họ không tập trung vô chỗ thực mà tập trung chỗ ảo, vì cái ảo quá tuyệt vời, ngồi thế này mà bay được…. Họ cứ nhắm vào cái cao mà họ không nhắm vào chỗ thực sự giải thoát.
Sư Tuệ Tĩnh: Thì mình nói cái này là cái ảo, cái thiệt…
Trưởng Lão: Mình nói vậy chứ thật sự ra họ vẫn nhắm vào. Bởi vậy Thầy nói thường thường cái Tưởng nó không đến thì thôi, nó đến khoái lắm. Cho nên ngăn chặn mà nó cứ xảy ra. Còn cái tâm mình ngăn chặn mà cứ thấy nó thị hiện…
Sư Tuệ Tĩnh: Đức Phật ngày xưa có thị hiện.
Trưởng Lão: Thị hiện, nhưng mà sự thật ra thị hiện để đương đầu với ngoại đạo, nói là Ta có chứ không phải không. Nhưng cái này không phải, nhưng mà cuối cùng thiên hạ tới bây giờ người ta vẫn ham thần thông, bởi vì cái thị hiện này, khổ đau nhất là cái…
Sư Tuệ Tĩnh: Bây giờ Thầy đương đầu với Đại thừa quá lớn, quá mạnh, Thầy không làm gì thì làm sao mà…
Trưởng Lão: Thật sự ra Đại thừa bây giờ nó làm gì Thầy phải sử dụng, nhưng mà sử dụng bằng cách để đối phó chứ không phải để được khen. Cho nên nó hại Thầy không được, tại vì Thầy biết, nó động tay, trở chân gì Thầy biết hết. Nó nói cái gì ra Thầy cũng biết hết. Cho nên tất cả những cái mà nó làm, hiện giờ Thầy nói ra được những điều này là Thầy đã có khả năng để đương đầu….. Không phải đương đầu với các loại thần thông.
Tất cả các tôn giáo ở trên thế gian này… Nó sẽ diệt Thầy, Thầy nói thực sự, nó đâu có thường đâu, nó đọc kinh sách của Thầy rồi, nó nghiên cứu, nó chới với, nó cũng hoảng, chứ đừng nói chi. Rồi tất cả các tôn giáo khác, đạo nào cũng sợ… Bởi Thầy cũng phá sạch thần thông của nó. Nó có thần thông là Thầy đập xuống hết, thì nó còn dám để Thầy tiêu diệt nó sao.
(30:19) Cho nên Thầy đủ khả năng đương đầu với nó, nhưng mà không phải thị hiện để cho làm cho mờ mịt người khác. Để cho người ta không nhắm vào đạo đức chân thật mà cứ nhắm vào thần thông. Họ thấy điều gì ở thần thông, thế gian này chứ nhắm vào đó, họ đâu có nhắm vào đạo đức. Thầy có nói chuyện đạo đức thì họ cứ mê cái đó thôi. Cuối cùng thật sự Thầy sử dụng để mà đối phó, chứ còn cái vấn đề thần thông để du hí, cái trò du hí cho người ta xem.
Sư Tuệ Tĩnh: Con nghĩ Thầy thị hiện tiếp tục vấn đề thần thông, cái thời đại bây giờ khác ngày xưa, bây giờ con người ta không phải như ngày xưa, thời đại khoa học, nói không tin mà làm mới tin.
(31:07) Trưởng Lão: Không, cái thời đại khoa học mà dẫn dắt nó đi vào cái mê mờ đó thì nó cũng hoảng, nhưng điều kiện là nó cũng đâm nghi, nó cũng không biết có gì trong đó.
Cái dạy đạo đức của Thầy, nó sẽ ca ngợi, tụi khoa học này, cái tụi có học thức này, nó sẽ thấy cái thực, nó sẽ chấp nhận cái thực. Thầy lý luận ra, nó sẽ thấy và đồng thời nó sẽ bỏ tất cả những thần thông.
Bởi vì Thầy đem ra những bài kinh của Phật hẳn hoi, đàng hoàng chứ không phải của Thầy đâu. Rõ ràng mà, để phá vỡ tất cả thần thông, từ đó nó mới thấy cái gì thật, chứ không phải những chuyện đó đem đến những lợi ích.
Chúng ta là con người, cũng như nhà khoa học làm ra, sản xuất ra, nghĩ ra cái gì để phục vụ cho đời sống con người, có lợi ích chứ. Thì người tôn giáo cũng phục vụ đời sống con người có lợi ích. Tại sao phục vụ bằng thần thông, làm cho người ta say, ham muốn điều đó có phải tai hại không?
(32:05) Sư Tuệ Tĩnh: Đa số bây giờ khoa học nó nói mình ảo, vì mình chứng minh không được, cũng như phóng hào quang.
Trưởng Lão: Mà mình không nói ra được
Sư Tuệ Tĩnh: Ban ngày thì mình phóng được….
Trưởng Lão: Thử hỏi bây giờ mình phóng ra như vậy làm lợi ích gì?
Sư Tuệ Tĩnh: Cái đó Thầy chứng minh, khoa học, về khoa học có điện, có bóng đèn, có năng lượng.
Trưởng Lão: Thì cái đó người ta làm rồi.
Sư Tuệ Tĩnh: Còn cái này thì mình tu theo đạo Phật, mình hành giới luật, mình tu theo có cái lực, cái lực đó nó cũng khám phá được, đây cũng là khoa học.
Trưởng Lão: Lẽ đương nhiên, nhưng mà đừng chứng minh nó. Bây giờ, người ta cũng làm ra cái đó, Thầy thấy cũng được rồi. Bây giờ mình ngồi đây mình phóng cũng kiểu đó thôi chứ không khác gì. Bởi vậy mình chỉ dùng cái lực của mình tập trung ánh sáng lại chứ không có gì. Mình phóng ra chứ không có gì, nó đơn giản thôi chứ không có gì. Bởi vì cái tâm lực của mình nó mạnh.
Mình hô: "Cái đầu phóng hào quang ra", tức là phóng ánh sáng ra chứ gì, "Phóng ra như mặt trời". Tại cái tâm lực của mình, mặt trời phóng được thì mình phóng được, có gì đâu, chuyện đó là chuyện dễ. Cái tâm lực của Pháp Hướng của chúng ta thực hiện là nó sẽ làm được.
Khi tâm chúng ta thanh tịnh thì chúng ta muốn gì là nó làm cái ấy.
Nó không khó, nhưng cái này không có ích lợi. Còn khoa học bây giờ nó phóng ra như vậy, nó thắp sáng. Còn chúng ta phóng ra để chơi một chút thôi, chứ chúng ta đâu có thắp sáng thế gian này cho người ta. Nếu chúng ta làm như vậy là chúng ta thành mặt trời rồi sao. Nó chỉ là ảo giác cho người ta coi trong vòng một tiếng, hai tiếng hay một ngày đi nữa cũng là ảo giác. Có bao giờ Ông Phật, đầu Ông ấy phóng hào quang suốt từ ngày này qua ngày khác không? Ông phóng chút rồi thôi, ông thuyết pháp năm, ba tiếng đồng hồ rồi thôi, ông đi. Chứ Ông không phóng hoài, phóng hoài chắc năng lực của Ông cũng tiêu luôn.
(33:55) Sư Tuệ Tĩnh: Con cứ nghĩ ngày xưa Ông phóng hào quang để đệ tử nghe cái lời Ông nhiều hơn, vì thấy hào quang khoái lắm, bắt đầu họ chú ý, họ nghe…
Trưởng Lão: Đó là các nhà Đại thừa, mỗi lần nghe thuyết pháp, đọc kinh Đại thừa chúng ta thấy mỗi lần thuyết pháp là ngay giữa chân mày của Ông phóng ra hào quang xanh, đỏ, vàng đủ thứ hết rồi bắt đầu Ông thuyết pháp. Hội chúng thấy lạ lùng, hôm nay sao đức Phật phóng hào quang dữ. Có khi phóng bạch quang, sáng trưng từ thế giới này tới thế giới khác, ôi thôi nó tưởng quá trời.
Còn kinh Nguyên Thủy thực sự ra, bữa nay ôm bình bát đi, sáng sớm này chưa có chuyện gì, lại ông Bà La Môn hoặc là ông ngoại đạo nào đó nói chuyện chơi, coi nếu có duyên, thì mình tìm ông có duyên với mình, sáng ôm bình bát đi lại đó chơi một chút, lại rồi lại đi xin. Chỉ để tìm cách độ người đó, có vậy thôi, chứ không thấy phóng hào quang gì hết.
Còn ngồi nói chuyện thì: "Ta nghe thấy mấy ông họp tại khu nhà mát, họ muốn nói gì đây, ta đến đấy, ta nói chuyện", vô đó đức Phật ngồi nói chuyện, mấy ông hỏi sao, chuyện gì, lý do gì, mấy ông kể ra. Nhân dịp đó đức Phật nói bài pháp giúp họ phá cái nghi đó. Nó thực tế và cụ thể….
Nhưng mà hầu hết sử dụng thần thông để đối phó với ngoại đạo, những ngoại đạo có thần thông. Với ngoại đạo không có thần thông thì đức Phật không cho mấy người đệ tử làm tầm bậy, không có làm chuyện tầm bậy được hết. Có một vị, đức Phật với một số đệ tử đi ngang qua, dịp Tết mà người ta múa lân, người ta treo tiền, treo bạc gì đó, cái vị hạ tọa này đi ngang qua đó, ông thấy vậy, ông hóa thần thông lấy cục tiền của người ta. Mọi người thấy ở đâu có tay thò ra dữ tợn, ai cũng hoảng hồn. Có người nói đó là mấy ông Tỳ kheo đệ tử của đức Phật đó, đi khất thực mấy ông chơi chứ ai….
(36:14) Nhưng mà sự thật ra… để cúng dường cho nhiều chứ gì, ăn cho luôn… chứ làm cái gì. Về Ông Phật rầy cho, chuyện của người ta để cho người ta, mình đừng có làm cái chuyện đó. Thầy thật sự ra làm thần thông, dụng để bảo vệ khi mà ngoại đạo muốn đấu với mình.
Cũng như bây giờ Đại thừa hoặc cái giáo phái muốn đấu với Thầy, Thầy sẵn sàng, bất kỳ bùa chú gì Thầy sẵn sàng. Nhưng mà có điều kiện là dụng xong bây giờ Thầy làm được cái gì? Có vậy thôi…
Sư Tuệ Tĩnh: Nó diệt Thầy đó Thầy ơi. Mà nó dùng thuốc độc…
Trưởng Lão: Thầy nói cái gì bây giờ Thầy cũng không sợ.
Sư Phước Nhẫn: Thầy đã chuẩn bị rồi.
Trưởng Lão: Bởi vì nó là Nhân Quả mà. Nhân Quả, bây giờ Thầy biết Nhân Quả của Thầy nó hết rồi, phải không? Mà Thầy làm chủ Nhân Quả, Thầy không ngồi thêm vì nhiệm vụ Thầy chưa xong.
Còn nhiệm vụ Thầy xong, nhân quả Thầy đã hết, Thầy vẫn sẵn sàng: "Cho tụi bay nổ tung, không sợ chút nào hết, tao đâu có ham sống đâu, cho tụi bay nổ, tao đi cho sướng, khỏe thôi", phải không?
Đó là cái chuyện mình đã biết được việc đó hết rồi, không còn lo nữa.
Sư Tuệ Tĩnh: Lúc đó ai chấn hưng.
Trưởng Lão: Bởi vậy Thầy mới nói, nhiệm vụ Thầy xong rồi.
Còn chưa xong thì nhất định là phải tiếp tục. Không có làm hại được đâu, đừng có sợ, quý sư cứ…,Thầy nói bây giờ chỉ theo Thầy nỗ lực tu, chiến đấu lại tất cả mọi cái khó khăn…. Để thực hiện được…. Khỏi có cực khổ.
Còn ở lại đây, quý sư nghĩ, ở lại đây đâu có hưởng lạc như thiên hạ, như người ta được. Đâu có ăn uống, đâu có vui chơi cái gì đâu. Bởi vì cái này đều là ảo tưởng, mình đã biết hết rồi. Còn cái gì đâu mà gọi là muốn sống ở thế gian này, mà nó vất vả, cực khổ.
(38:00) Ví dụ như Thầy ở lại đây, có cái Thầy cần phải làm, phải không? Phải soạn đạo đức, phải viết những gì mà người ta còn đang nghi ngờ là của Thầy Thông Lạc chứ không phải của Phật. Thầy lôi những bài kinh của đức Phật, để chứng minh cái Thầy đã dạy, để cho người ta biết đây là của đức Phật chứ không phải của Thầy.
Đó là những cái Thầy đang làm và đồng thời đem triển khai đạo đức của đạo Phật, phổ biến cho rộng. Tìm mọi cái, gọi là người ta ở đời người ta sản xuất ra vật gì thì tìm thị trường tiêu thụ. Thầy bây giờ sản xuất cái đạo đức này ra, tìm nơi để phổ biến ra, để làm cho đường lối đạo đức này, soạn ra cho mọi người, cũng như người ta tìm thị trường người ta tiêu thụ vậy.
Nhiệm vụ của Thầy hiện giờ là làm những chuyện đó thôi, mà bây giờ có người thay thế, tu xong rồi, thì Thầy bàn giao là làm vậy, vậy, Thầy già yếu rồi. Sống đây là ngày nào cũng phải uống ly sâm thế này để cho khỏe, để làm thì vất vả quá.
Bây giờ quý sư còn khỏe, thôi thay thế Thầy làm công việc này. Đây là chuyện Thầy làm chưa xong, đạo đức phải viết như vậy, phải soạn thảo, ngay đó thì các sư sẽ nhìn xuống thì các sư sẽ thấy được cái điều kiện của Thầy phải làm như thế nào, đạo đức phải viết như thế nào.
Thầy dạy cách thức xong rồi, bây giờ Thầy thấy coi như là nhiệm vụ Thầy xong, các sư đã tu xong rồi thì chúng sanh đâu thiếu chỗ mà nương tựa nữa. Thôi Thầy từ giã Thầy ra đi, phải không? Rồi Thầy mới nói bây giờ đương đầu với ai, người nào, giáo pháp nào hiện giờ các sư nhìn lên xem nó như thế nào, thế nào, các sư cần phải lưu ý người này, họ đang đối phó với mình đó.
(39:51) Còn bây giờ một mình Thầy thì Thầy phải nghĩ cái này, nghĩ cái kia. Đầu óc bây giờ tập trung vô đây thì nó phải lo ở ngoài kia nữa chứ, một mình.
Còn đằng này giao phó cho người nào lo ở ngoài đó, mình ở trong này viết nó khỏe hơn chứ.
Sư Phước Nhẫn: Tụi con cũng nói ở ngoài đó.
(40:11) Trưởng lão: …. Liều thử đi rồi sẽ thấy, quyết tử một lần. Chắc chắn là phải chết một lần, nghĩa là giờ phút cuối cùng làm được, tê tái ắm, chứ không phải thường đâu, chứ không phải nói vô đó nó êm xuôi, tại giờ phút đó, Thân-Thọ-Tâm-Pháp nó nổ lên, nó nổ mình.
Các sư thấy nó trơ trơ, ba cái Thọ Hành nó…, nếu sự thật để tới hôm nay nằm nhẹp đấy, chứ đừng nói chuyện, nó đâu có phải, phải không? Và rồi mình cũng lý luận thời tiết, thật sự ra thời tiết cũng có ảnh hưởng cơ thể của mình, nhưng sức khỏe như sư thì thời tiết đâu có nhằm nhò gì. Nó chuyển dịch…(41:01)
Nội dung đoạn này trùng với băng: Vấn đạo 2B-Đức Hạnh và Kinh Nghiệm Độc Cư (từ phút (43:37) đến 48:53).
Mời quý vị xem băng Vấn đạo 12B.
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 13
KHAI THỊ VỀ ĐỘC CƯ
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và Sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [47:13]
Thời gian: 2002
Tên cũ: 07A-KhaiThiVeDocCu
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-13-khai-thi-ve-doc-cu.mp3
(00:00) Trưởng Lão: Cho nên thí dụ như bây giờ Thầy nói độc cư là bí quyết thành công, nhưng mà cũng chưa chắc là tin nữa đâu, bởi vì cái đầu mình nó lộn xộn dữ lắm trong này rồi, bởi vì mình đọc Kinh sách Phật mình thấy như thế này: Ông Phật nói là ổng xưa kia ổng độc cư đệ nhất, vừa thấy bóng dáng ai là Ông ấy chạy mất. Nhưng mà đây sau đó Ông Phật nói như vậy không có đúng, ổng không chấp nhận những chuyện đó. Nhưng mà bốn mươi hai bài kệ độc cư trong Kinh Con Tê Giác trong Tiểu Bộ Kinh thì bốn mươi hai bài kệ đó, rõ ràng đức Phật nói là từng tâm niệm của mình khởi nên là mình mất độc cư chứ không phải thấy người ta đến là, cho nên đức Phật đi xin ăn, đi này kia mà vẫn độc cư mà.
Sư Tuệ Tĩnh: Hèn chi con mới hỏi thế này, con tính hỏi Thầy là Ổng không được tiếp duyên, vậy Ổng ôm bình bát đi tiếp tùm lum hết trơn rồi.
Trưởng Lão: Ờ bây giờ thí dụ như mình đi xin như thế này phải không, người ta lại xớt bát thì mình cũng ước nguyện cho người ta rồi mình đi, chứ mình đâu có nói chuyện với ai, phải không. Do đó thật sự mình độc cư, nhưng mà mỗi tâm niệm của mình nó khởi lên coi chừng nó mất độc cư đó, chứ không phải ở chỗ mà… Bây giờ người ta đến hỏi, mình trả lời nhưng mà mình đừng hỏi người ta gì hết, nó là độc cư mà. Bởi vì mình hỏi người ta tức là tâm mình nó phóng dật cho nên nó phá độc cư. Vì vậy mà đầu của mình, tâm nó khởi ra phải không, nhưng mà đừng cho nó phóng dật, tức là đừng có theo cái niệm đó thì như vậy là mình độc cư. Nếu mình theo niệm là mình mất độc cư, có vậy thôi. Cho nên mình nhớ bạn nhớ bè, nhớ này kia hoặc nhớ ăn, nhớ uống đủ thứ tùm lum thì mất độc cư.
Sư Phước Nhẫn: Bởi vậy trong cuốn sách mà Thầy chỉ dạy về Thời Khóa của đức Phật, Thầy nói: “Nhớ một câu kinh câu kệ gì đó, cái lời thiện, lời ác gì đó, khi ngồi mà nhớ con cũng là vi phạm lỗi rồi”.
(1:55) Trưởng lão: Đó, nó mất độc cư rồi. Chướng ngại pháp hiện ra đó. Cho nên khi mà hiểu biết được rõ ràng pháp độc cư rồi thì chúng ta mới độc cư được. Còn cái này ấy, bây giờ các pháp luôn luôn nó tấn công mình, mà mình độc cư được. Chứ đừng có nghĩ rằng tôi đóng cửa thất tôi trốn không có tiếp duyên, nhưng mà tâm mình nó còn đi tùm lum ra ngoài, nó đâu có độc cư.
Sư Tuệ Tĩnh: Sẵn đây Thầy giảng cho con nghe trọn vẹn cái Pháp độc cư đi Thầy. Con vô đây nghe Cô Út nói cũng không có nhiều, nghe độc cư, độc cư, tưởng độc cư ở một mình như tê giác vậy, cái bài kinh Tê giác…
(02:33) Trưởng Lão: Phải hiểu được cái lý của Tê giác, chứ mình hiểu Tê giác ở một mình rồi mình sống độc cư coi chừng cái tâm mình nó dạo chơi tùm lum thì không có được. Bắt đầu bây giờ mình muốn sống độc cư, mới vô đầu mình tập dần chứ không phải ép. Nếu mình độc cư mình ức chế quá thì nó mất độc cư vì mình ức chế nó rồi, mình mất độc cư rồi. Bây giờ mình vô mình bắt đầu học những Kinh sách nào đó mình tìm hiểu như bốn bộ kinh của Phật từ Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng, Tăng Chi, mình đọc suốt bốn bộ kinh này. Giai đoạn này là giai đoạn mình sống độc cư mình sống một mình với kinh sách tức là độc thoại, không tiếp duyên ra ngoài.
Sau khi mình nghiên cứu Kinh sách này, mình ghi chép hẳn hòi, những gì quan trọng mình ghi chép ra cuốn tập, cuốn sổ của mình hết. Những lời Phật dạy nào mình thấy cần phải tìm hiểu, cần phải suy nghĩ nữa, nghĩa là mình thấy thế này chứ còn ý nghĩa gì sâu lắm, mà nó hay quá, mình ghi cái câu đó ra, mình ghi ra.
Hồi mà Thầy nghiên cứu về Nguyên Thủy, bây giờ Thầy viết "Những lời Phật Dạy" là do Thầy chới với bên Pháp Đại thừa rồi, Thầy mới đọc, không có đọc chơi nữa, không đọc một bài kinh suông đâu. Đọc bài kinh đó rồi, chỗ nào quan trọng là ghi chép lại hết những câu Phật nói. Thầy ghi chép ra sổ hết, nghĩa là ghi hết. Để đọc bài kinh nào có cái gì Thầy đặt vấn đề là Thầy ghi hết. Thầy ghi lại hết.
Do đó bây giờ Thầy mới có tài liệu ghi chép, chứ không bây giờ làm gì có mà lật ra, ai mà soạn cho được. Nhờ hồi đó, hồi mà mình thấy chới với, thấy hết đường rồi, thời gian này ngồi không làm cái gì hết, đọc lại các bộ kinh này truy ra hết. Rồi bắt đầu mới kê lại mới thấy được những chỗ nào, bài kinh nào, đường lối nào mà đức Phật đã thực hiện được con đường giải thoát này. Tất cả mình ghi ra rồi mới kê lại hết những chỗ mình ghi, mình đúc kết lại những chỗ mình tu hành, mình mới nắm được đường lối chứ không đâu có làm sao được, đâu có ai dẫn dắt mình đâu.
Cho nên vì vậy mà trong cái giai đoạn đầu này bốn bộ kinh Nikaya này Thầy đọc hết, đó là cái tạng kinh của nó. Trừ Tiểu Bộ Kinh Thầy không đọc vì bộ kinh này có thêm thắt nhiều lắm. Sau khi đọc xong rồi thì bắt đầu mình mới kê lại hết, nắm được pháp hành, kê tất cả những cái lời Phật dạy coi pháp hành ở chỗ nào. Nắm được pháp hành rồi bắt đầu mới thực hành. Dẹp hết không nghe, không coi nữa, dẹp xuống hết, không bao giờ đọc tới nữa. Lấy pháp hành mà thực hiện hàng ngày. Cho nên cái giai đoạn đầu độc cư là mình phải vậy và đồng thời không bắt buộc mình, ép mình.
(05:12) Thường thường ngồi không nó buồn ngủ, nó loạn tưởng dữ lắm, cho nên đọc kinh sách xong hết rồi, mình nghiên cứu đủ rồi bắt đầu áp dụng vào con đường tu, có pháp rồi đó, kinh nghiệm có rồi nhưng không độc cư trọn vẹn đâu, đi ra làm cỏ, quét sân, làm này kia. Không có ép buộc nó được, cũng sống một mình nhưng làm lặt vặt công việc này kia. Rồi sau cứ lần lần mình giảm lần giảm lần để cuối cùng hoàn toàn không làm gì nữa hết, hoàn toàn ôm pháp bởi vì mình tu tập quen với pháp đó rồi.
Hàng ngày mỗi chút tự nó nhớ ra nó giúp mình xả tâm, tự nó nhớ chứ không khéo Pháp Như Lý Tác Ý mình dễ quên nó lắm, mình làm cái mình mê công chuyện là mình quên à. Cũng như mình đi mà nó yên lặng mình cũng quên nữa. Bởi vì ngày xưa Thầy ngồi ba mươi phút cho đến một giờ không có vọng tưởng, ngồi cái nó lặng yên, nghe yên quá nó thích lắm thành ra nó bị rơi trong đó, nó quên nó không biết. Cho nên sau một thời gian Thầy tập trở lại cũng vất vả lắm, phải cố gắng nhớ lại mà hướng tâm, cứ một chút mình hướng, cứ một chút mình hướng, mình bắt buộc phải nhớ nên nó mệt nhọc lắm. Chứ còn ngồi mà im phăng phắc sướng lắm.
Sư Tuệ Tĩnh: Vậy nó lặn mất tiêu luôn.
Trưởng lão: Bởi vậy nó quen cái đó rồi, cho nên Thầy rất sợ, vì vậy sau này Thầy hướng dẫn, cho ai tu mà ngồi một giờ, hay là ba mươi phút mà yên lặng là Thầy sợ lắm, Thầy sợ nó yên lặng nó khoái mà không hướng. Cái Pháp Hướng, nhờ nó mà mình nhập Định chứ không phải chỗ mình ngồi mà vô Định được. Thầy nhắc đi nhắc lại như vậy. Nhưng người ta ngồi người ta thấy thơi thới, còn hướng nó động tâm, nó làm cho mình nghe nó động loạn lắm.
(6:57) Sư Phước Nhẫn: Mình ngồi như vậy chừng mấy phút đồng hồ mình mới hướng thưa Thầy?
Trưởng lão: Như vậy mình chỉ cần khoảng độ chừng một phút, hai phút là mình hướng chứ đừng có để kéo dài nữa. Cứ như vậy, khoảng một phút, hai phút hướng một lần.
Sư Tuệ Tĩnh: Tới giai đoạn mình rõ ràng rồi thì mình quay trở về Pháp Hướng.
Trưởng Lão: Pháp Hướng không thôi, nó quen rồi, nó nhớ rồi. Khi mà Pháp Hướng nó nhớ liên tục, nó không còn bị ở trong trạng thái lặng nữa, tức là trạng thái tĩnh lặng đó, mình làm cái gì mình cũng thấy nó luôn nhớ được rồi thì bắt đầu hết làm. Tới cái giai đoạn không làm nữa bởi vì nó nhớ rồi, nó nhớ tức là nó theo Pháp được rồi, nó ôm được Pháp rồi.
Còn bây giờ mình ôm Pháp chưa được vì vậy mình độc cư mình chịu không nổi. Độc cư niệm nó khởi lung tung dữ lắm. Còn mình ôm Pháp được rồi thì niệm nó hết rồi. Niệm nó hết rồi thì bắt đầu mình ngồi đâu mình cứ hướng tâm, nó nhớ, nó thuần, nó quen rồi, nó hướng riết, cho nên mình ra lệnh nó làm được. Nó có lực của Pháp Như Lý rồi.
Chừng đó bây giờ mình muốn tịnh chỉ Tầm Tứ hay tịnh chỉ hơi thở thì mình ra lệnh, mình nhắc nó vài ba lần là nó tịnh chỉ.
Sư Tuệ Tĩnh: Tiến trình độc cư có bao nhiêu thôi thưa Thầy?
Trưởng Lão: Có bao nhiêu đó. Bởi vậy bắt đầu thì mình đọc kinh sách, mình còn tiếp duyên, mình còn nói chuyện với người này người kia được, người ta hỏi mình nhưng mình hạn chế nói chuyện. Ai hỏi gì thì mình mới nói, còn không thì thôi mình không hỏi. Mặc dù nó còn cái duyên, nhưng mà mình còn tiếp duyên chứ không phải không. Đó là giai đoạn đầu, giai đoạn còn đang đọc sách.
Sau khi mình đọc kinh sách xong rồi, mình còn lao động, quét dọn, đi tới, đi lui chứ không phải là đóng cửa thất ngồi lỳ lỳ trong đó thì không được, mình cũng đi tới đi lui này kia vậy. Nhưng mà mình thấy Pháp Hướng của mình thường xuyên nó nhớ, nhớ được rồi thì bắt đầu mình không làm nữa. Hễ nó nhớ được rồi thì không làm nữa. Nó không quên, cái tâm nó cứ nhắc mình hoài, mình biết nó có lực rồi, nó mới nhắc mình, nó tỉnh rồi, tức là nó tỉnh giác trong Chánh Niệm. Nó tỉnh được nó mới có Chánh Niệm, nó mới nhắc mình hoài.
Còn mình chưa có tỉnh, tức là mê, nó mới quên cái Chánh Niệm này. Mình tỉnh ở trong hơi thở hay bước đi, mình tỉnh nhưng mình mất Chánh Niệm, mình tỉnh giác nhưng mình mất Chánh Niệm thì cũng là mê. Nó tỉnh mà nó mê. Còn mình tỉnh mà mình nhớ được Chánh Niệm thì đó là tỉnh giác.
(9:18 Sư Phước Nhẫn: Cái Pháp Hướng do đâu mà có thưa Thầy? Mới đầu mình chỉ đọc sách chứ giai đoạn này mình đâu có tập Pháp Hướng.
Trưởng Lão: Mới đầu thì cái Pháp Hướng mình tập, thí dụ như mới đầu mình tu mình đọc kinh sách, tới giờ đọc thì mình đọc, tới giờ tu thì mình hướng, con hiểu chưa. Còn khi mình đọc thì làm sao mà mình hướng. Cũng như khi mình đọc một bài kinh xong rồi mình nghỉ. Mình nghỉ rồi mình ngồi tu, mình đi kinh hành mình tu thì mình dùng Pháp Hướng, con nhớ chưa. Rồi mình đi lao động, mình quét dọn mình cũng nhớ mình nhắc là Pháp Hướng.
Nhưng khi mình vô đọc kinh sách, bời vì khi mình đọc kinh sách là nó làm giảm bớt cô đơn cho nên mình thích lắm, mình thích đọc kinh lắm. Thí dụ như bây giờ mình làm một hơi mình vô mình đọc kinh sách mình thấy khoái lắm. Có một bộ kinh sách là kể như mình chỉ cần ở trong thất khỏi cần tiếp duyên bên ngoài. Nó giúp cho mình ít muốn tiếp duyên bên ngoài. Nhưng mà nó đỡ tại vì tiếp duyên họ hay nói tầm bậy, chuyện thế gian. Còn kinh sách nhắc mình chánh pháp chứ không nhắc mình chuyện tầm bậy ngoài đời. Do vậy mình nhờ kinh sách ở giai đoạn độc cư đầu.
Sau khi giai đoạn đầu mình nghiên cứu bốn bộ kinh này xong rồi thì mình không đọc nữa, mình ghi chép kỹ rồi, mình không đọc nữa mà mình chỉ có lao động. Mà lao động, lúc bấy giờ mình không đọc nữa tức là cái Pháp Hướng mình tu nhiều.
Lúc nào mình cũng nhớ Pháp Hướng, pháp Như Lý Tác Ý rồi thì mình xả lao động là tới giai đoạn độc cư sau cùng để mình tiến tới thực hiện Thiền Định.
Lúc đầu mình còn tiếp duyên chứ gì, lúc sau thì mình còn tiếp duyên nhưng mà họ hỏi thì trả lời chứ không có gì. Đó là cái lối tiếp duyên làm công việc này kia là giai đoạn thứ hai của nó rồi.
Còn giai đoạn đầu được nghe pháp, được nghe băng đủ thứ là giai đoạn đầu của độc cư mà không có nói chuyện phiếm, chuyện đời. Gặp nhau thì gặp chứ có chuyện gì cần thiết để hỏi thì hỏi chứ không có nói chuyện bậy, rồi thôi. Hỏi chuyện Đạo thì được ở giai đoạn đầu vì mình đọc chỗ nào không hiểu thì mình hỏi người ta. Coi xem sự hiểu của người ta như thế nào để đóng góp thêm vào sự hiểu của mình về phương pháp sau này mình tu. Khi giai đoạn đầu qua giai đoạn thứ hai, rồi qua giai đoạn thứ ba là hoàn toàn pháp Hướng nó dính với mình rồi, nó có lực nó làm cho mình tỉnh giác rồi. Còn bây giờ lúc quên, lúc nhớ thì không được, mình không khép chặt mình nữa bởi vì cái Pháp không dính chặt với mình mà nó dính với pháp thế gian, lúc tâm này, lúc tâm kia.
Cho nên bốn mươi hai cái bài kệ độc cư của Phật - là bốn mươi hai bài kệ Con Tê Ngưu Một Sừng - mục đích là chúng ta ngồi lại quan sát cái tâm độc cư hay là không độc cư. Coi tâm chứ không phải coi thân. Nhiều khi cái thân mình độc cư mà tâm không độc cư. Người ta sợ cái tâm. Con Tê giác có nghĩa là cái tâm độc cư như con tê giác chứ không phải con Tê Giác độc cư.
Sư Tuệ Tĩnh: Như con Tê Giác một mình ra đi..Cái bài Kinh nó được hai thứ.
Trưởng Lão: Đó nó phải vậy đó, độc cư theo kiểu con Tê Giác.
(12:25) Sư Phước Nhẫn: Thầy giảng cho con cái bài Tứ Chánh Cần được không Thầy?
Trưởng Lão: Bài Tứ Chánh Cần là bài cần thiết lắm.
Sư Phước Nhẫn: Dạ, dạ. Con thấy cái bài đó cũng cần lắm thưa Thầy.
Trưởng lão: Cái bài Tứ Chánh Cần. Còn cái Thất Giác Chi là sau khi Tứ Chánh Cần xong rồi mới thực hiện Thất Giác Chi để mà dùng cái pháp Như Lý Tác Ý. Trạch Pháp Giác Chi để mình trạch cái câu cho nó đúng cái tâm trạng, đúng với cái đặc tướng của mình. Để mình dùng nó trở thành cái dẫn tâm đi vào cái đó, nó sau này.
Còn hiện bây giờ cái tâm của mình nó còn lộn xộn quá đi, cho nên mình phải biết "Ngăn ác diệt ác" trước, cho nên Tứ Chánh Cần trước. Nó phải biết cái pháp tu nào trước, tu nào sau, chứ không phải đồng thời tu nhiều pháp một lượt được.
Sư Phước Nhẫn: Dạ con cũng thấy vậy thưa Thầy. Như vậy Tứ Chánh Cần trong đó nói những gì thưa Thầy?
Trưởng Lão: Tứ Chánh Cần thì nó "Ngăn ác - Diệt ác - Sanh thiện - Tăng trưởng thiện". Bốn cái Ngăn ác này, rồi Diệt ác này, rồi Sanh thiện rồi Tăng trưởng thiện.
Nghĩa là bây giờ đó thí dụ như mình ngăn cái ác, thì nó là sanh thiện ở tại chỗ ác; ác không ác là có thiện rồi. Hiểu cái trạng thái thiện là nó không có khởi nghĩ một cái gì mà ác hết thì nó là thiện. Cho nên khi mình kéo dài ra, kéo dài cái trạng thái đó, đó tăng là tăng trưởng thiện.
Chứ không phải mình đi làm việc từ thiện, rồi mình đem tiền cho nhiều đó gọi là tăng trưởng thiện, không phải như vậy. Mà tăng trưởng thiện là tăng trưởng cái trạng thái tâm của mình ở trong cái không có cái niệm ác. Nó kéo dài vậy đó là tăng trưởng.
Mình khởi ngăn cái ác, mình không cho niệm ác xen vô đầu mình thì đó là mình sanh thiện. Mình kéo dài cái thời gian đó ra là tăng trưởng thiện. Mình kéo dài chừng nào là tăng trưởng cao chừng ấy. Hiểu như vậy.
Còn cái Diệt ác thì khi có một niệm ác đến thì phải quán xét tư duy để xả cái niệm đó, gọi là diệt ác. Còn không có thì ngăn nó, đừng cho nó vô thì nó ở trong cái pháp.
(14:24) Tuy rằng Tứ Chánh Cần nó chỉ định như vậy nhưng mà nó không có pháp hành, cho nên phải đi trở lại cái Tứ Niệm Xứ. Cho nên trong Tứ Niệm Xứ nó có bốn cái chỗ để mà thực hiện Tứ Chánh Cần là Thân-Thọ-Tâm-Pháp (Dạ). Chỉ có ở trên Tứ Chánh Cần nó mới có bốn cái chỗ để mình thực hiện cái "Ngăn ác - Diệt ác". Cho nên trên Tứ Niệm Xứ thì đức Phật nói: "Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu".
Tham là cái lòng ham muốn của mình, ưu là phiền não đau khổ, là ác pháp. Tức là tham ưu là dục với ác pháp, chứ không có gì hết. Cho nên muốn "Ly dục ly ác pháp" thì phải ở trên Tứ Chánh Cần mà thực hiện. Mà muốn Tứ Chánh Cần thực hiện thì phải ở trên Tứ Niệm Xứ mà thực hiện nó là Thân-Thọ-Tâm-Pháp.
Vậy thì Thân-Thọ-Tâm-Pháp, thì trong thân nó có ba tướng của nó: Nhân tướng, Đặc tướng và Hành tướng. Mà ở trong bốn chỗ này thì cái nào nó cũng có ba cái tướng của nó. Thân có ba tướng, Thọ có ba tướng, Tâm có ba tướng và Pháp cũng có ba tướng. Cho nên vì vậy đó, thì mình thực hiện.
Nếu mình ở "Trên thân quán thân" mà tu về Hành tướng thì cái hơi thở động dụng ở bên trong gọi là Hành tướng nội. Mà nếu mình thực hiện Hành tướng ngoại là mình đi kinh hành, ăn cơm, mặc y, mang bát… Đó là Hành tướng ngoại. Nếu mà tu về Hành tướng thì nương vào cái hành động đó mình thực hiện nó, để vừa cũng như mình vừa hít thở thì mình vừa quán ly tham, quán ly sân, si để mà xả cái tâm, để "khắc phục tham ưu" mà. Mà hễ nó có một cái niệm gì thì nó thuộc về tâm.
(16:30) Mà nó có cái thân, ở trên thân của mình nó quán bất tịnh, hay quán vô ngã này kia thì đó là mình ở trên thân mình quán. Nương vào cái động của cái thân mà quán để xả tham ưu của nó ra thì đó gọi là "Ngăn ác, - Diệt ác". Thì cái pháp mà nương vào hơi thở là pháp Ngăn Ác, chứ không phải Diệt Ác. Bởi vì mình nương hơi thở thì nó không có niệm xen vô.
Đồng thời thì mình dùng Pháp Hướng Như Lý Tác Ý mình quán, mình xả, như quán ly tham, quán ly sân, quán vô ngã. Như trong kinh Định Niệm Hơi Thở thì đức Phật dạy "Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra". Đó là cái chỗ mà đức Phật dạy để vừa nương vào hơi thở mà vừa xả tâm mình. Thì tức là mình vừa xả như vậy, tức là mình ngăn ác, không có cho ác pháp xen vô.
Mình đi kinh hành tức là Chánh Niệm Tỉnh Giác, thì tức là nương vào hành động ngoại. Còn cái kia là nương vào hành động nội, nội thân của mình; ngoại mình là đi kinh hành. Thường thường người ta hiểu lầm, chỉ nghe bài kinh Phật nói "Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra". Thì họ cứ nghĩ rằng trong cái Định Niệm Hơi Thở, thì mình dùng cái này mình quán, mình đọc những cái câu đó hoài như vậy, để tới chừng hết cái thời mình xả ra. Không phải. Đi kinh hành cũng xả bằng cách đó: "Quán ly tham tôi biết tôi đi kinh hành, quán ly tham tôi biết tôi đi kinh hành". Cũng là dùng y như vậy để mà vừa đi mà vừa xả, tức là hành động nội và hành động ngoại.
(18:01) Rồi bắt đầu bây giờ có một niệm nào đó hay hoặc cái thân đang bị đau nhức, thì mình không có tu ở trong hành động nội, ngoại nữa mà ngay trên Thọ mà tu, bởi vì Thân-Thọ-Tâm-Pháp. Bây giờ cái thọ của mình bị nhức bị đau gì đó, mình mới dùng nó mổ xẻ ra, mình quán xét để làm cho cái cảm giác này đau nó mất đi, xả đi, nó không còn đau chỗ này nữa.
Như mình đang nhức cái đầu này, mình ngồi tu khó chịu quá. Thì mình mới quán xét cái thọ này nó không có từ đâu đến, nó là vô thường rồi. Tại vì cái nhân quả của nó như vậy là như vậy, cho nên tâm đừng có động. Mình muốn vậy thì mình nhắc nó, rồi mình trụ vào cái hơi thở. Thì khi mình trụ vào hơi thở thì nó sẽ quên cái đau này nè, cái đau nó mất đi, chớ nó không gì hết.
Cũng như Sư nhận xét khi mình đi kinh hành, mình vừa đi mình vừa biết hơi thở, thì cái tâm mình nó đã bám hai chỗ. Cũng như bây giờ mình đang tu, mà cái tâm mình nó sẽ bám vào cái thọ của mình đang đau cánh tay, mà nó vẫn biết hơi thở. Mà nếu cái đau này nó mạnh hơn thì cái hơi thở một lát nó bị mất, mà nó chỉ còn biết cái đau. Còn khi mà mình bám chặt trong hơi thở thì cái đau này sẽ mất.
Do mình muốn gom tâm vào trong cái hơi thở để phá đi cái thọ này, thì trước đó mình sẽ hướng tâm, mình nói "Thọ là vô thường, hãy rời khỏi cái tâm này đi, nghiệp này phải bị tiêu diệt". Mình ra lệnh như vậy. Bởi mình ra lệnh như vậy nó có cái lực của tâm, làm cho tâm không dao động. Nó Bất Động Tâm Định mà, nó làm cho cái tâm mình không có sợ cái này nữa.
Do đó đó mình mới bám vô hơi thở thì mình hít thở một hơi thở chậm..chậm..chậm..nhẹ nhẹ..nhẹ để cho nó gom thật chặt, mà hễ nó gom thật chặt rồi thì nó không cảm giác đau.
Mà nó không cảm giác đau thì bắt đầu mình thở lại. Không phải là mình cứ thở hoài hơi thở chậm đó đâu. Mình thở hoài là nó mệt, nó làm cho rối loạn, nó gây thêm khổ sở cho mình nữa. Mình chỉ thở một hơi thở gom cho chặt cái mình buông ra. Thì cái tâm mình nó bám chặt ở trong đó rồi thì nó không lưu ý đến cái này nữa. Thì ngay cái chỗ này nó sẽ phục hồi trở lại, nó không còn đau nữa, một lúc sau mình xả thiền thấy hết đau luôn.
(20:07) Cái phương pháp người ta trị bệnh mà, trị cái đau nhức mà. Bởi vì làm chủ bệnh mà, cách thức đó mà phải hướng tâm nhắc trước để cho cái tâm nó vững vàng, nó không sợ cái này nữa. Chứ không, nó đau nhức nó sợ lắm. Đó là cách thức làm cho cái tâm nó bất động.
Mà khi tập luyện, một thời gian tập luyện nó có đủ cái lực rồi, nó bất động dễ lắm. Cho nên nó không sợ nữa, không sợ đau, không sợ chết nữa. Do đó nó gom tâm vô trong cái hơi thở được rồi, hay hoặc gom tâm ở trong một cái Định rồi, thì cái này nó mất tiêu. Ví dụ như mình đã có được cái Định Nhị Thiền thì mình chỉ ra lệnh "Tầm Tứ phải tịnh chỉ, ngưng" thì ngay đó cái Thọ này mất rồi, nó không còn đau nữa. Làm chủ được bệnh mà.
Sư Phước Nhẫn: Mới cái thứ hai mà hay như vậy…
Trưởng Lão: Bởi vì nó không tác ý ra được mà làm sao nó đau? Bởi vì nó làm chủ cái già được mà, nó không thay đổi con người của mình, nó không già nữa. Thí dụ như Thầy với Sư là trong cái tuổi này nó già vậy mà mình nhập vô Nhị Thiền rồi, diệt Tầm Tứ rồi, nó không hoạt động nữa, rồi cái thân nó không thay đổi nữa.
Sư Phước Nhẫn: Nó giữ nguyên đó…
Trưởng lão: Nó giữ nguyên cái mực độ đó, nó không già đâu.
Sư Phước Nhẫn: Rồi đến khi mình xả thiền ra nó tiếp tục già?
Trưởng Lão: Nó tiếp tục già, bởi vì nó hoạt động trở lại. Tức là nó hoạt động theo cái tư duy của mình, thì nó thay đổi. Bởi Luật Nhân Quả nó vậy, mà nó ngưng hoạt động thì Luật Nhân Quả không thay đổi được nữa, nó đứng chững lại liền. Cho nên mình làm chủ ngay cái Luật Nhân Quả liền cho nên cái Lão nó mất, làm chủ được cái Già liền. Nhưng mà mình biết cái thân mình là thân vô thường, cái thân những cái chất nó hợp lại, nó không có quý, cho nên ai giữ nó làm gì.
Sư Phước Nhẫn: Lúc nào cần thì thôi đi đi…
Trưởng Lão: Đi bỏ nó, ai để làm chi cái đồ quỷ này, nó là duyên hợp. Các pháp duyên hợp, chứ nó đâu có cái gì mà trường tồn đâu mà giữ. Nhưng mà cái pháp của nó làm chủ được như vậy đấy. Bốn Thiền của Phật tuyệt vời vậy đó.
Sư Phước Nhẫn: Dạ, hay quá chừng!
(22:22) Trưởng Lão: Khi mà mình đang đi kinh hành, mình có một niệm khởi. Mình đem cái niệm khởi đó, mình mổ xẻ liền, đừng để cho nó dẫn mình. Nó dẫn mình tức là phóng dật.
Sư Tuệ Tĩnh: Mình dùng cái phương thức nào?
Trưởng Lão: Bây giờ mình mới đem cái niệm đó, mình cũng vừa đi. Lấy cái trạng thái đi để mà tỉnh thức đó, để mà mổ xẻ nó, nó mới có cái quán sát mới sâu ở trong cái niệm đó. Thứ nhất mình dựng nó lên, mình mới hỏi cái niệm này nó thuộc về Dục lậu, Hữu lậu, Vô Minh lậu, nó thuộc về lậu nào? Bây giờ mình đã thấy nó ở trong Dục lậu. Dục lậu tức là cái lòng ham muốn của mình.
Mà hữu lậu là cái có. Bây giờ mình nhớ cái nhà của mình, nhớ những người có, thì đó là Hữu lậu.
Còn Vô Minh lậu là cái mình không hiểu. Bây giờ nó khởi lên một câu pháp nào đó mà mình không hiểu để mình truy tìm, đây là Vô Minh lậu. Tại vì không hiểu, mà nó khởi nên cái niệm này, hoặc là mình khởi lên cái niệm này, mình thấy cái nghĩa lý này nó hay quá, coi chừng nó vô minh. Mình đặt nó, đây là chỗ này chỗ tìm hiểu sự tìm hiểu tức là Minh hay là Vô minh hay thôi.
Sư Tuệ Tĩnh: Các pháp phải vậy.
Trưởng Lão: Đó vậy đó. Do đó mình mới quán xét cái này, mình tư duy cái này, mình mới thấy cái này nó đúng thiện hay là ác. Nếu mà cái niệm vô mình này nó ở trong Vô Minh thì mình mới đem cái Nhân Quả, mình quán xét cái niệm này, nó thuộc về Nhân Quả nào? Nó ác thì nó là Vô Minh, mà nó thiện thì nó là Minh. Bởi vì nó thiện, nó đưa mình con đường giải thoát mà, nó Minh. Còn nó ác là Vô Minh. Mà nó ác thì dẹp "Mày là Vô minh, đi đi". Như vậy là mình Minh, mình mới biết nó ác. Mà Minh, mình mới biết nó thiện. Như vậy rõ ràng là hễ khi mình quán xét Nhân Quả, mình biết ác hay thiện thì đó là Minh rồi. Hiểu Thầy muốn nói không?
Bây giờ nó là Hữu lậu. Đã nói Hữu lậu là một vật đã có, cái có sẵn mà mình lại nhớ lại nó. Bây giờ mình có cuốn sách, hay hoặc mình có một tủ Kinh sách. Mình ngồi đây bỗng nhớ cái tủ Kinh sách:
“Không biết ở Chùa mấy thầy có chăm sóc giùm hay mối ăn hết?”
“Như vậy là trật! Như vậy cái này là Hữu lậu. Vật có để làm cho mình còn lậu hoặc, còn lo lắng nó đây. Xả bỏ! Nhất định là không chấp nhận cái Hữu lậu”.
Như vậy là khi mình lý luận, mình không chấp nhận. Vì mình còn sống mình giữ gìn nó, mình chết cái tủ sách này ai giữ cho? Hay hoặc là lửa cháy hay nước trôi ai mà cõng vác nó đây? Bây giờ tôi chỉ có giải thoát, chớ không chấp nhận các kinh sách này. Do cái lý luận này, thì cái Hữu lậu này bị phá đi. Lậu hoặc nó không còn có nữa.
(24:57) Bây giờ Dục lậu là khởi tâm muốn cái này kia. Chưa có mình muốn nó là Dục lậu, nó khởi muốn thì đó là Dục lậu. Cho nên khi mà thấy cái lòng này ham muốn thì trật rồi. Hễ nó còn ham muốn cái gì thì không được.
Cho nên ở cái chỗ Vô Minh thì đem Nhân Quả. Những cái Hữu Lậu thì đem cái chỗ mà vô thường, khổ. "Tất cả các pháp là vô thường mà, cho nên nó phải khổ thôi". Vì vậy có của là có khổ, cho nên nó là Hữu lậu thì mình đem thấy những cái vô thường. Còn nó Dục lậu thì mình thấy tâm dục là nguyên nhân đau khổ của con người. Do đó mình quán xét mình thấy thì nó xả hết, thì coi như mình thành công.
Bởi vì phải lấy ba cái Lậu hoặc này, Dục lậu, Hữu lậu, Vô Minh lậu này, mình mới dựng nó lên. Mình mới tìm cái niệm đó nó nằm ở trong nào. Rồi từng đó cái chỗ nào mà nó Nhân Quả, mà cái nào nó là vô thường các pháp, mà cái nào nó là nguyên nhân sinh ra đau khổ. Mình thấu suốt được ba cái lý này thì con người "Vô thường - Khổ - Không - Vô ngã” mà. Tùy theo những cái bài học, bài pháp của mình thì từ đó mình quán xét dựa theo cái lý của Phật đã dạy, thì mình quán xét mình xả. Rồi mình dựa theo cái lý Nhân Duyên nữa. Coi những cái Hữu lậu, Vô Minh lậu này nó nằm ở trong cái duyên nào? Bởi vì "Thập nhị Nhân Duyên", mình quán lý Nhân Duyên để mình phá tiêu nó ra, thì như vậy là mình tu Định Vô Lậu. Đủ rồi. Đừng có mà nó hiện đến cái mình cứ lo đuổi nó đi. Không! Đem mổ xẻ ra, tu Định Vô Lậu liền.
Sư Tuệ Tĩnh: Như vậy nó mới hết.
Trưởng Lão: Nó mới hết. Bởi vì mình thấu triệt và gạt trước lúc mình cứ như vậy. Rồi niệm nó khởi lên, nó thường xuyên nó khởi lên. Mình cứ thấy như vậy, thấy riết, nó riết nó thấm nhuần được những cái quán xét đó. Vừa chớp là mình đã hiểu nó rồi, cái nó đi mất.
Sư Tuệ Tĩnh: ( … )
Trưởng lão: Nó diệt các ác pháp đó. Bởi vì ngăn ác là mình giữ mình đi, nó không có khởi niệm là ngăn ác rồi đó. Mà giờ nó vừa khởi niệm là ngay đó là mình quán xét, mình diệt ác, "Ngăn ác - Diệt ác" mà. Mà hễ "Ngăn ác - Diệt ác" được thì tức là nó "Sanh thiện - Tăng trưởng thiện", là giải thoát. Đó là mình đi trên cái lộ trình của thiện, không đi trên lộ trình của ác.
(27:51) Sư Tuệ Tĩnh: Xin Thầy giảng rõ về kỹ thuật hướng tâm như thế nào cho có kết quả mau.
Trưởng Lão: Khi hướng tâm mà có kết quả đó, thì khi cái tâm nó vừa yên lặng, khi mình ngồi mình nghe thân-tâm của mình nó yên lặng, nó an ổn đó. Bây giờ mình hít thở mình biết hơi thở ra, vô mà cái thân-tâm an ổn. Chớ còn nó còn đang có vọng tưởng hay là nó còn hôn trầm, nó còn lừ đừ buồn ngủ đồ gì đó, thì hướng tâm không có kết quả đâu.
Nó cho tỉnh táo, cho tỉnh giác thì mới hướng tâm nó mới có hiệu quả. Như Lý Tác Ý mà. Thì cứ nhớ khi nào mình cứ hít thở, mình nghe nó yên ổn, cái tâm nó lặng lẽ. Lúc nó thanh tịnh thì hướng tâm có hiệu quả ở chỗ thanh tịnh đó. Cái lực nó có ở ngay chỗ đó.
Còn bây giờ mình cũng hướng mà mình chưa có quan sát được thân-tâm mình yên lặng, mà mình cứ độ chừng năm mười hơi thở mình hướng thì nó không có hiệu quả. Lưu ý cái phần này. Bởi vì khi mình thấy thân-tâm mình yên ổn được rồi mới bắt đầu mới bảo nó.
Mặc dù bây giờ nó chưa có phải là cái tâm mình nó hết phóng dật. Bởi vì nó hết phóng dật là mình "Ly dục ly ác pháp" rồi, thì tự nó quay vô với hơi thở, tức là nó định trên thân. Cho nên đức Phật nói "Tâm định trên thân" tức là nó định trên hơi thở. Thân Hành Niệm nội là hơi thở nó định vậy đó.
Còn nếu mà nó chưa định, nó còn phóng thì bây giờ mình ép buộc nó, nó chỉ có thời gian nào đó nó chịu đựng đó thôi. Chứ hễ xả ra thì nó bung, nó đi tùm lum hết. Nếu mà nó chịu quay vô, không phóng dật, tức là nó định trên thân, định ngay trên hơi thở.
Chú ý nếu mà hướng tâm tâm bảo: "Tâm ly dục ly ác pháp đi", nhưng nó chưa đâu, nó chưa có quay vô đâu. Nhưng mà mình cứ mình bảo hoài riết, nó đi. Mà khi cái tâm mình giữ yên lặng, tức là tỉnh thức đó. Tỉnh thức, đừng có tĩnh lặng mà tỉnh thức. Tỉnh thức thì được, mà tĩnh lặng thì không được. Tĩnh lặng nó làm cho mình có cái trạng thái hỷ lạc, nó lặng thì không được, không tốt, nó đi chỗ khác rồi. Thì lúc bấy giờ đó, hễ mình hướng tác ý thì nó mất cái sự tĩnh lặng đó đi, nó làm cho mình thấy nó bực.
Cho nên lưu ý cái phần này để cái Pháp Hướng nó hiệu quả. Vì vốn mình luyện cái Pháp Hướng để cho có cái lực điều khiển, sau này mình vào Định nó dễ dàng hơn.
(30:22) Bây giờ ví dụ như mình ngồi, mình không hít thở mình cứ để tự nhiên cái tâm của mình. Mà mình nghe thân-tâm an ổn thì hướng tâm có hiệu quả, chứ đừng nói chi là mình nương hơi thở. Còn mình nương hơi thở là tại vì nó nương hơi thở là nó giúp cho mình sự tĩnh lặng dễ hơn. Mình biết thân - tâm mình rõ ràng là yên lặng tốt đó là dùng hướng tâm. Phải kỹ chỗ đó, chứ không khéo mình hướng mình cũng như mình niệm thì nó động.
Sư Tuệ Tĩnh: Bởi vì mấy nay con thấy nó không có hiệu quả nhiều, con mới hỏi kỹ Thầy, cũng như mình tụng kinh thì nó không có kết quả.
Trưởng lão: Phải để đợi cho cái tâm nó yên lặng. Mà bây giờ mình ngồi chơi hay ngồi tu hay đi kinh hành, mình đi mình cũng lắng nghe thân-tâm nó theo cái nhịp bước đi mà nó yên lặng thì mình hướng tâm có kết quả.
Mà hễ nó còn phóng tâm, nó còn phóng dật, nó nghĩ ngợi nó còn này kia thì nó. Mà đi mà nó còn có chú tâm bên này, bên kia, nó còn lăng xăng, mình ráng cố gắng mình ức chế cho nó theo cái bước đi của mình, cố kềm nó thì nó còn chậm lắm.
Chừng nào mình nghe nó yên lặng, nó có dụng công nhiều thì nó tốt. Đó là chỗ khéo léo lắm chớ không phải không. Mình coi vậy dụng riết là mình niệm không với mình tụng thôi. Cho nên nhiều khi mình lưu ý thà là mình tu ít mà kết quả rất lớn, hiệu quả rất lớn. Còn mình tu rất nhiều mà thành ra như người "gõ mõ tụng kinh". Như người niệm Phật tụng kinh không, không có kết quả, vì cái tâm nó còn động, nó chưa có chịu tỉnh giác.
Phần nhiều là khi mình nhập thất mình tu một thời gian thì tâm nó yên tịnh nhiều. Cho nên lúc bây giờ như thế này, mình chú ý nhìn hơi thở thì nghe một lúc tự nhiên cái tâm bám vô hơi thở, lúc bấy giờ thấy thân-tâm yên lặng thì bắt đầu hướng. Tu lâu rồi mình quen, mình biết chừng nó, cái đó là mình dùng pháp hướng để mình xả. Còn cái kia thì yên lặng như vậy, nó nhớ Như lý tác ý nó khác mà Tác Ý nó khác.
(32:58) Trưởng lão: Cái Như Lý Tác Ý nó khác.
Cái Như Lý Tác Ý là cái Pháp Hướng. Còn Tác Ý để mình quán xét một cái gì đó, thì cái đó là tu về quán Vô Lậu, tức là mình tác ý ra rồi mình tư duy.
Còn Như Lý Tác Ý, như cái lý đó mình tác ý, tức là mình hướng tâm mình ám thị, không có tư duy.
Cho nên ví dụ như trong cái câu, cái mười sáu đề mục mà Định Niệm Hơi Thở, thì đức Phật dạy: "Quán ly tham tôi biết tôi hít vô". Thì chữ "Quán ly tham tôi biết tôi hít vô" đó, thì nó là Như Lý Tác Ý, chứ không phải mình quán. Bởi vì mình quán như vậy, cái thời gian mà với một cái hơi thở hít vô, hít ra mà mình quán, quán thì nó phải có sự tư duy nó dài, thì đó là tác ý quán, chứ còn không phải là Như Lý Tác Ý. Phải hiểu ý mấy cái chỗ đó, chứ không nó trật đó.
(33:53) Sư Tuệ Tĩnh: Mười sáu cái đề mục toàn là như lý hết thưa Thầy?
Trưởng Lão: Như lý hết. Bởi vì nó theo cái nhịp hơi thở mà nó Như Lý mình Tác Ý ra.
Sư Tuệ Tĩnh: Bao nhiêu ông Thiền sư, bao nhiêu ông giảng sư giảng khác cái này hết trơn hết trọi.
Trưởng Lão: Bởi vậy mới chết nó trật. Bởi vậy qua kinh nghiệm rồi mới thấy được lời của Phật dạy. Chữ với nghĩa. Cái nghĩa thì nó vô hạn, mà cái chữ thì nó hữu hạn. Cái ngôn ngữ thì nó hữu hạn, mà cái nghĩa thì vô hạn. Cho nên cái nghĩa thì vô hạn, cho nên người ta hiểu vầy, người ta hiểu khác, đủ thứ hết. Còn cái chữ thì nó chết đứng đó. Ví dụ như nói Tác Ý, Như Lý Tác Ý thì nó đứng đó vậy thôi, mà cái hiểu làm sao cho trúng, bởi vì nó vô hạn. Mình hiểu tùm lum đủ thứ, thành ra trật. Có khi Phật nói “tác ý”, mà có lúc Phật nói “như lý tác ý”, hai cái khác nhau, không phải giống nhau.
Mà Như Lý Tác Ý như thế nào? Mà Tác Ý thì như thế nào? Nếu không trải qua kinh nghiệm thì chắc chắn chỉ nằm trong chữ nghĩa. Cho nên cái Như Lý Tác Ý là phải đợi cái tâm mình thanh tịnh mới tác ý, tâm chưa thanh tịnh thì chưa cần.
Cho nên mình thấy người ta dạy mình ám thị, phải không? Nhưng mà có người ám thị thì có hiệu quả, mà có người ám thị không hiệu quả. Ai cũng biết nhưng có người ám thị không hiệu quả. Quan trọng là ở chỗ tâm yên lặng hay không yên lặng, chỗ tâm thanh tịnh hay chưa thanh tịnh. Cho nên có nhiều người nghe pháp Như Lý Tác Ý, rồi mình làm cái gì mình cũng tác ý ra, nhưng mà cái tâm mình nó chưa yên tịnh thì nói sao tôi tu hoài?
Mà chờ cho được cái tâm yên tịnh thì tác ý nó hiệu quả. Mà trong một ngày nhiều khi nó chưa thanh tịnh một lần, thành ra mình cứ tụng với niệm không à. Cho nên vì vậy mình khép mình ở trong khuôn viên độc cư, mình sống trầm lặng một mình. Cho nên Phật mới ca ngợi ưa thích trầm lặng, ca ngợi sự trầm lặng, ưa thích sự trầm lặng.
Thì mình sống ở trong một khuôn viên mình yên lặng rồi, thì bắt đầu tâm mình nó tuôn trào. Thì bắt đầu mình dùng Pháp Quán. Quán để xả những cái niệm. Khi mà cái niệm thương, niệm nhớ, cái niệm tham-sân-si, cái nghịch.
Mình phải phân biệt cái này nữa, nó có cái nhân quả nghịch và cái nhân quả thuận. Ví dụ như tình thương của mình thương người thân của mình đó là nhân quả thuận. Còn người ta chửi mắng mình, người ta làm cho mình khổ, giận hờn phiền não đó là nhân quả nghịch. Hai cái nghịch-thuận. Cũng như bây giờ con cái hay cha mẹ mình đó là nhân quả thuận, phải trả nhân quả bằng cách thuận. Còn những cái mà làm đau khổ, giận hờn, tức giận là nhân quả nghịch. Cái nghịch thì dễ xả, cái thuận thì khó xả. Cái thương khó xả, mà cái ghét dễ xả. Khi so sánh được các pháp Ác này, nó đều là pháp Ác hết chứ không phải pháp Thiện đâu. Thương cũng là pháp Ác vì trong đó có khổ. Cho nên phước Vô lậu và phước Hữu lậu, cái phước Vô lậu thì nó hết khổ. Người có phước Hữu lậu là có khổ. Mặc dù có phước giàu sang như vua chúa, nhưng vẫn khổ, bởi vì nó Hữu lậu, nó có cái lậu. Mà nói đến lậu hoặc tức là nói khổ.
(37:57) Cho nên khi mình tu mà tâm nó còn lậu hoặc thì hướng tâm không hiệu quả. Khi tâm yên lặng, thanh tịnh thì lúc bấy giờ dùng pháp hướng thì nó tốt.
Nhưng mà khi mà tâm chưa yên lặng thì dùng pháp tác ý thì tốt. Vì nó còn động mình phải tác ý thì nó tốt. Chẳng hạn như đề mục thứ nhất của Định Niệm Hơi Thở "hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra" hay là "an tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Đó là những cái để nhắc cho nó được sự yên lặng, tỉnh giác.
Nếu mình không nhắc thì nó sẽ không tỉnh giác. Mình nhắc cho nó tỉnh giác. Tỉnh giác rồi mình mới quán ly tham, quán ly sân, quán ly si, quán vô ngã. Phải hiểu mười sáu đề mục của Phật. Bao giờ mới vô mà đức Phật dạy mình quán ly tham, ly sân, ly si đâu. Có tới mười sáu đề mục mà, vô đó thì nhắc cho mình để trụ trong hơi thở cho nó yên lặng. Nó an tịnh thân hành, an tịnh tâm hành. A, an ổn hết rồi thì mới ly tham, ly sân, ly si. Đọc bài kinh rồi mình thấy có pháp hành rõ ràng, có kinh nghiệm đàng hoàng, chớ không phải thiếu kinh nghiệm đâu. Cho nên phải tỉnh thức rồi mới Như Lý Tác Ý. Còn lúc đầu nó chưa thì tác ý đó. Những câu đầu cũng là Pháp Hướng, nhưng mà tác ý. Tác ý rồi quan sát, quán xem coi như thế nào. Coi như là quán xét nó đó.
Còn khi nó yên tịnh rồi thì Như Lý Tác Ý đó, coi như là "Quán ly tham" thì không có quan sát nữa. Bởi vì tâm mình đâu còn tham mà quan sát nữa. Mà chỉ đuổi nó ra thôi. Nó yên tịnh rồi, đuổi ra. Còn cái kia mình "Quán ly tham, quán ly sân, quán si" thì đó là đuổi. Còn "An tịnh tâm hành, an tịnh thân hành" là hướng tâm tác ý ra, rồi quan sát coi nó yên tịnh chưa, nó thanh tịnh chưa? Nó thanh tịnh rồi mới yên tâm, mới khắc phục tham, sân, si. Cách thức là như vậy, mà mình không hiểu thì coi như là mình cứ niệm.
Cho nên khi mà hướng tâm thì mình quan sát lại coi cái hơi thở của mình, coi nó mình biết hơi thở không? Mình nhớ mình biết hơi thở hay còn tạp niệm, hay còn vô ký? Nếu mà còn tạp niệm, còn vô ký thì phải nhắc nó: "Tôi thở vô tôi biết tôi hít vô, tôi thở ra tôi biết tôi thở ra" để cho nó tập trung trong hơi thở.
(40:33 Trưởng Lão: Mà nếu bây giờ nó yên rồi, đã thanh tịnh rồi, mà mình cứ để cho nó tự biết hơi thở ra vô thì giống như Tùy tức, nó không phải là Định Niệm Hơi Thở nữa. Nếu mà mình đi vào con đường của Tổ Lục Diệu Pháp Môn thì đó là Sổ - Tùy rồi. Hồi nãy mình nhắc: "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra" dường như là mình Sổ rồi, cũng vậy phải không? Khi mà nó biết hơi thở ra vô mà mình không cần nhắc nữa, thì tức là mình bỏ cái nhắc, tức là mình Tùy rồi, thì như là Lục Diệu Pháp Môn rồi, trật rồi không đúng.
Cho nên đức Phật thấy khi mà mình nhắc nó, tức là như là Sổ để cho tâm nó gom vô, đừng có chạy lăng xăng nữa, đừng có phóng bậy bạ nữa. Khi nó chịu gom rồi, yên tịnh rồi thì không Tùy tức mà lại "Quán ly tham, quán ly sân, quán ly si". Thấy rõ không? Nó đâu có để mà nó yên lặng ở trong Tùy tức đâu? Nếu mà nó Tùy tức thì nó là Chỉ. "Sổ-Tùy-Chỉ", nó đi đến cái “chỉ”, chỉ là nó ngưng ý thức. Mà ngưng ý thức thì tưởng thức hoạt động sanh ra trạng thái Xúc Tưởng Hỷ Lạc, hay là Sắc Tưởng, hay là Thinh Tưởng, sanh ra nó trật đường rồi. Đức Phật biết chỗ này cho nên lái cho mình qua chỗ Xả, không để mình rớt chỗ này.
Đọc bài Kinh mười sáu đề mục của Định Niệm Hơi Thở, mình thấy đức Phật dạy có kinh nghiệm hẳn hòi. Vì người sau này không có kinh nghiệm mới rơi vào Lục Diệu Pháp Môn, mới đẻ ra Lục Diệu Pháp Môn, rồi từ chỗ Định Niệm Hơi Thở mới trở thành Quán Niệm Hơi Thở. Thí dụ như mình không biết, mình dùng như Thiền Minh Sát Tuệ, nó dùng cơ bụng để phình sọp để tập trung. Tới chừng đó mình mới minh sát nè. Đợi cho yên rồi minh sát, mà không ngờ là nó không phải là minh sát mà trái lại là "Ly tham, ly sân" dùng Như Lý Tác Ý, để nhờ lực của Pháp Hướng, của sự ám thị của tâm. Để sau này dùng cái đó mà mình nhập các Định, tịnh chỉ Tầm-Tứ, tịnh chỉ hơi thở. Mình ra lệnh, chứ không phải là mình ở trong trạng thái đó rồi mình vô Định được đâu.
(42:59) Sư Tuệ Tĩnh: Thầy diễn tả câu "Quán ly tham tôi biết tôi thở vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra", lúc đó tình trạng mình cái tâm như thế nào thưa Thầy?
Trưởng Lão: Lúc bấy giờ tình trạng là khi đó cái tâm mình nó yên tịnh rồi. Yên tịnh tức là nó có lúc mà nó bám vô hơi thở nó thở ra, thở vô, nó tự biết, nó rất nhẹ nhàng. Nó tự biết rồi, thì lúc bấy giờ đó là "Quán ly tham, quán ly sân", tức là mình dùng Pháp Hướng để cho nó lìa tâm tham-sân-si của mình, tức là ngũ triền cái đó.
Sư Tuệ Tĩnh: Mình hướng làm sao thưa Thầy?
Trưởng Lão: À! Mình hướng, thí dụ như nó cái tâm yên lặng rồi: "Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra" y như cái câu. Còn không thì mình nói: "Tâm ly dục ly ác pháp đi đi, nhập Sơ Thiền". Mình ra lệnh nó vậy, cũng y như là "Quán ly tham, ly sân, ly si". Bởi vì dục, trong dục nó có tham-sân-si, cho nên mình mới bảo "Ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền". Cái câu đó là câu chuẩn nhất.
Sư Tuệ Tĩnh: Vậy là mình theo hơi thở cái mình tác ý "Ly tham đi, ly tham đi", tới mục sân thì mình: "Ly sân đi, ly sân đi", tới mục vô thường thì mình cũng tác ý "Vô thường"…
Trưởng Lão: Đó là mình như cái lý của nó mình tác ý, bảo nó phải vô thường. Nghĩa là mình chọn, Trạch pháp giác chi đó, chọn câu pháp nào cho đúng, cho hợp với đặc tướng của mình thì hướng có hiệu quả. Chẳng hạn nó có nhiều câu mình hướng mà không có hiệu quả thì mình thay đổi. Câu nào mình hướng thấy hiệu quả thì mình lấy câu đó làm chuẩn mình tu.
Sư Tuệ Tĩnh: Một câu mình thực hành bao lâu thưa Thầy?
Trưởng Lão: Thí dụ như mình thực mà mình thấy mình bảo nó. Ví dụ như bây giờ mình bảo: "Tâm ly dục ly ác pháp, nhập Sơ Thiền đi”. Mình bảo nó chừng năm, ba lần, hay mười lần. Trong khoảng thời gian mà tập, cái mình thấy nó vô Định thật, cảm thấy hỷ lạc đàng hoàng, rõ ràng. Rồi mình để yên lặng thử coi nó ở trong trạng thái đó bao lâu? Thấy nó kéo dài thời gian dài được năm mười phút, như vậy là được rồi. Do đó mình biết nó sẽ vô đó được rồi. Cái câu Pháp Hướng đó hiệu quả. Sau đó lấy câu đó mà nhắc nó vô Định. Lấy câu đó, chớ đừng lấy câu khác, câu khác nó không vô đâu. Như vậy đó, lưu ý cái chỗ cái câu mà trạch pháp.
Còn nếu câu đó mà một thời gian mình thấy nó không vô thì thay đổi. Cái người nào nó cũng có những cái duyên với cái câu đó. Tức là Thầy nói nó Đặc Tướng với cái tác ý đó.
Thí dụ như Thầy có Đặc Tướng với tác ý cái câu của mình. Thầy có đặc tướng là hai cái câu: “Tâm như đất” là câu thứ nhất mà Thầy tu. Câu thứ hai là Thầy nhớ lại trong khi đức Phật lúc nhỏ ổng nhớ câu: “Ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền" , Thầy lấy câu đó làm chuẩn Thầy tu.
Đầu tiên Thầy vô câu "Tâm như đất, không có tham-sân-si nữa, lìa hết đi". Thầy chỉ ra lệnh như vậy.
Trong thời gian đó Thầy thay đổi luân phiên "Tâm ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền". Thầy kêu cái tên của cái tâm: “Tâm ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền". Thầy cứ kêu cái tâm thôi, hễ tâm vừa nương hơi thở, thấy nó yên lặng. Thầy tu chín năm nên tâm dễ yên lặng lắm, vô cái yên lặng, hướng vô cái yên lặng. Tâm mà yên lặng được rồi thì hướng tâm có hiệu quả.
Còn cái tâm mình nó còn động nhiều quá, người mới tu coi vậy chứ lâu lắm. Thật sự ra nhờ Thầy tu pháp Tri Vọng chín năm trời, ba mươi phút không vọng tưởng, một giờ không vọng tưởng, ngồi đó yên lặng. (47:03)
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 14
KHAI THỊ VỀ CÁC KIẾT SỬ
VÀ TRIỀN CÁI
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [45:04]
Thời gian: 2002
Tên cũ: 07B-KhaiThiVeCacKietSuVaTrienCai
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-14-khai-thi-ve-cac-kiet-su-va-trien-cai.mp3
(00:00) Trưởng Lão: Thường thường nó an ổn lắm nhưng mà nó xảy ra những cái trạng thái tưởng đó, nó quá nhiều. Cho nên nó không có đi tới đâu. Sau đó dùng cái pháp hướng thành ra nó cứ yên lặng, rồi cái sốc động luôn, tác ý cái nó sốc động, nó không bị rơi trong đó. Rồi cái nó yên lặng lại liền, bị vì cái tâm mình nó không có chạy bậy bạ, nó yên lặng liền. Cứ phòng, mình cứ tác ý ra hoài. Sáu tháng sau mình ra lệnh nó vô định, nó đâu có gì. Tại vì cái tâm mình chưa có yên, cho nên mình hướng tâm không có.
Trực nhớ mình tu tập riết thời gian, bắt đầu đó mình cũng bền chí, mình tu tập cho nó tỉnh thức cái đã. Chớ đừng có vội, đừng có vội dùng cái pháp hướng. Mình cứ dùng cái pháp hướng: ”Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Nhắc để cho nó theo hơi thở cho biết đừng có tạp niệm. Khi mà mình nhắc mình thấy nó hết tạp niệm rồi thì mình thỉnh thoảng mình nhắc: “An tịnh thân hành, an tịnh tâm hành” cho thân tâm mình nó an tịnh thôi. Đó cứ như vậy thôi.
Mà khi mà thấy rõ ràng là nó an tịnh rồi mà khi mình hít thở. Thậm chí như Thầy còn dạy một cái câu hơi thở để mà gôm cái tâm lại nữa. Đó nhớ cái chỗ này, cái phần này nè. Bị vì tâm mình nó mới tu thì nó loạn. Nó chưa, với mình chưa có bao giờ mình khép mình ở trong cái khuôn viên mà độc cư trầm lặng. Thành ra nó hể mình khép vô đó thì bắt đầu nó tuôn trào. Nó tuôn trào nó nghĩ ngợi cái này kia. Ngồi lại cái bắt đầu yên lặng, cái thân nó vừa yên cái bắt đầu nó cứ phóng ra. Phóng ra nhiều lắm, chuyện này hết tới chuyện kia.
Cho nên vì vậy đó thì mình muốn mà cho nó nhiếp phục nó được thì mình nương vào cái hơi thở mình tác ý, mình nhắc nó, nó biết cái bắt đầu. Mình phải chủ động từ khi bắt đầu vô tu là chủ động không được để vọng tưởng. Chứ có vọng tưởng ra vô ra vô nó quen rồi nó cũng khó lắm. Chỉ có mình tu lâu rồi lần lượt nó thưa vậy chứ cũng không hết. Bằng không nó rơi vào trạng thái tưởng thì nó hết.
Bởi vì khi mình ngồi mà nó, mình không có chủ động điều khiển được nó, cho nên nó cứ ra vô. Mà khi tự động nó yên lặng, cái bắt đầu nó thấy nó bám vô hơi thở. Nó thở nó biết đều đều cái nó lặng vô trong tưởng thì nó hết vọng tưởng, nhưng mà nó rớt trong tưởng, thì nó không đúng. Còn mình điều khiển vô. Cho nên đức Phật dạy cách thức điều khiển: ”Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Hoặc là mình hướng tâm theo hơi thở ra vô y như vậy.
Ví dụ như hít vô thì mình đồng thời mình hướng tâm mình tác ý theo hơi thở mình hít vô. Và đồng thời mình tác ý theo hơi thở hít ra là người đó hơi thở phải chậm. Còn cái người mà hơi thở nhanh thì không kịp. Bị gì cái tác ý của mình với hơi thở nó không kịp, nó mệt. Còn nếu mà hơi thở mà người đó thở chậm đó thì tác ý nó kịp thì nó dễ lắm. Nhưng mà mình tác ý không kịp thì thôi, mình cứ tác ý theo tự nhiên nó. Mình nhắc nó cũng như mình nhắc chừng cho nó, mình biết hít vô hít ra mình đang thở vậy thôi để cho nó đừng có, nhưng mà mình mới đầu mình tu ít, đừng tu nhiều.
Ví dụ cái sức của mình cỡ tu chừng khoảng độ chừng một phút thì mình tu một phút, đừng có tu nhiều. Mình ngồi lại một phút mình tu, thì mình chủ động điều khiển cái hơi thở của mình nó không vọng tưởng rồi lần lượt mình tăng lên. Chứ còn mình đừng có, đừng có ngồi một lần mười phút, ba mươi phút thì nó có vọng tưởng, bị lâu quá nó mình không có đủ sức tỉnh thức nó. Mà hễ nó lâu quá thì một lúc có thời thì mình ngồi thấy nó không vọng tưởng, nhưng đó là nó vô chứ không phải là tự mình điều khiển vô. Mình làm sao mình chủ động mình điều khiển mình vô thì nó mới đúng. Cho nên nó sai chút là nó dậm chân tại chỗ mất đi.
(03:59) Sư Phước Nhẫn: Mình ngồi thiền một phút thôi hả Thầy?
(04:02) Trưởng lão: Một phút mà chủ động điều khiển vô. Ví dụ như bây giờ Thầy khép chân Thầy ngồi. Thầy ngồi, Thầy khép chân lại Thầy ngồi thì bắt đầu đó Thầy chỉ cần Thầy thở một hơi thở chậm nhẹ trước cái đã để gom tâm, Thầy nói: “Tâm gom vô cái nhân trung, biết hơi thở ra vô”. Bắt đầu hai con mắt Thầy nhìn cái chóp mũi. Thầy hít vô, hít vô chậm chậm chậm, chứ không hít như bình thường. Hít vô chậm thật chậm để cho cái, phải càng chậm thì cái tâm nó gom càng chặt. Phải không? Rồi bắt đầu thầy cũng thở ra chậm chậm chậm cho hết, rồi Thầy thở lại bình thường. Chứ Thầy gom quá thì ức chế nó thì không được, nó mệt. Nếu mà thở chậm thì nó gom dữ lắm, nhưng mà nó mệt.
Nhưng mà sau này nó bị ức chế thì nó sanh tưởng … Thành ra Thầy chỉ dùng nó để gom thôi rồi bắt đầu thở lại bình thường. Thở lại bình thường thì nó còn sức gom đó, cho nên nó tập trung vô đây nó dễ. Rồi thường mình nhắc nhẹ nhàng, mình nhắc cái câu pháp hướng: ”Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Rồi để cho khoảng thời gian cho nó hít vô hít ra coi như tùy tức đó. Rồi bắt đầu đó mình mới nhắc lần nữa. Rồi mình để cái thời gian dài ra, coi thử coi nó có vọng tưởng gì không, coi thử coi nó chịu bám vô không. Nếu mà nó không chịu bám vô hơi thở thì mình hít một hơi thở chậm thiệt châm nữa rồi thở ra, để cho nó gom trở lại, nó gom lại. Cách thức mới tu tập đó là phải tu tập như vậy để cho nó tập trung được, nó gom được để nó quen. Chứ cái tâm của mình mới tu là nó chưa có quen gom vô đâu, nó còn phóng lung tung. Cho nên mình ngồi lại yên lặng, thân yên lặng …
(06:06) Sư Phước Nhẫn: Thư giãn nó. Ví dụ như con bây giờ nó cũng có lâu lâu nó tạp niệm nó không giảm. Như vậy thì mình cứ vậy mình tập hoài chừng nào cho nó hết tạp niệm thì thôi hả Thầy?
Trưởng lão: Mình phải tập cho được cái sức tỉnh thức. Mà thường thường đó phải khi mà muốn chủ động điều khiển được cái tâm của mình đừng có tạp niệm xen vô. Thời này được mà thời sau cũng được mà thời kế cũng được. Suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ trong ngày đêm, mình tu tập trong mỗi thời đó, thì lúc nào mình cũng chủ động được. Nó trong vòng từ, một phút cho đến năm phút, mười phút là đủ sức tỉnh thức của mình trong khoảng thời gian đó để xả tâm, phải không? Mà bây giờ nó còn tạp niệm là tại vì mình không kèm theo cái pháp hướng. Mình hướng tâm mình nhắc: ”Tôi thở tôi biết tôi thở”. Rồi cứ mình hơi cái mình nhắc: ”Tôi thở tôi biết tôi thở”. Để rồi mình cứ nhắc như vậy để nối tiếp khoảng thời gian mà mình muốn một phút hay hai phút, hay là năm phút mình nối tiếp.
Cho nên mình cẩn thận, mình tập trung mà nhiệt tâm với cái pháp hướng như vậy, cái mình nhắc nó tỉnh thức dần dần, nó lôi mình đi đến. Ví dụ như bây giờ Thầy nhắc: ”Tôi thở tôi biết tôi đang thở”. Phải không? Rồi bắt đầu Thầy hít thở chừng năm mười hơi thở, Thầy lại nhắc nó lần nữa. Tức là Thầy nối tiếp, Thầy tác ý để mà nối tiếp thêm một khoảng thời gian kế. Rồi lại kế đó Thầy lại nhắc nó nữa. Thì như vậy suốt cái khoảng thời gian mà một hay phút năm phút, hay mười phút nó sẽ không có tạp niệm.
Và nó giúp cho chúng ta không có bị lặng trong tưởng, nó làm cho chúng ta rơi vào vô ký hay hoặc là hôn trầm. Nên nhớ cái pháp Như Lý. Vì vậy bây giờ lúc này lúc tu tỉnh thức. Vì vậy cho nên cái pháp hướng chúng ta nó kèm theo chứ nó không xả tâm. Nó kèm theo cái sự tỉnh thức của hơi thở. Hiểu như vậy thì có thể là chúng ta chủ động điều khiển nó để mà tỉnh thức, chứ nó chưa phải hoàn toàn tỉnh thức đâu. Bởi vì lơi lỏng mà không hướng tâm thì nó sẽ có tạp niệm. Hiểu vậy? Vì vậy mà mình phải có cái pháp dùng để dẫn nó tỉnh thức, chứ không có pháp thì nó sẽ không tỉnh thức được. Và nếu không tỉnh thức thì nó rơi vô vô ký hay hoặc là hôn trầm thùy miên. Nó không loạn tưởng thì vô ký, hôn trầm, thùy miên nó hai thứ.
Sư Tuệ Tĩnh: Hướng dẫn nó.
Trưởng lão: Còn mình dẫn nó từ từ từ từ theo cái pháp tác ý của mình. Đó thì như vậy là mình sẽ có cách khoảng mà mình tu cái thời gian ít.
(08:43) Sư Tuệ Tĩnh: Phóng dật và phóng tâm nó là sao? Thế nào là sống không phóng dật?
Trưởng lão: Sống không phóng dật đó. Sống mà không phóng dật là sống độc cư trầm lặng. Còn phóng tâm nó cứ nó, mình phải phân biệt giữa phóng tâm với phóng dật. Phóng dật là mình phóng mà mình chạy theo, mình dính mắc. Còn phóng tâm nó mới khởi niệm mà thôi. Hiểu chỗ Thầy muốn nói không? À bây giờ mình khởi một cái niệm tức là phóng tâm. Giờ đó bắt đầu mình miên man mình theo cái niệm đó để mình. Nó có khởi cái tâm ham thích mình trong đó là phóng dật rồi.
Sư Tuệ Tĩnh: Mới bắt đầu là phóng tâm.
Trưởng lão: Phóng tâm.
Sư Tuệ Tĩnh: Kéo mình đi luôn là…
Trưởng lão: Kéo mình đi luôn là phóng dật. Kêu là tùy miên đó. Nó liên tục ở trong cái khoảng thời gian đó gọi là tùy miên. Cái chữ thùy miên là mình ngủ mình miên man ở trong đó. Còn tùy miên đó là theo cái niệm nào đó, nó tùy miên niệm đó. Thì trong khi phóng dật nó miên man ở trong đó. Còn phóng tâm là khởi cái niệm đó ra. Rồi mình kéo dài cái đó là thì nó là phóng dật. Mình dính.
Sư Tuệ Tĩnh: Bởi vậy nó có câu sống không phóng dật. Không biết sống không phóng dật là sao Thầy?
(09:54) Trưởng lão: Sống không phóng dật là ngay nó khởi niệm là dừng nó lại liền là không phóng dật. Mình dừng nó được là mình không phóng dật. Còn mình phóng dật là mình chạy theo nó. Còn nó khởi niệm tức là mình còn phóng tâm. Phóng tâm thì bao giờ nó cũng có hết. Nó phóng tâm trước, sau đó nó phóng dật.
Sư Tuệ Tĩnh: Bởi vậy cái bài dạy nhập Sơ Thiền có cái câu đầu là sống không phóng dật.
Trưởng lão: Đó đó. Nghĩa là mình không chạy theo nó, tức là ly nó đó. Chứ còn không phóng tâm là người ta nhập Tứ Thiền, người ta phải thành tựu. Nó hết phóng tâm rồi. Còn bây giờ đó mình phóng tâm mà không phóng dật. Mà ly dục ly ác pháp là ly chứ không phải diệt. Nó mới ly thôi nó không có đoạn, nó chưa có đoạn. Nó mới ly thôi, ly là nó không phóng dật. Mà không phóng dật thì nó bắt đầu nó quay vô. Nó quay vô rồi, nó mới đoạn đó. Sau khi nó Sơ Thiền rồi, nó qua tới Tứ Thiền nó đoạn. Nó đoạn tức là nó tới cái chỗ mà xả đó. Xả lạc xả khổ đó. Nó hết cái khổ cái lạc của nó rồi, thì đó nó mới nhập. Cho nên vì vậy cái phóng tâm nó hết. Còn cái phóng dật đó thì cái Sơ Thiền, không phóng dật là Sơ Thiền.
Sư Tuệ Tĩnh: Nó cũng có nghĩa là sống độc cư.
Trưởng lão: Sống độc cư.
Sư Tuệ Tĩnh: Cũng là không phóng dật.
(11:10) Trưởng lão: Phóng dật là sống độc cư. Nếu mà người không sống độc cư thì tâm phóng dật, không làm sao khỏi. Bởi vì cái độc cư là nhử cho nó phóng dật. Mà mình giữ được mà mình, cái niệm nó không lôi mình được chạy ra ngoài được đó thì nó sẽ hết phóng dật. Chứ nó phóng dật nó mạnh lắm. Bị với nó miên man như vậy là nó lôi mình đi rồi. Nó lôi mình đi đó, không khéo thì nó đi tới cái tướng của mình ra, chạy theo cái ham muốn hay theo cái ác pháp rồi. Nó phóng dật là nó lôi, nó sắp sửa nó lôi mình đó, mà mình ngăn chặn liền. Nó vừa phóng tâm là mình biết nó phóng dật, là không cho nó phóng dật nữa thì ngay đó mình đã phá, đã xả nó rồi, ngăn ác diệt ác rồi.
Sư Tuệ Tĩnh: Phóng tâm với vọng tưởng cũng giống nhau hả Thầy?
Trưởng lão: À phóng tâm với vọng tưởng y như nhau. Phóng tâm là vọng tưởng đó.
Sư Tuệ Tĩnh: Bởi có nhiều lúc con thấy như Thầy nói đó là nhiều cái chuyện đâu mấy chục năm về trước á ngồi ngồi cái tự nhiên nó hiện lên rõ ràng.
Trưởng lão: Đó là phóng tâm.
Sư Tuệ Tĩnh: Mình nghĩ nó không có thể nhớ được, sao nó nhớ được rành mạch y như hồi lúc ở đó vậy đó.
Trưởng lão: Mà chính sống độc cư thì cái phóng tâm nó dữ lắm. Nhưng mà mình chạy theo cái phóng tâm đó, kéo dài theo nó thì nó bị phóng dật. Nó phóng dật thì mất rồi, hết rồi.
Sư Phước Nhẫn: Ví dụ khi trong lúc mình sống độc cư nó mới lóe ra Thầy.
Trưởng lão: Lóe ra tức là đó, nó phóng tâm đó. Mình chặn lại.
Sư Tuệ Tĩnh: Lúc đó mình cắt nó liền hả Thầy?
Trưởng lão: Cắt liền! Ngăn ác diệt ác liền. Mình không để. Mình ngăn không được tức là nó phóng ra rồi. Mà nó phóng ra rồi thì mình phải diệt, không có để nó.
Sư Tuệ Tĩnh: Cũng như mình tập…
(12:39) Trưởng lão: Bởi vậy phóng dật coi vậy khó lắm đó. Phóng tâm thì mình chưa đụng tới nó được đâu. Mình không ngăn chưa được phóng tâm đâu, mà phóng dật mình ngăn được. Bởi vì khi mà nó khởi ra cái niệm phóng tâm rồi thì mình biết rồi, cho nên mình không cho nó theo. Mình quán xét, mình xả niệm đó liền, không để cho tâm mình bị nó lôi theo trong đó. Còn nó lôi theo, nó khởi tâm ham muốn, cho nên bị phóng dật. Phóng dật nó có nằm ở trong cái chỗ mà dật. Nghĩa là có tâm tham trong đó rồi, tham muốn rồi, chạy theo cái đối tượng đó rồi.
Sư Tuệ Tĩnh: Chữ dật nghĩa là gì Thầy?
Trưởng lão: Chữ dật là nghĩa là nó, nó nằm ở trong cái. Có cái nghĩa của nó là nó lôi cuốn mình đó. Dật không phải là đồ vật. Chữ dật nó D mà. Dật nó có nghĩa là lôi cuốn, nó kéo theo đó. Cho nên vì vậy đó mà mình nhận xét được cái chỗ này rồi thì không để tâm phóng dật, để cho ly. Mà không phóng dật là ly. Nó vậy thôi. Còn phóng tâm thì kệ nó. Cho nên mình ức chế, mình không cho phóng tâm là mình nguy hiểm. Cho nên mình bây giờ là ngăn chặn phóng dật thôi, ly thôi chứ không có diệt. Chưa có diệt.
Sư Tuệ Tĩnh: Bây giờ con sợ mình ngồi nói ủa sao chuyện đâu đâu tự nhiên nó hiện lên hoài, hiện hiện hoài mà mình muốn ngăn mà ngăn không nỗi. Con thấy làm sao mà ngăn được. Tự nhiên nó hiện lên, tự nhiên nó hiện lên. Cũng như mình đang chú tâm trong hơi thở, thở lúc nhiều khi nó cũng hiện lên nữa, giật mình. Mình không nghĩ không ấy gì tự nhiên nó hiện lên..
(14:17) Trưởng lão: Tự nhiên nó phóng ra, nó phóng thời gian nó hết. Nó tuôn trào thời gian nó hết. Bởi vậy Thầy nói chỉ giữ cái hạnh độc cư thôi. Chẳng hạn bây giờ mình ở đây nè, nhất định không tiếp duyên, không đọc kinh sách, không gì hết, cho nó phóng đi. Nó phóng mà mình cứ giữ, giữ chân tức là không cho nó phóng dật rồi, còn có phóng tâm thôi. Nó phóng riết rồi nó phóng, mà nó không phóng dật được thì nó diệt nó hà. Mình không làm gì hết mà nó diệt. Nó sai mình không được. Tức là nó không đánh được cái tâm tham mình thôi, tham vui hay này kia, nói chuyện đồ đó. Tham đọc sách, tham này kia, nó khởi đúng cái tâm tham mình lắm. Tham muốn, cái gì của mình tham muốn là nó phóng tâm ra để nó lôi mình là nó phóng dật rồi.
Mà nó không đánh được cái tâm tham muốn mình được, nó khởi mà nó đánh không được tham muốn mình. Bị vì cái này nó tham muốn, mình khởi ra cái này mà mình không tham muốn là nó dừng lại, nó ly. Và cứ như vậy là, bởi vì bí quyết thành công của Thiền Định là cái chỗ đó. Nó mới có định là cái tâm nó mới định vô cái thân mới được, chứ không phải là mình ngồi mình thở là nó định. Cho nên nó hết phóng dật là nó định.
Sư Tuệ Tĩnh: Lúc trước con nghe Thầy nói đừng có để phóng ra, vọng tưởng nó vào, vọng tưởng nó vào nữa tới sau này khó. Con mới sợ làm sao để không cho nó vào được? Không cho nó vào nó muốn vô nó vô tự do chứ. Chớ con cũng không biết làm sao mà ngăn.
(15:31) Trưởng lão: Bởi vậy có nhiều người không hiểu chỗ đó đó. Cố gắng mà ngăn. Tập trung cho dữ tợn trời đất ơi nó muốn bể cái đầu luôn. Nó nặng đầu, nó căng mặt căng mày, nó làm chuyện. Bởi vậy danh từ nó diễn tả mà. Người ta muốn nói vậy có nghĩa là đừng phóng dật thôi. Nhưng mà nó khởi tâm ra rồi.
Hôm nay sư hỏi hai danh từ đó Thầy giải thích cho nó rõ ràng mới hiểu rõ. Nếu mà không hỏi thì kể như là mình không rành. Không biết cái nào phóng tâm cái nào phóng dật. Mà chính trong cái giai đoạn này mình chỉ ngăn ngừa cái phóng dật, diệt cái phóng dật. Chứ còn cái phóng tâm kệ nó, cho nên nó không bị căng đầu. Nó phóng cho nó phóng ra, nhưng mà mình quán xét, mình xả ly nó thì mình không chạy theo nó, thì tức là mình không phóng dật. Ví dụ như bây giờ mình buồn quá, mình ngồi đây cái mình lấy cây nhang hay cây gì mình vẽ vẽ dưới đất mình chơi cho nó bớt cô đơn: “Nhất định mày phóng dật rồi, mày chạy theo, tao không thèm viết nữa”. Đó là một cái niệm mà cái niệm phóng dật mà, nó lôi mình để làm cho mình bớt cô đơn.
Bây giờ nó cô đơn nè, nó ngồi đây, nó cô đơn tức là nó phóng ra. À bây giờ nó thấy chỗ đó dơ thôi để đi hốt. Đó là nó phóng dật rồi đó. Nó phóng dật bắt đầu mình lấy cái ki ra mình hốt là nó phóng dật, nó phá độc cư rồi. Chứ còn nếu mà thấy nó biết: “Mày sanh ra, mày thấy đống rác đó dơ muốn hốt, mày chết! Mày phóng dật theo đống rác, tao không làm đâu”. Mình không làm cái nó cụt hứng ổng rồi, ổng lôi mình không được. Tức là bị phóng dật mà mình không biết. Thì cái phóng dật Thầy muốn giải thích cái chỗ đó để thấy cái nghĩa của nó, giải thích không có được phải không?
Bây giờ hiểu được nó phóng dật là như vậy đó. Nó sai khiến mình dữ lắm. Nó làm cho bớt, nó mất cô đơn. Nó ngồi không, nó chịu không được. Đây là, rồi bắt đầu bây giờ ví dụ như cái người mà nhập thất đó, họ thấy một tờ báo gì trời ơi! Họ đọc miên man hà. Họ khoái lắm, nó bớt cô đơn, tức là nó phóng dật, nó phóng dật rồi. Mà ở đây mình ly dục tức là ngăn chặn cái phóng dật, chứ không phải là không có cho cái niệm khởi. Cho nên cái niệm khởi mặc nó. Nó khởi mà nó sai mình được, tức là nó phóng dật được thì mình diệt nó, mà diệt nó rồi thì nó định.
(17:37) Sư Tuệ Tĩnh: Mấy bữa nay con tính xin Thầy, xin Thầy là con sơn lại, mà nghe Thầy nói như vậy…
Trưởng lão: Tức là phóng dật! Đó đó cách thức đó đó.
Sư Tuệ Tĩnh: Ngày hôm qua con ra con kỳ cọ đồ con dơ quá con mới nói thôi để xin Thầy đặng con mua sơn con sơn lại cho nó ấy, chứ để đóng rong đóng rêu đồ ai người ta vô Phật tử người ta dòm thấy…
Trưởng lão: Nó khởi tâm đó, tâm phóng dật. Bởi vậy nếu mà không hỏi thì không biết, tưởng là mình làm cái chuyện đó vậy mình tu là tốt. Không phải đâu, coi vậy chứ nó phóng dật. Bởi vậy khi gần Thầy, Thầy mới vạch ra lần lượt lần lượt để thấy rõ rồi mình cố. Coi vậy chứ hàng phục khó lắm, chứ không phải dễ đâu. Cho cái tâm đừng phóng dật khó. Mình ngồi mà, bởi vậy Thầy nói Thanh Thản-An Lạc-Vô Sự, phải không? Mấy cái từ đơn giản vậy đó mà làm sao mình sống được như vậy là nó là định.
Sư Tuệ Tĩnh: Quét dọn ba cái ván nhện, đóng rong đóng rêu con thấy sao nó kỳ quá…
Trưởng lão: Đó chính cái chỗ đó là bị phóng dật. Nó đưa qua mình bớt cô đơn mà. Mình làm nó mới bớt cô đơn lại. Mà cô đơn chừng nào thì nó lại phóng tâm nhiều chừng nấy. Nó phóng tâm để nó lôi mình đi ra phóng dật. Mà mình ngăn chặn ngăn chặn nó riết, nó quay vô nó định, nó Thanh Thản-An Lạc-Vô Sự lắm. Nó không có thấy gì nó muốn làm. Bởi vậy hồi thời ông Phật, ông dạy chúng Tỳ kheo không có sạch, là nó phóng dật dữ lắm. Cho nên ai nói về trồng tỉa mà tu, nhập thất mà tu kiểu đó, nó phóng dật dữ lắm. Bây giờ mặc dù mình có `sống có một mình mình, chứ nó không có sống một mình, nó sống với công việc, nó sống với hữu sự.
Sư Tuệ Tĩnh: Người không biết họ nói làm mình biếng chứ..
Trưởng lão: Họ nói làm biếng mà chính mình đâu phải dễ cái sự làm biếng này. Cái làm biếng này chứ khó lắm, không ai làm biếng nỗi đâu. Mình nói cái người làm biếng vậy chớ thật sự ra, họ phải đi nói chuyện chỗ này chỗ kia họ chơi, uống rượu đồ này kia. Họ làm biếng họ không làm, nhưng mà họ khoái đi chơi vậy. Họ phóng dật còn hơn ai nữa. Còn mình đó, thì mình nói mình siêng năng, chứ sự thật ra mình bị phóng dật.
Còn thử mình làm biếng đi, đừng uống rượu uống chè, đừng đi chơi đâu hết, chỉ sống một mình mình đi, không làm gì hết thử mình làm biếng nỗi không? Không có ông trời nào làm biếng nỗi. Chỉ có ông Phật làm biếng được nỗi thôi, phải không? Thầy nói hai Sư nghĩ coi phải không? Có ông Phật làm biếng vậy nỗi chứ không có ai làm biếng nỗi kiểu đó. Người tu chứng mới làm biếng kiểu đó.
Sư Phước Nhẫn: Bữa nay nghe Thầy nói mới hiểu được ý đó đó Thầy.
Trưởng lão: Gần Thầy chừng nào nó lại sáng con đường đi nó lại sáng chừng nấy. Bởi vì…
(20:15) Sư Tuệ Tĩnh: Cái câu hỏi kế con xin hỏi Thầy là. Cái phóng tâm nó dễ trở thành phóng dật. Mình làm cách nào để đừng trở thành phóng dật. Mình cắt nó?
Trưởng lão: À thường xuyên mình dùng pháp tu, mình dùng pháp tu. Mới đầu thì nó thường xuyên nó phóng tâm. Rồi mỗi khi phóng tâm đó thì chợt mình hiểu nó, mình biết nó đang phóng dật thì mình dừng nó lại đi tức mình ngăn ác-diệt ác đó. Còn mình giữ cái tâm của mình trong hành động đi và luôn luôn pháp hướng Như Lý Tác Ý ra, hoặc là trong hành động của hởi thở: "Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Mình sử dụng cái này quen dần để rồi thời gian sau vừa cái pháp hướng mà vừa là cái hơi thở của mình. Thì đó là các pháp ngăn, ngăn cái tâm phóng tâm. Phải hiểu nó, mà nếu mình để bình thường vầy nó phóng tâm.
Cho nên mình nỗ lực, mình siêng năng mình tu tập. Mình tu tập đầu tiên đó thì nó hay bị phóng tâm, phóng dật. Do đó mình mới dùng cái pháp Định Vô Lậu mình quán xét để mình ly những cái niệm này, mình diệt những cái niệm này hết, đừng có để cho nó tới. Nhưng mà nó luôn nó tới, mình cứ bền chí đừng có sợ. Nó tới tới, tới bao nhiêu thì chúng tôi dùng cái niệm đó quán xét, rồi ly nó ra. Rồi dùng pháp hướng đoạn dứt nó đi. Cứ tu tập vậy hằng ngày đừng có sợ, rồi nó sẽ hết. Lúc bấy giờ thật sự ra muốn cho nó hết đừng có tiếp duyên ra ngoài, mình sống độc cư, nhớ!
Cho nên vì vậy đó khi mà phóng tâm với phóng dật nó gần nhau lắm. Hễ nó phóng tâm thì nó lôi cuốn mình theo với cái dính mắc ở trong cái phóng tâm đó. Thì bắt đầu bây giờ nó phóng tâm ra, thì mình thấy cái niệm đó phóng rồi. Thì bắt đầu mình đem cái niệm đó, mổ xẻ cái niệm đó coi nó Dục lậu, Hữu lậu, Vô minh lậu, nó ở trong cái Lậu hoặc nào? Khi mà mình thấu rõ nó ở trong ba cái lậu hoặc này, trong một cái, trong ba cái này thì ngay đó là mình xả nó. Còn nếu không thì nó phải quán xét qua nhân quả. Nhân quả nếu mà mình thấy nhân quả ác thì xả liền, mà thiện thì chấp nhận. Cái này là tốt, cái này để giúp cho chúng ta trên con đường tu nó dễ tu.
Ví dụ bây giờ có một cái niệm nó khởi ra cái câu kinh, phải không? Nhưng mà nó cũng là phóng tâm rồi. Bởi vì mình khởi ra một cái niệm cũng câu pháp Phật thôi, cái lời Phật dạy thôi. Bây giờ nó khởi ra cái câu như thế này, câu kinh pháp cú như thế này: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo”. Mình nói: Ủa! Như vậy là như thế nào tự tịnh kỳ ý? Đó, thì mình tư duy cái câu đó thì bị dính phóng dật rồi đó. Nó khởi ra cái niệm ”Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành”, phải không? Thì nó mới phóng tâm thôi. Bây giờ đó mình mới tư duy nó là phóng dật.
(23:02) Sư Tuệ Tĩnh: Sao hồi nãy Thầy nói suy luận được?
Trưởng lão: À bây giờ mới nói như thế này. Bây giờ Thầy mới giải thích cho nghe để thấy. Đây là một cái Phật pháp, cái pháp rồi, do đó mình mới suy ngẫm nó. Đây là mới đưa ra một cái này để cho mình tìm hiểu cái chỗ này trên cái phương hành động tu của mình trong Ngăn ác-Diệt ác. Phải không? Cho nên nó đưa cho cái câu này để cho mình suy tư để biết nó. Do đó mình suy tư nó, mình thấy đây là thiện pháp, đúng thiện pháp, phải hiểu nó. Hiểu nó cách thức như thế nào để mình thực hiện ngăn ác diệt ác, phải không? Rõ ràng là phóng tâm phóng dật rõ ràng đó. Nhưng nó ở trên cái pháp thiện. Còn bây giờ nó phóng tâm ở trên cái pháp ác. Nó Dục lậu, Hữu lậu, Vô minh lậu là cái pháp ác. Do đó pháp ác thì mình quán xét nó, mình cũng quán xét cũng tư duy vậy, phải không? Mình tư duy nó rồi bắt đầu mình diệt nó. Còn cái này tư duy nó để rút tỉa kinh nghiệm. Được, đâu có sao.
Sư Tuệ Tĩnh: Nó không mắc lỗi phóng dật?
Trưởng lão: Không! Không có! Không có phóng dật! Còn bây giờ nó phóng dật. Nó nhớ nhà mình, nó nhớ cách thức. À! Bây giờ chưa tới ăn mà nó đói bụng, mà mình thấy nó cứ cồn cào nó muốn ăn, thì như vậy mình bị phóng dật. Thì cái này là quán xét, nhận biết nó liền.
(24:07) Sư Tuệ Tĩnh: Phóng dật ác thì nó mất độc cư.
Trưởng lão: Mất độc cư!
Sư Tuệ Tĩnh: Còn phóng dật thiện thì không sao.
Trưởng lão: Không sao hết. Phóng dật thiện nó giúp, nếu mà về chánh pháp thì nó giúp cho mình kinh nghiệm thêm để rút tỉa cái sự tu. Mà nó về thiện pháp nó giúp mình tăng trưởng cái tâm thanh thản. Đừng có ức chế nó. Chứ không khéo mình ức chế luôn cả thiện cả ác thì coi như mình dồn nén nó tới cái chỗ đường cùng nó bật mình, nó chịu không nỗi đâu.
(24:42) Trưởng lão: Bây giờ sẽ nói thêm về cái phần mà rắc rối nhất ở trong kinh sách của Phật là cái phần Kiết sử. Đầu tiên thì chúng ta học, chúng ta có năm cái hạ phần kiết sử.
Cái Thân kiến kiết sử. Năm cái hạ phần kiết sử thì cái thứ nhất là Thân kiến, cái kiến chấp về cái thân của mình. Đức Phật nói: “Kiến chấp về cái thân của mình”. Cho nên trong cái bài pháp nói Vô Thường - Khổ - Không - Vô ngã đó, Vô ngã. Có nghĩa là nói, đức Phật muốn giải thích cho mình hiểu cái ngã của mình, là nó không có cái gì thật thụ ở trong đó. Cho nên đừng có chấp nó, không phải là Sắc-Thọ-Tưởng-Hành-Thức, không phải năm cái điểm này có một cái nào của nó. Mình chấp cái thân của mình là cái Sắc, cái Thọ là thân của mình, là cái đó của mình. Mình chấp cái Tưởng là của mình, mình chấp cái Hành là của mình, mình chấp cái Thức là của mình, thì cái đó là mình thân kiến, trật không có đúng. Đó là nó trói buộc mình dữ lắm. Nhưng mà cái này coi như là dường như người ta đều ai cũng đều trói buộc về Thân kiến kiết sử này hết. Đó là cái thứ nhất.
(25:57) Cái Nghi kiết sử: Thế tại sao mà ở trong cái, mình phải so sánh trở lại cái Ngũ triền cái Năm cái triền cái nó có cái Nghi triền cái.
Nghi triền cái là cái sự kiện có cái thằng nó đi ngang qua, mình nghi cái thằng ăn trộm, thấy cái tướng nó, đó là Triền cái.
Còn bây giờ mình đã nghi rồi, mình nghi rồi, mình nghi một cái gì rồi. Nghĩa là nó không phải là mình thoáng qua.
Cái kia nó, cái màn nó ngăn che mình vừa thấy, vừa thấy cái tướng dáng của cái thằng đó, mình nghĩ rằng nó là thằng ăn cắp ăn trộm, phải không? Cái đó là cái Triền cái. Mình phân biệt những cái chỗ dùng này, nó làm cho mình ngăn che cái đó, mình không có phá được cái đó. Cho nên cái nghi đó, nó làm cho mình, trong tâm mình cứ lo lắng sợ nó lấy đồ này kia, cứ dòm chừng dòm chừng. Nó làm cho mình không có được yên tâm, không có được thanh thản. Cứ phải dòm chừng nó, sợ nó lấy cái này lấy kia phải không? Đó là Nghi triền cái.
Còn cái Nghi kiết sử đó thì nó đã sẵn có cái nghi rồi. Ví dụ như mình nghi một cái người nào thôi, nhưng mà cái đó nó cứ hiện trong tâm của mình. Người đó thì họ đi đâu rồi mình không thấy. Mình không thấy nữa nhưng mình nghi. Ví dụ như mình đọc cái câu kinh của Đại thừa mình nghi, nghi cái này không biết nó đúng hay sai? Cái đó nó thuộc về Nghi kiết sử, nó trói buộc mình. Ví dụ như nghe một câu công án. Ví dụ như “Ba cân gai”. Hỏi: “Phật là gì?”. Nói: “Ba cân gai”. Mình nghi sao Ba cân gai là Phật được? Cái đó là bị kiết sử.
Cho nên vì cái khéo léo sử dụng của Thiền Đông Độ đó, người ta khởi cái nghi tình đó, để cho nó đừng có khởi niệm, nó nghi nó cứ ôm ấp cái nghi. Còn cái Nghi Triền Cái là mình thoáng thấy, mình khởi tâm nghi ra, chứ nó chưa có cái nghi trong đó. Còn cái này nó cứ nghi, nó ôm ấp cái nghi đó là nghi. Cho nên vì vậy mà cái người tu theo Thiền Đông Độ mà nghi tình đó thì họ sử dụng cái nghi này là cái Nghi Kiết Sử. Cái nghi nó có sẵn, cái gì mà nó có sẵn trói buộc mình thì đó là thuộc về kiết sử. Còn cái là không có sẵn.
(28:14) Còn cái Giới cấm thủ. Giới cấm thủ có nghĩa là một cái người đó họ chấp giới, họ giữ cái giới. Chẳng hạn bây giờ Thầy bị bệnh nè, ngày ăn bữa mà giờ ăn không có được. Phải không? Mà sáng Thầy phải uống thêm chút cháo đặng Thầy uống thuốc. Mà giờ Thầy chấp nhận nhất định là trưa ăn hay hoặc uống thôi chứ còn sáng không có ăn nữa, phải không? Đó là kêu là Giới cấm thủ. Bởi vì nó thuộc về kiến kiết sử nó thuộc về Hạ Phần Kiết Sử nó trói buộc mình. Giới luật nó cũng trói buộc mình nếu mình chấp nó thì trói buộc.
Nhưng ở trong Phật đã dạy mình Khai, Giá, Trì, Phạm. Có khai, khai giới ra. Ví dụ như bây giờ Thầy bị bệnh, sáng Thầy phải uống thuốc, còn để bụng trống uống thuốc thì không có nên, nó sẽ bệnh. Do đó Thầy phải uống một ly sữa, ăn chén cháo rồi Thầy mới uống thuốc. Thì cái đó là Thầy khai giới ra, Bây giờ trước khi Thầy ăn Thầy khai giới ra. Thầy khai giới ra: “Hôm nay vì cái thân bệnh tôi xin khai giới để uống thuốc, sau khi uống thuốc mạnh rồi tôi đóng giới lại, giá lại”. Khai, giá, trì, phạm mà, cho nên tôi không có phạm giới. Vì vậy tôi có pháp tôi thực hiện, chứ không phải là tôi cố chấp. Còn mình chấp tôi không ăn phi thời, nhất định chết bỏ chứ không ăn phi thời. Do đó họ uống thuốc không được, vì vậy mà uống thuốc không được, bệnh không hết. Bệnh không hết thì chỉ còn nước chết. Nên cái này là giới cấm thủ. Nó thuộc về kiết sử nó trói mình. Khi mình chấp giới nó bị trói.
Mà Phật đâu, Phật cho mình một cái lối để cho mình khai. Cũng như bây giờ có người phụ nữ đang họ bị chết đuối dưới sông, họ đang ngụp lặn ở dưới. Mà mình đi ngang mình gặp, mình là một vị tu sĩ mà. Không được, giới cấm không được đụng người phụ nữ, cho nên mình đi luôn, cô này phải chết. Trong khi đó mình khai giới. À bây giờ trước cái tình trạng mà quá cấp bách như thế này tôi phải cứu người, cho nên tôi khai giới liền, nhảy xuống, lội ra ôm cô ta lên. Xong rồi có người khác đến hô hấp cho cô ta thì mình giao cho người ta, tôi xin đóng giới lại. Ngay liền đó tư tưởng của mình phát xin đóng giới lại. Từ đây mình ra đi không để cho người ta lưu lại ơn nghĩa gì hết, thì tức là mình không có lưu lại cái tình cảm của mình. Nhất định đóng giới lại và giữ gìn, không có để sự đụng chạm nhau mà nó gây ra cho mình có cái cảm xúc của nam nữ.
Đó thì do đó mình đóng giới lại, tức là mình giữ gìn như vậy. Cho nên người như vậy gọi là không bị Năm cái hạ phần kiết sử này. Đó vậy thôi. Chứ còn không khéo, bởi vì ở đây những cái phần này là những cái phần rất quan trọng để cho mình biết những cái điều kiện mà nó xảy ra, mà mình chấp giới quá thì mình bị kiến kiết sử của giới trong cái hành trì tu hành của mình.
(31:05) Tham. Tham kiết sử. Tham kiết sử tức là cái tham của mình, mình ham muốn cái đó nó có ham muốn ở trong lòng của mình. Ví dụ như bây giờ mình muốn cái này, mình muốn cái máy này. Cái lòng tham muốn của mình, nó luôn luôn mà mình không có chịu bức nó ra, mình không có chịu đoạn dứt nó ra, nó cứ trói buộc. Để cho tới chừng mình có tiền mình sắm nó được, thì cái đó gọi là Tham kiết sử. Tham kiết sử của hạ phần.
Sân kiết sử. Sân kiết sử là bây giờ mình đang sân nè, nó trói buộc cái lòng sân của mình. Mình cứ nằng nặc buồn phiền cái thằng đó quá, nó chửi mình, nó nói nặng nhẹ hoài. Mình tức giận nó mà không chịu xả ra, đó là mình bị sân kiết sử. Năm cái này gọi là Năm hạ phần kiết sử. Nó mới hạ thôi, còn Năm Thượng Phần Kiết Sử.
(31:58) Sắc tham. Sắc tham kiết sử. Bây giờ mình thấy một người phụ nữ hay hoặc là mình thấy cái món đồ đẹp nào đó mình khởi ra ham muốn. Thì cái ham muốn này, cái Sắc tham kiết sử này nó làm cho mình, mình thấy cái món vật đó. Nghĩa là bắt đầu cái tham của ngũ triền cái. Mình phải phân biệt giữa cái triền cái với cái này, tham dục triền cái. Ở đây cái tham dục triền cái với cái sắc tham.
Bây giờ Thầy thấy cái máy này, thấy cái sắc của nó. Sắc tham có nghĩa là có người, người ta giải thích là mình thấy cái sắc phụ nữ. Đó là một. Thấy cái món đồ, thấy cái xe, thấy cái gì hoặc là thấy cuốn sách, mình thấy cái đẹp mình thích, cái đó gọi là sắc tham. Thì cái sắc, cái tham dục của triền cái nó khác, nó khác hơn.
Nó phải so sánh được cái chỗ này. Bởi vì phải phân tích được cái chỗ này nè. Tham dục của triền cái là mình khởi sự, mình thấy cái này, mình muốn cái này. Cũng như mình thấy một cô phụ nữ, mình muốn cô phụ nữ, thì đó là tham dục nó che mình. Luôn luôn, mình cứ tương tư trong lòng mình hoài, thì cái thời gian mà tương tư đó thì nó trở thành sắc tham. Nó không còn nằm ở trong cái triền cái nữa. Nó khởi cái điểm của nó là cái triền cái nó che mình rồi, thì bắt đầu nó từ đó nó trói buộc. Nó trói buộc thì nó trở thành cái Năm Thượng Phần Kiết Sử.
Từ cái này nó chuyển qua cái này liền, nó trói mình liền ở trong này. Còn cái kia nó che ngăn che mình, cho nên mình không thấy nó là cái này là cái khổ. Có cái này phải giữ gìn, phải này kia. Hay hoặc là không thấy người phụ nữ, cái đẹp của người phụ nữ là cái độc. Mình không thấy nó là rắn độc, nó là cọp dữ, nó sẽ đem đến những cái nỗi khổ cho mình. Có thể nó là một cái tù chung thân của mình ở đó mà mình không thấy. Do đó nó bị ngăn che, mình thấy nó thích, mình thấy nó ham muốn. Đó là tham sắc dục của triền cái. Nhưng mà cái đó nó triền miên trong lòng mình để mà đạt cho được thì nó trở thành sắc tham của kiết sử. Thấy chưa? Thấy từ cái đầu, rồi đến cái chỗ đó nó trói mình vô đó, nó thành cái kiết sử.
(34:23) Vô Sắc tham. Vô sắc tham nó không có hình ảnh, mà nó tham muốn. Sư thấy nó, bởi vì cái này Sắc tham nó có hình ảnh. Rồi nó lưu hình ảnh đó, nó cứ khởi tâm ham muốn mình hoài. Còn bây giờ nó không có mà nó tưởng thôi. Cho nên Vô sắc tham là tưởng tham. Vì vậy mà nó thực hiện trong giấc mộng. Ví dụ như bây giờ Vô sắc tham, cha mẹ mình mất đi rồi, nó không còn cái hình ảnh đó nữa. Thế mà mình nằm mộng, mình thấy được cái hình ảnh cha mẹ của mình. Nó tham đây nó còn thương còn nhớ. Chữ tham đây không phải là, nó đủ mọi cách ở trong đó, nó nằm ở trong cái dục tham mà. Cho nên nó thực hiện ra cái hình ảnh của cha mẹ của mình. Mình thấy cha mẹ mình còn sống chứ chưa có chết.
(35:12) Mạn kiết sử. Thật sự ra cái Mạn kiết sử này thì luôn luôn lúc nào mình cũng chấp, nó ngầm ở trong này, nó có mạn ở trong này, nó trói mình chặt lắm. Ai không động tới, chứ động tới cái sân liền. Nó chấp ngã nó mà. Ngã mạn dữ lắm, chứ đâu phải thường. Đó là nó kiết sử nó trói mình. Cho nên những cái sợi dây này nó rất khó bứt. Nó thượng phần kiết sử nó khó.
(35:32) Trạo cử kiết sử. Nó có cái Trạo cử kiết sử nữa. Muôn đời mình ngồi, bắt đầu mình ngồi, cho nên đức Phật dạy mình: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra. An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Mình ngồi đây chứ coi chừng, nó lát nó ngứa ngáy hoặc là nó làm cho mình bất an, nó bị trạo cử. Mà cái trạo cử của cái Thượng Phần Kiết Sử này là luôn luôn nó có sẵn ở trong thân của mình, nhất là về cái Thọ. Mà hễ mình khi mà nó trạo cử, nó làm cho mình có, như bây giờ mình ngồi thấy mình tê chân. Tê chân nó cứ bắt mình nhúc nhích, nó bắt mình phải ráng mình chịu đựng thế này thế khác, đau khổ. Hay hoặc nó nhức chân của mình, mình ngồi kiết già thì nó làm cho mình khổ sở khó chịu. Cảm giác nó bất an đó, nó trạo cử. Cái thọ của nó làm cho mình bất an đó, thì nó trạo cử. Mà cái này muôn đời mình đã có sợi dây trói buộc này. Gọi là kiết sử của nó.
(36:34) Còn Vô minh kiết sử thì chắc chắn bây giờ con người của mình, người nào cũng Vô minh hết, không có người nào mà không Vô minh. Và cái Vô minh này mình cứ lầm chấp là nó Minh không đó, thì cái đó là thật sự mình đang Vô minh. Chỉ ra khi nào mình Minh là mình sống đúng giới, mình phạm giới là Vô minh. Có hai cái đó thôi. Cái người phạm giới là người Vô minh. Mà cái người sống đúng giới, chẳng hạn bây giờ đó mình đang sống một ngày một bữa là mình Minh. Mà mình lỡ mình ăn phi thời một chút là mình Vô minh.
Cho nên vì vậy giới luật là trí tuệ mà. Trí tuệ là giới luật mà. Mà trí tuệ đâu thì giới luật đó mà. Cho nên hai cái này nó không tách lìa nhau được. Vì vậy cho nên Vô minh nó kèm theo với cái chỗ phá giới, mình phải thấy được cái chỗ. Cho nên cái Vô minh kiết sử này luôn luôn nó ngầm ở trong cái chỗ mà hiểu lệch của mình. Mà chỉ còn có kê cái bảng giới luật ra, mình thấy phạm cái lỗi là tức là mình Vô minh. Còn mà nó, mình không kê ra được thì ngay đó là mình phạm lỗi là mình bị Vô minh rồi. Bị Vô minh kiết sử rồi. Nó trói mình, nó trói chặt lắm.
Ví dụ như bây giờ sáng, mình thèm muốn ăn thì đó là Vô minh rồi đó. Nó phá giới rồi, mình thấy cái tâm mà như vậy là nó Vô minh rồi. Mà khi mà mình phạm một cái là Vô minh thật sự rồi. Còn mình còn Minh thì mình còn tư duy, mình suy nghĩ, nhất định chết, không ăn phi thời thì như vậy là mình sẽ Minh. Đó Minh với Vô minh nó hai cái, nó luôn luôn nó kề với nhau. Ví dụ như bây giờ Thầy đó.
Tu sinh: Như bên mặt bên trái.
Trưởng lão: Ờ như bên mặt bên trái vậy đó. Ví dụ như bây giờ Thầy nói ở đây độc cư. Mà mình đi nói chuyện đó là Vô minh. Mình nói chuyện tức là mình làm cái tâm phóng dật, tức là mình Vô minh. Mình để tạo cho mình không giải thoát, đó là Vô minh. Ví dụ như bây giờ Thầy nói độc cư không tiếp duyên ai, không nói chuyện ai, ráng nỗ lực để thực hiện tâm không phóng dật. Do đó cái mình thấy cô đơn, buồn bã quá, mình sanh ra chuyện này đi làm, chuyện kia đi làm thì đó là Vô minh. Vô minh kiết sử nó hiện ra nó trói mình, nó dẫn đi đó.
Đó, còn cái Vô minh mà của ngũ triền cái đó, nó trạo cử là nó thùy miên. Nó thùy miên nó buồn ngủ nó hôn trầm, hôn trầm thùy miên đó. Là nó cái đó là Vô minh nó si. Cái tướng trạng của Ngũ triền cái là cái tướng si. Tướng si nó hiện ra tướng ham ngủ. Mà nó ham ngủ, tức là ngồi đâu gục đó, ngồi đâu cũng buồn ngủ đó, thì cái đó là tướng si. Cho nên cái người nào mà ham ngủ là người đó người si.
Còn cái Vô minh này, là cái Vô minh trong Thượng Phần Kiết Sử này, nó thuộc về Giới Luật. Cho nên nó không có buồn ngủ, mà anh cứ anh phạm giới hoài thì anh là Vô minh. Cho nên mình thấy si nó cũng là Vô minh chứ gì? Nhưng mà si nó hiện cái tướng si của triền cái. Cho nên cái gì mà nó hiện ra cái màn che của nó rồi, thì nó hiện ra cái tướng của nó, thì nó là triền cái. Mà cái gì mà nó trói buộc mình, nó làm cho mình không đúng thì cái đó nó nằm ở trong cái kiết sử.
(39:44) Trưởng Lão: Trong kiết sử thì đây là Năm Thượng Phần Kiết Sử và Năm Hạ Phần Kiết Sử thì nó có bảy kiết sử nữa. Nó còn có bảy kiết sử nữa. Bảy cái kiết sử này mà Thầy thường hay nhắc nhiều nhất, là vì nó cũng rút tỉa ở trong Năm Thượng Phần Kiết Sử và Năm Hạ Phần Kiết Sử này, mà nó rút ra ở trong cái thất kiết sử này. Nhưng mà tóm lại thất kiết sử, nó rất cụ thể và rõ ràng.
Ái kiết sử: Tức là tình nghĩa cha con hay hoặc gia đình. Lòng thương yêu của mình tức là Ái kiết sử. Nó trói buộc mình bứt khó lắm.
Sân kiết sử: Cái lòng sân của mình nó khó dứt, nó khó dứt lắm, cho nên nó. Mình bây giờ không có sân nè, chứ nó có trong này nè. Cho nên nó có sẵn ở trong này nè. Đó là những cái nó trói buộc mình đó.
Kiến kiết sử: Những cái mình hiểu biết. Như các nhà Đại thừa, họ chấp nhận là Phật tánh hay hoặc Chơn như này kia. Cái kiến chấp đó nó khó, họ cũng khó bỏ lắm. Mà chấp như vậy là như thế nào? Đúng rồi thì bắt đầu bây giờ khó bỏ, gọi là Kiến kiết sử. Cái mà họ hiểu biết đó là Kiến kiết sử.
Nghi kiết sử: Cái nghi của mình. Mà cái tâm nghi của mình con người của mình bây giờ nó hết nghi thì mình không nói, không nói hết được đâu. Nó hở ra gì, cái nghi rồi. Đó Nghi kiết sử.
Mạn kiết sử: Cái ngã mạn của mình. Tức là mình chấp ngã dữ tợn lắm. Nó là nó trói mình chặt lắm. Cái đó là kiết sử.
Hữu tham kiết sử: Những cái vật của mình xung quanh mình có. Dù là cái bát của mình thôi, mình xả còn không được nữa, chứ đừng nói. Đó là cái hữu tham. Cái có, hữu là nó có rồi, tham thì cứ giữ nó, mà không bỏ ra được. Cái đó là Hữu tham kiết sử.
Vô minh kiết sử: Đó là cái phá giới.
Đó là thất kiết sử của nó.
Sư Phước Nhẫn: Giờ mình phá nó sao mình phá được Thầy?
(41:25) Trưởng lão: Bởi vậy cho nên mình tu đó, mình phải dùng các cái loại định. Rồi coi như là Tứ Chánh Cần ngăn ác diệt ác đó, tất cả những cái này đều là pháp ác không hà. Mà nó chỉ phá cái thất kiết sử này thì nó chỉ có duy nhất là có cái pháp Như Lý Tác Ý là phá được thôi. Bởi vì nó ngầm ở trong người của mình, nó đủ cái đó, nó trói buộc mình ở trong này. Bây giờ nó sẵn rồi, nó thành cái lực dữ tợn lắm. Cho nên vì vậy hằng ngày mình nhắc, mình hướng tâm mình nhắc, nó mới cởi mở từng chút, từng chút nó mới ra. Nó ra, những cái sợi dây đó nó bứt ra. Chỉ có pháp hướng là nhắc thôi. Chứ còn cái thất kiết sử này nó độc lắm.
Sư Phước Nhẫn: Mình hướng cách nào Thầy?
Trưởng lão: Ví dụ như mình hướng ”Tâm ly dục ly ác pháp”. Nó ly cái đó thì nó cắt cái này. Không ly thì nó không cắt đâu. Rồi mình sống đúng độc cư, nó không phóng dật thì nó cắt. Pháp hướng nhắc hằng ngày nhắc trở thành cái lực. Bởi vậy cái sự tu tập Thầy nói thật sự, nó phải có một sự bền chí, bền chí hết sức với cái pháp Như Lý Tác Ý. Bởi vì nó không thể nào mà nhắc một lần mà nó hiệu quả được. Có người, người ta nhắc mười lần, người ta có hiệu quả. Còn mình nhắc mười lần, trăm lần chưa có hiệu quả. Tại vì cái khối, cái khối nghiệp của mình, cái khối mà kiết sử này nó chặt quá! Cái dây nó buộc chặt quá!
Còn người ta nó, cái dây người ta nó lỏng, người ta nhắc năm, mười lần cái nó được. Còn mình nhắc nó như vậy nó cũng bứt đó, mà bứt không hết. Nó nhiều quá, nó chồng lớp lớp này kia, nó trói mình nhiều. Cho nên có nhiều người rất là lâu, có nhiều người rất nhanh. Đó, cũng như ví dụ như Thầy trong sáu tháng, còn quý sư nói thật sự ra, nếu mà chuyên cần, phải sáu năm nó mới có hiệu quả. Mà chuyên cần chứ còn tinh tấn, chứ còn mình tu chừng một năm, mình thấy không hiệu quả là mình bỏ, là mình phí rồi. Chứ nó không phải nó đơn giản đâu. Phải bền chí, phải kiên nhẫn dữ lắm. Mình biết, mình tin tưởng cái pháp nó sẽ thực hiện được cứu cánh mình. Mình nỗ lực hằng ngày, mình nhắc: “Tâm như cục đất, không có tham, sân, si nữa”. Đó, mình nhắc mà thấy nó cũng còn hoài nó chưa hết, nhưng bền chí. Rồi mình sống cho đúng cách, đúng giới luật. Nhắc như vậy một mặt mình nhắc, một mặt mình sống cho đúng. Một mặt mình độc cư cho trọn vẹn đừng có để tâm nó chạy theo ra ngoài, thì mình nhắc nó hiệu quả.
Còn mình sống không đúng. Giờ mình cũng tiếp duyên, mình cũng ăn uống phi thời, mình cũng sống theo kiểu mà thế gian là mình nhắc nó cũng không hết ăn thua gì. Bây giờ nhắc nó cả triệu năm cũng ăn thua gì. Mà mình sống cho đúng cái phạm hạnh của mình đi. Rồi cái pháp như lý mình nhắc nó, nó mới bứt hết đó. Chứ còn mình không nhắc nó thì nó không bứt đâu. Nó nằm ì đó, nó trói chặt mình hơn nữa. Nó làm cho mình ức chế, nó chờ cái dịp nó bung ra, nó còn mạnh hơn nữa, chứ nó không hết. Bởi vì thời gian nếu mà mình tu mà không khéo thì coi như mình nén tâm. Tới chừng mà nó bung ra thì kể như ông trời cũng cản cũng không được, nó đổ ra.
Đó Thì hôm nay Thầy giảng về cái phần mà Năm Hạ Phần Kiết Sử, Năm Thượng Phần Kiết Sử và cái Thất kiết sử. Mà ở trong kinh Trường bộ này, cái tập hai thì cái bài kinh Phúng tụng, thì nó có nói bảy kiết sử, Năm Hạ Phần Kiết Sử, Năm Thượng Phần Kiết Sử, nói đủ hết cho mình hết. Nhưng mà nó không giải thích ra. Nó chỉ nói thôi, rồi mình hiểu sao đó hiểu. Coi như nó cô động lại tất cả những cái bài kinh của Phật thuyết, nó cô động ra. Cũng như ví dụ như ở trong đó, ví dụ mà nói có như năm pháp, có bảy pháp, có ba pháp…
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 15
TRÍ TUỆ TRONG ĐẠO ĐỨC
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [45:38]
Thời gian: 2002
Tên cũ:08A-TriTueTrongDaoDuc
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-15-tri-tue-trong-dao-duc.mp3
(00:00) Sư Tuệ Tĩnh: Kính bạch Thầy nó có nhiều cái nó phi lý. Chẳng hạn như người ta dâng mình cái miếng dưa hấu. Cái ăn luôn cái vỏ, không bỏ vỏ, nói người ta dâng ăn hết. Rồi dâng mấy cái bánh ít đó, rồi con thấy quất luôn vỏ luôn. Ăn thịt ăn vỏ luôn. Con nói cái này nó có trí tuệ đâu mà sao kỳ vậy mặc dù người ta dâng mình.
Trưởng lão: Đó đó là cái sai. Ví dụ như người ta cho mình trái dừa rồi mình cũng ăn cái vỏ cái chết.
Sư Tuệ Tĩnh: Rồi con thấy mấy cái này kỳ quá mà sao nó nói là: "Để trong giới luật". Chắc con nói là: "Chắc có lẽ họ thêm làm sao đó".
Trưởng lão: Cái đó là người ta thêm, sau này người ta thêm để làm cho hay vậy. Tức là làm khổ mình đó. Ăn cái vỏ mà nó bắt mình phải nuốt. Thì như vậy làm khổ mình, nó có tốt lành gì trong đó, nó đâu có trí tuệ đâu. Cái đó lại là khổ hạnh.
Đối với Thầy, Thầy nói thật sự ra cái gì phi lý là mình không chấp nhận, bởi vì đạo Phật đạo trí tuệ mà. Mà trí tuệ trong đạo đức, đạo đức tức là không làm khổ mình. Mà mình ăn vậy nó nguy hiểm cho cơ thể mình, thì tức là mình thiếu đạo đức với mình rồi. Cái đạo đức nó quay ngược trở lại.
Mình đối với mình mà mình làm cho nó khổ thì tức là mình đã thiếu đạo đức. Cũng như người ta chửi mình mà mình tức sân lên, tức là mình thiếu đạo đức với mình rồi, mình đã làm nó khổ. Quay ngược trở lại mình mới thấy cái đạo đức của mình đối với mình. Còn quay ra thì đạo đức của mình đối với người khác đừng làm khổ ai thì đó là đạo Phật đó.
Bởi vậy Thầy nói thật sự ra Thầy xây dựng cái đạo đức của đạo Phật để cho người ta thấy được con đường giải thoát của đạo Phật thực tế mà. Thực tế ở trong cái đạo đức. Bởi vì trí tuệ với giới hạnh, giới hạnh là đạo đức chứ gì? Đạo đức với trí tuệ nó kèm theo, nó cặp theo hai cái này nó đi song song với nhau mà. Cho nên đâu có ngu si gì mà mình làm mình thiếu đạo đức. Mình làm khổ mình là thiếu đạo đức rồi.
Sư Tuệ Tĩnh: Con có quen với nhiều người đó Thầy, họ cũng đệ tử của Thầy Thanh Từ. Họ sống biệt lập ở ngoài. Họ có miếng vườn rồi họ trồng cây. Rồi họ nhờ vào cái số đó mà họ sống. Chứ không có đi y bát như đức Phật ngày xưa. Cái đường lối sống để tu tập như vậy nó có đúng với chánh pháp không hay là?
Trưởng lão: À thật sự ra con người không thể nào mà tự mà sống, mình có tiền bạc hay cái gì đó, mình có cái vườn cây mình sống đi, người đó coi vậy chứ họ là người chủ vườn rồi. Nghĩa là bây giờ mình muốn sống nó thì mình phải chăm sóc nó. Mà chăm sóc nó là không phải đúng cách Chánh nghiệp rồi, nó là Tà nghiệp rồi. Cho nên mình sống là mình phải du Tăng khất sĩ, mình đi xin chỗ này, chỗ kia mình sống mới đúng hạnh.
(02:26) Còn không đó thì ví dụ như quý Sư đến đây. Ví dụ bây giờ mình không có đi ra ngoài mình xin được, thì mình đến nơi cái tu viện, cái chùa nào mình xin người ta lo cho mình thôi. "Tui xin cơm mấy người, mấy người có thì mấy người cho, mấy người không có thì tui ra chỗ khác tui ở tui xin. Có vậy thôi ai có lòng cho tui ở".
Đó Thầy trong những ngày mà Thầy đi du Tăng khất sĩ cũng vậy, Thầy đi tới chùa này, chùa kia Thầy xin. Ai cho Thầy ở đó năm ba bữa, Thầy đến chùa khác Thầy không có xin. Nghĩa là Thầy không có chùa, không có của cải, nhưng mà Thầy tu rất là tốt. Bởi vì Thầy xả tâm đó.
Còn họ làm vậy chứ họ dính. Họ có cái pháp họ tu nhưng mà pháp họ tu, họ bị dính, họ không có xả đâu. Họ sống chết với cái khu vườn của họ, cái nhà của họ, dù là nó xấu đi cũng là cái cốc, cái thất của họ. Họ dính, họ đi họ không nỡ, họ còn thương tiếc nó hà. Rồi vì cái cuộc sống họ đó, họ phải sống họ phải chăm sóc. Họ chăm sóc, họ trở thành một nhà làm vườn. Còn không thì họ làm ruộng mà sống thì coi kể như. Bởi vì Thầy nói những cái điều kiện mà các Tổ của bên Trung Hoa đó, như tổ Bách Trượng đó, nói: "Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực". Một ngày không làm, một ngày không ăn thì cái này là ông nông dân rồi.
Thầy nói "ông nông dân chứ ông không phải là người tu của đạo Phật đâu. Cái này là Tà nghiệp chứ không phải Chánh nghiệp đâu. Cái này là đối với xã hội chủ nghĩa thì hay chứ còn đối với đạo Phật thì không hay chút nào đâu, ông không có giải thoát đâu". Thầy xác định mà "mấy ông Tổ này là mấy ông Tổ chỉ biết làm ăn thôi".
Còn đối với đạo Phật thì bây giờ chúng ta khéo léo, chúng ta xin Phật tử: "Bây giờ quý vị giàu có, quý vị giúp đỡ cho các Sư người ta ăn người ta tu. Người ta tu thật sự người ta xin ăn để người ta giữ được cái Chánh hạnh".
Ngày xưa đức Phật đi xin ăn. Đức Phật là con của một nhà vua và đệ tử của đức Phật là toàn là những hạng vua không. Nhưng mà đức Phật vẫn đi xin ở ngoài dân gian, chứ không phải là xin của vua không đâu. Lẽ ra thì ông vua ổng bao giờ ổng để cho ông Phật mà phải sống đi xin như vậy, nhưng mà ông Phật không chấp nhận.
Thầy cũng vậy. Bây giờ Thầy ở đây thì suốt đời Thầy ăn hoài không hết chứ gì. Nhưng mà Thầy không chấp nhận điều đó đâu, Thầy đi xin chùa này chùa kia. Thầy không xin ngoài dân gian nhưng mà chùa bây giờ giàu quá Thầy tới Thầy xin. Họ cho Thầy ăn không hết mà, họ đã nấu ở sẵn chùa, thì cần gì phải xin dân gian.
Cho nên Thầy đi chỗ này, chỗ kia điều kiện là để xin. Ai nấu gì cho ăn nấy không chê dở, chê ngon. Bởi vì họ cho mình ăn mà đâu có chê. Còn nhiều khi mình ở chỗ này, chứ nhà bếp mà cho mình ăn dở mình chê, không được rồi. Bởi vì mình có quyền mình trụ trì rồi. Còn Thầy coi như là Thầy đến chỗ khác Thầy đâu có trụ trì đâu. Đó là Thầy phi được cái tâm danh lợi của Thầy rồi.
(04:55) Rồi đi đó Thầy không ở đây, Thầy xin cô Út cho Thầy ít tiền để mà Thầy đi xe. Rồi bắt đầu kêu xe vô chở Thầy thì bắt đầu cô Út trả tiền xe. Rồi gởi tiền xe đó, trả tiền xe, Thầy đi đến cái điểm nào đó thì cái người lái xe này, họ ra đó họ trả tiền xe cho Thầy đi. Thầy cũng khỏi cần cất giữ tiền bạc, cuộc đời Thầy khỏe re, Thầy không có tiền. Nhưng mà đến đó Thầy ở thời gian đó, rồi đó Thầy đi đó thì Thầy xin vị trụ trì ở đó cho Thầy giúp Thầy mua vé xe hay là cho Thầy lên xe. Thì kêu cái người đến chở Thầy đến đó mua vé xe, Thầy lên xe. Thầy đến cái địa điểm đó thôi, Thầy xuống xe, Thầy không cất giữ tiền bạc, đến đó xin ăn. Cuộc đời Thầy là du Tăng khất sĩ thật sự, không cất giữ tiền bạc.
Mà đến đâu Thầy xin ở đó. Mà cái phước báu dữ lắm, coi như là không thấy được. Người ta rất là quý trọng, người ta rất kính nể mình. Mà tự tâm mình, mình cũng thấy thanh tịnh, không bị sai, không bị cái gì. Mình đi đến đó thôi, chứ mình cũng không có tiền mình đi nữa, nó không có sai mình đi bậy. Chứ còn có tiền nhiều khi "ờ thôi tới chỗ này, cái điểm này, chùa này, thôi mình ghé thăm cái người này chút".
Thì có tiền mình mới đi được, chứ không tiền bây giờ nữa đường mình xin ai giờ đây, biết ai cho mình. Thôi! Mình tới địa điểm này thôi, không có đòi hỏi nữa. Rồi từ địa điểm này muốn dời đi địa điểm khác thì nó có nhất định cái chỗ đó, không có đi chơi bậy bạ được. Đó nó thu thúc mình ở trong cái khuôn khổ của nó.
Mà chính chỗ đó là đức Phật đã dạy rồi: "Không nên cất giữ tiền bạc". Vì cất giữ tiền bạc nó sai mình chạy lắm. Hay lắm! Tại bởi giải thoát nó giải thoát hoàn toàn, nó làm cho tâm mình nó nhẹ nhàng, nó thanh thản lắm, nó không còn vướng bận. Chứ mình cất giữ tiền bạc nó lại không có được như vậy. Cho nên từ đó mình mới thật sự ly, ly sạch là cái tâm của mình nó mới, nó gan dạ lắm, nó không có sợ nữa.
Còn cái hơi bây giờ mình nhút nhát lắm. Bởi vì không biết có tiền đi rồi, lỡ đi rồi, rồi không biết tới đó rồi làm sao đây, nó lo lo. Còn Thầy thì bây giờ nó không còn lo nữa, nó hết rồi. Tại vì nó đã thuần thục từ cái tâm cho đến cái hành động sống hằng ngày. Nó quen rồi, còn các sư thì cũng chưa có quen về cái hạnh đó được.
Sư Phước Nhẫn: Cũng còn dính mắc chút chút.
(07:09) Trưởng lão: Bây giờ đó, coi như là mình chưa có đủ cái khả năng mình phải tu. Mình tu mình xả hết rồi, cái tâm mình mới vững rồi nó không lo. Thầy nói đến nỗi mà Thầy ví dụ như bây giờ lỡ đường đi nữa, xe cộ mà lỡ đường đi, moi bình bát ra đi xin. Công an có bắt thì Thầy không có ngán đâu.
"Ờ mấy ông bắt cái người mà gian xảo, chứ còn cái người tu thật thì mấy ông bỏ trong khám thì kể như là ở đó cũng tu chứ không gì đâu sợ. Tại vì cái duyên bây giờ xe cộ nó lở đường nó hư rồi bây giờ nó nằm đây, nó không có tới địa điểm này được. Thì đúng giờ ngọ bây giờ nó không có cơm ăn thì tôi đi xin ăn, chứ bây giờ không lẽ tôi nhịn đói, tiền tôi đâu có ở đây mà tôi mua. Vậy tôi phải ôm bát tôi đi xin thôi, để tôi sống, chứ không ấy là tui chết đói hay sao? Mấy ông nghĩ sao? Còn không ấy mấy ông cứ cho cơm tôi ăn đi, rồi tôi đi về xe tui đi, có vậy thôi".
Không ai bắt Thầy hết nên Thầy không sợ ai hết. Còn mấy người mà mới nhút nhát đó sợ đi vầy công an rồi nó bắt này kia rồi bị. Giáo hội có ra lệnh đó "người nào đi xin đồ nó bắt".
Thầy nói: "Giáo hội ra lệnh thì ra, làm cái gì người tu mà ra lệnh được". Chỉ có mấy cái người mà người ta mạo danh đó người ta sợ thôi, những người mà thật tu không phải.
Trên bước đường Thầy đi du Tăng thì chắc chắn là một thời gian nữa là Thầy cũng ôm bình bát Thầy đi. Thầy cũng mang y như quý sư Thầy đi, đi đâu Thầy cũng mang y như vậy Thầy đi, Thầy đi xin ăn.
(08:35) Sư Tuệ Tĩnh: Con định dâng Thầy một bộ y mới. Nhưng mà không biết Thầy có mặc bộ y đó không hay là như thế nào?
Trưởng lão: Thầy có Thầy có y chưa rách. Có Thầy có mấy y.
Sư Phước Nhẫn: Chứ y mới con cũng còn nhiều đó. Để con cũng không có làm gì. Con thấy con để cũng không có mặc nhiều.
Trưởng lão: Thầy ít có mặc lắm, Thầy ít có mặc. Coi như thỉnh thoảng như làm lễ gì đó, hôm qua Thầy làm lễ Thầy mặc. Rồi như khi nào mà Thầy, đêm nào mà Thầy ngồi thiền đồ đó. Bởi vì mình ngồi thiền mình thực hiện cái tướng phước điền mà. Chứ mình đâu có ngồi thiền mà cái kiểu mà như các sư, các Thầy mà bên Bắc tông muốn ngồi sao thì ngồi. Ngồi thiền là mình phải thực hiện tướng phước điền, là mình phải vấn y đàng hoàng, không được hở hang.
Cho nên vì vậy mà đêm nào mà Thầy ngồi thiền mà Thầy nhập định là đêm đó là Thầy. Sáng thấy Thầy quét mà Thầy mang y theo đó, là đêm đó là Thầy nhập định để phục hồi lại cơ thể của mình nó đã bị hao hụt mất đi khi mình làm việc nhiều quá. Còn không thì thôi, Thầy không thấy Thầy mặc y đó đâu thì không có ngồi thiền. Cho nên Thầy khi nào mà, bởi vậy Thầy học đạo đức rồi, giới luật của Phật rồi, làm cái gì Thầy phải làm theo đúng cái tướng phước điền của nó hết, chứ không có nói làm lôi thôi được.
(09:50) Bởi vì cái đó là thể hiện. Thí dụ như bây giờ thình lình có một người nào, mình đang ngồi thiền nè, mà mình ở trần mình ngồi. Thì người ta đến đây đâu phải tướng phước điền đâu. Là một cái ông võ sư, hay hoặc là cái ông võ luyện võ nào. Bây giờ ông tập luyện để mà ổng vận dụng nội công, ổng kiểu này, ổng ngồi trần ổng vận dụng nội công, chứ đâu phải người tu. Người tu là y áo người ta mặc đàng hoàng người ta ngồi thiền. Cho nên khi mà người ta vào hơi thở mình không thở, người ta thấy mình y áo đàng hoàng người ta biết mình chơn tu rồi. Đó vậy đó, người ta kính trọng mình.
Cho nên Thầy nói thật sự cái y của Thầy là sử dụng đúng. Thầy không. Tại sao người ta nói: "Sao Thầy lại vấn y Nam tông mà không là đắp y Bắc tông, mà Thầy lại mặc chiếc áo của Bắc tông?".
Thầy nói: "Chiếc áo này là chiếc áo dài của dân tộc Việt Nam, Thầy là người Việt Nam”. Cho nên Phật giáo đến Việt Nam Thầy vẫn là mặc chiếc áo Việt Nam. Nhưng mà cái oai nghi tế hạnh của một đức Phật ngày xưa, khi Thầy làm cái việc Phật sự là Thầy phải vấn y áo của đức Phật. Còn Thầy tiếp khách, Thầy vẫn là người Việt Nam, Thầy mặc chiếc áo này Thầy tiếp, Thầy quý trọng mấy vị khách. Thầy có cái tinh thần của Thầy lắm. Thầy là người Việt Nam, chứ không phải Thầy người Ấn Độ. Cho nên Thầy luôn luôn Thầy mặc chiếc áo của dân tộc.
Thầy không mặc chiếc áo tay rộng của Trung Hoa đâu, cái áo tay rộng đó là Trung Hoa. Người ta nói y hậu đó, cái hậu là cái áo phải rộng, còn cái áo này là cái áo dài của dân tộc. Còn cái áo mà Thầy mặc cái áo trong này có cái vạt miễng là cái áo bà ba của dân tộc mình, kèm theo cái miễng để gọi là cái áo tu.
Cái người dân bình thường người ta mặc chiếc áo bà ba thì người chỉ có gắn hàng nút ở giữa thôi. Còn mình tu sĩ thì kéo thêm cái miễng này để cho thành dạng tu sĩ. Nhưng mà chiếc áo bà ba đâu mất, đâu mất cái dạng của nó. Sau này mình may cái áo vạt miễng này nó dài thòng xuống vầy, chứ còn sự thật ra nó ngắn gọn cũng như chiếc áo bà ba của người dân của Việt Nam mình.
Còn lấy cái màu đà này là cái màu của người miền Bắc, cái màu xuất xứ của dân tộc của mình. Chứ đức Phật người ta chọn cái màu như mấy sư mặc đó, chứ đâu có chọn cái màu này. Đây là cái màu của dân tộc, cái màu nông dân.
Thầy thấy mình là cái người dân Việt Nam mình gần gũi, tinh thần dân tộc. Cho nên Thầy hành Phật sự đó, tất cả mọi cái Phật sự đều là Thầy vấn y, y như mấy sư. Mà chứ Thầy không có đắp y Trung Hoa. Bởi vì Trung Hoa nó chế ra, nó không phải là của Phật. Cái hình ảnh của Phật nó không giống vậy. Đó là của mấy sư đẻ ra, chiếc áo tôn giáo của mấy sư.
Sư Tuệ Tĩnh: Đó mấy lúc sau này mấy ổng còn đội mão, đội đồ nữa Thầy.
(12:34) Trưởng lão: Đó thì mão Tỳ Lư đồ đó. Bởi vì theo cái phong kiến của nhà Vua thì các quan mà vào chầu Vua đều đội mão. Mà cái ông Thầy chùa là Quốc sư mà lại cái đầu để trọc không đội có mão thì không được. Ông Vua ổng chế ra cái mão cho ông Thầy chùa đội. Kiểu là chế cái mão làm quan ở trong triều, gọi là Quốc sư.
Sư Phước Nhẫn: Chế lần lần hết.
Trưởng lão: Lần lần nó bị thế tục hóa, phong kiến thế tục hóa nó. Nó hóa tôn giáo thành ra nó sai lệch đi. Cho nên Thầy cái gì mà cái của Phật thì Thầy giữ nguyên chất của nó. Nhưng mà cái lúc đó nếu mà người Ấn Độ thì Thầy hoàn toàn làm bằng y vậy hết. Đúng là cái y áo của người Ấn Độ, dân Ấn Độ nó mặc như Thầy, như quý sư vậy đó, phải không? Người dân của nó, nó cũng vậy hà. Chứ đâu phải đó là chiếc áo của dân tộc của người ta mà. Nhưng mà cái màu sắc thì nó phải chọn khác, tại vì mình tu sĩ. Đó nó vậy thôi, nó khác màu.
Còn dân tộc Việt Nam thì không có mặc những cái đó. Nhưng mà họ may cái áo họ mặc, do đó mình tùy thuận. Nhưng mà dù sao đi nữa cái chiếc áo, cái y của Phật cũng là cái người ta đã nhìn thấy được cái tôn giáo. Còn mặc cái áo như Thầy thì người ta nói người ta không có thấy cái tôn giáo, mà người ta thấy mấy ông Thầy chùa, người ta coi rẻ lắm Sư.
Thầy nói thật sự đó, họ nhìn chiếc áo này, bị chiếc áo này nó làm bậy bạ đủ thứ hết. Cái chiếc áo này nó có vợ, có con nữa, nó uống rượu, rồi nó ăn thịt nữa, cúng bái tụng niệm làm những chuyện mê tín đủ thứ hết. Nó coi giờ, coi ngày tốt xấu, nó bói khoa, cái chiếc áo này, nó đủ các thứ hình dạng hết.
Sư Phước Nhẫn: Còn hơn ngoài đời nữa.
Trưởng lão: Nó hơn ngoài đời, họ coi rẻ lắm. Họ coi đến, họ xem thấy cái chiếc áo này họ coi nó rẻ luôn người mặc. Nhưng mà chiếc áo của quý Sư đó, họ cảm nhận, họ biết đó là Phật giáo. Còn cái này cái thứ gì đâu, Phật giáo gì đâu, kỳ lắm. Nhưng mà nó là chiếc áo dân tộc. Họ mang chiếc áo này họ làm bậy, ảnh hưởng lắm, khổ lắm, thấy khổ rồi đó.
Sư Phước Nhẫn: Bữa nay Thầy nói tụi con mới hiểu cái ý đó.
Trưởng lão: Chứ thật ra thì người ta nói: "Tại sao mà Thầy đi vào Nguyên Thủy Nam Tông mà sao Thầy không ăn mặc giống như quý sư?". Thầy nói: "Đâu phải". Mà tại sao Thầy cũng không Bắc tông hoàn toàn?
Đúng là Thầy từ Bắc tông mà Thầy đi đến Nam Tông. Từ cái chỗ tu tập của Thầy nó chuyển dần đến Nam Tông. Mà Thầy đến Nam Tông Thầy cũng không phải là vào ở trong cái giáo hội của Nam Tông mà xuất gia. Mà Thầy đến cái Nam Tông với cái pháp môn của Phật.
Sư Phước Nhẫn: Nhờ cái pháp môn chuyển hóa.
Trưởng lão: Chuyển hóa để mà giải thoát được khổ đau. Và thông suốt được cái giáo pháp chơn chánh của đức Phật. Và cũng từ đó Thầy muốn làm sáng tỏ ra. Cho nên quý Sư gần gũi với Thầy lắm.
(15:17) Sư Tuệ Tĩnh: Dạ, với trở lại pháp hành đó. Hổm rày con thấy cái tâm mình nó tạp niệm nhiều quá. Gần hai ngày nay nó phóng dật, tạp niệm, vọng tưởng tùm lum hết trơn đó. Mà con không cái nguyên do làm sao?
Trưởng lão: Cái nguyên do không biết sao phải không?
Sư Tuệ Tĩnh: Dạ, con mới truy ra đó thì con nói một đó là tại mình tham cái vụ mà thanh tịnh mình hành nhiều quá đi. Không lẽ hành nhiều quá mà nó nhức đầu thì nó tạp niệm. Với thứ nhì nữa cái lo nữa là vấn đề lo ở đây không biết được có lâu không để mà tu tập. Bởi vì ở đây thì phải có cái giấy tạm trú, tạm vắng.
Mà con lo cái giấy tạm trú, tạm vắng con gọi điện thoại về người ta đòi con hai trăm. Con gửi xin tiền được con gửi hai trăm ngàn về. Rồi mười ngày sau nó cũng không gửi giấy lên. Cái điện thoại, nó nói gửi rồi. Con nói gửi rồi sao không tới. Rồi nó nói nó lạc. Nói thôi vậy làm cái sau đi gửi bảo đảm, bị lần thứ nhất con dặn gửi bảo đảm. Nói ừ làm lần thứ nhì gửi bảo đảm lên trên này tới bữa nay cũng chín ngày con cũng không thấy nữa. Trong bụng nó cũng run quá đi không có rủi ở dưới đây tu tập không được với Thầy nó cả một vấn đề tiếc.
Bị gì đi mấy cái chùa khác thì nó không có cái pháp học, không có pháp tu. Ở đây thì con thấy nó đúng chuẩn. Mà giờ thiếu cái phần đó, bởi nó cũng hơi lo. Bởi vậy lúc đầu Thầy gặp con Thầy có nói: "Nhiều khi nó không đủ duyên thì đi vô công an thì sao?"
Con mới nhớ lại có lẽ Thầy tuyên đoán trước Thầy nói con ghê quá. Giờ hai ngày nay tu không có được. Vô ngồi cái thì nó phóng tâm. Mình đi kinh hành chút xíu nó cũng phóng tâm, nó tạp loạn tùm lum không có gì được hết. Mình xách chổi quét thì quét nó cũng không, mọi lần quét thì biết quét, bây giờ quét nó cũng không biết luôn nữa. Nhờ Thầy dạy con với.
(17:06) Trưởng lão: Bây giờ đó mình cứ đặt thành cái vấn đề. Mình chỉ là một người quyết tu thôi không còn sợ hãi cái gì nữa. Sống chết còn không lo mà huống hồ lo cái thứ lặt vặt đó làm gì. Ờ cái duyên phước mình tu là phải chuyển hóa được cái nghiệp. Sẽ có giấy tờ hẳn hòi không có lo, bây giờ cứ lo tu mà thôi. Ờ mà nếu mà cái nghiệp của mình nó tới đâu thì mình giải quyết tới đó. Thì sẽ an tâm và vì vậy mình không có lo. Nghĩa là mình cứ tu để mình chuyển hóa.
Còn mình bây giờ có lo cũng không có chuyển được nó đâu. Ờ bây giờ mình làm hết phận sự rồi, mình gửi giấy, gửi này kia rồi đó cho người ta làm, gọi điện thoại cho người ta làm. Người ta có gửi không gửi kệ nó cứ ở tu đi, chừng nào chúng bắt hả hay. Đó, thì chừng đó Thầy giải quyết chứ không gì.
Sư Phước Nhẫn: Dạ, cứ yên chí như vậy.
Trưởng lão: Chứ bây giờ mà cứ mình lo cũng không được đâu. Mà bây giờ nó không đủ duyên, bây giờ có muốn ở cũng không được. Thầy nói thật sự bây giờ cái duyên mình nó chưa đủ mà. Mặc dù mình biết tốt, nhưng mà vì hoàn cảnh xã hội nó chưa cho phép.
Thì duyên này chưa đủ thì, bởi vậy Thầy mới nói là Thầy sẽ xây dựng một cái trung tâm an dưỡng ở ngoài kia kìa. Để cho Tăng, Ni và cư sĩ người nào xin vào nghĩ ở đây, an dưỡng ở đây thì nhà nước cũng phải cho phép chứ không có. Bởi vì đã chấp nhận Thầy, giấy phép này cho mở cái trung tâm an dưỡng chứ gì? Thì người ta về đây người ta nghĩ một tháng, hai tháng, một năm, hai năm tùy theo người ta muốn nghĩ an dưỡng ở chỗ cái khu này, cái thời gian nào đó thì người ta đến người ta xin.
Thì bây giờ Thầy đăng ký với nhà nước là cái người này người ta có đến xin an dưỡng ở đây. Thì cái này là nhà nước chấp nhận cái khu an dưỡng chứ không phải để cái chùa, cho nên họ đâu có đến đây tu. Vì vậy mà các sư sẽ xin đến đây an dưỡng thì các sư sẽ yên ổn mà vô an dưỡng, mà tu vậy suốt cuộc đời của mình cũng không sao hết.
Sư Tuệ Tĩnh: Như ở Phước Sơn đó Thầy, chùa Phước Sơn con ở đó. À hàng trăm người một khóa thiền vậy đó, không có cần đăng ký đăng gì hết. Quý sư lại đó cứ lại ở ở thôi à, không có ai nói năng gì hết trơn. Mà ông Trụ trì lâu lâu cái ổng đi bì thơ, bì thơ cho mấy cái kia rồi thôi, không có sao hết trơn. Không có ai nói năng gì hết trơn, không có giấy tờ gì trơn trọi.
Trưởng lão: Thì đó, phải đi cho tiền nữa.
Sư Tuệ Tĩnh: Dạ, Lâu lâu cũng lì xì, lì xì.
Trưởng lão: Bỏ thơ vô à.
Sư Tuệ Tĩnh: Còn cái chuyện an dưỡng đó Thầy xin phép chưa Thầy?
(19:09) Trưởng lão: Thầy sẽ xúc tiến Thầy lo cái vấn đề kinh tế xong rồi, tức là mở mấy nhà máy đó. Thì coi như là mấy người cư sĩ đó, giờ coi như là chú Tâm đó chú tập hợp chú giải quyết mấy cái nhà máy này, đặng mở mấy cái nhà máy này. Bắt đầu nó chạy đặng có kinh tế đó, rồi bắt đầu hồi sáng này mà Thầy tiếp với hai người đó đó. Họ cũng là những người mà làm kinh tế để mà lo. Khi mà những kinh tế này nó có rồi thì bắt đầu cái trung tâm này xin phép dễ lắm.
Bởi vì coi như là nhà nước họ ở ngoài đó thì đã trình họ cái dự án về cái trung tâm này rồi mà. Từ ở xã, rồi huyện, rồi tỉnh nó đã thích rồi. Kêu là nó mời Thầy biểu Thầy ra cứ tụi nó sẽ cho phép. Bởi vì nó đọc Thầy đưa gửi cho tụi nó đọc hết rồi. Thầy sẽ xin phép làm, cái khu đất Thầy mua là mục đích làm như vậy ở khu vực tụi nó mà. Bây giờ nó đã đồng ý rồi, nó mời Thầy, nó cứ kêu gọi nhắc Thầy hoài. Nhưng mà Thầy bây giờ phải làm những cái nhà máy có những kinh tế, rồi mới ra ngoài này xây dựng. Nghĩa là tổ chức một cái đời sống chúng ta vô đó tu là đi xin ăn không à, ở trong đó hẳn hòi à.
Mà cái đời sống nghĩa là vô đó thì coi như cũng như là một cái khu mà đức Phật ngày xưa, mà người cái nhà tranh vách lá nhỏ nhỏ, nhỏ nhỏ, rải rác ở trong cái triền núi, cái khu núi, ở chân núi Minh Đạm đó. Chúng ta vô đó cái người Thầy cấp cho cái thất đó rồi, điện nước Thầy truyền tới nơi, tới chỗ. Tới giờ cái xin ăn rồi về tu, tu như vậy đó, sống độc cư không có được.
Sư Tuệ Tĩnh: Chắc còn một hai năm nữa mới chắc được.
Trưởng lão: Thì cái lẽ rằng nó phải có thời gian, mà Thầy nói rằng cái phước nó không chừng, cái phước mình nó đủ thì nó sớm. Còn cái phước nó chưa đủ thì nó còn kéo dài lâu, là vì cái kinh tế làm nó trục trặc.
Sư Tuệ Tĩnh: Về cái phần làm kinh tế con cũng có cái ý là Thầy làm cái hội bảo trợ viện an dưỡng đó. Hội viên gồm tất cả Phật tử trong nước và ngoài nước, họ phát tâm trong một tháng họ hùn phước bao nhiêu vậy đó. Thì cái nguồn kinh tế đó là căn bản cộng thêm cái phía nhà máy.
Sư Phước Nhẫn: Dạ với lại con cũng góp ý thêm. Ví dụ ở bên ngoại quốc đó Thầy nó có cái là những Phật tử cúng chùa đó, hay là cúng cho nhà thờ hay gì đó thì cái số tiền đó nó được trừ thuế. Thì nếu mà mình có làm cái reship đó. Mình làm hai thứ chữ để đặng mình có thể mình gửi cho họ về bển đó họ lấy cái đó họ trừ thuế lại. Thì không bao nhiêu nhưng mà Phật tử họ muốn như vậy đó, họ thích vậy đó. Dạ con thấy vậy.
Sư Tuệ Tĩnh: Phật tử ở bên Mỹ, bên Úc, rồi bên Pháp bên đồ của Thầy họ có ra đó cái tổ chức nhiều, cái bắt đầu họ vô danh sách. Cái mỗi tháng họ gửi về cho mình bao nhiêu đặng có cái nguồn thu chắc ăn.
Trưởng lão: Cái đó cũng là cái hay đó.
Sư Tuệ Tĩnh: Cộng thêm cái nguồn thu là cái ban ngoại giao đi xin mấy ông tỷ phú đó Thầy. Con cũng có biết mấy cái chuyện, mấy cái chỗ mà ăn chơi của mấy ông tỷ phú xài tiền một cái là mình góp cả năm không bằng. Thì con thấy nó ăn chơi không, thì chưa có lại đó nữa, cũng tổ chức ăn uống đồ vậy đó, nhưng mà làm việc từ thiện. Cái đó cũng như là cái model nó như vậy, model làm từ thiện. Cho nên mình vô ngay chỗ đó được là mình xin một cái, cái là mình xài một năm cũng không hết nữa.
Trưởng lão: Trời mình được vậy đó mà mình ăn ngày một bữa mình ăn sao cho hết.
Sư Tuệ Tĩnh: Dạ hễ mà một bữa ăn trưa của nó là mười nghìn đô là bình thường.
Trưởng lão: Trời đất ơi!
Sư Tuệ Tĩnh: Đó, còn ăn sáng là một ngàn đô, nhưng nó xài vậy là nó xài bình thường, vì nó tỷ phú rồi mà.
Trưởng lão: Quá trời!
Sư Tuệ Tĩnh: Đó, thành ra vô mấy cái chỗ đó mình vô mà nó chịu mà phát tâm mà nó giúp mình một cái hay không.
(22:32) Trưởng lão: Với nếu mà nó thấy được mà mình tu hành sống đúng nghiêm túc như vậy, nó phát tâm được là kể như nó nuôi mình đó thì coi như mình hết lo rồi.
Sư Tuệ Tĩnh: Bên cạnh cái hội bảo trợ thì có cái ban vận động của mỗi nước đó. Đi lại mấy cái hội từ thiện với mấy chỗ người ta chuyên môn làm mạnh thường quân đó cái mình xin để mình có cái nguồn thu nó vững lắm.
Trưởng Lão: Hay quá ha.
Sư Tuệ Tĩnh: Cái đó nó không có trồi sụt nhiều. Chứ cái chương trình này con thấy nó lớn lắm Thầy ơi không có nhỏ đâu. Bị gì cái con cũng nghĩ hồi xưa con ở Biên Hòa đó, thì lúc con còn đi học thì con có người bạn cũng tu trong đạo Thiên Chúa. Thì ở trên Hố Nai người ta làm nguyên cái nhà thương lớn lắm bây giờ họ bàn giao lại cho nhà nước. Trong đó mấy Sơ với mấy Cha đó là làm y tá với điều dưỡng được luôn, với có y tá ở ngoài, bác sĩ ở ngoài luôn. Hoàn toàn ở đó là nhà thương miễn phí không hà. Họ lập cái nhà thương cũng rất là lớn đầy đủ tiện nghi.
Trưởng lão: Ừm, bên Thiên Chúa.
Sư Tuệ Tĩnh: Còn bên Phật giáo mình hồi đó tới giờ thì không có cái đó đó. Toàn là cất cái chùa to Phật lớn không à, còn mấy nhà thương thì không ai làm hết đó Thầy ơi, còn Thiên Chúa họ làm rất là hay. Còn Thầy làm được một cái đó là coi như là nổi tiếng đó.
Trưởng lão: Nói chung là Thầy đang nghĩ tới những lợi ích cho xã hội.
Sư Tuệ Tĩnh: Khác với là họ tụ tập ủng hộ nhiều lắm.
Trưởng lão: Thầy sẽ cố gắng Thầy làm chứ. Nhưng mà cái chính của Thầy là Thầy nhắm vào cái khu vực chuyên tu này để mà giúp cho. Còn cái này là chỉ làm việc xã hội. Từ cái xã hội này người ta thấy đúng và cái đường tu nó đúng. Thì cái xã hội này người ta đến đây an dưỡng người ta thấy đúng, người ta hỗ trợ nữa để mà phát triển cùng nhau đi đến với đạo Phật. Mình đem cái đạo đức dạy cho cái xã hội.
Sư Tuệ Tĩnh: Trong đó mình tổ chức độc cư cho cư sĩ đó, mình làm một ngày đến bảy ngày họ thích độc cư họ cũng vô họ cũng tốt.
(24:16) Trưởng lão: Đó! chính là Thầy biết là Thầy dạy cho họ theo kiểu thọ Bát Quan Trai đó. Người mới thì đến trong mười hai tiếng đồng hồ, người lâu lâu thì được một ngày, một đêm. Lâu nữa thì được ba ngày, ba đêm rồi một tuần lễ, hay năm ngày. Đó, Thầy đã ở đây Thầy tổ chức, Thầy thấy mấy cư sĩ họ sống được, họ tu được, rồi cách thức các pháp có pháp tu rồi họ thấy họ thích lắm.
Đó như cái chú cư sĩ ở gần đây thôi, cứ mỗi tháng nào cũng về đây hết, thọ Bát Quan Trai. Tập dần mà, tập dần cho nó quen, quen đến khi mà nó đủ duyên rồi cái mình ly gia cắt ái luôn. Gia đình nó cũng không có, nó thấy nó cũng sung sướng. Cả cái gia đình người ta cũng đều hướng theo cái tu hành. Người ta có ra đi mình cũng về, mình ở lại tập tu, phải tập dần.
Mà cái cơ sở ở ngoài đó mà được vậy, cái số cư sĩ cũng đông lắm đó, Thầy cho một cái thất ở đó. Ở đây bởi vì nhà nước khó khăn quá. Thầy thì không có bỏ phong bì, chứ còn Thầy bỏ phong bì chắc cũng được. Nhưng mà Thầy không có làm điều đó, Thầy sợ nhà nước đánh giá mình chỗ đó. Chứ làm thì được, đó thì tụi nó ăn rồi. Nhưng mà họ coi mình rẻ, nó ăn chứ nó coi mình giá rẻ mạt, Thầy nói nó khó.
Sư Tuệ Tĩnh: Nó quen ăn rồi Thầy ơi. Chứ không có đánh giá đâu, còn mừng đó.
Sư Phước Nhẫn: Nhưng nó đánh giá mình đó.
Sư Tuệ Tĩnh: Không nó cũng không đánh giá đâu, nó mừng thấy mồ.
Trưởng lão: Nó thì nó mừng một lẽ. Nhưng mà nó mừng ở trong cái tiền bạc của mình cho nó. Mà sự thật ra nó cũng trong thâm tâm nó coi mình….
Sư Phước Nhẫn: Đúng rồi.
Trưởng lão: Còn đối với Thầy bây giờ ở đây, Thầy không cho ăn đồng nào hết. Đó Thầy sống đúng vậy nó rất sợ hãi. Cho nên quý sư đến đây mà ở không giấy tờ đều là nó không dám đến đây quậy Thầy là tại vì nó thấy Thầy biết. Thầy biết rằng giới luật nó sẽ hỗ trợ, chứ còn Thầy không giỏi đâu. Tại vì Thầy giữ đúng giới luật, cho nên giới luật là Thần hộ pháp, nó hộ pháp. Cho nên ở đây mà có người lạng chạng mà xấu thì mai mốt nó quậy đó. Mà Thầy biết thế nào cũng có người xấu trong này chứ không phải là toàn nó tốt hết đâu.
Sư Tuệ Tĩnh: Còn giấy tờ của con đó bây giờ con nghỉ luôn hả Thầy? Ta gửi không gửi thì thôi hay mình nhắc người ta?
Trưởng lão: Bây giờ con cứ nhắc người ta, còn con để người ta gửi không gửi thì kệ nó. Mình cứ lo tu thôi.
Sư Tuệ Tĩnh: Con nhớ tới cái con ngán quá. Đi vô đây ở mà không có giấy thì cũng kì quá.
(26:30) Trưởng lão: Đúng là khi mà không có giấy đó, thì chỉ còn có nước là khi mà nó có hỏi đó nói "tui mới đến, tui mới đến thôi", mình nói mới đến thôi.
Sư Tuệ Tĩnh: Giấy chứng minh đồ con có, rồi cái xác con cũng cho luôn, con có giấy chứng xác luôn rồi. Kể như là con chết bất tử thì gọi điện thoại xe nó lại nó xúc đi. Khỏi có tốn hòm, tốn rương gì hết trơn, nó khỏe lắm. Giấy thì mình có giấy căn cước nữa.
Trưởng lão: Chứng minh đồ này kia đủ hết rồi.
Sư Tuệ Tĩnh: Dạ, không có lo vụ đó nữa.
Trưởng lão: Bây giờ nói: "Ờ tôi mới đến đây thôi, bởi vì nghe chỗ này tu tập tốt và giới luật nghiêm chỉnh, tôi đến để tôi xem xét coi nếu được thì tôi mới xin phép tôi mới về, tôi tạm trú. chứ chưa được đến đây xin rồi tôi không ở, rồi tôi ở một bữa, hai bữa rồi mắc công".
Sư Phước Nhẫn: Dạ.
Trưởng lão: Ở bữa hai bữa, cứ một bữa hai bữa. Thì mình cứ tu tập lần lượt cái. Miễn là ở đây người nào cũng giữ gìn giới, chỉ giới mới hỗ trợ được mình. Cái đức giới nó dữ lắm, nó không có cái tà pháp nó đánh mình nỗi. Chỉ có cái người nào phạm giới ở đây là nó sẽ bị. Một người phạm giới là nó làm động hết cả đám mình. Mà Thầy tin rằng cái số người mà hay tạp nhạp nó hay bị động, bị phá giới lắm.
Mà Thầy nói những người nào mà sống độc cư đừng nói chuyện, đừng có giảng đồ gì hết thì sẽ giữ gìn giới luật được. Hễ là cái người mà độc cư được thì. Còn cái người mà chạy tới, chạy lui, nói chuyện tới lui đó thì mấy người đó sẽ phá giới. Bắt đầu thì vô thì kỷ luật như vậy, chứ lần lượt rồi sẽ phá. Bị gì nó động rồi, nó động rồi thì từ cái động này nó sẽ chuyền theo những cái phá phạm hạnh, phạm giới, phạm giới khác nữa. Rồi khi cái người này phạm giới nó rủ người khác phạm giới. Ma mà, nó quyến rũ, cám dỗ, chứ nó không có để yên cho mình thanh tịnh đâu, chứ không phải dễ đâu.
Đó ví dụ như chẳng hạn bây giờ một người muốn nói chuyện, cái họ làm bộ họ quét quét đi gần mình, cái họ nói mình câu này. Thì từ cái chỗ mấu chốt này nó móc ra từ từ, từ từ đó cái nó quen thân rồi cái bắt đầu nó móc. Rồi nó móc rồi, bắt đầu đó thấy cái người này hút thuốc được cái mình nghe mắc cũng ghiền. Rồi bắt đầu nó rủ mình rốt cuộc mình cũng lén hút thuốc theo. Tội lỗi nó đi từ cái lỗi nhẹ đi tới cái lỗi nặng. Nó đi từ cái đúng đến cái sai, nó đi riết mà nó hư mất. Cái Tu viện này nó đã từng xảy những cái điều đó nó đã qua, nó đã biết.
Hồi mới thì tốt lắm. Bởi vì hồi đó cốc nó ở dày đặc mà. Nghĩa là người nào cũng ở người một thất, người một thất đặc hết, nó trước sau nó đông nghẹt hết con. Thậm chí như cái nhà này phải kê hai cái giường cho người ta ở nữa. Thế mà càng đông chừng nào thì càng nguy hiểm chừng nấy. Họ nói chuyện, họ móc nối, họ này kia đồ. Rồi bắt đầu họ phạm giới, phá giới ra hết, nó không còn cái gì.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra sau này Thầy khép lại kĩ hơn.
Trưởng lão: Thầy kĩ hơn. Nhưng mà điều kiện là Thầy thấy cũng là rất nguy, chứ không phải đâu. Thầy lo lắm. Thầy thấy một người mà vô ở tu là Thầy yên lòng, Thầy không lo. Bởi vì một người đâu còn ai đâu nữa. Cuối cùng thì tới trưa đi xin ăn thôi. Mà ở được thì nó, còn đông người nó có cái vui, nhưng mà có cái vui rồi có cái tai hại. Cho nên khi mà ông Mục Kiền Liên mà ông tu Thiền định, ổng vô trong rừng núi hoang vu ông ở mình, chứ ổng đâu có ở trong Thánh chúng đâu. Ở xa Phật đó, chứ không có ở gần.
(29:40) Sư Tuệ Tĩnh: Trở lại cái pháp hành hồi nãy. Cỡ này con tập đó, ví dụ như là buổi sáng như Thầy nói tập hai lần thì nó không có sao hết trơn, rất là thoải mái đó Thầy. Bởi vì con ham con tập nhiều quá cho nó mau.
Trưởng lão: Không được. Đừng có nghĩ mau.
Sư Tuệ Tĩnh: Rồi bây giờ Thầy chỉ lại cái bài học kế, thì cái lúc trước đó Thầy chỉ một khúc rồi. Hết tuần là bữa nay đúng bảy ngày. Thỉnh pháp Thầy thì hôm nay đúng bảy ngày.
Trưởng lão: Ờ bây giờ cái thời gian đó mình tu ít lại, bây giờ mình tu năm phút, lên năm phút. Nếu một phút bắt đầu tu thay vì hai phút, nhưng mà Thầy nghe nói là năm phút được. Thì mình tu nhanh hơn một chút xíu thì mình tăng lên. Còn nếu không đó thì mình bắt đầu cái tuần này mình tu lên một phút thứ hai. Sau tuần nữa mình lên phút, phút thứ ba. Cứ từng bước, từng bước đi lên, nó vững hơn. Còn mình nhào lên cái năm phút ở đây không biết chừng coi chừng nó, nó té mình xuống đó.
Sư Tuệ Tĩnh: Vậy thì hai phút?
Trưởng lão: Hai phút thôi. Hôm đó một phút phải không? Bây giờ hai phút. Tuần này là phải hai phút.
Sư Tuệ Tĩnh: Mình không có gom tâm ngay lỗ mũi, mình chỉ biết thở vô, thở ra thôi.
Trưởng lão: Biết thở vô ra thôi. Mà nếu nó có tạp niệm xen vô thì mình dùng pháp hướng mình dẫn nó, dẫn nó thôi. Còn nếu mà nó không có thì mình tập hai phút thôi.
Sư Tuệ Tĩnh: Hai phút. Buổi sáng tập có hai lần là bốn phút?
Trưởng lão: Bốn phút thôi, không tập chi nhiều. Còn bao nhiêu thì mình sống bình thường, mình chơi xả tâm đi kinh hành.
Sư Tuệ Tĩnh: Vậy là không có nhức đầu hả Thầy?
Trưởng lão: Lẽ đương nhiên là Thầy dạy không có làm khổ mà.
Sư Tuệ Tĩnh: Con biết, con biết con tham quá con biết. Để thử coi nó thử ra sao.
Trưởng lão: Đừng có, mình khởi tâm tham là không được. À tu sao mà thấy giải thoát là được, không tham muốn gì hết. Từng bước, từng bước đi lên, đi lên, vậy mà nó thời gian nó kéo dài. Còn hể mình làm nó thái quá thì nó sẽ chậm mình lại đó, làm mình rối nữa. Nhiều khi mình không biết đâu mình gỡ nữa chứ đừng nói. Rồi bây giờ về cứ tu vậy đi, bảo đảm.
(31:23) Sư Phước Nhẫn: Còn như phần con đó thì con tu chậm lại nghe Thầy. Trong một phút thôi tại vì con chưa có định tâm được.
Trưởng lão: Đúng rồi thì bây giờ cứ tập tiếp đi. Rồi chừng nào, bởi vì bây giờ một tuần mà mình chưa được thì mình khoan tăng, mình đâu tập được nữa. Mà tuần nữa chưa được mình tập tuần nữa. Thà là một phút này cho chuẩn, chứ đừng vội lên, thà là nó chuẩn phút này rồi bắt đầu mình. Mà không chừng khi mà một phút này đã chuẩn rồi thì mình lên một lần năm phút cũng được nữa. Đó tới chừng mà nó lên nó lên dữ lắm, mà nó cho chuẩn là lúc nào mình cũng được hết, đạt được hết…. Thì tới kỳ mà nó lên là nó lên như diều vậy.
Sư Phước Nhẫn: Bữa nay Thầy có nói cái pháp hướng đó thì có thể con theo cái đó mà để mà dẫn nó….
Trưởng lão: Dẫn nó, dẫn tâm nó. Bởi vì mình còn cái duyên ở ngoài nó động, cho nên mình nhờ nó mình dẫn nó. Còn nếu mà khép chặt ở trong độc cư mà mình thấy cái tâm buông xuôi, nó im nữa thì Sư khỏi cần pháp hướng, để cho tâm mình tự biết hơi thở ra vô. Mà nó tự nhiên đừng gom quá chặt là được, nhớ Thầy nói lời đó.
Cái gì mình tu tự nhiên nghe nó hồn nhiên, nó giải thoát. Coi như mình thở bình thường là mình biết mình thở bình thường. Đừng có tập trung vào mạnh, tập trung cho biết rõ hơi thở đó.
Sư Tuệ Tĩnh: Bởi vậy vô ngồi cái tự nhiên nó gom vô. Cái con nhả ra, nhả lát nó cũng nhảy vô nó gom lại làm như nó quen vậy đó.
Trưởng lão: Đó là nó bị gom đó, nó bị gom nó quen đó. Cho nên mình hể mình xả ra bảo nó "ra là phải ra chứ không có được gom", nó sống lại bình thường.
À mình bảo nó ra nó phải ra chứ đừng có nói: "Ờ bây giờ thiền thì nó tức là nó, khi mà nhập thì nó phải vô mà khi xả thì xuất phải ra, chứ không có được mà khi xả mà cứ vô, không có được". Mình ra lệnh cho nó quen.
Sư Tuệ Tĩnh: Với lại tập nhiều quá cái.
Trưởng lão: Nó thành quen rồi đó.
Sư Tuệ Tĩnh: Tập nhiều quá cái mình không có làm chủ được. Cái thành ra nó bị tạp niệm.
Trưởng lão: Nó nhiều quá nó bị tạp niệm, nó không có dừng.
Sư Tuệ Tĩnh: Tập mà một buổi sáng hai lần thôi, mỗi lần dứt khoát thôi, đâu có tập nhiều không được.
(33:09) Trưởng lão: Đó Thầy nói bởi vậy nó vừa sức mình. Còn mình làm tới mười lần thử coi, tạp niệm nó xen vô chứ. Mặc dù là một phút nó vẫn vô chứ đừng nói, mình tập nhiều quá.
Sư Phước Nhẫn: Hổm rày con cứ hai phút thư giãn, một phút tu, mà cứ liên tục như vậy cả nửa tiếng đồng hồ. Con thấy sao mà lúc đầu thì đỡ mà lúc sau sao nó lung tung quá.
Trưởng lão: Là bởi vì cái sức của mình không đủ đâu mà mình cứ dài quá. Bắt đầu bây giờ thí dụ như một phút mình tăng lên một phút. Mà cũng một buổi vậy mình tu hai lần, phải không một phút. Thì nó làm sao mà không làm chủ được. Đó bắt đầu bây giờ mình thấy một tuần nay mình tu một phút được rồi. Mà một buổi mà có hai lần một phút, mà có hai phút chứ bao nhiêu. Chiều tu hai phút chứ mình đâu có cần tu nhiều.
Sư Phước Nhẫn: Còn nếu mà trường hợp mà một buổi đó mà mình không có định được đó Thầy, thì mình làm lại cái khác được không Thầy?
Trưởng lão: À mình phải tu lại cái khác.
Sư Phước Nhẫn: Phải tu lại cái khác nữa Thầy ha, dạ.
Trưởng lão: Tại cái này bây giờ phút này mình làm không được nè. Thì mình phải tu cho được một cái khác.
Sư Phước Nhẫn: Dạ cho được một cái.
Trưởng lão: Một cái. Rồi mình cho mỗi một buổi như vậy mình tu cho được hai cái. Còn không được phải làm lại, làm lại cho được. "Nhất định là mày phải làm lại một buổi cho được một cái, hai cái".
Mà giờ mình định mình tu hai lần, "thì tức là mày phải làm chủ cho được, một buổi này phải hai lần. Mà giờ không được tao làm lại, làm lại cho được, mà không được nữa tao làm lại cho được". Có vậy thôi, chứ mình không phải tu nó nhiều, mà mình phải làm cho được.
Sư Tuệ Tĩnh: Dạ cái này cái tên nó mình Định Hơi Thở hay là Định Sáng Suốt Thầy?
(34:39) Trưởng lão: Cái tên mình đang tu đó hả? Định Niệm Hơi Thở, chứ chưa phải Định Sáng Suốt. Mà bây giờ tới chừng nào tu Định Sáng Suốt là Thầy dạy, còn bây giờ đang tu cái Định Niệm Hơi Thở. Còn bây giờ hoàn toàn mình xả ra là mình tâm niệm mình khởi lên để mình quán, mình xả tâm thôi. Để cho nó đừng có, an tâm mình chứ đừng có tư duy theo nó nghĩ ngợi cho nó nhiều nó cũng rối ren thêm, mình xả nó ra.
Sư Tuệ Tĩnh: Vì vậy sao có lúc con thấy là hễ mình dụng công nhiều quá cái thân mình nó mỏi mệt, nó quải là cái tinh thần mình nó quải theo, nó không tỉnh được.
Trưởng lão: Nó không sáng suốt nữa đâu.
Sư Tuệ Tĩnh: Còn nhiều lúc con nằm xuống một chút xíu cái con ngồi dậy, trời ơi nó khỏe gì đâu nó vô đề liền. Nó biết hoài hà, mới vô vừa biết, nó biết hoài cái rồi nó nó…
Trưởng lão: Bởi vậy tu riết tu thành sai. Tham quá tu sai hết, trật lất hết hà. Bởi vậy Thầy nói nếu mà không có Thầy mà tu ở chỗ nào chắc là tiêu luôn hết.
Sư Tuệ Tĩnh: Mà nghỉ thì không dám nghỉ, sợ không tinh tấn. Thành ra nó nó…
Trưởng lão: Mình tinh tấn là cái chỗ mình vô trong đó mình làm một phút mà không có niệm xen vô đó, tinh tấn đó. Còn mà mình tu liên tục hoài đó, không phải là tinh tấn đâu, cái đó kêu là mình tham chứ không phải tinh tấn. Tinh tấn là người ta làm, ta làm chủ được dù một ngày người ta tu chừng một phút mà người ta làm chủ được là tinh tấn. Người ta tinh tấn ở chỗ cái pháp người ta đang tu. Còn mình cứ kêu là tham quá nỗ lực tu cho nó mau, chứ sự thật ra nó không có mau đâu tại tham mà. Đã tu mà còn tham.
Sư Tuệ Tĩnh: Nằm cũng sợ, tới giờ nghỉ nó cũng sợ.
Trưởng lão: Chứ đâu phải tinh tấn. Mình nghĩ là mình không có tu vậy đó mình làm biếng chứ gì. Không phải. Làm biếng là ngay khi mà Thầy tu một phút mà Thầy làm biếng cho vọng tưởng nó vô đó, tại Thầy làm biếng chứ Thầy tinh tấn nó không có vô. Thầy nói tinh tấn nghĩa là năng nổ trong cái chỗ đó đó, chứ không phải. Còn mình xả nghỉ là mình nghỉ chứ ai mà không cho mình nghỉ. Chứ không lẽ mình tu suốt suốt ngày. Chỉ có mình nhập định mình mới ngồi suốt ngày được là. Chứ còn bây giờ tôi tu mà đâu phải tôi đâu phải nhập định, tôi tập mà. Phải không?
Mình tập mà mình siêng năng ở trong cái lúc mình tập đó mình phải siêng năng, đừng có để lơ lỏng, lười biếng trong này là làm nó. Cũng như bây giờ Thầy làm cái gì đó mà Thầy lười biếng đó, Thầy làm nó không có rồi cái phút đó. Tức là bây giờ thay vì một phút không vọng tưởng là Thầy siêng năng Thầy làm nó trọn vẹn. Còn cái này Thầy lười biếng ở trong cái phút này cho nên nó xen bậy. Rồi lười biếng tại lười biếng, nó không rồi.
(36:56) Sư Tuệ Tĩnh: Thưa Thầy cái vụ định đó, cái Sơ Thiền chưa có định sao còn có cái tên Bất Động Định hả Thầy?
Trưởng lão: Bất động định tức là….
Sư Tuệ Tĩnh: Nó có chữ định mà sao chuyện nói chưa có định?
Trưởng lão: Bây giờ cái Sơ Thiền phải không? Là nó chưa có định phải không? Nó do ly dục sinh. Nhưng mà cái tâm mình bất động trước các pháp, cho nên nó định là định trước các pháp chứ không phải là cái tâm định. Phải hiểu chữ Bất động định, phải hiểu cái nghĩa của nó. Bất động định là nghĩa là bây giờ người ta chửi mình tâm mình không động, chứ đâu phải mình định. Do mình ly dục, ly ác pháp, ác pháp không có cho nên mình bất động. Cho nên Bất Động Định chứ không phải là Định.
Sư Tuệ Tĩnh: Thành thử cái chữ diễn tả không hết Thầy.
Trưởng lão: Phải không? Thầy nói bởi vậy cái ngôn ngữ mà nó đâu nói được cái nghĩa của nó đâu. Mà vì vậy mà nhà học giả cứ lấy ngôn ngữ mà diễn tả cái nghĩa thì chết rồi. Mình đâu có định, nhưng mà tâm bất động trước các pháp thì nó là định của các pháp đó chứ nó đâu phải là cái định nó ở đây. Hiểu chưa? Nghĩa là Bất Động Định là cái tâm bất động.
Sư Tuệ Tĩnh: Cũng như cái Định Niệm Hơi Thở không lẽ là mình nghỉ thở sao.
(37:56) Trưởng lão: Ờ đó, vậy đó. Nó đâu có nghỉ thở mà lại Định Niệm Hơi Thở. Là tại vì đối tượng đó nó làm cho cái tâm mình nó yên lặng. Nó không có khởi cái niệm được gọi là định. Tức là bất động của cái tâm của mình. Cho nên cái hơi thở đó thì nó là làm cho cái tâm mình nó bất động, không khởi niệm vô, gọi là Định Niệm Hơi Thở. Chứ cái niệm hơi thở có định đi đâu, nó còn thở mà làm sao nó định, nó nín thở nó mới định chứ, nó còn rung động mà làm sao định được.
Cho nên cái danh từ nó để diễn tả cho được cái đó thì nó, thay vì dùng cái chữ định thì người ta sẽ hiểu mất lạc mất đi. Thay vì cái chỗ mà Bất Động Tâm Định đó, thì cái chỗ mà Bất Động Định này, thì không có nên dùng cái chữ Định mà nên dùng cái chữ khác, nhưng mà không có từ. Không có từ nào bây giờ làm sao? Nó bất động trước các pháp đó chứ nó đâu phải định ở đây. Mà gọi nó định thì nó không đúng, mà không gọi định là làm sao được? Nó không định làm sao mà nó bất động? Nó có chữ bất động nó trong đó rõ ràng mà. Mà vậy cho nên nó mới gọi là định, Bất Động Định.
Sư Tuệ Tĩnh: Cho nên ở Phước Sơn nó cũng có cái phân biệt là nói: "Thiền Quán mới giải thoát, chứ Thiền Định không giải thoát". Con không biết vì sao nữa, vì sao mà Thiền Định không giải thoát, mà Thiền Quán mới giải thoát?
Sư Phước Nhẫn: Mấy ông nói: "Thiền Quán nó cao hơn cái Thiền Định, vì Thiền định là Thiền Chỉ".
Trưởng lão: À chỉ nó ngưng hả. Họ lại nghĩ kêu là ngưng nó nghỉ. Chứ sự thật ra rõ ràng là cái tâm Thầy bất động người ta chửi Thầy Thầy không giận. Thì rõ ràng nó phải có cái định gì nó giữ gìn cái tâm nó không rung động đây chứ, còn nếu mà nó không định thì nó đâu được. Nhưng mà cái định này nó đâu phải là định. Phải không?
Nhưng mà nó bất động, nó bất động thì tướng định rồi, mà có nó ở đây nó có quán đâu. Nếu nó quán thì tức nó còn thiền quán. Mà bây giờ người ta chửi mình nó sắp sửa nó bật lên nó giận nè. Bắt đầu phải quán nó là "sân là như thế này, đủ thứ" thì cho nó đừng có sân, thì đó là mình quán. Nhưng mà quán thì nó động rồi. Thay vì nó không giận, nó không nổi sân, nhưng mà mình lại quán nó thì nó động. Cho nên khi mà bị sân mình mà quán nó để mình xả nó, lấy cái động mà diệt cái động. Còn lấy cái định mà diệt cái động là bị ức chế.
Sư Phước Nhẫn: Cái đó là đã sân rồi mình mới quán nó.
(40:10) Trưởng lão: Mình mới quán nó. Tức là quán là lấy động rồi mới diệt cái sân, cái sân nó đang động nè. Đẩy cái động ra thì nó là dùng Định Vô Lậu, gọi là Thiền quán đó. Gọi là Minh Sát ra đó, bên thiền Minh Sát Tuệ đó. Minh sát nó ra để cho nó đẩy lui nó ra, phải không?
Còn ở đây thì coi như là mình không có lấy động mà lấy định. Lấy định là người ta chửi mình, mình bất động mình không có rung động gì hết, cho nên khỏi cần quán gì hết. Còn quán niệm hơi thở tức là lấy hơi thở để mà quán, quán có nghĩa là phải suy tư cái hơi thở, theo dõi hơi thở coi nó đi xuống rốn, bụng mình, hay hoặc đi lên đi xuống. Quán theo cái hơi thở. Còn cái này biết hơi thở ra vô thì không phải quán, gọi là Định Niệm Hơi Thở.
Nó nhờ cái hơi thở đó mà cái tâm mình nó an định…., nó không có xảy ra một cái niệm gì hết. Còn mình quán là mình phải theo dõi cái hơi thở mình, phải tư duy hơi thở mình, mình suy nghĩ về hơi thở gọi là quán. Quán nó có nghĩa là mình phải có cái nghĩa tư duy trong đó.
Còn cái Định Niệm Hơi Thở, dùng hơi thở mà để định, biết hơi thở ra, hơi thở vô, tự nó biết như vậy chứ mình không có gì hết. Còn nó không có còn xen niệm thì phải tác ý ra, tác ý để dừng cái tầm nó đó, chứ không cái tầm nó xen vô, còn cái tướng nó…
Sư Tuệ Tĩnh: Thành ra nói quán mới giải thoát được là sao Thầy? Quán mới giải thoát được, còn không quán giải thoát không được.
Trưởng lão: Quán chỉ là giai đoạn đầu, sau đó nó mới có định. Nghĩa là bây giờ mình quán rồi, mình xả ly được rồi, thì bắt đầu bây giờ nó định nè. Nó ly dục, ly ác pháp rồi nó mới có định, phải không? Nó định là bây giờ mình ly dục, ly ác pháp rồi đó, thì bắt đầu nhờ quán mà mình mới ly, phải không?
Bây giờ người ta chửi mắng mình, mình không có giận thì nó mới bất động là định. Còn mà bây giờ mình không quán đó, tức là chưa ly, bây giờ người ta chửi mình cái mình giận thì nó bị động chứ nó không có định được. Cho nên Thiền quán nó cao chứ không cao đâu, nó là giai đoạn đầu của chúng ta tu đó.
Sư Tuệ Tĩnh: Nói quán vô thường, khổ, vô ngã rồi mới giải thoát.
(42:09) Trưởng lão: Quán vô thưởng, khổ, vô ngã, nghĩa là tư duy ở trên bốn cái nơi của mình là Tứ Niệm Xứ, thân, thọ, tâm, pháp phải không? Để thấy cái thân mình là vô thường, vô ngã, khổ, không, phải không? Để thấy nó cho rõ. Rồi tâm cũng vậy, rồi các pháp cũng vậy, rồi thọ cũng vậy, để cho chúng ta không bị dính mắc nó. Đó là chúng ta xả nó, quán vô thường, khổ, không, vô ngã gọi là quán,
Quán tức là tư duy, vô thường thì vô thường như thế nào? Cái thân này vô thường sao? Cái tâm vô thường sao? Mình mới tư duy ra cái sự vô thường đó cách như thế nào? "Ờ bây giờ hồi nhỏ thì mình tóc mình nó đen, bây giờ nó bạc. Hồi nhỏ thì da mặt nó thẳng, bây giờ nó dùn. Rồi hồi nhỏ thì con người của mình nghe sức khỏe nó đầy đủ, bây giờ nó không có khỏe như vậy. Thì đó là cái sự vô thường. Như vậy là rõ ràng cái sự vô thường làm cho chúng ta thấu suốt được cái lý này.
Cho nên chúng ta không còn dính mắc ở trong cái khổ mà chấp cái thân như thế này. Không còn lo nó già, không còn lo nó chết, không còn lo nó thế này, thế khác. Làm cho chúng ta cái tâm lo nó không còn khởi, không có còn sợ hãi nữa thì đó gọi là quán. Vậy nó đẩy lui được cái tâm của mình, ác pháp trong tâm của mình rồi, gọi là ly ác pháp. Đó, đó là cách thức quán như vậy, quán tức là mình phải tư duy.
Thì nó là cái pháp đầu tiên chúng ta tu thôi, chứ nó không, cái pháp đầu tiên tu để mà ly dục. Nhưng mà khi vào Thiền Định rồi nó không, mấy ông không biết rồi, mấy ông tưởng là mình chỉ. Thật sự ra định nó phải chỉ rồi, chỉ là nó ngưng, mà nó ngưng cái gì? Nó ngưng các hành ở trong thân nó mới định. Thì như vậy đến nỗi mà nó ngưng cái hơi thở nó mới định được, nó chỉ được hơi thở nó mới, thì đúng là Thiền Định thì nó phải chỉ thôi. Mà bây giờ chúng ta là phải đi thiền quán đầu tiên chứ. Nhưng mà muốn tỉnh thức chúng ta phải có định. Tĩnh giác mà, nếu mà không có cái sự mà nhiếp tâm trong hơi thở để tĩnh giác thì chúng ta đâu có định, mà không có tĩnh giác thì Chánh niệm không có. Xả sao được, mấy ông cứ ngồi quán nó không động mấy ổng không có giải quyết được đâu.
Sư Tuệ Tĩnh: Mấy ổng cũng xài định mà Sát Na Định, nghe ghê quá. Sao sát na định nổi.
Trưởng lão: Bởi vậy đâu.
Sư Phước Nhẫn: Bởi vậy hai cái khác nhau xa quá.
Sư Tuệ Tĩnh: Nhưng mà con thấy cái đó trong kinh Phật đâu có nói đâu.
Trưởng lão: Không có nói. Kinh Phật chính cái chỗ mà cái Định Niệm Hơi Thở đức Phật nói Định Niệm Hơi Thở.
Sư Tuệ Tĩnh: Nói Mười Sáu Tuệ Minh Sát trong kinh Phật cũng không có nói Mười Sáu Tuệ Minh Sát nữa.
(44:27) Trưởng lão: Không có đâu, không có, mấy ông đó đặt ra qua kiến giải của người học giả là người tu đó. Thì lạc vào cái tưởng giải mà mới kiến giải ra nó, viết ra minh sát đó, là nó trật rồi.
Sư Tuệ Tĩnh: Với trong cái cuốn mà Những vị Thiền Sư Đương Thời đó. Mười ba ông ở thế giới bây giờ đó. Thì cái ông học giả này ổng cũng đi học, cũng tìm cái cảnh giới mới viết ra cuốn sách đó đó. Thì ổng cũng kể là có ông Thiền sư hút thuốc nữa. Ổng cũng kêu đừng nhìn ổng, nếu nhìn ổng như mẫu mực là không được nữa.
Trưởng lão: Đó bởi vậy Thầy mới nói: "Y pháp bất y nhân mà". Đừng có y người, mà người này giải quyết mình chưa được mà bảo người ta tu hành thì làm sao người ta làm được. Mình coi như là cái bậc Thầy rồi, mà mình hướng dẫn người ta tu mà mình còn sai phạm mà mình bảo y pháp, bởi câu này câu bịa đặt.
Sư Tuệ Tĩnh: Con thấy nó cũng không có đến nỗi gì nhiều, cái đó mình nghĩ là họ tu phước thôi, chứ không có giải thoát được. Cũng như bây giờ đa số con nghĩ là họ tu phước thôi, chứ họ không có phạm giới. Bình thường không có tu giải thoát.
Trưởng lão: Bởi vậy khi mà nghe Thầy nói là Tịnh chỉ hơi thở, tịnh chỉ các hành trong thân ai cũng ai cũng hoảng, ai cũng sợ, chưa có bao giờ nghe cái này.
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 16
THẦN THÔNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Thời gian: 2002
Thời lượng: [45:44]
Tên cũ: 08B-ThanThong
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-16-than-thong.mp3
(00:05) Trưởng lão: Thầy lôi ra Thầy khắc lên bảng, để cho người ta biết rằng nhiệm vụ của đạo Phật là cái mức độ đó, chứ không phải là bình thường đâu. Phải tu cái ngả nào mà đi vào đây mới làm được cái này, chứ không phải khi không, nín thở mà được đâu.
Phật tử 1: Gay go là vô cái cửa…
Trưởng lão: Vô cái cửa này nè, cái cửa giới này nè, chỗ đó gay go nhất.
Phật tử 1: Độc cư hả Thầy?
Trưởng lão: Đó, đó là những cái gay go nhất của cái người tu.
Phật tử 2: Với cái, cái pháp môn gốc ở trong này mà bây giờ người ta nói nó phổ biến, cũng như bây giờ nghe nói là tới kết nạp Tam Tạng tới lần thứ sáu lận Thầy. Con nghĩ phải có lần thứ bảy Thầy qua bển rồi chỉnh lại hết trơn. Cái đó hay biết là bao nhiêu.
Trưởng lão: Nói chung mà nếu mà có cái điều kiện, cái nhân duyên mà nó có điều kiện mà cỡ mà, ở đây mình có được một số người tu hẳn hòi chứng quả A La Hán, cái duyên đó nó sẽ chỉnh lại cái bộ tạng kinh hết. Bởi vì mình chưa có người, có một mình Thầy chưa đủ đâu. Cái duyên nó chưa đủ, chứ mà cỡ còn có được chừng mười người chứng quả A La Hán trong này, thì cái tạng kinh thế giới này chỉnh lại hết. Không có để sai như vậy. Cái nào của đạo Phật thì để đạo Phật, cái nào trật loại ra hết.
Phật tử 1: Ở bên Miến Điện hay là bên Thái Lan thì họ, giờ họ cũng chế biến nhiều lắm.
Trưởng lão: Chế ra nữa nè.
Phật tử 1: Cái Minh Sát tuệ thì họ cũng chế ra.
(1:24) Phật tử 2: Con cũng có một ý nghĩ, Thầy chỉnh lại cũng được Thầy khỏi đi qua bển Thầy. Chứ con nói, cái lúc mà Thầy tịch đó, thì Thầy thị hiện thần thông, cũng như đức A Nan hồi xưa vậy đó. Mà Thầy để lại nguyên cái bộ kinh này rồi thì người ta phải theo thôi. Thì như A Nan Thầy bay lên trển, cái Thầy dùng lửa Tam muội Thầy hỏa thiêu, cái lại rớt xuống, đó nhìn thấy không. Họ đâu có cải được, mà cái đó đâu có phải mục đích là cho có lợi cho Thầy, cái đó mục đích vì đạo pháp, Thầy làm được mà.
Trưởng lão: Cái đó cũng là tùy duyên. Nhưng mà sử dụng thần thông phải tư duy trong cái sử dụng thần thông, để không người ta cứ nghĩ là Phật giáo dạy không, chắc chết.
Phật tử 2: Thì mình trước khi đó mình để di chúc lại hết, tới ngày, giờ đó, Thầy bay lên trển Thầy hỏa thiêu cái rồi rớt xuống, Thầy đậy cái xe lại. Đây là cái chuyện tôi làm y như ông A Nan ngày xưa làm. Ngày xưa chia xá lợi thành hai bên sông, bây giờ để một chỗ một thôi. Máy quay phim nó quay tùm lum hết trơn hết trọi phải không, các nơi trên thế giới nó quy tụ. Thầy cho biết giờ, biết ngày đàng hoàng mà. Có bằng chứng cụ thể họ có nói mình được đâu. Thành ra từ đó cái kinh nguyên gốc, cái bài gì khi soạn, Thầy soạn hết rồi, đâu rõ ràng hết rồi. Còn bây giờ thì không có sợ tam sao thất bổn như ngày xưa nữa.
Trưởng lão: Có vi tính, nó lưu trữ được.
Phật tử 2: Ngày xưa nó chưa có gì hết, bây giờ mình vô đĩa rồi, dứt khoát không có thay đổi được.
Trưởng lão: Coi như những kinh sách mà Thầy viết là hầu hết là lưu vào đĩa hết, và mấy người cư sĩ họ lưu hết. Người này một mớ, người một mớ hết.
Phật tử 2: Đĩa thì nó cũng có thể nó giảm giá được, vì vi tính mà. Nhưng mà thí dụ nó có gốc được nữa, nó có gốc thì mình lưu tàng trữ. Như bây giờ bên kinh tạng Pali nó cũng có vô đĩa đó, rồi người ta lấy ra in. Kinh tạng cũng là bằng Pali, kinh tạng Anh cũng vô đĩa hết trơn, có cái đĩa chút xíu thâu hết nội dung kinh tạng bên trong.
Trưởng lão: Không, thì khi Thầy tùy duyên rồi…
Phật tử 2: Thì Thầy mà thị hiện được vậy rồi thì khỏi cần đi đâu hết. Cái đó nó không có lợi cho Thầy mà, cái đó vì Phật pháp đâu có sai.
Trưởng lão: Nói chung là cái vấn đề đó, mà nó, mình phải xét thấy nó là một cái duyên chúng sanh. Nếu mà có thì mình phải làm cái điều đó, cái duyên của chúng sanh nó có với Phật pháp. Còn nó chưa có thì mình
(03:31) Phật tử 2: Vào lúc đó ai tin không tin thì thôi. Bây giờ đạo Phật là tôi đã chứng rồi, cái đường đi nó dễ như vậy, như vậy nè. chứ không phải mà huyền thoại như trong kinh này nè, tới giờ nó bị tam sao thất bổn. Bằng chứng là tôi chứng như vậy, tôi đạt được cái đó, hồi xưa người ta làm được bây giờ tôi làm được. Đó bây giờ Thầy thị hiện ra như ngày xưa là được rồi. Máy quay phim nó quay, đâu có ai mà nói láo, nói gì được.
Cũng như bây giờ cũng có mấy ông mà có quay phim đó chứ, thị hiện thần thông dữ quá Thầy. Bay! Mà ổng phải như là lên lên giảng đạo hay là dùng cái thần thông đó để lấy tiền công, làm nhà ảo thuật. Lấy tiền công rồi họ sử dụng vào cái gì không biết. Họ bay cho mình coi vậy đó. rồi bồng một người bay lên cho mình coi. Rồi để cái lồng kiếng đóng cửa hết trơn, chui vô lồng kiếng bay lên bay xuống cho mình coi. Đó, như là họ làm nhà ảo thuật.
Còn mua cái tòa nhà cũ, mười mấy tầng đó, người ta hết ở, nó quá hạn rồi. Để tủ sắt nằm dưới đó, cái rồi họ đặt mìn hết, rồi cảnh sát vào. Cái máy quay phim nó quay đi vô cửa tủ sắt, khóa tủ sắt lại, lấy đồ trói khóa tủ sắt lại đàng hoàng. Trỏng bấm nút, cảnh sát chạy ra, bấm nút, mìn nổ, nhà sập, mà sao mà sống nổi! Nguyên cái nhà mười mấy tầng sập đè lên trên đó.
Rồi tuốt đằng kia thiệt xa, để cái bàn như cái bàn này, ở dưới này không có gì trơn, trên này trải miếng vải lên. Dị mà hong có cần ngồi đàng hoàng y như mẹ con cô Út nhỏ xíu lù lù lù lại bỏ miếng vải lên, đặt miếng vải lại y trỏng. Máy quay phim nó quay tùm lum hết (04:58-Không nghe rõ) nó dính bụi bặm, nên hơi mệt, thở hơi mệt chút. Cũng dùng thần thông nhưng mà không có phải là giảng đạo để lấy tiền, ảo thuật với tư cách là lấy tiền để làm cái gì đó.
Mắt nhìn sâu lắm, định sâu không phải ảo thuật cái này cũng là thần thông đàng hoàng. Thì muốn bay là tưởng tượng bay là chút nó tự nó bay. Còn cái bóng đèn vầy nè, chỉ lấy tay để như vậy tự nhiên cái bóng đèn sáng lên, khỏi cần điện gì hết trơn. Nhấn mạnh một cái bóng đèn nổ cái bốp.
(5:33) Trưởng lão: Bây giờ làm vậy đó, thử hỏi coi người ta có kinh không, thần thông.
Phật tử 2: Mà không có quyên tiền để làm cái gì. Mình chỉ lấy cái công người ta tổ chức mà ảo thuật vậy thôi, chứ không phải quyên tiền cái gì, chỉ là ảo thuật thôi.
Trưởng lão: Nó không có tôn giáo, không có gì hết. Hoàn toàn cái mục đích của nó, làm cái chuyện đó để mà lấy tiền, để mà làm cái gì thì không biết, nhưng mà cứ lấy, mà cứ…
Phật tử 2: Mình biết rằng có thần thông, họ có thị hiện thần thông, họ có tới cỡ đó. Rồi đi qua Vạn Lý Trường Thành, đi xuyên qua bên đây bên kia luôn, y như trong kinh Phật nói đi qua trên trời dưới đất như vậy, đi trên không vậy.
Trưởng lão: Như ông Ca Chiên Diên mà đi qua vách đá hả.
Phật tử 2: Máy quay phim nó quay đàng hoàng. Đi ra đi vô nó quay đàng hoàng. Cái tượng Nữ Thần Tự Do ở bển, Thầy coi, làm mất luôn. Còn hơn phép hồi xưa nữa, bao nhiêu máy camera lại quay, bao nhiêu người lại coi, trực thăng bay theo, mất cái tượng Nữ Thần Tự Do luôn. Làm sao mất được? Hàng ngàn cặp mắt, hàng trăm ngàn cặp mắt dòm đó, mất tiêu tượng Nữ Thần Tự Do luôn, rồi lát sau có lại. Một chiếc xe Honda như vầy, lấy miếng vải đậy lên, không có lâu, đậy lại rồi dở ra liền, mất xe Honda hai người con gái đứng. Nó là thần thông rõ ràng rồi không có nói năng gì nữa. Cái đoàn xe lửa, cái toa xe lửa nó làm mất toa xe lửa luôn.
Trưởng lão: Đúng cái đó là thần thông đó.
Phật tử 2: Cái đó là thần thông chứ không phải ảo thuật, bị họ làm ngoài trời mà, chứ không phải làm trong nhà. Chỉ để lấy tiền để làm gì thôi.
Trưởng lão: Cái công phu mà đi làm vậy thì thiệt Thầy thấy cũng uổng thiệt.
Phật tử 2: Lấy tiền để làm cái gì đó, chứ không phải học cái đó để mà làm cái gì, không có dạy đạo, không có …
Trưởng lão: Để mà học những cái thần thông đó để mà đi làm tiền thôi. Đi nay chỗ này biểu diễn, mai chỗ kia hay hoặc là làm một cuộn phim này, thu một cuộn phim này, sẽ là bán ra cho mọi người nước này nước kia, thì sẽ thu lại cái số tiền này là hàng tỷ phú, ông này là giàu lắm.
Phật tử 2: Dạ làm tỷ phú rồi đó.
Trưởng lão: Con đi học cái đó để làm tỷ phú?
Phật tử: Không, ý con muốn nói cái thần thông đó, ý con muốn nói cái thần thông thôi, còn cái thị hiện thì con không nói. Thầy muốn là kết tập lại kinh điển, ý con muốn nói là cái đó…
Trưởng lão: Thầy thì Thầy nghĩ như thế này. Thầy nghĩ rằng mình phải thực hiện cái đạo đức, để mình đem cái đạo đức lợi ích cho con người thật thôi. Vậy mà, với cái đạo đức này với cái thần thông, Thầy biết nó rõ rồi, nếu mà chệch lệch một chút xíu, thì nó sẽ làm mất đạo đức. Mà nó đúng, làm sao cái thần thông này thị hiện? Mà thị hiện làm sao cho đúng cái đạo đức, để giúp con người, đem cái lợi ích thật. Cho nên tuy rằng nói những cái đó thì làm nó không khó rồi. Bởi vì cái lệnh nó đã nằm ở trong cái bàn tay của mình rồi, nên không phải là còn.
(8:16) Phật tử 2: Con nghĩ là cái chỉnh lại cái bộ Tam Tạng nó quý hơn tất cả mọi nhiệm vụ, bao nhiêu hàng triệu triệu người đó, nó đi sai đường. Cũng như ngày xưa con đi tầm học đạo, con cũng nghĩ, ở bên kia thì nó qua bên Tàu, rồi qua tới Việt Nam tức là tam sao thất bổn hai lần. Rồi cái Pali qua Việt Nam thì chỉ có một lần thôi, nhưng mà nhớ lại ngay cái nguồn gốc Pali nó cũng bị sai nữa.
Trưởng lão: Nó đi từ ở bên Ấn Độ mà. Pali mà nó đi sang Tích Lan, rồi đi qua Thái Lan, Miến Điện, nó đi qua cái đường dây của nó. Mà mỗi đi qua một cái nước vậy thì nó có tam sao thất bổn của nó chứ.
Phật tử 2: Bây giờ họ bay qua thẳng qua Ấn Độ luôn, không có qua tam sao thất bổn nữa. Qua bên Ấn Độ, thì ngay bên Ấn Độ lật ra mà học mà ghi chép thì cũng không có nguyên si nữa. Bởi vì trong cái thời đức Phật, chia bộ phái nó đã bị phân hóa từ lúc đó rồi.
Trưởng lão: Thì nó chia bộ phái là nó đã bị thêm bớt trong đó rồi. Cho nên nguyên thủy chứ nó chưa nguyên thủy. Nó ít sai hơn là khi mà đi cái ngõ như Mật Tông đó, nó sai quá.
Phật tử 2: Cho nên cái ngài Huyền Trang đi qua bển thế kỷ thứ 7 Thầy, xa bảy trăm năm là đã bị Bà La Môn giáo nó đồng hóa biết bao nhiêu lần. Thế kỷ thứ 7 mới đem về bên Tàu, rồi bên Tàu mới chế biến ra, mới bị một lần là lai căng rồi qua tới Việt Nam. Kinh nào cũng nhất trong các kinh, con nghĩ kinh nào cũng nhất hết rồi cái nào thứ nhì?
Trưởng lão: Không có kinh nào nhì hết kinh nào cũng nhất hết.
Phật tử 2: Thành ra họ mới nói cái đó để cho họ khích lệ tinh thần tu sĩ họ tu theo. Thành ra cái gì cũng A Nan, cái gì cũng A Nan kể hết, không biết là thật hay giả nữa.
(09:50) Trưởng lão: Cái đó phần nhiều là giả chứ không phải thật đâu.
Phật tử 2: Cho nên Hòa Thượng Minh Châu sau này có nói, Sư lớn nói mấy kinh đó, ổng không qua tới bển, trong tạng kinh không có kinh đó. Bây giờ nói ai nghe bây giờ, cả ngàn năm nay rồi. Bây giờ có một mình mình, mà trong khi người ta đó là biết bao nhiêu. Cho nên trong mấy cuốn kinh viết cái lời nói đầu, đa số nhìn đạo Phật như cái lăng kính màu. Một ông Phật huyền thoại, chứ không phải nhìn ông Phật như cái cách nhân bản như Thầy nói. Như Thầy nhìn ông Phật theo cách nhân bản, rất bình thường. Ở đây đa số là nhìn đạo Phật là huyền thoại, thần thông thôi.
Nhưng mà thực sự thì Phật cũng có thị hiện thần thông. Cũng như yêu cầu Thầy hồi nãy là bởi vì sao. Lúc đức Phật mà tịch rồi lên cái giàn hỏa, thì lúc đó đâu phải đức Phật thị hiện ra đức Phật đâu, châm lửa cũng cháy mà. Đại Ca Diếp và năm trăm vị đệ tử về, đó là đi diễu Phật ba vòng tự nhiên nó sáng, thì đức Phật cũng thị hiện thần thông lúc đó vậy.
Trưởng lão: Nói chung là thần thông thì, phải nói là, theo Thầy biết trong kinh Phật có thị hiện thần thông, không phải là không có thị hiện, nhưng mà thị hiện thần thông đúng lúc. Mà hể khi người nào mà thị hiện thần thông rồi thì hầu như là người đó ẩn bóng, không có để cho người ta sùng bái mình.
Phật tử 2: Cũng như Thầy tịch rồi Thầy làm kiểu đó, rồi Thầy bắt đầu Thầy chỉnh lại.
Trưởng lão: Thì nói chung là, trên cái vấn đề mà qua cái giai đoạn mà Thầy tịch đó, thì Thầy sẽ suy tư vấn đề đó làm sao cho thiết thực.
Phật tử 2: Chứ còn Thầy còn sống Thầy thị hiện thì nó không bằng lúc đó, nó đâu có lợi ích gì, người ta không có theo mình được. Cái đó là vì Phật pháp, mình cứu bao nhiêu người họ nhầm đường. Chứ con nếu con đi con thấy nó lòng vòng quài, không có cái gì thỏa mãn ý của mình hết trơn hết trọi, như mà Mục Kiền Liên con thấy cũng không được. Cái này cái kia nhiều khi mình nói đó nhiều người họ không tin mình.
Trưởng lão: Đúng đó, nhiều khi nó cái số đông quá rồi mình chịu theo cái luật, cái luật đông người thì mình không có làm sao mình cãi được.
Phật tử 2: Thậm chí cả ngàn năm rồi làm sao mình thay đổi được.
Trưởng lão: Cho nên bây giờ Thầy là cái người mà, coi như là cái người đầu tiên mà chuyển đó.
Phật tử 1: Thật ra thì con cũng thấy vậy đó Thầy. Chuyển, thầy viết ra mấy cuốn sách đấy, chuyển hóa.
(12:14) Trưởng lão: Chuyển thì cũng như chuyển mạnh đó, chứ không phải chuyển yếu đâu. Mà cái người mà Thầy nói, bởi vì đặt thành vấn đề về lịch sử đó, thì coi như cái người đầu tiên ở đất nước Việt Nam là Hòa thượng Minh Châu đã mang kinh sách Nguyên Thủy vào đây. Chứ còn không có ai, không có ông sư nào mà đầu tiên hết. Mà thế kỷ của chúng ta đây nè, chứ không phải là thế kỷ nào hết. Hòa thượng Minh Châu đồng thời với mình mà, con hiểu không?
Cho nên Hòa thượng là người đầu tiên mà mang Phật giáo vào Việt Nam. Cho nên Ngài nói, những cái lời Ngài nói ở trong, khi mà dịch trong tạng kinh Pali, cũng mạnh đó. Cho nên Thầy cũng là có một con người trước Thầy một bước, là có Hòa thượng Minh Châu, kế đó là Thầy. Còn cả đất nước này chỉ có hai người. Thì bây giờ đó thì kể như là mình có hai nhưng mà còn đỡ hơn là có một. Nếu một mình Thầy thì kể như là người ta không tin lắm đâu, nhưng mà có Hòa thượng Minh Châu cũng nòng cốt rất lớn.
Phật tử 1: Dạ, ổng như ổng chứng minh đó.
Trưởng lão: Rõ ràng là lời ông nói không mất mà. Mà bây giờ Thầy nói quá đúng rồi thì tức là người ta thấy một nhà học giả như Hòa thượng Minh Châu, có uy tín ở trên giáo hội từ xưa đến giờ, chứ không phải mới đây. Còn Thầy chỉ là một tu sĩ vô danh tiểu tốt, nhưng mà cái lời nói của Thầy nó xác định được cái kinh sách của Hòa thượng Minh Châu như vậy, cho nên người ta không dám bác Thầy ở chỗ này. Chứ cỡ mà không có Hòa thượng Minh Châu là kể họ nói Thầy là thứ ngoại đạo.
Phật tử 1: Vì thầy dựa theo kinh sách của Hòa thượng Minh Châu.
Trưởng lão: Thì đúng rồi. Mà chính cái chỗ này là nhờ kinh sách này mà Thầy thực hiện con đường tu của Thầy, chứ cỡ mà không có kinh sách này thì Thầy cũng đâu có biết đường đâu mà mò.
Phật tử 2: Nhưng mà Hòa thượng Minh Châu cũng không dám nói mạnh nhiều nữa, phớt phớt ngang rồi hiểu ý, chứ còn cũng không dám nói mạnh.
Trưởng lão: Không dám nói. Hồi mà Thầy ở thành phố đó, Thầy đi ở dưới chùa Ấn Quang, là Hòa thượng mà duyệt ra mấy cái bộ kinh đó rồi. Cái lời nói đầu, các Hòa thượng bên Tịnh Độ, Hòa thượng Trí Tịnh, Hòa thượng Thiện Hoa, Thiện Hòa họp lại hết, mời Hòa thượng Minh Châu đến làm việc. Nếu mà Hòa thượng còn nói cái này nữa là kể như Hòa thượng mất chức.
Hồi đó Hòa thượng Minh Châu mới về nước, mới làm Tổng Vụ Giáo dục Tăng Ni, Tổng Vụ sự Giáo dục Tăng Ni. Họ kêu Tổng Vụ, giao cái Vạn Hạnh cho Hòa thượng. Coi như là Giáo hội đó giao cho ổng. Mà nếu mà ổng còn nói nữa là kể như mất chức là ổng cỡ còn cư sĩ thường thôi, không có làm việc gì hết, nó không chấp nhận. Thành ra ổng nói mấy lời nói đầu đó thôi chứ sau này dẹp luôn. Nhưng mà in thành sách rồi làm sao mà diệt được những cái bài đó được.
Phật tử 2: Còn mấy cuốn tái bản này không có hả Thầy?
Trưởng lão: Đâu có, đâu dám, tái bản thì kể như không dám đem ra. Kinh mà hồi đó Hòa Thượng dịch Pali, Hòa Thượng cũng sợ lắm, sợ mình dịch nó sai, cho nên đối chiếu Việt và Pali. Cho nên cứ tờ bên nây là Pali tờ bên nây là Việt, dịch ra, cứ như vậy. Cái lời nói đầu ổng nói quá mạnh.
Phật tử 1: Lời nói đầu trong cái cuốn…
(15:09) Trưởng lão: Mấy cái bộ đó đó, mấy bộ từ Trường Bộ nè, Hòa Thượng cũng có nói rồi, tới Trung Bộ, Hòa Thượng nói mạnh. Sau này mấy ông Hòa Thượng lớn ghét bỏ, hết nói. Bởi vì ổng là học giả, ông không dám nói. Gặp Thầy, Thầy làm hết khả năng “Mấy ông chỉ là nạn nhân của giáo pháp này, mấy ông có làm được cái gì đâu. Mấy ông thấy sao mà mấy ông dựa vào đó mà ghét bỏ tôi? Tôi đâu có ham cái chức mà làm Tổng vụ sự Giáo dục đâu. Tôi chỉ là một tu sĩ thường thôi”.
Cho nên hôm mà Thầy họp ở trên Tây Ninh nè, nói: “Tui đâu phải là tui ham cái chức Ủy viên Giáo dục Tăng Ni của tỉnh đâu. Tui nói là một cái điều đúng của đạo Phật. Mấy ông sai tui nói sai, mấy ông chưa có đúng giới luật thì mấy ông phải đi học giới luật. Mấy ông không muốn học thì kệ mấy ông, chứ đâu có ăn thua gì tui. Nhưng mà tại mấy ông đưa tui vào làm cái việc này, cái nhiệm vụ trọng trách tui phải làm được. Chứ mấy ông đừng có bảo tui soạn cái giáo án mà mê tín này cho mấy ông, cho tín đồ Phật tử.
Tôi không sợ cái thứ mê tín đó, tôi sợ giới luật nè. Mấy ông chưa có sống đúng giới luật, mấy ông hãy tập trung hết cái hạ năm nay đó, ban bệ của Giáo hội, ban đại diện của các huyện về đây học giới luật lại. Mấy ông có vợ thì phải bỏ vợ mới là một tu sĩ, chớ mấy ông có vợ mà mấy ông còn vô đây làm việc thì tui không chấp nhận. Bởi vì đức Phật không có dạy tu sĩ mà dâm dục”. Thầy nói thẳng luôn, ở trong cái cuộc họp. Mấy ông nhà nước, cán bộ nhà nước cũng có tham dự, bên Mặt trận nó cũng qua tham dự, Ban Tôn giáo có qua tham dự. Mấy ông sợ hết, không dám nói Thầy.
(16:38) Phật tử 2: Con thấy cái này nó cũng giống trường hợp mà trong kinh đó. Hồi xưa cái thời đức Phật lúc mà Bà La Môn giáo không được vua A Xà Thế hay vua A Dục gì đó, không có cấp dưỡng nữa, cho nên mấy ông đói. Đói mới qua đầu quân ở bên đạo Phật làm Sa môn bên đạo Phật để mà sống. Thành ra hai bên trà trộn nhau, sống với danh nghĩa là Sa môn. Rồi một thời gian sau mấy ổng không có hành theo bên Phật, cho nên mấy cái ngày Bố Tát đó, con nhớ cái đó như vậy, ngày Bố Tát là mấy ông cao tăng, họ không chịu đi.
Sau đó cái nhờ ông vua, ông vua can thiệp mới tách ra làm hai, người nào cũng phải trả lời câu hỏi đó mới đuổi ra. Đúng câu hỏi là bên Phật, còn không đúng câu hỏi là Bà La Môn, mới tách ra. Thì cái câu chuyện này Thầy cũng phải nhờ ông vua xuống làm mới được, chứ không mình Thầy chắc làm cũng không nổi, hồi đó có nhiều vị cao Tăng mà còn hỏi không được, mà chỉ nín thôi.
(17:32) Trưởng lão: Thầy nói thật sự đó, thì cái ông Chủ tịch Mặt trận của tỉnh Tây Ninh này, ông biết Thầy nói đúng rồi. Cho nên ổng dự định là ổng gạt cái ông Chánh trị sự Tỉnh hội Tây Ninh này xuống. Ổng bác xuống mà ổng đưa Thầy lên. Trong cái cuộc họp mà Thầy nói đúng giới luật đức hạnh của một tu sĩ rồi, bắt đầu cuộc họp, ổng cho người qua nghe mà, thành ra về báo cáo lại cho ổng hết. Do đó bắt đầu ổng muốn hất ông này xuống.
Rồi cái ông này ổng muốn ông xuống đâu có phải chuyện dễ đâu, ổng chạy tứ tung minh tàn, nhưng mà ổng hại Thầy không được. Nhưng mà có cái, bởi vì Thầy biết cái thời Phật giáo nó chưa có thịnh. Cho nên cái ông này ổng ủng hộ toàn bộ để đưa Thầy lên làm cái việc này, để mà Thầy trở về Trung ương Giáo hội nè, để mà Thầy làm việc với Giáo hội nè.
Cái ý đồ của chính quyền là ổng ủng hộ Thầy tận nước vậy đó, chứ không phải không. Cho nên ổng lôi Thầy để mà làm Chánh Trị sự Tỉnh để mà, Chánh Trị sự Tỉnh thì tức là mình Ủy viên ở trong cái Giáo hội Trung ương rồi. Mình phải có chức vụ ở trong Giáo hội Trung ương rồi, chứ không phải không đâu. Thì ổng lôi Thầy vào đây phải không? Để rồi bắt đầu từ đó, Thầy đi dự họp Giáo hội. Đó là cái ý đồ của Nhà nước, từ đó đưa Thầy đi lên trên những cái quyền hạn của trong Giáo hội để mà chỉnh đốn lại.
Nhưng mà cái ông này thì trong cán bộ thì cái ông này ổng đang chuẩn bị vậy, nhưng mà thình lình ông lại bệnh cái ổng chết. Chính ông Năm Thống đó là Chủ tịch Mặt trận của tỉnh Tây Ninh đó, ổng bị chết, ổng chết thình lình. Thành ra Thầy thì Thầy đang lúc đó Thầy nói, một mình mình đương đầu không có nổi, chưa có người nào với mình đâu. Với mình đi vào trong Giáo hội một mình mình thì đơn cử quá, họ sẽ diệt mình chết ngay.
(19:12) Cho nên Thầy thấy chương trình đó Thầy rút lui, mà đồng thời thì ông chết. Nếu mà ổng không chết thì ổng lôi Thầy vào, thì thật sự Thầy cũng khó từ chối lắm. Bởi vì Nhà nước mà con, khi mà ổng muốn mình rồi thì rất khó. Cho nên vì vậy mà cuối cùng Thầy được rút ra khỏi. Rút ra khỏi là trong khi ông Năm Thống chết phải không? Thì Nhà nước ở trên ban bệ của Tỉnh nó đều chú ý đến Thầy, chớ không phải không đâu, nó chú ý tới Thầy.
Nhưng mà trận vừa rồi mà Thầy đi, Thầy giả đau, Thầy kêu là Thầy ói ra máu đó. Phải nói là Thầy phải lấy cái cớ đó mà để làm, chớ còn thật sự ra Thầy đâu có làm sao mà Thầy bệnh. Cho nên Thầy bệnh đó, bây giờ cứ nói Thầy bệnh rất là. Tới bữa đó đâu phải họ tin Thầy nói suông đâu, họ phải chứng kiến mà. Nghe nói Thầy bệnh như vậy cái bắt đầu ở trên Tỉnh đưa cán bộ về thăm Thầy.
Ban Tôn giáo nè, rồi ở bên Mặt trận nè, rồi ở bên Công an, cái ngành Công an mà tôn giáo, AC, AB gì ở bên ngành Công an Tôn giáo. Nó đưa về một người đến đây thăm Thầy, giả đò lý do thăm Thầy, ở huyện thì vô thăm Thầy. Thiệt ra bữa đó thì Thầy, thấy Thầy ho mà Thầy khạc ra máu luôn kìa, ho đàng hoàng, máu đỏ tươi.
Thầy nói Thầy bệnh như vậy đó, rồi kêu bác sĩ Nhơn ở đây nữa, bác sĩ Nhơn thì làm ở trên xã này. Bác sĩ Nhơn đến khám trị bệnh cho Thầy. Rồi do đó nó chứng cớ rõ ràng, hẳn hòi rồi, bắt đầu nói Thầy đang mệt, mới yên thân Thầy. Thầy phải tạo cái thế của Thầy đó, Thầy phải tạo rõ ràng, thấy rõ ràng mà, chứ sự thật ra Thầy có bệnh đau gì đâu. Ở đây Thầy nói với mấy sư chứ thật sự.
(21:01) Phật tử 2: Nó nghe phổi nó hổng biết Thầy?
Trưởng lão: Nó nghe nó đâu có biết gì. Nó chỉ nói Thầy chắc là, chính bác sĩ nói Thầy bị thủng khí quản. Còn có người thì nói bị vi trùng, nhưng mà chụp hình phổi thì nó không có. Nhưng mà nó nói bị thủng khí quản là tại vì nó đứt cái mạch máu nào, hay thủng chỗ nào đó nên mới ra máu như vậy. Nó cứ nói vậy thôi. Còn Thầy thì lúc bấy giờ coi như là, Thầy ốm còn có ba mươi lăm ký mà, ốm xanh như vậy.
Phật tử 2: Sao Thầy ốm hay quá vậy?
Trưởng lão: Bị cái tướng mình dễ thôi, đâu có gì khó. Cái bắt đầu nó xuống thấy rõ ràng, như vậy cái bắt đầu tụi nó về hết rồi, bắt đầu Thầy phục hồi lại cái mình khỏe, cái mình đi đây đi đó gọi là dưỡng bệnh thôi, chứ có gì. Phải không? Có nhờ vậy Thầy mới thoát.
Phật tử 2: Với lại Thầy, con nghĩ là Thầy không bệnh Thầy có về giáo hội Trung ương Thầy cũng không muốn làm, đông quá nó bỏ phiếu là mình cũng thua.
Trưởng lão: Bây giờ nói gì nói, bây giờ nó không chấp nhận Thầy đi, nhưng mà Thầy nói đúng giới luật, nó không làm gì Thầy được hết rồi. Nhưng mà nó sẽ giết Thầy, nó giết Thầy liền.
Phật tử 2: Cũng như hồi xưa ông vua ông ủng hộ cái chuyện đó thì được thôi, vì có cái quyền lực tối thượng không ai làm được gì mình hết trơn.
Trưởng lão: Còn bây giờ nó đưa mình đi về đó, mà nó không ủng hộ. Nhưng mà trong đống đó “tôi sẽ ủng hộ anh, anh cứ làm đi, bởi vì anh làm tốt cho Phật pháp mà chính tốt cho xã hội. Cái chuyện làm của anh là cái chuyện làm đúng, chứ tôi thấy ba cái thầy chùa này, tôi ghét quá”. Đó ông Nam Thống nói thật. Nhưng mà mình làm sao, một mình mình làm sao cả một cái khối như vậy được? Đâu có được.
Cho nên Thầy tìm cách Thầy ra. Nhưng mà sao ông này ông chết bất tử, nó cũng đỡ, chứ ông này ông cương quyết rồi. Ổng có quyền ở trong Mặt trận Tỉnh, ông có quyền ở trong này mà. Bây giờ đó bắt đầu mấy ông này thì họ cũng biết Thầy rồi, biết là người đúng người sai rồi đó. Do đó bây giờ mấy ông cũng lần lượt theo cái chương trình đó mà ổng lôi Thầy. Nhưng mà Thầy không biết làm sao, cách nào, chỉ có cái bệnh là thoát, không còn cách nào khác hơn hết.
(23:02) Phật tử 2: Vì có cái thần thông đó Thầy, bởi vì mấy người tu có thần thông, họ không nghĩ họ sai họ nghĩ họ đúng mới chết đó, thành ra mình sửa khó lắm, họ nghĩ họ đúng sao mình sửa. Phải không? Mình chứng minh cái đúng sai họ không nghĩ ra, nó sâu vô máu thịt người ta làm sao mà sửa được. Bây giờ chỉ có một cái là…
Trưởng lão: Cái thần thông làm cho họ hoảng thôi.
Phật tử 2: Chỉ có cái đó thôi không có cách gì hết trơn.
Trưởng lão: Thầy nói thật sự ra, Thầy biết là khi mà thị hiện thần thông, thì sẽ có một số miệng lưỡi của họ nói. Bởi vì đã sẵn sàng ở trong kinh Đại Thừa, đã vẽ ra họ một số ngôn ngữ để mà họ phản ứng lại đó. Nghĩa là Thầy có thần thông là họ phản ứng bằng cách thần thông của họ như thế nào? Có một bà già phải không? Khi đó bà thị hiện thần thông, bà lấy bịch trà, bả rót cho người ly trà, nói bà thị hiện thần thông. Cũng như ông Bàng Uẩn nói mà, xách nước, bửa củi là thị hiện thần thông chứ gì?
Thật sự là mình suy ngẫm cái danh từ của họ gọi thần thông mà không hiểu đó là thần thông, họ là ngu. Thần thông là thần lực không thể con người làm được gọi là thần thông. Cũng như vách đá mà người ta chui qua được gọi là thần thông, phải không? Con người mình có trọng lượng mà bay lên được là thần thông, còn không bay được là thôi. Còn cái chuyện ai làm cũng được gọi là không có thần thông. Thầy xách bình nước, Thầy rót cho mọi người đều là thần thông. Thần thông này của Đại Thừa, của Thiền Tông.
Phật tử 2: Thần thông họ giải nghĩa theo cái kiểu kia, chứ không phải như Thầy …
Trưởng lão: Thì họ nói là từ cái tâm của họ lưu xuất ra hành động này là thần thông, gọi là diệu dụng đó con. Thật sự ra thì họ hiểu kiểu đó là hiểu không phải thần thông, dùng chữ thần thông đó là lạm dụng. Bị vì thần, thần thì phải có thần lực chứ. Làm cái chuyện ai làm cũng được, thì cái lưu xuất đó ai làm cũng được. Nghĩa là ai cũng làm được thì cái đó đâu phải nữa.
(24:40) Phật tử: Nhưng còn Nam Tông trên thế giới nữa Thầy, đâu phải chỉ có Thiền Tông ở Việt Nam không đâu. Lúc đó các nước họ biết hết trơn rồi đương nhiên họ bắt đầu sửa lại thôi vì cái người trí thức họ cũng nhiều.
Trưởng lão: Bởi vậy Thầy biết rằng cái trí thức này nó nhiều, cho nên Thầy suy tư rất nhiều về cái chuyện thần thông. Bởi vì thần thông là nó phải có cái mị ở trong đó rồi. Đó thì cũng như nảy giờ mình nói cái chuyện mà cái ông nào mà đi qua đá, rồi bay, rồi ôm người mà bay đồ đó. Rồi thu một cái số tiền vào cửa hay này kia để đi xem cái đó chứ gì? Rồi bây giờ mua phim đó như vậy đó, thì rõ ràng là cái ông này nhà tỷ phú rồi chứ gì. Mà tỷ phú để làm gì? Khi mà ông đã thực hiện được cái này, ông làm tỷ phú làm gì? Chắc chắn là cái danh cũng dữ lắm, cái lợi ổng cũng ham lắm, chứ không phải là thường.
Phật tử 2: Họ làm công chuyện từ thiện gì nữa đó, không phải là họ làm riêng.
Trưởng lão: Nhưng mà cái danh. Nếu mà lấy cái này mà đi làm việc từ thiện thì cái danh dữ lắm.
Phật tử 2: Nhưng mà ổng lẳng lặng làm chứ không có nêu tên.
Trưởng lão: Không có nêu tên hả? Chớ Thầy nghe ở trong phim nào đó, mà cái vị nào đó, nó tên gì đó, mà cũng chui qua Vạn Lý Trường Thành, rồi cũng thực hiện những cái điều kiện mà. Thí dụ như bây giờ vô trong một cái tủ vầy, lấy cái dao mà chặt xuống vầy. Mà thấy cũng có tên có tuổi nữa, chứ không phải không có tên đâu, cái nhà ảo thuật.
Phật tử 2: Các nhà báo chí, tại báo chí họ làm mà.
Trưởng lão: Thì đúng rồi thế nào họ cũng truy ra.
Phật tử 1: Cái đó có phim, nổi tiếng đó.
Trưởng lão: Đó thì cái vấn đề đó thì nó. Bởi vậy Thầy suy nghĩ lắm, cái thị hiện thần thông làm sao mà thứ nhất là cái giờ phút cuối cùng của mình, cái thứ hai là thực hiện làm sao để đối phó với mọi mặt. Cái thần thông thứ nhất, là hiện giờ mình đang làm cái việc gì và cái đối phương của mình họ sẽ đang làm gì mình phải biết cái đã. Để mình tránh những cái điều kiện, để cho mình duy trì thêm cái việc làm của mình cho nó kéo dài được.
(26:37) Phật tử 2: Bên Nam Tông thế giới nó chịu, Bắc Tông còn mê cái gì mình cũng tha thiết muốn cầu đạo đó nhưng không được.
Trưởng lão: Không Thầy nghĩ rằng cái con đường đúng, và họ sẽ là hàng trí thức thì họ sẽ đi đúng.
Phật tử 2: Thầy hiện cũng giống như mấy ông Phật với ông A Nan ngày xưa đâu có ai cãi lại được. Thầy hiện y chang như vậy thôi là không ai cãi gì được hết trơn đó, Thầy làm y như vậy thôi à.
Phật tử 1: Có môn Thầy, sau khi mà Thầy viên tịch rồi đó, thì thiêu đó, ví dụ vậy đó. Thiêu đốt không cháy, đến chừng nào mà…
Phật tử 2: Thầy bay lên trời Thầy tự thiêu ở trển, rồi nó rớt xuống nó còn cháy hơn củi nữa.
Trưởng lão: Thầy nói vầy nè, bây giờ nếu mà nói về thần thông, thì Thầy nói ngày mai này đúng bảy giờ là Thầy sẽ nhập diệt. Đêm nay cái nhà của Thầy nó ánh sáng hào quang, nó chói mịt trời mịt đất. Ở đâu người ta cũng thấy cái ánh sáng quá trời.
Phật tử 2: Mời cao tăng mà đắc đạo ở ngoại quốc về họ chứng kiến, rồi các hãng thông tấn đồ họ quay phim.
Trưởng lão: Rồi sáng ra Thầy nhập diệt, Thầy chết trong cái tự tại. Nhưng mà sau khi mà chết rồi thì cái thân của Thầy nó không có còn nằm ở trên cái tảng đá nữa. Mà cái thân Thầy nó sẽ bay lên trời, rồi nó tự nó hóa lửa nó đốt, nó đủ rồi chứ gì? Nhưng mà khi đó rồi thôi, thì từ đó thì nó mất luôn nó không còn gì nữa hết. Đừng có nghĩ đó là Phật hay là Thầy gì nữa hết, hoàn toàn là nó hủy diệt hết. Nhưng mà bây giờ nó còn để lại cái giáo pháp này.
(28:07) Thầy nghĩ là nhiều khi người ta sẽ xuyên tạc nữa, chứ không phải không đâu. Bởi vì đâu phải người nào cũng đồng ý hết đâu, và cái miệng lưỡi của con người nó không phải là vừa.
Phật tử 1: Mà miệng lưỡi của Đại thừa nữa, chu cha ơi.
Phật tử 2: Không sao Thầy, bị vì thấy chúng sanh nhiều lắm, mấy ông này ổng nói nói không có bằng khi mình thấy.
Trưởng lão: Mình phải, bởi vì Thầy nói, chuẩn bị mọi mặt đừng có. Sơ xuất một chút xíu, thì người ta dùng cái miệng lưỡi người ta nói cái thì mình trở thành tà giáo.
Phật tử 2: Ở ngoại quốc bên Nam Tông cũng nhiều. Thế thì mình chỉ phát triển bên Nam Tông thì bên Bắc Tông không có nói động gì hết. Tự nhiên bên Nam Tông muốn đưa mình lên.
Trưởng lão: Thôi bây giờ quý Sư nghỉ.
(29:01) Phật tử 1: Để con nói trước nghe Thầy. Hôm nay con đã ngồi thiền được ba phút, con đang tập lên bốn phút, tập cho thuần. Phải làm ba phút trước, thời gian chừng lối vài ba lần cái rồi tập trong bốn phút, thấy nó được hơn trước. .
Trưởng lão: Cứ vậy đó, tập vậy đó là chắc ăn làm được. Khi nó tỉnh rồi nó xả.
Phật tử 1: Dạ. Như vậy thì trong lúc mình ngồi thiền như vậy đó, thì trong cái thời gian mà thư giãn đó, mình có thư giãn rộng ra thêm nữa không Thầy?
Trưởng lão: Được. Mình thư giãn rộng ra thêm cũng được.
Phật tử 1: Lúc nào mình thấy khỏe thì mình nhập lại còn lúc nào mình thấy mệt thì mình giãn ra.
Trưởng lão: Vì nó là cũng một cái loại định, chứ không phải là mình không tu đâu.
Phật tử 1: Thư giãn thì con cũng theo dõi hơi thở, mình không có gom tâm, mình theo dõi cái hơi thở nó ra vô.
Trưởng lão: Cho nó nhẹ nhàng.
Phật tử 1: Rồi còn cái, con cũng có tác ý trong lúc mà mình đi kinh hành đó Thầy. Đi kinh hành hành thì con có lúc theo dõi hơi thở, có lúc thì con theo cái bước chân. Ngày hai cái đó con thay đổi. Như vậy có được không?
Trưởng lão: Được không sao hết. Để cho tỉnh thức thôi.
Phật tử 1: Dạ. Rồi con cũng có nhắc nó, nhắc nó như Thầy có nói là "Ly dục ly ác pháp, tâm như đất". Nhập Sơ Thiền mà con chưa dám nói nhập Sơ Thiền, con nói: “Tham, sân, si phải ly, ly ra khỏi cái thân này.” Chừng nào mà thấy khá khá một chút, rồi mình mới nhắc cái nó nhập Sơ Thiền, chứ bây giờ nhập đâu có nổi đâu. Bây giờ nó chưa ly.
Trưởng lão: Nó chưa tỉnh nữa, như vậy nó mới có hai ba phút. Sức tỉnh nó hai ba phút mà làm sao nó nhập được. Tỉnh rồi nó mới xả, xả rồi nó mới nhập, tỉnh rồi xả, xả rồi nhập.
Phật tử 1: Xả như thế nào hả Thầy?
Trưởng lão: Đó thì bây giờ mình tỉnh giác, mình nhắc nó mình xả nó. Trước các đối tượng nó có gặp cái gì đó, mình quán xét cái đó để mình diệt nó. Thí dụ như giờ con cái nó về, mà tình cảm mình biết nó ái kiết sử, mình quán xét mình xả ra. Đừng có để nó lo lắng, nó thương nhớ, vậy thì nó xả.
(31:18) Phật tử 1: Con cũng hỏi thăm thêm cái này một chút nghen Thầy. Cái này nó ngoài vấn đề này, nhưng mà con hỏi thăm chút. Khi mà con đi về bên Úc đó, mấy ông cư sĩ thế nào cũng lại hỏi thăm chút chút về vấn đề thiền. Rồi mình nói như thế nào, mỗi ngày con cũng biết mấy ông cũng có rảnh, bị mấy ổng già đó, cũng có rảnh ngồi lâu, nhưng mà rồi lại kẹt như thế này. Mấy ông ngồi theo thầy Nhất Hạnh đó Thầy, thành ra mình sửa như thế nào?
Trưởng lão: Mình sửa đó, mình sửa mình nói như vầy. Mình nói ngồi lâu mình không có chủ động được, thành ra nó bị lạnh hay hoặc là nó bị vọng tưởng đồ nhiều. Tốt hơn mình tu ít, mình làm chủ cho được cái thời gian ngắn như Thầy giảng đây vậy đó. Cứ dạy họ lại như vậy, nhưng mà không nói gì, bên kia ngồi sao kệ. Mình dạy họ lại ngắn, nhưng mà nhớ ráng mà xả tâm thôi, mình nhắc thêm họ Như Lý Tác Ý thôi.
Đừng có nghĩ rằng người ta bây giờ đó, mình chỉ mục đích của mình là do mình ly tham, sân, si. Mình không có lo ly tham, sân, si mình cứ ngồi mà ức chế thì nó tham, sân, si nó không có hết. Con nhắc vậy đó, nhắc người ta khéo vậy đó, để cho người ta biết người ta tu cho đúng một chút. Chứ không người ta không biết xả, người ta cứ ngồi người ta lặng lẽ để cho nó không niệm.
Phật tử 1: Đúng ở bển thì luôn luôn ngồi vậy đó Thầy, ngồi lâu một hai tiếng đồng hồ.
Trưởng lão: Mà để cho nó không niệm thôi, mà nó không niệm nó đâu có làm cái gì, cho nên vì vậy mà nhắc khéo. Người ta sợ người ta không đủ niềm tin thì mình nhắc cho người ta tin. Như cái Định Niệm Hơi Thở mà Phật dạy đó, quán ly tham ly sân ly si. Mình lấy trong kinh để nhắc người ta đó, Phật giảng vậy đó, để cho mình ly tham sân si, chứ mình ngồi mình im lặng không có nghĩa gì hết.
Phật tử 1: Con cũng nhắc người ta là phải, bởi vì ở bển đó nhà cũng có vườn phía sau đó Thầy, con cũng nhắc giống như hôm trước con nói, con bây giờ con sẽ làm giống như vậy, rồi nhắc người ta làm như vậy đó Thầy. Để người ta độc cư được một ngày, một tháng một ngày, hay tháng hai ngày như vậy đó.
(33:21) Trưởng lão: Cái vấn đề tu tập nó có cái phạm hạnh. Chứ còn mình tu rồi mình cũng, thí dụ như tới giờ ngồi thiền thì mình ngồi, mà lát nữa tiếp duyên gia đình nói chuyện tùm bậy tùm bạ, không có nghĩa lý gì.
Phật tử 1: Mình tu một ngày là một ngày.
Trưởng lão: Một ngày trọn là không nói chuyện ai hết, mình giữ cái hạnh Thọ Bát Quan Trai, mình nhắc họ trong cái Thọ Bát Quan Trai. Chứ mình tu rồi mình, bây giờ thí dụ như mình rảnh, sáng mình ngồi thiền một thời, hai tiếng hay ba tiếng rồi ra cái ăn uống, nói chuyện tùm lum, nói chuyện không được. Cái hạnh như vậy nó không đúng, mà không đúng tức là nó không ly, không xả. Con nhắc vậy để cho người ta biết, người ta tu cho nó đúng chút.
Phật tử 2: Vậy Sư kỳ này hơn con là hơn ba phút, con chậm chân hai phút, thua rồi.
Trưởng lão: Như vậy là tu như vậy, căn bản lắm đó. Mình kết hợp mình tu ít, nhưng mà cái thời gian mình vô ngồi là mình chủ động cái tỉnh thức của mình rồi. Bây giờ tập tỉnh trước, tỉnh giác mới Chánh Niệm. Mà mình tỉnh giác rồi thì cái Chánh Niệm nó sẽ xả sau đó là cái Chánh Niệm của mình. Thì như vậy là sẽ chắc ăn hết. Còn mình ngồi mà nó dài quá, lộn xộn mà tu các thứ hết, tỉnh chưa mà có gì đâu mà xả nổi.
Vậy rồi chớ mà tập tỉnh vậy, rồi tập xả vậy, hướng tâm vậy. Sau khi có pháp nó đến rồi đó, cái pháp nó đến nó làm cho tâm mình nó thấy thanh thản. Thì nó tỉnh rồi, tự nhiên nó thanh thản là nó ly đó. Coi vậy chớ mình thường thường mình gặp chuyện mà mình không có tỉnh, mình gặp chuyện thì nó rối. Mình người tu, mình biết, nó có phiền não, nó có thương ghét ở trong này không? Nó có tham muốn này không? Nhưng mà vì mình không có bộc lộ ra hành động của thân nghiệp của mình, ý của mình nó bị hết à.
Nhưng mà sau thời gian mình tu vậy rồi, mình nghiệm lại mình thấy, bây giờ cái ý mình nó không có vậy nữa mà nó ly. Nó ly trong ý chứ không phải nó ly ở ngoài cái tướng của nó đâu. Nhiều khi mình ức chế nó là mình ly cái tướng, ly ác pháp, ly dục bằng cái tướng, chứ còn cái tâm của mình nó chưa có ly.
(35:27) Cho nên mình tu hoài mà sao cũng còn thấy phiền não, phiền não theo kiểu người tu, chứ không phải phiền não theo kiểu trần thế. Trần thế họ phiền não là họ đánh, họ chửi, họ mắng la dữ lắm, còn mình phiền não của mình thì nó phiền não ngầm ở trong mình. Nó buồn, hay hoặc là nó lo, nó thương, ghét gì nó cũng ngầm ngầm nó không lộ ra, nhưng mà nó có, nó không hết. Còn mình tu như vậy đó, mình thấy tu như vậy một thời gian sau mình thấy sao nó mất.
Đó là nó ly đó, cái đó mới chính thật, còn kia mình chỉ là cái thô của nó ở ngoài thôi, khéo nhẫn thôi, chớ nó không có gì. Đó tập tỉnh, ráng tập tỉnh được. Tập tỉnh được tự nó xả. Để cho tự động mình nhắc nó, tự động nó xả, xả ly sạch. Mình bền chí thôi. Con đường đúng, pháp đúng thì nó sẽ, mình đặt niềm tin vào, mình cứ bền chí, đừng có bữa tu, bữa nghỉ, không được.
Ngày nào cũng tu đều đều đều đều là nó được. Cũng như mình làm riết nó quen, nó thành thói quen. Tập cho thành thói quen. Có cái nội lực của nội tâm của mình, thì tự nó giải thoát liền. Cái lực đạo nó có rồi thì cái lực đời nó giảm xuống liền.
(36:45) Phật tử 2: Về phần con thì con tập có hai phút mà chưa có lên, có thể ngồi năm sáu phút hơn nữa cũng được, nhưng mà nó nhức đầu con không dám làm. Phải ngồi, ngồi cho thoải mái chứ không sao hết trơn hết.
Trưởng lão: Đó, cứ thoải mái thôi, chứ đừng để cho nó căng trở lại là khó. Nó căng trở lại tức là sau này đó, nếu mà nó căng lại, sau này mình ngồi ít nó cũng vậy, hễ vô mình ngồi gom là nó bị nặng đầu, nhức đầu.
Phật tử 2: Thành ra con không dám tập.
Trưởng lão: Để thư giãn. Nó bị một cái mức của nó vậy, nó cũng khó đó, nó tiến tới cái nó bị. Mình tập cho nó thuần cho nó quen, thời gian sau đó rồi mình dần dần mình cứ nhẹ nhàng mình tới. Còn người ta không bị cái chứng nhức đầu, bị cái căng nó vậy, căng hông có người ta lên nó dễ hơn, từ cái nơi đó được.
Còn nó bị nhức đầu hay bị gì kia là bị căng. Có người bị căng mặt rồi, hể gom hơi thở vô, hơi thở gom tâm mình vô trong đó cái bắt đầu cho nó tỉnh thì nó căng, thì nó bị căng mặt, còn người bị nhức đầu. Do đó nó bị cái chớn đó nó chặn lại, bị vì cứ gom tới đó nó chặn, rối loạn cái thần kinh của mình trong này. Cho nên mình tu chừng mà hể nghe nó hơi thì mình xả lui lại. Không mình tu ít lại đừng có cho nó bị cái chớn nữa, thời gian sau nó hết. Phải tập bền chí đó, chứ không phải. Thì hồi đó cũng gom dữ lắm cho nên nó bị căng rồi.
(38:04) Phật tử 2: Con gom quen hễ nó muốn gom lại nó lẹ lắm, chú xíu nó gom rồi. Muốn có cảm giác ở đâu cũng có cảm giác đó nhưng mà hồi đó nó không có nhức đầu. Vì lâu lâu tập một lần đó, khoảng một tiếng đồng hồ tập một lần thì nó không có bị nhức. Bị vì tham quá rồi cứ làm năm miếng một lần nên nó căng nhức đầu.
Trưởng lão: Bởi vậy mình mới thấy rõ ràng. Sự thật ra một ngày mình tu một tiếng hai tiếng đồng hồ nó không sao đâu, một ngày mà tu liên tục như ở đây là chết luôn đó. Xem coi cái thời khóa biểu của Phật coi phải hay hông? Phật dạy mình tu để mà mình xả cái chướng ngại tâm của mình. Thật sự là cái chỗ này chứ không phải không. Nhưng mà mình không tỉnh thì mình không xả nổi đâu, mình phải tập tỉnh. Mà tỉnh đó, mà nếu không khéo mình cứ liên tục thì bị nhức đầu. Cho nên không có được.
Thí dụ bây giờ đó mình tập phải không, mình ngồi phải không, mình đi nè, mình liên tục mà. Cũng tập trung chứ đâu có gì, đi cũng phải gom trong hành động đi chứ đâu phải lơ mơ được. Mà mình không biết mình gom mạnh quá, gom chặt quá, do đó nó căng thần kinh nhức đầu, nó căng mặt. Mình cứ ngại mình lo vọng tưởng, chứ không có gì hết. Còn cái này không có cần lo, nhưng mà vọng tưởng kệ nó, miễn mình tập tỉnh ít ít, ít ít vậy đó.
Cái sức tỉnh mình lần lần nó quen rồi thì lo xả, thành ra mình không có cần mình vô cái sức tỉnh nó nhiều, mà mình chỉ tỉnh ít thôi. Cho nên nhiều khi mình cố gắng, mình gom làm sao cho được nửa tiếng, một tiếng đồng hồ đó, thay vì liên tục.
(39:31) Phật tử 2: Thì lúc trước con nghe Thầy nói đừng có cho vọng tưởng nó chen vào, cái lúc mình thư giãn đó thành ra con sợ.
Trưởng lão: Đó cái đó là sợ nó mới căng đó
Phật tử 2: Đó tự nhiên nó cứ vô hoài, mình làm sao khỏi được, nó cứ vô hoài. Cũng như chẳng hạn như mấy cái niệm ác niệm thiện, thì Thầy nói niệm thiện thì mình theo, con mấy bữa nay đó nhiều cái niệm thiện nó nổi lên mà con không có dám theo, mà nhiều khi cũng theo đại bị nó niệm thiện. Con nhớ cái vụ mà cái viện an dưỡng ở ngoải đó, cái con nghĩ này nghĩ kia nghĩ nọ cái nó cứ theo miết luôn, có khi năm mười phút, có khi hai chục phút.
Trưởng lão: Không sao hết, khi mà thư giãn mình đó, mình trong cái khoảng thời gian mình tu một hai phút, gom chặt để cho đừng có niệm thiện niệm ác đó, để cho nó tỉnh thức hoàn toàn phải không? Thì được. Còn khi mình thư giãn rồi, có niệm thiện mình cứ tăng trưởng không sao hết, để cho nó tự nhiên mà, nó tự nhiên nó không căng. Còn mình cứ bắt buộc nó không có niệm nào hết thì nó căng đó. Nó căng cũng như mình gom cái kia vậy đó.
Phật tử 1: Cũng như mình chặn hết trơn.
Trưởng lão: Chặn hết không có cho nó đi chỗ nào thì nó căng lắm.
Phật tử 2: Thì con nói không có chỗ xì.
Trưởng lão: Thì đúng rồi không có chỗ xì, nên nó căng quá nó bể.
Phật tử 2: Cho nó xì đâu chứ không nó căng hoài.
(40:37) Trưởng lão: Cái mà cái sức, Sư đó thì bị nhức đầu đó, còn người ta mà nó không bị nhức đầu, thì nó lúc bấy giờ lúc hễ vừa chợp mắt là nó mộng liền, chiêm bao liền, coi như nó xì chỗ đó. Còn bị vì cái thần kinh, cái ý căn của mình nó mạnh nó không bị loạn, nó không bị rối loạn nó không bị căng nhức đầu đó, thì nó sẽ xì qua cái mộng, nó xì dữ lắm. Nghĩa là ngồi ngủ như vầy chớ chớp mắt là chiêm bao, chợp mắt cái chiêm bao, nó chiêm bao lia lịa, nó xì qua phía đó.
Còn bây giờ mình đâu có, mình xì ở thiện, cho nên khi mình tu tỉnh thức là trong vòng như một phút, hai phút, sau đó lên ba mươi phút cũng vậy, khi xả ra là để cho nó xì cái này, đừng cho nó xì qua mộng, nó xì qua mộng không hay đâu. Nó bị mộng, nó bị tưởng, thành ra dở lắm. Mình chỉ cho nó qua ý thức, mà qua ý thức thiện. Cho nên Phật còn chừa cái cửa đó, rõ ràng là ”Ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện”, mình chừa cái cửa này, để cho nó xì qua bớt. Chứ không cái đầu này nó căng lắm, không được.
Phật tử 2: Mấy cái lúc đó sao con thấy nó khỏe dữ lắm, hễ mà mỗi lần mình niệm thiện, cái nó kéo dài cái thời gian cái nó không có căng, không có mệt, nó thoải mái.
Trưởng lão: Đúng vậy đó, nó xả mà, nó không có
Phật tử 2: Mà mình cứ ngăn không cho nó vọng cái nó mệt quá, rồi cái bắt đầu nó tạp niệm tùm lum hết trơn. Ngăn chừng nào nó tạp niệm chừng nấy.
Trưởng lão: Đó cho nên vì vậy đó, mình có cái hướng để mình xả thì hay lắm. Mà hễ niệm ác là diệt à, không được à, mà niệm thiện thì tăng trưởng, không sao nó tùy theo mình. Nó suy nghĩ điều tốt chứ không phải là điều xấu. Mình biết mà, cái niệm thiện niệm ác mình phải biết chớ. Phải hông? Cho nên Phật nói tăng trưởng niệm thiện mà.
Bây giờ nó không có cái niệm thiện đi, thì mình kéo dài cái thời gian mà nó thanh thản, vô sự này đó là cũng niệm thiện chứ con. Nó thiện là không tham, không sân, si chứ gì? Còn cái kia nó thiện là vì hữu lậu mà, nó thiện lợi ích cho người khác, mình đâu có ác pháp đâu, đó thì mình xả.
(42:32) Phật tử 2: Ngủ hay giật mình mười hai giờ đêm, cái tự nhiên cái nó nhớ cái vụ viện an dưỡng, ủa sao kỳ vậy? Cái làm tới luôn cái niệm luôn. Cái con mới nghĩ là làm cái này cái kia cái nọ, con nói thôi bây giờ Thầy định, cái ý định trong tương lai đó, thì làm cái viện an dưỡng, nhưng mà sức khỏe thì nó không có đủ. Thì cần tái sanh á thì Thầy tái sanh qua bên kia làm Tổng thống chẳng hạn, nhưng mà con nghĩ Tổng thống không có quởn mà lo đạo đâu.
Nó hít tùm lum chuyện hết trơn hết trọi á. Còn tái sanh qua một người khác thì nó dễ. Con cũng cứ góp ý thôi, con cúng dường cái thân con cho Thầy. Đó bây giờ Thầy một hai năm nữa cái Thầy nhảy qua bên con đi. Chuyện sinh tử nó không thành vấn đề. Đó Thầy qua bên con cái là Thầy bắt đầu Thầy ở ngoải Thầy làm cho nó rồi. Chứ cái viện an dưỡng một năm hai năm không có rồi.
Trưởng lão: Không rồi tại nó lớn lắm.
Phật tử 2: Dạ, tại vì bây giờ cái cơ sở hạ tầng đó, thì Thầy phải lo phải từ ba năm mới rồi, tới chừng đó tiền mới đổ vô xây dựng. Mà giờ cơ sở hạ tầng chưa có gì hết trơn hết trọi rồi Thầy lo cái này nữa rồi mai mốt Thầy đi rồi sao? Thầy đi rồi không ai trụ trì. Con nói thôi giờ con cúng dường cái thân con cho Thầy.
Trưởng lão: Tốt quá. Vậy đó là quý quá rồi.
Phật tử 2: Mười năm sau, chắc ăn mười năm sau là Thầy có thể kiếm được một số đệ tử với Thầy, có thể là chấn hưng lại Phật giáo. Chứ cái niệm chấn hưng lại Phật giáo một mình thì Thầy làm không nổi. Nhưng mà biết đâu trong vòng mười năm nữa Thầy có thể đào tạo ra một người như vậy đó, để mình có thể mình thay đổi được chương trình. Chớ bây giờ con thấy bên Đại Thừa với bên Nam Tông của Việt Nam chớ nó cũng khó lắm à, nó cứng ngắt, rít chịt cả ngàn năm mình mang qua.
Phái Nam Tông bên Miến Điện á thì cũng gần giống như nguyên thủy ăn có một bữa à, có ông sư hộ niệm ổng về ổng nói, cũng không có tụng kinh, Niệm Phật gì hết trơn á, cũng y như mình đây. Mà cái cách hành thì hành theo Tứ Niệm Xứ không hà. Bởi vì con học ở Phước Sơn thì nó hành theo cái bộ Trường Bộ Kinh với lại bài Đại Niệm Xứ đó, 16 hơi thở với lại Chánh Niệm đó. Thì nó đây là con đường độc nhất để có thể mà giải thoát, đó là Tứ Niệm Xứ.
Nhưng mà hành nó không có phải như mình, nó cần cộng thêm Tứ Chánh Cần. Chỉ có lo hơi thở, nhưng mà tu là ngăn ác thôi, chớ không có diệt ác. Thì nó cách hành nó chú trọng kỹ thuật nhiều hơn. Lạc đạo, cho nên con có ý nghĩ là nó thôi giờ mai mốt con cúng dường cái thân con cho Thầy.
(44:56) Trưởng lão: À thôi được rồi, Thầy hứa khả vấn đề đó, thì tức là ráng mà. Bây giờ đó mình chuyên cần tu tập, thì chừng đó mà chưa xong thì Thầy mượn. Còn nếu mà xong rồi thì cũng là Thầy mượn, thì tức là bây giờ tu xong rồi Thầy mượn chứ sao, phải lo chuyện chứ. Vì cái tâm nguyện đó là tâm nguyện vì chúng sanh mà, vì con người trên hành tinh này mình mới thực hiện làm sống lại đạo Phật, cố gắng.
Phật tử 2: Thầy sợ, chứ con không sợ đâu. Thầy mượn được cái xác thân rồi Thầy.
Trưởng lão: Nếu mà xong đó, nếu mà công việc mà xong được, thì quý sư mà tu xong được đó, sư mà tu xong được, sư thay thế Thầy làm công chuyện. Thì nó là hay rồi, phải không? Thầy khỏi mượn, phải không? Mà giờ sư tu chưa xong thì Thầy phải mượn chứ sao, bây giờ hứa khả rồi. Sư thì còn tuổi trẻ.
(Hết pháp âm)
VẤN ĐẠO 17
CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC VÀ
HUYỀN THOẠI NHẬP ĐỊNH
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Thời gian: 2002
Thời lượng: [45:14]
Tên cũ: 09A-TueTinhTrinhPhap-VanDaoThienDinh
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-17-chanh-niem-tinh-giac-va-huyen-thoai-nhap-dinh.mp3
(00:01) Tuệ Tĩnh: “Chút xíu nữa mình phải vô rồi mình chuẩn bị để thay mấy cuộn băng này”. Con nghĩ vậy cái con chợt tỉnh lại, con nói: "Như vầy là mình phóng dật rồi, nó phóng tâm mình rồi". Bởi vậy cái con hẹn lại với lòng của con có lẽ buổi chiều đi kinh hành xả tâm, rồi vô là mình mới chuẩn bị. Thì con làm như vậy có được không Thầy?
Trưởng lão: Được, bởi vì đó là mình phải chủ động trong cái giờ giấc của mình, tức là mình chủ động điều khiển cái tâm hành: Bây giờ cái giờ này là giờ đi kinh hành, để giữ cho mình bước đi của mình, để cho mình tập trung trong bước đi. Và đồng thời mình xả tâm mình, chứ không phải giờ mình suy nghĩ những cái đó. Luôn luôn phải chủ động được cái giờ giấc, bởi vì mình tập làm chủ được. Chứ thường thường cái tâm mình nó không có chịu mình làm chủ nó….
Tuệ Tĩnh: Rồi thí dụ chẳng hạn như trường hợp mà con ngồi thiền đó Thầy. Con ngồi thiền mà nếu mà nó xen vô như vậy đó, rồi cái thời ngồi thiền đó con phải bỏ hả Thầy, hay là con cũng giữ nó?
Rồi thí dụ trường hợp mà nó bớt phóng dật, thì mình nên giữ nó, hay nên bỏ nó hả Thầy? Nó mới phóng tâm thôi.
Trưởng lão: Nó mới phóng tâm thôi, nó phóng tâm thì trong khi đó mình đang ngồi thiền, mình ngồi để mà mình giữ cái tỉnh thức của mình ở trên cái hơi thở. Thì mình ngồi thì mình nương hơi thở rồi, mình nương cái động của hơi thở. Và mình nương cái động hơi thở để mình dùng cái pháp hướng Như Lý Tác Ý mà mình xả cái tâm, chứ không phải giờ này đang là cái giờ…. tu của mình có rồi.
Đó, đó là nếu mà, nếu là trong khi mình tu Định Niệm Hơi Thở để tỉnh thức, để dùng cái pháp hướng để mình xả tâm, hoàn toàn có niệm khác đến thì mình giữ. Mình giữ nó không có tiếp tục, không có chung đụng nó. Còn nếu mình ngồi thiền mà mình câu hữu với Định Vô Lậu và nương vào hơi thở mà không có niệm gì thì thôi, nó không có phóng tâm thì thôi. Mà khi nó phóng tâm ra, thì bắt đầu mình nương vào cái chỗ phóng tâm cái niệm đó ra, rồi quán xét cái niệm đó, coi nó ở trong cái dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Coi ba cái lậu hoặc này coi nó nằm cái lậu hoặc nào. Thì chừng đó mình dùng cái quán xét của mình, mà mình thấu triệt nó, thì đó là mình xả. Nó xả thì mình dùng pháp Như Lý theo đó nữa, mình nhấn mạnh, tức là mình hướng tâm phải xả bỏ luôn.
(02:29) Đó, để tâm nó có một cái điều kiện mà. Còn nếu mình còn đang muốn tu tập tỉnh thức, muốn tu tập để nó nhớ mới hay là cũ. Cũ là mình phải dùng mình câu hữu được, mình mới mình đừng có câu hữu, mình câu hữu là mình bị động hết. Mình mới tu, mình thấy cái sức của mình nó chưa có pháp Như Lý, Tác Ý nó chưa có hiệu quả, do đó mình phải giữ cái tâm tỉnh thức. Thì mỗi niệm mà nó khởi tâm chứ chưa phóng dật, nó mới phóng tâm thôi đó, thì lúc bấy giờ đó mình bỏ luôn, mình chưa câu hữu được đâu. Cái sức của mình câu hữu là phải hai cái định, mình mới câu hữu nổi. Mà cái sức mình nó chưa tỉnh mà mình câu hữu tức là mình bị động. Tức là cái tâm nó lừa mình, nó cho mình câu hữu hai cái. Cho nên người mà không biết, tu như vậy thì thích lắm, nó sẽ động tâm hoài, mình tìm cái định tịnh không có.
(03:22) Tuệ Tĩnh: Thí dụ như là ngồi thiền, một thời thiền mình ngồi, chẳng hạn như con ngồi con phân ra làm bốn lần, bốn lần mà mỗi lần vậy là bốn phút. Mà thí dụ trường hợp mà nó vô cho con được mà không có phóng tâm được hai lần thì mình kể hai lần đó thôi, còn hai lần kia thì kể như bỏ.
Trưởng lão: Bỏ. Coi như là mình tu chừng nào mà được bốn lần mà đều nó lợn cợn, hết thì mình thấy là mình đã thành tựu được lắm rồi, thì mình tiến tới một cái giai đoạn mới. Còn mình chưa có vậy thì tức là trong bốn thời mình mới chỉ được hai thời, hay ba thời, còn một thời thì mình chưa có quả.
Tuệ Tĩnh: Dạ còn hổm rày con cũng, hai, ba bữa rày con cứ dậm chân tại chỗ đó, con không có lên được. Bởi vì bốn thời mà một thời mỗi thời bốn phút đó Thầy, nó khó quá. Tại vì mình cũng như còn yếu quá Thầy, thành ra con chưa có tăng lên được.
Trưởng lão: Cứ nhớ, nhớ mình giữ sức tỉnh thức mình. Nếu mà giữ, cái sức tỉnh thức của mình mà nó kéo dài nhiều đó, thì tùy theo cái đặc tướng của mỗi người. Có người thì người ta kéo dài được, có người kéo dài không được. Nếu kéo dài không được thì nó bị nặng ngực, nó nặng đầu, nó chóng mặt, hay hoặc là nó căng mặt, nó căng cái mặt nên cái mặt mình nặng ra. Thì tâm mình chỉ sử dụng nó, thời gian mình chỉ kèm theo với cái pháp hướng để đừng có tập trung ở trong một cái đối tượng thì nó không sao, chứ còn không thì nó…. Phải lưu ý cái phần đó. Nó căng nó mới nặng đầu, nó nhức đầu thì bởi vì mình tập trung để cho mình đạt được cái chất lượng khoảng nào đó.
Ví dụ như từ một phút cho đến năm phút, hay là mười phút ở trong khoảng thời gian nó dài quá, do đó mình bị căng. Mình ráng thì nó được chứ không phải không được, nhưng mà căng quá. Thôi mình không có làm cho căng, mình thấy căng tức là ác pháp rồi, nó không hay. Cho nên khi đó mình biết cái đặc tướng của mình nó không phải là cái chỗ tập trung. Cho nên vì vậy mình chỉ từ năm hay mười hơi thở, thì mình nương vào đó mình dùng pháp hướng mình kèm theo mình xả. Để cho nó vừa động mà vừa tỉnh, mình kèm mình cứ xả thì nó không bị động, chứ còn không khéo mình cứ ngồi im….
Tuệ Tĩnh: Mình xả bằng cách nào Thầy?
Trưởng lão: Thì mình nhắc thôi, thí dụ như: "Tâm như cục đất, hay hoặc là tâm ly dục, ly ác pháp". Đó mình cứ nhắc nó vậy thì nó sẽ không căng. Chứ còn mình không nhắc là nó sẽ chú ý quá, thì nó chú ý quá không đó.
Đó, chú ý thí dụ mình để biết hơi thở ra vô nữa. Mình thỉnh thoảng mình nhắc là "Tôi biết tôi thở, tôi biết tôi thở" để cho nó tập trung trong hơi thở nữa. Thì do đó đó mà mình thấy bây giờ thì một phút cho đến năm phút, cho đến mười phút, mà nó có. Cái người mà cái đặc tướng về thần kinh bị yếu đó, là nó bị căng. Còn những người mà người ta có cái sức tập trung, nó có cái đặc tướng thân mình thì nó không căng. Người ta đi vào, mà cái người đó đó, đi vào vậy mà người ta tới cái khoảng độ 10 phút, cao lắm là ba mươi phút, tăng lên nữa là bị rớt vào không tưởng, trạng thái khi tu. Vì nó không có niệm, không có niệm nó rơi vô tưởng.
Tuệ Tĩnh: Mình niệm thì nó đỡ hơn.
Trưởng lão: Mình niệm nó thì đỡ, bởi vì mình niệm là mình dùng ý thức để cho mình động, để cho mình mình ly cái tâm của mình, mình lìa cái tâm tham, sân, si đó. Chứ không phải là cái mục đích mình ở đây để tĩnh lặng để cho mình vô Định đâu.
(6:37) Tuệ Tĩnh: Thì con cũng xin hỏi thăm Thầy thêm. Tại vì vấn đề con đi, con không có biết rõ về vấn đề Vô Minh như thế nào nữa Thầy. Nhờ Thầy chỉ dạy cho con bởi vì trong tương lai này đó con phải về Úc. Rồi có nhiều người cũng đến hỏi những câu hỏi đó, thành ra mình thấy mình biết chút đỉnh để mình trả lời cho người ta.
Trưởng lão: Cái vô minh đó. Cái vô minh, thí dụ như mình đang tu vầy, cái tâm mình nó phóng ra, tức là phóng tâm. Thì mình tương tục cái phóng tâm đó, thì nó thành phóng dật mà mình không hay, cái đó gọi là vô minh. Nghĩa là mình tiếp tục cái phóng tâm đó.
Thí dụ như bây giờ mình khởi ra một cái niệm, rồi bắt đầu đó mình theo cái niệm đó, tùy miên ở trong cái niệm đó, thì đó là mình bị vô minh, tức là mình không sáng.
Rồi bây giờ đó nó vô minh. Thí dụ như mình đang ngồi tu mà bỗng dưng nghe nó gục, thì đó là mình cũng bị vô minh rồi đó. Tức là nó si rồi, cái niệm si là nó cũng vô minh, nó vô minh nhiều cái lắm.
Cái mình hiểu trật nó là vô minh, nó phân biệt được. Thí dụ như bây giờ như người ta nói có Phật tánh, thì mình cũng tin có Phật tánh, đó là mình vô minh. Mình không có hiểu trong cái Thập Nhị Nhân Duyên cho nó rõ ràng, mình cũng nhận đó là một cái Phật tánh nó có thật. Một cái mà người ta nói mà mình không hiểu rõ cái đó mà mình vẫn tin nó, hiểu đó là cũng là vô minh.
Cũng như mình lầm chấp cái thân của mình là của mình, cái thân của mình là cái ngã của mình. Mình lầm chấp cái đó, mình cho nó là cái ngã của mình, cái đó là cái lầm chấp của mình, cái đó gọi là vô minh, con hiểu như vậy đó.
Cho nên thí dụ bây giờ một cái niệm khởi ra, mà mình thấy cái này nó đúng, cái đó coi chừng mình vô minh. Cho nên mình biết cái niệm mà khởi ra nó là hữu lậu, dục lậu hay vô minh lậu, nên mình xét. Mặc dù cái niệm này niệm thiện, nhưng mà không biết chừng nó là lậu hoặc, nó sẽ làm cho mình tư duy cái đó. Bởi vậy nói cái ác pháp nó cũng là cái thiện pháp mình khởi tâm mình thương nhớ, nó cũng làm cho mình khổ, đó là cũng lậu hoặc rồi. Đó thì do đó mà cái mà mình không hiểu nó đó, cái đó là vô minh. Còn mình hiểu nó thì, khi mà mình minh đó thì ngay đó mình xả liền.
Tuệ Tĩnh: Mình minh là mình sáng suốt?
(09:01) Trưởng lão: Mình sáng suốt, mình ngay đó mình bỏ được liền. Cũng như bây giờ Thầy nói bây giờ chúng ta biết hết nhưng mà nói chung chúng ta còn vô minh. Biết, cái gì chúng ta cũng biết, Phật dạy chúng ta biết đời khổ, mỗi mỗi cái gì mình cũng biết khổ hết rồi, nhưng mình bỏ không có được.
Tuệ Tĩnh: Như vậy là còn vô minh hả Thầy?
Trưởng lão: Đó nó còn vô minh, còn nó minh thì nó xả hết. Cũng như bây giờ nói Sanh là khổ, cái duyên Sanh nó sẽ nối tiếp những cái khổ. Vì hễ còn sanh thì còn ưu bi, sầu khổ. Như là cái bàn, cái ghế, cái tủ ở ngoài kia nó thuộc về sanh. Nhà cửa, con cái này kia nó thuộc về sanh, bởi vì nó đời sống mà, cái đời sống nó thuộc về sanh.
Thế mà bây giờ mình biết vậy mà mình bỏ không được, tức là cái minh mình không có, nó chưa có xả. Nó sạch tức là Minh, mình thấy nó hoàn toàn là. Mình rõ ràng đây là cái duyên nhân quả nó cấu kết, chứ không phải là con cái của mình hay là gì đó. Nó cấu kết để cho mình trả cái nợ nhân quả.
Khi mà Minh thì trong lúc đó mình thấu suốt, thấu triệt, Phật nói: "Không còn thương nhớ gì nữa hết". Cho nên đức Phật nói: "Nếu một cái người mà Minh đó, thì sáng nghe đức Phật thuyết thì chiều họ đã giải thoát hết rồi". Họ hiểu họ bỏ hết rồi. Còn mình bỏ không được, cũng hiểu mà bỏ không được, nên nói vô minh mình còn.
Nó đến từ cái chỗ Minh, mà hiểu mà không bỏ được, mà Minh mà hiểu bỏ được, là Hai chỗ này nó rất khó. Cho nên mình vẫn còn vô minh….. ( mất tín hiệu ). Mình hiểu biết nó là khổ. Mình hiểu biết danh là khổ, thế mà có chút danh là thấy mừng.
Tự nhiên người ta khen mình thấy mừng, sau này người ta chê. Thật sự ra mình nói cái người mà tu chứng hoàn toàn là người ta Minh rồi, khen cũng vậy mà chê cũng vậy, người ta không có giận mà người ta cũng không có mừng. Còn mình không khéo mình xét ngầm ở trong tâm mình, mình thấy người ta nói một cái gì mà vừa ý mình, mình thấy cũng thích, thì cái đó là mình còn đang khen nó rồi. Nó vô minh nó mới đi theo cái tham của nó, cái dục của nó.
Tuệ Tĩnh: Mình muốn phá vô minh thì làm sao Thầy?
(11:08) Trưởng lão: Muốn phá vô minh thì mình phải tập sống một cái đời sống giới luật. Bởi vì đức Phật nói: "Trí tuệ đâu thì đức hạnh đó, giới luật đó. Giới luật nó làm cho cái trí tuệ thanh tịnh, mà trí tuệ làm cho giới luật thanh tịnh".
Bây giờ thì cái trí tuệ, cái sự hiểu biết của mình, mình cố gắng mình giữ gìn giới luật. Mà giữ gìn giới luật bao nhiêu thì cái Minh của mình nó bấy nhiêu, tức là trí tuệ mình tăng lên bấy nhiêu. Đó cho nên muốn phá vô minh là phải giới luật. Mà giới luật thì nó khép mình trong cái khuôn khổ phạm hạnh. Mình phải sống cái đời sống ba y, một bát, phải không? Sống không gia đình, không nhà cửa, cho nên đó mới lại cắt đứt cái duyên Sanh. Mà cắt đứt duyên sanh mà mình sống, mình chấp nhận.
"Bởi vì sanh tử, vì luân hồi tôi chấp nhận phạm hạnh, chấp nhận phạm hạnh của Cồ Đàm". Thì chấp nhận phạm hạnh Cồ Đàm tức là Minh. Còn mình cũng sống mà thấy "sống cái đời sống này khổ quá, nó không có ham muốn được", thì tức là bị vô minh.
Muốn phá nó thì phải chấp nhận đời sống phạm hạnh. Mà khi đời sống phạm hạnh thật sự đúng mà mình chấp nhận thấy đời sống phạm hạnh, mình mới tìm thấy sự giải thoát trong đó rõ ràng, giải thoát hoàn toàn.
Thí dụ như các Sư về đây các Sư thấy là mình đâu có còn bận lo con cái, lo ăn, lo uống gì đâu. Hoàn toàn cứ ôm bát đi xin thôi, nó là giải thoát mà, còn gì nữa, đòi hỏi gì nữa. Mà cũng không ai nói nặng, nói nhẹ, không có làm gì mình hết. Tối ngày coi như là thảnh thơi vô sự rồi, có phải giải thoát không? Tại sao mình giải thoát mà mình không chịu mà mình còn khởi tâm nghĩ cái này, lo cái kia, cái nọ, cái đó là mình vô minh.
Cho nên khi mình nhận xét được cái sự giải thoát này, Thầy nói thật sự khi biết rồi, mình cứ sống vậy đi. Sống một mình mình trầm lặng mình sống, một ngày nào đó nó vô Thiền định. Bởi vì mình sống đúng cái đời sống đức hạnh rồi, mà mình có một cái trí tuệ. Bởi vì "trí tuệ nó làm cho thanh tịnh giới luật, mà giới luật nó mới, giới hạnh nó mới làm thanh tịnh cái trí tuệ”. Do đó cái đời sống của mình sống mới làm cho cái trí tuệ mình thanh tịnh. Thì do cái trí tuệ thanh tịnh nó mới có Minh khiến nó phát triển. Từ cái Minh nó phát triển thì nó. Minh nó có ba cái giai đoạn của nó, tức là trí tuệ có ba giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất thì Giới luật đâu thì Trí tuệ đó.
Giai đoạn thứ hai là Trí tuệ đâu thì Thiền định đó.
Giai đoạn thứ ba Trí tuệ đâu thì Tam minh đó.
Nó có ba giai đoạn của nó chứ không phải. Mới đầu cái bài kinh Sonadanda, thì đức Phật nói: "Giới luật đâu thì Trí tuệ đó, Giới luật làm Trí tuệ thanh tịnh, Trí tuệ làm Giới luật thanh tịnh". Cái câu đó là mới vô tu về giới luật, đức Phật đã xác định giới luật là trí tuệ đó. Hai cái này không thể tách lìa ra được.
Một người có giới luật thì người đó phải có trí tuệ. Trí tuệ không phải chỗ học hỏi hiểu biết thông suốt, mà trí tuệ ở chỗ đức hạnh. Người có đức hạnh giải thoát thì tức là trí tuệ. Mà cái đức hạnh giải thoát đó nó giúp cho trí tuệ thanh tịnh. Mà cái trí tuệ nó giúp cho cái giới luật thanh tịnh, nó trở qua, trở lại hay lắm. Rồi từ đó cái Sơ thiền nó đi vô cái Sơ thiền, tự nó nó có cái Sơ thiền ở chỗ giới này, cho nên giới sinh định mà.
Cho nên từ đó đó, từ cái chỗ mà có cái Thiền định này rồi, thì bắt đầu mới đi vô từ cái Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, thì tức là Trí tuệ ở trong Thiền định. Thiền định là Trí tuệ, Trí tuệ là Thiền Định, cái chỗ này là cái chỗ trí tuệ của Định. Cho đến khi mà hướng tâm đến Tam Minh thì Trí tuệ là Tam minh, mà Tam minh là Trí tuệ.
Đọc lại cái bài kinh Sonadanda thì chúng ta thấy cái chỗ này đức Phật nói hết cái bài này. Bởi vì ở trong đó rất cụ thể.
Tuệ Tĩnh: Ở trong Trường bộ kinh hả Thầy?
Trưởng lão: Trường bộ kinh kinh Sonada. Cho nên muốn thanh tịnh, mình muốn có Minh, thì tức là phải chấp nhận giới luật. Mà chấp nhận giới luật tức là sống đời sống phạm hạnh. Đời sống phạm hạnh là ba y, một bát, sống không gia đình, không nhà cửa thì đó là đời sống phạm hạnh. Đời sống phạm hạnh là đời sống giới luật. Hai người chấp nhận thì sẽ dùng đúng pháp, đúng vậy à.
Mà duyên Sanh nó đã đoạn dứt thì phải sống cái đời sống phạm hạnh. Do đó ưu bi sầu khổ hết đó, phải không? Mình thấy mình có gì đâu nữa mà sợ khổ đau. Đó thì lão, tử sẽ chấm dứt, bệnh chết sẽ chấm dứt, già chết sẽ chấm dứt.
Tại sao vậy? Tại vì cái giới luật thanh tịnh thì tâm thanh tịnh rồi, thì bắt đầu nó có lệnh nó sẽ truyền, nó làm chủ được cái sự sống chết của mình. Nó sẽ đi tới cái trí tuệ thiền định mà. Còn bây giờ trí tuệ, giới luật mình chưa có mà mình đòi hỏi trí tuệ thiền định làm sao có được? Mà người ta lý luận, người ta nói: "Thiền định là Trí tuệ, Trí tuệ là Thiền định". Nhưng mà sự thật ra thì cái giới luật chưa có thì cái trí tuệ và giới luật không có, thì trí tuệ thiền định không có. Nên mình phải đi từng bước có đúng Giới, Định, Tuệ.
(16:01) Tuệ Tĩnh: Thưa Thầy như vậy thì mấy người cư sĩ không thể phá vô minh được
Trưởng lão: Nói chung thì người cư sĩ không phá vô minh được, bởi vì đời sống phạm hạnh không có. Cho nên họ tập chỉ có tập thọ Bát Quan Trai thôi, tập đời sống của người tu sĩ, chứ không thể nào mà cư sĩ mà có thể hoàn tất được con đường đó.
Bởi vì cái đời sống giới luật của họ không có, phạm hạnh đó, cho nên Minh không có đâu. Họ nói lăng xăng vậy chứ họ không có. Giới luật không có là coi như họ nói về lý chơi vậy thôi, họ không có giải thoát đâu. Họ còn dính một khối u, kêu là họ kéo theo một bè đó, mà họ nói giải thoát không à, giờ cư sĩ nên vậy thôi.
Cho nên nói về ông Bàng Uẩn mà giải thoát thì không bao giờ có. Hay hoặc là ông Trần Quốc Toản, Tuệ Trung Thượng sĩ thì không có đâu, cư sĩ không có đâu. Nói vậy chứ không có đâu. Tại vì mình làm ra câu chuyện ổng mà chết là thật sự là người cư sĩ không có. Người cư sĩ có là người ta mặc chiếc áo cư sĩ nhưng người ta sống đời sống phạm hạnh thì có. Còn vợ con cả bầy thì không được rồi.
Tuệ Tĩnh: Tại ổng hô đi ổng đi lẹ quá Thầy.
(17:02) Trưởng lão: Nói vậy chứ cách thức đi của Trần Quốc Toản là không đúng, tại cái đó là cái lý luận. Cái đi phải đúng là phải nhập Tứ thiền, tịnh chỉ hơi thở hẳn hòi đàng hoàng thì mới đúng. Ông không tịnh chỉ hơi thở mà ổng nói đi ngang dễ dàng như vậy, không có đâu, cái chuyện không có. Cho nên ông Bàng Uẩn hay hoặc ông Trần Quốc Toản Thượng sĩ Tuệ Trung, thì hai người này chỉ là huyền thoại của thiền Đông Độ chứ không bao giờ có.
Ông muốn mà tịnh chỉ hơi thở, ông phải nhập Tứ thiền, chứ không thể mà ông nói cái chuyện khơi khơi vậy được. Chỉ có Tứ thiền nó mới tịnh chỉ được hơi thở, hơi thở mới ngưng. Hơi thở ngưng là con người ta mới bỏ cái thân này được, tự tại được. Bây giờ mình bảo cái hơi thở mình ngưng, hay hoặc là mình ngồi thiền, hơi thở mình ngưng. Tức là mình có cách thức, mình làm chủ được sự chết của mình rồi, sự sống chết đó. Còn bây giờ mình không có cách thức thì tức là người ta huyền thoại, người ta nói. Cho nên thiền Đông Độ nó nói, chứ nó không có cái pháp hành cụ thể, để làm chủ cái này thì không thấy pháp đâu. Còn đạo Phật cái Tứ thiền nó rõ ràng lắm. Cho nên mình đọc trong kinh sách mình thấy nó rõ quá mà, tại sao: "Nhập Tứ thiền tịnh chỉ hơi thở?" Trời như vậy là rõ ràng, làm như vậy cái Thiền định này nó làm chủ.
Tuệ Tĩnh: Mình tịnh chỉ thì mấy ngày Thầy?
Trưởng lão: Bốn mươi chín ngày đó chứ nó không có ít đâu, Tứ thiền là nhập bốn mươi chín ngày. Nghĩa là ngưng bốn mươi chín ngày không thở mà tới chừng phục hồi lại được, Tứ thiền đó.
Tuệ Tĩnh: Mà cái đó Thầy đã có?
Trưởng lão: Đã có, cái này là cái chuyện của mình đi qua rồi, mình thấy rõ rồi bởi vậy nó mới đúng. Chứ còn nếu mà không có thì kể như cũng ở trong sách vở, chữ nghĩa mà thôi. Còn cái này có đi qua rồi thì mới biết, mới biết đúng.
Tuệ Tĩnh: Mà ngoại đạo sao nó cũng có cái pháp tịnh chỉ hơi thở vậy Thầy? Tại vì con đọc báo thấy mấy người Ấn Độ nó biểu diễn. Nó lại đó nó chết tắt thở rồi, bác sĩ khám rồi, vô hòm đóng đinh đem xuống chôn, bảy ngày sau đào lên giở hòm nó ngồi dậy, nó sống lại.
Trưởng lão: Được, cái đó được, bởi vì dùng tưởng thở, nó thở bằng lỗ chân lông. Nó dùng tưởng, nó tu tưởng nó thở bằng lỗ chân lông, chứ không tịnh chỉ mà nó thở. Nó thở bằng tưởng đó.
Tuệ Tĩnh: Dạ, tim cũng đập mà phổi cũng không có thở, ngưng chết luôn, bác sĩ bảo chết rồi đó.
Trưởng lão: Nó thở bằng lỗ chân lông nó thở. Bởi vì mình dùng tưởng đó, mình dùng cái tập trung mình dùng tưởng. Rồi mình dùng cũng pháp Như Lý Tác Ý, mình tác ý: "À bây giờ toàn thân thở bằng lỗ chân lông hết". Cứ ra lệnh nó thở bằng lỗ chân lông, dùng tưởng mà thở.
Tuệ Tĩnh: Vậy là cái phổi không có thở hả Thầy?
Trưởng lão: Cái phổi nó không có thở, nó thở lỗ chân lông. Nó thở ra vô bằng lỗ chân lông.
Tuệ Tĩnh: Cũng như Thầy đang nhập định, đã trãi qua rồi thì phổi cũng đâu có nhúc nhích.
Trưởng lão: Nó đâu có nhúc nhích nữa, nó không nhúc nhích nữa. Thậm chí như trái tim nó còn không đập nữa, khi mà phổi nó ngưng là tim nó không có đập. Nghĩa là coi như là nó hoàn toàn nó ngưng, hoàn toàn các cái bộ phận hoạt động ở trong thân mình nó bất động rồi, nó ngưng hết.
Nó dữ lắm chứ đâu phải, Thiền định mà đâu phải, nói về trí tuệ thiền mà đâu có. Bởi vì khi mà mình ra lệnh nó là cái trí tuệ của nó. Mà cái trí tuệ của nó ra lệnh "Bây giờ hơi thở phải tịnh chỉ ngưng, các hành trong thân ngưng", bắt đầu nó ngưng. Chỉ còn có nó giữ được hơi ấm là cái ý căn của nó hoạt động, là cái bộ óc nó còn rung động nhỏ riêng nó thôi. Để nó giữ cái hơi ấm của nó, nó không bị máu đặc, đó nó vậy thôi. Chứ còn hoàn toàn nó hết, máu đồ đứng lại tại chỗ hết, không có lưu thông mà. Tim cũng đứng, cái gì cũng đứng hết không còn hoạt động. Bởi vì phổi không thở là tim cũng đứng.
Tuệ Tĩnh: Theo khoa học thì nó nói cái bộ não nó sẽ nhờ máu nuôi. Nếu mà máu nó không bơm lên trong vòng một, hai phút thôi thì cái bộ não nó chết.
Trưởng lão: Vậy mà cái sức định nó vẫn giữ cho cái bộ não nó hoạt động. Bởi vì mình nhập tới Diệt Thọ Tưởng Định thì cái ý căn của mình nó mới ngưng hoạt động. Nó có ba cái hành, khẩu hành, thân hành, ý hành. Ý hành thì nó thuộc ý căn, mà ý căn là bộ não. Mà ý hành nó ngưng là mình nhập Diệt Thọ Tưởng Định. Còn cái thân hành là cái hơi thở của mình, là nó ngưng là tim cũng ngưng, máu nó cũng ngưng, nó không có còn chạy nữa. Nhưng mà điều kiện là cái bộ não còn hoạt động.
Tuệ Tĩnh: Hai cái pho tượng ở ngoài Bắc đó, con nghi chắc là do Diệt Thọ Tưởng Định đó Thầy. Họ đốt chùa cháy cái tượng nó cháy, cái đem ra sơn phết lại. Sơn phết lại sau đó tai nạn cái lụt, cái trôi hai tượng gỗ ra chỗ khác. Họ cũng đem về họ sơn làm sao họ mới khám phá ra đó không phải bằng cây mà cái đó thịt của người ta, cái đó là xác của người ta để lại. Mà lửa nói cái chùa cháy cái nó không sao, mà sao lại cháy không xuất định mà còn nguyên.
(21:40) Trưởng lão: Không phải đâu, Thầy có đến đó, Thầy thăm hai cái nhục thân đó rồi. Bởi vì đến, khi mà đi về Hà Nội, thì cái mục đích của mình cũng nghe người ta huyền thoại, phải nhìn trực tiếp bằng mắt thấy, tai nghe. Khi đến đó thì Thầy đã thấy rõ ràng là cái nhục thân đó bị cháy và bị mục nữa. Cho nên người ta lấy cái chất bao bố hay là lấy cái gì đó người ta mới ấy với dầu, dầu cây dầu đó. Rồi người ta mới trộn nó, rồi người ta đắp nó lên. Người ta đắp lên mấy cái chỗ mà bị cháy nám đó, người ta đắp lên.
Cho nên Thầy coi rất kỹ, Thầy thấy rõ ràng là họ đắp trở lại. Đó cũng là cái nhục thân của người ta để nhưng mà nó là cái bộ xương khô. Cái bộ xương khô thôi, nó khô queo, chứ nó không phải là còn cái da thịt tươi tắn như mình. Nó khô queo, nó khô cũng như là cái con người của mình đen khô khô vậy đó. Rồi bây giờ nó bị lửa cháy đồ vậy đó, hay hoặc là bị ngập lụt đó, rồi nó bị mục. Nó bị mục thì người ta mới lấy đó người ta đắp nó lại. Thành ra cái xương thì ở trong nó còn, nhưng mà cái da ở ngoài người ta đắp tầm bậy, tầm bạ hết.
Tuệ Tĩnh: Cái nhục thân nó còn ngồi không Thầy?
Trưởng lão: Còn ngồi.
Tuệ Tĩnh: Trong lúc đó ông đó ổng chắc ngồi thiền, ngồi thiền rồi ổng mới tịch luôn.
(23:04) Trưởng lão: Nhưng mà Thầy thấy cái xương này nó rớt ra. Cái xương ở đầu gối này nó rớt ra mà sắp trở lại, chứ nó không còn dính cái này. Lẽ ra thì phải cái này, cái gân đồ này kia khi một người nhập định gân đồ nó còn chằng chịt với nhau như vầy, nó khô luôn. Còn cái này bị rớt rời ra hết, rồi họ sắp họ để lại.
Thầy lật coi thử chỉ có cái xác của ngài Vũ Khắc Trường, của người cháu đó. Vũ Khắc Minh thì nó bị rớt rời ra hết, còn cái xác của Vũ Khắc Trường thì cái xác này nó còn nguyên. Nguyên nhưng mà vì nó đắp một cái lớp, một cái lớp kêu là người ta lấy cái chất dầu cây dầu đó, người ta mới trộn với cái chất gì đó, rồi người ta đắp nó xung quanh lại như cái tượng, rồi người ta sơn phết. Thành ra nó không bằng cái nhục thân của Vũ Khắc Minh, tại vì nó đắp. Nó đắp lại, cho nên cái thân nó còn nguyên. Còn cái thân của Vũ Khắc Minh thì không có đắp, sau này nó bị mục, rồi nó bị hư hoại gì đó người ta mới lấy cái bao bố, người ta mới nhồi với dầu người ta nhét vào mấy chỗ đó. Thành ra lại mình nắm, mình rút sơ sơ ra vầy, mình thấy những cái xơ nó thấy.
Tuệ Tĩnh: Vậy mà họ huyền thoại quá lên. Con nghe người ta nói vậy tưởng Diệt Thọ Tưởng Định nữa.
Trưởng lão: Bởi vậy họ huyền thoại quá, thực sự là không phải đâu. Cái đó chỉ là cái bộ xương khô thôi.
Tuệ Tĩnh: Các Lục Tổ sao con thấy chụp hình con cũng thấy khác rồi, lúc chụp hình cái da mặt nó cũng còn chứ nó cũng không có nhăn nữa.
(24:33) Trưởng lão: Đó, nó không có nhăn mặt, mình chưa có trực tiếp qua, không biết là cách thức của. Bởi vậy con người ta họ khéo quá, họ khéo họ huyền thoại họ che đậy đủ hết. Nhưng mà mình đến rồi, không có gạt mình được. Thầy đến cái chỗ mà cái chùa Đậu đó, Thầy đi vô đó, Thầy mới nói: "Thực sự đây là cái bộ xương khô". Nó không khó, nhưng cái này dễ lắm không có gì. Bởi vì người ta sẽ phát giác ra được có nhiều cái vấn đề.
Như một người cung nữ của thời đất nước mình phân ranh chia ra Nam, Bắc đó, Trịnh Nguyễn đó. Thì lúc bấy giờ có một người cung nữ của Trịnh Giang thì phải. Cái cô cung nữ đó là vợ của Trịnh Giang. Hôm bà ta chết thì cái đầu được cạo, đoán chắc là cũng theo Phật giáo mình, đầu cạo tóc để một bên. Nhưng mà cái thân này không biết ướp cách nào đó mà bây giờ còn tươi rói, hoàn toàn còn tươi, nằm. Người ta vừa mở cái quan tài ra, người ta thấy còn tươi rói.
Báo Giác Ngộ nó đăng, còn tươi rói thật, con người nằm còn như là bình thường vậy thôi. Người ta nói rằng cô này là được một vị Thiền sư nào truyền cho cái pháp gì đó, để mà nhập cái định trong khi bỏ cái thân này, người ta chôn cất tới bây giờ nó vẫn còn nguyên. Thì thật sự ra thì cũng là huyền thoại thôi. Mình phải đến trực tiếp là mình xem coi thử coi cách thức như thế nào.
Nó có nhiều cách ướp xác. Ở bên Tây Tạng nó ướp xác nó dở là nó phải móc ruột gan mình ra rồi mới ướp. Ướp những cái xác của mấy ông Lạt Ma. Còn Việt Nam của mình trong cái thời mà Trịnh Nguyễn phân tranh, thì nó đồng thời vua Càn Long ở bên Trung Hoa. Thì nó giữa Việt Nam, Trung Hoa nó có cái loại thuốc. Mình sắp sửa chết đó, mình uống cái thuốc đó vô, thì nó tẩm cái thân của mình nó không có bị hoại diệt, nó không bị hôi thối, đó cái thuốc hay lắm.
Chứ không phải như Bác Hồ bây giờ mà tẩm thủy đồ này kia, mỗi năm phải thay đồ, không có. Cái loại thuốc này dường như là thất truyền, cho nên vua chúa nó giữ bảo vệ, nó giữ cái thuốc này. Cho nên vì vậy mà cung nữ của nó chết thì nó tẩm cái này hết. Thậm chí như các vị quan lớn ở trong triều mà thời Nam, Bắc đó thì nó giữ lại được, còn trước nữa thì nó chưa có.
Mà trong cái khoảng thời gian mà Trịnh Nguyễn phân tranh, thì người ta đã tìm thấy được cái này. Rồi cái thời gian đó thì nó nằm ở trong Ngài Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Trường. Cho nên cũng là nhằm cái giai đoạn này họ đã khám phá ra được cái loại thuốc này. Cho nên những cái bộ xương này chúng ta chưa tin cái Thiền định.
Thật sự ra thì Thầy nghĩ rằng nếu mà. Bởi vì Thầy nói nếu mà có huynh đệ mà người nào mà tu xong rồi, lãnh cái trách nhiệm mà giữ gìn mạng mạch của Phật pháp. Thì phải có một người đi nốt quãng đường những cái Thiền định mà đức Phật đã nói. Để mình thực hiện ở trên đó, để xem coi nó như thế nào? Nó mới chắc chắn cho người sau, lợi ích cho người sau. Chứ bây giờ người ta huyền thoại, người ta nói mình không đủ niềm tin đâu. Mình thấy những cái lời nói của họ làm cho mình đâm nghi, bởi vì nói mà không ai làm được mà.
Thí dụ như nói nhập Diệt Thọ Tưởng Định một ngàn năm, cái từ trường nó bảo vệ cái thân này hoàn toàn là không bị hoại diệt, lửa đốt không cháy, gươm đao đâm không lủng. Đó Thầy nói nghe thì hay vậy, nhưng mà mình nhập rồi thì ở ngoài đó người ta làm gì thử coi nó sao chứ.
Chẳng hạn bây giờ mình muốn tin cái này không? Bây giờ đó cái sức của mình nhập được tới chỗ này không? Bây giờ mình nhập nè, bây giờ ở ngoài thử đốt coi cháy không? Nếu cháy thì mình bỏ có vậy thôi, có gì đâu. Mà bây giờ bốn, năm người, người ta đều được hết rồi phải không? Bây giờ thí một người, có gì đâu mà tiếc? Thí để cho đời sau, lợi ích mà….
Bởi vậy Thầy mong là quý Sư làm đi, rồi Thầy sẽ làm y như vậy. Quý Sư mà tu được rồi Thầy sẽ hoàn toàn Thầy sẽ nhập, rồi ở ngoài đốt lửa thử coi cháy không? Nếu không cháy đúng là cái Định này, từ trường dữ tợn thiệt.
Tuệ Tĩnh: Trong kinh có nói không cháy hả Thầy?
(28:38) Trưởng lão: Không cháy, mà đâm không lủng nữa. Nói có một vị Sư đó, vị đi ngang qua một cái tháp. Vị cũng không thấy đường, rồi vị thấy cái tháp, vị đi vòng quanh cái tháp. Chừng mà nhìn lên là thấy cái tháp của Ni cô, của một Sư cô nào đó. Ông này tức quá ổng đập cái tháp. Người ta nói những cái câu chuyện mình thấy đã là sai rồi. Người tu sĩ mà đâu có vây phải không? Ổng đập.
Mấy cái người mà giữ tháp này, bên nữ họ giữ tháp này họ chạy về họ báo. Họ báo cho cái đám nữ, đám nữ này, mấy cô Ni này mới xách dao với rựa đến chém ông Sư này. Ông sư này, ổng lật đật ổng chạy vô cái bìa rừng mà không có kịp, cho nên ổng nhập Diệt Thọ Tưởng Định. Ổng nhập rồi mấy cô này đến thấy ngồi đó mà mới đâm, mới chém, xả tùm lum. Cái y áo của ổng rách bươm hết, mà người ổng không sao hết. Mấy bả rút về rồi cái ổng xuất định ra ổng về, về cái y áo tan nát hết. Ông Anan mới hỏi: "Làm sao mà y áo của Sư dữ vậy?". Rồi Sư mới kể lại cái chuyện đó. "Trời ơi! Diệt Thọ Tưởng Định, chứ còn lơ mơ là chết tiêu". Thiệt cái câu chuyện nó nói vậy, mình biết có hay không.
Tuệ Tĩnh: Cái đó chắc cũng là huyền thoại.
Trưởng lão: Thầy nói huyền thoại. Thậm chí như nhà Sư gì mà đi ngang cái tháp Ni mà không thấy tức là vô minh một cái. Một cái nữa là tức giận mà đập phá tháp người ta, thì cái đó là sai hai cái. Bây giờ chúng dí chạy vô đây ngồi nhập Diệt Thọ Tưởng Định. Mà Người mà nhập được Diệt Thọ Tưởng Định đâu có phải người không biết nhập Sơ thiền. Mà Sơ thiền ly dục, ly ác pháp làm sao có những cái chướng kỳ vậy? Mình luận ra là cái này cái đặt, đặt điều cho nên không có, cho hay chơi. Cho nên thật sự ra Thầy nói khi nào mà chúng ta làm rồi mới tin. Không làm, chúng ta không tin cái thứ này.
Tuệ Tĩnh: Vậy nếu nó không đúng rồi cái Diệt Thọ Tưởng Định nó vẫn bị nướng cháy hả Thầy?
Trưởng lão: Ừ vậy đó. Thành ra mình phải thực hiện, người ta nói mà, mình phải làm.
Nói: "Ờ bây giờ mình nhập vào một cái định Diệt Thọ Tưởng Định, nói một ngàn năm sau".
Rồi Nói: "Ở bên Trung Hoa có một vị đó nhập vào như vậy, ngồi dựa gốc cây, cây nó bao lại. Sau đó vua nhà Đường cắt cái cây đó đem về làm lâu đài thì lòi cái ông này ra. Rồi mới dùng la mới đánh cho ông này giật mình tỉnh dậy, xuất định ra, mới hỏi ông thì tính ra một ngàn năm. Rồi trong khi đó diễn tả lại râu tóc đồ nó dài ra, rồi móng tay đồ nó quấn cùng mình hết".
Nói thật ra làm sao mà có cái chuyện. Đã nói vô thường là khi nào nó còn hoạt động nó mới vô thường, nó mới có cái sự móng tay, tóc râu của mình nó mới ra. Còn ổng ngồi cứng ngắc đó, ổng không hoạt động gì hết làm sao nó ra? Như một người chết làm sao ra? Như mình, mình hoạt động nè, thì móng tay mình ra nè, phải không? Râu tóc mình ra nó bạc nè. Còn khi mà ngồi bất động rồi, thì nó còn cái chỗ hoạt động đâu mà nó ra? Nên nó đâu có. Thành ra nó nhiều cái nó trật lắm, nó không có đúng cách của nó, thế mà họ cũng nói được. Mà mới đầu thì mình chưa có biết, mình chưa tu, mình chưa có trí tuệ để hiểu thì nghe nó hay, nghe nó thích chứ. Nhưng mà khi mà có trí tuệ mới biết họ lừa đảo, chứ còn không thì đâu có biết được.
Tuệ Tĩnh: Vậy là mình nhập Diệt Thọ Tưởng Định, mình nhập một tuần lễ thử coi Thầy, có được không Thầy? Tuần lễ mình đốt thử coi Thầy.
(31:50) Trưởng lão: Thì bởi vậy, bởi vậy Thầy mới nói như thế này: "Nếu mà có được hai, ba người, hy sinh một người. Chứ nếu bây giờ mà Thầy hy sinh rồi rủi đốt thì lấy ở đâu mà Thầy ra, phải không?". Bởi vậy cũng đang lo lắng lắm. Bởi vậy Thầy nghĩ rằng cái tuổi của mình thì nó sắp sửa hết mà bây giờ nó không có cái thời gian để mình thực nghiệm. Mình biết mình nhập được, ra lệnh thì nó tịnh chỉ, nó ngưng. Nó ngưng, nó vô chứ không phải có gì hết, nó dễ rồi, nhưng mà có cái điều kiện đó.
Tuệ Tĩnh: Mình không thử đốt, mình thử đâm coi. Mình thử đâm, đừng có thử đốt, đốt nó chết.
Trưởng lão: Đâm nó lòi, thì phải làm cho tất cả mỗi cái này. Thầy nói thậm chí như thế này, muốn nhập Diệt Thọ Tưởng Định một tháng, một tháng thôi, chứ không có nhiều, một tháng thôi.
Thí dụ như bây giờ mà mọi chúng đừng có, mọi người đều lo tu đi, đừng có hỏi gì hết, để Thầy nhập cho. Nhưng một tháng ở trong này thì ở ngoài này chuyện đủ thứ xảy ra, cũng không có yên được. Bởi vì phải chi mình là một tu sĩ mà ở đâu trong hang núi, không có cái duyên gì với ai hết thì nhập được rồi đó. Nhưng mà vì nó có cái duyên, mà có cái tu viện rồi, thì bao nhiêu một tháng này bao nhiêu cái trách nhiệm, nó không thường.
Tuệ Tĩnh: Nhưng mà phải nếu mà có một người kế thừa mình đó, mình làm vậy rồi giao cho người ta lo.
Trưởng lão: Có người kế thừa, làm được đó. Đó, bây giờ đó lo, mình sẽ làm được cái này để cho chứng minh. Cái này nó dễ lắm mà phải có hai người, phải hai người.
Tuệ Tĩnh: Dạ, hai người thì mới được, chứ một mình mình thì không được đâu.
Trưởng lão: Không được.
Vả lại bây giờ thí dụ như bây giờ, Thầy thí dụ như bây giờ Sư học xong rồi, phải không? Sư phải lo ở bên ngoài, phải không? Thầy sẽ làm, trụ cốt nè, Thầy nhập định là Thầy nhập Tứ thiền này. Để cho mọi người thấy cái sức định này, để cho biết, để gây thêm cái niềm tin thôi, chứ có gì đâu.
Tuệ Tĩnh: Dạ đúng rồi
(33:29) Trưởng lão: Bây giờ đó, Sư lo ở bên ngoài phải không? Thì Thầy nhập Diệt Thọ Tưởng Định này, chứng minh Diệt Thọ Tưởng Định coi trong kinh sách nói vậy có đúng không? Để bảo chứng, để những cái chuyện đó mình mới đập phá xuống mới được.
Tuệ Tĩnh: Dạ chứ không có bảo chứng thì nó khó nói lắm, dạ.
Trưởng lão: Không có bảo chứng thì mình nói nó. Cho nên cái lời nói của mình mình phá hàm oan. Nhưng mà điều kiện mình không có cái cụ thể này, để cho bảo chứng được cái này nói bậy.
Tuệ Tĩnh: Nhưng mà bây giờ thí dụ con nghĩ vậy nè Thầy. Thầy nhập định 49 ngày, thì công chuyện ở đây đâu có gì đâu mà đặc biệt hả Thầy. Thầy nhập Tứ thiền thôi 49 ngày Thầy gây cái sự tin tưởng cho người ta.
Trưởng lão: Cái chuyện đó là cách đây ba năm Thầy vào thất đó, Thầy nhập cả tháng nữa, chứ đâu phải không.
Tuệ Tĩnh: Đó là Phật tử tới lui người ta biết thì mới gây tin tưởng đó Thầy.
Trưởng lão: Thì coi như là những Phật tử mà tới lui ở đây đó. Thí dụ như Minh Tâm, Chơn Tâm, Tâm Như, là mấy người đó ở đây đến đây liên tục, nghĩa là họ trực tiếp họ thấy mà.
Tuệ Tĩnh: Vậy còn Viên Minh là ai Thầy, phải ông Viên Minh ở ngoài Vũng Tàu không? Thấy giống giống cái tên.
Trưởng lão: Không phải, không phải đâu. Tâm Như, Chơn Tâm, Minh Tâm là mấy người cư sĩ họ trực tiếp bên Thầy. Khi mà Thầy tuyên bố Thầy nhập định là tụi nó lên xuống thường xuyên để mà nó chăm sóc, chăm sóc coi có gì ở bên ngoài không đó.
Tuệ Tĩnh: Lúc đó mình ngồi ở trong thất hả Thầy?
(34:57) Trưởng lão: Lúc đó là Thầy tuyên bố Thầy nhập thất mà, Thầy ở trong thất không hà. Thầy biểu chúng đều là quyết định là vào thất, người nào mà gan dạ thì vào thất với Thầy. Thì lúc bấy giờ Thầy nhập định để Thầy làm gương cho họ, bởi vì coi như họ tu hết nổi rồi. Thầy nói "bây giờ để mà vào thất Thầy nhập, Thầy ở trong thất, ai theo Thầy thì Thầy nhập định như vậy". Đó bắt đầu thì cho người thất thất hết rồi bắt đầu Thầy vô cái thất. Cái thất của Thầy, cục đá đó là Thầy ở trên cục đá đó, Thầy ngồi suốt. Ở chỗ để cơm đó, Thầy ở đó đó, Thầy nhập suốt ở trên cục đá đó.
Tuệ Tĩnh: Hồi Thầy nhập hai tháng đó là Thầy nhập ở đâu Thầy?
Trưởng lão: Hồi mà nhập hai tháng là cái chỗ mà tượng Phật nằm ở trước, cất cái thất của Thầy ở đó là Thầy nhập hai tháng suốt ở đó. Còn sau này Thầy nhập cho chúng ở đây để mà họ quan sát cái sự này xảy ra.
Tuệ Tĩnh: Thầy nhập kỳ đó được mấy ngày Thầy?
Trưởng lão: Thầy bắt đầu đó Thầy nhập được bảy ngày, Thầy tăng lên mười lăm ngày, tăng lên một tháng.
Tuệ Tĩnh: Một thời đó luôn hả Thầy?
Trưởng lão: Thầy định ba tháng đó, mà họ yêu cầu Thầy, Thầy bỏ họ đi luôn không có được. Họ sợ Thầy đi luôn đó, bởi vì ngồi lâu quá họ sợ đi luôn. Cho nên họ yêu cầu Thầy: “thôi bây giờ Thầy nhập mười lăm ngày, một tháng là đủ rồi, thôi đừng có ráng nữa”. Thầy nói Thầy cái lúc đó là Thầy coi như là Thầy thể hiện sức định của mình để thấy cái sức định nó vĩ đại.
Tuệ Tĩnh: Mà trong ba trường hợp đó là Thầy. Chẳng hạn như Thầy nhập một tuần lễ, rồi Thầy nghỉ?
Trưởng lão: Thầy xuất định ra. Thầy xuất định ra Thầy coi. Thầy hỏi Chúng bây giờ tu tập như thế nào, thế nào, rồi Thầy mới hướng dẫn Thầy dạy. Bây giờ Thầy nhập mười lăm ngày, đó bắt đầu ở ngoài này ráng tập mười lăm ngày, Thầy nhập ở đây nè. Rồi Thầy vô Thầy nhập mười lăm ngày, sau mười lăm ngày rồi Thầy ra. Nghĩa là nhập suốt liên tục không ăn, không uống mười lăm ngày, chứ không phải là có ra có gì hết đâu. Ngồi ở trên cục đá đó suốt, không có muỗi, không có mòng gì cắn hết, hoàn toàn không có gì hết.
Tuệ Tĩnh: Không có muỗi mòng gì cắn hả Thầy?
Trưởng lão: Không có muỗi mòng gì hết, nghĩa là không giăng mùng, giăng gì hết. Không tắm, không rửa, không gì hết, nghĩa là ngồi đó cũng như gốc cây vậy đó, mười lăm ngày. Rồi bắt đầu Thầy xuất ra, Thầy hỏi quý thầy sao sao. Thầy tắm rửa sạch sẽ lại hết, rồi bắt đầu vô.
Tuệ Tĩnh: Trong lúc đó Thầy ra được bao lâu?
Trưởng lão: Thầy ra ba bốn bữa vậy đó, Thầy giúp đỡ cho Chúng hết rồi, hoàn toàn Thầy sắp đặt xong rồi cái bắt đầu Thầy vô. Thầy nói kỳ này vô một tháng nè, Thầy vô một tháng xuất ra….
Tuệ Tĩnh: Trong lúc Thầy ra đó Thầy có ăn uống cái gì không Thầy?
(37:17) Trưởng lão: Không, cũng không có ăn uống gì. Bởi vì hễ ra đó rồi bắt đầu chỉ đạo họ xong rồi cái trở vô nữa, không có ăn uống nữa. Coi như là để cái bụng trống của mình luôn luôn, mình vô nó mau lắm. Còn mình ăn uống nó hoạt động trở lại nó mệt lắm.
Tuệ Tĩnh: Như vậy Thì xổ đó?
Trưởng lão: Không, không có xổ, không gì hết, coi như là bình thường mình ăn rồi. Thí dụ như Thầy ăn buổi trưa tới sáng nay bắt đầu bảy giờ Thầy vô. Coi như là bụng mình nó xẹp hết rồi, nó không còn chất nặng.
Tuệ Tĩnh: Mình chưa đi tiểu thì sao Thầy?
Trưởng lão: Không có sao, không có gì hết. Không có tiểu giải gì nữa hết. Vô nhập định rồi cái thì ở đâu nó đóng kín đó hết, nó không có gì hết.
Tuệ Tĩnh: Phân nó cũng không sao hết?
Trưởng lão: Không sao hết, nó không có đi nữa. Tới chừng mình xuất định ra đó thì bắt đầu mình phải tập ăn trở lại, chứ không phải là muốn ăn đại là được. Mình có thể uống nước rồi mới ăn cháo, từ từ mới ăn đồ lại. Bao tử nó hoạt động dần dần chứ không có. Bởi vì nó nghỉ lâu, nó nghỉ hoạt động lâu. Mới đầu vô uống nước, mình mới ra đó, thí dụ như ra đó uống nước mà nấu sôi để nguội, mình uống cho ấm thôi, chứ không uống nước lạnh nữa. Bắt đầu uống thì mình nghe bắt đầu cái bao tử nó bắt đầu nghe nó rột rẹt ở trỏng. Nó khi mà nó sôi, còn nó nằm im đó, bây giờ uống nước vô nó sôi, chứ chưa có ăn gì được hết, mà nó sôi rồi đó. Rồi bắt đầu nó uống nước, rồi nó tới. Thí dụ như sáng xuất định ra thì tới trưa đó thì mình uống một miếng nước cháo lỏng lỏng, chứ còn kêu uống nước thôi đó. Rồi ngày mai đó mình mới ăn cháo cho nó có một chút, rồi cho bắt đầu nó tiêu hoá trở lại. Bởi vậy khó lắm, cái cơ thể của mình chứ không đơn giản đâu, coi vậy chứ làm bậy một cái là tiêu luôn.
Tuệ Tĩnh: Dạ, mấy người họ nhịn đói đó là họ phải súc ruột trước hả Thầy?
(39:05) Trưởng lão: Thì mấy người đó phải uống thuốc xổ, thì kêu là súc ruột họ mới nhịn đói. Thì cái đó là cái phương pháp nhịn đói của họ để trị bệnh rồi, chứ không phải. Còn cái này Thiền định không có đâu. Bắt đầu bây giờ đó mình cơm buổi trưa ăn phải không, tối mình nhập định cũng được nữa, không sao hết. Nhưng mà mình ăn cơm rồi thì nhập định không được, cái bụng nặng nó không được. Bởi vì nhập cái nó ngưng hoạt động, cơm đồ mình còn đó thì không được, để cho nó tiêu hoá hết.
Thì trưa mình ăn tới chiều tối, bảy giờ đó mình nhập định được rồi. Còn hễ mình để sáng mai thì càng tốt. Sáng dậy mình chưa có gì hết, thì chưa có ăn uống gì hết đó thì sáng dậy là mình nhập Định bắt đầu luôn. Tức là khuya dậy là mình nhập định luôn đó thì tốt nhất.
Cho nên Thầy biết cách rồi, Thầy biết đủ cách. Cho nên Thầy nói quý Sư mà tu đi, rồi Thầy chỉ. Tới chừng mà nhập Định Thầy mới chỉ cách thức, cách thức vô định. Vô định sao, cách thức sao chuẩn bị cho mình sao sao nó vô định. Rồi nó vô rồi, bắt đầu nó ra, nó như thế nào, nó ra cái nấy. Bởi vậy mình phải xả Thiền, nhập rồi phải, xuất nhập mà.
Cho nên trong cái bài kinh "Xuất Tức, Nhập Tức" nương vào hơi thở để mà nhập, nương vào hơi thở để mà ra. Còn mình chỉ là xả chân, xả tay chứ còn không có xả cái tâm, với xả hơi thở nữa. Hồi đó hễ mình muốn xả là mình không thèm thở nó nữa, mình không chú ý nó nữa, gọi mình xả, chứ thật không phải.
Khi mà xả cái hơi thở của mình nó không phải như vậy đâu, mình xả nó trở lại về bình thường. Xả nó trở lại, nó thở bình thường thì gọi là xả, Xuất tức. Còn mình Nhập tức đó, là mình đi vào để mình nhập vào cái hơi thở, thì hơi thở phải nhẹ nhàng thoải mái, chứ không phải là thở như mình thở vậy đâu. Gọi là Nhập tức, nhập vô cái hơi thở mình. Chứ không phải nhập như mình tập trung nó thì gọi là nhập thì nó không phải đâu. Đây là lúc dùng nó để tập trung tâm mình chứ không có, chưa có nhập vô nó đâu.
Đó đó là mình như vậy. Vì vậy cho nên trong cái bước đường tu là nó có nhiều cái, mà Thầy mong cho quý Sư, quý thầy tu cho được. Rồi mình cộng tác với nhau để mình chấn hưng Phật giáo bằng mọi cách, để mình gạt những cái sai đó ra. Nó nhiều cái chuyện làm lắm chứ không có ít. Mà giờ mình nhìn trước, nhìn sau cái độc cư ai chịu cũng không nổi hết, thì Thầy nói. Chỉ có độc cư là Thầy nói là thành công.
Tuệ Tĩnh: Từ trước tới giờ Thầy cũng chưa có được một người học trò nào mà Thầy vừa ý hết.
(41:30) Trưởng lão: Trời ơi! Thầy nói nội cái độc cư không mà Thầy cũng không có vừa ý được. Bởi vì Thầy biết độc cư là bí quyết thành công.
Thầy ép chặt cái chú Mật Hạnh, cái chú mà đi với Thầy. Ba năm Thầy ép chặt, Thầy bắt buộc, kêu gọi là bắt buộc đó. Chứ còn chú thì chú cũng không thích ngồi một mình. Bắt độc cư ba năm, tâm nó quay vô. Nó quay vô nó ly dục, ly ác pháp nó quay vô đó. Ly chứ chưa phải đoạn đâu. Nó quay vô thì chú bị bệnh, bởi vì nó cái nghiệp mà, nó sanh ra nó bệnh.
Chú đòi đi. Thầy bảo: "Đừng có đi đâu hết, phải sống độc cư trọn vẹn, không có đi bác sĩ. Chết là ở trên bồ đoàn mà chết chứ đừng có sợ hãi, mà không nghe thôi đi ra ngoài".
Tuệ Tĩnh: Ra mời bác sĩ vô, thôi khỏi đi.
Trưởng lão: Nói chung là Thầy không cho tiếp với người nào hết chớ đừng nói. Cho nên nói chung là hễ cho bác sĩ vô rồi thì bắt đầu cái tâm nó phóng ra rồi. Mà nó phóng ra thì hết chuyện này, chuyện kia. Mà đúng là phóng ra rồi thì bắt đầu nó luận như thế này, nó nói: "Người ta ở đời người ta ai cũng là sanh ra làm người thì khó, con cũng sanh ra làm người là khó. Mà người ta ai cũng hưởng đời còn con không biết đời ra sao hết. Bởi vì tám tuổi theo Thầy mà. Bây giờ tu con thấy nó quay vô nó không còn ham muốn nữa, trời đất ơi! Nó không ham muốn nữa thì con làm sao? Mà được làm người là khó mà không biết cái ham muốn là sao nữa hết thì chết rồi".
Nó luận, trời đất ơi! Nó luận độc lắm. Cho nên bây giờ Thầy cho đi đó, Thầy cho đi chơi đã thôi.
Tuệ Tĩnh: Luận vậy thì thôi mình cũng bí lối rồi.
Trưởng lão: Bí rồi, Thầy nói thật sự ra.
Tuệ Tĩnh: Thầy biết vậy Thầy chặn lại không Thầy?
(42:58) Trưởng lão: Nó trước khi mà nó bị bệnh, nó sắp sửa nó phóng ra thì cái thân nó đi cầu không được thôi, chứ không có gì hết. Bởi vì nó cũng như là trong khi bị ức chế, bị ép buộc đó, nó bị rối loạn cơ thể. Chứ đừng có ức chế, mà mình đời sống một cách thanh thản trầm lặng của mình độc cư thì nó không bị ức. Còn này Thầy bắt buộc mà, cho nên bị ức. Ức cho nên nó rối loạn. Nó rối loạn cơ thể nó sanh ra cái trạng thái đi cầu không có được.
Mà do đó Thầy bảo chết nó không nghe, nó nói: "Thầy nuôi con từ hồi tám tuổi tới giờ, mà bây giờ con bệnh Thầy bỏ con, Thầy không lo cho con, như vậy thì con thấy con khổ tâm quá". Nó đâu có nói chuyện tu, mà nó nói chuyện bệnh nó không hà. Mà nó gài cái thế là Thầy bỏ nó, nuôi mà không có trị bệnh cho nó.
Cho nên Thầy nói thôi: "Thôi bây giờ cái Duyên như vậy thì thôi phải chịu thôi. Tại con không nghe lời Thầy, con chỉ chút xíu nữa con sẽ ra lệnh được tất cả những gì con làm chủ sống chết. Bệnh con con cũng làm chủ được".
Tuệ Tĩnh: Lúc đó Thầy ép luôn không được hả Thầy?
Trưởng lão: Nó nói một cái lý do là làm người, bổn phận làm người là lúc đó nó cay lắm.
Tuệ Tĩnh: Hễ cái là qua luôn, vì nó không hiểu mà.
Trưởng lão: Thầy biết là nó không hiểu. Nhưng mà Thầy biết rằng ép chỗ này nó sẽ xì chỗ khác. Bởi vì cái này là mình đã ép nó ba năm nó độc cư, Thầy cấm bặt là không nói chuyện với ai hết. Không cho đọc kinh sách, không có cho nghe băng gì hết, chỉ có Thầy kiểm tra những cái sự tu tập của nó để xả tâm thôi. Nó nói tuôn trào, nó tuôn trào dữ lắm, nó tuôn trào cái đau khổ lắm. Nó khởi cái này, nó khởi cái kia đủ thứ hết, nó bắt mình phải đi ra, nó làm muốn mất độc cư. Nhưng mà quyết định là Thầy ép buộc quá nó phải ráng. Ráng riết, rồi sao nó quay vô. Cái tâm nó quay vô, nó định ở trên cái hơi thở của nó, nó biết hơi thở luôn luôn. Cái bắt đầu nó đau, đi cầu không được. Chứ phải đi cầu được như bình thường thì nó đi luôn suôn sẻ được. Đi cầu không được cái bắt đầu nó, khi mà đi cầu không được cái nó có cái lý luận, lý luận về theo khổ, Chứ nó không có lý luận cái kia.
Nhưng mà khi mà đi bác sĩ rồi đó, bắt đầu về nó lý luận, nó lý luận là: "Tuổi còn nhỏ được thân là khó mà không hưởng đời. Hưởng đời rồi, bởi vậy con nói mấy người mà họ hưởng đời rồi, họ sao họ không tu? Họ bỏ xuống tu, họ không biết. Thì con phải đi hiểu cái mới".
Tuệ Tĩnh: Mà bây giờ thầy Mật Hạnh đi làm rồi hả?
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 18
HƯỚNG NHÂN QUẢ TỚI CHỖ THIỆN
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Ngày giảng: 2002
Thời lượng: [44:44]
Tên cũ: 09A-TueTinhTrinhPhap-VanDaoThienDinh
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-18-huong-nhan-qua-toi-cho-thien.mp3
(00:02) Trưởng lão: Cho nó vô cái chỗ, và làm kia nọ, mọi thứ. Rồi theo dõi từng chút, từng chút để mà lái cho nó cho đúng dùm thầy. Chứ ở đời cái nhân quả nó không phải là cố định, mà nó do cái tâm tham muốn của mình nó lôi mình đi ngay. Mà nếu mà không có người kìm theo mà lái, kể như là nó đi mất à. Mà sau khi mà cứ lái dần, lái dần cho nó nhận xét được cái đời, cái cuộc đời nó. Rồi khi trong khi nó gặp phải một cái sốc nào đó, thì bắt đầu nó mới nhìn đời, nó bây giờ nó mới thấy được cái lúc mà tu nó như thế nào, nó sung sướng như thế nào, mà cái lúc mà ra đời nó phải khổ như thế nào? Làm ra được đồng bạc nó không phải đơn giản. Để cho nó học những bài học của cuộc đời cho nó biết là khổ.
(00:48) Cho nên ở đây có hai trường hợp, có hai người. Người thứ nhất là Mật Hạnh tuổi còn trẻ, còn nhỏ. Một cái cô gái ở ngoài Hà Nội vô đây là cái con Ngọc, nó cũng còn mới mười lăm, mười sáu, mười bảy tuổi, còn đi học, mẹ nó bắt vô trong này tu.
Thì Thầy nói: "Tuổi nhỏ quá sợ tu không được".
Mẹ nó nói: "Con bảo sao nó nghe vậy".
Mới vô tu, ức chế nó dữ lắm. Cho nên một hôm đó nó đến nó khóc với Thầy.
Nó nói: “Con từ nhỏ tới lớn, mẹ con nói sao con cũng nghe vậy. Nghĩa là bắt con đi học từ trường đến nhà, không có cho con sửa sang gì hết. Con thấy đời đâu có gì khổ, tại vì mình ép buộc mình làm cho mình khổ. Mình ép buộc mình khổ. Mẹ con vì lo cho con cái thế này bà mới khổ, chứ bà đừng có nghĩ lo đi thì đâu làm sao khổ”.
(01:35) Nó đâu có biết làm cái bổn phận người mẹ, làm sao bà không lo?. Nó chưa làm mẹ mà. Cho nên nó nói: “Đời đâu có gì khổ. Con ham cái đồng hồ, mẹ con không cho, mẹ con nói đó khổ. Thì mẹ con sắm cho con, thì mẹ con phải làm ra tiền khổ. Nhưng mà sự thật con thấy nó đâu có khổ, tại con muốn thì con có thì con thấy cũng vui chứ. Còn bây giờ chính con không được thì con phải khổ chứ, mẹ con đâu biết cái nỗi khổ của con. Bạn con có, con không có, con khổ chứ, mẹ đâu có biết cái khổ đó”.
Trời ơi! Nó lý luận dữ lắm, ép nó, nó bung ra. Nó bung ra, nó lý luận của nó. Bởi vì nó chưa thấy đời khổ, mà cứ nói đời khổ thì nó không tin. Nó thấy đời nó, nó tròn quá mà, nó chưa có méo chút nào mà. Mà bây giờ cứ khép nó vô nó tu, tức là nó muốn gì cũng không được hết. Tức là khổ rồi chứ gì? Đó là hai đứa mà Thầy thấy tuổi trẻ nguy hiểm ghê gớm lắm, ép không được đâu.
(02:25) Cho nên đạo Phật vốn cái mục đích, không có ép buộc, không có khuyến dụ người ta vào đạo mình, mà để cho người ta trực nhận được cái khổ. Thật sự đức Phật nói Khổ đế đó, người ta nhận được cái khổ người ta mới đi tu, thì cái này mới bảo đảm. Người ta chưa nhận cái này khổ mà bắt người ta đi tu để giải thoát, thì giải thoát cái gì mà không thấy mà cứ thấy khổ không. Ham muốn không được thì phải khổ chứ sao? Đó là một cái kinh nghiệm bản thân của Thầy thấy, đâu có phải dễ đâu.
Nói chú La Hầu La, con của đức Phật, phải không? Đi tu theo Phật mà sao chú này lại không có cái tư tưởng này? Y là như là Thánh vậy đó. Còn hầu hết là Thầy gặp những cái chú đệ tử nho nhỏ này, sao mà lại là phàm phu không à, không có Thánh được, nó đều ham hết. Ở đây Thầy có mấy chú này, chú Di cũng nhỏ tuổi như Mật Hạnh, rồi cái cháu Ngọc đó cũng vậy, cũng nhỏ nhỏ tuổi. Mà tụi nó, cũng dường như nó trong cái giai đoạn xã hội này nó có một tư tưởng giống nhau, nó nhìn thấy đời không có khổ. Tại vì mình đứng ở góc độ người lớn tuổi mình thấy khổ, chứ nó không thấy khổ. Nó nói: “Đời đâu có gì khổ đâu, tại mình ép buộc mình khổ thôi”.
Tu sĩ: Chưa tới cái tuổi nó trải qua cái khổ đó nên nó chưa thấy.
Trưởng lão: Cho nên thật sự ra Thầy thông cảm cái nỗi lòng của cái người tuổi trẻ, cho nên Thầy tìm mọi cách. Thầy biết người nào cũng có cái nhân quả, nhưng mà mình cái nhân quả nó không phải là sự cố định, nó thay đổi liên tục. Nếu mình khéo, mình dùng cái trí mình uyển chuyển nó, thì mình lái cái nhân quả nó đi vào cái tốt. Mà mình không lái được, cái nhân quả nó đi vào cái xấu.
(04:05) Con thấy người nào sinh ra người nào cũng tốt hết, chứ không có người nào xấu. Nhưng cái môi trường mà làm ăn sinh sống đó, đi dần đến buộc họ phải làm cái điều xấu, họ trở thành người xấu, chứ đâu phải họ là người xấu, mình phải hiểu như vậy. Mà họ tạo ra cái nhân quả xấu là do cái môi trường sống của họ, đưa họ đi dần đến cái chỗ tù tội. Nó rõ ràng, chứ họ đâu có muốn tù tội, thì mình phải hiểu được như vậy. Vì vậy chuyển nhân quả chỉ còn có cách khéo léo lái cho nó đi vào con đường tốt, thì nó sẽ trở thành giải thoát, chứ không phải ép buộc được, khéo lái nó. Nó đi như vậy, mà nó đi vào cái quỹ đạo, cái môi trường tốt.
(04:40) Cho nên đức Phật nói có hai lộ trình, lộ trình con đường thiện và con đường ác. Mà bây giờ mình lái sao mà đi vào con đường thiện, thì con đường thiện là giải thoát chứ gì? Mà con đường ác là khổ đau chứ gì? Nó rõ ràng, chứ đâu có phải mà, tu theo Phật thì nó đơn giản như vậy, đừng có nên để cho nó đi vào con đường ác. Cho nên bây giờ đưa nó ra, biết rằng trên con đường đời là nó có ác, có thiện trên đó, chứ không phải là thiện không, mà ác không đâu. Thế nên mình khéo lái nó thì nó sẽ dần nó đi, tuổi trẻ này nó sẽ dần đi vào con đường thiện, thì nó sẽ…. giải thoát, chứ nó đâu có gì. Đừng có bắt buộc nó. Mình bắt buộc, mình cứ mình bắt buộc đừng có ham muốn thì không được đâu.
(05:18) Ham muốn là một cái sự cố định của con người, mà phải ham thiện, đừng có ham ác, ham ác khổ. Đưa cái lòng ham muốn này nó đi vào cái gốc thiện, đừng có đưa cái lòng ham muốn này đi vào cái gốc ác, đó là cái mục đích của đạo Phật mà. Thì do đó vì vậy chúng ta thấy đâu có diệt ham muốn. Chúng ta ly ham muốn ác chứ, chúng ta đâu có ly ham muốn thiện được Nếu ly sạch thì chúng ta là cây đá, phải không? Hiểu như vậy thì chúng ta mới thấy được con đường của đạo Phật.
(05:42) Cũng như bây giờ mình sống nè, một đời sống như các Sư giờ về đây sống với Thầy nè. Coi như trưa mình xin bữa cơm mình ăn. Mà nếu mình tư duy được còn đường này, con đường phạm hạnh, con đường này con đường thánh thiện nè, giải thoát hoàn toàn, không còn bận tâm lo lắng như người đời. Mặc dù bây giờ ông vua ổng tiền bạc uy quyền ông như vậy, nhưng mà ông khổ mà. Còn mình bây giờ mình có gì đâu mà sợ, mình đâu có sợ giặc giã, mình đâu có sợ ai cướp nước, mình hoàn toàn mình giải thoát hoàn toàn mà. Cho nên mình thấy được như vậy, mình sống được như vậy, mình thấy an vui tinh thần mình nó thoải mái, nó vô sự hoàn toàn. Còn họ tuy vậy chứ họ khổ nhiều lắm, họ phải lo lắng, suy tư.
(06:15) Như vậy mình so sánh giữa cái con đường thiện với con đường ác mình thấy rõ ràng. Họ có phước hữu lậu, họ tiền nhiều, của nhiều, nhưng mà đã hữu lậu là có lậu mà, có lậu thì phải có khổ mà, còn mình rõ ràng là vô lậu rồi, mà vô lậu thì nó đâu có khổ. Thì do đó hai con đường này mình thấy rõ ràng, cái có tiền của, thì cái này có giải thoát không?
Không! Bởi vì hữu lậu. Còn cái vô lậu này có tiền của không? Nếu có tiền của thì làm sao gọi là vô lậu? Mà không có tiền của thì ba y một bát, ai đi lại ăn cắp cái bát của ông sư?. Ai đi lấy cái y của ông sư, phải không? Cho nên mình đâu có lo, ngủ thẳng cẳng chẳng sợ mất gì hết, có phải sướng không? Như vậy là mới vô lậu chứ. Còn anh có chùa to này kia, sợ cái thằng chăn trâu nào nó vô nó vẽ trên vách tường anh, anh cũng tức nó rồi. Thì cái vô lậu của anh là cái phước anh, mà người ta khen anh, chứ sự thật ra anh đâu có giải thoát, phải không?
Cái chùa đẹp tức là phải giữ gìn, phải lau chùi, thì cái này là, cái hữu lậu này, cái phước này thực sự là phước khổ. Cho nên hai cái phước này nó không thể đi chung với nhau được. Cho nên người ta nói: "Mình phải tạo cái phước hữu lậu rồi mới phước vô lậu được".
Sự thật ra "anh nói như vậy, anh lý luận như vậy chứ sự thật anh có phước hữu lậu thì anh không có phước vô lậu đâu, không làm sao anh tạo được hết. Hễ càng cái này lớn bao nhiêu thì cái này anh sẽ mất bấy nhiêu", nó rõ ràng và cụ thể.
(07:32) Cho nên cái phước hữu lậu này là của Đại thừa xây dựng, cho nên vì vậy mà nó hành Bồ tát đạo, có phải không? Nó làm Bồ tát hạnh, nó hành Bồ tát đạo, còn bên đây không dám làm điều này. Khi tu xong rồi, lấy gương hạnh của mình, lấy kinh nghiệm của mình, dạy cho người ta được giải thoát, chứ không làm Bồ tát hạnh, Bồ tát đạo. Vì làm cái này nó phước báu dữ lắm, mà phước hữu lậu chết được mà.
Tu Sĩ: Có thể chết vì nó.
Trưởng lão: Chết vì nó. Bởi vì nó hữu lậu thì nó có khổ, có khổ thì đâu có giải thoát. Còn này người ta giảng đạo, người ta dạy đạo chứ người ta không kẹt trong cái chùa lớn. Người ta dạy cho người khác tu, mà tu được, tu không được thôi, mặc họ. "Anh cứ đi xin anh ăn, chứ tôi có lo anh đâu tôi khổ".
Ông Phật bao giờ ổng có làm cơm ra để nuôi chúng đâu. Vị Tỳ kheo đó vô xin ổng cho tu đó, chứ mà đi xin ăn chứ ổng không có lo cơm. Thế cho nên Đại thừa mới là khổ đó, mình phải lo cơm nuôi người này, người kia, đói thì đâu có được, cho nên cực.
Bây giờ thí dụ như bây giờ Thầy nuôi mười người, thì Thầy phải đi thuyết giảng đồ này kia, Thầy mới có tiền, Thầy mới nuôi, chứ không làm sao có? Còn hồi ông Phật vô ai xin thì vô: “Được, cứ cho hết, rồi ôm bình bát đi xin. Chứ tôi có xin cho mấy người đâu, tôi cũng xin đủ tôi ăn thôi". Cho nên đạo Phật thiệt là giải thoát, từ ông lớn tới ông nhỏ giải thoát hết, phải không?
Mà ông nào mà tham ăn mà xin nhiều để dành thì không được, cấm. Chính cái hay là cái chỗ đó. Cho nên vì vậy, bây giờ mình phải có cách thức tổ chức chứ còn, như thời đức Phật. Thực sự ra trong thời đức Phật tu nó thoải mái quá, nó sướng quá, mà cái người lãnh đạo cũng sướng nữa. Khỏi lo ăn, lo uống, lo ai hết à. "Anh đau bệnh thì anh cứ đi xin thuốc thang họ chứ tôi cũng không có xin cho anh nữa". Ông Phật cũng không có xin cho người nào hết.
Mà ông Phật ăn dư mà vị Tỳ kheo nào lại ăn thì ổng Phật nói: "Thừa tự pháp chứ không thừa tự thực phẩm", cấm liền. "Anh chịu khó đi xin ăn chứ đừng có lại đây ăn cái của này." Chứ đừng có nghĩ là "ăn cái này là được phước, ăn của Phật đây còn đây là ăn được phước", không có đâu, không có phước gì. Thừa tự Pháp mới có phước, chứ thừa tự thực phẩm thì không có phước gì hết. Đó chính cái bài Thừa tự đó.
(09:40) Cho nên ở đây mình thông suốt được cái lý của đạo Phật, và mình sống đúng cái đời sống phạm hạnh, thì không có người nào lo cho người nào. "Tôi dạy pháp anh có tu thì anh giải thoát, anh không tu thì thôi."
Cũng như Thầy nói bây giờ độc cư là bí quyết thành công của thiền định, mà ai có độc cư được thì họ sẽ thành công, mà không độc cư được thì họ phải chịu lấy, chứ Thầy đâu có ép họ. Ép họ, bắt buộc họ rồi họ buồn khổ tội họ, còn làm khổ cho họ chứ.
Đó cho nên ở đây cái con đường giải thoát là của đạo Phật, vì vậy đạo Phật bị tôn giáo khác người ta dìm mất, là tại vì nó không có làm khổ người ta. Bắt buộc nó phải như thế này, tổ chức thế này, tổ chức thế khác, thì tức là nó sẽ làm khổ những người theo nó tu. Cho nên đạo Phật vì giải thoát cho nên ai muốn theo thì theo, không theo thì thôi, không khuyến dụ ai hết. Người ta thấy được thì người ta theo, người ta không thấy được thì thôi, không có cần khuyến dụ. Cho nên Tứ Nhiếp Pháp là bốn cái pháp để nhiếp phục người ta theo tôn giáo mình, thì không phải là của đạo Phật mà của đạo khác.
(10:39) Đó, cho nên ở đây thực sự ra quý Sư cứ suy xét lại. Thấy hàng ngày mình kiểm tra lại coi cuộc sống của mình, mình có thích được cái phạm hạnh này không? Thứ nhất mình thấy mình thích, đó là giải thoát rồi đó. Mà mình không thích, tức là mình thấy sao nó khổ. Mình khởi muốn này kia, mà mình dẹp không được cái tâm của mình, thì cái đó là cái khổ của mình, chứ không phải là cái điều khác.
Trái lại mình thấy thích cái đời sống này, không còn lo lắng bận bịu, buồn khổ, phải lo cái này, nghĩ cái kia. Mình cứ tu hành, hết lo, như vậy là giải thoát. Và đồng thời mình cứ sống tự nhiên, chừng nào mình sống, thấy nó càng thích thú trầm lặng bao nhiêu thì định mới vô. Chứ còn bây giờ mình cứ mình nỗ lực mình tu thiền định coi chừng không vô mà bị ức chế. Cứ sống đi, sống cho đúng phạm hạnh.
(11:18) Bởi vậy trong bài kinh đức Phật nói: "Vì giải thoát mà tôi chấp nhận đời sống phạm hạnh của Cồ Đàm Gotama". Nghĩa là: "Vì giải thoát tôi mới chấp nhận cái đời sống này, mà vì giải thoát cho nên tôi sống cái này tôi giải thoát rồi". Nó vậy đó, cái câu nói trong Kinh nó hay lắm. Vì giải thoát tức làm làm chủ sinh tử luân hồi đó, “vì giải thoát tôi mới chập nhận sống cái phạm hạnh của Cồ Đàm”.
(11:46) Tu sĩ: Con thì con thích cái cuộc sống này đó Thầy. Nhưng mà sao gặp mấy cái trở ngại là giờ khuya mình thức dậy rồi trưa rồi nó nhức mình, nhức mẩy chịu không nổi, nó làm như cũng như ác pháp vậy đó. Thì bình thường thì nó, hồi xưa thì không có, khuya thức dậy tỉnh bơ đâu có sao đâu. Bây giờ thức dậy nó oải quá oải.
(12:05) Trưởng lão: Bị mình dụng công nhiều, và đồng thời bình thường mình bình thường mình sống một cách bình thường. Mình tu thường xuyên mình dùng pháp hướng hơn là mình dùng cái sức định của mình. Mình dùng pháp hướng, mình ngồi chơi, thỉnh thoảng mình nhớ. Bởi vì hễ làm nó quen, làm thời gian quen. Ngồi chút cái mình nhắc: "Tâm như cục đất, ly dục, ly ác pháp, lìa hết đi, đời không có gì hết".
Mình nhắc tâm mình vậy thôi. Rồi mình ngồi mình chơi, mình đi tới đi lui chơi, chứ cũng không có tập trung gì, chân cẳng gì cho nhiều hết. Nghĩa là tâm hồn mình thanh thản, mà nó có niệm gì thì quán xét xả nó, mà không có, thì lát mình nhắc, nó bình thường thôi, im lặng bình thường.
(12:39) Thầy nói sống mà khép mình đúng trong hạnh độc cư, từ ba tháng đến ba năm là mình sống trong định. Vấn đề Thiền định nó không khó, mà nó chỉ khó cái đời sống làm sao đời sống phạm hạnh của mình trọn vẹn, mà mình đừng có ức chế, đừng có gò bó nó. Hễ mình gò bó nó thì nó có những cái trạng thái là khuya mình thức dậy mỏi mệt. Thứ nhất là mình phải xét thời tiết. Cái thứ hai, mình thấy thời tiết nó không có mà công phu mình như thế nào mà nó sinh ra mỏi mệt, nó đau nhức ở trong người của mình. Bởi vì cái thời tiết mình bây giờ nó độc lắm, nó gây ảnh hưởng cho cơ thể của mình nhiều lắm.
Thí dụ như những cái trạng thái như bệnh thần kinh tọa, cái trường hợp đó ngày xưa không có, bây giờ có rồi. Rồi cái trạng thái mà nó đứt mạch máu não, bây giờ nó cũng nhiều nữa. Rồi đái đường này kia, rồi nó cũng nhiều nè. Tất cả những cái này là bệnh thời đại, cái bệnh của thời tiết rồi bịnh. Cái môi trường của mình ô nhiễm nó sinh ra những cái đó.
Cho nên thí dụ như bây giờ mình ngủ dậy mà mình nghe mỏi mệt, mình nghe nó. Thì mình vận động một hơi mà nghe nó hết đó, thì đúng là cái thời tiết. Còn mình vận động một hơi mà không hết đó, thì tức là mình tu sai. Mình tu sai, cơ thể mình nó bị rối loạn, nó làm cho mình uể oải, nhức nhối, thì mình tu sai, sửa lại. Còn nếu mà nó mình vận động một hơi hết thì thôi, đó là thời tiết. Thời tiết nó ảnh hưởng cho cơ thể của mình nó chạy theo, nó chuyển theo không kịp thời tiết. Nó khi mà thức dậy, nó bị nhức nhối này kia, nhức cái khớp, nó đau nhức chỗ này, chỗ kia. Do đó mình vận động một hơi cái nó xả ra nó hết, thì tức là bị do thời tiết.
(14:07) Tu sĩ: Vậy là phải rồi đó, con xách cây chổi con quơ quơ lát cái nó hết.
Trưởng lão: À như vậy là bị thời tiết, thời tiết ở đây nó nó… Nếu mà ở Phước Hải, thời tiết ngoài đó tốt lắm, nó không có bị thấp khớp đâu. Cho nên Thầy định Thầy sẽ về ngoài đó đó. Thầy về ngoài đó là cái thời tiết nó tốt, đặng cho mình ở tu, cho nó khỏe cái thân của mình.
Tu sĩ: Thầy làm sớm sớm đi Thầy để con ra ngoải ở. Cái thời tiết ở gần biển nó tốt lắm.
(14:31) Trưởng lão: Nó tốt lắm, ở gần biển đó. Thành ra sáng dậy đó, thở nó mát mát chứ nó không có nóng quá, mà nó cũng không có lạnh, bởi vì thời tiết biển. Do đó mình sáng dậy mình thấy nó khỏe, thức dậy nó khỏe làm sao, hít thở cái không khí đó nó khỏe lắm.
Tu Sĩ: Mình về miền biển nó khoẻ lắm Thầy.
(14:51) Trưởng lão: Bởi vậy nó khí hậu tốt lắm. Cho nên Thầy mua 19 mẫu đất ở ngoài đó mà, Thầy dự định mà, Mà làm cái chuyện đó. Hồi đó thầy Thông Huyễn đó, Thầy đưa ra ngoài đó, Thầy bắt đầu đưa Chơn Thông đó, Chơn Thông là Tuệ gì quên rồi, Tuệ Siêu.
Tu Sĩ: Trí Siêu.
Trưởng lão: Trí Siêu hả?
Tu Sĩ: Dạ, Trí Siêu.
Trưởng lão: Đưa nó, bây giờ nó ở bên Miến Điện đó. Là hồi đó Thầy đưa Chơn Thông ra ngoải đó, khai hoang ngoài đó, khu đất đó. Thì Chơn Thông ra ngoài đó ở ngoài đó một thời gian cái Thầy rút Chơn Thông về, Thầy đưa Thông Huyễn ra đó. Thông Huyễn ra đó thì bắt đầu Thông Huyễn đấu tranh với chú Thông Hoa nào ngoài đó, thì bắt đầu Mặt Trận ở ngoài đó nó đuổi. Bởi vì đấu tranh cái chùa Bửu Long. Rồi Phật tử ngoài ở đó thì ủng hộ Thông Huyễn dữ lắm, đông lắm. Bởi vì Thầy ra đó thì Phật tử đông lắm.
Cho nên sau khi mà thầy Huyễn ra đó, thì bắt đầu Phật tử ở Phước Hải, ở Long Hải đến ủng hộ. Cho nên vì vậy đó mà cái người đó muốn hất cái ông Bửu Hoa, cái ông mà cư sĩ mà giữ chùa Bửu Long đó. Là muốn hất ông đó ra để cho thầy Huyễn về giữ cái chùa đó. Mà chùa đó người ta xây dựng kiên cố mà. Mà chùa đó là dòng họ của ông ta, mà bây giờ nó không có cái ông thầy thôi. Ổng là cư sĩ mà con cháu ổng giữ cái chùa đó. Cho nên vì vậy mà Phật tử muốn đuổi ông này ra để mà đưa thầy Thông Huyễn vô đây làm trụ trì.
Thì cái ông này ổng cũng đồng ý. Ổng cũng đồng ý ổng giao, chứ không phải không giao. Nhưng mà Phật tử làm thái quá, muốn cướp chùa người ta một cách quá đáng. Bởi vì chùa dòng họ của người ta mà, ông bà của người ta mà. Thành ra muốn hất người ta ra, hoàn toàn là không có cho người ta quyền gì ở trong này hết. Thay vì mình phải tổ chức cho ông ta làm cái ban hộ đạo đi, trưởng ban hộ đạo để ông lo cái chùa, có phải dễ không. Cái này đuổi người ta ra để mình làm chủ nguyên cái chùa, để cho cái người cư sĩ khác làm cái ban hộ đạo thì người ta đâu đồng ý.
Đó thành ra ổng chống lại ổng kiện. Ổng kiện ở bên Mặt Trận nó đến giải quyết, là vì chùa này chùa gốc ông bà người ta, mấy ông đâu có gì. Cho nên Thông Huyễn đến đây để mà chiếm chùa người ta, lợi dụng Phật tử ủng hộ mà chiếm chùa người ta thì mình, nên Mặt trận mới đuổi ổng đi không cho ở.
Thành ra Thầy bỏ, chứ hồi đó Thầy để Thông Huyễn hồi đó làm. Cho nên Thông Huyễn mới về núi Dinh xây dựng cái chùa Phật Quang ở trên đó. Còn Chơn Thông thì đi nghiên cứu ở bên các nước Phật giáo Nam tông. Sau khi về rồi, khi Chơn Thông mà về đây rồi, Thầy sẽ cho ra ngoài đó để xây dựng ở đó, ý của Thầy là như vậy.
Còn ở đây, một mặt ở đây Thầy lo Thầy đào tạo cho Mật Hạnh tu cho xong. Nghĩa là có người đi chiều sâu mà có người đi chiều rộng để mà hỗ trợ cho con đường mà xây dựng nền Phật giáo, ý như vậy. Nhưng mà cuối cùng thì Chơn Thông kẹt ở bên kia, tức là nó ở bên Miến Điện không có về được. Còn Thông Huyễn thì nhảy lên trên núi Dinh cất chùa xây dựng riêng ở trên đó. Còn Mật Hạnh thì bây giờ nó lý luận cái kiểu của nó thì Thầy thấy thôi thiệt tình là hỡi ôi rồi.
Cho nên nó chưa có ai hết đó, chứ mà nếu có rồi thì quý sư sẽ thấy rằng cái sức định của Thầy, Thầy sẽ nhập định dữ tợn lắm. Thầy nói có người mà ở ngoài, bởi vì cơ sở mình phải biết, phải tạo như thế nào cho đúng. Thầy chọn ngay cái nơi mà khí hậu tốt nữa. Thầy biết mà, rõ ràng là nó ảnh hưởng đó. Mình tu vậy chứ cơ thể của minh coi vậy chứ nó bị ảnh hưởng đến mình. Trên tỉnh Tây Ninh này cái khí hậu nó không tốt.
(18:12) Tu sĩ: Tây Ninh nắng lửa, mưa dầm. Sẵn Thầy nói con cũng góp ý, cái ở ngoải Thầy xin phép đi Thầy. Để mai mốt mấy cái người ủng hộ mình đó họ đi, thì kể như bên sống, bên chết rồi ai ký giấy cho mình nữa. Giờ Thầy xin trước đi rồi mai mốt Thầy không làm, hay làm chậm cũng đâu có sao. Họ ưng thuận cái mình xin liền, mà xin giấy phép kiến trúc cũng liền cái mình để đó. Cũng như rằng trong tin học con có quen. Giấy phép với cái sơ đồ kiến trúc họ phát sẵn hết trơn à. Rồi cái…., hết cái này họ không có làm. Vì vậy mình phải xin trước, mình để đó, coi chừng nào có ai đó Thầy giao cho người ta, có cơ sở rồi làm luôn không có cần xin. Chứ để mai mốt rồi họ chết queo hết trơn rồi họ thay đổi người khác lên công giáo, công giáo đến chính quyền, hay là những người mà họ nghịch với mình họ nắm cái đó cái mình xin nó không được.
Cũng như có ông sư ổng xin cất cái cốc, ông sư Phước Tánh. Mượn chị cho 5 triệu, ổng mới bàn với con, con kêu "lấy đi".… (bỏ 1 đoạn hơi dài, ai rảnh nghe lại giùm)
Cũng như rút kinh nghiệm Thầy xin giấy phép đi Thầy, Thầy xin đại đi. Có giấy phép rồi, có giấy… sẵn Thầy để đó….
Trưởng lão: Nói chung là từ bước đầu qua cái năm 2000 này thì Thầy đã cho tu sĩ mình xúc tiến công việc hết rồi. Coi như là bây giờ nó chuẩn bị coi như là cất nhà ngoài đó. Rồi giấy tờ này kia, cất nhà để mà mình xây dựng gì đó, đồ kiến trúc đổ đá, đổ này kia, làm đường đồ này kia. Nó có cái nhà sẵn để mình ở, có người ở giữ, chứ không khéo là mình đổ chúng hốt hết à, đời họ tham lắm.
(19:56) Tu sĩ: Với cái hàng rào đó, con có cái kinh nghiệm này, đừng có làm vậy tốn tiền lắm. Thầy cuốc bề ngang khoảng 5 tấc, xới đều hết, Thầy mua hột gòn hay là hột me nước Thầy rải, nó rẻ lắm không có tốn tiền. Mua cái hàng rào kẽm gai, kỳ con có làm đó. Bề ngang 5 tấc Thầy rải hột gòn nó dễ hơn hột me nước, hột gòn dễ kiếm. Nó không có bao nhiêu tiền đâu mua 100, 200 kg, 19 mẫu mà Thầy rào kẽm gai biết bao nhiêu là cây vàng ở trỏng. Đó là rào cái đó bề ngang 5 tấc, không có con gì qua được, không có ai qua được hết trơn. Mà cái hàng rào nó vĩnh viễn nữa.
Trưởng lão: Cây gòn nó lên dễ lắm hả?
Tu Sĩ: Dã dễ… mà cây gòn mình chặt nhánh nó xong mình ghim xuống nó cũng mau, 19 mẫu đâu đủ sức. Thành ra mình phải mua hột, mua hột thì phải lại mấy cơ sở họ làm nệm, gối đồ đó. Mua đặt đâu mấy trăm kg, mình mua 1kg khoảng ngàn mấy chứ đâu có nhiều. Cái mình xới ra, mưa cái mình xới, mình rải nó ra. Chứ Thầy làm vậy nặng tiền lắm Thầy ơi. Mình đỡ cái chi phí, lấy cái tiền đó mình xây qua nhà tiền chế.
Với lại đường Thầy khoan làm đường tráng nhựa đã, đường tráng nhựa sau này khó lắm. Tại vì Thường Chiếu cũng đâu có làm đường tráng nhựa đâu, họ đâu có giàu quá. Phật tử về họ thấy cái đó lỗi kỹ thuật, họ lại cơ sở thì thấy là nhà tranh vách lá…. Họ lại họ thấy nhà cao cửa rộng, họ cũng….
Dạ thành ra mình làm bình thường, rất là bình thường, rồi mai mốt thì nó đầy đủ hoàn chỉnh. Con nghe Thầy nói làm cái đường tráng nhựa…
Trưởng lão: Theo cái quy hoạch mà đơn xin phép tắc của mình đó. Xin phép là bắt đầu bây giờ đó, chưa có làm đường xá gì, phóng lô hết. Phóng lô rồi mới đặt ống cống, đặng cho nó thoát nước đó. Coi như là đặt ống cống rồi thì phóng lô, đường xá ở trong đó phóng luôn hết. Rồi cái xe nó mới móc gốc cây đồ này kia, cube đồ nó vô nó móc nó làm đường. Nó làm đường rồi thì bắt đầu nó làm cái nền móng đường, nền móng đường rồi mới bắt đầu đổ đá, đổ đá rồi sau đó mới tráng nhựa. Đâu đó đàng hoàng hết rồi, bắt đầu mình mới làm đường xá trong cái khu vực đó hết rồi. Thì bắt đầu cái khu nào nó theo khu nấy hết, thì bắt đầu mình xây dựng cái phần nào trước, phần nào sau. Thì theo từng bước, từng bước mình xây dựng, nhưng mà mình phải cái mặt bằng nó phải làm.
(22:13) Tu sĩ: Dạ, cái đó cái đầu tiên, phải trồng cây trước. Trồng cây trước, cái chỗ nào mà mình lên lô hết trơn thì mình trồng cây trước, để nữa thí dụ bắt đầu mình xây dựng mình cái nó cũng quang cảnh lắm.
Trưởng lão: Coi như là 19 mẫu này toàn là một khu rừng, mà Thầy trồng cây coi như là cây, như nguyên cây tràm nó lớn lớn lớn, dòm như cái đám rừng ở trong đó, y như cái đám rừng này vậy. Bây giờ nó lên như vậy nó mát vậy đó, y như đám rừng này vậy đó. Bây giờ chỉ có còn giờ là cube nó đến mà nó phóng lô, nó làm đường, thì nó móc mấy cái gốc cây nó bỏ hết, phần đó cắt lấy củi bán hết, bán cây. Rồi bắt đầu cái đường đó, còn cây thì nó để nguyên, khu nào để nguyên. Chừng nào ở chỗ nào mà cất nhà cửa thì nó mới móc ở chỗ đó thôi. Do đó nó làm đường xá trong đó hết rồi. Ở đây là quy hoạch cái công trình lớn, chứ không phải nhỏ. Như là mình muốn mở một cái cơ xưởng gì lớn vậy đó, ở đây là cái cơ sở lớn.
(23:04) Tu sĩ: Dây điện, xin điện ba pha vậy cũng mấy chục triệu. Năm sáu chục triệu mới được cái điện ba pha đó.
Trưởng lão: Coi như là mình cho vô điện.
Tu sĩ 1: Ra bình hạ thế thì phải xin trước, kêu ở ngoải thì nó kẹt cái điện, cái dây điện ở trước.
Tu sĩ 2: Điện ở ngoải nó không có được đều phải không?
Tu sĩ 1: Không có, mình cơ sở lớn mình phải có cái hạ thế riêng, cái bình mình xài riêng không xài chung với người ta.
Trưởng lão: Coi như là mình hạ bình riêng đó, mình hạ bình riêng. Nhưng mà sự thật điện bây giờ thì nó đã kéo tới đó, thì mình xin hạ một bình thì coi như là kéo vô khu vực của mình.
Tu sĩ 1: Nếu như là bình của mình thì mình xài riêng, không xài chung với ai.
Trưởng lão: Coi như là mình không có xài chung trong cái tổ của dân.
Tu sĩ 1: Cái bình ở ngoài thì có khi mà nó yếu là nó kẹt đó.
Trưởng lão: Bình của mình, thành ra mình hạ thế nguyên bình của mình, cái cơ sở của mình.
(23:48) Tu sĩ: Sẵn hồi nãy Thầy có giảng cái phần mà nhân quả nó không có cố định. Cái này con hồi nào tới giờ con cũng ưu tư cái này hoài, con cũng không có hiểu. Về sau này con có đọc thấy một câu nói là: "Tội phước đều không có chủ thể. Nó cũng như do duyên tốt duyên xấu mới tạo ra cái tội phước, chứ còn tự động cá nhân đó họ không chủ động. Họ cũng tùy theo cái duyên cảnh đó mà cái môi trường họ tạo ra". Thành ra cái câu kinh này nó nói: "Tội phước đều không chủ thể", con không biết là sao luôn, sao mà kỳ vậy? Mà không có ông nào giải thích cho con nghe được nữa.
Trưởng lão: Bởi vì cũng như hôm nay mình sống ở trong cái thời gian này, hiện tại này, là cái môi trường này nó nằm ở trong cái nhân quả của nó. Mình bình yên, phải không? Là cái môi trường này bình yên. Mà mình không bình yên, nó có những cái đối tượng, cái pháp nó đến nó làm cho cái cuộc sống của mình trong hiện tại này nó không bình yên. Thì không bình yên tức là cái quả, cái quả nó không bình yên, tức là khổ chứ gì? thì nó có cái quả. Còn bây giờ nó bình yên là nó có cái quả, mà nhưng cái quả thiện nó làm cho mình an ổn, phải không?
Thì do đó trong cái an ổn này thì bắt đầu mình nảy sinh ra một cái pháp. Cái nhân mới mà mình tạo ra cái nhân mới. Vì các pháp nó tạo ra cái thuận duyên của mình là cái quả nó yên ổn nè. Bây giờ mình khởi ra, bây giờ mình muốn làm cái gì, phải không? Mà khi mà cái muốn làm đó, thì tức là cái nhân mới để tạo thành một cái quả kế đó, chứ không phải còn ở trong cái nhân cũ. Nhưng mà bây giờ mình lái cái nhân này, cái nhân mới này lái nó đi làm, nó tạo thành một cái quả tốt. Mà nếu không lái nó, nó sẽ đi vào cái quả ác, cái nhân ác của nó, nó sẽ tạo thành cái quả ác cho mình kế tiếp.
(25:24) Cho nên nó luôn luôn nó không phải có một sự cố định, không phải chủ thể đó, mà nó di chuyển. Nghĩa là mình dùng cái trí của mình, mình thấy “à cái này, cái niệm này khởi lên đây, mình đi theo cái đường này là con đường ác, không được, dừng lại. Hãy đi những cái ngã này, ngã này nó sẽ đem đến lợi mình, lợi người, nó không làm khổ mình, khổ người”.
Do đó mình suy tư như vậy, do cái trí của mình, mình lái nó đi. Mình lái cái nhân mới này để cho nó có cái quả tốt của nó. Mà mình không lái nó, mình đi theo cái lòng ham muốn của mình, mà mình không thấy nó ác pháp. Tức là cái trí của mình, mình không nhận ra đó là cái ác pháp, cho nên mình lái nó, mình đi đến cái đó thì nó gặp. Bởi vì mình không lái nó thì nó sẽ đi vào con đường ham muốn. Mà con đường ham muốn thì nó là ác, nó sẽ tạo thành cái khổ mình, khổ người mà mình không suy nghĩ tới trước được.
Cho nên do đó cái chuyện nó sắp sửa xảy ra thì mình không biết. Mà bây giờ mình cứ nghĩ là cái điều đó mình muốn như vậy, mình làm như vậy, nhưng mình không ngờ rằng cái quả nó sẽ đưa đến cái khổ cho mình. Nhưng mà cái hành động ác của mình, mình không nhận ra. Chứ nếu mình nhận ra thì mình không làm. Mà mình không nhận ra cho nên nó mới thay đổi cái môi trường mình, cái thời gian hiện tại mình đang an ổn, do cái hành động này nó đưa đến bất an, hiểu chỗ đó không? Cho nên nó thay đổi, chứ nó không phải nó cố định.
(26:38) Cũng như bây giờ ngày nay, hôm nay mình an ổn, chứ ngày mai mình phải trả cái quả gì? Ngày mai, sắp tới đó nó chưa đến cái quả này, bởi vì bữa nay nó đâu có tính ngày mai. Nhưng mà hôm nay mình khởi cái niệm, một cái niệm, mình lái cái niệm đó nó đi vào cái ngã thiện. Nó chuyển cái ngày mai, cái quả ngày mai, nó làm ngày mai mình không có gặp khổ.
Thay vì mình không chuyển nó, thì ngày mai nó hướng mình đi vào cái chỗ. Cái niệm ác hôm nay, thì cái ngày mai cái quả khổ nó đã đến, nó sẽ có cái quả khổ cho cái ngày mai của mình. Tại vì cái cuộc đời của mình sinh ra nó ở trong cái nhân quả, cho nên nó có cái quả của ngày mai. Cái quả của ngày mai mà hôm nay thì mình chưa có thì mình thấy đâu khổ cái gì đâu, nhưng mà ngày mai sẽ khổ. Nhưng mà hôm nay mình chuyển được cái hướng thiện, nó đi tẹt qua cái quả khổ này nó trật, nó không có đến với mình. Còn nếu mà mình đi hướng ác, cái quả khổ này nó bừng lên, nó làm cho mình khổ sở ở tù, hay hoặc là xe đụng chết nữa, hiểu chỗ đó chưa?
Cho nên nhân quả nó không cố định là như vậy. Vì vậy cho nên mình khéo lái nó. Cho nên đạo Phật mới nói con người giải thoát được, là tại vì mình trên nhân quả, mình lái nó đi thì mình giải thoát. Mình không lái nhân quả mình được thì mình sẽ bị nó lái mình đi thì mình bị. Mà nó càng chồng chất lên những cái quả khổ đó thì cái nghiệp khổ mình nó lại còn khổ nhiều. Và cũng từ đó nó thành một cái lực, cái lực đó nó tiếp tục nó tái sanh. Nó tương ưng nó tái sanh, thì nó lại sinh ra khổ nữa, chứ không hết. Còn mình cứ lái vào thiện, lái vào thiện thì càng ngày nó càng đi vào con đường thiện thì nó an ổn, nó yên vui cho đến khi chấm dứt hoàn toàn sinh tử.
(28:10) Tu sĩ: Vậy cái phần chủ thể nó liên hệ sao ?
Trưởng lão: Cái phần chủ thể nó không có, nó không có chủ thể. Bởi vì nếu mà có chủ thể thì nó phải có cố định, còn cái này nó không có chủ thể, nó tùy.
Tu sĩ: Vậy rồi cái nhân quả này nó không có liên hệ cái quá khứ hả Thầy? Thí dụ kiếp trước và cái kiếp này nó không có liên hệ?
(28:25) Trưởng lão: Coi như là mình chuyển, nó có liên hệ, nhưng mà mình chuyển. Chẳng hạn bây giờ Thầy đặt vấn đề, nó có liên hệ lắm. Bây giờ cái quá khứ, cái nhân của ở quá khứ thì cái quả ở hiện tại của mình. Bây giờ Thầy đã tạo cái nhân ở quá khứ, Thầy chỉ sống có thời gian có 50 tuổi à. Là ngày mai này đúng 50 tuổi là Thầy chết đó. Cái nhân của Thầy ở quá khứ, cái quả của Thầy chỉ có 50 tuổi, trong hiện tại này 50 tuổi Thầy chết. Nhưng mà ở trong cái hiện tại này Thầy lại chuyển được cái quả đó, là Thầy làm những cái điều phước, cho nên nó chuyển Thầy sống thêm, Thầy tới đó Thầy không chết. Thấy không, nó chuyển phải không? Bởi vì nó có liên hệ, nó có liên hệ của quá khứ với hiện tại và vị lai.
Bây giờ ở quá khứ mình tạo cái ác, cho nên đến đây mình sẽ gặp cái tai họa này, cái tai hoạ này có thể giết mình chết. Nhưng mà trong cái cuộc sống hiện tại này, mình đã tạo được cái phước, cho nên cái quả chết này nó không chết. Nó đến đây, thay vì gặp khổ mà nó không khổ, mà nó lại hạnh phúc. Nó có liên hệ, mà từ cái hành động hiện tại này làm, thì cái tương lai này nó sẽ sáng sủa, nó không có khổ. Thế cho nên nó không có chủ thể, mà nó chỉ có tùy duyên. Tùy duyên qua cái trí của mình mà chuyển biến nó, chuyển biến nó. Cho nên nó thay đổi liên tục, nó không có dừng.
(29:46) Vì vậy mà có thể nói rằng, cái người mà coi bói đó, nói về vị lai không đúng. Bởi vì cái luật nhân quả mà, nó thay đổi mà, làm sao nói? Nói: "Bữa nay, ngày mai anh gặp anh bị xe đụng đó". Nhưng mà hôm nay tôi làm chuyện khác thì ngày mai tôi đâu có đụng được, hiểu không? Cho nên nói không được, nhưng mà nói quá khứ nó nói đúng.
Cái ông thầy bói họ nói quá khứ mình đúng. Cũng như bây giờ Thầy tu chứng, Thầy có tam minh, Thầy biết cái nghiệp sư như vậy, vậy. Mà nếu trên con đường này mà sư chuyển biến nó bằng cái đường hướng trí tuệ Phật dạy, thì nó thay đổi mất, cho nên Thầy nói trật lất. Mặc dù tam minh bây giờ Thầy thấy nó đúng đó, nhưng ngày mai nó thay rồi. Nó thay là vì ngày hôm nay sư đã làm cái hành động nó khác rồi, thành ra nó thay rồi, bây giờ nói như vậy sao được, cho nên không nói.
Cũng như bây giờ có người người ta hỏi: "Vậy chứ thầy Mật Hạnh có cái duyên tu chứng hay không?"
Thầy nói: "Người nào cũng có duyên tu chứng hết, nhưng mà họ có lái đúng đường không? Họ không lái đúng đường thì làm sao họ tu chứng".
Cũng như Thầy nói: "Bây giờ sư có duyên tu chứng". Nhưng mà hôm nay sư nghe tu chứng sư không thèm tu thì ngày mai sư làm sao tu chứng? Cái hành động của sư, chứ đâu phải hành động của Thầy sao? Cho nên đâu có nói được cái tương lai của người ta được, mà chỉ biết cái quá khứ của người ta.
Nghĩa là bây giờ nhìn lại quá khứ, sư sãi ra gì, thì ở trong Tam minh người ta quán xét, người ta thấy rõ không sai chút nào, nhưng mà nói về tương lai thì không thể nói. Người ta biết, biết rất đúng, rất sai, rất rõ. Nghĩa là không sai, phải không? Không sai. Nhưng mà nếu mà hôm nay sư làm một hành động gì, ngày mai nó không đúng vậy, nó thay đổi khác rồi, cái nhân quả.
(31:16) Cho nên vì vậy đức Phật nói: "Đạo ta ra đời là vì con người không cố định. Không có sự cố định, không có chủ thể, cho nên mới ra đời mới cứu khổ người ta được". Người ta lái, người ta đi nó không khổ, còn người ta không biết lái thì người ta phải chịu khổ thôi. Cho nên nó cứu khổ được mình mà.
(31:31) Cho nên khi mà đọc cái bài Thập nhị nhân duyên rồi, đức Phật mới nói: "Thế giới 12 nhân duyên này hợp lại thành một cái thế giới khổ, mà 12 duyên này rã thì thế giới nó hết khổ". Rõ ràng là rã ra là tại vì mình đi vào con đường thiện nó rã, mà đi vào con đường ác thì nó hợp lại thì nó phải khổ thôi. Nó có thiện ác ở trong Thập Nhị Nhân Duyên nó rõ mà.
Cho nên dạy về Thập Nhị Nhân Duyên mà người mà ngộ được lý nhân duyên rồi thì gọi là bậc Duyên Giác đó, thì người ta giải thoát liền. Người ta không còn, Thầy nói thực sự không cần ngồi thiền, không cần gì hết. Người ta hiểu được lý duyên giác rồi, người ta bẻ ngay liền. Người ta sống đúng đời sống phạm hạnh, người ta lấy giới đức người ta sống rồi, thì người đó kể như là người ta an vui ở trong cái phạm hạnh của một vị tu sĩ rồi, thì người ta giải thoát. Người ta không có còn nghĩ đến vợ, đến con, đến dòng họ bà con nữa, cái đó là người ta thấy được cái nhân quả là cái duyên hợp rồi, người ta không còn lo lắng nữa. Bởi vì ngộ được lý Thập Nhị Nhân Duyên là người ta giải thoát, người ta không còn bận tâm.
(32:25) Cư sĩ: Cái chỗ này con cũng có cái tranh luận với cái ông sư Phước Hưng. Con thì không, con đòi phải như là cũng như là hành, còn ổng thì ổng không chịu, ông lo học. Cũng như thâm nhập được cái lý đó rồi tự nhiên nó đạt là mình giải thoát được.
Con nói: "Muốn giải thoát là phải có cái sự hành, phạm hạnh đồ ở trỏng, cái này, cái kia mới được giải thoát. Chứ còn mình ngồi mình đọc sách không, mình nghiên cứu hoài nó thành sao được mà thành".
(32:47) Trưởng lão: Ổng chỉ ngộ, ổng chỉ hiểu được cái lý. Bởi vậy khi mà mình ngộ được rồi, mình xả hết, mình sống cho đúng. Mà xả hết sống đúng, trời ơi! Đâu phải chuyện xả mà dễ, nói xả đâu có đơn giản đâu. Sư cứ nghĩ đi, mình hiểu rồi đó, bây giờ nắm được cái lý Thập Nhị Nhân Duyên rồi, biết là phải đi vào cái ngõ sanh rồi đó, để mà phá vô minh chứ gì. Ngõ sanh nó phá vô minh, chứ không phải là minh để mà đi học mới phá vô minh, không phải. Mà đi vào cái ngõ sanh tức là sống đời sống đức hạnh giới luật chứ gì. Sống cái đời sống này mới cắt đứt hết các duyên kia, tức là bây giờ khởi mỗi tâm niệm của mình là xả liền.
Trời ơi! Biết bao nhiêu, hàng năm, hàng tháng, bao nhiêu năm mà xả nó mới sạch đó chứ đâu phải. Muốn sống được cái đời sống mà Thập Nhị Nhân Duyên này là cái duyên sanh chỗ đó, mà mình sống đúng phạm hạnh, là không phạm giới đó, thì mình xả biết bao nhiêu tâm niệm mình. Ngồi đây một tâm mình niệm mình chưa có hành động, miệng mình chưa có phạm mà ý của mình phạm hết đó, phạm giới hết đó.
Cho nên do đó mà mình quyết định là những cái lỗi nhỏ nhặt ở trong ý của mình mà khởi ra là phải xả. Xả tức là đoạn dứt cái duyên sanh đó, chứ không phải là nói mà thường đâu, cả một vấn đề tu. Sư nói đúng đó, còn ông sư kia ông nói học không, chứ học mà không chịu xả thì kể như là chỉ lý luận thôi, chứ không có giải thoát đâu.
(33:58) Mà còn phải khi mà xả như vậy mình khổ tâm lắm, chứ đâu phải chuyện đơn giản đâu, nó đâu phải. Bởi vì rõ ràng là mình thấy khổ, chứ chưa phải là mình thấy giải thoát. Nhưng mà ngầm đó mình tự suy tư, mình mới tìm hiểu mình mới thấy được rõ ràng là đời sống phạm hạnh là giải thoát. Khi nào mình nhận ra được như vậy, và mình quyết định trước cái khổ này, trước cái đấu tranh này giữa cái tư tưởng của mình, thì mình phải nỗ lực tận cùng để mà diệt sạch những cái đầu óc còn mang tính chất sanh y của nó trong đó.
Dẹp hết! Dẹp hết! Chừng mà dẹp hết rồi mới gọi là Thập Nhị Nhân Duyên, mới là phá vỡ đó, đúng là chúng ta là Duyên Giác. Chứ còn Duyên Giác mà học không thì Duyên Giác không nổi đâu. Bởi vì chấp nhận rồi phải sống, mình hiểu nó được rồi thì bắt đầu bây giờ sống.
Cho nên đức Phật nói: "Sáng mà nghe thuyết pháp về Thập Nhị Nhân Duyên, chiều chứng đạo". Là người ta bỏ sạch hết, bắt đầu người ta sống phạm hạnh. Từ đó người ta an vui trong phạm hạnh, người ta không còn để cái duyên nữa, thì thời gian sau người ta chứng đạo, chứ không phải là nói chiều chứng đạo. Mà người ta đã bắt đầu có một cái nghị lực cương quyết rồi thì người ta sẽ làm được hết.
(35:02) Tu sĩ: Chứng đạo chứ không phải thành đạo, thành đạo nó khác. Chứng đạo là mới bước vô giai đoạn đầu. Người ta tưởng đâu chứng đạo là rồi rồi đó.
Trưởng lão: Mới bắt đầu, đó mới chứng à. Nghĩa là mới có chứng được cái lý của nó thôi, còn cái thành là hoàn toàn là mình sống an ổn. Mà mới chứng đó, trời! Nó còn cái cuộc đấu tranh, nó kinh lắm. Bởi vì mình chứng nó rồi, cho nên nó mới đấu tranh với cái sai. Chứng là thấy được cái đúng, bây giờ mới đấu tranh với cái sai của nó. Mà đuổi cho được cái sai, giặc mà kêu là giặc tham, sân, si ra được đó, thì gian khổ lắm.
Đó thì như vậy là rõ ràng là mình phải nỗ lực hết mình, chứ đừng có nói chuyện. Nghĩa là khép chặt mà sống độc cư, mà từ ba tháng đến ba năm không nói chuyện với ai. Chứ còn nói chuyện một chút xíu là kể như là hoài công của mình. Bây giờ mình tu tới hai năm chín, còn có một ngày nữa là ba năm thôi, thí dụ như vậy. Mà mình tiếp duyên mình nói chuyện là cái hạnh độc cư không trọn thì kể như là bắt đầu tu lại, chứ đừng nói gì nữa.
Đó Thầy nói nếu mà ba năm là mình hoàn toàn là tâm quay vô hoàn toàn rồi, phải không? Mà mình ức chế nó, cho đến cái giờ phút cuối cùng nó bung ra một cái là kể như là nguy hiểm.
(36:09) Cho nên Thầy nói đừng có ức chế nó, cứ để tự nhiên sống, rồi suy xét cái sự giải thoát của mình. Đặng cho nó thấy cái kết quả giải thoát đó, nó phấn khởi, để cho mình chấp nhận cái độc cư, cái phạm hạnh. Và mình chấp nhận được cái phạm hạnh mình sống thấy thích thú, rồi bắt đầu từ đó nó quay vô. Nó đơn giản lắm. Mà nó khó là nó khó các pháp bên ngoài nó cứ đập mình, nó cứ tấn công mình. Mình muốn yên mà nó không cho yên đâu.
Thí dụ như bây giờ sư muốn yên, mấy con về thăm "trời ơi! Phải làm sao đây?"
Tu sĩ: Bởi vậy.
Trưởng lão: Mình muốn giải thoát chứ mình đâu có muốn, nhưng mà tình cảm của nó làm sao, nó cũng nghĩ đến cha nó chứ, phải không? Cho nên rốt cuộc rồi mình cứ bị động hoài, mà bị động thì phải tu trở lại. Mà bây giờ sư ở đây mấy tháng phải không, bắt đầu thấy yên ổn quá chừng, cái đùng nó về, thôi thôi bắt đầu tu trở lại đi.
Tu sĩ: Như vậy thì con làm sao Thầy? Thí dụ mỗi năm con phải về bển thì làm sao giờ?
(37:01) Trưởng lão: Trong cái vấn đề, dù sao đi nữa mình cũng tập dần, chứ không được ức chế mình, ức chế nguy hiểm lắm. Bởi vì Thầy đã trường hợp mà Thầy đã bắt vô ức chế Thầy thấy rồi, không được, khép độc cư không có được.
Bây giờ cái duyên của mình như vậy, nhưng mà mình nhắc nhở mấy đứa nhỏ, con của mình nhắc nhở nhỏ lần. Rồi bắt đầu lần lần nó thấm nhuần, thấm nhuần hồi nào, bây giờ tới. Cái duyên của mình nó tới rồi, cái bắt đầu nó không có đến thăm viếng nữa, để cho ba yên tu. Bắt đầu nó không đến nữa thì nó không làm cho mình sống lại, từ đó mình lần lần mình sống trong độc cư nó xả lần….. Đó, nó có vậy thôi chứ mình đừng có ức nó, ức nó không được, khó lắm.
(37:38) Tu sĩ: Cái phần nhân quả Thầy nói hồi nãy đó, con cũng nhớ cái điều nhập thất mà Thầy giảng hôm kia. Bởi vì cái cõi dục giới là Thầy nói, với cõi vô sắc, với cõi sắc giới là cõi không có, mình chỉ có một cõi dục giới thôi. Rồi còn thêm một phần nữa là cũng như thế giới siêu hình, thế giới Chư thiên đồ đó, thì đức Phật nói là sáu đường, luân hồi theo sáu đường. Thì trong đó thì con thấy có hai đường như Thầy giảng là chỉ có người với súc sinh thôi, còn năm cái kia thì nó cũng quy vô với cái loài người rồi, thì chư thiên cũng là người, ác quỷ cũng là người, atula cũng là người, vân vân, chỉ còn người với súc sinh thôi. Thì theo vậy thì Phật nói hai đường thôi chứ Phật nói làm chi sáu đường vậy.
(38:20) Trưởng lão: Thật sự ra đức Phật phân sáu đường là chỉ cho cái con người của mình nó có những cái trạng thái.
Thí dụ như một người thiện tức là cõi thiên rồi. Mà một con người mà chẳng thiện, chẳng ác nó là con người rồi. Mà cái con người mà ác nó là ác quỷ rồi. Đó mình phân ra nó mới thấy được cái cõi người, cõi trời và ác quỷ, atula nó mới thấy được cái này.
Có người dữ tợn ác lắm, ác quỷ rồi, cho nên đó là. Cũng có cái con người mà sống trong con người mà địa ngục, họ khổ vô cùng, chứ đâu phải. Ở trong cái cõi người chúng ta nó đã sáu cõi nó đã đủ nó rồi, trừ ra cái cõi chúng sanh thôi. Chúng sanh là con vật đồ đó, thì chúng ta
Tu sĩ: Có năm cõi hả Thầy?
Trưởng lão: Sáu chứ.
Tu sĩ: Súc sanh nó có trong này không?
Trưởng lão: Súc sanh nó cũng tính luôn đó, tính luôn súc sanh. Còn cái kia là, cái cõi người của chúng ta phân chia ra năm cái cõi này. Bởi vậy đức Phật hay lắm, đức Phật chia ra hay lắm.
(39:23) Tu sĩ: Vậy là mình luân hồi như sao được Thầy? Tại vì con thấy như vậy nè, con cũng hỏi nhiều người, thì họ nói cõi siêu hình có mới luân hồi được. Còn bây giờ thí dụ như có hai cõi thì người ta chết, thì người ta tái sanh làm người thì trở lại làm người, hoặc người làm súc vật. Mà người trở lại làm người thì rất khó, như con rùa mù nổi lên mặt biển vậy đó.
Trưởng lão: Làm súc vật nhiều hơn, mà làm ngạ quỷ cũng nhiều dữ.
Tu sĩ: Dạ, thì ngạ quỷ cũng là người
Trưởng lão: Thì người, nhưng mà người dữ cũng nhiều lắm.
Tu sĩ: Dạ, thì bây giờ con thấy thí dụ như bây giờ, tại sao mà cái dân số người ta nó tăng, rồi dân số súc vật nó cũng tăng, rồi mình tái sanh đâu có dễ để giải thích được.
(40:00) Trưởng lão: Bởi vì nó nếu mà cho rằng mỗi người có một linh hồn tái sinh thì cái số không tăng, phải không? Bởi vì một cái thức thì có một cái nghiệp thì nó đi tái sanh thôi, chứ làm bây giờ số người tăng, phải không? Số người tăng là do cái nhân quả một người phải sanh ra mười người, mười người phải sinh ra trăm người. Mà cái nhân quả có một người mà sinh ra triệu người.
Bởi vì thí dụ như bây giờ đó, mình sống mình giết hại chúng sinh, mình ăn loài chúng sinh. Thí dụ như bây giờ mình ăn cá, thịt đi. Một con người mình đã giết bao nhiêu cái loài cá thịt để nuôi cái thân này, phải không? Khi mình chết rồi mình phải sanh cái loài chúng sinh này, vô lượng con, chứ đâu phải một con để mà trả cái nghiệp. Vay một trả mười mà, cái luật nhân quả như vậy chứ đâu phải. Thành ra nó đâu có cái số lượng mà gọi là có một linh hồn mà sinh ra. Nếu mà một con vật nó sinh ra thì đâu có một cái bầy kiến dữ tợn vậy? Nó cũng chỉ sinh ra một con kiến thôi, chứ sao nó sinh ra như vậy được?
Tu sĩ: Cái phần này trong kinh không có nói vấn đề đó Thầy.
(41:00) Trưởng lão: Đó, cho nên trong kinh không nói, nhưng mà chúng ta cũng phải luận, chúng ta cũng phải biết thấy rõ. Bởi vì Phật nói: "Từ nhân quả sanh ra". Do cái nhân quả hành động nó nhiều hay ít là do nhân quả đó. Nếu mà cái nhân quả đó mà nó ít, tức là tâm tham đắm của mình ít thì nó sanh ít, mà tâm tham đắm mình nhiều nó sanh nhiều.
Tu sĩ: Vậy lúc tái sanh một người chết, tái sanh có thể là thành nhiều người, chứ không phải một người?
Trưởng lão: Thành nhiều người. Thí dụ như bây giờ mình, nếu một người này chết mà cái nghiệp lực của nó, nó thành một người thì nó chỉ trả có một thôi. Mà bây giờ cái nghiệp lực này mình vay người ta một mà mình phải trả mười. Thì một người này chết mà cái nghiệp lực này tạo ra thì nó phải là thành mười cái nghiệp lực của nó, để mà nó trả những cái quả khổ của nó chứ, nhân quả mà.
Tu sĩ: Thành ra cái phần tranh luận hồi xưa con cũng dính mắc mấy cái này, còn trả lời người ta thế này. Con nói thí dụ như một cái hột mình trồng xuống dưới đất, nó lên một cái cây. Thí dụ cái hột ớt chẳng hạn, có một hột lên thành cái cây, cái cây mình được biết bao nhiêu trái ớt, một trái ớt, biết bao nhiêu là hột ớt. Một nhân nhưng mà sinh nhiều quả. Cái này là mình thấy, còn cái thế giới mà tái sanh mà luân hồi đâu có ai thấy đâu, mình nói người ta cũng không có nghe nữa.
(42:06) Trưởng lão: Đúng đó, đúng là cái luật nhân quả nó như vậy, như là cây ớt của chúng ta. Một hột ớt nó lên cây ớt, cây ớt nó ra bao nhiêu trái, phải không. Bao nhiêu cái cay của nó đây mà, bao nhiêu cái ác của nó nè. Bây giờ những cây ớt này nó lên bao nhiêu cây nữa?
Rồi những cái quả của cái nhân quả này nó tiếp diễn, như cây ớt này nó lên nó phát triển được, nó ra trái nữa. Những cây ớt này nó phải trả cái những cái quả yểu tử của nó nữa. Tại vì mình làm biết bao nhiêu sự yểu tử người ta, đoản mạng người ta, chứ đâu phải là hoàn toàn nó hết đâu. Cho nên lớp mình trả cái chết, lớp mình trả cái sống, lớp mình trả cái khổ, lớp mình trả đủ thứ, chỉ có một cái nhân quả của mình biết bao nhiêu người.
Cho nên thí dụ như bây giờ người ta hạn chế sinh đẻ, người ta móc thai đi. Cũng do cái nhân yểu tử nào, mình đã làm biết bao nhiêu đoản mạng người ta. Bây giờ mình sanh lên chỉ chốc lát người ta móc ra người ta quăng rồi, thì do mình chứ ai, một người mà bao nhiêu người chứ đâu phải. Bây giờ cha mẹ mình chết đi, rồi cha mẹ mình sinh lên, cũng có cha mẹ mình, có hai người này thôi sao. Ôi thôi bây giờ nó hàng ngàn cha mẹ mình nữa, chứ đâu phải một người. Bởi vì cái nghiệp lực mà, chứ đâu phải là cái cố định của linh hồn. Cái nghiệp lực nó sanh ra dữ lắm.
(43:08) Bởi vậy ở trong cái, ở trong chỗ nào nè nó nói do tham, sân, si mà sinh ra. Do tham, sân, si ba cái độc này mà nó sinh ra. Bởi vì mình tham nó thành ra cái lực, mình sân nó thành cái lực, mình si nó thành cái lực, cái lực này nó không phải sinh ra một người.
Cũng như bây giờ, bởi vậy đức Phật nói: "Được thân người là khó", phải không? Được thân người là khó. Mình được cái thân người mình khó, mà mình không biết chấm dứt, mình tạo ra muôn vàn thân người.
Tu sĩ: Thưa Thầy vậy là mình chấm dứt, chỉ chấm đứt một thân thôi?
Trưởng lão: Mình chấm dứt một thân thì tất cả thân khác nó không có nữa, nó không sanh ra nữa.
Tu sĩ: Mấy cái thân kia tự nhiên nó cũng mất luôn?
Trưởng lão: Mất luôn hết, bởi vì cái quả nó hết rồi.
Thí dụ như bây giờ Thầy tu là Thầy chấm dứt tất cả bao nhiêu vô lượng thân của Thầy, chứ không phải một thân đâu. Nghĩa là bao nhiêu cái nghiệp của Thầy hồi nào đến giờ nó đã thành, đã bao nhiêu rải rác bây giờ cùng hết rồi. Bây giờ đời quá khứ Thầy đã tạo ra nghiệp nè, Thầy sinh ra nhiều người như Thầy, chứ không phải một người. Nhưng bây giờ một thân này mà Thầy thực hiện được, thì bao nhiêu đó nó cáo chung hết, cái nhân quả mà nó chuyển biến mình đó.
Tu sĩ: Vì trong kinh không có nói thành ra mình không bí lù, không biết gì hết, cũng tò mò.
(44:18) Trưởng lão: Bởi vì trong lúc đó không có người hỏi ông Phật, chứ có người hỏi ông Phật thì bài kinh này có. Ngặt vì mấy ông không chịu hỏi. Cho nên Phật mới nói: "Cái mà ta chứng như rừng lá cây, mà cái ta nói ra cho chúng Tỳ kheo hiểu, thì như nắm lá cây". Cái số kinh mà đức Phật thuyết giảng như nắm lá cây, còn cái chỗ mà để mà hỏi đó, chỗ mà đức Phật đã thấy được, nó như cái rừng lá cây rồi, nó nhiều quá rồi, mà chúng sanh thì làm sao có cái trí mà hỏi được.
(Hết băng)
VẤN ĐẠO 10
LÀM CHỦ NHÂN QUẢ HỮU LẬU VÀ VÔ LẬU
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [47:45]
Thời gian: 20022002
Tên cũ: 10B-LamChuNhanQua-HuuLauVaVoLau
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-19-lam-chu-nhan-qua-phuoc-huu-lau-vo-lau.mp3
(00:01) Trưỡng lão: Đó thì hôm nay chúng ta biết rằng khi mình làm chủ được nhân quả, tức là mình chấm dứt được tái sanh luân hồi, mà mình chấm dứt được tái sanh luân hồi thì bao nhiêu nhân quả nó đều chấm dứt theo. Một người làm mà cứu độ biết bao nhiêu người, một mình mình làm mà do nhân quả của mình đời trước mình đã tạo ra biết bao nhiêu người. Bây giờ một người tu chứng thì nó độ biết bao nhiêu.
Sư Tuệ Tĩnh: Ở trong kinh nó có một câu khi mình tu thành đạo rồi cái mình về mình độ hết tất cả bà con quyến thuộc của mình, chắc nó vô khúc này ha Thầy?
Trưởng lão: Đó! Nó vô cái chỗ đó, bà con quyến thuộc của mình là nhân quả đó, cho nên nó cùng nhau…
Sư Tuệ Tĩnh: Con cứ tưởng đâu bây giờ mình tu thành đạo rồi thì hiện tiền bà con quyến thuộc của mình được hết. Như vậy là …
Trưởng lão: Nó không có dính dáng.
Sư Tuệ Tĩnh: Nó không có nghĩa
Trưởng lão: Nó không có nghĩa, thật sự đúng là mình chấm dứt một người. Nếu bây giờ Thầy không chấm dứt mà có một người nào ở trong cái nhân quả Thầy đã tái sanh, họ làm cái chuyện này Thầy cũng bị. Coi như độ hết đó! Đó là cái lý của Đạo.
Sư Tuệ Tĩnh: Cái lý này cho con hỏi là nếu tái sanh thì sao con người ta cứ tăng hoài rồi ở đâu ra? Cũng như hồi đó học bên Thiên Chúa nói lên Thiên Đàng hay xuống Địa Ngục, lên Thiên Đàng hay xuống Địa Ngục hết trơn rồi còn đâu thành người. Rồi không lẽ Chúa mỗi ngày mỗi nặn, nặn nặn thêm linh hồn hoài cho người ta vào? Ổng đâu có ở không ông nặn hoài vậy. Bởi vậy cái nhiều khi nó vô cùng, hiểu không có được.
Trưởng lão: Nói chung là cái lý đó nó không vững con.
Sư Tuệ Tĩnh: Dạ!
Trưởng lão: Cứ nặn nặn ra hoài, nặn ra phải nặn người tốt chứ sao nặn ra người xấu? Nặn người đau khổ chết được! Ông nặn cái kiểu này tôi không có chấp nhận.
Sư Tuệ Tĩnh: Con có hỏi về cái người tốt kẻ xấu, người giàu kẻ nghèo thì mấy ông Tin Lành bí quá không biết trả lời sao, mới nói cứ thử, lấy người đó thử… Thử còn mất công nữa, sao người này thử người kia không thử? Phải không? Lớn lên thử không nói gì, mới đẻ ra biết trời đất gì đâu mà thử người ta, thấy lớn lên mà thử…
(02:01) Trưởng lão: Mình sanh ra, mình sanh ra mình phải sanh ra người tốt, chứ không lẽ… Bây giờ hỏi đặt thành vấn đề bây giờ Thầy nè, Thầy có con này, Thầy muốn con Thầy tốt hay muốn con Thầy xấu, phải không? Thì ông sanh ra, ông cũng muốn con ông tốt chứ sao ông sanh ra thứ ác độc không.
Sư Tuệ Tĩnh: Chúa toàn quyền, có người nói Chúa toàn quyền chứ không có toàn năng. Vậy Chúa toàn quyền Chúa tạo ra con người được, Chúa làm ra sự sống sự chết được, sự chết sự sống được, thì ừ được rồi nhưng mà Chúa bất công, sao đẻ ra người giàu, người nghèo. Ai cũng con Chúa hết sao con giàu con nghèo? Mình người ta ai cũng còn muốn con mình đều hết chứ tại sao Chúa mà vậy? Cái điểm thứ nhì Chúa không có toàn năng, Chúa không có làm cho người ta tốt được, Chúa nói người ta không nghe. Phải không ?
Nếu Chúa làm người ta sống chết được thì Chúa nói người ta nghe đi, Chúa nói đâu có ai nghe Chúa đâu, mà nhiều khi nói mé mé. Qua cái vấn đề đạo Phật, vấn đề nhân quả thì con rõ, cái mấu chốt nãy Thầy nói là nhân quả thì nó không có cố định, từ xưa đến giờ người ta hiểu là nhân quả nó cố định, cái sự hiện tiền bây giờ người ta hưởng cái quả, người ta nói ráng hưởng quả kiếp trước làm đó nên giờ ráng chịu! Con nghĩ chắc có lẽ cái quả mình hiện tại mình làm mình cũng hưởng hiện tại nữa, chứ không phải có nhân quá khứ không, có nhiều cái nhân quá khứ giờ mình hưởng, cũng có Nhân hiện tại mình hưởng.
Chớ không phải bắt buộc là tất cả những gì làm, thôi ráng hưởng quả đi! Có nhiều cái con nghĩ cái này không phải là cái quả mà cái này là cái nhân, bao nhiêu người cứ nói là quả không mà con nói không phải, có Quả có Nhân chớ. Tất cả những gì xấu xa hoặc tốt lành đến với mình đều là quả hết. Con nói cái đó cũng chưa có được đâu, hễ có cái quả phải có cái nhân chớ.
Trưởng lão: Nhân quả nó kèm theo, khi mình thọ hưởng cái quả này trước thì coi chừng cái hành động hưởng này nó sẽ đưa mình đi đến chỗ mà quả xấu đó. Cái nhân đó, tại thọ hưởng tức là cái… Như bây giờ Thầy có hưởng được cái quả của nó là Thầy trúng vé số, mười triệu há, mà bây giờ Thầy xài cái này kia, Thầy bê tha cái này kia thì cái quả nó đi tới càng xấu hơn nữa, tệ nữa.
(04:20) Nếu Thấy lấy mười triệu này, Thầy bố thí, cúng dường Thầy giúp đỡ người này, người kia thì cái Quả này Thầy hưởng hoài, thì mười triệu này Thầy ăn không hết. Bởi vì cái may mắn nó cứ đến đây nữa.
Còn đằng này, ông đi chơi, ông uống rượu, chơi bài bạc, bạn bè này kia, tiêu sạch hết, coi chừng ông đi vô tù nữa là khác, phải không? Từ đó cũng là cái Quả, nhưng mà cái Nhân thụ hưởng cái Quả này là tốt hay xấu đây, coi chừng, nó sẽ đi đến xấu hay là tốt trong đó
Sư Phước Nhẫn: Có trường hợp, con đọc trong cuốn …. Của Thiện Tâm, nói tu kiếp này, kiếp sau mình hưởng, nhưng kiếp sau mình hưởng rồi kiếp thứ ba bị cái Nhân kiếp thứ hai đó. Nhiều khi mình giàu quá mình làm điều không tốt tới kiếp thứ ba mình bị, kiếp này mình tu kiếp thứ ba nó không tốt. Chuyện đó cũng không thấy nó dứt khoát như vậy.
Điểm thứ nhì, có người nói như vậy, con cũng nghĩ thí dụ kiếp này mình tu, kiếp sau biết được tu hay không bởi vì kiếp sau mình giàu sang quá rồi nhiều khi mình làm chuyện ác, mình không tu nữa. Rồi người ta nói, chắc ăn là kiếp này tu thì kiếp sau phải được tu, cũng chưa biết được bởi vì Nhân Quả nó thay đổi như Thầy nói, con nghĩ như vậy có đúng không thưa Thầy?
(05:36) Trưởng lão: Đúng, bởi vậy kiếp này mình tu, mà mình tu không đúng cái đường lối giải thoát, tức là Vô Lậu mà lại tu về Hữu Lậu, lo đi bố thí, cúng dường này kia, cho nên kiếp sau nó hưởng cái phước, nó quên tu.
Mình làm vua rồi mình có tu không, hoặc mình làm nhà giàu rồi, hưởng cho sướng chứ vô chùa làm gì cho cực khổ, phải không? Do đó, bây giờ giàu thì đem cúng dường chứ chưa chắc bỏ mà đi tu được đâu, người giàu đâu có đi tu hết đâu. Do đó nó đi sai con đường rồi, nó là phước Hữu Lậu.
(06:11) Sự thật có giàu đi nữa cũng khổ, như hồi nãy Thầy nói, chỉ có phước Vô Lậu, mà phước Vô Lậu thì đời này mình tu chưa xong, đời sau nó tiếp tục tu nữa. Nhưng mà nó lên nó không được cái gì hết, thậm chí đói đi xin ăn người ta cũng không cho nữa. Có vị Tỳ kheo đi xin ăn người ta không cho tới chừng chết mà còn không có nữa. Đó là phước Vô Lậu, vì vậy người ta mới rốt ráo chứ.
Còn mình có một chút là coi chừng nguy hiểm, không giải thoát đâu. Bởi vì hai cái phước này, phước Hữu Lậu và phước Vô Lậu không đi chung với nhau được.
Cho nên vì vậy nếu người giữ giới luật của Phật là mình xả hết rồi, mình đâu còn gì nữa, mình không còn gì nữa, mình đâu làm phước cho ai được đâu. Mình chỉ có giữ đức hạnh của mình thôi. Giữ đức hạnh để họ làm gương thôi, làm gương để buông xả như mình thôi. Do đó hoàn toàn là mình đi xin ăn chứ không làm sao mà có chùa to, tháp lớn được, đó là giải thoát.
Cái duyên bao đời này mình tu chưa được rốt ráo, nhưng mình giữ được cái đức hạnh này thì đời sau mình tiếp tục, mình có làm gì đâu mà được phước báu như các nhà Đại thừa đâu. Mình đâu có bố thí, đâu có làm gì đâu, nên mình cũng không hưởng được chút gì của thế gian. Cái Hữu Lậu không có, cái Vô Lậu thì có. Do đó mình tiếp tục đi tới giải thoát hoàn toàn, chấm dứt sanh tử.
Còn cái phước của họ là phước Hữu Lậu cho nên vì vậy Nhân Quả của Hữu Lậu nó đưa đi, có ác, có thiện, liên tục tùm lum trong đó. Ảnh thấy sung sướng, ảnh thấy danh dự, họ ca ngợi khen ảnh dữ tợn mà ảnh khổ đau dữ lắm.
Đó, phải nói là mình phải thấy hai cái phước này nó không đi cùng nhau trong Nhân Quả, nó không chấp nhận nhau. Đạo Phật không chấp nhận phước Hữu Lậu, chỉ có Đại thừa, nó huyền bí, từ cái phước Hữu Lậu đến Vô lậu nó chấp là bước thang của nó chứ sự thật hễ cái này có thì cái này không. Người có phước Hữu lậu thì không bao giờ có phước Vô lậu.
(08:03) Mình cứ thấy một nhà sư như Hòa thượng Thanh Từ, Thầy có phước Hữu Lậu, nhưng Thầy không có phước Vô Lậu. Cho nên luôn luôn lúc nào Thầy bệnh đau gì thì Thầy có thang thuốc, nhưng Thầy không có đủ sức làm chủ sự bình an của Thầy, cho nên Vô Lậu Thầy không có.
Riêng Thầy ở nhà tầm vông, trúc tre, Thầy có phước Vô Lậu, cho nên Thầy bệnh đau, Thầy không cần tiền bạc để mua thuốc mà Thầy chỉ ra lệnh là nó hết. Cho nên thuốc Vô Lậu của Thầy rõ ràng, cụ thể, Thầy làm chủ được nó. Bây giờ sự sống chết Thầy làm chủ được nó, đó là phước Vô lậu của Thầy rồi.
Đối với cái kia là chùa to, tháp lớn, tiền bạc nhiều, đổi mua cái giá trị phước Vô Lậu này thì không thể nào mua được, cái này là vô giá. Còn cái này có giá vì giá trị của nó dùng tiền bạc đổi được.
Sư Phước Nhẫn: Cái này, phước Hữu Lậu, con nghĩ nhiều lúc cũng tùy theo môi trường xã hội ở bên Tàu thưa Thầy, thời xưa đức Phật ở bên Ấn Độ ôm bình bát đi dễ quá rồi, chừng qua bên Tàu đâu có được cái vụ đó, thành ra mấy ông mới chế ra kiểu này, kiểu kia để lấy tiền mà nuôi Tăng. Chứ không chế vụ này, vụ kia thì mấy ông Tăng chết đói hết thì làm sao mà truyền bá đạo Phật. Cũng khổ như bên Nam Tông con, cái chùa thì mình biết chuyện đó là không đúng rồi, nhưng phải chấp nhận. Cũng như ông này cúng cái tượng, ông kia cúng cái tượng, tùm lum tượng hết, mấy ông sư nói cúng tượng mà không cúng tiền thì lấy đâu mà có kinh phí, bắt buộc phải nhận.
(09:40) Trưởng lão: Đúng đó, Thầy nói thật sự rất khổ, khi mà đi sai đường rồi thì khổ lắm. Hồi đầu tiên Thầy ở đây cũng vậy, người ta, người Phật tử họ nghĩ rằng họ cúng tượng này kia họ được phước dữ lắm bởi vì ba cái kinh sách nó dạy như vậy mà. Họ đến, họ bỏ tiền ra, họ muốn mình cất cái chùa cho đẹp.
(10:01) Đó là một cái sai, cái sai thứ nhất. Thứ nhất là họ cúng tượng,… Mà nếu mình không chấp nhận thì họ không tới, mình lấy tiền đâu mà nuôi chúng, nó khổ cái nỗi như vậy. Cho nên mình chấp nhận cho họ vui lòng, thì họ đến, họ cúng dường này kia dữ lắm. Đúng là như vậy, sư nói đúng lắm. Bởi vì trường hợp này Thầy biết, chính là cái nền Tổ đường ở trong đó hồi đó Thầy đâu có muốn đâu, nhưng mà khi Chúng về đây tập trung mỗi hạ, về đây họ đến, họ đề nghị cấp kinh phí này kia, họ bỏ tiền ra, thậm chí như cái cổng ngoài kia họ cũng bỏ tiền ra làm cổng Tam quan.
Lúc bấy giờ coi như Thầy xin phép Nhà nước rất dễ, không khó khăn nữa. Nhưng mà khi Thầy bỏ ra mua đồ đạc xây dựng thì bắt đầu họ đưa tượng về họ đặt chỗ này, chỗ kia. Thầy đang nuôi chúng mà, muốn vui lòng Phật tử, Thầy đắp cái nền đó xong rồi, cái nền chỗ đó, cho thợ hồ vô làm, Thầy thấy không đúng nhưng mà không được. Mình đã đi, Phật tử họ lôi mình đi vào con đường sai, mình bị lệ thuộc Phật tử, mình phải giữ đúng Hạnh. Ngày xưa đức Phật như thế …. Cho nên Thầy đình chỉ lại. Cái nền đó với cái tượng Phật khổ hạnh, Thầy để suốt từ năm Một ngàn chín trăm chín mươi mốt cho tới năm Một ngàn chín trăm chín bảy Thầy mới chặt tầm vông, Thầy dựng lên.
Ngói cũng còn, gạch, ngói, cây Thầy mua đủ hết, nghĩa là chỉ có dựng lên xây vách thôi, họ làm móng rất chắc mà. Nhưng mà Thầy đình chỉ liền, giật mình thấy đúng là Thầy làm nô lệ cho Phật tử. Thầy nhất định là không, không xây, thà đói thì thôi. Lúc bấy giờ coi như là họ không đến nữa thì Thầy kêu gọi Minh Tông, Chân Tâm, Tâm Như: “Mấy con giúp đỡ Thầy trong khi Chúng còn ở đây, khi đói mấy con cố gắng đem gạo về cho Chúng ăn, không nhận sự xây cất nữa…rồi Thầy mới an."
(12:21) Thầy nhờ ba ông cư sĩ này lo lắng cho đời sống thôi. Bắt đầu bây giờ Thầy củng cố lại, rồi cách đây ba năm, năm Chín mươi bảy, Thầy giảng giáo án Đường Lối Tu Hành Của đạo Phật, Thầy đập sạch xuống, không chịu sai sử của Phật tử. Phật tử này là Phật tử không bằng phụ hồ…
Sư Phước Nhẫn: Cái phần này con đọc kinh con thấy nó có nhiều cái mình cũng không có chấp Đại thừa nhiều thưa Thầy.
Bây giờ Thầy có thể hưởng được chùa to, Phật lớn, sao không được thưa Thầy? Y như trong kinh, đức Phật xưa đâu có xây chùa, xây tịnh xá đâu. Như đọc sự tích bà Visaka, bà cúng dường Phật, Phật có lo gì đâu, bà tự xây hết, tới ngày giờ bà mời Phật và chư Tăng đến bàn giao, cúng dường, cứ như bà thì không có gì hết. Bà này có ước nguyện cất chỗ còn Phật ở thôi, không có dính chấp, không bị lôi cuốn.
Trường hợp như mình có người đưa năm, ba đồng, hai đồng là bị lôi cuốn. Bởi không nhận thì người ta buồn, người ta không tới. Thí dụ như có đại thí chủ, một nhóm nào muốn xây dựng cái đó, quý vị cứ tự động làm, tôi không dính dáng tới, thì người ta tự động người ta làm…
Trưởng lão: Đó, bây giờ Thầy nói thật sự ra Thầy đã đi đúng vào quỹ đạo của đạo Phật. Bây giờ chú Tâm, Thầy đề nghị mở bệnh viện từ thiện, xây dựng Trung Tâm An Dưỡng, Thầy chẳng nhúng tay, tiền thì nó cúng dường cho Thầy là mười một tỉ để xây dựng. Thầy giao lại, Thầy nói: “Thầy không làm chuyện này. Con cất giữ, gửi ngân hàng, tiền lời này kia sau này đúng duyên xin phép rồi con làm, chừng đó làm xong rồi Thầy tiếp nhận, Thầy dẫn Chúng thôi, hoàn toàn không phải của Thầy, của Phật tử, của con”.
(14:17) Ngày xưa ông Cấp Cô Độc, của ông Cấp Cô Độc chứ không phải của ông Phật. Bao giờ nói tịnh xá Kỳ Hoàn ông Cấp Cô Độc cúng dường cho Phật là của Phật đâu. Người ta luôn luôn trong kinh nói là cái này, đất là của ông Thái Tử và tịnh xá này của ông Cấp Cô Độc chứ đâu phải là của Phật. Cho nên tịnh xá Trúc Lâm của vua Bình Sa Vương, là của Bình Sa Vương chứ đâu phải của Phật. Phật chỉ có bổn phận đến đây, mai mốt Ông đi, Ổng là du Tăng mà, đâu có dính chỗ này đâu.
Đúng như vậy, Phật tử cất chứ Thầy không cất, bây giờ muốn cất kiên cố cỡ nào mấy ông cứ cất. Thầy không có đứng đó mà Thầy nắm tiền của quý vị cúng dường để mà thấy Thầy cất, người này bỏ một ngàn, người kia bỏ một triệu… Đóng góp vô đây để Thầy làm thì không có. Con có mười một tỉ thì con làm bao nhiêu đó, còn nếu có ai đóng góp thì đóng góp cho con, chứ không cho Thầy.
Sư Phước Nhẫn: Ở đây Thầy làm cũng được thưa Thầy? Ví dụ như giao cho ai đó, muốn xây cất thì xây với ông đó, chứ tôi không có dính dáng.
Trưởng lão: Không được.
Sư Phước Nhẫn: Như vậy số Phật tử họ không thắc mắc
Trưởng lão: Bây giờ họ muốn đến đây xây cất..
Sư Phước Nhẫn: Muốn xây thì xây, giao cho ông A, ông B gì đó, tự nhiên ông xây… Tự động quý vị xây…
Trưởng lão: Thầy nói như thế này, bây giờ quý vị muốn xây chỗ nào thì xây, chỗ này Thầy đã ở rồi mà xây, tức là người ta nói Thầy xây, chứ không phải nói mấy ông xây, bởi vì Thầy ở chỗ này. Còn bây giờ Thầy không ở chỗ này thì mấy ông lại đây mấy ông xây gì cũng được hết. Rồi sau đó mấy ông mời Thầy về thì được. Chứ giờ Thầy đang ở chỗ này từ hồi nào tới giờ Thầy tu mà mấy ông xây thì không được.
Nếu bây giờ mấy ông xây, người ta vẫn nói Thầy xây. Nó làm lệch ý của Phật rồi. Cho nên ví dụ Thầy đọc ở trong kinh sách, thấy một vị Tỳ kheo mà đắp đất làm cái thất thôi mà đức Phật bảo đập, phá không có cho để. Như vậy rõ ràng là Ông Phật không chấp nhận rồi. Thầy biết là không chấp nhận. Cho nên vì vậy hiện giờ chúng ta phải tập sống đúng giới hạnh, bởi vì chúng ta là du Tăng khất sĩ, chứ không khéo người ta cất, mình mê quá rồi mình chết ở trong này.
(16:20) Ông Phật cứ nói hoài nhắc hoài, khi mình tu chứng nghĩa là chứng chứ chưa phải thành, mới chứng được Đạo thì khi có danh lợi thì phải từ giã, không có chấp nhận. Cho nên khi mà Thầy viết mấy bộ kinh rồi, Thầy định là Thầy sẽ ẩn bóng. Bởi vì người ta sẽ biết Thầy, mà biết Thầy nó sẽ xảy ra nhiều cái. Thứ nhất là có sự tranh đấu. Cái thứ hai là người ta cúng dường Thầy nhiều, người ta biết Thầy mà, người ta đến tấp nập, cho nên Thầy sẽ ẩn bóng.
Mấy Sư có duyên chứ lần lượt Thầy ẩn bóng. Nó là như vậy, bởi vì mình là đệ tử của Phật, mình là đệ tử của Giới, phải lấy đức hạnh làm đầu. Không có đón danh, đón lợi.
Sư Phước Nhẫn: Thầy ẩn cho con đi theo thưa Thầy, con học cho tới cùng.
Trưởng lão: Nỗ lực tu là theo Thầy.
Sư Phước Nhẫn: Sợ Thầy đi sớm con theo không được. Mấy hôm nay con thấy Thầy sức khỏe yếu, Thầy ho nhiều.
Trưởng lão: Ho nhiều, vì Thầy làm việc quá nhiều, Thầy định cho ra cuốn Đường Về Xứ Phật tập VIII, trong tập VIII Thầy nói cũng khá kỹ những chi tiết về phước Hữu Lậu và Vô Lậu. Như nãy giờ Thầy nói, nghĩa là con đường này nó phải đi ngã nào đúng, ngã nào sai.
Sư Phước Nhẫn: Bây giờ Thầy viết chưa hết thưa Thầy?
Trưởng lão: Coi như là Thầy soạn vi tính rồi in luôn.
Sư Phước Nhẫn: Cuốn X Thầy chưa viết thưa Thầy, hay Thầy chỉ dự định thôi?
Trưởng lão: Cuốn X đã viết sẵn, soạn thảo hết rồi.
Sư Phước Nhẫn: Giờ chỉnh lại?
Trưởng lão: Chỉnh lại, vô vi tính chỉnh lại cho nó hoàn chỉnh. Chỉnh lại chính tả, chỉnh lại văn phạm, rồi chỉnh lại câu cú của mình.
(17:59) Khi viết bản thảo thì mình phóng tâm tới đâu thì viết ra tới đó, viết thành một cuốn sách vậy. Bây giờ mới đánh vô vi tính rồi chỉnh lại trên đó, vậy chứ trời ơi Thầy ngồi gần một buổi, Thầy đi ra, chóng mặt, choáng váng, nó chóng mặt, Thầy muốn ngồi xuống chứ đâu phải làm việc…
Sư Phước Nhẫn: Thầy nghỉ bớt vài bữa đi, con thấy Thầy ho, bữa nay Thầy ho nhiều.
Trưởng lão: Coi như là, Thầy ráng cho xong cuốn này rồi nghỉ ít hôm.
Sư Phước Nhẫn: Nghỉ vài bữa Thầy lấy sức lại, Thầy đi ra ngoài..
Trưởng lão: Coi như là Thầy định đi ra ngoài Long Hải, đi ra ngoài đó thì sợ Phật tử người ta hay thì người ta đến, tập trung nữa. Ở đây nói chung nhờ cô Út cản, Phật tử đến đây cứ đòi gặp Thầy, cô không cho.
Chứ còn gặp Thầy nói còn mệt nữa. Rồi Thầy định kỳ này nếu mà Thầy nghỉ, bởi vì ra Long Hải, chỗ Thầy Thiện Thuận, nghe Thầy ra ngoài đó ở thôi, Thầy báo cho Phật tử ở Thành Phố…. Họ khao khát dữ lắm, Thầy biết họ khao khát lắm. Thành ra Thầy tính ra Long Hải là tốt nhưng mà có điều kiện là bị động, cũng không yên được.
Thầy định ra ngoài Nha Trang, hôm đó Thầy có đi Nha Trang, ra ngoài Nha Trang ít động bởi vì Phật tử ở Thành Phố không ra, nó xa. Cái nữa là ở Nha Trang ít ai biết mình vì…
Sư Tuệ Tĩnh: Thầy ở trong chùa…?
Trưởng lão: Thầy ở chùa, ở trên núi, nhìn xuống biển. Thầy định xong rồi Thầy đi nghỉ mấy bữa.
Sư Tuệ Tĩnh: Thầy đi cả tuần lễ.
(19:52) Sư Phước Nhẫn: Đang ho Thầy đừng xuống. Cái phần, Thầy định nghĩa chữ Tâm là gì? Vì bên Nam Tông định nghĩa cái gì bắt cảnh là Tâm, con nghĩ có duyên Thầy định nghĩa dùm con.
(20:06) Trưởng lão: Không sao, bên đó họ định nghĩa như thế nào?
Sư Phước Nhẫn: Cái gì bắt cảnh nghĩa là Tâm
Trưởng lão: Bất cảnh?
Sư Phước Nhẫn: Bắt, bắt cảnh
Sư Tuệ Tĩnh: Nhìn thấy cảnh
Trưởng lão: Tức là mình dính mắc trong cái cảnh đó…
Sư Phước Nhẫn: Nó là đối tượng của cảnh là Tâm.
Trưởng lão: Không phải, bởi vì ở đây chúng ta thấy nói về cái Tâm, cái danh từ để chỉ chung cho ba cái Thức của chúng ta.
Cái Thức thứ nhất là Sắc thức, nếu mà nó bắt cảnh, cảnh thì có Sắc, thinh, hương, vị, xức, pháp cảnh, chứ không phải có một cái hình sắc không, không phải có âm thanh không, không phải có hương vị không. Cho nên khi mà cái Tâm nó bắt cảnh thì đây là chỉ cái Sắc thức. Trong cái Thức thì có sáu cái thức của mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, phải không?
Phải phân biệt rõ, nói về Tưởng thức: trong giấc mộng chúng ta cũng bắt cảnh, phải không? Thì đó là cái Tâm chứ gì.
Cho nên nói cái Tâm là phải nói ba cái Thức mà cái Thức thứ nhất là Sắc thức. Trong Sắc thức có sáu thức là nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức, sáu Thức của nó.
Còn Tưởng thức thì có một: một cái cũng nghe, thấy, biết… Cũng một cái thôi vì nó không có căn, tức là sáu căn. Nó chỉ có một cái biết của nó thôi. Cho nên trong giấc mộng chúng ta cũng bắt cảnh, chúng ta cũng thấy này, kia, cũng nghe âm thanh, phai không? Đó là Tưởng, Tưởng thức.
Và Tâm thức, đây là Thức, tâm thức, còn cái này là Tâm tưởng thức, cái này là Tâm sắc thức… Cái này là Tâm thức, cái Thức này hoàn toàn chưa hoạt động. Cái Thức này là khi nào chúng ta nhập Tứ Thiền, chúng ta sử dụng nó để hướng tâm đến Tam Minh, gọi là hướng Tâm Tam Minh.
(22:03) Cho nên nói Tâm là phải nói ba cái Thức, chứ không phải Tâm là một cái được, hiểu Thầy muốn nói chưa? Bởi vì đây là Sắc - Thọ - Tưởng - Hành - Thức, mà Sắc thì có Sắc thức. Thọ thì nó hoàn toàn sử dụng trong cái Sắc thức, Tâm thức rồi. Bây giờ Tưởng thì có Tưởng thức rồi, còn lại Thức là Thức thức.
Ba cái Thức ở trong ngũ uẩn của chúng ta, Thân Ngũ Uẩn có ba nhóm Thức của nó, mà nói Tâm là chỉ cho ba cái Thức này, chứ không phải nói Tâm là chỉ có một Thức. Nói Tâm là nói cái biết, cái biết có ba chỗ biết: Sắc biết, Tưởng biết, Tâm biết tức là Thức biết. Như vậy mình mới thấy mới dễ hiểu.
Còn các nhà tâm lý học, duy thức học, họ phân chia tùm lum ra, rất nhiều nhưng làm cho chúng ta rối. Đạo Phật không phải là nhà tâm lý. Tại vì các Tổ sau này luận, như trong cuốn nói về tâm lý học của kinh sách Nguyên Thủy có bộ Thắng Pháp Yếu Lược.
Sư Tuệ Tĩnh: Trong đạo Phật có bộ Vi Diệu Pháp không Thầy?
Sư Phước Nhẫn: Duy Thức Học, còn cái này là Vi Diệu Pháp.
Trưởng lão: Duy Thức Học… Vi Diệu Pháp.
Sư Tuệ Tĩnh: Cái đó có phải do Phật nói ra…?
Trưởng lão: Tâm lý học… Không, các Tổ luận. Kinh là của Phật, còn Duy Thức này kia là của các Tổ luận ra, chế ra, phân tích cái Tâm tan nát ra, nhiều dạng…
(23:57) Còn Phật chia thân thành ngũ uẩn: Sắc - Thọ - Tưởng - Hành - Thức, cái này rõ ràng.
Sắc thì có Sắc thức, cái thân của mình có sáu thức. Tưởng thức là sự biết của giấc mộng. Tâm thức là hoàn toàn những người tu chứng, người ta mới đánh thức cái này dậy, cái thức này hoàn toàn nó chưa hoạt động. Cho nên nói Tâm là chỉ chung cho ba cái Thức.
Đó là đối với kinh nghiệm tu hành của Thầy, Thầy thấy như vậy. Trong Kinh không có giảng về cái này, nhưng Thầy thấy như vậy. Nó rõ ràng và cụ thể hợp với lý của Phật pháp. Bởi vì hợp với lý của Phật pháp là đứng ở trong ngũ uẩn này mà phân ra, thấy ba cái Thức. Ba Thức này hoạt động, tu hành mới biết dừng Thức nào để đánh Thức được thức nào.
Ý thức chúng ta đầu tiên, chúng ta sử dụng nó để rồi sau đó chúng ta mới điều khiển cho Tưởng thức dừng. Cái Ý thức này nó phải điều khiển cho Tưởng thức dừng. Còn nếu Ý thức mà dừng trước thì cái Tưởng thức hoạt động, là chúng ta đi lạc đường.
Như bây giờ chúng ta ngồi, đừng cho niệm khởi thì ý thức dừng, ý thức dừng thì tưởng thức hoạt động. Nó hoạt động thì chúng ta không điều khiển được nó. Bởi nó hoạt động thì thành thế giới siêu hình, cho nên Tâm thức không hoạt động được, cái Thức thức không hoạt động được.
Vì vậy, Ý thức chúng ta sử dụng nó, luyện tập cho nó trở thành cái lực, cái lực đó có đủ rồi chúng ta mới tịnh chỉ được cái Tưởng thức.
Ngưng Tưởng thức rồi, chúng ta ra lệnh cho Ý thức ngưng, Ý thức ngưng thì hơi thở hoàn toàn tịnh chỉ, bởi vì tịnh chỉ hơi thở thì Ý thức ngưng hoàn toàn. Tưởng thức ngưng nhưng Ý thức chúng ta còn phải sử dụng nó. Khi hai cái này ngưng thì Tâm thức mới hoạt động. Tâm thức hoạt động thì lúc bấy giờ chúng ta mới hướng tâm đến Tam Minh.
Sư Phước Nhẫn: Cái này trợ giúp cái kia.
Trưởng lão: Trợ giúp cái kia. Nhưng cái Tưởng là rất lo, cái thế giới siêu hình là rất lo. Do đó chúng ta phải dùng cái Ý thức cụ thể để phá cái bóng dáng của Ý thức của chúng ta.
(26:03) Bởi vì cái nhà của mình, nằm mộng thì mình cũng thấy cái nhà, cái nhà trong mộng là bóng dáng của cái nhà thật, chứ nó không phải thật có, chỉ là bóng dáng của nó. Nó cũng như cuộn băng video, nó phóng hình của cái nhà, khi nó thu hình cái nhà rồi nó phóng ra, cái hình hiện ra từ băng video không phải là cái nhà thật.
Ý thức của chúng ta nhìn thấy cái nhà là thật, cho nên chúng ta lấy Ý thức để phá cái bóng dáng này, phá cho sạch cái bóng này. Cái bóng này dừng được rồi thì bắt đầu chúng ta sử dụng Ý thức để dừng Ý thức luôn.
Con đường tu tập phải đúng cách như vậy mới đạt được, phải hiểu rõ được như vậy, chúng ta nắm được ba cái thức của chúng ta rõ ràng. Ba cái Thức này gọi là Tâm thức, chứ không phải Tâm đối cảnh bởi vì thức nào cũng có đối cảnh, cũng có cảnh của nó.
Sư Phước Nhẫn: Cái phần…. Phần đi kinh hành, thí dụ khi niệm ác đến thì dùng Định Vô Lậu, xin Thầy giảng rõ ràng cách dùng Định Vô Lậu như thế nào?
Trưởng lão: Cách dùng Định Vô Lậu, khi mà mình đang đi kinh hành, có một niệm khởi, phải không? Mình đem cái niệm khởi đó, mình mổ xẻ liền, đừng để cho nó dẫn mình, nó dẫn mình tức là phóng dật, phải không?
Sư Phước Nhẫn: Dùng cái phương thức nào?
Trưởng lão: Bây giờ mình đem cái niệm đó, mình vừa đi, lấy cái trạng thái đi tỉnh thức đó để mổ xẻ, nó mới quán sát sâu trong cái niệm đó. Thứ nhất mình dựng nó lên, mình hỏi cái niệm này thuộc Dục lậu, Hữu lậu, Vô Minh lậu, nó thuộc vào lậu nào, phải không?
(27:55) Bây giờ mình thấy nó ở trong Dục lậu, dục lậu tức là lòng ham muốn của mình. Hữu lậu là cái có, bây giờ mình nhớ cái nhà của mình, nhớ những người có thì đó là Hữu lậu. Vô Minh lậu là cái mình không hiểu, bây giờ nó khởi lên một câu Pháp nào đó mà mình không hiểu để mình truy tìm, đây là Vô Minh lậu.
Tại mình không hiểu, nó khởi lên cái niệm này hoặc là nó khởi lên cái niệm này mình thấy cái nghĩa lý hay quá, coi chừng nó Vô Minh, mình gặp nó, đây chỗ này là tìm hiểu, sự tìm hiểu tức là Minh hay Vô Minh.
Sư Phước Nhẫn:…
Trưởng lão: Do đó mình quán xét cái này, mình tư duy cái này, mình mới thấy, cái này là đúng thiện hay là ác. Bây giờ mình mới, nếu mà cái này ở trong Vô Minh thì mình đem Nhân Quả mình quán xét cái niệm này, nó thuộc về Nhân Quả nào, nó ác thì nó là Vô Minh, nó thiện thì nó là Minh.
Bởi vì nó thiện thì nó đưa mình đến con đường giải thoát, là nó Minh. Còn nó ác là Vô Minh, nó ác thì "Dẹp, mày là Vô Minh, đi đi", như vậy là mình Minh mình mới biết nó ác, mà Minh mình mới biết nó thiện, phải không?
Như vậy rõ ràng là hễ khi mình quán xét Nhân Quả, mình biết ác hay thiện thì đó là Minh rồi.
Nghĩ về vật đã có, cái có sẵn, mà mình lại nhớ lại nó, mình có cuốn sách, hoặc mình có tủ Kinh sách, ngồi đây bỗng dưng nhớ tủ Kinh sách, không biết ở chùa mấy Thầy chăm sóc dùm hay mối ăn hết. Như vậy là trật, như vậy cái này là Hữu lậu, vật có nó làm cho mình còn Lậu hoặc, còn lo lắng cho nó đây, xả bỏ, bỏ sạch, nhất định là không chấp nhận Hữu lậu. Như vậy là khi mình lý luận, mình không chấp nhận, vì mình còn sống thì mình giữ gìn nó, mình chết thì cái tủ sách này ai giữ cho hoặc là lửa cháy, nước trôi ai mà cõng vác nó đây. Không chấp nhận, bây giờ tôi chỉ có giải thoát chứ không có chấp nhận tủ Kinh sách này. Do cái lý luận này thì cái Hữu lậu của mình bị phá, lậu hoặc không còn có nữa.
(30:00) Bây giờ cái Dục lậu, dục lậu là khởi tâm muốn cái này kia, chưa có mà muốn là Dục lậu. Khi mà mình thấy có lòng ham muốn là trật rồi, hễ có còn ham muôn cái gì thì không được.
Do đó ở chỗ Vô Minh thì đem Nhân Quả, những chỗ Hữu lậu thì đem vô thường, khổ… Tất cả các pháp là vô thường nên phải khổ thôi, vì vậy có của thì có khổ. Cho nên nó là Hữu lậu nên mình thấy nó là vô thường. Còn Dục lậu thì mình thấy tâm dục là nguyên nhân đau khổ của con người. Do mình quán xét, mình thấy như vậy thì coi như mình không khổ, tâm mình thanh thản, hiểu không?
Phải lấy ba cái lậu: Dục lậu, Hữu lậu, Vô Minh lậu này mình mới dựng lên, tìm cái niệm đó nằm ở chỗ nào? Từ đó chỗ nào là Nhân Quả, cái nào là các pháp vô thường, cái nào là nguyên nhân sinh ra đau khổ. Thấu suốt được ba cái lý này thì không khổ, vô thường-khổ-không-vô ngã mà.
Tùy theo bài học mà mình quán sát, dựa theo cái lý mà Phật đã dạy mình quán sát. Rồi mình dựa theo lý Nhân Duyên nữa, coi xem Dục lậu, Hữu lậu, Vô Minh lậu này nằm ở duyên nào. Bởi Thập Nhị Nhân Duyên mà, mình quán lý Nhân Duyên để phá nó. Như vậy là mình tu Định Vô Lậu. Đừng có mà khi nó hiện đến mình cứ lo đuổi nó đi. Không, mình đem nó mổ xẻ, tu Định Vô Lậu liền.
Sư Tuệ Tĩnh: Như vậy nó mới hết
Trưởng lão: Nó mới hết, bởi vì mình thấu triệt và cứ như vậy khi niệm khởi lên, chìm xuống, khởi lên, mình cứ thấy như vậy, thấy riết, nó thấm nhuần những quán xét đó. Vừa khởi là mình đã hiểu nó rồi, nó đi mất.
Sư Phước Nhẫn:… Tránh… Đời tu
(31:56) Trưởng lão: Đời tu, nó diệt ác pháp. Bởi vì ngăn ác là mình giữ mình đi không có khỏi niệm, là ngăn ác rồi đó.
Nó vừa khởi niệm thì ngay đó mình quán xét mình diệt ác, ngăn ác-diệt ác mà. Hễ ngăn ác-diệt ác được thì tức là sanh thiện-tăng trưởng thiện, là giải thoát. Đó là mình đi trên lộ trình thiện, không đi trên lộ trình ác. Thấy Pháp của Phật chưa?
Sư Phước Nhẫn: Cái phần đi kinh hành thưa Thầy, ví dụ như hồi đó khác, bây giờ khác, theo Thầy thì mình đi kinh hành mình niệm "Phải bước, trái bước" hay là để niệm thanh tịnh mình đi?
Trưởng lão: Để niệm thanh tịnh đi.
Sư Phước Nhẫn: Khi đó mình hướng tâm luôn
Trưởng lão: Mình hướng tâm, mà nó khởi niệm thì mình dùng Định Vô Lậu mình quán xét.
Sư Phước Nhẫn: Trước đây thường thường con đi, con niệm "Phải bước, trái bước” để mình gom cái tâm mình vô, sau đó con nghe thầy Quang nói, con mới hiểu ý, mình không có xài Tỉnh Thức mà xài cái niệm Thanh Tịnh hơn là cái niệm Tỉnh Thức.
Trưởng lão: Xài niệm Thanh Tịnh là đúng rồi.
Sư Tuệ Tĩnh: Theo hơi thở hả Thầy?
Trưởng lão: Không, mình theo bước đi hoặc hơi thở, của trạng thái tâm im lặng, thanh tịnh. Tức là không nghĩ gì hết, đi thanh thản tự nhiên.
Sư Phước Nhẫn: Cái đó cũng dụng công há Thầy?
Trưởng lão: Có chứ, không dụng công nó không thanh tịnh đâu. Cái tâm mình nó không thanh tịnh.
Sư Phước Nhẫn: Cái này cũng như hồi đó con học Thiền Zen của Nhật Bản, để tâm Không tương tự như niệm Thanh Tịnh của mình, lúc thư giãn con ngồi, niệm Thanh Tịnh nó không được lâu. Thầy chỉ con cách làm sao nó được lâu?
Trưởng lão: Nó lâu… Mình cứ đi như vậy rồi mình quán Vô lậu như vậy đó thì nó sẽ kéo dài cái niệm thanh tịnh ra. Hễ nó xả cái này được bao nhiêu thì cái này nó thanh tịnh được bấy nhiêu. Tự nhiên lắm, ngồi suốt ngày mà thấy nó thanh tịnh, yên lặng, đó là nó Thanh Tịnh Tâm rồi.
(33:55) Cho nên cái niệm Thanh Tịnh này cần phải tu tập chứ đừng có tập trung vào cái đối tượng nào hết, nó sẽ mất tự nhiên, để cho nó tự nhiên thanh tịnh.
Mà mình cũng đừng có sợ cái niệm, niệm đến thì mình diệt nó, mình có pháp mà. Cho nên Phật nói "Tùy Pháp, theo Pháp". Tùy có nghĩa là theo pháp, ví dụ như niệm nó đến thì mình theo pháp để mình diệt nó. Chứ đừng có theo niệm mà theo pháp, cái pháp mình có, ví dụ như Định Vô Lậu là pháp Vô lậu rồi. Niệm có lậu thì mình theo pháp diệt cái niệm có lậu.
Sư Phước Nhẫn: Do cái duyên Định Vô Lậu mà thời gian thanh tịnh nó kéo dài.
Trưởng lão: Kéo dài. Chứ đừng kéo dài thời gian thanh tịnh, kéo dài thời gian thanh tịnh tức là ức chế.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra con thấy cái đó phải dụng công mới được, chứ không dụng công nó không kéo dài được.
Trưởng lão: Đúng vậy đó, hễ có dụng công là có bị ức chế.
Sư Phước Nhẫn: Ngày xưa con cũng có tập ở Phước Sơn bốn ngày, chính từ chỗ đó con mới xuất gia, con về con thấy thanh thản lạ lắm. Con thấy con như cái cây, giống nhau không có khác, không dám bẻ nhánh nó, sợ nó đau.
Sư Cô Kim nói là: "Chúng sanh vạn vật đồng nhất thể" nhưng khác tướng, nó có đời sống, mình cũng có đời sống, thấy mình với nó giống bàng bạc như nhau, khác chăng mình là người, con đâu có biết.
Trưởng lão: Không, cái tâm của mình nó thanh tịnh rồi thì mọi vật cũng thanh tịnh như mình. Thường thường thì họ tưởng ra, họ tưởng là bản thể của mình phủ trùm vạn hữu, chứ sự thật cái trạng thái thanh tịnh, không những tâm mình thanh tịnh, mà cỏ cây cũng thanh tịnh. Cho nên mình thấy cỏ cây như mình, mình như cỏ cây.
Sư Phước Nhẫn: Báo sự tỉnh táo (??)
Trưởng lão: Sự thật tâm thanh tịnh, mình đừng ức chế nó phải sống ở trong đó là sai rồi. Nó thanh tịnh như vậy, biết rồi nhưng đừng bắt buộc. Cho nên mình không bắt buộc, mình để cho có niệm nào mà nó làm mất thanh tịnh thì mình xả cái niệm đó. Xả hết những niệm đó thì Thanh Tịnh nó kéo dài.
Sư Phước Nhẫn: Tự động nó thanh tịnh, mình không có kéo dài, nó kéo dài hoài tự nhiên nó vậy.
(36:04) Trưởng lão: Tự động nó kéo dài, cứ lo xả cái niệm này thì nó tự động kéo dài. Nếu muốn kéo dài cái này ra là bị ức chế, ức chế là mất thanh tịnh. Sai một chút là nó trật.
Sư Phước Nhẫn: Phần đầu ức chế tâm, sau một thời gian tự nhiên nó lọt vô cái đó, ai cũng nói chỗ này khác lạ mọi ngày, không có giống. Con cũng thấy lạ, từ chỗ ức chế nó thành ra trạng thái này.
Chứ không phải như mình xả, dùng Định Vô Lậu kéo dài trạng thái thanh tịnh.
Ngày xưa học Thiền Zen thì để tâm Không, chữ "để" là dụng công rồi, là đâu còn Không nữa đâu. Mình "để" Không thì đừng xài chữ "để", đã xài chữ "để" là động từ, động từ là có động rồi…
Trưởng lão: Là bắt buộc rồi.
Sư Phước Nhẫn: Nên con mới hỏi Thầy cách kéo dài cái…
Trưởng lão: Đó, cách kéo dài là để tự nhiên, Niệm đến thì mình xả nó thì nó kéo dài. Đừng mong nó dài, mong cầu là nó không có dài đâu. Mà hễ mong cầu, muốn cho nó dài là ức chế. Có muốn trong đó thì bị ức chế, có muốn trong đó là không được, cho nên mình không có muốn. Mà mình chỉ cần có niệm nào đến là mình xả thôi.
Sư Phước Nhẫn: Có bữa con ngồi như Thầy chỉ, không làm gì hết, ngồi làm biếng, ngồi thoải mái lắm. Có bữa sao ngồi không được, tạp niệm vô ào ào, đủ chuyện hết.
Đứng dậy đi kinh hành cũng không được, sao kỳ vậy. Đi năm bước, mười bước, dừng lại hít thở, để tâm Không thì nó yên, không có gì hết. Đi năm, mười bước rồi đứng lại thì được. Hễ đi miết hai, ba chục bước thì tạp niệm nhảy vô.
Trưởng lão: Tạp niệm vô.
(37:50) Sư Phước Nhẫn: Rồi con đi năm bước, ngừng, "Mặt bước, trái bước", ngừng, rồi nhìn trời nhìn đất… Thì tạp niệm nhảy vô nữa. Con không biết trạng thái đó trật hay trúng như thế nào?
Trưởng lão: Cái đó coi như là mình chỉ ở trong góc độ Tỉnh Thức thôi, cho nên sự Tỉnh Thức của mình bị ức chế nhiều quá. Cho nên tạp niệm có lúc thì nó yên, có lúc nó bung ra, ào ào nó vô dữ lắm.
Còn mình để tự nhiên đi, mình đi thì mình nhắc, ở đây thầy nói: “Làm sao cho cái tâm mình thanh thản”. Bây giờ mình "làm sao" là có ức chế rồi, mình thanh thản chút nào hay chút ấy, Niệm nào đến thì mình cứ xả ly, rồi thanh thản nó sẽ dài ra.
Sư Phước Nhẫn: Vậy là mình không ức chế Tỉnh Thức.
Trưởng lão: Không ức chế Tỉnh Thức
Sư Phước Nhẫn: Ở Phước Sơn toàn ức chế Tỉnh Thức không. Bắt buộc ăn, nhai cũng phải biết, quét cũng phải biết…
Sư Tuệ Tĩnh: Nhai trong cái ý biết, nuốt biết
Sư Phước Nhẫn: Nuốt biết biết, gắp biết, tỉnh thức từ từng chút. Vì quan niệm trọng bài kinh Tứ Niệm Xứ thưa Thầy, "Trong vòng bảy ngày bảy đêm vị đó không có khởi ý thì chứng quả A La Hán". Thì cũng y như vậy làm sao trong bảy ngày bảy đêm không có, nên tập suốt ngày, suốt ngày, suốt ngày..
Trưởng lão: Ức chế rồi, ông nào tới đó cũng trật.
Chỉ có mình tự nhiên mình sống, từng chút xả tâm, ngăn ác diệt ác thôi, xả riết rồi cái này nó tỉnh suốt bảy ngày đêm. Không những bảy ngày đêm đâu, nó thức luôn như vậy.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra họ nói chỉ có Thiền Quán mình mới có thể hoàn thành cái loại Định này được. Thì tối con có nghĩ mình quán sao được, hễ quán là động rồi. Niệm tới quán, Niệm tới quán… Mình muốn không có niệm tới trong vòng bảy ngày, bảy đêm thì mới có sức Định, mình mới ngăn nó được. Mà trong cái đầu mình không thể nào ngăn nó được, chỉ có là làm cho nó chết queo như Thầy nói mà Tỉnh Thức là tịnh chỉ hơi thở đó, như vậy là chỉ có phương pháp đó là không có khởi ý thôi.
Chứ nếu mà còn giây phút nào mà còn thở, còn đi hay là còn ngủ tức nhiên là nó vẫn còn khởi ý. Thì cái trạng thái mình tu tập Tỉnh Thức dù cho nó cao độ, nhuần nhuyễn đi, nó cũng không thể nào mà không khởi ý trong vòng bảy ngày được.
(40:10) Trưởng lão: Không khởi ý bảy ngày không được đâu.
Sư Phước Nhẫn: Có những người qua bên đó học tập nói ông Thiền sư này nói dễ quá, bảy ngày không có ý gì thì cũng được. Rồi họ ngồi ba, bốn ngày họ trình pháp, ổng dặn trước là khởi ý thì bỏ, khởi ý thì ngày đó không tính.
Sư Tuệ Tĩnh: Bỏ hết luôn…
Trưởng lão: Bỏ hết luôn, độc cư là càng nói chuyện. Không chịu nổi
Sư Phước Nhẫn: Cũng như sư Hộ Niệm, Sư nhảy vô thất con ngồi nói chuyện, kể như sáng nay con tiêu hết rồi, không có dễ. Tại Sư vô thì chơi thôi chứ.. Thành ra con thấy chỉ có tịnh chỉ hơi thở mới không thể khởi niệm được.
Trưởng lão: Đúng rồi, hễ tịnh chỉ hơi thở thì không có niệm
Sư Phước Nhẫn: Cho nên họ nói theo bài kinh này "đây là con đường duy nhất để giải thoát" được. Trong kinh nói làm sao thì họ làm y như vậy nhưng cái phương pháp con thấy như vậy không được.
Trưởng lão: Phương pháp thì không đúng.
Sư Phước Nhẫn: Còn cái câu "Tịnh chỉ hơi thở" thì trong Kinh không có nói. Mà "Xả niệm thanh tịnh" cũng như “tịnh chỉ hơi thở” thành ra họ đâu có hiểu, họ tưởng "Xả niệm thanh tịnh" là làm sao chứ đâu có phải "Tịnh chỉ hơi thở". Ngày xưa Phật nói tịnh chỉ hơi thở đi thì người ta hiểu, Phật không nói…
Trưởng lão: Thật sự ra cái danh từ đó, trong các bài kinh Tương Ưng đức Phật nói: “Có bốn pháp, có ba pháp, hai pháp, một pháp”, đức Phật có nói "Tịnh chỉ hơi thở” bởi vì đức Phật phân cho chúng ta thấy có ba cái Hành trong thân: Khẩu hành, Thân hành, Ý hành.
Khẩu hành là Tầm Tứ, Thân hành là hơi thở, Ý hành là cái Ý của chúng ta. (41:52) Cho nên ba cái Hành này mà người nhập Tứ Thiền thì tịnh chỉ hơi thở. Đức Phật nói tịnh chỉ chứ không phải đình chỉ nhe.
Hơi thở thanh tịnh, nó ngưng gọi là tịnh chỉ. Còn hơi thở chưa thanh tịnh thì chưa ngưng.
Trong Kinh thường thường đức Phật nói nhập Tứ Thiền thì "Xả Hỷ, xả Lạc, xả Khổ, xả Niệm Thanh Tịnh".
Sư Phước Nhẫn: Chứ không nói tịnh chỉ…
Trưởng lão: Chứ không nói tịnh chỉ hơi thở. Nhưng trong các bài kinh nói “Hai pháp, ba pháp, năm pháp…" Đức Phật xác định là nhập Tứ Thiền thì tịnh chỉ hơi thở. Cái đó đặc biệt được nói riêng ra, có ba Hành: Thân hành, Khẩu hành, Ý hành. Người nhập Tứ Thiền thì Thân hành tịnh chỉ, nhập Tứ Thiền thì Thân hành tịnh chỉ.
Còn ví dụ như đức Phật nói nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền thì Sơ Thiền phải ly dục ly ác pháp, Nhị Thiền thì Tầm Tứ tịnh chỉ. Tầm Tứ diệt chứ không nói tịnh chỉ nữa. Sau này trong các bài kinh nói Tầm Tứ tịnh chỉ.
Trong bài kinh thường thường Phật nó nhập Sơ Thiền thì ly dục ly ác pháp, nhập Nhị Thiền thì Tầm Tứ diệt, nhập Tam Thiền thì ly Hỷ, nhập Tứ Thiền thì xả hỷ, xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh. Thường thường cái này rất nhiều. Nhưng sau cùng thì đức Phật xác định nhập Tứ Thiền thì tịnh chỉ hơi thở.
Sư Tuệ Tĩnh: Trong kinh Tương Ưng.
Trưởng lão: Tương Ưng, nói trong kinh Tương Ưng.
Sư Phước Nhẫn: Trong cuốn thứ ba.
Trưởng lão: Những bài kinh Phật nói có ba pháp, hai pháp, năm pháp… Mà Thầy ghi để sau này Thầy trích ra cho bộ sách Những lời Phật Dạy. Nó ngắn gọn, xác định được những chỗ mà đức Phật đã nói về Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền.
Sư Phước Nhẫn: Trong lúc con đọc bộ kinh như Thầy chỉ, đọc riết con thấy chán, suy nghĩ thấy trong này đức Phật chỉ dạy thiện với ác thôi chứ có gì đâu. (43:58) Bên ngoài người ta dạy tùm lum, tà la hết trơn hết trọi, sáu cửa vào động tứ thất, thiền này thiền kia. Trong Kinh đức Phật chỉ nói gọn thiện ác không à, bài nào cũng có cái ý đó không à. Chỉ có lời văn nó khác.
Trưởng lão: Lời khác, ý trong kinh chỉ có nói thiện với ác.
Sư Phước Nhẫn: Đọc hoài, bộ Tương Ưng có năm quyển, đọc riết rồi có bữa con lựa đề mục đọc, chứ đọc nguyên cuốn nó dài quá đi, con lựa đề mục đọc mà nguyên một dọc chỉ có thiện với ác không à chứ không có gì. Lúc đầu nghe ông Sư kia nói là Tam Tạng Kinh Điển rốt cuộc chỉ có bốn câu Chư ác mạc tác, vậy thôi có gì đâu, con cũng không biết vì sao…
Trưởng lão: Đọc đi đọc lại chỉ có bấy nhiêu thôi.
Sư Phước Nhẫn: Rốt cuộc đọc cái nào cũng chỉ thiện ác, thiện ác không. Con kiếm cái đề mục đọc chứ thời giờ đâu mà cho đọc hết. Bây giờ không đọc hết thấy cũng hơi tiếc.
Trưởng lão: Nói chung là sau khi đọc hết toàn bộ kinh rồi mới nắm được… Thầy đọc hết bộ Kinh rồi mới xác định được. Nếu đọc sơ sơ mình thấy, ví dụ như nhập Tứ Thiền thì "Xả Hỷ, xả Lạc, xả Khổ, xả Niệm Thanh Tịnh" , không biết xả làm sao?
Mà đọc Tam Thiền thì "Ly Hỷ trú Xả", nhưng không biết cách nào?
Đọc cho hết rồi mới thấy biết là phải tịnh chỉ, tịnh chỉ bằng cách nào nữa. Tịnh chỉ chứ khi không làm sao mình nín hơi thở được? Cho nên phải bằng cách nào nữa? Đọc hết rồi mới nghiên cứu được, thấy Pháp Như Lý Tác Ý mới tịnh chỉ được.
Quá trời! Tìm ra được mấu chốt cũng là gian khổ. Vì cả bộ Kinh của người ta có bốn bộ, thấy ớn.
Ông Phật ông chơi khó, cứ văn nói ông lặp đi, lặp lại nghe chán gần chết.
Sư Tuệ Tĩnh: Ba lần.
Trưởng lão: Bởi vậy, đọc Kinh thấy nó chán gần chết.
Đọc Kinh Đại thừa thấy thích, làm như bộ tiểu thuyết…
Sư Phước Nhẫn: Như Đường Xưa Mây Trắng hấp dẫn lắm.
Trưởng lão: Hấp dẫn. Còn đọc cái này, trời ơi, không hấp dẫn chút nào hết. Nhưng mà mình quá cay đắng trong cuộc đời tu nên bắt buộc phải tư duy tất cả lời Phật nói, truy tìm ra mấu chốt…
Sư Tuệ Tĩnh: Truy tìm không ra mới quay lại đó…
Sư Phước Nhẫn: Ví dụ con đọc bài kinh có một câu hay, cũng như nghe cuộn băng có một câu hay, nó kích thích con dữ lắm. Như cái vụ Niệm Thanh Tịnh, con quen "Mặt bước, trái bước" rồi. Sau khi nghe cuộn băng Thầy giảng, cái mấu chốt ở chỗ này, hèn chi hỏi Thầy Thầy không có đả động tới. Thầy cứ nói ngoặt qua bên đây, Thầy kêu cũng đừng có làm vậy. Thay vì Thầy nói thôi đừng có làm vậy đi, Thầy cứ nói mé hoài. Con đọc con thấy vậy là phải rồi cho nên con muốn hỏi Thầy, đối với con khi đọc sách nhiều khi nó kích thích con dữ lắm, nghe băng cũng kích thích dữ lắm.
Trong lúc này Thầy không cho nghe, cho đọc, nhiều khi nó thiếu sự kích thích, thành ra con thấy cái đường tu nhiều lúc nó cũng…
Trưởng lão: Không… Thầy biết cái giai đoạn đầu mình cũng dành ra để mình tham cứu để coi cái đặc tướng của mình như thế nào để mình hiểu, cái nào không hiểu mình tìm hiểu, để làm cái niềm tin của mình cho vững. Sau khi mình đã thông suốt hết rồi, pháp nào pháp nào vững vàng rồi, bây giờ bắt đầu bỏ hết, không nghe nữa, độc cư trọn vẹn.
Bắt đầu bây giờ đến giai đoạn … Còn từ lâu tới giờ coi như là đều là tham cứu hết. (48:59)
HẾT BĂNG.
VẤN ĐẠO 20
THẾ GIỚI QUAN VÀ NHÂN SINH QUAN CỦA ĐẠO PHẬT
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Thời gian: 2002
Thời lượng: [44:47]
Tên cũ: 11A-TheGioiQuanNhanSinhQuanDaoPhat
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-20-the-gioi-quan-va-nhan-sinh-quan-cua-dao-phat.mp3
Sư Tuệ Tĩnh: Về phần con đọc sách kinh dạy về Sa Môn Quả đó. Con xin có một hai vài thắc mắc…
Sau khi mình hành giới mình thấy Thân với Thức đó, cái Thức mình dính vô cái Thân. Con nghĩ ví dụ mai mốt cái thức mình nó diệt, tức là mình có Niết Bàn không? Tức là Thức diệt là Niết Bàn. Con không biết trạng thái đó sao, nhiều người giải nhiều quá! Con thấy chỗ Thức này diệt thì Niết bàn, mà Thức còn là con tái sanh.
(00:41) Trưởng lão: Còn tái sanh, vì cái Thức mà nó có là cái nghiệp. Phải không? Cho nên khi mà mình chết rồi thì cái Thức nó diệt luôn. Còn mình tu thì cái Thức nó diệt, cái Niết Bàn nó có. Thì cái trạng thái Niết Bàn, cái trạng thái nó không đoạn diệt, nó vô lậu đó, cái trạng thái đó nó còn. Cái Thức không còn.
Nhưng mà mình sống đây thì nó có ngũ uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Cho nên cái Thức này đó, nó là ngũ duyên, năm cái duyên này nó hợp lại nó thành con người của mình. Mà khi năm cái duyên này nó rã ra thì nó không còn cái thứ gì. Cái Thức nó cũng mất luôn.
Sư Tuệ Tĩnh: Thức cũng mất luôn, còn người tu mình nó còn.
(01:21) Trưởng lão: Người tu nhờ mình có sức định con, cái sức làm chủ của mình, cái lực làm chủ của mình nó còn. Cho nên cái này nó còn, vì nó là trạng thái, hiện bây giờ mình nhận ra được cái trạng thái đó, là lúc mình chết tất cả này mất cái trạng thái đó còn. Trạng thái khi mình còn cái Thức thì mình thấy nó đó, nhưng mà cái Thức mất thì cái đó nó cũng còn, nhưng mà vì nó không có cái thức để nhận. Cho nên mình vĩnh viễn mình vào Niết Bàn. Cái chỗ này gọi là Diệt đế đó, Diệt đế là Niết Bàn. Diệt cái tâm ham muốn, cái nguyên nhân sinh tử, diệt hết rồi! Thì cái Thức này nó hoại diệt luôn nhưng cái trạng thái của Niết Bàn. Mình tìm về cái trạng thái đó.
Bây giờ nó có cái Thức, là có trạng thái đó cho nên cái Thức mình nó thấy được cái trạng thái đó. Khi mà cái Thức diệt thì cái trạng thái nó sẽ không còn.
Còn mình mà không tu thì mình không nhận ra được cái trạng thái đó. Mà cái Thức mất thì mình cũng mất luôn vì mình không biết.
Cho nên mình tu mà đúng rồi thì mình sống mình biết chỗ mình về. Mình chết đi mình bỏ cái này thì mình về đó. Còn mình không tu thì mình không biết, nó đi đâu không biết, nó chết đâu mất tiêu không biết. Nhưng mà thật sự ra thì cái lòng ham muốn của mình, nguyên nhân mà sinh tử, cái nghiệp lực đó nó tiếp tục tái sanh trong nhân quả.
(02:39) Sư Tuệ Tĩnh: Vậy là mấy thức nó liên quan đến cái Thức đó là nó tiêu hết luôn?
Trưởng lão: Nó tiêu hết luôn! Nói chung là tại vì người ta chẻ ra, người ta chẻ cái tâm ra nó nhiều cái loại Thức, chứ sự thật ra nó có một cái Thức. Cũng như nội trong Thân Ngũ Uẩn của mình thì mình thấy cái sắc thức của mình đầu tiên, thì người ta chẻ cái Sắc thức đó ra nó làm 6 cái: Mắt, tai, mũi miệng, thân, ý, thức, 6 cái thức rồi. Rồi cái Tưởng thức của mình, là mình mộng chiêm bao đó, đó là một cái Thức nó rồi. Còn cái Thức uẩn thì nó nằm im đó nó chưa hoạt động. Nhưng mà sự thực cái Thức uẩn nó đang hoạt động ở Ý thức, đối với thân của mình, Sắc thân và Tưởng thức. Nhưng mà tại vì nó làm việc ở trong cái thân, cho nên nó hoạt động ở cái văn phòng đó, nó là như vậy. Khi mà mình ngủ thì nó hoạt động ở trong cái văn phòng của cái Tưởng, mình thấy là Tưởng thức, chứ sự thật nó có một.
Các nhà tâm lý họ chia chẻ cái Thức này ra nó quá nhiều! tâm Vương, tâm Sở đủ thứ. Thành ra nó thuộc về Duy Thức, về tâm lý học. Nó là cái làm cho mình rối ren sau này, chứ sự thật chỉ có mình nó hà. Chia ra cái này, cái kia để làm rối mình thêm. Coi như mình làm hay, nhưng sự thật cái hay nó lại nguy hiểm!
(03:53) Sư Tuệ Tĩnh: Ba cái phần Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới có phải nó tương ưng với cái thân, tâm, ý với tưởng không?
Trưởng lão: Đúng đó!
Sư Tuệ Tĩnh: Hồi đó con không biết, con nói phải chi… mình nhớ nó là cái đó đó.
Trưởng lão: Nó đó! Chứ không ai vô đây.
Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới nó đó, chứ không phải là có cái cõi. Thành ra hiểu được đức Phật nói rất cụ thể và xác thực. Khi nói một cái điều gì không có trừu tượng, tại vì mình không nhận ra, nghĩ tưởng quá xa, thành ra nó mới có cõi.
Sư Tuệ Tĩnh: Mấy cái thế giới siêu hình đó lúc trước con cũng thắc mắc hoài, giờ con mới đọc cái này con mới hỏi Thầy coi có cõi hay là không có cõi siêu hình?
Trưởng lão: Bởi vì nói về Phật thì cái gì nó rất cụ thể, rất khoa học! Cho nên ông Phật ổng đâu có khoa học, nhưng ổng nói rất cụ thể, không nói cái trừu tượng. Còn mình, tại vì mình tưởng, mình trừu tượng ra nhiều cái cõi như vậy. Đức Phật nói Dục Giới, nó ở đâu? Mình đây chứ gì, nếu mà không có dục làm sao? Sắc Giới không phải là mình sao? Vô Sắc Giới không phải mình sao? Ngồi đó mà tưởng không phải là Vô Sắc?
Bởi vậy, thiệt! Đọc mà không hiểu thì nó tưởng ra cái nó thành lệch cái đường của đạo Phật.
Sư Phước Nhẫn: Từ đó tới giờ, mấy ngàn năm rồi, người ta nói vậy thì bà con mình cứ nghe theo.
Trưởng lão: Cứ nghe theo. Bởi vậy, cái người tu mà không có chứng đạo thì không thấy được. Mà bốn thiền đó như vậy mà không thực hiện được, không thấy được, cho nên tưởng ra.
(05:24) Sư Tuệ Tĩnh: Về cái cách hành văn ở trong cuốn kinh, nó dễ làm cho mình lầm lắm! Như cái khúc này hay đọc, con cũng không biết suy nghĩ làm sao: "Vị Tỳ kheo với thiên nhĩ thanh tịnh, có thể nghe được hai loại tiếng: Là tiếng của chư Thiên và loại tiếng của người”. Sao kỳ vậy? Nếu chư Thiên với người bằng với nhau, sao lại nghe được hai thứ tiếng?
Trưởng lão: Hai thứ tiếng, là vì một người thiện, một người ác. Bởi vì chư Thiên lấy thiện mà làm chuẩn. Ví dụ như một người thiện người ta lại nói chuyện mình biết người đó là người thiện, cụ thể lắm! Người ác họ nói mình chứ trong khi lời nói gian dối, họ nói hay ho chứ thật ra nó gian dối, mình biết.
Sư Tuệ Tĩnh: Như vậy thì người thường họ cũng biết chứ cần phải Thiên nhĩ mới biết Thầy?
Trưởng lão: Không! Bởi vì nói Thiên nhĩ. Thiên ở đây, không có nghĩa là nghe xa ngàn dặm. Chữ Thiên ở đây có nghĩa là trời, nghe được cái thiện của lòng. Mình tu Thập thiện là mình sanh lên cõi trời rồi. Ý như vậy nghĩa là mình phân biệt được cái người lành và cái người ác. Nó, đó là cái chỗ ý chỗ này, nó thực tế, cụ thể!
Mà mình nghĩ xa nữa đó, mình nghe chư Thiên ở đâu, vô hình đâu nói mà mình nghe, thì cái đó là cái sai, mình hiểu lầm. Bởi vì cũng con người của mình ở trong thế gian này nhưng mà người đó là chư Thiên, người đó người ta thực hiện cái lành của người ta, người ta không có phạm vào cái ác, người ta sống trong Thập Thiện rồi. Thì đó là chư Thiên rồi.
(06:53) Sư Tuệ Tĩnh: Dạ, nếu vậy thì cái Thiên Nhĩ thì cái người bình thường cũng có chứ Thầy?
Trưởng lão: Có chứ! Bởi vì người nào cũng có hết, chứ đừng nói. Tại vì mình không hiểu cho nên mình tưởng Thiên Nhĩ là phải thực hiện cái gì siêu…
Sư Tuệ Tĩnh: Bởi vậy ở đây nói tu đến cái mức đó thì có Thiên Nhĩ, nó mới dễ lầm đó.
Trưởng lão: Bởi vì, tu là phải sửa lại những lỗi lầm của mình, những cái sai quấy, cái thiện ác. Thì đó mình nghe, trời ơi! Đúng là mình đã thấy được, nghe được cái thiện. Còn bây giờ mình nghe chưa được cái thiện đâu, phải không? Nhiều khi cái ác mình nghe cũng chưa được nữa, vì mình chưa biết.
Cho nên phải tu, tu rồi mới thấy được cái thiện, cái ác. Cũng như bây giờ nói nhân quả thiện ác, nhưng mà sự thật ai biết được cái hành động, mình thấy là Thập Thiện mà, nhưng mà làm sao mình biết cái đó là thiện? Mình thấy thiện, nhưng mà đó là ác mình đâu có biết được.
Cho nên mình chưa có Thiên Nhĩ, nghe chưa có biết. Cái lời người ta nói nghe nó thiện đó, ở trong đó có ác mình đâu có biết. Phải có người có Thiên Nhĩ, tức là phải thâm sâu ở trong cái định tĩnh của mình. Mình phải thâm sâu vào nhân quả, mình nghe người đó nói mình biết, lời nói đó thiện chứ không thiện đâu. Khó lắm chứ không phải dễ! Phật muốn nói cái chỗ đó là mình phải tu hết sức nó mới được.
(08:05) Sư Phước Nhẫn: Khéo léo lắm!
Trưởng lão: Khéo lắm! Họ nói nghe thiện chứ mà trong đó có ác. Còn người nói dữ tợn, nghe ác vậy chứ mà thiện. Mình không đủ Thiên Nhãn, Thiên Nhĩ mình không biết.
Cho nên nó thực tế, nó cụ thể chứ không phải có thế giới siêu hình, chư Thiên nói, mình ngồi đây mình nghe chư Thiên nói chuyện. Người ta tưởng cái đó quá rồi, thành ra xa vời cái pháp tu của Phật.
(08:31) Bời vì Thập Nhị Nhân Duyên, đức Phật nói mười hai nhân duyên nó hợp lại thành thế giới đau khổ, mười hai duyên rã ra thì thế giới đau khổ mất. Thì rõ ràng là trong Thập Nhị Nhân Duyên thì nó có nhân sinh quan của mình, tức là thân Ngũ Uẩn có năm duyên của Uẩn. Và bảy duyên kia thuộc thế giới quan ở ngoài. Thì nó có lục nhập: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp đó là cái thế giới ở ngoài. Rồi nó mới sinh ra Ái, Thủ, Hữu này kia… do mình tạo cái thế giới khổ. Theo mấy cái duyên đó nó tạo.
Sáu cái duyên Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp tức là lục nhập đó, sáu cái đó là sáu cái thế giới quan ở bên ngoài. Nó thấy, nghe này kia đồ… nó tác động cho cái thân của mình nó gây ra xúc, thọ, rồi ái, rồi hữu, thủ đó nó mới có sự đau khổ của nó. Còn nếu mà không có nó thì coi như nó không gây những cái này.
Vì vậy mà khi cái này hoại thì nó hoàn toàn nó tiêu mất không còn một cái gì. Mà khi nó hợp lại là cái thế giới khổ đau! Đây là nói về Thế giới quan.
Cho nên bài kinh Thập Nhị Nhân Duyên tức là đức Phật muốn nói Thế Giới Quan của đức Phật. Mà cái bài Ngũ Uẩn tức là đức Phật muốn nói Nhân Sinh Quan của con người. Cho nên Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức có đủ. Một con người nó phải gồm đủ những cái duyên này, không thể thiếu một duyên nào được. Mà chết rồi thì nó rã.
Cho nên vì vậy đó mà từ cái cõi Thiện là cõi Thiên, từ cái cõi Ác là Ác Quỷ, từ cái cõi có Dục là con Người. Cho nên cái cõi Dục nè, cõi Sắc, cõi Vô Sắc đó là cái chỗ mà đức Phật xác định trong kinh, nhưng mà tại vì mình sống tưởng quá, mà nó thành ra nó quá cao siêu!
(10:25) Sư Tuệ Tĩnh: Còn cái quả Tha Tâm Thông đó Thầy. Ở đây nói, người có Tha Tâm Thông là biết tham, sân, si của đối tượng, với Chuyên chú, Tán loạn, Đại Hành tâm, Vô Thượng Tâm, Tâm thiền định, Tâm không thiền định,.v.v. Tâm giải thoát, Tâm không giải thoát. Hồi đó thì con hiểu Tha Tâm Thông là cũng như mình biết cái đối tượng đó muốn gì, nghĩ gì, nghĩa là trong lòng người ta nghĩ gì mình biết hết. Trong này thì không nói cái đó, nhưng có bài kinh của đức Phật biết cái tâm của Sona-NanDa đó, NanDa muốn Phật hỏi câu nào dễ dễ, Phật biết. Đó là cái ý nghĩa như vậy, mà khúc trước cái quả thì không có nói tới cái đó. Thầy dạy hết về vấn đề Tha Tâm Thông đi Thầy.
(11:06) Trưởng lão: À, Tha Tâm Thông, cái tâm mình nó thanh tịnh rồi thì theo dùng cái danh từ gọi là giao cảm với tâm của mọi người. Tâm người ta chính là tâm của mình. Ví dụ như mình giao cảm, tâm người ta ở trong tâm trạng buồn, vui biết cai gì mình biết hết. Gọi là Tha Tâm Thông, còn danh từ nữa gọi là Tha Tâm Trí, cái trí của họ nghĩ ngợi cái gì mình biết hết.
Sư Phước Nhẫn: Cùng một thứ hả Thầy?
Trưởng lão: Cùng một thứ! Tha tâm thông cũng như Tha tâm trí, nghĩa là cái tâm người ta sao mình thông hết. Còn cái trí của người ta như thế nào, người ta nghĩ ngợi thế nào mình biết hết. Người ta nghĩ trong đầu người ta, người ta không có nói ra, nhưng mình biết được cái ý của họ, họ nói cái gì biết.
Cái đó là khi mà chúng ta tu những cái tưởng, những cái Định tưởng thì nó có sáu cái thông tưởng, Tha tâm tưởng nó cũng biết chứ không phải không biết. Còn chúng ta tu Tam Minh thì chúng ta cũng có Tha Tâm Thông của nó, nó nằm trong Lục thông mà thuộc về Tam Minh nó khác. Mà Lục thông nó về Tưởng Thông nó khác.
Cho nên sáu cái thông này thì nó cũng là cái loại ma chướng cho chúng ta. Người tu đến đây thì họ bị chấp cái này, họ dính cái này. Cho nên, nó có Ngũ thông, nó không có Lậu Tận Thông đó, nghĩa là ngoại đạo tu nó có Ngũ thông chứ nó không có Lục thông. Còn cái Lậu Tận Thông tức là Tam Minh nó mới có Lậu Tận Minh đó, tức là mới có Lậu Tận Thông. Đó, thì cái chỗ đó là cái chỗ mà cuối cùng chấm dứt tái sinh luân hồi. Còn ngoại đạo thì nó không có Lậu Tận Thông, cho nên vì vậy nó không có chấm dứt tái sinh luân hồi. Có những Thần thông, có những Thiền định nhưng mà thuộc về cái hệ Tưởng, thực hiện cái Ngũ Thông Tưởng của nó. Nó cũng thực hiện dữ tợn lắm, nhưng mà không bằng cái Tam Minh của Phật.
(13:06) Sư Phước Nhẫn: Gần giống nhau hả Thầy?
Trưởng lão: Gần giống nhau! Nghĩa là gần giống nhau nhưng mà cái tâm nó do không có ly dục, ly ác pháp cho nên nó còn tích lũy cái tham, sân, si nó dữ tợn lắm! Nó còn danh, còn lợi trong đó.
Sư Phước Nhẫn: Là nó không thoát ra được?
Trưởng lão: Nó không thoát ra!
Do nó luyện tập, nó cũng dùng cái pháp hướng Như Lý Tác Ý vậy nó luyện, mà nó không tác ý ly dục, ly ác Pháp. Nó lại tác ý cái điều kiện nó muốn bay, hoặc muốn thế này, thế kia nó tác ý riếc cũng được.
Ví dụ như bây giờ nó muốn nghe, nó tác ý ra để cho nó tưởng ra nó nghe được tiếng chim kêu, nói chuyện với nhau nó nghe, thì nó cũng thực hiện được. Nhưng mà nó phải nhập tới cái trạng thái nào để rồi nó thực hiện cái pháp hướng, để mà thực hiện những cái đó.
Cũng như bây giờ mình là người Việt Nam đến người Mỹ họ nói tiếng Mỹ mình đâu có biết, nhưng mà khi mình dùng cái Nhĩ Thông đó, thì nó nói gì mình hiểu hết. Mình không học, mà nó nói sao mình hiểu hết, tức là Nhĩ Thông, thông được cái âm thanh, cái ý của nó muốn nói. Bị vì thường thường nói ra, mình phát ngôn ra đó, thì tất cả những cái đó đều nằm trong cái ý của mình, mình muốn nói cái đó, cái câu nói nó phải có cái ý. Cho nên, Tha Tâm Thông hay hoặc là Tha Tâm Trí đó, thì người ta hiểu ngay được cái ý đó, thành ra nó nói người ta hiểu. Còn mình không học thì nghe nói mình không hiểu.
Con chim cũng vậy, nó ca, nó hát, hay hoặc nó hót mình nghe tiếng mình không biết. Nhưng mà người ta lại dùng được cái Tha Tâm Trí thì người ta hiểu được ý của nó, nó hót cái đó buồn hay vui người ta biết liền, nó nói gì người ta biết liền. Bởi vì trong ý đó, nó gọi là Tha Tâm Thông hay Tha Tâm Trí.
(14:56) Sư Tuệ Tĩnh: Còn cái phần Thiền Thứ Tư đó Thầy, con thấy cái này nó cũng giống với bên Đại Thừa chỗ cái khoảng này, không biết phải không. “Thiền thứ Tư thì nó xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu”, hoặc là “Không lạc, không khổ, xả niệm thanh tịnh". Thì bên Đại Thừa có "Không niệm thiện, không niệm ác" thì giống với “xả lạc, xả khổ” mình rồi. Còn cái “Xả niệm thanh tịnh” nó có phải là giống “Thõng tay vào chợ” không?
Trưởng lão: Không phải con!
Sư Tuệ Tĩnh: Hay là họ lấy cái đó, họ biến chế ra.
Trưởng lão: Họ biến chế ra. Chớ không phải đâu!
Sư Tuệ Tĩnh: Chắc cái chỗ đó họ biến chế ra.
Trưởng lão: Cái chỗ mà “Xả lạc, xả khổ, rồi xả niệm thanh tịnh”. Xả lạc, cái gì lạc? Thọ! Cái cảm thọ của mình. Cái gì khổ? Cái cảm thọ khổ. Cái đối tượng nào để mà chúng ta thấy được trạng thái thanh tịnh? Cho nên “Xả Niệm Thanh Tịnh”, xả cái đối tượng đó.
Cái trạng thái mà thanh tịnh của Tứ Thiền, gọi là Tứ Thiền Thiên, cái cảnh giới Tứ Thiền Thiên, cái trạng thái của Tứ Thiền đó. Thì cái trạng thái đó trạng thái thanh tịnh. Vậy thì mình xả cái này là xả cái gì? Xả Thọ! Xả Thọ thì các Hành phải ngưng Thọ nó mới hết. Phải không? Các Hành trong Thân ngưng, tức là hơi thở phải ngưng. Chứ đâu phải mà nó không ngưng thì cái Thọ làm sao mà mất được!? Chứ đâu phải "Thõng tay vào chợ”!
(16:09) Bởi vậy các nhà Đại Thừa lập luận y như kinh sách của Phật, nhưng mà cái nghĩa của nó đi qua cái hướng của Bà La Môn. Cho nên người ta đâu có biết, người ta thấy: Ờ, kinh Nguyên Thủy cũng vậy, mà kinh Đại Thừa cũng có những Tứ Thiền đồ này kia, cũng nói xả, ngon dữ vậy! Nhưng mà cuối cùng là, nó dùng cái danh từ đó để nó lệch cái nghĩa đi qua cái hướng của Bà La Môn. Nó hướng, hướng của nó sai, nó làm lệch cái ý nghĩa.
Bởi vậy, thấy như vậy mình mới thấy đạo Phật bị mất là do cái chỗ người ta tưởng ra… Người ta ở trong cái pháp của Bà La Môn, của ngoại đạo nào đó, người ta đọc cái kinh của Phật, người ta giải thích theo cái hiểu của cái nghĩa của Bà La Môn, của ngoại đạo. Nó làm cái nghĩa của kinh Phật nó mất. Đó là cái chỗ của các Tổ của mình ngày xưa đã làm.
Nói các Tổ ngày xưa chứ ai vô đây, không ai vô đây. Bởi vậy nó mới đẻ ra kinh Phát Triển, Đại Thừa. Nó lấy cái này mà để nó lái làm cái nghĩa cho nó đi qua cái pháp khác. Cho nên mình lầm lạc, mình cứ nghĩ là lời của Phật dạy. Cái nghĩa này mình đâu có hiểu được, mình đâu có tu chứng được mình hiểu. Cho nên vì vậy, thấy mấy ông này nói cái nghĩa này là cứ chấp nhận. Cho nên cuối cùng ông nào tu tới đó cũng không chủ được. Mà từ xưa đến giờ ông nào cũng nói hết.
(17:34) Sư Tuệ Tĩnh: Cái trạng thái Tứ Thiền nó có phải là cái trạng thái không còn Ngã, cho nên nó không còn thọ, mình mới xả lạc không Thầy?
Trưởng lão: Nói chung là chỗ này làm sao mà còn, bởi vì cái chỗ, cái thân của mình nó mất tiêu hết rồi còn gì nữa, thậm chí như cái Thức nó cũng không còn nữa, khi mình nhập vô rồi. Bởi vì “xả niệm thanh tịnh” tức là cái đối tượng để biết cái trạng thái thanh tịnh đó cũng không còn, tức là cái Thức không còn, coi như cái ngũ uẩn của mình hoàn toàn là mất. Nhưng mà mình còn được cái lực của pháp hướng Như Lý Tác Ý đó, cho nên mình hướng ra. Thí dụ như, mặc dù vô đó cái mất tiêu hết, mình cũng chẳng có biết gì hết, hoàn toàn không ngơ mà. Nghĩa là hoàn toàn không có cái gì hết, hoàn toàn! Vô đó rồi không có gì hết, bởi vì hơi thở ngưng coi như mình mất hết, coi như chết đó. Nhưng mà mình nhờ có cái pháp hướng mình nhắc, mình nhắc lại, mình hướng ra.
(18:21) Sư Phước Nhẫn: Nhắc hồi lúc mà mình mới vô hả Thầy?
Trưởng lão: Không, không! Mình vô há, mình vô, nếu như mình không nhắc thì kể như mình mất hết, mình không còn nữa. Vì vậy, khi mình nhập Tứ Thiền rồi, tức là hơi thở tịnh chỉ rồi thì mất tiêu hết rồi, nghĩa là Thọ cũng không còn; thọ lạc, thọ khổ, tức là xả lạc, xả khổ đó. Rồi cái niệm Thanh Tịnh cũng mất luôn nữa. Cái đối tượng, tức là cái Thức của mình mất, cho nên vì vậy mà cái trạng thái thanh tịnh nó cũng mất nữa, nó không còn gì hết hà.
Nhưng mà mình hướng ra, mình hướng ra, trong đó mình thấy mình còn làm chủ được cái chỗ mà nhờ mình tu cái pháp Như Lý Tác Ý đó, mình có làm chủ mình hướng ra, mình nhắc, mình tác ý ra liền: “Hơi thở, phải thở!”. Cái mình thấy nó. Cái mình hướng vô bảo: “Tịnh chỉ, ngưng!” vô, cái mình thấy vô rồi, mất tiêu luôn. Cái mình ra, mình nói: “Đối tượng thanh tịnh phải có!”. Cái ngay đó mình hướng đó thấy nó có thanh tịnh, thấy nó có thanh tịnh tức là có Thức biết rồi. Thành ra mình làm chủ được cái Thức của mình đưa ra, đưa vô. Mình làm chủ được cái thân, hơi thở ra vô mình thở được. Mình biết là chết mình không chết. Chứ còn nếu cỡ mà không có pháp hướng, mình vô đó rồi kể như mình chết luôn. Bởi vì mất tiêu hết rồi, nó không phải còn thấy ánh sáng, thấy gì hết. Coi như là hoàn toàn không, nó không sáng, không đen, không tối không gì hết hoàn toàn mình nhập vô đó rồi nó không ngơ hà, không có cái gì hết! Chứ không phải là mình còn biết cái này kia, không có đâu! Nó hoàn toàn không có, chỉ có tác ý ra cái nó hết. Mà không tác ý ra cái là mất tiêu.
(19:49) Sư Phước Nhẫn: Cũng như mình bệnh, mà mình đi bệnh viện người ta mổ cho mình, giống vậy không Thầy?
Trưởng lão: Giống vậy, mất tiêu luôn hết hà! Họ chụp thuốc mê đồ gì, mình mê cái mất hết. Họ gây mê mình đó, hễ mình mê rồi mình không biết, họ mổ xẻ làm gì mình không biết gì hết. Thân mình bây giờ họ khiêng đi đâu mình cũng không biết nữa, hoàn toàn không biết, mà không thấy cái gì hết, hoàn toàn hết. Nhưng mà nó có cái trạng thái thanh tịnh đó.
Cho nên, nếu mà ví dụ mình bỏ thân mình, mình ở trong trạng thái Tứ Thiền Thiên liền, vĩnh viễn chứ không phải không đâu. Tới chừng mà nó hết phước rồi nó mới đi tái sanh. Vì cái nguyên nhân tái sanh nó còn, nhưng vì ở trong trạng thái đó, nó không có đi tái sinh được.
(20:26) Sư Tuệ Tĩnh: Hết phước là bao lâu Thầy?
Trưởng lão: Hết phước cũng cả ngàn năm, cả triệu kiếp chứ bộ. Tứ Thiền Thiên mà, cõi Trời cao lắm chứ phải! Cái trạng thái đó là trạng thái của cái người mà người ta tu đến cái thiện của người ta đến độ cái trạng thái đó. Cho nên nó cả ngàn năm, cả triệu năm chứ, cái thời gian dài lắm!
Sư Tuệ Tĩnh: Cái đó hồi đó nó có cái bản phân là thiền thứ nhất bao nhiêu lâu, thiền thứ nhì bao nhiêu lâu, thiền thứ tư bao nhiêu lâu…
Trưởng lão: Cái đó, thật sự ra mình cũng tưởng, nhưng mà cái trạng thái đó là cái phước báu của người ta để người ta thọ hưởng cái thời gian này.
(20:56) Sư Phước Nhẫn: Tu tới đó là phước báu nhiều lắm!
Trưởng lão: Dữ lắm! Cõi giới Thiên mà, cái trạng thái… Cũng như bây giờ mình hành Thập Thiện, mình không làm ác, mình được trạng thái của không làm ác đó chứ. Cho nên nó là cái cõi Thập Thiện Thiên người ta mà, chứ đâu phải thường!
Thầy không tham, sân, si cái trạng thái của Thầy nó khác chứ. Bây giờ Thầy còn tham, sân, si, tức là Thầy không nhận ra được nó đâu. Chừng mà Thầy hết tham, sân, si rồi Thầy thấy… Cũng như ví dụ, bây giờ Thầy không sát sinh nè, không uống rượu nè, không tà dâm nè, trong ý của mình cũng không có nè, nó có cái khác, nó không có giống như cái người bình thường đâu. Nó phải có cái trạng thái khác, cái cách sống của nó, cái tinh thần, cái tư tưởng của nó, nó có cái trạng thái an ổn nó khác. Cho nên nó là cảnh giới Thiên mà!
(21:37) Sư Tuệ Tĩnh: Cái thời gian mình hưởng nó mấy ngàn năm hay mấy ngàn kiếp, thì cái đó nó có thật hả Thầy hay là nó tưởng?
Trưởng lão: Bây giờ, nói chung là người ta tưởng ra thôi. Chứ còn cái thời gian mình không xác định được đâu.
Sư Tuệ Tĩnh: Như hồi nãy Thầy là nói đạt tới Tứ Thiền, khi mà mình chết rồi là mình hưởng…
Trưởng lão: Cái trạng thái đó. Cái trạng thái phước báu.
Sư Tuệ Tĩnh: Bao nhiêu lâu đó, thì nó có cái thời gian…
Trưởng lão: Nó có thời gian chứ con, nhưng mà mình không có xác định. Bởi vì, bây giờ mình xác định thì bắt đầu mình nói tưởng rồi. Không được!
Bây giờ nói như thế này nè, bây giờ ba huynh đệ của mình, phải không? Mà tu đó, bây giờ mình nhập vào trong đó, rồi mình mới hướng tâm về cái Túc Mạng Minh, tức là cái thời gian đó. Xem coi cái trạng thái Tứ Thiền Thiên này nó cái thời gian nó bao lâu? Bởi vì, chừng đó mình mới xác định được, còn một mình mình nói ra như mình tưởng nó mất rồi!
Ba người, người ta xác định, bây giờ người ta mới dám viết kinh sách điều này, chứ không khéo mình tưởng mất. Mình muốn tưởng, mình đặt nó là bao nhiêu năm mình nói ra chứ sự thật có làm được không? Trong kinh điển Phật, Phật cũng không nói cái điều này. Ông Phật cũng đâu có xác định cái điều này, nhưng mà sau này người ta đặt ra, nhất là kinh điển Đại thừa nó đặt ra, nào là bao nhiêu cái cõi Thiên đó là bao nhiêu này kia, nó đặt ra. Nó tưởng ra, nó đặt ra thì Thầy nói bây giờ Thầy ngồi Thầy đặt cũng được vậy, nhưng mà ai chứng minh cái điều của mình nói cho đúng đây?
(22:59) Sư Tuệ Tĩnh: Nó có bảng nó để bao nhiêu năm, bao nhiêu năm…
Trưởng lão: Bao nhiêu năm đó, Thầy có biết rồi, bao nhiêu A-tăng-kỳ nữa chứ. Ví dụ như Quan Âm Thiên là bao nhiêu, một người sinh về làm cõi Trời ở đó bao nhiêu, hay hoặc Đế Thích Thiên là bao nhiêu? Bao nhiêu năm đó, hết phước rồi mình trở lại tái sinh. Bởi vì, ở trong cõi Thiên đó thì nó còn tái sinh là còn cái nguyên nhân thiện của nó, nó đi tiếp tục nó tái sanh nữa. Nhưng mà nó phải hiểu được cái cảnh giới, khi nó tu nó phải hiểu được, cái an lạc của nó, cái thời gian nào.
Sư Tuệ Tĩnh: Nếu vậy thì ba người mới xác định được cái đó còn một người nó thành ra tưởng?
Trưởng lão: Hai người là xác định được rồi. Còn một người thì mình nói ra thì người khác người ta nói mình tưởng, nó không có chứng minh cụ thể. Cho nên thậm chí như đức Phật hồi đó có một số đệ tử, đức Phật cũng không có nói cái chuyện này. Chỉ có ba ông Đại Thừa sống tưởng, nói nhiều quá! Ông Phật ổng còn không xác định, ổng chỉ nói: Ờ, cái trạng thái Tứ Thiền Thiên, hay là Sơ Thiền Thiên, hay Nhị Thiền Thiên, Tam Thiền Thiên, hay hoặc trạng thái Không Vô Biên Xứ, hay Thức Vô Biên Xứ… nói cái trạng thái đó.
(24:01) Sư Tuệ Tĩnh: Còn phần Ngũ triền cái đó Thầy. Xin Thầy giải thích cho thế nào là sống không trạo cử, hối tiếc. Gột rửa hết tâm hết trạo cử, hối tiếc?
Trưởng lão: Cái Ngũ Triền cái Thầy có ghi cái Ngũ Triền Cái. Ở đây nó có Thất kiết sử, có Năm Hạ Phần Kiết Sử, có Năm Thượng Phần Kiết Sử, có Năm Triền Cái.
Mà Trạo Cử có nghĩa là như thế này. Trạo cử của Ngũ Triền Cái, Trạo cử Hối quá.
Sư Phước Nhẫn: Hai ba thứ Trạo cử Thầy?
Trưởng lão: Có hai ba thứ chứ đâu phải một thứ. Trạo cử hối quá, mình làm cái lỗi gì, mình mới ray rứt mình gọi là Trạo cử, biết cái chỗ đó không? Nó đó là cái Trạo cử.
Ví dụ như: Mình phạm giới gì đi, cũng như bây giờ mình ăn ngày một bữa, bữa nay lỡ mình thấy có cục kẹo gì hay ly sữa mình uống, cái bắt đầu mình thấy mình hối hận, mình trạo cử. Mình xấu hổ lắm, nó nhắc đi, nhắc lại trong đầu mình nghe nó khổ sở lắm! Đó gọi là trạo cử. Cái mà nó cứ nhạo đi nhạo lại, mà nó giày vò cái lương tâm của mình, cái đó là Trạo cử.
Cũng như thuở giờ mình không có giết con vật, mà bữa nay lỡ mình làm chết con vật, thấy con vật nó giãy giụa, nó đau đớn. Cái hình ảnh đó làm cho nó trạo cử trong lòng của mình, nó hối hận quá. Sao mình vô tình quá? Nó làm cho mình ray rứt, khó chịu. Đó gọi là Trạo cử. Nó thì, đó là Trạo cử của Ngũ Triền Cái.
Cho nên ở đây nói, cái danh từ chỗ mà Trạo cử đó, ở đây nó có nhiều cái Trạo cử, mà Ngũ Triền Cái là Trạo cử Hối quá chứ không phải là Trạo cử thường, Trạo cử suông. Nó có cái Hối quá, Hối quá là hối hận. Mình làm cái gì lỗi đó. Ờ bây giờ, nó cứ Trạo cử cái đó hoài, nó không có chịu bỏ, nó làm cho mình khó chịu. Nó, đó là cái Trạo cử.
Chắc mấy cái kia thì hiểu hết rồi, chỉ có cái Trạo cử này thôi, Trạo cử Hối quá. Còn cái trạo cử khác, mình ngồi mà thân nó bức rức, khó chịu nó thuộc Trạo cử khác. Nó không phải Hối quá, nay sao mình ngồi nó bức rức, nó không muốn ngồi.
(26:11) Sư Phước Nhẫn: Mình buồn ngủ cũng trạo cử hả Thầy?
Trưởng lão: Cái đó Trạo cử Thùy miên. Tui Trạo cử, nó cứ nó tiếp tục nó gục tới, gục lui hoài. Nó bị Thùy miên.
Sư Tuệ Tĩnh: Gột rửa tâm hết Trạo cử Hối quá là sao Thầy?
Trưởng lão: Mình gột rửa tâm Trạo cử Hối quá, mình quán xét. Quyết định, mình có cái sự quyết định từ đây về sau, bây giờ những chuyện cái này là những cái chuyện đã qua, nhất định là mình sẽ không làm tái phạm cái lỗi này nữa. Cũng như lỡ mình ăn 1 viên kẹo phi thời, thì mình bị Trạo cử, mình nhớ cái lỗi đó. Nhất định từ đây về sau không phạm lỗi này nữa, nhất định là chết chứ không phạm lỗi này nữa. Mình quyết định, và thỉnh thoảng mình tác ý ra để nhắc mình, từ đó cái lỗi mình không còn phạm nữa, thì nó hết hà.
À! Mình có sự quyết tâm là nó hết, quyết tâm chừa. Mình biết rằng, bây giờ có nhắc lỗi này thì nó cũng không hết tội mình đâu, nhưng mà mình chỉ quyết tâm không tái phạm nữa, thì nó sẽ hết. Có sự quyết tâm, thì nó sẽ hết Trạo cử, cái Trạo cử của Hối quá này.
Hoặc là mình đến, mình trình cho một bậc Trưởng lão, một người tu chứng: "Con ngày đó, con có phạm lỗi đó, xin vị Trưởng lão; hay vị Thầy; vị Thượng Tọa; hoặc là vị Tỳ Kheo chứng minh cho con, từ nay về sau con sám hối, con không tái phạm nữa, chứng minh cho con!". Mình phát lồ ra rồi cái thì tâm nhẹ nhõm, không Trạo cử nữa. Chứ mình ôm ấp trong bụng mình, mình không nói cho ai biết thì nó Trạo cử dữ lắm! Đó là cách thức phá Trạo cử.
Thứ nhất là mình quyết định, mình xác định với tâm của mình, mạnh dạn quyết định là không phạm nữa.
Thứ hai là mình đến với một bậc Trưởng lão, xin sám hối với vị Trưởng lão, mình phát lồ ra thì mình sẽ hết Trạo cử. Con cứ làm rồi Thầy nói sẽ hết liền hà. Cái đó là cái đặc biệt của đạo Phật.
(28:00) Sư Tuệ Tĩnh: Trước đây có một ông sư ổng giảng: “Không có nên mà hối hận, bị vì việc mình làm rồi hối hận nó cũng đã rồi rồi. Cho nên mình bỏ nó đi, mình từ đây sấp lên mình không có làm nữa thì thôi, chứ đừng nên hối hận.
Trưởng lão: Thì cái đó là cũng đúng đó, nhưng mà có điều kiện là mình phải… coi vậy chứ nó nguy hiểm lắm đó! Coi chừng mình bỏ qua, tức là mình sẽ không có tàm quý nữa, mình hết xấu hổ với cái lỗi. Coi chừng mình bỏ qua rồi tới chừng đó nó phạm nữa à. Cho nên hằng ngày phải Như Lý Tác Ý mình sợ lắm! Bởi vậy, đức Phật nói: “Sợ các lỗi nhỏ nhặt”, mà mình sợ suông thì không được đâu, mà hằng ngày phải nhắc nó, cái lỗi này nhắc nó. Chứ không phải để cho nó trạo cử, nó làm cho mình khó chịu. Nhắc: “Quyết định là không tái phạm nữa!”. Nhắc thường xuyên, chứ lơ mơ là nó phạm nữa à. Nó quen một lần nó sẽ phạm nữa, chứ không phải dễ đâu! Thầy nói không đơn giản đâu, coi vậy.
Sư Phước Nhẫn: Ngựa quen đường cũ.
Trưởng lão: Nó làm được một lần rồi, nó sẽ làm tới nữa. Mình phạm một lỗi nhỏ đó chớ mình coi thường nó là coi chừng mình bị. Cái Trạo hối là cái quan trọng lắm đó! Mình có Trạo hối, mình mới quyết tâm dữ trọn. Còn mình không Trạo hối tức là tàm quý không có. Còn mình nói thường với nó là coi chừng mình sẽ bị nó lừa đảo.
(29:10) Sư Tuệ Tĩnh: Còn cái chuyện, cái quả của việc phạm lỗi nó có theo mình hoài không Thầy? Hay là nó cũng…
Trưởng lão: Cái quả của nó khi mà mình sống đúng thì mình chuyển nó được. Còn mình sống không đúng thì cái quả đó… Bắt đầu bây giờ, mình đã phạm lỗi này nhỏ, mình thấy mình ăn cục kẹo, rồi mình coi thường nó, mình nói sơ sơ hay hoặc mình sám hối, hoặc mình phát lồ ra. Rồi mai mốt nó, coi chừng! Coi vậy chớ không đơn giản đâu. Mình phải thấy quan trọng những cái lỗi nhỏ nhặt của mình.
Do đó, coi chừng nó sẽ phạm lần nữa. Mà nó phạm rồi nó quen rồi, thì chừng đó mới đầu nó lén, sau đó người ta bắt được, người ta coi thường mình. Chừng đó cái quả bị khinh chê, tới cái đó là cái quả. Mà khi cái quả khinh chê rồi, thì mình như là người chai rồi, hết sợ rồi.
Dó đó, mình coi như là như các Thầy Đại thừa bây giờ thả cửa mà ăn, mà uống, nó hết ngại rồi! Rồi ông nào cũng vậy hết rồi bây giờ đâu có ngán nữa. Cái giới luật của Phật: "Thừa tự pháp chứ không thừa tự thực phẩm". Mà giờ ông nào cũng ăn, thầy lớn, thầy nhỏ cũng ăn hết, bây giờ nó vậy. Người ta biết, người ta cũng khinh chê như thường nhưng mà điều kiện mấy ông chai rồi, mấy ông không có ngán nữa. Đó là mình đi đến cái chỗ phàm phu tục tử rồi. Nhiều khi còn ăn vặt nữa là khác, nó thành ra là loài chúng sanh, Ngạ Quỷ nữa.
(30:33) Sư Tuệ Tĩnh: Cái lúc mà vua A Xà Thế mà trình với đức Phật về tội giết cha đó, đức Phật cũng nhận. Cái đức Phật nói vì cái quả đó, cho nên cái bài pháp của đức Phật nói vua A Xà Thế không có chứng được.
Trưởng lão: Bị vì cái tội đó nặng quá. Cái tội đó quá nặng! Đây là cái lỗi nhỏ nhặt, còn cái lỗi này lỗi quá lớn! Khó quá! Nếu mà vua A Xà Thế mà không có tội giết cha, thì cái bài pháp của Phật có lợi ích rất lớn… Đúng là đức Phật nói vì cái tội nặng quá, cái tội nhỏ mình có thể sám hối được, còn cái tội lớn quá sám hối nó cũng đâu thể hết. Bởi vì, ông bây giờ dù ông có cúng dường Phật cách gì nó cũng không có chuyển được cái tội đó. Tội giết mà cha, tội mà giết A La Hán hai cái tội đó rất nặng!
Cho nên ông thọ cái quả rất nặng! Bời vì những cái đó cái nhân quả nó quá lớn rồi!
(31:25) Sư Tuệ Tĩnh: Bốn cái đó thì cái tội dâm nó cũng ngang với đó vậy Thầy? Nhân quả nó cũng bị vậy.
Trưởng lão: Nó cũng vậy đó, chứ không phải thường. Dữ lắm đó! Chứ không phải…
Sư Tuệ Tĩnh: Cái phần Bất cộng trụ đó. Kêu là Ba La Di đó.
Trưởng lão: Cái tội đó là khó lắm đó, chứ không phải dễ đâu!
(31:49) Sư Tuệ Tĩnh: Chỗ cái bài pháp đó con không hiểu từ Pháp Nhãn là gì Thầy?
Trưởng lão: Pháp Nhãn là cái thấy của mình bằng cái Chánh pháp, bằng cái Chơn pháp, thấy đúng cái pháp. Ví dụ như bây giờ người ta chửi mình mà mình thấy đúng cái pháp thì mình thấy rất thương người ta. Người ta đang làm cái điều ác, mình rất thương! Cho nên mình thấy đúng gọi là Pháp Nhãn.
Pháp Nhãn, có nghĩa là đôi mắt Pháp thấy người ta làm cái điều đó mà mình thấy đúng, thì thấy người ta làm ác, mình không… Còn nếu mình thấy không Pháp Nhãn mình thấy người ta làm đó mình không biết thiện hay ác. Pháp Nhãn là thấy thiện với ác.
Cho nên Pháp Nhãn không có nghĩa là thấy Phật tánh. Chớ không khéo người ta nói: Ờ, người có Pháp Nhãn là người kiến tánh rồi. Kiến Tánh, tức là thấy Tánh chứ gì, mà có Pháp Nhãn mới thấy được Tánh. Không phải cái định nghĩa vậy!
Mà thấy thiện pháp, thấy người ta gọi là Chánh Kiến. Thấy cái đúng, chứ không có thấy cái sai, thấy cái thiện, không thấy ác. Gọi là Pháp Nhãn.
(32:57) Sư Tuệ Tĩnh: Vậy là Sơ thiện, Trung thiện, Hậu thiện là sao Thầy?
Trưởng lão: Sơ thiện, Pháp của Phật dạy chúng ta Sơ thiện là cái thiện đầu tiên. Trung Thiện là cái thiện ở giữa. Thì ở trong cái Sơ thiện, Trung thiện, Hậu thiện đó, thì coi cái Hậu thiện để chỉ những gì?
Hậu thiện là chỉ những cái Thiền Định, những cái Tam Minh siêu xuất.
Còn cái Trung thiện là chỉ chúng ta đừng có làm những cái nghề tầm bậy, tầm bạ.
Mà cái Sơ Thiện là dạy chúng ta không sát sanh, không này kia, những cái giới luật mà của Sadi đó, là những cái giới luật mà chúng ta học giới Tỳ-kheo đồ đó, đó là Sơ Thiện.
Còn cái Trung Thiện là đừng có làm những cái nghề nghiệp bậy bạ, này kia nọ đủ thứ, cái đó tà nghiệp đó. Cái chánh Nghiệp của nó là đi xin ăn thôi, Chánh nghiệp! Còn mình làm những chuyện khác là tà nghiệp. Ví dụ như: Xây chùa, hay cất chùa, hay làm tốt, làm đẹp này kia… vẫn đều sai hết! Tất cả những nghề nghiệp đó không phải, không phải của mình, không phải của vị Tỳ- kheo. Cho nên, đó là Trung thiện.
Còn Hậu thiện là từ nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền cho đến Tam Minh là cái Hậu thiện, cái đó dữ tợn lắm!
Bởi vì nó là cái pháp của Phật mà cái pháp Thiện. Cho nên từ cái đầu tiên vô cũng phải thiện, rồi giữa cũng phải thiện, rồi cuối cùng cũng phải thiện. Cho nên, Sơ thiện - Hậu thiện - Trung thiện. Cho nên, cái bộ Sa Môn Quả nó chỉ cho chúng ta điều đó rõ hết.
Cái quả đầu tiên, là Sơ thiện đó. Mình cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa xuất gia vô tu, thì đó là Sơ Thiện. Ngay cái Sơ thiện thì nó có quả của nó, như thế nào? Rồi mình giữ gìn giới luật như thế nào? Thế nào? Nó sẽ đưa mình đi đến cái quả giải thoát như thế nào? Đó là cái Sa Môn Quả.
Rồi cái Hậu thiện, tiếp tục trên những cái Hậu thiện như thế nào? Rồi Trung thiện như thế nào? Tới cái Hậu thiện. Cho nên, Giới - Định - Tuệ nó đủ trong cái Sơ thiện, Trung thiện, Hậu thiện nó đủ ba cái. Nó ứng với ba cái.
(35:01) Sư Tuệ Tĩnh: Có cái câu: "Vị Tỳ kheo sống tinh tấn, không phóng dật, chánh ức niệm..". "Chánh ức niệm" là sao Thầy?
Trưởng lão: "Chánh ức niệm", tức là mình sống không phóng dật đó, là chánh ức niệm. Phải không? Ghê gớm lắm đó chớ không phải! Ức cái niệm, không có cho nó phóng ra mà, nó đâu chạy tùm lum ra được.
Sư Tuệ Tĩnh: Nói: "Sống tinh tấn, không phóng dật", rồi thêm một chữ là "Chánh ức niệm”, con nghĩ là một pháp hướng hay tác ý hay là…
Trưởng lão: Tức là mình nè, nghĩa là mình phải dùng tất cả các pháp, trong đó có pháp Như Lý Tác Ý, rồi pháp hướng, tức là Như Lý Tác Ý, tác ý. Ức chế nó, nhiều pháp lắm!
Sư Tuệ Tĩnh: "Không phóng dật", rồi kế "Chánh ức niệm", Chánh ức niệm là…?
Trưởng lão: Đó! Là Chánh Ức niệm nè. Như Tứ Chánh Cần nè, Như Tứ Niệm Xứ nè. Rồi các Định nè, như Định Niệm Hơi Thở, Thân Hành Niệm nội, ngoại nè. Tất cả những cái này đều là nó nằm trong "Chánh Ức Niệm". Nó, đó là Chánh Ức niệm đó, những cái pháp đó là mình phải thực hiện được có cái danh từ của Phật gồm lại.
Bởi vì nó cô đọng lại cái danh từ, mình nghe mình điếc ráy, không biết Chánh Ức niệm là cái pháp nào? Không ngờ là Tứ Chánh Cần nè, Tứ Niệm Xứ nè, rồi Định Vô Lậu nè, Định Niệm Hơi Thở nè, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác nè, Định Sáng Suốt nè. Tất cả những cái này là Chánh Ức Niệm, nó mới ức niệm mình được chứ, không nó phóng dật sao? Tất cả các pháp gồm vô cái danh từ là Chánh Ức Niệm.
Chánh Ức Niệm mà, Ức niệm Chân Chánh chứ không có Ức niệm bậy. Mình ngồi mình giữ tâm không vọng tưởng là sai rồi!
Cho nên mình tỉnh thức là mình xả, nó Chánh Ức Niệm. Còn mình tỉnh thức mà không chịu xả thì tức là nó sai. Cũng Ức niệm, mà Ức niệm kiểu trật! Nó không Chánh, nó Tà Ức niệm rồi. Tà chứ không phải Chánh!
Bởi vậy, phải dùng những danh từ đó mà lột sạch ra được cái nghĩa lý của nó mới thành cái pháp hành. Chứ còn không ngộ được thì gặp danh từ đó cái mình không biết cái Chánh Ức niệm là còn cái pháp nào nữa đây? Thôi chết rồi!
(37:08) Sư Tuệ Tĩnh: Cái bài Sa Môn Quả này con có thắc mắc bao nhiêu đó thôi.
Trưởng lão: Vậy tốt quá rồi đó! Giờ hiểu rồi, hiểu rồi mình mới nắm được cái pháp mình tu đó.
Thực sự ra nếu mà không đọc thì mình có nhiều cái danh từ mình không hiểu. Rồi cứ dựa theo cái hiểu của các Tổ, của Thầy Tổ mình xưa nay nó đi lạc qua cái nẻo đường của Đại thừa. Người ta giải thích nó như vậy. Thậm chí như trong kinh này người ta còn dám giải thích kiểu đó người ta xen vô, chứ đâu phải Phật giải thích như vậy.
Do đó, chúng ta nói: Ờ, kinh Nguyên Thủy giải thích vậy mà, nhưng mà không ngờ các Tổ dám xen vô chỗ không hiểu, không hiểu mà dám đút vô đây. Bởi vậy, Thầy nói nếu chúng ta chuẩn bị cho cái Tạng kinh của Việt Nam cho đúng đó, ít ra chúng ta phải có hai người chứng quả A La Hán, chúng ta trở về Tam Minh.
Thí dụ bây giờ mình đọc cái bài kinh “Sa Môn Quả”, coi có phải là kinh này đức Phật thuyết hay không? À, bây giờ mình sẽ nhập vào Tứ Thiền, mình hướng tâm về Túc Mạng Minh, về trong lúc mà đức Phật thuyết cái bài kinh đó. Mình ra lệnh cái tâm mình nó đi về đó mà. Nghĩa là mình nghe được tiếng đức Phật, mình ngồi trong đạo tràng của đức Phật lúc bấy giờ thuyết cho ai ai, thì mình nghe bài kinh đó rõ ràng trở lại hết. Chỗ nào sai biết hết!
À, bây giờ xuất định ra, hồi mình vô đó thì hai người mình cũng gặp nhau hết. Khỏi nói đi, nghĩa là hai người mà hướng Túc Mạng Minh là mình đã đi vào cái thời gian đó thì hai người mình đến đó nghe Phật thuyết giảng rồi. Sau khi nó xuất ra.
(38:37) Sư Tuệ Tĩnh: Thầy nhập Tam Minh, Thầy hỏi vụ Diệt Tận Định coi phải là đốt không cháy, đâm không lủng không Thầy? Hỏi cho rõ ràng coi thử!
Trưởng lão: Cái chuyện đó phải nói là Thầy đã biết, nhưng mà bây giờ ai chứng minh cho mình? Phải có một người đi với mình chứ, để rồi là Thầy đã hỏi như vậy rồi, bây giờ sư có nghe vậy không? Sư cũng đi với Thầy.
Thì bây giờ, ở trong đó, hồi đó đi tôi cũng nghe như vậy. Cũng như khi mà đức Phật đến hỏi ba vị Tôn giả ở trong rừng Sừng Bò mà, thì ông A Na Luật trình bày, thì mấy người kia nói: "Tôi cũng được như vậy". Nghe ông này trình bày sao, mấy ông này cũng nhập định, cũng làm được vậy hết, thì mấy ông kia nói: "Tôi cũng được như vậy". Mà suốt ba năm tu mà chẳng hề ai biết ai hết. Khi mà đức Phật hỏi, thì ông này trình bày thì hai ông này ngồi nghe. Thì ông này trình bày xong: “Tôi cũng được như vậy, ông cũng giống như tôi. Tôi cũng nhập định như vậy”. Rõ ràng là nó xác định như vậy.
(39:31) Cho nên khi mà mình tu xong rồi, hay là cái làm sao, bởi vì Thầy cố gắng đào tạo cho được một người, để mình xác định cái bộ Tạng kinh này, đặng nó có người chứng minh chứ. Không khéo mình nói có mình mình thì người ta nói mình nói tưởng, không thật. Bởi vì, toàn bộ tất cả kinh sách kia mình biết là tưởng rồi, bây giờ mình nói bậy cũng là tưởng luôn. Thành ra nó khó lắm, không phải dễ!
Cho nên, Thầy nói hiện bây giờ biết là con đường nó đúng rồi, danh từ nó đúng, nghĩa lý nó đúng, kinh nghiệm nó có rồi, nhưng mà nhiều khi có một mình mình người ta sẽ nói mình nói tưởng. Khó lắm!
Bởi vì, cái chữ thì nó có cái hữu hạn của nó, nhưng mà cái nghĩa nó vô hạn, anh hiểu nghĩa này, anh hiểu nghĩa khác. Năm nay tôi giảng cái bài kinh tôi giảng như vậy, mười năm sau tôi giảng trật lất hà, tôi giảng khác. Cái nghĩa nó vô hạn!
Cho nên ở đây phải có một người chứng minh, đồng mình, nhiều người càng tốt! Cái nghĩa đó, cái câu đó, lời nói đó nó chỉ có cái nghĩa này chứ không có nghĩa khác được. Thì nó dễ, chứ còn không khéo thì người ta luận, người ta nói bác mình luôn.
Đó, thí dụ như bây giờ có mình Thầy, mà Thầy viết những cái bộ kinh vầy. Bây giờ người ta nói Thầy nói bậy, nói bạ Thầy cũng chịu thôi à. Người ta luận, người ta nói Thầy nói không trúng Thầy cũng chịu thôi à, chứ Thầy cũng không cãi làm cái gì. Bởi vì mình có cãi cũng không làm gì được, có một mình mình. Còn bây giờ, người ta nói gì nói mình biết: Ờ, tui có hai người, mình tin nhau được rồi. Mình đây mình thấy đúng, mình có hai người. Còn Thầy giờ Thầy chỉ tin Thầy thôi chứ Thầy không tin ai được nữa hết. Bởi vì ai hiểu được mình?! Thành ra…
(41:09) Sư Tuệ Tĩnh: Cái này giống như trong kinh Phật hay giảng những mấy vị Bà La Môn nói: “Mình tin một ông thầy đó là tại vì ông thầy đó đào tạo ra những học trò làm được đường lối người ta chỉ, còn như không có những học trò làm ra những đường lối đó thì ông Thầy đó nói cũng như nói suông!”.
Trưởng lão: Nói cũng như nói suông thôi!
Bởi vậy Thầy lo lắm! Bởi vì con đường của Phật mà phải có được một người là ít nhất, thêm với Thầy mà nói là tiếng nói rồi. Mà nếu được mười người, trăm người thì càng tốt, chấn hưng Phật Phật giáo. Chứ không vầy thì con đường của Phật mai một. Thầy mà chết rồi mà không có người tu được thì mai một, coi như kinh sách Thầy cũng như Đại thừa.
(41:49) Sư Tuệ Tĩnh: Thầy… con dâng cái thân cho Thầy rồi còn sợ gì nữa Thầy!
Trưởng lão: Thì bởi vậy, bây giờ phải ráng lo có Thầy là một, rồi có sư là hai. Phải không? Còn nếu khi mà chết Thầy rồi thì cũng chỉ còn một.
Sư Tuệ Tĩnh: Mình còn lại đào tạo thêm.
Trưởng lão: Lúc đó, thật sự ra Thầy mất rồi, sư tiếp tục thì người ta nói: Tôi cũng không chắc ông này, ông này ổng theo kiến giải này ổng làm chứ ổng cũng chưa chắc”. Bởi vậy rất khó! Phải có hai người trong một thời. Nhưng mà điều kiện nó bất đắc dĩ, bây giờ không có ai tiếp tục, mình phải mượn để mà tiếp tục chấn hưng lại. Nghĩa là bất đắc dĩ đó, chứ còn cỡ có hai người rồi thì khỏe rồi!
Bất đắc dĩ bây giờ nếu mình bỏ đi, mình tiếp tục tái sanh trong cái duyên nào đó thì nó một cái thời gian dài quá, chúng sanh chới với hết. Cho nên tạm mượn cái thân của sư.
Thì do đó là bất đắc đó, chứ còn nếu mà nó hữu duyên mà cả hai người mà chứng được thì đó là nó có cái sự xác định. Rồi trong khi mình cố gắng mình đào tạo thêm, sách tấn sao cho người ta sống được, bị vì cái khó, từ cái ngày mà các sư vào đây thấy ở đây khó lắm! Từ cái ăn, rồi đến cái ngủ, rồi cái nói chuyện, rất quan trọng! Mà đến cái mức mà gọi là cuối cùng, mình tới cái mức cuối cùng là độc cư 100%. Không cần quét, cầm cây chổi quét mà, không có cần làm gì hết hà!
Ngồi không mới thấy được độc cư, mới thấy được tâm mình không phóng dật, chứ mình còn làm là phóng dật theo việc làm. Bởi vì nó còn phóng dật cho nên mình mới bắt công chuyện mình làm.
Ông Phật ổng kỳ cục lắm! Thiệt, cái đạo Phật nó độc lắm, con người không thể nào mà chịu nổi với cái chỗ này! Đi xin ăn về không làm gì. Trời đất ơi! Ai chịu nổi không?
Mình có tu rồi mình thấy, sướng thật chứ đâu có gì đâu, nhưng người ta chịu không nổi. Còn mình coi vậy chứ sống ở trong rừng một mình mình chứ làm này, làm kia lắt nhắt, nó cô đơn, nó phóng dật theo cái đối tượng làm, nó còn phóng dật đó. Phóng dật, nó nhiều cấp bậc của nó lắm, nó phóng dật nó ngồi nó nghĩ tầm bậy, nó nghĩ điều ác, điều thiện. Rồi nó phóng dật theo việc làm, nó không có chịu ngồi yên.
(44:08) Sư Tuệ Tĩnh: Phóng tâm mà khởi lên, thí dụ mình theo nó bao lâu mới gọi là phóng dật Thầy?
Trưởng lão: Mình tiếp tục, mình nối tiếp tương tục nó là phóng dật rồi.
Sư Tuệ Tĩnh: Vậy là trong khoảng thời gian bao lâu?
Trưởng lão: Không, không cần thời gian. Nghĩa là bắt đầu mình tương tục cái niệm đó. Nó vừa phóng ra niệm đó, mình tương tục niệm, thì nó là phóng dật.
…
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 21
KIẾT SỬ
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và Phước Nhẫn
Thời lượng: [33:14]
Thời gian: 2002
Tên cũ: 11B-KietSu
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-21-kiet-su.mp3
(00:00:00) Trưởng lão: Tại duyên nó vậy. Rồi bây giờ còn hỏi Thầy gì thêm nữa không?
Sư Tuệ Tĩnh: Bây giờ với con thì con theo cái sự mà của sư Phước Nhẫn hỏi đó Thầy, thì con theo đó con nghe, để mà con tiếp tục tu thôi chớ con không có cái gì để hỏi.
Trưởng lão: Bây giờ Thầy sẽ nói thêm về cái phần mà rắc rối nhất là ở trong kinh sách của Phật, là cái phần Kiết sử.
Đầu tiên chúng ta học có Năm hạ phần kiết sử. Cái Thân kiến kiết sử, năm cái hạ phần kiết sử thì cái thứ nhất là thân kiến, cái kiến chấp về cái thân của mình.
Đức Phật nói, kiến chấp về cái thân của mình. Cho nên trong cái bài pháp nói: “Vô thường, khổ, không, vô ngã”, có nghĩa là đức Phật muốn giải thích cho mình hiểu cái ngã của mình nó không có cái gì thật sự trong đó. Cho nên đừng có chấp nó, không phải là: ‘Sắc, thọ, tưởng, hành, thức’, không phải năm cái uẩn này có một cái nào là của nó. Mình chấp cái thân của mình là sắc; cái thọ là thân của mình, là cái của mình. Rồi mình chấp cái tưởng là của mình; chấp cái hành là của mình; mình chấp cái thức là của mình. Thì cái đó là thân kiến, thật không có đúng, nó trói buộc mình dữ lắm. Nhưng mà cái này, dường như ai cũng bị trói buộc, không dễ gì với cái kiến kiết sử này đâu, đó là cái thứ nhất.
Cái nghi kiết sử, thế tại sao mà ở trong cái thức, mình phải so sánh trở lại Ngũ triền cái, năm cái triền cái, nó có cái nghi, nghi triền cái. Nghi triền cái, là cái sự kiện đó nó đi ngang qua, nghi cái điều đó, thấy cái tướng nó, đó là triền cái. Còn bây giờ đã nghi rồi, mình nghi cái gì rồi, nghĩa là nó không phải là thoáng qua, cái kia cái màng nó ngăn che, mình vừa thấy, vừa thấy cái tướng, dáng cái người đó, mình nghi nó ăn cắp, ăn trộm phải không, cái đó là cái triền cái. Mình phân biệt, những cái chữ dùng này nè, nó làm cho mình phải ngăn che, mình không có phá được cái đó. Cho nên cái nghi nó làm cho mình trong tâm mình cứ lo lắng, sợ nó lấy đồ này kia, nên cứ dòm chừng. Nó làm cho mình không có được yên tâm, không có được thanh thản, cứ phải dòm chừng nó, sợ nó lấy cái này, lấy cái kia, đó là cái nghi triền cái.
(02:35) Còn cái nghi kiết sử, thì nó đang sẵn có cái nghi rồi. À bây giờ, thí dụ như mình nghi một cái người nào, nhưng mà cái đó nó cứ hiện ra trong tâm của mình. Người đó thì họ đi đâu rồi mình không thấy, nhưng mình nghi. Ví dụ như đọc cái câu kinh của Đại thừa, mình nghi, mình không biết nó đúng hay sai. Cái đó nó thuộc về nghi kiết sử, nó trói buộc mình. Ví dụ như nghe câu công án Phật, ví dụ như: “Ba cân gai hỏi Phật là gì?”. Ba cân gai mà mình nghi, sao ba cân gai là Phật được, cái đó là mình bị kiết sử.
Cho nên vì cái khéo léo sử dụng của thiền Đông độ, người ta khởi cái nghi tình, để cho nó đừng có khởi niệm nghi, nó bắt mình cứ ôm ấp cái nghi. Còn cái nghi triền cái thì mình thoáng thấy, mình khởi tâm nghi đây, cho nên nó chưa có cái nghi trong đó, còn cái này, cái nghi cứ ôm ấp, đó là nghi. Cho nên vì vậy mà cái người tu theo thiền Đông độ mà nghi tình, thì họ sử dụng cái nghi này là cái nghi kiết sử, nó có sẵn. Cái gì mà nó có sẵn, nó trói buộc mình, thì đó là thuộc về kiết sử.
Còn cái mà không có sẵn …
(03:57) Còn cái giới cấm thủ. Giới cấm thủ, có nghĩa là một cái người đó họ chấp giới, họ giữ cái giới, chẳng hạn bây giờ Thầy bị bệnh, ngày ăn một bữa, mà giờ ăn không có được, phải không, mà sáng Thầy phải uống thêm chút cháo đặng Thầy uống thuốc, mà giờ Thầy chấp nhận quyết định trưa ăn hoặc uống thôi, chớ không có sáng ăn, đó là kêu là giới cấm thủ. Bởi gì nó thuộc về hạ phần kiết sử, nó trói buộc mình.
Giới luật nó cũng trói buộc mình, nếu mình chấp nó thì trói buộc. Nhưng ở trong Phật đã dạy, mình: “Khai, giá, trì, phạm”, phải không, có khai, khai giới ra. À thí dụ như bây giờ Thầy bị bệnh, sáng Thầy phải uống thuốc, còn để bụng trống uống thuốc thì không có nên, nó sẽ bệnh, thì do đó Thầy phải uống một ly sữa, ăn chén cháo rồi Thầy mới uống thuốc. Cái đó là Thầy khai giới. Bây giờ trước khi Thầy ăn, Thầy khai giới: “Hôm nay vì cái thân bệnh tôi xin khai giới để uống thuốc. Sau khi uống thuốc mạnh rồi, tôi đóng giới lại”. Khai, giá, trì, phạm mà. Cho nên tôi không có phạm giới, vậy tôi có pháp tôi thực hiện chớ không phải là tôi cố chấp. Còn mình chấp tôi không ăn phi thời, nhất định chết bỏ chớ không ăn phi thời, do đó bỏ uống thuốc không được. Vì vậy mà uống thuốc không được mà bệnh không hết. Bệnh không hết thì chỉ còn nước chết, cái này là giới cấm thủ.
Nó thuộc về kiết sử, nó trói mình. Khi mình chấp giới nó bị trói. Phật cho mình một cái lối, để cho mình khai, cũng như bây giờ, có người phụ nữ, họ bị chết đuối dưới sông. Họ đang hụp lặn ở dưới, mà mình đi ngang, mình gặp. Mình là vị tu sĩ mà, không được, giới cấm không được đụng người phụ nữ cho nên mình đi luôn, người đó chết. Trong khi đó mình khai giới: “Bây giờ trước cái tình trạng mà quá cấp bách như thế này, tôi phải cứu người. Cho nên tôi phải khai giới liền”. Tôi nhảy xuống lội ra ôm cô ta lên. Xong rồi, có người khác đến hô hấp cho cô ta, thì mình giao cho người ta. “Tôi xin đóng giới lại”, ngay liền đó tư tưởng của mình xin đóng giới lại, từ đây thì mình ra đi, không để cho người ta lưu lại ơn nghĩa gì hết, thì tức là mình không có lưu lại cái tình cảm của mình. Nhất định đóng giới lại và giữ gìn, không có để sự đụng chạm nhau mà nó gây ra cái cảm xúc của nam nữ. Giờ đó mình đóng giới lại tức là mình giữ gìn như vậy.
Cho nên người như vậy gọi là không bị năm cái hạ phần kiết sử này, còn không khéo. Bởi vì, ở đây những cái phần này rất quan trọng để cho mình biết những cái điều kiện mà nó xảy ra, mà mình chấp giới quá, thì mình bị kiến kiết sử của giới trong cái hành trì tu hành của mình.
(06:47) Tham kiết sử tức là cái tham của mình. Mình ham muốn cái đó, nó có ham muốn ở trong lòng của mình. Thí dụ như bây giờ mình muốn cái này, mình muốn cái máy này. Cái lòng ham muốn của mình, nó luôn luôn mà mình không có chịu đoạn dứt nó ra, mình cứ cho nó trói buộc, để cho tới chừng mình có tiền sắm mới được, cái đó gọi là tham kiết sử. Tham kiết sử của hạ phần.
Sân kiết sử là bây giờ mình đang sân nè, nó trói buộc cái lòng sân của mình, tức là nó buồn phiền trong đó. Nó chửi mình, nó nói nặng nhẹ hoài, nó tức giận mà không chịu xả ra, đó là mình bị sân kiết sử. Năm cái này gọi là Năm hạ phần kiết sử, nó mới hạ thôi.
(07:35) Còn Năm thượng phần kiết sử. Sắc tham là sắc tham kiết sử. Bây giờ mình thấy một người phụ nữ, hoặc là mình thấy cái món đồ đẹp nào đó, mình khởi lên ham muốn thì cái ham muốn này, cái sắc tham kiết sử này, nó làm cho mình thấy cái món vật đó nghĩa là bắt đầu cái tham của ngũ triền cái.
Mình phải phân biệt giữa triền cái với cái này, với cái tham dục triền cái, ở đây, cái tham dục triền cái với sắc tham. Giờ Thầy thấy cái máy này, thấy cái sắc của nó. Sắc tham có nghĩa là con người mình, người ta dạy phương thức, hễ mình thấy cái sắc phụ nữ có là một, thấy món đồ, thấy cái xe; thấy cái gì hoặc thấy cuốn sách, thấy đẹp rồi thích, cái đó gọi là sắc tham.
(08:29) Thì cái tham dục của triền cái, nó khác, nó khác hơn, nó phải so sánh được cái chỗ này. Bởi vì Thầy phải phân tích được cái chỗ này. Tham dục của triền cái là mình khởi sự, mình thấy cái này, mình muốn cái này. Cũng như mình thấy một cô phụ nữ, mình muốn cô phụ nữ, thì đó tham dục nó che mình luôn luôn, mình cứ tương tư trong lòng mình hoài. Thời gian mà tương tư, nó trở thành sắc tham, nó không còn nằm ở trong triền cái nữa. Nó khởi cái điểm của nó là triền cái nó che mình rồi, bắt đầu từ đó nó bị trói buộc. Nó trói buộc thì nó trở thành Năm thượng phần kiết sử.
Từ cái này nó chuyển qua cái này liền, nó trói mình liền, còn cái kia nó ngăn che mình, cho nên mình không thấy nó, mà cái này là cái khổ, có cái này giữ gìn, nó là rắn độc, nó là cọp dữ. Nó sẽ đem đến những cái nỗi khổ cho mình, có thể nó là một cái tù chung thân của mình đó.
Do đó nó bị ngăn che, mình thấy nó thích, mình thấy nó ham muốn, đó là tham sắc dục của triền cái.
Nhưng mà cái đó nó triền miên trong lòng mình để mà đạt cho được, nó trở thành sắc tham của kiết sử.
Thấy chưa, thấy từ cái đầu, rồi đến cái chỗ đó nó trói mình vô đó, nó thành cái kiết sử.
(09:54) Vô sắc tham, nó không có hình ảnh mà nó tham muốn. Bởi vì sắc tham nó có cái hình ảnh, rồi nó lưu hình ảnh đó, nó cứ ở trong ham muốn mình hoài. Còn giờ nó không có, mà nó tưởng ra. Cho nên vô sắc tham là tưởng tham. Vì vậy mà nó thực hiện trong giấc mộng.
Thí dụ của vô sắc tham, như bây giờ cha mẹ mình mất đi rồi, nó không còn cái hình ảnh đó nữa, thế mà mình nằm mộng mình thấy được cái hình ảnh của cha mẹ mình. Nó tham đây, nó còn thương, còn nhớ. Chữ tham đây nó đủ mọi cách hết trơn, nó nằm ở trong cái dục tham. Cho nên nó thực hiện qua cái hình ảnh của cha, mẹ mình. Mình thấy cha mẹ mình còn sống chớ chưa có chết.
Còn mạn, mạn thật sự ra cái mạn kiết sử này, thì luôn luôn lúc nào mình cũng chấp ngầm ở trong này, nó có cái mạn. Nó trói mình chặt lắm, ai không động tới, chớ động tới là sân liền. Nó chấp ngã, ngã mạn dữ lắm, chớ không phải thường, đó là kiết sử nó trói mình. Cho nên những sợi dây này, nó rất khó bức. Thượng phần kiết sử nó khó lắm.
Nó có cái trạo cử kiết sử. Muôn đời mình ngồi, bắt đầu mình ngồi, cho nên đức Phật dạy mình: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”. “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Mình ngồi đây chớ coi chừng nó lát ngứa ngáy, hoặc là nó làm cho mình bất an, nó bị trạo cử. Mà cái trạo cử của cái thượng phần kiết sử này, là luôn luôn nó có sẵn trong thân nhất là về cái thọ. Hễ mà khi nó trạo cử, nó làm cho mình khó … cũng như bây giờ mình ngồi tới tê chân, nó cứ bắt mình nhúc nhích, bắt mình phải ráng chịu đựng cái này cái khác đau khổ, hoặc nhức chân của mình. Ngồi kiết già thì nó làm cho mình khổ sở, khó chịu, cảm giác nó bất an lắm, nó trạo cử. Cái thọ nó làm cho mình bất an lắm, trạo cử, mà cái này muôn đời mình đã có cái sợi dây trói buộc này, gọi là kiết sử của nó.
(12:03) Còn vô minh kiết sử thì chắc chắn con người của mình, người nào đều cũng vô minh hết, không có người nào là không vô minh. Và cái vô minh này cứ lầm chấp là minh không, cho nên nói thật sự là vô minh. Chỉ ra khi nào, mình minh thì mình sống đúng giới, còn mình phạm giới tức là vô minh, có hai cái đó thôi. Cái người phạm giới là người vô minh; người sống đúng giới, chẳng hạn như mình đang sống ăn ngày một bữa là mình minh. Mà mình lỡ ăn phi thời một chút tức là mình vô minh.
Cho nên vì vậy: “Giới luật là trí tuệ, trí tuệ là giới luật mà; mà trí tuệ đâu là giới luật đó”. Cho nên hai cái này nó không tách lìa nhau được. Vì vậy cho nên vô minh nó kèm theo với cái chỗ phá giới, mình phải thấy được cái chỗ. Cho nên cái vô minh kiết sử này, luôn luôn nó ngầm ở trong cái chỗ mà hiểu lệch của mình, chỉ còn có kê cái bản giới luật, mình có phạm cái lỗi, tức là mình vô minh. Còn mình không kê ra được, thì cái đó là phạm lỗi rồi, mình bị vô minh kiết sử. Nó trói mình, nó trói chặt lắm.
Thí dụ như bây giờ, sáng mình thèm muốn ăn, thì đó là vô minh rồi, phá giới rồi. Mình thấy cái tâm mình như vậy là vô minh. Mà khi mình phạm một cái là vô minh thật sự, mà mình còn minh thì mình tư duy, mình suy nghĩ, mình nhất định mình chết chứ không ăn phi thời, thì như vậy là mình sẽ minh. Minh với vô minh, hai cái nó luôn luôn đi kề với nhau như bên mặt với bên trái vậy đó.
Ví dụ như bây giờ Thầy nói ở đây độc cư, mà mình đi nói chuyện thì đó là vô minh. Mình nói chuyện, tức là cái tâm mình phóng dật, tức là vô minh, mình để tạo cho mình không giải thoát, đó là vô minh. Thí dụ như bây giờ Thầy nói độc cư, không tiếp duyên ai, không nói chuyện ai, ráng nỗ lực thực hiện tâm không phóng dật, do đó mình thấy cô đơn buồn bã quá, sanh ra đi làm chuyện này, đi làm chuyện kia, thì đó là vô minh.Vô minh kiết sử, nó hiện ra, nó trói mình, nó dẫn đi.
(14:06) Còn cái vô minh của Ngũ Triền Cái, nó trạo cử, thì nó thùy miên. Nó thùy miên, nó buồn ngủ, nó hôn trầm. Hôn trầm thùy miên, cái đó là vô minh, là si. Cái tướng trạng của ngũ triền cái này là tướng si. Tướng si nó hiện ra tướng ham ngủ. Nó ham ngủ, tức là ngồi đâu gục đó, ngồi đâu cũng là buồn ngủ đó, thì cái đó là tướng si. Cho nên người nào ham ngủ là người đó si.
Còn cái vô minh này, là cái vô minh trong thượng phần kiết sử này, nó thuộc về giới luật. Cho nên nó không có buồn ngủ, mà anh cứ anh phạm giới hoài thì anh là vô minh. Cho nên mình thấy si nó cũng là vô minh chớ gì. Nhưng mà si, nó hiện cái tướng si của triền cái.
Cho nên cái gì mà nó hiện ra cái màn che của nó, thì cái đó nó hiện ra cái tướng, thì đó là triền cái. Cái gì mà nó trói buộc mình, nó làm cho mình không đúng, thì cái đó nó nằm trong cái kiết sử.
(15:13) Trong kiết sử thì đây là Năm thượng phần kiết sử và Năm hạ phần kiết sử có bảy kiết sử, nó còn có bảy cái kiết sử nữa. Cái này Thầy thường hay nhắc nhiều nhất là vì nó cũng rút tỉa ở trong Năm thượng phần kiết sử và Năm hạ phần kiết sử. Cái này nó rút ra ở trong Thất kiết sử này. Tóm lại, Thất kiết sử nó rất cụ thể và rõ ràng.
Ái kiết sử tức là tình nghĩa cha con, hoặc gia đình, lòng thương yêu của mình, tức là ái kiết sử, nó trói buộc, mình dứt khó lắm.
Sân kiết sử là cái lòng sân của mình, nó khó dứt lắm. Giờ mình không sân, chớ nó có sẵn ở trong này nè. Đó là những cái nó trói buộc mình.
(15:55) Kiến kiết sử, những cái mình hiểu biết như các nhà Đại thừa, họ chấp nhận Phật tánh hoặc Chơn như này kia, cái kiến chấp đó của họ cũng khó bỏ lắm. Mà chấp như vậy là như thế nào, đúng rồi là khó bỏ lắm gọi là kiến kiết sử, là cái mà họ hiểu biết. Đó là kiến kiết sử.
Nghi kiết sử, cái nghi của mình, cái tâm nghi của mình. Con người của mình bây giờ nó hết nghi thì không nói, nó không có hết được đâu, hở ra là nó nghi, đó là nghi kiết sử.
Mạn kiết sử, cái ngã mạn của mình, tức là mình chấp ngã dữ tợn. Nó trói mình chặt lắm, đó là kiết sử.
Hữu tham kiết sử, những cái vật của mình chung quanh mình có, như là cái bát của mình, mình xả còn không được, chớ đừng nói là hữu tham. Cái có, hữu là nó có rồi; tham là nó giữ không bỏ ra được, cái đó là hữu tham kiết sử.
Vô minh kiết là cái phá Giới.
Đó là Thất kiết sử của mình.
Sư Tuệ Tĩnh: Mình phá nó, làm sao mình phá được Thầy?
(16:51) Trưởng lão: Bởi vậy cho nên mình tu, mình phải dùng các loại định, coi như là Tứ Chánh Cần- ngăn ác, diệt ác. Tất cả những cái này đều là pháp ác không, mà nó chỉ phá nó, phá cái Thất kiết sử này chỉ duy nhất có pháp Như lý tác ý là phá được thôi. Bởi vì nó ngầm ở trong người của mình, nó đủ cái đó, nó trói buộc mình trong này, bây giờ nó có sẵn rồi, nó thành cái lực dữ tợn lắm. Cho nên vì vậy, hằng ngày mình nhắc, mình hướng tâm, mình nhắc, nó mới cởi mở từng chút, từng chút nó mới ra, nó ra những cái sợi dây đó nó bứt ra. Chỉ có pháp hướng mà nhắc thôi, chớ còn Thất kiết sử này nó đặc biệt.
Sư Tuệ Tĩnh: Mình hướng cách nào Thầy?
Trưởng lão: Ví dụ như mình hướng: “Tâm ly dục, ly ác pháp”. Nó ly cái đó, thì nó cắt cái này. Nó không ly thì nó không cắt đâu, rồi mình sống đúng độc cư, nó không phóng dật thì nó cắt.
Pháp hướng nhắc hằng ngày sẽ trở thành cái lực. Bởi vì cái sự tu tập, Thầy nói thật sự nó phải có sự bền chí, bền chí hết sức với cái pháp Như lý tác ý. Bởi vì không thể nào mình nhắc một lần mà nó hiệu quả được. Có người, người ta nhắc mười lần, người ta có hiệu quả. Còn mình nhắc mười lần, trăm lần chưa có hiệu quả, tại vì cái khối nghiệp của mình, cái khối kiết sử này nghiệp nó chặt quá, cái dây nó buộc chặt quá. Còn người ta cái dây nó lỏng, người ta nhắc năm, mười lần cái nó được. Còn mình nhắc nó như vậy, nó cũng bứt đó, nhưng mà bứt không hết. Nó nhiều quá, nó chồng lớp lớp nó trói mình nhiều. Cho nên có nhiều người rất lâu, có nhiều người rất mau.
(18:16) Cũng như, ví dụ như Thầy trong sáu tháng, còn quý sư thật sự ra mà nếu chuyên cần, phải sáu tháng nó mới có hiệu quả. Phải chuyên cần, phải tinh tấn chớ còn, mình tu chừng một năm, mình thấy không hiệu quả thì mình bỏ là mình phí. Chớ nó không phải đơn giản đâu. Phải bền chí, phải kiên nhẫn dữ lắm.
Mình quyết, mình tin tưởng cái pháp sẽ thực hiện được cứu cánh của mình. Mình nỗ lực hằng ngày, nhắc “Tâm như cục đất, không tham, sân, si nữa!” Mình nhắc sao thấy nó vẫn còn hoài chứ chưa hết, nhưng bền chí rồi mình sống cho đúng pháp, đúng giới luật, nhắc như vậy. Một mặt mình nhắc, một mặt mình sống cho đúng; một mặt mình độc cư cho trọn vẹn, đừng có để tâm nó chạy theo ra ngoài, thì mình nhắc nó có hiệu quả.
Còn mình sống không đúng, giờ mình cũng tiếp duyên ăn uống phi thời, cũng sống theo kiểu thế gian, thì mình nhắc nó cũng chẳng ăn thua gì. Giờ mình nhắc cả triệu năm nó cũng không ăn thua, mà mình sống cho đúng cái phạm hạnh của mình đi, rồi cái pháp Như lý tác ý nhắc nó, nó mới bứt hết ra. Thế còn mình không nhắc nó, nó không có bứt đâu, nó nằm lỳ đó, nó trói chặt mình hơn nữa, nó làm cho mình ức chế, nó chờ có dịp nó bung ra còn mạnh hơn nữa.
Bởi vì thời gian nếu mà mình tu không khéo, thì coi như mình nén tâm, chừng nó bung ra, kể như ông trời có cản cũng không được, nó đổ ra.
Hôm nay Thầy giảng về cái phần Năm hạ phần kiết sử, Năm thượng phần kiết sử và cái Thất kiết sử, mà ở trong kinh Trường Bộ này cái tập hai, thì kinh Phúng Tụng, cái bài kinh Phúng Tụng, nó có nói bảy kiết sử, Năm hạ phần kiết sử; Năm thượng phần kiết sử, nó đủ hết. Nhưng mà nó không giải thích ra, nó chỉ nói thôi rồi mình hiểu sao đó mình hiểu. Coi như nó cô đọng lại tất cả những cái bài kinh của Phật thuyết, nó cô đọng lại. Cũng như ví dụ như, ở trong đó, thí dụ như có nói năm pháp, có bảy pháp, có ba pháp. Làm cái gì thì nó nói ba pháp, năm pháp, nó nói tóm tắt lại câu ngắn vậy thôi, còn mình muốn mà đọc cho rõ, thì mình phải đọc nghiên cứu qua kinh Tương Ưng, hoặc là kinh Tăng Chi.
(20:28) Trong những cái bài kinh, trong những cái kinh Tương Ưng, Tăng Chi nó giải thích những cái phần cái này ra. Thí dụ như Năm hạ phần kiết sử, mình muốn biết thì mình phải đọc trong kinh Tương Ưng, hay hoặc kinh Tăng Chi, trong đó nó giải thích ra. Mình phải hiểu Năm hạ phần kiết sử như thế nào, Năm thượng phần kiết sử như thế nào.
Nghiên cứu kinh sách cũng dữ tợn lắm, mà mình có tu rồi nghiên cứu cái nghĩa nó mới lòi ra, chớ mình không tu cái nghĩa nó không lòi ra. Còn mình giảng theo cái mình học như các nhà giảng sư, các thầy tổ mình giảng, mình theo nghĩa của mấy ông giảng thì tu hết nổi, tu không vô, bởi vì nó sai nghĩa nên mình hiểu trật, không đúng, không biết cách tu.
Sư Tuệ Tĩnh: Cái này Thầy đã trải qua con đường đó, Thầy trở lại…
Trưởng lão: Trở lại…bây giờ trở lại mới là làm cái việc giải thích kinh sách cho nó đúng đường lối, cách thức. Còn bao nhiêu nghĩa lý của thầy tổ gạt kinh… bởi vì tu rồi thấy được cái nghĩa nó sai. Chớ còn không tu, thì chắc chắn Thầy không có dám, đâu có dám thấy sai. Bởi vì tu rồi mới biết cái này không thực hiện được, không đúng đâu.
Sư Phước Nhẫn: Cái phần bên Nam Tông chú giải, cái bộ Đại Tạng nó có một số sách chú giải, người giải kiểu này, người giải kiểu kia, cái bộ Đại Tạng đó..
Trưởng lão: Cái đó nó nhiều lắm, bởi vì cái đó, người giảng thế này, người giảng kiểu kia. Mà cái người nào người ta thực hiện được thì người ta giảng mới đúng. Còn cái người nào thực hiện chưa được thì giảng sai hết.
Có cái thì họ giảng cũng đúng với nhau, có cái thì giảng trật nghĩa, chớ không phải cái nào cũng sai hết thì không phải. Bởi vì cái nó có cái nghĩa nó như nhau, thành ra khi mà cái nhà học giả này giảng, cái người này người ta tu, người ta giảng cũng đúng vậy, nhưng mà có những cái giảng không đúng như nhau.
(22:18) Cho nên cái số chú giải, chú thích của những nhà học giả, những cái người bên cái bộ Nguyên Thủy Nam Tông, họ dịch Tạng kinh đó, họ chú thích nhiều lắm nhưng mà có cái đều kiện thật sự là sai nhiều lắm. Nó sai với nhau, nó không đúng, cái hiểu người này nó khác cái hiểu của người khác. Trừ ra có những người nào người ta tu được hoàn toàn, thì mình theo đó, mình mới hiểu được cái nghĩa đó mà mình tu.
Cho nên khi mà Thầy làm cái việc này, có ba năm thôi. Trước, khi mà Thầy tu xong rồi, Thầy về gặp Hoà thượng Thanh Từ. Hoà thượng mới bảo Thầy: “Bây giờ chú về chú đọc hết những cái Tạng kinh của Phật giáo, rồi chừng đó thì chú sẽ giúp Thầy để chấn hưng thiền tông Việt Nam”. Thầy về Thầy đọc Tạng kinh, Thầy viết lại cái bộ Đường Về Xứ Phật năm chục tập, mỗi tập dày như thế này. Loại kinh nào Thầy cũng đọc hết, nghĩa là Tạng kinh Pali thì Thầy đọc sạch ra hết, cái bài sai, đúng từng chữ, nghĩa sai, Thầy gạt sạch ra hết. Thầy không dám đưa cái bộ kinh này cho ai đọc hết. Rồi sau ba năm này, thì coi như là Thầy thấy mình sắp sửa, thân của mình nó già rồi, nếu mình không nói ra sự thật thì trăm ngàn lần cũng không ai biết đúng, sai. Thôi kệ, nói gióng lên tiếng chuông rồi sau này còn có người cảnh tỉnh được, người ta biết được cái đường lối đó.
Sư Tuệ Tĩnh: Nhưng mà Thầy không tiếp tục lên Hòa Thượng để mà nhắc lại chuyện này, Hoà Thượng nói với Thầy để đặng mình cũng như kéo lôi được một số huynh đệ về.
Trưởng lão: Thầy, bởi vì mười bảy năm trời, Thầy không nói, hé răng nói về Giới, Định, Tuệ bao giờ hết, Thầy luồn lách ở trong để giúp cho Hoà Thượng, để đào tạo số huynh đệ của mình để cho người ta thực hiện những cái nòng cốt, chiều sâu mà không được. Chứ đâu phải dễ, chứ đâu phải dễ đâu. Hồi đó thì Hoà Thượng bảo vậy đó, mà khi mà về rồi đó, thì lúc bấy giờ cái khu Chơn Lạc ngoài đó mà Thầy xây cái trung tâm, thì cái chú Tâm cúng dường cái khu đất đó cho Hoà Thượng. Hoà Thượng mới kêu Thầy, giao cái khu đất đó, tới chừng mà Thầy ra ngoài Thầy mở cái Tu Viện Chơn Lạc thì cái chữ mà Chơn Lạc thì cũng là Hoà Thượng Thanh Từ cho cái tên đó, khu vực đó.
Sư Tuệ Tĩnh: Cái đó ở đâu?
(24:37) Trưởng lão: Ở ngoài Phước Hải. Thầy mới đưa Thầy Thông Huyễn ra ngoài đó, ở ngoài đó chứ đâu có ai. Thầy đưa Chơn Thông ra ngoài đó trước, sau đó Thầy rút Chơn Thông về, Thầy đưa đi qua bên các nước Nam Tông. Thầy đưa thầy Thông Huyễn ra ngoài đó. Giờ thì Thông Huyễn lên Phật Quang ở trển. Do Thầy đưa ra đó để mà Thầy lập. Nhưng mà Thầy đưa ra đó rồi thì bắt đầu Tu Viện Thường Chiếu, quý thầy họ theo Thầy hết, trời, nó làm náo động ở Thường Chiếu hết. Tại họ thấy con đường Thầy tu như vậy rồi thành ra họ theo hết. Thì bắt đầu Hoà Thượng ra lịnh cấm liền, không được theo.
Sư Tuệ Tĩnh: Chắc tại Hoà Thượng sợ Thầy làm nổi bật quá
Trưởng lão: Nó theo sạch hết, cho nên từ đó Hoà Thượng cấm. Hồi đó thì Hoà Thượng chưa có Trúc Lâm, còn ở Thường Chiếu. Cho nên khi đó thì coi như là Hoà Thượng thấy nguy cơ khi Thầy đứng ra mà Thầy chấn hưng thì coi như người ta tập trung theo Thầy. Nghĩa là nói chung là Thường Chiếu đi hết, nghĩa là dao động Thường Chiếu hết. Bởi vì, Thầy giảng pháp, Thầy nói mình phải đi vào giới luật, để rồi mình thực hiện cái chiều sâu mới được.
Các thầy dao động hết, người nào cũng xách gói đi theo Thầy hết. Lên xin Thầy người cái thất, người cái thất ở ngoài đó hết. Thầy ra đó cất một loạt, nghĩa là ở trong này Thầy cho nó ráp nhà như tiền chiến vậy, ráp từng miếng, từng miếng vậy đó. Xe cam nhông Thầy chở qua Thầy đổ mấy xe ở ngoài, cái bắt đầu ra đó dựng lên. Thầy nói cái khu rừng hồi đó còn rừng rú dữ lắm, mà Thầy ra ngoài đó Thầy cho cái số người đắp nền, thì cái nền nào đắp xong thì cái nhà. Cái số người ráp chỉ trong một ngày mà người ta nhìn thấy mười mấy hai chục cái nhà như một cái làng. Đứng ở dưới này dòm lên trên triền núi thấy một cái làng, nhà cửa lóc ngóc. Nhà nước họ hoảng sợ, cất nhà gì mà nhanh tới kinh khủng.
(26:26) Mà ra ngoài Thầy xây dựng ở bên Phước Hải với bên Long Hải, bên Long Hải khu Ni, khu sư bà Huỳnh Ngọc đó, hồi đó sư bà đồng tu với Thầy ở trên Chơn Không đó, một lượt nhau đó, rồi sau đó bên ni Thầy kêu sư bà ra đó lãnh chúng ni bên nữ. Sư bà ra bên đó, qua bên Long Hải.
Cho nên đồng thời bên đây thì cho bên tăng ra , nó ra một loạt nhà. Ở bên kia Thầy cho nó nổi lên một loạt nhà bên ni, cũng cốc nhỏ nhỏ như vậy nè, đầy hết. Trời ơi, thiên hạ họ hoảng sợ, họ đồn, nhà nước vô coi sao cất nhà dữ tợn. Nhưng mà lúc bấy giờ coi như Thầy ra ngoài đó Thầy mua đất mua đai này kia, Thầy xin phép, Thầy xin phép đàng hoàng. Thầy nói, chúng tôi chỉ cất nhà tạm ở chứ không cất chùa chiền gì hết, tạm ở để tu tập thôi. Trong khu rừng núi khí hậu tốt, nhà nước giúp đỡ cho. Người ta tưởng đâu là Thầy cất cái nhà năm, ba người ở, không ngờ Thầy làm người một cái, người một cái làm cả cái làng hoảng. Nhưng mà họ không đuổi, nhưng mà họ sợ, họ sợ không biết làm cái gì đây, không biết cất đồn bót gì đây, nửa đêm nó xách ra nó đảo chánh… họ sợ lắm.
Hồi Thầy mới về đây, Thầy cũng vậy, cất liền năm, sáu, bảy cái thất. Cái thầy Như Hải, cái ông mà hôm đó về đây, ông về dưới… bốn người về đây đầu tiên, về đầu tiên cái ra xin phép, thấy nhà cất nó cũng chưa biết như thế nào mà cất nhà kỳ vậy, nó cũng chưa biết, nó nghi lắm nhưng mà thấy sao có người ở tỉnh này, người ở tỉnh kia. Thầy Như Hải ở Nha Trang, cô Bảo thì ở Long Đất, còn Thiện Ngộ thì ở Bình Dương, còn cô Chánh thì ở Cà Mau, bốn người bốn địa phương, bốn tỉnh, nó nghĩ là Thầy chắc kêu mấy người này về đây để mà đào tạo những cán bộ, mỗi tỉnh về để hoạt động ở tỉnh. (Thầy cười) Vô đây ở đây thì bắt đầu công an mời ra ngoài liền, lên trển xin phép tạm vắng, tạm trú đàng hoàng. Xin phép tạm vắng, tạm trú, cái bắt đầu nó cũng cho phép, mà mình về vừa tới nhà của mình thì ở ngoài huyện nó vô liền, vô mời liền, công an huyện vô mời, mời bốn người đó ra.
Sư Tuệ Tĩnh: Cho ở không Thầy?
(28:47) Trưởng lão: Bắt đầu nó ra ngoài, nó nhốt lại một đêm tới sáng trưa, thành ra Thầy đi lên thầy Châu, thời đó thì chưa có Giáo Hội đâu. Giáo Hội chưa thành lập, Thầy lên thầy Châu Thầy nói với ông, ông hồi đó ông làm ở Mặt trận ở huyện Trảng Bàng, do đó Thầy nói: “Bây giờ cái trường hợp xảy ra vậy, thầy có biết tụi tui ở đây là những người tu hoàn toàn. Bây giờ tui thì không có nói chuyện với nhà nước được, thầy nói thì họ tin, thầy ra ngoài thầy giúp dùm”, thì ông mới nói: “Thôi, bây giờ Thầy với tôi đi ra”, thì Thầy đi ra ngoài đó gặp cái cô Mười Sương, cô qua đó thăm Thầy.
Thầy mới trình với cô Mười Sương, cô Mười Sương thì cổ là người tốt, vì hồi đó cổ là cán bộ, cổ công tác ở huyện này, cổ cũng biết Thầy, cho nên vì vậy cổ nói: “Thôi Thầy yên tâm đi, để tui qua bển tui làm việc với bên công an một chút”. Do đó cổ qua bển, cổ làm việc, cổ nói: “Mấy ông bắt như thế này là mấy ông đã tự mấy ông đã làm sai đường lối của người ta. Nghĩa là trong lúc này đất nước của chúng ta không phải là cái lúc mà động như thế này. Mấy ông làm động như thế này là ảnh hưởng chính trị rất lớn, cho nên mấy ông cố gắng giải quyết làm sao cho gấp”. Cô Mười Sương cổ nói với mấy ông công an như vậy. Cổ lên trên ông Chủ tịch huyện Trảng Bàng, cổ lên trển, cổ báo hết: “Mấy anh phải giải quyết vấn đề của tôn giáo mà ở trong chùa Am, tôi biết ổng là con người tốt, rất tốt, tụi tui hồi đó công tác tụi tui biết. Vậy mấy ông phải giải quyết chứ không để mang tiếng, bà con trong cái vùng đó người ta biết được thì người ta biểu tình là mình rắc rối. Bởi vì, ổng đối với bà con ổng có uy tín chớ hổng phải không đâu, nếu mà làm cái gì sai là biểu tình, chừng đó mình ảnh hưởng chính trị rất lớn”. Bả hù mấy ổng.
(30:40) Ông chủ tịch huyện này ổng điện cho công an ở bển, rồi nói chuyện này nọ. Rồi đến trưa kêu thả ra hết, thả ra hết rồi mấy ổng kêu thôi giải thể cho về. Thì Thầy qua nói với cô Mười Sương: “Người ta đã khăn gói về đây người ta học tu, mà bây giờ cho về như vậy thì lại mang tiếng nữa. Người ta về xứ người ta nói này nói kia nữa, ở Tây Ninh khó này kia, thì mang tiếng cho cái tỉnh này. Do đó vì vậy cô phải giải quyết chứ còn…” Cổ qua bển nói: “Bây giờ cái chuyện không có gì hết thì thôi bây giờ cho người ta ở, chớ sao lại đuổi người ta. Mình đuổi người ta mình còn ảnh hưởng chính trị.” Rồi bắt đầu cho ở, thành ra mấy người đó ở tu. Giai đoạn đầu tiên là ở đây khó vậy, nhưng mà từ đó nó vẫn theo dõi tại sao mà Thầy có uy tín như vậy mà cất nhà cửa kỳ cục.
Nghĩa là nó nói thay vì cất cái chùa kiên cố, còn đây mình giống như là mình nằm vùng, không biết làm gì mình, nó lật đổ, rồi nó đi chỗ khác. Thành ra Thầy … Phước Hải, Long Hải cũng vậy… Bởi vậy Thầy nói cất cái nhà kiên cố họ không sợ, mà cất cái nhà như thế này, dã chiến như thế này nó sợ lắm. Nó sợ không biết mình làm cái gì rồi mình bỏ mình đi. Thật sự cái đời sống của tu sĩ là đời sống không dính mắc, chớ mà cất mà dính thì kể như là mình đâu chịu nổi. Đó là cái điều kiện, Thầy nói cần ở hang là ở hang chứ không cần cất nhà, cất nhà còn cực lắm, mình vô hang ở như thường.
Sư Phước Nhẫn: Chơn Lạc của Thầy có hai chỗ?
Trưởng lão: Chơn Lạc của Thầy hai chỗ, một chỗ bên Phước Hải, một chỗ ở bên Long Hải, hai chỗ đều là Chơn Lạc, chỗ nam, chỗ nữ.
Sư Phước Nhẫn: Còn bây giờ Thầy đang xây là chỗ cũ hồi xưa? Chỗ cũ phát triển ra?
Trưởng lão: Chỗ cũ hồi xưa. Thầy nói chú Tâm, chú đang nỗ lực thực hiện. Thầy không bao giờ nói, chuyện xây cất, Thầy không làm đâu mà giao cho người cư sĩ nào làm thì làm. Cái này đang, Thầy đề nghị, ý Thầy như vậy thôi.
Sư Phước Nhẫn: Chuyện xây cất con đề nghị Thầy cái này một chút. Đi mấy cái chùa chỗ nào cũng đặt cái này, cầu tiêu …(33:14)
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 22
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [48:49]
Thời gian: 2002
Tên cũ: 12A-PhapHuongTamNhapThienDinh-DocCuTuonTrao
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-22-tam-tuon-trao-khi-doc-cu.mp3
Sư Phước Nhẫn: Thưa Thầy, lúc mà con ngồi Thiền, con chú tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác hơi thở thường hay bị thất niệm hoặc tạp niệm nó xen vào. Rồi lúc con ngồi thư giãn, con để ý, lúc con thư giãn, ngồi thong thả thì con cũng theo dõi hơi thở, tạp niệm nó ít vô. Cái đó như thế nào thưa Thầy?
Trưởng lão: Tạp niệm phần nhiều là do những kiết sử, nó còn nhiều trói buộc, nó hay hiện ra. Cho nên khi mình tập trung mà căng nó, tức là ức chế nó thì nó bật ra dữ lắm. Còn mình ngồi mình thư giãn, thư giãn để nhẹ nhàng thì nó không bật ra.
Cho nên do chỗ đó mình mới biết rằng tâm của mình nó cần phải sống độc cư nhiều hơn. Phải tránh duyên, cắt duyên, từ đó nó mới ly ra, nó lìa ra được thì bắt đầu mình ngồi mình tập trung, nó mới vô. Còn bây giờ nếu mà tập trung, bắt đầu nó bung ra. Mình tập trung, mình ráng đừng cho niệm nó khởi thì nó lại bật ra nhiều.
Còn mình ngồi thư giãn, chơi thì nó lặng. Tức là mình biết nó là Ái kiết sử, kiết sử của mình, nó nhiều quá.
Sư Phước Nhẫn: Chắc tại mình già nên nó thâu vô nhiều.
Trưởng lão: Đúng rồi, cái đó mình huân tập trong cuộc đời mình nhiều. Nói chung là nó không phải trong một đời nay đâu, cái đó đã nhiều đời.
Tuổi mình lớn rồi thì nó huân trong cuộc đời mình quá nhiều, cho nên nó bật ra chuyện này đến chuyện khác.
Tuổi trẻ, nó còn trong trắng như tờ giấy thì mình tu nó dễ. Nhưng tâm nó chỉ có hướng ham muốn, chứ không biết gì hết, nó dễ, nó mau.
Có cái là nó thấy đời đẹp quá, nó không thấy khổ, khó tu ở chỗ đó.
Sư Phước Nhẫn: Mỗi cái nó khác. Tuổi nó khác. Con đi kinh hành đó Thầy, thỉnh thoảng con nhắc, con nhắc mình nhớ, chẳng hạn như là: "Tham Sân Si ly ra", nhưng mà mình ly ra, mình nhắc làm sao thưa Thầy. Mình nhắc ly ra để cho mình được Sơ Thiền hay là cho mình được độc cư trọn vẹn thưa Thầy. Khi mình thấy, cũng như con bây giờ, con thấy con chưa độc cư trọn vẹn nên mình nói để được độc cư trọn vẹn về tu viện ạ, thầy?
Trưởng lão: Không đúng. Làm vậy không hiệu quả. Bây giờ mình chỉ nhắc nó: "Tâm ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền".
Sư Phước Nhẫn: Phải nói là "Nhập Sơ Thiền"
(02:44) Trưởng lão: "Nhập Sơ Thiền". Bởi vì mình lưu ý bốn Thiền của Phật. Phật nói: "Ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền", đó là câu để pháp hướng, chứ không phải nói để mà ly được, mà Như Lý Tác Ý. Cũng như đức Phật nói: "Diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền", cái câu đó không phải là diệt nó được mà mình hướng tâm để nó diệt. Chứ không phải, vậy là mục đích là mình muốn, mình muốn như thế nào. Cho nên Định Như Ý Túc mà, mình muốn cái Định đó, mình muốn Sơ Thiền thì mình nhắc: "Tâm ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền" thì nó nhập Sơ Thiền. Mặc dù mình ly, mình biết mình ly, không phải chỗ mình ngồi, nhưng mình muốn cái tâm mình nó nhập được Sơ Thiền.
Còn khi mình muốn nhập Nhị Thiền thì mình phải ngồi chứ mình đi thì không được.
Còn Sơ Thiền mình đi mình nhập được, bởi vì nó ly dục ly ác pháp. Tâm nó định chứ không phải thân định, cho nên nó vẫn đi mà nó nhập được. Chứ không phải nói là nhập Sơ Thiền, ngồi hết vọng tưởng là nhập Sơ Thiền. Không phải đâu, mà nó chỉ ly dục ly ác pháp, nó còn tầm tứ đàng hoàng mà. Mình phải hiểu được những câu nói như vậy là câu pháp hướng chứ không phải câu nói đó là mình ly được hoặc là mình diệt được. Mà mình hướng để tự động nó diệt, tự động nó ly. Phải hiểu được cái ý.
Ví dụ như Phật bảo: "Ly hỷ trú xả nhập Tam Thiền", cái đó là câu pháp hướng để cho mình nhập Tam Thiền chứ không phải mình ly hỷ được. Bởi vì hỷ tưởng làm sao mình ly được, mình muốn làm sao mình ly được điều đó
Nhưng mà chỉ cái pháp hướng đó nó làm cho cái trạng thái tưởng đó, nó bị diệt, nó bị ly ra chứ không phải mình làm được.
Cũng như đức Phật dạy nhập Tứ Thiền: "Tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền", thì mình cứ ra lệnh như thế này hoặc là: "Xả lạc xả khổ xả niệm thanh tịnh nhập Tứ Thiền" thì nó sẽ theo đó nó nhập. Hoặc là mình nói: "Tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền" thì nó sẽ tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền. Câu đó là câu pháp hướng, không thể nào khác hơn được. Mình không thể nào nín thở mà nhập Tứ Thiền được, mà để tự nó tịnh chỉ hơi thở. Mình chỉ ra lệnh.
Những cái đó là quyền năng của tâm của mình, không phải con người mình làm được. Mình không đủ khả năng làm được.
(05:13) Còn Sơ Thiền mình chỉ sống đúng, chứ mình ly cũng không được đâu, mình chỉ nhờ Pháp Hướng trợ giúp cho mình ly. Mình phải hiểu như vậy. Cho nên vì vậy bây giờ mình chưa có nhập được Sơ Thiền đâu, mình còn đủ thứ mà, nào là ngũ triền cái, thất kiết sử, Hạ Phần Kiết Sử, Thượng Phần Kiết Sử. Năm thứ này nó còn lung tung trong người mình nhiều quá. Cho nên mình muốn ly cho được thì mình phải hết sức ám thị, hết sức mà hướng tâm.
Nhớ chưa, mình đi kinh hành, mình đi để cho mình tỉnh thức ở trong bước đi, để đừng có tạp niệm xen bậy bạ, để cho mình hướng tâm mình nhắc, mình nhớ mình nhắc thường xuyên thì nó hướng tâm có lực. Do đó sau khi mình nhắc, nó vô. Khi nào mình sống đúng đời sống giới luật thanh tịnh thì nó đã ly. Còn cái tâm của mình nó còn phạm.
Sư Phước Nhẫn: Nó còn tùm lum quá.
Trưởng lão: Bởi vì mình phải hiểu tâm giữ được khó lắm, không phải dễ. Thân, khẩu của mình thì nó giữ gìn được, đôi khi nó còn phạm lỗi nhỏ nhặt, huống hồ là tâm, cho nên nó khó.
Mà hễ khi nào tâm nó thanh tịnh hoàn toàn thì nó nhu nhuyễn dễ sử dụng. Đức Phật nói: "Tâm thuần tịnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng" mà. Khi nào nó thuần tịnh rồi thì nó nhu nhuyễn dễ sử dụng. Sai sao nó làm vậy. Đó là cái lý của Đạo rõ như vậy.
Mà bây giờ mình thấy mình chưa có nhu nhuyễn được, tâm chưa thanh tịnh, nó còn tùm lum ở trong này này, nó còn là đống rác, bẩn thỉu lắm, nó bất tịnh.
Cho nên hàng ngày mình đi kinh hành, mình ngồi mình thư giãn chơi, mình cũng hướng tâm mình nhắc tâm. Chỉ duy nhất có cái Pháp đó là đủ lực để chúng ta làm chủ được sự sống chết, chấm dứt tái sanh, luân hồi. Không có cái pháp nào khác.
Sư Phước Nhẫn: Sơ Thiền bước đầu thấy khó, thưa Thầy.
Trưởng lão: Khó, nó đòi hỏi đời sống của mình đúng giới luật.
(07:14) Sư Phước Nhẫn: Mà ở đây được bao nhiêu người nhập được Sơ Thiền thưa Thầy?
Trưởng lão: Ở đây nói chung là chỉ có chú Mật Hạnh, chú nhỏ đó, tâm nó quay vô được, nó không phóng dật là nó ly dục rồi. Nhưng mà rồi, nó bung ra.
Sư Phước Nhẫn: Còn bao nhiêu người khác nữa ạ?
Trưởng lão: Không có nhập đúng nữa, chứ đừng có nói, chưa biết được trạng thái mà tâm không phóng dật. Chỉ có chú này biết thôi, vậy mà còn rớt nữa.
Sư Phước Nhẫn: Con ráng con theo Thầy.
Trưởng lão: Thầy nói cứ sống, dùng Pháp Hướng, bền chí luyện Pháp Hướng. Bởi vì đức Phật nói phải tin, tin Pháp sẽ giúp cho mình.
Sư Phước Nhẫn: Dạ. Bởi con nghĩ, nếu mà mình chưa có Độc cư trọn vẹn thì mình nhập Sơ Thiền làm sao được, con nghĩ vậy. Con nghĩ chắc lẽ mình phải nói, mình phải cầu nguyện cho mình được độc cư trọn vẹn.
Trưởng lão: Không được, mình độc cư trọn vẹn, là khi các duyên mình cắt, không có tiếp duyên được rồi. Không có tiếp duyên rồi, thì bắt đầu bấy giờ mình mới hướng tâm, tu tập để mình xả. Bởi vì tâm mình nó tuôn trào. Độc cư là nó tuôn, nó phá độc cư của mình. Nó khó lắm, đó là mình cắt các duyên ở bên ngoài, đừng để nó phá. Thí dụ như bây giờ con muốn độc cư, con phải dặn mấy đứa cháu: "Bây giờ ba quyết định ba tu trong một năm, hai năm hay ba năm cho xong, mấy con thương ba đừng có thăm viếng gì hết, đừng có gặp gỡ gì hết, để ba cắt trọn vẹn, để ba thực hiện con đường giải thoát"
Sư Phước Nhẫn: Kỳ này con về, con phải nói cho nó biết thưa Thầy
Trưởng lão: Chỉ vậy thôi, thì mình nỗ lực mới được. Sau khi mình cắt các pháp bên ngoài, các pháp đối đãi bên ngoài đưa vô, cắt cho đứt. Rồi bắt đầu tụi nó không tiếp nữa, không vô gặp nữa. Do đó một mình mình trong này mình mới chiến đấu với tâm mình, tâm mình nó không phải dễ đâu, nó bị cắt, nó lại bung dữ lắm, gọi là tuôn trào.
Sư Phước Nhẫn: Nó nhớ, hồi mình không có được tin tức của nó, mình nhớ nó.
(09:21) Trưởng lão: Nó khởi cái này. Thầy nói hồi khi mà độc cư rồi, hồi nhỏ mình đi học, chuyện xảy ra hồi nhỏ xíu như vậy. Mực đổ như thế nào, Thầy giáo đánh như thế nào, sao nó cũng hiện ra hết, không có cái gì mà sót. Từ những câu thơ, văn, nào là Nguyễn Đình Chiểu hoặc Nguyễn Du, hồi nào học nó lòi ra hết. Câu thơ, câu kệ nào cũng vậy, mình học sao.
Sư Phước Nhẫn: Mà rồi Thầy cũng không có theo nó thưa Thầy
Trưởng lão: Không, nghĩa là nó luôn luôn khởi niệm là nó phá độc cư của mình rồi. Mình quán xét xả ly, xả hết
Sư Phước Nhẫn: Rồi mình xả bằng cách nào thưa Thầy?
Trưởng lão: Xả thì quán, mình tư duy, những cái đó là thế gian, phải bỏ hết, ly ra liền, khi mình quán xét rồi, mình hướng tâm liền, đuổi liền, ly ra, không cho nó ở. Mà nó tuôn hoài, tuôn hoài tới chừng nó hết tuôn là xong. Nó tuôn trào, nó tuôn hoài, nó cứ lặp đi lặp lại những điều đó, mười lần, cả trăm lần vậy mới hết đó. Mỗi lần là mình phải quán xét: "Tất cả những pháp này là thế gian, không phải Pháp Giải Thoát, lìa khỏi đây đi, ở đây tâm chỉ có thanh thản", rồi nó êm, nó không tới nữa. Nhưng mà rồi một bữa, hai bữa nó nhào vô nữa, nhào vô nữa lại xả nữa, cứ hướng tâm, Thầy nói ôm chặt pháp Như Lý Tác Ý thôi. Cứ hướng: "Tâm như cục đất, không được nhớ tưởng gì hết"
Nếu nó cứ khởi niệm về quá khứ thì nhất định là: "Không được nhớ tưởng gì hết, tâm như cục đất". Cứ như vậy.
Sư Phước Nhẫn: Như vậy là già chừng nào mình tu chậm từng nấy thưa Thầy?
Trưởng lão: Chậm, nhưng mà điều kiện là mình nỗ lực dữ tợn thì nó mau lắm. Cứ hướng tâm nhắc thường xuyên thì nó không xen vô được. Cho nên nhiều khi, gần như là mình niệm câu pháp hướng. Cứ để cho nó yên được chút xíu là mình nhắc. Cảnh giác dữ lắm, cảnh giác chứ không cảnh giác để kéo dài, nó phóng ra.
(11:25) Mình lượng sức của mình. Bởi vì hồi mình tu, nương vào hơi thở hay đi kinh hành mình biết nó khoảng độ năm phút, ba phút hay ba giây, hay là một giây hay hai giây gì đó. Định thời gian đó, nó dễ bị vô, thời gian mình tu, mình tập từng phút, từng phút đó, năm hơi thở, mười hơi thở. Mình rút tỉa kinh nghiệm, sức của mình ở mức độ nào thì mình lấy mức tiêu chuẩn nhất mình làm chủ.
Đừng có lấy thời gian dài, ví dụ như mười, hai chục hơi thở thì không được, khoảng độ năm hay là ba hơi thở theo trình độ, khả năng của mình có sức tỉnh thức nó khá thì mười hoặc là hai mươi hơi thở.
Còn nó yếu, nhất là tuổi già của mình yếu, do đó khoảng chừng năm hơi thở thì mình nhắc liền thì may ra nó còn kéo dài ra được chứ còn không khéo nó không có.Vậy mà cái tâm vô ký của mình nó dễ quên lắm, nó quên rồi nó không nhắc, nó lại nhào vô.
Sư Phước Nhẫn: Có khi con đi kinh hành con nhắc câu này, con đi chút xíu con muốn nhắc nữa, nó quên câu nãy mình nhắc.
Trưởng lão: Nó quên.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra con suy nghĩ lâu, tìm nó lại, đặng mình tiếp tục nữa. Khổ ghê Thầy ơi.
Trưởng lão: Bởi vì đầu óc, nó lớn rồi nó khó lắm, nó hay quên, nó quên là nó bị vô ký. Bình thường nó nhớ, hồi mình tu sao nó lại quên, kỳ vậy?
Sư Phước Nhẫn: Khổ vậy đó.
Trưởng lão: Nó đi vô hướng vô ký, nó làm cho mình quên Pháp Hướng, Chánh Niệm nó quên đi. Rồi mình tưởng là mình đang biết mình đi, nó Tỉnh Giác không, không có nghĩa gì đâu, Tỉnh Giác, cho nên khoảng thời gian mình đừng có nghĩ mình để kéo dài trạng thái Tỉnh đó thì nó đi đến Tĩnh Lặng, nó không tốt. Bởi vì nó không có niệm mà nó cứ biết, biết, biết thì chuyện đó không hay gì hết đâu. Mà chỉ biết để rồi dùng Pháp Hướng, nó trở thành lực để cho nó sử dụng được, điều mình muốn làm chủ. Cái đó là cái quan trọng, mà hầu hết người ta không chịu nghe Thầy, khó lắm. Nhiều khi Thầy thấy tu thì nó không khó. Tại sao? Vì người ta bị ảnh hưởng lâu quá của Đại thừa.
(13:51) Bây giờ người ta trở về với Pháp của Phật người ta cũng tu theo kiểu của Đại thừa. Phần nhiều là các Sư cứ nhìn thấy đi, quý sư hiện giờ cũng tu, mặc dù nói là Nguyên Thủy, nhưng cái hiểu của mình nó trở thành Đại thừa, mình thực hiện không có đúng.
Đức Phật đã nói: "Chướng ngại pháp", tâm nó khởi lên niệm chướng ngại thì đẩy lui nó thôi. Ai bảo giữ vô cái Tỉnh Thức làm gì, cho nó kéo dài ra.
Nó đâu phải có Định ở chỗ không vọng tưởng này, mà Định của nó là tâm Thanh Tịnh, ly tham, sân, si, chính là chỗ đó, mà nhắc cũng không được. Các Sư tập luyện cứ ráng gom tâm cho dữ. Mình gom tâm trong giai đoạn đầu để biết được sức Tỉnh Thức của mình khoảng thời gian nào, để mình biết đó mình dùng cái Pháp Hướng. Còn nếu mình cứ niệm câu Pháp Hướng hoài, nó không có đúng, nó phải có một đoạn thời gian yên tĩnh tức là Tỉnh Thức, chừng năm hay là mười hơi thở thì mình hướng một lần nó mới đúng.
Pháp Hướng nó phải cách một thời gian, còn mình niệm câu. Mình niệm riết nó thành quen trong đầu thì Tưởng nó niệm. Nó bị tưởng nữa rồi, nó nguy hiểm.
Bởi vậy nó không trúng chỗ này thì nó đi trật đường hết
Sư Phước Nhẫn: Con hỏi bấy nhiêu thôi thưa Thầy.
Sư Tuệ Tĩnh: Mấy ông Nam Tông, mấy ông tu cái Tỉnh Giác nhiều, chắc có lẽ giống cái vụ quên đó thưa Thầy.
Trưởng lão: Ờ, giống cái vụ quên, vô ký đó.
Sư Tuệ Tĩnh: Bởi vì mình tập cái đó hoài đâu có quên được, nó cứ nhớ hoài.
Trưởng lão: Nó tỉnh, nhưng mà nó tỉnh làm sao nó xả, chứ không nó lại không quên cái Tỉnh, nó không quên cái Tỉnh mà lại nó quên Chánh Niệm. Nó chơi vậy mới độc.
Bởi vì vốn của mình, tỉnh để mà xả tâm, bây giờ nó cứ tỉnh không à, nó quên câu, không biết nhớ câu nào nữa, không biết câu nào để mà xả cái tâm. Nó lừng chừng ở chỗ đó.
(15:58) Thường thường mới vô đầu thì mình còn nhớ, nhưng mà hơi tỉnh cái nó quên, nó quên nó kéo dài cái sức tỉnh hoài, nó lạc vô trong trạng thái Tưởng. Ý Thức nó không hoạt động nữa, nó không có chịu. Còn mình dùng thường xuyên, tỉnh ở trong Ý Thức chứ không phải tỉnh ở trong Tưởng Thức. Còn mình tỉnh kéo dài luôn thì nó nằm ở trong tưởng thức, nó lạc vô cái Tưởng, Ý Thức nó ngưng. Thành ra mình nói quên chứ sự thật ra Ý Thức của mình nó không hoạt động. Nó không hoạt động, tức là nó không Tầm Tứ, nó không tác ý ra để hướng tâm.
Cho nên phần nhiều bên Nam Tông họ cứ tập tỉnh thôi, họ quên ở trong Chánh Niệm.
Phật có nói chữ Định: "Chánh Niệm Tỉnh Giác Định hay là Tỉnh Giác Chánh Niệm" bởi vì câu này, người Tàu họ dịch. Họ đặt chữ Chánh Niệm trước, bởi vì ngôn ngữ của người Tàu mà. Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, thay vì Việt Nam của mình thì Tỉnh Giác Chánh Niệm, Chánh Niệm ở sau, bởi vì Tỉnh Giác rồi mới Chánh Niệm. Người Tàu thì họ đọc ngược thôi.
Sư Tuệ Tĩnh: Bên Nam Tông họ định nghĩa Chánh Niệm không phải là Chánh Tà, Chánh Niệm là niệm ngay vào đề mục đó.
Trưởng lão: Thì đó. Bây giờ đề mục nó là cái hơi thở, phải không? Họ niệm ngay chỗ đó, tỉnh ở trong đó để có ích lợi gì? Mà đức Phật dạy chúng ta, chúng ta tu để "khắc phục tham ưu", phải không? Cho nên Chánh Niệm này là Chánh-Tà, chứ không phải Chánh Niệm ở trong cái Tỉnh Thức.
Mình phải hiểu được trên Tứ Niệm Xứ thì Phật nói: "Trên thân quán thân" tu về hành tướng nội tức là hơi thở để "khắc phục tham ưu". Bây giờ mình ở đây mình biết hơi thở không là sao, tham ưu ở chỗ nào đâu.
(17:56) Cho nên nó có Chánh Niệm. Chánh Niệm là Chánh-Tà của nó, tức là mình dùng Pháp Hướng. Cho nên đức Phật nói: "Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra", ly tham đó là Chánh Niệm của người ta, còn Tỉnh Thức là Tỉnh Thức của hơi thở chứ.
Sư Tuệ Tĩnh: Mấy ông quan niệm sai.
Trưởng lão: Quan niệm sai.
Sư Tuệ Tĩnh: Khi mà mình theo dõi hơi thở hoặc là khi mình theo dõi bước đi, tức là luôn luôn để Chánh Niệm trước mặt, thì mình biết nó rồi mình quên tham, quên sân, quên si rồi.
Trưởng lão: Cái đó mình ức chế rồi.
Sư Tuệ Tĩnh: Dạ, mình theo cái này tức là mình không còn tham, sân, si nữa, vậy đó.
Trưởng lão: Không có khắc phục mà ức chế, ở trong "Trên thân quán thân" mà tu về hành tướng nội "để khắc phục tham ưu". Còn cái này để ức chế tham ưu thì đúng.
Sư Tuệ Tĩnh: Thành ra mấy ông nói…
Trưởng lão: Còn cái này khắc phục mà.
Sư Tuệ Tĩnh: Theo cái này thì tự nhiên quên cái kia à.
Trưởng lão: Còn cái này ức chế. Nó quên tham, sân, si mà nó ức chế. Nó ức chế, nó không tham, sân, si. Còn người ta khắc phục, khắc phục đưa nó ra. Cho nên trong bài kinh “Tiểu Không”, đức Phật nói mình nhập Không Vô Biên Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ để mà biết Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ làm gì. Nhập cái đó cũng như bây giờ mình Tỉnh Thức hơi thở để biết hơi thở để làm gì, ý đức Phật muốn nói.
Sư Phước Nhẫn: Ngoài cái đó thành ra cái tham, sân, si nó trở lại à.
Trưởng lão: Mình ức chế nó, khi mình xả ra nó trở lại. Còn cái này mình xả ra nó cũng đi luôn. Bởi vì vốn mình khắc phục nó, đẩy nó lui.
Sư Tuệ Tĩnh: Cũng như ngày hôm qua có ông Sư lên ông ấy nói ngồi Thiền lắng cặn. Ông nói được rồi nhưng khi đứng dậy nó bùng lên nữa rồi. Lát khi ngồi nó lắng nữa, khi đứng khi đi tiếp duyên nó động, nó đục lên nữa. Lúc đục, lúc trong hoài, cuộc đời làm sao được.
(19:54) Trưởng lão: Đó cũng là kiến giải của Đại thừa, kêu là lắng tâm, ngồi để mà lắng. Sự thật là ức chế.
Sư Phước Nhẫn: Thầy Thanh Từ nói là như nước. Nước quậy nó đục, để nó lắng.
Trưởng lão: Cái gì con… À con cứ lấy… Được rồi
Sư Phước Nhẫn: Cô Út đó thưa Thầy?
Trưởng lão: Ờ đúng.
Sư Tuệ Tĩnh: Thành ra, ý con muốn nói, khi mình lắng; lắng nó chẳng cứu mình, rút cái cặn ra mới phải. Chứ còn lắng cứ để cặn đó, lát nữa cũng vẫn nổi nên như thường à, phải bỏ cặn ra thì nước nó trong luôn.
Trưởng lão: Người ta cứ lắng nó xuống, rồi bắt đầu hễ quậy lu nước, nó đục trở lại như thường.
Còn cái này người ta lắng nó, tức là nó vừa tỉnh thì người ta rút, người ta bỏ, cái đục nó ra hết. Tức là Pháp Chánh Niệm của mình, tức là nó rút cặn đi đó. Nó vừa lắng, nó vừa rút.
Còn cái này mình lắng mà không chịu rút ra thành ra nó đóng dưới đáy lâu quá trời. Rốt cuộc rồi xả ra bắt đầu nó đục trở lại, nó đâu có bỏ cái bẩn, cái dơ của nó đâu.
Sư Tuệ Tĩnh: Vậy mà mấy ông cứ nói lắng, lắng hoài à.
Trưởng lão: Thành ra hiểu một chút sai là lạc con đường. Nhìn trước, nhìn sau từ Thầy Tổ của mình cho tới mình bây giờ cũng chưa có ra gì hết, tại vì cái hiểu đó. Còn cái mà Thầy dạy đúng rồi, bắt đầu bây giờ mình có đường đi.
(21:42) Sư Tuệ Tĩnh: Hôm qua con đọc cuốn VIII của Thầy, con khoái quá, mấy cái mà con thắc mắc đó con không có đủ sức mà lý luận chống nó. Con thấy Thầy chống, Thầy vặn nó hết chơn. Con khoái quá, mà cái này đồng cảm, ít có người mà nghĩ lắm. Con hồi đó có ý nghĩ như vậy không. Như Kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm, mình thấy có chỗ này không được. Lật lại thì mình không đủ sức lật. Cũng như nói không niệm thiện, niệm ác thì thành gỗ đá sao, thì mình cũng biết tới đó không nói thêm nữa.
Còn như Phẩm “Hoá Thành Dụ” trong kinh Pháp Hoa, vậy đức Phật nói láo sao? Đức Phật nói láo coi là được hay không nữa, cũng nói vậy nữa, nhưng mà không đủ biện pháp mà lật. Nói lật mà lật không đủ trình độ, thành ra nhiều khi nghe mấy ông nói thấy chướng. Mấy ông nói trách nhiệm mình góp ý tổ Bồ Đề Đạt Ma qua đây làm cái gì. Hồi đó, con không biết nhưng mà con nói ông qua đây để chấn chỉnh nền Phật giáo của Trung Hoa. Trật rồi, ông chỉnh không được, ông mới vô ngồi nhìn tường chín năm, con chỉ biết nói vậy thôi. Chứ ông qua đây để làm cái gì? Qua đây rồi sửa sai, qua đây làm cái gì mà sửa không được cho nên mới ngồi nhìn vách tường chín năm. Con lý luận vậy thôi, bây giờ đọc cuốn này banh ra hết chơn chọi, nó sáng ra.
Trưởng lão: Vẽ ra hết, mà thật sự chỉ có Việt Nam, có ba người dám nói mà thôi. Người thứ nhất là Thiền sư Thường Chiếu, người thứ hai là Hòa thượng Minh Châu, tới người thứ ba là Thầy. Không có ai dám nói. Việt Nam mình có ba vị.
Sư Tuệ Tĩnh: Con thấy nguy cho Thầy quá, vì Thầy có một mình à. Bây giờ cái ác nhiều quá thưa Thầy.
Trưởng lão: Thầy nói bây giờ nếu mà họ xỉ vả Thầy bằng những ngôn ngữ, lời lẽ, tức là họ xỉ vả Phật Thích Ca. Những cái này là Phật Thích Ca dạy chứ đâu phải Pháp của Thầy.
Sư Phước Nhẫn: Bây giờ mình chỉ lặp lại lời dạy.
(23:50) Trưởng lão: Thầy chỉ lặp lại. Cuốn thứ V thầy lôi ra một số bài của đức Phật Thích Ca đập phá thế giới siêu hình, nghĩa là Tưởng Tri chứ không phải Liễu Tri đâu. Thế giới Tưởng rồi, nó không thật rồi.
Cho nên những cái gì mà Thầy viết ra đều có dẫn chứng rõ ràng, Thầy đã quan sát rõ, Thầy biết ở Việt Nam có bao nhiêu người dám ăn, dám nói, mà người thứ nhất là họ không có rõ kinh sách Nguyên Thủy. Đó là Hòa thượng Thường Chiếu, tức là Thiền sư Thường Chiếu, trong thời nhà Lý thì phải. Rồi kế đó là Hòa thượng Minh Châu là một học giả, ông dám nói, về nước dám nói mấy câu đó thì Thầy nói độc thiệt. Nhờ đó mà Thầy thấy bây giờ cũng có nội thuẫn của dân tộc Việt Nam.
Từ người xưa, rồi tới Hòa thượng trong thời nay của mình, giờ tới Thầy mà nói ra, mà vạch ra cho rõ. Còn Hòa thượng không vạch được.
Sư Phước Nhẫn: Dạ, Hòa thượng chỉ nói phớt qua.
Trưởng lão: Chỉ nói phớt qua, Hòa thượng không có thế mạnh. Còn Thầy nhờ có tu, thấy rõ được mới dám nói thẳng mặt các Tổ, còn Hòa thượng sợ không dám đụng các Tổ, bởi các Tổ tu hơn mình nhiều quá, mình chỉ lo học. Tuy biết nó là Bà La Môn nhưng mà không nói được. Nói ra một chút là bị Quý Hòa thượng lớn la: "Thầy này ngầu quá không chứng Quả được".
Thầy Chơn Quang ở ngoài núi Dinh, Thầy viết cuốn "Người Chiến Thắng", Thầy có nói về Tịnh Độ, Thầy cũng nói Tịnh Độ không phải do Phật thuyết mà Thầy bị Hòa thượng Thiền tông ở bên Úc, Hòa thượng xỉ vả Thầy dữ lắm, viết bức thư xỉ vả Thầy dữ lắm.
Sư Phước Nhẫn: Chắc là ông Phước Huệ.
Trưởng lão: Xỉ vả dữ lắm. Nhưng mà đối với Thầy Thông Huyễn, Thầy chỉ nghe Hòa thượng Thanh Từ nói, Thầy chỉ lặp lại thôi chứ Thầy không có.
(26:00) Còn Thầy thì không được, Thầy nói đâu có dẫn chứng của đức Phật Thích Ca hẳn hoi. Cho nên vì vậy mà không xỉ vả Thầy được đâu. Bởi vì đức Phật đã viết trong bài “Kinh Pháp Môn Căn Bản” cụ thể lắm. Đức Phật đã giảng về thế giới siêu hình, đức Phật đập sạch xuống. Không có cõi Trời nào là có thật hết, không có cõi nào là có thật.
Sư Tuệ Tĩnh: Con hiểu được hết rồi đó Thầy. Lúc mới vào đây con cũng hơi thắc mắc. Bệnh của con là hiểu rồi tin mới được, nghe rồi mình chiêm nghiệm mới được, chứ còn nghe không mà tin, không có được.
Trưởng lão: Bởi vậy những cái này là lời đức Phật dạy. Thầy nói, mình Thầy chưa đủ ai tin , mặc dù Thầy biết thực nghiệm Thiền Định của Phật rồi, thấy biết được rồi, nhưng mà không ai tin mình. Chỉ có lấy những lời của đức Phật ra, đập họ mới nổi. Chỉ có Ông Phật Thích Ca ngồi chình ình ra, nó mới được, chứ mà không ai mà dám hết. Thầy biết chỉ duy nhất Ông Phật Thích Ca mới đập được mấy ông Tổ này xuống chứ không ai làm nổi.
Sư Tuệ Tĩnh: Cũng như bệnh nhân chỉ nghe bác sĩ thôi chứ không có nghe y tá, y tá nói mình đâu có nghe đâu.
Trưởng lão: Cho nên cuốn VIII này cho tới cuốn thứ IX, thứ X nó còn đi sâu sắc hơn nữa. Kinh lắm, nhưng mà thôi Thầy nhuận lại từ cuốn I cho đến cuốn VIII này, rồi bắt đầu Thầy soạn thảo đạo đức Nhân Bản. Xã hội bây giờ cần đạo đức mà chờ Thầy soạn cái kia thì người ta lung tung quá.
Sư Phước Nhẫn: Dạ.
Trưởng lão: Mấy cuốn đạo đức.
Sư Phước Nhẫn: Có đường lối cho họ tu chút xíu.
Trưởng lão: Có điều kiện, Giáo Hội sẽ tìm cách nại Thầy là họ đưa Kinh Sách Thầy ra họ tố cáo Thầy không xin phép, tức là Thầy có tội đối với pháp luật, tức là tội không xin phép.
(27:56) Cho nên cuốn I Thầy đã xin phép rồi, vì vậy mà tất cả những sách vở của Thầy, tên sách, Thầy đều đăng ký ở trên Nhà Xuất bản Tôn giáo.
Sư Phước Nhẫn: Dạ, có đăng ký rồi.
Trưởng lão: Đăng ký trên đó hết, cho nên bây giờ mấy ông mà đem tố cáo nói là sách của Thầy không có xin phép, tố cáo Thầy đặng bắt lỗi của Thầy mà. Nhà nước làm tội Thầy thì Thầy đã nói rằng tôi đã đăng ký với Nhà Xuất bản Tôn giáo hết.
Sư Phước Nhẫn: Còn cuốn này thì chưa có.
Trưởng lão: Chưa có nhưng mà đều đăng ký trên đó hết, đăng ký trong năm này. Nếu mà bây giờ Thầy xong rồi Thầy đưa cho họ duyệt, họ duyệt rồi họ cho giấy phép.
Sư Tuệ Tĩnh: Ông đó vô đây chưa, thưa Thầy?
Trưởng lão: Vô rồi, vô gặp Thầy rồi.
Sư Tuệ Tĩnh: Thầy đưa cuốn VIII rồi ạ?
Trưởng lão: Chưa, cuốn VIII Thầy chưa đưa, nhưng mà Thầy sẽ gửi ra. Bữa ông ấy đến thì Thầy chưa xong, nếu mà xong Thầy đã gửi ra rồi. Ông ấy nói nếu mà có vi tính, băng, đĩa gì đó cứ gửi luôn ra ngoài đó.
Với điều kiện là ấn tống mình không kinh doanh để buôn bán đó thì đương nhiên là có thể xin phép. Ông có thể xin Nhà nước trên cái thế. Bởi vì thí dụ như mình xin in hai ngàn cuốn thì mình sẽ in ra hai ngàn cuốn rồi mình đóng thuế. Hai ngàn cuốn, mỗi cuốn bao nhiêu, bởi mình buôn bán, mình phát hành mà. Thành ra Nhà nước lấy thuế đó nữa.
Còn nếu mình ấn tống không buôn bán thì Nhà nước sẽ miễn thuế, không lấy.
Do ông nói với Thầy mà, cho nên cái này Thầy ấn tống, Thầy không có buôn bán. Vì vậy có nhiều người làm sai pháp luật của Nhà nước. Họ xin hai ngàn, họ in năm ngàn, họ ăn rơ với nhà in. Họ bán số kinh sách này ra.
(30:03)Thôi xá Thầy thôi… Sư ngồi dậy…
Rồi trong vấn đề về kinh sách, Thầy cũng biết được rằng trong mới đầu thì chưa có xin phép được. Tức là ba năm Thầy viết cuốn thứ nhất thì Thầy đã gửi đi xin phép, nhưng mà Giáo hội không có chấp nhận. Họ có quyền, giáo hội còn kiểm duyệt các sách tôn giáo, thì giáo hội không chấp nhận. Cho nên đưa ra Nhà xuất bản, họ đọc, duyệt lại, kéo dài từ đó, cho đến khi những kinh sách của tôn giáo đưa vào Tôn giáo ở Trung ương, thì ở trên Tôn giáo Trung ương mới thành lập Nhà Xuất bản gọi là Nhà Xuất Bản Tôn giáo. Do đó quyền ông giám đốc, và số người mà làm việc đó, họ sẽ kiểm duyệt những tác phẩm tôn giáo, nó không thuộc quyền bên tôn giáo nữa, Phật giáo nữa. Do đó, bây giờ tác phẩm của Thầy, nó được từ ở bên tôn giáo chuyển qua ở bên Nhà Xuất Bản Tôn giáo. Do bây giờ ở bên đó kiểm duyệt, họ duyệt lại rồi, họ chấp nhận, cho phép.
Năm 1999 này chuyển qua năm 2000. Năm 1999 mới thành lập Nhà Xuất bản Tôn giáo, thì chuyển qua họ đọc cái tác phẩm này coi như là tác phẩm mới nhất đầu tiên của Nhà Xuất bản này cho phép. Vì vậy tác phẩm Thầy được in, in ra rồi thì bắt đầu bây giờ coi như là nó được lưu hành trong nước bằng cách là mình ấn tống, không có bán.
(32:09) Do đó ông giám đốc nhà xuất bản, ông cúng dường cho Thầy một triệu rưỡi để in cuốn sách này. Ông đã không nhận quà biếu của Thầy mà còn cúng dường thêm cho Thầy một triệu rưỡi nữa. Đó cũng là người ta hiểu được cái tâm của mình đang bị vấp cái gì của Phật pháp, của dân tộc nên người ta cũng tự giúp mình nhiều: “Đồng thời từ bữa giờ tất cả các đầu sách của Thầy thì chúng tôi chấp nhận hết. Sau khi đọc thì chúng tôi có thay đổi những từ cho nó nhẹ nhàng chút, nhiều khi Thầy nói nặng quá, chúng tôi cũng ngán. Tại vì lực lượng của Thầy bây giờ nó không có ai. Còn bên kia thì người ta đông quá. chúng tôi mặc dù thì cũng hiểu, nhưng nhiều khi có điều gì thì chúng tôi không ủng hộ Thầy được. Chứ nếu mà Thầy có lực lượng tương đương hay hoặc là chừng bằng một phần ba của họ thôi, Nhà nước cũng sẽ ủng hộ Thầy, bởi vì Thầy không có lực lượng nhiều.
Do đó những điều mà Thầy nói trong sách đúng, không phải là sai, nhưng có điều mà chúng tôi rất ngại, ngại cho Thầy vì chúng tôi không có bảo vệ được Thầy trọn vẹn, mặc dù chúng tôi có nói cho tỉnh Tây Ninh.”
Ông vô đây ngồi nói chuyện tâm tình, lúc nào cũng phải cảnh giác và bảo vệ sự sống của Thầy, vô đây gặp công an tỉnh Tây Ninh, nói với ông tỉnh trưởng Tây Ninh, tỉnh phải bảo vệ sự sống của Thầy.
(33:54) Nghĩa là Thầy ở đây chứ họ luôn luôn họ để ý coi có sự kiện gì xảy ra để họ can thiệp cho kịp. Không họ cũng tiêu. Cách thức đó chứ không có gì.
Cho nên ông cũng đem hết tâm tình mà nói với Thầy, là “Bổn phận Nhà nước phải bảo vệ Thầy như thế, chúng tôi cũng đến để làm việc với tỉnh Tây Ninh với mục đích gợi ý cho tỉnh Tây Ninh, chỗ của Thầy ở phải luôn để ý, bảo vệ cho Thầy, như vậy thôi. Thầy yên tâm đi chứ không gì. Nhưng mà chúng tôi sửa lại, ví dụ như Thầy nói "Tất cả" chuyển thì chúng tôi nói "Phần đông", cho nhẹ chút, chứ còn nói “tất cả”, thật ra chúng tôi cũng nhìn “Tất cả” đều là vậy hết chứ đâu có phải là không.
Thầy nói đúng, nhưng mà nó nặng quá, coi như là không còn ai hết, cho nên chúng tôi nói "Phần đông", cũng còn một ít chứ chưa hết, ít cho nhẹ người ta chút, chứ Thầy nói quá mạnh, nghĩa là không có chỗ nào mà họ đỡ được hết.”
Bằng chứng như mấy Sư đọc cuốn VIII, Thầy đập thật sát ván. Đưa ra 3 cái mũi tên để mà bắn Phật tử của chúng ta một cách rất tàn nhẫn hết sức, không có chỗ nào mà chúng ta chui lọt. Kinh sách thì cấm đoán bằng cách chế ra Bồ Tát Giới cấm Phật tử không được đọc, không được nghe, không được học, thử hỏi có đau lòng không?
Sư Phước Nhẫn: Hồi con đọc kinh Nguyên Thủy thưa Thầy, họ cấm.
Trưởng lão: Họ không cho.
Sư Tuệ Tĩnh: Bên Đại thừa họ cấm, không có cho, không xem, không biết.
Trưởng lão: Chứ có phải không đâu. Họ cho là Nhị Thừa, ngoại Đạo. Bởi vậy những kinh sách như vậy, giá trị như vậy cho nên Hòa thượng Minh Châu cũng tức lắm, ông nói; "Mặt Trời là Mặt Trời, Chân Lý là Chân Lý, không thể nào mà diệt nó được".
(35:51) Thế mà mấy ông Đại thừa dám làm. Thế mà còn đưa ra chiêu bài đức Phật Di Lặc. Làm gì mà đạo Phật có hai ba ông Giáo chủ. Mấy ông đặt ra quá khứ có Phật này, Phật kia, rồi hiện tại đức Phật Thích Ca, rồi vị lai có đức Phật Di Lặc, rồi sau này còn mấy ông Di lặc nữa, ai làm Giáo chủ những chỗ này.
Mỗi Giáo chủ là thay đổi giáo pháp. Trong khi đức Phật chỉ lấy duy nhất là Thầy của mình, Thầy của các vị Tỳ kheo là Giới luật và các Pháp Thiện.
Giáo Pháp của Phật và giới luật cũng đâu phải tự đức Phật. Khi đức Phật tìm ra thì nó cũng có sẵn, chứ đâu phải đức Phật chế tạo ra nó. Cho nên khi chứng thì đức Phật đảnh lễ Giáo Pháp đó, coi như nó là Thầy của mình, là Thầy của đức Phật.
Bây giờ mình cũng lấy cái đó làm Thầy. Thật sự ra đức Phật và mình cũng thờ chung một ông Thầy. Đó là Giới luật và Giáo Pháp, chứ đâu phải cái gì khác hơn. Thế mà bây giờ mình lại bỏ ông Thầy đó đi, thờ tôn một vị khác làm Giáo chủ.
Mình nhớ ơn đức Phật khổ hạnh sáu năm mới tìm ra được Chân Lý đó, mình nhớ ơn đức Phật, mình tôn xưng ông là Giáo chủ. Ông khiêm tốn, ông nâng Giáo Pháp lên làm Giáo chủ.
Bây giờ mình nâng ông Phật Di Lặc lên làm Giáo chủ, đẻ ra pháp Đại thừa để dẫn dắt mình tu điên, tu khùng. Tu có giải thoát được không? Nếu giải thoát, Thầy Tổ mình đã giải thoát hết rồi.
Mình phải thấy được, điều kiện đó, thời gian đó đã xác định cho chúng ta biết được cái sai, cái đúng. Thế mà mỗi lần người ta thấy cái đúng, người ta quá sợ hãi. Mà người ta chấp nhận cái sai, nghiệp của chúng sanh sao nặng quá vậy, khổ vậy.
(37:49) Cho nên càng đọc sách của Thầy càng rõ được bộ mặt thật của Bà La Môn, của Đại thừa. Rồi mình đi tu mà mình còn đi kiếm ăn làm cái gì. Cho nên ở ngoài dân gian người ta mê tín cái này cái kia, mình lấy Giáo Pháp của Phật để mình làm nghề đó trao đổi với đồng bào của mình để sống bằng bát cơm như vậy sao? Bởi vì đó là "Hạ Khẩu Thực", chứ đâu phải là tốt lành gì. Có năm phương tiện ăn uống một cách rất hèn hạ, cho nên đức Phật nói; "Phương Khất Thực, Ngủ Khất Thực, Hạ Khất Thực…".
Bây giờ các Sư có nhân duyên về đây gặp Thầy, trong khi Thầy cũng già yếu rồi, những giờ phút mà Thầy thấy. Nhưng không nói thì tiếng chuông này làm sao ai nói.
Hòa Thượng Minh Châu nói thì họ đã diệt ngay từ trong trứng nước. Mấy tác phẩm đầu tiên Hòa thượng dịch bộ Kinh Nikaya thì Hòa thượng không có nói. Từ đó về sau ai nói gì thì nói, Hòa thượng chỉ giữ thuần mình ở trong cương vị của nhà giải dịch kinh sách, không có sửa sai những lời của Phật, ai nói gì cũng được. Đó là Hòa thượng Minh Châu chỉ dịch, tu hành chắc Hòa thượng tu không nổi rồi. Thầy thấy Hòa thượng không thế nào là hành giả, Hòa thượng chỉ là một học giả.
Còn Thầy nếu mà không nói thì muôn đời sau không ai nói, Thầy sợ không có người nói. Có ba người nói như hồi nãy Thầy nói. Thiền sư Thường Chiếu, Ngài nói, đến Hòa thượng Minh Châu là đến Thầy. Thầy biết rằng sau cũng sẽ có người, nhưng nó còn phải trải qua một thời gian dài, làm tiếng chuông cảnh tỉnh để giúp cho những người trong hiện tại, những tu sĩ trong hiện tại và mai sau người ta biết được con đường của đạo Phật đúng, là lối tu như thế nào đúng.
(39:50) Chúng ta thường tu Thiền Trung Hoa là Thiền của Đại thừa. Mặc dù chúng ta tu kinh sách Nguyên Thủy thực sự nhưng mà cái nghĩa mà chúng ta hiểu nó đều bị ảnh hưởng của Đại thừa. Như trong cuốn VIII Thầy có vạch ra một số điều để thấy được cái sai đó. Tiếc vì sức khỏe của Thầy, phải chi còn trai trẻ như Sư Nhẫn thì Thầy làm việc suốt ngày. Thời gian Thầy thu ngắn lại, để Thầy làm công việc khác. Nghĩa là bây giờ ví dụ Thầy buông ra Thầy không viết, Thầy đi ra Thầy xúc tiến, Thầy xây dựng cơ sở Trung Tâm An Dưỡng Từ Thiện Chân Lạc, thì coi như Thầy sẽ điều khiển cái này, cái khác, tức là Thầy đứng ra Thầy điều khiển, Thầy huy động thì ai mà ngồi đây viết.
Cho nên làm mặt kia được, thì bỏ mặt này. Cho nên Thầy chỉ kêu gọi người ta làm cái mặt kia, còn Thầy chỉ lo cái mặt này.
Sư Tuệ Tĩnh: Cái này khó hơn.
Trưởng lão: Cái này khó hơn, cái này đâu có ai làm được, còn cái kia thì có người làm được. Thành ra nếu mà người này không làm được thì người khác làm được. Còn cái này, nếu mà Thầy chết rồi thì không ai làm được. Chỉ có Thầy nói được, khó là khó vậy. Cho nên Thầy có gắng hồi phục lại sức khỏe của mình để làm cho xong, nhất là Giáo Trình đạo đức Nhân bản, tức là đạo đức không làm khổ mình, để triển khai hết đạo đức của đạo Phật.
Đạo đức "Ly dục ly ác pháp", Sơ Thiền của đạo Phật, từ đó Thầy sẽ giúp cho con người để họ đạt được. Mong ước của Thầy là hầu hết con người sống trên thế gian này sẽ hạnh phúc, đó là điều Thầy mong ước.
Còn bây giờ các Sư có muốn hỏi gì nữa không?
Sư Tuệ Tĩnh: Về vấn đề phục hồi sức khỏe, con nói luôn là hôm rồi con thấy Thầy yếu, chúng con muốn bồi dưỡng Thầy. Chúng con muốn cúng dường Thầy sữa trong bữa ăn, mỗi ngày một ly thôi, khoảng nửa tháng thưa Thầy.
(42:04) Trưởng lão: Có lòng được, cứ buổi trưa cho Thầy thêm.
Sư Tuệ Tĩnh: Chứ còn buổi sáng, buổi chiều nó phi thời.
Trưởng lão: Không được, khi nào mà kiệt quệ quá Thầy mới khai giới để mà dùng buổi sáng, còn không kiệt thì thôi, cứ bình thường. Cô Út làm gì thì làm, bảo gì Thầy cũng không uống hết.
Sư Tuệ Tĩnh: Cực quá, Thầy chỉ có viết thôi, còn phần vi tính với đóng đinh thì giao cho hai chú.
Trưởng lão: Bởi vì, nói chung là Thầy thấy mấy chú đó thì làm được, chứ không phải không. Thầy có thử rồi, thì kêu đến chấn sách này kia, làm cũng cẩn thận kỹ lưỡng lắm. Chấn sách cũng làm đàng hoàng lắm, thành ra Thầy thấy được rồi. Đồng thời vi tính Thầy cũng sẽ giao cho chú Luân thì phải, chú viết luôn, chú Nhơn Hòa chú không biết vi tính.
Thầy sẽ chỉ cách điều khiển sử dụng chữ, chú đã rành rồi chỉ cái, chú biết à, theo ý của Thầy trình bày. Theo ý của Thầy thôi, đó chú sẽ làm trọn vẹn và đồng thời Thầy giao xong rồi thì coi như Thầy chỉ còn viết.
Còn hiện giờ tại vì trước kia Thầy viết, chùa chưa có vi tính cho nên mới gửi cho mấy cháu, con của các cư sĩ để họ đánh. Từ cuốn I, cuốn II, cuốn III, rồi tới cuốn VII, rồi mấy cuốn Giới Đức, tụi nó đánh cho mà nó lu bù, nó đánh không chuẩn. Thầy bây giờ Thầy phải đem cái đĩa đó Thầy đưa vô trong máy vi tính rồi Thầy mở màn hình ra. Theo đó mà Thầy chỉnh nó lại. Thành ra bây giờ thì chú Luân làm sao biết đâu mà chỉnh. Thầy chỉ ngồi đó Thầy chỉnh, tức là Thầy sửa lại bản thảo của Thầy. Khi đưa họ đánh đó, đưa tụi nó đánh, đánh theo cái bản thảo. Còn bây giờ Thầy ngồi lại Thầy sửa bản thảo. Mà sửa bản thảo thì điều chỉnh luôn cái cuốn sách.
Sư Tuệ Tĩnh: Nó mệt Thầy.
Trưởng lão: Nó mệt lắm.
Sư Tuệ Tĩnh: Con đề nghị Thầy lấy cái đĩa in ra đi, in ra rồi Thầy chỉnh lại, rồi Thầy đưa ra cho chú Luân làm luôn. Chứ còn Thầy chỉnh trên máy tính, nó hại mắt.
Trưởng lão: Nó hại mắt mà cũng như hại sức khỏe, bởi vì Thầy thấy ngồi với cái máy vi tính có hại.
Sư Tuệ Tĩnh: Chỉ cần nửa gram giấy, bỏ cái dĩa vô in ra. Rồi Thầy ngồi Thầy chỉnh.
Trưởng lão: Nói chung Thầy cũng nghĩ, Thầy cũng tiết kiệm tiền của Phật tử.
Phật tử: Không có sao, chúng con xin cúng dường. Chỉ vài ba gram chứ đâu có bao nhiêu.
Trưởng lão: Các con cứ nghĩ như thế này, Thầy tiết kiệm từng chút, bởi Thầy nghĩ đời sống tu sĩ của mình là đời sống đi xin ăn. Ngày xưa đức Phật còn lượm vải Phấn tảo, vải bó thây ma kết lại, giặt sạch sẽ mà mặc. Còn mình bây giờ thừa quá, đủ thứ rồi. Mình cũng giữ cái hạnh "Thiểu Dục Tri Túc" như Phật, được chút nào hay chút ấy chứ mình không bằng Phật chút nào hết. Nghĩa là sánh với Ông Phật mình còn xa lắm.
Sư Tuệ Tĩnh: Dạ, Thầy có nói: "Tấc bóng thời gian khó kiếm" thầy.
(45:47) Trưởng lão: Thầy tiết kiệm lắm.
Sư Tuệ Tĩnh: Con đề nghị Thầy để vô máy in ra rồi Thầy ngồi Thầy chỉnh.
Trưởng lão: Cái đó là tiện nhất, thí dụ như in ra tờ giấy như vậy. Bắt đầu bây giờ Thầy thấy cần phải thêm, cái này cần phải gạch bỏ, cái này cần phải điều chỉnh sao, tức là Thầy sẽ ghi ra đây ngắn gọn, Thầy chỉnh thì nó tiện lắm. Còn cái kia ngồi trước máy, ở bên cái máy, thật sự ra Thầy thấy nó làm như hao sức khỏe mình nhiều lắm.
Sư Tuệ Tĩnh: Tia hồng ngoại nó làm hại sức khoẻ. Giấy để con mua, con cúng dường Thầy. Thầy in ra.
Trưởng lão: Thầy sợ phí.
Sư Tuệ Tĩnh: Không sao thưa Thầy. Có phước ạ.
Trưởng lão: Bởi vậy mấy Sư cứ nghĩ như thế này, Thầy biết rằng hiện bây giờ người ta phí của mồ hôi, nước mắt. Trong khi mồ hôi, nước mắt của Phật tử người ta làm ra vất vả lắm mấy Sư à. Mình có con có cái đi làm để mà sống, nuôi gia đình, Thầy thấy nó cực lắm.
Thầy nói thực sự, cho nên Thầy thấy Phật tử làm mà cúng dường Thầy một trăm hay năm chục, Thầy biết là mồ hôi của họ, cực lắm. Nhiều khi họ làm ra tiền rồi cái họ ở tù, chứ không phải. Bây giờ họ đâu có biết thiện ác là chỗ nào đâu. Làm sai một chút thì Nhà nước bắt tội họ, họ ở tù. Trong khi đó họ cúng dường mình, mình không biết. Tội nghiệp cho họ quá.
Cho nên Thầy, thậm chí, Thầy nói thật sự, từ cái xà bông, quần áo Thầy, Thầy ít có giặt xà bông lắm, ngày nào cũng giặt, nhưng mà giặt nước.
Sư Phước Nhẫn: Bởi vậy hôm qua, con thấy Thầy mặc áo, con không kìm được.
Trưởng lão: Không có sao đâu, bởi vì đời sống tu sĩ phải vậy. Thầy nghĩ rằng cuộc sống của mình phải làm gương, làm gương cho người sau. Đừng có phí của Đàn na thí chủ. Người ta làm khổ lắm, bởi vì kinh tế thị trường mà. Làm cực khổ lắm. Cho nên mình phải nghĩ từng chút, từng chút để mà thương người Phật tử, người ta muốn Phật pháp được trường tôn, các Sư có đọc bài của Thầy "Hồi Hướng - Ước Nguyện". Mồ hôi, nước mắt, khổ lắm, nhưng vì Phật pháp được trường tồn, họ mới cúng dường mình thế này. Thế mà mình phí sao được. Mình phải giữ gìn, tiết kiệm.
Cho nên thậm chí, như Thầy mặc cái bộ đồ vậy đó, Thầy không rảnh chứ Thầy rảnh Thầy vá lại Thầy mặc. Cho đến khi mà cái bộ đồ của Thầy mặc suốt mười năm ở trong thất, mẹ Thầy đắp vá. (48:49)
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 23
ĐỨC HẠNH-KINH NGHIỆM ĐỘC CƯ
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [48:53]
Thời gian: 2002
Tên cũ: 12B-DucHanh-KinhNguyemDocCu
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-23-duc-hanh-va-kinh-nghiem-doc-cu.mp3
(0:07) Trưởng lão: Thầy làm một gương sống, gương sống Thiểu Dục Tri Túc. Thầy mong rằng những cái gì mà Thầy sống sau này, quý thầy mà sống gần Thầy mới thấy được cái đức hạnh Thiểu Dục Tri Túc, đó là cái hạnh Thánh. Còn chúng ta hở hở chút mà chúng ta bỏ là phàm phu, chúng ta còn diện trên những cái đẹp, chúng ta phải sống cái hạnh Thánh. Cho nên Thầy nghĩ rằng cái gương hạnh sống, mà các sư phải sống gần Thầy, sẽ bắt chước những cái gương hạnh đó, mình là bậc Thánh rồi, bậc Thánh Tăng rồi.
Sau này Thầy sẽ dạy về Giới Đức Thánh. Còn có bộ Giới Đức Thánh, cho nên Thầy sẽ giảng Giới Đức Thánh ra để giúp cho những người tu sĩ chúng ta phải sống đúng những Đức Thánh, cái phạm hạnh mà đức Phật ngày xưa nói. Thánh phải sống đâu có giống như phàm phu được. Mình sao mà tu hành sống như phàm phu thì sao gọi là Thánh được. Cho nên hôm Sư Nhẫn xin cúng dường Thầy cái y, Thầy nói Thầy còn có y mà, chừng nào mà rách nát hết rồi thì Thầy mới bỏ, chứ còn thì chưa.
Sư Phước Nhẫn: Nếu mà có cái khá khá thưa Thầy, khi Phật tử đến thì mình cũng mặc vô coi cho nó trang nghiêm chút, thưa Thầy.
Trưởng lão: Nói chung là cũng tạm được rồi, cũng chưa có rách quá. Trong cuộc đời Thầy có sử dụng hai cái y vấn như các sư vậy. Y thứ nhất nó đã rách tan nát rồi. Hồi lúc mà Thầy đi dạy ở trường Bồ Đề ở dưới thành phố, Thầy đã đi xin ăn, lúc bấy giờ Thầy xin, Thầy nuôi cả chùa Giác Ngộ mà. Khi đó, mà cái y đó đã rách nát, Thầy chỉ còn làm cái tấm trải để Thầy nằm thôi, đó là cái y đầu tiên.
(2:11) Và cái y hiện giờ màu cũng như y các Sư, thì cái y đó bây giờ nó đã bạc màu rồi. Có một người đi ở bên Campuchia về, họ thỉnh cái y về cúng dường cho Thầy, từ đó Thầy mặc cái y đó. Vì thấy cái y kia bị rách rồi, rồi mới thỉnh cúng dường Thầy cái y đó, cái y kia Thầy trải Thầy nằm. Đó là cuộc đời Thầy đã sử dụng hai cái y đến bây giờ.
Còn y Bắc tông, trước kia Thầy cũng có đủ ba y đó, bởi Thầy thọ bên Bắc tông mà. Nhưng mà sau này khi mà Thầy đi sang qua ở bên Nguyên Thủy rồi, Thầy thấy hình ảnh của đức Phật, cái y của đức Phật và hình ảnh của đức Phật, mình phải đắp ở trên thân của mình để mình nhớ được như đức Phật. Cho nên Thầy bỏ ba cái y của ông ba Tàu này hết, ổng chế ra cái kiểu của vua Chúa, Thầy bỏ ra hết, rồi Thầy lấy cái y đơn giản của đức Phật, một tấm vải là đủ rồi. Chứ còn cái kia phải có y, có hậu, còn này ba y một bát, đời sống giản dị.
Nhưng mà cái chiếc áo dân tộc Thầy không bỏ, bởi vì Thầy là dân tộc Việt Nam, cho nên cái áo này là cái áo dân tộc, cái áo dài của dân tộc. Còn cái áo hậu là cái áo của Trung Hoa, cái tay nó rộng lớn là áo của Trung Hoa, còn cái áo của Việt Nam mình là cái tay nó hẹp, cái áo dài. Đó là cái hình ảnh này và cái màu sắc này là màu sắc của dân tộc miền Bắc, cái nơi xuất phát dân tộc Việt Nam. Thành ra Thầy không bỏ nó tại vì Thầy là người Việt Nam. Nhưng khi mà lễ lộc, khi mà những cái buổi thuyết giảng đều là Thầy vấn cái y vấn đức Phật, đây là cái hình ảnh của đức Phật, nó là pháp của đức Phật, Thầy sử dụng đến nó. Còn cái chiếc áo mà mình mặc ở trong người của mình mà Thầy hay mặc, cái áo vạt miểng đó, cái áo Bà Ba, chiếc áo dân tộc. Thêm cái miểng để làm cái áo Đạo thôi, chứ nó là chiếc áo Bà Ba. Thành ra Thầy thấy chiếc áo đó thuộc về dân tộc tính. Cho nên Thầy không rời dân tộc tính.
(04:34) Đứng trong dân tộc này, thực hiện Pháp Phật để đem lại sự lợi ích cho dân tộc và đem lại lợi ích cho con người trên hành tinh này. Nó là như vậy, bởi vì Thầy đã sanh ra ở trong đất nước Việt Nam, nếu Thầy sanh ra ở đất nước Ấn Độ thì dân tộc tính Ấn Độ như thế nào Thầy phải làm đúng như thế ấy. Cho nên khi mà hòa hợp với Tăng Sư, Thầy đều có thể trong cuộc họp thì Thầy vấn y như vậy hết. Đó là mình đã đi vào con đường Nguyên Thủy của đức Phật. Không có sai khác chút nào hết.
Ở đây thì như mình tọa đàm để cho mình nói chuyện trong cái cuộc tu hành của mình thôi. Đó thì hôm nay các con có còn hỏi thêm gì nữa không?
Sư Phước Nhẫn: Con kiếm cái bộ đại y thưa Thầy, cái tăng-già-lê để lúc có Phật sự lớn thì bận vô mà không có. Cái hình tăng-già-lê mình đắp kêu là Sanghati, cái miếng vải xéo đây nè Thầy.
Trưởng lão: Ừm. Cái này, cái miếng vải đây này phải không?
Sư Phước Nhẫn: Dạ. Cái đó làm cái mền đắp cho mình luôn thưa Thầy. Đi đâu có cái đó mình có xài mền, ba y một bát, có cái đó mình đắp, còn cái này như con bận, cái này con là Sadi. Con không có Tăng-già-lê, Tỳ kheo trở lên mới có Tăng-già-lê. Ở đây có hai thứ, thứ mỏng, thứ dầy. Thứ dầy nó nặng, thứ mỏng nó nhẹ. Khi nào có lễ lộc gì lớn thì có sẵn Thầy mặc (6:39)
Phật tử: Con xin hỏi Thầy, thỉnh thoảng mình để tâm mình suy xét những Pháp Phật… Như vậy có phải bị phóng dật không?
(6:46) Trưởng lão: Không, không phóng dật. Mình suy xét để cho mình theo đúng Pháp. Phật nói là Tùy Pháp, tức là mình theo Pháp để mình sống. Cho nên mình tư duy những Pháp, càng tư duy mình càng thấu rõ được cái lý của nó để làm cho mình sống trong niềm tin sâu. Còn nếu mình không tư duy, sau một thời gian tu không kết quả thì mình lơ là. Cho nên mình tư duy, mình tìm hiểu, do cái tìm hiểu đó nó mới nảy ra nhiều kinh nghiệm, trên bước đường đó, do cái đặc tướng của mình nó không giống ai đâu vì mỗi người đều có đặc tướng.
Con người có ba tướng: Nhân Tướng, hành Tướng và Đặc Tướng. Mỗi đặc tướng, do sự chiêm nghiệm của Pháp Hành mà mình rút tỉa được nhũng kinh nghiệm riêng tư cho bản thân mình trên bước đường tu hành. Vì vậy mà đôi khi có người sống có đối tượng người ta xả tâm, người ta "Ly dục ly ác pháp". Có người một mình mình, người ta chỉ sống trầm lặng, sống cô đơn một mình mà người ta dùng pháp Hướng người ta xả được tâm. Còn có người mà sống cô đơn, trầm lặng một mình lại xả không được, phải dùng các đối tượng, có người xung quanh mình để rồi từ đó người ta xả được tâm, người ta ly dục ly ác pháp.
Cho nên không đơn giản đâu, vì vậy mà Thầy thấy trong số người, có người họ sống một mình họ xả tâm. Nhưng có người họ phải có người nói này, nói khác, nói nọ, từ đó họ lấy các đối tượng đó họ xả tâm, mà họ xả được. Còn có người họ sống một mình thì họ lại sống ở trong tĩnh lặng họ không xả được, họ bị ức chế tâm. Cho nên tùy theo mỗi đặc tướng, và khi mà mỗi đặc tướng đó mình phải suy xét qua cái lời Kinh dạy, nó làm cho cái niềm tin càng nhiều, càng hơn nữa.
Do cái niềm tin đó mình mới nỗ lực thực hiện những cái kinh nghiệm. Đừng có dựa vào kinh nghiệm của người nào mà cho rằng người này làm được thì mình sẽ làm theo như vậy. Không được đâu, nó sẽ sai. Cho nên ở đây Thầy để cho quý thầy tự do. Thầy dạy cái đại khái như vậy, để từ đó mình sẽ tìm lấy kinh nghiệm riêng tư của mình.
(9:00) Trong cuốn Tám này có thời khóa biểu hướng dẫn cho một người, đây là chung chung thôi, nó không thể nào thành lập chung cho mọi người được. Mà đây chỉ đại khái, để chúng ta dựa vào cái đại khái này mà chúng ta rút tỉa kinh nghiệm. Chứ giờ này chúng ta tu tốt, mà buổi chiều chúng ta tu không tốt thì chúng ta phải thay đổi. Đó, như vậy là chúng ta sẽ có kết quả liền, chúng ta thay đổi rồi chúng ta suy nghiệm: Tại sao buổi sáng chúng ta tu tốt mà buổi chiều lại không tốt? Tốt là tốt ở chỗ nào, Xả Tâm hay tốt ở chỗ Tỉnh Thức?
Có nhiều khi tốt ở chỗ Tỉnh Thức mà Xả Tâm lại không tốt, nhiều khi Xả Tâm tốt mà Tỉnh Thức lại không tốt. Phải quan sát được cái chỗ, nhiều khi chúng ta Tỉnh Thức mà không có Chánh Niệm, còn nhiều khi chúng ta Chánh Niệm mà không Tỉnh Thức. Cho nên hai cái này nó phải kết hợp với nhau lại, nó không thể tách rời ra giữa Tỉnh Thức và Chánh Niệm, nó phải kết hợp. Mà lúc thì Tỉnh Thức không vọng tưởng gì hết, mình không dám tác ý ra, không dám khởi một cái niệm nào ra hết thì như vậy cũng là sai.
Bởi vì đức Phật dạy Chánh Niệm Tĩnh Giác Định. Cái Định đó nó ở trong cái Chánh Niệm Tĩnh Giác. Chúng ta hiểu lầm như hồi nãy sư Nhẫn nói, mình hiểu lầm là mình Chánh Niệm ở trong cái niệm hành động thì cái đó nó không có nghĩa gì. Cái Niệm của chúng ta là Chánh Niệm, là ở chỗ Tà - Chánh, ở chỗ giữ Chánh Niệm, mà niệm không ngơ này thì không có lý gì.
Nghĩa là bây giờ Thầy biết hơi thở Thầy, Thầy biết Thầy đi, thì cái niệm đó không có lý, cái đó là cái hành động để chúng ta Tỉnh Thức chứ không phải là cái niệm. Chúng ta cho đó là cái Niệm, coi chừng chúng ta đã bị sai. Ví dụ như mình nghe nói Thân Hành Niệm, thân hành là cái Tỉnh Thức để biết cái thân hành, còn cái Niệm của chúng ta là cái nào, chứ đâu phải cái Niệm như thế này. Cái Niệm như thế nào, cái Ý của chúng ta niệm, hay là cái Thân chúng ta niệm?
Mình phải suy tư danh từ Niệm chứ! Cho nên có nhiều người nói niệm Phật, thì họ tưởng rằng Nam Mô A Di Đà Phật, hay Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật là Niệm Phật. Không phải. Niệm Phật là chúng ta, “niệm” tức là suy tư, tư duy, suy nghĩ. Niệm tức là có suy nghĩ ở trong đó. Suy nghĩ như thế nào, Phật như thế nào, đời sống Phật như thế nào, tâm Phật như thế nào, thân Phật như thế nào? Để rồi chúng ta suy niệm cái đó, chúng ta sống y như vậy thì mới gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh.
Bởi vì trong Pháp Tứ Bất Hoại Tịnh: Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng, Niệm Giới. “Niệm”, người ta tưởng là niệm danh hiệu, cái đó sai, không đúng. Cho nên Thầy giảng ở trong giáo án Đường Về Xứ Phật, Thầy giảng về Tứ Bất Hoại Tịnh cụ thế lắm mà.
Nghĩa là thân mình, lấy thân của mình, cái thân này phải sống giống như thân Phật thì gọi là Thân Niệm Phật.
Rồi Tâm Niệm Phật, tâm mình phải sống giống như Tâm Phật gọi là Tâm Niệm Phật. Chứ không phải tâm niệm Phật mà tâm này vẫn ác thì niệm Phật làm gì? Nó không thanh tịnh đâu.
Cái thân này, Phật sống như thế nào, Phật đi như thế nào, Phật làm như thế nào? Chúng ta tư duy, chúng ta suy nghĩ gọi là niệm. Niệm Thân Phật, để rồi lấy cái thân mình sống như Thân Phật thì gọi là Niệm Phật. Niệm vậy có Thanh Tịnh không? Cho nên gọi là Bất Hoại Tịnh, nó không làm cho mình hoại sự Thanh Tịnh, có phải không?
(12:47) Còn bây giờ mình niệm cái kiểu đó, thì mình niệm ngàn đời có Thanh Tịnh không? Không có Thanh Tịnh. Niệm Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, niệm hoài đi, cái thân mình cũng không thanh tịnh. Mà mình sống đúng như Thân Phật thì nó thanh tịnh. Thân Phật bây giờ đắp y phấn tảo thì mình đắp y phấn tảo. Mà mình ngại ngùng, mình không dám đắp, mình sợ hoặc là cho nó xấu mình không dám đắp thì như vậy là chưa thanh tịnh. Tâm Phật không tham, sân, si. Tâm Phật thì không có thèm ăn, thèm uống mà bây giờ mình thèm ăn, thèm uống, thì tâm mình không giống Tâm Phật, thì đó là mình "hoại tịnh" rồi, chứ không phải Bất Hoại Tịnh. Do đó mình phải làm tâm mình giống như Phật. Vì vậy cái sự tư duy, cái sự nghĩ ngợi như vậy đó gọi là Niệm. Niệm như vậy mới là Niệm Chân Chánh chứ, Niệm như vậy mới là Niệm Giải Thoát chứ. Niệm như kia đâu có giải thoát đâu, phải không, có đúng không?
(13:55) Sư Phước Nhẫn: Câu hỏi kế thưa Thầy, phóng tâm dễ trở thành phóng dật. Vậy làm cách nào để nó không trở thành phóng dật?
Trưởng lão: Thường xuyên mình dùng pháp tu, mình dùng pháp tu. Mới đầu thì thường xuyên nó phóng tâm, rồi khi phóng tâm thì mình chợt hiểu, mình biết nó đang phóng dật thì mình dừng nó lại đi, tức là "ngăn ác diệt ác" đó. Còn mình giữ cái tâm của mình trong hành động đi và luôn luôn pháp hướng Như Lý Tác Ý ra, hoặc là trong hành động của hơi thở: "Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra".
Mình sử dụng cái này quen dần thì thời gian sau nó vừa là cái pháp Hướng vừa cái hơi thở của mình, thì đó là cái pháp ngăn, ngăn cái tâm phóng tâm. Phải hiểu nó, nếu mình để bình thường vậy thì nó phóng tâm. Cho nên mình nỗ lực, mình siêng năng mình tu tập. Đầu tiên thì nó hay bị phóng tâm, phóng dật, do đó mình mới dùng cái Pháp Định Vô Lậu, mình quán xét để mình ly những cái niệm này, diệt những cái niệm này hết. Đừng để cho nó tới. Nhưng mà nó luôn tới, mình cứ bền chí, đừng có sợ. Tới thì tới, tới bao nhiêu thì dùng cái niệm đó, quán xét rồi ly nó ra, rồi dùng pháp Hướng đoạn dứt nó đi.
Cứ tu tập vậy hàng ngày, đừng có sợ, rồi nó sẽ hết. Mà nó hết thì lúc bấy giờ, thực sự ra muốn cho nó hết, đừng có tiếp duyên ra ngoài, phải sống độc cư. Nhớ! Vì vậy khi mà phóng tâm với phóng dật nó gần nhau lắm. Nó phóng tâm thì nó lôi cuốn mình theo cái dính mắc ở trong cái phóng tâm đó.
Bắt đầu bây giờ nó phóng tâm ra, thì mình thấy niệm nó phóng rồi, thì bắt đầu mình đem cái niệm đó mổ xẻ cái niệm đó, coi nó là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, nó ở trong cái lậu hoặc nào? Khi mà mình thấu rõ nó ở trong ba cái lậu hoặc này, trong một cái trong ba cái lậu hoặc này thì ngay đó là mình xả nó. Còn nếu không thì nó phải quán xét qua Nhân Quả. Hễ mình thấy Nhân Quả ác thì xả liền, mà thiện thì chấp nhận, cái này là tốt. Cái này để giúp cho chúng ta trên con đường tu để hiểu thêm.
(16:10) Thí dụ bây giờ có một cái niệm nó khởi ra một câu Kinh, phải không? Nhưng mà nó cũng là phóng tâm rồi. Bây giờ mình khởi ra một cái niệm, cái câu Pháp Phật dạy thôi, lời Phật dạy thôi, bây giờ nó khởi ra cái câu như thế này, câu Kinh Pháp Cú như thế này: "Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý." Mình nói ủa, như thế nào là Tự tịnh kỳ ý? Mình tư duy câu đó thì bị dính phóng dật liền.
Nó khởi ra cái niệm "Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành", thì nó mới là phóng tâm thôi. Bây giờ minh mới tư duy, thì nó là phóng dật.
Sư Phước Nhẫn: Sao nãy Thầy nói suy nghiệm được?
Trưởng lão: Bây giờ Thầy mới giải thích cho nghe, để thấy. Đây là một cái, cái Phật pháp rồi, cái pháp rồi, do đó mình mới suy ngẫm nó.
Đây là đưa ra cái này để cho mình tìm hiểu cái chỗ này, trên hành động tu của mình trong ngăn ác - diệt ác phải không? Cho nên nó đưa ra câu này để cho mình suy tư, để biết nó. Do đó mình suy tư nó, mình thấy đây là Thiện pháp, đúng Thiện pháp, phải hiểu nó, hiểu nó cách thức như thế nào để mà thực hiện ngăn ác - diệt ác, phải không?
Rõ ràng là phóng tâm, phóng dật rõ ràng đó, nhưng nó ở trên cái pháp Thiện. Còn bây giờ nó phóng tâm ở trên các pháp Ác, dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu là pháp Ác. Do nó là pháp Ác, mình cũng quán xét nó, mình cũng tư duy vậy, phải không? Mình tư duy nó rồi bắt đầu diệt nó. Còn cái này tư duy nó để rút tỉa kinh nghiệm.
(17:36) Sư Phước Nhẫn: Như vậy là được, không có phóng dật?
Trưởng lão: Được, đâu có sao. Không có phóng dật. Còn bây giờ nó phóng dật: nó nhớ nhà mình, nó nhớ chưa tới ăn mà nó đói bụng, mà mình thấy nó cứ cồn cào, nó muốn ăn thì như vậy mình bị phóng dật. Thì cái này phải quán xét, đoạn dứt nó liền.
Sư Phước Nhẫn: Phóng dật ác thì nó mất độc cư. Còn phóng dật thiện thì không sao?
Trưởng lão: Không sao hết. Phóng dật thiện, nếu nói về Chánh pháp nó giúp mình kinh nghiệm thêm để rút tỉa cái sự tu, mà về Thiện pháp nó giúp mình tăng trưởng cái Tâm thanh thản. Đừng ức chế nó, chứ không khéo mình ức chế luôn cả Thiện cả Ác, thì coi như là mình dồn nén nó tới chỗ đường cùng thì nó bật. Nó chịu không nổi đâu.
Sư Phước Nhẫn: Cái chỗ dồn nén con định hỏi Thầy. Hôm rày con bị chiêm bao nhiều lắm, nó cứ lai rai, lai rai. Khi mình nhớ mình chiêm bao thì mình biết, mà không nhớ. Con muốn hỏi Thầy làm cách nào cho hết chiêm bao? Cũng như mình ngăn chỗ mà nó xì ra cho nó hết chiêm bao. (18:36)
Trưởng lão: Hồi nãy là nói cái chỗ Thiện là cái chỗ xì. Còn để cho đi qua cái Tưởng chiêm bao thì không tốt. Vì vậy trước khi ngủ mình hướng tâm, mình nhắc: "Tối nay ngủ không được chiêm bao". Phải nhắc nó trước, rồi mình ngủ sẽ không chiêm bao. Chứ không nó chiêm bao. Phải tác ý như vậy để dẫn cái tâm không chiêm bao. Đó là cách thức mình phá chiêm bao. Nhưng mình phải cho cái ngõ nó đi, ngõ đi là chỗ Thiện, đừng có buộc nó, đừng có phóng tâm, phóng dật nha, chỗ này không có được. Mình kẹt hết thì mình chết. Bởi đức Phật nói: "Ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện". Phải rõ chỗ này, chứ không khéo mình ngăn luôn cả thiện thì mình ức chế nó toàn bộ, coi chừng nó bật tầm bậy.
Sư Phước Nhẫn: Ban ngày mình cứ phóng dật thiện thoải mái.
Trưởng lão: Không có sao hết, nhưng mà tới chừng nó hết là nó hết, cả thiện lẫn ác đều hết à. Còn mình ức chế …
Sư Phước Nhẫn: Con sợ phạm độc cư, nên không dám
(19:36) Trưởng lão: Bởi vậy Thầy nói nếu mà không có Thầy, coi như lầm một chút xíu là mình bị ức chế tâm. Lúc này là lúc quý sư đang tu ở trong Ác pháp, "Diệt ác pháp, ngăn ác pháp", còn "Sanh thiện, Tăng trưởng thiện" chứ không phải sống trong cái chỗ Định đâu. Khi nào tới Định rồi mới tới chỗ khác chứ. Chỗ này là chỗ mình ức chế quá đâu được. Cả thiện lẫn ác không cho nó có đường đi chỗ nào hết thì nó bực tức nó bùng ra …
Sư Phước Nhẫn: Nghe nói không phóng dật là mất độc cư …
Trưởng lão: Bởi vậy độc cư, đừng có nghĩ, giai đoạn độc cư có nhiều giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất mình phải độc cư như thế nào? Mình không có tiếp duyên nói chuyện phiếm. Chuyện Phật pháp nói được đó, chuyện phiếm không được. Mình đừng có bỏ công việc quét sân, hoặc này kia, "Tôi độc cư tôi không có phóng dật theo chuyện này được", không, chưa, tới giai đoạn này chưa phải. Tôi còn làm công việc để cho nó bớt cô đơn, chứ không khéo nó cô đơn quá tôi chịu không nổi, nó bung tôi à. Ức chế quá chịu không nổi, nó phá độc cư liền. Cho nên phải biết khéo léo từng chút, từng chút.
Thầy nhắc nhở như vậy, phải nhớ kỹ những điều tu này. Chúng ta không phải Thánh ở trên Trời mà rớt xuống đây đâu, mà là phàm phu, cho nên phải tập, tập nó mới được. Chứ còn muốn làm Thánh ngay liền không được đâu. Tập dần nó giảm dần, giảm dần…
(21:00) Sư Phước Nhẫn: Hổm rày do người ta hiểu lầm mấy danh từ đó nên hành pháp nó trật lất, cho nên nó nhiều cái kỳ. Con xin hỏi Thầy mình đọc sách, đọc nhiều có bị gom tâm không Thầy?
Trưởng lão: Mình đọc nhiều nó bị loạn tâm chứ, nó phân tâm mình nhiều lắm. Bởi khi mình đọc, thì cái tâm của mình nó lìa cái thực hành tu, nó chỉ gom vào cái hiểu biết, nó làm cho cái ý của mình theo cái nghĩa lý coi như độc thoại. Mình tự nói chuyện với mình, là đọc sách đó, cho nên nó làm cho mình bớt cô đơn, tức là mất độc cư. Cho nên mới đầu mình đọc để mình hiểu, mình nắm cho vững được cái lý. Rồi bắt đầu bây giờ mình hiểu rồi, mình bỏ hết kinh sách. Cái băng này cũng vậy, mình nghe để mình hiểu rồi, chứ không phải nghe đi nghe lại, nó thành một cái thói quen là mình cứ đọc. Mà không đọc thì mình thấy sao nó buồn, mà đọc thấy nó thoải mái. Cho nên Thầy nói thực sự ra có từng giai đoạn một, đầu tiên thì mình đọc, mình nghe, hiểu hết rồi thì bắt đầu dẹp, dẹp để tu, tu để độc cư cho trọn vẹn. Lần lượt sự độc cư đó phải độc cư như thế nào, thế nào, lần lượt…
Bời vì cái giáo trình đường lối tu tập, Thầy không có thì giờ Thầy vạch ra từng chút, từng chút để mà hướng dẫn kỹ lưỡng trong cái vấn đề này. Cho nên tu thì hỏi Thầy, Thầy trả lời, chứ còn Thầy chưa có viết. Lẽ ra Thầy phải soạn cái này, nhưng mà chưa có thì giờ kịp để làm tất cả cái này được.
Cho nên bây giờ cố gắng mình độc cư từng phần, từng phần. Chứ đừng có vội độc cư một cái rột, không được đâu, nó ức chế. Coi vậy chứ độc cư ức chế tâm dữ lắm. Bây giờ thầy không ngồi thiền, không tu thiền gì hết mà chỉ khép mình trong khuôn viên này là thầy đã độc cư, nó ức chế thầy ghê gớm lắm chứ không phải thường đâu. Nó chịu không nổi, nghĩa là thầy khép cái cửa này lại, không cho đi ra, tự giam mình là thầy đã ức chế thầy kinh lắm đó. Nó sẽ tìm mọi cách, cái đầu của thầy nó tìm mọi cách nó phá… Mà cái thân của thầy nó cũng tìm mọi cách nó phá, cái thân nó phá cách nào? Cái đầu thì nó lý luận, nó lý luận, nó phá không được. Cái thân bắt đầu nó phá, cái thân nó phá, nó đau, nó đau phải đi ra, không đi ra ở đây nhức khổ sở. Nó phá độc cư, nó đi ra cho thoải mái "Trời ơi, ngồi không kiểu này bệnh chết còn gì". Mà thực sự nó đau cái này, nó nhức cái kia, đủ thứ hết, nó hiện ra những tướng đau của nó. Nó phá độc cư.
Cái thân phá độc cư là nó đau, cái Thọ. Còn cái tâm phá độc cư, nó lăng xăng, nó lý luận đủ thứ hết, đó cái tâm nó phá. Cho nên "độc cư là một cái bí quyết thành công của sự tu Thiền Định". Thầy nói Thầy không cần ngồi Thiền gì hết, chỉ cần Thầy khép chặt độc cư, bây giờ chết Thầy nằm đây, nhất định đau gì thì đau, chết bỏ. Nó không chết đâu, Nhân Quả! Thầy đã có niềm tin ở Nhân Quả. Nhân Quả nó hết, là bây giờ Thầy muốn sống cũng không được. Còn Nhân Quả còn thì đau gì nó vẫn sống, nó không chết đâu. Nhất định là nó muốn đau gì thì đau, Thầy không mở cửa đâu.
(24:14) Cho nên Thầy thường nhắc với các Sư là trong chiến tranh, bom đạn nó bắn như vậy mà Thầy độc cư nhất định không rời Thất, Thầy ngồi sừng sững, không thèm nằm nữa. Nhưng mà cái uy lực của Nhân Quả nó không tới, nó không đến với mình thì không có súng đạn nào bắn trúng mình hết. Nó thật sự như vậy. Còn nếu mà bây giờ Thầy nói tới rồi, nhân Quả nó hết rồi, không có súng đạn nó cũng chết. Chưa à, chưa hết cái Nhân Quả chứ còn nó tới rồi thì không ai cứu được. Bởi vì nó là cái thân Nhân Quả mà, tới cái giờ của nó rồi thì không ai mà cản được…
Cho nên chúng ta tu hành chúng ta đừng sợ, chết bỏ, nhứt định đau nhức chết bỏ: "Tâm bất động", không có sợ. Nghĩa là coi một lần mình chết thì mình mới sống. Còn mình sợ chết, mình độc cư là bị cái thân nó phá độc cư, nó đau, nó làm thế này, thế khác. Chết bỏ, nằm đây, có chết thì chết, không đi đâu. Thì nó hoảng, nó rút lui, nó rút lui nó mạnh, nó khỏe. Lúc bấy giờ nó thanh tịnh, cái thân nó nhẹ nhàng, an ổn lắm. Còn hồi nó đánh mình, trời, cái thân cũng như cục đá, nó nặng cũng như hòn núi, nó nhức nhối, khổ sở. Khổ lắm.
Mình tu là cả cái cuộc chiến tranh mà, cái cuộc chiến đấu của mình dữ tợn lắm. Bởi vậy đức Phật mới nói: "Thắng trăm trận không bằng thắng tâm mình". Chiến thắng dữ lắm.
(25:51) Sư Phước Nhẫn : Cái phần đọc sách thưa Thầy, có phải là nguyên nhân của tạp niệm không… Thưa Thầy?
Trưởng lão: Tạp niệm đó con.
Sư Phước Nhẫn: Con thấy đọc sách nó bung ra tùm lum hết, kìm không nổi.
Trưởng lão: Tạp niệm đó, cho nên mình tìm hiểu được những cái nghĩa lý. Bởi vậy Thầy nói, Thầy nói thực sự trên bước đường tu hành chỉ cần một Thiện Hữu Trí Thức, người đó đã tu xong rồi, họ dạy mình cách nào mình tu cách đấy thôi. Họ dạy từng pháp cho mình tu, thì mình cứ tu, đừng có tìm hiểu. Mình hiểu rồi "Trời ơi nó tùm lùm cái đầu", ngồi tu Pháp này, nó hiện Pháp khác, nó luận cái này, nó luận cái kia, nó tưởng ra, trời ơi đủ thứ. Nó nghĩ ra cách tu nữa, nó làm như nó là Thần Thánh hay sao.
Sư Phước Nhẫn: Mấy lúc trước con có kinh nghiệm coi như bỏ hết, giờ chỉ sống với pháp Hướng thôi… Cái đầu tiên nó vẫn còn nghi, nghi kiết sử mà. Cái con nhớ đọc sách, đọc sách thế nào cũng bị tạp niệm, thôi giờ bỏ hết. Cái tự nhiên cái bước số tám tới, bước số tám tới cái mê quá làm miết một ngày, một đêm cái đọc, buông ra miết cái một ngày một đêm cái tạp niệm nó tới…(TL: Nó tới liền đó) Tại con không có kinh nghiệm nên con không biết cái niệm này phải nó ra không?
(27:05) Trưởng lão: Nó đó. Đó, (27:11) khi mà nắm được, bây giờ tin vào cái Pháp Như Lý Tác Ý, Pháp Hướng phải không. Cái thứ hai là sống trong mấy cái Định này, mình chấp nhận rồi, bây giờ đời sống độc cư hoàn toàn, ôm Pháp, theo Pháp sống. Độc cư hoàn toàn, không nghe nữa, bởi vì nghe là động tâm. Nhất là cái tâm mình nó thanh tịnh rồi, mà hễ nó rót vào cái gì thì Trời ơi nó bung ra dữ tợn, nó ùn ùn nó ra. Cái này tới cái khác. Ví dụ như Thầy nói Đại thừa như thế này thế khác, Thầy lật ngửa nó ra hết. Bắt đầu, nó đúng cái tâm trạng của mình, bắt đầu nó khởi ra, nó theo đó nó tuôn ra. Được cái dòng của nó, nó tuôn ra. Phải không sư?
Sư Phước Nhẫn: Có Phật tử nói Thầy nói thẳng quá. Có nhiều người họ lên họ kể rằng gặp Thầy, sao Thầy nói Đại thừa thẳng quá, như vậy không nên. Như Sư trình bày với con ngày hôm qua. Con về con nghĩ như thế này:
Con nói thí dụ như mình có ba đứa con, một đứa con nó đi chơi với người kia, đứa kia đạo đức giả, đứa con mình không biết cứ chơi với nó hoài. Mình làm cha mẹ bắt buộc mình phải nói với nó chứ. Chứ mình vì lịch sự, vì này kia mình nói đừng có chơi, mình không vạch trần cái đạo đức giả của người kia cho con mình hay sao? Người Phật tử đến đây Thầy nói như vậy là Thầy vạch trần như vậy mới đúng chứ, sao lại trật. Mình nhìn với con mắt đạo đức, chứ không với con mắt ngoài đời thì thôi người ta hư, người ta xấu, kệ người ta, mình đừng có nói. Như vậy thì nó không tốt, bởi vì không có tình thương. Còn Thầy nói với tình thương, đó là một điểm.
Điểm thứ nhì nữa, thí dụ như cái pháp này nó trúng hay nó trật…. Bởi vì đức Phật ngày xưa mỗi buổi sáng tiếp chuyện Bà La Môn, đức Phật bác thẳng mà, bác thẳng mấy người đó luôn, chứ đâu phải không bác thẳng. Họ đến họ vấn nạn Phật, họ đến họ gặp Phật, họ nói xấu Phật thẳng luôn, thì Phật vẫn nói, bác thẳng luôn. Thời bây giờ có ai gặp Thầy đối chất đâu mà Thầy nói thẳng. Hồi xưa chính đức Phật đã bác thẳng Bà La Môn, thì bây giờ mình bác thẳng Đại Thừa thì đâu có tội, mình đi con đường Phật đi thôi. Mình nói, bác thẳng để cho họ biết cái sai, cái trật để họ hoán cải. Chứ không phải mình bác thẳng Đại Thừa nói trật để mình làm Giáo chủ. Mình bác đúng mà. Họ không có nghĩ cái vấn đề tâm của Thầy như vậy, họ nghĩ như ngoài đời, quảng cáo xà bông của tôi là nhất thế giới nhưng không có quyền nói xà bông A, xà bông B là xấu. Chỉ có quyền nói xà bông của tôi là nhất thôi, đó là vấn đề quảng cáo. Về mặt Đạo cũng như mặt đời vậy, khó lắm… Mình đừng có nói xấu người ta, mình chỉ nói xấu mình thôi, thì đó là đời. Về Đạo thì sao mình cũng không biết, không thể nói như vậy được, cũng như con mình nó đi chơi với người xấu thì mình nói: "Ờ đừng chơi với nó nghe con", nói vậy nó đâu có biết. Mình biết mình nói nó ăn cắp, ăn trộm, tại chỗ đó, chỗ đó làm sao, nó lừa gạt như vậy… Mình biết mình mới chỉ được ra. Mình đâu có nói xấu người ta, mình nói như vậy để con mình nó khỏi chơi. Mình không nói thẳng thì nó không tin mình. Cũng khó chớ!
(30:44) Trưởng lão: Bây giờ Thầy nói như thế này, bây giờ không nói thẳng, nếu mà Thầy nói như thế này: Thầy chỉ trích Hòa thượng này, Hòa thượng kia tu sai, thì đó là bậy. Mà đây là cái giáo pháp này sai, làm tai hại cho Hòa thượng này, Hòa thượng kia. Thầy Tổ của mình, tất cả những con người đi trên con đường này sẽ không đạt được, chết trong sự khổ đau, Thầy vạch rõ như vậy. Có nghĩa là để thức tỉnh cho những vị Hòa thượng đồng thấy cái chỗ sai đó, chứ không có nghĩa là nói Hòa thượng này sai, Hòa thượng kia tu bậy. Không có, lật ngửa cái Pháp này nó dạy như vậy, vậy, vậy, nó phi đạo đức cách này, làm như vậy để mọi người đều thấy. Trong khi đó họ nghĩ rằng Thầy bài bác họ sao? Thầy đâu có bài bác họ đâu. Tại cái Pháp nó sai, nó không đúng của Phật, có vậy thôi.
Sư Phước Nhẫn: Họ chỉ là nạn nhân thôi.
Trưởng lão: Chỉ là nạn nhân thôi. Không những đời mình hiện tại mà con cháu mình sau này nữa, nhiều thế hệ. Trước kia Thầy Tổ của mình, bây giờ tới mình, rồi bây giờ tới người sau nữa. Ai lại không hướng về con đường của đạo Phật, mà hướng về con đường của đạo Phật mà nó sai như thế này thì chết biết bao nhiêu người. Cái đời của mình, bây giờ ở đây có bốn người của mình đang ngồi đây, mà mình đi tu mình biết tìm con đường giải thoát chứ đi tu để tìm ăn, tìm ngủ hay tìm chùa to, Phật lớn làm chi nữa đây? Cuộc đời, mình không đủ khả năng làm những điều đó, mình sống sao mà bây giờ mình vô trong đó để ngồi mát ăn bát vàng này, bằng cách đi xin như thế này, bằng của người ta cho mình như thế này. Không phải hèn hạ sao? Mình phải đi đến đây để tìm con đường giải thoát, làm cái gương đạo đức, chứ đâu phải mình lòe có thần thông, biết chuyện quá khứ để gạt người ta như thế này sao? Hoặc là mình thuyết giảng bằng lý luận của mình, ngôn ngữ của mình làm như là hay giỏi như vậy sao? Mình đâu có điều kiện đó đâu, cho nên những lời Thầy nói, Thầy không làm một người lừa đảo có sách vở.
Còn quý thầy hiện bây giờ lừa đảo có sách vở, làm cho người ta, bưng bít người ta không biết, khổ cái nỗi đó. Bởi vì cái nói láo có sách vở nó khó lắm. Cũng như quý thầy tu không được, mà cứ nói láo không à. Bảo người ta phải tu như vậy, vậy… Mà mình làm không được. Phải chi mình làm được mình rồi mình nói thì người ta tin, còn đằng này làm không được. Rõ ràng kinh sách Đại thừa dạy người ta làm không được rồi, mà rồi cứ dạy người ta. Bảo là y kinh bất y nhân, y kinh chứ đừng y cái người nói. Ông nói, ông bảo tôi, ông tu không được ông lại bảo y nó. Ông đã y nó không được mà bây giờ tôi y nó được sao?
(33:35) Sư Phước Nhẫn: Có mấy ông thiền sư trong cuốn: "Những Đại Thiền sư đương thời", có mấy ông thiền sư hút thuốc. Thiền sư mà hút thuốc. Tác giả cũng nói rõ ràng là thiền sư không hút thuốc, con đọc cuốn đó con giật mình; thiền sư mà hút thuốc! Ổng kêu đệ tử đừng có dòm ông, y nghĩa bất y nhân, sao kỳ vậy, cái đó là phạm giới rõ ràng rồi. Bây giờ nói trong Kinh, đức Phật không có cấm hút thuốc, thì đúng, vậy hút sì ke luôn đi, đâu có sao. Đâu có được, như vậy là sai rồi mà nói vậy…
Trưởng lão: Nó trở thành thứ bệnh ghiền, mà cái ghiền là nó đã bị nhiễm, cho nên vì vậy người mà uống rượu, người mà hút thuốc là ghiền rõ ràng, ông bỏ không có được, vậy ông làm chủ cái gì? Nội cái điếu thuốc mà ông ném không được thì ông làm chủ cái gì sự sống chết của ông! Mà ông là thiền sư, thiền sư gì mà kỳ vậy. Thầy không chịu mấy cái đó! Bởi có nhiều ông Hòa thượng chứng trai rồi mà còn cầm điếu thuốc nữa, trời đất ơi, còn chỗ nào, mà trước Phật tử như vậy.
Sư Phước Nhẫn: Bởi vậy, Thầy nói cái đó nó quá lắm rồi. Vì người đời còn không hút thuốc nữa là.
Trưởng lão: Cái người biết thuốc là tai hại người ta không hút, người ta bỏ. Còn mình là người tu sĩ mà còn nghiện thêm cái nữa. Cái đó đâu có cần thiết mà nghiện. Thì nó nguy hiểm lắm. Bởi vậy, những cái đó coi như là mình thấy, khi mà tu rồi, mình thấy những vị tu sĩ, những cư sĩ, nhất là tu sĩ là coi như những đứa con của mình. Nó đã sai, nói thẳng cho nó thấy, thế mà họ không hiểu, họ lại muốn chống lại Thầy, thế mới chết, khổ cái nỗi.
Sư Phước Nhẫn: Về cái pháp Hướng, con muốn hỏi Thầy, liên quan đến vấn đề Tỉnh Thức: Tỉnh Thức khác với Thanh Tịnh mình tu làm sao để biết mà hỏi về pháp Hướng. Con mới xuất gia có một tháng hai mươi ngày thôi, thấy người ta ngồi năm sáu năm, hai ba năm… Mà mình ngồi một tiếng đồng hồ là oải rồi, mà họ mỗi lần ngồi đến ba tiếng rồi đứng lên tỉnh bơ!…Cái căn cơ họ lớn..(không rõ)
(36:40) Trưởng lão: Không, thân nghiệp mình chưa Thanh Tịnh, nhưng mình hướng tâm, đó là mình hướng cái tưởng của mình, nó hiện cái tướng Tưởng ra… nó làm cho mình sợ…
Sư Phước Nhẫn: Mấy ông tà giáo…
Trưởng lão: Đó, cái đó đó, bởi vậy bên tà pháp, tà giáo ngoại đạo nó cũng vẫn dùng pháp hướng đó chứ, chớ đâu phải nó không. Bởi vì nó luyện thần thông, toàn pháp hướng không à, nó muốn có cái gì đó nó cũng hướng tâm.
Sư Phước Nhẫn: Bữa hổm con ham quá, con cũng định vô cái đó làm thần thông, cái đầu nó tác ý: “Gom tâm, gom tâm vô, pháp Hướng gom tâm vô…”
Trưởng lão: Cái đó pháp Hướng, mà lại pháp Hướng không biết sử dụng nó đúng ý thức. Bởi vì đức Phật nói đừng có để cho nó rơi vào Tưởng thức, bởi vì cái Tưởng thức với Ý thức, hai cái nó kềm nhau, nó câu hữu kế nhau. Hễ cái này nó dừng thì cái Tưởng thức nó hoạt động liền. Cho nên nó dừng, có cái mình thấy mình vẫn biết chớ. Mình ngồi đây không vọng tưởng rõ ràng mà, nhưng không ngờ là Tưởng thức.
Còn cái Ý thức của mình không bao giờ mà nó chịu ngưng hoạt động nó đâu, nó phải hoạt động, nó phải tác ý ra. Cho nên muốn tác ý ra, thì Như Lý Tác Ý để cho nó đi vào đúng Chánh pháp, không thì nó tác ý bậy, tác ý tà pháp, nó tác ý ác pháp đó.
Do đó mình cứ giữ Ý thức của mình, tức là Tỉnh thức trong Ý thức, chứ không được Tỉnh thức ở trong Tưởng thức. Mà Tỉnh thức ở trong Tưởng thức Thầy gọi là Tĩnh Lặng. Hai danh từ Thầy dùng, Tỉnh Thức và Tĩnh Lặng chứ gì? Hễ khi mà nó kéo dài, nó không vọng tưởng mà nghe nó có trạng thái hỷ lạc an ổn đó, khinh an đó, là chúng ta bị Tĩnh Lặng rồi, nó lặng nó yên ổn rồi. Còn cái Tỉnh Thức nó không có, nó Tỉnh Thức nó biết rất rõ vậy, rồi nó tác ý ra, nó hướng ra, cái khoảng thời gian cao lắm là nó chỉ là năm phút thôi, chứ còn nó không hơn, nếu mà nó hơn thì nó rơi vô Tĩnh Lặng. Chỉ một phút trở lại thì tốt nhất, còn năm hơi thở, mười hơi thở thì hay nhứt. Cái đó là cái tu của mình, mình đang tu chứ không phải là mình nhập định.
Sư Phước Nhẫn: Định thì nó yên.
Trưởng lão: Định thì cả thân và tâm nó định như vậy…, còn nó định cái phần tâm thì nó chỉ ly dục ly ác pháp thôi.
Sư Phước Nhẫn: Bây giờ con mới để ý Pháp Hướng nó mạnh thật.
Trưởng lão: Nó mạnh lắm.
Sư Phước Nhẫn: Bởi vì mình muốn ngồi lâu thì phải qua giai đoạn đau, hết đau rồi mới luyện xuyên thấu, tùm lum nó mới ngồi lâu được. Cũng như mấy ông dạy luyện xuyên thấu để nó qua cái giai đoạn đau, còn cái này sao nó không có đau, nó tỉnh bơ như mình ngồi chơi vậy.
Trưởng lão: Cái Pháp Hướng nó điều khiển cái Tưởng thức hiệu quả lắm.
Sư Phước Nhẫn: Dạ, ngồi mà không có sao hết trơn hết trọi.
Trưởng lão: Nó không điều khiển được cái tâm mình đâu mà nó điểu khiển Tưởng, vì lúc bấy giờ cái ý của mình muốn là cái Tưởng của mình rồi đó. Cho nên mình ra lệnh là Tưởng nó hoạt động…
Sư Phước Nhẫn: Hồi đó mình đâu có biết, con đâu có biết cái đó là tác ý đâu, mình ngầm mình tác ý trước mà mình đâu có biết: “Tối rồi sáng ra ngồi ba tiếng, chiều ngồi ba tiếng”.
Trưởng lão: Bởi vậy Thầy nói hơi thở, mà bảo nó tịnh chỉ là nó tịnh chỉ à, mà đó là Ý thức tịnh chỉ, chứ không phải Tưởng đâu.
Còn Tưởng nó cũng ngưng đó, nó ngưng mà nó thở bằng lỗ chân lông, nó thở bằng chỗ khác, nó không như Phật, không thở. Mà mình thấy nó ngưng, cái người ngồi thấy nó không thở, nhưng mà Tưởng nó ngưng.
Sư Phước Nhẫn: Nó thở bằng lỗ chân lông?
Trưởng lão: Thở bằng lỗ chân lông.
(40:01) Sư Phước Nhẫn: Tỉnh thức với Thanh Tịnh khác nhau?
Trưởng lão: Cái Tỉnh Thức, Thanh Tịnh nó khác, khác nhau. Cái Tỉnh Thức là cái Ý thức tỉnh thôi, còn cái Thanh Tịnh là cái tâm nó không còn tham, sân, si. Còn mình Tỉnh Thức chưa phải là hết tham, sân, si. Mà nếu đi tới Tĩnh Lặng thì bị nén, bị ức chế.
Sư Phước Nhẫn: Con hỏi chút này, mình dùng pháp Hướng đó, lúc mà mình Thanh Tịnh, như vậy nó hướng được. Lúc đó mình còn tham, sân, si mình không…
Trưởng lão: Nó mới Tỉnh Thức, chứ còn tham, sân, si. Bây giờ mình mới Tỉnh Thức thôi, chừng năm phút hay là ba phút, hay là một phút mới Tỉnh Thức chứ chưa Thanh Tịnh đâu. Mình thấy tâm mình nó Thanh Tịnh chứ sự thật nó chưa Thanh Tịnh đâu, nó ở trong này, bởi vì mình xả ra mình thấy nó tùm lum hết à, nó đủ thứ hết à, nó chưa Thanh Tịnh. Bởi vì mình ức chế nó, nó nằm đó nó coi như nó chịu đựng, nó nằm đó chứ nó, với không có pháp, không có đối tượng nó không có bộc phát ra thôi.
Chớ thật sự trong tâm mình hiện bây giờ tham, sân, si nó trong này đủ hết à, nó nằm một cục ở trong này nè. Mà nó không có pháp, nó không có đối tượng nó không có bung ra thôi. Chứ nó có cái nó bung ra, cái sân nó liền à, cho nên nó nằm đó.
Sư Phước Nhẫn: Bây giờ nó chưa có Thanh Tịnh thì mình xài pháp Hướng được không ạ?
Trưởng lão: Chưa. Bởi vậy mình sử dụng Tỉnh Thức để mà sử dụng pháp Hướng, chứ chưa Thanh Tịnh đâu. Bởi vì khi mà nó chưa Thanh Tịnh, mình mới dùng pháp Hướng để cho nó Thanh Tịnh, phải không? Cái tâm Thanh Tịnh là cái tâm không tham, sân, si, cái tâm không phóng dật mà bây giờ nó chưa, cho nên mình tu tập Tỉnh Thức.
Tỉnh Thức, cái trạng thái Tỉnh Thức trong cái khoảng thời gian một phút cho đến năm phút, để rồi mình dùng pháp Hướng mình làm cho cái tâm Thanh Tịnh, kêu là quét cho sạch đó.
Cũng như bây giờ Thầy muốn quét cái nhà này, Thầy đóng cửa lại trong năm phút Thầy quét cho sạch, Thầy làm vệ sinh cho hết rồi bắt đầu Thầy mở cửa ra nhà sạch, chứ còn mở cửa ra bụi ở ngoài cứ tung vô quét hoài không có được. Nó có nghĩa như vậy đó, cho nên Tỉnh Thức có nghĩa là đóng cửa lại, làm cho nó, chứ sự thật ra cái tâm chưa thanh tịnh, tỉnh thức chưa có thanh tịnh, phải không?
Bây giờ đó, mình mới quét, quét coi thử, quét cho sạch, quét sạch rồi cái mở cửa ra; mà không sạch mà mở cửa ra thì nó tung trở lại. Vốn là mình độc cư, là đóng cửa lại rồi đó. Tập Tỉnh Thức là tập để cho mình đóng cửa lại đó. Đóng cái cửa tâm để mà quét cái tâm cho sạch ba cái cặn bã nó nằm ở trong đó, tham, sân, si của nó nhiều đời ở trong đó đó, giờ nó nằm trong đó. Cái mới nó không có tung vô được, mà cái cũ nó còn nằm ở đó nó chưa có quét ra. Cho nên nói tâm Thanh Tịnh với Tỉnh Thức nó không giống nhau.
(42:39) Sư Phước Nhẫn: Về cái Xả con thấy có hai nghĩa: Một là Xả có nghĩa là quân bình trở lại, cũng có người nói Xả là bỏ. Con xin Thầy định nghĩa cho con chữ Xả.
Trưởng lão: Cái Xả đầu tiên là mình tập quân bình trở lại, xả là tập quân bình trở lại. Xả thứ hai là bỏ sạch đi.
Sư Phước Nhẫn: Có lúc Thầy nói Xả, xả kiểu này, có lúc xả kiểu kia, con tưởng là chết, theo không kịp chứ …
Trưởng lão: Hiểu lầm đó, bởi vậy cho nên cái Xả, ví dụ như đức Phật nói "Xả hỷ" là quân bình trở lại cho cái thân của mình, nhưng mà "Xả lạc, xả khổ”. Bây giờ tới "Xả lạc" cũng là quân bình trở lại cho cái thân của mình.
"Xả hỷ" thuộc về quân bình cho cái tâm, mà “Xả lạc” tức là quân bình cho cái thân, phải không? Mà "Xả khổ" tức là bây giờ mới bỏ ra hết, ném hết cái thọ ra. Tới cái "Xả thanh tịnh" để hoàn toàn mất đối tượng luôn, của ý thức, cho nên cái thức của chúng ta còn nhưng mà không có đối tượng coi như là không thấy nữa.
Đó là cái chỗ Xả, phải lên Tam Thiền chúng ta mới xả à. Ly Hỷ là xả, xả Hỷ đó, là quân bình cái tâm của mình để trạng thái nó hỷ lạc này kia đủ thứ, nó do Định sanh. Bởi vì có hai cải hỷ lạc, chúng ta thấy rất rõ.
Cái hỷ lạc đầu tiên là do “Ly dục sanh hỷ lạc” của Sơ Thiền, nó khác.
Còn cái hỷ lạc diệt tầm tứ, mà “Định sanh hỷ lạc”, cái này là do Định sanh.
Khi mà cái người dừng Ý thức rồi thì cái trạng thái hỷ lạc này do Dục tưởng Hỷ Lạc, cái Tưởng Hỷ Lạc nó sanh ra. Còn cái này do Ly dục sanh, chứ không phải Dục tưởng. Còn cái này Dục tưởng sanh. Cho nên đến Tam Thiền thì phải ly cái này ra, cái Dục tưởng, cái trạng thái hy lạc của Nhị Thiền này, phải ly nó ra hết.
(44:36) Lên Tam Thiền xả luôn cái lạc của nó luôn. Cái lạc của Tam Thiền là cái lạc của thân, của Tứ Thiền, cái xả lạc của thân.
Cho nên xả luôn cái thọ, tức là xả khổ luôn hết. Do đó tất cả cái này xả hết rồi, thì xả Niệm Thanh Tịnh luôn, thì như vậy mới xả cái này. Muốn xả được, mà “xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh” này, thì chỉ có tịnh chỉ hơi thở là xong. Hơi thở dừng là xả, còn hơi thở không dừng là không xả. Nói xả mà hơi thở không dừng là không xả.
Cho nên khi nhập Tứ Thiền chúng ta chỉ cần hướng tâm "Hơi thở phải tịnh chỉ, ngưng, nhập Tứ Thiền". Cứ ngồi yên lặng, một lúc nhắc, hướng tâm nhắc, nhắc một hơi nó ngưng. Nó ngưng thì nó xả ly, nó xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh hết.
Sư Phước Nhẫn: Thưa Thầy chừng đó mình muốn ngồi…
Trưởng lão: Mình muốn ngồi, trước khi mình muốn… Thấy nó ngưng được. Bắt đầu hơi thở nó ngưng, ngưng từng phút, nó ngưng một phút, rồi bắt đầu nó thở lại. Mình ra lệnh nó ngưng nữa, nó ngưng hai phút rồi nó thở lại. Thì lúc bây giờ mình biết hơi thở sắp sửa là nó sẽ ngưng được rồi. Hướng tâm hiệu quả rồi, hiệu quả rồi thì mình bắt đầu mình ra lệnh "Hơi thở phải tịnh chỉ, ngưng, ngưng một tiếng đồng hồ rồi thở trở lại". Bắt đầu nó theo đó nó ngưng một tiếng đồng hồ, rồi nó thở trở lại. À như vậy là mình điều khiển được nó rồi. Bắt đầu mình bảo nó hai tiếng, ba tiếng, một ngày, hai ngày, rồi bảy ngày.
Nó ngồi nó ngưng bảy ngày luôn, nó ngồi bất động không có ăn uống gì hết. Bắt đầu mình thấy mình làm chủ được cái thân rồi. Rõ ràng là chỉ có Pháp Hướng thôi, chứ không ai làm được điều này, chỉ Pháp Hướng thôi. Bởi vậy đức Phật nói đơn giản mấy cái thiền này: ly hỷ nè, diệt tầm tứ nè, nhập Nhị Thiền nè.
(46:26) Bây giờ mình ngồi, mình đừng tác ý ra đâu có phải dễ đâu. Vọng tưởng đó, thì bắt đầu mình ức chế thì nó không có, chứ mà tác ý nó vẫn còn. Mà diệt tầm tứ là không còn tác ý. Cho nên nó chỉ nói diệt thôi, mà nó đã tới Định, phải hướng tâm giờ nào, phút nào nó ra, chứ không khéo nó vô đó bảy tám ngày nó không ra, người ta nói mình chết luôn, người ta chôn mình đó. Mình không tác ý ra, người ta khiêng mình, mình biết đó chứ mà nói không được. Không tác ý ra đâu có nói được.
Biết người ta khiêng mình đem chôn chứ, biết nó đem mình bỏ trong phản đóng lại chứ, mà rồi nói không có được, không có tác ý ra. Rồi họ đem lấp mình dưới đất, biết đó chứ mà nói không có được. Biết, thấy người ta làm, biết hết à, nhưng mà không có nói, tác ý ra không được, không có nói được. Mình tác ý ra mình mới nói được.
Cho nên mà muốn vô Định mình phải hướng tâm mình ra lệnh trước, rồi mình mới vô. Chứ không phải cứ ngồi là nó vô Định, muốn xuất hồi nào thì xuất. Không phải, không có chuyện đó đâu. Mình tưởng nói thường vậy chứ không phải chuyện dễ, không có đơn giản đâu.
Thầy nói khi mà sắp sửa nhập Định là luôn luôn lúc nào cũng phải ở gần bên Thầy. Bây giờ "Ly dục, ly ác pháp" thì ở đâu ly cũng được. Chứ còn đối với lúc mà "Tịnh chỉ tầm tứ nhập Nhị Thiền", là Nhị Thiền cũng phải ở gần Thiện Hữu Tri Thức rồi. Cho lên ông Mục Kiền Liên ông đi xin đức Phật vào khu rừng hoang vắng, ông tu Định đó, luôn luôn ông Phật phải kèm theo. Cho nên khi ông bị hôn trầm là ông Phật cũng tới rồi. Khi tâm ông bị trạo cử, khởi niệm ông đạt được cái này, cái kia, đức Phật phải tới rồi, tới để phá liền tức khắc, chứ không có để. Ở cách xa mà luôn luôn phải tới. Chứ không phải là… Trước khi mà ông Mục Kiền Liên xin đi thực hiện những cái Thần thông, những pháp Định đó thì xin ông Phật, ông Phật nói ờ bây giờ đến khu rừng đó, luôn luôn theo dõi, không có để ông một mình chơi vơi ở trong cái chỗ Thiền Định này, nó khó lắm, không phải dễ. Cho nên ở trong đó không nhắc chứ sự thật là khi muốn nhập cái Định nào là phải ra lệnh trước hết, hướng tâm hết, rồi chừng đó mới vô. (48:53)
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 24
TÂM THANH TỊNH MỚI CÓ ĐỊNH
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và Sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [45:27]
Thời gian: 2002
Tên cũ: 13A-TamThanhTinhMoiCoDinh
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-24-tam-thanh-tinh-moi-co-dinh.mp3
(00:00) Thứ hai của thời tu, chứ không phải giai đoạn một. Giai đoạn một là giai đoạn tập trung trong bước đi, nhưng mà tỉnh thức không được nhiều, không có cho những thời gian dài, dài nó bị hư. Ở đây cặn kẽ là tại chỗ này con, biết nó đi tới cái chỗ nào sẽ bị rớt trúng chỗ đó, nó sanh ra những cái trạng thái tưởng.
Cho nên hầu hết rồi các thầy, các sư mà tu được những trạng thái tưởng rồi họ nghĩ rằng là định. Cái tâm mình còn ê chề quá, còn cái đống rác thúi này, mà định là định cái gì. Mục đích định Phật dạy là cái tâm thanh tịnh mới có định. Chứ không phải tâm chưa thanh tịnh mà thân ức chế nó để cho không có niệm rồi gọi là định, rồi sanh ra những trạng thái tưởng hỷ lạc. Tưởng dục phải sanh ra hỷ lạc cho mình vì cái dục mình còn mà. Còn kia người ta ly dục mà, đâu còn dục. Phải hiểu được cái lý của pháp là như vậy.
Cho nên, Thầy thấy bây giờ tất cả tu sĩ đã tu sai, mà nói thì họ không nghe. Biết họ tu sai, vì con đường mình đi qua rồi. Biết cái sai, cái đúng mình nói mà người ta không thấy. Cho nên mới tội chứ, mình thấy người đó tu nhưng mà làm sao bây giờ cứu người ta được.
Người ta đã kiến chấp cái đó rồi thì thôi, Thầy nói thực ra khó quá, khó mà gỡ cái chấp kiến của họ được. Vậy mà có nói là chấp kiến đó. Chấp vô cái đó là đúng rồi đó, người ta nói gì mình cũng không nghe. Nhưng mà cái người, người ta tu được, người ta biết được cái đúng sai. Còn phải chi mà làm nhà học giả, không tu được mà nói vậy là lý luận rồi.
Cũng như Thầy bây giờ, Thầy tu chưa xong mà Thầy nói vậy, Thầy là nhà học giả. Thì đó là cái luận của Thầy chứ chưa phải là đúng đâu. Còn cái này, cái làm được của Thầy rồi. Nó thực tế là cái chỗ người mà dạy mình là người đó phải làm được mới dạy. Còn người mà không làm được mà nói thì cái người đó dẹp, tu sai hết. Còn cái này Thầy làm được rồi Thầy nói. Bởi vì Thầy làm được mà Thầy nói mà không tin Thầy, thì thôi thôi, Thầy nói thật sự ra thì đó là cái nhân duyên, làm sao?
(2:02) Cho nên, Thầy nói ba tháng, sáu tháng, một năm, các sư cứ tin đi. Nếu mà ngồi mà đẩy lui coi có tâm nó định coi, đừng có ức chế nó coi, tự nó là định lên coi. Rồi nó định rồi, rồi nó nhu nhuyễn rồi thì các sư sẽ sử dụng theo ý muốn của mình, Định Như Ý Túc mà. Bởi vì, cái ý muốn mình định như thế nào nó làm thế nấy, chứ đâu phải là mình ngồi để mà tập định được.
Cho nên nó mới có Tứ Như Ý Túc chứ, thì trong Tứ Như Ý Túc nó có Định Như Ý Túc. Chứ đâu phải mình tập định rồi như ý túc mình đâu. Mình phải tập cái gì rồi mình mới điều khiển cái như ý túc này, phải hiểu được cái Tứ Như Ý Túc của Phật. Đó, đó là những cái mà chúng ta cần phải hiểu biết để chúng ta thực hiện. Và bây giờ Thầy nói thật sự hiểu biết rồi không cần hỏi.
Bây giờ, con quyết định con tu, nhờ Thầy theo dõi sát con, có gì sai Thầy đến dạy liền.
Nó phòng hộ nó sáu căn đi phải ngó xuống vậy thôi không dám ngó qua lại. Nghĩa là đi xin ăn đó, nghĩa là ngày xưa đức Phật đi xin ăn đó, ngó xuống vậy. Mình đi ở trong thất mình đi hai cái chỗ cổ chân, mình cũng ngó xuống vậy, ngó xuống tránh không có đạp kiến, để cho cái sức tỉnh thức mình nó tăng thêm, nó lợi ích mà thực hiện được cái tâm từ của mình.
Bởi vì, Thầy giảng từ với bi nó có nghĩa khác chứ không phải là cái nghĩa đơn sơ như người ta hiểu thường đâu. Từ là mình đi mình không đạp lên cọng cỏ, làm cho cọng cỏ dập héo là từ. Con vật đương sửng sơ mình rủi mình đạp nó gãy chân hay què chân nó là không có tâm từ. Còn bi là cứu một con vật bị đau, bị đớn hay hoặc bị chết, làm chúng ta xúc động, làm chúng ta thương xót đó là tâm bi, thấy cái khổ của người ta thì đó là bi. Còn bây giờ, người ta đang vui như vậy đó, đừng có làm cho người ta buồn, mà mình làm cho người ta buồn thì tâm từ của mình…
Như vậy đó, mình phải hiểu từ, bi nó có nghĩa nó khác. Từ tức là mình thực hiện, đừng có làm một cái gì, người ta đang vui chơi mà mình làm cho người ta khổ trong đó là mình thiếu tâm từ. Còn người ta đang đau đớn, người ta bị khổ sở, mình đến mình an ủi đó là tâm bi, giúp đỡ người ta trong cái khổ đau đó. Còn người ta không có đau đớn gì hết thì nó là tâm từ, đừng có làm cho xảy ra cái sự đau đớn.
(04:23) Phải hiểu vậy cho nên từ, bi, hỷ, xả do mình thực hiện được như vậy là mình thấy cái tâm hồn của mình an vui rồi. Cũng như bây giờ, mình đi mình đạp vô cọng cỏ, làm cọng cỏ nó héo đi, thì mình thiếu tâm từ thì cái lòng mình có vui đâu, phải không? Mình đâu có hỷ được, bởi vì nó héo đi mà.
Còn bây giờ trước cái người đó đương bị bệnh, người đó đương nhổ cọng cỏ làm cho chết cái cây, phải không? Mà cái tâm mình không thương sót cái cây này thì tức là mình thiếu tâm bi. Thì mình có vui đâu, toàn mình khổ không.
Nhưng mà làm sao, nghiệp chúng sanh, làm sao mà hiểu. Khi mình khởi cái niệm vậy, thì mình thấy mình hân hoan mình sống với mọi vật mình thấy thương xót thì tâm hỷ, tâm hỷ phải có liền. Mà tâm hỷ mình có liền, từ, bi mình có thì người ta chửi hết giận tức là đối trị tâm sân. Mà đối trị tâm sân thì tâm sân không có, thì tâm tham nó sẽ diệt. Bởi vì có tham mới có sân, chứ không tham thì không sân. Mình sáng suốt thì nó không si, cho nên tham, sân, si nó diệt.
Bởi vì Thầy nói tu đúng, Thầy nói thật ra đức Phật trang bị cho chúng ta đúng pháp, đủ pháp để chúng ta thực hiện cuộc đời chúng ta giải thoát, sống giải thoát. Rất hay, chúng ta chỉ có cố gắng thôi. Cho nên sự nỗ lực bây giờ cái giai đoạn, sư đã đạt được năm phút. Nghĩa là Thầy muốn nói năm phút không có nghĩa là bây giờ mình năm phút này, năm phút vọng tưởng. Mà lát nữa ngồi mới ba phút có vọng tưởng thì không được.
Tại vì cái sức tỉnh thức mình chưa đủ để cho mình ức chế nó. Mình tập thêm cái sức tỉnh thức này thêm nữa để chú tâm năm phút, rồi năm phút từ đó về sau là coi như là mình khỏe rồi đó. Tu cái này mệt lắm nè, cái này mà ức chế tâm nè, bị vô cái này tuy rằng nó năm phút chứ nó mệt lắm, chứ không phải không đâu. Mà do đó bây giờ đó mà đạt được cái này rồi thì khỏe rồi, bây giờ tới cái giai đoạn mà ngồi chơi đó. Ngồi chơi mà cảnh giác đó, cảnh giác mà đẩy lui tất cả chướng ngại pháp trên tâm thôi, có vậy thôi.
Để dẫn cái tâm của mình trở vào cái trạng thái thanh thản. Khi mình dẫn tâm vào đạo đó. Các sư thấy Thầy để cái bảng mà: "Dẫn tâm vào đạo", đạo là nó ở chỗ nào? "Thanh thản, vô sự, an lạc". Mà có chướng ngại pháp, có cái tâm niệm của mình ở trong đó thì nó còn thanh thản không? Sư thấy cái đạo chỗ nào? Nó mất rồi phải không? Đuổi cái này thì nó vô cái đạo chứ sao.
(6:41) Nó rõ ràng là mình dẫn tâm vào đạo rồi mình phải đuổi cái chướng này thì nó mới mất cái chướng kia, nó vô đạo chứ sao. Thì đem cái tâm vô đạo thôi chứ thì nó có gì đâu. Đạo là thanh tịnh chứ gì? Mà dẫn nó vô đó thì nó thanh tịnh rồi thì thanh tịnh mà nó suốt ngày nó thanh tịnh thì rồi, nó không còn cái ác pháp nữa thì nó làm sao? Có vậy thôi chứ, mình vô tu gì?
Chứ đâu phải ngồi làm cho đau chân, ngồi kiết già rồi ngồi im nha. Người ta nhìn hoài ông này ngồi thiền ngon lành vậy, ông ngồi như Phật. Ôi thôi cha! Khen làm thứ gì đây, mà rốt cuộc cái tâm của mình ở trong nó như cái bãi rác ở trong sao. Ở ngoài thì ngồi giống Phật thật, y áo đồ mặc vô ngồi cứ nghiêm trang hết sức, nhưng mà ở trong cái đống rác ở trong đó.
Còn mình thì không cần gì hết, tôi chỉ cần cái tâm thanh tịnh chứ tôi không cần cái tướng này. Nhưng mà khi mà tôi nhập định thì cái tướng này tôi thực hiện cho mấy người coi. Tôi ngồi bảy, tám ngày, một tháng, hai tháng, như cái tượng đồng đó, nó không ít đâu. Mà tôi không muốn thực hiện thôi, tôi không làm chuyện đó đâu, đó cứ vậy.
Bởi vậy Thầy nói nỗ lực tu đúng thì quý sư sẽ thấy kết quả liền. Đừng có thèm chơi với ai hết, thiệt không chơi người nào. Nhưng mình nhất định là phải cảnh giác không chơi với người ta coi chừng ngủ nó tới đó. Bởi vì nó được cái nẻo này thì nó lọt vô cửa khác, cũng như đập cho mình chết.
Cho nên phải biết, mấy người nói chuyện rồi vậy chứ họ không có buồn ngủ, còn mình chơi mình mình thì coi chừng, con ma ngủ nó ôm cổ mình. Nó cứ nó nằm trên mi mắt, nó sanh ra cái lười biếng rồi nó khoái đi nằm. Nó giết mình chết ở trong cái ngu si, nó đưa mình trong cái dục lạc đó. Cái nói chuyện mà vui chơi nó cũng là cái thứ dục lạc.
Cho nên trong kinh điển Phật cứ nhắc là không có họp hè, không có bạn bè, không có nói chuyện rồi này kia, đức Phật cứ nhắc cái đó nhiều lắm. Có sáu pháp, bảy pháp, ba pháp để cũng nhắc đừng có nói chuyện, đừng có liên tưởng, đừng có này kia, nhắc hoài. Nhất là bộ Tăng Chi nè, đức Phật nhắc cái đó nhiều nhất, cho nên nó không phải là độc cư nữa.
(8:53) Bởi vậy Thầy nói đọc lại kinh sách của Phật, cái gì mà Phật nhắc đi, nhắc lại hoài thì biết cái đó là cái mấu chốt nhất đó, chứ không phải thường. Còn cái gì mà ông nhắc qua rồi thôi không nói nữa. Còn cái gì mà nhắc lại, nhắc đi, nhắc lại hoài hoài cái đó là cái để mình… Cho nên đức Phật mà nhập diệt rồi, đức Phật còn nhập định cho chúng ta ba lần xuôi ngược để mà nhắc chúng ta cái loại định đó làm chủ sinh tử.
Thế mà người ta dám cho nó là thiền phàm phu, ngoại đạo, Tiểu thừa, đau lòng! Họ không làm được mà họ dám chê. Còn đức Phật, đức Phật chê thần thông, đức Phật: “Ta làm được, đâu phải ta làm không được”. Mình làm được rồi mình mới chê, còn mình làm chưa được thì mình đừng có chê.
Cho nên Thầy nói, bây giờ các sư về nỗ lực tu đi, đừng có thèm hỏi Thầy gì nữa hết. Ôm pháp chặt không hỏi nữa, quét cho sạch tâm. Bây giờ pháp tôi biết rồi, đẩy lui các chướng ngại pháp chứ không gì hết. Tỉnh giác tôi đã đủ sức rồi. Thầy nói năm phút, tôi tin rằng năm phút là tôi định tĩnh, tôi bây giờ cứ đẩy lui thôi, không cần nữa. Không cần ngồi thiền, không gì hết, hoàn toàn đi kinh hành là duy nhất để phá cái buồn ngủ. Cái đó độc lắm chứ không phải không.
(10:02) Thầy nói ăn, ngủ … ngủ người ta bật ngửa hết đó. Rồi bây giờ mình sống độc cư để cho mình phá được cái ngủ nè, phải đi kinh hành. Bởi vì độc cư thì buồn ngủ nó đến, bởi vì mình độc cư mình đâu có nói chuyện với ai đâu, sống một mình mà, mình không có làm gì hết mà, làm nó cô đơn lắm cho nên nó sanh ra buồn ngủ. Cho nên độc cư để mà phá buồn ngủ, cho cái mặt buồn ngủ nó lòi ra mình phá. Mà mình muốn phá nó đều chỉ có đi kinh hành.
Cho nên ngay bây giờ mình tập đi kinh hành tới lui để cho nó quen, chứ không mình đi nó mỏi chân dữ lắm. Còn mình đi quen rồi, đi từ năm cây số, mười cây số đi suốt đêm không mỏi chân. Thầy nói thật sự, tại vì nhờ Thầy đi hành, mà Thầy đi từ mười cây số, hai chục cây số, Thầy đi bộ không mỏi chân. Còn quý vị bây giờ mà cỡ đi như Thầy là mỏi chân chết được.
Đi ví dụ như bắt đầu, hai giờ thức dậy mà đi tới sáng, Thầy không mỏi chân, tại vì nó quen. Còn mấy cái người không đi thử coi, mà đi vậy thử coi. Bởi vậy, mấy con bây giờ mà cỡ sức mấy con đi một đêm tới sáng, mấy con đi nổi không? Không nổi! Thầy đi nổi, Thầy cứ đi chậm chậm, Thầy đi vòng vòng, vòng vòng, hoài hoài, đi tới sáng thì thôi, đi nổi.
Bởi vậy coi vậy chứ, cái hay của cái kinh hành, hay. Thầy nói, bởi vậy đức Phật ca ngợi về cái đi kinh hành mà Thầy thì cũng ca ngợi cái kinh nghiệm của mình, chứ không phải là Thầy ca … Thầy luôn luôn Thầy bác cái ngồi, cái ngồi sanh ra lười biếng. Hễ ngồi nhiều là lười biếng nhiều.
Cho nên nói trời lạnh thì thích ngồi lắm, cái xứ lạnh thì người ta ngồi thiền người ta khoái lắm. Ngồi thiền thưởng trà đó, còn cái xứ nóng này người ta ít có ham ngồi vì ngồi nực. Còn thật sự ra thì lạnh, trời lạnh mà cứ đi kinh hành ta thấy tỉnh lắm. Chứ đừng có ngồi, ngồi đó coi như gục xuống nó rồi, coi như là nửa tỉnh nửa mê, nó không ngủ mà nó không thức, nó lười biếng …
(12:00) Mấy ông lười biếng nhất là ham ngồi. Cho nên Hòa thượng mà về Đà Lạt mà cất cái Tu viện, Thầy nói đem ba ông lười biếng về đó, bởi vì cái xứ lạnh nó lười biếng nó hay ham ngồi. Chứ còn cái xứ nóng ngồi lâu nó nực, chịu không nổi. Đó thì hôm nay, Thầy nói hết rồi, bây giờ bắt đầu cứ thực hiện đi. Sư ráng nỗ lực, sư thì có thấy tăng rồi đó.
Phật tử: Dạ.
Trưởng lão: Ráng cố gắng đi.
Phật tử: Rày con cũng cố gắng dữ lắm Thầy.
Trưởng lão: Rồi bắt đầu bây giờ mà về bên đó giải quyết cho xong đi. Rồi về bên đây Thầy cho vô một cái thất, sống một mình.
Phật tử: Dạ.
Trưởng lão: Chết nhất, nghĩa là mình chết cũng chết mình chứ không có chết hai người đâu. Thì mới có mong tới giải quyết được sinh tử chứ còn lơ mơ thì không kịp. Tu mà kiểu mà kéo đờn nữa thì thôi ò e nữa thì thôi rồi rồi, biết chừng nào cho tới. Cho nên phải nỗ lực thật sự, tu thật sự, biết pháp thật sự, ôm pháp từng giây, từng phút không có kẽ hở cho đến khi mình thấy không buồn ngủ thì nó đã định rồi đấy, còn buồn ngủ là chưa định đâu.
Nghĩa là tới giờ này bây giờ tới mười giờ, mười một giờ buồn ngủ quá, thì tức là chưa đâu. Mặc dù là nó tốt đó, nhưng mà nó còn buồn ngủ là nó còn si đó, nó còn ham đó, tận đến trưa. Mà tới giấc trưa nó hết buồn ngủ rồi, suốt đêm nó không buồn ngủ rồi cả ngày nó cũng không buồn ngủ mà nó cứ tỉnh bơ vậy mà nó khỏe trong người, nó an lạc vô cùng biết là cái tâm nó định trên thân định rồi, cái thân định nó mới được vậy đấy.
Cho nên đức Phật nói ly dục, ly ác pháp sanh hỷ lạc. Ly hết, còn giờ mình còn ham ngủ, mình chưa có ly cái ngủ của mình mà, bây giờ mình nói hỷ lạc, hỷ lạc ma chứ gì. Bây giờ thí dụ như ông nào cũng còn ham ngủ hết, tới giờ cũng phải đi ngủ thôi, mà giờ ngồi thiền nói: “Tôi sợ tôi lọt cái sự hỷ lạc quá!”, thì không phải hỷ lạc điên? Ông có ly dục chưa? Mà ông nói ông hỷ lạc, ông còn ham ngủ, cái ngủ là một cái dục lạc của ông mà rõ ràng.
Còn người ta tu đến mức độ người ta đâu có ngủ nữa đâu mà người ta hỷ lạc, do đó cái hỷ lạc đó, nó không có làm chúng ta bại hoại cái thân, nó làm chúng ta cái thân không mệt nhọc. Còn cái người mà không ngủ là mệt nhọc. Còn cái này ta có hỷ lạc của ly rồi thành ra ta đâu có mệt, cái thân đâu có mệt nhọc.
(14:15) Còn mình chưa có cho nên vì vậy mà mình mất ngủ là mình bị mệt, thân bị bệnh, chưa có hiểu chỗ này. Cho nên nghe đức Phật đâu nói: “Ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền”, bây giờ dục, thì trong cái ngủ nó cũng là một cái dục, mà mình còn ham ngủ thì chưa ly.
Bởi vậy Thầy nói tới cuối cùng rồi mình cũng thấy ly mà, nó ly hết mà, ăn nó cũng không thèm nè, ngủ nó cũng không ngủ nè, danh, sắc, lợi này kia nó cũng không có nghĩ gì hết, nó ngũ dục lạc mà, nó không có còn bị dính gì hết. Mà cái ăn với cái ngủ vẫn thấy rõ, mà khi mà cái ngủ mà nó tỉnh bơ mà nó thấy nó an lạc đó thì, đúng rồi mày nhập Sơ Thiền rồi chứ không còn là…
Còn mình chưa có mà cứ đòi nhập Sơ Thiền, ông còn chổng cẳng ông ngủ một tiếng đồng hồ là ông còn gì đây. Ông chưa có ly nó mà, thì làm sao mà ông gọi là ông hỷ lạc, “do ly dục sanh hỷ lạc” lên được. Nó cụ thể, nó rõ ràng lắm, kinh nghiệm của Thầy đi qua rồi cho nên những cái danh từ của Phật dạy Thầy thấy đúng lắm, không có cái nào mà đức Phật nói sai. Quét sạch!
Cho nên vì vậy chúng ta tu tới đâu chúng ta biết tới đó. Bây giờ chúng ta có thấy nó có giảm bớt rồi coi sức tỉnh chúng ta có thấy tăng lên đó là kết quả đó. Rồi bắt đầu bây giờ kết quả của chúng ta, mà kết quả đúng chứ không phải kết quả sai đâu, có nhiều khi kết quả sai. Hồi nào tới giờ thí dụ như sư Phước Nhẫn phải không? Sư tu có nhiều kết quả (15:38) đó hơi đâu? Nhưng mà kết quả đó kết quả sai. Về đây Thầy chỉnh lại đó.
Mình thấy mình ngồi mình hỷ lạc hoặc ngồi cái này, cái kia rồi đó coi chừng nó sanh ra. Còn Thầy không cần thiết, bây giờ tỉnh thức được trong lúc nào đó thôi, giờ thì nó còn, mình chưa ly dục mà làm sao nó không còn ngủ, thì nó muốn ngủ mình cứ ngủ, chứ mình bắt ép nó thì nó thức nó kiểu mà mệt nhọc thì mình làm khổ mình chứ. Nó đâu có giải thoát đâu mà nó còn khổ vậy.
(16:06) Cho nên vì vậy đó mình cứ đẩy lui các chướng ngại pháp, rồi mình tập đi kinh hành tự nó nó tỉnh chứ đâu phải, bây giờ mình đi kinh hành, mà giờ nó buồn ngủ mình cứ vô ngủ đi. Mà chừng mình đi kinh hành nó không ngủ thì cứ đi. Ai biểu bây giờ nó không ngủ, trèo lên ngủ chi, phải không? Thầy nói thật sự nó muốn ngủ mình cứ cho ngủ, mà bây giờ nó không ngủ thì cứ đi.
Chứ đừng có ngồi co ro lại đó để cho nó ngủ thì nó phải ngủ thôi. Tại vì mình muốn tập nó ngủ trở lại, thì mình cứ đi đi, cứ đi Thầy nói cứ đi. Chừng nào mỏi chân thì ngồi, mà nó buồn ngủ thì mình đứng dậy, nhưng mà nó buồn ngủ nữa thì thôi mình đi ngủ đi, đừng ép. Nhưng mà cứ tao đi hoài thì nó sẽ tỉnh hoài, mà đi riết nó quen rồi nó tỉnh, tỉnh dữ lắm trời, định tĩnh tăng lên, cái ngủ nó lui lui, lui lui dần hết.
Còn mình ức chế mình ráng mình đi một đêm nó cho đừng ngủ thì mình bị nó đánh mình, mình khùng mình không đánh mình thắng nổi đâu, đừng có tưởng đâu chuyện đó. Mình cứ tập dần nó sẽ tăng lên, mình đi bữa nay, mình đi vậy chừng nào nó tỉnh chừng nào mình cứ lên, cứ tăng lên. Mình cứ đi hoài là nó tỉnh, nhưng mà nó phải tập.
Chứ còn không khéo thì mình không tập thì mà như vậy đó mình siết nó một đêm, mình ráng đi coi, nó sẽ đánh mình, mình đi mình cũng ngủ nữa chứ đừng nói. Còn mình tỉnh thì mình cứ đi, còn mình buồn ngủ thì cứ ngủ. Rồi ngày mai mình tập nữa, cũng đi nữa, đi hoài. Ban ngày nó tỉnh thì mình cứ tập đi đi, đi cho nó quen đừng có mỏi chân thôi. Thầy nói đi hoài nó không có mỏi chân, chứ còn không đi nó mỏi chân. Làm cái gì cũng vậy, nó quen rồi nó không có mỏi.
Cho nên thí dụ như bỏ ở đây mà Thầy đi thành phố Thầy không mỏi chân, chứ quý sư đi với Thầy là quý sư mỏi đó. Đi chừng từ khoảng đây tới Suối Sâu đây là thôi nghỉ chứ đi không nổi nữa. Còn Thầy cứ đi luôn, đi luôn, đi luôn hoài hoài Thầy đi tiếp thành phố không có mỏi là tại vì Thầy từng đi.
Coi Thầy ngồi viết vậy chứ ban đêm Thầy đi nhiều lắm. Bởi vì nó mình muốn phục hồi cơ thể mà cơ thể phải vận động. Mà phục hồi cơ thể mà cứ ngồi không thì cơ thể nó không vận động thì nó dễ sinh bệnh không có phục hồi lại nhanh. Cho nên người ta Yoga thì người ta luyện thân thế này, thế khác, mình không luyện, mình cứ đi thôi cũng được.
Cô Diệu Quang: Thầy, bây giờ con có em nó vô tu tập đó Thầy (…)
(18:30) Trưởng lão: Cứ cho nó cái cuốn mà Thời Khóa Tu Tập trong Đường Về Xứ Phật, chứ không có gì. Nó biết cái thời khóa nó tu. Như mình cho nó cái thanh quy đó.
Sư Phước Nhẫn: Sau khi mình ăn cơm đó mình bao lâu mình mới đi kinh hành được Thầy?
Trưởng lão: Mình ăn cơm đó mình đừng có vội đi sớm, đúng rồi phải hỏi cái này, chứ không mình đi nó tập trung trên cái bước đi của mình cái động thân của mình nó không tập trung tiêu cơm. Khi ăn cơm rồi mình phải nghỉ không đi, để cho nó tiêu hóa, ít ra nó cũng phải một tiếng đồng hồ. Chứ không có ba mươi phút đâu, một tiếng từ một tiếng đến hai tiếng đồng hồ.
Sư Phước Nhẫn: Lúc đó mình không đi sao buồn ngủ rồi sao Thầy?
Trưởng lão: Mình cho ngủ cứ ngủ, không cần thiết, nhưng mà sau khi mà nó tỉnh rồi nó mới phá được cái ngủ, ly dục được cái ngủ thì nó tự nó hết buồn ngủ, ăn rồi nó không buồn ngủ. Còn bây giờ nó cứ, bây giờ cứ ăn rồi cái nằm nghỉ, nằm nghỉ một hơi thì nó ngủ thì nó tiêu hóa, hoạt động gom trong bao tử của mình để tiêu hóa, tiêu hóa cho hết mình thức dậy cái mình thấy khỏe khoắn nhẹ nhàng, tiêu hết rồi đó. Bắt đầu bây giờ đi nè chứ không thể ngồi.
Sư Phước Nhẫn: Vậy mấy hôm nữa ăn mà không có ngủ thì nó sức khỏe nó suy.
Trưởng lão: Đúng rồi.
Sư Phước Nhẫn: Ngủ vậy sức khỏe nó tăng, nó dễ tu.
Trưởng lão: Bởi vì để cho nó, mình ngủ mình nằm mình nghỉ mà nó ngủ nó tập trung nó tiêu hóa làm cho cơ quan nó tiêu sạch xuống. Bởi vậy mình biết cách rồi nó dễ, không biết cách nó trật.
(20:00) Sư Phước Nhẫn: Con đi kinh hành, khi đi ít thì nó ít tạp niệm, đi cái thời gian kéo dài thì nó tạp niệm nhiều, làm sao cho nó bớt cái đó Thầy?
Trưởng lão: Không sao hết, tập đi nhiều thì mình cứ đem niệm mình đẩy lui. Mình không có cần mà sợ nữa, cho nó tỉnh thức ở trong bước đi này nó chỉ năm phút thôi, phải không?
Bây giờ mình ngồi lại hít thở nè, mình đi kinh hành năm phút mình thấy tỉnh, còn hoàn toàn ngoài cái vấn đề mà năm phút đó cho mày niệm gì thì niệm tao đẩy lui mày ra, tao không cần giữ cái tỉnh thức nữa. Bởi vì cái sức tỉnh thức này để mà tập trung vô cái niệm này nó khởi ra tao biết, trong năm phút tao đủ sức, mày hiện ra thì tao, trong năm phút tao sẽ biết cái niệm của mày rồi tao đưa cái niệm mày ra tao quán, tao quán tao đẩy lui niệm.
Cầu cho nó có niệm nhiều để mình đẩy lui, đẩy lui riết hết. Còn mình nói bây giờ sao nó hết niệm, không biết chừng nó ngủ đó thì sao mai mốt rồi nó bật ra mình chịu sao nổi. Đó cho nên độc cư mà sống một mình đó cũng là mình ghẹo cho nó ra, chứ không có gì. Bởi vì một mình mình nó phải, bây giờ nó ngồi nó không buồn ngủ nó phải hiện ra nó nghĩ cái này kia, nó buồn lắm, nó nghĩ đủ thứ hết, nó nhớ đủ thứ. Tức là mình chọc ổ cho nó ra, chọc ổ kiến cho ra, là cái kiểu độc cư. Còn mình nói chuyện nó không ra.
Sư Phước Nhẫn: Năm phút đầu mình đi kinh hành tỉnh thức, phút thứ sáu trở đi nó có niệm thì …
Trưởng lão: Mình cứ đi, đi mà có niệm thì bắt đầu mình quán xét cái niệm đó. Chứ đừng cắt để cho mình trở, mình cắt ngang là mình trở lại cái bước đi của mình thì mình bị ức chế rồi.
Mình đừng có lo cái về bước đi nữa, mà bây giờ tao lo đẩy lui niệm thôi. Hễ cái niệm ta đẩy lui thì cái tâm ta trở về thanh thản, mà thanh thản thì nó ở trong bước đi. Sư lưu ý nó nhẹ lắm đó nha, khi mà mình tập trung trong bước đi thì nó không nhẹ, mà khi mình đẩy lui cái niệm rồi thì tự nó nó trở về với cái bước đi của mình, an lạc ghê gớm lắm.
Nó thấy hai cái nó rõ ràng lắm. Cũng như bây giờ sư ngồi sư hít thở, sư tập trung năm phút, sư thấy nó không an lạc đâu. Nhưng mà bây giờ qua năm phút rồi bắt đầu bây giờ sư cứ ngồi không? Nhưng mà sư lưu ý những cái niệm thân, thọ, tâm, pháp, sư quan sát trong thân, thọ, tâm, pháp. Nó có một cái niệm khởi ra trong thân, thọ, tâm, pháp này thì sư đẩy lui nó. Đẩy lui rồi cái bắt đầu trở nó về hơi thở, mà sư không có gom trong đó nữa. Nó cứ nó thấy nó hơi thở sao nó nhẹ vậy, nó thay đổi liền cái trạng thái.
(22:18) Hồi đó mình tập trung để cho nó gom tỉnh thức thì nó nghe … bởi vì mình phải dụng công. Còn cái này nó không dụng công vô đây, mà tại nó nằm ở đây. Mình đẩy cái kia mà nó nằm ở chỗ này thì nó tự động nó định rồi, định tĩnh. Sư lưu ý cái này sư sẽ thấy nó an lạc kinh lắm, cho nên tu như vậy mới ham chứ.
Còn mình tu gì mà ngồi trông bảng mà nhìn nó vậy, cũng như con mèo mà rình chuột. Bởi vậy các tổ sai là cái chỗ mà nói mình nhìn tâm của mình như con mèo mà rình chuột, con mèo nó nhìn con chuột để nó chụp con chuột coi, nó nhìn chăm chăm nó không dám nháy mắt. Thì mình nhìn cái tâm của mình hay hoặc là mình nhìn cái hơi thở cũng kiểu đó thì coi như là sai.
Không phải, mình không có nhìn cái hơi thở mà mình nhìn cả cái trên thân, thọ, tâm, pháp của mình, bốn cái chỗ này để coi nó sanh ra cái niệm gì, để mình đẩy lui cái niệm đó thôi. Mục đích của mình nhìn chăm chăm là nhìn ở chỗ cái chướng ngại pháp. Tức là cái pháp niệm mà chướng ngại pháp trong tâm.
Nó hiện ra thì mình đuổi nó ra, quán xét đuổi ra chứ không phải ngắt nó, quán xét đuổi ra. Nó làm cho cái tri kiến giải thoát của mình càng ngày nó càng lớn lên. Nhiều khi nó phát triển ra những cái tri kiến mình chưa học. Nó hay lắm bởi vì hàng ngày mình sử dụng nó để mình quán vô lậu, mình không nhẩm lại cái lối mòn của Phật dạy nữa, từ đó nó phát ra, ngay cái đối tượng của nó phát ra, đập cho nó xuống. Phát triển cái tri kiến giải thoát, cho nên nó càng ngày cái tri kiến giải thoát nó tăng dần, tăng dần.
Mỗi một cái niệm đến là nó đập liền, nó đập cũng như là mình mà cầm cái cây mà ngay cái kẻ đó mà con chuột chạy qua là mình đập cái là tiêu rồi, không có trật, đập chục cái là chết chục con. Cái trí của mình nó đập xuống một cái là cái niệm nó chết liền, giãy chết liền nó không có còn trở lại nữa.
Còn bây giờ mình đập trật, mình thấy nó niệm đó chứ mình đập cái trật lất, cái lát nó nhào vô, đập không trúng. Cái tri kiến mình chưa có cho nên mình đập trật, cái tri kiến của mình có mình đập trúng nó không vô nữa, đập cái chết tươi. Nghĩa là cái tâm của mình nó quán thì nó phát khởi liền. Còn bây giờ mình quán chứ mà nó nhào tới nhào lui là tại vì mình đập trật, nó không đúng, đúng cái chỗ. Cũng như Thầy nói cái hang đó bây giờ chuột nó chui ra cái hang, Thầy cầm cái cây Thầy để ngay cái miệng hang mày chui ra tao đập mày cái, thì phải ló đầu ra cái đập cái chết tươi rồi.
(24:46) Cho nên cái sức cảnh giác của mình là cái chỗ này, mà năm phút tỉnh thức để mà cảnh giác này chứ không phải năm phút để mà biết cái bước đi và trong hơi thở. Mình tập tỉnh thức cái được năm đó mình gom lại, là bây giờ để mình nhìn trong năm phút ở chỗ này, thì năm phút này thì nó sẽ có cái niệm nó sẽ khởi ra, nó mày, mày sẽ ra thôi. Chắc chắn cái tâm mày phải nhẩy ra thôi, chứ mày không thể nào mày nằm trong đó mày chịu đựng lâu.
Thầy nói thật sự mà, các sư cứ nghĩ cái lỗ của nó đó, là nó sẽ ra ở chỗ đó, cái lỗ ý của nó nó sẽ nhào ra chỗ đó. Mình chú ý cái chỗ ý của mình chứ không đâu hết à, tao sẽ chú ý cái lỗ này mày mà nhào ra là tao đập mày chết. Mà sức tỉnh thức tao năm phút là mày, thế nào mày cũng phải chui ra, năm phút mày ở trong đó mày chịu ngộp mày cũng không chịu nổi đâu. Chắc chắn là mày phải bò ra mà mày bò ra tao đập cái chết.
Mà giờ ở trong này nó có một bầy của nó là tám chục con hay là bao nhiêu con, thế nào tụi bay cũng phải bò ra hết. Mà bò ra con nào tao đập chết hết, mà tao đập hết thì cái hang này trống bóc rồi. Thì cứ như vậy là cái tâm thanh tịnh chứ gì. Tụi bay có một số chứ đâu phải bay có nhiều đâu, bay huân thế gian dù bao nhiêu kiếp đi cũng nằm ở trong lỗ hang này thôi chứ không đâu.
Cái hang ý của mình thì nó phải hiện ra chứ làm sao mà trật được, con hiểu không? Cái hang đó là thế nào nó cũng phải ra. Mà giờ cái sức tỉnh thức mình năm phút là trong năm phút mình biết năm phút nó sẽ ra nó không hơn đâu. Bởi vì mình không ức chế nó mà, ngồi mà giữ miệng hang chứ đâu phải mình giữ hơi thở sao, mà ức chế ý thức.
Tao sẽ nhìn mày, mày bò ra là tao đập, mà mày không bò ra thôi, có gì đâu, mày không bò ra là mày chết hết rồi, cho nên bây giờ mày chưa bò ra được, như vậy là tao định tâm, có vậy thôi. Tới bây giờ cả một ngày đêm hai mươi bốn tiếng đồng hồ mày không bò ra thì mày chết hết trong đó rồi, mày không bò ra mày cũng chết ngộp trong nước cũng chết luôn, chứ không có gì, thôi, có vậy thôi.
Cho nên ở đây cái pháp nó tu nó thực tế và nó cụ thể mà nó không có sai cái lời Phật dạy, chướng ngại pháp mà, nó làm sao nó cũng bật ra rồi. Mà mày không ở chỗ này thì ở ngoài đánh vô thì mày cũng phải ra thôi, ở ngoài đó có người khác, cũng như hồi nãy cô Út lại nói, thì trong cái hang của mình, tại vì mình nhìn nó không ra, ở ngoài này nói cái trong đó bật ra à.
(26:56) Nó chờ ở ngoài này, trong hang, bởi vậy thân, thọ, tâm, pháp mà, cái pháp ngoài nó đập vô cái ở trong hang nó bò ra. Tao nói chuyện ở ngoài chứ tao cũng cảnh giác cái hang, mày ló đầu ra tao đập, chứ mày đừng nói tao quên, tao nói chuyện bên ngoài đâu phải pháp bên ngoài mà để cho tao thiếu tập trung với mày, cho nên tao cũng đập mày. Vậy cho nên, vì vậy mà luôn luôn tâm thanh thản, vô sự.
Phật tử: Thưa Thầy cũng như đi kinh hành đó Thầy, nếu mà mình có cái niệm nó xảy ra mà trong lúc mình đang chú ý, lúc mình đang dụng công pháp hướng đi tới, đi lui, dụng công pháp hướng, nếu như có niệm xảy ra rồi làm sao Thầy?
Trưởng lão: Dừng lại. Dừng lại câu pháp hướng, dừng lại cái đó, dừng lại.
Đem cái niệm để sẵn, tao đang chiến đấu với mày, chứ không phải lệnh, cái này là cái khi mà tâm nó yên ổn, nó không có cái niệm, nó không có mày ra, tức là không có cái niệm này ra thì tao hoàn toàn tao tu mày để tao luyện cái lực cái pháp hướng.
(28:03) Còn bây giờ đã có mặt mày thì cái pháp hướng này nó không có hiệu quả đâu. Cho nên tao dẹp ba cái này qua một bên tao lo chiến đấu đánh với mày, có vậy thôi. Bởi vì mình, quan trọng nhất là tất cả các niệm.
Còn cái vấn đề mà các pháp khác nó chỉ là phụ cho chúng ta để mà chúng ta sau này chúng ta có đủ cái lực thôi, chứ chưa phải. Dẹp được cái bọn này rồi thì cái lực này nó sẽ có, mà dẹp không được thì cái lực này tu cũng không có đâu. Khi nào cái tâm mình nó yên tịnh thì mình hướng tâm thì nó mới có cái lực. Mà giờ nó còn nhảy ra, nhảy vô đó mà làm sao mình có lực được. Cho nên tao dẹp mày để mà tao luyện cái này cho được.
Sư Phước Nhẫn: Vậy là mình dùng cái pháp hướng trong cái lúc tỉnh giác tĩnh lặng hay tỉnh thức?
Trưởng lão: Phải ôm lúc mà mình tỉnh thức.
Lúc tỉnh thức đó, nghĩa là bây giờ cái tâm thanh thản, vô sự chứ gì. Tức là tỉnh thức nó không có cái niệm gì hết chứ gì. Đó thì bắt đầu dùng pháp hướng, còn nếu mà nó có niệm thì không dùng nữa. Nó có niệm…
Sư Phước Nhẫn: Nó lo chiến đấu với niệm.
Trưởng lão: Lo chiến đấu với niệm, đánh với cái niệm này. Cũng như bây giờ cái đồn của mình đây, mà giờ chúng nó công mình mà mình cứ ở trong này mình ngủ hay hoặc ở trong này mình cứ mình đánh bài ở trong này coi sao được. Đâu có được, nó bắn mình quá trời ở ngoài kia mà mình ngồi ở đây mà mình cứ đánh bài với nhau ở trong này thì đâu có được.
Mấy thằng lính canh đồn đây mà cứ ngồi đánh bài mà ở ngoài mấy cái thằng cách mạng bắn quá trời quá đất. Tụi bay còn vác súng bay ra cho nó mấy ổ bay nó, chứ còn bay lơ mơ nó vô nó đốt đồn bay giờ, phải không? Cho nên vì vậy bây giờ nó công mình mà, nó hiện niệm khởi lên là nó công. Cho nên mình không có còn cái mà luyện về cái lực của mình ở trong cái giai đoạn đó được. Mà mình biết rằng cái niệm nó còn, chưa hết đâu.
Sư Phước Nhẫn: Ban đêm mà con đi kinh hành đó. Có những lúc tâm nó an lạc, thanh tịnh nên mình biết. Cái mình nhận à bữa nay mình đi êm quá, khi giờ đó chút xíu có cảm nhận nó lên.
Trưởng lão: Bởi vậy, đi kinh hành cũng… Bởi vậy Thầy nói, mới đi thì mình tập trung mình thấy sao nó cũng yên ổn trong bước đi. Nhưng mà chút đi ngoài trời nó niệm nó… Đi vậy chứ nó tỉnh lắm, nó khởi niệm dữ lắm. Thầy tu Thầy biết mà, coi vậy chứ mình động đó. Còn mình ngồi chứ nó ru mình ngủ, ru mình ngủ nó lần lần, nó lặng lặng, lặng lần nó mất, nó không có niệm nhưng mà nó đi tuốt luôn, nó cũng trật. Cho nên vì vậy mà đi là mình chọc hang với nó đó, không ra nó chọc đặng cho nó ra. Còn mình cứ ức chế nó hoài, nó ra không được thì tức là nó bị ém trong đó, nó không thanh tịnh tâm.
Sư Phước Nhẫn: Vậy mình không biết nó thanh tịnh thì nó kéo dài lâu một chút.
Trưởng lão: Ừ.
Sư Phước Nhẫn: Mà mình chực biết cái bắt đầu nó, niệm nó nổi lên liên tiếp.
(30:40) Trưởng lão: Đó. Bây giờ ở trên cái bước đi mới đầu mình đi mình thanh tịnh, mình thấy thanh tịnh, tức là mình ức chế tâm chứ mình chưa phải là cái tâm thanh tịnh thật sự, mình phải lưu ý cái phần này nè.
Cái tâm thanh tịnh thật sự thì cái niệm nó không có. Còn cái niệm này nó còn, còn đủ thứ, nó tham, sân, si nó đủ thứ mình chưa có ly, chưa có diệt được nó đâu. Mình biết nó còn nhưng mình ức chế mình thấy nó thanh tịnh nó không có niệm, mình đi tới, đi lui mình thấy nó không có niệm là vì mình tập trung ở trong ức chế, ức chế tâm nhưng mà mình biết tâm mình nó còn mà chưa hết đâu.
Do đó mình đừng có thêm nữa, mình đừng có đi cái hướng đó nữa, mình chỉ tỉnh thức được ba, năm phút thôi, mình đừng có đi cái hướng tỉnh thức này nữa. Mình đi hướng tỉnh thức này, mình ém nó trong đó hoài, nó còn hoài nó không ra, mà nó đụng chuyện, trời đất ơi, nó sân dữ lắm. Bởi vì mình ém nó đó, tới chừng có người nào nói tức tới mình, mình không có dừng được, khổ cái nỗi nó ức chế nó.
Cho nên vì vậy đó, mà mình bây giờ mình đã biết cái sức tỉnh thức của mình. Thầy nói khi mình biết sức tỉnh thức mình được năm phút rồi mình không cần tu cái đó nữa. Không cần đi mà tập trung, không cần mà ngồi mà hít thở nữa. Mà bây giờ ngồi lại thì quan sát cái tâm, chứ còn không quan sát thân, thọ, pháp của mình. Quan sát cái tâm của mình chứ không có quan sát hơi thở.
Mà nó yên thì nó ở hơi thở mà nó không yên thì có niệm khác, mình trông cho cái niệm nó ra để cho mình quán xét mình xả. Còn nó không ra thì mình cứ ngồi mình chờ đợi, coi như chờ giặc đến mà bắn. Chứ còn mình không có tập trung nữa, mình tập trung tức là mình ức chế, coi như là làm cái đồn cho chắc đặng giặc nó đừng vô, đặng mình ở trong này sống cho sướng. Sự thật ra không sướng đâu, giặc nó còn hoài, nó đánh mình hoài.
(32:23) Còn này mình phải tiêu diệt nó, đó thì như vậy thì mới đúng cách đó. Cũng như Thầy nói bây giờ phải ráng ráng, nghe lời Thầy nói đừng có tu sai, đừng có tu sai. Bây giờ cái sức tỉnh mà sư có rồi, sư đừng có thèm tu sức tỉnh nữa, nó đủ cái sức để cho chúng, cho sư có thể mà quán sát cái niệm, để cho cái niệm nó hiện hình ra để mình bắn.
Sư Phước Nhẫn: Mình phải luyện đi, luyện lại hoài cái năm phút này, Thầy?
Trưởng lão: Ờ, lâu lâu vậy đó. Mình tập luyện trở lại năm phút.
Thí dụ như một ngày mình tập ba, bốn lần năm phút thôi, đặng cho mình biết cái sức tỉnh của mình coi, nó còn để cho mình giữ cái đó để mình tu. Mà mình hễ mình càng tu bao nhiêu cái tỉnh thức tăng lên chứ không có thiếu đâu.
Khi nào sư tu rồi ha, sư tu cái xả cái tâm của sư rồi, sư thấy nó thường thường nó thanh thản dữ lắm. Sư ngồi lại sư nhiếp tâm thử coi kéo dài từ ba mươi phút chưa, vọng tưởng không.
Khi mình nhiếp tâm đó tức là nó bị ức nó rồi nó bắt đầu nó không vô được, vì mình đẩy lui nó nhiều quá rồi, giờ nó không có vô được. Nhưng mà hơn nữa nó vô, nghĩa là sức ba mươi phút của mình là mình đã xả nhiều rồi nó mới được ba mươi phút này. Mà nếu mà mình xả hết thì nó mới có cái an, mình ngồi đó thì nó hết, nó định trên hơi thở rồi thì cả ngày nó không có gì.
Nó có cái chỗ để mình trắc nghiệm được cái tâm của mình, còn mình tu cái đó mình cứ mình kéo dài cái đó mình phải tập tỉnh thức, mình kéo dài để cho nó đi vào định. Thì mình đi vào cái hướng đó coi như là mình chỉ kéo dài thôi chứ mình ức chế cái tâm lắm, không có xả, nên tức là không cho niệm vô. Còn này mình cho niệm vô, quán xét xả, từ đó tri kiến nó phát triển, rồi cái tâm nó càng ngày nó càng thanh tịnh. Cho nên Thầy nói mình đi là cũng là động thân của mình, nó không bị lặng để cho các niệm nó khởi ra. Cho nên đừng có thấy niệm mà sợ, thấy niệm để quán xét, để triển khai cái tư tuệ của mình.
(34:17) Nó có văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ. Cái văn tuệ là mình nghe để mà hiểu biết cái này kia được gọi là văn. Còn cái tư tuệ là do cái sự suy tư của mình, có một niệm mình suy tư, đẩy lui cái niệm đó, cái đó là tư tuệ. Còn cái tu tuệ, tu tuệ do mình tu tập những cái định mình nhập định nó phát triển lên cái trí Tam Minh, cái trí tuệ Tam Minh gọi là tu tuệ. Tu, do tu nó mới phát ra cái trí tuệ này, cho nên vì vậy nó không có không gian, thời gian, cái trí tuệ này là cái trí tuệ vô hạn nó do tu mà có.
Còn bây giờ cái tư tuệ này do cái sự suy tư, cái này gọi là tri kiến giải thoát, cái sự hiểu biết để mà giải thoát, nó đẩy lui các chướng ngại pháp, các niệm. Tư tuệ, tư là tư duy đó, chữ tư tuệ, cái trí tuệ do tư duy mà có. Đó, thì nó ba cái trí tuệ này, thì chúng ta chỉ sử dụng cái tư tuệ.
Còn cái văn tuệ này nó nguy hiểm là khi nghe nhiều nó bị kiến chấp, nó nuôi lớn cái ngã. Còn cái tư tuệ này nó sẽ đẩy lui tất cả những chướng ngại pháp. Còn cái tu tuệ này là do định mà nó phát sanh cái trí tuệ này, nó thuộc về trí tuệ Tam Minh, không có không gian và thời gian, cái trí tuệ vô hạn. Còn cái tư tuệ này thì nó là cái trí tuệ hữu hạn mà chúng ta sử dụng nó để chúng ta ly dục, ly bất thiện pháp.
Hiểu được như vậy thì Thầy thấy trên bước đường tu mình không, không còn cái chỗ nào … Coi như ông Phật, ông trang bị cho mình đủ hết rồi, thì bắt đầu bây giờ mình biết rồi thì mình cứ lo nỗ lực. Nó hiện tướng nó ra chỗ nào thì mình có cái chiến thuật, chiến lược có vũ khí ngay chỗ đó đặng đối trị nó liền. Coi như là cái mặt trận nội tâm của mình, cho nên nó muôn, nó … về cái chiến thuật chiến lược nó thay đổi liên tục, nó không có phải cố định một cái gì đâu. Cho nên mình không có thể nào đánh nó một cái góc độ nào mà thắng nó được. Mà mình luôn luôn, nó thay đổi là mình cũng thay đổi để mình đánh nó.
Cho nên sau khi mình đã củng cố được cái lực lượng của mình là năm phút tỉnh thức rồi, là cái sức lực của mình trong năm phút là đủ chiến đấu nó rồi. Coi như là bây giờ mình chưa có quân đội, kêu dân của mình thành một cái quân đội, bây giờ còn trang bị vũ khí cho nó, những cái pháp của đức Phật đã trang bị.
Bây giờ quân đội mình đã thành lập được rồi, thì cũng như sư năm phút là sư có quân đội rồi. Bây giờ lấy cái quân đội này mà trang bị những cái vũ khí này, tức là những cái pháp mà Phật dạy đó, thì đụng đâu mình, nó dùng cái gì là mình dùng cách đánh, không thua thằng nào nữa hết, vậy thôi. Nó chơi pháo mình chơi pháo, nó dùng phi cơ, phản lực hay hoặc loại gì phi cơ rồi mình cũng chơi cho nó đủ thứ, mình có đủ hết.
(36:59) Ông Phật ông trang bị cho mình những cái đó để cho mình đánh nó, nó đánh mình góc độ nào, đánh nó góc độ nấy. Biết nó là ma chướng, biết nó là như thế nào, thế nào, mình đánh hết, dẹp sạch xuống hết. Sau khi mặt trận của mình mà sạch rồi thì nó thoáng, vắng bóng, chết hết. Đó là mặt trận nội tâm của mình.
Đó các sư thấy chưa, mình chiến đấu là như vậy, coi như là bây giờ đó mình tu tập, tu tập trong năm phút mà tỉnh thức là kêu gọi nhân dân phải đi lính hết. Rồi bây giờ vô tập luyện chung quân đội của mình, cho nó quen với những cái pháp này. Quen rồi bắt đầu bây giờ tao mới chiến đấu, bây giờ chiến đấu là ngồi không. Mày hiện ra mày đánh tao, tao đập mày liền, không thua mày giờ nào hết.
Cho nên tới cái giờ mà ngồi, mà để mà chiến đấu là nội lực mình đủ, pháp hướng mình có này, Định Vô Lậu mình có này, cách thức quán như thế nào mình cũng thông này, nhân quả như thế nào mình cũng rành hết rồi. Rồi bắt đầu bây giờ tao đủ vũ khí rồi đó, quân đội tao có này, tức là tao có một cái sức tỉnh thức rồi thì bây giờ tao chiến đấu, đó thì bắt đầu chiến đấu.
(38:07) Chiến đấu nó bằng cách là chọc cho nó ra, chọc ổ cho nó ra. Chứ mày cứ mày núp rừng không tao đánh sao cho được. Tao chọc cho mày, mày ở trong rừng không được, cũng như bây giờ mày ở khu rừng đó, tao cho mày đói chết mày phải ra, mày ra tao thì bắn mày chết, có vậy thôi.
Bởi vì mình độc cư đó là mình cô lập với nó, buộc nó phải nhào ra thôi, mà nó nhào mặt nào ra, thì tao bắn chết hết, có vậy thôi. Cách thức của mình mà, còn mình đi kinh hành là mình đánh cái mặt của nó là cái mặt gián điệp của nó. Nó làm cho mình mê mờ không biết, không biết giặc nó hiện ra. Cho nên tao đi kinh hành hoài mày không làm tao mê được, vì vậy mà mày ló mặt nào tao thấy hết, tức là không bị si.
Cách thức đi kinh hành Thầy thấy ông Phật ông dạy mình luyện thân. Trồng chuối hay hoặc là quay ngược hay hoặc hít đất thở này kia đủ thứ, ông không dạy cái điều đó, mà ông dạy mình đi kinh hành thôi. Nó vừa khỏe mà nó vừa an lạc mà nó vừa thanh thản, mà thân động. Cái thân mình nó động vậy chứ nó thấy mình rõ ràng là cả cái thân của mình nó động hết.
Coi vậy chứ đi đó, sư cứ để ý đi, sư đi đi, rồi sư thấy, đi một lúc thì mình đi để ôm cái tay trước, một lúc mình chấp tay sau đít. Thấy cái tay của mình cũng đưa tới đưa lui, có khi mình đi thư thả, mình đi đánh từ xa lại. Rõ ràng là cả thân động hết, chỉ có ngồi không thì nó không động thôi chứ còn đi nó động hết. Mà nó động nhẹ nhàng chứ nó không có gò bó, cho nên cơ thể mình rất bình thường.
Còn thí dụ như mình làm cái gì đó, tập, bắt đầu cơ bắp của mình nó theo cái vận động nó phồng nó nổi lên, mà sự thật nó vậy. Cái này là mình sống cách rất tự nhiên, mà cái tự nhiên, con thú nó đâu có xe cộ đâu nó đi thong thả, mình cũng là con thú thôi. Nó, con thú nó có tập thể thao thể dục gì đâu, nó nhờ đi đó mà nó cũng mạnh khỏe như thường.
(40:00) Như mình thì bày đặt ra đủ thể loại để tập luyện chứ còn nó có tập gì đâu. Ôi thôi nó, ở con vượn thì nó trèo cây, nó nhảy, nó du cái này, cái kia thì nó cũng là mạnh khỏe đó thôi. Còn cái con bò, con trâu thì nó đi ăn vậy chứ, nó cũng đi tới, đi lui tối ngày, nó nằm ngủ trưa có chút xíu, nghỉ chút. Thì nó cũng do vận động như vậy thôi chứ nó có tập thể thao đâu, bao giờ con bò con trâu tập thể thao bao giờ đâu.
Còn mình bày đặt tập cho dữ tợn, cái tự nhiên của mình, mình không chịu tập, phải không? Mình không chịu đi, giờ có xe cộ cứ trèo lên ngồi chạy ù không muốn đi. Hồi xưa ông bà của mình, chúng ta đi bộ gần chết mà ta sống cả trăm tuổi, còn mình giờ sướng quá mà chỉ sống được vậy, có phải sai. Rồi phải tập thể thao đặng cho kéo dài tuổi thọ thêm, mấy ông bày đặt thêm chuyện cho mấy ông cực, chứ làm gì. Đâu có vậy, di chuyển đây mà đi ra đằng kia cũng phải tốn xăng thì thử hỏi uổng không? Có phải tốn tiền không, còn hơn mình đi bộ có tốn gì đâu.
Nên ông Phật ông hay ở chỗ đó, nhưng mà mình đi xa mình đâu có ngu gì mình đi gì cho mệt mình, kèm xe đi, nhưng mà tôi đi gần tôi không có làm điều đó. Vừa khỏe vừa hay, mà hay ông Phật hồi xưa đâu phải ông dép, nhưng mà ông đi không có mang dép. Chính cái chân mình nó chạm, chạm đất đó nó khỏe hơn là cái chân mình mang cái đôi dép.
Cho nên cái nền nhà mình vầy, nó sạch sẽ gạch tàu lót nhà, mình không cần gạch bông đâu. Vậy chứ mà nó đi nó khỏe lắm, còn cái gạch bông mà nó tráng men rồi này kia thì nó cách, cách, cách, thành ra nó không bằng cái gạch tàu. Con thấy gạch bông nó mà đổ nước lên nó lâu rút lắm, còn cái gạch tàu này bước lên cái chân, sư mà sư bước mấy cái nó rút hết nước. Thành thử cái gạch tàu vậy coi nó là đất, nó dễ làm cho khô ráo, nó làm cho mình không bị trượt, còn thứ sang sang một chút chúng ta dễ bị trượt.
(42:06) Đó thật ra mình biết cái đời sống mà, cho nên ông Phật, ông lấy gốc cây ông làm giường nằm mà… Thật ra ráng mà nỗ lực tu theo Phật. Thầy nói uổng tại vì Thầy mong sao mà cái pháp này nó được sống để cho nó làm sáng lại Phật giáo. Chứ không khéo rồi Thầy nói mà rốt cuộc rồi Thầy cũng giống Đại thừa, nói cho lum và rồi không ai làm được. Đại thừa nó cũng nói lum, nó cũng không làm được, giờ Thầy có nói nhiều cũng không ai làm được, mà chỉ có Phật thôi.
Bởi vậy Thầy, lần lượt Thầy cứ hướng về đạo đức để lôi người ta đi ra cái hướng đạo đức, từ cái đạo đức đó mình đi dần tới cái chỗ xả tâm để mà nhập định. Nó có cái cơ bản rồi, mà bây giờ mình đang thiếu đạo đức mình muốn giải thoát, thiệt ra mình gian khổ dữ lắm. Cho nên tại sao mình tu lâu, tại vì đức hạnh mình chưa có.
Cái đức mà mình… Bây giờ người ta vừa nói hơi, người ta hơi động mình chút thôi chứ chửi mình đâu, giận liền à, tức là cái đức hạnh mình không có. Còn mình muốn nói gì mình cũng muốn nói hơn người ta nữa chứ đừng nói, không chịu thua ai hết đâu. Cái bản chất của mình nó như vậy thì thử hỏi làm sao tu giải thoát nó mau được.
Đó mình phải hiểu biết làm sao mình tu lâu, tại vì cái bản chất của mình nó như vậy, nó luôn luôn nó ở trong ác pháp không chịu thiện pháp. Cho nên khi mà người ta sống được đạo đức rồi thì người ta tu con đường của đạo Phật này nó nhanh chóng, quá nhanh đi. Sống mà không làm khổ người, khổ mình thì người đó là, thiệt ra là Thánh chứ đâu phải phàm phu nữa. Ly dục. ly ác pháp rồi chứ còn không có ly dục, ly ác pháp thì không có làm sao mà được cái chuyện đó.
Phật tử: Thưa Thầy con nghe trong cuốn băng mà Thầy giảng đó Thầy, ông Thiện Thuận đó, ông nhập tới Tam Thiền sao có ba mươi mấy ngày à Thầy?
Trưởng lão: Thôi tội lắm con ơi. Chính Thầy nói chung là Thầy khích lệ mấy ông đó chứ, Thầy bác, Thầy đập sạch hết.
Cho nên Thầy phải đưa Minh Tông ra để mà phá cái của ông Thiện Thuận. Nhưng mà cái Minh Tông đó thì nhắc khéo. Cho nên Thầy khen mà trong cái khen đó Thầy lo lắm. Trời ơi! Nó chấp nhận cái khen đó thì … Còn lấy Minh Tông để nó, để cho Thiện Thuận nó hợp chỗ tu nó, tức là nó bị chấp vào cái chỗ tu tưởng. Còn cái ông này thì lọt vào cái ức chế, hai ông đó đều sai, ông nào cũng nói thấy bóng dáng Tứ Thiền. Trời đất ơi! Ly dục, ly ác pháp chưa được mà ông dám nói cái chuyện đó. Nhưng mà Thầy lờ qua, nếu mà nói người ta bất mãn.
Sư Phước Nhẫn: Hôm rày, ông Thiện Thuận ông có hay tới đây không Thầy?
(44:45) Trưởng lão: Ông dặn Mật Hạnh đó là khi nào mà Thầy về thì gọi. Nhưng mà Thầy nói thôi, miễn là ông đừng có tu điên là được, chứ ông mà sao tu cho nổi.
Sư Phước Nhẫn: Chứ ông nói có ba mấy ngày, mà ông nói ông tới Tam Thiền, hình như sáu ngày hay nhiêu con không nhớ nữa, ông nói ông tu đến Sơ Thiền.
Trưởng lão: Thì đó là ông tưởng. Bởi vậy khi đó, con biết không? Khi mà ông bị tẩu hỏa nhập ma đó, Thầy xả ông, cho ông ở cái thất này nè, ngoài này Thầy- mấy cô mà cần phải dạy- Thầy chỉ cách của cô Út, Thầy đương nói chuyện với cô Út thì Mật Hạnh ở ngoài này nó, nó nghe ông la, nó mới chạy vô … (45:27)
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 25
ĐỘC CƯ XẢ TỪNG TÂM NIỆM
ĐỪNG ỨC CHẾ VÀO ĐỊNH TƯỞNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [40:22]
Thời gian: 2002
Tên cũ: 13B-DocCuDeXaTungTamNiemDungUcCheVaoDinhTuong
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-25-doc-cu-de-xa-tung-tam-niem.mp3
Trưởng lão: bàn với Thầy là các cô cần phải dạy một hai pháp, Thầy mới chỉ cách cho cô Út. Thầy đương nói chuyện với cô Út. Thầy Mật Hạnh ở ngoài này mới chạy vô kêu Thầy, nó nói: "Thầy Thiện Thuận nhập thất gặp khó khăn rồi, Thầy hãy ra cứu Thầy ấy chứ để Thầy ấy chết”. Bởi vì mới đầu thì Thầy Thiện Thuận còn ở cái thất bên đó, cái thất ở đằng sau lưng Thầy. Thầy Thiện Thuận khẹc khẹc, Mật Hạnh nghe khẹc mấy tiếng, nó giao cảm nó biết được cái trường hợp đó, chứ chưa có la, thì trong khi nó chạy vô báo cho Thầy, nó nói: "Thầy Thiện Thuận thế nào cũng bị gặp khó rồi, Thầy hãy ra cứu Thầy Thiện Thuận". Thì Thầy nói cô Út, thôi bây giờ con vô đi, Thầy đến Thầy giúp.
Thầy đi chậm chậm thế này, Mật Hạnh thì lật đật, nó sợ. Thầy nói Mật Hạnh có cái gì thì con chạy trước, có cái gì thì con làm tiếng động cho lớn, con la thật lớn. Nói chung là Thầy vừa đi tới cái chỗ ngã ba này, chưa tới nơi, thì ở trong đó Mật Hạnh nó đã tới đằng đó rồi, Thầy Thiện Thuận ở trong đó ổng la, ổng la điên.
Nghĩa là la cũng như là cọp rống “ồ ồ ồ”, la làm như ai bóp cổ ổng. Vậy đó, thì Mật Hạnh nó run hết, run người, nó không dám, nó không dám la vì ổng la lớn quá. Thầy đã dặn Mật Hạnh là khi nào mà nghe Thầy Thiện Thuận còn khẹc như vậy đó thì la cho có tiếng động cho thầy ấy rã nó ra, rã ra. Nhưng mà đến đó thì Thầy Thiện Thuận đã la quá lớn, la như cọp rống, làm như nghẹt cổ mà ráng la, thành ra nó hoảng rồi, nó không dám la nữa. Mà la đâu có át được tiếng la của người điên. Cho nên vì vậy Thầy đi tới, Thầy vô thất, Thầy vô thất Thầy vỗ trên đầu một cái, Thầy đặt cái tay này, tập trung tâm của Thầy trên đỉnh, đẩy lui xuống liền.
Sư Phước Nhẫn: Nó lên.
Trưởng Lão: Nó lên, nó làm cho rối loạn cái Thần kinh não, cho nên Thầy ấn, để cái tay Thầy lên trên cái đỉnh đầu. Thầy Thiện Thuận đâu có biết. Thầy để lên đó, để xuống nhẹ, Thầy định tâm, nhập định, sức định của Thầy, đẩy lui xuống, làm cho cái thần kinh an, Thầy giải quyết nhanh vậy đó, chứ còn không khéo nó điên. (02:32) Ngồi đây một hơi cái… Khi Thầy đi ra - hồi Thầy ở đó thì cái lực của Thầy nó có đó, nó không phục hồi, nhưng mà Thầy đi ra rồi, thì làm như “nó” trào trở lên, nó làm như nó bắt thầy Thiện Thuận phải la nữa.
Khi mà Thầy đi ra khỏi thất, Thầy dặn: "Hãy đến thất của Thầy", nhưng mà thầy Thiện Thuận không có đến, ổng tưởng là “nó” hết rồi, nhưng mà Thầy đi về thất của Thầy, thì ổng chạy đến nói: " Không được, Thầy bảo con không nghe lời, bây giờ “nó” muốn trở lại rồi, nếu trở lại thì con hết biết rồi, con cứ la không”. Thầy bảo: "Thôi bây giờ con cứ ở trước thất Thầy, đêm nay ngủ ở đây", rồi Thầy ngồi trong thất, Thầy ngồi thiền, Thầy nhập định, còn thầy Thiện Thuận nằm ở bên ngoài ngủ, một đêm.
Đêm đó thầy Thiện Thuận mới hết, sáng ra nó hết. Nếu không có Thầy thì thầy Thiện Thuận điên luôn. Nó nhập Tam Thiền, mà Tam Thiền điên. Bởi vậy Thầy nói: "Đó, con thấy chưa, cái Tam Thiền điên của con”.
Còn Minh Tông, con biết, bây giờ Minh Tông, nó cũng nói là nó bay, nó thần thông để mà nó dạy Thầy, nó gợi ý như vậy lận đó. Nghĩa là Thầy bảo nó đừng có tiếp chuyện với ai: "Bây giờ giai đoạn của con là giai đoạn Tỉnh Thức cao rồi, nó lọt vô trong Định Tưởng rồi.
Bây giờ con không có được quyền tiếp vợ con con hoặc bạn bè con nữa, mà coi như là con sống hoàn toàn độc cư để xả tâm, chỉ duy nhất xả tâm.
Con đừng có ngồi thiền, con lấy cái sức Tỉnh của con có đó - bởi vì mình Tỉnh rồi, nó vẫn có trong này đâu cần nhiếp tâm nữa, cứ mình nhiếp tâm để cho mình thấy thôi chứ sức Tỉnh mình đã có đây rồi - bây giờ con chỉ cần lấy cái sức Tỉnh này mà Xả tâm".
(04:20) Nó không chấp nhận độc cư, nó độc cư không đúng. Nó nói: "Con vài bữa nữa con thị hiện Thần thông".
Thầy nói: "Nếu mà vậy thì con tìm con đường mới, chứ không phải là con đường cũ, mà nếu được vậy Thầy sẽ tuyên bố với Phật tử, con đã tìm con đường đúng, tốt, đúng".
Nhưng mà có trong vòng một tháng là thổ máu đống đống. Cãi Thầy, ông Thiện Thuận cãi Thầy, dùng pháp hướng bị loạn Thần kinh ổng luôn. Thầy nói: "Không có được, con ở trong cái định đó, con đừng nói Tam Thiền mà con tịnh chỉ hơi thở để mà con vào. Con cứ nghĩ là con Tam Thiền, con tịnh chỉ hơi thở để con vào; con dùng pháp hướng để tịnh chỉ hơi thở; “nó” tưởng con là “nó rối loạn”, chết con à! ". Nó không nghe, nó thấy rằng ở trong đó nó biết. Khi mà hết vọng tưởng rồi thì nó nguy hiểm vô cùng; có thời gian một, hai tiếng đồng hồ do cái định ức chế tâm.
Do vậy, những trường hợp ở đây, Thầy nói đó là những kinh nghiệm cho mấy con hết, sáng suốt để mà thấy những kinh nghiệm.
(5:24) Bên nữ cũng vậy con, bên nữ cũng ngồi thiền dữ tợn lắm mấy con, bởi vì tu theo cái kiểu Đại thừa không hà, cho nên đến đây mang ba cái đó vô, giữ lại, bảo xả không có chịu. Do vì vậy mà nhờ những cái nhân duyên đó mà kinh nghiệm, kinh nghiệm của Thầy (nghe không rõ) Dạy một đàng, họ mang cái thói quen tu tập theo Đại thừa, vô đây cũng quen cái đó, cái kiến chấp của nó cái đó là cái đúng!
Cái của Thầy xả không hà. Bởi vì xả có thấy định đâu, thấy thật sự là mình cứ xả cái tâm tham, sân, si của Thầy mà, đâu có định.
Còn cái này rõ ràng người ta có định mà, người ta ngồi không vọng tưởng mà, người ta thấy rõ mà. Còn cái này (của Thầy) họ đâu có thấy cái định của nó đâu?
Nhưng mà khi xả hết cái tâm tham, sân, si rồi thì nó có định. Nó lạ như vậy, còn đằng này ức chế nó cho nên vì vậy mà nó trật đường có chút xíu đó, dạy không được!
(06:18) Nhiều người lắm con- Ăn, vô đây ăn là họ bật ngửa ra; họ ăn không được, mấy người đó còn tục tử phàm phu lắm. Có người thì vượt qua được cái ăn. Nhưng mà cái ngủ thì cũng trật, té lên té xuống với cái ngủ. Rồi bắt đầu tới cái Độc cư thì thôi. Ông nào cũng tới đó bật ngửa ra hết, không có người nào hết.
Sư Phước Nhẫn: Khi con trở qua con phải ráng, ráng độc cư cho trọn vẹn.
Trưởng Lão: Cứ độc cư là mình sẽ xả được tâm, mà xả được tâm mới độc cư nổi, mà xả không được tâm thì không độc cư nổi.
Cho nên, từ hôm đó tới nay Sư Phước Nhẫn có những lý luận: mình nghĩ thế này, thế kia, đó là nó muốn phá độc cư, nó đi ra, chứ không có gì. Nó độc lắm, cho nên mình độc cư được thì nó phá được niệm đó, còn mình độc cư không được thì nó luận đó. Nó biện luận cái này, nó biện lý cái kia, nó dữ lắm, nó làm cho mình chới với mà.
(7:16) Thầy nói như vậy để cho mình biết được cái mặt đường tu. Cho nên cái mục đích chính mình cứ lo xả cho hết tham, sân, si đi, mình ly dục. Thì mình ly dục hết thì mình thấy hết buồn ngủ. Cho nên Thầy nói hết buồn ngủ thì nó còn mộng đâu, do đó mình phá Tưởng rồi.
Mình không có nói mình nhập Tam Thiền, mình không có ra lệnh nó, nhưng mà trạng thái nó hết ngủ là ở trong Tam Thiền rồi. Mình ly dục, mình ly dục ngủ, nhưng mà nó sẵn sàng, khi mình truyền lệnh là nó vô Tam Thiền liền. Còn mình còn ngủ, còn ham ngủ mà mình nói mình nhập Tam Thiền thì đâu có được. Phải hiểu được những cái này, cái kia của con đường cho chính xác rồi mình tu, tu nó mau lắm.
(08:04) Cho nên mấy Sư mà ráng tu được, Thầy mừng lắm như ai cho vàng Thầy. Thật sự ra Thầy đã chứng minh được: Một người thì nó còn yếu, cỡ năm người, mười người, hai chục người, ba chục người, trăm người thì Phật pháp bấy giờ coi như pháp Đại Thừa bỏ chạy như là kiểu “lột bỏ đồ quân đội mà mặc lại đồ dân sự mà chạy”. Bởi vì lúc bấy giờ khoảng một trăm người chứng quả A-La-Hán rồi thì kể như chấn chỉnh Phật pháp lại, nhanh chóng.
Mấy ông nói mà các ông không làm được, chúng tôi làm được. Không phải có một người đâu, mấy ông không tin, chúng tôi sống Giới, mấy ông thấy mấy ông có làm được không? Đó là cái thứ nhất.
Cái thứ hai về đức hạnh của chúng tôi, đi ra (nghe không rõ) đàng hoàng, đó là những cái Hạnh của chúng tôi. Ăn, mặc, chúng tôi đúng là cái Hạnh của Phật, “ba y, một bát” rõ ràng, và đồng thời y áo của chúng tôi không phải là thứ đồ tốt đâu, không phải còn sang đẹp đâu. Chúng tôi hoàn toàn giải thoát, không còn vật dụng, không còn chùa to, Phật lớn đâu. Đó là cái đời sống của chúng tôi là đời sống phạm hạnh. Mấy ông làm được chưa? Cái đó là cái mấy ông thua tụi tui xa rồi đó.
Bây giờ nói về Thiền Định, ông nào mà nhập một tháng được, nhập với tôi. Tôi không thực hiện Thần thông, tôi nhập Thiền Định mấy ông coi, mấy ông làm được thì đến đây ngồi. Đừng có nói một, hai giờ, tôi ngồi một tháng cho ông xem.
Rồi bắt đầu bây giờ đó, tôi thực hiện tới cho mấy ông thấy những cái gì mấy ông muốn, thì mấy ông có dẹp tiệm mấy ông chưa. Dẹp thì mấy ông dẹp hết đi, mấy ông đừng có để đấy”.
Một trăm người, nó không diệt người này còn người khác, diệt sao được một trăm người. Rồi mấy ông thấy cái nào đúng, cái nào sai. Rồi Phật tử họ sẽ thấy cái nào họ ủng hộ, cái nào họ không ủng hộ.
(10:00) Chứ bây giờ mình Thầy cũng như là (nghe không rõ) Thầy có thực hiện thần thông họ cũng nói Thầy ngoại đạo. Rõ ràng là mấy ông Lạt Ma họ cũng thực hiện thần thông mà, có gì đâu mà hơn, họ cũng sánh Thầy như vậy. Còn bây giờ một chục ông, người ta tu hành như vậy, phạm hạnh như vậy, người ta đâu phải như những ông Lạt Ma.
Nè mấy Sư! Thầy thấy nó không khó mà tại sao nó lại khó với mấy Sư quá vậy? Hàng ngày Thầy ngồi, Thầy kiểm điểm tâm của Thầy, Thầy cứ đẩy lui nó, chuyện này nó quá dễ. Chứ Thầy đâu phải ngồi mà ức chế cái này, cái kia, nó khó!
Mà Thầy chỉ chịu khó Thầy sống một mình, không có chơi với ai hết, không nói chuyện, ai nói gì thì nói, ai chê, ai khen gì, mặc! Thầy đi kinh hành, Thầy tập Tỉnh Thức, mà Tỉnh Thức thì không bị hôn trầm thuỳ miên.
Bởi vậy Thầy nói hết cho mấy Sư thấy để mà nỗ lực tu cho đúng cách. Một thời gian mà quý sư tu xong, tu xong là quý sư đã giúp Thầy rồi, chứ không phải cần đi ra làm Phật sự đâu. Tu rồi, giải thoát rồi là quý sư đã giúp Thầy rồi.
Từ đó cái đầu óc của quý sư, cái trí tuệ quán xét mình làm cái gì, rồi quý sư làm, Thầy không chỉ đạo đâu. Bởi vì quý sư quán xét thì cũng như Thầy vậy. Quý sư làm cũng như Thầy làm. Tự thấy cái nhiệm vụ và cái Nhân Quả của mình, nó phải làm chỗ nào, vị trí nào thì mình tự thấy.
Thầy khỏi cần, khỏi cần cất cái chùa đó, như Hòa thượng cất chùa này chùa kia, để cho chúng đưa về để mà tổ chức cho nó đông đảo. Thầy không cần. Quý sư nhìn thấy cái duyên của mình ở đâu thì về đó độ. Quý sư sẽ có đủ khả năng để đến đó làm. Thầy khỏi cần phải lo chùa cho ông nào hết. Người nào đến đó, có duyên thì tự nhiên người ta sẽ cất tịnh xá cho mình đến hoằng dương Chánh pháp. Cái duyên của mình ở đó thì mình phải về đó.
Còn bây giờ Thầy có bảo đi nữa thì quý sư nói: "Sao mà khó quá". Nhưng mà mình đã thấy mình rõ ràng thì nó phải khó chứ sao, nhưng khó mà mình khắc phục được bởi vì cái duyên của mình đó mà.
(12:00) Còn bây giờ Thầy chỉ định phải về đó đi, về đó. Thật sự về đó Thấy biết cái duyên vậy, nhưng mà cái duyên đó, mình phải tạo cái nhân, nó mới được. Có duyên mà không tạo nhân thì nó không thành đâu. Cho nên mình nói người ta phải nghe.
Sư Phước Nhẫn: Con thấy, con thấy cũng là cái duyên cái phần của con, của huynh đệ con là qua cái kinh nghiệm của Thầy, từ lâu rồi Thầy mới rút tỉa kinh nghiệm để bây giờ chúng con được hưởng.
Trưởng Lão: Được hưởng, thì bây giờ mình được hưởng cái này, mình có duyên rồi phải không? Huynh đệ của con có duyên rồi, mà cái duyên này mình phải tạo cái nhân cho nó đi tới chứ.
Có duyên mà mình đứng đây à? Đã biết được như vậy rồi thì bây giờ con cắt đứt hết mọi mặt, không có nghĩa là mình không thương con cái. Đạo đức mà! ai mà biểu mình không thương, nhưng mà phải thương đúng, đừng đặt tình thương sai chỗ. Mình đặt tình thương sai chỗ thì như phàm phu rồi, nó càng đem đến ác pháp cho nhau hết.
Mình đặt tình thương đúng chỗ thì mình giải thoát con cái mình, đó nó vậy đó. Cho nên vì vậy biết rồi thì phải tạo cái duyên, cái nhân cho nó đúng, cái nhân mình phải gieo cho đúng chỗ.
Bây giờ cái duyên nó có rồi, tức là gặp được Chánh pháp rồi, gặp được kinh nghiệm của Thầy rồi. Bây giờ là lúc tạo cái nhân, cái nhân làm sao cho tốt, để rồi cái nhân này cho nó lên được.
Vì vậy bây giờ Sư về Sư sắp xếp làm sao cho con cái nó bình tĩnh, không có lo cho ba nó nữa: "Tao bây giờ tao quyết như vậy, tao tu được. Các con nghĩ, bộ Ba bỏ mấy con sao. Bộ Ba tu rồi Ba thành cây đá sao. Chính Ba tu là Ba thương mấy con đó chứ. Ba đã giải thoát được tức là ba sẽ dẫn dắt mấy con. Ba không bảo mấy con tu đâu, nhưng mà Ba làm được các con sẽ thấy. Điều đó nó sẽ ảnh hưởng lớn tới các con mà; Các con yên tâm đi, Thầy không bỏ ai chết đói đâu; Nên các con yên đi, để Ba thực hiện đúng lời Thầy dạy. Ba làm được, có khả năng làm được mà, đâu phải là không làm được."
(14:16) Cho nên nó yên tâm hết, nó thấy hoàn toàn không có gì hết. Vào đây khép chặt, quyết định trong cái thời gian này nỗ lực, không có tính là ba tháng, hai tháng. Quyết định là phải xong, khi mình quyết định xong, không có cần thời gian nữa thì nó nhanh. Còn mình tính ba tháng, sáu tháng, mình ráng riết, mình bị ức chế.
Còn mình quyết định suốt cuộc đời này, còn lại cái hơi thở này là phải đạt được Đạo, là phải thực hiện đúng chánh pháp này. Một giờ không phạm cái lỗi này, không phạm một chút lỗi nào mà Thầy đặt ra thì con sẽ tiến tới.
Mà không có nghĩ thời gian. Thầy nói ba tháng, sáu tháng nhưng mình đừng có nghĩ mình phải khép ba tháng, sáu tháng, thì cái đó mình còn chết nữa. Không được, mình nghĩ là phải tu trong cái kiếp này, phải giải quyết cho được. Hiện giờ một giây, một phút này phải có sự giải thoát ở trong đó. Cứ kiên trì, cảnh giác tiến tới mãi thì cái thời gian nó thu ngắn, ba tháng, sáu tháng. Còn mình nghĩ ba tháng, sáu tháng để mà tu cho nó xong thì ba năm, ba chục năm chưa rồi. Nó vậy đấy.
Sư Phước Nhẫn: Như hôm rày thấy con của con nó cũng nghe lời con một phần, nó không thư từ, không điện thoại luôn, thấy cũng đỡ lắm.
Trưởng Lão: Đó, nó giúp cho con đó, đó là con tạo được cái duyên. Mình biết có cái nhân, có cái duyên rồi, bây giờ mình tạo cái nhân. Bây giờ cái nhân nó không gọi điện thoại, thư từ, nó làm cho mình yên tâm, là cái nhân mình phải tạo chứ. Còn con không dặn nó, con mà không thương cha sao? Nó không gửi thư thăm sao? Mình nói…
Sư Phước Nhẫn: Nó gọi hoài đó chứ.
Trưởng Lão: Con hiểu chỗ đó không. Cho nên ở đây Thầy nói mình biết được chánh pháp rồi tạo cho đủ cái nhân để cho mình đủ lực thực hiện cái quả.
(16:02) Sư Tuệ Tĩnh: Trong cái năm phút mình tỉnh thức, mình áp dụng cho đi kinh hành một ngày bao nhiêu lần thưa Thầy?
Trưởng Lão: Một ngày trong năm phút mình đi… Ví dụ buổi sáng mình đi một lần, buổi chiều đi một lần, tối đi một lần, khuya đi một lần năm phút. Còn bao nhiêu thì cứ xả tâm.
Còn ngồi cũng vậy, mình ngồi tu Định Niệm Hơi Thở chứ gì, phải không? Tại sao mà Thầy nói Định Niệm Hơi Thở mà không nói Quán Niệm Hơi Thở? Quán tức là mình tập trung trong cái hơi thở, còn Định Niệm Hơi Thở là tâm nó định trên hơi thở. Cho nên đức Phật gọi Định Niệm Hơi Thở, chứ đức Phật không có nói Quán Niệm Hơi Thở.
Sau này các sư, quý thầy hay nói quán niệm hơi thở, quán sổ tức, quán này kia. Không phải, không đúng, bởi vì trong kinh nói rất đúng, trong kinh Nguyên Thủy nói rất đúng: Định Niệm Hơi Thở chứ không có nói Quán Niệm Hơi Thở.
Định Vô Lậu, nói Định Vô Lậu, bởi vì cái tâm thanh tịnh thì nó không có lậu, nên mới Định Vô Lậu. Mà tâm thanh tịnh tức là định. Tâm không tham, sân, si, con hiểu không? Đó là Định.
Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, cái Định thì cái tâm nó ở trong Chánh Niệm, cái Niệm Thiện cho nên nó thanh tịnh, cho nên nó định.
Sư Phước Nhẫn: Thưa Thầy trong lúc mà mình đi kinh hành, mỗi một ngày bốn lần, mỗi lần năm phút kêu bằng là mình Chánh Niệm. Rồi sau đó trong thời gian còn lại mình muốn đi cũng được nhưng mình phải cho thong thả. Niệm nó muốn…
Trưởng Lão: Nó muốn vô, nó muốn ra thì nó ra, mình cứ, mình để mình quan sát cái niệm thôi, chứ mình đừng có tập trung trong cái Tỉnh Thức của cái bước đi của mình.
Còn bây giờ cái niệm hoàn toàn nó thanh tịnh, không có niệm khởi nào cho mình, thấy như vậy cả nửa tiếng, một tiếng thì mình dùng Pháp Như Lý Tác Ý, tác ý: "Tâm như cục đất".
Sư Phước Nhẫn: Chắc con, chắc con chưa Như Lý Tác Ý được đâu.
Trưởng Lão: Chưa đâu, bởi vì nó chưa có tâm tướng Định. Tâm chưa có thời gian quay vô, thường thường nó bị ức chế, mà ức chế thì hướng như vậy không có hiệu quả.
(18:04) Khi nó quay vô nó hiệu quả, nó quay vô tức là nó thanh tịnh rồi. Mình hướng để luyện nội lực khi là khi tâm nó thanh tịnh. Cho nên thí dụ bây giờ Thầy tịnh chỉ hơi thở Thầy nhập Tứ Thiền, Thầy phải hướng tâm một thời gian, năm, mười hoặc là hai chục hay một trăm lần Thầy hướng tâm đến Tam Minh, túc Mạng Minh, nó mới hiện ra chứ đâu phải một cái là nó hiện liền sao.
Cho nên nghe đức Phật nói hướng tâm đến Tam Minh là có Tam Minh liền, đừng có hiểu kiểu đó là.. Bộ nó sẵn cho mình sao? Mình muốn dẫn nó là đâu phải nó đi liền cho mình đâu.
Mặc dù là nói nó nhu nhuyễn nhưng mà cái người mà chưa có bao giờ đi lần nào tới Túc Mạng Minh, thì nó đâu có đi liền được đâu. Khi mình dẫn nó đi rồi, nó biết đường cái mình nhắc nó đi à.
Còn bây giờ nó chưa biết đường, nó đâu biết đi đường nào đâu. Mình ra lệnh bảo: "Tâm phải về Túc Mạng Minh, phải biết nhiều đời kiếp, kiếp kế đây của mình là gì". Ra lệnh nó như vậy rồi ngồi yên lặng một hơi ở trong cái định Tứ Thiền, rồi mình hướng ra, mình tác ý, mình hướng ra lần nữa, nó chưa được nữa, mình hướng nữa. Cả chục lần, hai ba chục lần, cả trăm lần nó mới về được Túc Mạng Minh, chứ đâu phải dễ. Cho nên mình phải luyện, chứ đâu phải khi không mà được.
Sư Tuệ Tĩnh: Trong năm phút mình đi kinh hành tỉnh thức thì mình làm sao?
Trưởng Lão: Trong năm phút đi kinh hành thì mình chỉ tập Tỉnh Thức thôi. Sau năm phút đó rồi bắt đầu mới tu nhiếp tâm
Sư Tuệ Tĩnh: Mình đặt tâm dưới chân hay mình..
Trưởng Lão: Mình đi rất tự nhiên chứ không quá chú ý nữa. Tỉnh Thức một cách rất tự nhiên.
Sư Tuệ Tĩnh: Chỉ biết mình đi thôi?
Trưởng Lão: Biết mình đi, không cần từng chút, từng chút… Đó là tập trung quá căng, cho nên mình đi mình biết mình đi thôi. Trong năm phút mình đi, đi như thế nào kệ, thấy đi nghe thư giãn tự nhiên vậy. Biết đi, bước tới bước lui, mình biết.
Sư Tuệ Tĩnh: Mình giữ đừng có niệm.
Trưởng Lão: Đừng có niệm thôi.
Sư Phước Nhẫn: Còn nếu có niệm thì sao thưa Thầy?
Trưởng Lão: Có niệm thì tức là mình bể, mình hư, mình tập lại.. Nó thường xuyên mình bị bể vậy đó, mình lui cái thời gian ngắn lại. Thay vì bây giờ mình đi một vòng cái nhà này mà nó có niệm thì mình đi nửa vòng.
(20:04) Sư Tuệ Tĩnh: Đi rồi mình nhắc…
Trưởng Lão: Nhắc chứ, coi như bị niệm là mình nhắc à: "Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành". Nhắc cho nó biết đi thôi, để cho nó tiếp tục cái thời gian nối dài cho mình mình đi…
Sư Phước Nhẫn: Hình như mình nhắc đó Thầy, nó cũng đỡ cho mình là nó đặc biệt nó không vô, trong lúc nhắc nó không vô.
Trưởng Lão: Thì đó, mình tu cái Định Diệt Tầm mà Giữ Tứ đó, tác ý ra đó, để cho nó tỉnh thức ở trong cái hành động đó. Mình muốn tập Tỉnh Thức trên bước đi của mình thì mình thì mình phải nhắc cho nó… Chứ mình không nhắc đâu được.
Cho nên đức Phật nói; "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra" để tập tỉnh thức trên hơi thở đó, ý là như vậy. Cho nên mình đi mình cũng nhắc chứ, bởi vì nó còn tạp niệm. Chừng nào nó hết tạp niệm rồi thì khỏi nhắc.
Minh đi mình biết đi, đi đi đi, mình nhắc. Cũng như bây giờ mình đi từ đây tới ngoài kia, chừng tới cái cửa đó mình nhắc, tới cái ở ngoài kia mình nhắc, tới cái cầu mình nhắc, ba lần nhắc.
Sau đó mình tập riết rồi, từ đây ra tới kia mình nhắc một lần, sau đó cái mình bỏ không nhắc nữa, năm phút trọn vẹn là bỏ luôn thì tức là biết tỉnh thức rồi không cần nhắc nữa.
Tức là mình diệt luôn cả Tầm Tứ hết đó, là tỉnh thức năm phút, không có Tầm Tứ trong đó, để cho mình dùng cái Tỉnh Thức này mình xả.
Mình phải tập chứ, mới đầu mình đi, cũng như mình đứng lên mình bước ra, đứng lên là mình nhắc: "Tôi đi tôi biết tôi đi". Rồi bắt đầu mình đi tới chỗ này mình nhắc: "Tôi đi tôi biết tôi đi" , đi qua tới đây mình nhắc, đi qua tới đây mình nhắc tới cái vòng này không có niệm.
Như vậy là nhờ nhắc mà không có niệm, "Tao diệt Tầm, chứ tao giữ Tứ. Diệt mày từng chút, chứ còn diệt mày hai cái một lần tao diệt không nổi".
Do đó khi nó tỉnh được khá rồi, bắt đầu thử, đi nửa vòng mình nhắc một lần, hồi đó mình nhắc bốn, bây giờ mình nhắc hai, sau đó mình nhắc một lần. Đứng dậy đi một vòng mình nhắc một lần mình thấy không có, bắt đầu đi hai vòng, hai vòng được, đi ba vòng, ba vòng được, tới bốn vòng, tới năm vòng, thấy được, “ Thôi tao không nhắc nữa”.
(22:01) Rồi bắt đầu tới giờ là chuyên môn xả. Tới cái giai đoạn này là tao không đi nữa. Thời gian sau là quý sư không tập Tỉnh Thức nữa. Không có còn ngồi mà hít thở mà biết hơi thở, đi kinh hành mà tập Tỉnh Thức nữa, không cần năm phút nữa, mà hễ vô ngồi tu là tác ý ngay
Sư Tuệ Tĩnh: Thời gian bao lâu mới hết thưa Thầy?
Trưởng Lão: À cái thời gian mà mình thấy… khoảng độ chừng trong vòng… nó tùy theo, có khi một tuần lễ, có khi một tháng là mình bỏ luôn.
Mình thấy lúc nào cái tỉnh thức mình nhiếp tâm là vô được, nhiếp tâm là vô được. Ban ngày, sáng cũng được, một ngày một đêm là bốn thời. Mình đi bốn thời, mình ngồi bốn thời chứ gì? Mà mình thấy tỉnh thức hết thì xả.
Còn nếu mà nó còn xen kẽ niệm vô trong đó thì còn tu, còn nó hết niệm thì hết tu. Nghĩa là lúc nào tao ngồi trong năm phút, tao cũng thấy không có niệm. Ngồi suốt năm phút không có niệm, rồi bây giờ đi suốt năm phút không thấy niệm.
"À như vậy là tu cái này xong rồi, không cần tu cái này nữa. Bây giờ tao lo ta xả. Bây giờ tao ngồi chơi thôi. Niệm nào tới thì tao quét ra, Niệm nào không có thì thôi, mặc tình cái tâm nó ở trên hơi thở hay ở trên bước đi thì mặc nó làm, tao không chú ý. Mày muốn ở chỗ đó thì cứ ở, tao không rãnh, mà hễ mày không ở chỗ đó mà ở chỗ khác thì tao đuổi liền. Có vậy thôi, tao để sẵn cái nhà cho mày ở, mà mày vô ở thì thôi tao không nói, mà mày đi ở nhà khác là tao đuổi đi.
Có vậy thôi, không cho mày ở chỗ khác, tao để chứ tao không bắt mày vô đó. Nhưng mà mày không chịu ở, mày đi chỗ khác thì tao kêu mày về. Tao đuổi tụi kia đi cho mày về…"
Sư Tuệ Tĩnh: Mình xả riết là tự nó ly dục hả Thầy?
Trưởng Lão: Nó ly, cầu cho nó tuôn ra cho nhiều; lúc bấy giờ mà tu tới đó, cầu cho nó niệm khởi cho lung để cho mình hàng ngày quán lia lịa
Sư Tuệ Tĩnh: Cái này là giai đoạn một chứ không phải giai đoạn hai. Trong cuốn Thiền Căn Bản Thầy nói có hai giai đoạn.
(24:00) Trưởng lão: Đúng rồi, cái giai đoạn một tập Tỉnh Thức, tập Tỉnh Thức rồi mới xả tâm, còn nằm trong giai đoạn một - Xả cho hết.
Giai đoạn hai là giai đoạn Định rồi. Còn giai đoạn này là Ly, ly dục ly ác pháp.
Sư Tuệ Tĩnh: Sau khi mình tỉnh năm phút rồi mình xả tâm thì đó là giai đoạn hai hay còn một?
Trưởng Lão: Không! nó còn một, nó mới Tỉnh Thức, chứ nó chưa Chánh Niệm mà. Nó luôn luôn ở trong Chánh Niệm của nó mới được. Nó cũng còn nằm trong giai đoạn một, chứ chưa phải hai. Nhưng mà đây là giai đoạn một của phần một, phải hiểu, giai đoạn một của phần một.
Còn cái giai đoạn Ly đó, nó có sáu cái Đức, sáu cái Hạnh của nó ly.
Giai đoạn một thì mình tập Tỉnh Thức thôi, Chỉ năm phút thôi, đó là giai đoạn một của Ly. Tỉnh Thức rồi ly mới được. Giai đoạn Ly mà không Tỉnh Thức làm sao mà Ly, thành ra nó nằm ở trong giai đoạn một - đó là Ly; giai đoạn một của giai đoạn Ly.
Giai đoạn Ly thì có lập sáu cái Đức, sáu cái Hạnh để ly, chứ không phải một.
Coi lại cái Thiền Căn Bản. Hồi đó Thầy dạy đơn sơ, Thầy nhuận lại, nhưng mà nó còn sơ sót chứ chưa phải hết đâu. Để rồi Thầy chỉnh lại, lần lượt Thầy chỉnh lại cho nó… Những cái tựa này kia cho nó đầy đủ. Vì vội vàng lắm, cho nên nãy giờ Thầy bảo Nhu nó kiểm lại coi cái nào sơ sót để mà Thầy chỉnh lại cho nó đúng.
Nhưng mà Thầy cho in ra để quý sư có cuốn sách đọc cho có căn bản. Tại vì mấy ông cư sĩ bên Mỹ, họ thích, chứ cuộn băng này Thầy giảng lâu rồi, Thầy không có lưu ý lắm, vì giảng thô mà, thôi Thầy bỏ Thầy không nói. Vì vậy mà bây giờ mấy ông muốn in thành sách, cho nên Thầy phải nhuận lại cho nó thành ra cuốn sách.
Sư Tuệ Tĩnh: Cái này in thành sách nó quý lắm thưa Thầy, cái đường lối tu Thiền này nó khác hơn các đường lối khác, nó thực tế hơn. Mà Thầy chính xác luôn, Thầy in nó quý lắm. Xin phép chắc được vì không có đụng chạm ai hết, chắc dễ
(26:07) Trưởng lão: Quý sư đọc không thấy có đụng chạm phải không?
Sư Tuệ Tĩnh: Dạ, riêng Pháp hành thì chỉ tu
Trưởng Lão: Đó là nó không có đụng chạm, thành ra bây giờ coi như đưa xin phép thì chắc được. Nhưng mà Thầy đưa lên mạng cho bên đó nó nhận, nó in, nó phổ biến ở bển.
Còn bên đây chắc có lẽ là Thầy không đưa đâu, Thầy nghĩ là Thầy sẽ viết giáo trình tu tập từ lúc ban đầu như thế nào. Trong cái hệ thống mà Thiền Căn Bản này nằm trong đó, thành ra một cái hệ thống tu tập. Nhưng mà Thầy chưa có làm được, do đó bây giờ người ta muốn mau quá nên nó mới ra đời đó.
Thầy chưa có ý định. Thầy định viết bộ Đạo Đức Nhân Quả xong rồi, đó là cái cơ bản nhất để Thầy làm giáo trình tu tập. Bởi vì mình phải học đạo đức trước, hành động sống hàng ngày, sống đạo đức như thế nào để không làm khổ mình, khổ người, tức là ly dục, ly ác pháp, là cái căn bản của nó.
Sau đó mới đi vào Tỉnh Thức này, Tỉnh Thức rồi mới sống lập Đức, lập Hạnh như thế nào, thế nào…
Sư Tuệ Tĩnh: Đạo Đức Nhân Quả áp dụng cho cư sĩ hay là…?
Trưởng Lão: Áp dụng cho cư sĩ, áp dụng cho đời sống cư sĩ, những người này vì sống chung nhau trong một cái… Không làm khổ mình, khổ người, trong Đạo Đức Nhân Quả mà.
Thầy dạy cho người ta từng cái hành động. Đặt tình thương của người ta đúng chỗ. Để người ta đặt sai thì nó thành ác pháp. Thật sự ra vì mình đặt tình thương sai là thành ác pháp.
“Thầy muốn giết người đó để cướp của, tức là thầy đặt tình thương sai. Thầy đặt tình thương thầy, Thầy thương thầy, muốn ở không mà thầy có của, muôn giật của người ta làm của mình. Đó là Thầy đặt tình thương thầy”
Sư Tuệ Tĩnh: Cái đó nó có đụng chạm các phái kia không Thầy?
Trưởng Lão: Không, nó không đụng, cái Nhân Quả nó không đụng.
Sư Tuệ Tĩnh: Xin phép chắc cũng cũng dễ…
Trưởng Lão: Cái đó thì dễ, kể như cái bộ Đạo Đức Nhân Quả ra đời cũng dễ
Sư Tuệ Tĩnh: Con thấy thế này, con đề nghị Thầy in nhiều vì con có ý nghĩ phóng dật hồi tối là Khổng giáo đi vào cuộc đời hay hơn Phật giáo, vì nó thực tế hơn. Còn Phật giáo đi vào cuộc đời, con thấy mê tín nhiều quá. Rồi từ từ nó đi xuống, bây giờ thí dụ trong chương trình chấn hưng, Thầy cho đi vào cuộc đời như Khổng giáo thì nó hay hơn.
(28:20) Trưởng lão: Thì đó, đây là cái bộ Đạo Đức Nhân Quả của Thầy là đưa Đạo Đức của đạo Phật vào cuộc đời.
Sư Tuệ Tĩnh: Mình không có nhắm hàng tu sĩ mà mình nhắm hàng cư sĩ, từ đó mình phát huy lên, vấn đề chấn hưng mạnh hơn là tu sĩ.
Trưởng Lão: Thầy sẽ đi cái này. Bởi vì Thầy nói, Thầy tập trung… Đọc cái bộ Đạo Đức Nhân Quả của Thầy, Đạo Đức Nhân bản - Nhân quả của Thầy người ta sẽ giật mình. Thầy nói nhân quả, Thầy phá vỡ, Thầy không nói về quá khứ, Thầy chỉ nói hiện tại, cái nhân quả của hiện tại. Mà nhân quả hiện tại chúng ta giải quyết được thì đời sống của chúng ta an lạc. Thầy không cần nói cái chuyện mù mờ đó.
Sư Tuệ Tĩnh: Xét cái Khổng Tử, nó truyền bá cùng hết trơn hết trọi mà đâu có chùa chiền gì nhiều đâu.
Trưởng Lão: Khổng Tử không có chùa, mà truyền cái đạo đức cho người ta, người ta sống…
Sư Tuệ Tĩnh: Khổng Tử rất mạnh, nó thích hợp, mà nó lưu truyền hoài. Trong khi Phật giáo mình không có được cái đường hướng đó. Giờ mình phải làm sao?
Trưởng Lão: Cái đạo đức nó nằm đâu- Cho nên Thầy triển khai cái Đạo Đức Phật giáo. Mà Đạo Đức Phật giáo thật ra, đúng là đức Phật dạy đức hạnh, nhưng mà người ta không lưu ý. Người ta chỉ lưu ý thiền định, lưu ý cái cao siêu, nó đẻ ra, nó đi về, nó xa vời cái đời sống con người quá, thành ra biến thành mê tín thành ra Phật giáo nó thành ảo.
Nhưng mà đạo Phật rất thực: "Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành”, Đạo Đức rõ ràng mà. "Ngăn ác, diệt ác - sanh thiện, tăng trưởng thiện", rõ ràng là dạy Đạo Đức mà. Cái đó là Đạo Đức chứ còn cái gì nữa. Mà đạo đức không quân tử, chỉ làm cho mình được giải thoát. Người ta làm lợi ích cho mình, lợi ích cho người rõ ràng.
Như vậy mà không triển khai cái này mà dạy người ta ba cái cúng bái không à. Đến chùa làm cái chuyện mê tín.
(30:02) Sư Tuệ Tĩnh: Con thấy phát triển cái này nó hay. Tại vì bên Hòa Hảo đó Thầy, ở bên đó cũng chủ trương là bên cư sĩ nhiều hơn là tu sĩ, chủ trương cho người cư sĩ theo đạo Phật nhiều hơn khi mà làm tròn Thập Thiện đó, còn tu sĩ thì có cứu cánh. Con có đọc hai phần này. Còn trong khi đạo Phật thì không có chương trình này. Chương trình đi vào cuộc đời với Đạo Đức Nhân Quả mà phát triển mạnh thì nó sẽ ảnh hưởng lớn hơn Phật giáo nhiều lắm.
Trưởng Lão: Không, khi mà đọc sách của Thầy rồi thì quý sư thấy rõ ràng là nó sẽ đi vào đời rất mạnh, vào đời rất thực tế. Nghĩa là đức Phật xác định rất rõ mà. Mình là con thú hay là con người đây! Có vậy thôi.
Sư Tuệ Tĩnh: Nhưng mà cái thế đi vào cuộc đời nó phải có ai làm, chứ đi chệch hướng là nó không có phát đó Thầy
Trưởng Lão: Bởi vì, cho nên nó còn suy tư nhiều lắm, bởi vì vấn đề này chưa có ai làm, mà mình làm là cả một vấn đề, nó đòi hỏi ở cái điều mình làm rất là, phải nhiều cái công sức dữ lắm.
Sư Tuệ Tĩnh: Cũng như ngày xưa Ông Ngô Đình Nhu muốn phát triển cái thuyết Nhân Vị cũng trật hướng cuối cùng cũng xẹp luôn. Khổng Tử tự nó lưu truyền, người ta tự theo làm luôn chứ không có ai..
Trưởng Lão: Nó thấy có lợi ích, lợi ích thật thì nó sẽ phát triển. Cũng như bây giờ Thầy không có cần nhiều mà mỗi người khi nghe Đạo Đức Nhân Bản, họ sống, Thầy nói mười, họ sống một, hai thôi, mà họ thấy được cái lợi ích đó thì lần lượt, họ sẽ làm được.
Sư Tuệ Tĩnh: Phải mười mấy năm nay Thầy phát động cái chương trình này thì hay quá.
Trưởng Lão: Thầy sợ đụng.
Phật tử 2: Bên Đạo Đức Nhân Quả thì đâu có đụng với ai.
Trưởng Lão: Nhưng mà không được, bởi vì người ta đang mê cái đó mà mình không đập cái mê trước…
Bởi vì Thầy đưa cái Đường Về Xứ Phật Thầy đập; Ngày xưa Thầy viết bộ Đường Về Xứ Phật, Thầy đập ở trong kinh sách; Thầy đập tan nát ở trong đó hết, Thầy không dám đưa ra.
Bây giờ Thầy mượn cái câu hỏi của người ta mà Thầy đập nó, đập cho xẹp cái này xuống, mới đưa cái Đạo Đức này để phá vỡ cái đạo đức mê tín. Phải biết cách mà làm chứ còn không biết, cho nên đâm ra họ bán tín bán nghi, nhưng mà đưa ra cái Đạo Đức Nhân bản này thực tế hơn.
(32:15) Sư Tuệ Tĩnh: Sách vở của mình ít người biết thưa Thầy, Thầy in ít quá, vấn đề truyền bá không có mạnh mẽ
Trưởng Lão: Cái giai đoạn này là giai đoạn mà thiên hạ nhắm vào Thầy, nếu mình phát triển ngay lúc này là chưa. Bởi vì khi nào mà Thầy chuẩn bị cho xong rồi, Thầy mới được yên. Nghĩa là sách Đạo Đức mà xong rồi, bắt đầu bấy giờ có mấy sư mà tu hành được rồi thì bắt đầu phổ biến. Phổ biến, nghĩa là bao nhiêu tiền Phật tử họ đổ dồn, họ phổ biến ra rộng hết, mọi người dân, người nào cũng biết. Nhất là sách Đạo Đức, Thầy nói phát không, cho người ta đọc. Đọc hay không đọc, kệ! Cứ cho hết. Cho rồi không lẽ họ đem đốt, phải không? Bây giờ không được…
Sư Tuệ Tĩnh: Vấn đề Diệt Thọ Tưởng Định, hồi đó con nghe, Diệt Thọ Tưởng Định như cây đá có lợi ích gì, vô đó ngồi như gốc cây, đụng không biết đau, không biết suy nghĩ, không biết gì hết trơn. Thành ra có Sư cô kia, cô vo gạo, cô cũng “vô cái đó”, cô quên. Cô bóp gạo nát ra cũng không biết gì, cái đó là vô Diệt thọ tưởng rồi đó. Họ tuyên truyền là Diệt Thọ Tưởng Định là cái dở, của ngoại đạo không hay. Cô nói với con vậy đó, tới bây giờ cũng sáu, bẩy năm nay con mới nhớ lại.
Sư Phước Nhẫn: Diệt Thọ Tưởng Định thì khác hơn cái Tứ Thiền của mình thưa Thầy? Tứ Thiền của mình nó khác hơn?
Trưởng Lão: Tứ Thiền của mình, đâu có làm sao… Diệt Thọ Tưởng Định là cái Định để mà giữ cái thân chơi vậy thôi, chứ có ích gì.
Sư Tuệ Tĩnh: Họ hiểu rằng, họ tuyên truyền, họ nói cái định đó nó không có hay, nó có nhằm cái gì, họ nói vậy đó
Trưởng Lão: Nó thuộc cái định, nó coi như là trên cái… Nó diệt cả Thọ với Tưởng của mình, thành ra nó thuộc về Ý hành..
(34:08) Sư Tuệ Tĩnh: Họ nói là như cây đá vậy thôi, không biết gì hết trơn, ngồi như khúc cây, như đá vậy.
Trưởng Lão: Đúng rồi, giống như cây đá, không còn cái thức, không còn hướng tâm, không còn gì hết à.
Sư Tuệ Tĩnh: Họ nói với đệ tử vô đó làm chi mất công, mất thì giờ, đâu có làm gì
Trưởng Lão: Thì cái đó, người đó nhập chỉ có, bây giờ chỉ có biểu diễn Thần thông chơi vậy thôi, để coi từ trường của cái người đó mưa gió không ướt, nắng không có xâm thực được cái thân người đó, cọp không ăn được, kiến không bò cắn được. Thực hiện Thần thông chơi vậy thôi. Nó chỉ là cái huyễn hoặc thôi chứ không có gì. Điều cái chuyện người ta làm được vậy, đâu phải chuyện dễ đâu, Thầy nói thiệt, đừng có nói, mà nói..
Bây giờ sư cô đó nhập được Diệt Thọ Tưởng Định rồi, sư nói thì Thầy chấp nhận sư nói huyễn hoá, phải không. Cũng như ông Phật ông có nói là Thần thông ký thuyết, Thần thông biến hóa là huyễn hóa - nhưng mà ta nhập, ta có những Thần thông này hết, chứ không phải ta không có.
Còn mình không có, mình nói, coi chừng mình chưa biết mà chê thì không được. Cũng như, Thầy nói nó huyễn hóa, Thầy không làm đó. Được! Thầy làm thì được cho nên Thầy nói được.
Còn các sư mà nói huyễn hóa thì không được đâu, vì các sư làm không được. Đừng có nói huyễn hóa. Cả vấn đề của người ta chứ đâu có thường.
Sư Tuệ Tĩnh: Cũng như mình nói xấu người ta..
Trưởng Lão: Họ tuyên truyền vậy chứ họ đâu có biết được. Thật sự ra Thầy nói cái mà mình làm được rồi, mình mới biết mình chê cái đó. Còn cái này bắt chước Phật chê.
Sư Phước Nhẫn: Cái đó cô kia, cô nói đúng đó.
Sư Tuệ Tĩnh: Bởi vì ở ngoài họ có biết gì đâu, họ nhìn vô cái bình diện ở ngoài nè, họ nói Diệt Thọ Tưởng, thọ không có, tưởng không có…
Trưởng Lão: Mất cảm giác hết…
Sư Phước Nhẫn: Ở đây Thầy dạy Tứ Thiền…
Trưởng Lão: Tứ Thiền, nó cũng mất hết, nhưng hướng tâm nó ra, hướng tâm nó ra…
Sư Phước Nhẫn: Nó có khác hơn…
Trưởng Lão: Nó có khác hơn, nó đâu có mất. Bởi vậy nó như gộc cây, nó đâu có biết gì, người ta, mấy người đừng có nói chuyện. Tôi hướng ra, mấy người đi, ở đâu tôi cũng biết hết, chứ đừng có nói.
(36:05) Sư Tuệ Tĩnh: Mình chê "không niệm thiện niệm ác" thì như cây đá, họ bắt đầu quậy ngược lên, họ tưởng Diệt Thọ Tưởng Định như cây đá…
Trưởng Lão: Mình có chấp nhận Diệt Thọ Tưởng Định đâu, mình đâu có chấp nhận Tứ Thiền nữa đâu…
Sư Tuệ Tĩnh: Tứ Thiền họ không có nói, mà họ nói cái đó cho con nghe
Trưởng Lão: Mà mình chỉ, bởi vậy đức Phật rõ ràng… Thầy nói Thần Thông Giáo Hóa là "ly dục ly ác pháp", chấp nhận cái này, Đức Hạnh. Nói "ly dục ly ác pháp" thì nó không làm khổ mình khổ người rồi thì chấp nhận cái Thần thông này. Chấp nhận cái loại thần thông này.
Từ cái Nhị Thiền cho đến Tam Minh là không chấp nhận, có phải không? Con đọc lại cái tập I của Thầy, đúng không, đâu có chấp nhận, Thầy không có chấp nhận. Cho nên đối với Thầy, thần thông Thầy không thể hiện. Nhưng mà khi cần thiết, có người có Thần thông rồi, mấy người đến đây muốn đòi hỏi cái gì thì cũng có hết. Còn mấy người chưa có thần thông thì Thầy không làm cái chuyện tầm bậy đó đâu.
Sư Tuệ Tĩnh: Nói vậy là phát triển cái Đạo Đức Nhân Quả phải qua Đường Về Xứ Phật mới được?
Trưởng Lão: Phải qua trước, qua trước, đập cái sai của nó. Chứ không, nó nói nó đúng. Còn cái này chỉ là sơ đẳng, nó coi Khổng Giáo như đồ bỏ. Đại thừa nó coi Khổng Giáo ra gì, nói nhân Đạo… Cho nên nó nói Nhân Đạo, rồi Tiên đạo, rồi Phật Đạo mà. Rõ ràng nó kê Ông Phật lên…
Sư Tuệ Tĩnh: Cái này cũng theo bình thường, cũng có lý, như hồi đó con cũng gặp cái này. Con gặp Sư Ân, Sư Ân kêu con đi tu. Ông này lúc ổng chết để xác lại. Ổng mới nói kêu con đi tu, con nói làm người chưa xong làm sao làm Thánh được mà đi tu. Để con làm người cho tròn cái đã. Cái ổng nói nếu mình tu là đã tròn bổn phận làm người rồi. Con không hiểu, bây giờ mới hiểu. Hồi đó mình ở ngoài đời mình không biết, muốn làm Thánh phải học đạo làm người trước mới tròn, cũng như học tiểu học, rồi trung học. Giờ mình diện mà mình không biết đạo thì mình cũng y vậy, mình làm người như Đạo Khổng, mình làm còn không xong làm sao mình làm Thánh được.
Trưởng Lão: Bởi vậy bây giờ mình mới thấy rõ nè. Từ hồi nào họ dung hợp ba tôn giáo lại: Khổng này, rồi Tiên, rồi Phật. Nhất là Thiền sư Vạn Hạnh ngày xưa Ngài dung Tam Thế, tức là dung ba tôn giáo lại. Do đó cái ảnh hưởng này vẫn có. Trong Phật giáo cái Đạo Đức của Phật giáo không phải là cái đạo đức của Khổng Giáo.
Đạo Đức Khổng Giáo thuộc về đạo đức phong kiến, đạo đức Quân Tử, cho nên nó bắt buộc "Tam Cang Ngũ Thường". Ông cha nói bậy cũng phải nghe, ông vua nói bậy, ông vua hôn quân, nói bậy cũng phải trung, chứ không có… Còn Tam Cang Ngũ Thường bắt người phụ nữ thật sự… Thầy nói nó mất cái bình đẳng, cái tự do của con người hết. Mất cái Đạo Đức Nhân Bản, xét đạo Khổng nó mất… Nhưng mà mình không muốn động chạm đến người ta, mình không nói. Mình chỉ nêu cái Đạo Đức của đạo Phật.
Nhưng mà nhờ vậy cũng đỡ, hồi đó cũng nề nếp lắm, chứ không là thành con thú hết.
Sư Tuệ Tĩnh: Cái đó làm ra để cai trị..
Trưởng Lão: Thì mới nói là đạo đức phong kiến mà, nó nói gì "Tề gia - Trị quốc - Bình thiên hạ". Cái đạo đức nó chế ra, trong khi đất nước Trung Hoa loạn lạc nên mới chế ra cái đó.
Sư Tuệ Tĩnh: Chế ra để trị dân chứ không phải đạo đức.
Trưởng Lão: Không phải đạo đức, thành ra mình thấy nó sống những cái đức hạnh "Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín”, nó hay mà, nên mình thấy đây là đạo đức. Chứ thực ra nó chế cái này ra để…
Sư Tuệ Tĩnh: Con thấy cái đó rất hay. Làm cho hạ tầng nó ổn, ông vua mới nắm được: "Quân xử Thần tử, Thần bất tử bất trung". Thành ra ông vua nói vậy là bao nhiêu thần dân nghe hết.
Trưởng Lão: Nó nghe…
Sư Tuệ Tĩnh: Trước khi nghe ông vua thì dưới này phải êm hết trơn, thành ra hay quá, chứ không phải Đạo Đức Nhân Quả, mà là đạo đức cai trị
Trưởng Lão: Đó, đó đúng là nó không phải là Nhân Quả. Thầy gọi là Đạo Đức Quân Tử. Thôi bây giờ nghỉ, Thầy đi ra ngoài kia Thầy thăm thầy…(40:22)
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 26
PHÁ HÔN TRẦM & LƯỜI BIẾNG
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [46:15]
Thời gian: 2002
Tên cũ: 14A-PhuocNhanTrinhPhap-ThayDayPhaHonTram
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-26-pha-hon-tram-va-luoi-bieng.mp3
(00:00) Sư Phước Nhẫn: Nửa tháng vừa rồi đó, cái kỳ tịnh thất vừa rồi, thấy cái tâm an ổn lắm. Đi kinh hành con thấy, có bữa con ngồi bằng thế này tự nhiên cái hơi thở nó chủ động, bình an lắm. Nó tự nhiên vô ra, vô ra chứ mình không chủ động, được khoảng mười lăm, hai chục phút, con định làm một hơi luôn nhưng thôi. Cái thân mình, con an lạc hơn mọi lần, như mọi lần tu mấy phương pháp khác thì nó không có.
Bây giờ thì phương pháp đó nó được, con có thấy mọi lần mà xin Thầy pháp khác tu thì nó không được. Mà thân, khẩu, ý thì thấy ôm pháp tu được rồi, hồi đó tu nó cứ quên hoài. Bây giờ thì nó nhớ, nó nhớ, nó nhớ hoài, nó tỉnh, nó thỉnh thoảng nó cũng quên vậy, chứ không phải không quên, nhưng mà nó nhớ.
Trưởng lão: Nhớ nhiều hơn.
Sư Phước Nhẫn: Nó nhớ nhiều hơn, được cái là nhớ mình nhắc, nhớ mình nhắc, nói thiệt là con cũng mừng cái khoản đó. Nhưng mà cái tạp niệm nó cũng bớt. Con đi thử một tiếng đồng hồ coi, cái con cầm cây chổi con quét. Tính quét thử coi nếu không có tạp niệm thì thực hiện thử sáu lượt, mười hai lượt rồi trở lại. Đi ba ngày sao nó nhức cái đầu quá, vậy chắc ức chế rồi, về sau con không có đếm nữa, không đếm, ngưng. Tại vì mình đếm mình biết thì mình mới ‘bắt chuột’, ‘bắt chuột’ mà cố gắng bắt thì chắc có lẽ như bữa nay cho nên thôi. Muốn bắt chuột thì ra bắt, ra bắt chứ không có đếm. Con sợ, quãng ‘bắt chuột’ thì nó nhức đầu.
Trưởng lão: Đừng có tập trung.
Sư Phước Nhẫn: Dạ.
Trưởng lão: Đừng có gom, vì mình gom phải tập trung để đếm.
Sư Phước Nhẫn: Thấy mỗi niệm nó lên con đếm một cái, cứ mỗi lần một cái, mỗi lần một cái.
Về sau không có lần nữa, nó không có nhức đầu, nó không nhức đầu đó thì cũng mừng rồi. Cái phóng dật nó cũng bớt, rồi cái tà niệm cũng bớt.
Cái tinh tấn, tinh tấn như Thầy nói, tinh tấn thì tự nó tăng. Tự nó muốn lên, mình thấy là tự nó siêng chứ mình không có siêng, chứ còn mình siêng. Với mình nhác (cái) nó đẻ ra.
Trưởng lão: Nó vậy à.
Sư Phước Nhẫn: Nó nhác vậy đó, nó tự nhiên nó ngán, đó.
Cái mừng của con là bây giờ là mình biết coi cái nhác của tâm, nhiều khi nó mất sợ mình chìm, chìm chết queo. Sợ là sợ kiểu đó.
(02:31) Trưởng lão: Hôm nay Thầy nghe mấy cái đó Thầy mừng lắm.
Thứ nhất là cái tỉnh, thứ hai là biết cách ôm pháp, nó tỉnh là ôm pháp được, mà nó không tỉnh nó quên, nó làm chút cái quên, quên. Rồi cứ lâu mình nhớ lại mà tại nó quên, tại nó chưa tỉnh. Đó cái đó khó lắm chứ không phải dễ đâu, mà nó qua được, nó được chút chút là rất là nhẹ. Cho nên…
Sư Phước Nhẫn: Có cái lúc ăn cơm còn tạp niệm nhiều, con để cái bảng ngay trước mặt lên đó, cái mình ra dọn cơm ăn mình dòm nó cái, cái mình nhớ cái mình không tạp niệm nữa.
Trưởng lão: Quên đó, nó thiếu tỉnh thức rồi nó không còn …
Sư Phước Nhẫn: Để cái bảng nhiều khi mình, mấy bữa ăn cơm sao nghe tạp niệm nhiều, bây giờ dòm, mọi lần thì cơm vừa ăn mình biết ăn, còn giờ không có tập cái đó ức chế nữa, cái nó quên, nó không nghĩ tầm bậy, tầm bạ, tùm lum hết chỉ có cái câu để trước mặt vậy đó để nhắc.
Thỉnh thoảng nó nhắc cái con dòm con nhớ lại. Nhưng mà bù lại cái đó nó gặp cái trở ngại cũng hơi nặng đó là nó buồn ngủ. Nó buồn ngủ nửa tháng nay, tối con đi, bảy giờ nó buồn rồi. Đi tới chín giờ, con đi con quơ tay, quơ chân cho nó xuất mồ hôi, xuất mồ hôi mà cũng không hết buồn ngủ, ráng đi tới mười giờ nó cũng buồn ngủ nữa, mà lên giường nằm không ngủ.
Buổi chiều, là nó bốn, năm giờ … bốn, năm giờ chiều nó gục, con chạy, chạy tới chạy lui cho thiệt là mệt, rồi buông ra cũng buồn ngủ, kỳ cục vậy đó. Thầy nói đi kinh hành nó bớt, mà nó buồn ngủ là buồn ngủ nên hễ con vô là con ngủ. Hễ mình ngủ sớm thì sợ nó quen, nó làm tới luôn. Nhớ Thầy Mật Hạnh hồi đó có quẹt dầu vô con mắt, mà mình đâu có quẹt được. Như Thầy nói, hễ buồn ngủ vô ngủ, con lên ngủ sợ nó tăng cái ngủ lên, nguy hiểm quá, thôi chừng nào mình ráng chịu không nổi mình hãy vô.
(04:33) Trưởng lão: Không, nó phải như thế này, bây giờ Thầy góp vài ý chỗ này. Bây giờ trong cái thời gian mà chiến đấu với cái hôn trầm này, nó không phải nó đơn giản đâu. Bởi vì ông Phật ông dạy Mục Kiền Liên về cái hôn trầm này, bảy cái điều kiện để mình …
Bây giờ thì mình chưa được, sau này làm đến chỗ đó mình thấy, nhưng mà bây giờ Thầy khuyên như thế này. Cái thời gian mình tu đó mình phải biết rằng khi mình dụng công mình tu, coi vậy chứ nó mệt nhọc nhiều lắm chứ không phải không đâu. Cái hôn trầm này nó do từ cái, sinh ra từ cái sử dụng công tu, coi coi tu thì nó ôm pháp vậy đó, nó tỉnh vậy đó. Nhưng mà cái sức của mình nó chưa đủ mà chiến đấu với hôn trầm, cho nên mình tu mình thấy nó có tiến bộ về cái mặt này, nhưng mà hôn trầm nó sẽ đánh bật mình ra.
Do đó mình sẽ tạo cái thời gian ngắn nhất của mình, cái tiêu chuẩn của mình trong cái thời gian nào đó thôi.
Chẳng hạn bây giờ đó, ban ngày mình cứ tỉnh táo mình tu trong ban ngày, còn ban đêm mình tu trong cái thời gian ngắn cho nó, đừng có… Thí dụ như bây giờ bảy giờ cho đến tám giờ, tám giờ là đi ngủ ha, mà giờ bảy giờ nó muốn ngủ nhất định là không cho ngủ tới tám giờ mới ngủ, nhưng mà mình đừng tới mười giờ. Phải hiểu chỗ đó, cái sức của mình tới mười giờ.
Ban ngày mình quần nó quá trời rồi, ban đêm mình quần nó nữa là nó sẽ bẻ ống mình. Nó lộn nài tháo ống mình lại, nó sẽ đánh cái ngủ này, mình đi nó cũng ngủ nữa. Thì nói kiểu đó Thầy biết rồi, đi nó cũng ngủ nữa, nó lảo đảo, lảo đảo.
Sư Phước Nhẫn: Đi như say rượu Thầy.
(06:11) Trưởng lão: Đó nó vậy đó, nó lảo đảo vậy đó. Bởi vì nó đánh ngược trở lại mình rồi, Thầy biết là cái này không có được đâu, sai rồi. Bây giờ đó ban ngày đó, mình thấy mình nỗ lực mình tu, mà ban đêm thì mình lui cái giờ lại, đừng có giữ.
Thí dụ như từ bảy giờ đến mười giờ ha, mình không, mình không tới mười giờ đâu, bảy giờ, tám giờ thôi, tao cho mày, mà khi mà mày thức rồi nhất định tao không nằm. Tao không nằm, tao tu, tao cho mày, mày đánh vậy, nhưng mà cái giờ giấc tao giữ đúng cái giờ giấc. Tao lui lại tao thua mày, tao lui lại nhưng mà hễ mày không ngủ thì tao bắt mày phải tu, tao không để cái thời giờ lỏng lẻo này đâu. Còn mày muốn ngủ mà trong cái khoảng giờ này, mày muốn ngủ tao cho ngủ hồi nào cũng được hết, mày cứ ngủ đi. Mà nếu mày không ngủ tao bắt mày tu, có vậy thôi. Thì sư sẽ chiến đấu, bởi vì coi như là mình canh nó không nổi đâu.
Bởi vậy Thầy nói ăn thì dễ, chứ cái ngủ nó khó rồi đó, rồi tới độc cư nó khó nữa. Bởi vì cái này nó thuộc về ức chế nó. Nếu mình ức quá không được, ức vừa thôi, thì bắt đầu bảy giờ, bây giờ thường thường nó tới bảy giờ, mọi lần tới bảy giờ nó buồn ngủ rồi, mà giờ vừa tối thì nó bắt buồn ngủ rồi, được rồi tao sẽ chiến đấu với mày khoảng này. Nhưng mà khoảng này mà nếu mày vô mà tao cho mày ngủ, mày không ngủ thì tao bắt mày tu. Cứ như vậy đấy mình chiến đấu cũng như là mình, cái lực của mình, mình chưa có đủ mà chiến đấu với cái ngủ đâu.
Cho nên mình đánh nó bằng du kích, chứ mình không có đánh nó bằng cái hiện đại với nó được. Nghĩa đánh hiện đại là bây giờ tao cho mày từ bảy giờ đến mười giờ, hai giờ tao dậy tao đánh mày cho tới sáng, thì mình đánh hiện đại không nổi đâu. Cho nên diệt bằng bắn sẻ thôi, bắt đầu bây giờ tao cho, tao cầm cự với mày canh dần, một tiếng đồng hồ thôi từ bảy giờ đến tám giờ. Mình phải thấy cái chiến thuật của mình, mình còn sức yếu, mình chưa đủ cái sức tỉnh mà đánh nó đâu.
(08:04) Cho nên về hôn trầm, về buồn ngủ đó là mình phải lui trở lại. Khi mà nó đánh mình thấy mình đi kinh hành mà mình chạy nó còn không hết, mình đi kinh hành đó, thôi đừng, đừng, đừng, bắt đầu mình lui lại, mình lui lại.
Còn khi mình chiến đấu mà trong khoảng thời gian mình ước chừng trong một tiếng đồng hồ này, mà nó cứ buồn ngủ hoài, ví dụ bảy giờ cho đến tám giờ mà lúc này sao nó buồn ngủ dữ tợn, thì như vậy là trong khi đó đến giờ Thầy phải hỗ trợ nó. Thầy bắt, Thầy bắt đi kinh hành, bắt ngồi ở đây, Thầy ngồi đây nó hoảng hồn nó chạy à, coi vậy nó chạy mất à.
Nhưng mà mình chiến đấu trong giờ thôi, cũng như Thầy bắt thầy Mật Hạnh mà. Thầy biết rồi, nhưng mà lúc đó Thầy ép thầy Mật Hạnh, vì vậy mà Thầy thấy coi như thầy Mật Hạnh xanh xao, mất ngủ xanh xao, ốm còn có bộ xương thôi, Thầy thấy nguy hiểm quá. Khi mà Thầy rút tỉa kinh nghiệm rồi, không được, bởi vì cái sức tỉnh người ta không có mà cứ ép buộc quá. Thầy ép buộc suốt đêm mà. Thầy thì tỉnh táo, còn thẩy thì chịu không nổi, cho nên thẩy xanh xao. Coi như là nếu mà tuổi lớn như sư là chết chứ không nổi, bệnh đó. Còn bởi vì nó còn tuổi trẻ đó, nó còn khỏe nhưng mà nó chao đảo hết.
Cho nên ai mà nghe Thầy nói, Thầy mà phá hôn trầm cho Mật Hạnh người ta sợ hết. Đó, bởi vì nó tới chừng nó buồn ngủ rồi đi nó lảo đảo, nó đảo như say rượu, nó khó lắm chứ không phải dễ đâu. Bởi vì gặp cái mặt ông này rồi thấy sợ ông đó lắm chứ không phải dễ đâu.
Cho nên ông Mục Kiền Liên đó là một bậc mà đệ nhất thần thông của ông Phật mà còn phải ngán. Còn cái ông A Na Luật, cái ông mà đệ nhất thiên nhãn đó, ông tu đến nỗi mà, ông thức tu, ông thức mù mắt đó. Là tại thức đó mà đến mù mắt đó, nghĩa là không biết cách thức ông tu như thế nào mà cho đến ông không thấy đường. Cho nên ông may mà ông không thấy đường xỏ kim, ông vá y ông mặc.
Vì vậy chúng ta biết nó không phải dễ đâu, chúng ta đừng có vội quá, đừng có tu như vậy là nguy hiểm cho cơ thể chúng ta, chúng ta không có chiến đấu vậy, mà chúng ta lui lại. Sư bây giờ chọn lấy từ bảy giờ cho đến tám giờ. Đúng tám giờ là mình chiến đấu trong khoảng này, cái sức kịch liệt của mình chiến đấu nó nổi, nó không đến nỗi đánh mình lảo đảo đâu. Coi vậy nó buồn ngủ nhưng mà đi kinh hành, cái sức mình đi kinh hành mình quen rồi, bấy giờ thì không đến nỗi đâu.
(10:28) Mặc dù bây giờ, nó chưa đến nỗi lảo đảo đâu, nó quá cái giờ đó rồi nó lảo đảo đó, từ bảy giờ cho đến tám, từ tám giờ đến chín giờ, mười giờ lúc bấy giờ, khoảng từ mà chín giờ đến mười giờ là đi coi như nó ngủ trong bụng rồi. Nó ngủ mình không hay đâu, nó ngủ ở trỏng mà mình đi thì đi chứ nó ngủ, nó ngủ. Hai cái, cái đi nó đi mà cái ngủ nó ngủ à, nó không có chịu, nó không chịu ấy đâu.
Sư Phước Nhẫn: Nó quên pháp hướng hả Thầy
Trưởng lão: Nó quên hết, nó không… Bởi vì nó… Trời ơi! Nó không có còn cái gì ở trong cái đầu óc mình hết à, nó ngủ hà. Nghĩa là ngồi nó cũng ngủ, mà đi nó cũng ngủ, mà làm cái gì nó cũng ngủ hết, tại vì nó ngủ rồi, hồi đó nó vậy đấy.
Cho nên vì vậy đấy, mình lui trở lại, mình đánh cái lúc này, cái sức mình còn chiến đấu tỉnh được, tức là bảy giờ đến tám giờ. Còn nếu cái sức của mình nó khá hơn thì mình chiến đấu từ bảy giờ đến chín giờ. Nó vậy đó. Còn cái sức mình yếu thì mình lấy một giờ làm chuẩn thôi, phải chiến đấu với nó từng chú,t từng chút.
Mà nếu mà không được nữa thì chỉ còn nhờ cách thức có Thầy hỗ trợ, không sao đâu có Thầy không phải lo, Thầy đánh cho được một giờ chủ động. Sau đó mình đánh như vậy nó ớn, chứ còn mình không đánh nó muốn buồn ngủ mình đi ngủ rồi, coi chừng nó sanh lười biếng lắm. Hễ nó sai mình cái mình chạy nằm đó thì, kiểu đó là mình thua nó rồi.
Còn này tao cũng chiến đấu mày, vì tao biết cái sức của tao không thế nào chiến đấu với mày dài được, cái lực lượng của mày mạnh lắm. Cho nên tao chiến đấu mày, tao cầm cự với mày trong lúc đó thôi, bây giờ tao là tao rút lui tao chạy cái đã, nhưng mà tao có chiến đấu chứ tao đâu có thua. Rồi bắt đầu bây giờ đó cho mày đi ngủ, mà mày không chịu ngủ, mày dậy là tao bắt mày, tao bắt bắn sẻ mày ở trong cái dạng mày buồn ngủ này, tao bắn sẻ mày hết. Đụng mày mà ở chỗ nào mày ngủ ngon thì thôi chứ mày mà hở ra một chút là tao bắn mày liền, tao không có để.
Cho nên du kích đánh nó đó, ở trong cái đó, đánh riết nó tiêu, mà nó không có lảo đảo. Rồi bắt đầu chúng ta đánh sẻ nó riết, cái bắt đầu nó phải theo giờ giấc nó chỉnh lại, nó không ấy. Bởi vậy Thầy nói cái hôn trầm nó khó lắm, nó bắt đầu đó mình tỉnh thức rồi đó, bắt đầu tới chừng, bắt đầu từ bảy giờ đến mười giờ bắt đầu nó không có buồn ngủ nữa rồi. Rồi bắt đầu bây giờ lên, bởi vì mình tỉnh được cái này rồi nó không buồn ngủ, mình lên nằm nó cũng không ngủ luôn.
(12:44) Nó không ngủ luôn mà nó đợi lúc mà gần hai giờ đó, một giờ rưỡi hai giờ mình sắp sửa dậy, trời nó ngủ ngon lắm, nó ngủ quên. Chuông đồng hồ reo cũng không chịu dậy, nó không nghe, nó ngủ ngon lắm. Nó ngủ lúc bấy giờ nó đánh mình nó ngủ để cho mình quên luôn, nó kéo dài tới ba giờ, lúc đó mới mình mới giật mình thức dậy coi đồng hồ. Trời ơi! Ba giờ, chuông mình để sao nó không reo, mình phải ngủ mê không?
Bởi vậy ở đây đó, hầu hết là Thầy gặp trường hợp này hết, nghĩa là chúng ở đây bị hết, coi như là bị những trường hợp này. Bởi vì ngán, ngán, chống cho được cái này, tới chừng đó gặp lại nó tỉnh luôn thì lại nó không tỉnh, mà tới giờ mình sắp sửa dậy công phu giờ khác là nó đánh trật hướng, làm cho giờ trật. Nó đánh cho mình thời khóa nó không đúng đâu. Nhưng mà Thầy hướng dẫn cách thức họ, cái họ phá được, nó phá được.
Thí dụ như nó muốn ngủ đó, mình đừng có lén trốn đừng có gì hết. Mà mình chấp nhận trong cái thời gian chiến đấu nó, rồi trong thời gian cho phép coi như mình có lệnh cho mà, có vậy thôi. Chứ còn mình không có lệnh mà mình, bây giờ buồn ngủ quá mình phải ráng cho tới cái giờ này mới đi ngủ. Thì trong cái khoảng này, mình ngồi đâu nó ngủ gục đó hay hoặc này kia hoặc mình ráng mà nó cứ ngủ. Ở đây có nhiều chúng đó, trong khi mà buồn ngủ quá vậy đó. Trời! Hồi đó Thầy cho ra tập thể ngồi, ngồi để phá hôn trầm họ chịu không nổi, họ ngồi đó họ ngủ hay hoặc là họ cũng ngồi mà họ ngủ. Rồi họ có nhiều người, họ lén, họ chui, họ trốn, họ ngủ.
(14:12) Coi như thầy Trí Tánh ở dưới Cao Lãnh, ông buồn ngủ quá, ông chịu không nổi, ông giả đò ông nói đau bụng, ông về thất ông ngủ. Ông nói đau bụng, đau bụng rồi đi cầu, đi cầu rồi ông về thất ông ngủ, ông ngủ rồi tới chừng nữa thì sau này ông mới nói. Chứ còn Thầy thì Thầy nói thôi kệ, sai vậy thì sai vậy chứ bây giờ Thầy nói gì…
Sau này khi mà ông sắp sửa ông về Thầy nói: “Tại vì thầy không có nỗ lực, ráng, không có hỏi Thầy kỹ để mà bảo riêng.” Như sư mà không hỏi, rồi sư lén sư ngủ hay hoặc này kia hoặc là sư cố chiến đấu nó, cơ thể sư sẽ bị bệnh. Chiến đấu đi lảo đảo ráng đi, đi riết rồi nó nhức bên đây, nó nhức bên kia, nó nhức bên nọ thân thể mình nó nhức mỏi. Coi vậy chứ phá cái ngủ rồi nó mỏi, uể oải lắm, nó…
Sư Phước Nhẫn: Nó rêm mình.
Trưởng lão: Nó rêm đó. Phải hiểu chỗ đó. Mình chiến đấu với nó coi nó đánh cái thọ của mình dữ lắm, thân này khổ lắm! Cho nên vì vậy mình lui đi, rồi mình ngủ đi, rồi hễ nó không ngủ thì mình tu.
Nhưng khi mà nó không ngủ nó có tật lười biếng, phải nhớ là nó có tật lười biếng. Nó nằm đó nó tỉnh chứ mà nó không chịu dậy đâu, nhất định bắt nó dậy. Bắt nó dậy rồi bắt đầu mình đi, đi kinh hành, nó tỉnh thì mình đi, mà nó buồn ngủ cho mày nằm ngủ. Thế cứ vậy thôi hoặc mình ngồi, mà mình ngồi mình ngủ thì tao cho mày nằm ngủ chứ không được ngủ ngồi, ngủ ngồi nó quen rồi nó cũng lười biếng, cứ vậy à.
Trong cái thời gian đó, sư phải lưu ý cái phần này, khi nó ngủ mà nó không ngủ, không nằm, nó làm cho mình lười biếng lắm. Nó không ngủ, nó nói nằm rồi tu, nó không có tu đâu đừng có, nó làm biếng nó dối mình. Cái tâm nó gạt mình, nó nói nằm để tỉnh thức, rồi mình cũng làm cách thức y như mình tu vậy. Nhưng mà nó lười biếng kinh lắm, nó không có tỉnh đâu, nó nằm đó chứ chập chờn chập chờn, nó không có tỉnh đâu.
(16:04) Đứng dậy đi kinh hành hẳn hoi, đàng hoàng, mày không ngủ tao đứng dậy đi kinh hành không có cho mày nằm đâu, cứ vậy thôi. Rồi bắt, hoặc là mày không ngủ, mày tỉnh tao xuống tao ngồi. Ngồi khoanh chân tao ra, rời khỏi cái giường ra, tao ra ngoài tao ngồi, tao thắp cái hương muỗi đi, tao ngồi đó muỗi không cắn tao ngồi đó, tao cho mày coi mày ngủ không? Hễ mày ngủ tao trèo lên tao ngủ, mà mày không ngủ tao làm vậy luôn. Phải đánh dằng dai như vậy đó mà thời gian sau nó tỉnh thiệt tỉnh à, nó hay lắm.
Chứ còn mình mà cứ, cũng sức tỉnh đó, mà thức đó mà không ngủ mà cứ nằm đó là nó đánh mình lười biếng, không được. Không được, mình phải xuống, xuống, xuống mà hễ mình ngồi hơi buồn ngủ, vô ngủ nữa. Tao cho mày ngồi, ngủ, ngủ tao cho ngủ, giờ này tao cho mày giờ ngủ. Nhưng mày không chịu ngủ mày phải đi ra, chứ mày không có lười biếng mày nằm đó. Mình đánh nó, mình chủ động, mình điều khiển đánh nó, thì nó sẽ chán ngay.
Bởi vậy Thầy nói đến cái hôn trầm này ai cũng ngán hết, chứ không phải… Sợ hết luôn! Nó lảo đảo rồi nó mệt mỏi. Cái người mà quyết tu đó, chiến đấu với nó chừng nào thì chúng ta lại thấy khổ chừng nấy. Cho nên nó là chướng ngại pháp, chúng ta đừng có để chướng ngại pháp. Đi mà lảo đảo, buồn ngủ mà nó làm cho mình coi nó không còn tỉnh táo thì thôi đi ngủ đi.
Vậy đó thì nghe cái lời Thầy, thầy tập, thì sau khi mà vượt qua được rồi thì thấy nó khỏe. Nó qua được cái ngủ rồi coi nó tỉnh thức kinh khủng lắm, cái này là cái trạng thái ngủ là cái trạng thái si của mình, si muôn đời đó. Mình thông minh chứ, mà nó si thật, cho nên nó tham, sân, si nó không chịu xả ra, nó si.
Chứ không phải là cái sự hiểu biết của mình đâu, cái sự hiểu biết của mình mà xả được là nó tỉnh. Mà xả không được thì cái sự hiểu biết mình không phải là cái sự hiểu biết của đạo đâu. Của đạo nó, cái sự hiểu biết của nó là luôn luôn nó tỉnh, nó kèm theo sức tỉnh để xả được cái tham, sân, si. Thì cái si của buồn ngủ nó là triền cái, chứ không phải là cái vô minh, kiết sử, mà cái này là vô minh của triền cái. Cho nên cái sự si này, mình phải phá cho sạch cái hôn trầm này, thì phá nó bằng cách như vậy đó.
(18:15) Thì mình phải tinh tấn siêng năng chỗ này, hễ nó không ngủ thì đi xuống đi kinh hành hoặc là ngồi, mà hễ buồn ngủ thì trèo lên ngủ. Cứ cái khoảng thời gian đó mày muốn ngủ tao cho mày ngủ, tao không có ép, tao không có bắt buộc ức chế mày nhưng mà mày không ngủ là mày phải tu. Coi như hai cái anh phải chọn một cái, chứ mày đừng có lý luận gì hết tao không có nghe cái lý luận mày hết à. Hễ muốn ngủ thì tao cho nằm ngủ, nghỉ đàng hoàng. Mà không muốn ngủ thì đi xuống tu chứ không có nằm trên giường.
Sợ lắm! Thầy nói, nhất là hồi thời hồi Thầy tu, Thầy sợ cái ghế này, cái giường Thầy cũng sợ nữa. Cho nên Thầy nằm đất không à, không có nằm giường Thầy nằm đất. Cho nên vì vậy đó mà, hễ thức thì tu, ngồi tu, đi kinh hành mà hễ ngủ là nằm ngủ, cho nên giờ giấc Thầy nghiêm chỉnh lắm.
Tập như vậy mà nó nghiêm chỉnh như không gì hết, bởi vì mày ngủ thì tao cho ngủ, mà mày thức thì phải tu, chứ không có thức ngồi chơi, không có thức nằm đó mà nghĩ tầm bậy, tầm bạ, không có cho nghĩ bậy bạ. Thành ra luôn luôn cứ giữ cái tâm của mình nó trong cái thanh thản, vô sự, an lạc, nó đẩy lui chướng ngại pháp. Tu như vậy mới thật tu, mà hễ buồn ngủ thì phải cho ngủ nhưng đừng có ép, ép quá không có được đâu. Thầy nói ép quá riết cơ thể nó uể oải lắm, mà tu sai nó cũng buồn ngủ nữa, bởi vì mình dụng công nhiều nó buồn ngủ à, cũng buồn ngủ thôi.
Sư Phước Nhẫn: Vậy bữa nào mà an lạc vậy, bữa nó buồn ngủ dữ dội.
Trưởng lão: Tại bởi nó riết dụng công cho nên buồn ngủ vậy.
Sư Phước Nhẫn: Vậy ngồi thấy nó khỏe ra, ngồi nhiều thì nó êm hơn. Con cũng định lui cái giờ ngủ mà như Thầy nói, cũng tính rồi nhưng mà con sợ cái con ma buồn ngủ nó tăng lên thì mình nguy chuyển quá, coi như là ráng.
(20:00) Trưởng lão: Cái cơ thể của mình nó chỉ ngủ trong mấy giờ thôi, chứ nó không có ngủ nhiều đâu. Cái sức còn thanh niên thì nó ngủ trong mấy giờ thôi, còn không nó nằm đó nó tỉnh, nó không ngủ mà nó chập chờn. Thì bắt nó, cứ hễ nó mà nó không ngủ thì mình cứ lôi dậy, lôi đầu nó dậy đi à, tu à, chớ mày không có được…
Cho nên đó là mấy cách thức mình cũng luyện về tinh tấn chứ không. Còn mình mà tu tập, mình thấy có hiệu quả, có kết quả mình ráng, mình tu nhiều cũng nguy hiểm nữa. Tu nó vừa với cái sức của mình thôi mà tu quá không được. Tu quá là gò bó nó quá, nó sanh ra cái hôn trầm buồn ngủ à, cứ vậy.
Nên nhớ là mình tu vừa sức mình, tu như chơi vậy đó thì được, chứ mà cũng như bây giờ cái sức của mình mà… Thí dụ như bây giờ cái sức của mình, bửa chừng hai chục khúc củi thôi mà mình làm bốn chục là thấy nó uể oải rồi, mà hai chục thì khỏe lắm. Cái tu nó cũng vậy, tu nó vừa sức thì nó khỏe, nó an lạc lắm, rồi mình cũng xả nghỉ chứ đừng ép nó.
Cho nên cái phương pháp kèm bởi cái phương pháp là cái pháp thư giãn đó, cái thiền, cái Định Sáng Suốt đó, tạo ra thư giãn. Thư giãn là nghỉ ngơi đó, nhiều khi mình thư giãn mình lại tu nữa thì cái đó nguy quá. Người ta không hiểu cái pháp đó, cho nên hầu hết đó người ta tu, dụng cái đó mà trở thành cái pháp tu thì nguy quá.
Thư giãn là coi như xả nghỉ, cũng như mình mần mệt mình vô mình ngồi nghỉ, cầm cái quạt mình quạt cho khỏe chơi vậy thôi đó, thì cái đó là thư giãn, tại vì mình mần mệt, bây giờ mình nghỉ. Đó như vậy, còn bây giờ mình vô …
Sư Phước Nhẫn: Để nhớ đời thành ra con làm riết, hễ làm chừng nào nó cũng ngủ chừng đấy, coi như con biết rồi. Tại vì lúc trước con cũng có tập cái này, có giờ có giấc hết trơn … nó khỏe lắm. Bắt đầu cái hướng tâm nó oải, nó mệt mỏi, nhức mỏi, sau đi ngủ, nó không có bằng cái đợt này. Đợt này nó quá cỡ, nó chờ cái buồn ngủ nó đánh, ngủ kỳ cục lắm.
Nhưng mà hễ mình, mà hễ nghỉ tu nó khỏe lại à, tu là nó buồn ngủ.
Con xin hỏi về cái pháp hướng, cái pháp hướng thí dụ như mình đi tới lui mình hướng, mình hướng thì nó không có niệm xảy ra. Lâu lâu cái mình nhắc, lâu lâu mình nhắc thì nó không có niệm, nếu không có niệm xảy ra thì làm sao mình xả tâm, cũng như mình bắt chuột, không có chuột sao bắt?
(22:38) Trưởng lão: Bây giờ Thầy mới nói như thế này để biết. Khi cái pháp hướng của mình, mình để nhờ nó để cái sức tỉnh của mình nó kéo dài, nó không có cái chuột chứ gì, nó không có chuột xen vô chứ gì thì đâu có bắt phải không?
Nhưng mà trong khi đó là tập tỉnh thức, tập tỉnh thức dùng cái pháp hướng để nhắc mình thôi. Sau đó thì cái pháp hướng nó thưa dần ra, để coi có chuột nhảy không chứ mình cứ lúc nào mình cũng nhìn chăm chăm thì chuột đâu dám ra. Nó thấy hai con mắt mình ngó chôm chôm ở cái hang của nó, nó đâu có dám. Nó nằm dưới nó dòm thấy hai con mắt mình cứ ngó chực nó thì nó đâu có dám ra phải không? Do đó đó mình phải thưa ra, thưa ra để thấy cái sức tỉnh của mình như thế nào.
Hồi đó bắt đầu đây, từ đây đi ra tới ngoài cái cầu kia, là ba pháp hướng. Bây giờ thì mình hướng một cái, sau đó mình bỏ một pháp hướng mình còn hai lần, rồi bắt đầu mình bỏ mình chỉ hướng có lần, đây bước sang tới bên kia có một lần, mình coi thử coi từ đây ra tới đó coi có nó nhảy ra không, mà nó không có nhảy ra thì mình biết sức tỉnh mình rồi.
Thì cái giai đoạn này là mình tu tỉnh thức, thì qua cái giai đoạn này rồi thì không còn tu cái này nữa. Bắt đầu tu tới cái giai đoạn khác, phải hiểu chỗ đó, chứ còn mình cứ tu tỉnh thức để bây giờ có tỉnh thức một hai giờ cũng không làm gì.
Nó tỉnh thức để đủ sức để mà nhìn các chướng ngại pháp, để xả, để có chuột mới bắt chứ. Bởi vì mình tỉnh thức, chuột nó mới vừa ló đầu ra mình chộp. Còn này mình không tỉnh thức, nó ló đầu ra nó chạy nó ăn đồ của mình tùm lum hết, nó phá nhà phá cửa mình hết rồi mình mới hay thì thôi rồi, là mình thiếu tỉnh rồi.
(24:17) Cho nên khi mình tập tỉnh thức đến cái mức độ Thầy nói, trong năm phút thôi, phải không? Cao lắm là ba mươi phút chứ không được hơn, hơn là bị ức chế. Sức tỉnh của mình coi vậy chứ ức chế tâm dữ lắm, cho nên vì vậy đó năm phút là mình có đủ sức để cho mình bắt chuột được rồi.
Cho nên khi mà có đủ sức tỉnh rồi, thì như thí dụ như thầy Thiện Thành, ông đủ sức tỉnh rồi, bây giờ ông vô đây, Thầy dạy ông tu nhẹ nhàng lắm, ông thấy thoải mái lắm, không có hôn trầm, buồn ngủ gì hết. Nghĩa là ngồi canh bắt chuột thôi, chứ không có tu tỉnh thức nữa bởi vì mình đã tu tập tỉnh thức rồi.
Cho nên bây giờ không có cần phải chú ý bước đi, không cần chú hơi thở gì hết. Mà cứ nhìn coi tất cả những chướng ngại pháp xảy ra trong tâm mình có hay không là để bắt nó thôi, để đoạn dứt nó thôi. Nó không có thì nó ở đâu? Nó không có nó ở ngoài thở chứ đâu. Nó không có thì mình đi kinh hành ở bước đi mà mình không có bắt nó vô bước đi mà cũng không bắt nó vô hơi thở.
Cho nên tu bây giờ ông khỏe lắm, ông nói: "Trời ơi! Vô Thầy dạy kỳ này sao con thấy tu giải thoát quá trời, còn ở ngoài kia nó mệt nhọc quá". Bởi vì tỉnh thức mà nó mệt lắm, nó sanh ra hôn trầm này kia rồi cũng do, còn giờ nó không hôn trầm. Nó không hôn trầm, tu tới mười giờ, mười một giờ nó không hôn trầm, mười hai giờ không hôn trầm mà khuya dậy cũng vậy tỉnh bơ à, nó không có buồn ngủ nữa.
Vô này tu nghe khỏe quá, bởi vậy Thầy mới gọi, tu một thời gian tỉnh thức rồi lại gần bên Thầy, thầy vô đây Thầy dạy thì bắt đầu bây giờ tới cái giai đoạn khác. Còn mình chưa tỉnh thức mà mình tu giai đoạn này không được, nó không được. Bởi vậy phải đi, nó có những cái giai đoạn sau này thì tới cái tập chín, thì ông hỏi Thầy như này nè, tại vì ông bị cái trường hợp này rồi mà bây giờ vô đây Thầy dạy ông, ông thấy hay quá rồi. Cho nên ông mới hỏi câu hỏi, ông muốn hỏi câu hỏi này là rút tỉa kinh nghiệm của mình để hỏi ra để giúp cho người sau người ta biết. Sau này thì có những cái bài, câu hỏi của ông cũng hay lắm, thực tế và cụ thể trên con đường tu.
(26:17) Cho nên bây giờ quý sư đang ở trong tỉnh thức, cho nên chưa dám tu cái pháp mà chỗ cái thời khóa của đức Phật mà đẩy lui chướng ngại đâu. Cái đó là cái giai đoạn người ta đã qua cái sức tỉnh rồi, người ta sẽ tu cái giai đoạn này. Còn giờ mình tu cái này để cho mình phá hôn trầm này, để mình tập chiến đấu với những cái niệm si của mình, triền cái nè. Đó, thì…
Sư Phước Nhẫn: Rõ ràng con thấy nó có cái trở ngại là mình vừa pháp hướng rồi mình lại vừa Định Vô Lậu. Hai cái vậy nó choãi nhau, một cái thì mình bắt chuột, một cái thì thả chuột, rồi con muốn hỏi Thầy. Hôm rày là con xài Định Vô Lậu nhiều quá Thầy, nhức đầu Thầy. Bây giờ mình đi kinh hành thì có niệm khởi lên. Niệm khởi lên cái mình quán, nhẹ nhẹ, nhỏ nhỏ thôi rồi mình cắt, còn niệm nặng thì mình quán. Hễ quán nhiều cái tự nhiên nó nhức đầu, cũng như con nghe Thầy, nhiều cái chú tâm vậy nó tức ngực, mấy cái đó không biết là cái trạng thái nó làm sao?
Trưởng lão: Bởi vì, cho nên trong khi đó mình tập dần cho nó quen, bởi vì mình hơi quá sức rồi. Quá sức nó sẽ sanh tức ngực. Cái gì hễ nó quá tức là rối loạn cơ thể, nó căng đầu mình là rối loạn thần kinh, nó cũng là cơ thể của mình chứ gì, mà nó thấy tức ngực hoặc này kia đều là nó do cái sự tu tập của mình nó quá. Bởi vậy mình đừng, cái đặc tướng của mình, mình đừng có vội mà phải tu đúng, kết quả đúng.
Cho nên Thầy bảo là bây giờ cái sức của mình, mình tập trung, mình tập trung để mình tỉnh thức, thí dụ như mười hơi thở mình tu mười hơi thở thôi, mình tập mười hơi thở. Chứ đừng ráng nó một phút, mười hơi thở thôi. Sau tập thời gian mình tỉnh thức được rồi, mình tu mười hơi thở rồi mình xả. Xả, mình thay đổi cái cách thức của mình là mình tu thư giãn. Biết cái sức của mình bây giờ thư giãn nghỉ thôi, mình nghỉ.
Thì lúc bấy giờ mình nghỉ, mình ngồi coi chừng mình bị tập trung nữa.
(28:03) Cho nên mình nghỉ thì bắt đầu bây giờ đó, mình lấy cây chổi mình đi quét cái sân hay này kia. Mình không có tập trung ở trong quét, mình quét để cho sạch chơi như mà một người không tu gì hết mà có làm, làm để cho nó nhẹ nhẹ, cho nó thư giãn thôi. Chứ không, mình ngồi lại nó cũng bị tập trung, bị nó quen cái tập trung đó rồi nó quen. Rồi mình đi nó cũng tập trung trong bước đi nữa thì mình làm sao thư giãn.
Thí dụ bây giờ mình ngồi mình hít thở nè, mười hơi thở nè, cái mình đứng dậy mình đi tức là mình tập trung thêm một lần đi nữa. Rồi bắt đầu bây giờ mình ngồi lại hơi thở, tu vậy mà ba mươi phút vậy thử hỏi mình tập trung mấy lần của nó rồi. Như vậy nó có nghỉ chỗ nào đâu cho nên mình phải tìm một cách khác để cho mình xả nghỉ.
Bắt đầu bây giờ mình thư giãn, mà mình chưa biết cách thư giãn, mình muốn giữ cái tâm thư giãn là mình lại tập trung nữa rồi. Nó ức chế nó lần nữa rồi thành ra đâu có nghỉ. Nghỉ là làm sao cho cái tâm mình nó trở về với cái trạng thái mà không có tu gì hết, gọi là nghỉ.
Sư Phước Nhẫn: Mấy ngày nay con cũng bị đó, mà hễ đi quét thì sợ quét là đi làm.
Trưởng lão: Nó cứ tập trung.
Sư Phước Nhẫn: Quét thì sợ là đi làm.
Trưởng lão: Không phải. Cái giai đoạn mới của mình, bây giờ mình, thay vì thì mình đang tu mà mình đi lại nói chuyện đó thì coi như mình nghỉ đó.
Mình nói chuyện người ta nói chuyện tào lao vậy chứ nó nghe nó khỏe lắm. Mình tu là không nói chuyện trong đó chứ nó mệt lắm, mà nói chuyện bậy bạ nghe nó khoái lắm. Nghe nó khỏe lắm rồi sau đó về tu bên đó ngon lắm. Còn mà mình không nói chuyện, mình tu không có được đâu, coi vậy chứ mình liên tục tập trung rồi. Cho nên vì vậy mình không lẽ đi nói chuyện với người ta, nói chuyện làm động người ta sao?
Cho nên vì vậy đó mình đi ra quét nhưng mà mình quét không được tập trung ở trong quét, bây giờ coi cái sân chỗ này dơ thì mình quét. Vậy chứ khi mình tu rồi đó, nó hay quen tập trung vô. Bắt đầu bây giờ khi tu thì tu mà khi xả thì xả chứ không có được, mình hay làm lộn xộn lắm. Tu thì bắt đầu nghĩ tầm bậy mà xả thì không chịu xả cứ tu, mới chết được chứ. Thầy nói hễ khi xả ra là hoàn toàn là mình trở về bình thường. Phải hướng tâm hẳn hoi, nhắc nó trở về bình thường, chứ mình không hướng tâm, nó cứ lo tập trung vô.
(30:20) Thì vì vậy cho nên Thầy nói, bởi vậy nó có ba cái tướng mà nhân tướng, hành tướng, đặc tướng. Mà cái đặc tướng của mình rất khó chứ không phải dễ đâu, tùy theo cái sức của mình, mình tu, mình đừng có ham tu nhiều, tu ít mà có chất lượng. Rồi gặp cái trường hợp nào nó xảy ra, bởi vì trên thân, thọ, tâm, pháp, nó bốn cái chỗ Tứ Niệm Xứ của mình mà. Nó xảy ra cái gì thì mình tu cái đó thôi, để cho mình đẩy lui cái chướng ngại thôi, còn nó không có thì coi như nghỉ là nghỉ, không có tu. Rồi bắt đầu tới giờ tu là tu, có vậy thôi, thì kết quả dữ lắm.
Bây giờ cái giai đoạn mà tỉnh thức này, giai đoạn rất khó chứ không phải dễ đâu coi vậy chứ nó khó. Tới cái giai đoạn mà xả đó thì dễ đó, cái giai đoạn đó thì coi như tu là an lạc liền tức khắc. Còn cái giai đoạn tập tỉnh thức này, mình chưa tỉnh thức mà mình xả thì không được cho nên quán vô lậu, vừa câu hữu mình vừa quán vô lậu.
Thầy giảng là Thầy giảng luôn như vậy chứ mà khi dạy … bởi vậy Thầy nói phải có thiện hữu tri thức chứ còn nếu mà mình giảng mà mình giảng có nửa chừng thì không được.
Cũng như đọc cái cuốn Thiền Căn Bản của Thầy, có ba giai đoạn chứ gì mà Thầy giảng bốn giai đoạn, người ta đọc tới đây người ta tức lắm, người ta muốn biết cái giai đoạn cuối nữa. Nhưng mà Thầy nói dạy hết cái kiểu này chắc tiêu luôn, hết không còn nữa, thôi không được. Dạy cái lớp này chưa được mà dạy tới cái lớp khác, không được. Thế mà người ta nghe hai cuộn băng đó rồi người ta muốn nghe nữa, Thầy nói không có được, Thầy nói không cho. Nhưng mà Thầy giảng cái giáo án là tại vì Thầy muốn nói hết ra, hết. Bây giờ nói hết ra bây giờ họ không biết cái nào tu, rồi bây giờ họ câu hữu kết hợp tầm bậy, tầm bạ nhau lại. Nghe Thầy ở trong đó cũng nói câu hữu họ cũng câu hữu, sự thật ra nó không phải vậy, nó từng giai đoạn. Bây giờ mình phải tu cái giai đoạn này, giai đoạn gì thì phải tu cái gì, câu hữu cái gì.
Chứ không phải kiểu mà Thầy giảng trong đó câu hữu kiểu tùm lum ở trong đó đủ thứ, muốn câu hữu cái nào, không phải đâu. Thầy nói như vậy chứ còn không phải vậy đâu. Cũng như bây giờ đọc lại cái kinh Nguyên Thủy của Phật, Phật nói vậy chứ mình không có rút ra được cái chương trình, cái cách thức mà mình tu đâu. Nó không biết từ cái chỗ dễ đến chỗ khó như thế nào, chỗ nào bắt đầu vô không biết.
(32:30) Bởi vậy mới gần thiện hữu tri thức người ta biết cái bắt đầu của mình, rồi người ta phải dò theo cái đặc tướng của mình. Cái thời gian mà tu là cái đặc tướng của mình, cái khả năng của mình nó tu ở trong thời gian nào. Người ta dò theo đó người ta đặt cho mình cái thời khóa cho nó phù hợp, chứ nó không thể nào lấy cái thời khóa chung chung kia mà đặt cho mình được hết.
Cho nên sau cái thời gian tu rồi, sư rút tỉa được những kinh nghiệm cho cái thời khóa của mình, biết giờ giấc của mình xuất trình. Là vì mình tu cái thời nào thời nào nó kết quả mình biết, mình biết rõ hơn ai hết. Cho nên sau thời gian tu rồi sư thấy mình tu nhiều bị hôn trầm, mình tu ít như thế nào, mình quá thì như thế nào thì rõ ràng hết.
Do đó sau đó trình bày Thầy, Thầy góp ý thêm cái đề mục, xây dựng lại cái thời khóa, rồi tu đến cái giai đoạn nó tỉnh thức rồi thì xả cái này, đi tới cái giai đoạn khác. Nghĩa là xả hoàn toàn không tu cái đó nữa, chứ không phải là còn tu đó nữa, không phải đâu. Cái đó qua rồi không có tập lại cái đó nữa, bỏ. Mình đã tu cái tâm mình được cái lối đó thì cái pháp đó bỏ, không tu nữa. Không tu nữa mà nó lại có cái chuẩn của nó ở đó, bởi vì cái đó tự, hồi đó mình bắt buộc nó vô, bây giờ mình không bắt buộc mà nó cũng vô đó. Nhưng mà mình không tu cái đó, tại nó vô chứ mình không tu.
(33:47) Sư Phước Nhẫn: Tại kỳ rồi con kết hợp với cái Định Vô Lậu, mình hơi rối một chút, mà tập tỉnh thức không thì nó khỏe.
Trưởng lão: Tập tỉnh thức rồi nghỉ, xả.
Sư Phước Nhẫn: Con đi kinh hành thì tỉnh thức thì năm phút, có khi được có khi không. Nhưng mà được nhiều hơn không, còn ngồi Định Niệm Hơi Thở thì chỉ được ba phút thôi, chứ con bỏ vì nó ngán, tập thì sợ tức ngực.
Trưởng lão: Sợ tức ngực. Cái đó nguy hiểm đó.
Sư Phước Nhẫn: Dạ! Con tập được ba phút, tuần này lên phút nữa là phút thứ tư. Bây giờ thì con trở lại con tập tỉnh thức thôi. Thí dụ có niệm mình khởi lên cái mình cắt, rồi mình dùng Định Vô Lậu.
Trưởng lão: Chứ không nó rối lộn xộn. Trong khi mình đang tỉnh thức, cái sức mình chưa có phải dùng Định Vô Lậu để đẩy lui nó được.
Sư Phước Nhẫn: Vậy kỳ rồi Thầy có giảng xài Định Vô Lậu đó, thành ra con cũng làm vậy.
Còn cái nữa con hỏi Thầy là cái đi kinh hành, con đi kinh hành chậm chậm vậy là tốt hay là đi bình thường trong thất tốt?
(34:39) Trưởng lão: Thí dụ như bây giờ chúng làm việc ngoài kia hết, đi xa vậy nó tốt, nó thoải mái hơn. Nhưng mà có người ta rồi mình đi không được. Có người lỡ mà, nếu có người nà,y người kia ở mà đi vậy không được. Bởi vì mình đi như vậy đó, người ta làm gì đó mình thấy rồi bắt đầu mình cũng bị chướng rồi.
(35:03) Bởi vì thí dụ như bấy giờ mình thấy cái ông này ông tu vậy nhưng mà làm kiểu này, mình thấy trật ý của mình rồi, mà trật ý là chướng ngại rồi. Cho nên mình đừng nhìn ra xa, còn mình đi kinh hành mà mình muốn đi như vậy đấy là mình giữ phòng hộ. Phòng hộ là ngó xuống mình đi, tức là ai làm gì hai bên không biết thì đi như vậy là tốt, thi đi lòng vòng … Cho nên Thầy mới làm…
Sư Phước Nhẫn: Con rút kinh nghiệm hễ con đi ở nhà đó thì nó không bị nhiễm cảnh, khỏi phòng hộ năm căn.
Trưởng lão: Rồi khỏi, mình đi tự nhiên.
Sư Phước Nhẫn: Nhưng mà đi ở nhà thì nó gò bó, nó không thoải mái.
Trưởng lão: Đúng nó vậy.
Sư Phước Nhẫn: Cái nào nó cũng có cái lợi cái hại hết trơn, nên con mới hỏi Thầy coi cái nào đi được?
Trưởng lão: Đó cho nên bây giờ muốn đi, thì ví dụ như cho bây giờ không có ai hết, mình đi thì mình đi tự nhiên thì được nhưng mà có người ta thì phòng hộ. Phòng hộ là ngó xuống, nhất là mình đi xa ra là phòng hộ là tốt nhất thôi. Mà thoải mái lắm, đi cái đường xa nghe nó thoải mái, cơ thể mình nó đi cái vòng rộng thoải mái vô cùng.
Sư Phước Nhẫn: Vậy là tốt.
Trưởng lão: Mà người nào đi ở trong khu vực mà như thế này, người nào cũng phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng của mình, mình đi mình ngó xuống không ngó hai bên. Cái oai nghi của mình nó chững chạc lắm, mình đi rồi sau này cái oai nghi nó tự chỉnh.
(36:14) Còn mình nếu mà mình không có tập luyện như vậy đó, thì coi như là sau khi nó quen cái thói quen của mình, đi ra ngó qua, ngó lại, thành ra mình đi cái vòng rộng vừa tập cái oai nghi của vị tu sĩ mà lại vừa phòng hộ mắt, tai của mình nữa, xung quanh mình không cần biết ai. Nó quen rồi, nó phòng hộ nó nhắc, cho nên đi cái vòng rộng rất hay.
Nhưng mà vì mình cái vòng rộng mà mình đi mình không phòng hộ thì không tốt.
Cho nên ở đây Thầy nhắc đi như vậy là phòng hộ. Còn ở trong thất của mình, đi tự nhiên, khỏi cần phòng hộ làm cái gì. Mình đi vòng vòng, vòng nhà mình thì khỏi cần, đi để mà xả thì ở vòng nhà là tốt nhất, thư giãn đó. Còn mình đi cái vòng kia cần phải giữ gìn, phòng hộ hẳn hoi, đàng hoàng, đi đúng oai nghi của một vị tu sĩ. Đi thoải mái, dễ chịu, đi thư thả, đi nhẹ nhàng.
Sư Phước Nhẫn: Mình tập tỉnh thức xong mình đi vòng nhỏ.
Trưởng lão: Vòng nhỏ.
Sư Phước Nhẫn: Con cũng thấy vậy đó, bởi vì mình đi mình dò tiếng, rồi mình thấy tuần tự nữa, mình phải phòng hộ mắt và tai.
Trưởng lão: Đó, câu hữu mấy cái đó hay lắm.
Sư Phước Nhẫn: Nên nếu không có mấy cái đó rồi bị duyên theo cảnh cái là nguy hiểm lắm.
Trưởng lão: Nguy hiểm.
Sư Phước Nhẫn: Con thấy nó loạn tưởng tạp niệm, hễ mình thấy cái đó bắt đầu con nghĩ tùm lum theo cái đó hết trơn à.
Trưởng lão: Đúng, đó thầy nói lưu ý những cái phần này là hay lắm đó. Cho nên Thầy nói thật sự ra tu mà đúng rồi, mình thấy thoải mái lắm rồi. Mà biết cách chứ còn không lơ mơ thì đi vòng rộng cái bị dính. Về đó ngồi trong thất cái nó tùm lum ra hết, lúc hồi nãy thấy rồi bây giờ nó sinh ra những cái niệm tùm lum hết.
Đó là cách thức mình phải giữ gìn để, tu như vậy là kết quả lắm rồi. Rút tỉa từng đó, bắt đầu mình mới biết được cái pháp để mình ôm cái pháp, theo cái pháp cho nó đúng thì nó sẽ kết quả. Chứ không khéo, chứ mình ôm pháp mình tu theo cái pháp mà nó sai nữa thì nó cũng trật à. Mình nói mình ôm pháp nhiều khi mình ôm trật đó, chứ không phải trúng đâu, mình làm nó sai.
Nói để nhớ, cũng đi kinh hành mà giờ đi mà không hỏi Thầy, đi ra không phòng hộ sáu căn là chết mình rồi đó. Rồi trong khi đó, thất người ta ở vậy đó, mình đi ngoài đường chứ mình không vô thất ai hết, nhưng mà mình không phòng hộ. Mình lại thấy họ ở trong đó họ làm cái gì, nó động tâm mình rồi. Cho nên mình phòng hộ không biết có ai hết. Mình đi ra khi mà bước ra đi vòng rộng rồi thì mình nhắc: "Phòng hộ sáu căn không biết chuyện ai hết", nhắc nó rồi mới đi.
(38:41) Nhớ là, các sư nhớ là cái pháp hướng nó đầu tiên khi mình muốn làm cái gì, khởi sự làm cái chuyện gì, đi kinh hành hoặc là ngồi đều phải nhắc rồi mới làm. Mình phải truyền lệnh nó, coi như mình huấn luyện mà. Mình muốn cái tâm của mình nó làm cái gì sau này, thì mình phải ra lệnh nó trước. Chứ còn mình không ra lệnh, mình cứ làm theo cái ý mình muốn ở trong này, thì mình làm rồi thì không có ra lệnh nó, sau này nó không có cái lệnh, không có lệnh mình làm không được đâu.
Cho nên cái mục đích của chúng ta luyện được cái lực của cái lệnh này, để chúng ta điều khiển sau khi cái tâm như cục đất rồi, thanh tịnh rồi để mình ra lệnh mình nhập định. Chứ không phải là định mà mình, mình tự mình vô được, không phải đâu, mà mình ra lệnh để mình nhập định, muốn định nào nó sẽ ra lệnh cho nó nhập định nấy.
Cho nên từ ngay bây giờ là mình phải tập từ cái pháp hướng này, Như Lý Tác Ý này ngay từ bây giờ. Nghĩa là mỗi chút làm cái gì, thí dụ như ăn cơm thì tới giờ mình dọn cái mâm cơm mình xong rồi, để bát rồi, xong xuôi rồi: "Bây giờ ăn cơm phải tỉnh táo trong ăn cơm!" Mình nhắc nó vậy. "Không có nghĩ bậy bạ!" Mình nói thì nó đơn sơ vậy chứ nhưng mà nó thành cái lực ghê gớm lắm, sau này nó thành lực ghê gớm lắm. Hễ khi làm một cái gì thì nó có cái lệnh của nó ở trong đó hết.
(40:01) Đó là cái điều kiện mình phải luyện cái này, mình luyện để chủ động mà, chủ động mình muốn cái đó thì nó phải làm theo cái đó, mà cái đó là cái thiện không phải ác, nên nhớ. Mình tu theo Phật mà cái lệnh của mình là cái lệnh muốn thiện chứ không phải muốn ác. Còn cái tâm của mình hiện giờ nó muốn nhưng mà muốn ác chứ không phải muốn thiện. Cho lên mình chủ động để mà diệt ác mà tăng trưởng thiện mà.
Cho nên cái gì cũng phải chủ động ở trong thiện hết. Chứ đừng nghĩ rằng tôi ăn là thiện tôi không chủ động, mai mốt nó làm chuyện ác mình có biết đâu. Ra lệnh, mình biết cái thiện, ra lệnh cho nó làm, cũng như mình huấn luyện một con voi thì mình bảo nó đưa chân, đưa tay, đưa vòi như thế nào, ra lệnh nó làm theo, còn mình không ra lệnh nó đâu có biết. Cái tâm của mình nó như là một con voi, mình làm như người nài huấn luyện nó.
Cho nên phải nhớ là cái pháp hướng là cái chỗ mà huấn luyện nó. Mai này quý sư nhớ cái điều đó, cho nên bây giờ mình thấy nó như bằng thừa nhưng mà không phải nó lâu ngày rồi nó không phải là vậy đâu, nó không thừa đâu, nó là cái lệnh mà. Cho nên bây giờ Thầy nói, bởi vì cái lệnh nó rõ ràng lắm. Bây giờ cái hơi thở mình tịnh chỉ ngưng nè, đâu phải là chuyện dễ đâu, nhưng mà không có cái lệnh này không làm sao ngưng được.
Sư Phước Nhẫn: Cái lệnh đó mình kéo dài hoài hả Thầy? Thí dụ như con nằm ngủ, từ khi ngủ con ra lệnh vầy: "Ngủ ngon nha, không buồn ngủ, ba giờ thức dậy." Thì sau một thời gian thì ngủ được, ba giờ kém năm tự nhiên nó thức, nó thức chút xíu thì chuông reo, đều là nó quen được hai cái này.
Cái thứ ba là cái quả chiêm bao, thỉnh thoảng cũng có chiêm bao, bây giờ thì nó hết chiêm bao luôn rồi nhưng mà không biết nó có không, vì mình ngủ mình quên. Cái lúc trước chiêm bao thì sáng nhiều khi chiêm bao mạnh thì mình nhớ, còn chiêm bao nhẹ nhẹ thì có khi nhớ có khi không. Khoảng tuần nay thì nó không có biết chiêm bao nữa.
Trưởng lão: Không, mình cứ hướng tâm: "Ngủ cho ngon, không được chiêm bao!" Thì mình cứ hướng, nó có chiêm bao, nó có ngủ, kệ nó nhưng mà cứ ra lệnh hướng. Tối hễ nằm ngủ là ra lệnh, nằm ngủ ra lệnh, mình làm cái lệnh truyền của mình suốt. Sau đó…
Sư Phước Nhẫn: Vậy chừng nào mình mới ngắt hay làm hoài Thầy?
Trưởng lão: Coi như là mình ra lệnh một lần rồi mình nằm ngủ, mình không ra lệnh nữa.
Sư Phước Nhẫn: Bây giờ chắc lên mấy tháng nữa mình cũng phải làm hoài vậy hả Thầy?
Trưởng lão: Cứ làm hoài, làm hoài như vậy. Nghĩa là chừng nào cái lệnh của mình, mình làm cái gì mình cứ ra lệnh cái nấy. Chừng nào mà, tới chừng mình nhập các định xong rồi, mình không có làm nữa, nó đã xong.
(42:26) Chứ còn cái lệnh này nó hoài à, nhắc hoài, bởi vì mình chưa có sai nó được. Bởi vì mình sai nó đâu được, bây giờ mình bảo tịnh chỉ hơi thở nó không được, bảo nó bay nó cũng bay không được. Thì như vậy cái lệnh mình còn phải luyện, cho nên vì vậy mà mình biết cái lệnh mình chưa có truyền đến cái mức độ mà tối đa của nó rồi, thì mình bảo đừng chiêm bao chưa chắc nó đừng. Cho nên hôm nay nó dừng vậy là nó nghe có lệnh yếu yếu vậy nó dừng vậy, chứ mai mốt mà nó trở lại nó đánh mạnh thì chắc chắc mình dừng không nổi đâu.
Cho nên cái lệnh mình chưa tròn, vì vậy mình phải ra lệnh hoài, ra lệnh hoài, nhắc hoài. Cái tâm của mình nó có gì chướng là mình cứ ra lệnh hoài. Hễ trước khi mà làm cái điều đó để mà ngăn cái chướng đó thì ra lệnh trước rồi mới làm. Mà mình không nhắc nữa, suốt cái thời gian không nhắc. Thí dụ bây giờ Thầy đi kinh hành Thầy nhắc: "Đi kinh hành tâm phải biết đi kinh hành!" Nhắc nó một lần, đi luôn không hướng, nó có vọng tưởng gì kệ nó.
Hồi đầu thì nó mới tập thì mình nhắc để cho nó kéo dài sức tỉnh thức, sau khi thời gian mình thấy sức tỉnh thức có rồi thì ra lệnh nó một lần rồi đi. Mà hễ muốn đi kinh hành là ra lệnh một lần rồi đi, không có ra lệnh nữa, không có ra lệnh nhiều. Không phải như mọi lần cứ đi năm, mười bước mình ra lệnh một cái. Năm, mười bước, hồi đó mới tập thì nó khác còn bây giờ đã tập cái này rồi, thì sau khi đi kinh hành: "Đi kinh hành, tâm phải tỉnh thức, nhấc bước đi không có nhớ bậy bạ!”. Lúc bấy giờ đó mình cứ ra rồi đi, mình ra lệnh nó rồi bắt đầu mình đi hoài, đi hoài, đi hoài.
Sư Phước Nhẫn: Nó có tạp niệm cũng kệ nó.
Trưởng lão: Nó có tạp niệm kệ nó, bởi vì mình đi quá cái sức của nó thì nó phải có tạp niệm, nhưng mà tạp niệm rồi để cho mình, mình đánh phá các khác, cái niệm đó chứ đâu phải mà mình sợ đâu. Tại vì cái niệm là cái tâm của mình chưa xả thôi, chưa ly ra thôi cho nên nó có thôi.
Còn cái sức tỉnh của mình thì nó sức bao nhiêu đó mà nếu mình quá hơn nữa thì bị ức chế, bởi vì mình tập trung mình gom, ức chế nó. Thành ra cái sức tỉnh của mình để thấy được cái niệm này xả.
(44:20) Chứ không phải sức tỉnh của mình để đi đến tĩnh lặng, cho nên Thầy hay nhắc cái chỗ đó.
Sư Phước Nhẫn: Vậy bây giờ một ngày, bốn lần là mình đi năm phút tỉnh thức, coi như là mình đi thoải mái.
Trưởng lão: Đi thoải mái thôi.
Sư Phước Nhẫn: Nó có niệm thì mình cắt thôi.
Trưởng lão: Có niệm cắt thôi, vậy thôi không có gì hết. Sau khi được cái này rồi tới cái giai đoạn khác mình tu tới nữa, nó vậy thôi. Đó yên tâm mà tu vậy là thấy khỏe lắm, chứ không có gì.
Sư Phước Nhẫn: Tu vậy thì khỏe quá vì hổm rày con tu câu hữu, an lạc quá cái nó buồn ngủ.
Trưởng lão: Đó bởi vậy Thầy nói, hễ mà khi nào mà cái tâm mình tu thì nó phải thấy trạng thái yên ổn, an lạc nó không có cái chướng gì hết thì nó đúng rồi, nó có sự an lạc trong đó là đúng rồi. Còn mà cái tâm mình mà mình tu mình thấy nó xảy ra cái này kia, cái thân tâm của mình nó khởi này kia thì mình biết sai rồi, tu sai phải hỏi, hãy mau mau hỏi Thầy thôi.
Sư Phước Nhẫn: Nếu hổm rày hỏi Thầy sớm thì đỡ quá, vì nghe Thầy kỳ rồi nói: "Đừng hỏi Thầy nữa, cứ ôm pháp mà tu!".
Trưởng lão: Phải nói vậy.
Sư Phước Nhẫn: Chứ nói vậy mà giãn tới nửa tháng, chứ còn khoảng ba, bốn ngày sau là con bị hôn trầm nặng là con biết rồi, chà cái này khó qua dữ lắm, ráng chiến đấu coi coi nửa tháng nữa, con nói chắc không nổi rồi.
Trưởng lão: Không phải. Bởi vậy Thầy nói tu là luôn luôn lúc nào cũng phải gần thiện hữu tri thức. Đừng có quên, một mình mình không biết đường chiến đấu đâu, rồi mình chiến đấu bậy nó đi trật lất cái đường, rồi nó còn sanh ra, nó khổ thân mình chứ không có ích lợi gì, rồi mất thì giờ nữa. Mà cái gì có chướng thì cứ hỏi Thầy, Thầy sẵn sàng mặc dù là Thầy làm việc nhưng mà điều kiện là Thầy sẵn sàng giúp.
Bởi vì một người mà tu chứng hơn là cả bộ sách của Thầy, Thầy nói thật sự mà. Thầy có viết như vậy một ngàn bộ sách đi nữa cũng không bằng một người tu chứng. Chỉ một người quyết tu mà Thầy dạy thì còn quý hơn là… Thầy nói vậy đủ biết Thầy quý ở chỗ nào rồi.
Quý sư cứ hỏi, nhưng mà đừng có nói chuyện như ông tọa nói chuyện đời … (46:15)
HÉT BĂNG
VẤN ĐẠO 27
TU ĐÚNG PHÁP - ĐÚNG ĐẶC TƯỚNG
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [46:07]
Thời gian: 2002
Tên cũ: 14B-TuDungDacTuongPhaiDiTuDucHanhToiThienDinh
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-27-tu-dung-phap-dung-dac-tuong.mp3
(00:08) Câu hỏi thứ nhất: Kính bạch Thầy, cho phép chúng con được thưa hỏi về giáo lý, đường lối tu tập của đạo Phật. Kính thưa Thầy, Thầy có dạy chúng con hằng ngày phải tu cho đúng pháp, đúng cách, đúng căn cơ, đặc tướng. Song con vẫn chưa thấu triệt lắm. Kính mong Thầy chỉ dạy cho con để được thông hiểu Phật pháp và giải thoát thân tâm.
Trưởng lão: Tu về đặc tướng của mình, mình muốn biết căn cơ đặc tướng của mình không khó. Hiện giờ đối với cái nhìn của Thầy, người nào cũng phải từ đức hạnh để đi vào Thiền Định chứ không đi ngang xương được. Cho nên hầu hết tại vì chúng ta ảnh hưởng giáo pháp của Đại thừa, Thiền đông độ, cho nên chúng ta đi vào là chúng ta lo Thiền định mà không thấy tu tập, sống cho đúng đạo đức. Do thiếu đạo đức, tức là giới luật của Phật nên chúng ta tu sai căn cơ, đặc tướng của mình.
Vì con người chúng ta, ai cũng là phàm phu hết, chưa phải là Thánh, bản chất của loài cầm thú còn trong con người chúng ta chứ chưa thoát ra được. Thế mà chúng ta nhào vô tu hành là muốn mong làm Phật liền, mong có được sự giải thoát liền thì không thể được, mà chúng ta phải tập từ cái ăn, cái ngủ, cái đi, đứng, nằm, ngồi; tất cả mọi cái ở trong giới luật - tức là Đạo Đức Làm Người. Khi chúng ta học tập, tu tập những điều đó, là đi từ căn cơ của mình chứ gì.
(02:01) Bởi vì căn cơ của chúng sinh là căn cơ rất thấp, nói thấp vì chúng ta chưa phải là những bậc Thánh. Tại sao ngày xưa khi đức Phật tu chứng rồi hướng dẫn chúng Tỳ kheo tu rất nhanh chóng chứng đạo vì hầu hết những người được đức Phật chấp nhận trong thời bấy giờ, họ đều là những người tu sĩ giữ gìn giới luật, đức hạnh nghiêm túc. Trước đức Phật đã có những tôn giáo như Bà La Môn dạy họ tu giới luật, đức hạnh của người tu sĩ rồi.
Còn bây giờ, mình bị ảnh hưởng của kinh sách Đại thừa viết, luận thế này, thế khác, phá giới, không chấp giới. Ví dụ như: "Đói ăn, khát uống, mệt ngủ, tự tại vô ngại” như vậy là giải thoát. Cho nên chúng ta chấp nhận những lời nói như vậy, do đó mà chúng ta phá giới. Như Thiền tông dạy chúng ta: "Thõng tay vào chợ" thì hình ảnh vị sư thõng tay vào chợ đó lại uống rượu, thịt, cá. Hình ảnh như vậy gọi là: "Tự tại vô ngại".
Rồi kế đó chúng ta thấy những gương hạnh tệ hại nhất của Phật giáo mà người ta gọi là Phật sống như Tế Điên Hòa thượng hay Tế Công Hòa thượng, Phật Sống chùa Kim Sơn - những người được người Trung Hoa ca ngợi là Phật Sống lại sống không đúng phạm hạnh của một vị Tăng. Thế mà người ta gọi là Phật Sống. Chỉ có một chút ít thần thông tưởng nào đó thể hiện, người ta cho đó là Phật.
Mà thực ra khi nhìn vào vị tu đúng thì người ta phải là người đức hạnh hoàn toàn từ cái ăn mặc cho đến đức hạnh làm người thì như vậy mới là đệ tử của Phật, là một vị Thánh Tăng. Còn như này chỉ biết có thần thông, biết chuyện quá khứ, vị lai là thiên hạ đã coi như người đó là Phật. Cho nên hình ảnh của những người Phật Sống của Thiền đông độ, của Đại thừa là những hình ảnh sa đọa của Phật giáo. Cho nên nói chúng ta dựa vào đó để tu cho đúng căn cơ, đặc tướng của mình để được giải thoát chắc chắn là mình tu ngang xương, không đúng pháp.
Cho nên tu đúng cách là bắt đầu vào tu là khép mình trong khuôn khổ giới luật của đức Phật. Còn mình tu như bây giờ là tu sai, không đúng căn cơ. Không đúng căn cơ thì không thể đúng đặc tướng vì người có đặc tướng riêng biệt của người thế này, người thế khác. Mình không đi từ lớp một, mình nhào vô lớp Thiền định để tu, cứ ngồi để giữ tâm cho hết vọng tưởng thì căn cơ nó đã sai rồi.
Rồi đến đặc tướng của mình không thể nào ức chế nó vậy được. Tướng mình có tướng trời đi nữa mà ngồi ức chế cũng bệnh chứ đừng nói người phàm phu như mình mang cái thân nhân quả. Cho nên đó là những cái tu sai, không phải là tu đúng căn cơ đặc tướng. Căn cơ của mình là từ lớp một; từ cái bản chất của loài động vật, chúng ta phải tu tập, rèn luyện, sống đúng cách để chúng ta thoát ra khỏi bản chất của loài thú vật. Khi thoát ra khỏi bản chất của loài vật là chúng ta đã tu đúng căn cơ. Còn bây giờ hầu hết quý thầy, cư sĩ tu là có hình thức tu chứ không có người nào tu đúng căn cơ, đặc tướng. Đó là trả lời cho câu hỏi thứ nhất.
(5:47) Câu hỏi thứ 2: Kính bạch Thầy, cho phép chúng con thưa hỏi về pháp hướng tâm Như Lý Tác Ý - Tự kỷ ám thị. Con biết pháp môn có hiệu quả, lợi ích rất lớn cho đường tu tập. Đó là giúp cho trí tuệ nhạy bén, khai sáng; tâm thanh thản, an lạc; năng lực siêu việt không thể nghĩ lường. Ngày xưa đức Phật hành đạo và ngày nay, Thầy nhập được Tứ Thánh Định và Tam Minh cũng nhờ đến pháp này. Chúng con xin nhờ Thầy chỉ dạy cách thức hướng tâm, rèn luyện pháp này như thế nào để thành tựu giải thoát.
Trưởng lão: Về Pháp Như Lý Tác Ý, dùng pháp này để hướng tâm. Thứ nhất như ở trong Thất Giác Chi, Phật gọi là Trạch Pháp Giác Chi tức là chọn lựa một câu nào cho hợp với mình. Ví dụ như ý mình muốn tu để tâm mình hết tham, sân, si thì mình nghĩ đến đất hoặc nước là chất không có tham, sân, si.
Do đó mình muốn tâm mình như đất hoặc tâm mình như nước. Vì vậy trạch câu đó ra: "Tâm như đất". Mình lấy câu đó là lý của đạo để hàng ngày mình hướng tâm, nhắc tâm mình phải thực hiện như đất. Đó là câu pháp hướng cho nó hợp lý, hợp tâm lý của mình để cho mình thích thú câu đó thì mình dùng pháp hướng đó sẽ có hiệu quả.
Khi mới tu tập để cho nó có hiệu quả, chúng ta nhắc tâm mình câu pháp hướng như vậy thì mình phải thực hiện làm cho đúng lời đó. Nếu mình mới tu, mình nhắc câu pháp hướng, mình không thực hiện đúng theo lời của pháp hướng thì như vậy mình làm trái ngược với lời mình hướng tâm. Ra lệnh, như mình ra lệnh bảo người khác làm một cái gì đó mà mình không làm đúng điều mà mình bảo người khác thì người ta sẽ không nghe lời mình. Tâm chúng ta nó cũng như vậy. Chẳng hạn, mình ăn ngày một bữa, dự định dùng câu pháp hướng nhắc tâm mình: "Thân tâm phải chấp nhận ăn ngày một bữa, không được ăn phi thời!" Mình hướng tâm mình nói như vậy nhưng sáng mình vẫn ăn, trưa mình vẫn ăn, chiều mình vẫn ăn thì câu pháp hướng không có kết quả.
Tóm lại muốn cho câu pháp hướng có hiệu quả, mình nhắc tâm câu pháp hướng như vậy thì nhất định mình phải ăn ngày một bữa, nghĩa là trưa ăn thôi mà không có nên ăn lặt vặt, sáng ăn, chiều ăn thì câu pháp hướng có hiệu quả, tạo cho mình có nghị lực. Mặc dù hiện giờ khi chúng ta cố gắng khắc phục mình, ăn ngày một bữa nhưng chúng ta vẫn còn thấy đói, vẫn còn thích ăn nhưng chúng ta nhắc khi tâm khởi lên ý thích, thấy món ăn mà muốn ăn thì nhất định chúng ta nhắc: "Tâm phải ăn một bữa, phải giữ đúng không được sai, không được thèm ăn nữa!" Hướng tâm nhắc như vậy thì lần lượt tâm nó không có dao động trước cám dỗ của món ăn làm cho chúng ta chạy theo tâm tham ăn.
(09:35) Do cái sự hướng tâm mà chúng ta thực hiện bằng cái sống của chúng ta cho đúng với lời pháp hướng đó thì thứ nhất là nó trở thành thói quen, thứ hai nó trở thành lực sau này hễ chúng ta nhắc cái gì thì tâm chúng ta nó làm theo. Đó là hiệu quả của pháp hướng tu. Chứ còn nếu chúng ta nhắc mà chúng ta cứ không làm thì không có hiệu quả gì của pháp hướng đó.
Thí dụ như bây giờ mình đang buồn ngủ mà giờ này chưa phải là giờ mình ngủ cho nên mình nhắc mình hướng tâm, mình nói: "Thân tâm không được hôn trầm, buồn ngủ, thùy miên nữa, phải tỉnh táo, sáng suốt, không được gục tới, gục lui!". Mình hướng tâm, mình nhắc như vậy, mà lúc bấy giờ mình cứ ngồi đó thì chắc chắn nó sẽ gục tới, gục lui hoài. Mình nhắc như vậy, cho nên mình phải xả cái này cho được. Làm gì thì làm, rửa mặt, đi tắm hay là mình đi kinh hành, hoặc là mình lấy một cuốn kinh sách mình đọc. Hoặc lấy một bài kệ, bài thơ mình đọc, mình nghiên cứu một đoạn kinh nào đó. Như vậy là mình dùng đối tượng khác để mình phá nó bằng câu pháp hướng bảo nó.
Sau này mình không cần dùng nữa mà mình chỉ dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý: "Hôn trầm, thùy miên, buồn ngủ phải đi đi!"; không cần phải đi rửa mặt, tắm, rửa gì nữa. Đó là pháp hướng đã có hiệu quả. Còn khi chúng ta mới tu tập mà luyện tập pháp hướng, bảo nó như vậy, ngay đó chúng ta liền đi kinh hành, hoặc rửa mặt, hoặc đi tắm hoặc làm vài động tác, mở một cuộn băng nghe, đọc một đoạn kinh để nghiên cứu thì nó làm cho chúng ta tỉnh táo trở lại. Sau này thì chúng ta không cần làm những việc này mà chỉ cần tác ý điều chúng ta muốn: "Đừng có hôn trầm nữa!". Đó là tu tập cho đúng cách như vậy sẽ có hiệu quả rất lớn.
Cho nên mới đầu chúng ta tu tập thấy pháp hướng chưa có hiệu quả nhưng mỗi lần chúng ta nhắc thì chúng ta phải làm cho đúng như câu pháp hướng của mình. Mình trạch câu đó ra để phá một đối tượng, chướng ngại pháp nào khởi trong tâm của mình, ngay đó dùng pháp hướng để nhắc nó. Mình phải tìm mọi cách để phá cho được chứng ngại pháp đó. Đừng có để chướng ngại pháp đó còn kéo dài mãi. Mình dùng pháp hướng mà mình trơ trơ không có chịu xả thì pháp hướng không có hiệu quả. Không được trì hoãn, phải quyết tâm.
Cho nên phải biết cách thức tu, trạch pháp là điều rất quan trọng của pháp Như Lý Tác Ý. Mình không biết mà tu tập pháp này không đúng cách thì nó sẽ không có hiệu quả. Cho nên thậm chí khi người ta nhập Tứ Thánh Định và Tam Minh, người ta đều dùng Pháp Như Lý Tác Ý này để thành tựu chứ không phải ai làm được điều này cả, vì đó là cái lực của pháp hướng này, mà nó điều khiển được cái tâm, dẫn cái tâm hướng đến Tam Minh hoặc đưa vào Thiền Định.
(13:15) Cho nên vì vậy khi pháp hướng có lực thì chúng ta mới có thể tu Tứ Như Ý Túc. Bởi vì Tứ Như Ý Túc là pháp môn đức Phật đưa ra để chúng ta tu, nhưng trước khi tu Tứ Như Ý Túc, chúng ta phải thực hiện được pháp Như Lý Tác Ý, nó có lực của đạo để dẫn dắt chúng ta đi vào Thiền Định cũng như Tam Minh thì chúng ta mới thực hiện được. Lúc bấy giờ dẫn dắt đi vào Bốn thiền, Tam Minh là chúng ta đang thực hiện Tứ Như Ý Túc chứ không phải là gì khác.
Khi chưa có lực, hiệu quả của pháp Như Lý Tác Ý thì Tứ Như Ý Túc không bao giờ ai tu được hết. Cho nên Định Như Ý Túc, chúng ta muốn nhập cái định nào thì chúng ta phải có lực của pháp hướng, pháp Như Lý Tác Ý đó, thì chúng ta mới tu được Định và Tam Minh. Chứ còn không có thì không thể nào nhập định được.
Cho nên người ở đời bây giờ người ta tu sai, người ta nghĩ rằng ngồi cho hết vọng tưởng là nhập định. Đó là nhập định ma, định tưởng chứ không phải Tứ Thánh Định. Đó là cách thức tu sai không có lực vào định, có khi được khi không, có khi ngồi nghe nó an ổn, có khi ngồi nó bị phân tán. Đó là cái tu sai của người hiện giờ họ không có kinh nghiệm tu tập theo đạo Phật. Không có kinh nghiệm thì hay đẻ ra những sai lệch làm cho con đường tu tập của người sau rất khó khăn.
Bởi vì không có thông suốt, không có hiểu được pháp Như Lý Tác Ý, cho nên hầu hết hiện giờ Đại thừa và Thiền Đông Độ dạy không có pháp Như Lý Tác Ý. Mà không có Pháp Như Lý Tác Ý thì họ chỉ ngồi chờ đợi để mà nhập định cũng như người chờ sung rụng để mà ăn. Như người ngồi dưới cây mà chờ trái cây rụng xuống mà ăn. Điều đó may rủi chứ không bao giờ có. Mà may rủi nếu mà đúng thì không nói gì, mà may rủi mà cây nó lại rớt trái chín thúi xuống thì có ăn được cái gì. Đó là cái may rủi sai chứ không phải cái may rủi đúng. Bởi vì có hành mà không có đủ sức lực để điều khiển vào định thì cái hành đó không bao giờ mà đi đúng được.
Cho nên tu sĩ hiện giờ nói nhập định đều là định của tưởng chứ không phải định đúng - Định Như Ý Túc, tức là mình muốn định nào là nhập được, muốn hồi nào là được hồi nấy. Còn bây giờ ngồi có khi được khi không, đó là định ma chứ không phải loại định làm chủ. Cho nên muốn nhập định, đi đến Tam Minh thì pháp Như Lý Tác Ý là công thức tu tập để chúng ta đạt được kết quả. Nói chung đó là bí quyết để chúng ta nhập Định và Tam Minh. Nó rất quan trọng nên người hiểu được pháp Như Lý Tác Ý mới thấy kết quả rất lớn sau này khi chúng ta thực hiện, là kết quả rất lớn cho con đường tu tập của chúng ta để đạt Thiền Định và trí tuệ Tam Minh.
(17:09 Ngay cả khi chúng ta thực hiện giới luật cho nghiêm túc để được thành tựu Phạm hạnh, đức hạnh của một vị Thánh Tăng thì pháp Như Lý hỗ trợ chúng ta rất lớn. Khi chúng ta muốn sống một giới luật cho nghiêm chỉnh thì không đơn giản đâu. Đừng nghĩ rằng chúng ta cứ giữ nó là được liền. Không phải đâu.
Với cái thân và cái khẩu của chúng ta thì có thể giữ được đó nhưng có ý của chúng ta không thể giữ được giới luật. Cho nên pháp Như Lý Tác Ý giúp chúng ta giữ được giới luật, làm cho tâm chúng ta thanh tịnh. Bây giờ chúng ta muốn giữ được giới không dâm dục, không dâm dục thì thân của chúng ta không dâm dục, khẩu chúng ta không nói lời dâm dục nhưng ý chúng ta thoáng thấy người phụ nữ thì nó khởi dâm dục đó. Cho nên muốn làm chủ nó thì chúng ta nhắc nó liền.. Khi thấy người phụ nữ, nó khởi ý dâm dục thì chúng ta tác ý: "Dâm dục là đem đến sự đau khổ không những cho một người mà cho nhiều người. Dâm dục là bẩn thỉu. Ta phải tránh xa dâm dục". Hàng ngày, chúng ta nhắc nó như vậy, lúc nào chúng ta cũng cảnh giác, nhắc nó như vậy, làm cho tâm ta thấm nhuần, làm cho chúng ta nhàm chán, không có ưa thứ dâm dục đó. Từ đó, người phụ nữ đến với chúng ta, chúng ta xem như bình thường, không khởi ý nữa. Tức là chúng ta mới thanh tịnh được cái giới không dâm dục. Không đơn giản đâu.
Chúng ta đừng nghĩ rằng… Không có pháp Như Lý Tác Ý thì chúng ta sẽ bị phạm giới này. Tất cả tu sĩ chúng ta đều phạm giới này. Do đó mà hiện giờ nhìn cái giới của tu sĩ, dù là vị Hòa thượng hiện giờ tám mươi tuổi, đừng nghĩ rằng các vị già mà tâm các vị không dâm dục. Sự thật ra tâm quý vị còn dâm dục chứ chưa phải hết dâm dục. Nếu quý vị không có pháp Như Lý Tác Ý thì chắc chắn giới này các vị không thanh tịnh.
Dù các ông già, ngoài người ta gọi các ông là Hòa thượng, người ta kính trọng đảnh lễ các ông nhưng sự thật ra tâm các ông chưa hẳn đã thanh tịnh giới luật. Giới luật muốn thanh tịnh, đầu tiên chúng ta tu pháp Như Lý Tác Ý là pháp trợ giúp chúng ta rất lớn trên con đường thanh tịnh giới luật. Đừng nghĩ rằng chúng ta sắp sửa chết là chúng ta hết dâm dục. Không, dâm dục nó liên tục, cơ thể chúng ta thì nó có giảm đi sự dâm dục nhưng cái tâm chúng ta vẫn y như lúc chúng ta còn trẻ.
Nếu chúng ta không tu pháp Như Lý Tác Ý này thì cái giới dâm dục chúng ta sẽ không thể nào chiến thắng được nó và chúng ta không thanh tịnh được tâm chúng ta đâu. Đó là phần quan trọng của pháp Như Lý.
(20:32) Từ khi bước đầu vào tu theo đạo Phật để giữ gìn giới hạnh, để lìa xa bản chất của loài ác thú trong thân tâm chúng ta, mà không có pháp Như Lý Tác Ý thì chúng ta không lìa xa được bản chất của loài cầm thú. Đạo Đức Làm Người chúng ta chưa thực hiện được chứ không nói là Đạo Đức Làm Thánh. Cho nên tu pháp Như Lý Tác Ý không những lợi ích cho Thiền Định, Tam Minh mà nó còn lợi ích cho chúng ta tu tập giới luật, đức hạnh nghiêm chỉnh.
Đây là pháp rất độc đáo mà chỉ có trong kinh sách Nguyên Thủy của đạo Phật mới thấy, còn toàn bộ kinh sách Đại thừa, Thiền đông độ chúng ta không thấy có, không thấy nhắc cái pháp này. Nhiều khi chúng ta đọc kinh sách, chúng ta nghiên cứu kinh sách, thấy kinh sách có pháp hành mà có loại kinh sách chỉ lý luận suông mà không có pháp hành. Như kinh sách Đại thừa thì không bao giờ có pháp hành. Lý luận rất cao, rất hay nhưng pháp hành không có.
Còn kinh sách Nguyên Thủy, chúng ta thấy pháp hành nó rõ ràng, cụ thể. Ngay bước đầu vào tu là chúng ta thấy có những điều chúng ta phải tập luyện, rèn luyện pháp đó ngay liền như pháp Như Lý Tác Ý. Đó là lợi ích rất lớn như vậy cho nên người tu sĩ phải thấy đây là pháp giúp cho chúng ta trên con đường tu cho đến khi thành tựu viên mãn đạo giải thoát.
(22:16) Câu hỏi thứ 3: Đây là câu hỏi thứ ba. Kính bạch Thầy, đạo Phật có duy nhất một pháp môn đưa đến giải thoát khỏi đau khổ, ra khỏi sinh tử luân hồi. Đó là pháp môn: Giới - Định - Tuệ. Song hiện nay, chúng con thấy phần lớn tu sĩ không tu về giới luật, oai nghi tế hạnh, sống phạm giới quá nhiều tức là họ không đi đúng đường lối pháp môn của đức Phật. Vậy chúng con xin Thầy chỉ dạy những tu sĩ này có lợi gì cho Phật giáo, cho xã hội và ngược lại?
Trưởng lão: Câu hỏi này chúng ta thấy rõ ràng, người tu sĩ hiện giờ phá giới, phạm giới, đúng như Đức Phật đã nói: "Giới luật còn thì đạo Ta còn, giới luật mất thì đạo Ta mất." Nghĩa là đức Phật nói người tu sĩ mà còn giữ gìn giới luật dù là một người thôi thì đạo Phật vẫn còn, mà tu sĩ bây giờ có hàng vạn, triệu người mà phá giới, phạm giới, làm những điều kỳ lạ lừa đảo người khác bằng hình thức như có những vị sư người Tây Phương cũng như người Trung Hoa, họ đi ba bước lạy một lạy để cầu cho hòa bình thế giới hay thế này thế khác. Những hành động không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, không có đạo đức mà làm những hình thức như vậy mà cho là Phật giáo còn thì không phải. Đó là thứ ngoại đạo, không thật, không đúng cách đâu.
Trái lại những tu sĩ giữ gìn giới luật nghiêm túc thì Phật pháp còn, những người tu sĩ không giữ gìn giới luật thì Phật pháp mất. Phật pháp mất là mất đi một điều lợi ích rất lớn cho con người trên hành tinh này, không chỉ riêng ở Việt Nam mà tất cả các nước ở trên thế giới. Phật giáo còn là còn một nền đạo đức vì toàn bộ giới luật Phật giáo là dạy về một nền Đạo Đức Làm Người. Nếu Phật giáo mất thì những đức hạnh làm người và làm Thánh không còn nữa. Không còn nữa thì những hành động suy đồi của những người không có đạo đức, chỉ như loài cầm thú, ma quỷ. Cho nên những hành động lừa đảo, gian xảo để ngồi mát ăn bát vàng, lừa gạt người ta bằng cách này hay cách khác, tiền mất mà tật mang. Đó là cách thức của những người tu sĩ Phật giáo của chúng ta hiện giờ, phá giới, chạy theo dục lạc thế gian, lừa đảo bằng mọi cách để sống trong dục lạc của thế gian. Giới luật của Phật còn gì?!
(25:15) Như vậy làm sao những tu sĩ này có lợi ích cho Phật giáo được, những tu sĩ này là trùng trong lông sư tử đang giết Phật giáo chết đó. Phật giáo mất là vì những tu sĩ như vậy. Cho nên hiện giờ người ta tin Phật mà người ta không thể tin quý thầy, mặc dù quý thầy là Hòa thượng, Thượng tọa, mà khi ngồi trên giảng tòa thuyết pháp, nhiều ông còn hút thuốc thì còn cách nào gọi là giới luật, đức hạnh nghiêm chỉnh. Một vị Hòa thượng, Thượng tọa của Phật giáo mà ăn uống phi thời như là người thế gian thì còn nghĩa lý gì là một vị Thánh Tăng. Nằm trong hàng giáo phẩm to như vậy, mà ngày ăn ba bữa mà nuốt được, không biết họ là Thánh gì. Đó là những điều rất sai của Phật giáo.
Cho nên Phật giáo lấy đạo đức để dạy người chứ không phải lấy mê tín mà dạy người. Phật giáo lấy cái thiện, làm lợi ích lớn cho con người là tự con người phải thực hiện những hành động thiện để đem lại quả an vui, phước báu thiện do họ làm thì họ hưởng, chứ không phải phá giới, phạm giới. Phá giới, phạm giới là sống trong ác pháp, mà sống trong ác pháp thì chỉ có quả khổ của ác pháp đó.
Người tu sĩ không làm gương hạnh đạo đức, giới luật như vậy thì lấy gì mà cho người noi theo để thực hiện Đạo Đức Nhân Quả- Đạo Đức Không Làm Khổ Mình, Khổ Người.
Cho nên ở đây, khi phạm giới luật như vậy thì ngoài họ hô hào rằng làm lợi ích cho Phật giáo, làm lợi ích cho xã hội, bằng hình thức này hay hình thức khác, gây sự mê tín làm hao tài, tốn của của người khác mà thực chất trong đó không lợi ích cho ai hết. Không lợi ích cho đất nước mà còn làm tổn hại cho đất nước này nữa bằng một số người tu hành không đúng giới luật Phật làm tê liệt cả Phật giáo, làm tê liệt đất nước.
(27:34) Những nhà lãnh đạo đất nước, người ta không dám động đến tôn giáo nhưng người ta cũng ngẩn ngơ trước những hành động của quý thầy hiện giờ. Phá giới, phạm giới như vậy, không có đức hạnh như vậy, làm sao mà người lãnh đạo đất nước, người ta không ngẩn ngơ, không lo lắng nhưng bây giờ người ta làm sao đụng đến quý vị là điều rất khó chứ không phải dễ. Đó là một điều từ nhiều năm tháng, từ nhiều thế kỉ chứ không phải mới đây. Cho nên người lãnh đạo người ta thấy nhưng người ta không làm sao người ta nói được.
Chúng ta là những người tu sĩ chúng ta phải thấy được nhiệm vụ, trọng trách của mình để lợi ích cho Phật giáo, lợi ích cho con người, lợi ích cho xã hội và cả thế giới nữa. Chúng ta phải sống đúng, sống đúng Giới - Định - Tuệ. Vì đức Phật chỉ duy nhất một pháp môn: Giới - Định - Tuệ là Đức Hạnh - Thiền Định - Trí Tuệ siêu việt của người tu sĩ.
Còn chúng ta sống phá giới, nghĩa là không có đức hạnh thì làm sao chúng ta có Thiền Định, trí tuệ siêu việt được. Chúng ta chỉ có Thiền Định tưởng, Thiền Định ma, Thần thông tưởng, ma để lừa đảo người khác để người ta ham mê. Đó là cái sai không đúng.
Cho nên chúng ta phải đề cao cảnh giác nếu chúng ta muốn tu theo đạo Phật mà các vị thầy của chúng ta sống không đúng giới, tức là không có đức hạnh thì chúng ta nhất định là không theo vị đó. Những vị đó sẽ tu giáo pháp của ngoại đạo, phá giới, phạm giới, làm những điều mê tín. Đó là trả lời câu thứ ba.
(29:26) Câu hỏi thứ tư: Kính bạch Thầy, đời sống phạm hạnh của một tu sĩ Phật giáo như thế nào? Làm sao để biết người nào là tu sĩ Phật giáo, người nào là tu sĩ giả dạng tu sĩ Phật giáo để chúng con khỏi bị lừa?
Trưởng lão: Trước hết chúng ta nhìn vào đời sống của một tu sĩ phá giới và một tu sĩ không phá giới; một người tu sĩ phạm giới và một người tu sĩ không phạm giới, chúng ta phân biệt rất rõ ràng. Dễ dàng lắm, chúng ta đến một ngôi chùa thấy các tu sĩ ăn uống phi thời thì biết ngay những người này là tu sĩ của Bà La Môn, của ngoại đạo chứ không phải là tu sĩ Phật giáo. Đó là chúng ta thấy nội cách ăn của họ đã thấy không đúng rồi.
Huống hồ là chúng ta nhìn thấy tất cả các hành động. Ví dụ như một vị tu sĩ Phật giáo thì ba y một bát, còn họ của cải tài sản nhiều thì chắc chắn không phải là vị tu sĩ của Phật giáo rồi. Đức Phật lấy một đời sống đi xin ăn mà các vị này tự nấu nướng ăn uống là đã không đúng rồi. Giới luật xác định một người tu sĩ Phật giáo và một người tu sĩ của ngoại đạo rất dễ dàng và rõ ràng.
Người tu sĩ Phật giáo thì không ca hát và không nghe ca hát, còn người tu sĩ ngoại đạo thì nghe ca hát và thích ca hát. Cho nên chúng ta đến một ngôi chùa mà thấy ti vi truyền hình rồi máy cassette, băng nhạc ca hát, mặc dù là những nhạc đạo nhưng vẫn là ca hát, âm thanh vẫn còn trầm bổng, nhẹ nhàng cám dỗ lòng người. Thích nghe những âm thanh trầm bổng đó thì là những người tu sĩ ngoại đạo chứ không phải tu sĩ Phật giáo.
(31:25) Tu sĩ Phật giáo là sống một đời sống ăn mặc không se sua nghĩa là đức Phật nói phải lượm vải bó thây ma, vải chim tha, vải bỏ chúng ta xin lượm vải đó về giặt sạch kết làm y áo chúng ta mặc đi xin ăn thì như vậy mới đúng. Còn những tu sĩ ngoại đạo thì ăn mặc phải là vải ngoại quốc, vải đẹp mới mặc, còn vải xấu thì không mặc, đòi hỏi những thứ tốt đẹp như người thế gian thì đó là tu sĩ của ngoại đạo, của Bà La Môn chứ không phải là tu sĩ Phật giáo.
Cho nên muốn biết là tu sĩ thật của Phật giáo hay tu sĩ giả thì chúng ta nhìn vào giới luật đức hạnh của vị tu sĩ để xác định đúng hay sai. Cho nên quý vị cứ nhìn vào giới tu sĩ của Phật giáo hiện giờ là biết ai là tu sĩ Phật giáo, ai không phải là tu sĩ Phật giáo, nó rõ ràng lắm. Mặc dù họ xưng là tu sĩ Phật giáo nhưng sự thật họ là tu sĩ của Bà La Môn. Như quý vị biết rõ ràng vì theo đức Phật dạy trong kinh Nguyên Thủy: một vị Bà La Môn họ phải thông suốt kinh điển Vệ Đà nghĩa là kinh điển Vệ Đà, họ phải học thuộc làu hết, bùa chú họ phải thông suốt, cúng tế họ phải thông suốt. Hiện giờ, một người tu sĩ có cấp bằng cao chưa hẳn là một người tu sĩ của Phật giáo đâu. Cấp bằng cao chứng tỏ đó là tu sĩ của Ba La Môn bởi vì họ phải học các bộ kinh Vệ Đà, phải thông suốt. Cũng như bây giờ quý vị phải học thông suốt Tam tạng kinh điển của Đại thừa mới chấp nhận đó là một người tu sĩ. Điều đó là điều sai.
Ngày xưa đức Phật đã bác những điều này, đức Phật không chấp nhận sự tụng niệm, cúng bái. Tu sĩ Phật giáo bây giờ quý vị thấy rất rõ ràng, họ cúng bái tụng niệm, bày ra đủ thứ không phải một thứ, như cúng bái tụng niệm, cầu siêu cầu an, làm tuần làm tự, coi ngày giờ tốt xấu, đó là hành động của Bà La Môn. Còn trong giáo lý, lời dạy của đức Phật, người tu sĩ của đạo Phật không được hành những nghề này. Họ hành những nghề này là họ hành những nghề của Bà La Môn. Họ học cho có cấp bằng cao, Cao đẳng Phật học hay Tiến sĩ Phật học như đức Phật đã xác định họ là Bà La Môn chứ không phải đạo Phật.
Đạo Phật không cần có bằng mà cần sự giải thoát, cần sự làm chủ, cần con người có Đạo Đức Làm Người, Đạo Đức Làm Thánh cho nên Giới-Định-Tuệ đã xác định được điều đó. Cho nên nhìn vào việc xuất gia của các thầy bây giờ, chúng ta thấy rõ quý thầy đang là tu sĩ của Bà La Môn chứ không phải là tu sĩ Phật giáo. Vậy nên chúng ta biết rất rõ hiện giờ đi tìm một người tu sĩ Phật giáo rất hiếm, không có nữa, rất khó chứ không phải dễ.
(35:18) Đức Phật đã xác định cho chúng ta rất rõ ràng: Giới- Định- Tuệ. Ai là người sống đúng giới luật? Không có. Chúng ta nhìn tu sĩ Phật giáo bây giờ từ cấp lãnh đạo lớn của Giáo Hội Phật Giáo cho đến tu sĩ mới vào tu, một chú Sa di, chúng ta thấy Giới Luật không có vị nào nghiêm chỉnh.
Kế đó chúng ta nhìn đến giai đoạn của Định thì thấy không có một tu sĩ nào nhập định đúng của đạo Phật thì sao gọi là đạo Phật được. Bởi vì định của đạo Phật là từ Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền. Bốn Thiền Định này xác định được là người tu sĩ của đạo Phật. Ai đã ly dục, ly ác pháp chưa? Chưa có người nào ly dục, ly ác pháp làm sao gọi là nhập Sơ Thiền. Đến Tứ Thiền là thiền thứ tư, ai đã tịnh chỉ được hơi thở? Nếu không tịnh chỉ được hơi thở, người đó không bao giờ được gọi là nhập được thiền của đạo Phật. Cho dù bây giờ mấy ông có ngồi thiền bảy, tám ngày, một năm, hai năm…mà cứ ngồi đó thoi thót mà thở thì cũng chưa phải nhập thiền thứ tư của đạo Phật.
Ai thực hiện được Tam Minh, ai có được Lậu Tận Minh? Nhìn lại tu sĩ của chúng ta bây giờ, Giới - Định - Tuệ mà đức Phật đã nêu ra rõ ràng ba giai đoạn tu tập này thì không có vị tu sĩ thực hiện đúng được. Ngay cả giai đoạn thứ nhất là Giới Luật đã là không được thì làm sao gọi là Thiền Định cho được. Mà Thiền Định không được thì làm sao mà có Tuệ được. Cho nên không có người tu sĩ Phật giáo nào hiện giờ được gọi là tu sĩ Phật giáo được mà là tu sĩ của Bà La Môn, của ngoại đạo.
Cho nên cái lý luận, cái nói của họ thì rất hay nhưng cái đời sống tu sĩ Phật giáo của họ không bao giờ có.
Đây là câu hỏi thứ tư đã hết, tạm đủ để chúng ta hiểu được cái sai, cái đúng để chúng ta nương theo con đường của Phật pháp, tu cho đúng Giới - Định - Tuệ để thực hiện được một đời sống giải thoát trong một kiếp này. Không nên để cho thân tâm của chúng ta mất đi rồi, khó mà chúng ta tìm lại như đức Phật đã nói: "Được thân người rất khó, khó hơn con rùa mù tìm bọng cây giữa biển". Vả lại, pháp môn của đức Phật bây giờ rất khó vì bao nhiêu kinh điển Đại thừa đã che khuất giáo pháp chân chánh của đức Phật: Giới -Định - Tuệ, đã bị mất đi, cho nên chúng ta không còn lối để đi vào nẻo giải thoát đạo Phật nữa.
Hôm nay chúng ta phải cố gắng, phải tu tập, phải nghiên cứu kỹ những gì đức Phật đã dạy mà trong kinh Nguyên Thủy của đức Phật đã được Hòa thượng Minh Châu dịch lại. Chúng ta hãy đọc lại bốn bộ kinh Nikaya, nghiên cứu kỹ lại những lời của đức Phật dạy gọi là còn nguyên chất, nguyên thủy của nó. Còn tất cả rừng kinh sách của Phật giáo hiện giờ đều là tà giáo, ngoại đạo xen vào làm giàu để lừa đảo tín đồ của Phật giáo, mượn danh của Phật giáo để lừa đảo người khác chứ không phải chân chánh.
(39:02) Tám năm trời chúng tôi mở Tu viện Chơn Như chẳng tìm thấy một người cầu pháp chân thật. Toàn là thứ ăn hại của đàn na thí chủ, phá hoại Phật pháp, làm những điều tồi tệ, trái với giới luật, cống cao ngã mạn, dương dương tự đắc, coi mình là bậc thầy tổ của thiên hạ. Xét lại họ chỉ là những con mọt của kinh sách. Tăng, ni và Phật tử đối với Phật pháp còn biết bao nhiêu điều sai trái nhưng không đủ thì giờ cho phép chúng tôi ghi ra đây hết được.
Khi nào đủ duyên, Diệu Quang mở khóa tu Đạo Đức Giải Thoát thì chúng tôi sẽ giảng dạy cho quý vị.
Kính thưa quý vị Phật tử!
Chúng tôi biết rằng lời thật mất lòng nhưng chúng tôi phải nói, nói vì sự tồn vong của Phật giáo. Dù biết rằng chúng tôi nói thì không có chùa để ở, không có y áo để mặc, không có cơm để ăn thì chúng tôi vẫn phải nói. Nói để cảnh tỉnh tăng, ni và quý vị, nói để quý vị sửa sai, nói để quý vị không bị đọa địa ngục, nói để quý vị hiểu Phật pháp đúng cách, không có nghĩ như thế này nữa.
Kính thưa quý vị Phật tử!
Ở đây quý vị phải hiểu, chúng tôi không có ý chỉ trích, phê phán ai hết. Ai muốn tu pháp môn nào cũng được. Chúng tôi chỉ biết nêu lên những ý này để quý vị đừng hiểu sai đạo Phật, đừng nhầm đường lạc lối tu hành của đạo Phật và biết rõ mục đích của đạo Phật để không phí uổng thời giờ quý báu của quý vị.
Kính thưa quý vị!
Chúng ta tu hành theo đạo Phật mà không tu hành pháp môn của đạo Phật lại tu hành theo pháp môn của các tôn giáo khác mà cứ tự nhận mình tu theo đạo Phật. Sự lầm lạc này khiến cho Phật giáo không có người tu chứng, không có người giải thoát thực sự. Hiện giờ được xem như Phật giáo đã mất gốc, chỉ còn cành lá mà thôi. Vì thế chúng tôi phải gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh quý vị, để nhắc nhở quý vị, còn nghe hay không là quyền của quý vị. Chúng tôi chẳng có ý nào khác hơn, tu đúng, tu sai là quý vị nhờ, chứ chúng tôi chẳng có ích lợi gì trong đó cả.
(41:26) Chúng tôi kính mong quý vị tỉnh ngộ quay về với con đường tu hành chân chánh của đạo Phật để có lợi ích thiết thực và cụ thể hơn. Những điều quý vị đã tu hành và những việc làm của quý vị đều tốt và thiện, nhưng tốt và thiện đối với những tôn giáo khác còn đối với Phật giáo thì quý vị đã lầm lạc.
Bởi quý vị đã không tu giới luật mà còn phá giới luật, làm những điều sai trái, phạm giới luật của đạo Phật. Trong khi giới luật là ông Thầy của quý vị mà quý vị đã từ bỏ không chịu tu theo. Chúng tôi chẳng biết nói với quý vị như thế nào nữa cho đúng. Nếu đi tu mà không nghe lời dạy, không nương tựa vào ông Thầy của mình thì quý vị sống với ai, tu tập cái gì?
Nếu chúng tôi tu giới luật, thiền định, trí tuệ của đức Phật mà chẳng có kết quả như ngày hôm nay thì chúng tôi chẳng dám nói lên những điều này. Vì có kết quả quá rõ ràng nên chúng tôi cho nổ lên tiếng sấm sét để quý vị tỉnh cơn mơ mộng trong các kinh sách thời nay, trong các pháp tu thời nay.
Kính thưa quý vị Phật tử!
Quý vị hãy cùng chúng tôi triển khai những điều mà quý vị không biết đã làm sai từ lâu. Hãy chấm dứt. Đừng vì những lợi ích ích kỷ nhỏ mọn, cá nhân của quý vị mà đưa Phật giáo lạc đường. Vì thế bây giờ quý vị tìm khắp nơi trên thế giới làm sao có được một vị chân tu giải thoát như đức Phật. Trong khi Phật giáo bây giờ có hàng vạn, triệu người tu theo đạo Phật từ Đông sang Tây mà không có một vị tu chứng.
Vì sao? Vì hiểu sai Phật pháp nên tu sai. Do đó phá hoại Phật pháp mà tưởng là bồi đắp, xây dựng, chấn hưng Phật pháp. Đến đây chúng tôi xin tạm ngừng nghỉ, ăn cơm. Buổi chiều lúc một giờ, chúng ta tiếp tục lại câu chuyện. Bây giờ, quý vị chắp tay lên, cùng chúng tôi hướng về đức Phật, cúi đầu chào nhau, tạm biệt:
“Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”
(43:40) Kính thưa quý vị Phật tử!
Khi đi đến chùa tăng, quý vị là nữ cư sĩ hay là ni cô thì quý vị phải đi từ hai người trở lên, không nên đi một mình vào Tu viện nam. Ngược lại là cư sĩ nam hay là chư tăng khi đi đến chùa ni hay tịnh thất của cư sĩ nữ thì phải đi hai người trở lên chứ không thể đi một người vào đó được.
Đi vào chỗ tu hành, quý vị không nên đi xông pha mà phải theo người hướng dẫn. Khi đi không được nói chuyện, nhẹ nhàng để giữ sự thanh tịnh cho những người tu hành tại đó. Khi cần gặp người quen thì nhờ người tiếp khách gọi hộ chứ không được tự động đi đến chỗ của người quen trong Tu viện. Người thân đang tu hành tại Tu viện cũng không được đưa dắt bạn bè thân thuộc đi tham quan, làm động chúng tu hành. Đó là một điều làm sai, xin quý vị lưu ý.
Một cư sĩ nữ hay một ni cô khi đến chùa tăng mà tự do đi lại thì phải biết đó là người thiếu đức hạnh, cần phải sửa lại. Ngược lại một cư sĩ nam hoặc một tu sĩ nam cũng vậy, không được ngang nhiên đi vào nơi tu hành của nữ, của những người tu sĩ nữ.
Vậy xin lưu ý quý vị khi đến nơi tu hành thì quý vị phải cẩn trọng, không được xem thường chỗ tu hành, như chỗ du lịch, tham quan.
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 28
MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [46:26]
Thời gian: 2002
Tên cũ: 15A-MuoiHaiNhanDuyen
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-28-muoi-hai-nhan-duyen.mp3
(00:00) Trưởng lão: Tất cả mọi thứ như nhà cửa, rồi anh em, dòng họ, cô bác, tất cả mọi cái nương tựa với nhau mà sống. Ở trong cuộc sống này, có làng có xóm này kia, đó. Nó tạo thành, nhờ cái mà chúng ta tích trữ của cải tài sản, nhờ cái chúng ta có tình cảm đối với mọi người, cho nên có người thân, cũng có người ghét, cũng có người vầy người khác.
Cho nên tất cả những cái đó nó trở thành cái môi trường sống của chúng ta. Cho nên nó mới có buồn, có vui, có giận, có hờn, có đau khổ, có đủ cách ở trong đó. Và cái chỗ đó nó mới tạo cho chúng ta gọi là duyên Sanh, mà sanh ở đây tức là sanh y, chứ không phải là sanh tử, chứ không phải là chết, là sanh sản. Của cải, tài sản, sản nghiệp, v.v.. Là chỗ nương tựa của cuộc sống con người. Do muốn tích lũy của cải, tài sản và sản nghiệp nên con người phải làm lụng vất vả. Khi của cải hao mất thì ưu bi, sầu khổ, rồi sanh ra bệnh chết.
Đó là một cách rất rõ ràng và cụ thể. Cho nên Mười hai duyên chúng ta phải tới cái chỗ mà ưu bi, sầu khổ để chết đó, thì do cái duyên Sanh mà nó ra. Từ cái chỗ mà chúng ta có thân, bắt đầu chúng ta có cái thân, thân Ngũ Uẩn, rồi từ cái thân Ngũ Uẩn mới có cái Lục nhập nó xâm chiếm vào cái thân của chúng ta. Từ đó nó mới sanh ra Thọ, sanh ra Ái rồi nó sanh ra … mới giữ lại những cái điều mà mình ưa thích.
Mình ưa thích mình giữ lại, nó mới có cái của cải, tài sản đó. Nó có của cải tài sản đó rồi, thì nó hao mất, hoặc mất đi một người nào, người thân của mình, vì mình thương thì nó làm cho mình đau khổ. Vì vậy mà gọi là ưu bi, sầu khổ. Rồi từ cái ưu bi, sầu khổ nó nhiều lần như vậy, nó tạo chúng ta mới bệnh, bệnh rồi mới chết. Đó là cách thức của mười hai nhân duyên, nó như vậy.
Như vậy để mục đích đó để chỉ cho chúng ta biết rằng, cái duyên nào mà chúng ta cần phải phá đây, làm cho nó tiêu tan cái duyên đó đi, để mà chúng ta giải thoát cho được. Thì chúng ta thấy Sanh rõ ràng là vì vật chất chung quanh chúng ta, nó ràng buộc, trói buộc chúng ta rất nhiều, cho nên bây giờ chúng ta có chùa to này, có tháp lớn, hay hoặc là có của cải, tài sản, tiền bạc nhiều nè, có trói buộc chúng ta không? Có trói buộc.
(02:14) Bởi vì cái người mà tu hành, người ta có cái nghiệm người ta thấy rất rõ, và đạo Phật, đức Phật dạy rất rõ, không có cái mơ hồ, mà chúng ta lại giảng nó là sanh đẻ thì nó rất là mơ hồ. Cho nên ở đây chúng ta thấy, do mười hai duyên này, đức Phật đã chọn duyên Sanh để đặt ra ngoài cái thế giới của kiếp đau khổ này. Nghĩa là lấy duyên Sanh, mà làm sao phá cho được cái duyên Sanh, thì cái thế giới đau khổ này sẽ diệt, còn cái duyên Sanh mà nó còn, thì cái thế giới đau khổ này không diệt.
Cho nên khi một người bắt đầu xuất gia, thì đức Phật bảo như thế nào: "Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không nhà cửa, không gia đình." Có phải đó là mục đích câu kinh này, đó có phải là mục đích đức Phật đã nhắm vào cái duyên Sanh không? Đúng là vào duyên Sanh đó. Làm cho chúng ta không nhà không cửa, không người thân thuộc gì hết, chỉ còn có ba y, một bát mà thôi, mà lại cạo bỏ râu tóc làm cho chúng ta xấu xí đi, không còn đẹp, không còn trang điểm cho nó tốt nữa, như vậy là chúng ta đâu còn có cái gì mà ham thích nữa, còn cái gì mà trói buộc.
Cho nên đó là nhắm vào cái duyên Sanh mà giải quyết cho chúng ta được giải thoát. Đó là lối sống của một vị Tỳ kheo đã dứt duyên Sanh để được giải thoát hoàn toàn. Mình dứt được cái duyên Sanh thì mới được giải thoát hoàn toàn, mà mình không dứt duyên Sanh thì mình không giải thoát hoàn toàn. Đức Phật còn xác định thêm để đập phá duyên Sanh này một lần nữa: “Sanh đã tận, phạm hạnh mới xong!”
Nghĩa là khi nào mà cái duyên Sanh này, tất cả của cải, tài sản, dòng họ quyến thuộc, tất cả mọi cái, mà chúng ta đã lìa xa nó được rồi, nó đoạn tận rồi, tâm của mình nó không còn nhớ thương, không còn tiếc, không còn ham tiền ham bạc, không còn gì hết, cắt đứt hết rồi, thì cái đời sống mà đức hạnh giải thoát của cái người tu mới là xong. Cho nên đức Phật nó: "Phạm hạnh mới xong".
Đó thì, những cái câu kinh này, nó đã xác định cho rõ cho chúng ta thấy Thập Nhị Nhân Duyên đức Phật đã xác định rất rõ, chứ đâu phải. Đó thí dụ như cái câu đầu: “Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không nhà cửa, không gia đình”, đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai, thì xác định thêm để chúng ta thấy rằng “Sanh đã tận, phạm hạnh mới xong”, chỉ có cái duyên Sanh mà chúng ta đã tận nó được, lìa được nó rồi, xa nó được rồi, thì cái đời sống tu sĩ của chúng ta mới dứt.
Cũng như bây giờ, thí dụ như Thầy nói, thí dụ như cô Diệu Thảo, cô tu như vậy, cô lo như vậy, cô không có lìa nó ra được tức là cái duyên Sanh nó chưa có lìa, như vậy là Phạm hạnh chưa xong, tu không biết đời nào mới xong. Đó thì mình phải rút tỉa kinh nghiệm. Cũng như các con thấy, khi mà tu hành mà các con còn vướng bận con cái ở trong gia đình, thì như vậy duyên Sanh nó chưa đâu, nó chưa hết đâu.
Nghĩa là đói khát như thế nào mặc nó, miễn là mình tu cho được giải thoát mà thôi, không cần đến của cải, tài sản. Cho nên có nhiều người để ra, có của cải để dành, để rồi mình có chỗ mình nương tựa mình sống để mà, để rồi mình nương tựa mình sống, mình hằng ngày bỏ ra chút ít để mình sống, như vậy là cái người tu chưa có dứt hẳn duyên Sanh.
Nghĩa là dứt hẳn duyên Sanh, đói khát chúng ta không màng nữa, đói khát chúng ta không có lo nữa, mà nếu mà chúng ta không còn lo nữa, bữa đói bữa no mặc như thế nào cũng được, đó là chúng ta đã đoạn dứt duyên Sanh, không sợ. Chẳng hạn như bây giờ Thầy rời chỗ này Thầy đi, bằng cách là Thầy đi bộ từ đây mà đi ra tới Hà Nội, không cần phải đi xe cộ, ngày nào đi tới đâu hay tới đó. Một ngày đi được năm, mười cây số cũng tốt.
(06:01) Tới chỗ nào, thì chỗ đó tối thì mình dừng lại mình nghỉ. Có chùa thì mình ở, không chùa thì mình ở ngoài rừng cây, rừng bụi, cái gì cũng được hết. Thì như vậy thì Thầy không có sợ mà đói khát, trong lưng không có một đồng đem theo. Đói thì mình xin ăn, ai có cho thì mình sống, mà không cho thì mình cũng vui vẻ chớ không phải lo đói mà sợ đói sợ no, phải đem theo, phải bỏ tiền này kia nọ. Thì như vậy mới là duyên Sanh nó mới đoạn.
Còn nếu mà đi ra mà Thầy sợ, phải mang tiền theo thế này thế khác, để lên xe xuống ngựa, hoặc này kia, hoặc là đi có người này ủng hộ, người kia ủng hộ bằng cách này bằng cách khác, thì như vậy là chưa phải là cái người đã đoạn dứt duyên Sanh. Còn phòng hộ, còn lo sợ, còn này kia nọ, thì như vậy chưa phải đoạn dứt duyên Sanh.
Cho nên ngày xưa Thầy xin nhắc lại, cái duyên Sanh mà đức Phật đã đoạn dứt trong một câu chuyện như thế này. Một hôm đức Phật, thường thường thì đức Phật có một ngàn hai trăm năm chục vị Tỳ kheo, nhưng mà thường thường đức Phật đi, là đi một mình chứ không có đi theo một cái người nào. Thỉnh thoảng thì lâu lâu có ông A Nan đi theo, mà không thì đức Phật đi một mình.
Thí dụ như, đây đi xuống thành phố, đức Phật đi một mình, hoặc là đi, ở đây ở cái xã này, đi qua một cái cái xã khác, thí dụ như ở đây là xã Gia Lộc, mà đức Phật đi sang qua Đôn Thuận thì trong khi đó đức Phật đi một mình, chứ cũng không bao giờ mà đi hai, ba thầy hoặc là năm, mười thầy đi theo.
Cho nên một hôm đó thì đức Phật đi sang qua một cái nơi khác. Thì lúc bấy giờ trời tối, đức Phật mới tới chỗ cái lò gốm, chỗ người là làm đồ sành đó, thì đức Phật tới xin cái ông chủ mà lò gốm đó, cho tôi được nghỉ ở đây một đêm. Thì cái ông chủ lò gốm đó, ổng nói tôi đã lỡ cho một cái người tu sĩ khác, họ cũng đến đây mà họ ngủ, họ ở rồi, bây giờ cho ông thì không biết ông kia có bằng lòng không, vì có cái nhà trống này là để mà làm đồ gốm thôi, còn những chỗ khác thì nó không có chỗ. Do đó Đức Phật, nếu mà cái ông kia bằng lòng, thì tôi cũng nhận cho ông ở đây một đêm.
Thì Đức Phật nói thôi được, ông cứ đưa tôi gặp cái vị đó đi. Thì khi mà đưa vào cái chỗ mà cái nhà trống để mà làm đồ gốm đó, thì gặp cái vị Tỳ kheo đó, thì đức Phật mới đến xin vị Tỳ kheo đó: “Bây giờ lỡ tôi đi qua đây nó tối rồi, xin ngài vui lòng, xin hiền giả vui lòng cho tôi được ở đây một đêm, ngủ đây một đêm”. Vị tu sĩ kia mới vui vẻ: “Được, không có sao đâu. Hiền giả cứ tự nhiên mà ở đây mà ngủ cho nó, nghỉ cho nó khoẻ. Đừng có đi đâu chỗ khác mà mất công tìm”. Thì do đó thì cái ông chủ lò gốm đó, ổng rất bằng lòng mà cho hai người ở.
(09:04) Thì lúc bấy giờ, đức Phật mới đem những cái vật dụng của mình mới trải ra ở dưới cái cái sàn nhà của cái người đó, mà nghỉ. Thì đêm đó đức Phật ngồi thiền, thì đức Phật cũng thấy ông này cũng ngồi thiền, cũng y như cách đức Phật mà đã dạy các đệ tử. Nhưng đức Phật không biết cái ông này là học với ai mà sao cũng tu giống như mình, cũng hành động, cũng hành, thức giờ giấc cũng nghiêm chỉnh như mình.
Cũng như bây giờ, thí dụ như các con thấy, Thầy dạy bây giờ các con từ bảy giờ đến mười giờ mới đi ngủ, rồi từ hai giờ thức dậy, do đó cho đến năm giờ các con xả thiền. Rồi ban ngày thì từ bảy giờ các con tu đến chín giờ rồi xả ra, rồi từ hai giờ cho đến năm giờ. Các con cũng giữ giờ giấc như vậy. Ông Phật thấy rõ ràng cái ông này sao cũng tu đúng, mà mình đâu có dạy ông này hồi nào đâu.
Cho nên đức Phật mới mon men đến mới hỏi thăm: “Thưa hiền giả, không biết hiền giả đã tu với ai, mà cái hành động của hiền giả tôi thấy tu rất tốt vậy!” Thì ông đó nói: “Tôi tu với đức Cù Đàm”. Đức Phật nghe ông ta nói vậy mới giật mình: “Ủa, như vậy là ông có bao giờ gặp đức Cù Đàm chưa?” Thay vì nói đức Cù Đàm tức là đức Phật chứ gì, mà ông này lại không biết đức Phật, cho nên ông Phật mới hỏi: “Vậy ông có bao giờ gặp mặt đức Cù Đàm chưa, mà ông tu với ông ta?”.
Thì ông này mới nói: “Chưa bao giờ tôi gặp mặt ông ta hết. Tôi chỉ nghe pháp của ông ta rồi tôi hướng tâm, tôi tin tưởng ông ta mà tôi nỗ lực tôi tu. Giờ giấc nghiêm chỉnh như thế này là do cái sự hướng dẫn của ông ta. Tôi không làm sai lời hướng dẫn nhưng mà tôi chưa bao giờ gặp ông ta hết”.
Do đó đức Phật mới nói: “Cỡ sức mà có đức Cù Đàm ở đây thì hiền giả có nhận ra được không? ". Nói: “Không, tôi chưa biết mặt ông ta lần nào hết. Tôi nói có dịp nào, tôi sẽ đi về nước Xá Vệ để mà đến đảnh lễ ông ta. Chứ còn bây giờ thì tôi chỉ theo pháp ông ta dạy, và hướng tâm tin tưởng nơi ông ta mà thôi. Vì tôi nghe cái tiếng của ông ta như vậy.”
Đó, thì mấy con thấy, cả ngay cái người tu theo cái pháp của Phật chỉ có nhận ra cái giờ giấc mà người ta biết thôi. Cũng như bây giờ các con đi đến cái chỗ nào đó mà thấy cái người đó giờ giấc mà tu đúng, thì các con biết là cái người này đã có học pháp ở đây rồi. Thì hỏi người này có bao giờ biết Thầy không, thì các con hỏi, thì người ta nói không biết, thì các con biết người đó không gặp được Thầy dạy người ta, nhưng mà người ta theo cái pháp của Thầy mà người ta tu mà thôi. Bởi vì qua cái giờ giấc người ta đã thấy được.
Thì ở đây, các con thấy một cái người mà bỏ hết cái cuộc sống, cho nên người ta không có sợ hãi trước cái vấn đề gì, cho nên người ta đến một cái nơi nào đó thì người ta rất ung dung tự tại, người ta không lo đói, lo no. Còn bây giờ, tại sao mà quý thầy đi lại có tiền hô hậu ủng, tức là tỏ ra cái danh của mình, cho nên phải có kẻ hầu người hạ như vua chúa, thứ nhứt.
(12:02) Cái thứ hai, là đi một mình mà không tiền không bạc ở trong túi, thì sợ đói khát, rồi ngủ bờ ngủ bụi, ngủ rừng ngủ hang, ngủ dưới bóng cây thì quá vất vả khổ sở, cho nên họ không dám làm điều đó đâu. Còn trái lại, nếu một người mà đã ly được cái sanh y này rồi, thì họ không còn sợ hãi đâu.
Cho nên đứng trước Thầy, Thầy nghĩ rằng các con, thì người nào cũng một thân, mấy người nam này người nào cũng nói muốn theo Thầy, nhưng mà sự thật họ theo Thầy chừng một ngày là họ đã bỏ cuộc họ đi về thất rồi. Thầy tin rằng đây mà Thầy, thường thường mà Thầy đi bộ đây mà về tới thành phố thôi là họ đã bỏ Thầy họ đi rồi, họ không còn theo Thầy nổi.
Tại sao vậy? Tại vì chưa bao giờ họ đi bộ như vậy, và họ không có chịu nhọc nhằn như vậy đâu. Bởi vì xe cộ bây giờ nó quá tiện lợi mà bây giờ mà đi bộ như vậy, thì chắc chắn là không thể nào. Mà cái người mà thực hiện mà không đúng những cái hạnh như vậy, thì đương nhiên là Sanh không có tận đâu, thì Phạm hạnh nó không xong. Đó là Thầy muốn nói để cho cái duyên Sanh mà chúng ta, tu tập chúng ta …
Cho nên trong cái người tu sĩ chúng ta không thấy cái vất vả mà chúng ta thấy cái giải thoát. Nó không bị cái trói buộc bởi những cái tiện nghi của cái thế gian này, nó không bị ràng buộc làm chúng ta ham thích cái này. Đó là những cái tu hành của chúng ta.
Đó là cái lối sống của một vì Tỳ kheo đoạn dứt duyên Sanh để được giải thoát hoàn toàn. Đức Phật còn xác định thêm, phải đập tan cái duyên Sanh này: “Sanh đã tận, phạm hạnh mới xong”. Đó là những cái câu kinh mà đức Phật đã dạy cho các vị Tỳ kheo trong cái thời trước để phá cái duyên Sanh. Có dứt được duyên Sanh, thì giới luật của Phật mới nghiêm chỉnh. Nếu duyên Sanh không dứt được thì đời sống tu sĩ có khác nào là một cư sĩ trọc đầu.
Nghĩa là chúng ta không dứt được cái duyên Sanh, mà chúng ta nỗ lực tu theo pháp Phật, giữ gìn giới luật bằng cách này, bằng cách khác thì nó cũng như là một người cư sĩ trọc đầu mà thôi. Từ chỗ sống thanh tịnh, giới luật và tu tập các giới hành, khiến cho thân tâm thanh tịnh xa lìa lòng tham muốn và các pháp, nhờ đó ta mới tiến sâu vào Thiền Định bằng pháp hướng tâm vào Định. Từ Định ấy ta mới hướng tâm đến trí tuệ, do đó ta mới có tri kiến và tri kiến giải thoát.
Bởi vì, cái chỗ này, tại sao Thầy nhắc lại cái chỗ này để thấy, từ cái chỗ mà cái đời sống mà thanh tịnh như vậy đó, nghĩa là cắt đứt tất cả những cái duyên Sanh thì nó mới là thanh tịnh, từ đó giới luật chúng ta mới nghiêm chỉnh được. Chứ nếu còn một chút gì ở trong tâm của chúng ta, nó chưa có đoạn dứt cái duyên Sanh đó, nó còn nghĩ nhớ này kia, thì cái giới luật chúng ta, nói là chúng ta giữ giới là cái hình thức giới, chứ sự thật tâm của chúng ta nó không có giữ giới chút nào đâu.
Cho nên từ cái chỗ mà cắt được cái duyên Sanh rồi, thì chúng ta thực hiện giới luật, thì giới luật rất nghiêm chỉnh. Mà thực hiện những cái tu tập, thì tâm của chúng ta nó mới có thanh tịnh được, ác pháp nó mới dứt được. Từ cái chỗ duyên Sanh đó mà chúng ta đi vào đạo, thì nó rất dễ dàng, mà từ cái chỗ duyên Sanh đó mà chúng ta chưa đoạn dứt được, thì chúng ta vào đạo rất khó khăn. Cắt được, rất dễ dàng và trí tuệ, và tri kiến giải thoát của chúng ta nó cũng dễ dàng.
(15:57) Thập Nhị Nhân Duyên đã xác định, Sanh dứt thì Ưu bi, sầu khổ dứt, đó là đi thuận chiều. Còn đi ngược chiều, Sanh dứt thì Hữu dứt, Hữu dứt thì Thủ dứt, Thủ dứt thì Ái dứt, Ái dứt thì Thọ dứt, (Các con xích vào gần con), Thọ dứt thì Xúc dứt, Xúc dứt thì Lục Nhập dứt, Lục Nhập dứt thì Danh Sắc dứt, Danh Sắc dứt thì Thức dứt, Thức dứt thì Hành dứt, Hành dứt thì Vô Minh dứt. Đến đây thì thế giới đau khổ diệt, nên đức Phật dạy: “Những việc làm đã làm xong, không còn trở lui trạng thái này nữa”.
Mười hai nhân duyên đạo Phật đã chọn cửa Sanh mà vào, vì thế Ngài dùng giới luật là pháp môn đầu tiên để đánh phá thành trì duyên Sanh. Bởi vì cái giới luật của Phật, nó nhắm vào cái duyên Sanh đó mà nó đập phá, cho nên cái người nào mà giữ gìn giới luật, thì người đó phải là đập phá cái duyên Sanh. Mà đập phá duyên Sanh tức là không còn chỗ nương tựa của một con người phàm phu nữa.
Nhân duyên được xem là Sanh và ải địa đầu, nếu chiếm được Sanh là giải thoát Ưu Bi Lão Tử, Ưu Bi Lão Tử đã phá thì Vô Minh cho đến Thủ, Hữu cũng đều tan tành. Đây là một cái bài pháp mà chúng ta thấy được cái điều kiện mà chúng ta phải thực hiện. Bởi vì nó là mười hai duyên, mười hai duyên tức là mười hai cái phần để nó hợp nhau mà nó thành cái thế giới khổ của chúng ta.
Muốn cho cái thế giới khổ của chúng ta hết khổ, chấm dứt sanh tử luân hồi, làm chủ sự sống chết đó, thì nhắm vào cái duyên Sanh đó mà đập phá. Mà đập phá nó, thì tức là phải giới luật là cái pháp đầu tiên để ngăn chặn chúng ta không còn phạm vào cái cuộc sống của cái thế gian nữa.
(18:25) Đây là lối lý luận của nhà học giả, nghĩa là có nhà học giả họ sẽ lý luận: “Nếu đời sống hằng ngày chỉ thuần tuý Vô Minh, thì đạo Phật đi vào bằng cửa nào? Làm sao có sự cứu độ, làm sao có sự chuyển hoá?” Đây là cái lối lý luận của nhà học giả: “Nếu đời sống hằng ngày mà chúng ta thuần tuý ở Vô Minh đó, thì đạo Phật sẽ đi bằng cái cửa nào mà vào, và làm sao mà cứu độ được, làm sao chuyển hoá được cái tâm của mình. Cho nên ta nói Vô Minh nhưng cũng có Minh”. Nghĩa là trong Vô Minh nó có Minh trong đó, ý của các nhà học giả nói mà.
Họ lý luận như vậy, tức là họ sẽ phá vào cái cửa Vô minh bằng cái Minh. “Nếu ta không có chút Minh nào, thì tại sao Phật nói tất cả chúng sanh đều có hạt giống trí tuệ của giác ngộ, của giải thoát?" Đó là cái lối lý luận của họ ở trong kinh sách Đại thừa. Họ cho rằng mỗi chúng ta đều có Phật tánh trong đó, đều có trí tuệ, đều có cái hạt giống của trí tuệ, của giác ngộ, của giải thoát, thì đó là cái Minh chứ không phải Vô Minh. Mà trong Vô Minh nó có cái Minh đó, cho nên từ đó chúng ta phải đột phá, khai triển cái Minh đó.
Khi mà tâm còn ác pháp, thì không thể nào gọi là Minh được. Hỡi các con, các con lưu tâm, cái vấn đề này rất là quan trọng. Khi cái tâm của chúng ta nó còn cái lòng ham muốn, nó còn ở trong ác pháp, thì hoàn toàn là chúng ta Vô Minh chứ không thể nào Minh. Bây giờ làm sao chúng ta triển khai cái Minh này được? Khi mà chúng ta triển khai cái Minh này được đó, là chúng ta phải lìa cái lòng ham muốn, phải lìa cái ác pháp, thì cái Minh nó mới hiện ra được.
Còn bây giờ, cái Vô Minh của chúng ta, là tại vì cái dục và ác pháp nó che đậy nó làm mờ đi, mà lúc bây giờ mình chưa có vén ra được, cho nên làm sao mà có Minh được. Thí dụ là mình muốn vén cái màn mây mờ này, lòng ham muốn của mình và các áp pháp đó, thì chúng ta phải đi vào cái ngõ Sanh chứ không thể đi vào cái chỗ Vô Minh này mà phá được. Bởi vì cái ngõ Sanh, là nó trong ngõ Sanh, nó ở trong đó nó mới sanh dục, nó mới ra các ác pháp.
(21:42) Bởi vì một cái tâm mà nó còn cái lòng dục, nó còn cái lòng ham muốn, nó còn ác pháp, thì nó không thể nào gọi là Minh được. Mà cái dục và ác pháp này, nó ở trong cái môi trường nào mà có cái này? Nó ở trong cái môi trường Sanh, cái duyên Sanh mà nó có. Sanh là nhà cửa, của cải, tài sản, anh em, cha mẹ, ruột rà, tất cả những cái này nó mới sanh ra lòng ham muốn, nó mới sanh ra cái ác pháp.
Cho nên nếu mà muốn cho có Minh, không phải từ chỗ Vô Minh mà khai triển Minh được. Mà phải đi từ cái chỗ Sanh, mà phá cái duyên Sanh, thì cái Minh nó mới có. Tức là phải ly dục, ly ác pháp thì nó mới có. Minh có được khi nào lìa xa lòng ham muốn và ác pháp. Còn hiện giờ ta cố gắng học hỏi, thông suốt Tam Tạng kinh điển thì cái Minh đó không còn là Minh nữa.
Vì cái lớp Vô Minh, để dục và ác pháp che đậy cái lớp Vô Minh kia, khiến cho ta tưởng mình giải thoát, nào ngờ không giải thoát. Nghĩa là chúng ta chấp nhận rằng, chúng ta có đi học thông suốt những Tam Tạng kinh điển để hiểu biết, đó là khai mở cái Minh của chúng ta, để làm chúng ta hiểu, là cái lòng ham muốn là ác pháp thế này thế khác, nhưng chúng ta lại lầm.
Từ cái lớp Vô Minh này, tức là cái lớp Vô Minh mà học hỏi thêm này, là do cái lòng dục mà ham để cho cái Minh, cho nên nó đậy lên cái lớp Vô Minh kia nữa. Cho nên một cái người học hỏi càng nhiều, thông suốt càng nhiều, nói năng lưu loát càng nhiều, thì cái người đó lại còn Vô Minh hơn nữa, lại càng có tâm ham muốn hơn nữa. Nhưng mà cái người đó cứ ngỡ tưởng mình là giải thoát, mình hiểu, cứ ngỡ rằng mình giải thoát, nhưng cái hiểu đó chưa phải là giải thoát.
(24:16) Vì lối sống của những nhà học giả (cửa Minh), đang sống trong dục lạc, chưa nói lên được sự làm chủ của cuộc sống, thì làm sao nói lên được sự làm chủ của sự chết. Bằng chứng rất rõ là các con thấy rằng cái người học có bằng Tiến sĩ Phật học, họ thông suốt giáo lý bằng mọi cách, nhưng họ, cái cuộc sống của họ chưa làm chủ được cái ăn, cái ngủ của họ, họ chưa được làm chủ trong cái đời sống thiếu hụt của họ, họ còn sợ những sự thiếu hụt, họ còn sợ những cái đói kém, họ còn sợ những cái thèm khát ham muốn của họ, họ còn lo lắng những điều này thế kia.
Cho nên họ không dám lìa xa cái môi trường sống trong dục lạc của thế gian. Họ không lìa xa được sanh y của họ, thì họ làm sao họ làm chủ được sự chết của họ, cho nên cái Minh của họ là cái lớp Vô Minh che đậy trên một cái Vô Minh khác. Kinh sách họ viết ra, giải thoát chỉ là lời nói suông, lời nói không đi đôi với việc làm của họ.
(25:32) Để trở lại câu hỏi của cô Diệu Quang. Khi Thầy đã giải thích cho các con hiểu mười hai duyên mà các nhà học giả đã làm lệch ý nghĩa của Phật, chia mười hai duyên, bày ra làm ba thời quá khứ, vị lại và hiện tại, đó là một việc làm sai lệch lớn. Mười hai duyên như Thầy đã giảng chỉ là một, chỉ cho cái duyên hợp lại thành một khối lớn đau khổ trong hiện tại.
Thí dụ một cái nhà phải có các duyên hợp lại như cột, kèo, đòn tay, gạch ngói, hồ, cát, xi măng, cửa cái, cửa sổ, v.v. mới tạo ra được cái nhà. Thế mà người ta chia cái nhà ra manh mún, ba thời gian, thì con nghĩ còn cái nhà còn đúng không. Bởi vì ở đây, đầu tiên là họ chia cái Thập Nhị Nhân Duyên ra. Kết luận lại thì chúng ta thấy đó là cái sai. Giải thích từng duyên, có những duyên dạy rất sai để làm chúng ta không hiểu biết.
Ở đây mục đích của bài Thập Nhị Nhân Duyên, là đức Phật nhắm vào để chỉ cho chúng ta biết cái cửa nào mà chúng ta phá vào để mà chúng ta được giải thoát, phá cái duyên nào để làm cho tất cả các duyên khác nó sẽ hoại diệt, nó không còn dính mắc với chúng ta nữa. Đức Phật đã xác định nhờ câu nói ở câu kinh để chỉ cho đó là phá vỡ cái duyên Sanh. Như vậy là bài Thập Nhị Nhân Duyên chúng ta thấy rất rõ ràng và cụ thể, để giúp chúng ta một đời sống của người tu sĩ.
Cô Diệu Quang hỏi tiếp Thầy: “Tại sao người ta giảng Danh Sắc là đối tượng của Thức, xin Thầy giảng cho con hiểu chỗ này.“ Nghĩa là chỗ này hồi nãy Thầy đã có giảng rồi. Thì bây giờ thì cô Diệu Quang hỏi Thầy nhiều câu hỏi, nhưng mà câu hỏi đầu là tổng quát cho nên Thầy đã giảng qua lớp. Bây giờ Thầy đáp trở lại để cho lớp ngoài để cho chúng ta hiểu.
Đáp: Tại vì ta hiểu Thức là một cái khác của Danh Sắc. Ở đây chúng ta do hiểu các duyên hợp lại để thành một cái hợp nhất khác chứ không phải là đối tượng của thức nữa.
[Con cầm đi… Còn thiếu một cuốn nghe con]
(28:54) Hỏi: Hữu tạo ra Sanh, mà đã Sanh thì thế nào cũng có già chết. Vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Không, lối giải thích như vậy không đúng nghĩa của đạo Phật. Như Thầy đã giải thích ở trên, Sanh không phải là sanh tử mà là sanh y, đó là chỗ nương tựa của Thân Ngũ Uẩn để sống trong đau khổ bất tận. Nghĩa là chữ Sanh này là như Thầy giảng hồi nãy là sanh y, là cái chỗ nương của Thân Ngũ Uẩn để làm cho nó sống trong cuộc sống đau khổ.
Hỏi: Mười hai nhân duyên có phải là pháp hành để tu giải thoát hay không? Nghĩa là cô Diệu Quang hỏi Thầy, có phải là mười hai nhân duyên này, đó là cái pháp hành để chúng ta tu giải thoát không. Hay là nó là một cái gì?
Đáp: Mười hai nhân duyên này là pháp môn để hiểu biết thế giới khổ của con người do các duyên hợp lại. Nhờ có hiểu biết các duyên, nên mới biết cách phá duyên nào trước để chuyển thế giới khổ đau này trở thành thế giới không đau khổ.
Hỏi: Kính thưa Thầy, người giác ngộ mười hai duyên thì chứng quả Duyên giác A La Hán. Nhưng các nhà học giả đã giảng mười hai nhân duyên tỏ ra rất là thông suốt sao lại không chứng quả Duyên giác A La Hán? Xin Thầy chỉ rõ cho con hiểu.
Đáp: Nếu người nào đã thông suốt Thập Nhị Nhân Duyên, ngộ được Duyên giác, thì chùa to tháp lớn, danh lợi, ăn ngon, mặc đẹp họ đều bỏ xuống hết, chỉ còn ba y một bát, chỉ còn một du tăng khất sĩ sống không nhà, không gia đình, thì đó mới gọi là giác ngộ Duyên giác. Bằng không chỉ là học giả mà thôi.
Các con thấy, khi mà chúng ta ngộ được Thập Nhị Nhân Duyên rồi, thì chúng ta bỏ sanh y, đoạn dứt sanh y, thì đời sống của chúng ta chỉ còn là một du tăng khất sĩ, chỉ có ba y một bát, không còn một cái vật gì cả hết, không còn một cái sự gì dính mắc ở trong gia đình hết. Thì như vậy mới gọi là Duyên giác, mới gọi là ngộ Duyên giác. Còn nếu không, thì người đó chỉ là học suông cái Duyên giác mà thôi.
Cho nên từ khi mà ngộ được cái lý Duyên giác, Thầy biết cái mấu chốt đau khổ của con người là do cái duyên Sanh mà đau khổ, nên từ đó mà xả lần, xả lần, xả hết xuống mà không còn chừa một vật gì hết, để rồi còn hai bàn tay trắng, đi lang thang từ nơi này đến nơi khác. Thì đó mới chính là cái hạnh của một du tăng khất sĩ, của một người tu giải thoát. Nếu còn chùa to, còn tháp lớn, còn chỗ này, còn chỗ kia, thì tức là chưa phải là cái người mà đoạn dứt duyên Sanh.
Giác ngộ được Duyên giác tức là họ đã sống đúng giới luật. Nghĩa là mình ngộ được cái lý Duyên giác thì không bao giờ mình vi phạm giới luật của Phật hết, sống đúng giới luật của một bậc Thánh.
Phật tử : …
(32:41) Trưởng lão: Về cái Chánh Niệm Tỉnh Giác thì cái sắp xếp như vậy rất là ổn. Còn về cái khả năng của con, tức là cái đặc tướng của cơ thể của con, nếu mà cứ trong một ngày một đêm, hai mươi bốn tiếng đồng hồ mà sắp xếp như thế này để khoá tu khoảng ba tiếng buổi trưa, buổi trưa tu ba tiếng, buổi chiều, buổi trưa buổi chiều tu ba tiếng, buổi tối tu ba tiếng, buổi khuya tu ba tiếng, suốt cái thời gian như vậy thì tốt.
Nhưng nếu mà cái đặc tướng, cái khả năng của mình, nó không đi suốt được khoảng ba tiếng trong một buổi như vậy, thì con nên đi khoảng hai tiếng thôi. Nếu mà hai tiếng đồng hồ mà thấy cái sức khoẻ của mình nó không có đủ sức để kham nhẫn cái thời gian tu hành, thì như vậy còn … một giờ. Về giờ tu, tu liên tục trong những cái giờ tu …, nhưng cái giờ tu là phải đạt được.
Cái giờ nghỉ, thì các con nên …. Nghỉ thì xả mà trở về với trạng thái bình thường của mình. Đừng có tu … luôn luôn cứ theo cái kiểu mà tri vọng, biết vọng liền buông, cứ hễ thấy vọng tưởng cái là buông ra. Đến lúc mình nghỉ là mình … khi nào nhớ là mình buông ….
Ở đây thí dụ tu, tức là cái giờ mình làm chủ, làm chủ cái sự sống chết cái thân tâm của mình … cái gì đó. Cái giờ tu là cái giờ làm chủ. Mà cái giờ không tu, cái giờ mình xả nghỉ, thì trả lại cái quyền tự do cho nó, nó có nghĩ ngợi nó làm gì nó làm, phải không? Đừng có cứ luôn luôn lúc nào cũng tu …
Thì đó là cái ngôn ngữ, sự thật ra nó phải tu như vậy. Mà vì nó đã quen đi cái người xưa dạy cho người nay tu nó cứ, giờ đấy nói nó tu thì luôn luôn trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, đều cứ tu hết. …
Bởi vì đây là cái thói quen nó đã lâu đời lắm, khi đi tu …, khi chẳng đi tu thì thôi, mà đã đi tu vào thì coi như giờ nào mình cũng tu. Mà cái sức của mình thì nó tu không nổi như vậy, mà lại muốn làm chuyện như vậy. Cho nên tu mãi mà dậm chân tại chỗ như vậy. Bởi vì cái sức nó làm chưa có được. Đừng có làm hơn cái sức của mình.
(35:30) Ở đây cái mục đích để mà chúng ta tu, thí dụ như bây giờ buổi sáng chúng ta lấy 30 phút chúng ta tu trong buổi sáng. Bao nhiêu cái thời gian đó chúng ta xả nghỉ xong nó bình thường để cho …. Để cho nó phải gò bó ép buộc đừng có vọng tưởng. Chúng ta tu ba mươi phút. Ba mươi phút đó, buổi sáng chúng ta làm chủ rất là rõ ràng. Không có một cái tạp niệm, ở trong kinh điển của Phật là không thất niệm. Là trong cái giờ mà chúng ta tu nó không có thất niệm.
Còn ngoài cái giờ mà chúng ta tu, thì chúng ta đâu phải là cứ lúc nào chúng ta cũng cứ giữ cái niệm, cho nên vì vậy mà ngoài cái giờ tu ra chúng ta, thì chúng ta, như đức Phật đi kinh hành, rồi đi khất thực, rồi đến các vị tu sĩ ngoại đạo, rồi nói chuyện, rồi thế này thế khác, thì như vậy rõ ràng là đâu có phải lúc nào cũng tu đâu. Cho nên chúng ta cũng phải xét qua cái đời sống của đức Phật rồi xét qua sự tu tập của mình.
Cho nên thí dụ như buổi sáng tu ba mươi phút, ba mươi phút hoàn toàn chất lượng thực hành. Xong ba mươi phút rồi các con làm chuyện các con, không có cần phải, tu gì nữa hết. Làm như mình một người mà người ta chưa có biết tu vậy. Cứ làm, nhưng mà khi mà có một cái sự việc gì, nó làm cho các con phiền não chẳng hạn, nó làm cho các con buồn, hoặc là nó làm nhớ nghĩ đến cái người thân của mình thế này thế khác, thì ngay đó các con dùng Định Vô Lậu mà quán xả cái tâm đó đi.
Còn nếu mà nó không buồn, không phiền não, không nhớ, không nghĩ cái gì hết, mà nó có nghĩ ngợi chuyện này chuyện kia mà nó không có làm mình thương nhớ sầu khổ trong lòng của mình, thì thôi để cho nó đừng …, thì tốt hơn là cứ xả cái ….
Ở đây chừng nào mà chúng ta muốn nhập một cái định mà từ một giờ cho đến một ngày một đêm, cho đến bảy ngày, bảy đêm, thì chừng đó chúng ta phải có cái lực nào đó chúng ta mới có thể kéo dài thời gian nhập định. Còn cái đời sống của chúng ta, chẳng hạn như đời sống nãy giờ chúng ta đang sống, khi nghe Thầy nói chuyện, các con đâu có nhiếp tâm ở trong pháp nào tu đâu.
Đó thì các con cứ giữ cái tâm mình bình thường, không có lo phải diệt tâm mà xả ngã gì trong cái lúc bình thường, nhưng mà trong cái lúc tu, cái giờ tu đó, thì […]. Nghĩa là đừng để cho nó thất niệm. Mà thất niệm thì không tốt. Còn các con tu suốt ba tiếng đồng hồ một buổi, nó thất niệm tùm lùm à.
Rồi ngày nào nó cũng bị thất niệm hết, mà không biết lúc mình tu … ở chỗ nào mà sao, lúc thì nó không vọng tưởng, lúc thì nó yên, lúc nó không yên. Mà rốt cuộc rồi thì gặp sự việc gì đó thì các con lại không giữ được cái tâm của mình bất động, thanh thản. Cái đó là cái các con tu nhiều, tu rất nhiều, mà cái rất nhiều đó nó không có kết quả.
(38:37) Cho nên nghe lời Thầy dạy thì các con tu cho nó tốt. Thí dụ cũng như cô Diệu Tịnh, cô sắp xếp lại cái thời khoá tu, thì từ cái pháp hướng cho đến cái trạch pháp, đều là có thể câu hữu với các định rất rõ ràng và cụ thể qua những bài học. Sắp xếp như thế này thì nó mới tốt. Nếu mà không sắp xếp như thế này, thì coi như là mình không có biết mình tu cái gì, sắp xếp như thế này để mình biết, 7 giờ mình tu cái gì, rồi 8 giờ mình tu cái gì, 9 giờ mình tu cái gì.
Còn trong khi đó mà mình cái sức mình yếu, mình biết cái khả năng của mình, mình kham nhẫn một thời gian dài ba tiếng đồng hồ liên tục, mà nó bị thất niệm, cho nên mình … vậy, mà mình sắp xếp cái thời khóa y như vầy, mà trong ba mươi phút mình chia làm ba thời gian tu …, tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, rồi tu … chia ra … chỉ trong ba mươi phút. Thì như vậy là rõ ràng là trong ba mươi phút mình chia mà mình tinh tấn vẫn cố gắng ba mươi phút này tu ba cái định đó, hoàn toàn không thất niệm. Thì cái đó là cách đúng.
(39:55) Cô Diệu Tịnh hỏi Thầy, khi mà tu cái Định Vô Lậu, thì nếu mà nó có cái đối tượng gì, nó làm cho tâm mình nó phiền não, hoặc là tâm mình nó nhớ, nó nghĩ cái gì đó, thì mình tu, còn không có thì mình không có nên tu, tu như vậy có được không. Thì cô hỏi Thầy: “Kính thưa Thầy, còn về Định Vô Lậu chỉ khi có đối tượng con đặt niệm trước mặt mình, ngồi kiết già, quán xét định …, có được không thưa Thầy?”
Nghĩa là, về cái phần mà Định Vô Lậu, thì trong khi mà các con ngồi chơi, bây giờ thì không phải mà ngồi mà quán suy tư, bởi vì tất cả những cái lý của Đạo, biết cái thân mình vô thường, bất tịnh, biết hết, không có người nào mà không biết. Biết nhưng họ tâm họ vẫn khổ … không có gì.
Cho nên bây giờ chúng ta không phải cần phải ngồi lại mà suy tư duy để mà quán xét cái đó nữa, mà chúng ta khi mà chúng ta tu, thì câu hữu cái Định Vô Lậu với cái Định Niệm Hơi Thở để nhắc ly tham hoặc là ly sân, ly si. Đó mình nhắc nó, nhắc … câu pháp hướng. Còn khi nào mà có đối tượng làm cho chúng ta phiền não, nó làm cho chúng ta có giận hờn, nhớ thương, đau khổ, thì lúc bấy giờ chúng ta mới đặt cái niệm đối tượng đó trước mặt chúng ta, tư duy quán xét.
Mình nhìn nó qua … luật Nhân Quả, hoặc là đối với cái thân của mình, mình nhìn qua cái vô thường của nó, đối với cái tâm của mình, thì nhìn qua cái vô thường, đối với cái thọ khổ, do vì vậy mà chúng ta xả nó đi. Cho nên …, tu cái Định Vô Lậu …. Cũng như bây giờ cái tâm chúng ta bữa nay cô Út nấu … thì như vậy, cái hoặc là …
Trên cái vấn đề tu tập mà quán xét cho kỹ, thì Định Vô Lậu, thì khi mà vướng cái đối tượng, có cái đối tượng tức là có sự việc hoặc là cái pháp, nó làm cho tâm chúng ta khởi lên tham, sân, si, phiền não, thương nhớ gì đó, thì chúng ta dùng Định Vô lậu. Mà bình thường tâm chúng ta không có gì thì dùng pháp hướng: "Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”, thì như vậy mình nhắc nhở cái mình nương theo hơi thở để mình ly. Mà khi nó thấy nhớ cái món ăn đó mà nó thèm tức là tham, thì tức là bây giờ mới dùng cái Định Vô Lậu để quán, còn không thì đừng có quán.
Cho nên trong những cái thì giờ mà tu tập các con …, tức là … chọn lấy Tứ Chánh Cần để mà tu tập. Thì Thầy xin nhắc lại để cho các con rõ pháp Phật…. Khi mà tu Chánh Cần tức là ngăn ác diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện, tự nhiên cái thiện nó có ở trong tâm của mình. Chớ mình không có sanh thiện, mà ngăn ác dứt ác làm cho cái pháp ác không có chiếm được thân tâm của mình. Cho nên đó là pháp ngăn ác diệt ác.
(44:11) Còn cái pháp mà sanh khởi thiện và tăng trưởng thiện, đó là cái pháp Tứ Vô Lượng Tâm. Ai đi vào pháp Tứ Vô Lượng Tâm, thì nên tu cái Từ Bi Hỷ Xả trên cái tâm này, để mình câu hữu với Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu trong cái lúc đó để mà kết hợp tu Từ Bi Hỷ Xả. Thì nó, khi mà tăng trưởng, sanh khởi và tăng trưởng thiện pháp, và …. Cho nên … nhưng mà ác pháp không vô được, luôn luôn cố ý tăng trưởng cái lòng Từ Bi Hỷ Xả của mình lên ….
Còn về cái phần mà tu Tứ Chánh Cần, thì ngăn chặn và đoạn dứt các pháp ác, chớ không có động chạm gì đến các pháp thiện hết, nhưng mà các pháp thiện thì tự nó nó đã …. Cho nên bên kia thì nó dứt ác, nó diệt ác, mà luôn luôn tăng trưởng thiện pháp, vì thế mà nó cũng được giải thoát.
Còn bên đây thì ngăn ác diệt ác, chẳng phải lo lắng cho cái phương pháp mà đuổi cái thiện pháp, tăng trưởng thiện. Cho nên đức Phật đã bảo rằng, ngăn ác diệt ác. Mà muốn tăng trưởng nó thì tức là chỉ sống trong cái trạng thái mà không tham không sân không si, thì đó là …. Cho nên ở bên đó nói, để tăng trưởng ….
Tứ Vô Lượng Tâm thật sự ra là tăng trưởng thiện pháp, là vì mình đi mình chú ý để cho mình khỏi giẫm đạp côn trùng hay là dế, kiến ở dưới chân của mình, tức là sanh cái tâm từ. Do cái tâm từ đó nó làm cho sức tập trung của mình, chánh niệm tỉnh giác rất là cao. Đó thì, mỗi đứa đều thấy mình hợp với cái pháp nào sẽ chọn cái pháp nấy mà tu tập.
Còn nếu mà thấy hai pháp này nó không hợp với mình …
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 29
TĂNG TRƯỞNG THIỆN VÀ PHÒNG HỘ
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [45:55]
Thời gian: 2002
Tên cũ:15B-TangTruongThienVaPhongHo
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-29-tang-truong-thien-va-phong-ho.mp3
(00:00) Trưởng lão: Tứ Vô Lượng Tâm thật sự ra là tăng trưởng thiện pháp, là vì mình đi mình chú ý để cho mình khỏi giẫm đạp côn trùng hay là dế, kiến ở dưới chân của mình, tức là sanh cái tâm từ. Do cái tâm từ đó nó làm cho sức tập trung của mình, chánh niệm tỉnh giác rất là cao. Đó thì, mỗi đứa đều thấy mình hợp với cái pháp nào sẽ chọn cái pháp nấy mà tu tập.
Còn nếu mà thấy hai pháp này nó không hợp với mình thì mình tu cái Thánh phòng hộ sáu căn, tức là không có cho mắt nó dính với các sắc.
Thí dụ như con mắt nhìn thấy một cái vật gì đó, thì không cho con mắt mình nó bị dính cái sắc đó, gọi là phòng hộ mắt. Tai cũng vậy, nghe âm thanh mà không có để cho cái âm thanh đó nó dính vào trong cái lỗ tai, nó khởi ra ham nghe nữa, thích nghe nữa, hay hoặc là cái âm thanh đó nó làm cho mình khả hỷ, khả ái, khả lạc, nó làm cho mình thích thú, lắng nghe cái âm thanh đó. Cho nên do đó mình giữ tai, giữ mắt.
Thì trên cái sắc, thanh, hương, vị, cái vị cũng vậy, nó không cho dính với cái thiệt căn của mình. Mà do mình giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, thì mình không có dính mắc với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Do cái chỗ mà phòng hộ sáu căn đó, thì nó cũng đưa chúng ta đi đến chỗ cứu cách giải thoát. Vì mình phòng hộ cho nên mình không sanh ác pháp, không bị dính mắc cho nên tâm không sanh ác pháp, và luôn luôn lúc nào cũng ở trong thiện pháp. Còn mình không phòng hộ nó, thì tức là tâm mình phóng dật chạy theo mọi vật nó mới sanh ra ác pháp, nó mới có tham, sân, si.
Cho nên tu Ngũ Căn, tức là tu về pháp Ngũ Căn, tức là giữ cho năm căn của mình đừng có tiếp xúc với, có tiếp xúc với năm trần nhưng mà nó không bị dính mắc năm trần. Đó là người lấy năm căn mà tu làm cho năm cái căn này nó trở thành thiện pháp, nó không có ác pháp trong đó nữa. Do đó gọi là Thánh phòng hộ sáu căn.
Cho nên ai có duyên thì tu những cái pháp đó.
(02:13) Còn cái Thất Giác Chi, thì phải khi mà ly dục, ly ác pháp rồi, nhập Sơ Thiền rồi, thì chừng đó nó mới có thể hiện được cái Trạch Pháp Giác Chi, Hỷ Giác Chi, Khinh An Giác Chi, Tinh Tấn Giác Chi, Niệm Giác Chi, Định Giác Chi và Xả Giác Chi, thì lúc bấy giờ đó thì mình mới có tu giác chi.
Còn bây giờ nó chưa có, nhưng mà khỏi cần tu nữa, vì đã có như vậy thì cái lực nó đã có rồi do đó mình tiến tới mình tu Tứ Thánh Định, Tam Minh hay Tứ Như Ý Túc, chớ con khỏi cần phải tu Thất Giác Chi.
Nhưng vì có Thất Giác Chi mình mới biết được trạng thái đó là cái trạng thái của bồ đề, cái trạng thái giải thoát. Cho nên mình tiến tới, ở trong trạng thái đó mình phải tiến tới.
Thí dụ như bây giờ có Hỷ Giác Chi, thì ngay đó thì mình thấy phải giữ được cái niệm Hỷ Giác Chi này thì cái Khinh An Giác Chi nó phải có, vì cái lạc của cái hỷ thì nó phải chứa trong đó.
Và nếu mà cái Lạc Hỷ mà nó có, thì cái Tinh Tấn Giác Chi nó xuất hiện, thì lúc nào mình, muốn tu lúc nào nó cũng siêng năng, tu cái gì nó cũng siêng năng hết, nó không có còn lười biếng, cho nên gọi là Tinh Tấn Giác chi.
Rồi cái Niệm Giác Chi, nó cũng xuất hiện những cái niệm, nó rất là cụ thể và rõ ràng, nó không có còn dính mắc (…) luôn luôn lúc nào cũng hiện tiền cái niệm, nó không có còn thất niệm, cho nên cái niệm đó là niệm bồ đề, Niệm Giác Chi.
Thí dụ như bây giờ mình bảo cái tâm quay vô, không nghe ngóng ra ngoài nữa, luôn luôn biết hơi thở …
(03:42) Sư Phước Nhẫn: Con thưa với Thầy, là tại vì con bữa nay … phóng tâm đó Thầy … chừng ba phút Thầy, trong ba phút đó…cũng có khi được khi không. Như vậy thì con cũng nghĩ rằng con là, cái chuyện mà, lúc mà con thư giãn đó Thầy, con nghĩ chừng nào nó khỏe con mới ngồi lại. Chứ con hôm trước tại vì con có coi giờ, coi mấy phút, mấy phút vậy đó, thì con thấy nó không được tỉnh lắm, lúc bấy giờ con thư giãn cho nó khỏe, thì khỏe rồi quay vô… như vậy đó, con đi kinh hành đó Thầy.
Cái chuyện mình nhắc tâm, cái câu pháp hướng nào mà ngắn thì con thêm mới giữ cho … chẳng hạn như là câu: “Tâm như cục đất” … Cái câu nào ngắn ngắn đó, … kéo dài …
(05:20) Trưởng lão: … Mình nhắc cái tâm của mình … cái câu, trạch pháp cái câu nó phù hợp với cái sức của mình, chứ nó ngắn quá nó cũng không hay … Vì vậy như vậy là do mình khéo léo mình trạch pháp, mà mình đi mình trạch pháp mình thấy nó có hiệu quả thì mình biết nó hợp với mình.
Bởi vì cái câu đó, ở trong Thất Giác Chi, thì Đức Phật nói Trạch Pháp Giác Chi, trạch ra cái câu nào đó mà nó hợp với mình thì mình tu nó có kết quả. Còn nó không hợp với mình thì nó không chịu.
Mà nó chịu thì nó sẽ khinh an, ở trong đó Khinh An Giác Chi đó, nó làm cho mình thấy an ổn. Còn nó không chịu thì tức là nó không nghe lời mình thì không có an ổn.
Cái trạch pháp nó rất quan trọng lắm, cho nên trong Thất Giác Chi thì cái trạch pháp nó rất quan trọng. Nếu mà trạch đúng thì nó khinh an, nó tiếp tục Khinh An Giác Chi, Hỷ Giác Chi, Niệm Giác Chi … có vậy thôi.
Vậy thì cố gắng, ráng. Bây giờ Thầy thấy cái thứ nhất là lưu ý cái phần này, cái phần mà mình thường thường mình thư giãn, Định Thư Giãn đó, thư giãn … thì tức là nó không có cái chướng ngại pháp trong tâm thì cái tâm mình nó sẽ quay vào trong thân nó định ở trên đó mà nó không định ở chỗ khác …
Cho nên vì vậy khi mà tự cái tâm của mình nó thư giãn thì tự nhiên nó quay vô, dù trong một giây nó cũng tốt hơn là mình ngồi mà … Mình ngồi ba phút … mình ức chế, mình cố gắng tập trung, còn khi mình thư giãn mình … hơi thở, mình đi kinh hành, bước đi.
Nhưng mà tại cái tâm không chướng ngại mà nó không khởi niệm cái đó là cái tốt nhất. Lưu ý cái điều này nó là cái phần quan trọng.
Bởi vì cái đó, cái tâm mà nó khởi niệm này, niệm kia thì nó không quay vô trong cái hành động của mình. Cho nên lúc mình thư giãn … Nó muốn theo hơi thở thì tự nó theo. Nhưng mình, vì vậy đó mình thấy được cái niệm. Cho nên tuy mình nương vào hơi thở mà mình tập trung vào hơi thở thì tức là sai.
Trái lại mình nương vào hơi thở mà mình chú ý cái tạp niệm của mình, cái niệm gì nó sanh ra, coi nó có sanh ra không. Mà nếu nó không sanh thì tức là nó ở trên … cho nên …
Hàng ngày ngồi chơi, hoặc đi mà cứ lưu ý cái niệm, coi thử cái tâm mình nó sanh cái niệm gì, cái niệm đó là niệm thiện, thiện thì tăng trưởng.
Bắt buộc con phải diệt, mà nếu mà ác thì bắt buộc con phải diệt. Nó làm cho tâm nó khó có một cái sự an lạc, thanh thản.
Nghĩa là cái mục đích của đạo Phật là sanh thiện, thăng trưởng thiện, còn niệm nó khởi cái niệm gì mình chú ý mình xem cái này nó không phải làm cho tâm mình tham, sân, si, không phải cái ái kiết sử, thì coi như là mình nuôi lớn, tăng trưởng, để nó thực hiện từ, bi, hỷ, xả của mình, mà nó đối trị tất cả những cái tham, sân, si của mình.
Cho nên đầu tiên phải khéo léo ở trong cái … thiện xảo mà Đức Phật nói thiện xảo nhập định.
(09:03) Còn mình, bây giờ thí dụ như, các sư cứ nghĩ bây giờ mình ngồi đây, mình cố gắng mình tập trung trong cái hơi thở thì đâu phải thiện xảo? Thiện xảo là khéo léo để nhập định, thiện xảo an trú ở trong đó, rồi thiện xảo xuất ra.
Cách thức thiện xảo Đức Phật dạy, thiện xảo là mình ngồi mình coi vậy chớ mình làm một cái việc mà cái tâm nó định, chớ không phải mình bắt buộc cái tâm nó định … mà nó định, ức chế nó thì, mà mình lo mình xả … hôn trầm.
Mà mình nhìn cái tâm của mình … hàng ngày mình làm công việc như vậy … Bởi vì cái tâm mà khi nó quay vô hoàn toàn nó không có khởi niệm thì nó hết phóng dật rồi, hết phóng tâm thì tức là tâm định trên thân
Cho nên nó biết tu thì nó nhanh lắm, mình không cần phải chéo chân ngồi kiết già, nhưng mà sau khi mà kéo chân ngồi kiết già là khi mình có định rồi thì mình ngồi bao lâu cũng được.
Còn mình tập ngồi cho lâu nó cứ nó bị cái chướng ngại pháp. Vì mình ngồi lâu mình … thì không chịu nổi chớ sao, mà hễ mình ráng mình căng căng để tăng cái thời gian lên cho được, thì nó tăng lên một giờ, đến hai giờ, ba giờ thì cũng vậy … thân của mình.
Cho nên cái quan trọng nhất là làm sao đẩy lui được tất cả những chướng ngại trong tâm của mình. Vậy do vậy mình mới nhìn cái chướng ngại pháp ở trong tâm của mình, những cái niệm, rồi cái thọ của mình nó khởi nó đau, nhức nhối cái này kia, làm sao đẩy cho được cái này.
Rồi các pháp bên ngoài, thí dụ như nó làm ồn náo, hát ra vô, đó là pháp mà làm cho mình động mà, chướng ngại, mà mình đẩy lui. Để đẩy lui không phải biểu: “Đừng hát ra vô nữa để cho tui tu”, không được, mà mình đẩy lui cái tâm của mình đừng có chướng, phải hiểu vậy. Chớ nó, hát quá mình … thì như vậy là mình đâu đẩy lui, mình … hiểu chỗ đó.
Cho nên mình sống ở trong cái cảnh đó, nó động vậy, mà mình không chạy đi tìm cái tịnh. Ở trong cảnh đó, đẩy lui cái chướng ngại pháp đó, cái pháp gây chướng ngại đó, chướng ngại cái động đó, thì nó …
Phải hiểu cho được như vậy, Thầy nói, đó là các pháp, bởi vì thân, thọ, tâm, pháp bốn chỗ, bốn cái chỗ trong Tứ Niệm Xứ, chữ Niệm có nghĩa là chỗ … bởi vì người xưa người ta dịch như vậy … Tứ Niệm Xứ là bốn chỗ để chúng ta tu tập.
Thân, bây giờ cái thân nó như thế nào như nào, trong cái thân của mình thì nó có những cái hành động, mình quán ở trong hành động. Thì bây giờ muốn quán hành động đó thì, mà không có niệm gì thì nó …
Phải không, bây giờ trên tâm của mình, tâm mình có niệm hay không? Có niệm thì đẩy lui, niệm ác thì đẩy lui, niệm thiện thì giữ được.
Rồi thọ, thọ nó có đánh mình không? Rồi thọ nó có đánh mình thì… nó có làm cho mình … ko?
Cho nên quan sát mình thấy rõ, trên Tứ Niệm Xứ mình đang tu, mình có những cái loại định nằm ở trên Tứ Niệm Xứ để mà tu, để mình thực hiện Tứ Chánh Cần … Thật sự ra mình biết được như vậy, dễ dàng lắm!
(12:27) Mà vì vậy mà nó, từ đó mình thích sống độc cư để cho mình một mình, mình đừng có bị các pháp nó phá, để cho mình thực hiện cái tâm thanh tịnh … tại đó mình nói chuyện, mình làm, sinh hoạt này kia nó động nhau hết. Tu hoài không tới!
Ai nói gì nói, tu mà, người làm biếng mà, nhưng mà ai biết được mình là làm biếng là làm chi. Đừng có thấy người đó làm công chuyện đó gọi là làm siêng, đó mới chính là làm biếng mới thật sự tu.
Nói tu chứ sự thật ra họ làm họ … Còn đằng này nó ngồi không mà tu … mà chính ngồi không … chuyện này chuyện kia … phóng dật theo chuyện … Cho nên vì vậy mà mình thấy mình sống coi một mình … làm cái này kia, một mình mình làm là mình không có cô đơn đâu …
(…) nhưng mà Thầy biết như vậy, mà làm sao mình nói hết sức mình rồi, người ta, cái nghiệp của người ta mà. Thì khi mà sư đọc lại cái cuốn Một mà Thầy đã nhuận lại, Thầy nói, nhân quả … Thầy biết. Phải tự lực người đó, nói bảo họ độc cư, họ sống độc cư không nổi thì họ phải làm. Rồi họ phải nói chuyện …
Làm đã là phóng dật rồi, bây giờ mà làm chung với nhau thì lại … rồi nói chuyện, rồi xích mích, rồi giận rồi hờn, đủ thứ ác pháp … Biết rõ ràng, chính mình phòng hộ sáu căn là độc cư rồi, chịu đựng nổi thì mình …
Trong khi mà đến đây với Thầy thì tu được hay không được Thầy biết hết. Nhưng mà bây giờ nói người ta không tu được, dù sao đi nữa người ta cũng giảm bớt được cái sự đau khổ … đỡ hơn … thành ra mình nói không được thì cũng không đúng, có được, nhưng mà được có chút!
Đó thành ra hỏi Thầy, có thầy Chân Trí hỏi Thầy: “Con tu có được không?” Ngày nào đó Thầy sẽ trả lời …
Nghĩa là coi như là Thầy phải coi căn người đó coi như thế nào, tin tưởng như vậy là sai!
Bởi vì pháp của Phật nó cụ thể lắm mà, mình có xả được tâm mình không thì mình biết, mà mình xả không được thì biết mình tu không được, mình còn ham đời làm sao mình tu?
Mà bây giờ mình hết tham thì mình, rõ ràng là mình xả những cái chướng ngại tâm của mình chớ Thầy có xả giùm đâu mà hỏi Thầy, mà bảo Thầy soi căn mình được? Thầy đâu có thần thông!
Nhưng mà Thầy biết được cái người tu hay không được là tại vì Thầy có kinh nghiệm Thầy biết, Thầy xả cái tâm như thế nào, Thầy sống như thế nào, mà Thầy thấy người đó sống vậy Thầy biết là không được chớ có gì đâu mà … vậy. Cả con người, Thầy nói người nào mà … cũng phải làm đúng như vậy. Mà tại vì mình sống không đúng, mình làm không đúng, pháp dạy vậy mà cứ nghĩ tưởng mình làm đúng …
(15:43) Cũng như bây giờ Thầy nói đây các vị thấy, như chú Chân Toàn nè, chú là tu sĩ ở trong đó. Nên chú không giao tiếp với ai hết, chú lo chú tu, phải không. Nhưng mà chú ngủ không thì …
Thay vì người ta phải, đọc lại cái thời khóa của Đức Phật phải không, xem nhắc phải không, nghĩa là nằm xuống là phải nhắc, hướng tâm mình là phải thức dậy, chứ còn đừng ngủ… Còn mình ham ngủ thì thôi rồi …! Nó từ cái chỗ này đến cái chỗ khác, nó không chơi với ai hết thì nó cứ buồn ngủ. Mà không đi kinh hành, không tập, cứ nằm lỳ hay hoặc là ngồi lỳ vậy thì buồn ngủ thôi chớ còn …
Bởi vậy Thầy coi vậy chớ, khuya Thầy cũng dậy … Thầy đi kinh hành một vòng hết. Hễ cái thất bật đèn lên Thầy biết có đi hay không có đi.
Mà người đi, ban đêm mà người đi là chống lại được cơn buồn ngủ, chớ còn ngồi một chỗ là buồn ngủ, hễ nó ngồi là lúc nào nó cũng buồn ngủ. Cái bản chất con người … mà mình đi … để ý quan sát, mình không cần phải tập trung dưới chân mình đâu, mà mình quan sát từng cái niệm, khi mình đi như vậy mình quan sát từng cái niệm khởi ra.
Mỗi niệm nó đến thì mình quán, tư duy, mình quán xét từng cái niệm của mình, khi mình đẩy lui … thì bắt đầu cái tâm mình trở về … nó an lạc trở lại. Rồi bắt đầu bây giờ nó khởi lên, thì nhờ như vậy, cứ quét hoài như vậy, mình quét tâm cho sạch.
Sư Tuệ Tĩnh: Thưa Thầy, trong khi mình đi đó Thầy, nó có một niệm đi tới, nó đưa đến với mình, thì mình cũng phải quán xét hả Thầy?
Trưởng lão: Ờ quán xét chớ! Rõ ràng. Bởi vì mục đích của mình là đẩy lui các cái niệm. Mình đi, thì bắt đầu bây giờ mình mới tu tập, thì mình tập tỉnh thức ở trên hành động đi thôi. Nhưng mà sau cái thời gian rồi mình xả, không cần tập trung ở trong bước đi đó nữa, mà chỉ quan sát để đẩy lui chướng ngại pháp.
(17:44) Mà tâm không chướng ngại pháp thì nó tập trung ở trên bước đi, mình không cần tập trung bước đi. Mà hễ mình cần phải tập trung trên bước đi thì … Ở đây không có cần tập trung bước đi mà nó lại tập trung …
Cho nên mình làm cái việc, mình quan sát cái tâm của mình, niệm của mình coi có không để mình xả. Mà hễ mình quan sát thì nó không … có lắm. Mình coi chừng đó, cảnh giác, thật sự là cảnh giác đó, cảnh giác cái niệm nó nhào vô, mà mình không cảnh giác nó vô, mà mình cảnh giác nó …
Mà mình cảnh giác nó chớ không phải cảnh giác … Còn mình ức chế nó là mình tập trung trong bước đi, để ý cho nó đừng có niệm … nó bị ức chế.
Hiểu Thầy muốn nói không? Nó sai tại sao một chút như vậy đó mà … tu hoài không đạt. Người ta cứ nhắm vào cái chỗ mà phải lấy cái bước đi hoặc lấy cái hơi thở để mà làm cái đối tượng để mà tập trung gom tâm thì bị ức chế cái tâm, mình không xả.
Trái lại mình nhìn xem coi cái tâm niệm của mình nó khởi lên cái gì? Cái thân, thọ của mình nó hiện tướng nó ra cái gì? Mà mỗi cái thì mình đều quán xét mình xả, tức là Định Vô Lậu mình sẵn sàng để chuẩn bị chiến đấu. Đó mình dùng cái Định Vô Lậu mình để … mà nó có niệm, niệm tới là dùng Vô Lậu quán xét cả đi, cho hết lậu hoặc, để đẩy lui cả.
Thầy nói đơn giản lắm mà thật sự ra, khi mà hiểu Phật pháp rồi, sáu tháng sau là thành tựu … Mà Thầy dạy thì …
Sư Tuệ Tĩnh: Nghe Thầy nói vậy chớ …
Trưởng lão: Còn Thầy, hiểu rồi bắt đầu cứ, Thầy nói, nó không có thời khóa nữa, giờ nào cũng là giờ tu hết. Bởi vì cảnh giác từng chút, từng giây từng chút, hễ mình … quán xét ngay, quán xét đến khi mà … đẩy lui được cái niệm, cho thông suốt được cái đối tượng, chớ còn không phải là cắt ngang để mình tập trung trong hơi thở thì …
Không theo hơi thở, mà tập trung cái niệm, đẩy lùi … hiểu cho rõ cái niệm này, xem để mình khổ cái gì, mình tham, mình sân, mình si, mình hờn mình giận, mình thương mình nhớ cái gì đây, mình truy …
Truy cho nó tận cùng cái niệm đó, mà hễ tận cùng, mình thấu rõ cho được rồi … Chớ không phải là mình diệt nó, mà mình hiểu nó được, nó làm sai cái này … mà mình tuôn trào cái niệm đó ra, rồi biết, hễ mình biết rồi thì … Đó có vậy thôi.
Lúc nào mình cũng ôm pháp như vậy. Ôm pháp cũng như là mình mà ra biển mà mình ôm phao mình đi, buông xuống là mình chết liền. Coi như là mình, hễ mình rời pháp là … cho nên tu hoài …
Nghĩa là ôm chặt pháp, nghĩa là luôn luôn lúc nào cũng cảnh giác đó mà ôm chặt pháp, theo pháp … Phật dạy tùy pháp mà. Tùy pháp, đúng pháp, nhưng thường thì mình đúng pháp chưa có được, tâm mình …
(21:00) Mà hễ nó có niệm ra là tức là Định Vô Lậu liền vầy, còn nó không niệm không gì hết, nó tự nó, tự nó nó biết hơi thở. Mình ngồi tự nó biết hơi thở … nhưng thỉnh thoảng lâu lâu không phải là để nó cứ biết hoài đâu, nó biết hoài nó sanh tưởng lạc, nó rơi vào định tưởng …
Sư Tuệ Tĩnh: Mình nhắc nó?
Trưởng lão: Ờ mình nhắc, nhắc tâm mình … Nó không có thì mình … tức là dùng Như Lý Tác Ý tác ý ra, còn hễ nó có thì dùng Định Vô Lậu mình quán, đẩy lui, còn không có thì tức là mình … Vậy cho nên, mặc dù là thí dụ như những cái lúc mà … sắp sửa mà … nó cả ngày mà nó không có một niệm gì, tâm nó … mình đi nó biết mình đi … biết đi … giờ này qua giờ khác. Nó không phải tập trung mà …
Cho nên nói … tâm định trên thân. Đó do đó mà cả ngày vậy, … biết rồi, ờ mày chưa thành hình nhưng mà tao đi để tao coi xem nó có gì đây! Đó bắt đầu nó thành hình ra. Tư duy nó ra, tác ý nó ra, mình khởi cái niệm mình phóng ra, chưa có thấy hình dáng của …, chưa có biết nó gì hết. Bây giờ truy …
(…) truy nghĩa là quét. Thành ra cuối cùng, một ngày một đêm cuối cùng … khi mà mình nhập định, trước khi mình nhập định, một ngày một đêm nó không có niệm. Mà nó không buồn ngủ, nó không có buồn ngủ, nó không có ham ngủ, nó không có thích ngủ nữa, nó tỉnh khô à!
Mà nó khỏe, nó an lạc, … Thầy nói thật sự ra, tới cái chỗ mà Sơ Thiền … hỷ lạc, nó không có hỷ lạc … Cho nên khi đó rồi mình ra lệnh, nó nhu nhuyễn nó dễ sử dụng …
Để cái tâm mình nó cứ lăng xăng hoài vậy … Còn cái tâm nó hết tham sân si nó tự động… Đó là cái chỗ nó đẩy lui hết các chướng ngại pháp thì cái tâm … Bởi vì Thầy nói cuối cùng … độc bộ, độc hành, độc cư. À bắt đầu bây giờ nó đối trị.
Nghĩa là trong … Bởi vì … Nếu mà lơ mơ … mà biết cách tu rồi thì còn … chơi … Không còn lo tu nữa, vì nó làm chủ rồi … tâm thanh tịnh rồi, ngồi chơi … có điều mình làm gương cho người ta thôi chứ sự thật không còn tu cái gì nữa …
Nhưng mà tui không phải là không tu là tui lấy bình rượu tui uống hay hoặc là … không phải đâu …
Nó không phạm từ cái ý của nó chớ không phải … Còn mình đây mình giữ cái thân, chứ cái ý mình giữ … Còn khi mà cái tâm nó quay vô nó không phạm … tức là ác pháp …
(24:53) Cho nên vì vậy cứ sống độc cư độc bộ độc hành, tối ngày ôm pháp. Ôm pháp tức là cảnh giác nhìn cái tâm của mình chớ không phải ôm pháp …
Nhưng nếu mà nhìn cái tâm mình để ly dục, ly ác pháp hay hoặc là ngăn ác, diệt ác chứ gì, thì nó … rõ ràng. Mà nó khởi niệm gì thì mình ôm pháp nấy mình diệt trừ … những loại độc đáo của ác pháp, để mà đấu tranh với nói, nó khởi lên cái gì thì mình có pháp mình đẩy lui.
Thành ra ông Phật đã trang bị cho mình đủ… trước khi nhập diệt ông mới hỏi ông A Nan, còn gì thưa hỏi …
Đó thì ổng đã nói đủ hết rồi, không còn thiếu cái gì cho mình… trang bị cho mình đủ để đi trên con đường …
Cho nên có một cái người, có thầy Chân Quang hồi đó thầy viết, ông Phật ông nói ổng chứng thì như rừng là cây … mà thầy Chân Quang nói trong cái chỗ mà ông Phật chứng nó còn nhiều, bây giờ khai triển những cái chỗ mà ông Phật nói như rừng lá cây. Còn cái chỗ mà ông Phật chứng nói ra, thì nó như nắm lá cây, Phật nói còn thiếu nhiều, ông nói vậy!
Sự thật ra ông Phật trang bị cho cái thế giới con người … mà nói ra là thừa, nói ra để nói đó, nếu mà lấy cái trí hữu hạn của mình để hiểu cái chỗ mà rừng lá cây của Đức Phật, thì chúng ta … chúng ta bị tưởng tri, nó không phải là chỗ chúng ta hiểu.
Cho nên Đức Phật nói ta chứng như rừng lá cây, mà ta nói ra cho các ngươi hiểu như nắm lá cây. Có phải không, cái bài kinh. Nhưng mà cái bài kinh cuối cùng thì Đức Phật nói ta đã nói đủ cho các ngươi rồi, không còn chỗ nào …
(…) là Phật Pháp Thầy nói thật tu, khi mình có tu rồi mình thấy vừa đủ cho mình tu, không thừa một chút, không có lý luận … lý luận siêu hình của …
Bây giờ Thầy nói như thế này. Ở Đại Thừa thì có nói vậy, mình sống trong hiện tại, trong hiện tại những cái nhân của mình, cái quả do mình tạo, cái quả của mình do mình tạo, người nghèo người giàu, mình suy ra được cái nhân của quá khứ, phải không? Mình thấy cái hiện tại này, là hệ quả suy ra cái tương lai. Cái đó không phải tưởng tri … cho nên Đại Thừa …
(27:36) Ông Phật nói hiện giờ đó, mình đi ăn trộm sẽ bị ở tù … nhân quả của nó rồi. Phải không? Người ta chửi mình thì nhẫn … thì mình giải thoát. Mà mình chửi lại … Có đúng không? … chuyện quá khứ có lợi ích như vậy.
Mình biết đời trước mình làm gì? Chả cần biết, mà sống ở trong hiện tại. Bởi vì cái bài, Thầy nhắc lại cái bài Nhất Dạ Hiền, A Nan thuyết giảng Nhất Dạ Hiền chứ gì? Thì cái bài kệ Nhất Dạ Hiền: “Quá khứ không truy tìm, vị lai không ước vọng”, phải không?
“Chỉ có hiện tại”. Mà hiện tại sống trong nhân quả của nó, nếu mà người ta chửi mình mình nhẫn mình nhịn, mình không có chửi mắng họ, mà mình lại không có giận hờn, thì đã là giải thoát rồi! Phải không? Phải thiện pháp không?
Như vậy rõ ràng mà, nó nhân quả nó rõ ràng mà, đâu có có nói chuyện đời trước đời sau đâu? Anh ở ngay đây mà anh sử dụng nhân quả là anh đã giải thoát rồi. Anh nhân quả tốt thì tức là thiện, nhân quả tốt. Mà anh ác, anh chửi người ta thì người ta cũng không nhịn nhường anh đâu, người ta cũng đánh anh. Mà không thì anh tức quá, anh bị đánh, thì anh rút dao anh chém người ta thì anh bị ở tù hoặc là anh cũng bị người ta đập cho chết. Có vậy thôi. Thì nhân quả nó tăng lên trong cái hiện tại này.
Cho nên Thầy giảng về đạo đức nhân quả không bao giờ mà trật. Bởi vì cái trí của chúng ta là cái trí hữu hạn, hiểu về cái sự việc trong quá khứ không ích lợi đâu. Mà hiểu ngay khi bây giờ người ta chửi mình, mình không chửi lại họ, mình vui vẻ, mình chấp nhận là giải thoát rồi.
“Quá khứ không truy tìm”, truy tìm cái nhân quả của quá khứ mình làm gì? Mà ước vọng chi cái tương lai, cái quá khứ của mình làm gì? Không, tôi chỉ biết hiện tại, tui làm tốt thì đời tui sẽ lãnh những cái quả tốt, mà tui làm ác thì đời tui, ngay bây giờ tui sẽ lãnh những cái quả ác. Thì nhân quả nó hiện giờ chứ không có nhân quả quá khứ vị lai nào hết. Mấy ông đừng có lý luận … Khi nào mấy ông có cái trí vô hạn rồi thì chúng ta sẽ bàn …
Thì vô hạn anh cũng thấy như vậy, tui cũng thấy như vậy, tui nói chuyện với anh thì rõ quá rồi. Còn bây giờ anh là hữu hạn mà tui là vô hạn thì tui nói chuyện anh thì tui cũng như nói dóc!
Anh có hiểu được không? Mà anh không có hiểu, anh tưởng ra thì nó tầm bậy hết. Quy cho tui nói, mà anh hiểu thì cũng hại cho anh, không ích lợi gì, thành ra anh mê tín!
Con phải hiểu cái chỗ đó. Cho nên Thầy sẽ bác tất cả những sai. Chúng ta có cái trí đang hiểu biết bằng cách này thì chúng ta nên hiểu biết bằng cách này, đừng có hiểu phức tạp.
Khi nào anh dẹp hết cái tâm anh không còn tham, sân, si, anh sẽ nói chuyện với tui những cái cao. Bởi vì cái trạng thái của anh lúc bấy giờ, cái trí tuệ nó cao rồi, anh không có còn cái trí tuệ của cái tâm tham, sân, si. Cái trí tuệ tham, sân, si của anh nó là trí tuệ hữu hạn, nó không hiểu vô hạn được đâu.
Đó cái đó là, từ bây giờ đó thì những cái lời băng này Thầy nói, ngàn đời nó sẽ còn, nó không mất cái gì … Chứ còn Thầy nói, mà không tu thì mai mốt …cũng nói vậy thôi. Mà chính Thầy nói rồi sau khi nghe rồi sau mới hỏi lại, Thầy mới nói ra, mới in thành sách.
Thì bằng chứng các con thấy như cuốn Một, họ, người ta hỏi Thầy sơ qua, Thầy trả lời sơ qua, phải không? Nhưng bây giờ nhuận, sách Thầy nhuận rõ ràng, có đúng không? Nó có cái giá trị, nó nâng cái quyển sách lên nó cao hơn …
(31:12) Nó là cái chỗ để chúng ta hiện thực cái cuộc đời mà Đức Phật đã trang bị cho chúng ta đủ cái pháp môn để chúng ta thực hiện cuộc đời, mà không phải thời gian. Bởi Đức Phật đã xác định là sáng chúng ta nghe, chiều chúng ta chứng đạo, nếu như người đó đã biết bỏ. Còn người còn tiếc quá thì …
Sáng nghe thì chiều chứng đạo. Mà Đức Phật nói, thấy … bảy ngày, còn chậm lắm thì đúng bảy tháng, còn tệ nhất là bảy năm chứ đâu có tu cái thời gian dài quá đâu. Thầy nói thật sự, ba tháng đến sáu tháng là người nào … nếu mà sống độc cư mà sáu tháng …
Thầy bảo đảm quý sư, Thầy nói về hơi thở này, quý sư ra lệnh bảo tịnh chỉ, nó tịnh chỉ liền. Khi mà cái tâm nó quay vô rồi, chớ không, nó không có khó khăn. Bây giờ Thầy nói thật sự, cái hơi thở mà bảo ngừng rồi, thì bây giờ bảo cái thân này nó có cái trọng lượng, bảo nó bay lên coi! Nó bay lên! Ở bay cao, ra lệnh nó, nó lên bay cao đó!
Thầy nói thật sự cái lực của cái tâm thanh tịnh nó kinh lắm chớ không phải không. Người ta làm cho được cái tâm thanh tịnh … cho nên người ta muốn có thần thông người ta phải luyện những cái khác để … cái tâm an vui thanh tịnh …
Khi cái tâm mà thanh tịnh rồi thì người ta làm cái gì cũng được, nhưng mà người ta không ham. Bởi vì người ta thanh tịnh rồi người ta đâu còn ham nữa mà người ta làm? Phải hiểu như vậy.
Cái đó là cái tâm thanh tịnh. Thầy nói cái tâm thanh tịnh nó làm được, cái gì cũng được hết. Cho nên người ta nói ông Phật dữ tợn vậy chứ đúng người ta tưởng tượng ông Phật hơn ai hết à. Nghe cái tiếng, từ cái danh từ Phật là người ta … Nhưng mà người ta tưởng tượng quá sức, mà không ngờ Phật có nghĩa là ngộ được cái lý để cho chúng ta được giải thoát chứ không có gì hơn.
Cái danh từ Phật không có nghĩa là xưng mình làm thần thánh gì, danh từ Phật có nghĩa là giác ngộ, giác ngộ được pháp thiện để mình giải thoát, có vậy thôi.
Nhưng mà về sau thì coi như là không ai hơn được Phật. Cho nên khi mà Đức Phật … thần thông, cho coi nó là huyễn hóa, thì Đức Phật mới xác định lại với người cư sĩ mà: Ta có nhiều loại thần thông chớ không phải một! Nếu mà Ta không có Ta nói pháp vậy thì, nói là tại … chứ Ta có mà!
(34:02) Cho nên Thầy không thực hiện thần thông, Thầy nói rằng Thầy có thần thông! Xác định điều đó. Thầy làm được mà! Hơi thở Thầy còn bảo nó ngưng được thì có gì mà Thầy làm không được?
Quý sư suy nghĩ đi … chuyện đó là cái chuyện dễ của Thầy sao? Mà bây giờ cái hơi thở Thầy làm không được … chỉ có Thầy luyện bùa thì được! Đọc thần chú, vẽ bùa để nó làm được như vậy.
Bởi vậy Thầy nói, thật sự ráng đi, ráng đi, Thầy nói, không có trễ đâu! Ông Ca Diếp 80 tuổi rồi vẫn còn thực hiện được, Thầy nói thật sự, 80 tuổi cơ thể sức khỏe đâu còn! Thế mà ông chứng quả.
Thì Thầy nói, Thầy nói sư, thật sự không phải là Thầy khích lệ mà Thầy nói thật đó. Nghĩa là cái người nào mà thấy mình sắp sửa gần chết rồi, nỗ lực tu là nó, một tuần lễ, coi như mình bỏ hết mình chết đi cho rồi! Bởi vì bây giờ mình không chết thì mai mốt cũng chết chớ gì? Phải không, mình chết đi! Mình chết ở trong pháp thì nó không chết!
Nỗ lực như vậy là Thầy bảo đảm là quý sư sẽ được như là … ai nói gì nói mặc họ … tức là chướng ngại pháp ở ngoài đó Thầy nói, thấy người ta làm mình không làm, thấy chướng, kỳ cục! Kỳ cái gì? Đi tu, tui ngồi đó tui tu … tui đi làm sao? Mấy ông muốn làm thì ông cứ làm, tui đâu có rầy mấy ông?
Cũng như Thầy đây đâu có rầy ai đâu? …Các con cứ nghĩ Thầy, mặc dù Thầy làm … làm là Thầy không nói … chịu chết, chứ tôi tu tôi quyết giải thoát … người ta đi làm.
Bây giờ, Thầy nói bây giờ, tất cả ở đây bây giờ … Thầy chẳng thèm làm gì, Thầy … làm được. Thầy đi vòng vòng thất Thầy thôi, đi ra ngoài làm gì? Đi ra ngoài đạp côn trùng nó tội lỗi! Thầy đi … nhà Thầy quét sạch … đi vòng vòng suốt đêm … có gì đâu. Đó cái thất của Thầy vậy, Thầy đi suốt đêm không có gì đâu.
Thì Thầy nói thật sự, Thầy không bật đèn tức là Thầy tiết kiệm … phải không? Phải ráng Phạm hạnh cái đời sống này, ngày xưa ông Phật có đèn đâu mà … Ở trong rừng rú mà ngày xưa đâu có điện như mình bây giờ, mình sung sướng quá mình …
Thật sự ra thì bởi vì mình ở trong cái nhà của mình nó nhỏ nó hẹp, thì khó khăn … đi ra ngoài nó làm cho mình cởi mở, nó không buồn ngủ.
Còn như Thầy thật sự, cái nhà như vậy, mình đừng có thèm ngồi trên giường. Ngồi giường nó cũng cám dỗ mình ngủ chứ bộ không sao? … Cứ đi ra hành lang thì làm sao nó ngủ cho được?
Mà rủ nó đi chớ, nó đâu có rủ Thầy được! Nó rủ Thầy nó rủ Thầy ở trên cái ghế, cái ghế kia, dựa lưng! Nó rủ Thầy lại trên cái giường, ở trong cái mùng, chứ còn nó rủ Thầy ở trên cái đi thì rủ không được. Thầy mắc đi rồi … Thầy sao được?
Cho nên Thầy hiểu biết … phá hết … không bị hôn trầm …
Cho nên vì vậy mà Thầy nhìn thấy người tu được, người tu không được Thầy biết. Bởi vì cái kinh nghiệm chớ đâu phải là Thầy coi căn ai đâu! Thầy không có là ông thầy bói coi căn, mà Thầy nói bằng cái kinh nghiệm thực sự tu, người tu được là phải sống như vậy, làm như vậy tu được, mà người không sống như vậy làm như vậy là người tu không được. Muốn gì muốn …
(37:39) Nhưng mà thí dụ như bây giờ sư tu tới giờ phút cuối cùng, phải không, Thầy bảo bây giờ phải chiến đấu cái chỗ này, liều chết chiến đấu thì được, mà tới chỗ này lại … thì Thầy lại cứu thua!
Mình nhớ kĩ ở đây, Thầy nói nhiều ông lắm, giờ phút cuối cùng mà Thầy cứu không nổi! Mà tại không nghe lời Thầy. Thầy biết đây là cái chặng đường cuối cùng để mình vượt qua, cũng như Vũ Môn tam cấp mà thi cử, cá mà thi để mà đậu thành rồng thì, mình muốn thành rồng thì mình phải vượt qua Vũ Môn tam cấp. Thế mà Thầy bảo đây là cái mức cuối cùng để mình vượt qua cho được để mà thành rồng không thì bể đầu ở trên đá rồi!
người ta vượt không nổi … bể đầu ở trên đá … đành chịu chết!
Bây giờ đời nó không ra đời, đạo không ra đạo … người ta là người ngoài đời người ta sống theo đời, người ta không có bị đạo nó ngăn cản, người ta ham muốn gì người ta làm tứ sang bang hết, còn mình vừa làm không được, thì đời, đạo nó đã kẹt trong tâm của mình rồi, bây giờ làm như người ta sao được?
Cho nên coi vậy chớ mình đi tu rồi, bây giờ mình ra… mình sống cái kiểu này … Tại vì Phật pháp nó làm cho mình biết cái này rồi, mình không làm được. Còn người ta không biết người ta làm pháp ác. Phải hiểu như vậy!
Cho nên đời không ra đời, đạo không ra đạo, coi như là mình dở sống dở chết rồi! Đó là Thầy nói thật, thà là không tu thôi, tu tới nơi tới chốn, liều chết tu, chứ đừng có ham sống mà sống cứ dở sống dở chết!
Cho nên Thầy nhắc nhở, nó không có khó đâu. Thầy ngồi chơi trên ghế này, Thầy ngồi xếp bằng, luôn luôn im lặng. Thầy ngồi, hai chân Thầy ngồi như thế này, chẳng cần ngồi xếp bằng, đó. Thầy muốn ngồi cách nào cũng được hết. Mà luôn luôn lúc nào Thầy ngồi thì Thầy cũng cảnh giác cái tâm của mình ra sao. Thân, thọ, tâm, pháp Thầy coi chừng hết, nó xảy ra gì Thầy đẩy lui hết. Có vậy thôi.
Nó bốn chỗ mà, Tứ Niệm Xứ mà, bốn chỗ đó, mà chỗ đó đều nằm trên thân, thọ, tâm, pháp. Cho nên luôn luôn cảnh giác bốn cái chỗ này. Mà nó có những cái pháp để chúng ta nằm ở trên bốn chỗ này mà chúng ta thực hiện, chúng ta đẩy lui, làm cho cái tâm hồn mình giải thoát, từng giây, từng phút giải thoát.
(39:58) Thầy cứ thấy kết quả giây này rồi tới cái giây khác, Thầy nói giây thôi chứ không tới cái phút, giây này đến giây khác, luôn lúc nào cũng thanh thản, vô sự, an lạc từ giây này đến giây khác, từ giờ này đến giờ khác, ngày này đến ngày khác, chiến đấu với cái tâm của mình. Coi như là mình chiến thắng cái tâm.
Sư Tuệ Tĩnh: Tới lúc thuần thục rồi thì mình khỏi cần …
Trưởng lão: Trời ơi thôi thôi thôi, để đâu nó nằm đó! Nó như cục đất vậy! Bây giờ không bắt nó ở trong hơi thở mà nó cứ thấy hơi thở.
Thầy làm việc thì bắt đầu nó phóng ra những cái … mà Thầy ngồi lại Thầy không có làm việc thì bắt đầu nó ở trong hơi thở.
Thí dụ bây giờ Thầy viết hay bắt đầu Thầy nghĩ, không suy nghĩ nữa, bắt đầu bây giờ nó, chớ Thầy cũng không bảo nó ở hơi thở … Coi như chim nó đã quen cành rồi, nó không có gì …
Khi nó chưa thuần, thì khi mình dừng cái này nó chạy tùm lum hết, nó không có quen cái cành của nó mà, nó chạy tùm lum cành nào nó cũng đậu hết, đậu tứ tung … Rồi lát nó trở lại … Bởi vì cái tâm …
Cho nên bây giờ nó chưa thuần, nó thuần rồi nó khỏe, nó không có lo ra, nó không có nghĩ … người ta ai làm gì thì làm nó … mà ai đụng tới nó mà nói bắt đầu nó tập trung nó gom về hướng đó vậy. Nói cái gì thì nó lắng nghe kĩ, nó tập trung, nó tỉnh thức, mà tỉnh thức nói cái đó nó biết cái đó là phải đối xử, đối phó như thế nào, làm sao làm nó biết. Đó nó vậy gọi là trí tuệ chớ!
Mà nó tỉnh, người ta nói, thay vì nhiều khi mình nói, thí dụ như chẳng hạn Thầy nói, nghe vậy chớ nhiều khi … còn cái này nó tỉnh, nó tỉnh ngay cái đối tượng người ta nói nó tập trung, tự nhiên nó tập trung vô đó, nó định vô đó liền. Còn mình, cái tâm mình nó chưa có định, nó không có chịu tập trung vô đó, nó nghe mà nó nghe kiểu mà nó không chính xác. Còn khi mình … đưa cái pháp nào đó cái tâm mình …
Đó bây giờ thì … Con hỏi đi!
(42:18) Sư Tuệ Tĩnh: Dạ cho con hỏi hai câu hỏi mà Thầy trả lời rồi, con hỏi thêm một câu nữa. Hồi trước lúc mà thư giãn có niệm lên đó, thì một là con cắt, hai là con quán. Bây giờ Thầy nói hễ có niệm khởi lên là mình quán luôn tất cả các niệm hay là mình … các niệm có quán …
Trưởng lão: Không bây giờ trong cái giai đoạn, mình phải biết trong cái giai đoạn mình tu, ở đây phải rõ. Trong cái giai đoạn này cái sức tỉnh thức của mình có chưa? Mình chưa có, thì mỗi niệm nó đến mình dùng pháp để làm tâm tỉnh thức, mình lấy một cái đối tượng, thí dụ như mình đi kinh hành, tập trung bước đi chứ gì, rồi bây giờ mình ngồi mình hít thở chứ gì? Thì mỗi niệm lên mình cắt để cho mình tập trung trong cái vấn đề tập cái sức tỉnh.
Nhưng mà ở đây Thầy nói sức tỉnh của mình, là mình tu khoảng chừng năm phút là đủ rồi, không cần nhiều, thì lúc bấy giờ là quán hết, không có cắt nó nữa, mình cắt vậy không đúng. Sư hiểu không? Mình không có cần mà phải tỉnh cho đến 30 phút hoặc một giờ, mà cỡ độ chừng năm phút là được rồi.
Nghĩa là thí dụ bây giờ sư tu được 3 phút rồi chứ gì? Còn 2 phút nữa là sư đủ rồi. Đủ sức tỉnh để cho mình cứ xả thôi chứ còn không tỉnh nữa. Mình tỉnh nữa thì nó đi vào tĩnh lặng. Mà đợt này sợ nó nhiều quá nó tĩnh lặng.
Hồi đó thì Thầy để 30 phút … Bởi vì Thầy đã tập tỉnh ở trong 30 phút nó không niệm à, cho nên Thầy lấy kinh nghiệm, nhưng mà kinh nghiệm của Thầy nó sẽ đưa người ta bị rơi trong tưởng. Kinh nghiệm của Thầy nó không rơi nhưng mà họ bị rơi …
Cho nên Thầy chưa tu thiền, mà nó tu thiền Thầy ngồi lại vầy Thầy nhiếp tâm trong hơi thở, để giữ tâm đó, tri vọng đó, giữ tâm, nhìn cái tâm Thầy … vậy …Thầy nhìn cái gì đó mà Thầy giữ nó, coi như là 30 phút không niệm, ai làm được không?
Còn Thầy đã có cái căn cơ như vậy đó, hồi Thầy lên Hòa thượng Thanh Từ, Thầy giữ tâm vậy đó. Đó cho nên vì vậy mà chúng ai cũng ngơ ngác sao mà Thầy … hết, thật sự ra cái tâm nó im lặng như vậy mà nó không rơi tưởng, nó không rơi tưởng tức là nó không bị …
Thế mà Thầy còn không đạt được huống hồ là bây giờ mà tâm, và đồng thời thời gian mà Thầy hướng dẫn Thầy thấy họ bị rơi, 30 phút là họ bị rơi trong tưởng. Từ 20 phút, 10 phút là họ có … Cho nên Thầy thấy 3 phút, 5 phút là lý tưởng của quý sư rồi, hay nhất. Nhiêu đó đủ rồi, bây giờ cứ lên …
Nên thử, mình thử cứ, mình thấy, thử nghiệm mà, thí dụ bây giờ mình cứ mình nhìn cái niệm, nó có niệm mình xả mà nó không niệm thì thôi. Có nhiều khi nó kéo dài từ 30 phút … mà nó không niệm, mà nó vẫn biết hơi thở ra vô, mà mình không tập trung trong hơi thở. Nó phải hay hơn cái chỗ mình tập trung trong hơi thở! Mọi khi nó bị ức chế.
Đó, sư nhớ kĩ. Bây giờ là giai đoạn sư đạt được 5 phút, nếu mà 5 phút của nó là lúc mà mình ngồi lại là mình nhiếp tâm trong 5 phút được trên đó, tức là mình ức chế nó được ở trong 5 phút đó chứ chưa phải là tập thanh tịnh đâu. Đó mình thấy sức tỉnh của mình ức chế nó được như vậy rồi thì ngay đó bây giờ, niệm nào mình cũng quán …
Cho nên khi mà được tỉnh thức 5 phút rồi, thì bắt đầu bây giờ cứ đẩy lui chướng ngại pháp thôi, không cần tỉnh nữa, không cần tập trung chân đi nữa, không cần tập trung trong hơi thở nữa, không cần tập trung trong…
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 30
CÁCH TU ĐỊNH VÔ LẬU
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [45:28]
Thời gian: 2002
Tên cũ: 16A-CachTuDinhVoLau
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-30-cach-tu-dinh-vo-lau.mp3
(00:00) Sư Phước Nhẫn: … mình ngủ luôn, không lẽ mình trả lời như vậy là mình bị hôn trầm. Hôn trầm mà mình không biết, bây giờ nó buồn ngủ thì… Tới chừng ngủ thì mình phá.. nó không hôn trầm. Mà mình nói với nó là mình kinh nghiệm rồi…thí dụ như mình niệm tới chín giờ, thì nó cũng buồn ngủ, mà nếu mình thức cũng được chứ không phải sao, nhưng mà cái đó là ức chế hay là không ức chế?
Trưởng lão: Mình thức thêm thì nó ức chế.
Sư Phước Nhẫn: Nó buồn ngủ mà mình thức là ức chế?
Trưởng lão: Mình ức chế. Thành ra thí dụ như bây giờ cái thời gian là chín giờ, mà mới tám giờ rưỡi mà buồn ngủ mình ức chế, coi như là mình ức chế nó đừng cho nó ngủ đó. Còn cái khoảng thời gian mà nó không có buồn ngủ đó, thì khoảng thời gian đó là coi như mình tu tập, mình không có cái gì hết.
Nhưng mà nó có, nhưng mà cái sự ức chế của mình ức chế nó ngắn thôi, nó không được dài, nó dài nó sẽ mệt đầu , nó uể oải nó làm cho mình… hết, cho nên mình không ức chế nhiều. Khi nào mình ức chế nó, thì ức chế ít thôi.
Thí dụ như bây giờ 8 giờ rưỡi thì bắt đầu nó buồn ngủ, tới chín giờ là mình đi ngủ đó, mà nếu mà mười giờ mà tám giờ rưỡi nó buồn ngủ rồi mà mười giờ, tới mười giờ mình thức như vậy là mình ức chế quá rồi. Không được, sai.
Sư Phước Nhẫn: Lúc trước con cũng thức tới chín, mười giờ nó không có sao, sau cái đợt hôn trầm này cái tự nhiên nó buồn ngủ, vậy giờ mình ức chế nó hay là mình bỏ …
Trưởng lão: Không. Bây giờ cái, như vậy sư định sư chọn lấy cái giờ nào, chín giờ hay là mười giờ?
Sư Phước Nhẫn: Con thì mười giờ con ngủ, nhưng mà khoảng từ tám giờ đến mười giờ, bảy giờ đến tám giờ con buồn ngủ nhiều. Thì qua cái giai đoạn đó con chiến đấu được, không sao. Đó còn chín giờ đến mười giờ, tám giờ đến mười giờ thì nó không buồn ngủ. Nếu nó buồn ngủ ít, thì mình đi kinh hành, mình ngồi, đi kinh hành mình ngồi, tới lúc mình buồn ngủ nặng quá đâm ra con đọc kinh. Rồi bây giờ đọc kinh tự nhiên nó tỉnh bơ không có sao. Nhưng mà cái thời gian đó mình không có tu hết, nhưng mà mình làm mọi cách để cho nó tỉnh ra.
Trưởng lão: Cái đó là mình phá, phá hôn trầm. Được rồi, cái đó được rồi. Chọn lấy mười giờ đi. Cái đó không quá đâu, do mình từ lâu tới giờ mình đã có cái sức ức chế nó thì bây giờ mình chỉ cố gắng mình chiến đấu với nó. Cũng là ức chế đó chớ không phải không đâu, ức chế không có đến nỗi quá.
(02:37) Trước kia mà cái mới vô tu mình mà như vậy đó, để như vậy, cố gắng, nó sẽ mệt mỏi lắm. Nó sẽ đi lảo đảo, nó té. Bây giờ thì không đến đỗi mà nó lảo đảo, nó đã chịu đầu hàng rồi. Cho nên mình đừng lui, mình lui là mình đầu hàng nó đó, mình giữ gìn đúng mười giờ mình tu.
Và trong khoảng thời gian đó thì, thứ nhất là chịu khó đi kinh hành, giữ gìn. Hễ biết cái giờ nào mà nó sắp sửa nó buồn ngủ, nó hơi, thấy hơi có vẻ buồn ngủ là đi kinh hành. Đi kinh hành… Nó tỉnh thì mình ngồi lại mà không tỉnh mình đi. Mỏi chân mình có quyền đứng mình nghỉ, chớ không phải là mình mỏi chân mình cứ ráng đi.
Bởi vì, nó mỏi chân tức là bị chướng ngại pháp, mình đi nhiều nó gây chướng ngại pháp. Thì chướng ngại pháp bây giờ mình đẩy lui cái chướng ngại pháp của mỏi chân bằng cách nào, phải ngồi nghỉ chứ. Phải không?
Nhưng mà nó thường thường khi mà nó mỏi chân rồi thì cái hôn trầm nó lại giảm, nó giảm. Chứ mà nếu cái hôn trầm với cái mỏi chân hai cái nó kề cặp nhau, nó cũng còn mạnh lắm, thì mình chóng mặt (??) nhưng mà không có. Hễ cái thọ có thì thì cái hôn trầm nó cũng giảm. Có người đau nhức, người bị đau nhức cái này cái kia thì không có buồn ngủ được. Mà cái người mà không có đau nhức nó dễ buồn ngủ.
Đó, thành ra khi đó thì, khi mỏi chân thì cái hôn trầm cũng dịu rồi, mình ngồi lại được. Mà hễ mình nghỉ một hơi mình nghe hết mỏi chân coi chừng hôn trầm nó tới! Cho nên mình chuẩn bị, mình nghỉ, nghe nó không còn mỏi chân mình đi, để mà phá cho được cái hôn trầm.
Cái hôn trầm là cái nghiệp si của mình, phá đi. Hễ phá được thì nó mới có tỉnh. Nó tỉnh được mình mới ở trong cái Chánh Niệm, mình mới quan sát bốn chỗ đẩy lui chướng ngại pháp, để giữ gìn cái…
Sư Phước Nhẫn: Khi mà hết hôn trầm con mừng quá trời, cái nó trở lại.
Trưởng lão: Nó không phải đâu, nó trở đi trở lại hoài. Cũng như ba cái tâm niệm của mình, cái vọng tưởng đó, nó cũng tới trở lui trở lui hoài, nó không đến một lần đâu.
(04:39) Sư Phước Nhẫn: Con có mấy câu hỏi xin hỏi Thầy. Bạch Thầy, cái Định Vô Lậu, theo Thầy dạy có hai cách tu, cách thứ nhất là lấy bốn chỗ Thân - Thọ - Tâm - Pháp mà quán xét tư duy, lấy Năm Uẩn, Thập Nhị Nhân Duyên và Tứ Đế quán xét tư duy. Cách thứ nhì là lấy Pháp Hướng tu thành nội lực, hướng tâm ly dục ly ác pháp, xa lìa và đoạn diệt lậu hoặc. Vậy thì hai trường hợp này, trường hợp nào mình tu pháp thứ nhất, trường hợp nào mình tu pháp thứ nhì?
Trưởng lão:
Cách thứ nhất là khi mà nó có chướng ngại pháp thì mình đem mình quán để mình xả ly nó, gọi là cách thứ nhất.
Cách thứ hai là tâm thanh thản, nó không có cái chướng ngại pháp nào hết thì dùng Pháp Hướng để mình nhắc tâm mình nó thành một cái đạo lực.
Hai cái pháp đó đều là Định Vô Lậu hết, nhưng mà phải biết áp dụng đúng của nó thì nó có hiệu quả.
Tâm luôn lăng xăng lộn xộn mà cứ dùng pháp hướng “tâm như đất”, “tâm như đất” thì không đúng. Phải quán xét cái tâm lăng xăng lộn xộn đó, nó do nhân quả, hay nó do Thập Nhị Nhân Duyên, hay do Ngũ Uẩn như thế nào đó, mình quán xét nó để đẩy lui cái đó thì đó là quán.
Còn khi mà cái tâm nó thanh thản an lạc, không nên để cho cái tâm thanh - thản an lạc kéo dài cho đến tĩnh lặng thì sai. Thay vì dùng pháp hướng để mình nhắc cái tâm ly dục ly ác pháp, dù mình biết tâm mình chưa hết tham sân si, chưa quét sạch những Thất Kiết Sử, đó là dùng pháp hướng. Cho nên nó hai trường hợp tu.
Sư Phước Nhẫn: Về cái phần Định Vô Lậu, có lúc thì Thầy dạy có cái niệm khởi thì quán xét, còn không có niệm thì không có truy tìm.
Còn trong quyển Cẩm Nang Tu Tập của Thầy, tập Một ở trang 93, Thầy dạy: “cái Định Vô Lậu không phải là một định diệt Tầm Tứ để xong ngồi yên lặng, chờ lậu hoặc nổi lên thì dùng Định Vô Lậu quét sạch. Khi tu Định Vô Lậu thì phải dùng tâm tư duy, quán xét bốn chỗ thân - thọ - tâm - pháp”. Con xin Thầy giải thích hai trường hợp này!
(6:42) Trưởng lão: Cái trường hợp, thí dụ như có một cái niệm khởi mình mới quán sát cái niệm đó, mà mình quán sát, mình quan sát cái niệm đó, để xem cái niệm đó nó ở trong cái dục lậu, hữu lậu hay vô minh lậu?Mà khi mà xem biết nó ở trong ba cái lậu hoặc này rồi thì tức là nó sẽ lui ra, đẩy lui nó ra.
Còn nếu mà cái trường hợp nữa, bây giờ nó không có, mà bây giờ là tâm mình nó đang ở trong cái tâm, thí dụ như bây giờ mình đang ở trong cái tâm dục, nó khởi lên cái niệm dục nào đó, tức là nó đang ham muốn cái dục, cho nên vì vậy đó, mình mới quán bất tịnh hay là quán một cái, xét lại cái thân của mình, mình quán cái thân của mình nó bất tịnh như thế nào để cho mình nhàm chán mình.
Cũng như bây giờ, cái tâm nó khởi muốn ăn chè hay hoặc muốn ăn cái gì đó. Bây giờ đó, mình mới đem cái thực phẩm, mình quán bất tịnh cái thực phẩm, để cho nó nhàm chán nó không còn thích ăn món ăn. Đó là cách thức thứ hai của nó như vậy để đẩy lui cái tâm của mình.
Đó là cái tâm mình nó không cái hiện cái niệm đó, nhưng mà mình biết cái bản chất của mình nó còn thích ăn cái đó. Còn nó khởi ra một cái niệm, cái niệm bây giờ nó muốn ăn chè, nó khởi lên cái niệm thì mình đem cái niệm đó mà mình quán bất tịnh.
Còn bây giờ mình biết cái sở thích của mình, mình biết cái sở thích nó thích ăn chè, phải không? Mà bây giờ nó không có khởi cái niệm thích ăn chè, nhưng mà mình biết mình, vì vậy đó mình mới đem cái chè đó, mình mới quán bất tịnh, để cho mình nhàm chán nó, mình tưởng ra. Cái này là phải dùng cái tưởng quán vậy để đẩy lui cái tâm tham dục của mình. Cho nên hai cái trường hợp đó như vậy.
Sư Phước Nhẫn: Và hằng ngày con thường tác ý câu “Tâm - thanh thản - An lạc - Vô sự”, rồi theo dõi nó không? Hễ có niệm tham sân si nổi lên thì dùng Định Vô Lậu quán. Còn nếu có niệm lăng xăng thì con cắt. Như vậy là pháp môn gì?
Trưởng lão: Đó là Định Vô Lậu.
Sư Phước Nhẫn: Con có thể câu hữu với cái Thân Hành Niệm được không Thầy?
Trưởng lão: Được. Thân Hành Niệm Nội và Ngoại.
Sư Phước Nhẫn: Bởi vậy con vừa đi vừa tác ý rồi cái con câu hữu với Thân Hành Niệm Ngoại là con đi đó, con sợ nó ức chế, bởi vì mình dính với cái bước chân đó, thì nó có ức chế không?
Trưởng lão: Không. Bởi vì nó luôn luôn, mình tỉnh ở trên cái đó để mình xả cái tâm của mình, thì không bị. Còn mình tỉnh ở trên cái hành động đi của mình, thì mình bị ức chế đó. Mình kèm theo cái câu hữu của nó mà nó không bị ….
Sư Phước Nhẫn: Vậy thì ngoài cái phần tu vừa kể con có thể là thỉnh thoảng đọc một cái bài kinh để nghiên cứu quán xét thêm không hay không cần thiết?
Trưởng lão: Không, bây giờ thì cần thiết. Nhưng mà sau này mà nếu, bây giờ đã đọc thấy hết rồi, mình nắm vững hết rồi, không cần đọc đi đọc lại nữa, dẹp. Bây giờ chuyên tu thôi. Thì lúc bấy giờ là lúc đi tới chứ không có đi lui nữa. Còn bây giờ là lúc cần đọc, vì những cái thời gian mà nó cần đọc thêm, để cho mình nghiên cứu thêm những cái phần nào mà mình chưa hiểu, cái nào mình hiểu thì thôi, còn không hiểu thì mình phải đọc, là như trong giai đoạn này.
Cho nên ở trong cái tạng kinh này mà chịu khó, mà nếu mà đọc mà nghiên cứu kỹ, thì Thầy nghĩ rằng trong vòng một năm là xong hết, không có cái chỗ nào mà mình không có, chớ không phải là đọc tới hai ba năm đâu, không có đâu.
Bốn cái bộ kinh này chỉ trong vòng là, nếu mà hằng ngày mình cứ mỗi một ngày vậy, mình dành ra chừng một tiếng, hai tiếng đồng hồ một ngày, Thầy nghĩ là một năm hay sáu tháng sẽ đọc hết. Đọc hết mà đọc rất kỹ chứ không phải không. Đọc, nghĩa là đọc riêng từng chữ từng này kia để hỏi ra cho rỏ, thì cái đó đọc rất kỹ.
(10:33) Còn mình đọc lướt qua để mà hiểu sơ sơ, cũng tầm, trong một bài kinh mình phải hiểu cái ý của Phật muốn nói bài kinh là gì, mình đặt câu hỏi trước hết. Rồi xem xét những cái từ, cái từ nào mình không hiểu, nó có những cái từ mình không hiểu. Rồi mình hiểu hết những cái ý, và đồng thời mình nêu lên cái ý đó cho, coi như cái bài kinh đó mình nêu cái ý lên. Thầy nói đó như vậy là … mà Thầy thấy một bài nào chưa đúng, sai, thì Thầy giải thích cho hiểu biết.
Đó là cái nghiên cứu kinh sách để cho nó thông suốt được, sau đó cái niềm tin của mình mới trọn vẹn ở chỗ cái pháp, nó không còn vướng chướng nữa, nó không còn nghi hoặc, chớ không khéo nó bị nghi hoặc, mà không có thực hiện chín chắn được.
Bởi vì, cái tin nó quan trọng lắm, cái tín lực nó rất quan trọng. Mình tin, thì dù cái pháp đó, mình đã tin nó rồi thì sống chết mình ôm chặt được. Còn mình bán tín bán nghi, mình đi tu mà mình chưa có thật sự là tin Phật, thì mình chưa có chắc chắn mình vượt qua được. Cho nên trong cái Ngũ Lực thì cái tín lực là một cái đạo lực.
Sư Phước Nhẫn: Cái bộ Đại Tạng con đọc hết rồi, và con có ghi lại những cái bài kinh quan trọng đó, tầm hai cuốn hai trăm trang, sau rồi con ghi vào hết, cũng có mấy cái bài mà nó, lúc mình thấy nó cần ghi nhớ thì cần ghi nhớ lưu lại. Còn có cái chỗ nào mà thắc mắc thì con cũng đã tìm hiểu, con có thấy nó kết hợp với cái pháp của Thầy tu, không có trật.
Rồi cũng như cái bài tụng kinh mà nó “như ăn thịt con mình” đó, con thấy sao kỳ vậy, trong kinh con không thấy … nhiều. Con thấy nó kết hợp … biết kết hợp. Cũng như cái bài khác con đang tu mà nó giống với cái bài kinh An Trú Tâm trong quyển Trung Bộ Kinh 1… Thầy gọi là cái niệm lực.
Trưởng lão: Đúng đó.
Sư Phước Nhẫn: Con thấy như vậy cho nên … kết hợp được.
Rồi còn những lúc con bị trạo cử hoặc là vọng tưởng, thay vì dùng Định Niệm Hơi Thở, hoặc tập trung dưới bước chân của mình, mình mở băng nghe giảng có được không?
Trưởng lão: Được.
Sư Phước Nhẫn: Và thời gian tu pháp hướng là suốt ngày hay là quy định thời gian như các môn khác, để không có thất niệm?
(12:52) Trưởng lão: Lúc này thì coi như là mình chưa có phải dùng cái pháp hướng suốt ngày. Cái giai đoạn này là cái giai đoạn mình còn phá hôn trầm, còn cái giai đoạn mà dùng cái pháp hướng suốt ngày là hôn trầm nó đã đẩy lui…
Sư Phước Nhẫn: Còn thường ngày dùng cái pháp hướng đây là phần còn tác ý chứ chưa phải là Như Lý Tác Ý có phải không Thầy?
Trưởng lão: Ờ, đúng đó.
Sư Phước Nhẫn: Chừng nào mới tới phần Như Lý Tác Ý Thầy?
Trưởng lão: Khi nào mà cái sức tỉnh thức mình nó đã tỉnh thức hoàn toàn rồi, giới luật mình thấy mình nghiêm chỉnh hẳn hòi, mình không có vi phạm một cái lỗi lầm… thì bắt đầu Như Lý Tác Ý nó mới có hiệu quả. Còn bây giờ tác ý.
Sư Phước Nhẫn: Cái pháp Như Lý Tác Ý có thể là một cách để tu giới và tu định không ạ?
Trưởng lão: Đúng đó.
Sư Phước Nhẫn: Vậy mình tu giới mình dùng cái đó để tu, đó là kĩ thuật tu. Không có cái đó mình tu giới không được.
Trưởng lão: Không được, nó không có thanh tịnh…
Sư Phước Nhẫn: Con cũng nghĩ là không có cái đó thành ra mình thôi cũng như mình tu lý luận.
Trưởng lão: Bởi vì cái giới mà nó thanh tịnh, nó thanh tịnh cái tâm chớ nó không phải thanh tịnh cái thân của mình nó mới trọn vẹn được … cái ý. Thành ra nó phải có pháp Như Lý Tác Ý…
Sư Phước Nhẫn: Cái thời gian này con ít có phóng dật vì cái niệm tham sân si, nhưng mà bị những cái niệm lăng xăng nó tới lui hoài. Con mới tư duy ra thì nó ,cái nguyên nhân nó là một là do tiếp duyên, còn có nguyên nhân nữa là chắc có lẽ vấn đề nhân quả đời trước. Ngoài cái đó nó còn cái nguyên nhân nào để nó mới xảy ra niệm lăng xăng như vậy?
Trưởng lão: Nó, coi như cái niệm lăng xăng đó thì … mình tiếp duyên thì nó có niệm lăng xăng mới có, cái thứ hai là luật nhân quả, cái nghiệp lực của mình gây nên, nó sanh ra, cái dục …bệnh là do tiếp duyên thì nó sanh. Cái thân mà nó không bệnh mà tiếp duyên nó sẽ có bệnh, cái duyên nó tạo thành. Cho nên mấy cái này là cái quan trọng.
Sư Phước Nhẫn: Nó còn cái nguyên nhân nào sanh ra cái niệm lăng xăng nữa không Thầy?
Trưởng lão: Không, … có hai nguyên nhân. Cho nên độc cư là nó, độc cư là sợ có cái cảm thọ không, mà thọ không có nữa là độc cư trọn vẹn. Mà thọ có là nó sanh cái niệm lăng xăng của chúng ta. Còn mình tiếp duyên là mình ngăn chặn cái, chỗ mình độc cư là mình ngăn chặn được cái sự tiếp duyên, những cái niệm lăng xăng nó không có.
Còn nếu mà mình gặp cái thọ thì nó, nếu mình không tiếp duyên mình cứ gặp cái thọ, thì nó lăng xăng lắm nó chịu không có được. Cho nên cái sư nhận xét đó … mà nó có cái niệm lăng xăng đó.
Sư Phước Nhẫn: Cái pháp hướng con thấy nó cũng có hiệu quả nhưng mà nó không có tròn. Thí dụ như con đang đi mà nó biết mình đang đói bụng, thì con hướng một chút nó hết. Mà nó không có hết luôn. Như tối trước khi đi ngủ con hướng thì sáng nó khỏe dữ lắm, nhưng mà chắc có cái lặp đi lặp lại hoài nó mới hết.
Trưởng lão: Trong cái lúc này là những lúc lặp đi lặp lại. Bởi vì cái sức đề kháng nó chỉ đề kháng, trong khi đó mình hướng tâm như vậy, cái tâm mình nó bắt đầu nó bất động nó không có dao động đó, thì do đó cái sức đề kháng của nó làm cho mình thấy an.
Nhưng mà cái thân nghiệp của nó, nó còn cái nghiệp, mình chưa đủ chuyển nghiệp. Tức là cái sức định của mình nó chưa đủ để chuyển cái nghiệp, chứ không có gì , chưa có định. Bởi vì chưa ly dục ly ác pháp làm sao có định được.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra vậy là phải uống thuốc.
(16:31) Trưởng lão: Ờ phải uống thuốc. Uống thuốc, và đồng thời ra thì cũng dùng pháp hướng để cho nó không có trở lại, khi mà sau này, khi mình có định rồi thì mình dùng nó mà đẩy lui hết.
Sư Phước Nhẫn: Trong cái thời gian ngắn thì nó có hiệu quả không Thầy?
Trưởng lão: Thì bây giờ thì nó hiệu quả đó, nó hiệu quả mà rất ngắn nhưng mà trở lại. Nó chưa có phục hồi được. Còn sau này đó mình có định rồi, cái thân mình bởi vì bây giờ mình còn bất tịnh, sau khi mà cái thân nó thanh tịnh rồi thì nó …
Sư Phước Nhẫn: Con nghĩ là, thí dụ như mình có cái pháp hướng đó, mà nó hiệu quả lâu là phải do cái định.
Trưởng lão: Đúng vậy.
Sư Phước Nhẫn: Còn nếu nó có cái định thì nó thời gian ngắn. Con thấy nhiều lúc con muốn con thức mấy giờ là con nghĩ sau đó tới đó nó thức à. Khi mình muốn cái gì là nó ra cái nấy, thì tối ngủ mình nghĩ sao thức, khi mà đi ngủ đó, là con hướng làm sao nó y như vậy.
Trưởng lão: Đó là nó hiệu quả do cái phần giới rồi đó..
Sư Phước Nhẫn: Còn cái phần sức khỏe thì nó không có lâu. Mình kêu thì nó nghe chứ một lát nó trở lại.
Trưởng lão: Cái sức khỏe nó thuộc về thân. Sư thấy ngay cái phần mà ly dục ly ác pháp nó thuộc về tâm, phải không?
Cái định Sơ Thiền nó thuộc về tâm. Cho nên nói Tâm Bất Động mà.
Còn về cái Nhị Thiền nè, Tam Thiền nó thuộc về tưởng,
Tứ Thiền nó thuộc về thân. Phải không? Sư thấy rõ không?
Mà hai cái này thì mình phải có định chứ còn không định làm sao được! Cho nên vì vậy mà có định rồi thì cái pháp hướng này nó sẽ hết bệnh. Chớ còn không có thì nó trở lại. Cái này nó thuộc về tâm, mà tâm của mình nó chưa có định, nó chưa trọn vẹn cái định của nó, cho nên nó còn cái niệm ra vô, ra vô, ra vô.
Khi cái tâm mình thật sự nó có đủ sức mà nó không phóng dật rồi, luôn luôn lúc nào, thí dụ như bây giờ giữa Thầy với sư tiếp xúc nhau vậy thì nói chuyện qua lại, nhưng mà khi về thì sư, thì nó phóng ra, nó còn cái niệm, còn Thầy khi về thì nó lại bất động trở lại, nó không khởi niệm.
Mà ai đến nói thì nó có Tầm Tứ nó phóng ra, còn không có thì Tầm Tứ nó co lại nó nằm yên lặng, nó để nhất tâm của nó được.
Cho nên trong cái định Sơ Thiền, thì nó có Tầm có Tứ, có Nhất tâm, có Hỷ có Lạc. Cho nên vì vậy mà khi mình hoàn toàn tiếp duyên với nhau thì nó dùng Tầm Tứ, mà không tiếp duyên với nhau thì nó trở về Nhất tâm của nó, nó trọn đầy, thanh thản, an lạc.
Đó là cái chỗ của cái người tu xong. Còn mình chưa xong thì nó phóng ra. Cho nên vì vậy cái tâm của mình nó chưa tròn đầy.
(19:04) Sư Phước Nhẫn: Còn cái bữa, con thấy ông già đi làm cỏ, con mới hỏi thăm, con nói ông bệnh mà sao đi làm? Ổng nói nó hết bệnh đó, mà ông nói ổng dùng pháp hướng, ông chưa có định mà sao ông trị cái bệnh đái đường được, hay quá vậy Thầy? Cái đó là nhờ nguyên nhân nào?
Trưởng lão: Cái nguyên nhân nó là cái tín lực, cái niềm tin của họ trong đó.
Sư Phước Nhẫn: Chớ không phải là do cái định lực… ?
Trưởng lão: Không, đây là do cái niềm tin, cái tín lực nó làm, cái lòng tin của ổng tin cái câu, nó đặt trọn cái niềm tin, nó dùng cái câu pháp hướng đẩy lui bệnh.
Sư Phước Nhẫn: Bởi vậy con nói sao mà ông đi ra ngoài ông làm được mà trời mưa lất phất vậy? Ổng nói bây giờ “tui hết rồi”, hỏi sao hết, ông nhờ ông tu cái pháp hướng ông nhắc hoài, cái bây giờ ông đi tới đi lui, cái gì nó cũng bình thường hết trơn hết trọi. Con nói không hiểu sao mà ngộ vậy?
Trưởng lão: Ổng chưa có định, bởi vì Thầy dạy ổng chỉ có tu tập về cái nghị lực, và ổng ngồi xuống, đi kinh hành, hoặc là thời gian chuẩn bị đi kinh hành, tập siêng năng, qua cái thời gian của nó, nó có cái nghị lực của mình.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra cái hết bệnh đó là do cái tín lực chứ không phải là do…
Trưởng lão: Tín lực, do tín lực của ổng đó. Tại cái người nào mà Thầy dạy pháp hướng mà họ chưa có định, mà họ tin vào cái pháp đó họ dùng để trị bệnh, cái pháp hướng mà, nghĩa là nhất định chết bỏ đó.
Thì ổng, ổng có thuốc đem theo chớ không phải không đâu, mà thuốc của ổng là phải dể trong tủ lạnh cho nên cô Út cô gởi ở trên nhà trên kia kìa, có cái tủ lạnh, gởi ở trển. Khi nào mà ổng cần thiết ổng dùng uống một tuýp đó, thì ổng cho cô Út hay cô Út lấy. Nhưng mà từ ngày ông vô tới giờ, ổng tin cái pháp hướng của Thầy dạy, nhờ niềm tin của ổng mà ổng đẩy lui được cái bệnh, khỏi uống thuốc.
Sư Phước Nhẫn: Thấy cái bệnh mà nan y mà ổng hết trơn, hay quá!
Trưởng lão: Cái niềm tin, khi mà ổng đọc sách Thầy ổng thấy câu, cái pháp hướng hay quá ổng tin. Cho nên nghe nói Thầy cũng trị bệnh bằng cái pháp hướng, bằng này kia, hoặc mấy cô rồi cũng trị bệnh bằng pháp hướng, cái niềm tin đó là niềm tin sâu, thành ra không cần uống thuốc nữa. Rồi nó có, mới đầu thì nó cũng hoành hành lắm, nhưng mà ổng tin lắm, nên không sợ.
Sư Phước Nhẫn: Vậy là thời gian sau nó hết luôn nó không còn trở lại?
Trưởng lão: Nó hết luôn mà. Nó hết luôn, nó đi vào cái định. Bởi vì từ cái tín lực đó mà nó đi vô, nó đẩy lui tất cả mọi cái. Ổng tin được cái này rồi, thì Thầy dạy cái gì ổng làm, sau này tới cái giai đoạn mà Thầy giảng, ổng quan sát trên bốn chỗ Tứ Niệm Xứ mà ông tu thì ổng sẽ đi vào.
Sư Phước Nhẫn: Vậy là ổng có cái căn bản vô Sơ Thiền mau phải không Thầy?
Trưởng lão: Mau đó, bởi vì cái tín lực nó hay lắm!
Sư Phước Nhẫn: Vầng, con cũng nghĩ ông này cái vô Sơ Thiền trước tụi con!
Trưởng lão: Cái tín lực.
Sư Phước Nhẫn: Giờ thấy ổng lẹ quá!
Trưởng lão: Có niềm tin. Mà hễ cái lòng tin rồi thì nó, bởi vì nó đặt thành cái vấn đề nó đem hết cả cái khả năng nó đi vào cái đó, nó không phải lơ lỏng đâu!
Cho nên vì vậy mà cái người mà nghe Thầy nói cái pháp hướng mà nó hết bệnh, mà người đó đặt trọn niềm tin, đừng có bán tin bán nghi, thì cái người đó hết bệnh tật.
Thầy sắp tới cũng về ở cái thất của ổng đó ha, ông lo ông tu, mà thầy nói con ráng ôm cái pháp Như Lý Tác Ý mà tác ý nó ra, tác ý một cái tướng khác cái tướng bệnh này, đừng có sợ đau gì hết. Mà ông này chịu đựng được, cho nên ổng chịu mà. Hễ đủ niềm tin của cái pháp hướng rồi thì chắc chắn là những cái cơn đau nó sẽ hết. Cái lực của nó mạnh lắm, cái lực của nó, bởi vậy Thầy nói, nó siêu việt.
Chỉ vì mình chưa biết cho nên mình chưa có thấy nó thôi chứ còn, còn ông này thì ổng nghe nói thôi nhưng mà niềm tin ổng, bởi vì họ là cái người bệnh, họ khổ rồi!
(23:02) Sư Phước Nhẫn: Ổng khoe con ổng nói bây giờ cỡ này ổng hướng mạnh lắm. Cũng như cái đi, cái chân ông đang đi vậy, cái chân ổng nó muốn sút ra như sút bù lon vậy, cái ông nói: "Không sút”, cái chút xíu nó gắn vô cái ổng đi lại, nó trật. Thần thánh! Cái ông đang đi cái nó đói cái bụng, đau cái đầu, ông hướng một chút nó hết.
Thì con cũng vậy đó, con cũng làm nó hết vậy đó, mà nó không có hết luôn, giờ nó cứ tái đi tái lại. Còn của ổng cái bệnh đái đường ổng làm hết luôn hay thiệt tình!
Trưởng lão: Không cái bệnh đái đường là cái bệnh của ông nó bị ngặt nghèo. Còn cái thứ mà nghiệp lặt vặt, coi vậy chứ nó tới lui.
Bởi vì cái thân bệnh của mình, những cái ngặt nghèo, cái người mà tu mà cái bệnh ngặt nghèo nó không khó đâu, mà nó khó là tại vì cái tâm của mình không xả. Chớ mình quyết tâm mình xả là hết bệnh ngặt nghèo, bệnh lặt vặt, bệnh kêu là bệnh nhân quả đó.
Nghĩa là cái thân mình nó còn vô thường cho nên nó hay bệnh, nhưng mà bệnh lặt vặt nó không có bệnh đến đỗi mà khổ sở. Còn người đời người ta tích ác cái bệnh nó quá khổ, còn mình thì …
Do như vậy mà cái bệnh lặt vặt nó cứ dùng pháp hướng đẩy lui nó, tới nữa đẩy nữa, cứ hoài thôi, tới chừng mình chết nó hết thôi chứ còn đừng nói hôm nay mình không đau đâu. Cái đó nói pháp hướng đó. Hễ mang cái thân nhân quả là nó có bệnh thôi, bởi vì nó vô thường lắm, thay đổi, nó thay đổi thì tức là, nó thay đổi tới cái chỗ đó đó, rồi cái thân của mình nó bị thay đổi nó phải đau thôi, có gì đâu!
Và do đó thì mình cứ dùng cái pháp hướng để đẩy lui nó hết, nó có nữa đẩy lui nữa chứ đâu có gì, cái tụi lặt vặt …
Sư Phước Nhẫn: Con nghĩ là đẩy một cái là nó hết luôn đó, vậy con mới không làm.
Trưởng lão: Nó là cái bệnh nhân quả, mình là thân nhân quả mà mình làm sao mình bảo nó hết đau được? Chớ phải chi mình, cái thân mà không đau là cái thân của chư thiên, nó là còn cái trạng thái trong đó rồi. Mình mang cái thân…
Sư Phước Nhẫn: Cô Út cổ nói là hướng một ngày mà không hết là phải uống thuốc, hướng một ngày nó hết thì thôi. Hướng mà nó hết thì ngày mai nó trở lại nữa rồi làm sao?
Trưởng lão: Cứ hướng, cứ hướng nó hết rồi cái nó trở lại, hướng nữa hướng nữa, cứ cái nó, nó là cái thân nhân quả mà. Cứ là mình có cái thân này, có người có thân người ta ít bị bệnh, còn có người thân bệnh hoài, mà mình nhờ mình tu mình hướng nó hết, hướng nó hết, cho nên mình thấy nó an ổn nó thanh thản.
Cho nên Đức Phật bảo mình đẩy lui các chướng ngại pháp mà. Nếu mà không có thì Đức Phật đâu có nói chướng ngại pháp, nhưng mà chướng ngại pháp thọ là chướng dữ lắm chứ!
Sư Phước Nhẫn: Ông này ổng hết luôn cả cái bệnh đái đường đó là nhờ tín lực đó!
(25:35) Trưởng lão: Tín lực, cái niềm tin ổng. Tín lực ổng nhiều. Nói ra Thầy biết liền. Chính Thầy ngồi tu được mà nhập được cái Sơ Thiền là nhờ cái lòng tin vào Sơ Thiền… Thầy gặp cái pháp hướng thấy nó hay. Từ lâu tới giờ mình tu tất cả các pháp mà không hay cái pháp này.
Mà chính Thầy hiểu nó qua cái danh từ “ám thị", khi mà đọc đến cái chỗ Như Lý Tác Ý - cái pháp hướng - dùng cái chữ “ám thị”, coi nó làm sao. Bởi vì hồi đó Thầy đọc sách bên Thiên Chúa của ông Cha ông bác sĩ, ổng hay nói về tự kỷ ám thị. Ổng có kê lên một cái, nhưng mà Thầy đâu có ngờ cái tiếng Pháp nó..
Khi mà Thầy đọc kinh sách Nguyên Thủy, nhờ đọc bên Thiên Chúa cũng biết một chút, chứ không phải không đâu, cho nên vì vậy mà Thầy, chính như vậy mới trị được cái nội tâm của mình. Cứ ở ngoài mà dòm ngó ở ngoài không làm sao mà … được. Mà tự kỷ ám thị tức là nội tâm của mình.
(26:38) Sư Phước Nhẫn: Con thấy cách dùng pháp Như Lý Tác Ý, con kinh nghiệm thì, khi mà mình dùng mà muốn nó có hiệu quả là phải có yếu tố tình cảnh, khi mình tình cảnh cái mình dùng pháp hướng thì nó có hiệu quả nhanh hơn. Còn cái bình thường mình dùng cái pháp hướng hiệu quả nó không nhiều. Có phải vậy không Thầy?
Trưởng lão: Đúng như vậy.
Sư Phước Nhẫn: Cũng như nhớ cái này nè, hồi đó đọc cuốn Đường Về Xứ Phật của Hòa thượng Trí Tịnh nói niệm Phật niệm Phật không đó, vậy chớ ông thầy Bạch Vân ổng hỏi con: "Đọc vậy có biết cái yếu chỉ đó không? Con nói biết chứ, cái yếu chỉ đó là ông chỉ ra cái tình cảnh, vậy nhờ tình cảnh thì nó mới nhiếp tâm được, tình cảnh nó mới nhiếp tâm.
Thành ra bây giờ con nhớ cái đó rồi áp dụng cái này để mà, lúc nào tình cảnh mình hướng, thấy nó hiệu quả mau lắm, hiệu quả hay lắm. Còn bình thường mình hướng cũng như mình làm công chuyện thói quen thì nó không có hiệu quả bằng.
Trưởng lão: Ừ đúng như vậy đó.
Sư Phước Nhẫn: Cũng như ông này ông có tín lực đó. Ông đem hết tâm tư vô đó rồi ông hướng.
Trưởng lão: Đó, đem hết tâm tư của mình đặt trọn vào thì nó mới thành cái lực của nó.
Sư Phước Nhẫn: tình cảnh….
Trưởng lão: Như vậy coi như là khẩn cấp đó.
Sư Phước Nhẫn: Dạ, cũng như mình vì cái nhu cầu đó, mình phải giải quyết, thành ra nó mau. Mà thí dụ mình hướng mà nó không có nhu cầu giải quyết thì cũng như lúc bình thường, nó cũng như cái thông lệ hay thói quen thì nó không có vô. Cũng như Thầy nói cái trạng thái nó sẵn sàng nó chờ mình đó, mình vô ngay trong cái trạng thái nó thì vô mới được.
Trưởng lão: Đúng đó. Bởi vậy nó hay, biết như vậy mà cái người áp dụng trật thì kết quả không có. Thầy biết cái pháp hay, hướng tâm là pháp rất hay, rất tuyệt. Nhưng mà cái nói vậy chớ nhiều người cũng nghe nói vậy chớ làm trật à, chớ không phải ai cũng làm trúng hết đâu.
(28:34) Sư Phước Nhẫn: Con có câu hỏi này nó cũng thuộc các câu hỏi về các pháp trần: Con xin Thầy minh chứng cụ thể rõ ràng về thời gian tu để chứng đạo quả. Vì có nhiều quan niệm cho rằng phải là kiếp chót, hoặc là đủ Ba La Mật mới đắc được?
Trưởng lão: Không có, Thầy nói cái đó không đúng. Thầy xác định là con được thân người mà đúng Chánh Pháp thì trong nội kiếp này thì sẽ … chẳng có đợi phải Ba La Mật hay hoặc là kiếp khác, không bao giờ!
Bởi vì được thân người là khó, mà được thân người mà được Chánh Pháp, mà được Chánh Pháp mà cái người đó lại được cái sự hướng dẫn tu đúng, thì nội trong kiếp này, một kiếp một không, Thầy xác định một kiếp một.
Thầy cũng như quý thầy, không có hơn cách gì, thân Thầy cũng vậy chứ đừng nói là kiếp chót, không có kiếp chót kiếp gì hết. Đây là cái kiếp đầu cũng vậy, mà được thân người là tu được. Nhưng mà vì được thân người mà tu sai pháp thì không được, được thân người mà không đủ, không tin pháp cũng tu không được.
Được thân người nó có đủ những cái khả năng của nó trong đó. Ai lại cũng có cái niềm tin, mà mình tin có sâu hay là không sâu? Chớ đâu phải người nào không tin? Có tin, nhưng mà có người tin sâu người không tin sâu.
Nhưng tại sao họ không đặt tin sâu? Họ không chịu tự tư duy, cho nên tại sao mà Thầy, khi mà quý sư đến đây Thầy cho đọc bộ kinh sách này, Thầy cho nghe, để làm gì? Để tin sâu chớ, tin cái này là của Phật chớ, cái này đâu phải của Thầy đặt? Tin cái này là hoàn toàn, có nghĩa là đúng đắn!
Cho nên vì vậy, cái người mà đọc xong kinh sách Phật rồi, thấy lời Thầy dạy đúng, có pháp hành hẳn hòi như Phật dạy rồi, thì mình đặt trọn niềm tin. Nhất định, quyết định sống chết với nó thôi. Cuộc đời này chỉ cần có giải quyết này thôi, thì cái người này họ niềm tin sâu, thì một đời thôi chứ đừng nói kiếp chót. Cái đó là cái lý luận của Đại Thừa. Mặc dù đó là trong kinh nguyên thủy có nói…
Không có kiếp chót, kiếp này, bởi vì ông Phật nói được thân người là khó, mà được Chánh Pháp còn khó hơn! Thế mà chúng ta được thân người mà được Chánh Pháp của Phật nữa, cái pháp được giải thoát mà, làm sao chúng ta không một kiếp này? Chỉ có mình không tu thôi.
Sư Phước Nhẫn: Bởi vì cái quan niệm mà tu nhiều đời nhiều kiếp mới đắc đó, thì nó làm cho người ta nản chí nhiều lắm!
Trưởng lão: Làm cho người ta nản chí.
Sư Phước Nhẫn: Với lại người ta không có lập chí nữa. Như hồi đó con còn cư sĩ con có nghe thành được ngay trong kiếp rồi mấy ông thầy kia ổng nói: “Bị hoang tưởng! Làm gì trong kiếp này được!”
sau con mới đọc bộ …. nói là nguyện ngay trong kiếp này thôi. Chớ còn mình qua kiếp sau có biết nó ra làm sao đâu mà mình tính? Kiếp này hiện tại trước mặt đây mình biết, mà mình không có tín lực, mình không có tập niệm lực, rồi qua kiếp sau đầu thai rồi cái nó quên hết trơn hết trọi rồi, nó đâu có nhớ cái gì nữa mà nó tính!
Trưởng lão: Mà rồi biết mình được làm người nữa không? Hay là làm con vật thì làm sao mà tu? Phải hiểu được vậy, đâu có, kiếp này làm người là kiếp này phải, mà nếu mà kiếp sau chắc chắn không bao giờ….
Sư Phước Nhẫn: Chắc chắn trong bàn tay của mình.
(31:41) Trưởng lão: Coi như là các cái luận đó để cho con người dễ dãi, nó dễ duôi, nó nghĩ rằng tu trong nhiều kiếp thôi tui từ từ tui chơi thôi, chứ sự thật ra tu phải thành khẩn. Nếu mà mình không thành khẩn thì kể như là chưa nổi được.
Mà mình không quan trọng cái thân của mình là khó, cho nên mình mới dễ dàng, mình nghĩ rằng đời nay mình tu đời sau mình còn thân nữa mà tu, cho nên mình nghĩ vậy rồi mình tu vừa phải. Mình tu vậy là mình làm biếng hết. Còn mình thành khẩn, thì thật sự ra mình thành khẩn mình thấy được cái thân này là khó, kiếp sau không biết có được hay không, chắc chắn là khó được!
Cho nên trong kinh Phật nói như con rùa mù tìm bọng cây giữa biển, rõ ràng khó thật, không bao giờ có thân đâu! Vì vậy mình thành khẩn ở trên một cái kiếp con người của mình được thôi.
Thầy thấy họ không quý cái thân này. Cái người tu họ quý lắm, họ tưởng là kiếp này rồi tới kiếp sau họ còn thân nữa cho nên họ… Còn mình biết được cái ý nghĩa của Phật nói như vậy mình thành khẩn, ráng nỗ lực, đem hết sức lực, trong một đời này phải giải quyết cái đó.
Mà giải quyết sớm chừng nào tốt chừng nấy. Bởi vì vô thường nó đâu có định cho mình trước đâu? Cho nên bữa nay mình xong, ngày mai mình chết mình khỏe rồi! Mà bữa nay mình chưa xong ngày mai mình chết biết mình còn tu được nữa hay không? Không được dễ dãi với nó đâu.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra cái yếu tố thành khẩn là quan trọng nhất?
Trưởng lão: Quan trọng nhất!
Sư Phước Nhẫn: Con nhận thấy là hồi lúc con còn nhỏ đó, con coi cái phim, con thấy cái người đó họ cầu khẩn, cầu quá đi, cũng như là thành khẩn quá xá đi, trên thiên đình tự nhiên nó lúc lắc lúc lắc ba ông tiên trên trển đó, cái ông mới dòm xuống ông thấy bà này cầu, ổng mới xuống ban phước cho bà này được như ý! Còn mấy người kia cầu mà nó không thành khẩn thành ra nó không có lọt vô thiên đình. Con nhớ cái này, có lẽ là thành khẩn nó cũng hay!
Trưởng lão: Đó! Chính cái tín lực của ông này là ổng vô đây là ổng được ban phước theo, để mà hưởng, mà nhận ra được cái pháp của Thầy mới đi vô trong này để mà xin tu. Đó.
Cô Út thì cổ, coi như là cổ làm khó dễ để coi ổng có quyết tâm không? Nếu con người quyết tâm thì làm gì làm nhất định không đi. Còn Thầy thì Thầy trợ giúp để cho ổng an ổn, nỗ lực… Cô Út cổ nói để tui, để tui trắc nghiệm từng chút hạnh của ổng. Nhưng mà ổng nhờ Thầy hỗ trợ. Cho nên vì vậy niềm tin ổng tin sâu …. kể cũng mừng. Cho nên mấy bữa rày thì Thầy đi ra Thầy kiểm lại sự tu của ổng. Thầy đi một vòng rồi Thầy ra quan sát coi cái tín lực của ổng, tính để rút cái thời gian cho nó thu ngắn lại.
Sư Phước Nhẫn: Dạ, con thấy ổng tín lực thế này ổng lẹ lắm Thầy. Chứ con thấy cái chính như chỗ này, hồi đó con có cái nghi ngờ Thầy. Mà Thầy nói, cứ bị bệnh thì dùng pháp hướng, rồi khỏi uống thuốc, không có chết đâu. Rồi con nghĩ rủi nó chết thì sao, chết rồi kiếp khác mình biết đường tu không? Kiếp này chắc ăn quá mà không làm rồi bảo tới kiếp sau, rồi nó không chắc ăn thì sao?
Rồi con nói ủa, vậy là ổng kêu mình làm quyết liệt mà nó không hết, rủi nó không hết, thí dụ như bệnh nan y nó không hết thì kiếp sau làm sao chắc ăn được? Kiếp này không chắc ăn kiếp sau làm sao được? Nó hơi ngờ ngợ cái đó. Sau con mới thấy mấy cái trường hợp rồi con mới biết nó là đúng.
(35:16) Trưởng lão: Tại vì đó là cái, Thầy muốn nói đó là cái sự thành khẩn của mình đối với cái mạng sống của mình nó quá ngắn, mà mình lấy cái đối tượng đó để mình vượt lên. Bởi vì nó chỉ vượt qua mà, chớ đâu có phải là chiến đấu với nó để mà chịu đựng mà vượt, cứ vượt qua thôi. Tâm bất động để vượt qua.
Sư Phước Nhẫn: Vậy con nghĩ liều cũng phải có trí tuệ chứ liều mù quáng quá cũng dở!
Trưởng lão: Bởi vì khi mà liều mà không có trí tuệ đó, là cái pháp mình nắm không có vững. Mà bây giờ mình đã nắm cái pháp được, mình biết cái pháp này, mình tin nó sẽ cứu mình, mình tin sâu rồi.
Cho nên cái liều của mình chứ thật sự liều là vì mình có, coi như là mình có bùa hộ mạng rồi, không có sao! Còn mình mà liều mà mình không biết cái pháp của mình tu nó có được vậy không, thì cái đó là mình liều.
Còn cái này, Thầy đã nói Thầy làm được rồi mà, tại sao mình không tin mà mình đương làm mà mình không thành khẩn với nó? Thì do đó mình không có nhiệt tâm với nó, mình còn sợ hãi, sợ hãi là mình cứ uống thuốc.
Sư Phước Nhẫn: Rồi nó kẹt theo cái kiểu này này. Cô Út cô nói là thí dụ mình hướng một ngày, thì nó hết phải uống thuốc, một ngày thì nó có cái định nó mới hết, còn không có cái định thì dùng Như Lý Tác Ý nó cũng không hết luôn. Còn trường hợp ông này thì ông chưa có cái định, mà ông không uống thuốc tức là ông liều rồi, nghĩa là ông liều cách tối đa đó, ổng chưa có định nữa!
Trưởng lão: Vậy chớ mà chính nhờ cái liều đó đó, mà ổng tin tưởng những điều đó, mà cái định ngay ở đó, cái định chỗ xả tâm của liều đó. Chỗ đó đó, chỗ xả tâm, chớ không phải định mà mình ngồi đó không vọng tưởng, mà chính cái định là cái chỗ cái tâm ông đã xả!
Sư Phước Nhẫn: Chỗ đó là con hiểu!
Trưởng lão: Đó là cái định. Nhờ đó mà ổng đẩy lui cái bệnh!
Sư Phước Nhẫn: Con nghĩ là do mình tu…
Trưởng lão: Chớ không phải là mình, bây giờ mình ngồi tâm mình nó hết phóng dật thì đó là định, không phải. Nhưng mà đây là vì ổng, tánh ổng, ổng có niềm tin vào cái pháp, cho nên ổng thành khẩn, cho nên cái định ngay đó là ông, ông hết phóng dật liền ngay đó! Cái định nó ngay cái chỗ mình thành khẩn là nó có định rồi!
(37:19) Sư Phước Nhẫn: Còn cái phần câu hỏi mà nói ngay trong đời này mình chứng quả là không cần nhiều đời nhiều kiếp đó, thì lúc trước con cũng nghe Thầy nói trong băng rồi, nếu duyên chúng sanh có thì sẽ có người chứng A La Hán, còn nếu không có thì không được. Thì như vậy thì cái vị tu chứng là phải phụ thuộc yếu tố ngoại chứ không phải do tự lực của mình?
Trưởng lão: À nói chung là cái người tu mà chứng là có cái nhân duyên với chúng sanh nó mới có người tu chứng ở trong cái thế gian này.
Thí dụ như ở cái đất nước này nó có một người tu chứng quả A La Hán, thì trong cái đất nước này nó có cái nhân duyên đó, tức là chúng sanh có duyên đó. Còn không nó ở đâu đó, nó không ở đây. Còn như nó tới mình nó kể như cái ngọn rồi, cái niềm tin của mình…
Cũng như Thầy tu đây, khi mình, cái người mà ở các nước xa Thầy, xa cái đất nước Việt Nam này, mà họ nghe vậy, chớ cái tin, nó không có cái niềm tin đâu.
Bởi vì người ở đây trực tiếp với Thầy, thưa hỏi với Thầy, vì do đó cái người mà tin được trực tiếp với Thầy, người đó được sự hướng dẫn nó mau lắm. Còn cái người kia họ nghe Thầy, rồi bán tín bán nghi cũng chưa chắc, rồi người kẻ qua nói lại, mà cũng chưa gặp Thầy, đó thi, cái niềm tin nó lần nó mất, nó không…
Cho nên coi vậy chớ nó có duyên chúng sanh thì cái người đó họ xuất hiện ra đời. Còn không có duyên chúng sanh thì kể như họ xuất hiện ra làm gì đây. Nó có cái cái chứng của nó chứ, cái nhân quả của nó rồi!
Sư Phước Nhẫn: Thành ra có cái ý nghĩ là thí dụ như con tu, thì con muốn có ước nguyện là đắc quả, nhưng mà nếu cái đắc quả của mình phải tùy thuộc cái duyên chúng sanh thì cái tự lực của mình tu nó không có hiệu quả hả Thầy?
Trưởng lão: À, bởi vì nếu mà mình sanh ra trong đời nay, mà cái duyên chúng sanh nó không có, thì kể như là mình tu không có đắc quả!
Sư Phước Nhẫn: Cũng như không?
Trưởng lão: Cũng như không à! Mà nó làm sao mình muốn được? Bởi vì mình muốn cũng tà pháp không có Chánh Pháp đâu!
Cũng như bây giờ là mình có Chánh Pháp nhé, bây giờ kinh sách phải có nè, mà mọi người đều duyên theo kinh sách của Đại Thừa nó không có theo kinh sách của Nguyên Thủy, của Phật, thì cái duyên chúng sanh nó không có, cho nên tất cả các thầy đều là tu ra cái pháp của ngoại đạo tu, thành ra nó không bao giờ có bậc A La Hán xuất hiện hết!
Bây giờ cái duyên chúng sanh nó có rồi, bây giờ có một người tu đúng giới luật của Phật xuất hiện ra, thì coi như là chúng sanh nó đã có duyên rồi, thì tất cả những cái tà pháp mà từ lâu tới giờ mà mọi người đang theo, nó đều bị dẹp! Thấy chưa? Cho nên bây giờ, nó bắt đầu từ đây về sau chúng sanh nó mới có duyên, do đó mới có gặp Chánh Pháp, còn nếu không, cứ tà pháp.
Cho nên mấy trăm năm nay, hai ngàn mấy trăm năm nay, từ khi Đức Phật tịch rồi thì Phật Giáo chia thành bộ phái, nó không có người tu chứng. Hễ chia là hết người tu chứng rồi, nó mới chia ra đó. Chia nó là vì danh vì lợi rồi. Do đó Phật pháp nó không có còn người nữa, thì từ đó nó lần lượt nó sai lệch. Do cái duyên chúng sanh không có, nên Chánh pháp không có, nó mất.
Bây giờ bắt đầu Thầy tu trở lại Giới - Định - Tuệ, thực hiện được cái pháp của Phật rồi, thì duyên chúng sanh nó có rồi. Đó rõ ràng là vì mình tu có, mình nhờ cái duyên chúng sanh mà mình mới xuất hiện, mình tu mới được, chớ còn nếu mà không có chúng sanh có cái duyên đó, thì mình cứ xuất hiện để làm chi?
Cho nên vì vậy tất cả, như bây giờ các sư mà về đây tu là cái duyên của sư, của các sư đó! Nó có, cho nên nó mới về đây! Còn nếu mà không có thì không có về đây! Sư hiểu điều này.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra cái sự đắc quả là cũng phải tùy thuộc vào chúng sanh?
Trưởng lão: Tùy thuộc vào chúng sanh!
Sư Phước Nhẫn: Chứ còn cái tự lực mình không có quan trọng?
Trưởng lão: Ờ tự lực mình không có quan trọng!
Sư Phước Nhẫn: Thành ra mình tu miết miết hoài mà không có duyên chúng sanh thì cũng như không? Nó không có đắc?
(41:09) Trưởng lão: Nó không có đắc, bởi vì mình tu, nó không có duyên chúng sanh thì mình tu trật pháp rồi! Thầy muốn nói là không có duyên chúng sanh là mình không tu Chánh Pháp rồi!
Sư Phước Nhẫn: Đúng pháp là có duyên chúng sanh?
Trưởng lão: Có, chúng sanh nó có duyên đó, cho nên nó đúng pháp!
Sư Phước Nhẫn: Thành ra cái này nó cũng tùy thuộc qua lại qua lại?
Trưởng lão: Qua lại! Bởi vì mình, con người của mình nó sanh ra ở trong một cái khối lượng của nhân quả, cái nhân quả là cái định lực chung cho con người ở trên hành tinh này.
Cho nên cái nhân quả này nó tốt, thì tất cả mọi người này nó phải có cái hưởng của chung nhau chớ! Cho nên trong một cái cá nhân nó không có thành vấn đề, mà nó thành vấn đề tập thể của nó. Nó là thuộc về nhân quả rồi, cái luật nhân quả. Và nó không còn cá nhân nữa.
Cho nên nó có cái duyên người này, mà hễ mà xuất hiện được mà tu đúng mà chứng đạo được, thì cái chúng sanh này nó có cái duyên rồi, không có chạy đâu hết. Sớm muộn rồi nó sẽ có nhiều người tu được!
Sư Phước Nhẫn: Thành ra con nghe cái đó con cũng hơi nản chỗ này: Phải có duyên với chúng sanh mình mới tu đắc được còn không có duyên chúng sanh thì kể như huề rồi, … tu?
Trưởng lão: Đó thì bắt đầu bây giờ, quý sư cứ nghĩ đi, bây giờ cách đây một trăm năm thôi phải không, thì các loài chúng sanh không có duyên đó. Trời ơi tu làm chết người ta! Tới Thầy bây giờ Thầy cũng tu gần chết Thầy đây, nó không có duyên rồi!
Nhưng mà đùng cái, các loài chúng sanh có duyên, cho nên vì vậy mà Thầy mới thực hiện được chớ không khéo Thầy không thực hiện được.
Chớ nếu mà trước Thầy chừng 100 năm có một người thực hiện được như Thầy thì Thầy đâu có khổ sở. Phải không, chúng sanh, thì Thầy là chúng sanh chứ gì? Thì có người đã thực hiện được thì Thầy đâu có khổ sở. Còn bây giờ đã có người thực hiện được thì đây là duyên chúng sanh cho nên không khổ, có người đã làm được. Đó là duyên chúng sanh.
Nhưng mà bây giờ, chúng sanh không có duyên, thì không còn có người tiếp tục nữa. Nghĩa là chúng sanh mất duyên rồi cho nên cái người này, Thầy tịch rồi là không có duyên. Còn có duyên tức là có người tu tới nữa, có người làm được nữa!
Tức là Thầy biết Thầy tu rồi, được rồi thì chúng sanh có duyên, mà có duyên Thầy, chỉ có người tu người ta biết được cái người nào thôi, người ta không nói ra thôi. Thầy có duyên, cho nên vì vậy mình tu được rồi thì có những chúng sanh kế tục.
(43:25) Nhưng mà nếu mà Thầy nói chúng sanh hết duyên, thì ngay từ cái người mà kế đó là họ đã tịch rồi thì không còn người thừa kế nữa, thì chúng sanh mất duyên, cái số người này mất duyên rồi, thì cái Chánh Pháp này nó bị mất, tương tự Đức Phật ngày xưa.
Đó cũng hết, chúng sanh hết duyên, cho nên tà pháp nó áp, nó đậy kín giáo lý của nhà Phật hết.
Nó có đó chớ đâu phải mất đâu, cho tới cả mấy ngàn năm bây giờ Thầy lật nó ra. Thì bây giờ lật ra thì coi như là, vạch ra cái đường mà của Đức Phật đi chớ không có cái đường mới mẻ nào hết. Nhưng mà có duyên chúng sanh, có duyên với mình hết rồi. Trong cái thời đại năm hai ngàn này nó biết là chúng sanh có duyên hay không. Cho nên ngay từ bây giờ, từng chút mà sư về đây sư thấy, như ba của cái chú… ngày xưa, vẫn cái niềm tin mà vượt lên… cái pháp hướng như vậy Thầy thấy, như thế nào. Có khi chúng ta có những cái tư tưởng rất là sâu chứ đâu phải khi không đâu.
Rồi bây giờ, thí dụ như bây giờ có một người nào đó, họ đạt được Tam Minh rồi thì nó là cái niềm tin nữa!
Tức là chúng sanh có duyên người ta mới hưởng được, có một người làm đó chứ mọi người ta được hưởng hết, hưởng được cái phước dữ lắm đó, vì đó mà người ta thực hiện được thiện pháp! Bởi vì người ta thấy được những cái đó điều thiện, thành ra người ta tin, người ta tin tức là người ta làm những điều thiện, người ta …
Còn không nó lừa đảo, cũng như, thí dụ Đại Thừa nó dạy mình cúng bái tung niệm bằng cách lừa đảo lường gạt, mà người ta đâu có biết? Thành ra hết, không có duyên với Phật pháp. Cho nên đó là tà pháp, ác pháp nó lừa đảo mình….
Cho nên cái điều kiện mà Thầy đang đập phá tất cả những cái thế giới siêu hình, mục đích của Thầy là quét sạch cái thế giới siêu hình, để ra khỏi, để cho người ta thực hiện được cái … Còn cái thế giới siêu hình là cái tha lực rồi thì cái thứ …
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 31
HOẠT ĐỘNG CỦA TƯỞNG
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [46:07]
Thời gian: 2002
Tên cũ: 16B-HoatĐongCuaTuong
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-31-hoat-dong-cua-tuong.mp3
(00:00) Trưởng lão: Từ đây về sau, đối với Chúng về sau Thầy có những bài nói về rừng rất rõ. Thầy đưa ra tất cả những cảnh xảy ra cho người ta thấy được người chết nói chuyện được với người sống. Họ đưa ra, báo chí đăng cái đó ra chứ không phải là, những bài báo đăng ra, Thầy sẽ kê ra rồi Thầy giải thích từng cấp bậc, từng giai đoạn, từng cấp bậc của Tưởng.
Tưởng ấm hoạt động theo từng cấp bậc của nó. Cấp bậc nào mà người ta nói như là linh hồn của người đó nhập nói. Thầy sẽ giải thích cho họ thấy rõ ràng cái đường lối hoạt động của Tưởng uẩn, tưởng ấm.
Sư Phước Nhẫn: Con thấy là mình nên dùng danh từ khác mà chắc không có thưa Thầy. Bởi vì nghe danh từ Tưởng họ tưởng là tưởng tượng. Cho nên mình dùng chữ Tưởng, mình nói có năng lực Tưởng, năng lực tưởng tượng, nó cũng không đúng cái ý nghĩa đó. Cái chữ nó không tả hết có cái nghĩa đó
Trưởng Lão: Đúng là cái từ nó dịch không hết
Sư Phước Nhẫn: Cho nên con nghĩ chữ Tưởng không có diễn tả hết
Trưởng Lão: Bây giờ kẹt, bây giờ mình thấy dùng danh từ nào để cho mình hiểu được cái trạng thái, thí dụ bây giờ ngồi đây này, mình nghĩ lại những chuyện gì xảy ra ngày hôm qua thì ngay đó cũng là Tưởng của mình rồi, chứ không phải là Ý thức của mình. Cái Tưởng rõ ràng, cái Tưởng thức của mình đang khởi nghĩ ra, nó là Tưởng rồi, nhưng thật ra nó đang câu hữu, nó kết hợp với Ý thức của mình.
Bây giờ mình đang thấy, biết trong hiện tại, đó là Ý thức của mình. Bắt đầu bây giờ nghĩ qua một cái gì đó, rõ ràng cái Ý của mình, cái Ý thức của mình nó đang khởi nghĩ về quá khứ, nó nhớ lại chứ gì, nhưng mà không phải, nó đã kết hợp với cái Tưởng liền cho nên cái Tưởng hoạt động ngay liền. Đây là tầng lớp của cái Tưởng giữa cái Ý thức của chúng ta chứ chưa phải là cái Tưởng của giấc mộng.
(02:06) Cái Tưởng của giấc mộng chưa phải sâu, rồi cái Tưởng nó thực hiện ra, cũng như bây giờ bỗng dưng, ví dụ mình ngồi đây có người nào nói, cái tai mình cũng nghe chứ, người ta đang nói đây: "Anh coi thử coi …”
Cũng như một cái ông đó là một sĩ quan ở ngoài Hà Nội, sau này ông có trạng thái kỳ cục thế này thế nọ. Người ta hỏi nhờ ông đi tìm một cái hài cốt dùm, thì ông ngồi đây vẽ cái bản đồ, tự cái đầu óc ông nghe người ta nói rồi, lúc bấy giờ ông không biết chi hết, ông cứ ngồi đó vẽ cái bản đồ rồi ông chỉ đường xá cho người đó đến chỗ này, họ đi đến này họ tìm, phải không? Tại sao? Nhưng hỏi ông, ông cũng không biết tại sao, ông nghe hỏi ông vậy thôi. Bắt đầu ông cũng thấy bình thường mà tại sao cái đầu ông hoạt động? Chừng nó trở về trạng thái bình thường thì ông không thấy biết gì hết.
Đó là cái Ý thức tưởng, đó là không phải là nó, coi như là không phải là qua một cái dạng của một người khác nhập cho ông nói đâu, mà cái trạng thái của cái ý thức tưởng. Bây giờ Thầy sẽ chỉ cách thức là Thầy nói cái danh từ trong kinh sách, nó là Tưởng thôi, Tưởng uẩn.
Nhưng nói về cái danh từ khoa học Thầy nghĩ rằng trong cái đầu óc này, nó có nhiều cái tế bào não của nó.
Sư Phước Nhẫn: Buổi sáng đó Thầy, con nằm nghĩ cái danh từ khác..
Trưởng Lão: Nó cũng không diễn tả hết đâu
Sư Tuệ Tĩnh: Có thể người ta hiểu chút chút
Trưởng Lão: Có lẽ là người ta hiểu cái danh từ vô thức, dục trong vô thức.
Sư Phước Nhẫn: Cái này khó giải nghĩa được tại vì nói miệng. Tại vì trước mắt tự nhiên có người này nói chuyện huyền bí quá đi, người bình thường không được, họ nghĩ là nó có cõi siêu hình. Thí dụ có những trường hợp mình nhập vô rồi nói chuyện éo éo, nói chuyện giọng khác, rồi xuất ra rồi nhập vô nói chuyện éo éo rồi xuất ra, tức nhiên là họ nói có cái linh hồn.
Trưởng lão: Có cái linh hồn.
Sư Phước Nhẫn: Có linh hồn tại nó thay đổi điều kiện, mà mình nói cái Tưởng thì họ không hiểu được, nói cái khác thì họ không hiểu nổi luôn.
(04:14) Trưởng Lão: Chở không nổi. Đúng là danh từ đó không chở nổi được cái ý của những cái sự kiện xảy ra. Nhưng mà đó là hoàn toàn phải nói là cái vấn đề, trong thân chúng ta có năm uẩn, phải không? Mà cái Tưởng uẩn là mục đích của nó đạt được … Tưởng uẩn của chúng ta chỉ thực hiện những cái thế giới này, trong khi một người chết cái Tưởng uẩn không còn, phải không? Ngũ Uẩn đâu còn, khi mình chết thì không còn, vậy thì cái gì mà còn mà thực hiện đây, có phải là cái Tưởng Uẩn của mình nó giao cảm được tất cả mọi cái mà nó nói lên không, nó cụ thể lắm, bởi vậy mình hiểu
Sư Phước Nhẫn: Cái người chết thì Tưởng Uẩn mất
Trưởng Lão: Mất.
Sư Phước Nhẫn: Sắc cũng mất luôn?
Trưởng Lão: Mất luôn
Sư Phước Nhẫn: Cái trường hợp mà Thầy nói người chết mà Sắc thì mất, bốn cái còn lại thì còn.
Trưởng Lão: Người đó tu.
Sư Phước Nhẫn: Không tu không còn.
Trưởng Lão: Không tu không còn, người không tu thì nó mất. Bởi vì người đó về cái Sắc, họ tu cho nên vì vậy họ còn giữ lại cái Thọ, cái Tưởng, cái Hành, cái Thức của họ còn, nhưng cái Sắc không còn, đức Phật nói là Hóa sanh, tức là nó ở trong trạng thái đó.
Sư Phước Nhẫn: Tu đến mức độ nào mới còn cái đó thưa Thầy?
Trưởng Lão: Mình đoạn năm hạ phần kiết sử là mình bỏ được cái thân này mà bốn cái này còn. Đó trong bài kinh đức Phật có nói mà.
Sư Phước Nhẫn: Cũng cái Tưởng, ông Tịnh Huệ ông tự động nói với con, Thầy cũng dùng cái định, Thầy dùng cái Tưởng hay cái gì đó. Ổng nói: “Tôi đâu có dùng tưởng” . Ổng nói ông dùng cái nhân điện. Con nói cái đó là cái Tưởng, đừng có nghĩ cái nghĩa chữ tưởng, tưởng là mình tưởng cái gì, ông nói “Ừ vậy thì được”. Con nói ông tưởng cái gì, mà nó ra cái nhân điện
Trưởng Lão: Hỏi ông, ông có thấy được cái nhân điện của ông không? Ông đâu có thấy, phải không? Thì ông phải Tưởng nó mới dùng được chứ.
Sư Phước Nhẫn: Nghĩa là cũng tưởng tượng đó, nhưng mà tưởng tượng mình thấy hơi khó một chút, tưởng tượng với chữ Tưởng nó dính với nhau.
Chữ Tưởng cũng như Tử là chết, Tử là con, vậy đó.
Trưởng Lão: Hai cái đó tức là một ông mà cái hiểu nó khác.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra mình dùng chữ Tưởng mà giải nghĩa ở ngoài con thấy nó hơi khó, thì giải nghĩa cho chúng như giác quan thứ sáu hay duy thức thì người ta dễ hiểu, chứ mình dùng chữ Tưởng người ta hiểu không nỗi. Con ở trong này, con theo sát Thầy mới hiểu được cái đó, chứ người ngoài đâu có biết. Họ đọc chữ Tưởng: "Cái gì Tưởng? Tưởng tượng mà được cái gì", họ đâu có chịu. Thành ra con nói với họ là phải học mới hiểu được bởi vì trước mặt nó thấy rõ ràng.
Cũng như ông Tịnh Huệ, trước đây con đã từng kể với Thầy, cái ông đó dắt người ngoại quốc đi tìm hài cốt. Người đó có người con tên Toại Đức nói coi chừng cái nghiệp. Con mới nói với Tịnh Huệ, ông Tịnh Huệ nói không biết sao thành cái nghiệp nhưng mà ông lên đồng chứ không phải tự động vậy, ông không nhớ thì người ta nói sao kỳ vậy, ông liên hệ với người đó để tìm hiểu.
(07:26) Con xin Thầy có câu hỏi nữa là ngày xưa ngồi bốn chín ngày dưới gốc cây Bồ Đề đức Phật tu pháp môn gì? Sáu năm khổ hạnh đức Phật có khác gì đặc biệt không?
Trưởng Lão: Đọc lại bài kinh Saccaka thì thấy rõ, đức Phật trở lại khi phục hồi lại cơ thể của mình, ăn uống lại bình thường, cơ thể khỏe mạnh rồi, sau khi khổ hạnh đức Phật nhờ mấy bát sữa dê mới tỉnh lại, ngồi tưởng nhớ lại Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền. Lúc bấy giờ đức Phật nhớ lại, nhưng mà cơ thể nó kiệt quá lấy gì tu, chưa phục hồi. Cho nó phục hồi thì đức Phật ăn uống lại bình thường.
Nhưng ăn ngày một bữa, chứ không phải ăn ba, bốn bữa đâu, ăn ngày một bữa, nhưng không phải ăn tiết thực quá, cho nên cơ thể phục hồi. Phục hồi lại thì năm anh em ông Kiều Trần Như thấy Ông không còn khổ hạnh như trước nữa nên bỏ Ông. Ông mới đi lại cội Bồ Đề lúc ngồi thiền, cho nên đến cội Bồ Đề sau khi mà phục hồi xong rồi Đức Phật tu pháp môn gì?
Bốn Thiền chứ không tu pháp môn gì khác. Đầu tiên là tu Sơ Thiền chứ làm sao mà không tu Sơ Thiền, là phải ly dục, ly ác pháp thôi. Thầy đọc lại bài kinh Thầy biết đức Phật tu pháp môn gì liền tức khắc.
Sư Phước Nhẫn: Con có đọc bài kinh Pháp Hoa với lại kinh Saccaka, hai bài ức chế nhau. Con hiểu biết là đức Phật tu, bốn chín ngày tu từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền.
Trưởng Lão: Cả ban đêm nữa.
Sư Phước Nhẫn: Còn sáu năm có dính dáng gì đến Sơ Thiền không thưa Thầy?
Trưởng Lão: Không dính dáng gì hết. Ông sáu năm tu khổ hạnh gần chết.
Sư Phước Nhẫn: Sáu năm tu theo ngoại đạo, còn Sơ Thiền trong vòng bốn chín ngày.
Trưởng Lão: Bốn chín ngày.
Sư Phước Nhẫn: Trong đó Ông có nói Tam Minh thực hiện trong một đêm, còn từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền trong bốn tám ngày.
Trưởng Lão: Bốn tám ngày, ngày cuối cùng là ngày thực hiện Tam Minh.
Sư Phước Nhẫn: Ngày xưa con chưa có hiểu Phật pháp nhiều con hỏi thì ông ấy nói "Đức Phật ngồi dưới cội Bồ Đề tu", con hỏi "Ông ngồi tu cái pháp gì?", "Ông ngồi thiền, ông ngồi thiền, vất vả lắm."
Trưởng Lão: Thuyết phục ai bây giờ, Thầy bây giờ…ngồi thiền.
Nếu không có bài kinh Saccaka chắc không biết Ông Phật tu pháp nào mà Ông chứng quả.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra cái câu này nói ngồi thiền, con nói ngồi thiền như con cóc thì cần gì phải học. Cái kỳ vô Thiền Viện Phước Sơn, trên đó cũng có một cô, chắc ở trên này về, mà giảng thì đứng lên phát biểu, nói ngồi thiền hoài thì nó đau đớn, ức chế, nó khác.
Cô ngồi mười lăm phút đau thì đứng lên đi kinh hành, vậy nó khỏe, cái tâm cô nó không dao động. Thế thì hai ông sư biết cô thử rồi, hai ông mới giảng này kia . Rốt cuộc ông sư Cả nói hồi xưa đức Phật ngồi gốc cây tu thì bây giờ mình cũng ngồi mình tu.
Con nói vụ này mình phải tự tìm hiểu chứ giải nghĩa như vậy không được. Thành ra con mới nhớ tới câu liên quan, hồi đó con hỏi đức Phật ngồi dưới gốc cây tu cái pháp gì? Vì hồi đó mình đâu có được đọc tạng kinh mà mình biết, hỏi người ta đức Phật ngồi đó tu gì, ông mới nói tu từ Sơ Thiền tới Tứ Thiền.
(10:48) Ngay cả Sư cả xuất gia cho mình, ông cũng nói đức Phật ngồi dưới gốc cây Bồ Đề tu, thì bây giờ mình cũng ngồi mình tu. Thành ra bắt buộc ngồi hoài từ sáng tới tối, không có đi tới, đi lui. Con thấy sao kỳ vậy, ông cũng Tiến sỹ chứ ít sao, Tiến sỹ Phật học mà vì sao ông nói như vậy.
Trưởng Lão: Bài kinh Saccaka vậy mà, trong kinh Nguyên Thủy, vậy mà nghiên cứu được chứ…
Sư Phước Nhẫn: lôi kéo mình … nhưng mà cái Vi Diệu Pháp nó biện luận..
Thành ra cái pháp này con thắc mắc, cũng có rất nhiều người thắc mắc, bởi vì chỗ này là chỗ truyền bá thật mà đâu có nói trật: đức Phật ngồi dưới gốc cây Bồ Đề tu pháp gì mà chứng quả thì bây giờ mình theo pháp đó mình tu để chứng quả.
Không ai biết, Ông ngồi dưới gốc cây không làm gì hết trơn, bởi vì ông nhắm mắt im ru, ông có nói năng gì đâu. Mình cứ nói Ông ngồi nhắm mắt, ngồi thiền.
Mới tu sơ sơ vậy cứ bắt ngồi thiền riết rồi tẩu hoả, đâu có được.
(12:02) Trong bài kinh Saccaka rõ ràng đức Phật là như vậy. Còn cuốn Trung bộ kinh III, Kinh Hy Hữu Vị Tằng Hữu Pháp có đoạn như thế này: “Bạch Thế Tôn, con tận mặt nghe, con tận mặt ghi nhớ từ Thế Tôn: "Bồ-tát khi sanh ra, này Ananda, Ngài đứng vững, thăng bằng trên hai chân, mặt hướng phía Bắc, bước đi bảy bước, một lọng trắng được che lên. Ngài nhìn khắp cả mọi phương, lên tiếng như con ngưu vương, thốt ra lời như sau: "Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời! Ta là bậc cao nhất ở trên đời! Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái sanh ở đời này nữa".
Câu kinh này được biến chế như thế nào? Đã có kinh nguyên tạng Pali để so sánh, không lẽ Hòa thượng Minh Châu dịch sai. Xin Thầy giải thích chỗ này.
Trưởng Lão: Thật sự ra thì đây là người sau họ thêm vào, để vẽ ra huyền thoại về Đấng Giáo chủ thôi, chứ không có gì hết.
Bởi vì Thầy thấy thứ nhất là cái người sinh ra nếu mà đã nói vậy hẳn đã tu chứng rồi, đâu phải còn là Bồ tát, phải không? Người sinh ra mà nói rằng đây là kiếp cuối cùng của mình thì đâu có lầm lạc mà đi tu pháp ngoại đạo. Ít ra nói như vậy là phải biết rồi, đó là cái sai của các nhà …, nó không đúng. Làm như là một vị Thánh …
Cho nên Thầy nghĩ, bởi vì khi Thầy tu rồi Thầy nghĩ cha mẹ Thầy sinh ra Thầy cũng trườn, bò, rồi mới đi được. Cái lý nào mà Ông Phật như vậy thì làm sao mình tu được, phải không?
Ông Phật sinh ra đi bảy bước!?
Mà làm sao thử hỏi khi sinh ra chân cẳng mình ở trong bụng bà mẹ như vậy, làm sao mà sinh ra đi được liền?
Con bò khi nó lọt ra rồi, nó bò, nó trườn tới, trườn lui, nó lết tới, lết lui, nó chồm đứng dậy, nó tập rất lâu, cả một buổi mới đứng dậy được. Còn con bò mẹ cứ liếm cho nó khô, nó còn gượng tới, gượng lui, lên gân lên cốt.
Còn đằng này sinh ra đi liền, khỏi gượng tới gượng lui. Thử hỏi, sư cứ nghĩ mình sinh ra mà đi được như thế này, mình phải trườn, rồi bò, chứ đâu có phải đi ngay được. Rồi đứng lên, cha mẹ phải nương dắt tay mà đứng lên.
Hễ là con người có cái thân này thì không ai cứng cáp ngay liền được. Sinh ra còn mềm xèo như cục bột. Cái đó là vô lý, Thầy không tin điều đó. Điều đó là vô lý, mặc dù là kinh Nguyên Thủy. Cái bài đó là kinh Nguyên Thủy chứ đâu phải kinh Đại thừa. Còn kinh Đại thừa nó còn nhiều chuyện hơn nữa, nhưng mà tạo dựng thêm cái này bởi vì người sau viết chứ đâu phải Ông Phật nói đâu. Họ thêm mà.
Sư Phước Nhẫn: Cái quan niệm cho rằng Đức Thế Tôn là Phật đã thành, kiếp này thị hiện cho người ta thấy. Nếu thị hiện như vậy là sai pháp quá rồi.
(15:26) Trưởng Lão: Trật. Coi như thị hiện như vậy là không đúng. Như vậy, người đời bởi do cái lý do đó mà họ nói họ tu nhiều đời là vậy, tới đời chót cuối cùng, như đức Phật là đời chót chứ gì. Lấy cái cớ đó để … làm cho chúng ta thối chuyển, tu dễ dàng mà. Cho nên người ta lấy những bài kinh này làm cho người tu bây giờ người ta không còn tự lực nữa.
Không còn tự lực để cho mình thành khẩn trên sự tu nên cuối cùng chúng ta thấy kết quả không được.
Sư Phước Nhẫn: Con lấy cái thực tế con giải thích mà người ta không chịu. Bởi vì người ta nói đức Phật mới sinh ra mà đi được, thì chấp nhận đi; nói được thì chấp nhận đi, bởi vì đức Phật đã thành rồi. Vì trong kinh Nguyên Thủy có nói tiền thân đức Phật còn đi tái sinh, là Đức Phật đã thành đạo rồi còn đi tái sinh. nhứt là đi tái sinh cái gì cũng tám mươi bốn ngàn, tám mươi bốn ngàn hết trơn hết trọi, với cái Bảy báu nữa.
Thì bây giờ Ông tái sanh đi, tức là Ông nói rằng: "Ta là bậc tối thượng ở trên đời", tất nhiên trí tuệ ổng siêu việt mới nói câu đó được. Mà Ông đi thì cái thân Ông siêu việt Ông mới đi được, có bông sen nở ra tức là cái thần lực tác động bông sen mới nở ra được, tất nhiên là thần lực của bậc siêu phàm. Bậc siêu phàm sao còn ôm cái vú bú, bậc siêu phàm mà người ta còn tắm rửa cho mình, bậc siêu phàm sao còn lớn lên đi có vợ, có vợ và có con. Thị hiện thì thiếu gì cách thị hiện, sao lại thị hiện có vợ, có con. Nói mình là bậc siêu phàm thì còn tầm bốn cái sanh, lão, bệnh, tử ở bốn cửa thành làm chi. Họ nói Ông đi ra ngoài, cái đó là thị hiện. Muốn thị hiện thì tự mình thị hiện cho người ta coi, chứ còn mình đi tầm để mình hiểu cái đó đâu phải là thị hiện, thì họ nói thị hiện là đi tầm cầu cho người ta hiểu. Bởi người đó biết rồi, cũng như ông thầy giáo dạy người ta, ông thầy dạy Đạo Đức thì thể hiện đạo đức cho người ta, chứ không lẽ ông thầy giáo thị hiện mình đi học, đi tìm.
Trưởng Lão: Còn đi học, đi tìm.
Sư Phước Nhẫn: Dạy người ta như vậy thì đâu có phải. Vô lớp học thì cứ thị hiện cho người ta
Trưởng Lão: Đúng, cái đó đúng.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra có nhiều cái mình nói mà người ta không chịu tin tại vì người ta nói đức Phật đã thành, trong khi bên Nguyên Thuỷ..
Trưởng Lão: Những cái đã thành rồi như vậy trở thành chuyện mâu thuẫn. Bây giờ đã thành rồi lại phải đi sáu năm chịu khổ hạnh như vậy là sai rồi. Trí tuệ ở chỗ nào?
(17:58) Thầy thấy không trí tuệ vì cái pháp người ta dạy như vậy mà mình không biết pháp điên, pháp khùng. Chỉ có Thầy là người ngu nên mới tu pháp điên, pháp khùng này. Chứ nếu Thầy thành rồi thì ai mà dại nhập làm chi Không Vô Biên Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ rồi cũng bỏ, vô dụng vậy, đâu có nghĩa lý gì.
Bây giờ tôi là người siêu phàm nè, tôi biết cái pháp này tu, không tu cái pháp này, các ông tu sai, mấy cái Thần thông, Thần lực mấy ông hơn tôi được sao, phải không? Đức Phật là người đã thành rồi thì đâu có cần gì. Thế mà phải khổ hạnh, nhịn đói, nhịn khát, tiết thực đến mức độ cuối cùng.
Thậm chí khi đọc tới bài kinh mà đức Phật bò dưới sân chuồng bò, ăn phân bò. Sư có đọc bài kinh đó không? Ông Phật nói khi đó mà chui dưới chân con bò, con bò con ỉa cứt nó ra rồi ăn những cái chất đó
Sư Phước Nhẫn: Cái đó ở đâu?
Trưởng Lão: Ở bên … Ngay những vấn đề về đức Phật ăn mặc dơ, ở trên đống rác, ở trên phân này kia. Thầy nghĩ trời đất ơi con người mà nằm như vậy thì ghẻ, lở chịu sao cho nổi.
Sư Phước Nhẫn: Hôm qua con đọc lại cái bộ Đại Tạng Kinh…
Trưởng Lão: Nói chung là đọc hết tất cả các bộ kinh rồi mới thấy là ở trong kinh An lạc nói về đức Phật cái chỗ này tu khổ hạnh đệ nhất: nằm trên dơ, nằm trên bùn, rồi ăn dơ, tất cả mọi cái này mới thấy cái thân này là bất tịnh, ăn cái gì cũng sống được vì vậy mà ngoại đạo dạy đủ cách, khổ hạnh đủ cách.
Sư Phước Nhẫn: Con có nghĩ là người đã thành rồi, người đó biết rồi, người đó đâu có đi tầm cầu cực khổ như vậy. Chỉ có người không biết mới làm vậy thôi.
Họ nói cái đó là Phật thị hiện, thị hiện gì mà kỳ vậy. Khi mình không biết thì mình học, mình biết rồi thì cứ như vậy dạy người ta đi, cũng như ông thầy giáo dạy học trò, chứ còn thị hiện cái gì nữa.
Trưởng lão: Cái đầu tiên sinh ra thì tự tin ở mình rồi, tới cuối cùng lại thấy cái ngu si của mình. Thấy không trí tuệ rồi. Sinh ra đi bảy bước, nói mình là ngon lành mà cuối cùng trên bước đường này thì mình thấy rõ ràng là sống trong dục, có vợ, có con, đi ra bốn cửa thành, rồi bỏ vợ, bỏ con, thấy bốn nỗi khổ chứ chưa biết khổ là gì. Trong khi đó sinh ra thì nói rõ ràng là biết hết, biết khổ biết gì hết rồi vì đã chứng rồi, biết Khổ đế rồi, thế mà phải đi ra bốn cửa thành mới thấy được bốn cái khổ của con người.
(20:47) Rồi mới từ đó mới khắc khoải mới đi tu, bỏ vợ, bỏ con. Hồi đó vì không biết nên còn dâm dục mới sinh con. Rõ ràng là ông Phật này có cái ngu và có cái khôn. Cái khôn của Ông là mới sinh ra thì khôn mà tới chừng đó là ngu. Lẽ ra người ta hồi nhỏ mà khôn như vậy thì khi lớn lên còn khôn hơn, còn đằng này rất là ngớ ngẩn.
Cái bài kinh đó Thầy không tin. Cứ xét đi nếu người nào tin thì người đó là người ngu, chứ không có gì. Tôi sinh đứa con thông minh, nó học càng ngày càng thông minh, không lẽ bây giờ càng ngày nó càng dốt vậy ha? Ông Phật là người khi mới sinh ra thì thông minh, cuối cùng lại dốt.
Sư Phước Nhẫn: Dốt rồi mới đi học chắc thông minh lại. Họ chỉ nghĩ phóng đoán chứ họ không nghĩ vấn đề lý lẽ
Trưởng Lão: Đó là chỗ họ phóng đoán. Cho nên đọc bài kinh đó rồi thì Thầy nói đây là do người sau thêm vào chứ không phải của Phật, ông Phật không bao giờ nói bài kinh như vậy.
Sư Phước Nhẫn: Như bộ Đại Tạng, con đọc con thấy nhiều cái được thêm bớt. Ví dụ như thế này: "Ta là bậc tối thượng, ta là bậc tối thượng”, nghe đến đây thì biết nó dịch bốn câu “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”, mà ở đây thì mấy ông sửa của Hoà thượng Thích Minh Châu dịch thành ra dịch không trúng. Dịch ra có hai câu này thôi, còn hai câu kia chạy mất tiêu rồi.
Về vấn đề này con nghĩ chắc phải làm cái đơn lên tòa án, thưa thứ nhất là mấy ông dịch trật nè, dịch không trúng mấy ông này sửa nè, để tòa án xử làm sao để nhân dân họ mới biết mấy ông này sửa kinh, rồi liên quan đến Kinh nào mà tuyên bố cho mọi người biết là Kinh này phải sửa lại. Vậy người ta mới biết…
Trưởng Lão: Bởi vậy cái vụ án Phật giáo này là phải đưa ra ánh sáng chứ không khéo người ta không biết cái nào là của đức Phật nói.
Sư Phước Nhẫn: Con cũng nghĩ việc này phải làm lớn rùm beng lên cho người ta biết. Bởi vì cái giáo pháp từ cái gốc Pali bên Ấn Độ, vẫn còn tạng kinh khác ở bển nữa, thì Kinh Đại tạng bằng Pali cũng có nữa. Như vậy những người học văn, sinh ngữ Pali cũng biết rồi, người ta lấy hai đoạn văn ra tra rồi hỏi lý do tại sao? Nhưng ông Hòa thượng Minh Châu, ổng sắp chết rồi làm sao làm nhân chứng mà nói bây giờ ông dịch như vầy sao được? Mấy tạng bộ kinh ông dịch trúng hết làm sao nói ông dịch trật? Ai là người sửa sau này mà trách móc ai được. Con nghĩ mấy ông này đi hết trơn rồi thưa ai nữa bây giờ? Thành ra đời sau mình đem vấn đề này ra tòa án nó cũng hay đó nhưng bây giờ chúng ta làm được cái gì?
Trưởng Lão: Làm cho sáng tỏ vậy thôi.
Sư Phước Nhẫn: Làm cho sáng tỏ thêm
Trưởng Lão: Chứ còn không có cách nào, bởi vì sau này kể như vụ án Phật giáo phải đưa ra. Vụ án Phật giáo có nhiều thâm mưu của các ngài lắm, chứ không phải không.
Cái thâm mưu thứ nhất là các ngài đưa ra cái thuyết trống Không, như ngài Long Thọ, đó là cái thứ nhất.
Cái thứ hai là đưa ra cái Giới để áp chế, để diệt Phật giáo, cấm không cho Phật tử tu học giáo lý Nguyên Thủy.
(24:09) Cái thứ ba là dùng những danh từ gọi người tin theo giáo lý Nguyên Thủy là tin theo là “tiêu nha bại chủng”, “chồi khô mộng lép”, có phải có mục đích không? Nếu không có mục đích thì không có danh từ đó, rõ ràng có.
Rồi bây giờ lại cắt xén, rồi thêm bớt, đủ mọi mặt hết, nó làm sai lệch chân lý của Phật. Họ là ai, truy ra coi chỗ này ai làm những chuyện này? Bây giờ Hòa thượng Minh Châu dịch như vậy, Hòa thượng có dịch đúng y ở trong kinh Pali không? Nếu y, vậy thì truy ra tạng kinh Pali này ai là người thêm bớt đây? Truy riết thì nó lòi ra. Mặc dù ông đó có chết tìm riết cũng tìm ra được.
Sư Phước Nhẫn: Con cũng có rút ra một câu kinh nói cái phần về bài Bát Nhã. Thí dụ nói giờ mình vô chùa tu, tảng sáng vô lớp mình học Phật dạy Tứ Diệu Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Tối lại mình ngồi tụng kinh “Vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo”, “Vô, Vô Minh Diệt..”, nếu vậy thì mình thờ hai ông.
Nếu mình chấp nhận bài này đúng thì mình thờ ông Long Thọ, nếu mình chấp nhận Tứ Diệu Đế đúng thì mình thờ Ông Phật. Chứ không thì sáng mình học ông Phật, tối mình tụng ông Long Thọ thì nó kỳ quá!
Trưởng Lão: Đúng là pháp ông Long Thọ.
Sư Phước Nhẫn: Cái vụ “vô vô minh, diệt vô vô minh tận”, như vậy là thành như như, không đúng rồi. Phật dạy Thập Nhị Nhân Duyên, cái người này nói “vô vô minh, diệt vô vô minh tận" tức là phá cái Mười Hai Nhân Duyên rồi.
Phật dạy Tứ Diệu Đế mà ông này viết bài Vô Khổ Tập Diệt Đạo tất nhiên là hai cái khác nhau hết trơn rồi. Vậy thì mình thờ ông kia và thờ ông này là lai căng, không được!
Cũng như mình thờ Ông Chúa thì mình học kinh Chúa, mình thờ Ông Phật thì mình học kinh Phật chứ đâu lại đi thờ Ông Phật mà học kinh Chúa rồi: “Nam Mô A Di Đà Phật Amen”. Ông tu, ông tổng kết cái câu con nhớ đến bây giờ: “Nam Mô A Di Đà Phật Amen”.
Cũng như là Phật giáo bây giờ sáng thì “Khổ, Tập, Diệt, Đạo”, tối thì “Vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo”, sáng đức Phật, tối thì Long Thọ. Nó kỳ quá, cái này cũng phải đọc qua kinh tạng mới biết chứ chưa qua kinh tạng đâu có hiểu vấn đề này.
Người ta không để ý thì nói Bát Nhã hay quá, Bát Nhã hay quá thì cứ tụng: “Vô vô minh, diệt vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệt vô lão tử tận. Vô khổ tập diệt đạo”. Thí dụ, cái gì cũng không có: “Bật tịnh, bất cấu, bất tăng, bất giảm”, cái gì cũng bất, nó nghịch lại hết trơn hết trọi. Như vậy là một ông dạy trắng, một ông dạy đen, rồi mình thờ ông này thì như đập lại ông kia. Người ta không để ý vấn đề này.
Trưởng Lão: Coi như là người ta không để ý. Bây giờ mình vạch ra thì người ta để ý.
(27:15) Sư Phước Nhẫn: Phải vạch ra được để họ thấy mấy cái này mới được, nó dễ dàng quá mà. Làm sao không dễ dàng được, thí dụ như Phật dạy Khổ, Tập, Diệt ,Đạo, ông này thì Vô Khổ, Tập, Diệ,t Đạo, nó nghịch. Cái lý của Phật rất là rõ ràng cần gì phải chứng minh. Bởi vì họ quen theo cái nếp hồi nhỏ cứ tụng vậy nó quen rồi nên không có để ý.
Mà hễ nói tới thì mấy ông này lấy cái luận ra luận. Muốn luận thế nào thì luận, muốn luận thì mình đồng ý rồi. Nếu luận cái này trúng thì mình thờ ông này, còn mình chấp nhận ông kia đúng thì thờ ông kia, khỏi cần bác gì hết. Ví dụ mình theo Thiên Chúa thì cứ tụng theo Thiên Chúa, mà theo đạo Phật thì tụng theo Phật thôi.
Trưởng Lão: Theo ông Long Thọ thì cứ tụng Bát Nhã đi.
Sư Phước Nhẫn: Dạ, tụng Bát Nhã thì thờ ông Long Thọ, bỏ ông Phật xuống. Còn không thì theo ông Phật đi. Thờ hết hai ông! Nó nói con thờ ông Chúa với ông Phật luôn, như vậy là tổng hợp cũng được, không sao!
Còn mình là Phật tử, mình theo Phật thì mình thờ một ông Phật thôi
Trưởng Lão: Chỉ một ông Phật thôi.
Sư Phước Nhẫn: Thì mình cái giáo lý này. Còn cái giáo lý tổng hợp cũng tùy, mà cái tổng hợp bây giờ nó cũng… Ở miền Tây con thấy có đạo chú Nghĩa đó Thầy, chú Nghĩa có kinh gọi là kinh Hậu, nó đưa con coi, cuốn sách mỏng thế này, nó lấy trong bài kinh này một câu, hai, ba câu, lấy bài kinh kia hai, ba câu, nó ráp lại. Con đọc như cơm thập cẩm, sao ngộ dữ vậy nè!… đổi địa danh, đổi danh từ … Kinh Hậu nó cũng Nam Mô A Di Đà Phật vậy.
Trưởng Lão: Cao Đài..
Sư Phước Nhẫn: Đi một vòng Đạo nào con cũng vô nghe, đạo Thiên Chúa con cũng vô nghe, đạo Tin Lành con cũng vô nghe giảng, con cũng thấy nó cái hay hay. Đạo Tin Lành bên Nữ ra giảng thì người giảng, người giảng sư, ông nói chúng ta đừng có đi, chúng ta … đâu phải nhà thám hiểm.
Con nói trong bụng đúng, Phật giáo mình có trước năm hai ngàn … bắt chước sao được, bắt chước gõ mõ, tụng kinh … tu không được … đâu có biết.
(29:28) Còn có quan niệm là Bồ Tát cao hơn A La Hán. ‘Sau nhiều đời độ chúng sanh, đầy đủ Ba La Mật sẽ thành Phật’. Xin Thầy giải thích rõ cho con Chữ Phật và Bồ Tát Đạo.
Trưởng Lão: Bồ Tát Đạo, việc làm của các Bồ Tát, thực sự ra đức Phật đã cho chúng ta thấy được rõ ràng cái phước Hữu Lậu và phước Vô Lậu.
Phước Hữu Lậu là về cái Bồ tát đạo vậy thì cái phước này nó sẽ đi một cái ngả khác chứ không thể nào vô lậu được, cho lên nó trật rồi, nó thuộc về Bà La Môn rõ ràng. Như vậy rõ ràng Bồ Tát không có thể thành Phật được.
Còn nó muốn có công đức Ba La Mật, cái công đức này nó cho là sẽ thành Phật, thì cái này là Phật của Bà La Môn chứ không Phật thiệt, nó không giải thoát. Bởi vì phước Hữu Lậu thì không bao giờ có giải thoát, còn phước Vô Lậu có giải thoát, thực hiện phước Vô lậu có giải thoát.
Hai con đường này rõ ràng lắm. Hai cái này đều là thiện, chứ không phải là ác. Nhưng cái thiện này sẽ đi trên con đường Hữu Lậu tức là nó có khổ, còn người ta Vô Lậu là không có khổ. Anh đi con đường này thì vô lậu sao được, anh làm hữu lậu, dù ông có là vua, là cái gì đi nữa thì anh vẫn là con người Hữu Lậu, có hạnh phúc, có khổ, dù anh nói gì đi nữa, Bồ Tát không thể nào mà thành Phật. Xác định như vậy, cho nên Bồ Tát không thành Phật được mà Phật của các anh là Phật của Bà La Môn.
Sư Phước Nhẫn: Cái căn bản là Hữu Lậu với Vô Lậu, còn Bồ Tát là còn cái nhân Hữu Lậu.
Trưởng Lão: Hữu Lậu
Sư Phước Nhẫn: Chứ không có vô lậu. Vậy là mình làm lợi chúng sanh là Hữu Lậu rồi. Bởi như vậy cứ triền miên hoài, triền miên hoài thì thế nào cũng xảy ra cái nhân bất thiện ở trong chứ làm sao làm cuộc đời mà không có, thành ra như vậy là không có đi tới rốt ráo.
Trưởng Lão: Không có đi tới rốt ráo. Bởi vì lấy cái này ra thì thấy Bồ Tát không bao giờ đi tới rốt ráo, nó là hữu lậu mà.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra có một thầy giảng nói là A La Hán coi vậy trước mặt hơn mình thiệt nhưng sau thành Phật không được, bởi vì không đủ Ba La Mật. Còn mình Bồ Tát Đạo thì mình tu sau mình chết có đủ Ba La Mật, như đủ tiền bỏ ống.
Trưởng Lão: Như đủ tiền bỏ ống, mà rút cuộc bỏ ống để làm giàu chứ sự thật ra mình đâu có vừa lòng thành ra nó không giải thoát được. Không bao giờ giải thoát được. Đi ngả này là trật đường rồi, cái ngả này không bao giờ giải thoát được.
Sư Phước Nhẫn: Quan niệm về Bồ Tát Đạo con có ý nghĩ như vậy thưa Thầy. Con nói ví dụ như một ông nông dân hay một người sửa xe, bữa nào ông quen với trường xin vô làm thầy giáo, ông mặc đồ đàng hoàng lên lớp dạy thì ông thầy giáo này dạy học trò đâu có được đâu, vì thầy giáo dởm mà. Rồi một cái ông bác sĩ khám bệnh, người ta không hết bệnh, nói … không được, còn ông làm áp phe, ông có vàng xin vô nhà thương rồi ông mang cái áo y như áo bác sĩ vậy là đâu có được.
Thí dụ mình có con, mình biết ông thầy giáo đó là ông nông dân, mình đâu có cho con mình học đâu, thôi đi trường khác. Mình có con, mình biết ông đó khám bệnh, ông đó dốt nhưng ông có vàng, ông nhảy lên làm bác sĩ thì mình cũng kiếm bác sĩ khác.
Còn bây giờ muốn làm Bồ Tát để mà hành Bồ Tát Đạo thì mình phải coi tiêu chuẩn Bồ Tát như thế nào mới làm Bồ Tát được. Chứ còn người bình thường sao làm Bồ Tát. Trước tiên muốn hành Bồ Tát Đạo thì phải đủ tiêu chuẩn làm Bồ Tát thì mới hành được. Còn mình không đủ tiêu chuẩn, mình nói mình hành Bồ Tát là làm cái gì?
(33:15) Trưởng Lão: Cái đó không có lý luận.
Sư Phước Nhẫn: Dạ, cũng như trong khi bụng mình còn tham, sân, si, khi không mình nhảy ra làm Bồ Tát, không đủ tiêu chuẩn mà đòi độ người ta, làm sao độ được. Cũng như mình chưa có bằng sư phạm, mình nhảy vô mình dạy học, dạy đâu có được. Cho nên vấn đề Bồ Tát Đạo nó cũng hay nhưng mình làm không được, vì mình làm là làm giả…
Trưởng Lão: Bồ Tát Đạo theo đạo Phật là người đã tu chứng rồi mới tỏ phân ra cái Bồ Tát Đạo. Đạo Phật không có Bồ Tát Đạo mà đạo Phật có Bồ Tát là người tu chưa chứng. Đức Phật nói: "Khi Ta còn là Bồ Tát chưa chứng Chánh Đẳng Chánh Giác", lúc bấy giờ còn là người tu sĩ, người tu chưa chứng.
Còn Bồ Tát gọi là Bồ Tát Đạo, cái đạo Bồ Tát để thực hành để độ chúng sanh thì cái này chết rồi. Thí dụ nó cũng như một người mù dẫn một người mù khác đi.
Cho nên Phật thí dụ cái đó để thấy, để mình nhận xét qua cái bồ tát, còn có Bồ Tát là còn … Bồ Tát … không làm cái gì hết, bồ tát đi ra nói bậy, nói bạ riết.
Sư Phước Nhẫn: Có bài kinh trong Đại Tạng … trích ra câu đó. Bởi vì con nghĩ người làm thầy giáo mới dạy học trò được, còn mình chưa có được pháp mà đi độ ai?
Trưởng Lão: Đức Phật có nói trong bài kinh là khi nào mình chưa tu chưa chứng mà mình cất cái giảng đường, cất cái nhà rồi kêu gọi mọi người đến để học tu thì đức Phật không chấp nhận.
Nó có ba trường hợp, khi nào tu chứng rồi thì mới … còn mình tu chưa chứng thì không nên. Nói chung là trong kinh Nguyên Thủy đức Phật dạy kỹ lắm … Giới luật mà giảng người đời … Mặc dù mấy ông có lợi thì cuộc đời mấy ông chỉ đi đến hướng khổ … Cho nên Thầy lấy hai cuốn sách này Thầy chỉ ra, Thầy xác định …
Chừng nào mấy ông Vô Lậu mà mấy ông làm cái việc Hữu Lậu thì nó không nhiễm. Chứ còn mấy ông đang ở cái chưa Vô Lậu mà mấy ông làm cái Hữu Lậu thì mấy ông bị nhiễm ác pháp.
(35:46) Sư Phước Nhẫn: Con có nghe băng giảng, có ông này ông nói là Bồ Tát từ chúng sanh đi ra cho nên chúng sanh làm gì Bồ Tát biết hết, không qua mắt được. Cũng như ông thầy giáo để ý học trò, học trò làm gì ông cũng biết hết. Thành ra Bồ Tát thị hiện để dẫn dắt chúng sanh, đó là cái lý luận thì được rồi. Còn cái ông này hành Bồ Tát Đạo thì ông cũng từ chúng sanh ra cho nên Phật tử làm gì ông biết hết, muốn gì ông biết hết. Tất nhiên ông cũng như người có quyền lực , có cái này cái kia nhưng cả hai đều điều khiển Phật tử hết.
Ông là Bồ Tát, ông đang hành Bồ Tát Đạo, rồi ông biết tâm tư của người ta hết trơn, con hiểu cái này là lý luận thôi.
Trưởng Lão: Cái luận thôi, chứ thật sự ra không phải. Ông ở trong chúng sanh thì ông biết tất cả chúng sanh nhưng cái tâm ông chưa làm chủ được ông thì ông ở trong chúng sanh này, ông biết chúng sanh rồi ông nhiễm chúng sanh.
Cũng như người sửa xe đạp mà đứng lớp để mà dạy học trò. Bấy giờ anh chỉ biết vá ruột xe đạp, sửa cái đùm này kia, dạy học trò làm chuyện đó chứ còn dạy chữ nghĩa, anh đâu có biết toán lý gì mà dạy.
Sư Phước Nhẫn: Trong kinh Đại tạng, con không có tìm thấy đoạn nào đức Phật nói về tái sanh tức khắc, xin Thầy giải thích rõ. Như là chết rồi sanh liền, không qua thời gian chờ đợi. Con đọc con không thấy khoản nào Đức Phật nói chỗ này.
Trưởng Lão: Có. Đức Phật nói mà mình không để ý thôi. Nghĩa là mình chết rồi nghiêp đi tái sanh liền, không còn bốn mươi chín ngày như Đại thừa nói. Có, chứ không phải không, đọc kỹ rồi sẽ thấy có đoạn nói chết rồi sanh liền.
(37:59) Thường thường Thiền tông nói là "chết đây sinh kia”, còn Đại thừa nói chết rồi còn chờ bốn chín ngày, còn kinh Nguyên Thủy thì chết rồi theo nghiệp sanh liền, không còn gì nữa hết. Nó nói vậy tức là theo nghiệp, đức Phật cho ví dụ như ngọn đuốc trong bài kinh nào đó, nghĩa là cái ngọn đuốc này tắt thì nó mồi thêm ngọn đuốc khác. Đó là cái Thiên Đường.
Sư Phước Nhẫn: Không có nói rõ ràng
Trưởng Lão: Không có nói rõ ràng, nó nói ví dụ nghe hiểu liền, nghĩa là bỏ cái thân này rồi thì mồi ngọn đuốc khác, biết như vậy.
Sư Phước Nhẫn: Có những bài kinh như kinh Tân Gia, có Tỳ kheo bị bệnh nặng quá, mấy người kia hỏi đức Phật trường hợp đó như thế nào. Sau đó mới hỏi ông này tái sanh về đâu? Đức Phật nói là cái chuyện … hỏi cái đó mất thời gian. Vì trường hợp chết rồi Tỳ kheo …
Trưởng Lão: Mấy cái đó không có nói thời gian. Có những bài kinh mà ngọn đuốc nối nhau. Cái này vừa tắt thì nối ngọn khác cháy lên tức là tái sanh liền. Còn chỗ nói Tỳ kheo tự đâm mình chết thì chỗ này chúng ta phải hiểu, chỗ này không phải nói cái chuyện tự tử mà chết vậy thôi.
Mục đích của đức Phật là muốn nói thế này, nghĩa là sau khi hỏi vị Tỳ kheo này có thấy Sắc là vô thường không, có thấy khổ không? Tức là còn có bị ngũ uẩn này hay còn có bị dính mắc chỗ nào không? Họ nói không, con đã thấy nó là vô thường là khổ. Hỏi xong năm cái uẩn này xong rồi đức Phật về thì ông này ông rút dao tự tử.
Có nghĩa là khi một người mà người ta không dính mắc cái thân này rồi, thật sự không còn dính mắc thì cái người này không còn sắc thân này nữa, nó nhàm chán cái này rồi. Do đó chết hay sống cũng vậy, bình thường đau bệnh cũng vậy, cho nên đức Phật vẫn tuyên bố người này sinh lên cõi Trời này kia.
(40:13) Sư Phước Nhẫn: Tuyên bố không có sắc thân nữa. Rút con dao đâm thấy nó đau, bởi vì thấy nói tự vẫn có nghĩa là mình đi ngược lại.
Con mới nghĩ như vậy, cái ông này sau khi nghe đức Phật hỏi về Vô thường, Khổ, Vô ngã, ông không dính mắc nó rồi thì ông tự vẫn. Đức Phật không có trách ông này. Con thấy trường hợp này như Tứ Thiền, ông này không đủ năng lực của Tứ Thiền để tịnh chỉ hơi thở cho nên ông mới dùng con dao.
Thành ra hai trường hợp nó cũng giống một nghĩa nhưng hình thức khác nhau. Ông này đủ năng lực thì ông dùng tịnh chỉ hơi thở, nhưng ông này không đủ năng lực nhưng cái tâm không còn dính mắc nên ông dùng cái dao tự vẫn trong Tâm Bất Động. Nó là như vậy.
Trưởng Lão: Coi như là ông không còn dính mắc nó nữa thì tức là ông ở chỗ Bất Động Tâm rồi.
Sư Phước Nhẫn: Bởi vì bình thường người ta tự vẫn đức Phật không cho. Tại sao khi ông tự vẫn mà đức Phật nói không sao nghĩa là ông này không có dính mắc.
Trưởng Lão: Tức là đức Phật đã xác định qua cái vấn đạo, vấn hỏi thì thấy rõ ràng ông này không có dính mắc trong Ngũ Uẩn này, tức là ông không còn dính mắc nữa, tức là tham, sân, si hết rồi. Bởi vì còn chấp là còn chưa thấy vô thường, khổ, vô ngã. Còn ông đã nói như vậy thì đức Phật đã xác định là đúng rồi. Cho nên ông muốn chết là tại vì ông chưa có đủ sức của Tứ Thiền.
Sư Phước Nhẫn: Hoàn toàn là con cũng nghĩ như vậy, cho nên mấy ông Tỳ kheo kia hỏi ông tái sanh ở chỗ nào bởi vì sợ ông tu chưa chứng rồi ông bị đọa thì không tốt. Nhưng ông không dính mắc nghĩa là không tái sanh nữa. Về sau con nghĩ cái này cũng như của Tứ Thiền nhưng ông chưa có đủ Đạo lực.
Trưởng lão: Coi như là chưa có thực hiện tới, cái lực không đủ lớn nên ông bỏ.
(42:05) Sư Phước Nhẫn: Như vậy thì làm sao biết đứt đoạn được, thưa Thầy?
Trưởng Lão: Rõ ràng là chúng ta thấy Sơ Thiền là Bất Động Tâm rồi. Lúc sống đức Phật cũng ở đó, lúc chết đức Phật bỏ thân này bằng cách nhập Tứ Thiền, bỏ thân này sau đó cũng nhập Niết Bàn.
Sư Phước Nhẫn: Còn trường hợp ông này?
Trưởng Lão: Ông này cũng vậy, bây giờ ông ta không chấp cái này tức là ông bất động tâm rồi chứ gì. Không chấp năm uẩn này rồi là không còn vướng cái gì nữa, nữa tức là bất động tâm rồi.
Bất động tâm như vậy, ông không đủ sức định cho nên vì vậy ông đâm ông chết như là mình bỏ cái thân chứ gì, tức là ông ở trong Bất Động Tâm Định, thì đâu có mất đâu, cho nên ông đâu có thấy đau.
Sư Phước Nhẫn: Vậy còn cái phần Niết Bàn thì sao?
Trưởng Lão: Nó ở chỗ này này, đâu có gì đâu, thì nó cũng là vĩnh viễn chứ đâu có gì đâu.
Sư Phước Nhẫn: Vậy Niết Bàn là cái đời sống thực tế hay là cái trạng thái?
Trưởng Lão: Một cái trạng thái.
Sư Phước Nhẫn: Chứ không phải đời sống?
Trưởng Lão: Không phải đời sống. Đời sống có con người ở trong đó. Trạng thái của tâm diệt cái dục.
Sư Phước Nhẫn: Từ xưa đến giờ ai cũng nghĩ Niết Bàn là đời sống sau đời sống này, nó huy hoàng, sáng chói, trong đó đầy đủ làm sao, làm sao đó. Họ nghĩ Niết Bàn như vậy.
Trưởng Lão: Họ nghĩ chứ họ không có đọc chỗ Diệt đế. Bởi đức Phật nói Diệt đế là Niết Bàn chứ gì, phải không? Diệt Đế là diệt chứ gì? Diệt cái đau khổ này, cái tham ái, cái lòng ham muốn của mình giờ nó hết rồi. Nó hết rồi thì tượng trưng cho nó là không còn dính mắc cái năm Uẩn này, phải không? Rõ ràng.
Cho nên mình đọc những bài kinh chỗ này thấy rất cụ thể rõ ràng. Cho nên một người tu thiền định chưa đủ Tam Minh nhưng người ta vẫn có thể ở trong Niết Bàn được là vì lúc bấy giờ người ta đã bất động tâm, nhập được Bất Động Tâm Định được rồi, cho nên không dính mắc gì nữa.
Cho nên khi có những vị tu sĩ đau sắp chết thì đức Phật đến thăm với đức Phật hỏi xem còn dính mắc gì không. Nếu mà còn dính mắc thì đức Phật biết ông này đã tu được bao nhiêu thiện thì giúp ông an trú trong cái thiện này. Còn nhất là cư sĩ càng trú trong thiện nhiều nữa.
Còn với tu sĩ, ông nào không dính mắc chỗ này rồi thì đức Phật nói ông đã giải thoát chứ đâu cần phải nhập đến Tứ Thiền. Tứ Thiền chỉ trợ lực cho mình làm chủ sự sống chết của cái thân nhân quả của mình thôi. Ăn thua là cái Sơ Thiền, cho nên Sơ Thiền là cái khó nhất, là cái …
Sư Phước Nhẫn: Con có thắc mắc là từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền, ông này có cái trạng thái đó thì sao họ không biết đến Tứ Thiền được, mình nghĩ không biết có từng gãy cánh không?
Trưởng Lão: Cũng như bây giờ sư nỗ lực thực hiện phải không, sư thực hiện tới chỗ vừa ly dục, ly ác pháp xong, tâm vừa hết phóng dật, quay vô được, tâm chưa định đâu, định hết nổi.
Sư Phước Nhẫn: Cái đó tức là trạng thái Sơ Thiền mà, tâm mình không ức chế nó phục hồi lại được.
Trưởng Lão: Lẽ ra trong khi đó nếu người này muốn phục hồi cơ thể của mình, vẫn đau cái gì mà mình dùng pháp hướng để phục hồi, nó sẽ hết. Mà ở trong kinh Phật đã dạy, đưa ra những cái lý lẽ, bài kinh đưa ra lý lẽ cỡ như mình tu đến như tâm mình bất động rồi, hễ chút nữa cái thân này không còn, mà mình tiếp tục nữa thì mình vẫn … có nghĩa là …
Chứ còn thật sự ra thì khi mà cái tâm mình ly dục, ly ác pháp rồi thì không thấy bệnh tật gì. Bệnh gì nó cũng đẩy lui được hết, nó muốn sống bao lâu cũng sống được. Bởi vì cái tâm không dục vọng, cái tâm đó là cái tâm ly dục, tâm thanh tịnh của mình rồi.
Chứ không phải tâm thường, đâu phải cái tâm còn phàm phu. Cái chỗ không dính mắc Ngũ Uẩn, đây là chỗ ly dục, ly ác pháp hết. Đâu có thường, chứ đâu phải nói sơ sơ bây giờ mình cũng nói là … (46:07)
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 32-THIỀN ĐỊNH
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 2002
Thời lượng: [45:00]
Tên cũ:
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-32-thien-dinh.mp3
(00:00) Trưởng lão: Bởi vậy Thầy nói ông Phật dạy rất khéo!
Bây giờ, trong vấn đề khi mà nhập Tứ Thiền, hơi thở tịnh chỉ. Mà cái mục đích của mình là nhập Tứ Thiền để xả bỏ báo thân, nó có mục đích chứ đâu phải muốn nhập mà không có mục đích thì nhập vô đó thì tức là mình sẽ phục hồi trở lại, mình sống như thường trở lại hà, phải không?
Bây giờ cái mục đích của mình là bữa nay nhập Tứ Thiền để mà xả bỏ cái báo thân. Do đó, bây giờ nhập Tứ Thiền, thì trong khi đó cái Tứ Thiền mình nhập vô thì nó mất tiêu hà, nó không còn có gì hết hà. Nhưng mà mình có cái Pháp hướng, mình hướng là có, hướng là có, cho nên mới biết nó nhập Tứ Thiền, chứ cỡ mà vô Tứ Thiền hơi thở không thở rồi mình mất tiêu luôn, mình không biết gì hết thì như vậy là mình rớt trong không rồi còn gì, ngoan không mất rồi sao!? Cho nên nó không phải!
Cho nên vì vậy mà trong Tứ Thiền, thí dụ bây giờ hơi thở tịnh chỉ nè, mất tiêu hết, trạng thái thanh tịnh của mình cũng không còn nữa, bởi vì cái Thức nó còn nhưng mà nó không có đối tượng nó kể như cái Thức cũng không có. Nhưng mà mình hướng ra, hướng coi cái thân của mình còn không, hướng ra hơi thở còn không?
Sư Tuệ Tĩnh: Hướng đây là cái Thức…?
Trưởng lão: Cái hướng là cái pháp Như Lý Tác Ý của mình, còn để mà nhắc cái tâm nó còn có không? Nhắc cái đối tượng của nó, thì nó hiện ra liền tức khắc. Cho nên mình biết mình nhập Tứ Thiền. Cho nên bây giờ, ví dụ như Thầy hướng, ờ Thầy hướng ra coi: “Thân còn không?”, trong đó nó còn mà, nó còn sự điều khiển của mình bằng Pháp hướng mà.
Sư Tuệ Tĩnh: Nó còn sự điều khiển…
Trưởng lão: Còn sự điều khiển, nó còn hành.
Sư Tuệ Tĩnh: Cái đó không phải là cái Thức, cái Thức nó khác.
Trưởng lão: Nó khác! Cái Thức nó khác.
Sư Tuệ Tĩnh: Con tưởng như là cái đó vẫn còn cái Thức, bởi vì cái Thức mình nó dính với bộ óc mình, bộ óc mình tiêu rồi sao làm sao còn cái Thức nữa?
Trưởng lão: Cái Pháp Hướng nó còn, nó là cái lõi cây. Cho nên mình tu mình nói: “Tâm như cục đất” đó là cái Pháp hướng. Cho nên đến khi đó nó còn cái đó, bởi vì cái đó là cái nghiệp lực của Đạo.
Bây giờ ví dụ như mình sân nè, mình tức giận, phiền não, mình sân… thì cái lực của sân, cái lực nó còn nó tiếp tục tái nó sanh chứ không phải cái sân mình đi tái sanh. Cái lực!
(02:04) Còn bây giờ mình hướng tâm mình nhắc, cái lực đó lực Đạo, lực đó nó dẹp cái Tham, Sân, Si của mình. Cho nên bây giờ nó còn, khi mình bỏ thân rồi, nó hoàn toàn nó còn cái này. Vì vậy mà cái này nó, mình điều khiển nó hướng ra cái bắt đầu nó có, nó có mình nói: “Bây giờ, phải xả bỏ báo thân này đi, đốt cái thân này đi bằng Tam Muội”, thì nó cháy rần rần lên hà, hễ mình ra lệnh là nó làm theo.
Bởi vậy, thí dụ như bây giờ Thầy không cần đốt lửa củi, phải không? Thầy chỉ cần lửa Tam Muội, bởi vì cái danh từ Tam Muội có nghĩa là mình sử dụng cái gì mình muốn.
Bây giờ Tứ Thiền nè, hơi thở tịnh chỉ rồi, Thầy quan sát coi cái thân coi phải hoàn toàn chưa, bây giờ Thầy hướng tâm, xem coi cái thân phải tịnh chỉ hơi thở hoàn toàn chưa, để xả bỏ nó. Thì nhìn lại cái thân mình hoàn toàn nó không thở hoàn toàn, thấy biết rõ ràng rồi. Thì bắt đầu đó bây giờ mới dùng lửa Tam Muội thiêu cái thân này đi, bắt đầu tự trong thân nó bùng lửa nó cháy. Cháy chút xíu nó thành tro hết, nó không còn gì nữa hết.
Thiên hạ cứ nhìn thấy ngọn lửa cháy mà không biết ở đâu mà cháy ra, lát sau thành ra đống tro. Họ lại lạy lễ tùm lum hết. Họ cứ ngồi đó chứ họ đâu có biết lửa không thấy ai đốt mà nó cháy ở trong nó cháy ra, cái thân nó khò nó cháy lửa xanh lè, thấy ớn thiệt! Nó cháy một hơi thành ra đống tro. Ai ngờ đâu người ta điều khiển lửa người ta đốt ở trong đó.
Khi mà nhập Tứ Thiền rồi, cái vị tu sĩ đó người ta điều khiển cái tái sanh được, người ta không điều khiển tái sanh người ta bảo ở trong cái trạng thái của Tứ Thiền Thiên người ta ở đó, còn không thì người ta sẽ vào Niết Bàn.
Sư Tuệ Tĩnh: Cái trạng thái con muốn hỏi đó là cái trạng thái đó mình không còn thấy, không còn biết, không còn căn. Nó chỉ là trạng thái Thức, mà khác cái Thức này thôi, chỉ biết thôi chứ còn không có còn…
Trưởng lão: Nó không có…, bởi vậy Thầy nói tới đây mới thấy được chỗ này, nó vi diệu ghê gớm lắm! Hễ mình không có thì nó như là nó hoàn toàn nó không gì hết. Mà hễ muốn thì nó có liền.
Hễ muốn, tức là tác ý. Bây giờ mình còn thô đó, mình nhắc: “Tâm như cục đất”, mình nhắc nó thô đó, chứ còn cái Ý mình khởi nó như cục đất là nó nghe cục đất liền. Ý muốn của mình là nó muốn bởi Dục Như Ý Túc mà, nó muốn là nó chứ không phải là như mình tác ý ra như vậy đâu.
Bây giờ mình còn tu, mình tác ý ra: “Tâm như cục đất”, mình còn truyền lệnh dữ tợn! Còn kia nó, vừa cái ý khởi lên muốn như vậy là nó như vậy. Thoáng ý cái là nó có rồi. Nó vi diệu! Mà không thoáng thì nó chìm mất, nó không còn gì hết! Thoáng nó có, thoáng nó có…
Sư Tuệ Tĩnh Cái trạng thái đó nó không còn Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp nữa?
Trưởng lão: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp không có…
Sư Tuệ Tĩnh: Có ông sư ổng hỏi con, sư huynh con đó thường hay thắc mắc, hỏi các sư diễn tả cái trạng thái Niết Bàn, ra làm sao? Mình nói nó là cái trạng thái không còn Tham, Sân, Si nữa. Thì cái đó cũng là một kiểu giải nghĩa, nhưng mà con hổm rày con không biết bởi vậy thành ra con hỏi Thầy coi cái trạng thái Thầy diễn tả, còn dính cái vụ căn nữa thành ra diễn tả theo kiểu kia không được!
Trưởng lão: Đúng! Nó đâu có lục căn đâu, còn cái này mình còn lục căn, nhưng mà mình ly dục, ly ác pháp, mình không còn Tham, Sân, Si nữa. Nhưng mà không Tham, Sân, Si nó chỉ là khởi đầu, chứ chưa phải định. Bởi vì mình mới ly dục, ly ác pháp thôi, tức là không Tham, Sân, Si nữa chứ gì, mình ly nó ra rồi. Thì đó là khởi đầu của nó. Nó còn đi sâu nữa chứ đâu có khởi đầu được.
Nghĩa là bây giờ chúng ta mới có ly hà, nhưng chúng ta còn thở, chúng ta còn tiếp xúc sáu trần nhưng mà nó không lôi kéo, nó không dính mắc chúng ta thôi, phải không? Thì cái trạng thái này nó bắt đầu.
(05:39) Cho nên cái Sơ thiền gọi là Sơ thiền là bắt đầu ly dục, ly ác pháp, phải không? Bây giờ đi sâu vào tất cả những cái này nó ngưng hoàn toàn sáu căn nó không hoạt động nữa, phải không? Thức nó không còn hoạt động nữa hoàn toàn, nó chỉ còn có duy nhất cái Pháp hướng của mình mà thôi.
Bởi vậy, Thầy nói ráng mà luyện cái này cho có cái nòng cốt của chúng ta, cái lực của chúng ta. Bởi vì cái lực Tham, Sân, Si, cái lực này nó vẫn còn hoài đi tái sanh. Thì cái lực này nó vẫn còn hoài để mà nó giữ lực. Phải hiểu được hai cái lực.
Cái lực của Đời, Thầy nói lực đời là Tham, Sân, Si, phải không? Mà cái lực Đạo là không Tham, Sân, Si. Mà cái lực đạo mình chưa có vậy mà muốn dùng pháp hướng cho có lực. Khi cái lực này nó bị diệt là do cái lực này có. Mà cái lực này có, thì cái lực này làm sao bị ai diệt?! Cho nên không có. Ngũ Uẩn chúng ta mất tiêu hà… Cho nên Ngũ Uẩn mình chết thì mất tiêu, mà cái lực nó còn, cái nghiệp lực của Đời nó còn nó dẫn mình đi tái sanh. Nó tái sanh, nó như vậy.
Cho nên ở đây chúng ta hiểu biết được cái pháp nó như vậy, mà chúng ta không tu tập thì nó uổng! Thầy nói phí cuộc đời của mình. Trời, nó hay quá! Bên đây tại sao đi tái mãi đời này đến đời khác là tại vì cái lực Đời, cái nghiệp lực của Đời, nó ham muốn, nó thành cái lực của nó nó tiếp tục nó đi vào tái sanh. Thân này tới thân khác, đủ thứ hết!
Bây giờ cái lực đạo là nó ngăn chặn, nó diệt cái này đi, nó thành cái lực của nó rồi. Khi cái lực này còn hoài thì cái lực này cũng phải còn hoài. Cái này có thì cái này không thể mất. Cho nên Thầy nói Đời là Đời, mà Đạo là Đạo chứ không thể Đời Đạo lẫn lộn được!
Đạo thì nó diệt cái Đời, cho nên cái đời sống của người tu sĩ nghịch lại với đời sống Đời. Phải không? Bỏ hết sạch, cho nên nó cắt đứt hết, cho nên nó diệt hết cái lực Tham, Sân, Si này. Cái lực Đạo nó diệt hết cái lực này, thì cái lực này nó vẫn còn hoài vĩnh viễn.
Chứ không phải nó như là Phật tánh. Còn mấy cái ông Thiền sư này họ cho là có cái vĩnh viễn, Phật tánh có ở trong này, thì không phải! Cái này hoàn toàn nó không có. Cho nên Ông Phật ổng nói như cái cây mà, nó còn nhỏ nó lên đâu có lõi, nó do tu mới có, nó mới có.
Cho nên tu mới có, bây giờ mình không hướng tâm làm sao mình có? Không Như Lý Tác Ý làm sao có? Phải không? Có Như Lý Tác Ý mới có, mà có rồi thì mình chấm dứt được cái lực này rồi thì hết tái sanh luân hồi, thì cái này nó vĩnh viễn ở trong cái niết bàn, bị vì nó không Tham, Sân, Si rồi. Tu nó hay quá con! Chừng nào mình thấy nó sáng tỏ quá mà không tu nó uổng!
(08:09) Sư Tuệ Tĩnh: Cái thân có cái Thức đó, cái Thức mình dính vô cái Thân. Con nghĩ ví dụ mai mốt cái thức mình nó diệt, tức là mình có Niết Bàn không? Tức là Thức diệt là Niết Bàn. Con không biết trạng thái đó sao, nhiều người giải nhiều quá! Con thấy chỗ Thức này diệt thì Niết bàn, mà Thức còn là con tái sanh.
Trưởng lão: Còn tái sanh, vì cái Thức mà nó có là cái nghiệp. Phải không? Cho nên khi mà mình chết rồi thì cái Thức nó diệt luôn. Còn mình tu thì cái Thức nó diệt, cái Niết Bàn nó có. Thì cái trạng thái Niết Bàn, cái trạng thái nó không đoạn diệt, nó vô lậu đó, cái trạng thái đó nó còn. Cái Thức không còn.
Nhưng mà mình sống đây thì nó có ngũ uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Cho nên cái Thức này đó, nó là ngũ duyên, năm cái duyên này nó hợp lại nó thành con người của mình. Mà khi năm cái duyên này nó rã ra thì nó không còn cái thứ gì. Cái Thức nó cũng mất luôn.
Sư Phước Nhẫn: Thức cũng mất luôn, còn người tu mình nó còn.
Trưởng lão: Người tu nhờ mình có sức định con, cái sức làm chủ của mình, cái lực làm chủ của mình nó còn. Cho nên cái này nó còn, vì nó là trạng thái, hiện bây giờ mình nhận ra được cái trạng thái đó, là lúc mình chết tất cả này mất cái trạng thái đó còn. Trạng thái khi mình còn cái Thức thì mình thấy nó đó, nhưng mà cái Thức mất thì cái đó nó cũng còn, nhưng mà vì nó không có cái thức để nhận. Cho nên mình vĩnh viễn mình vào Niết Bàn. Cái chỗ này gọi là Diệt đế đó, Diệt đế là Niết Bàn. Diệt cái tâm ham muốn, cái nguyên nhân sinh tử, diệt hết rồi. Thì cái Thức này nó hoại diệt luôn nhưng cái trạng thái của Niết Bàn. Mình tìm về cái trạng thái đó.
Bây giờ nó có cái Thức, là trạng thái đó cho nên cái Thức mình nó thấy được cái trạng thái đó. Khi mà cái Thức diệt thì cái trạng thái nó sẽ không còn.
Còn mình mà không tu thì mình không nhận ra được cái trạng thái đó. Mà cái Thức mất thì mình cũng mất luôn vì mình không biết.
Cho nên mình tu mà đúng rồi thì mình sống mình biết chỗ mình về. Mình chết đi mình bỏ cái này thì mình về đó. Còn mình không tu thì mình không biết, nó đi đâu không biết, nó chết đâu mất tiêu không biết. Nhưng mà thật sự ra thì cái lòng ham muốn của mình, nguyên nhân mà sinh tử, cái nghiệp lực đó nó tiếp tục tái sanh trong nhân quả.
Sư Tuệ Tĩnh: Vậy là mấy thức nó liên quan đến cái Thức đó là nó tiêu hết luôn?
Trưởng lão: Nó tiêu hết luôn! Nói chung là tại vì người ta chẻ ra, người ta chẻ cái tâm ra nó nhiều cái loại Thức, chứ sự thật ra nó có một cái Thức. Cũng như nội trong Thân Ngũ Uẩn của mình thì mình thấy cái sắc thức của mình đầu tiên, thì người ta chẻ cái Sắc thức đó ra nó làm 6 cái: Mắt, tai, mũi miệng, thân, ý, thức, 6 cái thức rồi. Rồi cái Tưởng thức của mình, là mình mộng chiêm bao đó, đó là một cái Thức nó rồi. Còn cái Thức uẩn thì nó nằm im đó nó chưa hoạt động. Nhưng mà sự thực cái Thức uẩn nó đang hoạt động ở Ý thức, đối với thân của mình, Sắc thân và Tưởng thức. Nhưng mà tại vì nó làm việc ở trong cái thân, cho nên nó hoạt động ở cái văn phòng đó, nó là như vậy. Khi mà mình ngủ thì nó hoạt động ở trong cái văn phòng của cái Tưởng, mình thấy là Tưởng thức, chứ sự thật nó có một.
Các nhà tâm lý họ chia chẻ cái Thức này ra nó quá nhiều! Tâm Vương, tâm Sở đủ loại. Thành ra nó thuộc về Duy Thức, về tâm lý học. Nó là cái làm cho mình rối ren sau này, chứ sự thật chỉ có mình nó hà. Chia ra cái này, cái kia để làm rối mình thêm. Coi như mình làm hay, nhưng sự thật cái hay nó lại nguy hiểm!
Sư Tuệ Tĩnh: Ba cái phần Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới có phải nó tương ưng với cái thân, tâm, ý với tưởng không?
Trưởng lão: Đúng đó!
(11:56) Sư Tuệ Tĩnh: Hồi đó con không biết, con nói phải chi… mình nhớ nó là cái đó đó.
Trưởng lão: Nó đó! Chứ không ai vô đây.
Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới nó đó, chứ không phải là có cái cõi. Thành ra hiểu được đức Phật nói rất cụ thể và xác thực. Khi nói một cái điều gì không có trừu tượng, tại vì mình không nhận ra, nghĩ tưởng quá xa, thành ra nó mới có cõi.
Sư Tuệ Tĩnh: Mấy cái thế giới siêu hình đó lúc trước con cũng thắc mắc hoài, giờ con mới đọc cái này con muốn hỏi Thầy coi có cõi hay là không có cõi siêu hình?
Trưởng lão: Bởi vì nói về Phật thì cái gì nó rất cụ thể, rất khoa học! Cho nên ông Phật ổng đâu có khoa học, nhưng ổng nói rất cụ thể, không nói cái trừu tượng. Còn mình, thì tại vì mình tưởng, mình trừu tượng ra nhiều cái cõi như vậy. Đức Phật nói Dục Giới, nó ở đâu? Mình đây chứ gì, nếu mà không có dục làm sao? Sắc Giới không phải là mình sao? Vô Sắc Giới không phải mình sao? Ngồi đó mà tưởng không phải là Vô Sắc?
Bởi vậy, thiệt! Đọc mà không hiểu thì nó tưởng ra cái nó thành lệch cái đường của đạo Phật.
Sư Phước Nhẫn: Từ đó tới giờ, mấy ngàn năm rồi, người ta nói vậy thì bà con mình cứ nghe theo.
Trưởng lão: Cứ nghe theo! Bởi vậy, cái người tu mà không có chứng đạo thì không thấy được. Mà bốn thiền đó như vậy không thực hiện được, không thấy được chỗ này, cho nên tưởng ra.
(13:20) Sư Tuệ Tĩnh: Về cái cách hành văn ở trong cuốn kinh, nó dễ làm cho mình lầm lắm! Như cái khúc này con đọc, con cũng không biết suy nghĩ làm sao: "Vị Tỳ kheo với thiên nhĩ thanh tịnh, có thể nghe được hai loại tiếng: Là loại tiếng của chư Thiên và loại tiếng của người”. Sao kỳ vậy, nếu chư Thiên với người bằng với nhau, sao lại nghe được hai thứ tiếng?
Trưởng lão: Hai thứ tiếng, là vì một người thiện, một người ác. Bởi vì chư Thiên lấy thiện mà làm chuẩn. Ví dụ như một người thiện người ta lại nói chuyện mình biết người đó là người thiện, cụ thể lắm! Người ác họ nói mình chứ trong khi lời nói gian dối, họ nói hay ho chứ thật ra nó gian dối, mình biết.
Sư Tuệ Tĩnh: Như vậy thì người thường họ cũng biết chứ cần phải Thiên nhĩ mới biết Thầy?
Trưởng lão: Không, bậy! Bởi vì nói Thiên nhĩ. Thiên ở đây, không có nghĩa là nghe xa ngàn dặm. Thiên đây có nghĩa chữ Thiên là trời, nghe được cái thiện. Mình tu Thập thiện là mình sanh lên cõi trời rồi. Ý nó như vậy, nghĩa là mình phân biệt được cái người lành và cái người ác. Nó, đó là cái chỗ ý chỗ này, nó thực tế, cụ thể!
Mà mình nghĩ xa nữa đó, mình nghe chư Thiên ở đâu, vô hình đâu nói mà mình nghe, thì cái đó là cái sai, mình hiểu lầm. Bởi vì cũng con người của mình ở trong thế gian này nhưng mà người đó là chư Thiên, người đó người ta thực hiện cái lành của người ta, người ta không có phạm vào cái ác, người ta sống trong Thập Thiện rồi. Thì đó là chư Thiên rồi.
Sư Tuệ Tĩnh: Dạ, nếu vậy thì cái Thiên Nhĩ thì cái người bình thường cũng có chứ Thầy?
Trưởng lão: Có chứ! Bởi vì người nào cũng có hết, chứ đừng nói. Tại vì mình không hiểu cho nên mình tưởng Thiên Nhĩ là phải thực hiện cái gì siêu…
Sư Tuệ Tĩnh: Bởi vậy ở đây nói tu đến cái mức đó thì có Thiên Nhĩ, nó mới dễ lầm đó.
(15:06) Trưởng lão: Bởi vì, tu là phải sửa lại những lỗi lầm của mình, những cái sai quấy, cái thiện ác. Thì đó mình nghe thiện, đúng là mình đã thấy được, nghe được cái thiện. Còn bây giờ mình nghe chưa được cái thiện đâu, phải không? Nhiều khi cái ác mình nghe cũng chưa được nữa, vì mình chưa biết.
Cho nên phải tu, tu rồi mới thấy được cái thiện, cái ác. Cũng như bây giờ nói nhân quả thiện ác, nhưng mà sự thật ai biết được cái hành động, mình thấy là Thập Thiện mà, nhưng mà làm sao mình biết cái đó là thiện? Mình thấy thiện, nhưng mà đó là ác mình đâu có biết được.
Cho nên mình chưa có Thiên Nhĩ, nghe chưa có biết. Cái lời người ta nói nghe nó thiện đó, ở trong đó có ác mình đâu có biết. Phải có người có Thiên Nhĩ, tức là phải thâm sâu ở trong cái định tĩnh của mình. Mình phải thâm sâu vào nhân quả, mình nghe người đó nói mình biết, lời nói đó thiện chứ không thiện đâu. Khó lắm chứ không phải dễ! Phật muốn nói cái chỗ đó là mình phải tu hết sức nó mới được.
Sư Phước Nhẫn: Khéo léo lắm!
Trưởng lão: Khéo lắm! Họ nói nghe thiện chứ mà trong đó có ác. Còn người nói dữ tợn, nghe ác vậy chứ mà thiện. Mình không đủ Thiên Nhãn, Thiên Nhĩ mình không biết.
Cho nên nó thực tế, nó cụ thể chứ không phải có thế giới siêu hình, chư Thiên nói, mình ngồi đây mình nghe chư Thiên nói chuyện. Người ta tưởng cái đó quá rồi, thành ra xa vời cái pháp tu của Phật.
Bởi vì Thập Nhị Nhân Duyên, đức Phật nói 12 nhân duyên nó hợp lại thành thế giới đau khổ, 12 duyên rã ra thì thế giới đau khổ mất. Thì rõ ràng là trong Thập Nhị Nhân Duyên thì nó có nhân sinh quan của mình, tức là thân Ngũ Uẩn có năm duyên của Uẩn. Và bảy duyên kia thuộc thế giới quan ở ngoài. Thì nó có lục nhập: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp đó là cái thế giới ở ngoài. Rồi nó mới sinh ra Ái, Thủ, Hữu này kia… do mình tạo cái thế giới khổ. Theo mấy cái duyên đó nó tạo.
Sáu cái duyên Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp tức là lục nhập đó, sáu cái đó là sáu cái thế giới quan ở bên ngoài. Nó thấy, nghe này kia đồ… nó tác động cho cái thân của mình nó gây ra xúc, thọ, rồi ái, rồi hữu, thủ đó nó mới có sự đau khổ của nó. Còn nếu mà không có nó thì coi như nó không gây những cái này.
Vì vậy mà khi cái này hoại thì nó hoàn toàn nó tiêu mất không còn một cái gì. Mà khi nó hợp lại là cái thế giới khổ đau! Đây là nói về Thế giới quan.
Cho nên bài kinh Thập Nhị Nhân Duyên tức là đức Phật muốn nói Thế Giới Quan của đức Phật. Mà cái bài Ngũ Uẩn tức là đức Phật muốn nói Nhân Sinh Quan của con người. Cho nên Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức có đủ. Một con người nó phải gồm đủ những cái duyên này, không thể thiếu một duyên nào được. Mà chết rồi thì nó rã.
Cho nên vì vậy đó mà từ cái cõi Thiện là cõi Thiên, từ cái cõi Ác là Ác Quỷ, từ cái cõi có Dục là con Người. Cho nên cái cõi Dục nè, cõi Sắc, cõi Vô Sắc đó là mấy cái chỗ mà đức Phật xác định trong kinh, nhưng mà tại vì mình sống tưởng quá, mà nó thành ra nó quá cao siêu!
(18:49) Trưởng lão: Chúng ta ráng làm sao chỉnh đốn lại, một mình Thầy chưa đủ! Quý sư thì ráng nỗ lực sống cho đúng phạm hạnh, Thầy nói sống cho đúng phạm hạnh: Ăn, ngủ, độc cư. Mà ăn với ngủ phải cố gắng chiến đấu, mà cố gắng chiến đấu ngủ là đi kinh hành nhiều.
Còn độc cư là nhất định, nghiệp nào phá độc cư nhất định là không phá. Độc cư là không được nói chuyện phiếm, không được nói chuyện, không được làm công việc gì hết mới gọi là độc cư. Sống một đời sống như vậy mới đúng nghĩa của Phật.
Cho nên chúng ta sống những Đức, Hạnh này thì chúng ta sẽ làm sáng lại Đạo Phật, chỉ có sống mà thôi. Bởi vậy Thầy thường nhắc: “Sống là tu, tu là sống”. Nhớ kỹ! Những lời dạy này ở trong băng thu rồi không mất đâu. Nhớ về mở lại nghe tới, nghe lui, mà sống cho đúng những cái lời Thầy dạy, thì Thầy nói rằng Ông Phật sao mình như vậy. Thầy làm được những gì thì các sư sẽ được như vậy.
Mặc dù bây giờ Thầy có hiện thần thông, Thầy sợ Thầy hiện thần thông là làm cho người ta nhắm vào cái thần thông mà không nhắm vào phạm hạnh. Người ta ráng người ta sống phạm hạnh là vì thần thông chứ không phải vì phạm hạnh. Mà ở đây, chúng ta tu vì phạm hạnh chứ không phải vì thần thông.
Vì Tâm Bất Động trước các pháp, trước các cảm thọ chúng ta, chúng ta tu vì sự giải thoát chứ không phải vì thần thông. Còn thần thông nó là một cái thứ huyễn hóa, cái thứ phụ. Nhưng chúng ta vẫn có đủ, chúng ta sẽ chứng minh được những điều này.
Đó, thì cho nên chúng ta phải nhìn vào cái chính mà không phải nhìn vào cái phụ, cái phụ sẽ được. Bởi vì Thầy nói tâm thanh tịnh, nhu nhuyến rồi thì dễ sử dụng. Muốn làm gì cũng được, nhưng mà chúng ta không ham nó đâu. Chúng ta làm sao để mục đích bây giờ chúng ta làm, mà bây giờ chúng ta còn ham: “Mình ráng mình tu để cho có Thần thông”, thì cái phạm hạnh này không được. Thầy nói bởi vì còn cái tham trong này thì không được.
Cho nên bây giờ Thầy thể hiện thần thông, Thầy bay lên trời được, Thầy hóa hào quang. Tối Thầy hóa hào quang, Thầy sáng trời kia kìa, nhưng mà quý sư có cái tâm niệm đó rồi thì ông nội không có xả được cái tâm này! Vì muốn được cái kia mà thực hiện này, ráng! Tức là ức chế rồi. Ráng mình sống phạm hạnh để cho được cái này chứ gì? Vì cái tâm tham nó tự nó…(không nghe rõ) cho nên nó không đạt được.
Cho nên Thầy nói nó là huyễn hóa, nó không có thật! Đức Phật đã nói huyễn hóa rồi, thì chúng ta biết rằng cái mục đích này không được. Thị hiện là đối xử, Thầy nói bây giờ có ông đó tu Mật Tông có thần thông, ổng bây giờ ổng nghe Thầy bác ổng Mật Tông thế này, thế khác… Ổng đến đây ổng thi triển, để mà ổng quyết tâm hại Thầy, thì Thầy sẽ thực hiện Thần thông với ổng, chứ còn không thực hiện tầm bậy.
Thực hiện tầm bậy thì để tử của mình cứ nhìn cái thần thông đó: “Mình làm sao mình ngồi phóng hào quang được như Thầy là ngon!”, là cái tâm này nó không diệt được, mà nó không diệt được thì cái tâm thanh tịnh này nó không được, nó khổ cái nỗi không vô nổi.
(21:44) Chứ phải chi mình luyện cái khác để có thần thông cái này, bây giờ luyện cái bùa, cái chú gì để nó phóng hào quang lên. Cái đó nó ngoài cái tâm thanh tịnh của mình thì mới được. Còn cái này nó do cái tâm thanh tịnh mà nó được cái này. Mà bây giờ cái tâm nó, cái này mà nó không thanh tịnh được thì nó không được cái này. Bởi vì Thầy biết được cái đó, cho nên nó khó cái đó!
Cho nên ví dụ chẳng hạn bây giờ, cái tâm niệm của quý sư như thế nào, là một người nhập Nhị Thiền người ta đã biết. Như trong bài cái kinh vừa rồi in tập một Thầy có nhuận lại cái chỗ mà ba loại thần thông đó. Thì cái chỗ là thần thông đó trong bài kinh Đức Phật cũng nói rất rõ mà, thấy tướng người ta biết được tâm niệm, nghe tiếng nói người ta biết được tâm niệm, phải không?
Còn bây giờ không cần thấy, không cần nghe; không cần thấy tướng, không cần nghe gì mà có người hỏi người đó như thế nào, biết họ nói hết, nói không sai cái nào. Mà cái Thiền đó là Nhị Thiền chứ đâu phải,… diệt Tầm Tứ nhập Nhị Thiền là cái đó được rồi, chứ đâu có cần phải nhập tới Tứ Thiền.
Chúng ta thấy, từ cái Sơ Thiền tâm thanh tịnh mà chúng ta được thì cái Nhị Thiền rất dễ! Nhị Thiền rất dễ, thị hiện ra cái thần thông chúng ta thấy rõ. Mà nó đâu có quan trọng gì đâu, chỉ nói chơi vậy thôi chứ nó ích lợi gì cho người ta đâu!
Như vậy Thầy nói thật sự cái việc Phật xác định rõ ràng, và cái sự thực hiện của Thầy, Thầy cũng xác định. Cho nên ai làm sao hơn ông Phật được?! Ông Phật đã nói mình chỉ có làm lại mà làm chưa hết, làm sao mình luận hơn ông Phật được?!
Còn mấy ông Đại Thừa như ông Long Thọ nè, ông Mã Minh, ông Thế Thân nè, ổng nói vậy chớ ổng có làm được không? Ổng có tàng hình biến hóa được không? Hay ổng luận không, ở trong kinh sách ổng nói ra? Ổng nói hay, ổng có làm gì được không?
Ôi! Bộ Bát Nhã của ổng quá trời, quá đất! Cái bộ Trung Quán Luận ổng luận về tánh không thấy quá trời hay! Nhưng cuối cùng ông có làm được những gì, chỉ thấy nói vọng ngữ không. Có phải không?
Cho nên ở đây Thầy thấy hầu hết là các Tổ mình chỉ nói cho cao chứ còn làm không được. Lời nói với cái hành động nó không đi đôi, tức là không nhất quán.
Còn lời nói của Phật nó đi đôi với cái hành động, đức Phật nói đâu làm được đó. Nói ba tháng Ta nhập Niết Bàn là ba tháng Ta nhập, không sai chỗ nào! Mà nhập Niết Bàn bằng cái đường lối nào? Nhập cho chúng ta xem, ba lần nhập tới, nhập lui để chúng ta thấy. Chớ không có gạt chúng ta.
Còn mấy ông nói cũng tự tại sinh tử, mấy ông trèo lên sàn tràng thiền, mấy ông ngồi đó ông nhập, nhập cái gì đó? Rồi pháp nào mấy ông nhập được cái đó? Mấy ông có làm như ông Phật không? Mấy ông chỉ nói!
Thì cha con ông Bàng Uẩn chết, chúng ta đọc thấy có không? Trèo lên sàn thiền ngồi, leo lên chiếu ngồi, nhập định cái rồi bỏ thân. Nhập cái định nào đây? Còn ông Bàng Uẩn thì nằm ở trên bắp đùi người ta nhập định cái rồi bỏ thân, nhập định cái nào mà ông bỏ thân? Không có nói.
Ông Phật rõ ràng, chứng minh rõ ràng cho chúng ta thấy được chỗ này, nhập Tứ Thiền xả bỏ báo thân. Đúng, không sai! Bởi vì nhập Tứ Thiền tịnh chỉ hơi thở, hơi thở không thở là con người chúng ta chết.
Còn mấy ông nhập cái định gì mà hơi thở của mấy ông dừng? Mấy ông nói đi, mấy ông không nói được, mà mấy ông nói cái chuyện… cũng như là quý Hòa Thượng bây giờ đó chết ở trong đau khổ, mà nói là “Thu thần nhập diệt”, cái đó là nói láo, không thật!
(25:11) Đó, thì hôm nay Thầy nói cái con đường của Phật nó cụ thể, rõ ràng. Thứ nhất chúng ta là con người phải sống Đạo Đức làm người. Đạo Đức làm người như thế nào không làm khổ mình, khổ người. Mà không làm khổ mình, khổ người thì tức là ly dục ly ác pháp rồi. Nếu mà còn dục thì không thể nào mà chúng ta gọi là không làm khổ mình, khổ người. Hễ còn dục tức là còn khổ mình. Hễ còn dục tức là người ta nói nặng mình là mình giận liền, mình sân liền. Mà sân tức là mình làm khổ mình rồi, thì làm sao gọi là không làm khổ mình, khổ người?!
Đó! Thì hiểu biết, khi mình nói rằng: “Đạo Đức không làm khổ mình, khổ người” mà phải tu tập, mà phải biết đủ mọi cách nó mới không làm khổ mình, khổ người. Chứ không phải đơn giản! Nội học cái Đạo Đức đó cũng thấy là đủ cái đời sống của chúng ta là giải thoát rồi.
Còn cái phần kia chúng ta không quan trọng đâu, nếu mà cái Đạo Đức này có được thì cái phần kia chúng ta làm được. Tâm nhu nhuyến rồi. Chúng ta tu có cái hà, có cái phần này không hà, còn cái phần kia chỉ ra lệnh thôi. Như vậy là Thầy nói một đêm là Đức Phật đã Tam Minh đã xong rồi, có đúng không?
Còn ba ngày là tại vì chúng ta, nói chung là Pháp Hướng chúng ta còn phải nhắc tới, nhắc lui nhiều, ba ngày là tối đa.
(26:21) Sư Tuệ Tĩnh: Cái Tứ Thiền tới Tam Minh là mấy ngày Thầy?
Trưởng lão: Coi như là nhập Tứ Thiền thì kể như là canh một, canh hai, canh ba; đầu cánh, rồi canh giữa, canh cuối thì có Tam Minh.
Sư Phước Nhẫn: Cái đó là Phật, còn Thầy thì đi trong bao lâu Thầy?
Trưởng lão: Thầy nói nó chỉ có một đêm là xong rồi, Phật cũng vậy, Thầy cũng vậy, bởi vì nó nhu nhuyến quá!
Sư Tuệ Tĩnh: Cái thời gian Tứ Như Ý Túc đó Thầy.
Trưởng lão: Tứ Như Ý Túc tức là mình từ cái Định Như Ý Túc, từ cái này kia tập luyện đồ đó, thì cái đó mình tập luyện nó lâu lắm. Nhưng mà lâu nhất là cái chỗ tâm ly dục, ly ác pháp. Còn cái kia mình chỉ hướng một lần, hai lần, mười lần là nó thấy tới rồi.
Cũng như bây giờ cái tâm thanh tịnh rồi, mình hướng vô để mình vô nhập Nhị Thiền, mình nói: “Tầm Tứ tịnh chỉ đi, ngưng đi, diệt đi”, đó thì ngồi im lặng nó chưa nhập, hướng lần nữa, hướng lần nữa, ba lần, bốn lần. Rồi, hết, nó vô. Nó vậy, chứ đâu phải mình ngồi là nó vô đâu.
Sư Phước Nhẫn: Rồi mình muốn nhập Tam thiền là phải ra Nhị Thiền?
Trưởng lão: Phải xuất ra! Hướng ra, bởi vì nó vô rồi thì tức là ở trong đó mình hướng ra nó ra, chứ mình không hướng ra nó không ra, nó ở trong đó. Cho nên phải xuất rồi nhập.
Cho nên Đức Phật mới nói thí dụ như: Nhập Sơ Thiền rồi, thì phải xuất Sơ Thiền nhập Nhị Thiền, rồi xuất Nhị Thiền mới nhập Tam Thiền. Xuất ra rồi mới nhập cái khác, chứ ở đó mà nhập tới nữa không được. Đừng có nghĩ chồng lên không phải đâu! Thiền Định nào nó riêng nấy…
Vì vậy mình phải xuất cái đó ra rồi mình mới nhập cái khác. Thì đọc lại cái bài kinh Niết Bàn mà Đức Phật nhập Niết Bàn, xuất nhập, xuất nhập, xuất nhập, ra vô, ra vô, ra vô. Hễ nhập cái đó vô rồi, thì bắt đầu xuất cái đó nhập tới cái khác, rồi bắt đầu xuất cái định đó nhập tới cái khác nữa.
Cho nên xuất nhập mình nếu mà không có pháp hướng thì xuất nhập không được. Bởi vì, Thiền Định nó chỉ còn duy nhất có pháp hướng, mà người dạy Thiền Định mà không dạy pháp hướng, Như Lý tác Ý là người đó hết biết rồi, người đó dạy Thiền Điên!
Bởi vậy Thầy nói khi mà tu rồi mới dám chắc là mấy ông Tổ này dạy Thiền Điên! Bởi vì không thấy pháp hướng. Còn ông Phật có Pháp Như Lý Tác Ý, đúng là ông Phật dạy đúng.
Sư Phước Nhẫn: Vậy là Thầy tu cái đó…
Trưởng lão: Đó! Thì vậy mới biết rõ. Chớ còn cở mà không tu thì không biết cái pháp Như Lý Tác Ý này. Có tu rồi mới thấy được giá trị của Pháp Như Lý Tác Ý. Vì vậy mà Thầy lấy những cái lời kinh của Phật mà Thầy ghi vô để các con thấy chỗ Pháp Như Lý Tác Ý này, đức Phật nhắc đi, nhắc lại. Nó là nó quan trọng đến mức độ đó mà ông Phật nhắc như vậy: “Có một pháp này”; “Có một pháp này”, chứ không phải hai pháp đâu!
(29:12) Trưởng lão: Mình tu cái lực mà không Tham, Sân, Si này nó có thì cái lực này nó diệt. Cái lực này diệt thì chấm dứt tái sanh luân hồi chứ gì, diệt Lậu hoặc hết rồi. Do đó cái lực này còn. Nó có hai cái lực.
Bây giờ mình không có pháp tu, mình cứ ngồi Thiền mình không tu cái lực, làm sao có lực?! Cho nên tôi tu hoài Tham, Sân, Si này không hết! Còn này người ta có lực.
Thầy nói bây giờ, cái tay mình đau nè là cái nghiệp chứ gì, mà mình dùng cái lực của nó: “Thọ này đi đi!”, thì tức là cái lực của mình chứ gì? Bây giờ cái lực nó yếu thì nó còn đau, mà lực nó mạnh thì nó đi, phải rõ không?
Bởi vậy Thầy nói cái pháp nó rõ ràng như vậy mà! Mà Thầy nói có người làm được rồi! Ông Phật làm được, Thầy làm được, còn những người bây giờ chút chút mấy con thấy sao mà… Mấy con thấy, mình hướng có cái sao hiệu quả, thì đó là được rồi! Nó bảo chứng cho mình thấy mình làm cái nhỏ nhỏ này được rồi, thì cái lớn này sẽ làm được.
Sư Phước Nhẫn: Phải tu tiếp theo nữa.
Trưởng lão: Tiếp theo nữa, để cho tạo cái lực, vì cái lực của mình yếu quá. Cái lực này yếu quá, tức là mình biết cái sức nó chưa có đủ, mình nỗ lực, hồi đó mình đâu có nó phải không? Bây giờ mình tu một thời gian nó có được chút chút rồi. Bây giờ mình tu nữa nó có nhiều nữa, tu nữa nó có nhiều nữa ngày… mà nó mất thì, bởi vậy nó đau thì cái nghiệp lực này đẩy nó đi mất.
(30:28) Cho nên cái thân này thì nó hoại diệt, nhưng mà nó là do thân nghiệp mà, nó phải hoại diệt, nó phải đau nhức, nó phải bệnh chứ gì. Nhưng mà có cái lực này rồi, phải không? Cái lực mà không đau nhức, không có Nhân Quả này rồi, thì cái thân này phải phục hồi, nó sống bao lâu cũng được hết. Hiểu vậy chưa? Cho nên nó muốn sống bao lâu cũng được. Đức Phật nói sống bao nhiêu kiếp cũng được mà, tại Ông Anan không yêu cầu thôi. Còn bây giờ mấy con yêu cầu, chứ cở không yêu cầu Thầy đi lâu rồi, đừng nói…
Thật sự không ai yêu cầu Thầy, yêu cầu Thầy còn ở lại Thầy giúp đỡ rất nhiều. Bởi vì cái duyên của người ta, còn cầu khẩn mình đâu có bỏ được. Người ta tạo cái duyên, chứ mấy con không cầu là Thầy đi. Nghĩa là thầy Thanh Từ mà không cầu lần đầu tiên là Thầy đi lúc cách đây gần hai chục năm. Năm 1980, Thầy tu xong rồi, Thầy về Thầy xin thầy Thanh Từ Thầy nhập diệt.
Thầy chỉ nghĩ là cái pháp khó lắm, không tu được. Người ta sống Giới không nổi! Bởi vì Thầy thấy hầu hết là… chỉ bây giờ, chỉ mình lên đó đó mình xin Hòa Thượng để nhập Niết bàn, bằng cách là mình nhập định làm chủ được từng hơi thở của mình chết, để cho mọi chúng sanh thấy thôi, rồi mình đi. Cho người ta tin mình rằng Phật pháp ta thực hiện được.
Thầy lên xin Hòa Thượng Thanh Từ, Hòa Thượng yêu cầu Thầy ở lại giúp Hòa Thượng. Cho nên Thầy ở lại. Người đầu tiên yêu cầu Thầy đó là Hòa Thượng Thanh Từ. Chúng sinh có phước lắm có Hòa Thượng yêu cầu, chứ còn cỡ Hòa Thượng muốn ờ bây giờ để thử coi có làm được hay không đó, “ờ bây giờ Thầy chấp nhận cho con ở lại đây để mà thực hiện cái sự nhập diệt”.
Thì được rồi, Thầy sẽ ở lại Chơn Không một tuần lễ, họp tất cả phật tử…
tự tại. Bây giờ Thầy ra đi làm sao? Tịnh chỉ hơi thở bỏ thân, bỏ thân cho chúng xem Thầy ra, ra đi. Rồi!
Bắt đầu từ đây Thầy khuyên, từ đây về sau phải noi theo cái đường lối của Hòa Thượng mà thực hiện trên cái Giới Luật, để mà thực hiện cho được những cái sự làm chủ này. Cuối cùng Thầy nhắc nhở Phật tử rồi Thầy ra đi, nếu Hòa Thượng không yêu cầu.
Nhưng mà Thầy về Hòa Thượng yêu cầu. Hòa Thượng nói với Thầy như thế này: “Thầy thì đang chấn hưng Thiền Trúc Lâm, thiền Việt Nam, mà chú tu được thầy mừng lắm! Chú hãy ở lại giúp thầy”. Đó! Hòa Thượng nói vậy mà, Thầy mới hỏi Hòa Thượng: “Bây giờ con ở lại giúp Thầy, giúp như thế nào?”
Hòa Thượng nói: “Đọc lại tất cả những kinh sách, các sử đồ này kia, đọc lại hết. Chừng đó có cái chỗ để viết sách”. Rồi Hòa Thượng trao cho Thầy những kinh sách này, kia, nọ. Thầy về hai năm trời ở trong thất, Thầy liên tục ngày đêm Thầy đọc, Thầy viết thành cái bộ sách Đường Về Xứ Phật. Thầy phân tích từng cái bài kinh, bài nào đúng, bài nào sai Thầy gạt sạch ra hết!
Thầy làm vậy đó, cuối cùng luồn lách với Hòa Thượng để cuối cùng để trao cái bộ kinh, nhưng Hòa Thượng không thấy được, thôi!…(không nghe rõ).
Sư Phước Nhẫn: Hay là ổng thử Thầy? Mình tu xong rồi đọc lại chi nữa? Hay ổng thử Thầy?
(33:28) Trưởng lão: Không! Không phải, ổng biểu Thầy, có nghĩa là ổng nghĩ rằng Thầy chưa có thông kinh sách, cái ý của ông vậy. Thầy nói ổng biểu, nhưng mà không ngờ Thầy đọc lại để mà Thầy phân tích cái nào của Phật, mà cái nào của ngoại đạo.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra ổng thấy cái chỗ Thầy phân tích rõ ra đó.
Trưởng lão: Thì đó, Thầy mới đưa ra hai cuộn băng. Ổng nói sai, không có đúng ý rồi, thành ra từ đó bác luôn.
Ý của Hòa Thượng khuyên là cũng thật sự, là bởi vì Hòa Thượng nghĩ rằng Hòa Thượng thông suốt như vầy là do học, do hiểu biết cái Tạng kinh. Cho nên bảo Thầy bây giờ muốn giúp Hòa Thượng là phải thông suốt các tạng kinh. Cũng như là thầy Nhật Quang ở Thường Chiếu vậy, thông suốt vậy mới giúp được, sẵn cái tu của mình nữa. Chứ không ngờ Hòa Thượng nghĩ rằng cái tu, là người ta tu như vậy là người ta thông suốt hết rồi. Chỉ bây giờ có cái là người ta gạt cái nào không đúng ra thôi. Chứ không phải cần đọc nữa!
Còn ông Tổ nào mà làm sai hoặc làm đúng, người ta cũng đều biết. Nhưng mà Hòa Thượng ổng nghĩ phải đọc sử của các Tổ thì mới biết, Tổ này truyền thừa sao, sao, sao với nhau. Nối cái đăng như thế nào, cái đèn Tổ đó như thế nào?
Đó, thì Hòa Thượng muốn Thầy đọc lại để cho nó vững, để giúp Hòa Thượng ở trên cái đường mà gọi là thừa kế đi thuyết pháp như Hòa Thượng vậy, ý như vậy. Chứ không ngờ là Thầy lại bác.
Sư Phước Nhẫn: Nghịch ý nhau.
Trưởng lão: Nghịch ý! Cho nên vì vậy mà thầy trò nó lần lần… nhưng mà Thầy cố gắng, thì khi mà Thầy biết rồi, Thầy cố gắng để mà núp sau lưng Hòa Thượng để mà giúp Hòa Thượng thôi.
Nhưng mà không được. Bởi vì mấy ông đệ tử, huynh đệ của Thầy, mấy ổng cứ hễ thấy Thầy chui bên đây vô trong Thường Chiếu thì mấy ổng lôi Thầy ra, không để… Cho nên mấy bài thỉnh nguyện của Thầy, là Thầy chui vô đó. Mà chui không được, mấy ổng khôn lắm! Mấy ổng sợ vô trong này, nó tan nát hết.
Thầy thì không phải là vô trong đó tan nát đâu, mà Thầy vô củng cố. Những người nào mà quyết tu, Thầy xin, Thầy cho những người đó theo Thầy vào khu chuyên tu, ở trong đó Thầy huấn luyện.
Sư Tuệ Tĩnh: Khác đường lối, khó quá!
Trưởng lão: Thành ra nó như vậy, cho nên cuối cùng thì Thầy thấy chính Thầy cũng khơi mào cái khu vực mà Trung Tâm An Dưỡng.
(35:50) Sư Tuệ Tĩnh: Thầy có giảng cái phần Nhân Quả nó không cố định, cái này con hồi nào tới giờ con cứ khư khư cái này hoài, con không hiểu. Về sau con có đọc một câu nói rằng: “Tội phước đều không có chủ thể”, cũng như do duyên tốt, duyên xấu nó tạo ra tội phước, chứ còn tự động cá nhân họ không có chủ động. Họ cũng tùy theo duyên cảnh, cái môi trường tạo ra. Thành ra cái câu trong này nói: “Tội phước đều không có chủ thể”, con không biết là sao, sao mà kỳ vậy? Xin Thầy giải thích cho con nghe!
Trưởng lão: Bởi vì, cũng như hôm nay mình sống trong cái thời gian này, hiện tại này là cái môi trường này nằm trong cái Nhân Quả của nó. Mình bình yên, phải không? Cái môi trường này bình yên.
Mà mình không bình yên, nó có những cái đối tượng, cái pháp nó đến nó làm cho cái cuộc sống của mình trong hiện tại này không bình yên. Thì không bình yên tức là Quả, Quả nó không bình yên tức là khổ chứ gì? Thì nó có cái Quả.
Còn bây giờ nó bình yên là nó có cái Quả, mà những cái Quả thiện nó làm cho mình an ổn, phải không? Do đó, trong cái an ổn này thì bắt đầu mình mới sinh ra một cái khác, Cái Nhân mới, mình tạo ra Nhân mới vì các pháp nó tạo ra… cái thuận duyên của mình là cái Quả nó yên ổn nè. Bây giờ mình khởi ra, mình muốn làm cái gì. Phải không? Mà khi cái muốn làm đó, thì tức là cái Nhân mới để tạo thành một cái Quả kế đó, chứ không phải còn ở trong cái Nhân cũ.
Nhưng bây giờ mình lái cái Nhân này, cái Nhân mới này, mình lái nó đi tạo thành một cái Quả tốt, mà nếu không lái nó nó sẽ đi vào cái Quả ác, cái Nhân ác của nó nó sẽ tạo thành cái Quả ác cho mình kế tiếp.
Cho nên nó luôn luôn nó không phải có một sự cố định, không phải chủ thể đó. Mà nó di chuyển, nó di chuyển, nghĩa là mình dùng cái trí của mình, mình thấy: “À, cái niệm này khởi lên đây, mình đi theo con đường này là một con đường ác, không được, dừng lại! Phải đi theo ngã này, ngã này sẽ đem đến lợi mình, lợi người, nó không làm khổ mình, khổ người”.
Thì do đó, mình suy tư như vậy, do cái trí của mình mình lái nó đi, mình lái cái Nhân mới này để cho nó có cái Quả tốt của nó. Mà mình không lái nó, mình đi theo lòng ham muốn mình, mình không thấy ác pháp tức là cái trí của mình không nhận ra nó là ác pháp. Cho nên mình lái nó, mình đi đến cái đó thì nó gặp, bởi vì mình không lái nó thì nó sẽ đi vào con đường ham muốn.
Mà con đường ham muốn thì nó là ác, nó sẽ tạo thành cái khổ mình, khổ người. Mình không suy nghĩ tới trước được, cho nên do đó cái chuyện nó sắp sửa xảy ra thì mình không biết. Mà bây giờ mình cứ nghĩ là cái điều đó mình muốn như vậy, mình làm như vậy, nhưng mà không ngờ rằng cái Quả nó sẽ đi đến cái khổ cho mình. Nhưng mà cái hành động ác của mình mình không nhận ra. Chứ nếu mình nhận ra thì mình không làm. Mà mình không nhận ra cho nên nó mới thay đổi cái môi trường, cái thời gian hiện tại mình đang an ổn. Do cái hành động này nó đi đến bất an. Cho nên nó thay đổi chứ nó không phải cố định.
(38:44) Cũng như bây giờ, hôm nay mình an ổn, nhưng mà ngày mai mình phải trả cái Quả gì? Nhưng mà ngày mai sắp tới, nó chưa đến cái Quả này, bởi vì bữa nay nó đâu có cái ngày mai. Phải không? Nhưng mà hôm nay mình khởi một cái niệm, mình lái cái niệm đó nó đi vào cái ngã thiện, nó chuyển cái ngày mai, cái Quả ngày mai, nó làm ngày mai mình không có gặp khổ.
Thay vì mình không chuyển nó, thì ngày mai nó hướng mình đi vào chỗ cái niệm ác hôm nay, thì cái ngày mai cái Quả khổ đó nó đến. Nó sẽ có Quả khổ cho ngày mai của mình, tại vì cuộc đời của mình sinh ra nó ở trong Nhân Quả, cho nên nó có cái Quả của ngày mai. Mà hôm nay thì mình chưa có thì mình thấy đâu có khổ gì đâu, nhưng ngày mai sẽ khổ. Nhưng mà hôm nay mình chuyển được cái hướng thiện, nó đi tẹt qua cái Quả khổ này trật, nó không có đến với mình.
Còn nếu mình đi hướng khác cái Quả khổ này nó bùng lên, nó làm cho mình khổ sở, ở tù hay hoặc là xe đụng chết nữa. Hiểu chỗ đó chưa?
Cho nên Nhân Quả nó không cố định là như vậy. Vì vậy cho nên mình khéo lái nó, cho nên Đạo Phật mới nói con người giải thoát được, là tại vì mình trong Nhân Quả mình lái nó đi thì mình giải thoát hà. Mình không lái Nhân Quả mình được thì mình sẽ bị nó lái mình đi thì mình bị hà. Mà nó càng chồng chất lên những cái Quả khổ nó thì cái nghiệp khổ mình nó càng khổ nhiều. Và cũng từ đó nó cứ nó thành cái lực, cái lực đó nó tiếp tục tương ưng nó tái sanh thì nó phải sanh ra khổ nữa, nó không hết.
Còn mình cứ lái vào thiện, lái vào thiện thì càng ngày nó càng đi vào con đường thiện thì nó an ổn, nó yên vui cho đến khi chấm dứt hoàn toàn sanh tử.
Sư Tuệ Tĩnh: Còn cái phần chủ thể như vậy sao Thầy?
Trưởng lão: Đó, cái phần chủ thể nó không có. Nó không có chủ thể. Nếu mà có chủ thể thì phải có cố định, bởi vậy nó không có chủ thể. Nó tùy!
Sư Tuệ Tĩnh: Vậy cái Nhân Quả này nó không có liên hệ tới quá khứ hả Thầy, ví dụ kiếp trước với kiếp này không có liên hệ?
Trưởng lão: Coi như là nó có liên hệ, nhưng mà mình chuyển. Chẳng hạn bây giờ Thầy đặt vấn đề, nó có liên hệ, bây giờ cái quá khứ, cái Nhân của ở quá khứ thì cái Quả ở hiện tại của mình. Bây giờ Thầy đã tạo cái Nhân ở quá khứ, Thầy chỉ sống có thời gian có 50 tuổi hà, là ngày mai này đúng 50 tuổi là Thầy chết đó. Cái Nhân của Thầy ở quá khứ, cái Quả của Thầy chỉ có 50 tuổi. Trong cái hiện tại này 50 tuổi Thầy chết.
Nhưng mà ở trong cái hiện tại này, Thầy lại chuyển được cái Quả đó. Thầy làm những điều phước cho nên nó chuyển Thầy sống thêm, tới đó Thầy không chết. Phải không? Nó chuyển rồi. Bởi vì nó có liên hệ, nó có liên hệ của quá khứ với hiện tại và vị lai.
Bây giờ ở quá khứ mình tạo cái ác cho nên đến đây mình sẽ gặp cái tai họa này, cái tai họa này có thể giết mình chết. Nhưng mà trong cái hiện tại này, trong cái cuộc sống hiện tại mình đã tạo được cái phước cho nên cái Quả chết này nó không chết, nó đến đây thay vì Quả khổ mà nó không khổ mà nó lại hạnh phúc. Nó có liên hệ, mà từ cái hành động hiện tại này làm thì cái tương lai này nó sẽ sáng sủa, nó không khổ!
(41:50) Cho nên nó không có chủ thể, mà nó chỉ có tùy duyên, tùy duyên qua cái trí của mình mà chuyển biến nó. Cho nên nó thay đổi liên tục, nó không có dừng. Vì vậy mà có thể nói rằng cái người mà coi bói nói về vị lai không đúng. Bởi vì cái luật Nhân Quả nó thay đổi mà làm sao nói, nói bữa nay: “Ngày mai anh bị xe đụng”, nhưng hôm nay tôi làm chuyện khác, ngày mai tôi đâu có đụng được! Cho nên nói không được. Nhưng quá khứ nó nói đúng. Cái ông thầy bói, họ nói quá khứ mình đúng.
Cũng như bây giờ Thầy tu chứng, Thầy có Tam Minh, Thầy biết nghiệp sư như vậy, vậy, vậy… Mà nếu trên con đường này mà sư chuyển biến nó bằng đường hướng trí tuệ Phật dạy thì nó thay đổi mất, cho nên Thầy nói trật lất hà.
Mặc dù Tam Minh, bây giờ Thầy thấy nó đúng, nhưng mà ngày mai nó thay rồi, nó thay là vì hôm nay sư đã làm cái hành động nó khác rồi. Thành ra nó thay rồi, bây giờ nói như vậy sao được!? Không, cho nên không nói.
Cũng như bây giờ có người người ta hỏi: “Vậy chứ thầy Mật Hạnh có duyên tu chứng hay không?”. Thầy nói: “Người nào cũng có duyên tu chứng hết!”. Nhưng mà họ có lái đúng đường không? Họ không lái đúng đường thì làm sao họ tu chứng!?
Cũng như Thầy nói bây giờ sư có duyên tu chứng. Nhưng mà hôm nay sư nghe tu chứng, sư không thèm tu thì ngày mai sư làm sao tu chứng?! Cái hành động của sư chứ đâu phải hành động của Thầy sao?
Cho nên đâu có nói được cái tương lai của người ta được, mà chỉ biết cái quá khứ của người ta. Nghĩa là bây giờ nhìn lại quá khứ, sư xảy ra gì thì ở trong Tam Minh người ta quán xét, người ta thấy rõ không sai chút nào. Nhưng mà nói về tương lai thì không thể nói. Người ta biết, biết rất đúng, rất rõ, nghĩa là không sai. Phải không? Nhưng mà nếu mà hôm nay sư làm hành động gì, ngày mai nó không đúng vậy.
Sư Phước Nhẫn: Nó thay đổi khác!
Trưởng lão: Nó thay đổi khác rồi! Cái Nhân Quả. Cho nên vì vậy Đức Phật nói: “Đạo Ta ra đời là vì con người không cố định, không có sự cố định, không có chủ thể”. Cho nên mới ra đời mới cứu khổ người ta được. Người ta lái, người ta đi nó không khổ. Còn người ta không biết lái thì người ta phải chịu khổ, cho nên nó cứu khổ được mình mà.
(43:49) Cho nên khi đọc bài Thập Nhị Nhân Duyên rồi Đức Phật nói: “Thế giới mười hai duyên này hợp lại thành thế giới khổ, mười hai duyên này rã thì thế giới hết khổ”. Rõ ràng rã ra là tại vì mình đi vào con đường thiện, nó rã. Mà đi vào con đường ác thì nó hợp lại thì nó phải khổ thôi. Nó có thiện ác ở trong Thập Nhị Nhân Duyên, nó rõ mà!
Cho nên dạy về Thập Nhị Nhân Duyên, người mà ngộ được lý Nhân Duyên rồi thì gọi là bậc Duyên Giác đó, thì người ta giải thoát liền. Người ta không còn, Thầy nói thật sự không cần còn ngồi thiền nữa làm gì, người ta hiểu được lý Duyên Giác rồi, người ta bẻ ngay liền, người ta sống đúng đời sống Phạm Hạnh, người ta lấy Giới Đức người ta sống rồi, thì người đó kể như là người ta an vui ở trong cái Phạm Hạnh của vị tu sĩ rồi, thì người ta giải thoát liền.
Người ta không có còn nghĩ đến vợ, đến con, đến dòng họ bà con nữa, cái đó là người ta thấy được Nhân Quả rồi, cái duyên hợp rồi, người ta không còn lo lắng nữa. Bởi vì ngộ được lý Thập Nhị Nhân Duyên là người ta giải thoát, người ta không còn bận tâm nữa.
HẾT BĂNG
VẤN ĐẠO 33
NHÂN QUẢ - SÁU NẺO LUÂN HỒI
- THIỀN ĐỊNH
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Sư Tuệ Tĩnh và sư Phước Nhẫn
Thời lượng: [45:18]
Thời gian: 2002
Tên cũ: 17B-Nhanqua-SauNeoLuanHoi-ThienDinh
Pháp âm: https://thuvienchonnhu.net/audios/van-dao-33-sau-neo-luan-hoi.mp3
(00:00) Sư Phước Nhẫn: Phần nhân quả Thầy nói hồi nãy đó, con có nhớ cái điều con thắc mắc xin Thầy giảng luôn cho con nghe. Về cái cõi Dục Giới, Thầy nói cõi Vô Sắc với cõi Sắc Giới là cõi không có, chỉ có một cõi Dục giới thôi. Còn thêm một phần nữa là cũng như thế giới siêu hình, cũng như thế giới Chư Thiên gì đó, thế giới siêu hình, thì Đức Phật nói là sáu đường, luân hồi theo sáu đường.
Thì trong đó thì mình thấy, con thấy có hai đường như Thầy giảng đó là chỉ có người với súc sinh thôi. Còn năm cái kia thì nó cũng quy vô với cái loài người rồi, thì Chư Thiên cũng là người, ác quỷ cũng là người, A tu la cũng là người, v.v. Chỉ còn người với súc sanh thôi. Thì, theo vậy thì Phật nói hai đường thôi chứ Phật nói làm chi tới sáu đường vậy?
Trưởng lão: Thật sự ra Đức Phật phân sáu đường đó, là chỉ cho cái con người của mình, nó có những trạng thái, thí dụ một người thiện tức là cõi Thiên rồi. Mà một con người mà chẳng thiện, chẳng ác và chẳng thiện, nó là con người rồi. Mà cái con người mà ác, nó là ác quỷ rồi. Đó mình phân ra nó mới thấy được cái cõi người, cõi Thiên, cõi Trời, cõi người, là ác quỷ, A tu la. Nó mới thấy được cái này.
Có người dữ tợn ác lắm, ác quỷ mà, cho nên đó là cái, cũng có cái con người mà sống trong, con người mà địa ngục, họ khổ vô cùng. Chứ đâu phải ở trong cái cõi người chúng ta nó đã sáu cõi nó đã đủ rồi. Trừ ra cái cõi chúng sanh thôi, chúng sanh là con vật rồi đó. Thì chúng ta…
Sư Phước Nhẫn: Có năm cõi hả Thầy?
Trưởng lão: Sáu chứ.
Sư Tuệ Tĩnh: Súc sanh nó có tính?
Trưởng lão: Súc sanh nó cũng tính luôn đó, tính luôn súc sanh. Còn cái kia là cõi người của chúng ta chia làm năm cái cõi nhỏ. Bởi vậy Đức Phật chia ra hay lắm.
Sư Phước Nhẫn: Vậy là mình luân hồi nhưng sao được Thầy? Bởi vì con thấy vậy con cũng hỏi nhiều người, thì họ nói cõi siêu hình có mới luân hồi được. Còn bây giờ thí dụ có hai cõi hà, thì người ta chết thì người ta tái sanh làm người, thì trở lại làm người, hoặc người làm súc vật. Người trở lên làm người thì rất khó như con rùa mù nổi trên mặt biển vậy đó. Làm súc vật nhiều hơn.
(02:11) Trưởng lão: Mà làm ngạ quỷ cũng nhiều dữ.
Sư Phước Nhẫn: Ngạ quỷ cũng là người.
Trưởng lão: Người nhưng mà người dữ cũng vô đó.
Sư Phước Nhẫn: Thì như vậy con thấy thí dụ như bây giờ, tại sao mà cái dân số người ta nó tăng, còn dân số súc vật nó cũng tăng. Rồi mình tái sanh đâu có dễ để giải thích được.
Trưởng lão: Bởi vì nếu mình cho rằng mỗi người có linh hồn tái sanh, thì cái số không tăng, phải không? Bởi vì một cái thức thì có một cái nghiệp, thì nó đi tái sanh thôi chứ làm sao bây giờ số người tăng, phải không? Số người tăng là do cái nhân quả một người tái sanh ra mười người, mười người tái sanh ra trăm người. Mà cái nhân quả có người, một người mà sanh ra triệu người, bởi vì thí dụ như bây giờ đó, mình sống mình giết hại chúng sanh, mình ăn loài chúng sanh.
Thí dụ như bây giờ mình ăn cá ăn thịt đi, một con người mình đã giết bao nhiêu cái loài cá thịt để nuôi cái thân này, phải không? Khi mình chết rồi, mình phải sanh cái loài chúng sanh này vô lượng con chứ đâu phải một con để mà trả cái nghiệp. Do một trả mười mà, cái luật nhân quả như vậy chứ đâu phải. Thành ra nó đâu có cái số lượng mà gọi là có một linh hồn sanh ra. Nếu một con vật nó sanh ra, thì đâu có một cái bầy kiến dữ tợn vậy, nó cũng chỉ sanh ra một con kiến thôi chứ nó sao có sanh ra dữ vậy được.
Sư Phước Nhẫn: Cái phần này trong kinh không có nói.
Trưởng lão: Đó cho nên, trong kinh không nói, nhưng mà chúng ta cũng phải luận, chúng ta cũng phải biết thấy rõ, bởi vì Đức Phật nói, từ nhân quả sanh ra, do cái nhân quả hành động nó nhiều hay ít thì do nhân quả đó, nếu mà cái nhân quả đó mà nó ít, tức là tâm tham đắm của mình ít, thì nó sanh ít, mà tâm tham đắm mình nó nhiều nó sanh nhiều.
Sư Phước Nhẫn: Vậy lúc tái sanh, một người chết tái sanh có thể là thành nhiều người, chứ không phải một người?
Trưởng lão: Thành nhiều người. Thí dụ như bây giờ mình, nếu một người mà chết thì cái nghiệp lực của nó, nó thành một người, thì nó chỉ trả có một thôi. Mà bây giờ cái nghiệp lực này, mình vay người ta một mình phải trả mười. Thì một người này chết, mà cái nghiệp lực này tạo ra thì nó phải là thành mười cái nghiệp lực của nó, để mà nó trả những cái đau khổ của nó chứ. Nhân quả mà.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra cái phần tranh luận hồi xưa, con cứ dính mắc cái này, con trả lời thế này. Con nói thí dụ như một cái hột mình trồng xuống dưới đất đi, nó lên một cái cây. Thí dụ cái hột ớt chẳng hạn, có một hột lên thành cái cây, cái cây mình được biết bao nhiêu trái ớt, một trái ớt biết bao nhiêu là hột ớt. Một nhân mà sanh nhiều quả. Cái này là mình thấy, còn cái thế giới mà tái sanh mà luân hồi đâu có ai thấy đâu, mình nói người ta không có nghe.
(04:36) Trưởng lão: Đúng đó, đúng là cái luật Nhân Quả nó như vậy. Như là trái ớt của chúng ta, một hột ớt nó lên cây ớt, cây ớt đó nó ra bao nhiêu trái, phải không? Bao nhiêu cái cay của nó mà, bao nhiêu cái ác của nó mà. Bây giờ những trái ớt lại lên bao nhiêu cây nữa. Thì rồi những cái quả của cái nhân quả này, nó tiếp diễn như trái ớt này, nó lên nó phát triển được, nó ra trái nữa. Nhưng trái ớt này nó phải trả cái quả yểu tử của nó nữa. Tại vì mình làm biết bao nhiêu sự yểu tử người ta, đoản mạng người ta, chứ đâu phải hoàn toàn nó hết đâu.
Cho nên lớp mình trả cái chết, lớp mình trả cái sống, lớp mình trả cái khổ, lớp mình trả đủ thứ. Chỉ có một cái nhân quả của mình, biết bao nhiêu người. Cho nên thí dụ như bây giờ người ta hạn chế sanh đẻ đi, người ta móc thai đi, cũng do cái nhân yểu tử nào mình đã làm biết bao nhiêu, đoạn mạng người ta, bây giờ mình sanh lên chỉ có chốc lát người ta móc ra người ta quăng rồi.
Thì do mình chứ ai? Một người mà bao nhiêu người chứ đâu phải nó. Giờ cha mẹ mình chết đi rồi cha mẹ mình sanh lên cũng cha mẹ mình, có hai người này thôi sao? Không phải đâu, bây giờ nó, hàng ngàn cha mẹ mình nữa, chứ đâu phải một người. Bị cái nghiệp lực mà chứ đâu phải là cái cố định của linh hồn. Cái nghiệp lực nó sanh ra dữ lắm.
Bởi vì ở trong cái, ở trong chỗ nào đây, nó nói do tham, sân, si mình sanh ra. Do tham, sân, si ba cái độc này mà nó sanh ra, bởi vì mình tham, nó thành ra cái lực, mình sân nó thành cái lực, mình si nó thành cái lực, cái lực này nó không phải sanh ra một người. Cũng như bây giờ, bởi vậy Đức Phật nói được thân người là khó, mà mình không biết chấm dứt, mình phải thọ làm muôn vàn thân người.
Sư Phước Nhẫn: Thành ra bây giờ mình chấm dứt, chỉ chấm dứt một thân thôi.
Trưởng lão: Mình chấm dứt một thân thì tất cả thân khác nó không có nữa, nó không sanh ra nữa.
Sư Phước Nhẫn: Mấy thân kia tự nhiên nó cũng mất luôn?
(06:18) Trưởng lão: Mất luôn hết, bởi vì cái quả nó hết rồi. Bởi vì thí dụ như bây giờ, Thầy tu là Thầy chấm dứt tất cả bao nhiêu vô lượng thân của Thầy chứ không phải một thân đâu. Nghĩa là bao nhiêu cái nghiệp của Thầy hồi nào đến giờ đã thành, đã bao nhiêu rải rác bây giờ cùng hết rồi. Bây giờ đời quá khứ Thầy đã tạo nghiệp nè, Thầy sanh ra nhiều người như Thầy chứ không phải một người. Nhưng bây giờ một thân Thầy mà Thầy thực hiện được, thì bao nhiêu đó nó cáo chung hết. Cái nhân quả mà, nó chuyển biến mình hết.
Sư Phước Nhẫn: Trong kinh không có nói thành ra mình cứ lộn không có biết gì hết, mình cứ mò mò, mò mò.
Trưởng lão: Bởi vì cái này là cái chỗ mà, bởi vì trong lúc đó không có người hỏi ông Phật, chứ có người hỏi ông Phật thì cái bài kinh này có. Tại vì mấy ông không chịu hỏi, cho nên Phật mới nói ta, cái mà ta chứng như rừng lá cây mà cái ta nói ra cho chúng Tỳ kheo hiểu thì như nắm lá cây. Cái số kinh mà Đức Phật thuyết giảng như nắm lá cây, còn cái chỗ để mà hỏi, chỗ mà Đức Phật đã thấy được, nó như cái rừng lá cây, nó nhiều quá. Mà chúng sanh thì làm sao có cái trí mà hỏi được.
(07:41) Trường lão: Đừng nhập định là tại vì nó tịnh chỉ hết rồi, nó tịnh chỉ hơi thở rồi, thành ra coi như thân của mình tự động nó, coi như cái thây ma, nó cứng. Tự động nó cứng rồi, bởi vì nó không thở nữa, nó cứng, nhưng mà cái hơi ấm nó còn. Mình nhập định cái hơi ấm nó còn.
Sư Tuệ Tĩnh: Nhưng mà tay chân mình nó có cứng không Thầy?
Trưởng lão: Mình ngồi đó, mình ngồi đó cứng ngắc. Nó không có hoạt động, nó không có rung động gì được nữa hết rồi.
Sư Tuệ Tĩnh: Tay chân cũng cứng luôn?
Trưởng lão: Cái đó cũng cứng luôn mà nó, Thầy nói thật sự đang thở lúc bấy giờ mình nhập định là người ta lại nắm cái tay kéo không được, nó cũng như cái cọng cây, bởi vì nó không có hoạt động nữa. Còn mình đang ấy như vầy là hoạt động, nhưng mà nói chung là người ta kéo ra được, nhưng mà có thì kệ nó kéo ra cứng như cái thây ma mà mình nằm, người chết họ nằm co như vậy đó, bắt đầu họ phải tẩm liệm, họ phải kéo ra. Là vậy đó. Cho nên khi mà mới chết, nó cái thân nó còn mềm, thì họ lôi nó ra, sửa lại cho ngay ngắn.
Sư Tuệ Tĩnh: Nhưng mà rồi đến như khi mà mình, chẳng hạn như Thầy nói là Thầy nhập định hai tháng, lúc mà một tuần lễ, được một tuần lễ cái Thầy ra, Thầy ra đó là từ từ nó nhúc nhích được hay sao?
Trưởng lão: Mình hễ mình, hễ mà cái hơi thở mình thở được cái mình nhúc nhích được à. Còn mình không thở thì nó không nhúc nhích. Cái mình phục hồi hơi thở, bắt đầu hơi thở thở ra, thở vô như vậy. Thì mình thử, khi mà thở ra thở vô, mình thử coi cái thân có chết không, sợ nó chết. Thì mình thấy cái tay mình, để cái bàn tay để như vậy, cái mình làm lúc lắc vậy, thấy nó lúc lắc được. À thôi bây giờ nó còn sống chứ chưa chết đâu.
Hể mình thấy cái tay mình nó rung rung như vậy được, thì mình lắc lắc theo cái ý muốn trong đầu mình. Mình muốn lắc cái ngón tay như vậy thì nó lắc được. Mình thấy nó còn điều khiển được, chứ chưa phải liệt.
Sư Tuệ Tĩnh: Thì Thầy nhập lại?
Trưởng lão: Rồi bắt đầu mới hướng tâm, tịnh chỉ hơi thở trở lại nhập, chứ còn không có đứng dậy đi, nhưng mà mình lắc vầy thì mình thấy mình có hoạt động được. Rồi sau đừng có vô nữa.
Sư Phước Nhẫn: Trạng thái đó là tĩnh lặng nhưng mà nó biết phải không Thầy?
Trưởng lão: À nói chung là nó rất tĩnh, nó rất tĩnh hoàn toàn luôn. Một cái tiếng động gì, một cái tiếng động gì mà rất lớn, nó không nghe đâu. Coi như là nó hoàn toàn nó tĩnh, ở trong cái tâm của mình, nó an thiệt an, mà nó tĩnh thiệt tĩnh mà nó không có cái đối tượng để nó biết. Cho nên coi như nó không có, nhưng mà nó có.
Sư Tuệ Tĩnh: Lúc đó mình không có dính với cái khác hả Thầy?
Trưởng lão: Nó không dính với cái khác
Sư Tuệ Tĩnh: Bởi vì mình thấy, mình nghe, mình biết là mình dính với cái khác.
Trưởng lão: Mà cái này nó không nghe, tiếng động bây giờ lớn bao lớn nó cũng không nghe. Nó làm như cái thân của mình nó mất tiêu rồi.
Sư Tuệ Tĩnh: Rồi cái tâm của mình bây giờ nó đi đâu hả Thầy?
Trưởng lão: Mình không, nó có cái cảm giác nó nó… Coi như nó im phăng phắc à.
Sư Tuệ Tĩnh: Mình không biết đi đâu hết?
Trưởng lão: Nó không biết đi đâu, nó ở đâu, khắp cùng hết, nó không có không gian và thời gian nữa, hoàn toàn.
Sư Phước Nhẫn: Nó đen hay nó trắng Thầy?
(10:14) Trưởng lão: Hoàn toàn mình không thấy đen, thấy trắng, không, hồi đó không có màu sắc, không đen, không trắng, không gì hết, hoàn toàn nó im phăng phắc. Không có nói được cái trạng thái, nó kì lắm, nó ngộ lắm. Nghĩa là hơi thở mình nó tịnh chỉ nó ngưng rồi, thì bắt đầu, thay vì mình còn thấy màu, nó còn trắng hoặc là nó này kia. Không có, nó không có đối tượng.
Chính thậm chí như cái thanh tịnh của nó nó cũng không có nữa. Mình không có thấy nó thanh tịnh nữa, nó mất tiêu hết hoàn toàn. Nó không đen, mà nó cũng không trắng, nó không có gì hết, mà nó im phăng phắc.
Sư Phước Nhẫn: Mình biết không Thầy?
Trưởng lão: Biết. Bởi vì mình không biết làm sao là khi mình hướng cái mình thấy mình có mình liền.
Sư Phước Nhẫn: Mình còn ý thức?
Trưởng lão: Ờ, mình hướng cái có à, mà mình không hướng thì không thấy gì hết. Hễ khi mà không hướng tâm thì không có gì hết, không thấy gì hết. Mà hễ hướng là có nó ra.
Sư Phước Nhẫn: Trong cái trạng thái đó Thầy phải hướng về Tam Minh?
Trưởng lão: Ờ phải hướng về Tam Minh đó.
Sư Phước Nhẫn: Thì lúc đó mình biết hết?
Trưởng lão: Mình phải hướng về Tam Minh thì mình biết, mà không hướng thì mất tiêu hết, không thấy gì hết. Cho nên mình mới biết mình sống, mình chết mình mới ý thức được là do nhờ cái đó. Bởi vậy Thầy nói, nếu không có pháp hướng thì nhập vào chỗ này kể như người ta hết biết.
Người ta mất tiêu cũng như cái người chết rồi. Bởi vì người chết, thì người ta không thấy đen, không thấy trắng gì được hết. Thì cái người nhập vô này nó cũng vậy, cũng không thấy đen, thấy trắng, thấy gì hết. Nhưng mà hoàn toàn là tại vì người ta còn pháp hướng, người ta hướng ra hơi thở thì nó thở, mà người ta hướng để biết thì người ta biết, hướng để nghe thì nó nghe, mà không hướng thì nó không nghe, không biết gì hết.
Mình hướng, bởi vì mình hướng tức là mình trở về cái thân của mình, mà mình không hướng thì mình không trở về thân. Mà không trở về trong thân mình, thì nghe thấy biết không còn. Cũng như mình hoại diệt cái thân của mình rồi thì nghe cái ý không có nữa, nhưng mà mình thấy mình còn. Còn tại vì mình hướng mới thấy có, chứ còn nếu nó mất thì hướng làm sao nó có nữa được.
Đó như vậy là rõ ràng là ở chỗ này là cái chỗ Thầy vào mà. Mà cái bắt đầu là cái chỗ mà còn thấy mình biết thanh thản, an lạc, vô sự, là mới bắt đầu nó chừng, nó tìm, nó sắp sửa nó bước vào cái trạng thái này thì nó phải ở trong cái trạng thái đó.
Cho nên cái tâm mà nó định ở vào cái thân của mình, nó biết hơi thở ra vô, là cái chỗ đó là cái trạng thái thanh thản, vô sự rồi, là nó bắt đầu có Định rồi đó. Chứ chưa có đâu, nó tiền Định đó. Cho nên Sơ Thiền nó chưa có Định mà. Nhị Thiền nó mới là sanh hỷ lạc, chứ còn Sơ Thiền “do ly dục sanh hỷ lạc” chứ không phải Định.
(12:30) Sư Tuệ Tĩnh: Sơ Thiền cũng chưa Định hả Thầy?
Trưởng lão: Chưa. Nó mới có quay vô thôi, mà gọi là tâm định chứ chưa phải là thân định.
Còn tới cái Nhị Thiền, nó bắt đầu nó mới có Định. Nhưng mà nói chung là Sơ Thiền nó tiền Định, nó trước Định. Cho nên nói nó “do ly dục sanh hỷ lạc”, còn cái kia nó “định sanh hỷ lạc”. Cái hỷ lạc của cái Sơ Thiền nó do mình ly dục, chứ nó không phải do Định, vì vậy cho nên mới có Thiền chứ chưa có Định, nó thuộc về tâm, còn cái Định nó mới thuộc về thân. Mình phải phân biệt được.
Còn người ta hiểu lầm là người ta cứ nghĩ là cái định của tâm, nhưng sự thật ra cái tâm định là cái tâm ly dục. Cho nên mình hiện giờ mình tu để ly dục đó, là mình tu để mà luyện cho cái tâm định thôi. Tức là tâm hết phóng dật là tâm định. Cho nên nó định, nó định ở đâu? Thì Đức Phật cũng xác định cho chúng ta thấy và mình tu hành cũng thấy rõ ràng, nó định lại hơi thở nó, cho nên nói “tâm định trên thân”.
Còn cái thân của mình thì chưa định lại như cái tâm đâu, nó còn thở, nó còn này kia, chưa định. Khi nào mà nó định lại cái tâm của nó, thì nó hết thở. Thì lúc bấy giờ mới gọi là ”thân định trên tâm”.
Cho nên nói “tâm định trên thân”, đó là Sơ Thiền. Mà nói “thân định trên tâm”, nó là Tứ Thiền. Đó, phải hiểu.
Sư Phước Nhẫn: Ở Nhị Thiền nếu mình diệt Tầm Tứ, thì làm sao mình xả Thầy? Diệt Tầm Tứ làm sao xả?
Trưởng lão: Mình diệt rồi mình đâu có xả, bởi vì lúc bấy giờ chỉ còn có mình, à bây giờ mình muốn vô cái Nhị Thiền. Bởi vì trong kinh sách nó không có dạy, mà bằng kinh nghiệm, thì nó qua rồi mình mới biết. Nếu mình bảo diệt Tầm Tứ, nó diệt Tầm Tứ rồi mà mình không có định cho nó giờ khắc thì nó nằm luôn ở trong đó mình cũng chết luôn.
Nó không có đơn giản đâu, chớ tới cái Nhị Thiền rồi nó không có tác ý được nữa. Bởi vì nó diệt rồi mà làm sao nó tác ý. Mình đã bảo nó diệt rồi, tức là nó không hoạt động nữa rồi, nó ngưng mà. Chứ đâu phải như mình còn ngồi đây mà không có vọng tưởng, rồi mình còn tác ý ra vô, nó thuộc về Tầm Tứ rồi, thì đó là Sơ Thiền chứ làm sao mà Nhị Thiền được.
Còn cái Nhị Thiền mới diệt, diệt Tầm Tứ rồi nó không có tác ý ra, nó không có nghĩ ngợi gì nữa hết. Nó ngồi đó nó thở, nó còn thở thôi, chứ mà nó cái tâm của, cái khẩu hành tức là cái tác ý của mình nó không còn, cái ý thức nó không còn nữa, nó không có hoạt động được. Nó hết hoạt động rồi, nó hoàn toàn nó bị diệt rồi.
Thì do đó mình muốn nhập cái đó, bởi vì Thầy nói, chỉ có pháp hướng thôi. Bây giờ mình muốn nhập nó hai tiếng đồng hồ ở trong cái Nhị Thiền, mình ra lệnh: "Bây giờ cái tâm phải diệt Tầm Tứ hai tiếng đồng hồ mới xuất định”, tự nó nó xuất ra. Chứ nó không xuất ra, nó ngồi hoài nó chết luôn, người ta chôn luôn à. Mình không biết cái chỗ đó là nguy hiểm lắm. Mình phải ra lệnh nó hai tiếng hay ba tiếng, hay một ngày, hai ngày. Mình ra lệnh nó, rồi nó ngồi đó một ngày, hai ngày nó ra.
Tới đó là giai đoạn Định rồi, mặc dù là cái Định mà cái thân nó còn thở, nhưng mà nó vẫn ngồi, đó là cái giai đoạn mà nó sẽ nhập Định Tưởng đó. Nó nguy hiểm cái diệt Tầm Tứ này nó nhập Định Tưởng, mà các sư Tây Tạng rồi mấy vị mà ở trong hang, trong hốc mà tu là nó vô đó, nó vô cái Định đó.
(15:27) Sư Tuệ Tĩnh: Vào Định Tưởng nó cũng chưa giải thoát hả Thầy?
Trưởng lão: Nó chưa đâu, tới cái Nhị Thiền nó chưa giải thoát, chưa làm chủ được sự sống chết, không phải tu tới đây là được. Tức là mình ngồi mình không ăn uống, thời gian sau cái thân của mình nó khô. Khô rồi mình bỏ, cho nên mình vẫn chưa làm chủ. Bởi vì làm chủ tới cái hơi thở, mình tịnh chỉ được nó mình mới làm chủ. Mình muốn nó thở nó thở, mình muốn nó không thở là nó không thở.
Còn cái này thì không phải, không được đâu. Mình ngồi đó chừng nào nó hết thở thì thôi nó chết. Mà mình diệt Tầm Tứ thì nó không hoạt động được thôi, chứ nó cứ thở, nó thở nhẹ nhàng, nhẹ nhàng, nhẹ nhàng nó thoi thóp vậy. Nó thở hoài đến khi nó mòn mỏi rồi nó chết thì bỏ luôn cái nhục thân. Thì bây giờ các sư mà Đông Độ đó, họ nhập thiền, họ bỏ lại nhục thân là các sư đó, là kiểu đó.
Bởi vì Thầy biết được, nó không được gì hết, nó đâu có được gì đâu. Bởi vì nó phải thực hiện cho đến Lậu Tận Minh, rồi nó mới có diệt lậu hoặc nó mới hết tái sanh. Còn cái này nó trải qua thời gian nó ở trong cảnh giới này, thời gian sau nó hoại diệt, nó cũng phải đi ra tái sanh lại.
Thời gian nó ở trong cái Định này, nó tự động nó hết cái sức Định của nó rồi, bắt đầu nó ra nó đi tái sanh. Cái thân mất rồi thì nó phải đi tái sanh. Cái nghiệp của nó còn, nó đâu có diệt hết cái lậu hoặc. Còn mình diệt hết cái lậu hoặc là mình vào Lậu Tận Minh rồi, thì cái lậu hết, nó hết, nó diệt sạch rồi thì cái nguyên nhân mà để đi tái sanh nó hết rồi. Nó không còn tái sanh nữa.
Còn cái này nó còn, nó còn mà nó ở trong cảnh giới Thiên này, cảnh giới trời ở chỗ đó. Nó hưởng cái an lạc của nó trong cái khoảng thời gian nào, nó hết cái phước này rồi, tức là hết cái chỗ mà tu tập của nó rồi, thì nó ra. Nó ra, cái thân nó mất thì nó phải đi tìm cái thân khác. Tức là cái nghiệp lực của nó, nó phải đi tái sanh. Cho nên Đức Phật nói ở trong cõi trời còn phải đi tái sanh mà, thì nó hết phước nó rồi thì nó tái sanh. Thì đó, nó xuất ra khỏi cái cảnh giới đó thì nó phải đi.
Sư Tuệ Tĩnh: Cái đó là mấy người đó là, cũng như mọi người nói là đi lên cõi Trời.
Trưởng lão: Ờ, như đi vào cõi Trời rồi đó.
Sư Phước Nhẫn: Cảnh giới Sắc Giới và Vô Sắc giới đó là tưởng hả Thầy?
Trưởng lão: Tưởng.
Sư Phước Nhẫn: Con thấy trong kinh Đức Phật nói về nhiều cái đó quá, mà không biết người ta đặt ra các tông phái…
Trưởng lão: Thì đó, nói chung là cái cảnh giới đó Đức Phật nói, hầu hết là nói một cách vậy để cho ngoại đạo nó đừng có đả kích mình, đừng có chống mình, để mà vừa cho nó. Nhưng mà sự thật ra nói như vậy, nói thật sự là cái trạng thái của mọi thứ.
Cho nên trong cái bài kinh, bài kinh gì, Đức Phật nói, bài kinh Pháp Môn Căn Bản hay bài kinh gì, Đức Phật có nói cái chỗ mà tưởng tri với liễu tri, mà ba mươi ba cõi Trời nó cũng thuộc về cảnh giới mà tưởng tri thôi, cảnh giới tưởng không đó .
Thành ra cái Sơ Thiền Thiên, cái trạng thái Sơ Thiền của mình nó cũng là cái trạng thái mà mình nói, cái tâm mà thanh thản, an lạc, vô sự là cảnh giới đó cũng là cõi giới Thiên đó. Nếu mình tu tới đây mình không có diệt lậu hoặc thì mình hưởng ở trong cái thời gian ở trong cái trạng thái này. Thời gian nó hết cái phước này rồi thì bắt đầu nó tiếp tục nó tái sanh. Cái đó gọi là Sơ Thiền Thiên.
Thì Nhị Thiền Thiên, bởi vì mình nhập vào cái diệt Tầm Tứ đó, thì nó mình ở trong cảnh giới Thiên của Nhị Thiền thiên này, cái trạng thái đó. Cho nên nó đâu có cõi giới nào, cái trạng thái tâm của mình mà. Còn cái nghiệp lực thì nó còn, mình chưa có, lậu hoặc mình chưa hết mà. Cho nên nó nằm đó, khi mà nó hết, thọ hưởng hết cái phước báu của cái Nhị Thiền Thiên này rồi, thì nó sẽ xuất định nó ra. Nó ra mà cái thân nó chết rồi thì nó phải tiếp tục nó đi tái sanh, cái nghiệp lực nó tái sanh.
(18:59) Đó, mà bây giờ Tam Thiền Thiên, rồi Tứ Thiền Thiên, nó có cái cảnh giới của nó mà. Tứ Thiền Thiên nó cũng là cảnh giới Thiên của nó chứ đâu phải là cái cảnh giới mà mình hết tái sanh đâu.
Trừ ra mình thực hiện Tam Minh, mình ở trong cái Định của Tứ Thiền, cái trạng thái của Tứ Thiền mới thực hiện được Tam Minh, tức là thân định trên tâm, tâm định trên thân rồi, thì nó thực hiện Tam Minh.
Mà thực hiện Tam Minh, thì cái Minh mà cuối cùng là Lậu Tận Minh đó, thì nó mới diệt sạch cái lậu hoặc của mình, thì tức là mình mới chấm dứt được tái sanh luân hồi. Tới đó nó mới hết.
Chứ còn bây giờ mình có Túc Mạng Minh này, Thiên Nhãn Minh mà Lậu Tận Minh mình chưa có thực hiện, cái tâm mình nó chưa hướng dẫn tới đó. Bởi hướng dẫn đâu có nghĩa là mình nhắc một cái nó vô liền đâu. Phải không, mình nhắc, cũng như bây giờ mình nhắc cái “tâm như cục đất” đó, đâu có được cục đất liền đâu. Phải có thời gian, chớ đâu phải dễ đâu.
Mình nhắc cho đến khi mà mình hướng nó đến mà Lậu Tận Minh, mà nó đến Lậu Tận Minh đó, cái tâm mà nó đến được Lậu Tận Minh thì cái lậu hoặc nó mới sạch. Thì cái lực của nó nó phải tăng đến cái lực đến mức độ nó quét sạch cái nghiệp lực đó, nó mới sạch lậu hoặc của nó. Nhờ cái pháp hướng mà nó quét, cho nên nó hướng tâm đến Tam Minh. Mình tưởng đâu nói cái mình dẫn cái nó đi liền, đâu có phải dễ đâu.
Thầy nói thật sự ra bây giờ muốn hướng tâm đến Túc Mạng Minh, Thầy nhập định đó rồi, đâu phải nhắc một cái nó vô liền đâu. Rồi nhắc cả chục lần nó mới đi.
Sư Tuệ Tĩnh: Bây giờ Thầy thỉnh thoảng Thầy cũng có nhập định đó chứ Thầy?
Trưởng lão: Có chứ. Có quan sát chứ. Quan sát coi cái việc làm của mình có sao chứ. Không lẽ không quan sát hả. Bởi lẽ đương nhiên là bây giờ muốn làm một cái điều gì, thì mình quan sát coi cái duyên nó làm được chưa, cái thời điểm này nó tốt chưa, để cho mình quan sát mình làm, cho nó đừng có sai sót.
Sư Tuệ Tĩnh: Giống như mà Thầy đạt được rồi, nhưng mà bây giờ, thỉnh thoảng Thầy cũng phải còn nhập đi, nhập lại?
Trưởng lão: Sao không phải. Bây giờ mình đã có cái lực đủ rồi, bây giờ mình chỉ nhắc một cái là nó vô liền. Còn hồi mà mình mới nhập Tứ Thiền đó, cái mình nhắc, dẫn nó đi tới được cái Túc Mạng Minh nó cũng là cả tiếng đồng hồ, chứ không phải nhắc một cái là nó vô liền đâu.
Cho nên Đức Phật nói thì mình nghe trong bài kinh đó, nó hướng dẫn tâm đến Tam Minh, mình tưởng là Ông dẫn cái nó vô liền, không ngờ là tới chừng mình, mình dẫn hơn cả giờ đồng hồ, nhiều khi nó chưa vô nữa. Nó chưa có hiện ra cái Túc Mạng Minh của mình như thế nào. Mình muốn là bây giờ, ý của mình mình muốn là mình biết cái đời, một cái đời trước cách cái đời nay, mình tên họ gì, ở làng nào, xã nào, sanh ở đâu, cha mẹ ở đâu ở đâu.
Ý mình muốn như vậy đó, trong ý của mình khởi mình muốn như vậy, ra lệnh cái tâm phải trở về cái đời quá khứ của mình cách đây một đời, mình là ai, tên gì họ gì.
Rồi bắt đầu ngồi im lặng, định trong cái Định Tứ Thiền đó, kéo dài cái thời gian năm, mười phút, cái ra lệnh cho nó một lần nữa, nó cũng chưa thấy nữa, nó chưa biết nữa. Ra lệnh nó lần nữa, ra lệnh nó hoài, chừng nào mà nó thấy biết đời đó rồi, thì bắt đầu đó mình mới hướng đến đời kế nữa, đời kế nữa, đời kế nữa, cho đến vô lượng đời.
Ờ mình thấy biết hết rồi, bắt đầu đây là mình đã thông suốt được cái Túc Mạng Minh. Rồi bắt đầu mới xuyên qua cái Thiên Nhãn Minh. Thiên Nhãn Minh được rồi mới thì bắt đầu mới Lậu Tận Minh. Đi tuần tự, phải dùng cái pháp hướng, cứ hướng dẫn tâm đi hoài.
Cho nên bây giờ đó các sư thấy cái pháp hướng nó vi diệu như vậy, nghe Phật nói hướng tâm đến Tam Minh. Thật ra là cái pháp hướng chứ không phải là vô đó rồi cứ hướng đi được đâu. Nó là cái pháp. Chứ không, trong cái câu kinh đó mình tưởng là cái lời nói suông, nhưng mà không ngờ đó là cái pháp.
(22:23) Sư Tuệ Tĩnh: Thì mình phải tập hả Thầy?
Trưởng lão: Ờ. Cho nên nhà học giả họ đọc tới cái chỗ này họ không biết đâu. Cho nên nó phải tập. Tập mà tập phải là ám thị cái tâm mình dẫn đi, nó mới chịu đi. Bởi vì Thầy nói thật sự ra, khi mà xét ra, thì lúc bấy giờ mình quan sát lại thân, cũng như hồi nãy sư nói, mình quán toàn thân của mình phải không. Cái trạng thái đó để sau đó rồi quan sát lại cái thân mình, thấy cái bộ óc của mình.
Đó, nó trong cái bộ óc của mình, trong cái phần bộ óc của mình, nó có một cái nhóm tế bào nó không có làm việc. Mà mình hướng, mình hướng riết, cái mình quan sát lại cái thân mình, thấy nó rung động ở trỏng, nó làm việc. Nó làm việc thì nó đưa mình tới Túc Mạng Minh. Rồi mình muốn nữa, thì bắt đầu cái nhóm khác nó làm việc, nó làm việc nó đưa mình tới Thiên Nhãn Minh.
Bởi khi mà, khi mà làm việc, bởi vì bây giờ mình đã xong rồi đó, mình mới biết được cái này. Mình không biết tại sao mình lại biết cái này. Mình mới quan sát lại coi cái đầu của mình nó làm sao. Bây giờ mình hướng rồi cái mình quan sát lại cái đầu, cái thân của mình, mình quan sát mình hướng tâm, mình nhắc, hãy xem xét lại cái toàn thân chỗ nào hoạt động thế này.
Mình thấy trong cái đầu của mình, cái não bộ của mình nó rung động cái phần đó, nó hoạt động cái mình biết. Còn không, nó không hoạt động. Cũng như bây giờ, các sư nó không có hoạt động đâu, nó nằm im lìm, cái nhóm này nó không có làm việc.
Sư Tuệ Tĩnh: Dạ, mình chưa tập nó..
Trưởng lão: Mình phải tập.
Sư Phước Nhẫn: Hồi nãy có một câu nói, tất cả là nhờ cái thân này không, chứ có đâu xa.
Trưởng lão: Đó, đúng. Đó nó ở trong cái bộ máy của mình, cái thân,
Sư Phước Nhẫn: Vậy nó đâu xa mà tìm hoài …
Trưởng lão: Chớ nó không có ở đâu hết. Nghĩa là nói chung là, trong cái đầu của mình nó làm việc có một số ít thôi, còn một số nó chưa làm việc. Mà mình tu tập là mình đánh thức cho nó làm việc. Mình tu tập là mình đánh thức cho nó ngưng, nó ngưng rồi nó phát động cái khác cho nó làm việc. Cũng như mình hướng tâm đến Tam Minh là mình kêu cái số đó nó dậy, nó làm việc.
Còn mình, bây giờ đó mình hướng tâm “tâm phải tịnh chỉ hơi thở” hoặc là “tâm phải ly dục ly ác pháp”, là mình biểu cái ý thức của mình nó tịnh chỉ, nó ngưng ham muốn đi, là nó ngưng là mình hết ham muốn, mà nó còn thì nó không, nó cứ ham muốn hoài. Hễ nó còn là còn ác pháp, mà nó ngưng là hết ác pháp. Thì cái phần đó nó, tại vì nó trong cái đầu của mình sanh nó ra vậy rồi. Bây giờ mình chỉ có sửa nó lại, theo cái lệnh truyền của mình thôi.
(24:40) Mà mình không có lệnh, thì tức là mình không có pháp mình truyền lệnh nó được, thì nó không, mình không làm được nó. Cho nên xét cuối cùng là Thầy thấy cái pháp Như Lý Tác Ý nó hay tuyệt thiệt, sao mà ông Phật ông tìm được, Thầy thấy.
Mà thật sự ra nó có, từ xưa nó có, chứ trước ông Phật nó có cái pháp này. Là vì người ta luyện bùa, luyện chú người ta đều là dùng cái ám thị này hết, chứ đâu phải riêng ông Phật. Nhưng mà ông Phật lại khôn, ông biết sử dụng nó để trở về cái sự giải thoát và ly dục ly ác pháp, còn người ta không ly dục ly ác pháp, người ta luyện nó để có thần thông, thì mấy cái tâm dục mới chết họ nè.
Thấy không, mà mình thấy rõ là ông Phật Ông dùng cái này thì Ông diệt, còn cái này, mình dùng thần thông này mình luyện bùa, luyện chú, mình cũng đọc một câu thần chú cũng nhiều lần nó mới linh chứ. Nó cũng ám thị nó chứ, mà nó linh rồi mà cái tâm dục mình còn, thì trời ơi nó sanh ra bao nhiêu chuyện ác. Cho nên nó nguy hiểm.
Còn ông Phật ông dùng nó để mà diệt cái tâm ác của mình đi, ly cái lòng tham muốn ác của mình ra hết đi, thì nó thanh thịnh không còn ác nữa. Mà không ác nữa thì nó có thần thông, thiệt là nó tuyệt vời. Nó không hại ai hết, mà nó lại có lợi cho nó. Nó lợi nó là nó cứu nó, nó không còn khổ, còn để cái tâm mà ham muốn này, có thần thông là nó ham muốn thì nó làm khổ mình. Đó, thấy vậy chứ nó nguy hiểm lắm.
Hay chứ, Ông Phật cũng khôn, Ông biết sử dụng nó, mà trái lại Ông sử dụng cho Ông, để Ông diệt những cái này là Ông giải thoát. Còn cái kia nó huân thêm cái thần thông mà nó chồng thêm những cái ham muốn, trời ơi cái thần thông này nó biến ra. Cho nên thí dụ như các sư mà bên Tây Tạng mà họ sử dụng qua đó là tạo danh lợi dữ lắm à, chứ không có ít.
Còn Ông Phật hồi trước Ông không làm cái chuyện đó. Không thấy ông đệ tử nào của Phật để lại nhục thân, mà mấy ông Tổ mình vô được cái định rồi cái bắt đầu để lại nhục thân. Để cho đời sau người ta lạy, với đời sau người ta bán cái nhục thân người ta ăn nữa. Không thật sự ra Thầy nói, đúng là bây giờ có cái nhục thân là họ đi đến họ cúng dữ lắm. Kinh lắm, Thầy nói kiếm ăn dễ lắm chứ đâu.
(26:42) Sư Phước Nhẫn: Mấy người mà được cái định mà Phi Phi Tưởng Xứ đó, sẽ được hưởng cái phước bao nhiêu A tăng kỳ, vậy thì sau khi họ mạng chung họ đi tái sanh liền làm sao họ hưởng được cái cảnh tuệ đó?
Trưởng lão: Không. Bây giờ họ nhập vô cái Định đó, coi như là cái phước của họ, bao nhiêu là ở trong cái đó, cái trạng thái đó là cái phước của họ. Chứ không phải là cái phước hữu lậu, như là mình mang cái thân này là giàu có, danh lợi, không có. Nhưng mà khi mà ở trong trạng thái này, họ hết cái phước của cái cõi Trời này rồi, cái trạng thái cõi Trời đó hết, họ xuất ra, nhưng mà cái thân họ không còn thì họ đi tái sanh. Mà tái sanh nhờ họ ở trong cảnh thiện này, bởi vì họ không có làm ác, họ sanh ra trong nhà giàu có.
Sư Phước Nhẫn: Con muốn hỏi cái thời gian đó, thí dụ mình hưởng được bao nhiêu A tăng kỳ, mà cái xác này có một trăm năm mà cái phước đó bao nhiêu A tăng kỳ?
Trưởng lão: Cái đó không có đâu. Khi nó ở trong cái cảnh giới này là nó hưởng cái cảnh này, một cái thời gian rất dài bao nhiêu, nó mới hết cái trạng thái này. Khi mà nó hết cái trạng thái này nó ra tiếp tục nó đi kiếm. Bởi vì khi ở trong cái trạng thái này nó không có làm ác, cho nên nó ra nó sanh, trong cái thời gian đó, nó có nhục thân để hưởng cái phước báu đó thôi chứ nó không có nhiều đâu.
Sư Phước Nhẫn: Vậy cái số mà A tăng kỳ cũng là tưởng không?
Trưởng lão: Tưởng không hà.
Sư Phước Nhẫn: Con thấy sao kỳ quá, kéo dài tới bao nhiêu A tăng kỳ.
Trưởng lão: Rồi con người bây giờ mình nói, cái tăng kỳ kể như con người của mình đâu có. Bởi vì có mấy chục triệu năm, mấy chục triệu năm cái trái đất này từ bắt đầu mà có tới bây giờ, nếu mà tính A tăng kỳ thì cái trái đất này, nó chưa có nữa chứ đừng nói. Thành ra nó phi lý, nó không đúng cái lý của nó.
Thật sự ra là người ta nói quá xa. Khi mà có trái đất này, người ta tính ra cái khi mà trái đất này nó có, là nó bao nhiêu tỷ năm nó có cái trái đất này. Rồi khi mà nó có cái môi trường đó để mà phát sanh ra loài vật, cây cỏ, đất đá, người ta tính ra cho đến bây giờ khi có con người, con người mà có mặt ở trên hành tinh này là cái thời gian bao lâu, thí dụ như vậy. Thì trong cái sự nghiên cứu của họ, thì nói về cái A tăng kỳ này nó, cái thời gian nó quá dài, nó vô tận. Muốn nói cái đó là vô tận.
Sư Tuệ Tĩnh: Cũng như trong kinh Phật nói, lấy cái thí dụ, chẳng hạn như lấy cát ở sông Hằng đó Thầy, bao nhiêu sông Hằng gom lại lấy, cát nó quá trời nhiều.
Trưởng lão: Cát sông Hằng là vô lượng, tức là nói cái số mà vô cùng vô tận, bất khả tư nghì.
Sư Tuệ Tĩnh: Cái đó chắc có lẽ họ cũng thêm bớt gì.
Trưởng lão: Cái đó là lẽ đương nhiên rồi. Theo Thầy nghĩ người ta thêm bớt nhiều, nhứt là các cái nhà mà Bà La Môn giáo hay hoặc là Hồi giáo, những cái đó là những người mà Giáo chủ họ tưởng ra không. Họ cứ sống trong tưởng họ tưởng rồi họ nói. Chứ theo đạo Phật, với một số bài kinh chúng ta thấy nó cụ thể, thì chúng ta lấy những cái này chúng ta thấy.
(29:26) Trưởng lão: Cho nên thậm chí những cái bài kinh Thập Nhị Nhân Duyên, thì nó có mấy cái duyên, ở trong đó có mấy cái duyên mà người ta không hiểu nghĩa.
Cái duyên Vô Minh là ít có người hiểu. Cái duyên mà Danh Sắc, Danh với Sắc, thân và tâm thì người ta không có hiểu nó là cái Danh là cái gì mà cái Sắc là cái gì. Họ thường thường họ giải theo cái danh từ của nó. Thì cái Danh Sắc, thì cái Sắc thì ai cũng biết rồi, nhưng mà Danh thì nhiều người nói nó là cái tâm hoặc cái này kia. Sự thật thì cái Danh của nó là cái tưởng của chúng ta.
Bởi vì ở trong cái tưởng nó có tưởng thức. Mà cái Sắc, Danh Sắc, cái Sắc là cái thân của chúng ta thì nó có sáu cái thức, thì nó hai cái thức nằm ở trong này rồi. Mà còn cái Vô Minh sanh Hành, Hành sanh Thức, còn một cái thức đó nữa. Ở trong mười hai nhân duyên nó có tới ba cái thức lận mà, phải không?
Cái thức mà từ Vô Minh sanh Hành, Hành sanh Thức, cái thức mà nó có đầu tiên đó, kế đó thì nó mới có Danh Sắc, thì Danh Sắc nó có hai cái Thức trong cái Danh Sắc này, người ta không luận ra được cái chỗ này. Rồi đến cái Lục Nhập. Cái Vô Minh họ không hiểu phải không, cái Danh Sắc này họ không có giải thích được, rồi tới cái Lục Nhập.
Lục nhập thì có người nói sáu căn sáu trần. Bởi vì sáu căn, thì nó đã ở trong cái Sắc đã có sáu căn nó có rồi. Sắc là cái thân của mình thì nó có mắt, tai, mũi, lưỡ,i thân, ý là sáu căn rồi chứ gì. Thì nó có rồi cần gì mình phải nói đây nó là sáu căn nữa. Mà Lục Nhập đây là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, sáu cái trần ở ngoài tác động vô sáu cái căn của Sắc, phải không? Như vậy nó mới đúng. Vì chỗ này người ta cũng lúng túng, người ta không biết giải thích làm sao, cho nên người giải kinh như thế này … những cái pháp.
Rồi đến cái Sanh, cái Sanh người ta cứ ngỡ là sanh đẻ. Cái duyên Sanh đó, chớ sự thật đây là sanh y, cái đời sống chứ không phải Sanh là sanh đẻ. Cho nên người ta mới nghĩ tưởng Thập Nhị Nhân Duyên mới đẻ ra Tam thế, Tam thế nhân duyên đó, ba đời, họ chia ra cái Mười hai nhân duyên này chia làm ba đời quá khứ, vị lai, và hiện tại, thành ra sai mất đi.
Cái Thập Nhị Nhân Duyên này, cái mười hai duyên này Đức Phật nói cái mục đích của bài kinh này, nó được chỉ cho cái thế giới của con người hợp là nó khổ, mà nó tan hoại là nó giải thoát. Mười hai duyên này mà nó rã ra thì nó giải thoát, mà nó hợp lại là khổ.
(31:49) Bởi vì ở trong cái thế giới, thì nó có cái nhân sinh quan nằm ở trong cái thế giới quan. Mà Lục Nhập là nói sắc, thinh, hương, vị, xú,c pháp, nó là cái ngoại cảnh các pháp ở bên ngoài, mà Thức rồi Danh Sắc, phải không, rồi Thọ, rồi Ái, thì nó đều là nằm ở trong cái nhân sinh, cái con người của mình, tức là là thân Ngủ Uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành Thức), nó tiếp xúc với sáu trần nó mới tạo thành mười hai nhân duyên này, nó mới thành ra cái thế giới khổ.
Mục đích nghĩa chỉ trong cái hiện tại để cho chúng ta thấy được cái thế giới khổ và cái thế giới không khổ. Làm sao cho sáu cái duyên này nó đừng có kết hợp với nhau nữa. Mà nó kết hợp nhưng nó không có dính mắc, dính mắc như cái mắt xích thì chúng ta thoát khổ.
Cái người hiểu được cái lý mà Thập Nhị Nhân Duyên này, mà thông suốt được, thì ngay đó người ta bẻ ngay cái duyên Sanh. Bẻ ngay duyên Sanh, cho nên đạo Phật dạy: “Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia sống không nhà cửa, không gia đình”, thì lúc bấy giờ đó là duyên Sanh đã đoạn.
Cho nên cái đời sống của con người cư sĩ nó đã dứt rồi. Cho nên vì vậy mà bây giờ đời sống của tu sĩ là nó đoạn dứt duyên Sanh. Mà duyên Sanh đoạn dứt rồi thì chúng ta sống nó không còn bị ái kiết sử, không bị ngũ triền cái, thì đương nhiên là chúng ta đã giải thoát, phải không? Bệnh tử ưu bi, nó đã diệt mất đi. Tức là nó không còn cái chỗ mà già chết sầu khổ nó nữa. Còn nếu cái duyên Sanh này còn thì cái già chết ưu bi nó sẽ còn. Mà nó hết tức là nó Minh.
Mà muốn nói Vô Minh, tức là nói người không có đức hạnh, chứ không phải nói sự hiểu biết. Bởi vì Đức Phật nói: “Trí tuệ ở đâu, thì giới luật ở đó”, phải không, Đức Phật có nói mà: “Giới luật ở đâu thì trí tuệ ở đó”. Mà cái trí tuệ nó không ngoài giới luật được. Cho nên nói Vô Minh tức là nói người không có đạo đức, mà không có đạo đức mới hành theo cái sự ác pháp mà mới có Thức, mới sanh Thức.
Cho nên mới Vô Minh sanh Hành, Hành sanh Thức. Còn nếu mà chúng ta có đạo đức thì cái đạo đức này, nó sẽ chấm dứt được cái sự sanh tử luân hồi, chứ không phải là sự học thức. Cho nên Minh mà nói là, mình lấy Minh, Minh thì tức là mình phải hiểu chữ Minh là, là mình phải hiểu nó là giới luật, thì nó đúng hơn. Đó, thì còn nếu mà mình sống không đúng giới luật thì lẽ đương nhiên không Minh.
Bây giờ mình có học thức nhiều đi nữa mình cũng không có Minh. Đức Phật xác định được trong cái bài kinh nói: “giới luật đâu thì trí tuệ ở đó”, mà “trí tuệ ở đâu thì giới luật ở đó, trí tuệ làm cho giới luật thanh tịnh, giới luật làm cho trí tuệ thanh tịnh”.
(34:32) Sư Tuệ Tĩnh: Thầy giảng cái này có khác hơn mấy ông hồi trước đó Thầy.
Trưởng lão: Bởi vì những cái này đều là phải … hồi mà Thầy học, Thầy cũng hiểu cái nghĩa của họ, nhưng mà khi tu rồi mới thấy cái nghĩa này người ta đã dạy nó lệch rồi, mà bây giờ mình không thể … chỉ lại cái này để cho người ta thông hiểu được.
Sư Phước Nhẫn: Sống đúng giới luật là phá Vô Minh.
Trưởng lão: Phá Vô Minh đó.
Sư Phước Nhẫn: Hồi xưa không biết thành ra phá Vô Minh là cả một vấn đề khó khăn.
Trưởng lão: Mình sống đúng giới luật là mình phá Vô Minh, mình phạm giới luật là mình bị Vô Minh rồi. Đó, cho nên nó rõ ràng lắm.
Sư Tuệ Tĩnh: Bởi vậy cái gì cũng không có qua được giới luật hết.
Trưởng lão: Bởi vậy giới luật là thầy. Mà giới luật còn là Phật pháp còn, tức là còn giải thoát đó. Đức Phật nói giới luật còn là còn giải thoát mà giới luật mất là không còn giải thoát. Ý là như vậy. Mình nói giới luật còn, đức Phật nói: “Giới luật ta còn thì đạo ta còn, giới luật ta mất là đạo ta mất”, tức là giải thoát mất rồi. Mà đúng vậy, bây giờ không có giới luật, sống không giới luật thì giải thoát đâu còn.
Mình phải hiểu được cái nghĩa này chứ mình hiểu qua cái nghĩa mà đơn giản thì đâu có được, hiểu đúng là sự giải thoát. Mà giới luật giải thoát là sự đức hạnh mà. Đúng là Thánh, Thánh Tăng thiệt thì giới luật phải có. Bởi vậy, giới là hàng đầu. Nó là trí tuệ mà không thấy, nó là phá Vô Minh chứ không ai hết. Mà mình không chấp nhận nó thì làm sao phá Vô Minh, mà chấp nhận nó thì coi như là sanh y mình phải diệt. Tức là đời sống của một cái người mà muốn giải thoát mà còn dính dấp nào là vợ con, nào là này kia, nhà cửa hay tài sản rồi thì làm sao.
Chỉ còn ba y một bát, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia sống không nhà cửa, không gia đình, thì không phải là giải thoát sao. Thì cái đời sống giới luật thì đời sống vậy thôi chứ còn hơn gì nữa. Thì có phải đó là Minh không? Phải không? Bây giờ hiểu rõ như vậy chúng ta thấy có khó không. Đâu có khó, đạo Phật phải có, nó phải Minh.
Bây giờ mấy ông đi học cách gì mà mấy ông sống không đúng giới luật thì tui biết mấy ông không Minh đâu. Học nhiều, kiến chấp nhiều, ngã mấy ông còn lớn dữ tợn nữa, phải không? Bởi vậy Thầy nói, mình chỉ hiểu rõ là mình thấy giải thoát rồi. Mình thấy hay thiệt, đạo Phật hiểu rõ và cái pháp hướng lại tạo cho mình có một cái lực kỳ lạ, siêu việt thiệt chứ không phải không.
Làm sao mà quá khứ vị lại, mà đời trước mà mình lại biết được. Mình thấy nó siêu việt thật chứ đâu phải, mà chỉ có pháp hướng thôi, nếu mà không có biết cái pháp này thì ông nội tui cũng không làm sao mà biết được cái chuyện này. Chứ mình nhập định rồi mình đi tìm ở đâu, tìm ra được ở đâu. Mầy mò cho được mà cái cái lối tu tập như thế này thì nó cụ thể hết sức rồi, nó không còn cái gì mà không cụ thể nữa, chỉ còn tiếc mình không bỏ cái thời gian ra mình tu thật là uổng thôi.
Cho nên được Phật pháp là khó, mà được mà không tu thì uổng, quá uổng. Cho nên Thầy nói quý sư mà gặp được Thầy cái đó là cái may mắn đó. Còn biết bao nhiêu người người ta đang lầm lẫn, lầm lẫn, người ta cứ ngỡ rằng cứ ngồi thiền nhập định rồi nó sẽ thực hiện Tam Minh, không có được đâu. Thời trước Đức Phật nó chưa có nắm vững cái này, thì người ta có Ngũ Thông rồi.
Nhưng mà sự thật Ngũ Thông nó là định tưởng không hà. Bởi vì nhập định tưởng nó phải thông những cái này thôi. Thông cái này là nguy hiểm, nó không có gì. Cho nên nó Lậu Tận Thông không bao giờ có. Nó không có Lậu Tận Thông, thì Lậu Tận Minh nó không có làm sao Lậu Tận Thông mà có được. Tu hành là phải ráng. Biết được, mình bỏ hết đời mình tu.
(38:01) Sư Phước Nhẫn: Hôm nay Thầy dạy con cái bài kế, cái bài Định Niệm Hơi Thở để nhập Thiền Định
Trưởng lão: Bây giờ Định Niệm Hơi Thở xong rồi, thì bắt đầu bây giờ nó được cái hơi thở mình đã nhận ra được cái hơi thở bình thường của mình rồi, nghĩa là trong môi trường nào mình cũng thấy thân tâm mình an ổn trong cái hơi thở đó. Mặc dù hơi thở đó bây giờ chậm nhẹ dài ra, mình vẫn nhận ra được nó. Thì bắt đầu bây giờ luôn luôn mình nương vào hơi thở, nương vào hành vi của mình, thì pháp hướng tâm: “Tâm ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền”.
Một câu này thôi, chỉ cho nhập được Sơ Thiền tức là ly dục ly ác pháp, cứ nhắc nó nhiều, mình khỏi cần nhắc “tâm như đất” gì nữa, mà chỉ cần một câu. Lấy câu mà Phật nói: “Ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền”. Cứ ra lệnh cho nó nhập Sơ Thiền, nó sẽ ly dục ly ác pháp.
Đi, thỉnh thoảng cứ nhắc, đừng niệm nó, niệm tức là mình cứ câu này rồi mình niệm tới câu khác, thì như vậy là niệm. Nhưng mình nhắc ám thị nó rồi, mình đi một đoạn mình nhắc, cũng như mình ngồi mình thở, phải không, thì mình nhắc, rồi mình thở năm, mười hơi thở, một khoảng thời gian yên lặng, để cho tâm được yên lặng. Bởi vì mình nhắc là động rồi, cho nó yên lặng. Sau bây giờ yên lặng mình nhắc lại lần nữa.
Rồi cái mình để cho nó yên lặng, sau một phút nữa mình nhắc lại. Mình dùng pháp hướng đừng có để cho nó bị lặng vô trong đó, nó sanh ra những cái trạng thái hỷ lạc, không hay, đừng có để. Khi nó yên tốt được, mình thấy nó yên ổn, thân tâm an ổn rồi, thì bắt đầu nhắc nó nữa. Hễ mình nhắc nó, thì mình phải ngồi lắng lại để một chút cho nó yên ổn trở lại rồi mình nhắc nó.
Cũng như là nước nó yên rồi, thì đừng có để cho nó quá lặng yên, mà mình phải động nó một cái, rồi để cho nó yên trở lại. Động nó một cái. Động tức là mình huấn luyện nó đó, huấn luyện cái tâm đó. Cái tâm nó yên lặng là mình dạy nó nghe lời lắm, còn cái tâm nó đương động vầy, mình dạy nó không nghe đâu.
Quý sư hiểu chỗ này Thầy nói không? Bây giờ mình phải để cho nó lặng một chút xíu, nó lặng coi cái mặt nước nó vừa lặng, đừng để nó lặng an như thế này, nó kéo dài, thì không được. Mà nó vừa yên lặng thì lại nhắc nó một cái, thì bắt đầu nó thêm một chút xíu trong cái lực của, ở trong tâm, nó nhận ra, nó vô trong đó rồi. Rồi mình để cho nó lặng cái mình nhắc. Cứ lặng mình nhắc.
Rồi bắt đầu cứ như vậy có nghĩa là như thế này, nghĩa là cái tâm của mình khi nó lặng thì cái phần mà tế bào mà hoạt động về cái ý thức của mình đó, nó ngưng. Thì mình động, tức là mình hướng tâm để mà đánh thức cái nhóm tế bào kia nó đừng, nó làm việc, nó hoạt động trở lại. Hễ cái nhóm này nó yên lặng tĩnh, thì cái nhóm kia nó đánh, kêu là mình bắt buộc cái nhóm này cho nó yên rồi đánh thức cái tụi kia dậy.
(40:31) Cứ như vậy mình đánh hoài, đánh cho tụi này dậy. Mà hễ đánh tụi này dậy được rồi thì cái này nó nằm yên thì mình sẽ vô cái định này. Cái hiểu cách đó. Nó thực tế và cụ thể lắm, bởi vì mình sử dụng cái pháp hướng để cho mình đánh thức tụi kia dậy, mà mình giữ được cái tâm này, là mình đã nắm được cái hơi thở bình thường. Mình giữ cái tâm này yên lặng để cho cái tụi mà nó hoạt động lăng xăng trong đầu của mình đó, nó ngưng, nó không có hoạt động. Bởi nó không hoạt động thì mới đánh thức. Còn tụi này nó đương hoạt động mình đánh thức tụi kia không có được đâu.
Cũng như cái văn phòng này, nó có hai người làm việc, mà cái thằng này nó vô nó làm việc ….
Sư Phước Nhẫn: Phần mà hướng tâm, xin Thầy giảng rõ lại để làm sao cho có kết quả mau.
Trưởng lão: Cái hướng tâm mà có kết quả đó, thì khi cái tâm nó vừa yên lặng, khi mình ngồi mình nghe thân tâm của mình nó yên lặng nó an ổn đó, khi mình bây giờ mình hít thở mình biết hơi thở ra vô, mà cái thân tâm nó an ổn chứ còn nó có vọng tưởng, hay là nó còn hôn trầm, hay là nó còn lừ đừ buồn ngủ gì đó, thì hướng tâm không có kết quả đâu. Phải cho tỉnh táo, cho tỉnh giác đó, thì nó hướng tâm nó mới có hiệu quả. Như Lý Tác Ý mà, phải không?
Thì cứ nhớ khi nào mình cứ hít thở mình nghe nó yên ổn, cái tâm nó lặng lẽ, lúc nó thanh tịnh đó, thì hướng tâm mới hiệu quả ở chỗ cái thanh tịnh. Cái lực nó có ở ngay chỗ đó. Còn bây giờ mình cũng hướng mà mình chưa có quan sát được thân tâm mình yên lặng, mình cứ độ chừng năm, mười hơi thở thì mình hướng, hướng thì nó không có hiệu quả. Lưu ý cái phần này.
Bởi vì phải yên ổn được thì bắt đầu mới bảo nó, trong khi mặc dù bây giờ nó chưa có phải là cái tâm mình hết phóng dật, bởi vì nó hết phóng dật tức mình ly dục ly ác pháp thì tự nó quay vô với hơi thở, tức là nó định trên thân. Cho nên đức Phật nói: “Tâm định trên thân” tức là nó định trên cái hơi thở. Thân Hành Niệm, Thân Hành Niệm nội, trên hơi thở đó, nó định vô đó.
Còn nếu mà nó chưa định nó còn phóng, thì bây giờ mình ép buộc nó thì nó chỉ có thời gian nào đó nó chịu đựng đó thôi, chớ hễ xả ra thì nó bung …. Mà nếu mà nó chịu quay vô không phóng dật thì tức là nó định trên cái thân, ngay hơi thở. Lưu ý mà nếu mà hướng tâm, bảo nó: “tâm ly dục ly ác pháp đi” nhưng nó chưa đâu, nó chưa có quay vô đâu. Nhưng mà mình cứ mình bảo hoài, bảo riết nó đi.
(43:05) Mà khi mà cái tâm mình giữ yên lặng, tức là tỉnh thức đó, phải tỉnh thức, đừng có tĩnh lặng, mà tỉnh thức. Tỉnh thức thì được, mà tỉnh lặng thì không được. Tĩnh lặng nó làm cho mình có cái trạng thái hỷ lạc, nó lặng, thì không được, không tốt, nó đi chỗ khác rồi. Thì lúc bấy giờ đó hễ mình tác ý, mình hướng tác ý thì nó mất đi cái sự tĩnh lặng đó đi, nó làm cho mình thấy nó bực. Phải không?
Cho nên lưu ý cái phần này để cái pháp hướng nó hiệu quả. Bởi vì vốn mình luyện cái pháp hướng để cho có cái lực, cái lực điều khiển chớ không phải. Sau này mình vào Thiền nó dễ. Đó mình lưu ý.
Bây giờ thí dụ như mình ngồi, mình ngồi mình không hít thở, mình cứ để tự nhiên cái tâm của mình, mà mình nghe thân tâm nó an ổn, thì hướng tâm tốt.
Chứ đừng nói chi là mình nương cái hơi thở. Còn mình nương cái hơi thở là tại vì nó nương cái hơi thở là nó giúp cho mình sự tĩnh lặng nó dễ hơn. Mình biết thân tâm mình rõ ràng là yên lặng, tốt. Đó là […]. Kỹ chỗ đó chứ còn không khéo mình hướng cũng như mình niệm, thì nó động trong đầu.
Sư Phước Nhẫn: Bởi vì thưa Thầy con thấy nó không có hiệu quả nhiều, bởi vì con mới hỏi kỹ lại cái đó, cái này cũng như mình tụng kinh vậy, nó không có kết quả.
Trưởng lão: Bởi vậy phải để đợi cho cái tâm, mà bây giờ mình ngồi, mình ngồi chơi hoặc mình ngồi tu hoặc mình đi kinh hành, mình đi mình cũng lắng mình nghe thân tâm nó theo cái nhịp bước đi mà nó chịu quay vô.
Mà hễ nó còn phóng tâm nó còn phóng dật, còn nghĩ ngợi, nó còn này kia, thì nó, mà đi mà nó còn có chú tâm bên đây, tâm bên kia, nó cũng còn lăng xăng, mình ráng cố gắng mình ức chế cho nó theo cái bước đi của mình đó, cố kìm nó thì nó còn động rồi.
Chừng nào mình nghe nó yên lặng, không có dụng công nhiều, thì mình dùng câu pháp hướng. Đó là chỗ khéo léo lắm đó chứ không phải không.
HẾT BĂNG