CÁCH TU TẬP CÁC LOẠI ĐỊNH - TU TẬP TẠI GIA
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian: 2003 (Mùng 4 Tết)
Thời lượng: [02:50:51]
https://thuvienchonnhu.net/audios/2003-cach-tu-tap-cac-loai-dinh-tu-tap-tai-gia.mp3
(00:00) Trưởng lão: Những cái bài này Thầy ghi trong khi Thầy mới về đây tu tập về phương pháp Nguyên Thủy. Thầy đã ghi lại những bài này khi Thầy nghiên cứu về kinh sách Nguyên Thủy. Nó rất lâu, chứ không phải mới đây. Trong khi Thầy tu chưa xong, Thầy đã ghi lại thì từ những ngày đó tới bây giờ Thầy còn giữ lại kỷ niệm trong những tập sách, những tập vở này.
Thầy ghi như vậy rất kỹ. Thầy tu tập như thế nào, để Thầy có kết quả như hôm nay.
Cho nên Thầy biết Định Niệm Hơi Thở gồm 18 đề mục hoặc là vô lượng đề mục. Tùy theo tâm trạng mà chúng ta đặt những câu tác ý để trở thành pháp của Hơi Thở chúng ta tu. Nương vào hơi thở mà trạch pháp ra. Cho nên có thể nói rằng nó có vô lượng phương pháp tác ý mà ở trong Định Niệm Hơi Thở thì đức Phật nêu ra cho chúng ta biết một cái số đề mục để chúng ta tu tập thôi.
Nhưng sự thật ra thì nó rất nhiều. Thí dụ như bây giờ trong tâm chúng ta tham ăn. Nó còn thích ăn thì nó thấy còn đói bụng. Nó còn thấy món ăn ngon nó thích, chúng ta muốn nó nhàm chán cái thích ăn đi, thì chúng ta phải tác ý. Về vấn đề cho nó nhàm chán thực phẩm là những món ăn bất tịnh: “Cái tâm không được tham ăn nữa, phải nhàm chán”. Đó là mình tác ý một câu, mình sẽ hít vô, thở ra; rồi mình lại tác ý một câu như vậy…
Trong kinh không có dạy, nhưng chúng ta biết rằng có bài kinh, đức Phật nhắc như thế này: "Do vậy, này các Thầy Tỳ kheo. Nếu các Thầy muốn tu tập với tưởng nhàm chán, đối với các pháp không nhàm chán". Nghĩa là bây giờ mình không nhàm chán về cái ăn, mà mình muốn nhàm chán cái ăn đó thì mình tưởng nó bất tịnh hoặc mình tưởng nó thiu thối. Rồi mình tác ý theo câu đó ra, "Thì Định Niệm Hơi Thở vô, hơi thở ra; hơi thở vô, hơi thở ra này cần phải được khéo tác ý".
Các con thấy không? Mình đặt ra câu tác ý chứ không phải tự nó có câu đó. Mình khéo léo mình đặt ra để làm cho mình nhàm chán. Nhưng trong bài Định Niệm Hơi Thở không có câu nói nhàm chán đó. Nhưng ở trong bài kinh, đức Phật xác định lợi ích rất lớn của hơi thở là do chúng ta khéo tác ý câu đó cho nó phù hợp.
Bởi vì có người thì người ta không tham ăn, còn mình thì mình còn tham ăn.
Thí dụ mình ăn ngày một bữa, sáng nó đói bụng quá, nó muốn ăn. Do đó mình biết tâm mình nó chưa nhàm chán cho nên nó còn đói. Vậy mình muốn khắc phục được để mình ăn ngày một bữa thì mình nên dùng câu tác ý đó ra. Nương vào hơi thở mà tác ý thì mình có lợi ích là nó sẽ nhàm chán.
(02:41) Đó là cái ý của đức Phật muốn nói trong câu này. Chúng ta biết rằng Thầy không phải tự đặt ra. Mà chính đức Phật đã xác định để chúng ta biết cách thức, chúng ta tự trạch pháp, tự chọn lấy một câu pháp tác ý. Để rồi chúng ta thực hiện trên Định Niệm Hơi Thở.
Cho nên tùy theo, trước khi tu Định Niệm Hơi Thở, Thầy muốn nhắc để cho các con thấy rằng mình phải thiện xảo, khéo léo. Đức Phật thường nhắc nhở là mình tu tập là phải thiện xảo.
Cho nên trong khi cái tâm của mình đang ở trong một trạng thái nào đó mà muốn cho cái trạng thái đó nó phải đẩy lui. Nó không có còn ở trong tâm của mình nữa thì mình khéo léo trạch pháp cái câu đó ra. Cái câu tác ý đúng tâm trạng của mình.
Thí dụ như bây giờ Thầy đang có sự buồn phiền hay giận hờn. Ở trong bài Định Niệm Hơi Thở, đức Phật có dạy chúng ta:
"Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân tôi biết tôi thở ra". Đó là cái căn bản, nó có sẵn rồi.
Còn cái không có sẵn ở trong những đề mục này, thì chúng ta tự trạch pháp ra. Nó cũng được chứ đâu phải không.
Do bài kinh này đức Phật đã dạy chúng ta tự trạch pháp ra câu tác ý. Chọn lấy một câu cho phù hợp thì chúng ta sẽ tác ý.
Vì vậy, Thầy nói Định Niệm Hơi Thở có vô lượng câu tác ý. Tùy theo đặc tướng của chúng ta mà chúng ta trạch ra cái câu đó. Để giúp cho chúng ta đẩy lui được những chướng ngại, những cái không nhàm chán ở trên thân và tâm của chúng ta.
Để làm cho chúng ta nhàm chán, chúng ta trở thành chủ động điều khiển mọi cái, Thầy muốn nhắc nhở như vậy là cái thiện xảo khéo léo của các vị sau này. Quý vị tu thì quý vị hãy khéo léo, thiện xảo mà tác ý ra. Tùy theo tâm trạng của mình lúc bấy giờ bị chướng ngại gì thì mình nên thiện xảo khéo léo.
Cho nên trong bài này, đức Phật không phải dạy đơn giản mà đức Phật có nói rất nhiều:
"Do vậy này các Thầy Tỳ kheo. Nếu các Thầy muốn tu tập với tưởng nhàm chán đối với các pháp không nhàm chán". Nghĩa là mình ăn mình không nhàm chán. Mình ngủ mình cũng thích ngủ nè, ăn mình cũng còn thích ăn nè, giận hờn mình còn thích giận hờn nè. Ham muốn mình còn thích ham muốn nè, thì mình phải tác ý một cái tướng khác cái tướng đó. Nó trở thành một câu tác ý “thì Định Niệm hơi thở vô - hơi thở ra này cần phải được khéo tác ý”. Nó có lợi ích rất lớn cho sự tu tập của mình. Đó thì đó là những điều kiện đức Phật nhắc nhở rất nhiều.
Thí dụ như mình muốn ly dục, ly ác pháp. Ở đây có câu như thế này để thấy Định Niệm Hơi Thở rất quan trọng:
"Do vậy này các Thầy Tỳ kheo, nếu các Thầy mong rằng ly dục, ly ác pháp. Các Thầy sẽ chứng đạt an trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm, có tứ, thì Định Niệm Hơi Thở, hơi thở vô, hơi thở ra này cần phải được tác ý".
(05:30) Đó rõ ràng là đức Phật dạy, bây giờ mình muốn ly dục, ly ác pháp thì mình cũng ở trong cái đề mục này. 18 đề mục này đâu có dạy chúng ta ly dục, ly ác pháp đâu, nhưng mà ở trong này đức Phật dạy mình muốn ly dục, ly ác pháp phải tác ý ly dục, ly ác pháp. Để rồi mình sẽ nương vào hơi thở thì tâm của mình nó cũng sẽ được ly dục.
Cho nên đây là bài kinh mà đức Phật đã giảng dạy, chứ không phải là Thầy tự đặt ra. Đây là điều đức Phật đã dạy:
"Này các Thầy Tỳ kheo. Nếu các Thầy Tỳ kheo muốn rằng, mong rằng làm cho tịnh chỉ tầm tứ. Tôi sẽ chứng đạt và an trú thiền thứ hai. Một trạng thái hỷ lạc do Định sanh, không tầm, không tứ. Nội tĩnh nhất tâm, thời Định Niệm Hơi Thở ra vô này cần phải khéo tác ý".
Các con thấy nghĩa là mình muốn nhập một định nào hoặc là muốn làm cái gì thì phải khéo tác ý trước khi mình nhập định đó. Cái tác ý đó sẽ giúp cho chúng ta vào cái định đó. Cho nên ở đây thậm chí từ định Sơ Thiền rồi định Nhị Thiền như hồi nãy Thầy đọc cho nghe đó. Đó là định Nhị Thiền rồi kế là định Tam Thiền và đến Tứ Thiền cũng đều phải tác ý trên hơi thở để mà vào.
Mình thấy Định Niệm Hơi Thở quan trọng đến cái mức độ đó. Nhưng mà Thầy chưa có giảng về cách thức để chúng ta nhập Nhị Thiền hoặc là Tam Thiền, Tứ Thiền.
Bởi vì trình độ chúng ta Sơ Thiền ly dục, ly ác pháp chưa xong thì chúng ta còn biết bao nhiêu điều cần chúng ta dọn. Cho nên vì vậy nói cho rộng ra thì chúng ta thấy đều hoàn toàn ở trên hơi thở chúng ta mà đi vào trong những cái định. Nhập vào những cái định bằng phương pháp tác ý. Như Lý Tác Ý.
(07:09) Không có pháp Như Lý Tác Ý thì chúng ta không bao giờ nhập được.
Đây là một bài mà đức Phật đã giảng ở trong kinh Trung Bộ rất rõ ràng và cụ thể mà Thầy đã ghi chép lại từ rất lâu. Đến hôm nay vẫn còn những lợi ích rất lớn. Thầy mong rằng Thầy đem ra giảng dạy để thấy Định Niệm Hơi Thở là một sự quyết định cho cuộc đời tu hành của chúng ta.
Hôm nay, đầu tiên Thầy xin nhắc nhở những đề mục ở trong này nó là cái cơ bản để chúng ta biết, chúng ta tu tập.
Mỗi một đề mục tu tập phải có kết quả. Chứ không phải bây giờ chúng ta: “Hít vô thở ra, biết hít vô thở ra”. Rồi tới đề mục thứ 2 “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài. Thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài”.
Sau một thời gian tu tập 30 phút như vậy mà cứ liên tục, liên tục 18 đề mục là tu sai, không có đúng.
Cho nên chúng ta phải biết áp dụng và phải biết cách tu tập. Bây giờ chúng ta là người đang tu tập pháp Định Niệm Hơi Thở thì chúng ta phải tu tập như thế nào?
Đầu tiên đề mục thứ nhất là tập nhiếp phục tâm mình trong hơi thở. Nhiếp phục tâm mình trong hơi thở. Làm sao cho tâm mình nó nhiếp phục được vào trong hơi thở. Đó là cái đề mục thứ nhất:
"Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra".
Trước khi chúng ta hít vô thở ra thì chúng ta lại nhắc tâm của mình. Dùng ý thức của mình dẫn tâm của mình đi vào chỗ hơi thở ra, hơi thở vô. Và đồng thời nếu chúng ta cứ biết thở ra thở vô mà không tác ý, thì hơi thở ra, hơi thở vô chúng ta chỉ còn cái biết của nó, là cái biết của tưởng; chứ không phải cái biết của ý thức nữa.
Mà mục đích của chúng ta ở đây là tạo cái lực của ý thức; chứ không phải để cho biết hơi thở ra vô.
Với một cách tập trung, gom tâm vào hơi thở ra vô như vậy chúng ta sẽ đi nhầm vào những loại thiền của ngoại đạo. Nó không giúp cho chúng ta đạt được gì; mà đưa chúng ta đi vào những Thiền Định tưởng. Nó làm chúng ta sai.
(09:06) Bởi vì mục đích của chúng ta là giúp cho chúng ta tỉnh thức ở trên hơi thở; để chúng ta tỉnh thức, biết áp dụng vào sự sống của chúng ta hàng ngày.
Tỉnh thức trong những ác pháp và trong thiện pháp. Để làm gì?
Để chúng ta ngăn và diệt các ác pháp và tăng trưởng thiện pháp. Đó là những điều chúng ta cần phải hiểu. Chứ nếu chúng ta không hiểu, chúng ta chỉ sai một chút xíu là chúng ta bị ức chế tâm. Đi vào chỗ không niệm, không niệm tức là ý thức không khởi niệm ra nữa. Do đó chúng ta sẽ sai.
Cho nên đức Phật nói: "Còn tầm, còn tứ, tức là chúng ta ly dục, ly ác pháp. Mà tầm tứ chúng ta còn chứ không phải diệt". Cho nên cái niệm trong đầu chúng ta phải vẫn còn có chứ không thể mất được.
Mục đích chúng ta trong đề mục đầu tiên của Định Niệm Hơi Thở là nhiếp phục tâm của mình trong hơi thở. Nhưng không được mất ý thức. Đó là một điều kiện cần thiết để chúng ta hiểu.
Nếu mà chúng ta để mất ý thức, coi như bây giờ chúng ta hít vô thở ra, mà cứ ngồi đây khoảng độ nửa tiếng đồng hồ hoặc là 10 phút thôi; biết hơi thở ra vô mà ý thức của chúng ta hoàn toàn không có tác ý ra; thì như vậy là ý thức bị chìm và cái mà chúng ta đang biết đó là tưởng thức chúng ta, chứ không phải là ý thức.
Chúng ta lầm rằng ý thức chúng ta đang biết hơi thở ra vô. Nhưng sự thật, đó là tưởng thức của chúng ta chứ không phải ý thức.
Bởi vì ý thức nó luôn luôn hoạt động, khởi niệm. Nó luôn luôn hoạt động, nó có tư duy.
Còn cái ý thức chúng ta, mà nó không hoạt động, không khởi niệm, không tư duy, không cái gì hết. Nó chỉ biết một cái duy nhất thì không phải có nghĩa là cái ý thức của chúng ta biết. Nó là tưởng thức.
Chúng ta hay lầm lạc cái chỗ biết này và cái chỗ biết kia. Ý thức của chúng ta thì nó luôn luôn hoạt động. Cho nên trong khi chúng ta ngồi im chút là có những cái niệm khởi ra. Đó là ý thức chúng ta hoạt động.
(11:05) Còn nếu mà ý thức chúng ta không hoạt động thì chúng ta ngồi im mà nó im lìm, nó không có khởi một niệm gì hết. Chúng ta không ngờ là chúng ta có cái niệm - cái ý thức thanh tịnh của chúng ta. Nhưng không ngờ là tưởng thức nó lại xen vô cái ý thức thanh tịnh của chúng ta. Không hay chút nào hết.
Cho nên ý thức chúng ta vốn là động chứ không thể nào là tịnh được. Vì vậy, khi tâm nó tỉnh, lúc bấy giờ tâm nó phải ly dục, ly ác pháp thì ý thức nó mới thanh tịnh. Còn cái tâm mà chưa ly dục, ly ác pháp thì hoàn toàn nó phải động.
Mà sự thật chúng ta xét coi cái tâm mình có ly dục, ly ác pháp không?
Nó còn ham ngủ thì làm sao gọi nó ly, nó còn ham ăn làm sao gọi nó ly. Phải không? Nó còn lười biếng làm sao gọi nó ly. Cho nên nó chưa ly. Cho nên nó chưa thanh tịnh. Vì vậy mà biết rằng nếu ý thức của chúng ta không động là nó bị tưởng. Các con hiểu rõ chứ.
Thầy nói như vậy là quá rõ ràng rồi. Vì vậy chúng ta biết tâm mình chưa ly dục, ly ác pháp, thì ý thức của chúng ta chưa có thanh tịnh được. Cho nên nó còn động.
Mà nó không động. Bây giờ ngồi đây mà chúng ta biết hơi thở ra vô. Duy nhất có cái hơi thở ra vô mà nó không có còn nghĩ niệm gì hết thì rõ ràng là cái ý thức của chúng ta không có hoạt động rồi.
Nó chưa thanh tịnh mà tại sao nó im lặng đây? Nó chưa thanh tịnh mà im lặng là phải có một cái ý khác, chứ không phải là nó nữa. Các con hiểu điều đó. Cho nên vì vậy chúng ta phải rõ ràng, phải phân biệt rõ ràng được cái này, chứ không khéo chúng ta lọt vào tưởng mà không hay.
(12:27) Cũng như bây giờ các con đi kinh hành này, mà các con thấy cái đầu các con là cái ý thức không có khởi niệm nữa. Con không tác ý nữa và các con cứ đi, đi mà nó cứ biết đi. Nó không khởi niệm nào nữa hết, coi chừng sai, lọt vào Thiền Định của tưởng. Nó không có đúng đường lối của đạo Phật.
Bởi vì mình xét tâm mình chưa thanh tịnh mà, chưa ly dục, ly ác pháp mà. Tại sao nó lại có trạng thái im lặng như vậy?
Mình cho nó là ý thức thanh tịnh thì sao được. Bởi vì nó còn tham ăn nè, nó còn tham ngủ nè, nó còn hôn trầm, thùy miên nè. Như vậy rõ ràng nó chưa ly dục, ly ác pháp. Tại sao nó lại thanh tịnh như vậy thì cái gì mà thanh tịnh đây? Chúng ta phải đặt câu hỏi với nó.
Chúng ta đặt câu hỏi với nó thì chúng ta sẽ trả lời được câu hỏi đó. Như vậy khi nào thì ý thức thanh tịnh? Lúc tâm chúng ta ly dục, ly ác pháp thì nó mới bất động. Tức là nó không khởi niệm nữa. Đó là ý thức thanh tịnh.
Lúc nó sẽ thanh tịnh, nó ở đâu?
Nó thanh tịnh không có nghĩa là nó ngồi trơ trơ. Nó hoàn toàn không có một đối tượng gì. Cho nên đức Phật nói: "Tâm định trên thân". Tức là ý thức của chúng ta định trên cái thân của nó. Tức là nó phải biết cái thân của nó. Chứ hoàn toàn nó không có một niệm phóng dật.
Nó biết cái thân của nó như thế nào?
Nó phải biết hoạt động của thân. Nếu mà ngồi bất động như thế này thì cái hơi thở nó phải ra vô. Do đó nó phải biết hơi thở. Cái tâm nó thanh tịnh rồi. Tức là ý thức chúng ta thanh tịnh rồi, thì hoàn toàn nó không phải ở trong cái “Không” được. Nó phải ở trong cái động. Bởi vì nó thanh tịnh.
(13:59) Bởi vì vốn nó là vốn động. Vốn ý thức chúng ta là vốn động. Cho nên khi mà nó tịnh, nó phải tịnh trên cái động của thân. Chứ nó không phải tịnh trong cái tịnh nữa. Vì vậy mà đức Phật nói: "Tâm định trên thân". Tức là nói cái tâm nó phải biết cái thân của nó đang hoạt động cái gì.
Mà cái thân nó tịnh, tức là nó định luôn thì nó không còn thở nữa. Tức là tâm định và thân định. Hai cái này định thì nó là Tứ Thiền.
Nhưng chúng ta biết rằng khả năng nhập Tứ Thiền chúng ta chưa có. Bởi vì khi mà có được khả năng nhập Tứ Thiền, chúng ta phải có Bảy giác chi - bảy trạng thái Bồ Đề, chúng ta mới nhập được. Tức là chúng ta phải có Trạch Pháp Giác Chi…; Dục Như Ý Túc… nghĩa là chúng ta muốn cái gì thì nó phải làm được cái nấy. Do đó, chúng ta mới nhập được Tứ Thiền.
Vì vậy, tâm định trên thân, mà thân định trên tâm. Hai cái này nó mới định trên sự Bất Động mới được.
Còn bây giờ chúng ta còn cái thân thở ra thở vô thì tâm chúng ta có định thì nó phải định trên hơi thở. Chứ không thể nào định chỗ khác được. Hoặc là thân của chúng ta đi tới, đi lui như thế này thì nó phải định trên thân hành của nó, tức là trên cái bước đi của nó, chứ không thể nào khác hơn được. Hoặc là cái tay của Thầy đưa ra, đưa vô như thế này thì cái tâm của Thầy sẽ định trên hành động đưa tay ra vô. Như thế gọi là định trên thân hành của nó.
Vì vậy mà chúng ta tu tập. Chúng ta thường thường trong định Chánh Niệm Tỉnh Giác, đức Phật dạy chúng ta đi kinh hành; trong Định Niệm Hơi Thở thì dạy chúng ta nương vào hơi thở. Mục đích để chúng ta nhiếp phục nó vào đó. Để sau này nó sẽ định ở trên đó.
Cho nên nó không được mất. Dìm mất hơi thở khi chúng ta tu tập là sai, lọt vào tưởng. Đến khi đó chúng ta không thấy hơi thở nữa, tức là tâm nó sẽ lọt vào tưởng định rồi, Không Tưởng rồi. Nó lọt vào tâm không rồi.
Đó là trạng thái của tưởng. Chứ không phải trạng thái ý thức của chúng ta thanh tịnh. Đó là những cái mà chúng ta phân biệt được. Để mà chúng ta hiểu được cách thức chúng ta tu tập.
(15:54) Vì vậy mà hôm nay chúng ta sẽ tu tập đề mục đầu tiên là làm sao cho cái ý thức chúng ta sống để dẫn tâm của chúng ta. Tâm đây là không phải là cái tâm thức, mà tâm ý thức.
Thầy muốn nói như thế này để biết được cái tâm mà Thầy gọi danh từ tâm của nó là cái tâm ý thức. Là ý thức của chúng ta hiểu, tác ý ra. Nó làm cho tâm nó biết hơi thở ra vô. Cái đó gọi là tâm ý thức.
Còn cái bây giờ Thầy biết hơi thở ra vô mà Thầy không có tác ý, tức là không có cái ý, tác ý ra. Đó gọi là tâm tưởng thức.
Còn cái biết mà chúng ta có tác ý ra: "Hít vô tôi biết tôi hít vô. Thở ra tôi biết tôi thở ra". Rồi bây giờ Thầy lắng, tai Thầy, mắt Thầy, ý Thầy, mũi Thầy. Thầy nương vào trong hơi thở. Sáu căn Thầy gom vào đó để biết hơi thở ra vô rất kỹ lưỡng đó, thì gọi là tâm ý thức. Nghĩa là ý thức nhắc rồi, thì tâm nó làm cái việc đó. Nó biết cái việc đó thì gọi là tâm ý thức.
Bây giờ Thầy không có tác ý nữa thì cái ý thức của Thầy không hoạt động chứ gì. Bắt đầu bây giờ chỉ còn nó biết nó đâu, nó có ngủ quên đâu nó không biết. Do đó cái biết này nó tâm tưởng thức. Cái tâm tưởng của chúng ta biết cái này chứ không phải là ý thức. Bởi vì ý thức nó không tác động nữa.
Các con hiểu phân biệt được cái chỗ này thì chúng ta sẽ biết cái chỗ của chúng ta tu sai hay là chúng ta tu đúng. Khi mà chúng ta dẫn nó vào rồi khoảng 5 hơi thở, chúng ta lại nhắc nó 1 lần. Để cho 5 hơi thở đó, cái ý thức của chúng, tâm ý thức của chúng ta nó hoạt động theo hơi thở của nó. Để nó tập nhiếp phục cái tâm của nó. Cái tâm ý thức đó, nó trên hơi thở. Đó là lối nhiếp phục tâm mình vào hơi thở.
Bởi vì trên con đường tu của chúng ta, đầu tiên chúng ta phải nhiếp phục được tâm mình trên hơi thở rồi mới an trú nó trên hơi thở. Chứ không phải nhiếp phục rồi an trú liền mà nó an trú.
Bây giờ Thầy mới nhiếp phục được hơi thở. Mà Thầy thấy có trạng thái khinh an, hỷ lạc xảy ra. Nó làm cho Thầy thấy an ổn, thích thú thì coi chừng đây là trạng thái của tưởng.
(18:02) Còn bây giờ Thầy mới dẫn cho cái thân và cái tâm của Thầy nó vào trạng thái an ổn, thì đây mới thật sự là trạng thái của Sơ Thiền. Bởi vì Sơ Thiền do tầm tứ mà dẫn vào. Mà muốn cho nó an trú được thì cũng phải do tầm tứ dẫn nó vào.
Còn cái này mình không dẫn mà nó lại có, thì như vậy coi chừng sai. Cho nên chúng ta phải biết được cái đúng và cái sai. Cái sai nó là ác pháp.
Mặc dù bây giờ là một trạng thái hỷ lạc. Nhưng mà mình không dẫn mà nó vào thì coi chừng nó là cái cám dỗ. Cũng như bây giờ Thầy ăn miếng ăn ngon. Cái ngon của miếng ăn là cái dục lạc, nó làm cho Thầy thích, làm cho Thầy nghiện ngập mà bỏ không được. Nó là ác pháp chứ đâu phải là thiện pháp.
Mặc dù ăn ngon chứ đâu có phải ăn dở, đâu phải ăn đắng, ăn cay đâu, nhưng nó vẫn là cái dục. Nó làm cho Thầy thích thú, thì nó vẫn là ác pháp chứ đâu phải thiện pháp. Cho nên đức Phật dạy: "Ngăn ác, diệt ác".
Dù là điều kiện nào đi nữa, nó là ác pháp đều phải ngăn diệt. Chứ không phải là mình ghi nhận nó rồi thôi. Không phải đâu. Ngăn diệt biết rõ ràng. Ý thức của chúng ta làm việc hoàn toàn. Đây là ác, đây là thiện.
Ác thì ngăn diệt vì ác pháp sẽ đưa đến chỗ đau khổ cho chúng ta. Phải làm chủ nó, không được để cho nó hoạt động. Do đó không có cái quyền là ghi nhận rồi bỏ qua, không có nghĩa là biết, rồi không có lưu ý đến nữa. Biết mà không diệt thì nó vẫn sống. Cũng như mình biết có con rắn đó là con rắn độc mà cứ đi qua, đi lại thì có ngày nó sẽ cắn mình. Cứ biết mà ghi nhận nó. Bây giờ nó bò qua 1 lần, bò lại 1 lần. Nhưng mà hôm nào mình quên, mình không biết, mình lỡ đạp trên lưng nó thì nó sẽ cắn mình.
Do đó nó rất nguy hiểm. Do như vậy phải ngăn và diệt nó. Không có được để cho nó bò tới, bò lui như vậy nữa. Nó xảy ra sự nguy hiểm cho mình và cho những người xung quanh mình. Đó là cách thức chúng ta phải biết ác pháp để ngăn và diệt.
Cho nên pháp Tứ Chánh Cần là pháp sử dụng bằng ý thức rất tỉnh thức của chúng ta qua sự tu tập của chúng ta trên Định Niệm Hơi Thở.
(20:02) Như vậy thì cái đề mục đầu tiên ít ra mấy con cũng phải tu nó. Vào tu theo Định Niệm Hơi Thở của Phật thì cách thức phải nhiếp tâm cho đúng. Nhiếp tâm cho đúng tức là nhiếp phục tâm mình trên hơi thở cho đúng. Bây giờ mấy con ngồi im lặng như thế này. Ngồi kiết già lưng thẳng hẳn hòi đàng hoàng. Thầy tin rằng muốn mình tu tập cho đúng cách thì ở trong cuốn “Người tu sĩ và cư sĩ cần nên biết” và “Giáo Án Tu Tập Cho Người cư sĩ”, từ tập I cho đến tập III, có 3 lời nguyện ước của cư sĩ viết ra. Những lời nguyện ước đó tùy theo những mỗi người, mấy con chọn lấy 1 ước nguyện, hoặc là mấy con tự đặt ước nguyện như thế này:
Bây giờ ngồi im lặng như thế này. Bắt đầu các con trước khi vào hơi thở thì các con xin nguyện ước. Trước khi mà ngồi thiền thì các con đến trước cái tượng Phật các con đảnh lễ. Các con lạy Phật 3 lạy. Sau đó rồi thì các con ngồi đối diện như mấy con ngồi đối diện như tượng Phật. Thì các con sẽ ước nguyện rằng:
Hôm nay tôi nguyện nhất định là tôi phải nỗ lực tu tập rất kỹ trên cái hơi thở để nhiếp phục được tâm mình trên đó.
Nguyện thứ nhất: Tôi nguyện cho tôi thực hiện được tâm tôi ly dục, ly ác pháp.
Nguyện thứ 2: Tôi nguyện cho mọi người đều được tu tập như tôi.
Nguyện thứ 3: Là cuộc đời của tôi. Đây là Thầy đem một ví dụ rồi tùy theo đó mà mấy con tự trạch pháp ra. Nguyện thứ 3 là tôi nguyện cho tôi đạt thành được mục đích cuối cùng cho một đời nay, cho đời này thôi. Tôi không còn muốn kéo dài một đời khác nữa.
Vì một đời khác nữa, không biết tôi có gặp được Phật pháp hay không. Chỉ đời nay tôi gặp được Phật pháp. Tôi ước nguyện trong một đời nay, tôi sẽ làm chủ được sanh, già, bệnh, chết.
Ước nguyện đó xong rồi thì mấy con đừng có nghĩ rằng sự ước nguyện đó là lời nói ngoài đầu môi, chóp lưỡi mình đâu. Mà nó có một sự tu tập thúc đẩy rất kỹ lưỡng của các con sau này, khi các con ngồi hít thở.
(22:06) Nó giúp cho các con rất là kỹ lưỡng. Khi mà ước nguyện xong rồi thì các con mới nhắc tâm mình: "Hít vô phải biết hít vô, thở ra phải biết thở ra". Chứ không được quên, cái ý thức phải chú ý. Con nhắc kỹ lưỡng rồi, bắt đầu con mới ngồi thẳng lên như thế này con bảo:
"Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra".
Hít thì các con hít vô. Thở thì các con thở ra. Các con đếm 1, hít vô thở ra các con đếm 2. Tới 5 hơi thở thì các con tác ý: "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra". Rồi bắt đầu hít thở rất kỹ. Khi mà có 3 cái lời ước nguyện đầu tiên rồi, các con ngồi suốt 30 phút, các con thấy nó tinh tấn lắm.
Mà các con không nguyện, các con tu cái kiểu bây giờ cứ ngồi tu, khép chân cái, ngồi tu cứ lo tu thôi. Sự thật ra, mấy con sẽ mất tinh tấn.
Thầy nói lòng tin các con nó không đủ đâu. Còn vì các con phát nguyện, lòng tin các con rất sâu sắc. Thầy nói các con thấy không? Cái đó là Tín Lực. Mà trong Ngũ Lực của Phật là Tín Lực là cái đầu tiên giúp chúng ta vào đạo.
Chúng ta thiếu Tín Lực là chúng ta lơ mơ, tu không chất lượng. Tu cho có hình thức. Đây Thầy nói lại để cho biết. Sau khi các con đọc lại cuốn “Người chiến thắng” phần thứ 2, khi Thầy trở về tu tập với pháp môn Nguyên Thủy, các con sẽ thấy những hành động sống của Thầy. Hàng ngày tu tập như thế nào thì nó sẽ nói ra rất rõ.
Còn bây giờ thì chưa ghi lại cái này nên vì vậy mà các con chưa được đọc mà thôi. Chứ các con đọc là các con sẽ rút tỉa qua kinh nghiệm tu tập của Thầy.
Trước khi vào ngồi Thiền, không phải muốn ngồi là đi ngồi liền đâu. Nghĩa là đảnh lễ Phật hẳn hòi, đàng hoàng. Lòng tin của mình: tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, cho nên lòng tin đó thể hiện qua sự cung kính của mình. Đảnh lễ xong rồi, mới là ngồi xuống, xếp bằng xong rồi mới ước nguyện. Những lời nguyện cũng như Thầy dạy ở trong bài “Nghi thức Thọ Trai”, các con ước nguyện. Thí dụ bây giờ đến Thọ Trai thì các con phải chắp tay lên. Ước nguyện mình nhận của Đàn Na Thí Chủ như thế nào? Sau này như thế nào?
Đó là những bài ước nguyện mà Thầy làm cái mẫu cho mấy con thôi. Còn tùy theo tâm trạng của mấy con, mà mấy con đặt ra cái đó để làm lời ước nguyện thật sự của mấy con thì nó mới được sâu sắc. Do ước nguyện đó là lòng tin của mấy con, nó tạo thành Tín Lực.
(24:16) Do các con có Tín Lực thì nó mới có Tấn Lực. Còn nếu mà Tín Lực không có thì tấn lực không có. Cho nên trong bước đường tu theo đạo Phật đầu tiên thì chúng ta phải tạo cho mình có một lòng tin. Một lòng tin qua sự cung kính của mình đối với Phật.
Vì đức Phật để lại giáo Pháp của ngài cho chúng ta là bằng cả máu và nước mắt của Phật. Bằng sự sống chết của đức Phật. Các con cứ nghĩ rằng phải khổ hạnh đến cái mức độ nào để tìm ra giáo Pháp này, khi mà còn xương bọc da. Trong kinh nói rằng rờ bụng đụng xương sống, mà rờ xương sống đụng da bụng thì đủ biết đức Phật phải khổ bậc nào.
Chúng ta đời nay chúng ta có dám làm được như vậy không? Đức Phật đã dám làm được như vậy để lại một chánh pháp, nền đạo đức nhân bản- Nhân Quả, không làm khổ mình, khổ người. Thế mà hôm nay chúng ta không đủ cái lòng tin để mà đi theo Phật pháp, thì chúng ta tu cái gì đây. Cho nên cuối cùng chúng ta tu chẳng tới gì hết. Chỉ biết học, rồi biết nói, còn hành động chúng ta làm với niềm tin của chúng ta không có sâu sắc.
(25:14) Hôm nay Thầy giảng về Định Niệm Hơi Thở để chúng ta thấy nó là bài pháp quyết định cho chúng ta. Nó trang bị cho chúng ta đủ lực để chúng ta chiến đấu với các chướng ngại ở trên thân, thọ của chúng ta. Tức là chúng ta chiến đấu với cái khó khăn, cái khổ đau ở trên thân của chúng ta.
Như bây giờ thân của chúng ta bệnh thì ở trên bài Định Niệm Hơi Thở này nó giúp chúng ta đẩy lui được bệnh đau khổ trên thân.
Tâm chúng ta đang dao động, đang theo những cảm thọ khổ như phiền não, giận hờn thì trên bài Định Niệm Hơi Thở nó có những cái phương pháp giúp cho tâm chúng ta không còn phiền não, đau khổ, giận hờn nữa.
Tâm chúng ta ham ngủ, lười biếng thì trên Định Niệm Hơi Thở nó có những đề mục giúp cho chúng ta để chúng ta định tĩnh, chúng ta không còn ham ngủ, không còn lười biếng, không còn hôn trầm, thùy miên nữa. Đó là trang bị chúng ta tất cả mọi thứ để chúng ta thực hiện được một đời sống Giải Thoát hoàn toàn trên Định Niệm Hơi Thở.
Vậy thì đề mục đầu tiên, chúng ta phải cần thiết nhiếp phục được tâm mình trong hơi thở. Nếu mà trong 30 phút, các con nhiếp phục tâm mình không được, còn có niệm ra, niệm vô, thì như vậy các con tu chưa đúng cách. Cho nên các con phải thấy các con còn sơ sót chỗ nào?
(26:28) Như mấy con thường vô tu, là mấy con cứ khoanh chân vô tu. Trước khi đi kinh hành. Các con chỉ nhắm mắt đi kinh hành. Chứ không nghĩ rằng lòng tin của mình là trước hết. Đó là Tín Lực, phải tạo cho mình có một lòng tin sâu sắc, bằng hành động chân thật của niềm tin đó thì các con sẽ thực hiện nó có kết quả lớn.
Còn nếu các con thấy tu tập không có kết quả là do sự sai sót của các con quá nhiều. Vì vậy mà các con làm sao nhập được Sơ Thiền, làm sao nhập được Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, thực hiện Tam Minh được? Bởi vậy đức Phật nói: “Pháp ta không có thời gian, đến thì ngay đó sẽ thấy được sự Giải Thoát liền.
Đó là tu tập đúng, còn các con sơ sót, các con tu tập không đúng thì các con sẽ không thấy được sự Giải Thoát. Đó các con xét lại lời Thầy nói các con có sai sót không?
Chắc chắn là mọi người đều sai sót. Phải không?. Các con thấy các con có đúng không?
Trước tiên các con đảnh lễ Phật này, các con có ngồi ước nguyện không? Đó là một cái sơ sót của mấy con. Hôm nay Thầy nhắc cho mấy con thấy là cái điều sai sót. Bây giờ các con hỏi lại tất cả mọi người coi có sai sót không. Những sai sót lần lượt Thầy sẽ dạy vạch ra và sau này có đủ duyên thì các con sẽ đọc lại “Người Chiến Thắng” - Phần thứ 2 mà Thầy đã tu tập thì các con thấy sự không sai sót, mà Thầy đã từng tập ở trên đó. Từng luyện thân mình, từng chịu khổ đau, từng mọi cách bằng nước mắt và máu của mình. Bằng những hành động siêng năng, cần mẫn, cung kính và tôn trọng giáo pháp, những hình ảnh của đức Phật. Đức Phật và giáo pháp đức Phật, Thấy rất tin tưởng, là niềm tin rất trọn vẹn, qua những hành động thật sự của mình, quyết tìm con đường Giải Thoát.
(28:00) Hôm nay Thầy đem bài mà Thầy ghi chép cách đây hai mươi mấy năm. Thầy đã ghi chép nó hôm nay đem lại. Thầy nhắc cho mấy con Định Niệm Hơi Thở rất là quan trọng. Thầy cũng nhờ nó và nhờ trạch pháp tác ý này mà đi đến cứu cánh cuối cùng.
Vậy thì hôm nay Thầy đem lại những kinh nghiệm truyền trao lại cho mấy con. Bằng kinh nghiệm thực của Thầy.
Không bao giờ sai một lời pháp của Phật dạy chút nào hết nên Thầy đúng, đúng với những cái gì mà đức Phật đã dạy. Không có bày ra, không có vẽ ra, không có thêm ra. Tất cả những cái này đều là kinh nghiệm của Thầy, thực tế mà tu tập. Cho nên hôm nay mấy con có đủ phước. Các con hãy cố gắng mà thực hiện. Không phụ lòng của Thầy, không phụ ơn của Phật. Đó là các con đã đền đáp ơn Phật, ơn Thầy.
Còn nếu mà các con không nghe lời, các con tu lấy có thì các con cũng phí uổng. Chẳng hạn là như bây giờ các con ở xa xôi. Ở ngoài Hải Phòng, ở Hà Nội, ở ngoài Phú Yên. Các con ở xa xôi các con đã bỏ nhà, bỏ cửa đến đây để tìm cái gì đây?.
Không phải đến đây để tu sơ sơ đâu. Mà đến đây để tìm cái sự Giải Thoát thật sự. Không lý mà từ bỏ gia đình, bỏ con, bỏ cái, bỏ nhà cửa mình mà để đến đây rồi đi cầu danh, cầu lợi sao?
(29:10) Không lý điều đó đâu. Không lý mà để cầu cái danh hão. Hồi đó tôi có vô Tu viện đó tôi tu. Tôi cũng tu tập như vậy. Nhưng mà cuối cùng mình được cái gì hay là về rồi ít bữa mình đau, mình lăn lộn trên giường bệnh. Để rồi người ta cũng phỉ báng Phật. Vào tu để làm gì mà bây giờ cũng bệnh đau, cũng đi nhà thương cũng mổ, xẻ như vậy. Người ta cười chê chứ làm gì.
Còn mấy con vào đây. Mấy con thật sự mấy con không phụ ơn Thầy, không phụ ơn Phật thì mấy con phải thực hiện như thế nào?
Để xứng đáng, để khi đó các con về, các con tự tại các con chết nè. Về bệnh đau các con đẩy lui ra khỏi không cần uống thuốc. Người ta theo như vậy mới đúng. Theo Phật như vậy mới đúng, theo Phật gì mà quá khổ như vậy.
Các con nhớ những điều mà các con sơ sót là các con đã tự mình phỉ báng Phật pháp, đã làm cho người ta chê Phật pháp đó.
Còn mấy con đến đây, mấy con phải nỗ lực tu để đền đáp công ơn của Phật, công ơn của Thầy dạy dỗ mấy con. Như vậy là mấy con không phụ ơn chứ gì. Còn mấy con mà tu lơ mơ thì mấy con đã phụ ơn, mà mấy con còn để cho người khác phỉ báng. Tưởng vào cái Tu viện, nó tu ra cái gì. Ai dè bây giờ về cũng chết bò lăn, bò quàng. Người ta vẫn nói mình được. Tại vì mình bò lăn, bò quàng. Chứ còn mình vào đây mình tu mình làm chủ được. Đức Phật đã trang bị cho chúng ta những phương pháp để làm cho thân tâm chúng ta được an ổn, được Giải Thoát. Thế mà chúng ta tu không đúng cách thì tự cái tu sai của mình đã là phỉ báng Phật pháp rồi. Các con thấy chưa?
Cho nên vì vậy mà phải ráng nghe những cái lời mà Thầy nói. Đây là những lời mà tâm huyết bằng máu và nước mắt của Thầy nói ra cho mấy con. Chứ đâu phải là nói chơi, nói nghe như người ta đem kinh ra người ta giảng đâu. Những tập như thế này, các con biết Thầy ghi từ lâu mà Thầy còn chưa làm mất nó. Để lại kỷ niệm ngàn đời. Hôm nay Thầy được làm chủ như thế này là một kỷ niệm vô cùng quý giá. Không thể thường được.
Làm sao có ai dạy Thầy hơn là tự Thầy phải đọc rồi viết ra từng câu như thế này. Để ghi nhớ trong lòng của mình. Để lấy nó làm nhật tụng hàng ngày mà nỗ lực tu tập.
Ngày mai Thầy có chết rồi, những bản kinh này là những bản vô giá. Cái bút pháp của Thầy nó vẫn còn ở trong này. Nó đâu có mất được. Mấy con mà được một dòng chữ như thế này là mấy con có một kinh nghiệm để lại muôn đời. Đó là người ta đã thấy rằng trong cuộc đời của mấy con, để lưu lại được những gì quý báu nhất của Phật giáo đó.
Mà mấy con sẽ lật lại trong những tập kinh, tạng kinh Nguyên Thủy các con sẽ thấy lời này là những lời của đức Phật đã dạy mà Thầy ghi lại để thực hiện cho mình. Bây giờ đem ra nhắc cho các con. Để các con cố gắng thực hiện mà đền đáp công ơn đó.
(31:27) Phải cố gắng mấy con. Vì vậy cho nên bây giờ, đề mục đầu tiên này thì hít vô, thở ra. Các con nhớ kỹ là nhiếp phục, nhiếp phục như Thầy đã nói: 5 hơi thở thì phải tác ý 1 lần đừng có để chìm cái ý thức của chúng ta. Các con không tác ý là nó chìm đó và khi mà các con thấy kết quả của đề mục này là các con cứ 5 hơi thở tác ý 1 lần.
Không cần biết có vọng tưởng hay không vọng tưởng, không quan trọng đâu. Nghĩa là cái tác ý của các con hiện bây giờ thí dụ như đầu tiên vô các con mới tu 5 - 10 lần. Nghĩa là tác ý 5, 10 lần thì nó không có niệm đâu. Nhưng mà sau đó thì cái sức của các con nó chưa có quen, chưa có thuần đâu, cho nên 5 hơi thở mà vẫn có niệm khởi, chứ đâu phải không. Nhưng đâu có cần, chỉ cần đúng là 5 hơi thở là các con tác ý mà thôi. Phải không?
Các con cứ đúng 5 hơi thở là tác ý. Cho nên các con không có cố gắng tập trung đến căng đầu, để cho nó đừng vọng tưởng. Đâu có cần thiết mấy con tập trung như vậy, chỉ cần các con tác ý và đúng 5 hơi thở tác ý 1 lần thôi. Chứ không có cần phải chăm chăm nhìn hơi thở mình, quá căng thì không đúng cách. Các con hiểu điều đó?
Các con cứ dẫn nó như vậy để ngồi 30 phút, cứ 5 hơi thở tác ý 1 lần. Có vọng tưởng, không vọng tưởng không quan trọng. Chỉ đúng đừng sai, đừng có 6 hay 7 hơi thở mới tác ý 1 lần thì trật. Hoặc 3 hơi thở tác ý thì không đúng. Cứ đúng 5 hơi thở. Cứ nhớ làm sao đúng 5 hơi thở tác ý 1 lần thì đó là tỉnh thức được trong 5 hơi thở. Chứ không phải tỉnh thức trong hơi thở. Cách thức 5 hơi thở tác ý 1 lần là cách thức để nhiếp tâm mình trong hơi thở. Các con hiểu Thầy muốn nói chưa?
Chứ không phải cố gắng mà tập trung trong 5 hơi thở để biết 5 hơi thở, không có vọng tưởng. Đừng hiểu lầm, điều đó sai. Đó là Thầy nhắc nhở làm vậy.
Bởi vì đến đề mục thứ 6 thì các con sẽ dẫn tâm không còn niệm. Nó an tịnh được, nó không còn niệm. Bởi vì ý thức con thanh tịnh được ở trong đề mục thứ 6 rồi. Cho nên đức Phật dạy đề mục đó: "An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra". Đề mục đó sẽ giúp cho các con không còn niệm.
(33:41) Chứ còn đề mục thứ nhất này nó có niệm, không niệm, không quan trọng. Nếu mấy con làm cho nó đừng niệm là các con đã tu sai. Đó là cái thứ nhất.
Qua cái thứ 2: Đề mục thứ 2 thì hơi thở dài hoặc là hơi thở ngắn, tùy theo những đặc tướng của hơi thở mà các con tu.
Thí dụ như hơi thở dài thì các con hít, con biết nó dài. Hơi thở ngắn biết nó ngắn. Cũng như bây giờ con vào đề mục đầu tiên, con nhiếp phục được trong hơi thở, con hít vô, thở ra. Ngay đó, tâm của con đã nhiếp phục được hơi thở rồi. Lúc bây giờ con sẽ thấy từ cái tướng hơi thở ngắn, nó sẽ chậm và dài ra. Con chỉ cần biết hơi thở dài hoặc là hơi thở ngắn.
Nếu là nó dài thì các con tác ý: "Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài, thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài". Nếu nó là hơi thở ngắn. Nghĩa là khi mà nhiếp được cái tâm của mình vào cái đề mục hơi thở đầu tiên. Đề mục thứ nhất thì các con hít vô, thở ra. Lúc bấy giờ các con còn biết hơi thở ra vô tại chỗ chóp mũi, các con thở ra, thở vô.
Nhưng đến hơi thở dài, ngắn thì các con lưu ý chỗ dài ngắn của hơi thở, chứ không còn để ý chỗ biết thở ra, vô - cái chỗ chóp mũi con nữa. Các con thấy nó lần lượt thay đổi cái vị trí đứng của nó. Bây giờ cái biết của mình tập trung ở trên cái biết của hơi thở dài và ngắn.
Bây giờ mới đầu vô nó ngắn rồi sau đó thì nó nhẹ nhàng hơn, nó dài hơn, nó chậm hơn. Rồi bắt đầu nó chậm hơn đến nỗi mà nó mất thì coi chừng là sai.
Vì vậy chúng ta thấy hơi thở bắt đầu nó dài, nó dài ra, nó chậm hơn và đồng thời xem thử coi cái hơi thở dài, chậm này trong 30 phút nó thay đổi mấy lần dài, chậm. Hoặc là từ cái ngắn đến cái dài thôi. Rồi bắt đầu mới vào tu tập mình nhắc: "Hơi thở dài tôi biết tôi hít vô dài". Mình nhắc mình coi thử nó có dài liền hay không? Hay là nó ngắn rồi nó mới dài.
Sự thay đổi của hơi thở từ ngắn đến dài. Hoặc là từ dài đến ngắn. Từ nó dài rồi nó đến thu ngắn lại. Nó thu ngắn nó thúc cũng như mà cái thoi đẩy tới, đẩy lui. Chúng ta quan sát hơi thở. Khi mà nó nhiếp phục được ở trong hơi thở rồi. Hơi thở có những cái dài, cái ngắn như thế nào đó. Lúc bấy giờ chúng ta thấy hơi thở nào mà an ổn nhất, thì chúng ta nên sử dụng hơi thở đó.
(35:59) Trong một cái thời gian tu, chúng ta xét được hơi thở của chúng ta dài, ngắn. Hơi thở nào là an ổn nhất, nó không mệt, không tức, không lói, không làm cái gì cho các con khổ sở trong thân, không chướng ngại thì các con chọn lấy hơi thở đó mà làm tiêu chuẩn để tu tập.
Thí dụ như hơi thở dài, các con thấy nó dài mà nó an ổn hơn; hơi thở ngắn- nó không an ổn thì các con sẽ chọn lấy hơi thở dài. Do đó sau khi vào tu các con chọn được hơi thở rồi. Lúc bấy giờ vào tu thì các con nhắc: "Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài, thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài”. Các con nhắc thì các con thở bắt chước, gọi như là mình bắt chước cái hơi thở của mình.
Khi mình tu tự động nó hiện ra dài thì nó nhẹ nhàng lắm. Còn bây giờ mình bắt chước cũng thở chậm, chậm vậy, nhẹ, nhẹ vậy cũng gần giống như nó. Nhưng mà chưa giống. Bởi vì mình nhắc là mình phải làm đúng theo điều kiện cái tác ý của mình.
Mình nhắc nó làm vậy, mình thở chậm vậy. Nó chừng một chút, một vài hơi thở, nó xuất hiện hơi thở tự động rồi. Do đó chúng ta tự động như vậy rồi. Chúng ta thấy khi mà hơi thở chúng ta có cái tự động nhắc thì nó hiện ra rõ ràng được rồi. Đó là cái kết quả của cái đề mục thứ 2. Các con nhớ chưa?
Mà nếu mà nó chưa kết quả được như vậy. Chúng ta tu tập để thấy được cái kết quả, để nắm cho vững hơi thở đó, 1 cái hơi thở.
Còn bây giờ hơi thở ngắn mà thấy nó an ổn thì các con chọn lấy hơi thở ngắn. Vì vậy, khi vào đề mục này các con nhắc: "Hít vô ngắn tôi biết tôi hít vô ngắn, thở ra ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn". Các con hít vô thở ra liền. Hít vô thở ra liền chừng một chút xíu thì cái hơi thở nó như con thoi đẩy ra, đẩy vô. Như vậy là các con đã chọn lấy hơi thở ngắn.
Còn cái hơi thở dài chậm thì nó chậm chậm, từ từ từ từ. Chứ nó không có đẩy ra, đẩy vô vầy đâu. Khi nào mà nó như con thoi đẩy ra, đẩy vô; đó là hơi thở ngắn.
Còn hơi thở dài, nó đi chậm chậm rồi nó đi từ từ, nó đi ra, đi vô nó làm vậy. Nó chậm mà nó cũng an. Nó đi như con thoi đó đẩy ra đẩy vô làm vầy; nó cũng an ổn chứ không phải không an ổn đâu. Nó tự động rồi, khi nào mà hơi thở ngắn, hơi thở dài chúng ta đã thấy chủ động được thì đó là cái đề mục này mình tu đã có kết quả rồi. Thì mình đi sang qua cái đề mục khác.
Cho nên khi hơi thở tự động được rồi và đề mục thứ nhất là nhiếp phục được vào hơi thở là không lộn. Đề mục thứ 2 là hơi thở dài, ngắn của chúng ta đã thấy sự tự động của nó được rồi. Thì đó là kết quả của 2 đề mục, thì chúng ta chuyển qua đề mục thứ 3.
Đề mục thứ 3: Đề mục thứ 3 thì chúng ta sử dụng cái hơi thở ngắn hoặc là hơi thở dài mà chúng ta đã chọn. Khi mà chúng ta vào thì chúng ta nhiếp phục hơi thở cho nó được. Bắt đầu chúng ta tác ý là nhiếp cho tâm chúng ta vào trong hơi thở xong rồi, thì chúng ta nương vào cái chỗ dài, ngắn của hơi thở mà tác ý dài, ngắn mà thấy hơi thở nó đã có cái sự tự động rồi thì chúng ta chuyển qua đề mục thứ 3 tu tập là chúng ta cảm giác toàn thân:
"Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra".
(38:48) Nghĩa là bây giờ hơi thở nó chậm như vầy thì chúng ta sẽ thấy từ ở trên này xuống dưới. Chứ không phải thấy ở chỗ lỗ mũi, biết ở chỗ lỗ mũi nữa. Nghĩa là chúng ta coi như là mất điểm tựa của cái tâm nó trụ. Không còn cái điểm trụ của nó nữa.
Cho nên đạo Phật rất hay, không cho chúng ta trụ ở trong chỗ nào hết. Chứ không phải là trụ nơi bụng phình xẹp. Không phải trụ là hơi thở biết ra vô có một chỗ này đâu. Mà hít ra vô là chúng ta thấy như là từ ở trên đầu xuống dưới chân. Mà thở ra từ dưới chân cảm giác lên tới trên đầu. Cho nên cái đề mục thứ 3 là: "Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra". Nếu mà chúng ta thấy cảm giác nhận ra cái thân không rõ thì chúng ta nên tác ý một câu khác hơn cái câu này. Nếu câu này nó khó nhận thì chúng ta tác ý như thế này:
"Cảm giác thân hành tôi biết tôi hít vô. Cảm giác thân hành tôi biết tôi thở ra".
Bây giờ các con sẽ cảm giác cái gì? Bây giờ thân hành là cái rung động của thân của mình chứ gì. Hít vô, mình nghe rung động nó tới đâu thì mình cảm giác tới đó, nó dễ. Phải không? Còn bây giờ nó cảm giác toàn thân. Cái thân mình cảm giác không khéo là mình bị tưởng.
Như là hơi thở mình hít vô tới đâu là mình cảm giác tới đó là coi chừng mình luồn theo hơi thở trong cơ thể. Như vậy bị một lớp tưởng thì nó sai. Cho nên chúng ta cảm giác cái thân của chúng ta qua thân hành. Hít vô thấy mình nghe từ giữa lỗ mũi mình nghe vô đây, lần lượt mình nghe cái rung động nhẹ. Nó từ ở trên thân mình tới dưới chân thì đó là thân hành.
Cho nên nếu mà câu tác ý đầu tiên: "Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô. Cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra" mà mình không có nhận được cái cảm giác thì mình tác ý một cái câu khác. Nó cũng cảm giác được: "Cảm giác thân hành tôi biết tôi hít vô. Cảm giác thân hành tôi biết tôi thở ra". Câu này nằm ở trong bài “Thân Hành Niệm”. Còn câu cảm giác toàn thân này nằm ở trong bài “Xuất tức, nhập tức”. Đó các con thấy không? Trong bài “Thân Hành Niệm”, nó rõ ràng hơn, nó dễ nhận xét hơn.
(40:37) Cho nên khi tu tập các con lưu ý. Bây giờ cảm giác toàn thân, tôi cảm giác không nổi. Cái thân nó không biết làm sao tôi cảm giác được. Nếu không thì là tôi nghĩ hơi thở nó luồn. Hít vô cái hơi thở nó luồn, luồn khắp trong cơ thể tôi đi thì tôi bị tưởng, tưởng mất rồi.
Vì vậy coi chừng tôi lại sai. Do đó nó bị một trạng thái tưởng. Bởi vì hơi thở vốn mục đích mình có thở tới phổi thôi, chứ mình đâu có thở dưới tới chân mình được. Mà mình đã có cảm tưởng, cái tưởng của mình, nó có thể thấy hơi thở đi tới dưới cái chân được.
Tưởng như vậy là nó sai, nó không đúng. Cho nên chúng ta phải rời câu tác ý, để một câu nói khác tương trợ, nhưng mà nó dễ nhận xét. Cho nên chúng ta tác ý: "Cảm giác thân hành tôi biết tôi hít vô. Cảm giác thân hành tôi biết tôi thở ra". Thân hành là sự rung động của thân mấy con. Đó là để cho mấy con nhận ra cho nó dễ. Như vậy là đề mục này nó làm cho các con không còn cái điểm tựa của tập trung ức chế tâm. Các con thấy chưa?
Đức Phật hay chưa? Dạy chúng ta cách thức để dời điểm tựa, mà không còn bị tập trung ức chế. Không còn đối tượng để mà gom tâm, để mà tạo thành một cái tụ điểm.
Bắt buộc thân của chúng ta, hoàn toàn là trong hơi thở của chúng ta, nương vào toàn thân của chúng ta. Cảm giác cái thân của chúng ta chỗ nào cũng biết hết. Nó làm chúng ta thích thú thì điều kiện chúng ta không có, không có quan trọng, không có cho nó là đúng. Nghĩa là khi có an lạc trên thân tâm của chúng ta thì chúng ta không chấp nhận. Chúng ta chỉ biết cảm giác toàn thân của chúng ta thôi. Chứ còn cái an lạc thây kệ nó, chúng ta không có quý nó. Chúng ta cho nó là ma. Chúng ta không chấp nhận nó đâu.
(42:21) Bởi vì cái trạng thái đó xảy ra như vậy là nó sẽ dẫn dắt chúng ta đi vào trạng thái của Không Tưởng. Nghĩa là nó an lạc rồi. Nó sẽ đưa chúng ta đi vào trạng thái Không Tưởng. Cho nên chúng ta không chấp nhận nó. Do đó chúng ta chỉ chấp nhận trên cái pháp tu hít vô, thở ra là chúng ta chỉ biết cảm giác. Còn sự an tịnh chúng ta không cần biết. Đó là các con làm sao mà loại trừ cái tâm này ra.
Thì lúc bấy giờ, nó làm cho các con có trạng thái an lạc thì các con tác ý:
"Sự an lạc này là do tưởng, xúc tưởng hỷ lạc hãy rời khỏi thân ta, không được ở đây. Ta chỉ biết có cảm giác thân, ta chỉ biết có cảm giác với hơi thở mà thôi".
Các con phải tác ý để cho tâm nó không bị duyên vào trạng thái của dục lạc này, trạng thái tưởng này. Chứ không khéo nó thấy an lạc, nó thích thì rất nguy hiểm.
Đề mục thứ 4. Đề mục này mới chính là chúng ta dẫn cái thân chúng ta vào an tịnh. Dẫn thân vào an tịnh để làm gì? Bây giờ Thầy ngồi đây mà hai cái chân Thầy nó đau, nó tê này. Thầy dẫn cho nó đừng có đau tê gọi là an tịnh. Còn nó không đau tê mà nó an tịnh coi chừng đó là dục tưởng hỷ lạc. Nó làm cho Thầy an tịnh, làm Thầy thích. Chứ đâu phải là nó tốt lành gì với Thầy.
Thầy thấy bữa nào mà nghe nó khinh an, nghe nó an ổn, nghe nó nhẹ nhàng. Nghe nó dễ dàng, Thầy thích quá. Trời ơi! Bữa đó tu ngon. Còn bữa nay tu sao không có, sao nó cực nhọc. Thì các con là bị ma nó gạt các con rồi, cho nên nó không đúng.
Bây giờ thân của các con, mục đích của đạo Phật đâu có dạy chúng ta đi tìm cái lạc. Mà có cái lạc đâu phải đúng. Cho nên các con nhớ. Đức Phật không có chấp nhận trong ba cái thọ: thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ. Ba cái này đức Phật không có chấp nhận.
Cho nên chúng ta tu tập là chúng ta ở trên pháp chứ không chấp nhận cái nào hết. Bây giờ trong khi nó không thọ lạc thọ khổ, các con tưởng nó là thật sao. Nó đâu phải, nó ở trong trạng thái không thọ lạc, thọ khổ thôi. Chứ nó đâu có đúng. Đức Phật đâu có chấp nhận nó. Cho nên cái khổ thì mấy con sợ này, cái lạc thì mấy con thích này đều là sai hết rồi. Rồi cái thọ mà không lạc, không khổ mấy con cho nó là đúng sao. Đâu có đúng.
Ba cảm thọ này, đức Phật không chấp nhận cái thọ nào cả. Cho nên khi ôm pháp thì biết ôm pháp thôi. Chứ còn nếu mà bây giờ tâm tôi thanh tịnh, tâm tôi này, kia, nọ là các con bị kẹt ở trong đó rồi. Các con nhớ chưa?.
Cho nên ở đây Thầy căn dặn rất kỹ không khéo rồi chúng ta lọt vào những cái lạc là thích, lại khổ. Khi mà nó đau, nó nhức, nó làm cho chúng ta trạo cử, cơ thể mệt nhọc, nó làm như khó khăn, nó làm như là không có tu được. Còn tâm thì nó vọng tưởng tới, vọng tưởng lui, nó tuôn trào ra đủ thứ. Thì lúc bấy giờ chúng ta bị thọ khổ rồi, chúng ta thối lui. Chúng ta không dám tu, chúng ta sợ hãi. Tất cả những cái này đều là những cái mấy con cần phải chiến đấu: lạc cũng không chấp nhận, khổ cũng không sợ hãi.Vì vậy mấy con mới có chiến thắng được nó.
(44:59) Bây giờ tới giai đoạn đề mục thứ 4 thì tự mấy con dẫn nó vào. Bây giờ thân các con này, nó bị con muỗi cắn này, các con dẫn nó vào để an tịnh, không cần phải lấy tay mà đập con muỗi hay gãi chỗ này cái đã. Nó không cần đâu. Bây giờ biết con muỗi đó rồi, thân mình bất an rồi, nó bị con muỗi cắn ngứa rồi; thì bắt đầu mấy con dẫn nó.
Đề mục này, nó dẫn để đẩy lui những chướng ngại ở trên thân con bằng cảm thọ của thân. Tức là có đau, có ngứa, có nhức gì đó thì các con đẩy lui nó ra. Để cho nó trở thành sự an tịnh của nó. Đề mục này nó giúp cho các con đẩy lui những chướng ngại trên thân. Do đó, các con sẽ thấy có chướng ngại, con muỗi cắn ngứa đây, thì các con không cần gãi. Các con chỉ nhắc để coi cái lực của mình tu như thế nào. Các con chỉ nhắc:
"An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra".
Các con cứ nhắc nó đi rồi các con nương vào hơi thở biết hơi thở ra, vô. Năm hơi thở các con tác ý một lần. Lúc bây giờ thân của con sẽ không còn cảm giác con muỗi cắn ngứa ở đây nữa, nó mất tiêu. Rồi các con cứ nhắc đi, nhắc lại, một lúc sau, các con thấy muỗi nó bay ở xa, nó không dám vô thân con đâu.
Cái từ trường của các con an tịnh. Tự cái thân của con toả ra một từ trường an tịnh. Nó bảo vệ cho con, không con kiến, không con vật gì lại cắn con, con muỗi gì cũng không cắn con hết. Đó là phương pháp của Phật để bảo vệ thân của chúng ta. Nó làm cho được an tịnh, mà không có vật gì xâm chiếm được.
Đó là cách thức tu tập. Những cái đề mục là phương pháp rất tuyệt vời và rất quý giá. Nhưng các con tu chưa tới, các con chưa thấy cái lực của nó đâu. Cái lực của nó rất mạnh.
Khi các con cố gắng, các con nhiếp tâm để vô một cái định, dùng đề mục thứ 4 này để giúp cho thân con thoát ra những bệnh tật, đau khổ nên các con tập cho kỹ lưỡng. Nó sẽ có một lực. Bởi vì phương pháp của nó.
Muốn cho thân tôi đừng đau khổ thì Định Niệm Hơi Thở vô, thở ra phải cần khéo tác ý. Các con nhớ bài này chưa? Nghĩa là có cái gì chướng ngại trên thân thì Định Niệm Hơi Thở là phải khéo tác ý thì nó sẽ hết. Như vậy đức Phật dạy chúng ta có những bài pháp rất là căn bản và cứu kính, rõ ràng, làm chúng ta thoát khổ.
(47:00) Đó là đề mục thứ 4. Khi mà các con nhắc như vậy mà con muỗi cắn, chân các con ngồi tê. Các con nhắc một chút, nó hết tê. Nó không còn thấy tê nữa, nó nghe an ổn cái thân của con.
Nhưng mà cái sức của các con, cái sức nhắc của các con ấy, các con chưa có đủ lực kéo dài 1 giờ. Thì ngay đó chừng 5, 10 phút, nó sẽ trở lại cái tê hoặc là cái đau. Do đó các con nhắc nó nữa thì nó mất không có còn đau tê. Lực các con có tăng lên.
Nếu các con nhắc mà lực đau của các con nhiều hơn cái sức lực của các con thì bình thường hàng ngày con cứ cố gắng con tập đề mục này để cho cái lực nó càng ngày nó càng tăng lên. Chứ còn bây giờ mình thử là mình thử ở trên cái cảm thọ của mình để xem lực của nó đẩy lui được mức nào.
Thí dụ như con ngồi 30 phút này, cái chân con tê này, thì con sẽ đẩy lui bằng cái sức lực của con. Con sẽ đẩy lui nó từ cái chỗ nó tê. Con sẽ đẩy lui cái lực của nó 5 phút. Cái lực của con sẽ đẩy lui 5 phút. Do đó cái lực nó 5 phút nó đẩy lui thì nó sẽ không còn thấy tê nữa.
Nhưng mà cái lực, nó không đủ 10 phút. Cho nên vì vậy sau khi qua 5 phút rồi thì bắt đầu cái chân con nó tê lại. Bây giờ con dùng cái lực của con mà đẩy nó lần thứ 2 nữa. Con thấy khó quá, nó không có còn hiệu quả nữa thì con biết cái lực của con trên câu pháp ý. Cái câu tác ý này con phải tu tập nữa. Cho nên hàng ngày chưa có đau gì thì con cứ ngồi con tu. Con tu tới chừng mà nó đau, con quyết định mình ngồi 1 giờ mình tác ý thì nó không còn đau nữa. Lúc bây giờ con tác ý 1 giờ, nó không đau nữa là cái lực nó đã 1 giờ.
Rồi bắt đầu bây giờ nó lên một giờ rưỡi mà con bị tê, bị nhức mà con tác ý nó còn đau thì tức là cái lực của con, nó có 1 giờ chứ không thể 2 giờ được.
Cho nên vì vậy mà con phải tu nó nữa. Tu cho đến khi con ngồi 3 giờ đồng hồ. Con tác ý không có cái đau nào vô trong thân con được thì cái lực nó là 3 giờ. Con hiểu không?
Cho đến khi cái lực nó đầy đủ là cơn bệnh trong thân con, cái bệnh gì con tác ý, nó đi mất hết là con đã làm chủ được bệnh.
Như vậy là sự tu tập của các con về đề mục này mà muốn làm chủ được nó thì nỗ lực tu. Nghĩa là chừng nào mà tất cả những bệnh khổ trong thân con mà tác ý, nó đi luôn, không còn tái đi, tái lại thì con thử cái sức con. Bây giờ ngồi 30 phút thôi. Con không thể ngồi 2 tiếng đồng hồ. Mà cái lực của bài pháp này, con đã tu tập đủ, con sẽ ngồi 2 tiếng đồng hồ không đau nhức. Hễ nó vừa hơi hơi con tác ý, nó chạy mất. Nó không có đau chút nào nữa và như vậy con biết cái lực của nó rất mạnh.
Nó mạnh hơn cái lực đau của con. Tức là nó mạnh hơn cái nghiệp của con. Cho nên chiến đấu nó thắng lại cái nghiệp của con được. Đó là cái cách thức Thầy muốn nói như vậy để các con biết là không phải các con tu sơ qua mà bỏ. Mà các con còn tu nhiều để là làm chủ được cái bệnh của các con.
(49:39) Cuối cùng các con biết như thế nào một cái người, người ta tịnh chỉ hơi thở, người ta tác ý. Người ta tịnh chỉ hơi thở cũng do cái lực đó chứ cái lực nào. Các con biết không? “Hơi thở mày tịnh chỉ, ngưng đi” thì lúc bây giờ ngay đó nó ngưng liền, tức là tác ý chứ gì. Lúc bây giờ hơi thở nó ngưng rồi thì người ta mới nhập Tứ Thiền chứ gì.
Hơi thở nó ngưng được như vậy. Do tác ý mà nó ngưng được như vậy thì các con nghĩ cái bệnh nó đuổi, có đi được không?
Bệnh gì nó cũng đi được hết chứ. Còn bây giờ các con tác ý thử hơi thở có ngưng chưa? Chưa, chưa ngưng thì cái bệnh của con nó còn cái lực của nó. Chưa hẳn là con chiến đấu, con có kết quả, con thấy là con có tác ý nó có giảm, nó có bớt, nó có hết. Nhưng mà thời gian rất ngắn nó chưa dài. Nó hoặc 1 tiếng, 2 tiếng, 10 phút, 20 phút, chứ nó chưa phải là hoàn toàn diệt sạch. Còn cái lực cuối cùng của con phải cái lực đến mức độ con tác ý mà hơi thở con nó tịnh chỉ, nó ngưng được.
Thí dụ con biết không khi mà nhập Tứ Thiền. Đầu tiên mà Thầy tác ý cho nó ngưng hơi thở thì nó ngưng chỉ có 1 phút nó thở trở lại.
Rồi Thầy tác ý lần thứ 2 nó ngưng được 2 phút, 5 phút rồi nó thở trở lại. Và cuối cùng Thầy tác ý cuối cùng. Cho nên trong giai đoạn tu tập để mà nhập các định đều là do phương pháp tác ý mà ra.
Như bài Định Niệm Hơi Thở đức Phật nói muốn nhập định nào thì phải tác ý, nương vào hơi thở mà tác ý. Do đó khi tác ý, lần lượt nó ngưng, lần lần nó mới dài ra. Nó dài ra cho đến khi mà Thầy ngồi suốt cả tuần lễ không thở. Các con biết cái lực nó mạnh đến nỗi mà nó kéo dài không thở cả tuần lễ được ấy. Đủ biết cái lực nó như thế nào để nó duy trì cái thân nó không chết, mà nó không thở. Phải biết cái lực nó mạnh mẽ vô cùng tận.
Còn mới đầu thì nó chỉ 1 phút, rồi 2 phút, rồi 5 phút, rồi 10 phút, rồi 1 giờ lần lượt mình thấy rõ ràng nó ngưng, nó ngưng từng chút, từng chút. Cái thời gian kéo dài lần lần ra. Cũng như bây giờ mấy con tác ý, mấy con thấy nó hết đau, nó hết tê. Nhưng mà có chút, nó trở lại. Tức là cái lực các con có bấy nhiêu đó thì các con phải tu Định Niệm Hơi. Đề mục này các con phải tu nhiều nữa chứ thì nó mới kết quả, chứ mấy con tu sơ sơ, làm sao có được. Bởi vì cái thọ của chúng ta là cái quả của cái nhân quả thân chúng ta rồi. Mà muốn chuyển hết cái nhân quả này thì phải có đủ một cái lực không tham, sân, si nó mới, nó mới chuyển nổi chứ.
Cho nên vì vậy mà mấy con cứ tập luyện cái này thì như vậy nó mới có kết quả của đề mục này để đẩy lui được những khổ nạn của bệnh tật chúng ta, cái đau khổ của thân. Cho nên nó không phải tập 1 ngày, 1 giờ hoặc là bao lâu nó sẽ kết quả. Mà kết quả của nó là đẩy lui tất cả những bệnh khổ trên thân con. Đó là khi mà cái đề mục đó có kết quả. Các con tiếp tục với cái kết quả, không phải đợi cho nó kết quả hoàn toàn.
(52:15) Nếu mà kết quả hoàn toàn như tịnh chỉ được hơi thở thì các con phải thấy rằng cái ly tham, ly sân, ly si nó phải hoàn toàn. Nó ly sạch nó mới có kết quả được như vậy. Chứ không phải dễ đâu.
Miễn là bây giờ các con thấy ngồi 30 phút mà các con tăng lên 1 giờ này. Các con tác ý bảo nó không có tê, không có nhức nữa thì nó nghe lời con, nó không tê nhức là con thấy nó có kết quả rồi. Con có thể đi qua đề mục khác để mà tu tập. Để những đề mục khác nó giúp cho tâm các con ly dục, ly ác pháp hoàn toàn.
Mà khi ly dục, ly ác pháp hoàn toàn thì bảy giác chi nó xuất hiện. Bảy giác chi xuất hiện, nó mới báo tin cho các con biết là cái lực an tịnh thân hành, nó đã trọn vẹn rồi. Bây giờ các con muốn ngồi mấy tháng, nó sẽ ngồi cho mấy tháng, chứ đừng nói chi là 1 tháng.
Nó không đau nhức. Nghĩa là bây giờ con ngồi đây. Con vẫn biết hơi thở ra, vô này mà thân của con nó không có làm sao nó đau được. Cái lực khi mà nó có tê, có đau nhức, con tác ý một cái là nó chạy hết mất. Nó cái lực của Trạch Pháp Giác Chi. Nhưng mà Trạch Pháp Giác Chi có cái lực là phải ly tham, sân, si. Tham, sân, si nó phải quét sạch hết, nó mới có được.
Cho nên các con thấy những đề mục sau của Định Niệm Hơi Thở là quán ly tham, quán ly sân, quán ly si đó. Cho nên bây giờ các con thấy, các con chỉ nhiếp phục được tâm của mình. Trong thời gian làm cho thân của mình an trú được. Nó an trú, nó an tịnh được là thời gian của nó từ 30 phút, 1 giờ thôi, không cần các con phải tăng lên. Bởi vì mấy con tăng lên mà cái tâm tham, sân, si của các con chưa ly thì các con tăng lên cũng không nổi. Cho nên các con muốn tăng cũng dậm chân tại chỗ mà thôi. Cho nên các con phải đi qua hướng khác để ly tham, sân, si cho sạch. Để 7 giác chi nó xuất hiện, nó xuất hiện đủ thì đề mục thứ 4: "An tịnh thân hành" có một lực trọn vẹn.
Bây giờ con muốn ngồi một tuần lễ con bảo: "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô", ngay đó là nó ngồi suốt một tuần lễ, nó an tịnh. Nó không bao giờ còn đau, nó không bao giờ còn nhức. Cái lực nó như vậy.
Còn nó có đau nhức cái gì, con tác ý ra nó hết liền. Đó là cái lực của nó khi mà tâm tham, sân, si mình hết. Còn bây giờ nó chưa hết, nhưng mà con tác ý là có hiệu quả. Để cho con biết pháp của Phật không có thời gian, tu là có kết quả. Cho nên ai ở đây, mấy con thấy dùng pháp Như Lý Tác Ý. Các con thấy những bệnh mà đau sơ sơ, các con tác ý là nó chạy mất, nó không có, nhưng mà biết rằng đó là cái kết quả. Nhưng kết quả chưa đến kết quả tận cùng của nó, kết quả viên mãn của nó đâu. Viên mãn là các con phải ly tham, sân, si cho hết. Tức là ly dục, ly ác pháp.
(54:27) Đó thì Thầy nhắc nhở như vậy. Cho nên những đề mục sau này dạy chúng ta quán ly tham, quán ly sân, quán ly si thì trước khi quán ly tham, sân, si cái tâm của chúng ta phải an tịnh cho được. Nghĩa là an tịnh cho được tâm của chúng ta trong 30 phút hoặc 1 giờ để rồi chúng ta mới quán ly tham, quán ly sân, si.
Còn nếu tâm của chúng ta chưa có an tịnh được mà chúng ta quán ly tham, sân, si thì hoài công vô ích mà thôi. Cũng như bây giờ cái tâm của chúng ta chưa có nhiếp phục vào đề mục thứ nhất, chưa có rõ được cái hơi thở thông suốt dài, ngắn, chưa có cảm giác được cái thân. Tức là chưa có rời được cái tụ điểm của nó. Nghĩa là cảm giác toàn thân là chúng ta cảm nhận ra toàn thân của chúng ta, chứ không phải còn bám ở trong một tụ điểm. Vì bám ở trong tụ điểm là một cái nơi nào đó để mà tập trung tâm của mình nơi đó, thì coi chừng chúng ta sẽ lọt vào tưởng. Cho nên chúng ta sẽ không bao giờ có kết quả được.
Vì vậy khi tâm chúng ta cảm giác được toàn thân rồi thì chúng ta mới dẫn cho thân chúng ta an ổn. Thân an ổn rồi thì tâm của chúng ta nó vẫn còn niệm xẹc. Tức là nó không có thành niệm mà nó nhá vô.
Mình ngồi yên tịnh như thế này. Tôi tu rất kỹ chứ tại sao mà nó nhá vô được. Muốn cho nó đừng có nhá những niệm vô trong khoảng nửa tiếng và 1 giờ thôi. Chứ ngoài 1 tiếng hoặc nửa tiếng, các con cũng chưa đủ sức để các con sẽ nhiếp phục được cái niệm nhá đó. Sức của các con chỉ 30 phút hoặc 1 giờ thôi thì các con chỉ tu ở trong khoảng thời gian ngắn đó để mình làm chủ cho được. Để cho mình tu các đề mục khác ở trong cái trạng thái thanh tịnh đó.
(56:04) Bây giờ mình phải tạo cho mình có một cái căn cứ bảo vệ. Cái căn cứ đó như là thời gian của nó, chỉ 30 phút, hoặc 1 giờ. Các con có cái căn cứ đó bảo đảm được cái sự yên ổn, sự hòa bình mà không có những cảm thọ, không có những loạn tưởng đánh vô chỗ này được. Không có cái sự hôn trầm, thùy miên xen vô chỗ này được.
Sự an tịnh như vậy thì lúc bây giờ con mới dọn dẹp. Con mới quán ly tham, quán ly sân thì mới có kết quả. Còn nếu chưa có dọn dẹp sạch như vậy, chưa có cái căn cứ địa. lát thì chuyện này xảy ra, lát cái kia xảy ra; thì con quét ở trong nhà con không có được đâu. Tức là những tham, sân, si mà vi tế ở trong này thì nó không có quét được. Cho nên vì vậy nó chỉ có thời gian ngắn vừa đủ để chúng ta quét dọn ở trong nội tâm của chúng ta. Tức là những vi tế. Những cái niệm xẹc đó là những cái vi tế của tham, sân, si mà chúng ta cần phải quét dọn.
Cho nên những đề mục sau là những đề mục dẫn tâm mình an tịnh. Cảm giác được cái tâm thì các con lưu ý: Các con nhớ là cảm giác được cái tâm của mình là cảm giác như thế nào?
Cái tâm thì nó có cái động và cái tịnh. Nghĩa là cái động là nó khởi niệm ra, nó động. Còn cái tịnh là nó không khởi niệm. Vậy thì:
"Cảm giác toàn tâm tôi biết tôi hít vô. Cảm giác toàn tâm tôi biết tôi thở ra".
Lúc bây giờ mình cảm giác cái tâm của mình. Chứ nó không phải như cái thân của mình. Cái thân của mình nó dễ cảm giác hơn cái tâm.
Còn cái tâm cảm giác nó rất khó. Do đó chúng ta cảm nhận ra cái tâm chúng ta nó có niệm hay là không niệm. Bây giờ từng hơi thở chúng ta hít vô thì chúng ta nhận từng hơi thở chúng ta. Hơi thở vô chúng ta thấy nó có động hay là không động.
Nó không động thì cái tâm của chúng ta hoàn toàn không có niệm. Do đó hít vô tôi thấy hoàn toàn nó không có niệm. Thở ra tôi thấy hoàn toàn không có niệm. Như vậy thì 5 hơi thở, tôi lại tác ý nó 1 lần. 1 lần ra, vô như vậy thì tôi cảm nhận lại 5 hơi thở nữa. Và cuối cùng 30 phút tôi xả ra thì suốt 30 phút tôi cảm nhận rất rõ là tâm tôi có niệm, không niệm tôi đều biết.
(58:05) Nhưng mà tôi chưa có dừng nó. Tôi biết rõ ràng là nó ít niệm chứ nó phải không niệm. Thí dụ như tôi cảm nhận khi 30 phút tu, tôi sẽ thấy nó có 3 niệm khởi, 3 lần xẹc ra thì tôi nhận nó 3 lần xẹc ra. Còn có buổi tu, tôi thấy nó không có niệm. Tôi nhận hít vô từng hơi thở, tôi nhận ra không có niệm. Rồi tôi thở ra cũng không niệm. Rồi tôi tác ý nữa, rồi tôi hít vô, tôi thở ra tôi không có niệm. Suốt 30 phút mà tôi thấy hoàn toàn là không có niệm. Tôi không nhận ra một cái gì khác hơn là cái niệm có hay là không niệm thôi.
Còn bây giờ có buổi sáng tôi tu không niệm nhưng buổi chiều tôi tu lại có niệm. Tôi nhận ra tôi biết nó có 3 niệm hoặc là 2 niệm hoặc là 1 niệm. Buổi tối tôi tu không niệm. Buổi khuya tôi tu có niệm. Và tôi cứ tu như vậy mà nhận xét như vậy. Để rồi tôi biết rằng là nó có niệm. Mà niệm này nó thô hay niệm này nó chỉ xẹc ra thôi.
Tôi chỉ nhận nó như vậy thôi. Rồi cứ tu, mà tôi nhận xét như vậy. Khi mà tôi nhận xét không còn sơ sót. Nghĩa là không còn sơ sót niệm nào qua sự nhận của tôi. Nghĩa là tôi không quên một niệm nào, khi nó hiện ra là tôi đều nhớ. Như vậy là kết quả của tôi trong cái đề mục này rồi.
Bây giờ tôi biết rằng thật sự ra trong thời gian tôi tu cái đề mục thứ 5 này. Để cảm nhận mà cái tâm của tôi, tôi cảm nhận nó thì tôi biết rằng tôi còn vọng tưởng, tôi còn niệm khởi chứ chưa phải hết.
Vậy thì tới đề mục thứ 4, đề mục thứ 6, tôi sẽ làm cho nó hoàn toàn, tôi dẫn cho nó không niệm nữa. Nghĩa là đề mục kia tôi cảm nhận nó có niệm hay không niệm. Để rồi tôi biết rằng nó không niệm. Mà hoàn toàn nó không niệm. Như vậy là tôi sẽ dẫn tâm của tôi vào sự an ổn, vào sự an tịnh của nó.
Còn nếu nó còn niệm mà tôi thấy nó còn niệm nhiều quá. Còn niệm nhiều quá thì tôi trở về với cái an trú thân hành của tôi. Bởi vì nó còn niệm là như thế nào?
(01:00:02) Trưởng lão: Chúng ta phải phân biệt được cái niệm phóng dật, và cái niệm phóng niệm.
Niệm phóng dật nó theo mấy căn kia mà nó khởi cái niệm, gọi là niệm phóng dật. Chẳng hạn là bây giờ có tiếng la. Tôi do tiếng la đó đánh vào cái căn tai, tức là cái nhĩ thức của tôi, nó làm cho tôi nghe thấy tiếng la của một con nhái. Một con rắn nó bắt con nhái. Nó làm cho con nhái la. Tôi khởi tâm tôi, tôi khởi cái niệm. Tội nghiệp con rắn quá. Cho nên tôi mới không có ngồi yên được. Tôi mới lấy cây ra tôi đuổi con rắn để cứu con nhái.
Do tiếng kêu của con nhái bị con rắn bắt đó, nó làm cho tôi khởi ra niệm thương xót con nhái. Như vậy đó là phóng dật, phóng dật theo các căn.
Còn cái ý của chúng ta, nó ở đây nó tự động. Nó không có bị âm thanh, sắc tướng bên ngoài mà nó tự động khởi ra một niệm, nó nhớ về gia đình, nó nhớ mẹ, nhớ cha nó thì đó là niệm kiết sử. Do đó nó khởi cái niệm mà không cần phải có âm thanh bên ngoài tác động. Chúng ta phải phân biệt được cái phóng niệm và cái phóng dật.
Cái phóng niệm là nó tự động nó phóng ra.
Còn cái phóng dật, nó theo âm thanh, sắc tướng bên ngoài mà nó phóng ra, gọi là phóng dật.
Ở đây đức Phật không có dạy chúng ta ức chế cái niệm của chúng ta. Nhưng nó thuộc cái niệm của chúng ta phóng ra, nó thuộc về ý căn.
Còn phóng dật, nó thuộc về các căn khác như mắt, tai… Thấy người đi qua cái, mình phóng theo cái người đó đàn ông hay đàn bà. Người đó là quen hay là không quen. Người đó lạ hay là không lạ. Người đó tàn tật hay là không tàn tật. Nó phóng ra nó phân biệt. Khi mà nó phóng ra nó thấy hình ảnh người đó như vậy, thì ý thức nó bắt đầu làm việc, nó phân biệt. Nói là cái ý thức, thật sự ra nó là cái nhãn thức của chúng ta, nó có cái biết của con mắt chúng ta.
Bởi vì 6 cái thức: Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức. Cho nên cái biết của chúng ta, nó sẽ phân biệt được người đó lùn, người đó cao, người đó mặc áo trắng, người đó mặc áo đen nó đều biết liền. Do phân biệt của nhãn thức chúng ta, nó làm liền thấy sắc tướng. Cũng như âm thanh nó đều nghe được âm thanh của nó, là do nhĩ thức của chúng ta biết được.
(01:02:10) Do ở đây chúng ta trong cái nhóm mà ý thức của chúng ta thì có 6 cái thức, ở trong đó có cái ý thức. Cho nên tất cả những cái này nó đều là hoàn toàn nó phóng dật.
Còn cái ý thức của chúng ta nó phóng niệm. Sau khi nó bị âm thanh đó, rồi cái ý thức chúng ta mới khởi niệm. Mới khởi lên niệm thương xót như Thầy nói là thương con nhái như hồi nãy. Đó là cái ý thức chúng ta khởi niệm ra, phóng niệm ra.
Còn tự động cái ý thức của chúng ta phóng niệm do chúng ta tu tập không tỉnh thức, còn mê. Cái sức tỉnh thức của chúng ta còn mê, nên ý thức dễ phóng ra niệm.
Tại sao vậy?
Tại vì chúng ta tu tập không kỹ. Tu tập không đúng cách. Tu tập không đủ niềm tin nên tu hơi lỏng lẻo. Còn chúng ta tu tập kỹ thì chúng ta sẽ tu tập với sức của mình. Tu tập đừng quá sức mình. Một là chúng ta tu tập kỹ. Tu tập quá sức cũng bị khởi niệm, nghĩa là nó sẹc vô liền. Do đó chúng ta biết rằng tại sao tôi tu tập kỹ mà nó còn phóng niệm. Là tại vì chúng ta tu hơn cái sức của chúng ta. Cái sức của chúng ta có 5. Mà chúng ta tu tới 10. Do đó là chúng ta sẽ bị nó phóng niệm.
Còn chúng ta tu mà nó không phóng niệm. Nói rằng chúng ta tu sẽ không phóng niệm thì coi chừng cái ý thức chúng ta không phóng niệm. Do chúng ta cố gắng tập trung cho nên có nhiều người tu tới căng mặt, căng đầu, nhức đầu là mấy người đó ráng cố gắng ức chế không phóng niệm.
Không ngờ là tâm của chúng ta do ly dục, ly ác pháp chưa hoàn toàn cho nên nó còn phóng niệm. Như vậy chúng ta phải quan sát lại phóng dật của nó. Nếu mà nó còn bị âm thanh, sắc tướng bên ngoài tác động. Nó không hết phóng dật thì chúng ta không nên ức tâm của chúng ta không phóng niệm.
Cho nên phóng niệm là cái sau cùng. Bởi vì ý căn của chúng ta, ý thức của chúng ta là cái tu sau cùng của nó để cho nó thanh tịnh, chứ không thể nào mà tu nó trước được.
(01:04:10) Trưởng lão: Cho nên không phóng dật là đầu tiên mà đức Phật dạy chúng ta. Như Thầy đã nhắc lại ở trong “Những lời đức Phật dạy” nói về cách thức chế ngự, chứ không được ức chế. Chế ngự cái tâm của chúng ta. Chế ngự cái lỗ tai của chúng ta. Chế ngự con mắt của chúng ta. Đó là cách thức chế ngự
Cho nên chế ngự tức là phòng hộ, hộ trì, làm cho nó đừng có duyên theo âm thanh, sắc tướng. Đó là cái đầu tiên để cho nó ngăn và diệt những các ác pháp ở bên ngoài tác động vào. Để rồi cuối cùng khi mà chúng ta ngăn được như vậy thì cái tâm tham, sân, si của chúng ta ở trong này, tất cả những cái thô ở trong này đều là ly ra. Mà ly ra như vậy thì niệm khởi chúng ta nó sẽ giảm xuống. Chứ không phải do chúng ta ức chế mà nó giảm. Các con hiểu cách thức của đức Phật. Đạo Phật tu là phải như vậy.
Cho nên phòng hộ, giữ gìn tâm không phóng dật là tức là cái chế ngự chứ không phải ức chế nó. Cho nên bây giờ chúng ta chế ngự như thế nào?
Thay vì đi thì chúng ta ngó qua, ngó lại. Nhưng mà chế ngự con mắt của chúng ta thì chúng ta đâu có ức chế đâu. Chúng ta nhìn nó xuống, chúng ta đâu có bắt nó nhắm đâu. Cho nên chúng ta có nhìn, nhưng mà nhìn nó xuống, không cho nó nhìn qua, nhìn lại gọi là chế ngự. Còn bắt buộc chúng ta nhắm mắt lại như vậy đó là ức chế, ức chế con mắt làm cho nó không thấy. Còn cái này cho nó thấy. Nhưng mà anh đừng có thấy bậy, thấy bạ xung quanh đấy nha. Anh thấy bậy, thấy bạ thì anh thu những hình ảnh ấy nó vô đây thì anh rối loạn cái thân, tâm anh à. Nó động, nó không độc cư được; do đó mình đi, mình cứ ngó xuống như vậy.
Tại sao mình đi mình cứ ngó xuống mà mình không nhắm mắt, mình nhắm mắt là ức chế nó. Còn mình đi mình ngó xuống là chế ngự nó.
Cho nên các con phân biệt được cái chỗ chế ngự và ức chế. Hai cái nó khác. Biết được như vậy thì chúng ta thấy rằng, những cái gì mà chúng ta làm quá căng thì cái đó là chúng ta ức chế. Cũng như bây giờ thay vì 1 ngày Thầy ăn 3 chén cơm. Còn hôm nay Thầy không có cho nó ăn. Thầy bắt nó uống nước không à. Như vậy là Thầy ức chế nó đó, cho nên nó khổ sở lắm. Thầy nói bây giờ tao cho mày ăn 3 chén cơm là đủ 1 ngày mày sống rồi; mà mày còn muốn ăn thêm là tao không cho. Chiều hay sáng ăn thêm là Thầy không cho. Tức là Thầy chế ngự nó chứ không phải là Thầy ức chế nó. Còn Thầy ức chế nó, Thầy không có cho nó ăn hoặc là Thầy cho nó ăn chừng chút thôi, tức là ức chế nó. Thay vì nó ăn 3 chén nó đủ nuôi cái thân mà bây giờ cho nó ăn có một muỗng. Như vậy là ức chế nó. Nó làm cho khổ quá. Cái đó là cái sai.
Cho nên mình phải phân biệt được những kinh Phật thường dạy chúng ta chế ngự tâm, chứ không phải ức chế tâm.
Các con hiểu chỗ này. Cho nên nhiều khi chúng ta nhìn hơi thở, biết hơi thở ra hay cố gắng Niệm Phật cho được nhất tâm đều là bị ức chế.
Còn mình chế ngự thì nó không phải vậy. Cho nên ở đây chúng ta có chế ngự tâm, chứ không phải ức chế tâm. Chúng ta nhìn hơi thở. Hít vô, thở ra tôi biết hít vô, thở ra. Đó là có chế ngự tâm rồi đó. Nhưng nếu tôi kéo dài hơn cái sức của tôi tới 10 hơi thở, 20 hơi thở là tôi bị ức chế. Cho nên 5 hơi thở tôi lại tác ý. Vì vậy mà ý thức tôi không bị chìm. Đó là tôi không ức chế nó. Các con thấy chưa?
Hiểu được như vậy thì các con thấy đường lối của đạo Phật dạy chúng ta rất rõ ràng và cụ thể. Vì vậy khi chúng ta tu tập Định Niệm Hơi Thở, những giai đoạn đầu tiên mà có kết quả. Từ đề mục thứ nhất cho đến cái đề mục thứ sáu mà chúng ta tu tập cho cụ thể, cho có kết quả rồi; thì đề mục thứ 7 cho đến cái đề mục thứ 18 rất là dễ dàng. Lúc bây giờ khi nào tâm chúng ta an tịnh rồi, thì chúng ta bắt đầu quán ly tham, quán vô ngã, quán ly sân, quán ly si. Tùy theo mỗi trạng thái tâm tham, sân, si của mình, ở trong thân, thì mình tự trạch pháp ra một cái câu để mà tác ý cho phù hợp, thì nó mới đúng.
(01:07:34) Chẳng hạn như trong này, các con thấy đề mục thứ 7 thì nó sắp xếp cho chúng ta là: "Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô", nhưng mà bây giờ mình thấy cái tâm mình nó còn tham ăn, thì mình đặt câu là “quán ly tham, quán lìa cái tham ăn ra”. Để cho nó lìa cái tham ra thì: "Quán ly tham tôi biết tôi hít vô. Quán ly tham tôi biết tôi thở ra". Mục đích mình lìa cái tâm tham ăn của mình, thì mình tác ý câu đó. Chứ không phải bắt buộc chúng ta theo thứ tự. Không phải tu lần lượt đề mục thứ 7 rồi thứ 8, thứ 9, thứ 10, tùy theo trạng thái tâm của mình.
Bây giờ mình dẹp được những trạng thái tâm của mình rồi bắt đầu những cái gì mà chưa quán, chưa tu thì bắt đầu mình sẽ tu tập cái đó sau, không sao hết. Còn thí dụ như bây giờ, tâm của tôi bây giờ tôi đang ngồi nó an tịnh như thế này, bỗng dưng nó buồn ngủ, nó hôn trầm, nó mất tỉnh thức đi, thì đâu có nghĩa là ngồi đây tôi quán ly tham nữa.
Tôi phải: "Với tâm định tĩnh tôi biết tôi hít vô. Với tâm định tĩnh tôi biết tôi thở ra" chứ. Mình có quyền mình có thể đưa cái đề mục này trở lên cái đề mục khác. Để cho mình thay đổi, để mình chiến đấu lại với cái nội thân của mình đang ở trong cái trạng thái nó đang bị ngu si, nó đang bị trạng thái hôn trầm, thùy miên, mình có quyền là đem đề mục thứ 17 trở lên đề mục thứ 7, mình tu tập chứ. Chứ đâu phải là bắt buộc mình phải theo thứ lớp đâu.
Các con hiểu sau khi từ cái đề mục thứ nhất cho đến đề mục thứ 6 tu xong rồi thì từ đây về sau các con có quyền thay đổi. Chứ không có cố chấp ở trên đó. Phải thiện xảo khéo léo mà. Đức Phật nói phải thiện xảo khéo léo mà. Các con nghe ở trong bài “thời Định Niệm Hơi Thở vô, hơi thở ra này cần phải khéo tác ý”. Phải khéo léo sự tác ý của nó. Cho nên các con phải biết thiện xảo, khéo léo, thì các con sẽ có kết quả.
Nãy giờ Thầy nói như vậy các con đã tiếp nhận những điều mà Thầy nói. Các con sẽ về phân ra cách thức trong thời tu tập của các con.
(01:09:39) Các con thấy, các con phải nhớ kỹ. Trước phải làm cái gì. Sau kế đó rồi phải làm tất cả những cái gì, rồi tuần tự tu tập kỹ lưỡng, hẳn hòi, thì Thầy tin rằng thời gian các con sẽ tu ngắn lại, không còn dài nữa. Mà kết quả rất mau. Các con nhớ chưa?
Như vậy là từ cái đề mục mà thứ 7 này trở lại tới đề mục thứ 18, thì các con có quyền thay đổi lên xuống tùy theo tâm trạng của các con. Đặc tướng của các con đang ở trong cái thế bị kẹt nào.
Bởi vì khi mà thân tâm các con được an tịnh rồi, thì các con chỉ sử dụng nó để các con đẩy lui chướng ngại đó. Còn hoàn toàn thân tâm các con nó thanh tịnh, nó không có chướng ngại một cái gì. Tâm con nó hoàn toàn nó giữ gìn đúng cái Giới Hạnh nó không có vi phạm thì lúc bây giờ các con cứ tuần tự mà tập từng cái đề mục đó. Chứ không phải là bắt buộc các con phải tập cái này trước, cái kia sau đâu. Không phải đâu. Các con lần lượt, tuần tự mà tập.
Còn có chướng ngại thì các con thay đổi liền. Nghĩa là có chướng ngại ở trên thân và tâm thì các con thay đổi đề mục mà tác ý. Đó là các con mới biết cách thiện xảo, mà tu cho đúng.
Còn nếu hoàn toàn không có chướng ngại gì trên thân, tâm con thì cứ theo từng đề mục. Thay vì quán ly tham trước, thì các con sẽ quán đúng như Thầy dạy: "Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô. Quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra". Các con cứ theo tuần tự mà tu tập. Mà nếu có chướng ngại thì các con thay đổi liền.
Dù là trong khi bây giờ không có chướng ngại con tu. Quán vô thường đi hay quán là thân vô thường, hay quán thọ vô thường đi, con đang tu tập cái đề mục đó thì bắt đầu bây giờ nó có cái chướng ngại nổi lên là các con sử dụng đề mục khác liền tức khắc. Chứ không phải là bắt buộc ở chết trong đề mục đó phải tu cho xong rồi mới tu tới cái khác thì không phải vậy đâu. Không phải cố chấp như vậy.
Để chúng ta học tập làm chủ tất cả những điều kiện tu tập của chúng ta. Và những đề mục sau này đặt thành vấn đề là thân, tâm các con yên ổn mà các con tu tập. Thì trong những đề mục này nó có một cái nội lực. Có nội lực tự động nó sẽ ly tham, sân, si các con ra. Nó sẽ giúp cho các con ly tham, sân, si ra. Và nếu các con muốn biết chắc chắn là kết quả của nó có hay là không?
(01:11:42) Thí dụ như bây giờ trong gia đình mình có chuyện gì làm cho mình sân, làm cho mình buồn phiền lên, làm cho mình giận lên, thì ngay đó, các con áp dụng thử. Các con sẽ thấy hiệu quả nó ngay liền.
Các con bây giờ tâm mình đang sân thì mình: "Quán ly sân tôi biết tôi hít vô. Quán ly sân tôi biết tôi thở ra". Con chỉ nhắc như vậy rồi con hít thở 5 hơi thở rồi con nhắc như vậy đó. Thì chừng 10 hơi thở con thấy sân của con mất tiêu à. Nó không còn nữa. Đó là áp dụng vào đời sống của mình liền tức khắc, một hiệu quả vô cùng tận. Nó làm cho chúng ta không còn sân nữa.
Còn thí dụ như bây giờ chưa tới giờ ăn mà nó khởi ý nó muốn ăn, nó thèm ăn, thì các con cứ ôm cái đề mục này các con tu tập: "Quán ly tham tôi biết tôi hít vô. Quán ly tham tôi biết tôi thở ra". Một chút xíu ấy thì các con thấy không thèm ăn đâu. Nó có hiệu nghiệm, hiệu quả vô cùng. Các con thử khi nào mà tới giờ này, mà nó đói bụng quá, nó muốn ăn. Nó muốn đi khất thực ăn rồi. Giờ này đâu phải là giờ mày ăn cơm, mà giờ nó đói bụng nè. Bởi vì hồi sáng hôm qua, chiều hôm qua không ăn. Tới bây giờ nó đói bụng, nó cồn cào, nó muốn ăn này. Con thử pháp coi nào, thử coi nó có hiệu nghiệm không?
Các con ngồi xếp bằng lại hẳn hòi, trước khi làm thì ước nguyện cho tôi ly dục, ly ác pháp hoàn toàn. Lòng tin tôi đặt trọn ở nơi đức Phật rồi. Bắt đầu các con tác ý. Các con nói:
"Quán ly tham tôi biết tôi hít vô. Quán ly tham tôi biết tôi thở ra".
Các con tác ý chừng 5 hơi thở tới 10 hơi thở. Các con thấy hết đói bụng rồi. Bây giờ nó không có còn rọc, rẹc trong bụng nữa, nó không còn đói nữa.
Các con mới thấy là Phật pháp là vi diệu lắm đấy, các con, mình bình thường, mình tu, mình không thấy gì. Nhưng mà đến khi mà có chuyện rồi mấy con thử quán coi. Cái bụng hết kêu ở trong đó rồi. Chứ sao hồi nãy nó kêu nó muốn ăn. Nó đói bụng thì đó là các con sẽ thử. Thí nghiệm thử pháp của Phật coi có phải có hiệu nghiệm không?.
Rồi các con nghe sao nó im re, nó không có sôi ruột, nó không có gì nữa hết, thì các con biết là Phật pháp hay thiệt. Cái bụng mình đang đói nó sôi đấy chứ. Nó kêu rọc rọc ở trong đấy chứ, mà sao bây giờ nó lại hết rồi. Nó có tác động rất mạnh đó các con ạ. Thầy nói các con thử làm đi. Các con tu đi rồi các con thử coi nó có hiệu quả lắm đấy.
Thầy nói Phật pháp rất là mầu nhiệm. Mầu nhiệm mà mầu nhiệm không có nghĩa là những Thần thông của phù thủy.
Thầy muốn nói Thần thông của phù thủy biến hóa tàng hình làm cái này, làm cái kia. Đó là Thần thông của phù thủy. Thần thông của phù thủy là như thế nào?.
Bây giờ con nhức đầu Thầy dùng nhân điện của Thầy. Thầy đưa cánh tay trên đầu con. Thầy ở đây, Thầy đưa ở đầu con, con hết nhức đầu. Đó là phù thủy mấy con. Phải nói cái lực mà trị như vậy gọi là phù thủy.
(01:13:58) Còn con bây giờ con thấy cái đầu con nhức này. Con ngồi im lặng: "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra". Một chút xíu đầu con hết nhức, là cái lực của con đã trị bệnh con. Cho nên nó chuyển nghiệp của con.
Còn cái người khác mà trị như vậy đó là ảo. Con đang làm ác con phải thọ khổ. Con không tự chuyển con mà người khác chuyển là con bị phù thủy rồi.
Thầy nói thật sự đó là loại phù thủy không à. Cho nên vì vậy mấy người mà trị nhân điện đồ, mà nói họ phù thủy thì họ ghét Thầy lắm. Mà sự thật ra phù thủy đấy mấy con. Đó là lực phù thủy. Cho nên mấy con nghe những người mà người ta luyện Thần thông, bùa chú là những cái loại phù thủy.
Còn đạo Phật không có dạy chúng ta luyện cái này đâu. Mà dạy chúng ta làm chủ được sự đau khổ của chúng ta. Bốn sự đau khổ của chúng ta là: Sanh- Già- Bệnh- Chết. Các con thấy chưa, nó khác, nó không có luyện cái này đâu.
Mà tự mình cứu lấy mình, không có cần ai hết. Mà cần người khác thì không được. Bởi vì tự thắp đuốc lên đi mà. Tự mình đốt cây đuốc lên để cho mình thoát ra những khổ đau này. Chính mình chứ không phải người khác được.
Người khác làm cho mình hết đau là người này chỉ là ảo giác thôi, chỉ là tưởng thôi. Chứ không thể nào. Mình hết được trong vòng 1 giờ, 2 giờ. Nhưng ngày mai, ngày mốt mình sẽ bệnh nữa. Cũng như một bác sĩ trị mình, cho uống thuốc mình. Khi mình hết bệnh này thì mai mốt có bệnh khác, chứ làm sao mà hết được.
Còn đối với con, con sẽ tu tận cùng cái thân con, nó không có làm gì mà bệnh được đối với con hết. Mà mỗi lần nó có bệnh, thì con đã tác ý bệnh nó chạy mất rồi, thì còn gì đâu mà nó lại bệnh con được.
Mặc dù là biết cái thân của chúng ta là duyên hợp. Nó là thân vô thường, cho nên nó phải bệnh, phải đau chứ không phải không đâu. Nhưng mà điều kiện là mình làm chủ được nó rồi. Đó là cách thức làm chủ mà. Làm chủ Sanh- Già- Bệnh- Chết. Cho nên mình làm chủ được nó thì nó không tác động được mình đâu.
Đó là phương pháp của Phật đã trang bị ở trong Định Niệm Hơi Thở này. Do như vậy mà mấy con phải tập luyện cho kỹ lưỡng, cho cẩn thận, cho nhiệt tâm, cho tha thiết thì nó sẽ giúp các con được an ổn. Nó là đệ nhất pháp của Phật, lấy thân hành nội làm cái nội lực để mà trị bệnh.
Còn Chánh Niệm Tỉnh Giác đi kinh hành, nó sẽ trợ giúp thêm nội lực này. Cho nên nó có cấu kết nhau. Nó gọi là bài pháp Thân Hành Niệm. Trong bài pháp Thân Hành Niệm thì có hơi thở và thân hành ngoại nó kết hợp. Do sự kết hợp đó nó hơi rộng quá nên Thầy kết hợp nó lại từ 5 hơi thở rồi kết hợp 20 bước đứng lên, ngồi xuống, như các con đã tập ngày hôm qua. Các con nhớ chưa?
Đó là bài pháp Thân Hành Niệm nó được kết hợp lại thành một cỗ xe kiên cố để nó phá vỡ đi những chướng ngại ở trên thân của chúng ta. Để chúng ta đạt đến cứu cánh cuối cùng là chúng ta có đủ 7 năng lực gọi là Thất Giác Chi. Từ đó chúng ta mới làm chủ được sự sống chết, chấm dứt luân hồi của chúng ta mới được. Hôm nay, Thầy giảng cho các con những điều căn bản là 6 đề mục đầu tiên.
(01:16:33) Còn những đề mục sau Thầy giảng cho các con. Từ đó các con tu tập có gì trở ngại thì cứ phải hỏi Thầy từng đề mục.
Còn nếu mà không hỏi thì sợ e các con không biết cách áp dụng, chứ dạy thì nó rõ ràng rồi. Nhưng mà cách áp dụng sợ các con chưa có kinh nghiệm áp dụng. Cho nên nhiều khi áp dụng nó chưa đúng, thì các con phải hỏi kỹ lại Thầy. Nhiều khi áp dụng vào đời sống của mình. Lúc bấy giờ phải sử dụng đề mục nào làm cho nó hợp, cho nó đúng. Và phải trạch pháp những câu tác ý nào để cho hợp với đặc tướng của mình. Khi các con bị chướng ngại gì trên thân mà các con chưa có trạch pháp được cái câu đó, thì Thầy sẽ gợi ý cho các con trạch pháp cho nó đúng. Để các con áp dụng vào Định Niệm Hơi Thở này, thì nó sẽ kết quả rất lớn đối với cuộc đời tu hành của các con. Nghĩa là nó trong những đề mục Định Niệm Hơi Thở này. Nó thiên biến, vạn hóa.
Nghĩa là tùy theo mỗi trường hợp của chúng ta, hoàn cảnh của chúng ta mà chúng ta trạch cái câu đó ra để rồi tác ý. Để mà dẫn cho thân, tâm chúng ta vào sự Giải Thoát, an ổn.
Như bây giờ các con về gia đình. Các con gặp những chướng ngại ở trong gia đình thì các con phải trạch ra một câu pháp để dẫn tâm các con vào sự an ổn. Làm cho chướng ngại trong gia đình của các con, nó sẽ hoàn toàn an ổn, mà không còn khổ đau. Chính những điều kiện đó nó sẽ giúp cho thân của các con và tâm của các con sẽ được an ổn trong những hoàn cảnh éo le và ác pháp.
Còn nếu mà các con không biết áp dụng thì đương nhiên là các con cũng khổ như mọi người khác. Người ta cũng sẽ chê cười mấy con. Tu hành mà theo Phật mà không biết làm gì. Các con nhớ những lời Thầy dặn.
Vậy thì hôm nay Thầy gửi cho mấy con 3 bài Định Niệm Hơi Thở về các con sẽ đọc và nghiên cứu lại. Còn mấy người kia thì mấy con có rồi phải không con?.
Phật tử: Dạ.
Trưởng lão: Có cái bài này rồi phải không?
Phật tử: Dạ.
Trưởng lão: À, có rồi thì thôi. Thầy gửi cho con. Thầy gửi cho con này, con sẽ đưa.
(01:18:18) Phật tử: Thưa Thầy! Con chưa hiểu cho lắm, mới sơ qua. Con xin Thầy từ bi chỉ dạy để cho con được tu rốt ráo ạ.
Trưởng lão: Bây giờ. Hồi nãy giờ thì con nghe về cái Định Niệm Hơi Thở rồi phải không?.
Phật tử 1: Dạ.
Trưởng lão: Nó có 4 cái loại Định mà chúng ta cần tu ở trên Tứ Niệm Xứ chứ gì.
Rồi đem để đây đi. Để trong, đi về ngoài ấy quên hết, mọi người ta hỏi không biết đâu mà trả lời. Bây giờ có cái máy này, nó trả lời dùm cho. Con vô trong này con.
Hồi nãy giờ Thầy giảng về Định Niệm Hơi Thở nó lợi ích rất lớn cho cái sự tu tập của chúng ta. Đương nhiên bài pháp Định Niệm Hơi Thở là trang bị chúng ta những lực lượng.
Con ngồi xuống đi con.
Những cái lực để mà chúng ta đẩy lui các chướng ngại pháp ở trên thân của chúng ta. Tức là mở màn mặt trận mà chiến đấu với cái tâm của chúng ta đó. Mặt trận sinh tử này, chúng ta sẽ bị giặc sinh tử đánh chúng ta mọi mặt, thì chúng ta có đủ cái vũ lực là 18 cái đề mục Định Niệm Hơi Thở này. Nó sẽ giúp chúng ta dùng những vũ lực đó, để đẩy lui các vũ lực của giặc sinh tử. Làm cho giặc sinh tử không có, đầu hàng, chứ không có bao giờ mà chúng ta thua nó hết. Nghĩa là phương pháp mà chúng ta tập luyện kỹ lưỡng 18 đề mục Định Niệm Hơi Thở này.
Còn bây giờ về vấn đề tu tập trên Tứ Chánh Cần, nó có 4 cái phương pháp tập luyện chứ không phải. Định Niệm Hơi Thở là một cái phương pháp ở trên Tứ Chánh Cần để ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện.
Như vậy là đức Phật đã trang bị cho chúng ta 18 đề mục của Định Niệm Hơi Thở là 18 cái lực. Và nó có thể nói rằng chúng ta thiện xảo khéo léo là vô lượng cái lực để mà chúng ta chiến đấu trên cái mặt trận sinh tử, nó đánh chúng ta vô lượng mặt. Bởi vì các con nghe đức Phật dạy Tứ Vô Lượng Tâm chứ gì?.
Cái tâm của chúng ta vô lượng bao nhiêu, thì ác pháp nó cũng vô lượng bấy nhiêu. Và tâm từ bi của chúng ta vô lượng bao nhiêu, thì ác pháp nó cũng vô lượng như vậy.
Cho nên đối với vô lượng tâm của chúng ta thì ở đây Định Niệm Hơi Thở này nó cũng vô lượng đề mục để chúng ta chiến đấu. Tùy theo mặt trận đó, nó đánh chúng ta ở mặt nào thì chúng ta sẽ sử dụng phương pháp ở đúng mặt trận đó mà đánh nó. Đương nhiên là chúng ta trên Định Niệm Hơi Thở đã có những phương pháp để đẩy lui rồi.
(01:20:43) Nhưng như vậy chưa đủ đâu. Chúng ta cần phải có sự tu tập những cái pháp khác như Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, tức là đi kinh hành, mà Thầy đã dạy các con. Mấy cái loại đi kinh hành, 4 cái loại đi kinh hành, chứ không phải là 1 loại. Các con nhớ chưa?
Đó các con biết rồi phải không?
(1:20:56) Trưởng lão: Bây giờ tới cái Định Vô Lậu. Định Vô Lậu là định dùng quán tưởng để mà phá vỡ đi những cái ngặt nghèo rất khó, khi mà Định Niệm Hơi Thở nó không đủ sức đẩy lui. Định Vô Lậu là sự chuẩn bị cho chúng ta có cái quán tưởng. Quán tưởng ở đây không có nghĩa là dùng tưởng uẩn của chúng ta, mà dùng ý thức tưởng của chúng ta mà quán tưởng.
Bởi vì mấy con cứ tư duy cho nó đúng cách là tâm của chúng ta nó phải phân biệt được. Từ cái ý thức của chúng ta, thì trong cái ý thức đó nó có cái ý thức tưởng. Cũng như bây giờ có một cái dĩa này, nó như thế này, trước mắt của Thầy thấy cái dĩa này là ý thức biết cái dĩa.
Bây giờ dẹp cái dĩa đi. Thầy ngồi đây. Thầy tưởng ra hình ảnh của cái dĩa đó thì cái này gọi là ý thức tưởng. Chúng ta tưởng ra một cái gì. Cũng như các nhà khoa học họ ngồi họ nghĩ tưởng cái này. Họ thí nghiệm cái này ra họ tưởng. Cái này có thể là nó sẽ sanh ra cái gì? Rồi họ mới cho vào phòng thí nghiệm.
Bây giờ họ thấy cái meo gì đó. Họ nghĩ là trong này có vi trùng, có loại vi khuẩn gì, họ mới nghĩ tưởng thôi. Chứ họ chưa chắc biết đã ở trong đó có.
Nhưng mà khi mà họ đem vào phòng thí nghiệm. Họ mới tìm ra thì họ thấy nó có đúng. Như vậy là ý thức tưởng của chúng ta nó đang dùng cái tưởng của nó để nó đi tìm một sự thật. Cho nên đó là các nhà khoa học thường sử dụng ý thức tưởng.
(01:22:38) Còn cái tưởng đồng cốt không phải ý thức tưởng mấy con. Mà cái tưởng uẩn của nó làm việc. Phải phân biệt được 2 cái loại tưởng. Những đồng cốt mà có ma nhập hay có hồn người nào nhập họ. Cậu, cô gì nhập. Nó nói chuyện này, chuyện kia. Nó nói bệnh, nói hoạn cho. Nó trị bệnh, trị này kia, thì đó là tưởng uẩn nó làm việc. Chứ không phải có ma, có tà gì hết đâu. Đó là cái tưởng.
Cho nên ở đây ý thức tưởng chúng ta nhiều khi chúng ta lầm tưởng uẩn với cái ý thức tưởng của chúng ta. Cho nên tôi đâu có tưởng cái gì đâu mà sao tôi thấy ma, tôi đâu có tưởng ma mà nó thấy ma. Nhưng mà không ngờ là tôi không tưởng ma, là ý thức tưởng tôi không có, nhưng mà cái tưởng của tôi nó làm ra ma có.
Các con hiểu phân biệt được cái chỗ này chúng ta mới thấy được. Tôi đâu có ngồi tôi tưởng ma. Mà tôi đâu cũng có sợ ma đâu. Nhưng mà tại làm sao tôi cũng thấy được bóng dáng ma đó. Tôi cũng thấy được những điều kiện đó là cái tưởng của chúng ta làm ra. Chứ không phải là ý thức tưởng.
Phân biệt được rồi thì chúng ta mới thấy được cái chỗ tu của chúng ta.
Vậy thì Thầy muốn phân biệt được cái Định Vô Lậu này là cái định dùng ý thức tưởng mà tu, chứ không phải dùng tưởng. Còn dùng tưởng mà tu tập đó là nhân điện, khí công.
Cho nên vì vậy trước khi mà chúng ta dùng cái tưởng đó mà tu tập thì chúng ta phải mượn cái ý thức tưởng mà tu, luyện nó, để cho cái đó hoạt động lên, cái tưởng nó hoạt động lên. Khi mà cái tưởng hoạt động lên thì chúng ta sử dụng cái tưởng đó mà làm cái chuyện mà trị bệnh. Làm cái chuyện mà mê tín. Làm cái chuyện mà này, kia, nọ đó là tưởng nó làm ra. Nhưng trước khi muốn sử dụng được cái tưởng thì phải dùng cái ý thức tưởng của chúng ta. Để mà sử dụng cho tâm ly dục, ly ác pháp thì đức Phật cũng khéo léo ở trong Định Vô Lậu này. Các con nhận xét cho kỹ. Bởi vì phải thấu đáo được pháp mà đức Phật dạy. Chứ còn nếu mà không thấu đáo được, thì chúng ta sẽ lầm, sẽ lạc đi. Đức Phật cũng biết dùng ý thức tưởng mà tạo lập nó. Cho nó thành một đối tượng để cho nó diệt cái lòng ham muốn của mình, chứ không có cái gì hết.
(01:24:53) Bây giờ đức Phật dạy chúng ta quán thân bất tịnh nè. Trước khi dạy chúng ta quán thân bất tịnh thì ông ta bảo mình phải đi ra cái rừng thây ma đó, xem nó bất tịnh như thế nào? Nó hôi thối như thế nào? Rồi xương cốt nó, gân xương của nó bị rã rụng như thế nào? Mình phải ra đó, rồi ra đó thì cái mùi của nó thối tha như thế nào? Rồi con mắt thấy nó sình nước vàng, nước cốt rồi nó đen, nó thấm như thế nào? Nó sanh chằng, sanh chẹo gì đó, đủ loại đó. Mình nhìn cho thấy thật kỹ lưỡng đàng hoàng. Tức là dùng cái ý thức của chúng ta thấy nó đàng hoàng. Rồi bắt đầu bây giờ mới về nhà, mới ngồi, mới tưởng nó ra. Bắt đầu bây giờ mới tưởng nó ra cái thân bất tịnh. Do đó mà chúng ta tưởng ra như vậy để làm gì?
Khi mà chúng ta tưởng nó ra trước mặt. Chúng ta thấy cái thây ma người đó chết. Rồi cái miệng, cái mồm, cái đầu, cái cổ. Nước vàng, nước gì nó chảy ra, nó thấy mà ghê gớm, mủ máu gì thấy ghê gớm lắm.
Do đó chúng ta thấy chúng ta nhàm chán cái thân. Quá sợ cái thân chúng ta. Trời ơi! Cái thân chúng ta thấy dơ bẩn quá.
Do như vậy rõ ràng là chúng ta ngồi đây mà chúng ta cũng nghe nói. Bây giờ cái người mà học nghe nói cái thân bất tịnh, thì người ta cũng chấp nhận. Nhưng mà sự thật ra họ đâu có thấy bất tịnh thật sự. Cho nên phải dùng qua một cái tưởng. Lúc bây giờ cái ý thức của chúng ta nó đến, nó nhìn thấy cái thân xác đó nó bất tịnh. Nhưng mà không lẽ nó cứ đeo cái thân xác đó hoài để nó thấy sao. Phải không?
Cho nên nó đâu có đeo được. Cho nên nó về, nó mới dùng cái ý thức tưởng của nó tưởng ra cái hình ảnh. Cho nên nó tưởng ra hình ảnh đó. Vì vậy mà bây giờ nó ngồi đây, nó không có cái thây ma. Nhưng mà nó ngồi nó tưởng cái nó thấy, có cái thây ma trước mặt của nó.
Trời ơi! Thấy cái thây ma, mình thấy ghê gớm. Rồi mới xét lại thân của mình, nó cũng là hôi thối, nó cũng bẩn thỉu, cũng sình chương, sính chướng nó cũng hôi thối vậy. Cho nên từ đó mình nhàm chán cái thân mình quá. Mình thấy mình ghê gớm cái thân của mình quá.
Đó là phương pháp để làm chúng ta ly cái chấp ngã của chúng ta. Ly chấp cái thân của chúng ta là thật. Đó là cách thức của Phật dạy. Chứ không phải là dạy chúng ta dùng tưởng để có Thần thông. Để làm cho người ta sợ, để làm bùa, làm phép để trị bệnh người ta lấy tiền ăn. Không phải cái chuyện này đâu.
Cái chuyện kia là chuyện của mấy ông Thầy phù thủy, ông ấy làm như vậy, biết dùng cái tưởng đó.
(01:26:58) Ở đây ông Phật dùng cái tưởng để rồi cái tưởng này nó thật sự cái tưởng của chúng ta, nó tạo thành một cái hình. Cái tưởng uẩn của chúng ta nó tạo ra thành hình. Bây giờ Thầy ngồi Thầy tưởng. Mới đầu Thầy dùng ý thức tưởng Thầy tưởng nó không thành hình giả đâu.
Nhưng khi mà Thầy dùng ý thức tưởng một thời gian. Cái tưởng ở trong tưởng uẩn của thân Thầy nó mới tạo thành ra hình ảnh để trước mặt cho Thầy. Tức là nó đem để cái thây ma trước mặt của Thầy.
Bắt đầu bây giờ Thầy mới ngồi đây Thầy tưởng mà hai con mắt Thầy nhìn thấy thật sự có cái thây ma nằm ở đằng trước. Mà nó sình lên. Mà nó hôi thối. Cái mũi của Thầy thường đâu có cái thây ma nằm đây. Bây giờ Thầy nghe nó thối, Thầy nghe nó thối đó là do hương tưởng. Còn cái sắc này gọi là sắc tưởng. Cái mùi hương do cái tưởng của Thầy nó làm ra. Cái mùi thối đó do cái tưởng của Thầy nó làm ra. Còn hình ảnh này do cái tưởng của Thầy làm ra. Chứ cái ý thức tưởng nó không có làm ra được. Nhưng mà mượn cái ý thức tưởng để mà luyện cái tưởng gọi là Quán Vô Lậu.
Nó làm cho cái lậu hoặc của chúng ta sạch. Nó làm cho chúng ta nhàm chán, làm chúng ta không còn chấp ngã, chấp thân của chúng ta nữa. Đó là quán tưởng. Cho nên vì vậy mà Quán xương Trắng. Một người đi ngang qua vầy. Bình thường thì Thầy không tưởng. Thầy không dùng cái ý thức tưởng của Thầy. Thầy thấy người ta đi, người đó cũng đẹp đẽ, cũng sạch sẽ, ăn mặc cũng đẹp sang, cũng tốt.
Nhưng mà Thầy tưởng cái người đó là cái bộ xương thì bắt đầu Thầy thấy cái bộ xương đi, không có thấy quần áo họ. Thấy cái bộ xương đang đi như vầy. Cái bộ xương rõ ràng đi vậy chứ không phải là thấy.
Đó là Thầy đã tu kết quả của pháp quán tưởng. Quán tưởng Vô Lậu tức là Định Vô Lậu đó là phải dùng tu tập như vậy. Cho nên bây giờ Thầy thấy sáng Thầy còn muốn ăn này, Thầy thấy còn thích ăn này. Ăn cũng còn muốn ăn ngon này. Đó vì vậy mà Thầy chưa có nhàm chán về ăn.
Cho nên Thầy quán thực phẩm bất tịnh. Mà có bài pháp, đức Phật dạy mình quán thực phẩm bất tịnh mà. Cho nên khi đó Thầy quán thực phẩm bất tịnh rồi Thầy nhàm chán quá. Thầy thấy thực phẩm nó thiu, nó thối, nó hôi, mùi nó thối quá. Thật sự ra bây giờ Thầy ưa ăn một món ăn một cái ổ bánh mì, hoặc là cái dĩa đồ ăn hay một cái tô súp. Nhưng mà bây giờ Thầy ngồi Thầy quán. Bản chất Thầy thích một tô súp như vầy, ngon như vậy. Thầy ngồi Thầy quán tưởng. Tô súp này nó thiu, nó thối rồi nó mùi hôi, nó chua chát nó bốc lên. Khi mà Thầy tưởng ra một cái là Thầy hết muốn ăn rồi. Mà hết muốn ăn là nhàm chán rồi chứ gì mấy con.
Cho nên cái tưởng nó giúp chúng ta rất mạnh. Cho nên từ đây về sau Thầy thấy ăn để sống, chứ thật ra đồ ăn này bất tịnh. Thầy không nhàm chán, ở trong này nó muốn ăn cái, Thầy tưởng ra, Thầy thấy thối quá trời, hết muốn ăn.
(01:29:43) Cái lực của nó đã thành, hiện ra được cái mùi chua chát, cái mùi hôi thối của cái thực phẩm thì còn muốn ăn cái gì nữa. Hết muốn ăn.
Thử bây giờ Thầy đem một tô phở như thế này mà nó mốc lên cái mùi thối như một con chuột chết. Như vậy thử mấy con có ăn được không?
Chắc chắn là thôi tôi nghe cái tô phở này, mà cái mùi thối như vầy là tôi hết muốn ăn rồi. Mà hết muốn ăn là cái gì mấy con biết không? Nhàm chán.
Đó là Định Vô Lậu, mấy con phải tu tập chứ. Nếu mà cái tâm mấy con còn sắc dục, còn ham ăn thì mấy con phải tu tập những cái quán tưởng này chứ. Thì nó mới nhàm chán được, mới giải quyết được chứ.
Con cứ nói. Con có hỏi gì để Thầy nói tiếp
Các pháp của Phật đều là trang bị cho chúng ta đủ cách. Bây giờ tâm của chúng ta khởi sắc dục. Nó khởi lên cái niệm, không phải thường đâu, không phải dễ. Nếu mà các các không quán được THÂN BẤT TỊNH này, thì mấy con không đối trị lại nó đâu. Nó ngầm ngầm đó, chứ nó nổi lên thì nó mạnh lắm chứ không phải dễ đâu. Cho nên khi đó, các con phải biết như thế nào, quán THÂN BẤT TỊNH, quán cho nhàm chán. Khi đó, các con nghe mùi thối của thân người là các con chán nhàm chán liền. Các con sợ về sắc dục. Nó đối trị rất mạnh. Vì vậy mà mấy con nên tập. Như bây giờ mình bị cái tâm sắc dục của mình, thì mình nên tu tập cho đến khi nó thực hiện ra được cái tưởng này thì mấy con mới có thắng nó được.
(01:31:33) Các con biết khi đức Phật sắp sửa thành đạo, mấy Ma Vương mà nó hiện lên phụ nữ, đó là tâm sắc dục của đức Phật đó, chứ không phải phụ nữ ma đâu. Mà chính cái tâm nó hiện ra những hình ảnh của người phụ nữ đẹp thế này, thế khác. Nó gợi lên. Như vậy, đức Phật chiến đấu như thế nào, mấy con biết không?
Nếu đức Phật không dạy những bài kinh này làm sao chúng ta biết Quán Thân Bất Tịnh. Làm sao nó nhàm chán được sắc dục đâu. Tới giờ phút cuối cùng, tất cả những cái chướng này đều nổi lên đánh chúng ta. Chúng ta phải biết cách thức tu tập rèn luyện từng chút để cho nó đủ sức chiến đấu. Chúng ta mới mở mặt trận để đánh nó một đêm. Nghĩa là đánh một đêm là nó hiện ra đủ loại ma hết.
Các con ôm pháp đi rồi nó đánh cái cảm thọ, rồi nó đánh cái thân nghĩa là cái cảm thọ nó đánh các con. Coi như là thân của mấy con bị đau nhức khắp cùng người con hết. Nghĩa là nó đánh tan nát con hết nhưng mà con vẫn bất động. Dùng các pháp để đẩy lui chướng ngại pháp: "An tịnh thân hành" đó là pháp để đẩy lui các cảm thọ.
Rồi nó đánh tâm con dao động về mặt tâm lý, khởi niệm này, khởi niệm kia, tuôn trào, các con dùng đề mục "An tịnh tâm hành" thì con sẽ chiến thắng nó được.
Còn nó đánh các con về si – hôn trầm, thuỳ miên, vô ký, gục tới gục lui, thì con dùng đề mục: "Với Tâm định tĩnh, tôi biết tôi hít vô. Với tâm định tĩnh tôi biết tôi thở ra".
Còn nó đánh tâm sắc dục khởi lên thì các con quán tâm bất tịnh lập tức. Quán đúng pháp là con đẩy lui, chứ không quán đúng pháp là con không đẩy lui nó được đâu.
Nó có bài bản, phương pháp hết chứ, đức Phật trang bị cho mình một cuộc chiến đấu với giặc sinh tử mà, nó đánh mặt nào, mặt nào là đức Phật đã biết hết. Cho nên trang bị mình đủ pháp.
(1:33:19) Trưởng lão: Mình tu cái này nhiều, mình tu cái kia nhiều mà mình không tu toàn bộ, nói chung là một người trở thành chiến sĩ ngoài mặt trận là phải biết sử dụng các loại vũ khí, thậm chí còn phải biết lái máy bay. Phải biết pháo, bỏ bom rồi sử dụng xe tăng… Tất cả pháp Thầy dạy, chúng ta đều phải được trang bị trong quân trường chúng ta tu tập.
Tu viện Chơn Như là quân trường luyện tập để các con tu tập, rồi sau đó mở mặt trận để các con tự chiến đấu. Thầy là bộ chỉ huy cho mấy con chiến đấu thì mấy con mới thắng chứ. Mấy con cứ tự tu coi chừng nó đánh mấy con tan nát không biết đường đâu mà tới.
Khi nào mở mặt trận? Nhiều khi các con điên khùng các con thức suốt đêm để đánh nó. Các con biết gì các con đánh. Các con đánh rồi nó đánh các con gục cho nên các con thấy sư Bửu Quán, sư Hiệp… nỗ lực một đêm, tính một tuần lễ cho xong đó. Mà đánh một đêm, hai đêm, ba đêm, nó quất lại, bắt đầu ngồi đâu nó ngủ đó. Đâu phải chuyện dễ đâu. Nó đánh gục luôn, không có biết làm sao.
Người ta trang bị cho đầy đủ rồi, bắt đầu Thầy điều khiển, hôm nay Thầy biết mấy con đã tu tập đúng có kết quả rồi đó, Thầy nói đêm nay là đêm chiến đấu tận cùng. Thầy là người chỉ huy mở mặt trận, các con mở màn các con đánh, bắt đầu 6h tối, suốt 24 tiếng đồng hồ đến ngày mai.
Bắt đầu Thầy đi vô, theo sát mấy con. Các con tập luyện ở trong đó, mấy con chiến đấu. Có cái gì, Thầy chỉ huy cho mấy con, chứ nhiều khi nó đánh cho mấy con rối, mấy con bỏ cuộc mà chạy.
(01:35:09) Cho nên muốn làm chủ sinh tử, muốn chấm dứt luân hồi, đâu phải chuyện dễ. Thầy thật là may mắn nhất trong cuộc đời của Thầy chứ nếu không Thầy cũng điên chứ không phải dễ đâu. Cho nên những bài mà Thầy ghi từ xưa đến giờ trong khi Thầy tu tập. Bây giờ nó còn đây, các con biết đó là bản đồ để cho Thầy chiến đấu.
Thầy lật ra Thầy tìm, đức Phật dạy gì đây, gặp vậy thì phải tác ý như vậy. Sau này các con gặp *"Người chiến thắng”* – Phần 2, các con thấy, khi gặp những trạng thái gì khó khăn Thầy phải lật ra những ghi chép của Thầy, những lời Phật dạy. Đọc lại những lời Phật dạy, Thầy trạch pháp ra những câu tác ý, vô mặt trận đánh liền cũng như mình gặp nó rồi mình chưa biết cách đánh, con bây giờ có Thầy chỉ huy mấy con mà thì Thầy cũng nhắc các con chiến đấu, thắng nó liền.
Còn Thầy thì phải lật ra coi xem bây giờ phải chiến đấu nó thế nào đây. Lật ra mới thấy Phật dạy chỗ này, trạch pháp ra mới đánh thẳng tay với nó, ôm chặt pháp đánh nó thối lui, nó chạy mất. Nhưng nó chạy mất rồi, nó đâu có để cho mình yên, nó lại đánh mình trận khác nữa, lúc ấy nếu mình biết pháp ngay liền, mình đánh nó, mình thắng nó luôn. Mình chiến đấu cho tận cùng.
Các con thấy đêm đức Phật thành đạo là một đêm chiến đấu tận cùng. Nghe nói Ma Vương, các con tưởng ma nó hiện ra thật à? Nội ngũ ấm ma của của mình, nó hiện ra, nó đánh mình tan nát hết chứ đừng nói chi ai nữa. Đó là ma.
Trong khi chuẩn bị cho mình đi sâu trên con đường giải thoát, làm chủ sinh tử, mấy con có duyên là từ Thầy rút kinh nghiệm rồi, Thầy dạy từng chút. Các con đừng có tu điên, tu khùng, các con cứ tập luyện cho nó thuần. Chưa có kết quả gì mà lo đánh một trận.
Chẳng hạn như chưa có biết pháo, rồi gặp pháo mình đánh không được rồi mình rút súng mình chạy hay sao? Các con thất trận là tại chỗ đó. Mình chưa có lái xe Tăng được mà mình lo đánh người ta, xe Tăng người ta ủi thì mình lo mình chạy chứ còn làm sao? Cho nên các con phải biết đánh xe Tăng, phải biết lái máy bay, phải biết bắn súng loại nào.
Cho nên đức Phật trang bị cho mình đủ loại vũ khí để mở màn đánh mặt trận sinh tử rồi. Các con nhớ Thầy dạy điều gì phải tập cho kỹ lưỡng, hẳn hòi.
(1:37:39) Trưởng lão: Như hồi nãy Thầy dạy, tín lực là đầu tiên để làm cho các con chiến đấu được mặt trận này. Để thành tựu được thì Tín Lực là đầu tiên, chúng ta phải làm sao cho trọn vẹn được. Các con nhớ chưa? Thiếu tín lực là mấy con không làm trọn vẹn được đâu. Đức Phật đã nói, trong Ngũ Lực thì tín lực, tấn tực… Có tín lực mới có sự siêng năng. Mà có tấn lực mới có niệm lực, định lực, mới có tuệ lực chứ.
Mấy con thấy nó đi từng bậc. Chứ có phải niệm trước à? Mấy người lo niệm để cho nó có niệm lực chứ gì? Mấy người sai. Làm gì có niệm được. Nếu mà mấy người chưa có lòng tin vào Phật thì mấy người làm sao mà có niệm lực. Cho nên sự siêng năng mới sinh ra được niệm lực. Niệm lực mới sinh ra được Định lực. Định lực mới sinh được Tuệ lực.
(01:38:34) Các con hiểu chỗ đó chưa? Nó tuần tự mà. Tín lực mà mấy con vô ngồi thiền, coi ông Phật cũng như thường. Tôi tu tôi làm Phật chứ ăn thua gì ông Phật đâu. Sự thật mấy con không có lòng tin Phật, tin Pháp thì mấy con làm sao?
Nhưng mà tin rồi mấy con nói tôi tin ở trong bụng tôi chứ tôi làm cái gì. Cái tin đó nó có thực hiện ra hành động mấy con không? Mấy con nói chứ sự thật ra mấy con tin khơi khơi. Còn bây giờ, Thầy đảnh lễ Phật hẳn hoi đàng hoàng rồi Thầy ngồi Thầy ước nguyện. Lòng tin của Thầy, Thầy ước nguyện tự nó có cái lực mạnh lắm. Khi đó, Thầy bắt đầu Thầy tu tập thì nó bắt đầu làm cho Thầy siêng năng, tinh tấn.
Còn đằng này, tu sơ sơ, bữa nào nó yên thì thôi, bữa nào nó không yên thì đi ngủ. Không tinh tấn do các con thiếu tín lực. Lòng tin thiếu cho nên mấy con coi thường. Mấy con có lòng tin thì mấy con đâu dám chơi kiểu đó đâu. Buồn ngủ cũng do thiếu Tín Lực chứ gì?
Thầy nói mấy con cứ xét coi, tu tập nó phải như vậy đó. Nó phải đi từng thứ lớp. Phật đã cho chúng ta bài kinh, bài Pháp đủ hết rồi. Nhưng chúng ta lười biếng, làm không đúng cách, làm không đúng bài bản. Làm sơ sót, tu thì chỉ biết tu thôi, mà quên những căn bản đó, mình không làm thì tu này nó không có tới đâu hết. Thầy nói như vậy, mấy con đủ biết rồi. Bây giờ, xét lại mấy điều Thầy nói ra mấy con thấy mấy con có sơ sót không? Nếu không có Thầy, các con nghĩ mình tu thôi chứ không có nghĩ những sơ sót. Có Thầy mới nhắc biết những sơ sót chứ các con tu mà có để ý những chuyện này đâu.
Bây giờ được chưa? Còn hỏi Thầy gì nữa không con?
Định Vô Lậu có những đề mục trong đó, nhớ coi kỹ. Phải đọc lại bài "Thân Hành Niệm" ở trong "Trường Bộ", ở trong "Trung Bộ" có, các con coi lại ở trong các bài kinh của Phật. Đức Phật dạy về Định Vô Lậu để quán Thân Bất Tịnh, quán Xương trắng, quán nước cốt, nước vàng…, quán tất cả những gì bất tịnh rồi quán Thực Phẩm Bất Tịnh.
Rồi con cứ trình Thầy đi. Con cứ ngồi tự nhiên, không có cần quỳ gì hết. Thầy ở đây, ai cũng như ai. Đức Phật ngồi ai cũng quỳ, chứ còn đừng quỳ Thầy.
(01:41:11) Phật tử: Người cha già dành tình thương yêu chúng con vô bờ bến. Hôm nay cũng đã được hai tháng mười ngày. Con vì nhân quả mà con phải ra về. Con rất cảm động khi được Thầy ra gặp. Con biết lòng thường thương yêu tất cả chúng sinh của Thầy mà nhân duyên của con không được ở bên ôm pháp của Thầy để tu hành cho rốt ráo. Con xin Thầy nhận cho con ba lạy để tỏ lòng tri ân thiết tha của con với vị cha già đầy tình thương yêu đã nuôi dạy con trong hai tháng qua.
Con kính bạch Thầy, con đã được Thầy nuôi dạy ăn học. Hôm nay trước khi ra về, con xin trình pháp để Thầy chỉ cho con nắm được những thành phần cơ bản của pháp hành Thầy đã dạy theo chánh pháp. Con còn sai sót thì xin Thầy từ bi chỉ dạy tiếp cho con để nắm được phần cơ bản để về tại gia con tu hành.
Con xin Thầy từ bi hứa khả cho con. Con kính xin Thầy dạy cho con pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi Thở, Thân Hành Niệm con có thâm nhập kĩ càng, Thầy dạy cho con để con tỉnh thức không chỉ trong bước chân đi, trong Định Niệm Hơi Thở, mà chủ yếu là con tỉnh thức được tất cả khởi niệm trong thân. Nếu khởi niệm ra thì con có thể nhận nó ra và sáng suốt đẩy lui nó ra khỏi thân tâm của con.
Cái thứ hai nữa là con xin Thầy cho con câu tác ý và phương pháp. Con xin Thầy dạy bảo con. Quá trình con tu Chánh Niệm Tỉnh Giác, theo cái nhìn của con là mình phải tỉnh thức tất cả mọi hành động trong thân và tâm, chứ không riêng hành động bước đi. Mình phải tỉnh thức đẩy lui tất cả chướng ngại pháp ra khỏi thân tâm của mình cho rốt ráo.
(1:44:03) Về Định Niệm Hơi Thở, 18 đề mục đó để ngăn tất cả chướng ngại pháp trong thân tâm. Giả sử như là thân bệnh có thể lấy một trong 18 đề mục để ngăn chặn không cho chướng ngại pháp nổi lên. Như thân con đau nhức con có thể: "An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra". Nương theo hơi thở đẩy lui chướng ngại pháp trong thân tâm. Còn nếu con buồn ngủ thì "An tịnh tâm hành…" Từ đó làm cho tâm con được tỉnh thức hơn. Trong quá trình tu hành, tâm con bất an thì "An tịnh tâm hành…". Đó là con áp dụng như thế.
Thầy dạy con 18 định này lần lượt, con học được những chỗ quán thân vô thường. Con kính bạch Thầy, con quán thân vô thường thì con trước khi ngồi kiết già, con quán thân con từ khi con còn trẻ cho đến khi con thành bà cụ chống gậy đi lom khom. Chống gậy đi không còn làm được nữa. Thân con biến đổi như thế rất vô thường đến ngày nó sẽ hoại diệt, chết đi. Con quán như thế.
Sau khi con quán từ đầu đến cuối xong, con mới ngồi dẫn tâm vào hơi thở. Con cảm thấy hơi thở rất nhẹ nhàng. Cảm thấy thân con rất là vô thường, không có gì đáng quan tâm, rất chán chường cho cái thân người. Con nghĩ chẳng qua thân tứ đại này để theo pháp của Thầy để tu thôi chứ con không có gì phải chăm sóc cho cái thân này cả.
Con xin Thầy sau này, 18 định này con dùng để quán dẫn tâm có được không Thầy? Giả sử có những tạp niệm nào nó xen vô con có thể quán tiếp. Nếu con xem xét niệm này khởi lên trong tâm con thuộc về nhân quả thì con lôi ra con quán theo nhân quả. Nó thuộc về 12 nhân duyên thì con quán theo 12 nhân duyên, nó thuộc về ái kiết sử thì con quán theo ái kiết sử, nó thuộc về ngũ triền cái con quán theo ngũ triền cái…
(1:47:25) Con quán như thế thì con cảm thấy con xả được tâm rất là nhẹ nhàng Thầy ạ. Con thấy rất nhẹ nhàng, khinh an. Mỗi lần con tập quán như thế, khi dẫn tâm con cảm thấy con có một lòng từ, mà từ con kiến đi dưới đất, con cảm thấy mình có một lòng rất thương nó, thương nó vô cùng. Trước đây con không thương con kiến mấy đâu. Mà khi con ngồi con quán xong tất cả thì con thấy so với thân người thì con kiến kiếp của nó rất ngắn ngủi. Khi mình đi mình dẫm lên kiến thì có thể nó chết. Con người ta rất vô thường không thể biết trước được. Con xin Thầy là con quán như thế có đúng không? Nếu mà đúng thì Thầy cũng từ bi chỉ dạy cho con.
Con kính bạch Thầy, đó là nó khởi niệm thô còn nó khởi niệm vi tế thì con thấy nó rất là khó. Giả sử như là sáng suốt, không sáng suốt. Tất cả thân tâm của con, con cảm thấy… chẳng hạn như là khởi niệm vi tế nó vụt một cái như một tia chớp, xong rồi nó biến mất đi có thể con không để ý gì tới, con cho nó qua. Cái đó có thể ở cái tâm. Còn nếu như mình quán xét thật kĩ mình để ý thật kỹ từ cái nhỏ nhất trong thân tâm mình, phải rất kỹ lưỡng. Mình cảm thấy thân, tâm mình nó sạch nhưng biết đâu, ở kiếp nào mình mới tạo nên hay là mình nợ ở kiếp nào. Kiếp này mình có thể sạch được thân tâm nhưng có cái vi tế nó rất nhanh như thế có thế nhiều kiếp nó kết tụ lại. Cái đấy con thấy rất là khó.
Lần này mình không quét sạch thì lần sau nó lại hiện lên. Cho nên con thấy rất là khó. Nếu mình quán xét không kỹ, nó rất là khó trên bước đường tu hành.
(01:49:43) Con kính bạch Thầy, con rất là muốn làm sao để được gặp Thầy, có những gì vướng mắc khó khăn con còn ở bên Thầy để Thầy dạy bảo con. Mà xa Thầy đây, hai ngày hai đêm đi trên ô tô mới tới được bên Thầy, rất là khó nên con rất là tiếc con đến đây, thời gian quá ngắn. Vì nhân quả, con kính bạch Thầy có một nỗi lo này, rất lo lắng trong lòng. Con xin Thầy một lời khuyên. Có những lúc con suy nghĩ chả lẽ mình bỏ chồng, bỏ con tới đây để ôm pháp của Phật để tu cho rốt ráo. Con biết được rằng được kiếp người rất là khó, gặp được Minh sư, gặp được Phật pháp lại càng khó hơn. Nhưng con nghĩ lại nhân quả thì trước sau cũng phải trả. Giờ mình bỏ chạy thế này, kiếp sau mình cũng vẫn phải trả.
Nỗi lo này canh cánh bên con, con không biết, con chỉ xin Thầy một lời tâm huyết, làm cho con giảm bớt nỗi lo này trên bước đường tu hành. Con rất thiết tha con đến đây, hiện tại giờ này con không muốn về nhà nữa. Con muốn ôm pháp của Thầy để tu cho rốt ráo. Kiếp này con không tu được. Trước mặt Thầy đây, trước mặt Phật, con nguyện là một là tu xong trong một kiếp hai là chết trên chánh pháp của Phật, con không thối lui.
Con xin Thầy từ bi chỉ dạy cho con. Con xin Thầy là trên Định Niệm Hơi Thở con theo hơi thở của con, con treo đồng hồ thì một phút con thở được 15, 16 hơi có được không Thầy? Nếu được thì Thầy cũng từ bi chỉ dạy cho con.
Về Thân Hành Niệm, con xin Thầy là về Thân Hành Niệm thì tập trung vào 6 căn, nghĩa là trong khi mình đi, mình im lặng, con tập trung 6 căn vào trong bước đi thì con không phóng dật. Khi con không phóng dật thì con không có một khởi niệm nào nữa. Con xin Thầy con đi tăng giờ lên có được không ạ? Thứ hai nữa là con đi Thân Hành Niệm khoảng 15 phút con đi được một vòng, như thế nhanh hay là chậm Thầy cũng cho con được biết. Và sau này khi đi thuần thục rồi, thời gian có thể tăng lên có được không Thầy? Con thưa Thầy, con không có được gần Thầy cho nên con phải hỏi cho kĩ.
Con xin Thầy là bác Hảo có nói là thời gian không cho phép nên Thầy không dạy được Thân Hành Niệm nên bác có nói để nhờ Nguyên Hạnh sẽ làm cho chị em biết. Con xin Thầy từ bi chỉ dạy cho con vì con tu cũng chưa đâu vào với đâu cả. Lúc nào con cũng vẫn giữ sự khiêm tốn. Con không dám. Tất cả các pháp Thầy dạy cho con, con thưa Thầy là con không dám vì mình chưa tu đâu vào đâu cả cho nên con không dám làm cho bất cứ một ai.
Không được sự chỉ dạy của Thầy cho nên con rất là lo, không biết là như thế nào cho chị em đỡ mất bài vì con xét thấy bản thân tu chưa đâu vào với đâu cả. Cho nên là con không dám. Khi nào được sự đồng ý của Thầy thì con mới dám. Con xin Thầy cũng từ bi chỉ dạy cho con.
(01:53:52) Trong quá trình con tu hành còn những lỗi nhỏ gì mà con chưa nhìn nhận thấy được thì con xin Thầy từ bi chỉ dạy cho con.
Tất cả từ đầu đến giờ Thầy dạy cho con, con cảm thấy thân tâm con rất khỏe mạnh. Con dạy rất đúng giờ giấc kể cả không có đồng hồ nhưng khuya đúng hai giờ là hai giờ. Con dạy con cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng, thân tâm con được khoẻ mạnh.
Con không có một cái gì chướng ngại cả mà con tập pháp Thân Hành Niệm, con cảm thấy rất là sung sướng. Trước đây lúc đầu con tập thì con cảm thấy nó rất khó khăn. Trong thời gian này con thưa với Thầy con tập được 1 tiếng, con cảm thấy tập xong người con rất là thoải mái, khoan thai. Con thưa Thầy là tất cả Thân Hành Niệm con cảm thấy tập trung ý thức của mình vào trong những hành động đó chứ không phải riêng một Thân Hành, không phải riêng một Định Niệm Hơi Thở, không phải riêng một Chánh Niệm Tỉnh Thức.
Con xin Thầy tất cả những gì khó khăn trong phòng hộ sáu căn, con xin Thầy là khi con về là con cũng giữ độc cư. Tất nhiên là giữ độc cư ở tại gia thì nó cũng rất khó khăn, nó không niêm mật như ở Tu viện này được. Nhưng con xin là sẽ tiếp duyên rất là ít.
Ban ngày con phải công việc, nhưng con rất giữ gìn việc tiếp duyên vì nó phạm vào hạnh độc cư. Con xin Thầy từ bi chỉ dạy cho con là về nhà bất kì câu chuyện gì cần phải trả lời, còn con xin giữ hành độc cư rồi sau này có được nhân duyên, con lại đi vào Thầy chỉ dạy cho con tiếp. Con buồn cũng có, vui cũng có nhưng chỉ mong sao Thầy còn mãi với chúng con để dìu dắt cho chúng con trên con đường để chúng con vượt qua được sinh tử luân hồi.
(01:56:37) Nhỡ sau này chúng con không có đủ nhân duyên đến đây gặp Thầy thì chúng con vẫn phải ra vào con đường sinh tử mãi mãi. Cũng mong sao có đủ nhân duyên, đến ngày hôm nay chúng con đến đây gặp được minh sư, gặp được người cha già đầy tình thương yêu vô bờ bến đối với chúng con. Chúng con vô cùng xúc động trước những lời tận tình chỉ dạy của Thầy.
Bạch Thầy, mỗi lần vào thất, tiếng Thầy văng vẳng bên tai con là con hãy cố gắng lên. Hãy vững tin lên. Đấy như là sức mạnh để đẩy con vượt qua tất cả những chướng duyên. Con xin Thầy suốt hai tháng trời Thầy đã dạy bảo con. Trước khi con đến đây, con còn ngây thơ lạc lõng, con không tìm ra con đường đi nhưng bây giờ con đã được Thầy chỉ dạy cho con đường đi. Đến ngày hôm nay con không biết gì đền ơn Thầy, chỉ biết tinh tấn tu hành để không phụ lòng Thầy đã nuôi dạy con. Con xin Thầy từ bi chỉ dạy cho con.
(01:57:59) Trưởng lão: Con ngồi xuống đi con. Con có xin lời khuyên thì trong sự tu tập con vừa trình bày thì rất đúng. Nghĩa là tu tập như vậy là đúng chứ không có sai. Còn có sai thì Thầy sẽ chỉ cho để biết cho cụ thể rõ ràng hơn.
Về tu Định Niệm Hơi Thở có 18 đề mục, con tu thấy có những kết quả nhưng chưa đủ, còn yếu lắm, cần tập. Sự quán xét không phải tỉnh thức trên bước đi, trên hơi thở không. Mà cần tỉnh thức trong mọi sự việc sắp xảy ra, có những sự việc để chúng ta biết xả tâm của mình.
Tâm chúng ta từ cái thô cho đến cái tế. Bây giờ chúng ta tu tập, chúng ta lo những cái thô, còn về những cái vi tế như con thấy nó xẹt qua, không thành cái niệm, nếu chúng ta không lưu ý sẽ thấy nó không có nhưng sự thật ra nó có chứ không phải không.
Đức Phật trang bị cho chúng ta dẹp từ cái thô cho đến cái tế. Các con thấy ban đầu chúng ta tu những bước đi kinh hành tỉnh thức, rồi đến 18 đề mục của hơi thở thì đó là những cái dẹp cái thô. Đến pháp Thân Hành Niệm đó là pháp dẹp những cái vi tế, cho những cái nhá không còn nữa, để cho 7 giác chi xuất hiện đủ. Các con lưu ý về phần thô, chúng ta tập 18 đề mục của Định Niệm Hơi Thở rồi Định Sáng Suốt, Định Vô Lậu, đi kinh hành. Tất cả những cái này, nó chỉ quét những cái thô của tâm chúng ta. Tâm tham, sân, si còn thô, nó quét ra.
Đến phần Thân Hành Niệm các con tập các con thấy khó khăn hơn hết, cái đó để quét những cái vi tế. Trong tâm nó có mầm tái sinh luân hồi là cái vi tế. Bây giờ chúng ta tu thấy có những niệm khởi ra về kiết sử như là hữu tham kiết sử, sân kiết sử, ái kiết sử… Tất cả kiết sử nó hiện ra thì chúng ta thấy chuyện đó. Như bây giờ con ở đây con tu mà còn nhớ về gia đình của mình, chồng con không biết nó ra sao. Những niệm ấy gọi là ái kiết sử.
Đó là phần thô, còn phần tế nó xẹt qua chúng ta không biết nó là niệm gì như là ánh sáng xẹt qua rồi nó mất. Niệm vi tế đó là mầm tái sanh luân hồi. Vì lòng thương yêu của mình trong thất tình lục dục nó còn. Niệm thô thì mình hiểu nghĩa lý của niệm đó, còn nó xẹt qua thì mình không biết nó là tham, sân, si…hay là cái gì mình không biết.
Đó là mầm đi tái sanh luân hồi. Vì vậy có phương pháp để diệt cái mầm đó. Pháp Thân Hành Niệm mới tạo thành cái lực, cho nên nó có 7 giác chi, 7 cái lực đó giúp ta thực hiện Tam Minh. Đến Lậu Tận Minh thì nó mới quét sạch.
Pháp Thân Hành Niệm giúp tâm định tĩnh ở trên Thân hành để rồi nó chế ngự tất cả những cái niệm không còn xẹt qua nữa thì Bảy Giác Chi mới xuất hiện được. Mà Bảy Giác Chi xuất hiện được thì lực của Bảy Giác Chi mới thực hiện các định, thực hiện được đến Tứ Thiền- tức là định thứ tư của 4 Thánh Định. Khi nhập được tứ thiền rồi thì ý thức, tưởng thức mới dừng lại, cho nên nó thức cái Tâm Thức dậy.
Cho nên cái lực của giác chi mới đưa tâm đến Túc Mạng Minh biết được nhiều đời nhiều kiếp của mình, dẫn tâm vào Thiên Nhãn Minh, không gian này bao la vũ trụ chỗ nào nó cũng quan sát được. Đồng thời cuối cùng của nó là Lậu Tận Minh, nó dẫn tâm vào, quét sạch những vi tế mà các con thấy nó nhá từng niệm đó. Nó nhá mình không có xác định được, không ngờ nó là cái vi tế của mầm tái sanh luân hồi. Cho nên Lậu Tận Minh vượt qua được thì mầm đó, nó quét sạch ra. Cuối cùng chúng ta mới chấm dứt được tái sanh, không còn duyên đi tái sanh nữa.
(02:03:32) Cái duyên trong đó là do hàng ngày mình tham, sân, si, ham muốn, tạo thành cái mầm đó. Cho nên mình đi trên đó. Cho nên khi chúng ta chết rồi chúng ta mất hết, không còn gì hết, chỉ còn cái mầm đó nó tiếp tục tương ưng với tham, sân, si của người giống như nó. Cho nên nó trở thành cha con, mẹ con của người đó. Cho nên cái mầm đó sẽ trở thành con cái hoặc làm con thú, con vật đều do cái mầm do hàng ngày mình huân cái tham, sân, si.
Còn hôm nay mình tu tập, mình huân cái không tham, sân, si…Cái không tham, sân, si đó không có còn tái sinh luân hồi nữa. Cái tham, sân, si thì nó tương ưng với mọi người; còn cái không tham, sân, si nó tương ưng với chư Phật. Nó tương ưng với Phật, nó phải sanh về cõi Phật. Nó tương ưng với chúng sanh tham, sân, si thì nó sanh làm con người con vật. Các con hiểu chỗ đó chưa?
Cho nên chúng ta không có cái gì còn của chúng ta hết. Chỉ còn cái tham, sân, si và cái không tham, sân, si. Như mấy con bây giờ là còn cái tham, sân, si nên do nghiệp lực đó đi tái sanh luân hồi. Còn người tu như Thầy, lực tham, sân, si nó hết rồi thì lực không tham, sân, si này nó tương ưng với chư Phật cho nên nó trở về với cảnh giới Phật, nó tái sanh trong cõi Phật.
Nó hết tham, sân, si thì các con sẽ tương ưng với chư Phật. Dù các con không muốn vào cõi Phật thì nó tương ưng, nó phải vào. Cũng như bây giờ mình không muốn sanh làm con người nữa mà vẫn phải sanh vì mình có tham, sân, si thì nó phải sanh thôi. Con hiểu chỗ đó chưa? Mình đâu có muốn được.
Còn bây giờ con gìn giữ tu tập cái tâm không tham, sân, si. Con không muốn sanh lên Cực Lạc, thiên Đàng nó cũng phải đi thôi. Tương ưng với nó thì nó mới đi à. Các con hiểu rõ không?
(02:05:20) Trưởng lão: Cho nên, vì vậy hôm nay từ những pháp tu tập, những ý con trình bày cho Thầy, con tiếp tục mà tu tập. Đó là tốt, con xác định đúng. Tu tập tỉnh thức đây không phải chỉ tỉnh thức ở dược đi hơi thở mà con tỉnh thức từng sự kiện xảy ra, từng đối tượng xảy ra, từng tâm niệm xảy ra để chúng ta quan sát đẩy lui nó.
Mình tập tỉnh thức không phải trên thân hành không. Từ tỉnh thức trên thân hành để thấy từng niệm khởi ra trong đầu phải thấy nó thiện ác. Phải thấy nhân quả, phải hiểu nhân duyên, phải thấy nó kiết sử, triền cái như thế nào để đẩy lui nó, không có được để cho nó làm cho tâm mình bị động.
Tỉnh thức trong sự kiện xung quanh, các ác pháp của chúng ta, phòng hộ mắt tai mũi miệng thân ý của mình. Có tiếng la cầu cứu mà mình lật đật mình chạy đi cứu người ta thì điều đó là điều thiện rồi nhưng vị trí mình đang ở đây là mình tu pháp gì. Mình im lặng như Thánh hay mình đang làm gì.
Bây giờ tôi đang ngồi chơi mà nghe người ta kêu cứu tôi chạy ra tôi cứu người ta liền là đúng nhưng bây giờ tôi đang ôm pháp Thân Hành Niệm tôi nhiếp phục mọi tiếng động không còn cho tâm động thì ai la gì thì la tôi không chạy tới, tại vì tôi đang làm công việc này nó phải im lặng như Thánh mà giờ tôi không im lặng như Thánh tôi chạy ra tôi bị động như vậy là ác pháp bao giờ nó cũng tác động mình được, những điều kiện để cho mình không bất động tâm chứ gì, nó sẽ làm cho mình động tâm chứ gì. Do đó khi tôi tu pháp Thân Hành Niệm hoặc là tôi đang ngồi hít thở, tôi phải tập trung trong hơi thở mà ở ngoài đó, họ có kêu cứu gì, đó là nhân quả của họ chứ có phải tôi làm cho họ khổ đâu.
Bây giờ con ngồi đây mà có con rắn nó bắt con nhái nó kêu mà con đang ngồi chơi thì con ra con đập cho con rắn nó chạy đi đừng có ăn con nhái, thấy tội, nhưng khi con ngồi nhiếp tâm, con khởi tâm thương con nhái, con ra thì đây là con đã sai. Con hiểu chỗ đó chưa?
Phóng dật- đó là cái sai. Cho nên trong khi đó mình đang ngồi chơi mà cái duyên mình ngồi chơi mà con rắn nó bắt con nhái, con nhái có duyên với mình mà mình không cứu nó là mình sai. Con hiểu chỗ đó chưa?
Do đó cái tỉnh thức của mình để biết cái gì, để biết cái làm đúng trong thời điểm đó, mình nên làm cái gì thì mình làm. Còn thời điểm đó không phải làm chuyện đó mà chạy đi làm là sai. Đó là cái các con phải tỉnh thức.
Nếu không tỉnh thức lúc nào các con cũng làm một cách vô minh. Không tỉnh thức như bây giờ đang ngồi hít thở mà nghe con rắn đang ở ngoài kia bắt con nhái kêu, mình lật đật chạy ra mình can nó. Đó là mình đã sai rồi. Mình không biết vị trí mình tỉnh thức, vai trò của mình đang làm cái gì. Đó là mình thiếu tỉnh thức.
Do đó học tỉnh thức là học như vậy để chúng ta biết ngăn chặn, làm cho chúng ta giải thoát không phải vì cái gì khác. Cho nên tất cả mọi chuyện đời, chuyện phải chuyện trái, chuyện đúng, chuyện sai mặc dù là bây giờ các con theo Thầy các con tu, mặc dù người ta mạ nhục người ta, nói Thầy cái gì thây kệ họ. Các con bỏ đi hết, không trả lời gì hết thì như vậy các con mới giữ được tâm bất động của mình chứ mấy con thấy vì Thầy, Thương Thầy tội Thầy quá. Mấy con thấy họ nói sai vậy, buộc lòng phải trả lời họ bằng cách này hay cách khác. Như vậy các con cũng không thua gì họ. Cho nên các con không trả lời gì hết. Họ nói gì thì nói.
(02:08:51) Mặc dù mình thương rất Thầy nhưng ăn thua gì họ nói mấy chuyện đó, với Thầy khen chê không quan trọng đâu mấy con. Mấy con cũng học như Thầy không quan trọng gì đâu. Vì vậy nó mới đúng.
Cho nên ở đây, trong Tu viện có một cô còn nhỏ tuổi hơn mấy con, chừng hai mấy, ba mấy tuổi à, không có lớn mà Thầy đã dạy cô đã tu mà mấy con đọc trong cuốn "Những điều tu sĩ, cư sĩ cần nên biết" trong tập 5, con có nghe cô Nguyên Thanh chứ gì. Cô có viết thư cô gửi cho Thầy, cô cũng nói về sự độc cư, giờ Thầy đọc lại bức thư này để sau này, tập "Vườn thơ Nguyên Thuỷ", nó cũng có những bài thơ mà qua công phu tu tập cô đã đạt:
"Chớ có khuyên ai, nhắc nhở ai
Giữ tâm tỉnh giác, chứ để phóng tâm
Phóng tâm, phóng dật bao ngày
Tu hành uổng phí thời gian qua rồi
Tháng năm chồng chất tuổi đời
Tuổi đời thêm lớn, sân si càng nhiều
Tóc xanh rụng bạc ngày nào
Khổ lụi đau xót da mồi nhớ hôm
Nhớ hôm vì khéo vụng tu
Cho nên khổ sở thân tàn ngày qua
Ngày qua nhớ nghĩ than ôi
Xót đau chuyện cũ đã rồi sao đây"
Có phải các con thấy mình có khuyên, có bênh vực Thầy, cũng là phóng tâm, phóng dật. Mục đích của chúng ta như các con đã đọc sách của Thầy, các con thấy những lời khuyên của đức Phật như "Những lời Phật" dạy trong tập 2, gần đây các con đọc cuốn "Đường về Xứ Phật", Thầy có bổ sung thêm Tập 6.
Trong những bài kinh pháp cú, đức Phật dạy tâm không phóng dật đó, Thầy cũng ghi ra Thầy cho các con thấy tâm không phóng dật rất là quan trọng. Mọi chuyện ở ngoài ai làm gì thì làm.
Như chuyện chị em ở ngoài Hải Phòng, có chuyện này chuyện kia cũng làm cho con động tâm thì ngay đó là khuyết điểm của con. Cho nên con xả, tôi không cần biết, tôi vô đây tôi tu để tôi được giải thoát. Tôi làm chủ được sự sống chết là tôi báo đáp ơn Thầy, ai nó gì thì nói, ai làm gì thì làm. Chuyện của mấy người không phải quan trọng với tôi. Nhiều khi chuyện của mấy người làm mà rất động tâm cho nên nhất định là không lưu ý đến mấy chuyện đó. Tôi không cần hội họp, tôi không cần mấy chuyện đó, cho nên mấy người phải ráng tu cho mình đi. Thầy khuyên con cái ưu và cái khuyết để con thấy cái chỗ mình xả tâm là quan trọng.
(02:11:32) Cho nên mình tập tỉnh thức để làm gì? Để xả tâm, không cho ác pháp bên ngoài tác động vào mình. Tỉnh thức ở đây mình tập trên từng hành động, mà thậm chí như cha mẹ mình, kể cả Thầy người ta nói nặng, nói nhẹ mà mình vẫn thản nhiên. Không phải mình thản nhiên mà mình nỗ lực tu không phóng dật để mình được giải thoát chứ không phải thản nhiên bằng cách mình giận họ hoặc bằng cách mình chịu thua họ đâu.
Chúng tôi không trả lời mấy người, tôi không nói mấy người sai, tôi luận mấy người đúng. Ở đời, cái nào đúng, cái nào sai? Chỉ có cái tôi nói cho mấy người biết tôi làm chủ, tôi được giải thoát, tôi không phóng tâm, phóng dật. Chỗ tôi làm chủ được sinh tử này, tôi chứng minh, Thầy tôi dạy như vậy không sai đâu.
Tôi nói bằng hành động chứ tôi không nói bằng ngôn ngữ với mấy người đâu bởi vì tôi nói bằng ngôn ngữ với mấy người là tôi chỉ cãi lộn với mấy người thôi. Không có hay ho gì đâu. Tôi chỉ nói bằng hành động của tôi. Bây giờ tôi làm chủ được bệnh nè, làm chủ được chết, làm chủ được tất cả những cái này nè. Đó là hành động mà Thầy tôi dạy, mấy người làm được chưa mà mấy người nói. Tôi không nói lời nào nhưng tôi nói trên hành động tôi làm việc. Do đó mấy con ráng tu đem lại sự an vui cho gia đình của mình.
(02:12:47) Trưởng lão: Mặc dù trong gia đình của mình nó không có đủ điều kiện, cái duyên của Phật pháp, còn sống trong nhân quả. Mà có nhân quả thì nó phải có thiện ác, mà có thiện ác thì phải có những điều trái ý nghịch lòng, có những sự làm mình phiền não. Do đó mình tu tập ở đây, mục đích mình biết nhẫn nhục, tùy thuận bằng lòng trước mọi hoàn cảnh.
Người ta đang ở trong ác pháp mà mình giữ riêng mình làm sao được. Mình phải tùy thuận họ mà không bị họ lôi cuốn vào ác pháp.
Ví dụ như giờ các con về gia đình thì các con phải nấu cơm nhưng bây giờ người ta chưa hiểu Phật pháp người ta đâu có ăn chay được như mình, người ta còn ăn thịt ăn cá thì mình phải làm sao giờ? Mình là người ăn chay, làm sao mình đi làm thịt cá được. Mình tìm mọi cách mình gỡ cái rối này chứ không bàn tay của mình vẫn vấy máu đổ thịt rơi của loài chúng sinh.
Mình tu tập tâm từ bi hỉ xả, mình rất thương yêu chúng sanh mà hàng ngày phải thấy như vậy thì sao đành. Nhất là mình lại kho nấu nướng thực phẩm để cho những người thân của mình ăn nữa. Mình đau xót lắm. Nhưng nếu không làm thì trong gia đình mình không được. Chồng con sẽ buồn phiền thế này thế khác. Cho nên mình phải tìm mọi cách.
Nếu mà nó thuận thì chồng con sẽ ăn chay hết, tốt quá. Nếu mà nó không thuận, người ta còn đang ô nhiễm ác pháp cho nên người ta huân những đau khổ đó, người ta không có ngăn chặn được tâm thèm thịt cá của người ta. Do đó mình cũng không nên thúc ép người ta bằng cách này, bằng cách khác.
Nhưng mình tìm mọi cách, mình nói rất là tha thiết với chồng con: “Mẹ hay em sẽ làm hết tất cả công việc trừ ra có điều kiện là giờ em đã đi tu theo Phật nên trước cái sự sống chết của loài chúng sinh, tâm của em không có nỡ, nhưng mà em sẵn sàng bây giờ về gia đình khi mua con vật đó về thì anh hay con làm giúp cho em”.
Mình nói với tâm thành khẩn tha thiết của mình thì chồng hay con của mình không nỡ để cho mình làm cái vật đó thành cái thực phẩm cho họ ăn. “Nếu thực sự em làm cái này cho anh hay mấy con ăn thì tội nó còn nhiều bởi vì chính em rất đau lòng thì cái sự đau lòng của em với chúng sinh, nó gây ra sự đau khổ cho anh với các con nhiều. Cho nên bây giờ anh với các con không ăn chay được, còn ăn mặn, đó là cái nghiệp cho nên em không có khuyên, không có cấm cản mà muốn ăn thì giúp cho em để giảm đi cái lòng đau khổ của em là cái thứ nhất. Thứ hai là giúp giảm đi sự đau khổ bắt một người ăn chay làm thực phẩm cho mình ăn thì tội lắm.”
Mình đánh thức được lương tâm người ta, người ta tư duy suy nghĩ, người ta biết thương mình, không để mình mất đi sự tu tập của mình. Cứ thành thật mà nói thôi, Thầy nghĩ mấy con khéo léo thì mấy con sẽ giúp gia đình của mình. Từ chỗ người ta hiểu người vợ người ta tu tập như vậy, biết thương yêu như vậy, biết đâu chừng sẽ chuyển hoá người ta sẽ ăn chay luôn.
(02:16:32) Trong gia đình mình sum họp nhau đều là ăn thực phẩm thực vật tránh đi sự đau khổ của các loài chúng sinh. Mình chỉ ước ao thôi nhưng biết được đâu vì lòng thành thật của mình, nói lên cảm nghĩ của mình đối với chồng con sẽ làm xúc động, có niềm thương yêu sâu sắc hơn.
Các con nhớ những điều đó là những điều khéo léo. Thật sự ra mình tu theo Phật mình ăn chay rồi, thậm chí mình còn ăn ngày một bữa nữa mà phải làm cho mọi người ăn trong những thực phẩm rất là đau khổ. Máu xương chúng sanh quá chồng chất.
Các con phải thiện xảo khéo léo. Biết thiện xảo khéo léo như vậy là các con biết tập tỉnh thức để mà sử dụng cái tỉnh thức đó trong hoàn cảnh của mình để cho mình hoá giải được ác pháp của thế gian. Bởi vì các con cứ nghĩ khi chúng ta sống trong thế gian này mà người nào cũng sống trong thiện pháp, thương yêu từ loài vật nhở đến loài vật lớn thì thời tiết của chúng ta không có lũ lụt, mưa gió thuận hoà không có nghịch, không có động đất rung chuyển, sụt chỗ này, chỗ kia đâu.
Vì chúng ta sống ác, bầu không khí của chúng ta tiếp nhận từ trường ác của chúng ta. Hàng ngày nó có những gian xảo, phóng ra những từ trường ác đó làm cho bầu không khí của chúng ta bị rối loạn. Vì vậy chỗ này nắng hạn không có nước uống còn chỗ kia lũ lụt, bao nhiêu người chết, chỗ nọ sụt đất, hoả hoạn…làm cho người ta rất khổ sở.
(02:18:14) Mà ai làm, đâu phải thời tiết làm, chính chúng ta thải ra từ trường ác nên nó thành như vậy. Nhưng đôi mắt của con người chúng ta làm sao thấy được điều này. Cho nên chúng ta cứ làm ác, nhồi nhét trong thân của chúng ta biết bao sinh mạng chúng sanh mà chúng ta đâu biết. Thân chúng ta, các con nghĩ những người ăn mặn thì thân của họ là mồ chôn biết bao thân mạng của chúng sinh. Heo, gà, vịt, cá, tôm ở trong đó. Là nấm mồ của chúng đó. Thân chúng ta là nấm mồ thì thử hỏi nấm mồ đó có sạch sẽ gì đâu mấy con. Các con cứ quán xét xem có phải đúng không?
Ở đây tu theo Phật từ cái thân chúng ta là mồ mả của các loài chúng sinh trở thành một cái núi trong sạch, thanh tịnh cho các bậc tu hành ở. Chúng ta thấy nếu thân chúng ta mà thanh tịnh trong sạch, không phải là cái mồ nghĩa địa thì nó là hòn núi trong sạch để chư Phật ở.
Ở trong thân thanh tịnh thì nó là ngọn núi trong sạch, còn nếu mà nó trong sạch thì nó là Cực Lạc giải thoát. Nếu chúng ta cứ thu những loài chúng sanh vào trong này thì nó thành cái nghĩa địa rồi. Mà cái nghĩa địa thì nó ô nhiễm ghê gớm lắm mấy con. Có phải không?
Cho nên thân chúng ta thành cái nghĩa địa chứ có phải tốt lành gì. Vậy mà người ta đâu biết nó là cái nghĩa địa. Người ta cứ chôn chúng sanh vào trong đó hoài.
Hôm nay Thầy giải thích để cho các con thấy sự tu tập của chúng ta để biến thân chúng ta trở thành Cực Lạc. Bởi vì cái thân không đau không ốm là Cực Lạc chứ gì, còn cái thân này đau ốm thì Cực Lạc làm sao được mà Cực Lạc. Nó là địa ngục chứ.
Đó các con thấy từ cái tu, thân chúng ta chuyển dần. Từ thân bị đau chúng ta đẩy lui là nó không còn cái đau nữa. Nó là Cực Lạc chứ còn gì nữa. Bây giờ cái thân đau này phải đi nằm nhà thương, đôi ba tuần đi gặp bác sĩ nó giảm đi nhưng về nhà đau cái khác. Nó là cái ổ bệnh mà, cái nghĩa địa mà, làm sao nó sạch được mà nó không đau. Cho nên chúng ta biến thân ta thành Cực Lạc chứ không có cõi Cực Lạc ở đâu hết.
Ngay cái tâm chúng ta người ta chửi không giận là Cực Lạc rồi chứ gì. Ngay cái thân chúng ta già không lụm cụm là Cực Lạc rồi chứ gì. Như Thầy bây giờ mà cứ đi lụm khụm, lụm khụm thì Cực Lạc làm sao được.
(02:20:40) Có phải ngay cái thân của Thầy là Cực Lạc hay là địa ngục? Ngay cái thân Thầy không đau ốm là Cực Lạc chứ gì? Ngay thân Thầy làm chủ được sự sống chết thì nó là Cực Lạc chứ còn ở đâu nữa. Cho nên ở đây nó chỉ có Cực Lạc.
Ngay chúng ta biết cái thân của chúng ta là Cực Lạc hay không Cực Lạc? Địa ngục hay Thiên Đàng ở đây thôi chứ không có chỗ nào khác. Bởi vì chúng ta đã biến nó thành Cực Lạc thì nó thành Cực Lạc còn chúng ta không biến nó thành Cực Lạc thì nó sẽ thành địa ngục chứ sao. Có nhiêu đó thôi chứ không có gì khác hết.
Hàng ngày chúng ta cứ biến nó thành nghĩa địa để chôn thân xác chúng sanh ở trong này. Các con nghĩ bao nhiêu thân xác chúng sanh ở trong thân chúng ta? Hàng trăm, hàng vạn…Các con thấy từ nhỏ đến lớn, thân mình đúng cái nghĩa địa chôn biết bao con vật không? Cá tôm rồi thịt đủ loại gà vịt, heo dê gì cũng chôn ở trong này, biết bao nhiêu không? Nghĩa là cứ ở trên đó mà xây mộ thì thành cái nghĩa trang hàng triệu, hàng vạn con ở trong đó. Hôm nay nói để các con thấy để ráng mà nỗ lực tu.
Ăn chay nó đâu có chết mấy con. Mà ăn chay, ăn ngày một bữa cũng đâu có chết mấy con. Các con thấy Thầy cũng đâu có chết đâu mấy con? Ốm thì ốm mà tình thần nó càng lớn chứ còn cái thân nó càng mập thì tinh thần nó càng nhỏ. Càng mập thì nó lại càng sợ chết.
(02:22:08) Còn cái thân mình ốm vậy, nó không sợ chết đâu. Nó còn dẻo dai. Từ ngày con vô đây con ăn ngày một bữa, con sống con thấy khoẻ mà nó không có bệnh đau. Con thấy Phật pháp hay tuyệt vời như vậy. Cho nên mấy con ráng, sai thì mấy con sửa lại.
Về pháp Thân Hành Niệm thì con có một hành động, Thầy nhắc lại để con nhớ hành động đó. Tất cả hành động con kết hợp thì nó đúng rồi, còn cái hành động sơ sót là khi con chống hai cái tay xuống thế này, rồi con thả mông xuống thì khi đó tay con phải xích ra sau một chút nữa. Phải không? Nhưng cái xích ra sau này thì con quên. Có đúng không? Do đó con nhớ hành động khi con chống tay xuống rồi, con hạ mông xuống rồi thì con mới bảo tay đưa ra: "Tay trái đưa lên trước. Tay mặt đưa lên trước." Con đưa ra mà con quên hành động đó. Con nhớ chưa? Thầy nhắc đó là pháp Thân Hành Niệm còn thiếu cái tâm đó thôi. Bây giờ phải xỏ cái tâm đó vô, bắt cái tâm đó lại thì cái xe con nó hoàn chỉnh.
(02:23:20) Trưởng lão: Còn về phần Thầy nói với con khi mình khuyên ai, mình nhắc nhở ai tu tập khi mình tu chưa xong thì nó sẽ làm cho tâm mình phóng dật mấy con.
Còm mình tu xong rồi, mình làm chủ rồi thì nó có phóng gì đâu mà sợ. Mình chỉ đem cái này ra mà giúp người ta chứ. Cũng như bây giờ Thầy khuyên con tập lại cái thân hành để cho chị em đồng tu với con nhìn thấy để mà tập. Do sự bảo của Thầy con mới làm, còn nếu con khởi tâm, bây giờ tôi dạy cho người này tôi dạy cho người kia thì nó ngầm ở trong đó.
Ví dụ như mấy chị em này người ta chưa biết. Con thấy con biết con đem ra con dạy người ta thì tự nhiên cái ngã của mình tự nhiên nó lớn. Nó thấy mình là Thầy.
Còn khi mà Thầy bảo như vậy là vì Thầy biết con tập nhuần nhuyễn như vậy rồi, quen với những hành động này rồi, con làm cho chị em coi thì cái ngã con không có. Con hiểu chỗ đó chưa?
Nhiều khi mình vô tình mình nuôi cái ngã mình không hay. Trong khi đó những bài thơ, bài văn viết qua kinh nghiệm của mình, nhiều khi người khác, người ta thấy nó hay quá. Nó đúng quá. Trong khi mình tu chưa tới nơi, tâm mình nó chưa xả hết đâu. Khi thấy người ta ca người mình hay mà mình chưa tu cho tới rốt ráo, tự nhiên cái ngã nó lại lớn. Cô Nguyên Thanh cô tu chưa tới nơi tới chốn, cô đem kinh nghiệm của bản thân cô, cô viết ra thì không ngờ có nhiều người, người ta quá thán phục mình, cái ngã của nó lớn lên. Khi mình không biết thì thôi, mình biết thì cái ngã nó sẽ lớn lên. Cái đó nó rất nguy hiểm mấy con.
(02:25:22) Cho nên, khi nào mình ráng mình tu cho xong. Còn bây giờ vì cái duyên cô Hảo cô ấy vào, không có đủ thời giờ, cho nên nó tối rồi vì vậy Thầy không có dạy cho cô pháp Thân Hành Niệm được thì Thầy nói sau này con về con sẽ hướng dẫn giùm cho chị em ngoài đó.
Ngoài đó người ta cũng muốn tu lắm nhưng con về đó nói với chị em: “Thật ra tôi vâng cái lời của Thầy chứ trong lúc này tôi dạy chị em, tôi rất sợ cái tâm tôi lắm. Nó tưởng tôi là hay. Bởi vì cái tâm mình nó xảo lắm. Nó ngầm trong này, nó thấy mình giỏi hơn mọi người. Nhưng mà mình xét lại, mình chưa làm chủ được sự sống chết của mình thì chưa có hoàn chỉnh đâu. Vì vậy mà khi đó, tôi không có dám dạy chị em. Nhưng mà vì Thầy khuyên là chị em ở ngoài này xa cho nên tôi có những ngày giờ sống bên Thầy, tôi được Thầy dạy cho tu tập cho nên giờ tôi về hướng dẫn chi em. Nhớ tôi làm xong rồi, chi em phải ráng nhớ cho kĩ, sau này tôi khép cửa tôi lo tôi tu, chứ tôi không tiếp duyên với chị em nữa. Đừng nghĩ tôi ích kỉ bởi vì Chuyện tôi làm chưa xong. Nhỡ tôi tiếp duyên, tôi là người tu tập có gì tôi biết rồi tôi giải thích ra, tôi nói thế này, thế khác tự nhiên cái ngã của tôi từ đó nó lớn lên. Bây giờ tôi muốn tu giải thoát, tôi hàng phục nó rất khó chứ đâu phải dễ. Mong chị em thông cảm và hiểu. Chừng nào tôi xong được như Thầy thì chắc chắn tôi không bỏ chị em chút nào đâu. Cũng như Thầy bây giờ vất vả kiểu gì Thầy cũng không bỏ chị em chúng ta thì tôi cũng nghĩ tôi tu xong rồi thì tôi không bỏ chi em đâu. Bây giờ vì cái lệnh Thầy bảo thì tôi phải thi hành đúng để giúp chị em rồi tôi xin đóng cửa chứ tôi cứ giảng dạy thế này thì tôi thành ông Thầy dởm mất rồi.
(02:27:22) Vì tôi tu chưa xong mà tôi cứ nói như thế này… Hỏi Thầy, còn bây giờ vì cái phần thân hành này, tôi phải có những hành động tôi tập để cho chị em nhận thấy còn như phần tư tưởng mà xả trong này thì hỏi tôi kinh nghiệm của tôi với quý vị khác nhau, đặc tướng nó khác nhau thì tôi nói nó không giống nhau. Thôi thì cứ hỏi Thầy cho chắc ăn vì Thầy tu xong rồi. Có gì Thầy không có cái ngã nữa. Chứ còn tôi coi chừng, hỏi tôi riết rồi, tôi dạy chị em riết rồi bắt đầu thành ra cái ngã nó lớn quá rồi tôi tu không có được.”
Con nói vậy đó để chị em người ta thông cảm.
Ở ngoài đó có sự kiện gì xảy ra thì các con cứ im lặng như Thánh, không cần trả lời ai gì hết. Nhân quả ai người ấy chịu, riêng tôi, tôi phải lo tu giải thoát chứ. Đệ nhất pháp là phòng hộ sáu căn. Nhớ chưa? Nhớ Thầy nói phòng hộ sáu căn. Như vậy con còn hỏi Thầy gì thêm nữa không?
(02:28:21) Phật tử: Thầy cho con một lời tâm huyết ạ. Bây giờ con rất là phân vân không biết là như thế nào. Bây giờ con rất là muốn ôm pháp của Thầy để tu cho rốt ráo. Mà nhân quả con phải trả vay. Giờ như thế nào thì Thầy chỉ dạy cho con ạ?
Trưởng lão: Bây giờ thì về tại gia thì thứ nhất con là người nội trợ trong gia đình, giúp cơm nước cho chồng con mà không làm thì không được. Vì vậy, con phải theo lời của Thầy từ nãy khuyên nói với gia đình của mình nếu mà còn ăn thịt chúng sanh thì tự nấu nướng. Con có thể đi chợ con mua về cho. Con mua đồ người ta làm sẵn, chết rồi con mua về, rồi tự ở gia đình chồng hay con làm lấy. Nếu mà không biết thì con chỉ cách cho lần đầu tiên rồi sau này làm.
Đó là cách thức để con tránh bàn tay của con mà nấu nướng thịt thực phẩm. Nếu mà con tư duy tâm từ bi ấy thì khi mà con bỏ những miếng thịt lên trên chảo này, thì cái tưởng của con rất mạnh khi con nghĩ đến tiếng la của con heo, con gà, cái hành động giãy giụa của nó. Nó sẽ có những hành động xảy ra trong đầu khi có những hành động tâm từ của con khởi ra. Con không có làm sao con đứng yên đó con nấu món ăn này đâu. Cho nên vì vậy con tìm cách giải quyết được tình cảm, tâm lí của mình khi mà mình thực hiện được tâm từ bi của đạo Phật. Đó là cái thứ nhất khi về gia đình.
(02:29:59) Cái thứ hai là những giờ phút ban đêm là những giờ phút con giữ gìn trọn vẹn để mà tu tập. Nghĩa là suốt đêm luôn mà con ngủ ít, đúng như giờ giấc tu viện. Mặc dù con biết rằng ban ngày con có làm việc để mà giúp chồng giúp con, còn ban đêm con để thời gian ngủ nghỉ cho đúng như ở trong này, khoảng chừng mấy tiếng đồng hồ đó thôi cũng đủ tạm cho con rồi. Quen thôi chứ không có gì hết. Con cứ lo tu tập giờ giấc y như ở trong này thì có sự tiến bộ của tu tập rất tốt chứ không sao. Chờ cái duyên nó đủ rồi, đến lúc nhập các định thì con về trong này. Không sao đâu.
Bây giờ lấy cái ban đêm làm giờ chính còn ban ngày con phải lao động bình thường. Ban ngày con lại áp dụng cái sức tỉnh thức ban đêm mình tu vào việc việc xả tâm của mình thì nó rốt ráo. Nó đủ các duyên, các ác pháp, đủ mọi cách để cho mình xả tâm. Vừa là tu tỉnh thức mà vừa áp dụng để xả tâm thì ngay đó nó giúp cho con thời gian ở trong gia đình xả các ác pháp rất tuyệt vời.
Đâu có phải như trong này, sáng, trưa, chiều, tối, ban ngày đều là tu hoàn toàn tỉnh thức không đâu. Nó có đối tượng để xả tâm. Cho nên mấy con xả thì khéo léo, tư duy quán xét, sống không làm khổ mình, khổ người là điều quan trọng nhất.
Nghĩa là sống trong gia đình đừng có làm cho người nào khổ hết. Nghĩa là có cái gì mà lỡ làm cho người trong gia đình mình buồn phiền, dù là con của mình thôi thì con cũng xin lỗi nó. Xem nó như một thành viên, như là một người bạn hơn là một đứa con của mình.
Cái đạo đức không có cho chúng ta xem nó như là đứa con của mình. Mặc dù mình sanh nó ra, nó là con mình nhưng mình hãy xem nó là một người bạn của mình thì con mới có đủ đạo lực của đạo đức sống không làm khổ mình, khổ người. Chứ xem nó là con thì nhiều khi cái tâm của mình, mình giữ không được. Mình sẽ rày mắng nó liền, mà rày mắng nó là ác pháp. Con hiểu không?
Cho nên nó phải đúng đạo đức. Mình xem nó là bạn. Đó là những lời khuyên của Thầy.
Con nhớ kĩ, sống trong gia đình nó muôn mặt ác pháp chứ không phải có một mặt ác pháp đâu. Nhớ linh động từng chút để không làm khổ mình, khổ người. Mỗi lần mà có làm khổ mình, mình cũng tự sám hối: “Tôi sẽ cố gắng khắc phục đừng làm khổ tôi nữa”, để đừng làm khổ con nữa.
Mà nếu có hành động hay lời nói làm cho người thân của mình như chồng hoặc con. Về phía con mình thì "Mẹ xin lỗi con, mẹ hiểu mình chưa trọn, mẹ sẽ cố gắng khắc phục, không có làm con phiền nữa". Đối với con mình, mình còn xin lỗi, huống chi là chồng mình, mình còn không nói được lời nói hay sao. Con hiểu chỗ đó chưa?
Phật tử: Vâng con hiểu.
(02:33:09) Trưởng lão: Đó là con đã trở thành một người đầy đủ đạo đức biết dùng ngôn ngữ- Chánh Ngữ làm cho người ta vui lòng, làm người ta mát dạ. Đó là Chánh Ngữ con. Trong đạo Phật, con thấy có Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ. Chánh Ngữ - lời nói chân chánh, lời nói làm cho người ta không có khổ đau. Lời nói làm cho người ta vui mừng thì các con phải cố gắng tập luyện mà sống tỉnh thức trong Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ đó. Nhớ chưa?
Phật tử: Dạ
Trưởng lão: Nhớ rồi thì phải về làm cho được đó.
(02:33:41) Phật tử: Con kính bạch Thầy, Thầy dạy con Bát Quan Trai để con về nhà con thọ bát ạ.
Trưởng lão: Con có cuốn thọ Bát Quan Trai chưa?
Phật tử: Dạ, con có rồi nhưng không mang đi ạ.
Trưởng lão: Không sao đâu. Bây giờ Thầy nói như thế này. Thọ Bát Quan Trai, Thầy có một cuộn băng giảng cho các con dạy về thọ Bát Quan Trai đó. Đến ngày thọ Bát các con mở lên nghe lời Thầy truyền 8 giới cho. Rồi khi mà Thầy xả thì trong cái băng đó có lời Thầy truyền rồi Thầy xả Bát Quan Trai cho.
Nếu không có băng thì con lấy tập đó ra. Khi một mình thọ Bát Quan Trai thì con chắp tay lên trước tượng Phật trong nhà, hoặc có tượng Phật hoặc là không. Con chắp tay lên:
"Hôm nay con nguyện thọ 12 tiếng đồng hồ hoặc 24 tiếng đồng hồ. Một ngày một đêm, hoặc là một đêm hoặc là 1 ngày. Hôm nay con xin thọ 8 giới của Phật đúng một ngày.”
Một ngày thì con nói một ngày. Mà một ngày một đêm thì con nói một ngày một đêm. Hoặc lâu hơn nữa, hai ngày, hai đêm.
“Con phát nguyện, xin chư Phật chứng minh cho con giữ gìn 8 giới và tu tập theo những pháp môn mà Thầy đã dạy: Định Niệm Hơi Thở, Định Sáng Suốt, Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Thân Hành Niệm, Tứ Niệm Xứ. Con xin cố gắng khắc phục mình tu tập trong những pháp này rất là nghiêm chỉnh. Xin chư Phật chứng mình cho con. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật."
Con tác bạch như vậy rồi thì con cứ thọ Bát Quan Trai.
(02:35:32) Sau khi thọ Bát Quan Trai, tới chiều rồi. Đúng một ngày rồi, con xả Bát Quan Trai. Con nói:
"Giờ này là giờ cuối cùng của con. Con xin Phật chứng mình cho con để con xả 8 giới để con sống lại đời sống bình thường giữ gìn đạo đức không làm khổ mình khổ người. Xin đức Phật chứng mình cho con.
Con khởi niệm, con nói lên ý mình như vậy trước hình ảnh của đức Phật, coi như mình xả 8 giới. Đầu tiên con chắp tay khi thọ giới rồi xả giới rồi thì con chắp tay lên. Khi con tu tập như vậy rồi thì tới giờ sắp sửa xả giới thì con xin con xả giới tức là con không còn giữ 8 giới đó nữa. Con xả giới rồi thì con sống bình thường, không có sợ phạm giới. Nó đơn giản lắm, không có gì.
Phật tử: Con bạch Thầy là con thở hơi thở bình thường hay 15, 16 hơi thở có được không ạ?
Trưởng lão: Được con. Tuỳ theo khi mà tâm nó an trú thì hơi thở sẽ chậm và nhẹ lại. Đôi khi nó lại chậm nhẹ hơn nữa. Nhưng mà theo sự an trú mà nó không bị tưởng còn an trú mà nó có cảm giác tưởng nào đó thì con lại tác ý: "Bây giờ phải thở lại hơi thở bình thường. Không được thở hơi thở này vì hơi thở này là hơi thở có tưởng".
Thí dụ như con ngồi thế này mà nghe nó an ổn, sau lại nó mất, nghe như hơi thở không còn thở nữa. Chậm quá, chậm đến độ mình không có hơi thở nữa thì mình tác ý ra: "Hơi thở phải thở bình thường, không được mất nữa". Con tác ý như vậy thì nó thở bình thường, rồi con giữ cái độ bình thường như vậy.
(02:37:18) Trong khi đó một phút mà 15 hơi thở, 18 hơi thở hoặc là 10 hơi thở một phút cũng được. Không có sao hết. Miễn cơ thể của con không bị chướng ngại, không bị rối loạn, không bị tức, bị mệt. Không có chướng ngại gì, không bị nặng nề, không bị khó chịu. Nó thoải mái dễ chịu thì con giữ hơi thở mà tu tập chứ nó không sao hết. Hiểu chưa? Có hỏi Thầy gì nữa không?
(02:38:03) Phật tử: Con bạch Thầy đến 28 này con về, con không biết nói gì hơn. Con chỉ ước làm sao được vào gặp Thầy nữa để được Thầy chỉ bảo để tu cho đúng pháp.
Trưởng lão: Không có sao đâu. Tu đúng pháp chứ không có gì đâu mà sợ. Tu thì sẽ làm chủ, không có gì đâu mà lo. Bây giờ con về ngoài đó, con tu con gặp gì khó khăn thì con gọi Thầy. Lúc có khó khăn mà bình thường thì trong cái đầu con, nó sáng suốt nó nhận ra cần tu cái này thì sẽ phá được, chứ không có gì. Ngay từ trong đầu con nó sáng suốt nó nhận ra, qua từ trường của Thầy, nó làm cho con sáng suốt nhận ra đường đi của mình.
Thứ hai là khi con gặp những khó khăn, quá khó khăn thì con cũng gọi Thầy; nó cũng có những điều kiện nó trợ giúp cho con chứ không có gì đâu mà sợ. Bởi vì không chỉ riêng Thầy với con mà cả chư Phật đã tu nhập Niết Bàn rồi mà một người tu theo giáo pháp của ngài thì ngài biết rằng tu tập rất khó. Nó gặp nhiều chướng duyên.
Khi gặp khó khăn, mình chỉ gọi tên đức Phật. Gọi xong rồi, mình giữ tâm thanh thản, an lạc, vô sự. Nghĩa là đừng để cho nó động nữa. Vì mình giữ tâm mình ở trạng thái đó thì mình sẽ tiếp nhận được những từ trường của chư Phật. Từ trường thiện đó khi con giữ được tâm thanh thản, an lạc, vô sự, mình tiếp nhận được từ trường đó, tiếp nhận được lực đó. Từ cái lực mình tiếp nhận, nó làm cho trạng thái của mình đang bị ma chướng gì đó nó sẽ diệt. Nó làm cho không còn có nữa.
(02:40:24) Con nhớ con giữ được tâm thanh thản, an lạc, vô sự thì nó có từ trường khác phủ lên. Nó trợ lực cho các con thì những ma chướng ở trên thân các con đau nhức, nó sẽ làm mất đi, không còn có nữa.
Còn nếu con giữ tâm thanh thản không được thì nó không có tiếp nhận được từ trường thiện ở bên ngoài đâu. Bây giờ nó đau nhức cách gì mà con cứ giữ được tâm thanh thản, con tác ý: "Đừng sợ. Bây giờ cứ giữ tâm thanh thản an lạc vô sự. Không có sợ hãi. Không có lo lắng. Không có đau nhức." Cứ tác ý như vậy để cho tâm con nó thanh thản. Khi mà tâm con vừa thanh thản được thì cái đau nhức này nó hết.
Con nhớ như cô Liễu Kim, cô bị ung thư. Trong cái giờ phút chết, cô vẫn giữ cái tâm thanh thản của cô. Cô tiếp nhận được từ trường của chư Phật, do đó cô không có thấy còn đau đớn nữa. Đến khi đứa con cô, nó đọc bức thư của Thầy gửi ra khuyên cô nên giữ gìn pháp Như Lý Tác Ý, để giữ tâm thanh thản an lạc thì lúc bấy giờ chư Phật sẽ giúp cho mình vượt qua cái lúc khó khăn này.
Cô tin những lời này mà cô cứ giữ như vậy. Trong khi, đứa con trai cô chăm nom bệnh của cô, nó ngồi, cô bảo nó lấy bức thư này nó đọc để sách tấn cô chứ bệnh ung thư nó đau nhức lắm. Khi nó đọc bức thư thì cô nằm đấy cô nghe.
Nó đọc lần thứ nhất xong nó nói con sẽ đọc cho mẹ nghe lần nữa thì cô bảo đọc đi. Lúc bấy giờ nó đọc lại lần nữa. Đến khi nó đọc lần nữa xong rồi thì nó nói con đọc cho mẹ nghe lần nữa được không?
Không thấy bà trả lời gì nữa. Khi ấy bà đã chết. Lúc bấy giờ bà đã chết trong sự an ổn, trong sự tỉnh thức cho nên bà vượt qua được là nhờ tâm thanh thản an lạc vô sự của bà mà tiếp nhận được những từ trường của chư Phật cho nên cảm thọ đau nó không có làm cho bà bị rối loạn, bị mê muội. Cho nên, cuối cùng bà chết trong sự tỉnh thức rất an ổn, trong cái tâm thanh thản.
(02:42:48) Do đó khi các con gặp những chướng duyên gì đó, các con giữ được tâm thanh thản, các con sẽ tiếp nhận được những từ trường của chư Phật hỗ trợ các con vượt qua được những khó khăn. Giờ phút chết cũng vậy, các con sẽ vượt qua được những khó khăn đó. Các con nhớ kĩ
Phật tử: Con kính bạch Thầy, giả sử như chúng con theo Thầy mà chúng con không được gần Thầy để chúng con học pháp, chúng con gặp những khó khăn trên bước đường tu, với điều kiện chúng con giữ gìn được giới luật nghiêm minh. Lúc ấy, con gọi tên Thầy để cho con có một trí tuệ, để biết cách thiện xảo thì lúc ấy Thầy cũng biết là con gọi Thầy, Thầy cho con một trí tuệ để con vượt qua cái khó khăn đó.
Trưởng lão: Lẽ đương nhiên là con ước nguyện, con tác ý như vậy rồi. Con giữ tâm thanh thản. Lúc bấy giờ, Thầy hoặc chư Phật sẽ trợ duyên cho các con được liền. Còn con không giữ tâm con thanh thản thì không thể nào tương ưng được. Bởi vậy khi mình ước nguyện là mình phải giữ gìn cái tâm của mình. Giữ tâm thanh thản an lạc vô sự, không dao động.
(02:44:06) Lúc bấy giờ, khi cái tâm con giữ an trú được rồi thì ngay đó con sẽ sáng suốt, con biết được lối con ra. Tức là chư Phật sẽ hỗ trợ để con thấy được cách thức tu, cũng như Thầy ngồi đây nhắc con vậy. Con thấy nó mầu nhiệm như vậy đấy chứ không phải không màu nhiệm nhưng điều kiện là con phải giữ một cách gì đấy để tương ưng mấy con mới nhận được, chứ mấy con không giữ gìn để tương ưng mấy con không nhận được đâu.
Bởi vì cái tâm các con bị động, phàm phu cách biệt với Thánh. Các con muốn nhận được các con phải giữ gìn tâm các con như Thánh, mới sáng suốt được. Tu tập phải như vậy mới được, nếu không mấy con sẽ rối ren. Như vậy thôi.
Nói chung là chư Phật và các bậc A La Hán, họ tu xong rồi thương chúng sanh lắm nhưng mà chúng sinh không có trạng thái tương ưng với họ nên không tiếp nhận họ. Nếu các con giữ đúng tương ưng với họ thì mấy con sẽ tiếp nhận được cái lực họ giúp. Mấy con nhớ chưa? Ráng mà tu. Đời nay được gặp chánh pháp như này may mắn vô cùng.
Phật tử: Con đã về đây là không muốn ra nữa. Làm sao để mà được ở gần Thầy mãi mãi để học pháp mà duyên chúng con chắc là kém quá.
Trưởng lão: Bởi vì nhân quả mà. Nó có duyên nhân quả thì phải trả. Vui lòng trả thì nó sẽ tạo những duyên thuận tiện để cho mình tu tập. Nhân quả nó sẽ chuyển biến chứ không có gì đâu. Thôi bây giờ các con ra tập, không có bỏ thời gian. Thời gian qua là mất. Có gì hỏi Thầy thêm không con?
Phật tử: Con muốn là con có cái băng bài giảng của Thầy.
Trưởng lão: À, con muốn có cái băng này phải không? Được rồi, đâu có gì đâu. Để đưa máy vô sang thôi. Không có gì đâu.
Phật tử: Kính bạch Thầy, chị em con muốn xin pháp ạ.
Trưởng lão: Được rồi, Thầy sẽ cho một bộ “Đường về xứ Phật”. Còn về các pháp, Thầy nghĩ mấy con cô đọng lại Pháp Hành mà tu. Thầy dạy đi Thân Hành Niệm, rồi đi kinh hành Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi Thở. Các pháp Thầy dạy có bấy nhiêu đó. Mấy con đừng có học thêm nữa mà chỉ có nhiêu đó tu thôi.
Phật tử: Dạ, bạch Thầy, con sẽ phát cho chị em ngoài đó học ạ.
Trưởng lão: Được rồi, Thầy sẽ gửi cho con mang một số cho chị em ngoài đó.
Phật tử: Nhất là "Mười đức Sa-di" ạ.
(02:47:28) Trưởng lão: “Mười được Sa-di” để thấy mười đức Thánh của Sa-di, không phải dễ đâu. Rồi "Những lời Phật dạy" tập 2 để biết cách thức, pháp nào tu pháp nào không? Bởi vì Phật đã dạy để biết thế giới chúng ta đang ở là thế giới điên đảo. Đức Phật đã nói:"Điên đảo tưởng, điên đảo tình, điên đảo ý".
Phật tử: Cuốn "Đường lối đức Phật tu tập” cũng hay lắm ạ. Từ hôm Thầy phát cho con cuốn đó về, con áp dụng thuần thục, nó quen. Khi con bước ra khỏi thất con chú ý từng bước đi, hơi thở; cái phóng dật của con cũng giảm bớt đi ạ.
Trưởng lão: Bởi vậy, Thầy đưa ra pháp nào mấy con cũng có lợi ích hết. Các con đọc kỹ lại thì mấy con sẽ tu tập có kết quả. Thầy viết sách đem lại lợi ích thiết thực cho mấy con lắm, không có nói lòng vòng đâu. Có pháp hành tu đàng hoàng.
Phật Tử: Chỉ có Thầy mới dám nói thật như thế thôi chứ con thấy trên thế gian này chưa có ai dám nói ra như thế cả. Thứ nhất là họ đã phạm vào giới, thứ hai là họ sợ chết ạ. Thầy không còn tiếc gì, mà tất cả vì Thầy thương chúng con. Ngay cả tính mạng của Thầy, Thầy cũng không tiếc gì, cho nên Thầy dám nói thật, nói thẳng ra như thế.
Trưởng lão: Thầy nói thẳng nói thật để cho mấy con biết, mấy con tu được. Còn Thầy thì ai giết Thầy thì giết, mặc kệ, Thầy không có sợ đâu.
Phật tử: Con bạch Thầy, bạn con…(không nghe rõ)
Trưởng lão: Bởi vì nó khó con. Không phải dễ đâu.
Phật tử: …(không nghe rõ)
Trưởng lão: Được rồi, Thầy sẽ cho mấy con. Thầy sẽ nói cô Út cho một cuộn băng sang cho để các con về các con nghe. Nếu mà thu băng mà bữa nào cũng nghe Thầy nói thì mấy con thu biết bao nhiêu băng mà nói.
Phật tử: Dạ, tiếc là con không mang băng.
Trưởng lão: Mấy con không có nhớ thôi. Chứ mai mốt nhớ rồi hỏi Thầy mang băng theo rồi thu về nghe. Giờ nào Thầy cũng có chuyện để nói hết à. Mà nói tu chứ không có nói chuyện đâu đâu ở ngoài. Thôi giờ về ráng mà tập đi nha, không thời gian không có.
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian: Mùng 4 Tết 2003
Thời lượng: [01:25:28]
Tên cũ: 01-(M4Tet2003)-NhungGiThongHieuCanThongHieu
https://thuvienchonnhu.net/audios/20030204-gioi-luat-la-nen-tang-vung-chac-cua-dao-phat.mp3
Trưởng lão: Theo Phật giáo thì mấy con có những cái điều gì mà cần phải thưa hỏi. Như đức Phật đã nói: “Những gì cần hiểu mình phải hiểu cho nó rõ”. Nếu mình hiểu mà không rõ thì mình sẽ tu tập nó sai đi, bởi vì Phật pháp nó có nhiều cái nó dễ chứ nó không khó, mà mình tu sai nó sai đi.
(00:27) Thầy đem cái ví dụ như hai cái danh từ, Thầy thấy như trong Phật, Phật thường nói: Mình chế ngự tâm, một cái danh từ chế ngự tâm và một cái danh từ ức chế tâm. Mà nếu mình không hiểu rõ thì mình thấy hai danh từ nhường như là cũng có một cái nghĩa giống nhau. Nhưng mà sự thật ra thì nó đâu có giống nhau, bởi vì ức chế tâm là mình dùng một cái đối tượng nào đó để mình nhiếp phục cái tâm của mình, làm cho cái ý thức của mình nó không khởi niệm, gọi là ức chế tâm.
Còn mình chế ngự tâm nó lại khác, khi cái tâm của mình nó ham muốn cái điều gì, mình ngăn chặn nó lại không cho nó làm cái việc đó, gọi là mình chế ngự tâm.
(01:22) Cho nên, trong kinh Phật thường nhắc là chế ngự. Do như vậy, mình cần phải hiểu cho nó rõ nghĩa, mà nếu mà không hiểu rõ nghĩa thì chúng ta sẽ tu tập sai. Thí dụ như bây giờ, như trong kinh sách Thầy thấy thường dạy mình tu tập như về hơi thở thì là sổ, tùy, chỉ, quán.
Sổ tức là đếm hơi thở, dùng cái hơi thở của mình mình đếm 1, 2, 3, 4… thì để cho cái tâm của mình đừng có niệm khởi, tức là dừng cái niệm khởi đi. Mà cái ý thức nó không có khởi niệm thì trong lúc đó mình sẽ ức chế tâm, cho nên mình thấy trong đạo Phật dạy mình cái Định Niệm Hơi Thở tức là cái xuất tức nhập tức, mình nương vào cái hơi thở tu thì đức Phật đưa ra những cái đề mục để cho mình tu tập. Trong hai mươi mấy đề mục nó buộc mình dời cái điểm tập trung của mình, nó không có bắt buộc mình phải nương vào duy nhất có…
(02:31) Ví dụ như cái đề mục thứ nhất, thì đức Phật dạy: “Hít vô tôi biết tôi hít vô”. Thì tới cái đề mục thứ hai thì đức Phật lại dạy, cái giai đoạn thứ hai của cái hơi thở thì đức Phật lại dạy: “Hơi thở dài biết dài, hơi thở ngắn biết ngắn”. Nghĩa là bây giờ, cái đề mục thứ nhất mình biết nó thở ra vô ở mũi mình. Rồi cái đề mục thứ hai thì mình lại chú ý cái độ dài, ngắn của hơi thở…(. . .) hơi thở ra vô.
Nhưng mà đến cái đề mục thứ ba thì đức Phật lại dạy cho mình: “Cảm giác toàn thân, tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân, tôi biết tôi thở ra.” Thì lúc bây giờ mình không còn biết hơi thở ra vô chỗ mũi, mà cũng không còn thấy cái hơi thở dài ngắn, mà chỉ hít vô là cảm giác tự mình hít vô, thở ra thì cảm giác…(. . .), nó lại sai khác mất rồi, không còn cái chỗ mà bám chặt để mình ức chế cái tâm mình, cho nên thay đổi từng cái đề mục của nó.
(3:30) Tới cái đề mục thứ tư thì mình khác nữa, nghĩa là đề mục thứ tư là cái đề mục an trú, cho nên vì vậy mà: “An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành, tôi biết tôi thở ra.”. Cho nên, đức Phật dạy chúng ta cái cách, cái phương pháp của Phật.
Cho đến cuối cùng thí dụ như cái đề mục tâm của mình, thì nó là cái đề mục thứ năm và thứ sáu, thì đức Phật lại dạy: “Cảm giác toàn tâm, tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn tâm, tôi biết tôi thở ra”. Là ở thân, thân an trú được rồi, bây giờ tâm an trú. Do đó, dẫn cho cái tâm, cảm giác được cái tâm của mình. Khi cảm giác được cái tâm của mình rồi đức Phật lại dạy cái đề mục thứ sáu thì: “An tịnh tâm hành, tôi biết tôi hít vô; an tịnh tâm hành, tôi biết tôi thở ra.” Bây giờ, mình nương vào cái chỗ biết an tịnh của cái tâm của mình, mình biết và mình nhắc cho nó được cái tâm của mình nó an, an trú được, lúc bây giờ mình thấy thân tâm của mình nó sẽ an tịnh, yên lặng nó không còn có… Đó chính cái đường lối tu tập của đạo Phật là như vậy, chứ không khéo thì chúng ta lại nương vào đối tượng biết hơi thở ra vô ngồi suốt 30, 1 giờ, chỉ biết hơi thở ra vô gọi là tùy tức, nếu mình đếm gọi là sổ tức.
(04:50) Như vậy cuối cùng thì mình hoàn toàn là bị ức chế, cho nên chữ ức chế và chế ngự nó khác. Do chúng ta tu tập theo đạo Phật, chúng ta thấy chúng ta không chế ngự tâm của mình. Ví dụ như bây giờ, Thầy sống đúng giới luật của Phật cho nên ngày ăn một bữa, do cái bữa sáng Thầy cảm giác nó đói bụng, Thầy ngăn chặn, Thầy: “Phi thời, không được ăn!”. Cho nên Thầy ngăn chặn, Thầy không cho nó ăn buổi sáng, vì vậy mà trưa Thầy cho nó ăn, do đó cho nên Thầy chế ngự chứ không phải ức chế nó. Rồi buổi chiều nó đói nó muốn ăn không cho ăn, Thầy nói: “Chỉ có trưa ăn một bữa thôi, không có được ăn uống phi thời”, do đó chế ngự thân tâm của mình để giữ gìn giới luật cho nghiêm túc. Chế ngự như vậy gọi là ly dục, ly ác pháp.
Phân biệt được như vậy mới biết được cái đường lối tu tập của đạo Phật, để giúp chúng ta ly được cái lòng ham muốn của mình, ly được những cái ác pháp nó làm cho thân tâm của mình khổ đau.
(05:51) Ví dụ như bây giờ, nói ly dục ly ác pháp thì khi trong thân của chúng ta bị đau nhức, nó có một cái bệnh như là một cái mụn nhọt nó nổi lên làm chúng ta bị đau nhức, thì lúc bây giờ đạo Phật dạy cho chúng ta cách thức để đẩy lui cái ác pháp, hay hoặc là diệt cái ác pháp đó. Thì người đời thường muốn cho cái ác pháp đó nó không có thì phải đi bác sĩ, phải uống thuốc, phải sức dầu hay thoa, bóp cho nó không còn đau đớn nữa đó là cái người đời.
Nhưng mà cái người đạo thì nó lại khác, bây giờ như vậy, mà là nó dùng cái phương pháp của nó, để mà nó làm cho cái thân của nó đẩy lui cái chướng ngại, cái đau đớn đó ra. Vì vậy, mà đức Phật dạy cho chúng ta khi đó chúng ta phải nhiếp phục cái tâm của mình nó ở trong cái hơi thở thì mình mới có thể, mình mới có đẩy lui được cái chướng ngại pháp, tức là cái thọ, cái cảm thọ đau đớn cái thân của mình nó sẽ đẩy lui ra được.
(06:53) Vậy thì mình nhiếp phục bằng cách nào? Như đức Phật dạy chúng ta mới vào thì chúng ta nhiếp phục cái tâm của mình vào trong cái hơi thở, thì: “Hít vô, tôi biết tôi hít vô; thở ra, tôi biết tôi thở ra”. Thì khi mà mình nhiếp phục được tâm mình nó biết hơi thở ra, biết hơi thở vô chứ không phải ức chế, mà nhiếp phục được cái tâm, dẫn cái tâm mình vào hơi thở.
Thì bây giờ đó, mình muốn dẫn được cái tâm của mình được rồi, thì mình mới an trú cái hơi thở, an trú cái tâm của mình trong hơi thở. Khi mà an trú được rồi thì mình mới đẩy lui cái chướng ngại, cái thọ thì nó mới ra được, vì vậy cho nên khi mà chúng ta cảm giác được cái tâm thì chúng ta đã nhiếp phục được cái tâm của chúng ta.
(7:35) Thì bây giờ chúng ta… (Thầy nói chuyện riêng với Tu sinh…)
(8:01) Khi cái thân của chúng ta bị đau, thì chúng ta mới nhiếp phục được cái tâm của mình vào trong cái hơi thở, rồi chúng ta an trú được tâm của mình vào trong cái hơi thở. Thì lúc bây giờ chúng ta tác ý: “Thọ là vô thường…” Cái bệnh, mình chỉ đúng chỗ cái bệnh của mình. Ví dụ như, cái tay mình đau hay cái đầu mình nhức, cái bụng nó đau, bảo: “Thọ là vô thường…” cái bụng chúng ta đang đau thì chúng ta nhắc: “Cái bụng đau đó phải hết”, rồi chúng ta lại nhắc: “An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô; an tịnh thân hành, tôi biết tôi thở ra”. Quý phật tử chỉ cần nhắc như vậy năm, mười lần khi mà cái tâm mình nhiếp phục được trong cái hơi thở, và an trú được trong cái hơi thở rồi tác ý ra, rồi dẫn cái thân của mình nó an tịnh, thì trong vòng chừng 1, 2 phút thì chúng ta sẽ thấy không còn đau cái bụng nữa.
Rõ ràng là đạo Phật đã có trang bị cho chúng ta những cách thức đẩy lui chướng ngại pháp, tức là diệt ác pháp trên thân của chúng ta một cách rất cụ thể, rõ ràng.
Còn cái tâm của chúng ta bây giờ nó phiền não, nó giận hờn, buồn phiền một cái điều gì đó. Ví dụ bây giờ nó đang giận hờn, lúc bây giờ chúng ta cũng có thể làm cho cái tâm chúng ta hết giận hờn cũng được không có khó khăn, cho nên đức Phật đã trang bị cho chúng ta cái phương pháp là: “An tịnh tâm hành, tôi biết tôi hít vô…”, hay hoặc là tâm của chúng ta đang sân thì chúng ta nói: “Quán ly sân, tôi biết tôi hít vô; quán ly sân, tôi biết tôi thở ra.” Cái tâm mình đang hậm hực, đang tức giận một cái điều gì đó, thì lúc bây giờ chúng ta chỉ cần nhiếp phục cho cái tâm mình vào hơi thở, rồi mình dẫn cái tâm mình bằng cách ly tham, ly sân thì nó sẽ ly cái sân của mình ra, lúc bây giờ chừng năm ba phút, thì lúc bây giờ chúng ta thấy cái tâm không có còn sân, không có phiền não, không có giận hờn nữa.
(10:02) Rõ ràng là đạo Phật đã dạy chúng ta làm chủ cái tâm của chúng ta, khi mà cái tâm của chúng ta bị chướng ngại pháp. Chướng ngại pháp tức là ác pháp, cho nên đạo Phật nói “ly dục ly ác pháp”. Bây giờ, cái tâm mình đang giận là ác pháp ở trong tâm rồi, mà không ly được thì tức là chúng ta không biết cách thức tu tập. Còn chúng ta biết cách thức tu tập tức chúng ta ly được cái đau khổ đó.
Cho nên, trong Tứ Niệm Xứ đức Phật đã nói: “Trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu”. Trên cái tâm của mình quán cái tham… Bây giờ, mình muốn khắc phục được cái tham ưu của cái tâm đang phiền não, giận hờn đó để cho đẩy lui nó ra khỏi cái tâm của mình, thì nương vào cái Định Niệm Hơi Thở, nương những cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở thì chúng ta sẽ đẩy lui nó.
Rồi cái thân của mình nó bị ác pháp, nó bị đau, bị nhức là ác pháp rồi. Vậy thì muốn đẩy lui nó thì đức Phật đã trang bị cho mình cái phương pháp để đẩy lui cái bệnh khổ, một người tu theo đạo Phật mà làm chủ được cái tâm như vậy, làm chủ được cái thân như vậy có hạnh phúc lắm không? Quá hạnh phúc! Không bao giờ có một cái gì mà chúng ta còn lo lắng đối với thân chúng ta khi bệnh đau, khi buồn phiền chúng ta đều có những phương pháp đẩy lui, chỉ cần chúng ta thực hiện đúng cách, chúng ta đã làm chủ được cái sự đau khổ.
Và nếu làm chủ được sự đau khổ thì chúng ta không thể dậm chân tại chỗ này, mà tiến bước hơn. Tiến bước hơn để chúng ta có đủ năng lực để chúng ta làm chủ được sự chết của chúng ta, nghĩa là chúng ta muốn chết hồi nào chết mà muốn sống hồi nào sống. Chứ không phải khi bệnh đau đến nỗi mà chúng ta không muốn sống mà cũng không sống được, rồi bây giờ chúng ta muốn chết mà cũng không chết được, thì cái đó là cái hoàn toàn chúng ta đầu hàng. Ở đây, thật sự chúng ta không đầu hàng sự sinh tử này, cho nên người đi theo đạo Phật là hạnh phúc rất lớn!
Nhưng vì, chúng ta bị lầm lạc cái phương pháp tu ức chế tâm cho nên chúng ta không làm chủ được, trái lại đức Phật dạy chúng ta có cái pháp, phương pháp chế ngự tâm chứ không phải ức chế tâm. Cho nên, những danh từ mà ở đây nêu lên để chúng ta thấy rõ, chúng ta cần phải hiểu. Vậy thì hôm nay, phật tử muốn hiểu những gì thì thưa hỏi Thầy, nhân cái dịp có cái duyên về đây trong cái dịp tết này thăm Thầy, để Thầy sẽ trả lời để giúp cho quý phật tử hiểu biết con đường tu thế nào đúng và thế nào sai.
(12:29) Thầy xin nhắc lại, đức Phật cũng đã dạy chúng ta muốn ước nguyện một điều gì để đạt thành, như bây giờ chúng tôi ước nguyện chúng tôi sẽ tu tập làm chủ được sanh, già, bệnh, chết. Ước nguyện làm chủ bốn sự đau khổ đó, cái ước nguyện của mình là ước nguyện rất lớn đó, thì mình sẽ làm gì đầu tiên?
Đức Phật nói: “Giới luật phải sống nghiêm chỉnh, cái ước nguyện đó sẽ đạt thành”. Còn nếu mà giới luật mình không có nghiêm chỉnh, thì mình không ước nguyện.
Cho nên, giới luật là nền tảng vững chắc cho một người đi theo đạo Phật, một vị tu sĩ mà phạm giới, phá giới thì vị tu sĩ không bao giờ tu giải thoát. Nghĩa là mình muốn giải thoát làm chủ bốn sự đau khổ đó, thì giới luật là một cái tiêu chuẩn không thể nào chúng ta bỏ phí được. Cho nên, vừa rồi Thầy đã soạn thảo cho chúng ta thấy 10 giới Thánh đức Sa Di, nghĩa là người Sa Di, người mới bắt đầu vào tu dù là lớn tuổi hay là thơ ấu còn trẻ tuổi bước vào để mà xin làm một vị tu sĩ của Phật giáo. Cái vị tu sĩ đầu tiên đó thọ 5 đức Thánh, 5 đức Thánh đó gọi là 10 giới Sa Di, hay hoặc là gọi 10 giới Thánh đức Sa Di. Bởi vì, một người mà giữ gìn 10 đó là một vị Thánh Tăng, Thánh Ni chứ không còn phải là một người tầm thường nữa.
(13:55) Bởi vì, nó rất khó không phải dễ! Ví dụ 5 giới của người cư sĩ thì chắc chắn quý vị đều biết rằng ai cũng có quy y Tam Bảo, thọ 5 giới thì ai cũng biết rằng 5 giới, thì 5 giới đó có 5 cái đức Thánh của nó. Rồi 5 giới của Sa Di sau khi đó thì chúng ta phải biết từng cái giới của nó mang đầy đủ những cái đức Thánh của nó trong đó, cho nên một vị tu sĩ mà giữ gìn 10 giới đó mà để thực hiện tu tập thì chắc chắn họ sẽ dễ dàng tu, không cần đòi hỏi cho đến 250 giới Tỳ kheo, 348 giới Tỳ kheo Ni, là nó có rất nhiều giới luật của người nữ. Nhưng mà học bao nhiêu thì chúng ta thấy giới luật một nền tảng vững chắc xây dựng cho mình có một nền đạo đức làm người, không làm khổ mình khổ người, đạo đức làm Thánh. Như vậy, chúng ta mới nhập được thiền định.
Tu sĩ của chúng ta hiện giờ, tu sĩ của Phật giáo hiện giờ không giữ trọn giới đức, 10 giới Sa Di mà không giữ trọn thì làm sao 250 giới Tỳ kheo, 348 giới Tỳ kheo Ni làm sao giữ hết được! Có 10 giới mà giữ không trọn thì làm sao đem cả một số giới như vậy mà giữ trọn được. Cho nên…(. . .).
Mang tiếng là tu sĩ nhưng chúng ta sống như người ngoài thế tục, không khác. Cứ đem 10 giới Sa Di thì so sánh cái nền tảng Phật giáo đã mất hoàn toàn, cho nên đức Phật ngày xưa nói: “Đạo ta còn thì giới luật còn, đạo ta mất…”. Hôm nay, tu sĩ chúng ta phạm giới, phá giới là đạo Phật đã mất. Nó thay vào đó bằng những cái hình thức của đạo Bà La Môn…(. . .).
(15:56) Cho nên hôm nay, Thầy xin nhắc nhở lại dù người cư sĩ muốn tu tập ít ra chúng ta phải biết cho chúng ta cái phương pháp tu tập của người cư sĩ, đó là Thọ Bát Quan Trai. Mỗi tháng ít ra cũng phải 1 ngày, hoặc là 1 ngày 1 đêm để mà giữ gìn 8 giới, còn người tu sĩ chúng ta tại sao 10 giới Sa Di mà không giữ trọn? Cho nên, chúng ta làm sao đi vào thiền định được?!
Giới sanh Định, thế mà hôm nay chúng ta muốn tu thiền định, mà không giữ gìn giới thì làm sao thiền định được. Cũng như Thầy nói như thế này, nếu chúng ta không trang bị cho chúng ta một đời sống phù hợp với cảnh giới Cực lạc, chúng ta đặc thành có cảnh giới Cực lạc, có cảnh giới Tây phương, có một cái Thiên đàng, có một cõi Trời nào đó thật sự, thì ít ra chúng ta phải trang bị cho cái đời sống của mình để quen đi với cái cõi giới đó, thì lúc bấy giờ chúng ta chết đi chắc chắn là chúng ta sẽ được lên cõi đó. Còn chúng ta không sống không quen, mà chúng ta sống quen cái cõi thế gian của chúng ta, không chừng mà chúng ta sống chúng ta có được về đó không? Mà bây giờ có cho về đó chúng ta có sống được không? Hay là chúng ta lên đó và đem những cách sống đó đem về cõi đó?
Vì ở đó, thí dụ Thầy đặt thành vấn đề, như đức Phật dạy chúng ta ăn ngày một bữa, thì chúng ta tin rằng có lẽ là cõi giới của chư Phật là sẽ ăn ngày một bữa. Nếu chúng ta không tập tành ăn ngày một bữa, thì không chừng chúng ta lên trên đó còn đói bụng ăn ba bữa thì ở trên đó làm sao cho chúng ta ăn ba bữa. Chắc chắn chúng ta sẽ đi về thế gian.
Cho nên, chúng ta tu tập chúng ra phải hiểu rằng là mình phải tạo cho mình có một nếp sống phù hợp với sự giải thoát thì sẽ có sự giải thoát, mà không phù hợp với sự giải thoát thì không bao giờ có sự giải thoát.
(17:47) Cho nên muốn tu, thì phải thấy cuộc đời chúng ta vì chúng ta đắm đuối ở trong dục, trong ác pháp cho nên chúng ta thọ lấy khổ, chúng ta muốn ra khỏi cái khổ của cuộc đời thì chúng ta phải tập sống, tập sống một cái nếp sống khác, chúng ta mới ra khỏi cuộc đời này. Còn nếu mà chúng ta cứ sống như cuộc sống như mọi người đang ở trong dục và ác pháp như thế này thì muôn kiếp, ngàn đời chúng ta cũng không ra khỏi.
Chúng ta phải hiểu được cái lý đó là một cái ý chính. Tại sao đạo Phật lại dạy chúng ta rất nhiều hành động đạo đức sống đúng Thánh hạnh như vậy? Là mục đích để biến chúng ta trở thành những bậc Thánh, và như vậy khi chết chúng ta bỏ thân này chúng ta sẽ đi vào cõi giới khác chứ không còn ở trong cõi phàm phu nữa, không còn đau khổ nữa.
Như vậy chúng ta phải hiểu, thông suốt cái lý để mà chúng ta trên sự tu tập chúng ta không thấy mình gian khổ, không thấy mình cực khổ là vì mình đã có cái hướng đi lên chứ không phải là sống, không phải hướng còn chạy theo dục lạc. Cho nên vì vậy, mà dù gian khổ cách gì chúng ta cũng cố vượt qua để mà chúng ta chiến thắng lại thân tâm của mình.
Bởi vì, bọn giặc sinh tử nó không để cho chúng ta yên ổn, tại sao vậy? Tại vì, khi mà chúng ta mở màng cuộc chiến tranh với nó, thì nó đánh chúng ta mọi mặc. Cái thứ nhất là nó đánh chúng ta hôn trầm, thùy miên. Cái thứ hai nó đánh chúng ta tâm lý chiến, nó lý luận thế này thế khác để rồi nó phạm vào những cái giới luật, nó làm cho chúng ta không giữ gìn nghiêm chỉnh, cho nên chúng ta khó mà thắng nó.
(19:29) Kế đó nó đánh chúng ta những cái vũ lực rất mạnh đó là nó đánh chúng ta cảm thọ, nó đánh chúng ta đau đớn làm chúng ta ngồi không được, làm chúng ta nằm cũng không được, lăn lộn, rên la, đau khổ vì vậy mà có nhiều người có thân bệnh nhưng người ta không thể nào người ta tu. Vì vậy mà đức Phật trang bị cho chúng ta có những vũ lực để mà chúng ta chiến đấu tận cùng với những cảm thọ; với những hôn trầm, thùy miên; với những lý luận, tâm lý chiến của tâm chúng ta, khi nó có một cái gì đó nó, lý luận thế này thế khác để nó bỏ cuộc đi.
Nó lý luận, như các cư sĩ nó lý luận như thế nào? Mình bây giờ có vợ, có con không được bỏ thế này, thế khác… nhưng cuối cùng mình chết đi thì vợ con mình bỏ, chứ làm sao mình muốn sống được sao. Khi mà luật nhân quả nó đến thì chắc chắn cũng không ai mà vượt qua cái sự sinh ly tử biệt đâu. Nhưng mà chúng ta còn sống thì chúng ta lý luận thế này, thế kia để chống đối sự tu tập.
Đạo phật có mở ra một cái cổng rất rõ ràng, để cho chúng ta thấy rằng khi một người có vợ, có con phải giải quyết như thế nào, chứ không phải nói giải quyết mãi rồi đây tới sáu, bảy chục tuổi mà còn ẵm cháu, còn trông nhà cho nó nữa. Đến khi chết rồi còn ai mà trông cháu, trông nhà?
Thế mà chúng ta vì thương cháu, thương con cho nên chúng ta không rời khỏi nhà chúng ta, không lìa ra khỏi để rồi chúng ta sống một đời sống trầm lặng, độc cư để giải quyết giặc sinh tử. Chúng ta bị trói buộc mà chúng ta không thấy.
Cho nên vì vậy, mà ngay từ khi chúng ta đã hiểu được Phật pháp chúng ta phải có một sự sắp xếp để chuẩn bị làm xong cái trách nhiệm, như vợ bây giờ con chúng ta còn nhỏ thì chúng ta chưa hẳn đã đi tu nhưng chúng ta vẫn tập tu; vẫn tập sống một đời sống đạo đức; vẫn tập sống một đời sống Thánh hạnh. Chúng ta có quyền sống chứ, nhưng mà chúng ta không có quyền bỏ con chúng ta còn bé thơ; chúng ta không có quyền bỏ vợ chúng ta chưa đủ sức gánh, chưa đủ điều kiện để nuôi con thì chúng ta phải gắn bó làm xong cái nhiệm vụ bổn phận của một người chồng, cũng như bổn phận của một người mẹ không thể nào muốn đi tu mà bỏ con, bỏ vợ, bỏ chồng mà đi tu, làm như vậy tan nát gia đình của mình… (. . .).
(21:54) Cho nên, đạo Phật đã trang bị cho chúng ta một cái nền đạo đức không làm khổ mình khổ người, nhưng luôn luôn lúc nào sẵn sàng, để mà giải quyết mọi sự khó khăn của sự trói buộc nhân quả. Cho nên, chúng ta sẽ thành tựu, thành tựu được sự giải thoát. Nếu chúng ta tích cực, chúng ta biết rằng con người sinh ra là khổ, trong cái vui chỉ là cái vui tạm bợ, thân người thì như bong bóng nước nay còn, mai mất chưa chắc chúng ta sống lâu, thời gian chúng ta sống 100 tuổi chưa chắc đã là cao, thế mà chúng ta lại đắm đuối trong cái thời gian đó để mà vui chơi trong cái ảo.
Cho nên hôm nay, thì những cái điều kiện mà quý phật tử, quý vị thâm niên mà về đây thăm Thầy có những điều gì muốn thông hiểu cần phải thưa hỏi. Vì con đường tu tập của Thầy là Thầy đã biết cách thức, có những kinh nghiệm trong những lời dạy của đức Phật trong cái giáo pháp. Cho nên, Thầy sẽ giúp đỡ cho quý vị có những kinh nghiệm tu tập làm chủ được sự sanh, già, bệnh, chết của mình. Tự tại trong khi mình chết, mình ra đi chứ không để cho mình chết trên giường bệnh, mình chết trong bệnh đau. Ở đây, người cư sĩ của đạo phật nhất định là không chết trên giường bệnh, luôn luôn lúc nào cũng là người chiến thắng trong bốn sự đau khổ này.
(23:41) Cho nên, hiện giờ phật tử cũng như các vị tu sĩ muốn hỏi Thầy điều gì Thầy sẽ chỉ dạy cho cách thức. Thứ nhất Thầy xin nhắc lại, người tu tập theo đạo Phật thì phải giới luật nghiêm chỉnh, tức là hàng ngày phải chế ngự tâm của mình, khi mà nó phạm giới thì nhất định là không phạm giới, cho nên chúng ta có một ý chí quyết định, quyết định như thế nào? Thà chết không phạm giới, đó là cái quyết định của người tu sĩ Phật giáo. Nghĩa là luôn luôn giữ gìn giới, ví dụ như mình là Sa Di Tăng cũng như Sa Di Ni, khi mà thọ 10 giới xong thì nhất định mười giới này không phạm, thà chết chứ không phạm. Nghĩa là bây giờ chúng ta đau, mặt dù Phật có chế trong…(. . .) là khi đau chúng ta có thể khai giới ra để chúng ta thọ thêm thực phẩm hay là cơm, hoặc là cháo, hoặc sữa để rồi chúng ta uống thuốc. Nhưng một người mà quyết tâm tu nhất định, chết là do nhân quả không phải là do sự ăn uống hay hoặc là thuốc than mà chết, do đó cái người mà quyết tâm tu để tìm sự giải thoát nhất định chết chứ không ăn phi thời.
Chứ không khéo cái tâm của chúng ta nó khéo léo lắm hơi cảm cảm sơ sơ, hay hoặc nóng lạnh sơ sơ thì nó lý luận bây giờ uống thuốc cảm thôi để uống thêm ly sữa, điều này nó dẫn dụ chúng ta để rồi chúng ta phạm giới. Cho nên, nhất định là thà chết không phạm giới!
(25:23) Thầy nhắc lại, trong thời của đức Phật có hai vị Tỳ kheo ở xa đến thăm Phật, trên con đường đi để đến thăm Phật thì đi ngang qua một sa mạc cho nên không có nước uống, đến một cái vũng thấy trong vungc có những cái loài vật sống ở trong nước, nhưng mà cái vị Tỳ kheo kia thì nhất định là giữ giới không uống nước, cho nên khác nước mà chết ở trên sa mạc. Còn một vị thì nghĩ rằng mình chết thì không gặp được Phật, và còn sống mới có thể tu tập được. Cho nên, có vị Tỳ kheo đó lại uống nước đến gặp Phật mới trình bày sự khổ đau của hai người đi đến, một người thì nhất định giữ giới mà chết ở giữa đường, để cho đức Phật phán xét coi cái nào đúng và cái nào sai. Thì đức Phật nói vị Tỳ kheo kia ông là một người ngu si, ông uống nước có trùng mà ông đến đây gặp Phật thì ông xa Phật, không bao giờ thấy Phật. Còn vị Tỳ kheo kia giữ giới luật nghiêm chỉnh ông ta mất, nhưng ông đã gặp Phật trước ông.
Đó, thì các con thấy đức Phật xác định chúng ta vì chấp một cái điều kiện không có đúng chính đáng, thân của chúng ta chết là do nhân quả. Cho nên, một người tu sĩ đạo Phật khi mà họ có những cái gan dạ, quyết chiến, quyết thắng thì khi mà họ tu hành họ gặp bệnh thì họ lấy đối tượng đó nhất định là phải đẩy lui cho khỏi, chứ không uống thuốc. Còn hơi nhát gan thấy đau nhức, khổ sở thì lăn lộn đi bác sĩ, rồi uống thuốc, rồi phạm giới ăn thêm tất cả những cái điều này đã là một cái người không xứng đáng đệ tử của Phật.
(27:13) Cho nên, Thầy mới nói như thế này, một người mà tu chứng đạo Phật để làm chủ bốn sự sinh, già bệnh, chết đó là bằng máu và nước mắt của họ. Khi họ phải lâm trận đánh cái trận giặc sinh tử này, thì khi mà nó đánh mình bằng cái trận đau như những cái bệnh ruột thừa, như những bệnh ung thư ở bên trong thân của chúng ta nó đau nhức kinh khủng, thế mà cái người tu sĩ của đạo Phật thì quyết định là chiến thắng, không đầu hàng. Cứ sừng sững giữ thân của mình, nhiếp phục tâm mình, an trú tâm mình không để loạn động, thì người đó sẽ thắng được giặc, thắng được trận đánh. Thì như vậy chúng ta phải thấy được điều kiện cần thiết để mà chúng ta tu tập.
Thì như vậy rõ ràng là đức Phật trang bị cho chúng ta mọi phương pháp để chúng ta chiến đấu với giặc sinh tử, nhưng chúng ta không được người trang bị cho chúng ta, không được dạy chúng ta tập luyện do đó mà chúng ta gặp bệnh đau là chúng ta đầu hàng chúng ta phạm giới, phá giới.
Hôm nay, quý vị được nghe lời Thầy nói, cái công trình tu tập như vậy, thì tốt hơn hết là quý vị thưa hỏi kỹ. Đó! Thứ nhất là Thầy nói giới luật, nhất định là thà chết chứ không phạm giới.
(28:33) Thứ hai tập an trú tâm mình cho được hơi thở đó là cái thứ nhất, an trú tâm mình được trong thân hành niệm tức là bước đi kinh hành của mình hay là thân động của mình, nghĩa là lấy cái thân hành của chúng ta mà tập tu, mà nhiếp phục trong thân hành. Nghĩa là Thầy đi Thầy biết Thầy đi, nhưng mà cách thức nhiếp phục để cho cái tâm nó tự nhiên mà không ức chế trong bước đi đó là phải thưa hỏi kỹ.
Rồi phải thưa hỏi Thầy kỹ làm sao an trú được tâm trong bước đi, làm sao an trú được tâm trong thân hành niệm, làm sao an trú được trong hơi thở, phải hỏi kỹ. Nếu không biết cách an trú thì không an trú được, không biết cách nhiếp tâm thì không nhiếp tâm được mà bị ức chế tâm.
Khi mà hỏi kỹ những điều này, rồi tập tu thì lần lượt chúng ta sẽ nhiếp tâm được, rồi sẽ an trú được và không bị ức chế tâm, thì cái cần thiết mà nếu chúng ta quyết tâm tu để mà chúng ta làm chủ giặc sinh tử, là chúng ta sẽ trang bị những phương pháp để mà chúng ta đối trị lại những cái ác pháp ở trên thân tâm của chúng ta, và đối trị lại với cái tâm ham muốn của chúng ta.
Do đó, đạo Phật đã trang bị cho chúng ta đủ những phương pháp để mà chúng ta ngăn và diệt tất cả cái lòng ham muốn và những ác pháp mà đang tác động trên thân tâm của chúng ta.
Như vậy quý phật tử và quý thầy, người nào muốn hỏi một cái điều gì thì cứ hỏi tự nhiên đừng có sợ hãi mà phải hỏi thật. Ở đây, không có dùng mê tín, nghĩa là không cầu khẩn một người nào hết, đạo Phật đã dạy chúng ta “tự thắp đuốc lên mà đi”. Cho nên bây giờ, chúng ta chỉ lấy cái sức tự lực của mình ra mà cứu mình, không có còn cầu ai cả hết. Vì chúng ta cầu là không đúng, đạo Phật không có cầu khẩn, chỉ mình tự cứu mình. Vậy thì bây giờ, quý phật tử muốn hỏi thì cứ thưa hỏi, có những điều gì cần thiết mà trong cuộc đời tu tập của mình thì mình thưa hỏi, để mong rằng có một ngày nào đó mình sẽ thực hiện những lời Thầy dạy thì mình sẽ thấy được kết quả hữu hiệu, để mình làm chủ được sự đau khổ cho bản thân của mình. Bây giờ quý vị thưa hỏi!
Chuẩn bị cho mình những câu hỏi, để cho mình biết con đường để đi, và biết cái bước đi mình có vững chắc hay không. Thì bây giờ không ai hỏi thì Thầy xin trả lời để cho thấy được cái đường của mình đi.
(31:30) Thì đầu tiên hồi nãy Thầy cũng nhắc, là chúng ta hãy giữ gìn 10 giới Sa Di, tức là chúng ta giữ gìn trọn vẹn là chúng ta đã nhập vào dòng Thánh. Nghĩa là một bậc Thánh mới sống được cái Thánh hạnh.
Thì Thầy xin nhắc lại, giới thứ nhất của người Sa Di là giới cấm không sát sanh. Về cái đức Thánh của nó là Đức Hiếu Sinh, lòng thương yêu sự sống của muôn loài ở trên hành tinh này, nghĩa là cái gì có sống là người tu sĩ đó phải thương yêu. Bị vì mình có sự sống cũng như loài vật khác thì cái người mà thọ giới Sa Di thì họ không ăn thịt chúng sanh và không giết hại chúng sanh. Thường tập tỉnh thức để mà trên bước đi của họ hay hoặc làm công việc gì đó thì họ không để cho mình vô tình mà chạm đến sự sống của một loài vật khác, đó là trách nhiệm và bổn phận cái đức Thánh của họ, giúp cho họ những cái điều đó.
Như vậy họ muốn thực hiện được cái lòng hiếu sinh đó, thì họ phải tu tập pháp gì? Họ phải tu tập Tứ Vô Lượng Tâm tức là tâm từ, bi, hỷ, xã. Do những cái tâm từ, bi, hỷ, xã thì cái đức Thánh Hiếu Sinh đó họ sẽ thực hiện được, vì vậy mà giới cấm không sát sanh họ sẽ thực hiện nghiêm chỉnh, không bao giờ họ vi phạm về cái giới đức, đó là cái đức thứ nhất.
(32:55) Cái đức thứ hai, là không gian tham trộm cắp. Vậy thì cái giới cấm nó không gian tham trộm cắp nhưng cái đức của nó là Đức Buông Xả, nhưng buông xả cần lao chứ không phải buông xả thiếu cần lao. Còn trái lại buông xả mà không cần lao là người yếm thế tiêu cực bỏ đời, còn trái lại đạo Phật thì tích cực.
Cho nên, trong giới mà của người cư sĩ thì có giới không gian tham trộm cắp tức là có Đức buông xả, cho nên người cư sĩ cần phải lao động, cần phải làm công việc chứ không phải nói rằng tôi tu theo Phật là buông xả, cái đức buông xả là tôi không làm vợ con làm gì làm, giờ tôi đã thọ Tam Quy Ngũ giới tôi không làm thì cái đó sai. Cho nên, cái Đức Buông Xả kèm theo cần lao, để không ăn bám vào người khác.
Còn trái lại tu sĩ cái Đức Buông Xả thì nó tùy theo cái Chánh nghiệp của nó, cái Chánh nghiệp của người tu sĩ là Chánh nghiệp gì? Chánh nghiệp của người tu sĩ chỉ có duy nhất là đi xin ăn, nghĩa là không được nằm ở nhà mà chờ người ta nấu cơm cho mình ăn, mà mình phải đi một đoạn đường, hai đoạn đường để mà xin trong ngày hôm đó. Cái sự Chánh nghiệp của người tu sĩ là phải bỏ cái công ra đi xin chứ không phải bỏ công ra làm ra vật, đó là Chánh nghiệp của người Du Tăng Khất sĩ, của một người tu sĩ.
Còn bây giờ chúng ta sẵn sàng ở trong Chùa thì chúng ta nấu chúng ta ăn hà, như vậy nó có đúng không? Không đúng, cái đó là không đúng! Cho nên, ngày xưa đức Phật dù già bảy mươi mấy, tám mươi tuổi nhưng mà đức Phật vẫn ôm bình bát đi xin, chứ không có ngồi nhà mà đợi cho mấy chú kia đi xin về rồi sớt cho mình ăn, đức Phật vẫn ôm bình bát.
Có nhiều thánh Ni trong thời đức Phật bảy mươi mấy tuổi nhưng mà các Ngài vẫn ôm bình bát đi xin, vẫn trèo núi, vẫn như thường. Cho nên, chúng ta thấy rõ ràng trong thời Đức Phật rất là bình đẳng, không có người này đi xin cho người kia, trừ ra nhập thất thì hai người đi xin cho một người ăn, nghĩa là mình xin vừa đủ mình ăn còn thừa đem về sớt lại cho cái người kia, tức là người nỗ lực chuyên tu những cái giờ phút cuối cùng. Vì vậy mà, ba người có hai người lo làm chuyện đó, nhưng mà chúng ta lại thấy trong thời đức Phật có ba vị Tôn giả ở trong khu rừng sừng bò, ba vị này vẫn tu tập Thiền định, vẫn độc cư không nói chuyện nhau, mà người nào cũng đi xin ăn chứ không có người nào mà xin cho người nào cả. Nhưng mà, khi mà người đi xin trước về ăn rồi thì cái người còn dư để lại cho người sau, rồi người sau thì ăn rồi dọn dẹp đó là cái đời sống của tu sĩ trong đời đức Phật là như vậy, chứ không có nấu nướng, không có để dành lại, để dành lại qua đêm mà ăn đó là giới luật đức Phật đã cấm như vậy.
(35:58) Cho nên chúng ta thấy cái Đức thánh buông xả mà nói về người tu sĩ là phải ôm bình bát đi xin, cũng như ở đây đối với quý vị về đây quý vị thấy rõ ràng Thầy cũng ôm bình bát đi xin như mọi người, cũng như mọi chúng, nghĩa là cũng phải ra nhà bếp người ta phải sớt bát cho Thầy rồi cũng như chúng ở đây, chứ không phải là có người dọn sẵn mà lên trên mâm bàn rồi ngồi ăn đó đâu, không phải đâu. Ôm bình bát đi xin hẳn hỏi đàng hoàng.
Rồi Thầy làm việc xong rồi, trong những giờ phút mà Thầy làm việc xong rồi 11, 12 giờ thì Thầy ôm bình bát trở về cái thất nghèo nàn của mình để mà an nghỉ, chứ không phải ở trong cái phòng làm việc đó mà ngủ nghỉ ở tại đó, không có. Nghĩa là một người tu sĩ vẫn giữ giới luật nghiêm chỉnh, chứ không bao giờ vi phạm chứ không phải là lười biếng, ờ bây giờ mình làm việc trong cái phòng sẵn nó ấm áp, sẵn như thế này, thế kia,… mình ngủ đại, hay hoặc là đặc cái giường ở đó, thì ai mà rầy Thầy!
Nhưng mà mình làm mất Thánh hạnh của mình, người ta nữa đêm, người ta thấy một vị tu sĩ trên vai mang cái túi bát trong đó có cái y, rồi những vật dụng cần thiết cho đời sống một người tu sĩ Du Tăng. Vị tu sĩ ấy mang cái bát đến một cái thất nghèo nàn, nằm dưới tầm vông trúc tre, trên cái cục đá, trên một cái tảng đá hoặc trên cái giường tre, rồi trải một cái tấm y rách của mình để rồi an nghỉ trong vài tiếng đồng hồ rồi thức dậy đi làm công việc nữa, thì đó mới là giữ Thánh hạnh.
Chứ không phải thấy mình hiện giờ là một vị trụ trì của một ngôi Chùa, thì lúc bây giờ có kẻ bưng cơm vừa nước cho mình, có kẻ vũ mùng, có kẻ quét sàn cho mình ngủ thì điều đó là điều sai. Sống cũng như mọi người cũng như tu sĩ khác, mặc dù có Thị giả, nhưng Thị giả phải làm những việc gì, chứ không phải làm những việc mà đức Phật đã làm được mà phải làm thế.
(38:06) Nhắc lại những gương của đức Phật, chúng ta thấy chúng ta sống chưa bằng đức Phật chút nào. Vậy chúng ta cố gắng, ít ra đức Phật được 10 chúng ta cũng được 1, còn bây giờ thì chúng ta thấy hễ khi mà chúng ta có giá trị một chút xíu là chúng ta coi như là mình có người hầu kẻ hạ, thì như vậy không đúng. Đối với tu sĩ đạo Phật là phải bình đẳng, người nào có nhiệm vụ như người nào, cho nên đối với Thầy Thầy cố gắng giữ gìn những giới hạnh đó để làm gương sáng, để làm Thánh hạnh, để mới gọi là làm gương do đó, mà Thầy mới làm chủ được sanh, già, bệnh, chết là vì sống đúng Thánh hạnh.
Do kinh nghiệm này, Thầy khuyên nhũ quý thầy cũng như các cư sĩ chuẩn bị cho mình chuẩn bị trở thành những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni sau này thì phải chuẩn bị trên tinh thần giữ giới luật, đó là giới buông xả. Giới buông xả, vì vậy mà chúng ta thấy tâm hồn chúng ta không còn dính mắc, phóng khoáng như hư không, trắng bạch như vỏ ốc đó là cái đời sống của người tu sĩ biết buông xả, và biết cần lao trong sự sống hàng ngày của mình, tức là đi xin.
Cái giới thứ ba là đối với người cư sĩ là cấm tà dâm, nhưng với người tu sĩ thì cấm dâm dục. Vậy thì đối với người cư sĩ thì đức của nó là Đức Chung Thủy, còn đối với người tu sĩ là Đức Thanh Tịnh bởi vì hoàn toàn không dâm dục.
(39:33) Cho nên, nó có những phương pháp để làm cho chúng ta ly những cái lòng dâm đó, nó giúp cho chúng ta thoát ra khỏi cái lòng dâm dục của chúng ta tức là sắc dục, nó có phương pháp để cho nó giữ được cái Đức Thanh Tịnh của nó. Cho nên giới thì cấm không dâm dục, nhưng cái đức của nó là Đức Thanh Tịnh, nó làm cho thân tâm chúng ta thanh tịnh, nên gọi là Đức Thanh Tịnh.
Cái giới thứ tư là cái giới không vọng ngữ, tức là cái đức của nó là Đức Thành Thật, nó tạo chúng ta có uy tín, lời nói chúng ta có giá trị, nói ra người ta biết rằng cái người quá thành thật, còn chúng ta nói không thành thật…
(40:15) Về cái giới này rất khó, một người tu chưa chứng mà đem kinh sách Phật ra giảng tức là người có nói láo. Tại vì mình chưa biết gì hết, mình chưa có kinh nghiệm tu tập gì hết, mình nói rồi người ta tu được không? Tức là có nói láo.
Kinh sách dạy mà chúng ta tu tập không kết quả, không đạt được thì kinh sách có nói láo. Chứ không phải nói là mình nói láo là nói dối, nói chuyện không thật, nhưng mà cái hành động làm của mình không thật. Một cái người khen người khác, mà cái người đó chưa đúng với cái lời khen đó mà khen người khác như vậy là lời đó nói láo. Một lời người khác, như các cư sĩ các con tức giận chửi ai: Mày đồ chó, đồ trâu, đồ khốn nạn lời đó là lời nói láo. Tại sao bây giờ cái ông đó ổng có tiền của, ổng ăn, ổng giàu có mà chửi người ta khốn nạn? Mà người ta có khốn cùng đâu, đó là nói láo. Người ta có phải là con chó, con trâu đâu mà mình nói người ta con chó, con trâu thì lời nói đó là lời nói láo.
Khen mà không đúng cũng là nói láo, mà chê không đúng cũng là nói láo, đó thì chúng ta thấy. Người đi thuyết giảng mà tu chưa chứng là người nói láo tại vì đức Phật nói rằng: “Khi tu chứng thì chúng ta mới dạy người, mà tu chưa chứng thì đừng có nên dạy ai hết!”. Là tại sao? Tại vì đức Phật sợ chúng ta thiếu thành thật, chỉ mình dựa vào một số kinh sách nào đó mình nói, mà mình biết chắc được là cái đó đúng hay sai, kinh sách còn nói láo kia mà.
Cho nên, tất cả những điều này là điều rất quan trọng, chứ không phải là không quan trọng, đó là cái giới Đức Thành Thật, cái Đức Thánh Thành Thật của nó, mà biết thành thật thì mới… mà không biết thì chúng ta vô tình chúng ta phạm phải nói vọng ngữ, chúng ta không hay biết.
(42:07) Cái giới thứ năm là giới cấm không uống rượu, người cư sĩ cũng như người tu sĩ không được uống rượu. Chứ không phải nghe người ta nói rằng đức Phật cấm không uống say, cứ uống rượu mà đừng uống say, thì cái điều này là cái điều chế ra của quý vị sau này, thèm rượu mà chế ra chứ không phải là Phật chế, Phật cấm bặc không được uống cái thứ này. Đó là cái Đức Minh Mẫn, bởi vì những chất rượu, cà phê, thuốc lá, hay hoặc rượu, hay hoặc thuốc phiện đều là những chất độc, nó gây làm cơ thể chúng ta bị nghiện ngập, mà không có những chất đó thì làm chúng ta rất khổ sở và khó chịu.
Do đó đức Phật cấm, vì vậy mà cái đức của nó là Đức Minh Mẫn, sáng suốt, hoàn toàn là người sáng suốt không bao giờ nuốt đọc dược vào trong thân. Chỉ có người ngu si, người vô minh không thấy mới đắm đuối chạy theo rượu, thuốc lá mà làm cơ thể chúng ta phí đi một số tiền rất lớn mà chẳng lợi ích gì cả. Đó là người không minh mẫn, không sáng suốt cho nên đức của nó là Đức Minh Mẫn.
(43:15) Kế đó giới của người tu sĩ, thì người tu sĩ không trang điểm, mà người cư sĩ còn trang điểm là vì thiếu tình thương. Chúng ta sinh ra có người xấu có kẻ đẹp, xấu đẹp là do cái nhìn của chúng ta chứ đâu phải có người nào xấu, mà người nào đẹp. Thân chúng ta người đẹp cũng bất tịnh mà người xấu cũng bất tịnh, cũng vẫn hôi thối như thường, không phải là người đẹp thơm tho mà người xấu lại hôi thối, thân người nào cũng hôi thối hết, trong thân chúng ta không có người nào là không bất tịnh.
Cho nên vì vậy, cái nhìn chúng ta là cái nhìn lệch lạc, không đúng. Cái đẹp của chúng ta là tại vì cái mắt của chúng ta cho rằng cái đẹp đó là người đó đẹp, người đó xấu. Cho nên vì vậy, 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp không đúng cách, bởi vì đức Phật đã bác cái này rất rõ ràng, trong bài kinh đức Phật đã bác rõ ràng, bởi vì Bà La Môn ngày xưa, trong thời đức Phật là có đạo Bà La Môn mà đạo Bà La Môn chấp nhận rằng cái người mà được gọi là Bà La Môn phải đẹp trai, phải đẹp người, mà xấu thì không được gọi Bà La Môn. Thì đức Phật nói: Một người rất đẹp trai, có 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp, nhưng người ấy tham lam trộm cắp, không thành thật, vọng ngữ thì người ấy có được gọi là Bà La Môn hay không? Thì những vị Bà La Môn nói: Không được! Không được gọi. Bởi vì, một người đó dù đẹp trai mà phạm vào giới luật thì người đó không được gọi là Bà La Môn.
Thì như vậy Bà La Môn mà đẹp trai có cần thiết không? Không cần thiết! Như vậy thì đâu có cần gì mà 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp chỉ cần chúng ta giữ gìn giới luật là chúng ta đã là người Bà La Môn, tức là người tu chân chính rồi.
(45:12) Rồi bắt đầu bây giờ đức Phật lại bác một lần nữa, chúng ta lại thấy đó là cái giới trang điểm. Vậy thì chúng ta làm đẹp, chúng ta có tướng tốt như vậy có lợi ích gì đâu! Không có lợi ích. Cho nên, cái giới trang điểm làm đẹp mà đức Phật, cái đức Thánh của nó là Đức Thánh Tự Nhiên. Chúng ta như thế nào cứ để như thế nấy đừng có làm đẹp, thế mà có nhiều người phải ăn mặc y áo cho sạch đẹp, rồi phải may cho vừa vặn, đã tu rồi cạo bỏ râu tóc rồi còn gì đẹp nữa, thế mà mỗi lần mặc cái áo nếu mà rộng quá thì cũng không được, phải cho vừa, chật quá thì cũng chê, tất cả những tu sĩ này sai.
Xưa kia cái y của đức Phật gọi là y phấn tảo. Đức Phật lượm những vải bỏ, vải dơ, giặt cho nó sạch sẽ, để rồi kết lại thành một tấm y choàng lên trên thân của mình để cho kín thân của mình, thì miếng vải như vậy có tốt không? Không tốt! Có đẹp không? Không đẹp!
Còn bây giờ, chúng ta ngồi tẵn mẵn, kê nghê kết làm những cái y rất là vất vả, cực khổ trong cho nó đẹp, thì như vậy rõ ràng là chúng ta đang trang điểm mình qua cách ăn mặc, chúng ta làm sai phạm giới. Nhưng người phật tử người ta cúng dường mình một cái áo, cái y làm như thế nào thì mình cũng mặc thế nấy. Chứ mình không có được quyền đi tới, đi sửa lui cho cái y áo của mình nó bằng cách vừa vặn thế này, thế khác thì cái này là còn trang điểm. Một hành động nhỏ chúng ta cũng phải xét rằng mình làm có đúng không? Mình sống có đúng không? Để không rồi mình lại phạm giới, đó là cái Đức Tự Nhiên của mỗi người, cho nên chúng ta không trang điểm.
(47:58) Kế nữa là cái giới không ca hát và nghe ca hát, cái giới này rất quan trọng. Bởi vì, đức Phật cấm mình không được ca hát, mà không được nghe ca hát, tại vì cái đức thánh của nó là Đức Trầm Lặng Độc Cư, một người tu sĩ phải sống trầm lặng độc cư, không thể nào mà ca hát, ca hát có trầm lặng độc cư được không? Mà ngồi nghe ca hát có trầm….
(47:32) … người ta vẫn giữ giới thì cái người này có xứng đáng Bà La Môn không? Xứng đáng! Thì do đó, cái người mà bảy đời như vậy Phật cũng bát bỏ. Rồi một người đẹp 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp thì đức Phật cũng bát cái đẹp đó nữa. Rồi bắt đầu bây giờ, ở trong một vị Bà La Môn phải tán tụng, phải biết tụng niệm, cúng bái phải cho rành, phải học thuộc cho giỏi 3 bộ kinh Vệ Đà phải thuộc thông suốt, còn nếu không thông suốt, không tán tụng được thì chưa chấp nhận là một Bà La Môn, nhưng đức Phật nói một người học thuộc ba bộ kinh Vệ Đà thông suốt và táng tụng rất hay, cũng như bây giờ chúng ta ở chùa tụng niệm như vậy, thì đức Phật nói khi mà táng tụng rất hay như vậy đó nhưng vẫn phạm giới, phá giới, cũng vẫn tham lam trộm cắp, cũng chạy theo dục lạc, cũng ham muốn cái này, cũng ham muốn cái kia… thì như vậy có xứng đáng là Bà La Môn không? Thì mọi Bà La Môn nói là không xứng đáng. Thì như vậy rõ ràng là táng tụng nó đâu có cần thiết, nó giống như là ca hát.
Cho nên, cái giới cấm không ca hát nhằm cắm cho chúng ta tụng niệm cúng bái, chúng ta làm đúng chưa? Trong giới luật đã cấm, trong bài kinh đã bát, thế mà chúng ta nhẫm lại cái đường lối của Bà La Môn, chấp nhận cúng bái, cho nên chúng ta làm sai, giới luật đã xác định được điều đó.
Vì vậy, mà một người tu sĩ đạo Phật phải sống trầm lặng, độc cư để làm gì? Để hằng ngày nhìn quan sát lại thân tâm của chúng ta mà ngăn ác diệt ác sinh thiện, tăng trưởng thiện, có phải là Tứ Chánh Cần không? Siêng năng không có giờ phút nào mà ngơi nghỉ để mà ngăn ác diệt ác, thì ngay đó chúng ta có giải thoát chớ. Tụng niệm là cái kẽ hở làm cho chúng ta có sự cầu khẩn ở trong đó, cho nên đó là một cái sai của đạo Phật, mà đã truyền thừa một cái sai như thế này, bây giờ chúng ta chỉnh đốn được không? Những điều không giải thoát?
(49:26) Bây giờ quý thầy, quý cô, tất cả mọi người trong chùa không thể nào mà nghiêng lại điều này được, mà chính đức Phật ngày xưa đã xác định rất rõ và cho chúng ta biết được giới luật cấm như vậy, thế mà chúng ta làm mà cứ ngỡ rằng mình không phạm giới, đó là cái phạm giới. Mà cái đức của một người tu sĩ của đạo Phật là Đức Trầm Lặng, Độc Cư không cầu khẩn gì cho ai được hết, mà hãy ngăn ác diệt ác. Cho nên, bốn cái điều cần tu tập của người tu sĩ hàng giờ, hàng phút, hàng giây không lúc nào ngơi nghĩ đó là “ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp”. Trong kinh pháp cú dạy chúng ta: “Chư ác mạc tác chúng thiện phụng hành”, luôn luôn lúc nào cũng làm việc thiện mà không bao giờ làm việc ác, đó là cách thức tu của đạo Phật, như vậy. Đây là những cái giới của Sa Di chúng ta thấy rất cần thiết chớ, nhưng mà tại sao chúng ta lại phạm trên cái giới của Sa Di này? Nó là những đức Thánh.
(50:22) Bây giờ tới cái giới nữa, đó là đức Phật cấm không được nằm giường cao rộng lớn. Tức là đời sống của một người tu sĩ lấy gốc cây làm giường nằm. Đó là cái đức Thánh, cái giới cấm chúng ta không được nằm giường cao rộng lớn, cái đức Thánh nó ở chỗ nào? Cái đức Thánh của nó là cái Đức Thiểu Dục Tri Túc, một người mà nằm giường cao rộng lớn là người không thiểu dục tri túc.
Cho nên, đời sống của đức Phật ngày xưa lấy gốc cây mà làm giường nằm, Ngài tu mà thành Phật thì ngồi dưới gốc cây mà thành Phật, mà đến khi ngài chết Ngài không chết ở trong cái chùa đẹp, trong cái bệnh viện, mà Ngài chết trên cục đá giữa hai cây Sa La Song Thọ, Ngài chết dưới tàn cây. Ngài tu thành đạo dưới cội bồ đề, Ngài chết dưới cây Sa La Song Thọ, Ngài không chết ở trong nhà. Đời sống của Ngài là Du Tăng Khất sĩ cho nên Ngài không có giường cao rộng lớn được, vì vậy mà Ngài nay ở đây, mai ở đó cho nên lấy gốc cây làm giường nằm.
(51:29) Tiếc vì trong thời chúng ta những cái hạnh cao quý ấy, những cái hạnh giải thoát ấy đã mất đi. Chúng ta trở thành toàn Trụ Thế Tăng, vì vậy mà hôm nay ở tại Tu viện này Thầy đã có tuyên bố trước Tu viện này không phải của Thầy. Nhưng người ta cứ nghĩ rằng đây là cái Tu viện của Thầy, sự thật không phải Thầy đã nói trước rồi. Đây là của cô Diệu Quang, của chú cư sĩ Minh Tâm, của Chơn Tâm, của Như Kỳ, Như Lý… của những người này họ bỏ tiền ra, rồi họ làm những cái điều kiện mà hôm nay chúng ta có những cái phương tiện mà chúng ta ngồi trong cái mái nhà này, tiền bạc của họ bỏ chứ Thầy không bỏ, Thầy có làm đồng bạc nào đâu ra mà gọi là của Thầy. Của họ!
Nhưng với sự điều khiển của Thầy, ở đây không được cất tường cao, mà phải cất bằng tầm vông trúc tre tạm để giữ gìn mưa gió và nắng để mà chúng ta sống mà thôi, chứ đừng có cất xa. Cái nền mà chúng ta đang ngồi đây là do chú Chơn Tâm chú bỏ tiền ra chú định xây dựng ở ngay chỗ này là cái chùa, ngay chỗ này là cái giảng đường, nhưng khi chú kêu thợ đến đây mà làm cái nền cao như thế này, thì ngay liền Thầy hay được Thầy cấm liền, không được xây cất. Sau này, chặt tầm vông trúc tre làm lên cũng được.
Cho nên cái nền này có một thời gian rất dài, sau đó mới làm được, có lẽ là khi mà thầy Chơn Giác mà về đây, thì thầy cũng thấy cái nền bỏ trống thầy cũng…(. . .).
Thì ở đây, các phật từ và các thầy đều biết rằng nhất định Thầy phải sống đúng giới hạnh. Cho nên ở đây, nhiều khi có một điều kiện mà làm, nhưng Thầy thấy người cư sĩ của họ làm, Thầy không làm cái điều đó, nghĩa là đối với Thầy xây cất hay làm gì, không làm. Nhưng hiện giờ, Thầy chỉ có làm điều duy nhất là Thầy nói lên một sự thật, viết ra những cuốn sách nói sự thật Phật giáo cái nào đúng, cái nào sai. Như nãy giờ Thầy giảng về 10 giới Sa Di đó, để cho thấy được cái đức Thánh của nó, đó là nói cái đúng cái sai của đạo Phật.
(53:38) Thầy dám nói, tất cả những cái điều kiện này chưa ai dám nói, tại sao Thầy dám nói trong chùa tụng niệm là Bà La Môn? Là sai? Tại vì giới luật của đức Phật cấm, đời sống Thánh hạnh phải trầm lặng, độc cư, ngăn ác diệt ác không thể nào mà tối ngày tụng niệm tứ thời như vậy. Tụng niệm tứ thời như vậy là do Ngọc Lâm quốc sư trong thời nhà Thanh của Trung Hoa chế ra những thời công phu đó, chứ không phải là trước kia nó có những cái điều kiện này. Chúng ta cũng phải biết nó lưu xuất từ đâu chứ không phải là không biết, cho nên cái sai lệch là cái sai lệch của người sau chế biến ra làm lệch con đường Phật giáo, làm cho chúng ta lập lại cái lối mòn của Bà La Môn.
Cho nên, chúng ta là một Du Tăng Khất Sĩ là điều kiện là điều kiện quyết tốt nhất, còn Trụ Thế Tăng là chúng ta coi chừng chúng ta sẽ sai lệch đường lối của đạo Phật ngày xưa. Đó là cái giới cấm rất rõ ràng để chúng ta trở thành Du Tăng Khất Sĩ, cho nên cấm không cho nằm giường cao rộng lớn, đó là Thánh hạnh của chúng ta.
Bây giờ tới cái giới không ăn phi thời, không ăn phi thời là đức Thánh nó cái gì? Đức Thánh Ly Dục. Bởi vì, chúng ta còn dục tức là còn ham ăn, còn ăn nhiều bữa, còn ăn phi thời, cho nên ăn ngày một bữa tức là Đức Thánh Ly Dục.
(54:54) Như vậy rõ ràng một người muốn ly dục là phải ăn ngày một bữa, mà chúng ta không ly dục thì làm sao ly ác pháp được!? Rõ ràng, là trong cuộc đời tu hành một người tu sĩ sống đúng giới luật như vậy, 10 giới vừa rồi Thầy kể ra như vậy là tới cái giới mà không ăn phi thời, thật sự ra chúng ta nhìn tu sĩ chúng ta hiện giờ có ai sống đúng chưa? Có chớ, một hai người có chớ, chứ còn nhiều thì chắc chưa có, hầu hết đều là phạm giới này.
(55:24) Kế nữa, thì chúng ta lại tìm thấy cái giới nữa là cái giới không cất giữ tiền bạc. Tại sao người cư sĩ khi Thọ Bát Quan Trai thì còn được cất giữ tiền bạc, còn chúng ta lại không cất giữ tiền bạc? Là tu sĩ cất giữ tiền bạc thì hoàn toàn không ly tâm tham của chúng ta. Cho nên, cái giới không cất giữ tiền bạc thì cái Đức Thánh nó là Ly Tham. Người mà còn cất giữ một đồng ở trong túi thôi, thì người ấy vẫn còn tâm tham. Bởi vì, tham là tham muốn chứ không phải tham lam, trộm cắp ai hết, còn tham muốn tức là tham dục. Do một đồng thì nó vẫn xúi chúng ta sẽ mua một cái gì, sẽ làm một cái gì đây. Mà còn muốn, còn làm thì tức là còn tham, phải hiểu!
Cho nên giới luật giúp chúng ta ly dục ly ác pháp hoàn toàn, nếu mà chúng ta không giữ gìn giới luật thì đừng mong chúng ta tu thiền định gì mà có tiền định cả. Và cũng đừng mong chúng ta làm chủ sanh, già, bệnh, chết được!
Quý vị cứ nhớ rằng ăn ngày bữa chúng ta thiếu chất mà chúng ta sẽ bệnh đau, không bao giờ có điều đó, ăn ngày một bữa ít bệnh đau hơn là người ăn nhiều bữa. Bởi vì, ăn nhiều bữa là cơ thể chúng ta phải hoạt động nhiều, ăn vô cũng cực khổ, rồi vô rồi bao tử chúng ta phải hoạt động để tiêu hóa cái đồ ăn đó, mà ăn ba bữa nó phải hoạt động ba lần, còn chúng ta ăn một bữa nó hoạt động có một lần, và từng đó buổi chiều tới buổi sáng chúng ta vẫn nghỉ ngơi, cơ thể chúng ta không hoạt động nữa, nó an nghỉ cho nên nó ít đau bệnh.
(56:58) Bởi vì, cái miệng chúng ta nó sẽ vào thân chúng ta có hai ngõ. Ngõ thứ nhất là do ăn uống, nó đem đến những bệnh tật làm cho chúng ta có nhiều đau khổ, cho nên người ăn nhiều có bệnh tật nhiều, còn người ăn ngày bữa ít bệnh tật, như Thầy bảy mươi mấy tuổi rồi vẫn thấy khỏe khoắn, không bệnh đau một cái gì, không đi nhà thương, không uống thuốc, không cái gì cả hết. Thời tiết thay đổi thì bị cảm thì đẩy lui nó, viêm phế quản thì ho một vài tiếng đẩy lui nó, thì tất cả những cái điều này đều là do ảnh hưởng của thời tiết và cơ thể của chúng ta là cơ thể duyên hợp, cơ thể của nhân quả, cho nên nó vô thường, vì vậy mà nó ảnh hưởng để sự hoại diệt vô thường nó tiến diễn. Do đó biết điều khiển, thì cái cơ thể chúng ta vẫn không đến nỗi mà chúng ta phải lo lắng.
Nhưng một người ăn ngày một bữa thì Thầy thấy rất tiện lợi về vấn đề làm chủ được sự bệnh đau của nó. Đó là cái điều kiện mà ở đây quý thầy đã từng sống ngày một bữa mới thấy kinh nghiệm của nó, mới thấy thực tế của nó. Còn ở xa nghe lời những người mà tham ăn, thì ăn phải nhiều, ăn mới có sức khỏe, ăn mới có mạnh, sự thật ra mấy nhà giàu có tiền của họ ăn rất nhiều mà họ có mạnh đâu, họ cũng uống thuốc, họ cũng bệnh đau rề rề, như một ông vua đâu có ông vua nào mà không bệnh. Sự thật không chứng minh được lời đó là đúng. Còn những người tu sĩ theo đạo Phật thân vô thường thì có bệnh, mà ăn ít đâu có nghĩa là bệnh đau nhiều đâu, cho nên thực sự ở đây bệnh là do nhân quả, vì vậy mà chúng ta có những điều kiện để đẩy lui những cái cơn đau đó. Cho nên, giới luật chúng ta càng nghiêm chỉnh bao nhiêu thì chúng ta lại càng tu tập dễ bấy nhiêu.
(58:45) Cho nên vì vậy, mà Thầy kêu gọi quý phật tử nên cố gắng và tu sĩ nên cố gắng giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh. Do đó, thì giới luật chúng ta mới thực hiện được thiền định, còn giới luật không nghiêm chỉnh thì chúng ta không thực hiện được thiền định. Vậy thì trong cuộc đời tu hành của mình thì giới luật là hàng đầu, cho nên đức Phật nói: Giới - Định - Tuệ. Giới luật là ba pháp môn tu tập, giới luật là pháp môn Tam Vô Lậu học, ba pháp môn vô lậu. Cho nên, ba pháp môn mà tu học để giúp chúng ta không còn lậu hoặc thì do đó Giới là pháp môn trong ba pháp môn. Hãy cố gắng giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh, đó là điều kiện mà cần thiết nhất là bước vào cái giai đoạn tu sĩ của đạo Phật thì chúng ta phải giữ gìn cho nghiêm chỉnh những giới luật.
Vậy thì bây giờ, tới cái giai đoạn mà các pháp tu tập, giới luật chưa xong thì các pháp tu tập không thể xong. Nhưng, các pháp tu tập thì gồm có 37 phẩm trợ đạo của Phật, trong 37 phẩm trợ đạo của Phật thì chúng ta thấy rằng từ Định Niệm Hơi Thở, rồi Định Sáng Suốt, Định Vô Lậu, Định Thư Giãn và Tứ Niệm Xứ, rồi Thân Hành Niệm tất cả phương pháp này chúng ta đều phải trải qua tập luyện.
Vậy thì bây giờ, quý vị đã được nghe Thầy nói nãy giờ thì còn những gì mà chưa hiểu, cần những gì muốn thông hiểu thì cứ thưa hỏi Thầy.
(01:00:48) Thầy Chơn Giác: Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Kính bạch Thầy! Chúng con nhân duyên đọc được quyển sách Hành Thập Thiện và Tứ Vô Lượng Tâm do Thầy biên soạn và giảng dạy, qua những trang đầu của lời tựa có một đoạn Thầy đã dạy: “Thập Thiện giúp cho chúng ta không trở thành kẻ hung ác, sát nhân, trộm cướp, hiếp dâm, nhờ thế tâm hồn chúng ta không còn lo sợ tù tội thế gian và đọa vào ba đường ác”, trong đoạn này tới cuối trang có phần chú thích ba đường ác là Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới.
Chúng con kính xin Thầy giảng dạy chúng con hiểu rõ về ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới. Vì từ trước tới nay chúng con khi nghe nhắc tới ba đường ác chúng con chỉ hiểu đó là Địa Ngục, Ngạ Quỷ và Súc Sanh, kính xin Thầy từ bi giảng dạy chúng con được rõ. Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Trường lão: Bây giờ, Thầy giải thích cho nghe ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.
Dục giới, chữ dục tức là lòng ham muốn của mình, cho nên khi còn ở trong lòng ham muốn, mọi người còn ở trong lòng ham muốn thì đó là đang sống ở trong Dục giới.
(01:02:33) Sắc giới, là mọi người, sắc là cái hình tướng của nó, mọi người mà có hình tướng thì gọi là Sắc giới.
Cho nên, ví dụ như: Từ cỏ cây, đất, đá tất cả những gì có cái tướng…
(…) gọi là Địa Ngục.
Ngạ Quỷ là cái trạng thái đói khác ở trong ta gọi là Ngạ Quỷ. Còn Súc Sanh là cái trạng thái mà ở trong tà, Trời, Người, A Tu La, Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh.
Thì như vậy, rõ ràng là Thầy có giảng ba dạng con người, nghĩa là còn mang bản chất của loài động vật chưa hẳn thoát ra làm con người. Do vậy, mà chúng ta xét chúng ta có xứng đáng làm người chưa? Và chúng ta có sống đúng Thập Thiện chưa?
Khi một con người chúng ta sống đúng Thập Thiện thì chúng ta đã luân hồi vào cái cảnh giới Thiên rồi. Cũng như bây giờ, Thầy ở trong trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự; không tham, sân, si; không ham muốn gì hết, thì đó là cảnh giới Thiên tức là luân hồi vào thế giới Chư Thiên rồi, cái trạng thái đó gọi là thế giới Chư Thiên.
(01:03:48) Rồi bây giờ, chúng ta sống trong ở trong cõi người thì trạng thái chúng ta giữ gìn năm giới có trọn vẹn không thì đó là tiêu chuẩn làm người, trạng thái giữ gìn 5 giới đó là luân hồi vào cảnh giới đó.
Bây giờ, chúng ta đang sống ở đó mà tâm chúng ta bắt đầu sân lên, có cái gì làm chúng ta giận tức là chúng ta luân hồi vào cảnh A Tu La, cái cõi giới A Tu La. Ngay liền tức khắc, bởi vì sáu nẻo luân hồi liên tục ở trong con người chúng ta.
Nếu chúng ta ở cõi Trời thì chúng ta cũng nhận ra biết được cái trạng thái mình đang ở cõi Trời, nhưng cái thời gian ở cõi Trời chúng ta thấy thanh thản, an lạc, vô sự.
Rồi bắt đầu bây giờ, chúng ta ở cõi người thì chúng ta thấy chúng ta không hề phạm một cái giới gì ở trong năm cái giới này: Không vọng ngữ, không tà dâm, không sát hại, không uống rượu… thì chúng ta sẽ thấy chúng ta ở cõi người. Nhưng rồi nó không ở đó kéo dài mà nó sẽ vào cõi giới khác, bây giờ trong khi mình đang bình thường có người đến mắng chửi mình, tâm mình sân lên liền, ngay đó là A Tu La, cái cảnh giới A Tu La.
Rồi ngay đó thì, ngay bây giờ chúng ta bình thường như thế này lát nữa thì cái thân chúng ta nó đau đớn, nó làm chúng ta đau nhức, khổ sở, rên la thì lúc bây giờ chúng ta đã luân hồi vào cõi Địa Ngục. Đó là sáu nẻo luân hồi, mà chúng ta thường xuyên luân hồi.
Rồi ngay đó thì chúng ta thấy bây giờ sao đói bụng quá muốn đi ăn, thì đó là chúng ta đang ở trong trạng thái của Ngạ Quỷ, thì nó luân hồi vào trạng thái đó chúng ta thấy đói bụng.
Cho nên, thường xuyên là có thể chúng ta luân hồi liên tục trong 6 nẻo, chứ không phải là đợi chúng ta chết rồi chúng ta mới luân hồi, không phải có cảnh giới. Cảnh giới mà chúng ta tưởng tượng rằng chúng ta phải đọa xuống Địa Ngục bằng cách này, cách khác đó là cảnh giới tưởng của chúng ta thôi, chứ không phải có cảnh giới. Bởi vì, đức Phật nói là tưởng tri chứ không phải liễu tri, thì đó là không có cảnh giới đó.
(01:05:32) Cho nên tại sao, bắt đầu bây giờ chúng ta đang ngồi như thế này thì chúng ta lại thấy cái tâm mình rất ích kỷ, nhỏ mọn thì đó là chúng ta là loài chúng sanh. Cho nên, chúng ta đâu phải là con người hoàn toàn chúng ta rộng lượng hết đâu, cho nên có những người rất là ích kỹ, nhỏ mọn.
Bây giờ, mình có một cái vật gì có người khác muốn đến mượn mình, mà mình sợ hư vật của mình mình không cho, thì đó là mình nhỏ mọn. Hoặc là mình thấy một món ăn đó, mình muốn ăn món ăn đó thì mình trở thành loài chúng sanh rồi.
Mà thường thường con người chúng ta thật sự ra trong sự ăn uống, trong sự sống của họ họ tranh với nhau thì con người đó hoàn toàn họ luân hồi ở trong loài chúng sanh, chứ không phải là còn ở trong con người, con người thì không có ích kỹ, không có nhỏ mọn, không có tranh giành nhau từng cái món ăn. Chúng ta thấy những loài vật, hai con chó nó tranh nhau món ăn. Còn chúng ta bây giờ là con người chúng ta không có nên tranh cái điều đó, thế mà con người chúng ta không hiểu.
Không, Thầy nói vậy quý phật tử cứ suy ngẫm coi có phải là chúng ta luân hồi trong cái giới chúng sanh đó không? Nghĩa là chúng ta luân hồi là chúng ta phải giống cái loài chúng sanh như thế nào thì chúng ta sẽ giống như vậy. Đó, cho nên vì vậy mà khi đó sáu nẻo luân hồi chúng ta thường xuyên luân hồi.
Còn trong những cảnh giới mà chúng ta đang sống, bây giờ chúng ta có sống ở trong dục không? Có! Có dục thì đó là chúng ta đang ở trong cảnh giới dục.
Bây giờ, chúng ta đang có thân sắc của chúng ta tức là chúng ta đang ở trong cái Sắc giới.
Nhưng mà Vô Sắc giới thì ở đâu mấy con biết không? Ban đêm chúng ta nằm mộng đó là Vô Sắc giới đó, nó là cảnh giới tưởng, do tưởng uẩn. Bây giờ, Thầy nói về tưởng các con đừng có hiểu, tưởng nó có hai phần rất rõ:
(01:07:28) Ý thức tưởng, chúng ta ngồi đây mà chúng ta tưởng nhớ cái này, nhớ cái kia,… bây giờ Thầy đi mua vé số rồi Thầy cứ tưởng nghĩ rằng chiều nay là xổ số Thầy sẽ trúng, đây là Thầy tưởng ý thức tưởng chứ không phải tưởng đâu.
Còn tưởng khác nữa, bây giờ trong thân chúng ta thì đức Phật đã xác định có năm uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức thì cái Tưởng uẩn đó nó sẽ làm việc theo cái tưởng của nó. Cái tưởng uẩn của nó, nó làm việc thường thường nó câu hữu với ý thức của nó nó làm việc, để rồi chúng ta có chiêm bao, cái giấc chiêm bao của chúng ta là sáu căn chúng ta hoàn toàn nó ngưng nghỉ, cho nên nó thực hiện qua cái giấc mộng của nó, nó cũng nghe, cũng thấy mà cái nghe, cái thấy, cái hiểu biết của nó đó là cái nghe, cái hiểu biết của tưởng, chứ không phải ý thức.
Còn ý thức của chúng ta mà ý thức tưởng chúng ta vẫn dùng ý thức của chúng ta mà chúng ta tưởng ra gọi là ý thức tưởng. Tưởng cái không có mà chúng ta tưởng ra có, cái mà không trúng chúng ta tưởng ra cho nó trúng, đó là ý thức tưởng. Chúng ta phải biết phân biệt điều này.
(01:08:27) Còn cái giấc mộng của chúng ta là nó câu hữu với ý thức của chúng ta, ban ngày chúng ta muốn một cái gì đó mà nó thực hiện không được, cho nên ban đêm cái tưởng uẩn của chúng ta nó hoạt động, cái bối cảnh làm chúng ta thấy chúng ta thỏa mãn được ước muốn đó. Đó là cái tưởng của chúng ta làm, chứ còn cái ý thức chúng ta làm không được, ý thức chúng ta chỉ có tưởng thôi, ý thức tưởng chúng ta chỉ có dùng ý thức để mà tưởng ra thôi, đó là tưởng uẩn chúng ta làm ra giấc mộng chứ không phải là ý thức chúng ta làm ra, nhưng nó cộng với ý thức là vì ý thức chúng ta muốn một cái điều gì mà không thỏa mãn được, hay là nhớ thương cha mẹ mình quá thương, cho nên đêm đó nằm thấy mẹ mình, hay hoặc là thấy cha mình mặc dù ông đã mất, đó là cái tưởng của chúng ta nó giao cảm nó tạo thành những cái hình sắc đó nó làm cho chúng thấy được cha mẹ mình, đó là cái tưởng làm.
(01:09:15) Nhưng cái tưởng nó còn vi diệu hơn nữa, nó ngồi đây mà cách đây 5 năm hay là 10 năm có một người chết thắt cổ ở đây, mọi người đến đây không bao giờ thấy những cái hình ảnh đó hết, nhưng mà cái hình ảnh của người chết đó nó lưu lại trong không gian, từ trường đó nó lưu lại trong không gian, cái hình ảnh, cái âm thánh đó, tiếng thét đó còn cho nên cái tưởng uẩn nó bắt gặp, nó giao cảm nó bắt gặp. Vì vậy mà, lúc bây giờ nó bắt gặp thì cái người này nó mất bình thường, ý thức của nó không còn hoạt động nữa, cho nên nó có cái vẻ hơi khác lạ, nó nói cái lời nói giống như cái người chết đó, nghĩa là cái âm thanh nó phát ra nó nói bây giờ nó không còn bình thường của ý thức của nó điều khiển, cái âm thanh của nó bình thưởng như chúng ta nói lời nói như thế này, nhưng mà khi cái tưởng chúng ta hoạt động thì khi mà nó bắt gặp cái hình ảnh náo đó thì nó phát ra âm thanh gần giống như là tiếng nói của người chết đó. Cho nên chúng ta cứ nghĩ rằng cái người chết đó có cái linh hồn nhập cho người đó, người đó mới nói lại gọi là Đồng cốt hay là các Nhà ngoại cảm.
(01:10:13) Cho nên ở đây, chúng ta không ngờ rằng đức Phật nói trong thân ngũ uẩn chúng ta chết rồi thì ngũ uẩn nó không còn một vật gì còn lại hết, nó tan hoại hết. Cho nên, cái mà còn lại thì cái đó là cái hình ảnh lưu giữ ở trên,… hình ảnh đó nó lưu giữ ở trên từ trường ở trong không gian, cách đây 10 năm, 20 năm, 30 năm cái hình ảnh đó nó không tan hoại. Như ngày xưa đức Phật cách đây 2545 năm, những hình ảnh đó nó còn lưu lại ở trong không gian, hôm nay có một người có trạng thái có trạng thái Tam Minh thì họ bắt gặp lại những hình ảnh ngày xưa đức Phật đang thuyết giảng, và âm thanh thuyết giảng vẫn còn trong không gian của chúng ta. Nó rất lâu, mà nó vẫn còn nó không mất. Nhưng mà cái đó là cái hình ảnh, chứ không phải là thật đức Phật đã còn như vậy đâu, cái hình ảnh nó lưu lại.
(01:11:00) Cho nên ở đây, chúng ta nên nhớ rằng cái thế giới mà đức Phật gọi là thế giới 33 cõi trời đó là cái thế giới tưởng, tưởng tri chứ không phải liễu tri, bị vì danh từ này thật ra thì người ta rất khó hiểu. Cho nên, có người giải thích về cái tưởng tri, là người ta mới có ghi nhận thôi, còn cái liễu tri là cái mình đọc thấy rõ người ta hiểu như vậy sai. Tưởng tri có nghĩa là cái đó tưởng, mà ở đây chúng ta thấy đức Phật cho rằng cái thế giới hữu hình của chúng ta là cái thế giới tưởng, chúng ta có thân, có nhà, có cửa đức Phật vẫn cho nó là thế giới tưởng, tại sao? Chúng ta tưởng nó là có thật, nghĩa là bây giờ ai cũng cho nó là chắc rằng có thật, có thân tôi nè, có tâm tôi nè, có nhà tôi nè, có cha tôi nè, có mẹ tôi nè, có con tôi nè,… ai cũng chấp nó là thật, nhưng mà sự thật nó không có thật.
Nó do duyên hợp mà thành, cũng như cái bàn này muốn có cái bàn này thì phải lấy ván, lấy đinh này kia kết nó lại nó thành cái bàn. Cái nhà này nó phải có tôn, có thiết, có cây này kia… ghép lại mới dựng lên làm cái nhà, thì cái nhà là do cái duyên nó hợp lại thành. Cho nên, đức Phật nhìn qua cái thế giới hữu hình chúng ta là cái thế giới tưởng thật chứ không phải thật, mặc dù chúng ta thấy mình có thân, có này kia thật, nhưng mà sự thật nó đâu có thật, nó do duyên hợp mà thành.
Cho nên, với cái đôi mắt của đức Phật thì nó là cái tưởng, thế mà nó còn một cái hình ảnh, một cái giả thứ hai nữa là cái hình bóng của cái thế giới hữu hình này nè, cái thế giới tưởng này là cái đầu tiên là bị tưởng mà chúng ta cứ ngỡ nó thật, cho nên chúng ta bị lầm lạc một lần là ở trong cái thế giới mà hiện chúng ta đang thấy có nhà, có cửa, có mình nè chúng ta đã lầm một lần là chúng ta nghĩ nó có thật. Cho nên, chúng ta cứ dính mắc ai động đến mình mình giận, mình hờn, mình phiền não. Làm cái gì cũng lo tích lũy vào cho nó, cho đó là cái có thật, nhà này của tôi tức là có thật, đất này là của tôi có thật, cho nên cái này là cái sai của chúng ta. Cho nên, đó là tưởng chứ không phải thật đâu.
(01:13:05) Bây giờ, cái hình ảnh đó nó lại thải ra không gian, nó giữ hình ảnh đó trên không gian, rồi bắt đầu bây giờ có một cái gì đó bắt gặp những hình ảnh đó chúng ta gọi đó là thế giới siêu hình, thế giới linh hồn con người. Thì đó là chúng ta lại sai một lần nữa rồi, nghĩa là cái thế giới của chúng ta đã là không thật rồi, thì những cái hình ảnh của cái thế giới của chúng ta nó lưu giữ ở trong không gian, như bây giờ Thầy đưa cánh tay nó lưu giữ ở trong không gian, rồi bây giờ có một người nào đó bắt được cái hình ảnh mà đưa cánh tay của Thầy thì nói đây là cái thế giới siêu hình, cái ông đó ông đưa tay đó. Thì như vậy, quý vị đã thấy rõ ràng là chúng ta đã tưởng một lần thứ hai nữa rồi, cái hình bóng.
Bây giờ, đem một cái ví dụ cho thấy một cái băng video người ta thu lại những hình ảnh của đào kép nó hát cách đây là 10 năm rồi, bây giờ chúng ta mở lên chúng ta thấy nó đánh đấu đá ở trong đó, rồi nó khóc, nó than, nó rên la chúng ta nói đây là thế giới linh hồn ở trong đó sao? Có đúng không? Nó làm thành sự thật ra một cái thế giới, thế giới linh hồn.
Do đó, mà Thầy cố gắng bởi vì mình biết rõ cho nên mình cố gắng mình nói ra để cho người ta đừng có chấp cái thế giới linh hồn là có thật, 33 cõi trời đức Phật nói thế giới tưởng. Nghĩa là đã có những cõi trời mà ngày xưa đạo Bà La Môn đã xây dựng nó, ông Phật lại bát sạch xuống. Như hồi nãy bài kinh Sonadanda, đức Phật đã bát sạch, từ đẹp trai 32 tướng tốt mà chúng ta thấy trong kinh Đại thừa thường ca ngợi Phật là 32 tướng tốt chứ gì, nhưng mà kinh Nguyên Thủy đức Phật bát sạch 32 tướng tốt. Rồi tụng niệm đức Phật cũng bát luôn và dòng giống cũng bát luôn, tức giai cấp cũng bát luôn không bao giờ đạo Phật có giai cấp, chỉ có người tu chưa chứng mà giữ giới nghiêm túc thì gọi là Hiền giả, người tu chứng đạo gọi là Thánh giả hay là Trưởng lão.
Trong đạo Phật chỉ có hai cái giai cấp, nhưng mà sự ra nói giai cấp thì không đúng, là vì người mới tu và người tu lâu mà thôi, người tu chứng là người tu lâu, mà người mới tu là người mới bắt đầu vào giữ giới. Cho nên, mới bước đầu vào tu theo đạo Phật giới luật nghiêm chỉnh gọi là Hiền giả, còn người tu lâu mà chứng đạo có Tam Minh hẳn hòi, chứng quả A La Hán - Vô Lậu đó gọi là Trưởng lão hay là Thánh giả, đó là bậc Thánh rồi.
(01:15:25) Cho nên ở đây, nó rõ ràng là đạo Phật không có giai cấp, không có chia ra nhiều mà chỉ có cái chỗ tu chứng hay là không tu chứng thôi. Mà chỗ không tu chứng giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì vẫn xem người đó là bậc Hiền giả. Cho nên, ở trong kinh sách chúng ta nghe cái danh từ gọi là Hiền giả Xá Lợi Phất hay Hiền giả, vị tu sĩ này gọi vị tu sĩ kia đó, gọi là Hiền giả, Hiền giả Xá Lợi Phất, Hiền giả Mục Kiền Liên hay hoặc là Thánh giả, thì tất cả chỉ cho những bậc tu chứng hoặc là tu chưa chứng mà thôi. Trong để mà chỉ, nhưng mà giới luật người ta phải nghiêm chỉnh, cho nên mới được dùng những danh từ đó.
Cho nên, đối với đạo Phật khi mà chúng ta xưng hô với nhau chúng ta phải biết cách xưng hô, một vị tu chứng chúng ta có thể gọi Trưởng lão hay là Thánh giả, một vị tu chưa chứng mà giới luật nghiêm chỉnh chúng ta gọi là Hiền giả, thưa Hiền giả. Còn một vị tu chứng thì chúng ta thưa Thánh giả hay hoặc thưa Trưởng lão, nghĩa là đạo Phật chỉ có giai cấp đó thôi chứ không có gọi là Thượng tọa, Hòa thượng gì hết.
Theo Thầy thấy ngày xưa không có gọi Hòa thượng Xá Lợi Phất hay hoặc là Hòa thượng Mục Kiền Liên Thầy đâu có nghe danh từ đó, mà nghe Hiền giả hoặc là Trưởng lão, Trưởng lão Xá Lợi Phất, Trưởng lão Mục Kiền Liên danh từ đó Thầy có thấy trong kinh sách Nguyên Thủy. Phải không? Ai có đọc thì thấy cái điều đó rất rõ chứ không có gọi Hòa thượng.
Hòa thượng đây là những cái giới phẩm để mà tôn xưng cho một vị tu hành như thế nào đó, nhưng mà bây giờ Thầy thấy Hòa thượng vẫn phạm giới, cho nên cái danh từ Hòa thượng nó không còn giá trị nữa, mà danh từ Trưởng lão nó mới còn giá trị tại vị người tu chứng mới gọi Trưởng lão. Mà bây giờ, cái người tu chứng chưa có cho nên vì vậy mà không có ai mà gọi Trưởng lão. Chứ không phải Trưởng lão là một cái ông già, không phải đâu, một cái người tu chứng. Dù một chú Sa Di mới 8, 9 tuổi, 10, 12 tuổi mà đã tu chứng vẫn gọi Trưởng lão, chứ không phải đợi già mới gọi Trưởng lão, chúng ta nghe chữ lão là tưởng ông già chứ không phải đâu, là một bậc đã tu chứng.
Đó, thì ba nẻo sáu đường chúng ta luôn thường xuyên luân hồi ở trong đó mà chúng ta tưởng là đợi mình chết rồi mới luân hồi ở trong sáu nẻo đó, không phải đâu. Đó là cõi tưởng, tưởng ra chứ còn sự thật không có điều đó.
Cho nên, kinh sách tưởng nó dạy chúng ta hiểu lầm lạc, chứ sự thật ra đức Phật muốn dạy chúng ta một cái trạng thái đó tâm của chúng ta, nó đang ở trong trạng thái đó đau khổ hay là hạnh phúc hay là an vui, an lạc thì nó là luân hồi vào những cái…
(01:18:01) Vì vậy mà, Vô Sắc giới thì như hồi nãy Thầy giải thích cho biết thì đó là thế giới tưởng của chúng ta, nó Vô Sắc giới. Cho nên nó không có hình ảnh, nó không có gì hết, nó thực tế và cụ thể. Còn những thứ khác thì coi chừng nó lầm lạc. Bởi vì, cái thế giới tưởng của chúng ta nó rất rõ ràng và cụ thể, rõ ràng là khi nằm chiêm bao là chúng ta đã rơi vào cái thế giới tưởng. Một người mà nhập Nhị thiền, Nhị thiền tức là diệt tầm tứ, diệt tầm tứ tức là diệt sáu căn…
(…) Có những con bò ở gần đó thế mà hỏi đức Phật, đức Phật có nghe gì, đức Phật không nghe tiếng con gì hết. Tức là trong khi mà không nghe…
(…) Tứ thiền là như thế nào quý vị biết không? Tứ thiền là hơi thở hoàn toàn nhưng bặt không còn thở nữa, cơ thể ngồi bất động đó như một cục đá không còn hoạt động chút nào, không còn rung động chút nào hết, cho nên muốn nhập Tứ thiền…
(…) báu thân. Không, đức Phật nhập tới Tứ thiền mà bỏ báu thân.
Đó thì chúng ta thấy những bài kinh mai là nó còn để lại cho chúng ta biết được, xác định được cái phương pháp nào làm chủ sanh, già, bệnh, chết rõ ràng và cụ thể. Và cách thức phải tu tập, luyện tập như thế nào thì cái Pháp Như Lý Tác Ý là cái pháp tuyệt vời nhất ở trong các phương pháp, để tạo thành một cái nội lực, nội lực tu tập của chúng ta.
Đó, bây giờ thầy Chơn Giác còn hỏi Thầy gì nữa không?
(01:19:25) Thầy Chơn Giác: Nam mô bổn sư thích Ca Mâu Ni Phật!
Kính bạch thầy! Trong những bài giảng hoặc kinh sách khi nói đến nhân quả thiện ác, Thầy thường dạy chúng con sinh ra từ nhân quả, sống trong nhân quả và ra đi cũng từ nhân quả. Chúng con đến với đạo Phật luôn luôn lúc nào cũng có niềm tin về nhân quả. Hôm nay, trong vấn đề liên quan đến bài học về nhân quả thiện ác, chúng con xin Thầy hoan hỉ giảng dạy chúng con việc tái sanh luân hồi hay đầu thai.v.v.
Theo khoa học hiện nay việc sinh ra một con người là sự giao hợp giữa nam và nữ sau 9 tháng 10 ngày là sinh con. Ngày nay, họ còn tiến bộ hơn là có khả năng thụ tinh trong ống nghiệm.v.v. còn trên lĩnh vực về Tôn giáo của đạo Phật về việc nhân quả tái sanh luân hồi Thầy có giảng cho chúng con về bốn cách nhập thai.
Thứ nhất, người phàm phu nhập thai không biết mình nhập thai trong bụng mẹ, không biết mình trụ trong bụng mẹ và không biết mình ra khỏi bụng mẹ.
Hạng người thứ hai, người tu Chánh Niệm Tỉnh Giác định họ có đủ sức thức tỉnh, sau khi chết đi họ biết mình nhập thai trong bụng mẹ, nhưng không biết mình an trú trong bụng mẹ và không biết mình ra khỏi bụng mẹ.
Hạng người thứ ba, người tu tập Định Vô Lậu tâm tỉnh thức rất cao và Ngũ Triền Cái xả ly nên khi chết biết mình nhập thai vào bụng mẹ, an trú trong bụng mẹ, nhưng không biết mình ra khỏi bụng mẹ.
Hạng người thứ tư, người đã ly dục, ly bất thiện pháp thân hoại mạng chung biết mình nhập thai vào bụng mẹ, biết mình an trú trong bụng mẹ và biết mình ra khỏi bụng mẹ.
(01:21:26) Như vậy, là khi một con người khi tắt hơi thở cuối cùng và do nhân quả liền nhập thai nơi nào đó, mà do nhân quả mình đã tạo (. . .). Trong khi đó, có một số thầy, cô và cả tài liệu họ cũng giảng dạy người vừa chết ở nơi này là đã sanh về nơi khác do nghiệp lực luân hồi. Nhưng có một điểm dẫn chứng việc tái sanh chúng con nghe thật là mâu thuẫn. Họ giảng, ví dụ có một sản phụ đang chuyển bụng chờ sanh, họ đau đớn cùng cực kéo dài hàng mấy tiếng đồng hồ là vì họ phải chờ một cái nhân của một con người nào đó đang trên giường bệnh hấp hối đau đớn, cùng cực cũng kéo dài mấy tiếng đồng hồ như vậy đến khi tắt hơi mới nhập cho người sản phụ, lúc đó người sản phụ mới sanh được. Kính bạch Thầy, như vậy có đúng không?
Kính thưa Thầy, rồi họ còn luận tiếp về cả ngày giờ sanh, cả người chết và khi tái sanh rất trùng hợp.v.v. kính xin được Thầy từ bi giảng dạy cho chúng con!
Trưởng lão: Vấn đề mà luận của các Ngài đó là sai, tại sao sai?
Bởi vì, chúng ta không một cái Thần thức, một ý nghĩ chúng ta nó thải ra không gian, thiện ác. Rồi bây giờ, tới cái miệng của chúng ta nó lại phát ra cái lời nói của nó, cái lời nói của nó lại phóng ra cái từ trường trong không gian, nếu mà là thiện đẩy ác. Thì cái từ trường đó vẫn là từ trường thiện ác gọi là nghiệp lực của chúng ta.
(01:23:05) Bây giờ cái thân của chúng ta, cái hành động của chúng ta đánh ở trên đầu người ta, đánh người ta hay hoặc là chúng ta giết người ta, hay cầm cái dao cắt cổ con gà, hay hoặc là đập đầu con cá để mà giết để làm thịt…
của nó, để mà nó hợp bởi vì đức Phật nói thân chúng ta sinh ra là do duyên hợp, các duyên hợp lại. Cho nên, bây giờ nó do một cái duyên này tương ưng mà nó hợp lại với tinh trùng cha và noãn châu của mẹ, bởi vì hai cái phần này là hai cái phần vật chất, mà cái phần kia nó là từ trường là nó thuộc về cái tinh thần nó vô hình, phải không?
Cho nên, khi đó nó tương ưng là nó ở bất kỳ ở trong không gian này, nơi nào chớ không phải nó đi. Bởi vì, nó thải ra nó nằm ở trong không gian nó tương ưng, cái thiện với ác nó tương ưng, nó ở trong không gian này nó tương ưng với người cha, mẹ đó, cái người đó nó có cái bản chất tham, sân, si cũng như những cái từ trường của mình đã thải ra.
Do đó, khi đó nó tương ưng thì lúc bây giờ nó hợp thì nó sẽ thành, nó đủ duyên nó hợp khi cái người này chết thì tất cả những cái từ trường này nó hợp lại với những duyên khác, tức là như Thầy nói từ cái tinh trùng, noãn châu nó hợp lại thì nó mới thành một đứa bé nằm ngay ở trong bụng mẹ của nó. Liền ngay đó đã là, khi đức Phật nói Thập nhị nhân duyên, chúng ta nghe nói: “Vô minh sanh Hành, Hành sanh Thức”. Nghĩa là Vô minh như thế nào? Do Vô minh của hai vợ chồng của người này vô minh, không thấy được cái nẻo sanh tử luân hồi, cho nên vì vậy mà hai người mới giao hợp. Phải không? Đó là Hành, Hành là giao hợp chứ gì. Mà giao hợp thì nó sanh cái Thức. Thì do đó nó tương ưng, ngay đó hai chất của người nam và người nữ tức là tinh trùng và noãn châu nó hợp lại, và đồng thời nó tương ưng với cái nhân quả chúng ta chết. Phải không? Do đó nó hợp lại, do những cái duyên này nó hợp lại ngay đó thì nó đã có một cái mầm của một cái con người chúng ta rồi.
Mà cái mầm này…
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian: M4Tet2003
Thời lượng: [01:34:39]
Tên cũ: 03-(M4Tet2003)-ThamVanNghiepTaiSanh-TinhThuc-PhapTuCuaPhat-NhanQua-LeQuyYTamBao
https://thuvienchonnhu.net/audios/20030204-phap-tu-cua-phat-y-nghia-quy-y-tam-bao.mp3
Trưởng lão: Cái trứng nó mới nở, mà nếu mà nó bị lạnh quá cái trứng đó cũng bị hư. Thì trong cái ống nghiệm nó cũng phải giữ cái nhiệt độ, cái nhiệt độ, ôn độ như thế nào để rồi những cái gen đó nó mới phát triển ra được, chứ còn không khéo thì nó cũng bị hoại diệt, đó là cách thức mà hiện giờ khoa học đã tiến triển, nó đã làm cho chúng ta thấy rõ ràng là chứng minh cụ thể trên vấn đề thai sanh và noãn sanh.
(00:24) Bây giờ hóa sanh thì các con hiểu như thế nào, quý vị hiểu như thế nào mà đức Phật đã nói có hóa sanh?
Hóa sanh không có nghĩa là như con sâu mà hóa thành con bướm, không phải. Ở đây hóa sanh là cái người đó có đủ năng lực, cái năng lực đó gọi là Bảy Giác Chi. Bảy cái trạng thái Bồ đề. Cái Trạch Pháp Giác Chi là cái hướng tâm của họ, họ muốn nhìn vào cái chỗ nào đó, thì cái đó nó sẽ tạo thành một cái gì, họ muốn là nó làm được. Cho nên, cái người mà hóa sanh là cái người phải có năng lực, cái năng lực hướng tâm.
Cũng như bây giờ họ muốn hóa sanh thì họ hướng trong không gian chúng ta tất cả các gen, nó đầy đủ tất cả các gen, nó hướng nó hợp các gen này lại trong một cái môi trường, cái độ ẩm là cái năng lực của cái tâm của họ, nó tạo thành cũng như trong ống nghiệm. Cho nên nó hợp lại rồi nó sanh ra ngay liền một con người hẳn hòi hoàn toàn, cũng y như con người chúng ta.
Nhưng mà cái người có năng lực như vậy là con người phải toàn thiện, con người phải ly dục ly ác pháp hoàn toàn thì mới có năng lực đó mà làm. Cho nên, khi mà chúng ta tu tập, chúng ta ly dục ly ác pháp thì Bảy Giác Chi nó xuất hiện, chứ không phải bảy pháp giác chi mà tu tập. Như chúng ta đầu tiên, chúng ta có Bảy Pháp Giác Chi tu tập, là chúng ta trạch ra. Cho nên Trạch Pháp Giác Chi nó đầu tiên là chúng ta nương vào đó mà chúng ta tác ý, chúng ta niệm cái câu đó ra, thì đó là Trạch Pháp Giác Chi.
Nhưng mà chúng ta tu đúng ở trên Tứ Niệm Xứ, thì Bảy Giác Chi xuất hiện thì Tinh Tấn Giác Chi xuất hiện trước, chớ không phải Trạch Pháp Giác Chi, mà chính Trạch Pháp Giác Chi là cái pháp hướng tâm cuối cùng, cái năng lực cuối cùng của nó gọi là Dục Như Ý Túc. Bởi vì trong Tứ Như Ý Túc có Dục Như Ý Túc, chúng ta muốn cái gì nó làm như thế nấy, đó là Trạch Pháp Giác Chi, tự nó trạch ra bằng cái năng lực của nó.
(02:09) Cho nên trên cái sự hóa sanh nó phải có cái năng lực đó, thì cái người đó mới hợp các gen mới hóa sanh được, vì vậy mà nó hợp trên không gian chúng ta đủ các duyên. Còn trái lại cái nhà khoa học thì họ không lấy từ ở trong không gian này các gen được (họ lấy được, nhưng mà họ không có cách, bây giờ nó chưa tới giai đoạn mà họ có thể lấy trong không gian các gen) mà bằng cách họ lấy cái tinh trùng của người nam và noãn châu của người nữ họ mới bỏ vào một cái ống nghiệm, để rồi từ đó nó mới tạo ra một cái con người.
Qua cái nhận xét qua được cái nhiệt độ, ôn độ của ở trong cái bào thai như thế nào để tạo thành con người thì ở trong ống nghiệm nó cũng giữ cái ôn độ đó, thì do đó nó tạo thành. Bây giờ trong cái ôn độ đó những cái gen này sẽ, cái nguyên tố này nó sẽ tạo thành con người, thì đó là nó phải giữ được cái ôn độ.
Còn cái này cái người hóa sanh, người ta cũng giữ cái ôn độ bằng cái năng lực của tâm người ta, cho nên nó đặc biệt mà nó rất tuyệt vời, vì vậy mà gọi là hóa sanh. Cho nên từ xưa đến giờ người ta không hiểu đức Phật hóa sanh như thế nào?
Không phải là biến hóa, mà để hợp các gen để trở thành một con người, nhưng con người đó là con người toàn thiện bởi vì cái người mà sanh nó ra là một bậc A La Hán rồi, một cái người vô lậu rồi, tâm họ ly dục ly ác pháp hoàn toàn, tức là toàn thiện, cho nên họ hợp lại với cái tinh thần toàn thiện đó thì con người đó sẽ sống với chúng ta không được. Nghĩa là con người đó có hóa sanh ra thì con người đó sống với chúng ta không được là tại vì con người chúng ta quá ác, lấn chiếm người ta hoài, và cái người toàn thiện bao giờ họ cũng nhẫn nhịn chúng ta, họ cũng lui thôi, họ không bao giờ chửi chúng ta lại.
Cũng như bây giờ, ví dụ như Thầy tu hành tới cái mức độ này, các con chửi Thầy, Thầy không giận, phải không? Nhưng bây giờ các con thấy cái chùa Thầy các con cứ lấn riết, lấn riết rồi chiếm luôn chùa Thầy thì Thầy cũng bỏ luôn mà đi, một mình Thầy bơ vơ sống không được. Và món ăn của Thầy, Thầy vừa dọn lên chưa ăn, các con nhảy lên các con lấy các con ăn đi thì Thầy cũng nhịn không có đòi hỏi, không có giựt trở lại, đó là người toàn thiện. Người ta nhẫn nhục, tùy thuận tất cả mọi cái, người ta an vui, vì vậy mà cái người toàn thiện thì sống với cái người chúng ta không được, bây giờ sống với con người chúng ta cũng không được.
(04:27) Cho nên, hồi nãy Thầy có nói nếu có cái thế giới của chư Thiên, có thế giới của chư Phật mà con người chúng ta mà lên trên đó thì chúng ta sống với các người đó không được, là tại vì chúng ta sống cái kiểu mà chúng ta tham lam quá thì lên trên đó chúng ta ăn hiếp mấy người đó. Cho nên mấy người đó họ cũng không muốn cho chúng ta lên đâu. Buộc lòng như vậy, bởi vì cái tâm của chúng ta chưa có chuẩn bị cho mình những cái tốt, thì mình lên đó làm sao được, bằng chứng là chúng ta phải ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện. Chúng ta sống toàn thiện thì bây giờ chúng ta không muốn họ cũng rước chúng ta về trên.
Đó là đặt vấn đề có, nhưng mà sự thật là không có. Mà ngay cái trạng thái của chúng ta. Mà cái trạng thái của chúng ta nó được thanh thản, an lạc, vô sự đó là Niết bàn, đó là cái trạng thái giải thoát, vì vậy mà cái từ trường đó vẫn là từ trường giải thoát. Cho nên chúng ta khi mà không tu thì chúng ta có cái nghiệp lực, cái nghiệp lực thiện ác mà tái sanh luân hồi chứ không phải linh hồn, mà khi tu thì chúng ta có cái nghiệp, cái nghiệp không tham, sân, si.
Hằng ngày Thầy tác ý như thế này: “Tâm như cục đất không có tham sân si”, không ngờ nó trở thành cái nghiệp không tham, sân, si, cái tác ý này nó mới trở thành cái nghiệp không tham, sân, si, cái lực của nó. Cho nên cuối cùng Thầy còn được cái này, cái Thầy chết Thầy, một người tu rồi chết nó cũng, ngũ uẩn này nó cũng không còn một cái vật gì nữa hết, mà nó còn cái nghiệp của nó, là cái sức tác ý của nó, tâm không có tham, sân, si.
Nhưng mà tới chừng mà tác ý đến cái mức mà tham, sân, si nó không còn thì cái lực này nó lại là cái lực không tham, sân, si. Gọi là nghiệp không tham, sân, si. Còn cái nghiệp tham, sân, si nó luôn luôn tái sanh luân hồi; còn cái nghiệp mà không tham, sân, si luôn luôn nó vĩnh viễn nó chấm dứt luôn cả không còn luân hồi, bởi vì nó không tham, sân, si nó không còn luân hồi nữa.
Cho nên cái người tu hỏi nó còn cái gì? Nghĩa là bây giờ mình tu mà ngũ uẩn mình cũng hoại diệt mất hết, thì cái người không tu cũng mất hết thì vậy tu để làm gì?
(06:12) Rõ ràng là cái người không tu thì còn cái nghiệp tham, sân, si đi tái sanh luân hồi; mà cái người người tu thì phải còn cái nghiệp không tham, sân, si. Cho nên đức Phật ví dụ: Một cái cây kia mới mọc lên thì vỏ và giác, nó đâu có cái lõi phải không? Nhưng mà quá trình thời gian của nó lớn lên thì nó sẽ có lõi. Chúng ta cũng như cái cây mới mọc mà không tu tập thì cái cây của chúng ta không bao giờ có lõi, mà chúng ta do cái tu tập chúng ta mới có lõi, phải không?
Do như vậy đức Phật đem ví dụ chúng ta như một cái cây. Thì cái người hỏi khi mình tu rồi mình còn cái gì? Thì đức Phật lấy ví dụ, khi một cái cây vạc bỏ vỏ, bỏ giác thì còn có lõi chứ, nhưng mà cái lõi đó nó không phải tự có ở từ cái cây mới mọc lên đâu.
Cho nên, chúng ta nói có Phật tánh, người nào sanh ra cũng có Phật tánh, thực sự đây là không hiểu, nó đâu có. Nó bất tịnh, nó ô nhiễm. Cái tâm của chúng ta bây giờ do tham, sân, si là ô nhiễm, bất tịnh, nó đâu có thanh tịnh sẵn đâu.
Cho nên, một đứa bé nó sanh ra, ví dụ như ông Khổng Tử nói: “Nhân chi sơ tánh bổn thiện”. Ông ta nói sai! Tại sao sai? - Tại vì một đứa bé sanh ra nó có mang theo cái tham, sân, si của nó dữ lắm. Thật sự ra một đứa bé, ai dạy nó sân? Thế mà nó khát sữa nó đòi, nó làm dữ lắm. Có sân không? - Chúng ta thấy rõ ràng nó đâu có thiện đâu, rõ ràng mình đang ở trong ác pháp chớ, nó rõ ràng. Như vậy rõ ràng chúng ta thấy mặc dù là đức Thánh Khổng Tử là một vị Thánh có cái nói đúng, có cái nói sai, chứ không phải là đúng hết.
Còn đức Phật xác định rất đúng, rất đúng là cái chỗ là cái duyên, cái nhân của chúng ta tham, sân, si cho nên tái sanh, thì lúc bấy giờ đứa bé vừa sanh ra chúng ta đã thấy cái tướng của nó rồi. Nó khóc thét lên, rõ ràng là nó đang tức giận, bởi vì nó phải chui qua một cái ngõ quá chật, quá đau, cho nên nó phải tức, nó phải khóc chứ.
Mà nếu nó không khóc thì người ta cũng phải móc miệng cho nó khóc nữa, tại sao vậy? - Tại vì, nếu mà không làm cho nó đau thì nó không có khóc, còn làm cho nó đau thì nó khóc. Vì vậy mà người ta phải tìm mọi cách để cho nó sống lại với cái nghiệp của nó, chứ không khéo thì nó phải chết, phải không? Bởi vì nếu mà sanh đứa trẻ ra mà nó không khóc là đứa nhỏ này sắp chết. Cho nên, do như vậy chúng ta đã thấy rằng phải tạo cho nó sống lại cái nhân quả của nó.
(08:30) Còn hồi nãy Chân Giác hỏi Thầy: “Tại sao người tu theo đạo Phật mà cái người không tu là vào bào thai thì không biết?”.
Bởi vì ngay từ cái chỗ hành, vô minh sanh hành, hành sanh thức. Cái thức này do huân cái nghiệp như thế nào mà cái thức này ngay đó biết liền?
Có bốn giai đoạn tập tỉnh thức của Đạo Phật:
Khi chúng ta còn mang cái thân này, chúng ta đã tập tỉnh thức, cho nên cái hành động mà chúng ta tập tỉnh thức nó vẫn thải ra cái nghiệp của chúng ta, theo cái nghiệp của chúng ta. Hằng ngày chúng ta tập tỉnh thức mà, “Tôi đi tôi biết tôi đi” nè, “Hởi thở, biết hơi thở ra vô” nè, thì cái sức này nó luôn luôn thải ra theo cái nghiệp của chúng ta. Cho nên khi mà cái nghiệp mà luân hồi của chúng ta nó còn, tức là cái nghiệp tham, sân, si của chúng ta còn chứ chưa hoàn toàn nhưng mà chúng ta có cái sức tỉnh thức, phải không? Cái sức tỉnh thức đó nó cũng tiếp tục với cái nhân, những cái từ trường của tham, sân, si của chúng ta mà thải ra.
Cho nên khi mà vào bào thai này thì đứa bé này nó tập tỉnh thức có một mức độ nào đó thôi, cho nên nó vào bào thai nó biết. Bởi vì cái từ trường nó đi vào tiếp duyên với cái bào thai của mẹ nó, thì ngay đó là khi cái thức này nó vừa, chúng ta tập tỉnh thức chứ gì. Phải không? Bây giờ cái thân chúng ta vừa bỏ thì cái từ trường của chúng ta nó tiếp nhận với cái hành của vô minh của người cha của nó, thì nó nó biết ngay liền là cái thức của nó vừa bỏ xuống, thì nó vừa mất cái này thì nó biết cái từ trường nó đang tiếp nhận vào cái gia đình nào nó biết rồi. Thì khi mà mất cái biết ở đây rồi thì nó hết biết rồi.
(10:11) Bây giờ một cái người nằm ở trên giường bệnh, thì nó sẽ thực hiện qua cái gì mà để nó biết? - Nó qua cái giấc mộng của nó, thí dụ như nó, chứ không phải là hoàn toàn nó không giấc mộng. Bây giờ cái người mà nằm, cái người mà chết có người nằm mộng, thấy những cái ác mộng, họ sợ hãi, rồi họ la họ mới chết, còn có người, bởi vì đó là gọi là cận tử nghiệp, cái nghiệp cận tử của nó.
Bây giờ cái người này họ đang sắp sửa chết, họ đang nằm ở trên cái mê muội hoàn toàn, nhưng mà không ngờ cái mê muội là giấc mộng của họ. Họ thấy như thế nào? – Họ thấy như, trong khi đó cái tưởng nó hoạt động, họ thấy họ đi vào trong cái nhà đó, rồi họ vào trong cái bụng mẹ họ. Thì cái thức của họ, họ còn đang sống ở trên cái thân của họ còn đang sống, nhưng mà khi mà họ nhập vào cái họ mất, họ mất là cái họ chết. Là tại vì họ thấy cái từ trường của họ qua cái tưởng của họ, nó thực hiện qua cái biết của họ để đi vào trong cái này.
Thì bởi vì họ còn sống, họ còn sống nằm trên giường bệnh là cái tưởng họ còn hoạt động, các con có hiểu không? Cho nên khi đó cái tưởng nó thấy cái nghiệp của nó, tức là cái hành động mà nó thải ra cái từ trường đó, thì nó thấy khi mà nó còn sống thì nó thấy cái từ trường đó, nó thấy những cái từ trường của nó thấy như là nó. Bởi vì cái tưởng nó làm như là nó.
Cho nên khi đó nó vào trong bụng mẹ thì nó không còn biết nữa, là ở bên đây nó chết rồi. Chứ không phải là có linh hồn đi vào bụng mẹ, mà cái thức của người còn sống này nó đang ở trong cái mộng, cái giấc mộng. Cho nên cái tưởng uẩn của nó hoạt động thành cái giấc mộng đó, cho nên nó ở trong cái giấc mộng đó nó thấy là nó đi vào cái gia đình đó, rồi nó chui vào cái bụng mẹ của cái người đàn bà đó thì tới đó cái nó mất, nó không còn biết nữa. Tức là nó thành cái bào thai, tức là nó chuyển qua cái thức mới khác của nó, nó không biết nữa rồi.
Tức là nó tu có tỉnh thức ở trong khi nó còn sống, còn khi mà nó vào cái thân khác, nó không biết nữa rồi. Tức là cái thức mới rồi, chứ không phải là cái thức cũ. Còn cái thức cũ là cái tưởng của nó, các con hiểu không? Nó tưởng nó, giấc mộng mà, nó thấy như nó đi đầu thai, các con hiểu không? Các con hiểu cái chỗ này chưa?
(12:19) Cái chỗ này rất là khéo léo, rất là thiện xảo lắm. Bây giờ một cái người bệnh sắp sửa chết thì nó thực hiện qua cái giấc mộng, gọi là cái cận tử nghiệp của nó. Bây giờ nó mới thấy rằng khi đó thấy rằng nó đang nằm mộng như vậy, nó thấy rằng nó đi vào.
Cũng như nó nằm mộng, nó thấy người ta dí nó chạy, nó chạy nó trốn, trốn trong cái đám cỏ. Nó ngỡ rằng, trong cái giấc mộng nó ngỡ rằng nó chui trong cái đám rừng. Không ngờ nó sanh làm một con kiến, mà nó, tức là nó vào cái bào thai của con kiến nó sanh ra con kiến biết không? Nó thấy nó chui vào trong cái đám rừng, không ngờ là cái đám cỏ mà ở trong cái giấc mộng nó thấy đám rừng, phải không? Nhưng mà khi cái người này chết rồi thì sanh làm con kiến, và vì nó chui vào đám cỏ, trong đám cỏ nó có một bầy kiến ở trong đó. Nó vào cái bào thai của con kiến, vì vậy mà nó sanh ra nó làm con kiến con.
Mà trong khi nó là con người, nó đang nằm, rồi nó mộng nó thấy người ta dí nó sợ quá, nó chạy, nó chui trong cái đám rừng nó trốn. Nhưng mà không ngờ, nó chui trong đám rừng là nó chui trong đám cỏ. Bởi vì cái tưởng thì nó thấy nó là đám rừng, nhưng mà sự thật là đám cỏ. Do đó, trong đám cỏ thì nó có một bầy kiến trong đó. Không ngờ rằng nó chui vào đám rừng nó vô trong đó thành một con kiến và nó trở thành một con kiến con, mà nó không ngờ khi đó cái thân này nó bỏ là nó trở thành cái bào thai của con kiến ở trong này rồi.
Còn chúng ta thấy cái đầu tiên mà Thầy trả lời để cho mấy con biết rằng cái giai đoạn mà tỉnh thức thứ nhất là nhập vào bào thai, tôi còn biết tôi vào bào thai. Và lúc bây giờ cái gì biết tôi vào bào thai? - Đâu phải là một cái ý thức mình biết đâu. Nó mất đi, nó thực hiện qua giấc mộng, cho nên cái tưởng thức nó mới thấy, nó mới thấy nó đi vào cái bào thai nó vào cái bụng mẹ của một cái người đàn bà nào đó, nó vào cái bụng mẹ.
Cho nên đức Phật diễn tả thế này, hầu hết là không có ai hiểu, chỉ có người tu nhập định người ta mới thấy được cái điều này rất rõ. Cho nên vì vậy đó khi đó nó ở trong cái giấc mộng, nó mới thấy cái biết của người này, họ sắp sửa chết chứ chưa chết, cho nên cái tưởng nó hoạt động. Khi mà nó vào bào thai thì nó chết, nó chết thì cái tưởng nó cũng ngưng hoạt động luôn, nó cũng hoại diệt luôn, cho nên nó mất, hết biết rồi. Tức là nó chuyển qua một cái thân khác rồi, thì do đó nó không còn biết nữa.
(14:33) Bây giờ cái người còn sống như chúng ta tu tới giai đoạn tỉnh thức thứ hai. Thì bắt đầu bây giờ nó vào bào thai, tức là nó ở trong cái giấc mộng nó thấy nó vô đây rồi, rồi bắt đầu nó vô đó nó còn biết. Khi nó mất cái thân này thì cái thức mới nó còn biết, chứ không phải cái thức cũ nó biết nữa. Cái thức của ngũ uẩn mà cái thức của người chết này nó hoàn toàn nó mất, phải không? Bây giờ nó còn biết ở trong bụng mẹ. Tức là nó còn nằm trong bụng mẹ thì nó biết nó nằm trong bụng mẹ thì cái thức đó nó biết. Thì cái thức này là thức mới, là do cái sức tỉnh thức chúng ta tu, cho nên nó đi qua bên đây nó còn biết. Còn cái sức tỉnh thức của chúng ta mới có giai đoạn một thì chúng ta chỉ biết chúng ta vào bào thai mà thôi.
Cho nên Chơn Giác lúc nãy hỏi, con nhớ không? Mình vào bào thai mình còn biết, sau khi vô bụng mẹ rồi thì hết biết, là nó qua cái tưởng thức mới của chúng ta ở trong cái thai nhi, chúng ta không biết, cái thức đó nó còn nằm đó chứ nó không biết, nó không còn biết nữa. Bởi vì vô minh sinh hành, hành sinh thức nó mới có cái thức mới này. Nhưng mà cái thức mới này do cái sức công phu mà chúng ta tu tập sức tỉnh chúng ta thải từ trường ở trong không gian để mà tương ưng sanh làm một đứa trẻ thứ hai thì cái sức tỉnh thức nó mới chỉ biết nó vào thai mẹ thôi, chứ nó không hơn nữa.
Bây giờ chúng ta tu tới giai đoạn thứ hai, tỉnh thức thứ hai thì vào thai mẹ chúng ta lại biết. Nghĩa là nằm đó, nằm đó cho đến khi mà bà mẹ sắp sửa sanh ra thì chúng ta không biết, mất cái sức, sức tỉnh thức nó mất rồi, nó không biết. Khi mà đau đớn quá cái chúng ta mất biết rồi.
Cũng như bây giờ chúng ta thấy chúng ta mạnh khỏe chúng ta còn tỉnh, nhưng mà khi đau đớn quá rồi chúng ta mất tỉnh rồi, tức là mất biết rồi, có phải đúng không? Lúc bấy giờ chúng ta không còn biết nữa, do đó cái đứa bé sắp sửa bà mẹ sanh ra nó không biết, mà hồi nó ở trong bụng mẹ nó còn biết, tôi đang nằm trong bụng mẹ nó biết, nó biết rất rõ, phải không?
(16:14) Rồi bắt đầu bây giờ mình tu lên cái tầng thứ ba, mình tu lên tầng thứ ba. Thì lúc bà mẹ sinh ra nó đau đớn lắm, lúc bấy giờ mình cũng biết đau, biết đớn, biết đủ thứ hết, biết rõ ràng. Rồi ngay cái đầu mà sanh ra thì mình cũng biết đau đầu nhưng mà khi lọt lòng nó quên hết, nó không còn nhớ hồi đó mình là ai, ai đây? Mình không nhớ được, không có nhớ, các con hiểu chưa?
(16:36) Cho nên đến cái giai đoạn thứ tư, lúc bây giờ khi mà chúng ta tu tới sức tỉnh thức thứ tư. Thì khi mà chúng ta sanh ra thì chúng ta còn nhớ lại hồi đó mình ở làng nào, xã nào, con ông gì, tên gì, bà gì, nó ở xứ nào, tên gì … nó biết sạch hết. Cho nên, có nhiều đứa trẻ mà sanh ra nó biết nhà, biết làng, biết xã nó đó. Đó là cái sức tỉnh thức của nó tới thứ tư rồi.
Đức Phật, ở trong kinh điển của Phật dạy cho chúng ta bốn cái giai đoạn tập tỉnh thức lận mà. Cho nên các con thấy nếu một cái đứa bé mà sanh ra nó biết cha mẹ nó đời trước ai là ai, ở trên xứ nào, làng nào thì đứa bé thật là kỳ lạ thiệt chứ. Nhưng mà thật sự ra cái sức tỉnh thức của nó chứ gì. Cho nên các ông Lạt Ma hầu hết là tu vào cái sức tỉnh thức này.
Cho nên có nhiều ông Lạt Ma sinh ra biết được chuyện đời trước của mình chứ gì? Các con có nghe đọc sách của Tây Tạng chưa? Đó là những cái điều kiện mà giáo lý của nhà Phật đã xác định điều đó. Nhưng chúng ta tỉnh thức chưa phải là để mà giải thoát. Cho nên mấy ông Lạt Ma chưa giải thoát, có thần thông thật nhưng mà chưa giải thoát. Do Mật Tông mà luyện thần thông tưởng, cho nên nó có những cái đặc biệt nhưng cái đặc biệt đó chưa có thể giải quyết được sanh tử luân hồi, các con hiểu điều đó chưa? Thấy chưa? Nó rõ ràng cụ thể. Cho nên nó có bốn giai đoạn tỉnh thức chứ không phải một giai đoạn đâu.
Mình tập cái pháp gì, tỉnh thức đến mức độ nào, tập tỉnh thức gì? Đến mức độ nào? Thầy nói bây giờ cái phương pháp nội chúng ta đi kinh hành không, chúng ta cũng tập từng cái giai đoạn tỉnh thức của nó, các con hiểu không? Bây giờ đi kinh hành như thế này: “Tôi đi tôi biết tôi đi”, thì chân các con bước đi, bước đi thì các con biết tổng quát của các bước chân. Trong đó những cái hành động của cái bước chân đó các con có biết chi li ở trong đó không? - Chưa biết! Cho nên nó chưa kỹ, thì cái tỉnh thức đó nó chưa phải là giai đoạn 3, giai đoạn 4 đó được.
(18:15) Cho nên khi mà tập Thân Hành Niệm, Thầy nói như thế này nè, các con thấy nó rất rõ ràng cụ thể. Khi mà tập Thân Hành Niệm, tức là đức Phật dạy Thân Hành Niệm, tu phải biết trong cái những cái hành động của mình chứ gì? Thì bắt đầu bây giờ cái chân, thí dụ như đây là cái chân trái, đây là cái chân mặt này. Thầy bảo: “Chân trái bước!”, thì lúc bấy giờ Thầy mới chú ý trên cái chân của Thầy, thì Thầy thấy, Thầy bảo: “Nhón gót lên!” thì cái chân Thầy nó nhón cái gót lên, chứ nó đâu có đưa cái như vầy. Thì nếu nó đưa cái vầy là nó có “Nhón gót lên” rồi nó “Đưa tới”, … nó nhiều cái hành động trong này trong một cái bước đi của nó, mà mình chỉ biết bước không thì đó là mới giai đoạn tỉnh thức thứ nhất. Các con hiểu điều đó chưa?
Bây giờ cái giai đoạn thứ hai, thứ ba của nó, nó phải tu tập như thế này. Thì bây giờ cái giai đoạn mà để tỉnh thức thật cho thật sự tỉnh thức thì bây giờ “Chân trái bước” thì cái chân trái nó phải dở cái hành động của nó “Đưa cái gót lên”, rồi nó mới “Đưa cái chân lên”, đó là hai hành động của nó trong một cái bước đi hai hành động. Bây giờ nó “Đưa cái chân tới” là một cái hành động nó đưa chân tới rồi, rồi nó “Để cái chân nó xuống”, rồi nó “Hạ gót xuống” thì nó mới được gọi là cái bước chớ.
Còn mấy con nói bước là mấy con chỉ biết tổng quát thôi thì như vậy sức tỉnh thức của mấy con có đầy đủ không? Có trọn không? Như vậy là mấy con bảo mà tôi sinh ra tôi phải biết nhiều đời nhiều kiếp, tôi chắc chắn tôi sinh ra tôi biết đời trước tôi là ai thì cái chắc chắn là sức tỉnh thức của mấy con có không? - Đâu có!
Mà cái sức tỉnh thức đó tu để làm gì? Các con biết nó thải ra không gian này nè, bởi vì mỗi hành động của chúng ta đều là lưu lại trong không gian hết chứ. Nó mới tương ưng, nó mới đi tái sanh chứ, chứ đâu phải linh hồn chúng ta tái sanh.
Cho nên mấy con ví dụ bây giờ mấy con nè, mấy con học giỏi Sinh ngữ, học Toán giỏi này, thì nó đâu mất của mấy con đâu. Những cái từ trường học giỏi của mấy con nó sẽ thải ra, cho nên các con thấy đời nay các con dốt, các con ráng học, đời sau các con thông minh là do mấy con đã học rồi. Thì cái đó, cái mà mấy con học tức là cái hành động của mấy con làm đó, nó sẽ thành cái từ trường của mấy con chứ, nó làm sao mất. Nó tái sanh nó phải đi theo cái đó của nó chớ, cho nên cái sức tỉnh thức nó cũng đi theo nó đó chứ, mặc dù nó qua một cái thân mới, một cái thức mới, nhưng mà cái sức tỉnh thức đó nó phải còn chứ nó đâu mất được. Nó phải theo mấy con chứ! Dù một ngàn lần cái thức mới của mấy con nó vẫn mang theo chứ, nó đâu mất.
(20:23) Cho nên trên cái sự tu tập của Phật phải hiểu rõ, rất rõ, là chỉ có những người mà người ta nhập được các định, người ta mới quan sát được tất cả những sự kiện xảy ra. Ngồi đây mà người ta dùng cái Thiên Nhãn Minh, tức là cái trí tuệ Tam Minh người ta quan sát vũ trụ, mà vũ trụ là vô cùng, vô tận. Nhưng mà người ta ở đây, người ta ngồi đây người ta nhìn như mình nhìn chỉ ở trong lòng bàn tay, thấy trước mặt của mình mọi vật.
Thì các con thấy người ta tu hành người ta rất vất vả cực khổ, người ta ăn ngày một bữa, người ta sống đâu có phải như ngoài đời đâu. Người ta sống một mình mà đền đáp lại cái công lao tu tập của người ta bằng cách mà người ta tu đến cái mức độ mà người ta ngồi quan sát vũ trụ, người ta biết được tất cả những cái hành tinh ở trên không gian này là như thế nào người ta biết được, đâu phải người tu, người ta chỉ có biết tu mà thôi đâu.
Khi tu rồi người ta quan sát rất kỹ, người ta nhìn thấy cái con người nó đủ cái phước duyên như thế nào người ta biết được từng cái duyên phước của chúng sanh nữa. Bởi vậy người ta tu người ta thấy nó cực khổ mà nó không có phí, nó hạnh phúc vô cùng lận, người ta biết được, còn bao nhiêu người quá vô minh không hiểu được.
Cho nên Thầy khuyên mấy con bỏ hết đi mà tu đi, rồi sẽ thấy được tuyệt vời, chứ đừng có tu danh, tu lợi, tu ăn, tu uống này, ngàn đời mấy con không có làm gì được đâu, cũng như người thế tục, nó đau khổ nó vẫn đau khổ, nó không bao giờ nó thoát. Phải nỗ lực tu như vậy!
Cho nên ở đây do Chơn Giác hỏi Thầy phải giải thích cho mấy con nghe nó có bốn giai đoạn tỉnh thức mà như trong kinh đức Phật đã dạy. Và những người tu sĩ mà đã tập tu thiền định thì nó ở trong tầm vóc tỉnh thức nào, nó ức chế nó lọt vào cái định nào, đều là có xác định rất rõ ràng.
Một người tu rồi thì người ta nhìn lại người ta biết được từng cái cấp độ tu tập, cái sai, cái đúng người ta biết. Còn mình chưa tu chưa tới mình không biết nhập cái định này là cái định gì, nó như thế nào, sao mình chưa hiểu. Nhưng mà cái người tu người ta sống ở trên cao người ta nhìn xuống ở dưới những cái thấp người ta thấy rõ ràng là ngoại đạo nó chưa có giải thoát được gì. Và tu cái đó là nó sẽ đi vào cái chỗ nào người ta biết liền. Còn mình chưa có tới thì mình ngơ ngác mình không hiểu. Do đó mình đọc lại kinh sách mình không giải nổi những cái danh từ mà Phật đã nói ra, Phật đã dạy mà mình không có hiểu.
(22:32) Như hồi đầu tiên mấy con vào đây Thầy nhắc cho mấy con biết, cái danh từ “ức chế” và danh từ “chế ngự” thôi, để chúng ta tu tập chúng ta thường thường là chế ngự cái tâm của mình chứ không được ức chế tâm mình, đó là những cái mà Thầy nói để cho nó thấu rõ được nghĩa lý, để mà thông suốt được cái đường tu tập của chúng ta để mà chúng ta tu tập đừng có sai.
Đó hôm nay thì Chơn Giác hỏi, như vậy rõ ràng là Thầy đã giải thích cho mấy con hiểu, cho nó rất rõ về cái vấn đề mà tỉnh thức. Tại sao lại có như vậy? Rồi tại sao mà họ lại đặt ra linh hồn đi vào như vậy? Cái việc này là việc sai không hiểu rõ, mà nói ra cái tưởng của mình thôi. Cho nên các nhà Đại Thừa, họ thường hay xây dựng cái thần thức, chúng ta có cái thần thức. Cái thần thức đó phải 49 ngày mới đi đầu thai, cho nên phải tụng niệm, cúng bái để mà cầu siêu cho linh hồn. Thực sự ra là cái ảo, không có thật.
Bởi vì nhân quả nó luôn luôn, nó không có thời gian đâu mấy con, cái nhân quả nó luôn luôn nó không có thời gian. Chúng ta bỏ thân này thì nó có thân khác để tiếp tục cái nhân quả đó. Còn bây giờ 49 ngày thì cái nhân quả nó ở chỗ nào? Phải không? Nếu mà có linh hồn thì 49 ngày cái nhân quả nó ở đâu!? Nhân quả nó đâu có bao giờ nó có kẻ hở.
Cho nên, chúng ta nhìn suốt cái nhân quả thì con người chúng ta từ khi mà sanh ra cho đến khi nhiều đời nhiều kiếp vẫn ở trong một cái nhân quả chứ không phải hai nhân quả. Chúng ta thấy mình có thân này, thân nọ, thân kia đủ thứ chứ nó chỉ có một cái luật nhân quả của nó mà thôi. Nghĩa là làm ác thì nó cứ tăng lên cái khổ của chúng ta, mà làm thiện thì nó giảm xuống, nó làm cho chúng ta hạnh phúc an vui thôi. Nó như vậy thôi chứ không có gì, cho nên thiện với ác thôi.
Chúng ta muốn thoát nó ra thì chúng ta phải sống toàn thiện. Toàn thiện thì nó không còn ác nữa thì chúng ta mới gọi là Niết Bàn. Mà còn một chút xíu ác vậy thì chúng ta không thể gọi là Niết Bàn được. Cho nên chúng ta ly dục mà dục nó còn một chút xíu vầy thì Bảy Giác Chi nó không xuất hiện, cho nên chúng ta không nhập định được.
Cho nên những người tu thiền mà nói rằng không có thực hiện được Bảy Giác Chi thì cái người này tu thiền chỉ là ức chế tâm chúng ta thôi chứ không bao giờ mà có thiền định được. Bởi vì Bảy Giác Chi là bảy cái năng lực Bồ đề, bảy cái năng lực giải thoát, nó làm cho chúng ta làm chủ được tất cả mọi cái, chứ không phải là pháp Bảy Giác Chi, mà đây là năng lực của Bảy Giác Chi. Các con hiểu không?
(24:41) Mà từ cái pháp nào sinh ra? – Từ cái pháp Tứ Niệm Xứ, Tứ Niệm xứ, tu tập Tứ Niệm Xứ mà nó sanh ra cái Bảy Giác Chi. Tại vì trên Tứ Niệm Xứ mà khắc phục tham ưu, không còn tham ưu ở trên Tứ Niệm Xứ nữa, tức là thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta không có tham ưu nữa, không có đau khổ nữa, không có ác pháp ở trên đó nữa thì Bảy Giác Chi nó sẽ xuất hiện, cho nên nó hoàn toàn nó ly dục ly ác pháp rồi.
Nó phải rõ được cái Đạo Phật, cho nên từ Tứ Niệm Xứ nó mới bảy cái năng lực giác chi này nó mới xuất hiện. Còn chúng ta có cái pháp tu Bảy Giác Chi, nhưng mà không phải pháp tu Bảy Giác Chi đó để mà thực hiện bảy cái năng lực của Bảy Giác Chi mà chỉ có Tứ Niệm Xứ mà thôi. Bảy Giác Chi đó, chỉ thực hiện bảy cái pháp mà Bảy Giác Chi đó, chỉ thực hiện trên Tứ Niệm Xứ.
Bây giờ Trạch Pháp Giác Chi, phải tác ý ra một cái câu gì đó. Bây giờ cái tâm của Thầy nó đang ở tâm tham hay là tâm sân hoặc là cái thân của Thầy nó đang ở ác pháp, nó đang bị đau, bị nhức Thầy phải trạch cái câu tác ý như thế nào để cho nó đúng cái pháp đó thì tức là Trạch Pháp Giác Chi chọn lựa ra cái pháp, chọn lựa cái câu tác ý ra. Bây giờ cái tay của Thầy đau thì Thầy nói: “Thọ là vô thường”, tức là tác ý rồi chứ gì, “cái thân này không còn đau nữa” hay là “Tay này không còn được đau nữa”, do đó thì Thầy bắt đầu tác ý rồi, tức là Thầy trạch ra cho nó đúng. Bây giờ Thầy đau cái tay mà Thầy nói cái đầu nó có đúng không!? - Không đúng!
Cho nên phải nói cái tay, tác ý cái tay rồi bắt đầu bây giờ mới dùng cái pháp của Phật, dùng cái Định Niệm Hơi Thở của Phật mà an trú cho nó để cho nó hết đau. Cho nên bây giờ Thầy mới tác ý: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”, thì lúc bấy giờ cái tâm chúng ta nương vào hơi thở nhưng mà tác ý an tịnh để làm cho cái thân chúng ta an, thì cái đau này chúng ta thấy không có đau nữa. Sau thời gian 1 giờ chúng ta xả ra thì cái mụt nhọt này sẽ tan đi, nó không còn có sưng lên nữa, nó không còn ban đỏ nữa, nó không còn làm mủ nữa. Do đó rõ ràng là nó có sức đề kháng của nó nhưng mà khi tâm chúng ta được an trú trong sự an ổn. Còn tâm chúng ta cứ chú ý chỗ đau thì nó không hết đâu.
(26:45) Đó là cái phương pháp của Phật nó như vậy mà, nó rõ ràng là chúng ta đẩy lui được. Như vậy là trên Tứ Niệm Xứ trên thân quán thân để mà khắc phục tham ưu, thì nó phải bằng phương pháp này, thì chúng ta sẽ khắc phục được tham ưu. Mà khắc phục được tham ưu nó không còn xảy ra nữa thì Bảy Giác Chi nó mới xuất hiện ra, chứ nó còn một chút xíu này thì nó không xuất hiện đâu, đó là năng lực của Bảy Giác Chi.
Còn cái pháp Bảy Giác Chi mà chúng ta trạch ra hồi nãy đó, một câu, gọi là Trạch Pháp Giác Chi. Chúng ta phải hiểu về Trạch Pháp Giác Chi, pháp thì có pháp giác chi và năng lực của Bảy Giác Chi. Do chúng ta tu Tứ Niệm Xứ và trên Tứ Niệm Xứ mà tu tập thì nó có pháp Bảy Giác Chi, nhưng mà cái năng lực của Bảy Giác Chi nó phải xuất hiện ở trên Tứ Niệm Xứ, chứ không phải xuất hiện ở trong cái pháp Bảy Giác Chi. Bây giờ các con hiểu được cái pháp Bảy Giác Chi và cái năng lực của Bảy Giác Chi chưa?
Cho nên một người tu Thân Hành Niệm họ đi như thế này, mọi bước đi rất kỹ như thế này, Bảy Giác Chi xuất hiện, cái Tinh Tấn Giác Chi nó xuất hiện, nó có cái lực đẩy cái chân họ. Họ dở chân lên thì nó đẩy lên, họ để chân xuống thì nó hút xuống, đưa tới thì nó đưa tới, … nó có Bảy Giác Chi. Rồi cái Khinh An Giác Chi, cái Hỷ Giác Chi, cái Niệm Giác Chi, cái Định Giác Chi nó sẽ xuất hiện, cho đến cái Xả Giác Chi, hoàn toàn nó xả sạch hết, thì cái tâm mình ly dục ly ác pháp thì cái Trạch Pháp Giác Chi nó mới xuất hiện.
Lúc bây giờ chúng ta chỉ cần hướng tâm đến đâu thì nó làm đến đó, chứ không phải là muốn nhập định, mà chúng ta không có cái này mà nhập được. Bởi vì ý thức của chúng ta mà diệt tầm tứ thì ý thức chúng ta phải ngưng, sáu căn chúng ta phải ngưng hoạt động. Cho nên chúng ta mới dùng cái Trạch Pháp Giác Chi đó, tức là Bảy Giác Chi trong đó có Trạch Pháp Giác Chi, chúng ta hướng tâm đến tịnh chỉ tầm tứ hoặc là diệt tầm tứ thì ngay đó sáu căn chúng ta ngưng hoạt động liền tức khắc. Nó diệt liền, cho nên chúng ta mới vào được Nhị Thiền, chứ đâu phải ai muốn vào Nhị Thiền là vào.
Cho nên khi chúng ta phải tu Tứ Niệm Xứ cho sung mãn rồi, có Bảy Giác Chi rồi thì mới nhập được Nhị Thiền chứ không phải dễ, là tại vì chúng ta có đủ cái năng lực đó chúng ta mới nhập được nó, không có đủ năng lực của Bảy Giác Chi thì không nhập được.
(28:41) Cho nên, chúng ta tu làm sao để có Bảy Giác Chi, bảy năng lực giác chi. Bởi vì Bảy Năng Lực Giác chi có nghĩa là Bồ đề, mà Bồ đề là giải thoát. Bảy cái trạng thái giải thoát của người ta, bảy cái năng lực của người ta, đâu có phải thường, chứ đâu phải bảy pháp. Nếu bảy pháp thì chúng ta tu đâu có gì năng lực đâu mà gọi là Bồ đề. Chúng ta tu đây mà nhiều khi chúng ta tác ý mà chúng ta không biết cách nó cũng không hết đau nữa làm sao gọi là Bồ đề. Nó cứ đau nhức hoài mà gọi là bây giờ tôi Trạch Pháp Giác Chi nó ra đây nó hết thì như vậy là sai rồi, đâu có đúng đâu. Phải không?
Các con hiểu cái chỗ mà Thầy muốn nói, Bồ đề là nó phải hoàn toàn giải thoát, nó làm cho chúng ta không còn đau khổ nữa, thì mới gọi là Bảy Giác Chi chứ, mới gọi là Bảy cái Bồ đề, Thất Bồ đề. Đó là phải hiểu như vậy mới đúng, thì như vậy rõ ràng là chúng ta phải tu đúng cách, chứ không tu đúng cách thì không đạt được. Bây giờ còn ai hỏi gì Thầy nữa không?
(29:41) … (Không nghe rõ)
(30:08) Phật tử 1: Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính bạch Thầy. Hôm nay chúng con về đây được Thầy dạy pháp, một pháp quý báu trong ba pháp, chúng con xin thành tâm và nguyện biết ơn Phật, ơn Thầy, quyết lòng tu tập để đền đáp công ơn của Phật và Thầy. Chúng con xin trình Thầy một số Phật tử trong đây thành tâm xin quy y Tam bảo và cúng dường Tam bảo, đời này gieo giống chánh pháp, xin Thầy từ bi lân mẫn ban pháp Tam quy, Ngũ giới cho chúng con, xin Thầy để thì giờ cho chúng con về đây là làm lễ Tam quy, Ngũ giới.
(31:26) Trưởng lão: Bây giờ làm lễ Tam quy thì hai giờ, buổi chiều nay mấy con khi mà làm lễ xong rồi thì mấy con về được không? Hai giờ thì khoảng độ chừng, cao lắm chừng nửa tiếng. Thầy làm lễ quy y cho mấy con. Lúc hai giờ ăn cơm rồi, tới hai giờ mấy con nghỉ chút tới hai giờ Thầy làm lễ. Và trước khi làm lễ đó thì mấy con những người mà quy y đó ghi tên, tuổi và địa chỉ, tên, tuổi, và địa chỉ, vì ở trong cái điệp phái quy y đó thì nó có những cái cột để chúng ta ghi tên họ để Thầy cho cái pháp danh và tuổi và địa chỉ tại nơi của mình ở trong cái điệp phái của mình, để Thầy ghi vô cái điệp phái cho mấy con, thì mấy con phải cho biết tên, rồi tuổi, rồi địa chỉ. Có ba cái điều mà mấy con cần cho Thầy biết nhiêu đó thôi để Thầy ghi vô điệp phái.
Và đồng thời thì buổi chiều hai giờ Thầy sẽ làm lễ quy y cho mấy con. Khi đó thì mấy con ráng mà lắng nghe những cái buổi mà Thầy nói Thầy sẽ quy y cho, Thầy sẽ dạy cho mấy con biết cách để sau đó mấy con là người cư sĩ, mấy con phải sống như thế nào cho đúng những cái phạm hạnh của người cư sĩ đối với Phật pháp.
Mấy con nhớ chiều nay hai giờ, bây giờ các con còn hỏi gì nữa không? Không thì mấy con nghỉ. Rồi chiều Thầy sẽ quy y. Rồi tiếp tục mấy con còn hỏi gì thêm? Thầy sẽ quy y trong vòng chừng 30 phút thôi. Xong thì mặc dù là giảng cho mấy con biết Tam quy và Ngũ giới như thế nào? Để cho mấy con thọ Tam quy phải làm sao, mà thọ Ngũ giới như thế nào mới đúng cách. Do đó thời gian là chỉ cao lắm là 30 phút, còn lại những cái thời gian sau đó thì mấy con có gì hỏi cứ hỏi. Bây giờ mấy con nghỉ hay là còn hỏi điều gì nữa không con?
(33:16) Phật tử 1: Con kính bạch Thầy, con xin hỏi: Trong suốt thời gian đức Phật tu tập dưới cội Bồ đề, đức Phật đã dùng cái phương pháp gì trong suốt 49 ngày thiền định để đạt tới sự giác ngộ chánh đẳng chánh giác? Và mình tu tập từng bước một như thế nào, xin Thầy cho chúng con được biết rõ?
(33:41) Trưởng lão: Trong bài kinh Saccaka thì đức Phật có dạy cho chúng ta cái điều kiện nó rất rõ có nhắc lại, khi đức Phật tu cái 6 năm khổ hạnh, 6 năm khổ hạnh tới cuối cùng đức Phật quá khổ hạnh, ăn quá ít đó. Thì đức Phật không có đứng dậy nổi, đức Phật nằm, không có còn cái sức khỏe mà đứng dậy nổi, thì lúc bấy giờ đó thì đức Phật mới hồi tưởng lại, nằm đó hồi tưởng 6 năm tu tập của mình, tất cả các pháp của Bà La Môn đã dạy đức Phật tu tập, thì đức Phật không thấy được sự giải thoát mà càng thấy khổ.
Tu hơi thở thì coi như là ai lấy cái dây mà siết cái đầu của mình, cố gắng mà ức chế tập trung đó, nó siết cái đầu của mình, cuối cùng thì cũng chẳng được cái gì. Và khổ hạnh để cho nó được giải thoát, thì khổ hạnh tận ruột, không ai khổ hạnh bằng đức Phật rờ xương sống đụng da bụng mà rờ da bụng đụng xương sống, do ăn quá ít vì vậy mà sức khỏe càng kém đi.
Nghĩa là Ngài ăn có mấy hột mè thôi, thì ở trong kinh Nguyên thủy thì nói Ngài ăn chỉ còn bát cháo nhỏ mà thôi, thì do đó sức nó quá kiệt cho nên Ngài không có đứng dậy được nữa. Thì do đó khi mà không có đứng dậy được, cái tinh thần nó cũng còn sáng suốt cho nên Ngài mới tư duy mới suy nghĩ, lúc bấy giờ thì Ngài suy nghĩ, lúc nhỏ mà Ngài đi theo vua cha đó thì dưới cái cây jambu (mà người ta dịch thành cây hồng táo), thì lúc bấy giờ đó Ngài ngồi chơi dưới cội táo đó thì Ngài ly dục, ly ác pháp Ngài nhập Sơ Thiền.
(35:14) Thì lúc bấy giờ Ngài nói: Nếu mà mình có thể trở lại con đường này, có thể là giải thoát chăng!? Sáu năm theo tất cả những giáo pháp như nhập tới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, các con thấy đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ là cái định của ngoại đạo rất cao rồi. Thế mà nhập được rồi các vị thầy thì muốn đức Phật, chia cho một phân nửa để mà hướng dẫn chúng với các thầy đó. Nhưng mà đức Phật thấy tìm lại không thấy giải thoát. Là khi ở trong cái định đó thì hoàn toàn nó ở trong cái trạng thái đó thì nó không có gì, nhưng mà xả ra thì tham, sân, si nó vẫn còn, cho nên Ngài thấy sao nó không giải thoát?
Và cuối cùng thì đi qua một cái hướng khổ hạnh, thì cuối cùng khổ hạnh gần chết, ăn quá ít, khổ như vậy để cho nó hết tham, sân, si, mà trái lại nó cũng còn tham, sân, si. Do đó cho nên Ngài thấy không giải thoát được. Vì vậy mà Ngài mới hồi tưởng lại lúc nhỏ mình ly dục, ly ác pháp mình nhập Sơ Thiền. Do đó Ngài nói: “Nếu mà sức khỏe mình còn có lẽ mình đi cái lộ trình này có thể giải thoát”. Ngài chỉ hồi tưởng vậy thôi.
Nhưng mà may mắn thay là lúc bấy giờ có những người mà chăn dê đó. Họ thấy một vị tu sĩ này bây giờ ngồi không được nữa mà nằm, mà thoi thóp muốn chết rồi. Thì mấy chú chăn dê thấy thương quá mới vắt sữa dê mới đổ cho đức Phật, đức Phật nhờ bát sữa dê đó mà tỉnh lại. Tỉnh lại thì đức Phật nói: “Bây giờ mình phải sống lại bình thường, không được khổ hạnh nữa”. Cho nên Ngài mới đi khất thực, Ngài mới ăn lại ngày một bữa nhưng mà ăn no chứ không phải ăn ít nữa. Ăn no lại.
Do đó năm anh em Kiều Trần Như mới thấy ông này hồi đó khổ hạnh dữ tợn, bây giờ ăn lại như kiểu này thôi rồi, thôi, mình không chơi với ông nữa. Cho nên mấy ông này lần lượt lánh, tránh xa, đức Phật chỉ còn có một mình, cho nên Ngài mới đi đến cội bồ đề, Ngài kiếm cội bồ đề, Ngài mới ngồi xuống cội bồ đề, Ngài thấy cái chỗ này có thể phù hợp. Cho nên Ngài ngồi dưới cội bồ đề, Ngài mới nguyện là: “Nếu ta không chứng đạo, thì ta nát xương ở dưới cội bồ đề chứ không rời đi khỏi”. Không có nghĩa là Ngài ngồi liệt ở đó quý vị.
Cho nên khi đó Ngài về đó, Ngài về cội bồ đề là Ngài tu pháp gì? Ở trong kinh Nikaya có nói lại rất rõ ràng, Ngài thực hiện Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, rồi Ngài thực hiện Tam Minh liền ngay ở trong đó. Thì có 49 ngày là tu từ Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền rồi thực hiện Tam Minh trong một đêm là xong. Đó là cái phương pháp mà gọi là định hữu sắc, cái định hữu sắc chứ không phải định vô sắc.
Bởi vì định vô sắc Ngài đã nhập rồi, phải không? Từ Phi tưởng, từ Không tưởng, từ Phi tưởng Ngài đã nhập rồi. Bây giờ Ngài trở lại chỉ có Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền thôi.
(37:46) Cho nên trong khi mà Ngài xác định Chánh định trong kinh Phật, Ngài xác định Chánh định là cái thứ định gì? Ngài nói Tứ Thánh Định là bốn thiền. Mà Chánh niệm là gì? Là Tứ Niệm Xứ mấy con. Phải không? Ngài xác định được cái vị trí cho chúng ta biết được cái pháp ở trên cái chân lý mà gọi là Đạo Đế. Đạo Đế là một cái chân lý trong bốn cái chân lý của Đạo Phật, phải không? Cho nên Ngài xác định được cái vị trí. Rồi tại vì Ngài tu cái pháp này mà Ngài đã chứng đạo được. Ngài đã chứng đạo được giải thoát, Ngài đã làm chủ được cái sự sống chết của Ngài. Cho nên Ngài nhập định, Ngài nhập định mà Ngài bỏ thân của mình là Ngài nhập Tứ Thiền Ngài mới xả bỏ báo thân, có đúng không? Mình đọc lại cái bài kinh Niết Bàn của Ngài thì mình thấy rất rõ phải không?
Rồi mình đọc lại cái bài Saccaka thì mình thấy rất rõ là Ngài chọn cái pháp nào Ngài tu để mà chứng đạo. Sáu năm khổ hạnh không có nghĩa là không lợi ích. Sáu năm khổ hạnh là sáu năm ly dục ly ác pháp rất là tận cùng, Ngài ly dục hết rồi, phải không? Cho nên vì vậy mà Ngài đến cội bồ đề là Ngài nhập Sơ Thiền rất dễ, ly dục ly ác pháp là nhập Sơ Thiền. Ngài rất bình thường không có gì hết, phải không?
Do đó đó, thì khi mà Ngài trở về mà Ngài ly dục ly ác pháp thực sự Ngài không còn khổ hạnh, bình thường rồi. Cho nên vì vậy mà Ngài sử dụng cái năng lực của Bảy Giác Chi mà Ngài đã thực hiện Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền cho đến Tam Minh.
(39:09) Bốn mươi chín ngày miệt mài, miệt mài để những cái vi tế của cái tâm ly dục ly ác pháp, mà còn những cái vi tế nó chưa hết. Cho nên Ngài nỗ lực thực hiện cuối cùng, để những cái vi tế đó nó quét sạch, Bảy Giác Chi thực hiện ra. Thì lúc bấy giờ chỉ có một đêm mà Ngài thực hiện cả ba cái minh. Nó đâu có bao lâu.
Thực sự đức Phật, cho nên đức Phật xác định pháp của Ngài như thế nào? Chúng ta đọc lại cái bài Nhất Dạ Hiền, một đêm làm Thánh Hiền chứ gì. Đó là mục đích chúng ta tu phải chuyên cần, tinh cần, tu tập như một đêm là Thánh Hiền.
(39:44) Nghĩa là ngày nào, giờ nào chúng ta cũng tu được như vậy hết. Đừng có ngày nay tôi tu quá tu, ngày mai tôi tu lơi lỏng, tôi tu chơi thì không được. Ngày nào cũng tu như vậy, tu như cái bài Nhất Dạ Hiền mà đức Phật đã dạy, một đêm là Thánh Hiền. Phải không? Một đêm làm Thánh Hiền. Nghĩa là tôi tu hết sức tu. Coi như là đang tôi đang ở trong cái cõi chết, nghĩa là tôi sắp sửa chết rồi. Bây giờ chỉ còn có hơi thở có chút đây, tôi ráng tôi tu như vậy.
Thì đức Phật khuyên chúng ta cái bài kinh Nhất Dạ Hiền, thì bảo chúng ta phải tinh cần, nỗ lực, siêng năng, không được lười biếng. Đó là cái bài Nhất Dạ Hiền, phải hiểu được cái ý của nó. Chứ không phải đọc bài Nhất Dạ Hiền bây giờ nói, quý vị tu một đêm làm Phật đi, có được không? Đâu có được. Cho nên nói rằng cái sự tinh cần của chúng ta là ở chỗ Nhất Dạ Hiền. Một đêm Nhất Dạ Hiền.
Và đồng thời đức Phật xác định trên Tứ Niệm Xứ bảy ngày, nếu mà chúng ta ôm pháp Nhất Dạ Hiền này mà chúng ta tu suốt bảy ngày mà tâm bất động, nếu là ly dục ly ác pháp hoàn toàn thì chúng ta có đủ Bảy Giác Chi. Thì trong bảy ngày là chứng đạo, phải không? Cho nên nếu mà bảy ngày mà nó tu Nhất Dạ Hiền tức là tu theo cái tinh cần, siêng năng, không có biếng trễ đó, như cái bài Nhất Dạ Hiền vậy đó, một đêm làm Thánh Hiền đó, tu siêng năng như vậy đó. Bảy ngày không chứng, thì bảo đảm quý vị sẽ bảy tháng, mà không nghĩa là nói rồi phải đúng bảy tháng đâu. Một tháng hoặc hai tháng, ba tháng, bốn tháng, không biết chừng có thể nó nó định tĩnh đến cái mức độ mà một ngày một đêm như vậy nó hoàn toàn nó định tĩnh như vậy là Bảy Giác Chi nó xuất hiện, thì quý vị sẽ làm chủ được điều này rất rõ ràng, nghĩa là nhập các định thì không có khó khăn mệt nhọc rồi, Tam Minh nó không có khó khăn rồi.
Nhưng mà cái chỗ mà Bảy Giác Chi này xuất hiện, nó đòi hỏi ở chúng ta phải tu như là Nhất Dạ Hiền. Để hiểu rõ từng cái bài kinh của Phật mà, nó xác định được cái điều mà chúng ta tu tập. Cho nên nếu mà bảy tháng mà chúng ta không thành tựu là bảy năm, bảy năm không có nghĩa là phải hoàn toàn bảy năm. Mà có thể năm thứ nhất chúng ta có thể giải thoát, năm thứ hai có thể giải thoát, năm thứ ba giải thoát. Nhưng mà cái cuối cùng chót của nó là bảy năm. Quý vị bền chí mà tu tập như vậy bảy năm quý vị sẽ chứng quả A La Hán vô lậu hoàn toàn.
(41:30) Quý vị thấy cái phương pháp của Phật dạy xác định được cái thời gian để mà chúng ta tu tập, chứ không phải tu vô lượng kiếp. Đó cái thời gian nó có bảy năm, trời đất ơi bảy năm mà bao lâu, nó qua nhanh chóng. Nhưng mà chúng ta có tu đúng như vậy không? Tu như một cái ngày Nhất Dạ Hiền không? Hay là bữa nay chúng ta hăng hái tu có một ngày nay, ngày mai, ngày mốt, bữa kia tu lơi lơi, tu chừng cầm chừng, cầm chừng, có đúng không?
Mấy con thấy cái điều mà đức Phật dạy chúng ta rất kỹ từ cái bài pháp, tại sao chúng ta không chịu hiểu như vậy? Chứ làm gì chúng ta tu một đêm mà chúng ta làm Thánh Hiền được? Cho nên có nhiều người nghe nói Nhất Dạ Hiền cái vô cái ráng tu, tu riết bắt đầu nó buồn ngủ nó đánh gục đầu xuống đó rồi bắt đầu thôi hết tu. Nhất Dạ Hiền đâu không thấy, Thánh Hiền đâu không thấy mà thấy mình gục đầu. Mình điên (đó).
Bởi vì mình tu tập phải chuyên cần cho đúng pháp, cái gì tinh cần thì mình tinh cần, cái gì tu tập phải tu tập, cái gì ngăn chặn là phải ngăn chặn, cái gì mà chế ngự là phải chế ngự. Tất cả những cái phương pháp Phật đã trang bị cho mình hết. Để khi mà cái tâm mình nó có hiện tượng nào đó thì mình phải dùng cái pháp đó mình chế ngự. Mình tu tập như thế nào? Nó đúng cách mà phải chuyên cần như vậy, như Nhất Dạ Hiền, chứ đâu phải Nhất Dạ Hiền là Thánh Hiền được liền. Phải siêng năng tinh cần như vậy, để cuối cùng thì bảy ngày, bảy tháng, bảy năm.
Chúng ta thấy bảy năm đâu có lâu, người ta học hai mươi mấy năm người ta mới đỗ Tiến sĩ, mà mình có bảy năm mình thành Phật mình giải thoát, làm chủ sanh tử nó còn quý hơn là cái ông tiến sĩ. Ông tiến sĩ nè, ông còn đủ cái, ông còn ham ăn, ham uống, còn tham, còn sân, si. Còn mình tu có bảy năm mình hết tham, sân, si. Mình làm chủ được sanh, già, bệnh, chết. Có sướng hơn ông bác sĩ không? Vậy mà không chịu tu. Thì quá uổng không?
Mà tu cho đúng chứ đừng có tu trật, tu trật là bữa đầu mình ham tu, mình tu dữ tợn, qua bữa sau mình tu dần dần dần dần, mình tu chơi, tu có hình thức. Đi thì có biết đi vậy, lúc sanh vọng tưởng, lúc mình không nhiếp phục được tâm thì phải có vọng tưởng thôi. Rõ ràng là cái sức của mình mình phải biết.
(43:21) Đức Phật đã dặn mình: Tu cũng như cái dây đàn, căng quá thẳng thì không nên mà chùng thì không được, phải vừa. Vậy thì cái sức của mình đến đâu? Mỗi người nó có cái đặc tướng, có cái sức, sức của chúng ta tu được một tiếng thì chúng ta tu một tiếng, ai biểu tu chi hai tiếng cho nó căng? Phải không? Mình bị điên, mình tu mình căng mình bệnh rồi nói “pháp tôi tu sao mà nó bệnh”. Sự thật mình tu điên, mình tu không đúng.
Bây giờ thay vì cái sức của mình một giờ mà mình tu có 30 phút à, rồi mình bảo được. Được cái gì? Mình bỏ quá phí cái thì giờ của mình rồi. Như vậy mình cũng tu điên mình chứ. Mặc dù tu đúng pháp, mà tu quá sức cũng trật mà tu ít quá cũng sai, không đúng.
Cho nên cái này, cái mà mình muốn tu mà cho đúng như vậy là chỉ gần thiện hữu tri thức người ta mới kiểm nghiệm, người ta giúp đỡ cho mình, chứ còn mình làm sao mình biết được? Phải không? Mình làm sao mình biết được. Vì vậy cho nên do đó nó còn có nhiều cái khó khăn.
Mà mình tu sai một chút xíu, mình ức chế tâm mình thì tưởng nó xuất hiện. Tưởng nó xuất hiện ở lỗ lai bắt đầu nó nghe tiếng gì, tiếng nói hoặc là tiếng ù ù gì? Trời ơi bây giờ sao cái lỗ tai tui nó ù rồi? Bộ tui tu nó bệnh rồi hay sao? Ờ mình tu rồi nó sai cái bắt đầu nó căng thần kinh cái bắt đầu nó nặng cái đầu nó nhức đầu, hai con mắt mình sao giờ nó cay quá. Ờ rõ ràng là do mình tu sai rồi, mình ức chế rồi. Thì do như vậy là nếu mà không gần thiện hữu tri thức, thì người ta làm sao mà người ta xác định cho mình để mình xả bỏ cái này ra? Mình không xả bỏ, mình tu tới nữa thì mình thành bệnh.
Cho nên ở đây đức Phật như sư hỏi: Đức Phật tu pháp nào? Thầy xác định tu Tứ Thánh Định mà thực hiện Tam Minh, tức là Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền chứ không cái thứ nào. Bởi vì trong kinh nó đã rõ ràng rồi, chứ không phải Thầy đặt điều. Đó mình đọc lại trong bài kinh …
(44:59) Phật tử 1: Dạ kính bạch Thầy, như vừa rồi Thầy nói khi mà người lâm chung chết thì sẽ bị đi tái sanh liền, không qua 49 ngày, vậy thì những người chết mình rước thầy đến tụng kinh để cầu siêu người đó có siêu không? Hoặc kinh Địa Tạng hoặc là kinh A Di Đà. Đó là một cái điều.
Điều thứ hai nữa là khi một người bệnh tụng kinh Quán Thế Âm Bồ Tát, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì trong những cái việc hành động người đó làm ác, mà bây giờ họ lại niệm Phật thì Quán Thế Âm Thân Bồ Tát liệu có đến để cứu giúp người đó hay không? Nhân gian có câu là: “Làm điều lành thì ắt sẽ gặp thiện, làm ác ắt sẽ gặp quả ác”. Như vậy người làm ác họ mổ heo trong khi họ niệm Phật thì họ có được cứu chữa trong lúc đó hay không?
Và xác định trong kinh Địa Tạng, kinh Pháp Hoa, các bộ kinh Đại Thừa như vậy thực tế là đức Phật đã viết ra hay là các vị Tổ đã viết ra, … là Bà La Môn. Nếu xác định là Bà La Môn giáo, tại sao trong khi những người đó niệm Phật lại thấy đức Phật xuất hiện rờ đầu để thọ ký hoặc là Ngài Quan Thế Âm Bồ Tát đến để cứu giúp người đó cho khỏi bệnh? Kính mong Thầy…
(46:20) Trưởng lão: Thầy đã nói rằng Đạo Phật thì chắc chắn là không tin vào tha lực, bởi vì đạo Phật là đạo tự lực rồi. Thì như vậy là mình đang còn có cái sự tha lực cầu khẩn thì có một đức Phật, có một cái vị Bồ Tát Quan Thế Âm cứu khổ mình thì đó là kinh sách Đại Thừa của hầu hết là đạo Bà La Môn thì nó cầu khẩn tha lực rồi. Mà bây giờ mình là trong đạo Phật mình thấy mình biết rằng đó là đạo Bà La Môn đã đưa những cái giáo pháp này vào, chứ không phải là đạo Phật dạy.
Đạo Phật dạy mình ngăn ác diệt ác, từ cái hành động mà ngăn ác diệt ác mình sống thiện thì nó từ đó mà chuyển được cái nhân quả của mình không còn khổ đau nữa, chứ không ai cứu mình hết. Bởi vì cứu khổ mình, bằng cách là ít ra mình gặp tai nạn thì cái nhân, cái nhân của mình đã làm cái điều ác nó mới có tai nạn hôm nay, nó mới có cái bệnh tật hôm nay. Thế mà có cái người mà đến cứu khổ cho mình, mà bắt đầu, cái người đó làm như vậy có đúng không? Đó là cái phi đạo đức rồi.
Đặt thành vấn đề, nếu mà bây giờ Thầy đi ăn trộm ăn cắp, công an bắt Thầy bỏ tù. Bây giờ trong nhà của Thầy, hoặc là Thầy ở tù thì đảnh lễ ở trong tù, Thầy nguyện là con sẽ về con mua chuối, mua bánh trái hoặc là bỏ tiền ra đúc một cái tượng Phật Quan Âm, mong Ngài phù hộ cho con thoát ra khỏi tù. Phải không? Thì bây giờ đức Phật Quan Âm Bồ Tát này cứu khổ người này thoát khỏi tù, làm cho công an thả cái người này ra, thì do đó…
(47:54) Mình không biết mình mới làm, mà mình minh, mình biết rồi thì mình không làm. Cũng như người ta chửi mình, mình biết thì mình không giận, mà mình không biết thì mình giận, phải không? Nhưng mà cái giận do mình huân nhiều cho nên nó trở thành cái lực, cái lực. Cho nên bây giờ mình có biết nhưng mà tại sao nó còn giận? Là tại vì cái lực sân nó còn. Chứ không phải tui không biết. Cho nên tui phải ngăn chặn nó, tui phải tạo thành cái lực không sân. Từ đó cái tâm tui người ta chửi tui không giận nữa là tại vì tui có cái lực không sân.
Còn cái lực sân bây giờ hằng ngày người ta nói một lời nói tui giận, ngày mai, ngày mốt người ta nói lời nói tui giận, cứ mỗi ngày tui huân thêm cái giận nó thành một cái lực của nó, phải không? Nó huân nhiều năm, nhiều tháng thì nó thành cái lực. Cho nên vì vậy mà tui tạo ác thì nó trở thành cái nghiệp lực cho nên nó đúng cái giờ phút mà cái nghiệp lực nó đủ thì nó trở thành một cái quả cho tôi. Thì bây giờ tôi phải chịu cái quả khổ đó.
Mà tui vui vẻ tui chịu trên cái quả khổ đó, Nếu mà tui biết được cái phương pháp thì tôi thực hiện, tôi sống một cái đời sống tôi thiện. Cho nên giới luật là hàng đầu để nó chuyển, nó chuyển biến cái nhân quả này. Còn mình sống không đúng giới luật, tức là không sống đúng cái hành động thiện. Thì cho nên mình không có chuyển nổi, mình không có chuyển nổi.
Cho nên bài kinh Ước Nguyện thì đức Phật nói: “Muốn ước nguyện một điều gì thì giới luật phải nghiêm chỉnh”. Đầu tiên mình phải sống thiện rồi, còn bây giờ mình đang sống ở trong cái ác, bây giờ gặp cái tai nạn nào mình có đi cầu khẩn hay là tụng kinh để cầu thì cái điều này là điều không có.
(49:14) Cho nên ở đây, chúng ta đọc lại trong kinh Pháp Hoa, thì trong cái phẩm kinh Phổ Môn thì nó cũng nằm ở trong kinh Pháp Hoa phải không? Cái phẩm mà Cầu Quan Âm chứ gì? Thì nó cũng nằm trong kinh Pháp Hoa, kinh Pháp Hoa nó có nói như thế này: “Dù cho tạo tội hơn núi cả, Diệu Pháp Liên Hoa tụng mấy hàng”. Phải không? Do đó mà chúng ta tụng mấy hàng là tội nghiệp gì chúng ta cũng… Như vậy nếu mà quả chăng có cái bộ kinh này, có chư Phật mà gia hộ, có Bồ tát mà gia hộ như vậy, thì cái thế giới chúng ta ra sao đây? Phải không?
Chúng ta làm ác, “Dù cho tạo tội hơn núi cả, Diệu Pháp Liên Hoa tụng mấy hàng”, có phải cái câu kinh này là cám dỗ chúng ta không? Hay là đúng? Sự thật ra con người chúng ta bây giờ khổ hoàn khổ, có ai mà tụng kinh Pháp Hoa mà hết khổ chưa? Cái lý luận đó không vững, cho nên kinh này không phải là Phật thuyết.
Mà Phật thuyết là bảo chúng ta ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện, “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành”, có phải dạy chúng ta sống trong thiện pháp không? Để chuyển cái ác pháp của chúng ta. Mà người sống trong thiện pháp, ngay hiện giờ chúng ta sống trong thiện pháp. Tương lai chúng ta có quả khổ nữa không?
Bởi vì do chúng ta làm thiện mà làm sao khổ? Chúng ta không ăn trộm, làm sao chúng bắt chúng ta. Phải không? Chúng ta không chửi người ta, người ta chửi người mình biết nhẫn thì làm sao mình khổ? Còn mình chửi lại thử coi, họ cũng chửi mình, họ đánh mình chớ. Mình đánh họ họ cũng biết đánh họ chớ. Phải không?
Như vậy chúng ta thấy nhân quả này. Bây giờ hai người đang chửi lộn, một người nói thôi bây giờ một người nói lạy Quan Âm phù hộ xuống đặng ngăn cản hai người này đi. Sự thật làm sao ngăn cản được khi mà cái ác pháp này nó đã chồng chất lên cái nhân quả của nó rồi thì không có Quan Âm nào mà đến để phù hộ được, bảo là ngưng được hết.
(50:46) Cho nên ở đây chúng ta hầu hết là những kinh Đại thừa nó cám dỗ chúng ta bằng những cái làm chúng ta rất thích, “Dù cho tạo tội hơn núi cả, Diệu Pháp Liên Hoa tụng mấy hàng”, như vậy chúng ta tụng. Cho nên vì vậy mà cầu an chúng ta đem cái phẩm Phổ Môn chúng ta tụng chứ gì? Nghĩa là bây giờ chúng ta gặp hoặc gặp bị tù tội, hoặc là gặp tai nạn gì, hoặc là nước lửa thì chúng ta cứ niệm bỉ Quan Âm, tức là niệm Quan Thế Âm thì chúng ta sẽ thoát khổ, điều này không có. Chúng ta phải xác định được cái điều này.
Nhưng mà khi mà chúng ta tụng như vậy không có rồi, mà chúng ta chê nó là không có thì nó hăm dọa chúng ta như thế nào? Kinh nó hăm dọa chúng ta “đầu bể bảy miếng”, có không? Có trong kinh Pháp Hoa nó có hăm dọa chúng ta “đầu bể bảy miếng” không? Mà sao Thầy chê nó mà sao cái đầu Thầy không bể bảy miếng dùm làm phước? Có không? Không Thầy nói sự thật mà.
Bởi vì Thầy thà chết mà nói bằng sự thật, nó có quyền năng gì đi nữa, nó diệt Thầy được không? Thầy có tin đâu mà nó diệt. Nếu mà cái tưởng Thầy quá sợ thì nó bể đầu Thầy thiệt. Còn Thầy không có tưởng mà sợ nó thì nó không có bể đầu Thầy được. Thầy nói thật sự.
Kinh của Tổ viết điều kiện là các Tổ đều là Bà La Môn. Trong thời ở bên Ấn Độ mà. Đều là những vị Tổ Bà La Môn chứ đâu phải là ở Việt Nam chúng ta có mấy ông Tổ đó viết kinh đó ra đâu. Kinh Đại thừa toàn là bộ là ở bên đó chứ đâu phải.
Cho nên khi đó các Tổ đều là những vị Bà La Môn. Mà những vị Bà La Môn này tu không chứng thì ảnh hưởng của giáo pháp của Bà La Môn vẫn còn trong đầu của các vị, cái hiểu biết của các vị đó. Cho nên khi đó các vị theo đạo Phật nhưng mà các vị hoàn toàn các vị có nghĩ tưởng. Cái tư tưởng đó các vị hiểu cái câu kinh này qua cái tư tưởng của Bà La Môn viết ra cho chúng ta. Cho nên biến Phật giáo thành thứ khác. Đó là cái vô tình của các Tổ thôi.
(52:34) Còn những vị Tổ có cái mục đích là diệt Phật giáo. Tại sao nó không có mục đích diệt Phật giáo mà chế ra Bồ Tát Giới? Nói là Phật chế. Mà Phật lại cấm không cho học đọc kinh sách Nguyên thủy (tức là Tiểu thừa). Người nào mà học tu về kinh sách Nguyên thủy thì bị khinh cấu tội. Đọc lại Bồ Tát Giới quý vị có thấy không? Mà ba cái giới cấm chúng ta như vậy, chứ không phải là một giới đâu, ở trong Bồ Tát Giới, như vậy là có mưu đồ chớ, có thâm ý diệt Phật giáo chớ.
Phật giáo Nguyên thủy là cái gốc chứ gì? Phải không? Các vị thấy rõ không? Cho nên ở đây, các vị phải hiểu rằng, trong cái kinh sách Đại thừa, có cái mục đích của các Bà La Môn đã đưa vào diệt Phật giáo cho nên mới đẻ ra Bồ Tát Giới. Chứ còn Phật, không lẽ ông Phật ông chế ra Bồ Tát Giới ra ông biểu đừng có đọc kinh sách Nguyên thủy, đừng có đọc kinh sách mà nói rằng từ cái kinh sách này nó mới đẻ ra cái kinh sách Đại thừa. Thế mà không có cho chúng ta học tu kinh gốc, thì như vậy là sao? Chúng ta phải đặt câu hỏi chứ. Ai có thủ đoạn này? Ông Tổ nào có thủ đoạn?
Thật sự ra Thầy biết ông nào hết, bởi vì nếu không tu thì không biết đâu. Nhưng mà tu biết, biết thâm ý của những Bà La Môn đó. Cho nên đối với Thầy, là một tu sĩ Phật giáo thực sự là phải chỉnh đốn lại Phật giáo. Thà là Thầy chết nhưng chúng nói Thầy muôn đời không chết. Người ta ở trong Đại thừa, người ta sẽ chùa to Phật lớn, người ta phạm giới, phá giới, Thầy nói, người ta ghét Thầy người ta giết Thầy, nhưng mà tiếng nói Thầy làm sao mất? Ngàn đời không mất. Cho nên cái bộ sách Đường Về Xứ Phật của Thầy không bao giờ mất mấy con.
(54:04) Thầy biết rằng Thầy nói là nguy hiểm cho Thầy, nhưng mà Thầy là một người đâu có sợ chết. Bởi vì cái thân của Thầy Thầy coi nó như là, nó là cái thân bất tịnh, nó là duyên hợp, nó đâu có gì của Thầy đâu. Bỏ Thầy đâu có tiếc, nhưng nó vẫn sử dụng được, làm những cái điều tốt cho Phật giáo sau này.
Cho nên thẳng thắn mà nói, tuy rằng Phật giáo nó có khó thật, cái giới luật nó có nghiêm chỉnh thật. Nhưng nó giúp chúng ta thật sự có sự giải thoát. Chứ đâu phải bây giờ chúng ta theo tu hai ba chục năm, nhìn lại chúng ta làm chủ được những cái gì? Thực tế chúng ta không làm chủ được cái gì, mà xả ra thì tâm tham, sân, si chúng ta còn.
Bây giờ mấy con thấy không? Xét mình mình biết chứ, mình cũng từng tụng kinh niệm Phật, cũng từng hằng ngày hằng đêm lúc nào cũng tụng Bát Nhã: “Quán tự tại hành thâm Bát Nhã Ba La Mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”. Có ai thoát khổ ách chưa mà hằng ngày tụng?
Tứ thời tụng niệm, lúc nào cũng tụng Tâm Kinh Bát Nhã. Có ai không chưa? Mà thân thì cứ đau, cứ bệnh, cứ nhức, nay thì cứ chuyện này mai thì chuyện khác xảy ra, như vậy nó có không chưa? Tại sao nói không mà lại không không? Như vậy là kinh này có nói láo không?
Vậy mà dám phỉ báng Phật pháp, nói là “vô, khổ, tập, diệt, đạo”. Chân lý của Phật không có? Có đúng không? Nói trí tuệ Bát Nhã là coi như không có gì có hết. Nhưng mà sự thật ra con người khổ là quá đúng là cái chân lý không ai có thể chối cãi, cãi là con người không khổ.
(54:23) Mà cái chân lý là cái nguyên nhân sinh ra khổ. Thì Tập đế ai cũng thấy rõ ràng cái nguyên nhân do cái lòng muốn, ham dục của chúng ta mà sinh ra khổ. Ai mà không thấy được cái điều này?
Rồi cái trạng thái, cái trạng thái diệt khổ là cái trạng thái hết dục. Thì khi mà chúng ta ngồi lại, cái tâm thanh thản không còn dục, chúng ta thấy rõ ràng cái chỗ này nó đâu có thiện ác, nó cũng là giải thoát. Tức là cái trạng thái Niết Bàn rõ ràng chứ đâu phải có cảnh giới Niết Bàn nào đâu. Chỉ có cảnh giới Niết Bàn của Bà La Môn nó mới có chứ còn đạo Phật đâu có. Nó là một cái trạng thái tâm của chúng ta. Đó là một cái chân lý mà. Đã là chân lý thì con người chúng ta phải chiêm nghiệm được cái này chứ. Đâu lý nào cái chân lý mà con người chúng ta không biết cái cảnh giới Niết Bàn sao?
Cho nên rõ ràng là chúng ta ngồi đây chúng ta biết được cái trạng thái tâm của chúng ta là Niết Bàn chỗ nào chứ. Nhưng mà nó có kéo dài, nó có sống được ở trong đó không? Nó có an trú được ở trong đó nhiều không? Hay hoặc nó có một chút xíu? Phải không? Chúng ta thấy rất rõ.
(56:14) Bây giờ nói về cái đường Đạo Đế thì đức Phật dạy rất rõ. Phải không? Cái chân lý nó, cái Đạo Đế nó tức là Bát Chánh Đạo chứ gì? Tám nẻo chứ gì? Mà tám nẻo thì xác định cho chúng ta biết những cái pháp nào pháp nào tu. Rõ ràng quá mà.
Bây giờ người ta chưa đưa vào cái pháp nào niệm Phật nè, nào ngồi thiền nè, ờ hết vọng tưởng nè. Toàn bộ cái này, mình nhìn lại cái Bát Chánh Đạo nó có đúng không? Cái chân lý của đạo Phật là Đạo Đế. Không có đúng. Thiền định thì dạy ngồi thiền nào hít thở; nào Sổ, Tùy, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh; nào lạy này lạy kia đủ thứ hết.
Nhìn lại đạo Phật thì đức Phật nó là Tứ Thánh Định, từ Sơ Thiền đến Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, rất rõ ràng. Là xác định ở trên cái Bát Chánh Đạo nó rất rõ ràng rồi. Vậy mà bây giờ chúng ta tu như thế nào mà chúng ta không tu đúng đạo Phật mà lại chúng ta tu sai? Là tại vì Thầy Tổ chúng ta không hiểu, dạy chúng ta. Chứ thiệt ra Thầy Tổ chúng ta không phải là cái người xấu hoặc là cái người Bà La Môn, mà chính không hiểu thôi. Các vị Hòa thượng bây giờ không hiểu cho nên các vị Hòa thượng dạy mình theo cái hiểu của các Hòa thượng, cho nên cái lỗi này đâu phải lỗi của các Hòa thượng. Phải không?
Cho nên chúng ta biết rằng ở trong Phật giáo ngày xưa, ở bên Ấn Độ, là mục đích đức Phật đã bác Bà La Môn. Như hồi nãy Thầy đưa ra rõ ràng là năm điều kiện của Bà La Môn mà đức Phật quét sạch ra. Chỉ chấp nhận nó còn giới luật với trí tuệ mà thôi. Có phải đúng không? Thế mà nó không tức sao? Mỗi mỗi cái gì nó hở miệng ra ông Phật ông khép miệng nó liền, phải không? Nó nói không được, nó thua ông Phật đi. Nó ngầm khi ông Phật chết rồi: “Tao sẽ diệt cái đạo mày cho mày biết”.
Cho nên vì vậy mà khi đức Phật chết rồi thì ở Ấn Độ có còn đạo Phật không? Toàn là đạo Bà La Môn, đạo Hồi giáo hoặc là Ấn Độ giáo chứ đâu còn có đạo Phật nữa. Đạo Phật nó chạy đi mất hết rồi. Bởi vì mình tu có chứng đâu mình chống lại nó, ông Phật khi hồi đó ông còn chống không lại nó còn huống hồ là bây giờ.
Thậm chí như đức Phật còn sống đó mà nó đã lũng đoạn được cái giáo đoàn của đức Phật là đã lôi kéo được ông Đề Bà Đạt Đa, có đúng không? Theo ngoại đạo, chống lại đức Phật. Lăn đá, rồi cho voi uống rượu say để giết Phật chứ gì? Vậy mà đức Phật vẫn gan dạ, hẳn hòi đàng hoàng. Ngài nói thẳng rằng: “Mấy anh tu không có chứng là không chứng mà”. Nói thẳng như Thầy nói thẳng bây giờ.
(58:28) Thời đức Phật ông Phật ông còn chịu biết bao nhiêu gian khổ mà Ông để lại cái chánh pháp của Ông là biết bao nhiêu nước mắt mồ hôi của Ông đối với Bà La Môn. Ông tu từ trong pháp Bà La Môn, mà không đạt được. Ông mới tu theo cái đường lối chính Ông tìm ra, Ông mới để lại cho chúng ta. Hôm nay chúng ta thấy rõ ràng là Bà La Môn không có giống.
Bây giờ thấy thật sự là Bà La Môn hồi đó tụng niệm chứ gì? Thì Ông gạt bỏ tụng niệm. Bà La Môn nó tức lộn gan lộn ruột. Bây giờ Thầy bảo quý thầy không chịu, đừng có tụng niệm, coi mấy thầy có tức Thầy không? Họ còn lộn gan ở trên đầu, từ hồi nào tới giờ tôi tụng niệm quá trời mà bây giờ bảo tôi dẹp à? Cái chùa tôi nó vắng que cũng như là chùa bà Đanh thì sao?
Cho nên như thế nào? Thì bây giờ đâu thể nào Thầy làm cái điều đó được phải không mấy con? Cho nên Thầy chỉ nói thôi. Chứ chưa đâu. Nhưng mà nó chấn chỉnh lại Phật giáo, để cho biết chúng ta là người theo Phật giáo phải cho đúng Phật giáo. Còn Bà La Môn thì ai mà không, tự do tín ngưỡng mà, quý vị muốn theo Bà La Môn thì cứ theo. Tụng niệm ai rầy? Phải không? Thì quý vị cứ theo Bà La Môn mà tụng niệm, chứ Thầy có bác cái Bà La Môn đâu. Nhưng mà đừng có xen Bà La Môn trong cái đạo Phật này nó quá tội.
Để cho Phật giáo nó chỉ còn năm người, mười người theo Phật giáo, người ta làm chủ hẳn hòi đàng hoàng, người ta là những bậc A La Hán. Chứ người ta không có làm cái chuyện mê tín đó, cầu cúng mê tín này kia.
Những kinh sách này dẹp đi, thật sự ra để ở đây, thật sự ra gây cho dân tộc chúng ta một cái nỗi mê tín, tốn hao tiền bạc. Đâu có linh hồn ai đâu mà siêu sanh tịnh độ đâu, mà cầu khẩn. Chính ông Thầy không có biết ông siêu được không? Chính ông tụng cho mình mà ông chưa biết, thì thử hỏi cái chuyện ông làm là nhảm nhí.
Chừng nào ông biết cái cõi Cực Lạc, thật sự ông có lên trên đó rồi, ông có ở trên đó rồi, bây giờ ông về đây ông mới dạy tui đặng ông cầu cho tui được ông dẫn tui lên trên đó. Ông chưa biết đường đi như thế nào đâu, nhưng mà bây giờ ông cầu cho mình lên trên đó, thử hỏi các con bỏ tiền ra, công sức của các con đến những cái ngày mà cầu an, cầu siêu cho cha mẹ mình thì rõ ràng là mình đem cái sức lực của mình chứ đâu phải mình muốn, mình không có lòng tin mình làm chơi đâu. Mình làm thật sự. Nhưng mà cuối cùng có được không? Cuối cùng có được cái gì đâu. Hay là mình bị lừa đảo mình bị gạt không?
(01:00:31) Đó thì do đó, cái đầu óc của chúng ta, con người của chúng ta, đầu óc chúng ta nó không cho phép. Nhưng mà trước kia Thầy tu chưa xong, Thầy rất sợ, không biết mình nói có đúng hay không? Đâu có dám. Nghi nghi chứ không dám. Nhưng mà ráng nỗ lực tu, tu để thật sự để mà thấy, rõ rồi thì không sợ ai nữa hết. Bởi vì mình thấy rõ.
Như bây giờ mấy con, mấy con thấy mấy con tu chưa tới, mấy con dám nói không? Chạm tới mấy không biết Thầy Tổ, ông còn tu cái gì nữa, ông cao hơn nữa, nói bậy không được, đâu có dám. Nhưng mà khi mà các con thực hiện, các con thấu suốt rõ rồi. Mấy ông này thiệt ra ông còn ở dưới đất. Chứ đâu phải được là hàng Thánh đâu.
Cho nên bây giờ thí dụ như Thầy nói vậy nè, đem giới luật mà kê ra thì mấy con thấy các bậc Tôn túc Hòa thượng mình có là hàng Thánh chưa? Chưa. Thí dụ bây giờ mới kê ra mấy con có thấy mấy con có tin tưởng chưa? Chưa. Mất niềm tin. Như vậy mấy con mới biết rằng những vị này là Bà La Môn hay là Phật giáo thật sự?
Phật giáo thật sự người ta vô thì mười cái giới Thánh Sa di người ta phải giữ trọn rồi. Đâu còn ai dám phạm. Thì các con thấy cái niềm tin của chúng ta là. Cho nên đức Phật nói: “Giới luật còn là Phật pháp còn”, chúng ta lấy giới luật mà làm thầy, nhìn giới luật mà thấy những vị đó là thầy của mình hay là không thầy? Có đúng chưa?
Còn bây giờ mấy con không xét, cứ ông nào cứ đầu tròn, áo vuông là làm Hòa thượng, có uy tín rồi lớn đồ này kia, có đệ tử đồ đông thì mình cứ vào đó mà xin quy y. Thì như vậy mình chọn có đúng vị Tăng của mình tu không, theo không? Cho nên cuối cùng thì cuộc đời của mình nó, nó vẫn là cuộc đời của mình mà nó còn thêm một cái tôn giáo cho mình hao tốn thêm.
(01:02:02) Đó hôm nay đó thì Thầy trả lời như thế này rõ ràng là những kinh này nó dụ mình mà nó dạy. Mà đọc lại kinh sách Đại thừa coi, cuốn kinh nào nó cũng nói đệ nhất hết. Ai tu kinh, kinh Duyên giác nó có nói đệ nhất, kinh Pháp Hoa cũng nói đệ nhất, kinh Duy Ma Cật cũng nói đệ nhất, phải không? Pháp bất nhị mà, đệ nhất hết. Nhưng mà cuối cùng mình có thấy ông nào được đệ nhất ở đâu?
Nhất là kinh Bát Nhã nó nói trí tuệ Bát Nhã là đệ nhất. Nhưng mà mình thấy có ông nào giai không? Ngũ uẩn không thấy ông nào giai không hết. Cứ hở một chút cái đau bệnh đi nhà thương nằm mà giai không ở chỗ nào? Không sao vô nhà thương nằm? Có không? Có đúng không?
Thầy nói cứ suy ngẫm coi phải lời Thầy nói, đừng có tin Thầy, Thầy nói rồi cứ suy ngẫm. Bởi vì đức Phật nói phải lấy trí mà mình hiểu, đừng có tin ai hết. Thầy nói có đúng thì tin, mà không nói không đúng, không tin thì thôi, đừng có thèm tin. Đó thì mấy con còn có cái trí tuệ mấy con suy ngẫm, để cái gì nó đem lại lợi ích cho mình.
(01:02:56) Nhưng điều kiện nó tốt nhất là đạo Phật có một cái nền đạo đức mà bị Bà La Môn nó đã dìm sạch cái nền đạo đức nhân bản, cái nền đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người. Cái nền đạo đức này tuyệt vời. Khi ở trên hành tinh con người mà biết sống được cái nền đạo đức này đã là xây dựng cái hành tinh này là cái Thiên đàng. Không ai làm khổ cho ai thì còn gì mà không Thiên đàng nữa. Cần phải đâu mà cho cực. Phải không mấy con thấy không?
Nó hay rất hay! Mà tiếc vì bây giờ một mình Thầy thì chắc chắn là các con chưa thọ hưởng được cái này đâu. Bởi vì mình cố gắng mình nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng thì cái những người khác họ ác pháp họ lấn lướt mình, họ hiếp mình luôn, họ làm cho mình khổ càng khổ luôn.
Nhưng mà một trăm năm sau, một ngàn năm sau con người trên hành tinh này người ta sống toàn diện ở trên cái đạo đức này, cái đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Thì người nào cũng biết hết rồi thì chắc có ai mà lấn lướt ai, có ai hiếp đáp ai đâu. Người ta sống bằng một tình thương chân thành. Thì làm thế nào? Nhưng mà phải một ngàn năm. Bây giờ Thầy mới khơi cái đạo đức này ra thì một ngàn năm sau mới chỉnh đốn lại được. Chứ đâu phải bây giờ.
(01:04:02) Bây giờ Thầy chỉ cứu được một số người nào thôi, nhưng mà họ là cái người thiệt thòi nhất ở trong cái cuộc sống này. Bởi vì họ biết tu như vậy, họ biết nhẫn nhục như vậy, họ biết tùy thuận như vậy. Thì những cái người ác là lấn lướt rồi, họ là chịu lép thôi. Có đúng không mấy con?
Đó là cái sự thật hiển nhiên chúng ta phải chấp nhận, bởi vì chúng ta là những người mới bắt đầu, chúng ta phải chấp nhận điều đó. Để mà chúng ta xây dựng cho một cái nền đạo đức của chúng ta. Rồi cái duyên đó nó nhờ những cái người mà lãnh đạo quốc gia người ta áp dụng cái này để mà có … Thôi bây giờ thì mấy con nghỉ.
(01:04:50): … (Không nghe rõ).
Mấy con ngồi xuống hết con.
(01:07:04) Trước khi quy y Tam Bảo, thì các con phải hiểu quy y nghĩa là gì? Và Tam Bảo nghĩa là gì? Chữ quy y ở đây có nghĩa là nương tựa, trở về hay là nương tựa. Thì chữ nương tựa nghe dễ hiểu hơn. Từ lâu, từ khi mình được sanh ra, thì mình nương tựa với cha mẹ. Nhờ cha mẹ nuôi nấng cho mình lớn khôn, cho ăn đi học nên người có công ăn việc làm để sống với mọi người.
Nhưng mình nương tựa với cha mẹ, thì cha mẹ không chịu thay cái đau cho mình, những cái bệnh tật trong người của mình thì cha mẹ không có thể đau thay cho mình được những cái đau khổ đó. Và cái tâm mình phiền não, giận hờn thì cha mẹ cũng không có, nương tựa với cha mẹ nhưng mà cha mẹ cũng không có thay cho mình giận hờn phiền não giùm mình. Cho nên không có thay thế được.
Vì vậy mà nương tựa với cha mẹ thì cha mẹ chỉ nuôi lớn cho mình lớn khôn, cho ăn đi học, cho có nghề nghiệp sống như mọi người mà không thể nào thay thế cho cái sự phiền não đau khổ trong tâm của mình. Cũng như thân bệnh đau thì cha mẹ cũng không thay thế. Cho đến khi chúng ta già chết hoặc là chúng ta già, cha mẹ cũng không thay thế cho chúng ta già cho chúng ta được, và chết thì cha mẹ cũng không chết thế cho chúng ta được.
Đó là bốn cái nỗi khổ mà chúng ta nương tựa với cha mẹ thì cha mẹ không có thay thế cho chúng ta được. Do đó chúng ta phải tìm một cái nơi nương tựa làm sao mà chúng ta nương tựa vào một cái chỗ, mà chỗ đó giúp cho chúng ta thoát ra bốn cái sự đau khổ này. Vì vậy mà nương với cha mẹ thì không thể thoát ra bốn cái sự đau khổ được. Cha mẹ không thể giúp chúng ta thoát ra bốn cái sự đau khổ. Chỉ có nương vào Tam Bảo thì chúng ta mới thoát ra được bốn cái sự đau khổ đó.
(01:09:05) Vậy thì Tam Bảo là gì? Mà chúng ta nương tựa lại có cái sự đặc biệt như vậy, lại giải khổ chúng ta được như vậy. Do đó thì chúng ta phải nghiên cứu, hiểu biết coi Tam Bảo là cái gì? Tam Bảo thì nó là ba cái ngôi báu, tam là ba, bảo là báu, ba cái ngôi báu. Vậy ba cái ngôi báu đó là gì? Là Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo.
Tại sao chúng ta không quy y Phật Bảo không, mà lại còn quy y Pháp Bảo rồi lại quy y Tăng Bảo nữa? Thường thường người ta theo một cái tôn giáo nào đó, thì người ta tin tưởng vào một cái đấng, cái đấng Giáo chủ nào đó, một cái đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế hay hoặc là cái đấng nào đó người ta nương tựa vào. Còn đằng này thì bảo mình theo Phật thì nương tựa ba ngôi lận, ba cái nơi lận. Vậy thì ba cái nơi đó như thế nào?
(01:10:00) Đầu tiên thì chúng ta xét, xét thấy cái ngôi thứ nhất của nó là Phật Bảo, vậy Phật Bảo là cái gì? Là một vị Thánh ở cõi Trời, ở đâu đến đây để mà cứu giúp chúng ta, để mà chúng ta nương tựa vào nhờ người cứu trợ cho chúng ta, giúp đỡ chúng ta, phù hộ chúng ta, hay gia hộ chúng ta, hay nói một cách khác nữa làm chúng ta thoát bốn cái sự đau khổ này, cho nên chúng ta mới nương tựa vào cái đấng Thần linh đó, hoặc cái đấng Giáo chủ đó, sẽ nhờ Người giúp chúng ta, gọi là nương tựa vào người đó.
Mà ở đây thì chúng ta nương tựa vào ông Phật, thì Ông đã bảo rằng mình phải hãy tự thắp đuốc lên đi, ông Phật không có chịu đau thay thế cho mình, chịu chết cho mình. Vậy thì mình nương tựa với Phật Bảo sao mình lại được những cái điều đó?
Bởi vì Phật Bảo là không phải một vị Thánh Thần ở cái cõi Trời nào hay hoặc cõi Niết Bàn, Cực Lạc nào mà đến đây mà dạy chúng ta cái đạo hoặc phù hộ cho chúng ta, để chúng ta thoát ra bốn sự đau khổ đó hay hoặc là chịu thay thế cho chúng ta những sự đau khổ đó. Rõ ràng là không có một vị đấng Thần linh nào mà chịu đau khổ cho chúng ta.
Cho nên chúng ta nương tựa vào một cái con người, cũng cha sanh, mẹ đẻ như chúng ta, nghĩa là cũng có cha có mẹ, cũng sanh ra như chúng ta. Rồi lớn lên thì cũng có vợ có con y như chúng ta, không có gì khác hết. Cũng có tham tiền, tham bạc, cũng giận, cũng hờn, cũng phiền não, cũng đau khổ, cũng bệnh tật, chứ không phải Thánh Thần gì hết.
Cho nên khi đó thì chúng ta suy xét Phật Bảo là gì? Ông chỉ là một con người. Nhưng một con người ở trên hành tinh của chúng ta rõ ràng là cũng có cha mẹ sanh. Cho nên ông là một cái người Ấn Độ, vì ông sanh ở cái nước Ấn Độ, nếu ông sanh ở nước Việt Nam thì ông là con người Việt Nam. Nhưng ông cũng là một con người ở trên hành tinh này, nhưng mà vì cái vị trí đó, cái tên nước đó nó gọi là Ấn Độ, cho nên Ngài là người Ấn Độ. Thật sự có một lịch sử thật tế, không phải mơ hồ, không có lịch sử, Ngài là con người lịch sử hẳn hòi.
(01:12:02) Cho nên Ngài, khi mà Ngài lớn lên Ngài mà có vợ con, rồi Ngài được đi du ngoạn trong bốn cửa thành, Ngài thấy bốn cái sự đau khổ của kiếp làm người. Ngài thấy rằng con người không ai thoát ra bốn cái sự đau khổ này, cho nên Ngài quyết tâm Ngài xuất gia Ngài tu hành để làm chủ được bốn sự đau khổ đó.
Do khi mà tư duy suy nghĩ như vậy, thì lúc bấy giờ đó thì Ngài đã có vợ, có con. Vừa sanh đứa con thì Ngài lại quá sợ hãi, quá sợ hãi, cho nên trong nửa đêm đó thì Ngài lật đật Ngài lo Ngài trốn. Ngài bỏ vua cha, bỏ mẹ, vì mẹ Ngài đã mất khi sinh Ngài ra, cho nên Ngài bỏ vua cha và bỏ vợ bỏ con, Ngài lén Ngài trốn đi.
Tại sao khi mà có đạo Phật thì Ngài cấm không có cho chúng ta bỏ gia đình làm khổ gia đình mà trong khi Ngài lại bỏ gia đình, bỏ vua cha, bỏ vợ, bỏ con làm cho vợ con và một người cha già lại là đau khổ như vậy?
Là tại vì trong cái thời đó chưa có cái nền đạo đức của đạo Phật, cái nền đạo đức nhân bản - nhân quả chưa có. Cho nên vì vậy mà Ngài muốn, Ngài muốn tìm con đường giải thoát và Ngài không có suy tư, cho nên vì vậy mà Ngài đi thì cha Ngài rất là không bằng lòng. Cho nên Ngài lén Ngài trốn đi, vợ con cũng không bằng lòng. Cho nên Ngài cũng phải lén trốn đi, vì vậy mà khi Ngài đi thì gia đình Ngài rất khốn khổ. (Vợ Ngài) rất thương con, rất là thương chồng cho nên rất khổ.
Thì do đó thì sau những năm mà Ngài đi sáu năm trời khổ hạnh, Ngài không bao giờ mà Ngài về thăm vợ, thăm con hay thăm vua cha sáu năm. Như vậy thì đủ biết là cái gan dạ, và cái cương quyết cắt đứt cái ái kiết sử của Ngài rất là mạnh. Ngài tha thiết ở trên con đường mà giải thoát, chúng ta nếu mà chúng ta bình thường như chúng ta đó. Là một cái người mà có nghị lực, chắc chúng ta đi như vậy một thời gian chúng ta cũng về thăm, về thăm nhà. Đằng này thì Ngài không về thăm, chừng nào Ngài chứng đạo Ngài mới về, khi mà tu xong rồi Ngài mới về thăm vua cha, thăm vợ con.
(01:14:05) Thì chúng ta biết rằng một con người mà nghị lực như vậy, nó không phải là bình thường. Nhưng mà chính ở trong chúng ta có những người có nghị lực như vậy chứ không phải không. Người ta chịu gian khổ, bằng mọi cách người ta cũng có thể đi vào rừng vào núi mà người ta từ năm này đến năm khác, hoặc năm, mười năm, hai chục năm chúng ta cũng có thể thực hiện được cái sự tu tập đó.
Và cuối cùng thì Ngài tu tập làm chủ được, làm chủ được bốn sự đau khổ đó, cho nên Ngài mới đem cái chân lý đó, Ngài dạy cái bài pháp đầu tiên, gọi là chuyển pháp luân lần đầu tiên đó là dạy Tứ Diệu Đế. Cái chân lý nói rõ ràng con người là phải như vậy, như vậy. Ngài không dạy chúng ta để sanh lên cái cõi Cực Lạc, Thiên Đàng mà Ngài chỉ cho chúng ta biết rằng cái trạng thái tâm của chúng ta gọi là Diệt Đế, cái trạng thái tâm đó gọi là cái Niết Bàn. Cái tâm trạng của chúng ta lúc bấy giờ nó ở trong cái trạng thái đó là Niết Bàn chứ không phải có cảnh giới Niết Bàn.
Cho nên Ngài đã xác định được cái chân lý của Ngài mà mọi con người chúng ta hiểu được cái chân lý đó bằng cái ý thức chúng ta cụ thể. Nói khổ, con người ai cũng biết là khổ, phải không?
Mà nói cái nguyên nhân mà hợp lại những cái khổ đó thì chắc ai cũng không bác được là vì cái tâm ham muốn của chúng ta, cái lòng dục của chúng ta mà nó tập hợp tất cả những cái sự đau khổ. Cho nên diệt cái lòng dục đó, không còn dục nữa thì chúng ta sẽ hết khổ. Cho nên cái chân lý đó không thể ai bác được. Vì vậy mà cuối cùng Ngài đưa ra cái Đạo Đế, cũng là một cái chân lý thiết thực, sống thì phải Chánh kiến, mà nếu tà kiến thì có sự khổ đau, mà phải Chánh tư duy, chứ tà tư duy thì mới đau khổ.
(01:15:36) Cho nên từ đó chúng ta thấy đó là một cái chân lý mà đạo Phật xem hết các tôn giáo trên hành tinh này thì chúng ta thấy đạo Phật nó có một cái chân lý thực tế với đời sống hằng ngày của con người hơn là các tôn giáo khác. Những tôn giáo khác thì có những cái đấng Ngọc Hoàng, Thượng Đế nó có cái dạng mơ hồ trừu tượng.
Còn trái lại đạo Phật thì ngay trong chúng ta, ngay trong chúng ta thì chúng ta phải tự lực, sống bằng cái chánh kiến, bằng cái chánh kiến như thế nào? Thì đức Phật đã dạy cho chúng ta, trang bị cho chúng ta có những cái chánh kiến, thấy cho đúng. Rồi cái suy nghĩ như thế nào đúng, mà suy nghĩ như thế nào sai? Sai tức là có đem đến cái sự khổ cho chúng ta thì gọi là tà kiến.
Như vậy Ngài thật sự là con người thật, đừng nghĩ rằng theo truyền thuyết, người ta huyền thoại một cái câu chuyện, một đấng Giáo chủ. Đức Phật sanh ra bằng nách, sự thật ra cái điều này hoàn toàn là không có khoa học, không có cái tin tưởng được, nó không thể được. Chỉ là những người bậc Thánh ở đâu, sanh ra như vậy, mà cũng không làm sao sanh được như vậy.
Bởi vì con chúng ta con người, mà ở trong nách mình nứt, làm sao cái nách chúng ta nứt được, chỉ có đem dao mà mổ ra thôi. Thì rõ ràng nếu mà nói như vậy thì Ngài xưa đức Phật chắc là sanh khó lắm cho nên mới mổ nách mới đẻ ra chứ gì? Thì như vậy là không đúng. Không đúng, như vậy ngày xưa cái chuyện đó là không có rồi.
Nhưng mà người ta huyền thoại Ngài, huyền thoại Ngài câu chuyện. Được sanh ra, thì cái cơ bắp của con người mới sanh ra mà nằm suốt chín tháng mười ngày, ở trong cái bào thai mẹ mà sanh ra đứng như vậy đi bảy bước liền thì cái điều đó không có đâu, nó yếu ớt. Bởi vì những cơ bắp chúng ta bị gò bó ở trong đó, thôi mình đặt thành vấn đề như các vị ngồi khoanh chân đi. Bây giờ cái chân cẳng của quý vị đi cứng cáp đó, phải không? Thì bây giờ ngồi khoanh chân đi, cái chân cẳng mà tê cóng lên, quý vị đứng dậy đi được không?
Hơn nữa là quý vị thấy một đứa bé mà nằm trong cái bào thai nó co rút như vậy, thì chắc là nó cũng tê cóng ở trỏng, cho nên vì vậy mà làm sao mà nó lọt lòng ra nó bước đi được? Đó là cái nói, nói để cái lý để chúng ta thấy rằng những cái phi lý, nó không đúng.
Một đứa bé sanh ra rồi huyền thoại cho Ngài lại có thần thông, coi như hoa sen nở dưới chân Ngài đi. Làm sao ở chỗ Ngài đi là sình lầy hay sao mà hoa sen mọc? Đất khô của Thầy làm sao có hoa sen mọc được, có phải không? Có lẽ là bà mẹ sinh Ngài ở trong dưới cái vũng lầy mà, cho nên ở đó nó mới có bông sen, phải vậy không? Chúng ta nghe có lý không?
(01:17:58) Chúng ta phải hiểu cái lý thật và cái lý không. Tại sao Ngài bước lại có hiện bông sen lên? Như vậy nếu mà thực tế thì phải ở trong cái vũng sình lầy. Mà nếu mà không có vũng sình lầy thì ít ra phải có thần thông, phải không? Nhưng mà cái thần thông thì trong đạo Phật thì Thầy thấy là đức Phật rất bác thần thông, tại vì đó là cái ảo giác của chúng ta. Đó là cái ảo thuật, nó làm cho chúng ta thấy như vậy, chứ thật ra không phải như vậy.
Như vậy là đức Phật hiện ra là cái con người ma mà, cho nên người ta xây dựng cái lịch sử của đức Phật bằng cái đó thì chúng ta nghĩ rằng ông này có lẽ là ma chứ không phải là con người thật. Mà nếu mà con người ma mà chúng ta dựa vào con người ma thì chắc chắn là chúng ta cũng ảo là ma thôi chứ chúng ta có làm cái gì? Không đúng.
Cho nên khi mà chúng ta xét thấy ông Phật thật sự là con người cha sanh mẹ đẻ, cũng sanh nơi bất tịnh. Thầy xác định điều đó. Vậy tại sao Thầy xác định điều đó? Tại vì Thầy cũng tu tập Thầy làm chủ được sự sống chết, mà Thầy cũng sanh nơi cha mẹ bất tịnh, cha mẹ sanh Thầy ra nơi bất tịnh chứ đâu có mà sanh nơi hông đâu. Nếu mà Thầy sanh nơi hông thì chắc chắn ngày xưa đức Phật cũng sanh nơi hông thôi, nơi nách.
Còn Thầy cũng sanh như các Phật tử hiện giờ, cũng cha sanh mình, cũng cha mẹ sanh mình nơi đâu thì Thầy cũng sanh nơi như vậy, thì rõ ràng là sanh nơi bất tịnh. Và Thầy cũng có da thịt cũng như quý Phật tử, tất cả mọi người cũng giống như Thầy. Nhưng mà Thầy làm được, Thầy sống được, giới luật Thầy sống không vi phạm, rồi thiền định Thầy làm được những cái sự sống chết như vậy rõ ràng là ông Phật làm được thì Thầy tin rằng ông Phật làm được, Thầy làm được và bây giờ quý Phật tử làm được. Bởi vì quý Phật tử cũng giống như Thầy, cũng là con người.
Nếu mà bây giờ nói một con vật như là một con bò, con trâu, hay con chó mà nói nó sẽ tu được như Thầy, Thầy tin là nó không có làm được. Là tại vì nó có cái thân như vậy nó tu không có được. Còn Thầy là một con người và ông Phật là một con người giống như nhau cho nên Thầy tin rằng ông Phật làm được. Do cái sự tư duy suy nghĩ như vậy, ông Phật thật sự là con người như mình. Mình hãy nương tựa vào ông ta thì có lẽ là làm được.
Vậy thì nương tựa như thế nào? Nương tựa là Phật sống như thế nào thì mình làm như thế nấy, Phật ăn như thế nào, mình ăn như thế nấy, Phật đi như thế nào, thì mình đi như thế nấy, tất cả mọi cái mình làm giống như Phật thì chắc chắn là sẽ được giải thoát như Phật chứ gì?
(01:20:11) Điều đó là cái điều có một cái sự mình tin tưởng. Cho nên mình xét lại qua cái lịch sử của đức Phật, trong thời đức Phật đi thuyết giảng độ chúng sinh thì đức Phật sống như thế nào, làm như thế nào? Mình nghiên cứu lại những cái trang sử đó và đồng thời mình bắt chước Phật, mình dựa vào đó, dựa vào đó gọi là nương tựa vào. Vì vậy mà cái người nương tựa vào Phật Bảo thì chắc chắn là giữ đúng như vậy, làm đúng như vậy, thì chắc chắn là người đó sẽ có giải thoát.
Cũng như bây giờ, mình hở một chút người ta nói nặng một chút cái mình giận. Nhưng mà ông Phật ngày xưa, người ta nói nặng chửi ông ông vẫn thản nhiên, ông nói như cho bánh ông, hồi cho bánh ông mà giờ ông ông không giận thì mấy người phải mang về thôi.
Cho nên ông Phật ông dạy chúng ta rất rõ ràng, là vì người ta có chửi mắng mình, người ta nói nặng nhẹ mình nhưng mà mình không có chửi mắng lại người, thì cũng như bánh mà đem cho mình mà mình không nhận. Thì những cái điều mà người ta cho mình không nhận thì không lẽ người ta đổ? Người ta phải mang về. Còn riêng ông thì không có vướng mắc gì những cái điều người ta chửi mắng ông hết. Cho nên hoàn toàn là ông làm thinh.
Cho nên cái điều kiện ông Phật ông dạy đệ tử của ông là “im lặng như Thánh”. Người ta chửi mắng vậy chứ mà im lặng như Thánh, không có được giận hờn và không được phiền não do đó là giải thoát ngay liền.
Cho nên vì vậy mà chúng ta sống như Phật, nương tựa vào ông Phật là chúng ta đã. Nếu mà chúng ta biết hiểu được cái hành động sống đúng như vậy thì chúng ta cố gắng mà khắc phục mình, chế ngự tâm mình, để rồi mình sống như Phật thì chắc chắn mình sẽ tìm được cái sự làm chủ sanh, già, bệnh, chết như ông Phật đã làm được. Đó là cái thứ nhất, cái ngôi thứ nhất.
(01:21:41) Ngôi thứ hai là Pháp Bảo. Pháp Bảo là những cái kinh nghiệm mà ông Phật đã tu, và đã tìm ra được cái điều kiện, cái phương cách, cái cách thức để mà tu tập, để mà làm chủ được sự sống chết. Nhưng mà mình phải nghĩ cái pháp như thế nào mình mới tin chứ không phải đụng đâu mình tin đó. Cho nên đức Phật có dạy mình: “Đừng có tin, đừng có tin.” Nghĩa là dù người ta nói cái gì mình cũng đừng có tin mà mình phải tư duy suy nghĩ, mình phải thấy làm cho được mình mới tin, làm không được thì không tin.
Cho nên hồi lúc nãy có một người Phật tử hỏi Thầy, từ đâu tới giờ Thầy dạy đạo có người nào mà tu chứng chưa? Thầy trả lời là chưa có người nào tu chứng. Là tại sao? Tại sao mà người ta chưa tu chứng? Tại vì người ta không đi đúng theo cái lời dạy của Thầy, cho nên Thầy đành chịu. Nhưng mà Thầy nghĩ rằng, nếu mà người ta hiểu được, hiểu được Thầy, người ta làm đúng cái lời dạy của Thầy, chắc chắn là người ta sẽ chứng được.
Còn bây giờ Thầy bảo là người ta độc cư, thì người ta không độc cư, người ta nói chuyện; Thầy bảo là ăn ngày một bữa, người ta ăn hai, ba bữa; Thầy bảo là người ta phải chiến đấu với hôn trầm, thùy miên thì họ lại không chiến đấu với hôn trầm, thùy miên, buồn ngủ là thích đi ngủ. Thì cuối cùng như vậy là Thầy đâu có làm sao, đến đây tu với Thầy để rồi để cho Thầy mang tiếng, chứ còn sự thật ra thì họ không thấy cái trách nhiệm của họ khi mà đến đây tu.
Họ đến đây tu có mục đích là họ dựng lại cái sự sống của Phật giáo lại. Còn họ tu như vậy là tu theo dục, muốn hồi nào tu hồi nấy. Như vậy rõ ràng là họ còn muốn diệt Phật giáo thêm một bước nữa. Cho nên những người mà theo Thầy tu mà không nghe lời Thầy dạy là những người đó họ không có quyết tâm diệt Phật giáo, nhưng cách thức làm không đúng cũng vẫn là có cái điều kiện làm cho Phật giáo mất niềm tin đối với mọi người, điều đó là điều không đúng.
Cho nên khi mà chúng ta đến đây tu là chúng ta phải tu. Để không, ngày nào đó chúng ta nằm xuống chúng ta chết mà bệnh đau rên la thì người ta nói “ờ, Phật giáo gì mà tu mà không làm chủ”. Thế mà ông Phật ông dạy bảo phải làm chủ bốn cái sự đau khổ này, thế mà không làm chủ được. Do đó người ta làm sao người ta tin được Phật giáo? Thì Phật giáo phải bị diệt mà thôi.
(01:23:36) Cho nên ở đây, khi mà chúng ta nghe được pháp, thì chúng ta phải tư duy cái pháp như thế nào? Đức Phật nói: Ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện. Vậy thì ngăn ác như thế nào? Khi tâm tôi có tham tôi biết nó có tham, mà tham là ác pháp thì tôi phải ngăn diệt, không có được để trong tâm tôi, thì ngay đó tôi cũng giải thoát chớ. Chứ đâu cần gì mà cái sự giải thoát gì mênh mông đâu. Đâu cần đi tìm những cái thế giới Cực Lạc làm gì? Đi tìm một cái Phật tánh để làm gì đây? Mà chính ngay chỗ tâm tham tôi biết có tham. Cho nên đức Phật xác định được cái bài pháp của mình: ‘‘Pháp ta không có thời gian đến để mà thấy’’, có đúng không?
Như vậy rõ ràng là pháp của Phật rất thực tế, Phật đã dạy như thế này: “Chư ác mạc tác, chúng thiện cùng hành”. Hằng ngày trong cuộc sống của chúng ta, các pháp ác đừng có làm, mà hãy làm các pháp thiện. Đúng không? Đúng lời Phật dạy không? Như vậy có bảo chúng ta vô chùa lạy Phật, cầu cúng không? Có bảo chúng ta vô chùa để nhập thất tu không? Hay là dạy cho chúng ta ở trong cuộc sống của chúng ta mà ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện?
Cái pháp có thực tế không? Có bảo chúng ta bỏ vợ, bỏ con không? Nhưng vợ con có nói lời nói gì mà làm cho chúng ta tức giận, chúng ta có giận không? Bởi vì tức giận sân là ác pháp, phải ngăn và diệt, do đó chúng ta ngăn diệt.
Và kính ngữ của chúng ta để làm gì đây? Lời nói phải ôn tồn, chứ đâu lý mà nạt nộ, la lối, rầy mắng vợ con. Thì điều đó là điều ác pháp, tại sao chúng ta làm điều này? Cho nên những gì ông Phật dạy bảo mình: Các pháp ác không nên làm, nên làm các pháp thiện. Cho nên từng cái lời nói, từng cái hành động, từng cái suy nghĩ của chúng ta, vì vậy mà chúng ta sẽ hoàn toàn làm được giải thoát. Ngay khi mà chúng ta làm được những hành động này là giải thoát.
Vậy cái pháp nó thực tế và nó hiện tại quá, nó cụ thể quá phải không? Ngay khi mình biết sân là mình đừng sân, ngay khi mình biết tham là mình đừng tham. Nhưng mà ông Phật ông biết rằng cái lực, cái nghiệp lực của tham, sân, si nó quá mạnh cho nên ông mới cho mình cái pháp Như Lý Tác Ý để hằng ngày mình tác ý để tạo thành một cái lực của nội tâm.
Cho nên bây giờ tôi không tham, không sân là bị ngũ triền cái nó che khuất tôi không thấy được cái tâm tham, sân, si của tôi. Cho nên vì vậy mà lúc bây giờ tôi nhắc: “Tâm tôi như cục đất, ly tham, sân, si hết đi”. Tham, sân, si là ác pháp, mai mốt mình không được sân, không được tham nữa”. Mình nhắc nó vậy, nó trở thành một cái lực ở trong tâm của chúng ta, khi có ác pháp, có đối tượng xảy đến cho tâm mình tham, sân, si thì ngay đó thì mình đã có cái sức mình dừng lại được liền mà hoàn toàn mình được giải thoát.
Vậy cái pháp mà đem đến sự giải thoát như vậy, nó có thực tế không? Như vậy chỗ mà thực tế như vậy, nó có giải quyết được mình nỗi khổ không? Sinh, già, bệnh, chết nó có giải quyết được không? Được chứ! Bởi vì khi mà toàn bộ tâm chúng ta thanh tịnh hoàn toàn, nghĩa là không còn tham, sân, si nữa. Thì ngay lúc đó cái tâm thanh tịnh như vậy nó có đủ cái năng lực đó để làm chủ sự sống chết.
(01:26:17) Cũng như bây giờ trên cái bước đường mà chúng ta tu, chúng ta thấy rõ ràng cái tâm mà nó không giận hờn, phiền não, không tham đắm thì cái tâm đó thanh tịnh, nó giúp cho cái thân người đó ít bệnh đau. Và cái pháp hướng mà hằng ngày nhắc nó trở thành cái lực. Cho nên khi thân nó có bị bệnh đau, tức là bệnh khổ đó thì nó tác ý nó đuổi cái bệnh khổ cũng vẫn đi mất đi. Đó là chúng ta thấy nó rất là thực tế cụ thể.
Vậy thì pháp của Phật rất thực tế, cụ thể như vậy, rõ ràng là chúng ta nương tựa vào, quy y tức là nương tựa chứ gì. Nương tựa vào Pháp Bảo thì thấy có giải thoát hoàn toàn, có lợi ích rồi. Nó làm chủ được bệnh nè.
Thí dụ như Thầy nói cái bệnh trên thân Thầy nó có cái cánh tay nó đau, Thầy bảo: “Thọ là vô thường, hãy đi khỏi thân ta đi, không có được đau nữa nha”, thì bắt đầu Thầy dẫn cái tâm của Thầy cho nó cái tâm của Thầy nó vào cái sự an tịnh, dẫn cái thân của Thầy nó vào cái sự an tịnh, Thầy nhắc: “An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành, tôi biết tôi thở ra”. Thầy cứ nương hơi thở, Thầy cứ thường xuyên liên tục Thầy nhắc, cứ khoảng năm hơi thở, mười hơi thở Thầy nhắc một lần. Cuối cùng một lát tâm của Thầy nó yên, yên ổn ở trong cái hơi thở, nhiếp phục trong hơi thở, an ổn trong hơi thở. Thì trạng thái tâm, cái thân của Thầy nó rất là an lạc, nó không còn cái đau nhức chỗ nào nữa hết.
Không phải pháp của Phật thực tế để mà nó chịu thay cái sự đau khổ của chúng ta không? Rõ ràng là nhờ pháp mà thân chúng ta không còn đau khổ nữa, cái bệnh khổ không còn nữa. Có phải là cái lợi ích nó thiết thực không?
(01:27:37) Cho nên cha mẹ làm sao chịu đau cho chúng ta được? Thế mà cái pháp này nó làm cho thân của chúng ta không còn đau. Như vậy là nương tựa nó có lợi ích chớ. Bởi vậy, cho nên vì vậy chúng ta mới quy y Pháp Bảo chứ, đúng không?
Cho nên ở đây chúng ta thấy thiết thực như vậy rồi. Phật Bảo là người thật, giúp cho chúng ta biết rõ ràng là Ông đã làm được sự thật như vậy là mình cũng làm được như vậy. Tức là Phật Bảo giúp cho chúng ta có cái niềm tin. Và Pháp Bảo nó gây cái niềm tin đó kéo dài. Chứ bây giờ pháp của tôi mà không kết quả thì tôi làm sao tôi tin được? Còn cái pháp này nó thực tế, chúng ta không ngăn thôi, mà hễ ngăn diệt thì chúng ta thấy có giải thoát. Chứ nên nó quá thực tế, niềm tin chúng ta bắt vào kéo dài ra sâu sắc.
Còn bây giờ cái pháp này dạy tôi tin Phật, nhưng mà cuối cùng cái lời dạy của đức Phật, pháp của Phật dạy tôi tu nó không kết quả. Tôi tu mãi mà sao tâm tôi còn tham, sân, si, còn giận dữ, cuối cùng thì tôi hết tin rồi. Mà tôi hết tin thì tôi tu chơi chơi thôi chứ tôi không có nhiệt tâm tu nữa. Cho nên cuối cùng thì nhìn tới nhìn lui thì các thầy không ai giải thoát được hết. Có phải đúng không?
Cho nên mình quy y Tam Bảo là mình phải thấy có sự lợi ích thiết thực nơi nương tựa đó. Cho nên nói mình trở về nương tựa để nhờ cậy, quy y cái ba ngôi Tam Bảo này nó mới làm chủ được, nó mới thoát ra bốn sự đau khổ của kiếp người sanh, già, bệnh, chết. Đó thì mình nương tựa vào Pháp Bảo, là mình thấy lợi ích mà thiết thực, mà dễ dàng, không ai làm không được.
Bây giờ có gì đâu mà khó đâu, Thầy ngồi chơi Thầy nhắc: “Tâm như cục đất, không có tham, sân, si nha nghe không? Tham, sân, si là ác pháp. Mai mốt mà mày sân là mày biết tao à, tao xách cây tầm vông tao nít vô đít mày à”. Ờ mình nói vậy chớ mà nó sợ chớ, đâu phải cái tâm mình nó không sợ, nó sợ lắm chớ. Thì do đó mình cứ nhắc nó vậy, mà mai mốt nó có sân lấy cây roi mà quất nó một cái nó hết sân liền à.
Thầy chắc chắn bảo đảm, quý Phật tử cứ làm thử đi, bữa nào mà vợ con nói gì mà nó giận, lấy cái cây tầm vông quất cái đít, “mày còn giận là mày chết”. Thì do đó khi mà nó bị đòn rồi cái bắt đầu nó hết giận liền. Thầy bảo đảm. Cho nên vì vậy trên cái sự tu, chúng ta cũng phải có lúc chúng ta dụ cái thân tâm của chúng ta chớ, cũng có dịp, có lúc chúng ta phải răn đe nó chớ, cũng đánh nó một hai roi cho nó ớn chớ. Thì lúc bấy giờ nó sẽ nghe lời mình chứ gì.
Đức Phật nói cái thâm tâm của chúng ta nó cũng giống như một con voi, con voi rừng, chúng ta huấn luyện nó, có lúc thì chúng dụ dỗ, có lúc cũng phải răn đe nó. Đó là chúng muốn làm chủ nó mà, nó đâu có dám cãi. Vì vậy mà tới chừng nó thuần rồi thì nó rất dễ sai, dễ bảo. Đó thì cái pháp của Phật dạy chúng ta là đem lại cho cái sự lợi ích cho chúng ta thiết thực.
(01:29:59) Bây giờ tới Tăng Bảo. Tăng Bảo là tượng trưng cho giới luật, cho sức sống của đức hạnh, mà Tăng Bảo là đức Phật đang sống hiện tiền trong ngôi Tăng Bảo. Bởi vì một ông Tăng là tượng trưng cho một Thánh Tăng, một vị Phật sống hiện tại. Cho nên đức hạnh đó nó phải thể hiện ra sự sống của ông ta.
Còn nếu ông Tăng mà phạm giới phá giới thì chưa hẳn đã là một vị Tăng mà chúng ta quy y. Tức là nương tựa. Bởi vì cái ông này phạm giới, phá giới, nó đâu có đủ cái đức hạnh mà chúng ta tôn xưng họ làm Thầy, nương tựa làm cái gương sống để mà chúng ta noi theo cái gương đó? Cho nên một ông Tăng phải giới luật nghiêm chỉnh.
Vì vậy, muốn chọn một vị Tăng mà để quy y đó, để nương tựa thì phải chọn một vị giới luật nghiêm chỉnh. Đừng có chọn những cái vị thần thông, bởi vì những cái vị sư mà người ta luyện Mật tông người ta cũng có thần thông, người ta biết chuyện quá khứ, vị lai. Những cái vị đó là ngoại đạo, là những người sai, không có đúng. Bởi vì, cái đó nó không có lợi ích, nó làm cho chúng ta luôn sợ hãi và ham muốn. Chứ nó không có diệt cái lòng ham muốn của chúng ta. Thấy có thần thông ham muốn.
Cũng như bây giờ Thầy quán hào quang, Thầy phóng hào quang nè, Thầy bay lên trời Thầy ngồi thiền nè, rồi Thầy chun xuống đất Thầy độn thổ nè, Thầy làm nhiều cách Thầy biến một thân biến ra nhiều thân. Quý Phật tử về đây tham quá, tham quá mình phải ráng mình tu để mình biến hóa được như vậy, mình làm được như vậy. Cuối cùng, tham cái thần thông ảo, nó đâu có thiết thực.
Còn bây giờ chúng ta sống đúng cái đạo đức của chúng ta, Thánh hạnh, ăn phải tiết độ như thế nào, sống như thế nào, lời nói như thế nào mới đúng là cái đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Thì ngay đó có sự giải thoát cho mình cho người, làm cho mình vui, làm cho kẻ khác vui. Thì cái này nó thực tế. Còn cái kia ngồi trên trời có thực tế cho ai đâu. Thầy bay lên trời Thầy ngồi, Thầy phóng hào quang chơi cho vui cũng như cái trò ảo thuật của mấy cái người mà hát Sơn Đông vậy. Nó có nghĩa lý gì đâu quý vị?
(01:31:53) Cho nên đức Phật nói một cái thần thông biến hóa, một cái thần thông biết trước, trở thành người Thầy bói, có nghĩa lý gì đâu? Mà chỉ có thần thông, thần thông giáo hóa, dạy người ta cái đạo đức, làm cho người ta sống một đời sống làm chủ được sanh, già, bệnh, chết. Cuộc sống người ta không làm khổ mình, khổ người. Thì cái đó là cái quan trọng, cái lợi ích.
Mà cái ông Thầy mà sống không đúng giới luật, không đúng cái đức hạnh, thì các con nghĩ sao? Có xứng đáng là làm Thầy mình không? Thế là mình quy y mình như thế nào? Mình xu hướng mình quy y thấy ông Thầy này có nổi danh, ông làm chức vụ to của Phật giáo, hoặc là ông là một cái người ở trong rừng năm bảy năm tu hành như thế này thế khác, mà không biết ông ta, đến chừng đó ông uống rượu nè, ông ăn thịt nè, ông làm những cái điều mà có thể những người phàm phu làm được hết.
Các con có nghe cái vị mà thiền sư thời nhà Trần, là ông Trần Quốc Toản phải không? Cái ông đó ông về ăn thịt uống rượu bà chị ông nói ông, ông nói: “Phật là Phật, em là em, giải thoát là giải thoát, em ăn thịt uống rượu có gì đâu”. Cái chuyện mà cái vị Thánh Tăng như vậy thì có phải là Thánh Tăng không? Thì không phải đâu, lấy giới luật mà chúng ta kê ra thì chúng ta thấy vị này không phải là Thánh Tăng, mà là một cái người còn phàm phu tục tử. Vậy mà đến khi chết lại bảo là chị hãy chờ em đi, rồi ông lại về cái phòng ông ông lại nhập diệt ông chết, ông nhập thiền nào? Có phải là người ta huyền thoại không?
Rồi ở bên Trung Hoa thì lại có một vị tu sĩ có thần thông, đó là Tế điên, Tế Điên Hòa thượng. Ai đã đọc cái chuyện Tế Điên Hòa thượng cũng thấy ông này rồi cái chuyện ông làm, nhưng mà sự thật ra ông ăn uống dơ dáy đủ cách, nước miếng nước mồm, và ông nuốt ông làm đủ cách dơ bẩn, thế mà một vị Phật mà thanh tịnh như vậy sao? Ông ăn uống rượu, uống chè với mọi người tùm lum tà la hết, như vậy là đối với cái phạm hạnh, cái đức hạnh của một vị tu sĩ, giới luật ở chỗ nào?
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian: Mùng 4 tết/2003
Thời lượng: [57:23]
Tên cũ: 02-(M4Tet2003)-ThoTamQuyNguGioi
https://thuvienchonnhu.net/audios/20030204-tho-tam-quy-ngu-gioi-giu-gin-than-khau-y-thien.mp3
Trưởng lão: Mình quy y mình như thế nào?
Mình xu hướng mình quy y mấy ông Thầy nào có nổi danh, ông làm chức vụ to của Phật giáo, hoặc là ông là cái người ở trong rừng 5 – 7 năm tu hành như thế này, thế khác mà không biết ông ta, đến chừng đó ông uống rượu nè, ông ăn thịt nè, ông làm những điều mà có thể mấy người phàm phu làm được hết.
Các con có nghe vị Thiền sư thời nhà Trần là ông Trần Tung – Tuệ Trung Thượng Sĩ không? Cái ông đó, ông ăn thịt, uống rượu. Bà chị nói ông, ông nói: “Phật là Phật, em là em, giải thoát là giải thoát, em ăn thịt uống rượu có gì đâu!”. Cái chuyện mà vị Thánh Tăng như vậy có phải là Thánh Tăng không? Không phải đâu! Lấy giới luật mà chúng ta kê ra thì chúng ta thấy vị này không phải là Thánh Tăng, mà là một người còn phàm phu tục tử. Vậy mà đến khi chết ông lại bảo: “Chị hãy chờ em đi”, về phần ông, ông lại nhập diệt, ông chết. Ông nhập thiền nào? Có phải người ta huyền thoại không?
(00:59) Rồi ở bên Trung Hoa thì lại có một vị tu sĩ có thần thông, đó là Tế Điên Hòa Thượng. Ai đọc tới chuyện Tế Điên Hòa Thượng cũng thấy ông này, nhiều cái chuyện ông làm, thế mà sự thật ra ông ăn uống dơ dáy, đủ cách nước miếng, nước mồm vầy ông nuốt, ổng làm đủ cách dơ bẩn. Thế mà một vị Phật thanh tịnh mà như vậy sao?
Ông ăn uống, uống rượu, uống chè giống mọi người tùm lum, tà la hết. Như vậy là đối với cái phạm hạnh, cái đức hạnh của một vị tu sĩ giới luật ở chỗ nào?
Đối với Thầy, đây là ngoại đạo. Ngoại đạo nó tu, nó cũng có thần thông, cũng có phép thuật, nhưng mà sự thật nó có Thánh hạnh không? Nó có giới luật không? Không! Cho nên đối với Thầy không có sợ ba cái người này đâu. Đó thì, Thầy nói thực sự.
Cho nên vì vậy mà chúng ta phải chọn một vị tu sĩ có giới đức hẳn hòi. Phật đã dạy chúng ta 10 giới Sa di, đối với Tăng, với nam thì phải 250 giới Tỳ kheo, đối với Nữ thì phải 348 giới, đâu đó hẳn hòi. Nếu mà ai vi phạm một giới thì người đó chưa phải xứng đáng là Thầy mình, chứ chưa phải nói là nhiều giới. Một giới thôi cũng chưa xứng đáng, huống hồ là bao nhiêu giới của Phật đều là phạm hết, thì thử hỏi có xứng đáng làm Thầy chúng ta không ?
(02:13) Cho nên chọn lấy ông Tăng cho xứng đáng mà làm Thầy của mình, để nương tựa mới gọi là quy y Tam Bảo chứ, mới gọi là quy y Tăng Bảo chứ. Chứ vô tình mà chúng ta đụng ông Thầy nào cũng quy y, đụng ông Thầy nào cũng theo, nói: “Tôi theo đạo Phật, là như vậy sao?”. Thà là đừng theo đạo Phật, theo đạo Phật thì phải chọn cho đúng!
Ở đây đức Phật nói: “Thà là một người tu mà đúng đạo Phật thì đạo Phật còn sống, mà có trăm vạn người tu phạm giới phá giới, giới luật mất thì đạo Phật đã mất”. Cho nên dù có trăm vạn người tu mà phạm giới, phá giới thì đạo Phật vẫn mất. Nó thuộc về đạo Bà La Môn mà mang danh đạo Phật, đau đớn nhất là người ta mạo nhận cái tên như vậy để mà người ta xóa sổ Phật giáo, xóa tên của Phật giáo trên hành tinh này, làm cho Phật giáo không còn nữa, để mang cái tên Phật giáo mà Phật giáo như kiểu này thì làm sao có người làm chủ được sanh, già, bệnh, chết?
(03:06) Hôm nay quy y, thọ Tam Quy – Ngũ Giới, quý Phật tử đã nghe được ba ngôi Tam Bảo: Phật - Pháp - Tăng.
Pháp như thế nào? Pháp ngay liền hiện tại biết ngăn ác, diệt ác đó là pháp của Phật. Pháp mà tu chờ 5 năm, 10 năm, 20 năm hay là nhiều kiếp để mà thành Phật, thì Pháp này là Pháp sai! Pháp của Phật là ngay liền phải có giải thoát thì đó là pháp đúng!
Còn Phật, mà có từ một vị Bồ tát ở trên cõi Trời Đâu Suất mà xuất hiện thì ông Phật này không phải là ông Phật của mình. Ông Phật của cõi Trời Đâu Suất chứ không phải là ông Phật của mình. Bởi vì trên cõi Trời đó có ông Phật đó chứ ở đây không có ông Phật đó. Còn ông Phật ở đây là phải con người của người Ấn Độ ở đây để rút ra những phương pháp, như vậy là ông Phật đúng!
Cho nên bây giờ quý vị đã nghe Thầy giảng về Tam Bảo và Quy y. Nếu thấy đúng với tâm nguyện của mình thì quý vị chắp tay lên trước tượng Phật mà xin rằng: “Con sẽ xin quy y Tam Bảo”. Với Phật Bảo đúng với lịch sử của đức Phật. Chứ không có quy y ông Phật Di Đà ở cõi nào mà bây giờ lịch sử không có, do đó thì cái đó sai! Quy y ngay ông Phật có thật sự ở trên cõi thế gian, ở trên hành tinh của chúng ta. Đó là một.
Hai là Pháp: Pháp nào? Pháp mà ngăn ác diệt ác, sinh thiện tăng trưởng thiện. Pháp mà không làm điều ác luôn làm điều thiện, thì cái pháp đó chúng ta chấp nhận. Và vì vậy thì chúng ta phải nương vào pháp đó mà xin Quy y Pháp đó.
Và ông Tăng nào mà đúng giới luật, bây giờ trước mặt các quý Phật tử không có một vị Tăng đúng giới luật, nhưng tôi sẽ xin quy y với một vị Tăng đúng giới luật. Còn những vị Tăng không có đúng giới luật thì chúng tôi không Quy y.
Thì các vị sẽ chắp tay lên mà hướng về đức Phật mà xin Quy y Tam Bảo. Nếu mà quý vị thấy đúng thì chắp tay lên xin Quy y, mà thấy không đúng thì không ép buộc. Bởi vì đạo Phật không bắt buộc một người nào theo Ngài, mà Ngài chỉ muốn rằng mọi người sống đúng đạo đức không làm khổ mình, khổ người thì người đó đương nhiên là Phật tử, đệ tử của Phật chứ không phải cần quy y.
(5:20) Hôm nay vì mục đích Quy y của trong đạo Phật mà Thầy đại diện cho Phật giáo, cho ba ngôi Tam Bảo, mà đứng ra Quy y. Vậy thì, xét thấy đúng thì các vị chắp tay lên hướng về tượng Phật mà ước nguyện xin Quy y Tam Bảo, thì quý vị chắp tay lên lạy một lạy. Rồi kế đó Thầy sẽ truyền cho năm giới.
Trước khi truyền cho năm giới thì Thầy sẽ giải thích năm giới:
Tức là năm giới là năm cái đức làm người. Một con người mà thiếu đạo đức thì chưa phải là người được, vì nó còn mang bản chất của loài động vật. Cho nên năm giới luật của Phật đối với người cư sĩ là năm đức hạnh của một người cư sĩ.
Giới thứ nhất: Cấm sát sanh hại vật. Đó là cái Đức hiếu sinh, biết thương yêu sự sống. Trước tiên, chúng ta muốn thương yêu mọi vật sống ở trên hành tinh này thì trước tiên chúng ta hãy thương chúng ta, đừng làm khổ cho chúng ta. Đầu tiên mình không thương mình thì còn ai thương mình?
Mình nói: “Tôi thương người này người kia, sự thật chưa chắc đã thương, mình thương mình”. Cho nên có một câu chuyện như thế này để Thầy nhắc lại cho quý Phật tử thấy:
Có bà Hoàng hậu, bà nói với nhà vua: “Bệ hạ có thương thần thiếp không?”
Thì nhà vua mới nói: “Ta rất thương ái khanh. Sao ái khanh lại hỏi vậy?”
Bà hoàng hậu mới trả lời: “Chắc gì bệ hạ thương, nếu mà bệ hạ thương, thần thiếp có lỡ mà lấy một ông quan nào đó thì bệ hạ có chặt đầu thiếp không?”
Thì ông vua không trả lời được.
“Rõ ràng là bệ hạ thương bệ hạ chứ đâu phải là thương thần thiếp, nếu mà thương thần thiếp thì thần thiếp có lấy một ông quan khác thì chắc chắn bệ hạ không bao giờ bắt tội thần thiếp hết”. Vì mình thương người ta mà.
Đúng là, người ta nghĩ rằng mình thương người đó chứ sự thật ra là mình mong người ta trở thành công cụ, cái sự sai bảo của mình thôi. Muốn người ta thuộc về mình, của mình chứ không có để cho người ta có sự tự do gì của người ta hết. Cho nên thật sự ra, đối với đạo Phật nhìn thấy cái thương đó là cái không thương gì cả.
(07:39) Cho nên ở đây trước tiên chúng ta phải biết thương mình. Nhiều khi chúng ta không biết thương mình mà chúng ta làm khổ mình rất nhiều!
Ví dụ như có người khác, họ nói lời nặng nhẹ với mình thì mình tức giận lên. Thì đó là mình đâu có thương mình. Vợ con có nói một lời nói nào đó, nghĩa là lời nói đó mình chưa có xét nhưng mình nghe trái ý mình là mình tức giận lên liền. Tức ngay vợ con mình liền, chứ chưa nói là cái gì. Đó là thấy mình có thương mình không? Nếu thương, tại sao mình làm cho mình khổ như vậy? Tức giận là khổ chứ đâu phải không khổ sao? Đó, cái đó là cái mình không thương mình!
Cho nên đạo Phật dạy chúng ta không làm khổ mình, khổ người. Tức là dạy chúng ta thương mình, thương người. Thương người thì mình có chửi người ta không? Chắc chắn không chửi.
Ví dụ như bây giờ đặt thành vấn đề, mình có một người vợ, người vợ mình đi lấy một người nào đó. Mà mình thương vợ mình thì mình có mắng chửi nó không? Chắc chắn là không có mắng chửi nữa. Vậy thì mình muốn vợ mình như thế nào cho nó chung thủy với nhau? Thì mình phải dùng những lời nói ôn tồn. Nếu nó nghe thì đó là nó có cái nhân duyên tốt, mà nếu nó không nghe thì mình phải thương xót nó, đừng có làm cho nó khổ. Mà mình cũng đừng có vì chuyện đó mà mình bực tức lên rồi mình làm cái này, làm cái kia, mình đập nhà đập cửa, rồi mình làm đủ thứ cho nó càng khổ thêm! Thì chuyện đó người ta gọi là ghen tuông. Chứ sự thật ra thì cái này là do cái thương không đúng chỗ. Thương không đúng chỗ tức là như hạt lúa mà cái đuôi, mà mình bốc nó không đúng chỗ cho nên nó bị xóc vào tay. Thương mà thương không đúng chỗ.
(09:17) Cho nên nhiều khi chúng ta chưa có học đạo đức nhân quả, cho nên chúng ta không rành về góc độ này. Nhưng ở đây, Thầy chỉ giảng cho chúng ta biết rằng lòng hiếu sinh thương yêu, thì cái sự thương yêu đầu tiên là phải thương yêu mình; rồi kế đó thương yêu người khác; rồi kế đó chúng ta mới thương yêu loài động vật; rồi kế đó nữa chúng ta mới yêu thương tất cả những sự sống trên hành tinh này, như: cỏ cây, rong rêu,… Tất cả mọi loài có sự sống là chúng ta thương yêu.
Trường hợp đặc biệt chúng ta mới chịu vì sự sống của chúng ta. Chúng ta mới chịu ăn những thực phẩm thực vật. Còn động vật thì chúng ta thấy nó rên la mỗi khi mình giết nó, nó giãy giụa. Còn với thực vật thì không thấy sự rên la cho nên chúng ta cố gắng ăn, chứ chúng ta biết nó cũng muốn sống chứ không phải nó muốn chết. Nhưng vì không ăn nó là chúng ta phải chết, môi trường sống mà, nó phải có sự cung cấp cho sự sống nhau.
Đó thì cái lòng hiếu sinh của chúng ta là đầu tiên mà chúng ta đi vào học đạo, thì người cư sĩ chúng ta nên mình thương mình và thương những người trước tiên, rồi kế đó là chúng ta tập dần chúng ta thương những loài động vật, những con vật khác, để chúng ta tránh đi những sự đau khổ do mình gây ra cho người, cho vật. Đầu tiên là cái Đức hiếu sinh. Đức là cái thứ Nhất mà người cư sĩ chúng ta cần phải tập.
Bây giờ chúng ta chưa ăn chay được thì chúng ta cố gắng ăn chay. Bây giờ chúng ta chưa ăn chay được thì chúng ta đừng cầm cây dao trực tiếp mà đập đầu con cá, cắt cổ con gà mà hãy mua những vật người ta làm sẵn đi, để chúng ta tránh bớt cái bàn tay vấy máu của chúng ta đối với cái loài vật, loài vật đang giãy giụa trên bàn tay của chúng ta. Chúng ta tránh những sự đau khổ đó. Đó là điều đầu tiên của chúng ta cần tập - đức hiếu sinh, lòng yêu thương sự sống.
(11:08) Giới thứ hai: Trong giới cấm là không gian tham trộm cắp. Đức đó là Đức buông xả. Bởi vì hầu như chúng ta không buông xả. Mỗi mỗi cái gì chúng ta huân vào, chúng ta cho đó là của mình, cho nên cái gì cũng đem vào mình, vào mình hết. Cuối cùng nó bị mất mát, nó bị hư hao thì chúng ta buồn khổ. Do chấp dính vật chất như vậy làm chúng ta buồn khổ. Cho nên đức Phật dạy chúng ta có Đức buông xả.
Như hồi sáng Thầy đã nói: Có buông xả nhưng lại có Cần lao. Nghĩa là chúng ta không ăn bám vào người khác, chúng ta không phải là cây chùm gửi để nhờ tựa vào người khác, mà chúng ta cũng cần lao. Khi cần lao chúng ta thừa, chúng ta lại giúp những người bất hạnh trong xã hội, an ủi đời sống của họ. Đó là buông xả để không dính mắc vật chất, buông xả để không dính mắc tiền bạc. Dù chúng ta có mất 1 triệu, 2 triệu, 5 triệu, 10 triệu, chúng ta vẫn thản nhiên, không vì cái sự mất mát đó mà làm chúng ta đau khổ. Cho nên Đức buông xả giúp cho chúng ta thanh thản trong cuộc sống của chúng ta.
Như vậy là chúng ta phải học được đức buông xả nhưng phải siêng năng, cần lao làm việc chứ không phải buông xả mà bỏ đời tiêu cực, yếm thế là không đúng!
(12:15) Giới thứ ba: Là giới cấm không tà dâm. Tà dâm có nghĩa là có vợ, có con rồi mà đi lấy vợ con người khác hoặc lấy người đàn bà khác, mình ngoại tình như vậy thì giới cấm này cái đức của nó là Đức chung thủy. Sống có tình, có nghĩa với nhau, đừng có làm một cái chuyện mà trái tình trái nghĩa, phải biết chung lưng đấu cật sống với nhau, chia sẻ ngọt bùi nhau trong cuộc sống. Đó là cái đức chung thủy, lòng hiếu nghĩa, có nghĩa có tình với nhau. Thì cái đó mới đúng cái nghĩa của nó.
Đó là chúng ta phải học tu những cái điều này, có vợ, có chồng con rồi thì đừng gian díu với người khác, làm cho gia đình mình tan nát, làm cho gia đình người khác tan nát. Do cái tâm dâm dục của mình mà sinh ra những điều làm cho mình đau khổ, người khác đau khổ. Cho nên chúng ta cố gắng giữ gìn cái Đức chung thủy này thì nó sẽ đem đến hạnh phúc cho người cư sĩ.
(13:15) Giới thứ tư: Cấm không nói dối. Tức là Đức thành thật, người nói thành thật là người sẽ được nhiều uy tín, người ta tin tưởng. Cho nên thí dụ như Thầy tu được cái gì thì Thầy dạy cái nấy, mà Thầy tu chưa được thì đừng có dạy người ta tu bằng cách này, bằng cách khác. Tức là cái nói láo, nghe người khác rồi lại nói.
Cho nên mình nói dối thì tức là nó sẽ không tốt cho mình mất uy tín, làm cho lời nói của mình nó không hay. Và đồng thời mình chê người ta mà chê không đúng cũng là nói dối, mình khen người ta mà khen không đúng cũng là nói dối. Khen mà không đúng tức là nịnh bợ, không nói đúng. Mình vu khống, mình vu oan, mình nói xấu, mình nói lật ngược, lật lọng thì đều là những người nói dối. Bởi vì trong bốn điều khẩu nghiệp của mình thì nó thuộc về vọng ngữ, thuộc về nói dối. Cho nên chúng ta khéo léo, dè dặt, cẩn thận. Thì cái đức đó là Đức thành thật, có nói có, không nói không, thấy nói thấy, không thấy nói không thấy. Đâu ra đó hẳn hòi, thì đó là thành thật.
Nếu mà mình nói ra một lời thành thật mà làm hại người, thì nhớ rằng không nên nói, nên im lặng như Thánh! Ai nói gì cạy răng cũng không nói, bị vì nói ra làm cho người ta khổ thì nhất định không nói, đó là cái im lặng. Chứ đừng có dối quanh, thiếu đức thì không được.
(14:36) Cho nên do sự làm thinh của mình, cũng gây nhiều cái sự trở ngại rất lớn! Như ngày xưa đức Phật ngồi dưới cội cây tu hành, thì nhà vua đuổi con nai chạy ngang qua. Thì khi mà đến ngang đức Phật đang ngồi tu thì mới hỏi đức Phật: “Ông có thấy con nai chạy qua đây không?”. Thì ông Phật biết rằng: Hễ mình nói có là chỉ cho nhà vua giết con nai, thì mình mang tội sát sanh. Mà hễ nói không, nói láo thì mang tội vọng ngữ. Cho nên lúc bây giờ ông Phật không có trả lời mà làm thinh. Làm thinh thì nhà vua lại bực tức, ông này khi dễ mình như thế nào mà mình hỏi ông không trả lời. Cho nên nhà vua mới tức giận, mới làm cho người ta sân lên, người ta chặt tay ổng, người ta móc mắt ông. Cuối cùng thì nhà vua móc mắt, chặt tay ông thì hối hận mới nói: “Tôi chặt tay, móc mắt ông, ông có giận tôi không?”, thì vị tu sĩ đó mới nói: “Tôi không có giận, nếu mà tôi giận thì mắt tai của tôi sẽ không ráp lại được, mà nếu tôi không giận thì mắt tai của tôi sẽ ráp lại được”. Thì từ đó tai ông, mắt ông nó sẽ ráp lại, nó lành y như cũ. Thì cái hiện tượng mà xảy ra như vậy có thật hay không?
Đây là những câu chuyện huyền thoại để nói rằng chúng ta sử dụng thần thông để nhiếp phục vị vua này. Rõ ràng lúc bấy giờ, đức Phật dùng thần thông để nhiếp phục, để làm cho vị vua này sợ hãi mà quy phục để quy y Phật, Pháp, Tăng. Thì cái này không đúng.
Nếu ông Phật Thích Ca mà dạy điều này là đem những thần thông, ảo thuật này mà gạt người ta để theo đạo mình. Thì như vậy là không đúng! Ông ta đến với đạo Phật là mục đích ông đến với đạo đức để mà được giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết. Chứ không có đến với mục đích là mai mốt người ta chặt tay, mình biến hóa nó lành lại; mai mốt người ta có móc mắt mình thì mắt mình nó lành lại; hoặc là có súng bắn, bắn rồi cái bắt đầu lành lại. Người ta làm vua mà, nếu mà có điều kiện nó hay như vậy thì người ta đi đánh giặc chứ gì? Súng bắn, dao đâm người ta không chết, thì người ta đánh, người ta giết biết bao nhiêu người không? Cho nên ông vua thì ổng ham thần thông đó chứ. Do đó, cái đó là một cái tai họa rất lớn chứ không phải là tốt đẹp cho con người trên hành tinh sống này đâu!
Cho nên những điều kiện mà đức Phật nhiếp phục cho nhà vua mà để trở thành đệ tử của mình; không ngờ ông vua này, ông thấy ông khoái thần thông đó quá, ông mới theo cầu Phật để dạy cho ông, dạy được ông về đi đánh giặc cho mà xem. Có ai bắn ông bị chết đâu? Có ai chặt đầu ông được đâu? Chặt cái đầu ông văng ra, cái ông nối lại liền. Như vậy rõ ràng là học theo pháp Phật để đi giết giặc chứ làm gì? Đó là cái sai!
Cho nên rất nhiều câu chuyện ở trong Phật giáo mà chúng ta xét ra thì nó không đúng Phật giáo. Người ta huyền thoại, người ta đặt điều ra những điều người ta ca ngợi không đúng cách. Người ta ca ngợi không đúng cách, tức là người ta phỉ báng Phật giáo.
Thì hôm nay, Thầy nói ra để thấy một sự thật hiển nhiên, để chúng ta thấy rất rõ ràng.
(17:38) Giới thứ năm: Là cấm không uống rượu. Giới cấm không uống rượu là Đức minh mẫn, sáng suốt. Vì tất cả những chất độc đó, nó sẽ đem đến làm cơ thể chúng ta bệnh tật, đau khổ! Và đồng thời nó say sưa, nó kích thích thần kinh, nó làm căng thẳng thần kinh chúng ta, cho nên nó gọi là hưng phấn. Cho nên người say rượu họ nói một lời, nói đi nói lại, lè nhè, lè nhè nói hoài. Nó làm cho cơ thể của họ bước tới một bước nó lui lại hai bước, đi tới ngã tới ngã lui, thì nó không còn vững vàng ở chỗ nào hết. Đó chúng ta đã thấy những người say rượu.
Và đồng thời họ không còn tỉnh táo cho nên họ về nhà họ chửi vợ, mắng con họ. Nó kích thích những cái gì bực tức ở trong lòng của họ đó, bắt đầu họ nhớ lại hết, rồi họ chửi vợ, chửi con họ. Rồi chòm xóm họ cái người nào mà làm cái gì họ bực tức, kích thích cơn giận nó làm cho họ bực tức lên. Họ lại nhà ông đó, họ uống ba chén rượu rồi họ chửi mắng người ta tan nát hết trơn, hết trọi. Đó là rượu nó độc đến mức độ như vậy. Nó làm cho chúng ta không còn tỉnh táo, không còn trở thành một người hiền lành, ôn hòa, có những lời nói nhẹ nhàng, ôn tồn.
Đó thì năm đức hạnh như trên Thầy đã nói: Đức hiếu sinh, Đức buông xả, Đức chung thủy, Đức thành thật và Đức minh mẫn. Năm cái đức này, nó xây dựng cho con người có một nền tảng đạo đức rất là đạo đức! Làm cho chúng ta sống hạnh phúc, an vui; làm cho chúng ta có một cuộc sống hài hòa với mọi sự sống khác. Chỉ có năm điều kiện này mà thôi. Nhưng mà hầu hết là khi mà chúng ta thọ năm giới rồi thì không phải bắt buộc chúng ta phải ngay liền bây giờ mà làm được. Bởi vì năm điều kiện, tức là năm cái đức hạnh này tuy vậy rất khó, chứ không phải dễ! Cho nên chúng ta cố gắng khắc phục, chế ngự mình để giữ gìn lần lượt sẽ đạt được.
Và hôm nay khi mà chúng ta chắp tay lên để xin thọ năm giới này, chúng ta cũng nên nói rõ ràng: “Con sẽ lần lượt, con sẽ khắc phục mình để giữ gìn trọn vẹn năm giới”. Chứ mình nói ờ: “Bây giờ tôi xin hứa tôi quy y thọ năm giới này”, thì chắc chắn là mình thọ mình không giữ trọn vẹn đâu. Cho nên vì vậy mình phải hứa, mình phải cố gắng mình tập; mình khắc phục, mình tập cho được năm giới này.
(19:56) Đó thì, hôm nay Thầy nói như vậy để thấy rằng chúng ta sẽ cố gắng mà khắc phục, khắc phục lần lần cho chúng ta hoàn toàn thanh tịnh được năm giới. Thì khi mà hoàn toàn thanh tịnh năm giới rồi thì quý Phật tử sẽ thấy mình sống được an ổn, rất là an ổn!
Cho nên, tuy rằng đạo Phật có những điều kiện đưa ra nói cấm, chứ sự thật ra đó là cái đức của chúng ta chứ không phải cấm chúng ta. Đạo Phật không bắt buộc ai hết, mình thấy có ích lợi cho mình thì mình hãy nỗ lực mình giữ gìn, mình tu tập, mình khắc phục mình, mình nhiếp phục tâm mình để giữ cho trọn vẹn, để cho mình được giải thoát, cho mình được hạnh phúc và an vui chân thật.
Chứ nhiều khi cuộc đời chúng ta tìm thấy hạnh phúc tưởng là nó thật, nhưng mà khi đến gần nó là một sự đau khổ chứ không hơn. Bản chất của cuộc đời là nó có nhiều đau khổ! Chúng ta đạt được cái gì mà chúng ta muốn thì nó đòi hỏi ở chúng ta phải biết bao nhiêu công sức, biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt, để rồi chúng ta mới đạt được. Nhiều khi đạt được mà trong tâm của chúng ta nó nơm nớp lo sợ, bởi vì trong đó nó có ác pháp, nó có gian xảo. Do đó, nó sợ ở tù, nó sợ người ta phát giác ra được những điều mình làm ra được cái này, mà trái lại nó có những sự gian xảo trong đó.
(21:10) Cho nên ở đây năm giới này, năm đức này nó kiềm giữ cho chúng ta, ra ngoài những nỗi đau khổ đó. Nó làm cho chúng ta thoát ra được sự đau khổ đó, cho nên nó không còn đau khổ nữa. Vậy Thầy mong quý Phật tử suy tư thấy nó là những lối sống, là một cái phương pháp sống tốt đẹp cho đời sống của mình, thì hãy chắp tay lên trước Phật xin thọ năm giới, xin thọ năm đức này. Các Phật tử chắp tay lên mà xin thọ năm giới.
Các con đảnh lễ xong rồi, ngồi xuống đi con. Ở đây Thầy sẽ trao cho mấy cái điệp phái quy y cho mấy con, sau này mỗi người Thầy có đặt một pháp danh, cố gắng mà giữ gìn cho trọn vẹn được những giới luật, những điều mà Phật đã dạy để đem lại sự an vui, hạnh phúc cho chính mình. Rồi có duyên lần lượt mình sẽ trả những nhân quả, rồi có duyên mình cố gắng mình tu tập kế tiếp. Và các con cũng nên nhớ rằng khi mình thọ Tam Quy – Ngũ Giới rồi, thì hàng tháng mình cố gắng mình dành ra một ngày mình thọ Bát Quan Trai. Mình học tám giới cho người cư sĩ, để mình sống được cái hạnh, để mình gieo cái duyên sau này nó trở thành người tu hành. Trong kiếp này nếu mà không được trở thành tu sĩ thì kiếp sau mình cũng còn cái duyên mình trở thành tu sĩ. Mà trong cái kiếp này nó đủ duyên, thì cái hoàn cảnh mình nó thuận tiện thì mình sẽ xin xuất gia. Mình sẽ xin vào một cái thất, mình nỗ lực mình sống đúng những phạm hạnh của người tu sĩ thì chắc chắn là con đường giải thoát nó sẽ đến trong kiếp này của chúng ta.
(22:55) Bây giờ Thầy trả lời cho một người đã gửi cho Thầy cái tập sách này. Về dự định của con ở trong bức thư này, Thầy thấy đó là điều rất đúng đắn, cố gắng thực hiện cái dự định đó, là báo hiếu cha mẹ của mình cho trọn vẹn. Và đồng thời có những điều gì trong sự tu tập theo “Đường Về Xứ Phật” trong giáo pháp Thầy đã dạy, gặp cái gì khó khăn, cái trạng thái tưởng nào đó thì hãy viết thư. Nếu mà gấp thì hãy gọi điện thoại vào, thì Thầy sẽ trả lời. Dù bất cứ nơi đâu, mà khi Thầy được cô Diệu Quang ở đây cho biết, Thầy sẵn sàng trả lời cho con. Cho nên yên tâm mà tu tập, yên tâm mà làm cho tròn bổn phận của một người con hiếu ở trong gia đình, để giúp đỡ cha mẹ trong lúc tuổi già. Như vậy là Thầy thấy rất là tiện lợi, cho nên hãy cố gắng mà nỗ lực tu tập!
(23:54) Còn đây là về phần có bức thư này của một người hỏi Thầy: Là về phần như con gà, con vịt mà kêu đi cắt cổ, thì có thể không có cắt cổ con gà, vịt. Nhưng mà vì làm nông nghiệp, cho nên sâu rầy bọ thì phải làm sao bây giờ? Muốn bảo vệ mùa màng để có hạt lúa ăn, muốn bảo vệ những cây cải cho mình có ăn thì mình phải dùng những thuốc độc để xịt sâu rầy bọ để bảo vệ được mùa màng, thực phẩm để cho mình có mà ăn. Vậy thì con sẽ dùng những thuốc độc đó để mà diệt sâu rầy, thì con có tội hay không đó?
Ở đây, Thầy xin trả lời chung cho thấy rằng. Bởi vì ở trong môi trường sống của chúng ta, nó có những sự ô nhiễm. Từ cái từ trường ô nhiễm đó nó hợp, nó hóa sanh ra các loài động vật mà độc hơn, dữ hơn để phá hoại mùa màng của chúng ta. Như hiện giờ, mà chúng ta trồng những cây lúa của ngày xưa thì chúng ta sẽ bị sâu rầy phá sạch, nó không thể nào chúng ta còn có hạt lúa mà ăn. Cho nên chúng ta phải có những loại lúa nó đề kháng, nó chống lại sâu rầy. Đó là cái thứ nhất.
Thứ hai là những thuốc để diệt những loại sâu rầy. Ở đây chúng ta phải công tâm, đứng ở trên nhân quả mà không thấy. Bởi vì những nhân quả này do từ con người và những loài vật, nó sẽ tạo ra cái từ trường ác đó, cho nên nó phải sản sinh ra những cái loài vật ác đó. Chẳng hạn, bây giờ chúng ta không phun những thuốc rầy độc thì nó làm sao trong không gian chúng ta có chất độc? Chúng ta ăn ở vệ sinh sạch sẽ, đừng có xả rác bừa bãi, đừng có để rác mục mưa gió nó ẩm, rồi nó bốc lên nó thành cái hơi độc nó làm ô nhiễm môi trường. Chúng ta giữ gìn vệ sinh thì môi trường của chúng ta trong sạch. Nó cũng đỡ đi.
Còn đằng này rác rến quăng tùm lum tà la, nào bọc ni lông, giấy gì đủ thứ; thứ dơ, thứ sạch gì cũng quăng. Đống rác lâu ngày, khô thì nó bay bụi; mà ẩm ướt thì nó ra cái chất nhớt, nó ngấm vào nước uống của chúng ta, nó làm cho ô nhiễm. Từ đó, cho nên hiện giờ chúng ta làm nông nghiệp, thì nó rất là khó khăn vì cái nạn sâu rầy. Và đất của chúng ta lâu ngày nó đã bạc màu, cho nên chúng ta phải bón nhiều loại phân, thậm chí như chúng ta còn bón những loại phân rất là ác độc, đó là phân cá, phân mắm. Nghĩa là người ta xuống sông người ta chài cá lên ăn không hết rồi, người ta đem bỏ cái loại đó rồi người ta ủ thành phân người ta đem bán, để làm cho súc vật ăn hoặc là để rải xuống cây để cho cây ăn. Cái tâm của chúng ta quá ác! Cho nên cái từ trường đó nó sinh ra.
(26:37) Bây giờ, chúng ta ngăn dừng những cái ác mà không giết sâu rầy, sâu rầy nó do cái ác, cái độc ác mà nó sinh ra những sâu rầy. Ngày xưa người ta làm ruộng nó ít, nó không có sâu rầy nhiều như bây giờ. Còn bây giờ nó quá nhiều! Cho nên nó diệt sự sống của chúng ta rất dễ dàng.
Do đó bây giờ chúng ta phải nhìn qua nhân quả, thứ nhất là chúng ta phải sống thiện, sống thiện trên cái mặt thiện như thế nào? Nghĩa là từ con người này đối xử với con người kia đừng có quá ác, đừng có bon chen mà chà đạp lên nhau trong sự sống, tranh với nhau mà giết nhau trong sự sống. Thứ nhất là chúng ta con người phải đối xử con người.
Cái thứ hai là những con vật lớn như gà, con vịt, con tôm, con cá thì chúng ta phải giảm bớt sự ăn thịt chúng đi, nó sẽ giảm bớt. Thì khi mà chúng ta giảm bớt đi thì cái loài mà phá hoại thực phẩm của chúng ta, nó sẽ bị giảm bớt liền. Vì chúng ta tăng cường cái sự ăn uống giống như vậy, thì nó tăng cường cái từ trường ác. Do đó những cái loài vật ác, thì nó phải có những từ trường độc. Cái từ trường độc đó, nó sẽ sinh ra những loài sâu độc, loài rầy độc nó kháng tất cả những cái loại thuốc độc. Cho nên từ đó nó phá hoại mùa màng của chúng ta rất dễ!
Do đó mà chúng ta càng tăng lên sự giết hại sâu, rầy, bọ bằng cái chất thuốc độc thì nó làm cái môi trường, và rau cải của chúng ta nó có những cái chất độc. Thành ra nó gây ra cho chúng ta nhiều đau khổ! Do cái sự ở, ăn đầu tiên của chúng ta là thiếu cái hành động thiện.
Vì vậy bây giờ chúng ta muốn bảo vệ, thì chúng ta phải thấy rằng loài sâu rầy này là do cái nhân của chúng ta làm ác mà nó sinh ra. Cái nhân làm ác của chúng ta mà nó sinh ra những cái loài vật này, cho nên nó phải trả nhân quả của nó, bằng cách để bây giờ chúng ta phun thuốc rầy vào những loài vật này, loài côn trùng này, nó sẽ bị giết nó chết đi, nó mới bảo vệ được mùa màng. Thì rõ ràng do từ hành động của chúng ta, từ cái chỗ chúng ta làm lưu xuất ra những hành động ác của chúng ta, mà tạo cho cái môi trường sống của chúng ta, cái gen này nó hợp lại thành ra những loài côn trùng độc.
(28:38) Từ đó chúng ta phải đi tìm nguyên nhân, chứ không phải là ngay đó mà chúng ta nói: “Ờ, bây giờ tôi không xịt thuốc rầy”. Mà mình không xịt thuốc rầy ngay liền bây giờ thì mình lấy cái gì mà sống nè? Gạo không có nè, thực phẩm không có nè, thì mình lấy gì mình sống nè?
Cho nên ngay từ bây giờ mặc dù tôi cái mặt này là tôi phải diệt những loài động vật ác này. Tại vì nó đến xâm chiếm đám lúa tôi, tôi trồng đám lúa chứ nó có trồng đâu mà nó lại ăn, đó là mình lý luận mà. Bây giờ nhà tôi như thế này mà người ta xách gươm, xách đao, xách súng đến, người ta cướp cái nhà tôi thì bắt buộc tôi phải chống lại hà.
Bây giờ đặt thành vấn đề như cái chùa của Thầy đây làm bằng tầm vông, trúc tre, mối nó lên nó ăn đi. Mà Thầy cất nhà chứ đâu phải tụi mối này nó cất lên mà nó ăn, phải không? Cho nên Thầy phải có sự bảo vệ chứ, cái tội của nó là tội ăn cướp, tội lại nhà người ta cướp nhà người ta.
Cho nên vì vậy mùa màng Thầy trồng, mình phải suy tư bằng chánh kiến của mình mà. Ví dụ như bây giờ con gà mình nuôi nó để mình ăn thịt, thì mình bắt nó mình ăn thịt. Mà trong lúc đó mình nói: “Nhân dưỡng vật, vật dưỡng nhân”, mình nuôi nó mình ăn thịt. Nhưng mà sự thật ra khi mình bắt con gà, mình thấy nó giãy giụa, nó đau đớn. Phải không? Nó có sự đau đớn!
Nhưng mà nó đâu có lại nó xâm chiếm, nó đâu có mượn mình nuôi nó đâu. Nhưng mình muốn ăn thịt nó, mình mới đi tìm, đi kiếm rồi mình mới đem về. Nó ở trong rừng ở đâu đó mình mới đem về mình thuần hóa, làm súc vật ở trong nhà của mình mình nuôi, để rồi mình muốn bắt hồi nào đó mình bắt, sự thật ra nó đâu có muốn ở trong nhà mình đâu, nó đâu có muốn mình nuôi. Mình phải hiểu, từ con gà rừng mình mới đem nó về mình mới lai giống làm cho nó trở thành con gà ăn thịt nhà của mình…
Từ con cá mà ở ngoài biển, ngoài sông thì mình đem nó vô trong hồ ao mình nuôi, mình cho nó ăn rồi bây giờ mình bắt nó làm thịt. Thì sự thật ra nó có muốn ở trong hồ ao mình không? Nó muốn ở ngoài biển, ngoài sông chứ! Đó là những điều kiện từ cái chỗ ác của mình mà mình phải thấy được hành động đó.
Và đồng thời, khi mà lương tâm của mình khi bắt một con cá thấy nó giãy giụa, khi cầm cây dao đập nó, nó đau đớn nó giãy giụa, con gà nó la, nó hét, nó kêu. Tất cả mọi con vật mình thấy trước sự đau đớn đó, thì mình xét mình thấy sự đau khổ, thì mình không nỡ ăn thịt nó, chứ nó làm sao mà chống lại mình được?!
Do tình cảm, suy nghĩ của mình, nó làm cho mình không nỡ tâm mà thôi. Người nào mà nỡ tâm ăn thịt chúng thì cứ ăn, không ai rầy, pháp luật đâu có bắt tội mình. Trừ ra mình cầm dao, mình giết người thì người ta bắt tội mình, chứ còn mình giết con gà không ai bắt tội mình hết. Nhưng vì lương tâm của chúng ta thấy sự đau khổ đó. Và suy tư lại mình mình có sự đau khổ, bởi vì mình nuốt miếng thịt đau khổ đó chắc chắn là vài hôm mình cũng gặp sự đau khổ, bệnh tật hoặc tai nạn nó đến với mình.
(31:29) Còn những cái loài côn trùng mà phá hoại là như hồi nãy Thầy nói, là từ môi trường ác nghiệp của chúng ta, do cái sự ác nghiệp của chúng ta mà thải ra những từ trường; cái môi trường sống của chúng ta, nó ô nhiễm, nó thành những bầu không khí rất độc hại! Do đó nó mới hợp duyên, nó sinh ra những loài côn trùng nhiều như vậy.
Do đó, bây giờ muốn bảo vệ sự sống của chúng ta, buộc lòng chúng ta phải cầm bình xịt thuốc rầy chúng ta diệt chúng, nhưng tâm chúng ta bồi hồi nghĩ rằng mình phải cố gắng mình sống thiện, để cho bầu không khí của mình, cái môi trường của mình càng ngày nó càng thiện hơn, nó không sinh loài độc dữ này. Vì vậy mà cái tâm nguyện của chúng ta nó quyết định. Tuy rằng bây giờ bảo vệ mùa màng cho sự sống mình hiện tại, nhưng cái tâm nguyện của mình rất thiện. Từ đó cái môi trường sống của mình nó sẽ sinh ra những thứ thiện, do đó những loài côn trùng này tự nhiên nó không còn nữa. Nó không còn nữa, chứ ngay liền bây giờ mà chúng ta ngưng không thèm xịt nó thì ruộng lúa chúng ta không còn một hạt mà ăn. Bây giờ chúng ta vẫn giữ gìn để bảo vệ mùa màng của chúng ta, coi như nó là bọn ăn cướp, nó đến cướp giật của mình, do đó mình bảo vệ, chứ mình không đi tìm lại ngay nó mà mình diệt.
Do đó, mình có tư duy suy nghĩ để làm cho tâm mình nó không có hối hận, nó không có khổ đau. Vì vậy cho nên từ đây về sau mỗi lần mình thấy một con rầy, một con sâu mà nó bị chết nó cũng giãy giụa, nó cũng đau khổ thật, nhưng mà vì sự sống của mình không lẽ là mình phải dừng bước cho nó ăn thì lấy gì mà sống, cho nên diệt nó.
(32:58) Cho nên từ đây về sau, mình đừng có giận dữ, mình đừng có làm những điều ác, mình đừng có chửi mắng người ta. Những cái lời nói này, nó sẽ thành ra cái môi trường sống khắc nghiệt, sanh ra những cái loài độc dữ này. Mình phải hiểu biết nguyên nhân của nó từ đâu mà sinh ra cái loài này.
Cho nên từ đó mình cố gắng, mình khắc phục. Nghĩa là thiên thời, địa lợi hay hoặc mưa thuận, gió hòa đều là do sự sống của chúng ta chứ không phải thiên nhiên tự nhiên nó thuận hòa được, mà mình sống hiền lành, sống an ổn. Cho nên ngày xưa chúng ta nghe lịch sử Trung Hoa nói trong thời vua Nghiêu Thuấn: “Lấy đức trị dân, cho nên mưa thuận gió hòa”. Phải không?
Mình nói, bây giờ mình không có thấy đạo đức được, mình không biết đạo đức như thế nào mà nhà vua trị. Còn bây giờ đúng là pháp luật người ta có đặt ra, nhưng mà tại sao mọi người vẫn vi phạm không chịu nghe lời? Cũng như bảo rằng: Bây giờ lái xe phải cẩn thận, phải có bằng cấp, bằng giấy đàng hoàng. Mà mình thì chưa có giấy gì cũng chạy đại; rồi có giấy phép lái xe được rồi, chạy lại chạy quá tốc độ nữa, gây ra biết bao nhiêu sự tai nạn đó. Mà mỗi lần mình làm sai như vậy, từ trường của mình lại phóng ra những cái ác đó, chứ đâu phải khi không mà nó có được.
Cho nên môi trường sống của chúng ta trong bầu không gian này nó thải ra biết bao nhiêu cái ác. Do đó bây giờ chúng ta gánh chịu là do mình làm, chứ đâu phải là trời nào làm hay đất nào làm đâu. Mà chính mình!
(34:29) Đó thì các con thấy, bây giờ trả lời câu này thì ngay giờ mùa màng phải giữ gìn, phải phun thuốc rầy, không có ngại. Nhưng mà điều kiện là từ đây về sau chúng ta sống đối xử nhau và chúng ta biết chia sẻ nhau từng hạt cơm manh áo, chúng ta biết thương yêu nhau, đừng dùng lời nói mắng chửi nhau, thì lần lượt cái loài côn trùng mà phá hoại mùa màng này sẽ không còn có nữa.
Thầy bảo đảm với các con cứ sống đi, nghĩa là mình mà sống biết thương nhau, biết đùm bọc lẫn nhau, đừng có chà đạp lên nhau vì miếng ăn, manh áo; đừng có vì tiền bạc mà phải sống cuộc sống biết thương mọi người với nhau, thương mình thương người, thì mưa sẽ thuận, gió sẽ hòa, sâu rầy sẽ không còn có nữa. Đó thì nhớ những lời Thầy nói mà làm đúng đi!
Cho nên chúng ta thấy bây giờ khoa học nhiều, chế ra những cái loại diệt côn trùng nhiều, mà bây giờ côn trùng lại nhiều hơn, phá hoại mùa màng của chúng ta lại cay nghiệt hơn, làm cho mùa màng của chúng ta rất khó khăn mà thành tựu!
Bây giờ Thầy trả lời cho người hỏi câu này. Còn ở đây có mấy câu hỏi lận, nó rất nhiều. Mà bây giờ mấy con phải về sớm, phải không? Hay là để Thầy trả lời hết? Để Thầy trả lời hết, phải không?
(35:49) Câu hỏi 1: Kính xin Thầy giảng cho con hai câu hỏi. Làm thế nào để tâm chúng con hằng được an trú mọi lúc mọi nơi? Phải chăng là chúng con phải luôn luôn giữ hạnh thanh tịnh; làm chủ thân, khẩu, ý; sống ly dục ly ác pháp; luôn hài lòng trong mọi hoàn cảnh; biết thiểu dục tri túc; phải dùng pháp hướng tâm để được ly dục ly ác pháp, hoàn toàn tăng trưởng thiện pháp?
Trưởng lão: Nghĩa là câu hỏi như thế này: Bây giờ muốn cho tâm mình an trú được mọi lúc mọi nơi thì phải tu tập những pháp như trên. Như vậy rõ ràng nói ở đây là lý thuyết chứ không phải trong thực hành. Nghĩa là nói: “Phải chăng, là chúng con phải luôn luôn giữ gìn hạnh thanh tịnh?”. Ai lại cũng muốn giữ gìn hạnh thanh tịnh, nhưng mà giữ như thế nào? Làm sao giữ gìn? Đó là cái thứ nhất. Bởi vì dựa vào đâu mà giữ được hạnh thanh tịnh? Mình nói suông chứ mình không biết cách thức giữ.
Bây giờ muốn dựa vào hạnh thanh tịnh của mình phải sống đúng giới luật, nó có cái tiêu chuẩn để chúng ta biết mà chúng ta dựa nó mới thanh tịnh chứ. Bây giờ nói sống thanh thịnh, giữ giới hạnh thanh tịnh thì mình phải dựa vào giới nào mà thanh tịnh? Do đó thì mình phải dựa vào giới cấm của Phật, mình giữ gìn thanh tịnh.
Làm chủ thân, khẩu, ý, sống ly dục. Làm chủ thân, khẩu, ý như thế nào?
Đó bây giờ mình phải hiểu cái gì mà làm chủ? Ví dụ như bây giờ mình phải thân, khẩu, ý; về cái ý của mình thì mình phải hiểu nó như thế nào? Mình hiểu tất cả những sự kiện xảy ra trong xã hội này, trên mọi sự việc trong cuộc sống của chúng ta, nó đều là nhân quả. Đó là hiểu nhân quả. Rồi mỗi tâm niệm thương yêu qua cái ý của mình khỏi ra, thì làm chủ cái ý của mình mà. Do đó thì mình phải hiểu nó, những cái tình cảm thương yêu của mình nó thuộc về kiết sử. Bình thường nó không có gì hết nhưng mình hiểu rằng nó sẽ có ngũ triền cái tham, sân, si, mạn, nghi nó ở trong tâm của chúng ta.
(37:59) Do đó, chúng ta phải hiểu khi mà nó hiện ra nó là kiết sử, mà nó chưa hiện ra thì chúng ta biết rằng tâm còn tham, sân, si chứ chưa phải hết. Đó là chúng ta phải dựa vào những phương pháp để mà tu tập.
Vậy thì muốn cho nhuần nhuyễn để cho pháp hướng tâm, thì luôn luôn lúc nào chúng ta cũng phải là dùng pháp hướng tâm. Tức là dựa vào những lời Thầy dạy trong bộ “Đường Về Xứ Phật” mà chúng ta nỗ lực thực hiện thì chúng ta mới an trú được mọi lúc mọi nơi, nơi đâu chúng ta cũng sẽ an trú.
Nhưng mà muốn an trú thì chúng ta phải có phương pháp an trú chứ không phải nói suông được. Vì vậy mà đức Phật dạy chúng ta an trú trên thân như thế nào? Như hồi nãy Thầy nói: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”, đó là an trú thân.
Còn an trú tâm như thế nào? “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô. An tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”, đó là an trú tâm. Như vậy là chúng ta biết những cái phương pháp như vậy thì chúng ta mới ly dục, ly ác pháp. Chúng ta mới sử dụng tập nó, thì nó mới nhuần nhuyễn, sử dụng nó mới dễ dàng.
Đó là câu hỏi thì đầu tiên, Thầy đưa ra một số pháp. Thầy biết rằng rút ngắn gọn, nhưng mà ngầm ở trong đó là phải có pháp thực hành, chứ nếu không có pháp thực hành thì chúng ta không làm được.
(39:18) Câu hỏi 2: “Đường Về Xứ Phật” Thầy có dạy: Người tu muốn chứng đắc phải biết vì mọi người?
Trưởng lão: Ở đây chữ “vì mọi người” nó rộng rãi lắm mấy con. Cho nên vì vậy mà cái đầu tiên mà Thiền căn bản là dạy: “Nhẫn Nhục, Tùy Thuận, Bằng Lòng”. Thì “nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng” chúng ta phải nằm trong phương pháp đạo đức nhân bản - nhân quả, thì chúng ta mới “nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng”. Cho nên vì vậy, cái danh từ “vì mọi người” thật sự ra, chưa ai vì mọi người được. Cho nên mình muốn vì được mọi người thì tức là “nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng” đó gọi là “vì mọi người”.
Cho nên câu hỏi này thì phải tu pháp Thiền căn bản, thì chúng ta mới đạt được danh từ nói là “vì mọi người”.
Đây là hai câu hỏi. Ở đây còn ba câu hỏi nữa, Thầy sẽ trả lời luôn ba câu hỏi.
(40:15) Câu hỏi 3: Kính thưa Thầy! Có một vị sư bảo rằng: “Nghiệp thành hình là phải có đủ ba điều kiện thân, khẩu, ý tác động thì mới tạo thành nghiệp, còn nếu thiếu một trong ba nơi ấy tác động thì không tạo thành nghiệp. Thưa Thầy, vị sư ấy nói như vậy có đúng không? Chúng con mong Thầy từ bi chỉ dạy?
Trưởng lão: Chúng ta thấy như thế này: Nhân thì phải có quả. Bởi vì nói về nghiệp thì phải có nhân có quả nó mới thành nghiệp, chứ còn có nhân không thì quả không thành nghiệp. Nhưng cái nhân nó ở chỗ nào? Cái nhân nó là ở trong ý. Lấy ví dụ để chúng ta dễ hiểu.
Chúng ta thấy có người đó họ dựng cái xe ở bờ rào, tâm chúng ta khởi cái lòng muốn ra ăn cắp cái xe này chạy. Nhưng mà cái ý chúng ta khởi chứ chúng ta ngồi đây chúng ta chưa có đi, có phải là cái nhân không?
Bắt đầu bây giờ cái nhân nó thúc đẩy, cái ông này bây giờ thấy ông đi riết ở ngoài kia xa quá rồi, mà coi bộ ông không có để ý cái xe ổng. Dòm cứ theo dõi ổng coi coi, mình dòm coi coi thấy không có ai hết, không có thấy cảnh sát nữa, như vậy là có cái dịp tốt quá!
Bắt đầu bây giờ nó thúc đẩy, cái anh này đứng dậy bước đi, thì hành động đứng dậy bước đi, nó tới thân hành rồi đó. Hồi nãy ý rồi phải không? Bây giờ tới cái thân hành rồi. Bắt đầu đó, ảnh mới lại gần cái xe, ảnh dòm tới dòm lui, mà cái mắt dáo dác của anh, ảnh cũng sợ chứ đâu phải không, sợ người ta bắt được, người ta đánh! Cho nên vì vậy cái gian thì nó phải có cái mất bình tĩnh rồi, chứ không phải không. Nhưng mà không ai để ý thì ảnh đẩy chiếc xe, ảnh đem về của ảnh, tức là ảnh đẩy ảnh lấy luôn. Thì tới cái quả rồi.
(42:03) Nhưng mà đùng cái, cái ông kia ổng thấy được cái xe tôi để đó mà có người… Ổng ở đằng kia ổng la làng, ở đây bao nhiêu người chạy xúm bắt anh này. Thì cái quả này phải chịu. Phải không? Cái quả! Cho nên chúng bắt đánh quá trời quá đất, rồi đem gửi công an bỏ tù nữa! Thì đó là cái quả chứ gì.
Nhân hồi nãy ở trong bụng ngồi nói, ở trong ý mình khởi nghĩ, thấy cái xe để đó. Thấy cái xe cũng đẹp, mình ước ao cái xe quá! Do đó cho nên bây giờ nó phải lần tới cái hành động, phải không? Hành động mà đi, cái quả. Bởi vì thân, khẩu, ý mà. Thân là hành động thân của mình chứ gì. Thì nó đã thành cái quả rồi.
Bây giờ, Thầy nói như thế này thêm cái ví dụ nữa để thấy, để thấy cái nhân quả.
Về cái miệng của mình nó cũng thành cái quả. Nó có hai nơi quả mà, chỉ có một cái chỗ ý, một cái chỗ là nhân mà thôi. Thấy không, nhân nó chưa thành quả. Nhưng cái nhân mà không khéo giữ gìn, thì từ cái nhân nó sanh ra cái quả mấy con. Một người tham mà cứ mỗi ngày mình nghĩ mình tham, mà mình chưa làm. Nhưng mà ngày nào cũng nghĩ tham, tới chừng nó thúc đẩy mình tới thế nào cũng đi ăn cắp, ăn trộm người ta hà.
(43:08) Cũng như, đây bây giờ Thầy nói cho thấy rõ hơn. Bây giờ hàng ngày mình: “Tôi ngày ăn một bữa cơm thôi, tôi giữ gìn giới”. Mà bữa nay có người đem cái miếng bánh để đó, trời ơi! Muốn ăn quá. Bây giờ, ngăn nó: “Mày không được ăn à”, nhắc vậy, nhưng mà thấy cái bánh nó thèm quá, nó cứ nó thèm hoài. Thì cái ý của mình ở trong bụng nó muốn ăn chứ gì, là ý của mình nó thèm chứ gì? Nhưng mà cái tay không dám rớ đâu, rớ nó sợ phạm, bỏ miệng ăn là phạm chứ gì, chưa dám ăn đâu. Nhưng mà nó cứ thúc đẩy hoài, bữa nào cũng thấy cái bánh nó thèm quá, nó thúc đẩy: “Mình giờ coi không có ai hết, kệ nó lén ăn một chút chắc không phạm tội đâu”. Nhưng mà không ngờ thò cái tay bỏ vô miệng ăn thấy nó ngon quá, thôi làm luôn hết cái bánh chứ. Mới bỏ miệng ăn, chu cha! Nghe nó ngon quá, cái làm luôn hết cái bánh. Từ đó nó mới phạm tới cái quả. Do nó quen rồi, thì bắt đầu bây giờ nó thấy cái gì nó thèm cái nó làm đại, mà nó quên dòm chừng như lúc đầu. Cho nên vì vậy mà người ta bắt được: “Ờ, ông Thầy này ăn như vậy là phi thời”, có đúng không? Rõ ràng!
Thì bắt đầu bây giờ ông ăn phi thời rồi, ổng tính cách nào mà để cho người ta đừng có nói. Ông chế ra, ông nói Phật dạy: “Buổi sáng chư Thiên ăn”, phải không? Rõ ràng là cái giới ổng chế ra mà. “Buổi sáng chư Thiên ăn, buổi trưa thì Phật ăn, chiều chúng sinh ăn, ngạ quỷ ăn ban đêm”, ông chế ra phải không?
(44:38) Do đó ông thấy: “Ờ, chư Thiên ăn buổi sáng cũng còn được, sáng tôi uống bột đồ”. Bắt đầu ổng thấy mình chư Thiên. Rồi ông chế ra nữa, ổng chế ra nữa trưa ăn ngọ, thì ăn ngọ là Phật ăn. Rồi bây giờ buổi chiều còn chúng sanh mà. được mà đâu có gì! Rồi bây giờ sợ có không ăn đêm thôi. Cho nên phần nhiều tu sĩ mình là ít có ăn đêm. Nhưng mà giờ họ lại đi luôn ăn đêm luôn, có mì gói cũng làm thêm mấy gói. Thì như vậy rõ ràng từ cái chỗ sai phạm này, lén ăn rồi chế cái giới này để che đậy Phật tử chứ gì? Nhưng rốt cuộc rồi, người ta cũng phát giác ra được.
Đó là Thầy nói bẻ vụn giới, một giới mà ông bẻ ra nhiều phần như vậy đó, thì nó là bẻ vụn giới. Cho nên nghe Thầy nói: “Phạm giới, bẻ vụn giới”. Mấy con không biết cái giới làm sao mà bẻ vụn nó ra? Tức là bẻ vụn như vậy đó, đó là bẻ vụn.
(45:25) Đó thì những cái đó là những cái sai. Cho nên câu nói của vị sư này nói là đúng. Ba nơi là Thân, Khẩu, Ý nó là trở thành một cái nghiệp. Mà nếu chỉ có nhân không thì nó chưa nghiệp. Nhưng mà cái nhân đó nó cứ thúc đẩy hoài, cái nhân mà nếu mình không ngăn chặn được cái nhân thì cái nhân nó sẽ trở thành cái quả của nó, tức là cái hành động của chúng ta chi phối rồi, miệng hoặc là thân của mình làm.
Bây giờ nó tới cái miệng có hai phần, một phần nói, nó cũng thành nghiệp.
Ví dụ như người ta chửi mình mình chửi lại thì nó thành một cái nghiệp lớn rồi. Còn mình làm thinh không chửi lại thì nghiệp nó nhỏ hơn. Người ta chửi hơi đã người ta về, không chửi nữa. Còn giờ mình chửi hơi cái họ xách cây lại đánh mình, mình lật đật mình vô nhà xách rựa chém họ. Thì hai bên lát có đi ở tù với nằm nhà thương, nó càng lớn hơn. Đó là nhân với quả nó chồng lên. Cho nên, phải hiểu được nhân quả. Cho nên vị sư này nói đúng!
Bởi vì ba nơi mà, nó mới thành nghiệp. Chứ mà nếu một nơi thì nó không thành nghiệp. Nhưng mà có thể nó hai nơi nó cũng thành nghiệp chứ không phải là nói nó phải đúng ba nơi. Bởi vì cái ông này rõ ràng ông đâu có nói gì, ông ra ông đẩy xe rồi người ta bắt ông thôi. Rõ ràng là cái hành động thân với cái ý của ông thôi, phải không? Đâu có hành động khẩu, mà cũng thành nghiệp đó. Bị chúng bắt ổng.
Còn cái hành động khẩu, bây giờ cái ông này ổng đâu có đi lấy, ổng ngồi đây ổng thấy người ta để cái bánh đó, rồi ổng thọt tay ổng lấy thì cũng thân. Bây giờ tới cái ổng ăn vô là cái nghiệp khẩu rồi. Giờ ba cái ổng đủ ổng cũng thành cái quả. Thành ra nó thành thói quen, người ta bắt được người ta thấy ông này phạm giới.
(46:58) Cái danh từ không biết ai viết cái tờ này? Cái người nào viết cái tờ này? Cái chữ “Ẩn tâm”.
Câu hỏi 4: Ở đây viết chữ “Ẩn tâm” , nghĩa là mình tránh né, mình trốn. Không biết đó là tâm gì?
Trưởng lão: Nghĩa là khi người ta chửi mắng mình, rồi mình “ẩn tâm” tức là mình tránh đi, mình đừng nghe. Người ta chửi gì đó mình bít lỗ tai lại, mình đừng có nghe. Có nghĩa là nói mình đừng có nghe lời người ta chửi, mà khi không nghe lời người ta chửi thì cái tâm mình nó không có buồn giận. Ý của “ẩn tâm” có nghĩa là ý như vậy.
Mình chẳng biết là nó nói cái gì đó, nhưng ngay liền đó thì hết phiền não. Tức là người ta chửi mà mình không nghe thì đâu có phiền não, như mình đâu có nghe. Cũng như người ta ở nhà người ta chửi, mình ở đây mình đâu có nghe thành ra mình đâu phiền não. Đó là mình sẽ không có buồn khổ.
(47:48) Hỏi: Chúng con kính mong Thầy chỉ dạy cho chúng con biết: Chúng con có thể giữ tâm đó tu tập được hay không?
Trưởng lão: Thật sự ra tu tập không phải vậy! Nghĩa là trực tiếp rồi phải nghe mà tâm bất động thì nó mới đúng. Nghĩa là không có nghe thì nó bất động là cái chuyện đó là cái chuyện mà không đúng con. Thì cũng như cái người không biết nó làm sao nó có giận hờn? Cho nên cái chuyện này gọi là cách thức của mình là tránh né.
Ví dụ như: Nghe ông chồng mình chửi quá, chạy lại hàng xóm, không thèm nghe nữa. Bây giờ ông chửi mình mới nghe mấy tiếng đó thôi, sau đó mình không nghe nữa, ông nói gì nói đã thôi. Mình về không thấy buồn giận nữa, tức là mình không có nghe nữa. Thì như vậy là mình tránh né, mình trốn chạy.
Còn đối với đạo Phật, trực tiếp ngay vào sự kiện nhưng mà mình giữ được tâm bất động thì đó là cái đúng. Coi như là mình đương đầu với ác pháp mà mình xả nó ra, chứ mình không có trốn chạy. Còn cái kia tránh né trốn chạy.
(48:44) Câu hỏi 5: Kính thưa Thầy! Cư sĩ chúng con muốn thờ Phật, có vị bảo rằng rước thầy tụng kinh an vị Phật rồi mới thờ. Và như vậy mới đúng pháp.
Trưởng lão: Thật sự ra thì, ở trong kinh sách thì có dạy những bài kinh mà để an vị Phật, tụng để mà an vị một vị Phật, thờ đó.
Sự thật ra, Phật ở đây mình muốn thờ thì mình thỉnh một cái tượng Phật, cái hình, hay hoặc cái tượng mình đem về, mình đặt trên bàn, quét sạch. Rồi mình chưng một cái dĩa trái cây hoặc là trang nghiêm được bàn thờ của mình như thế nào mà gọi là thanh tịnh. Thì lúc bấy giờ, mình chắp tay lại, mình hoàn thiện: “Hôm nay con xin thỉnh đức Phật về nhà con, để hàng ngày con chiêm ngưỡng hình ảnh của đức Phật, hiểu qua được cái giáo lý của Ngài, để thực hiện lòng thương yêu của con, những thiện pháp. Con quyết định khi thấy tượng Phật là con không làm điều ác. Con mong đức Phật chứng minh cho con”. Thì có như vậy là mình để thờ rồi.
Còn người ta tụng niệm cuối cùng người ta an vị. Mình không biết người ta an vị kiểu nào, mà tụng ó é một hơi ổng xách mỏ ổng về mất, mà giờ mình cũng thờ cũng vậy. Thì như vậy là có nghĩa lý gì đâu?!
Tốt hơn hết là mình để ông Phật lên, rồi mình trang nghiêm cái bàn thờ Phật mình sao cho trang nghiêm. Rồi bắt đầu mình chắp tay mình cúng không thắp hương nữa. Bởi vì đức Phật dạy mình năm cây hương mà, chứ đâu phải bảo mình đốt cây hương vỏ cây đâu, cho nên mình không có thắp hương. Nhưng mình chắp tay lên, mình xin ước nguyện: “Con xin thỉnh tượng Phật về để hàng ngày con chiêm ngưỡng, đi ra đi vào con thấy hình ảnh Phật là một hình ảnh của thiện pháp, để con noi theo mà con sống trong thiện pháp, tạo cho con được sự an vui và hạnh phúc”. Thì mình chắp tay như vậy, mình hoàn thiện như vậy. Xong rồi thì mình để đó, hàng ngày mình đi ra đi vô mình thấy hình ảnh Phật là mình nhớ không làm điều ác. Thì điều đó là điều quá tốt cho mình chứ có gì đâu! Cái đó là an vị, chứ đâu phải là đem ông Phật về đó ổng phù hộ cho mình sao?! Mà chính mình phải sống thiện pháp chứ gì, như cái lời ước nguyện của mình, mới là đúng nghĩa. Cho nên an vị Phật là an vị như vậy, chứ an vị cách nào?
(50:56) Thật sự ra là an vị các con biết, phải tụng chú đồ, Lăng Nghiêm đồ đàng hoàng chứ đâu phải mà chuyện chơi đâu. Thầy thấy sự thật ra người ta phải tụng chú để mà an vị đức Phật. Rồi còn khai quang điểm nhãn nữa, trời! Cái tượng đó nó có con mắt mà nó không thấy, cho nên mới cầm ba cây nhang mới quậy quậy trong con mắt, nó nói nó khai cho con mắt thấy. Rồi nó quay cái lỗ tai để cho cái lỗ tai cái tượng đó nghe nữa. Thôi thôi! Thầy thấy mấy ông thầy đó làm cái như vậy đó mà…
Cho nên, hồi đó Thầy cũng có học làm cái điều đó, Thầy cũng biết chứ không phải là không biết đâu. Nhưng mà bây giờ Thầy thấy, nó bằng xi măng, bằng đất sét ông nội Thầy tới ngoáy nó cũng không nghe nữa, chứ đừng nói quậy ở ngoài. Không, nói thật mà! Đâu có cái tượng nào mà nó nghe đâu! Cho nên vì vậy mình làm vậy là cái hình ảnh, hình thức của mình kêu là khai quang điểm nhãn, làm cho mắt thấy, tai nghe. Đó là những cái nó trừu tượng, những cái mơ hồ lắm!
Cho nên ở đây Thầy trả lời lại mấy con, thứ nhất là cái tượng Phật rất đẹp! Trông cái vẻ mặt hiền từ thì các con cứ đem về, mấy con thờ ở trong nhà mấy con. Nhất là đức Phật Thích Ca, nó đúng cách hơn. Vì những ông Phật khác thì nó không đúng cách. Bởi vì những ông Phật khác nó không có thật. Cũng như cha mẹ mình có thật, chết mình mới thờ chứ, phải không? Còn mình không có cha mẹ, mà giờ thờ nói đây là cha mẹ thì ai tin được?! Mình đâu có cha mẹ đâu!
Còn thật sự mình có cha mẹ mình mất, mình thờ là đúng. Còn bây giờ có ông Phật thật, mình thờ ông Phật đó thật. Thì ông Phật Thích Ca là người duy nhất, chúng ta thấy xứng đáng mà chúng ta thờ.
Đó hôm nay các con nghe chưa? Bây giờ còn ai hỏi Thầy gì nữa không, hay là sửa soạn về?
Hết rồi! Bây giờ Thầy trả lời hết những câu hỏi rồi.
Còn gì nữa không? Mấy con còn hỏi gì Thầy nữa?
(52:54) Phật tử: Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Kính bạch thầy! Hôm nay chúng con đủ duyên lành được về Tu viện Chơn Như, được biết mấy tháng gần đây Thầy đã ẩn bóng, không tiếp khách. Nhưng đầu năm Thầy đã từ bi vì chúng con mà giảng thời pháp quý giá, và làm lễ truyền Tam quy cho quý Phật tử về đây. Thì con xin thay mặt cho quý sư, quý cô, quý Phật tử, xin chân thành cảm niệm ân đức của Thầy. Và chúng con xin mong mỏi Thầy luôn luôn trụ thế, để giúp cho chúng con cái phước trên con đường tu học giải thoát.
Và con cũng xin được chuyển lời của một số Phật tử tại Úc, nhất là sư Tuệ Tĩnh, năm nay sư tuổi cao không về cùng con và chuyển lời về thăm Thầy cùng đại chúng ở Tu Viện Chơn Như. Sư rất tiếc! Là sức khỏe kém, năm nay không thể về được, vì sức khỏe không cho đi xa. Sư cũng có mong mỏi là Thầy luôn trụ thế. Với tâm nguyện của sư Tuệ Tĩnh là mong muốn làm sao đủ duyên để về Việt Nam tu, gần Thầy, gần đại chúng, có lợi lạc hơn. Và nhóm tu học Nguyên Thủy I tại Mỹ cũng có tâm nguyện như chúng con là luôn luôn mong Thầy trụ thế để dìu dắt cho chúng con tu học. Cũng như cô Út Diệu Quang là một vị tuy với hình tướng cư sĩ, nhưng rất nhiệt tình chăm sóc lo cho đại chúng về đây tu học, cũng như tất cả các Phật tử xa gần với nhu cầu cần thiết, cô lúc nào cũng đáp ứng.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật! chúng con xin chân thành đảnh lễ ân sư ba lễ.
Trưởng lão: Con xá Thầy thôi con…!
(56:24) Rồi bây giờ mấy con xá Thầy, mấy con đi ra, chuẩn bị đi rồi lát nữa mấy con về. Rồi có dịp nào về thăm Thầy nữa. Coi vậy chứ Thầy ẩn bóng mà Thầy chưa có tịch. Sau khi Thầy tịch rồi thì kiếm Thầy không được. Nhưng mà có đệ tử của Thầy tu xong mấy con, chứ Thầy không có bỏ mấy con đâu. Đã là chấn chỉnh lại Phật giáo mà mình đi ngang như thế này thì Phật giáo sẽ mất sao? Nó chưa xong mà. Cho nên, việc làm nó còn nhiều lắm, còn nhiều vấn đề lắm, cho nên Thầy chưa bỏ đi đâu.
Các con về ráng tu tập, ráng giữ gìn đức hạnh, mấy con sống đúng đạo đức. Thầy cảm ơn con! Ráng mấy con, ráng về nhớ tu tập những lời Thầy dạy.
HẾT BĂNG.
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 21/04/2003
(00:03) Trưởng lão: Trong cái vấn đề mà tu tập đó thì các con cần lưu ý nó có 2 phần, sự tu tập. Một phần tâm, và một phần thân.
Nếu mà tâm mà chưa có xả đó thì thân mình nó xả không có được sâu. Tại sao, Thầy muốn nói xả cái thân là như thế này.
Cái tâm của chúng ta nó phiền não, nó giận hờn. Mà nó chướng ngại, nó thấy cái gì nó chấp cái nấy, nó dính mắc thì đó gọi là tâm.
Còn cái phần thân là nó bệnh, nó nhức chỗ này, nó đau chỗ kia. Mà nếu mà cái tâm mà mình xả không được đó, thì cái thân cũng không xả được lắm đâu. Các con hiểu không?
Cho nên đức Phật dạy: Sanh, Già, Bệnh, Chết. Sanh là trước, sanh là cái đời sống của cái tâm của mình, mình dễ phiền não, cái đó thuộc về cái tâm.
Còn cái thân của mình thì nó thuộc về phần cảm thọ của thân thì nó thuộc về thân.
Cho nên trong con đường của đạo Phật, Bát Chánh Đạo đó, thì chúng ta thấy rằng từ cái Chánh Kiến cho đến Chánh Tinh Tấn đó thì đức Phật dạy chúng ta đó là chúng ta xả tâm. Xả cái tâm của mình. Cho nên cái người mà luôn luôn sống ở trong cái cuộc sống mà tu hành để được giải thoát đó, thì luôn luôn đôi mắt người ta nhìn bằng nhân quả. Cho nên người ta thấy thiện chứ không thấy ác.
Hễ mình khởi cái niệm ác, thì tức là mình đã tự giết mình rồi, mình tự làm mình khổ. Tức là mình có chướng ngại mình mới thấy ác, còn mình không chướng ngại là không thấy ác. Đó là mình xả cái tâm.
Cho nên thường thường cái câu mà tác ý trong sách Thầy viết “ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT” đó, tác ý tâm của mình nó, các con tự hỏi tâm mình nó được như cục đất chưa?
Cho nên vì vậy mà mình còn phạm nhiều lắm. Mà trong khi tu đó, ở cái môi trường này tu là cái môi trường các con biết rằng nó thử thách. Nó thử thách, chứ không phải môi trường mà gọi là mình tu mà nó để cho mình bình thường, để im lặng cho mình tu, mình tu cái im lặng mình tu cái gì?
Ở trong cái hoàn cảnh nó nghịch, nó làm cho mình có những cái chướng ngại tâm để coi thử coi mình xả được cái tâm không?
Chứ không khéo mình tu suốt rồi mình cũng ờ, hàng ngày nó yên tịnh mình cứ ngồi thiền, rồi đi kinh hành đó là thuộc về cái phần thân. Còn cái phần tâm thì mình không lo xả. Hễ có một cái gì chướng lên thì bắt đầu đó. Nhưng mà không ngờ là cái môi trường tu là cái môi trường thử thách.
Cho nên nhiều khi chuyện mình không có làm người ta nói mình, để cho cái sự đó để coi thử mình có xả được tâm không? Gọi là oan ức đó, cái điều oan ức đó. Còn ở ngoài đời thì tôi oan ức tôi không xả, tôi không có làm chuyện đó, mà nói tôi như vậy thì không được, nó khác. Còn ở đây là môi trường rèn luyện. Nhiều khi mình không có, nhiều khi cái chuyện đó người ta làm coi thử coi mình xả được không. Đó là cái thử thách để xem coi mình có xả cái tâm đó không?.
Nếu mình không xả thì mình đi rời khỏi, hoặc là người ta thấy rằng mình tu mà không chịu xả tâm, thì dù mình có tu cách gì đó bây giờ nó cũng không tới đâu. Mà mình xả tâm được thì bắt đầu mình mới đi vào Thiền Định được.
(02:54) Cho nên do vì vậy mà các con thấy rằng tu tập của đạo Phật rất là khó! Nói thì dễ, nhưng mà khi mà gặp người ta thử thách một cái là mình bật ngửa ra liền. Chịu không nỗi!
Cho nên ở đây các con đọc cái cuốn Thiền Căn Bản đó. Mà cô Út ở đây mà cô đập biết bao nhiêu người. Trở thành người ta thù oán cô ghê gớm lắm chứ đâu phải, cô đập tan nát hết. Cô, có cô cũng nói mà không cô cũng nói, cô nói đủ thứ cách. Nghĩa là nói cho người ta lộn gan lên. Mà coi cái người đó có lộn gan được không? Bởi vì Phật mà còn lộn gan thì đâu Phật được! Các con thấy chưa. Mấy con phải biết sự thử thách cô Út ghê gớm lắm.
Vì vậy mà cái Tu Viện này nó không đông, chứ cỡ mà không có cô Út thử thách thì người ta ở biết bao nhiêu? Rồi cơm ăn, áo mặc thì ở đây làm sao cho cho nó hết?
Rồi người ta ở, người ta tu không tới nơi thì cũng như mấy chùa kia vậy. Hai ba trăm người, thì thật sự ra có ích lợi gì? Chỉ mất công mà thôi.
Cho nên người ta nghiệm, người ta nghiệm thấy từ cái bắt đầu vào tu. Bây giờ trong Tu Viện chúng ta, cuối cùng chúng ta xét được mấy người? Về cái phẩm hạnh mà gọi là tu tập, thì được mấy người, người ta xét hết.
Thầy thì Thầy cũng không nói ai hết. Ai tu sao cũng được. Bởi vì tu giải thoát thì mấy con nhờ, chứ Thầy có nhờ đâu. Thầy thì chỉ có phương pháp thôi. Còn đập thì không đập ai hết.
Còn tất cả những dồn lại cái cực khổ là của cô Út. Cho nên cô đập, đập cho người ta tu không được người ta về. Để làm gì?
Để cho mình đỡ cực, chứ không khéo mình cứ phải thức khuya, dậy sớm nấu cơm. Phải đi chợ, phải lo giải quyết Chính Quyền yên ổn cho mấy con ở. Phải không? Chứ mấy con vô đây mấy con có làm gì đâu, không khéo người ta phạt cô Út rồi người ta phạt mấy con phải đóng tiền. Mà bây giờ mấy con vô đây không có tiền, thì cô Út phải bỏ tiền ra đóng. Bao nhiêu cái sự mà nặng nhọc thì cô Út gánh hết.
Còn Thầy thì không có, khuyến khích thôi, nhẹ nhàng nói thôi, khuyên để mấy con ráng tu thôi. Nhưng mấy con có nghe, không nghe thì mấy con chịu. Mà sự thật ra cái lời nói của Thầy, mấy con rất là kính phục cái lời nói của Thầy, nhưng mà cách mấy con làm chưa đúng lời nói Thầy, làm không đúng. Cho nên vì làm không đúng cho nên vì vậy mà tu hoài không được gì.
Thật sự ra cuộc đời Thầy, Thầy chỉ mong rằng tìm được một người tu chứng quả A La Hán làm chủ cho Thầy. Không đông, đông quá cực! Mấy con hỏi linh tinh đủ thứ, mà không hỏi ngay cái chỗ mình tu tập, cái chỗ mình tu tập, mà hỏi linh tinh đủ thứ.
Bây giờ thí dụ như bây giờ mấy con tập Định Niệm Hơi Thở hay Thân Hành Niệm thì mấy con ôm cái pháp đó tu gặp cái gì hỏi ngay cái đó hà, nó nhanh chóng, nó mau!
Mà trong khi đó mấy con hỏi phần nhiều là mấy con hỏi về những cái pháp tu, tu cho cái thân của mình không hà. Chứ còn không hỏi tu cho cái tâm của mình, không hỏi.
Nghe nói ly dục, ly ác pháp, diệt ngã, xả tâm. Thì ly dục là ly cái gì? Ly dục là ly dục cái tâm, cái tâm của mình hay dục.
Còn ly ác pháp là ác pháp là cái gì? Cái tâm phiền não nó cũng là ác pháp. Rồi cái thân đau bệnh nó cũng là ác pháp.
(05:53) Đó, thì tất cả những cái này, cái giai đoạn đầu tiên như hồi nãy Thầy nói đó là mình phải lo mình xả cái tâm trước đã. Bây giờ cái tâm nó thích nói chuyện, thì mình xả cái nói chuyện đó đi. Rồi cái tâm mà nó còn buồn bực, nó còn cô đơn, nó còn như thế nào, nó còn những cái niệm như thế nào mình quán xét những cái đó mình xả đi. Đó là giai đoạn tu thuộc về tâm.
Cho nên thấy những cái gì mà các con thấy cái gì mà chướng ngại pháp. Mà thấy cái tâm mình xả không được, thì hỏi Thầy, Thầy giúp cho xả.
Đây, bây giờ Thầy nói như cô Nguyên Trí tu thì cô tu đi kinh hành hoặc hay là ngồi thiền đó, thì cô tu cũng khá đó chứ, nhưng mà về cái tâm thì không khá. Tại sao vậy? Tại khi nó có chuyện thì cái tâm cô chới với, rồi bắt đầu nó khổ sở, nó làm cho cô đủ thứ chuyện ở trong tâm cô. Nhưng mà cái tâm mà nó không giải quyết được đó thì cái thân mình không giải quyết được đâu, như hồi nãy Thầy nói đó, nó không giải quyết. Cái tâm mình bất động, cái thân nó sẽ giải quyết được hết.
Đó, thì các con thấy, thì phải hiểu biết trong cái sự xả tâm của mình rất quan trọng. Cho nên nó tới 6 cái nẻo của Bát Chánh Đạo mà thực hiện được cái tâm.
Còn cái Chánh Niệm với cái Chánh Định nó có 2 cái thôi, nó có 2 cái nẻo thôi. Thì thật sự thiền định nó không khó. Mà nó khó là khó ở cái chỗ cái tâm, khó ở chỗ cái tâm của chúng ta. Chứ thân chúng ta coi vậy chứ nó đau, nó bệnh hoặc nó chết nó không khó, nó có 2 cái nẻo để mà thực hiện được cái đau, chết đó.
Còn sáu cái nẻo đầu tiên đó để thực hiện cho được cái tâm, cái tâm bất động. Mình phải thấy được cái Đạo Đế là cái Chơn Lý mà, một cái chơn lý không thể ai có thể thêm thắt trên cái phương pháp này thêm cái gì được hết. Chỉ ở trên đó mà thực hiện được giải thoát cho mình mà thôi.
Cho nên nó khó nhất là tất cả những cái điều kiện mà chung quanh mình nó xảy ra những cái gì đó hoàn toàn là mình phải thấy nó trong thiện pháp, tức là nhân quả, không được thấy là ác.
Mà khi mình ở trong Tu Viện thì mình phải thấy rằng đó là một sự thử thách. Như cô Út rầy mấy con này, kia, nọ, đó là một sự thử thách, thử thách nhẹ hoặc là thử thách mạnh, hoặc là thử thách càng gay gắt hơn. Để thấy biết được cái từng lớp của tâm mình xả nhiều hay ít.
Cho nên có nhiều người mà Thầy nói cũng như sư Thiện hoặc là sư Phước Từ. Cô Út nói, ra nói vầy: “Tôi nấu cơm cho mấy ông ăn, mà mấy ông không tu, mấy ông đi nói chuyện. Tôi nấu cơm cho mấy ông ăn rất uổng”. Chỉ nói bao nhiêu thôi. Mà sư Từ cứ ấm ức ở trong bụng hoài. Cho nên cuối cùng sư phải quẩy gói ra đi. Tức là không chịu xả tâm chứ gì, đó thì các con thấy tí đó thôi.
Còn sư Thiện thì không biết cô Út cô làm gì một trận đó. Rồi ông nói: “Tôi thấy tôi mát lạnh, tôi không nói gì nữa hết, tôi không có giận”. Nhưng mà cuối cùng lại đi.
(09:11) Thì rõ ràng là cô Út cô trắc nghiệm, đúng là cô ấy trắc nghiệm để xem thấy người ta tu thật hay là người tu giả. Người ta có quyết tâm tu hay là người ta chỉ ngoài hình thức thôi, chứ nội tâm người ta nó động thì người ta cứ để động. Cuối cùng, thì cô thấy như vậy thì cũng đỡ cho mình chứ có gì đâu. Bởi vì không lo tu cái tâm mà, lo cái tiến tu tức là ngồi thiền đi kinh hành cho nhiều mà cái tâm không chịu xả. Nó quan trọng lắm mấy con, cái sự đó nó trọng!
Bởi vì đức Phật nói: “Giới sanh Định”. Mà cái tâm mà chúng ta nó xả được, nó là Giới. Giới, mà Giới là nó thiện pháp chứ gì. Cho nên nó làm cho cái tâm của chúng ta không có đau khổ.
Nhưng mà chúng ta thấy cái này, bởi vì mục đích của Thầy ở đây là không cầu danh, cầu lợi. Mấy con nhớ Thầy nói thường xuyên là đức Phật đã dạy: “Khi có danh, có lợi thì ẩn bóng”. Tức là không chấp nhận nó.
Nhưng mà vì nó có một cái duyên, cho nên vì vậy mà không có nỡ mà bỏ mấy con chứ sự thật ra thì đầu tiên mà chưa tu mà nhìn thấy Thầy nói sự sanh tử, không phải dễ độ đâu!
Tâm muôn mặt, họ nói một lẽ, họ ham thì đúng họ ham muốn giải thoát, nhưng mà họ không giải thoát, họ cứ chất chứa trong lòng của họ những điều không ra gì hết. Nhất cuộc đời họ, nó vô thường vậy, bữa nay thì vầy chứ ngày mai chết họ không có biết. Nhưng mà họ cứ chất chứa những cái điều quá tầm thường họ không chịu xả tâm.
Cho nên trong Tu Viện, nó có nhiều cái điều mà mấy con không có ngờ được. Ở ngoài đời nói thiệt ra, thật sự những cái chùa khác người ta không có làm những cái điều này đâu. Thí dụ như bây giờ cô Út cô cho chó, mèo ăn vậy đó là cũng thử thách mấy người đó, “trời, chùa gì mà lấy cơm, lấy gạo của đàn na, thí chủ nuôi vậy”. Không…(không nghe rõ).
Đó là những cái thử thách cho mấy con chứ không phải những cái không thử thách đâu. Nó cũng có nhiều người chứ đâu phải, nhiều người họ đến đây họ cũng nói nhiều lắm. Thật sự ra đối với Thầy đó, người nào mà đến đây mà chướng ngại là sự giải thoát là Thầy đã giải thoát, Thầy làm chủ Thầy biết sự làm chủ của Thầy rồi. Thì bây giờ có người nào theo Thầy thì cũng được, mà không theo Thầy thì cũng đâu có ăn thua gì đối với Thầy, Thầy đã làm chủ rồi.
Theo Thầy mà nỗ lực tu đúng như lời Thầy dạy thì lợi ích cho mấy người, chứ không phải lợi ích cho Thầy. Mà cái khổ đau nhất là dồn lại cho cô Út chịu hết. Thầy không đi trình Chính Quyền, Thầy không lo Nhà Nước. Cái này, cái kia có gì đi nữa cô Út cũng chịu gánh hết tất cả mọi cái, sự ăn uống. Nếu mà ăn cực quá thì cũng có cách vậy chửi mắng cô Út. Mà ăn dơ thì cũng chửi mắng cô Út. Cái gì cũng đổ lên đầu cô Út. Nhưng mà cô Út cô không có phiền hà trong vấn đề đó. Chỉ có thử thách, thử thách bằng cách này, bằng cách khác.
(12:01) Cho nên vì vậy đó, thì Thầy nói như thế này để biết. Vì vậy cho nên, khi mà Thầy Chơn Thành thấy cái điều đó thầy không nói, nếu không thì người ta sẽ oán, người ta sẽ hại cho mình rất là tai hại, người ta có thể bỏ thuốc độc cho mình không ăn cơm. Có người nào ăn uống mà chết đó thì chắc chắn là Nhà Nước nó sẽ làm việc ở đây à, nó không tha đâu.
Cho nên nhờ cô Liễu Tâm, Thầy Chơn Thành có gọi điện thoại nhờ cô Liễu Tâm mua cái chiếc đũa để mà thử chất độc. Nhưng mà Thầy nói về nhân quả, nếu quả chăng có cái điều như vậy thì chúng ta vui vẻ mà đi ở tù còn sướng hơn, khỏi mắc công nấu cơm. Đi cải tạo chứ gì. Còn bây giờ nếu mà mình còn bình thường như thế này đó, thì mình phải cực khổ, có gì đâu mà sợ. Cho nên vì vậy mà cô Liễu Tâm có gửi đôi đũa, đầu tiên thì có gửi một chiếc, những cái đũa mà nó không thật. Sau này đó gửi một đôi vào, thì những chiếc đó thử những chất độc là nó đen liền. Nó báo liền cho biết liền. Đúng là Thầy, nhưng mà có thấy cô Út xách thử đâu.
Bởi vì Thầy nói, nếu mà nhân quả đến thì mình đã nhìn nhân quả rồi thì mình đâu có làm cái điều này đâu. Nhưng mà đặc nói là nói vậy thôi chứ sự thật ra, vì vậy mà ăn thua mình, nếu mà cái người nào mà tới số họ bỏ chết cái ông Thầy nào đó, ông đó ông về Niết Bàn sớm không sao. Còn mình chịu khó ở đây mình trả nhân quả thì mình lại khỏe. Người ta bắt mình cải tạo, vô đó học tập. Tôi không làm vậy, nhưng mà có điều kiện là nó xảy ra vậy tôi chẳng biết sao hết.
Thì bắt đầu bây giờ mấy ông nghĩ sao, cứ bỏ tù tôi đi. Thôi thì tôi cứ chịu thôi, có sao. Năm tháng hay một năm, hai năm cũng được. Đó là một vấn đề, đặt thành cái vấn đề.
Cho nên vì vậy ở đây đã có chuẩn bị tinh thần hẳn hòi hết. Không có còn lo lắng gì hết. Tất cả những sự kiện mà xảy ra, tất cả những cái gì ở đây đã chuẩn bị. Khi mà Thầy đã biết rằng Đại thừa và Thiền Đông Độ không đúng, đã có chuẩn bị tinh thần hết. Bởi vì mình là một đốm lửa đứng trước một cái bể nước thì mình phải chuẩn bị những cái điều xảy ra cho chính mình để tinh thần của mình nó buông xả, nó như đất. Nên nó vẫn được an ổn. Bởi vì đạo Phật nhắm vào cái đối tượng khó khăn. Mà tâm mình như đất tức là giải thoát. Cho nên hoàn cảnh nào cũng như đất hết thì đó là giải thoát.
Cho nên mà khi mà các con mà vào đây tu tập, Thầy muốn rèn luyện cho mấy con trở thành tâm như đất thật sự. Thấy, đất thì nó thấy biết, nhưng mà chúng ta là những con người có trí tuệ, có sự hiểu biết, thấy biết nhưng tâm như đất, không có động. Thì như vậy mới thật sự là tu.
Do đó cái sự tu tập sau kế đó thì chúng ta mới tu thiền định, thì cái thiền định thì nó không khó đâu mấy con. Thứ nhất là phải nhiếp phục được tâm. Thứ hai là an trú được cái tâm mình trong cái đối tượng. Tức là trong cái niệm của nó. Mà cái niệm thì đức Phật đã nói: Tứ Niệm Xứ, bốn cái nơi để mà niệm. Do đó thì cái Thân Hành Niệm là nó trở thành một bài pháp để chúng ta lấy cái động ở trong thân chúng ta mà làm cái niệm. Nó có sẵn để mà chúng ta lấy đó mà làm cái niệm.
Cho nên nó rất là cụ thể rõ ràng. Do như vậy mà khi chúng ta thực hiện về thiền định đó, thì chúng ta đã có cái hành động của thân, như hơi thở hoặc là bước đi, hoặc là tay chân co ra, co vô. Tất cả những hành động đó gọi là Thân Hành Niệm.
Thì chúng ta sẽ an trú trong cái niệm đó, an trú trong cái thân hành đó thôi. Chứ chúng ta có tu, có làm cái gì mới đâu, có sáng tạo cái mới ở cái chỗ nào đâu. Cho nên chúng ta chỉ có cách thức là dẫn cái tâm của mình, dẫn cái thân của mình cho nó an trú ở trong đó. Mà khi mà nó an trú được rồi thì cái thân này nó có đau, có nhức, có khổ sở thì chúng ta chỉ dùng cái ý thức tác ý là chúng ta đuổi nó đi được.
Đó thì như vậy đó rõ ràng là cái phương pháp mà để chúng ta làm chủ được bệnh khổ thì đó nó có hẳn hòi rồi. Nó không có khó khăn đâu.
(15:54) Còn cái phương pháp mà làm chủ cái tâm đó thì bắt buộc chúng ta phải Chánh Tư Duy. Mọi sự kiện xảy ra đều là chúng ta phải có Chánh Tư Duy. Nếu tà tư duy là có chướng ngại ở trong thân, tâm của chúng ta. Mà Chánh Tư Duy là hoàn toàn cởi mở, cho nên chúng ta thoát ra vòng nhân quả. Bởi vì cái luật nhân quả nó là cái quy luật tự nhiên của vũ trụ. Cái luật nhân quả mà nó không ai mà chế tạo nó. Nhưng mà cái sự vận hành của nó, nó nằm ở trong cái quy luật tự nhiên.
Cho nên gió thổi cũng là quy luật tự nhiên. Bão tố hoặc mưa gió nó là cái quy luật tự nhiên, nó có sự hoạt động vậy gọi là nhân quả.
Đó cho nên vì vậy mà khi mà có cái loài người xuất hiện thì người ta phân định được cái nhân quả đó, thiện với ác. Tại sao người ta biết nó thiện hay ác?
Hễ nó làm có cái sự đau khổ, làm cho có sự chết chóc thì nó là ác. Mà nó làm cho có sự bình an, nó làm không có sự chết chóc đó thì nó là thiện. Chỉ có loài người mới phân định được thiện với ác. Còn tất cả các loài vật khác thì không có phân định.
Bây giờ mà trước khi mà cái môi trường ở trên hành tinh chúng ta chưa phải là hành tinh sống. Nó còn là đất đá. Nhưng mà nó có cái sự vận hành của trong không gian này. Vì nó không vận hành làm sao được? Nếu nó không vận hành thì tất cả cái không gian này toàn tất cả hành tinh đều là nó hoại. Tức là nó đảo lộn hết, nó không có đi theo cái quỹ đạo của nó. Thí dụ như bây giờ trái đất nó phải đi theo cái quỹ đạo của cái mặt trời. Phải không, các con thấy không?
Mà cái mặt trăng nó phải đi theo cái quỹ đạo của trái đất. Chứ nó đi trật một cái là nó đổ lộn nhào hết, ở trên này thì kể như là chúng ta cũng lộn đầu chúng ta hết đó. Nó là cái luật nhân quả nó như vậy, cái luật của nó nhân quả trong cái hành của nó như vậy. Cho nên nó không bao giờ nó đi trật cái trật tự của nó đâu.
Mà một cái hệ Thái Dương hệ chúng ta nó có nhiều sao và mặt Trời và mặt Trăng nó như thế này, trái đất của chúng ta như thế này. Mà ở cái hệ Thái Dương hệ của chúng ta nó đảo lộn một cái, thì bao nhiêu Thái Dương hệ khác nó cũng đảo lộn. Nó có sự quân bình của không gian chứ, mấy con tu đi rồi thì mấy con dùng cái tâm của mấy con mà quan sát vũ trụ mấy con sẽ thấy cái sự vận hành của quy luật nhân quả. Nó không riêng gì ở trên trái đất của chúng ta đâu.
(18:08) Đó, cho nên vì vậy đó, khi mà còn trên cái hành tinh chết. Tức là không có đất đá, không có loài vật gì hết. Một cơn gió bão nó có thể xô một cục đá hoặc là làm cho cát bay. Tất cả những cái vật dụng này đó nó có thể bồi đắp lên, nó làm thiện hoặc là ác. Hai cục đá nó va chạm nhau, nó làm cho hai cục đá đó nó bị mẻ sờn đi thì đó là ác. Mà nó làm cho những cục đá này đổ lên một nơi êm ấm và những cục đá này nằm yên ổn thì đó là thiện. Trong khi đó chưa ai phân định gì là nó là môi trường chết.
Chẳng hạn bây giờ khoa học chứng minh cho chúng ta biết rằng người ta khám nghiệm trên mặt Trăng, người ta biết rằng trên đó là môi trường chết, không có sống. Nhưng mà Thầy xác định rằng có thể một triệu hoặc triệu triệu năm sau ở trên đó sẽ có loài vật ở trên đó sao. Bởi vì sự vận hành trên đó, khi mà nó vận hành thì nó tăng lên những cái từ trường nó tăng lên cái duyên của nó. Mà khi nó đủ duyên nó rồi, thì nó sẽ xuất hiện loài động vật.
Ngày xưa trái đất chúng ta cũng đâu có mà cái cây cỏ mọc như thế này, đâu có con người ở. Nhưng mà hằng triệu triệu năm sau, thì cái sự vận hành đó nó đủ duyên, nó hợp lại. Cho nên nó mới có loài vật, có cỏ cây đó. Từ đó nó lần lượt nó sanh ra, cho đến khi loài người ra mặt thì mới biết phân định nó là luật nhân quả. Mà rành nhất là đức Phật Thích Ca mới phân định nó được luật nhân quả, và xác định nó ở trong kinh Pháp cú: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành”. Có phải đúng không?
Cho nên vì vậy mà đức Phật Thích Ca còn xác định cho chúng ta bài pháp tu tập Định Tư Cụ của chúng ta đó là Tứ Chánh Cần. “Ngăn ác diệt ác, Sanh thiện tăng trưởng thiện”, để làm gì?
Để quân bình cả một cái vũ trụ. Nếu mà chúng ta thực hiện được thiện pháp từ trường chúng ta thải ra thì nó quân bình vũ trụ, nó đem lại hạnh phúc cho muôn vật. Không những riêng hành tinh chúng ta, mà còn bao nhiêu hành tinh khác.
Các con thấy, mình làm ở đây mà cả bao nhiêu hành tinh khác hưởng lợi, thế mà mình không làm. Luôn luôn lúc nào cũng hờn, cũng giận thì nó thải ra ba cái thứ này thì nó đảo lộn thiên hạ hết còn gì? Có đúng không, Thầy nói có đúng không?
Chính vì mình, mình thải ra những cái ác pháp mà mình phải gánh chịu những hậu quả thiên tai, lũ lụt. Mà thiên tai lũ lụt làm cho chúng ta đau khổ, làm cho con người trong hành tinh này đau khổ. Thì mấy con thấy rằng bây giờ con người chúng ta nó có thể chế bom nguyên tử, nó chế những cái loại vũ khí rất độc. Có thể nó làm cho hành tinh chúng ta bị tan vỡ. Những cái tư tưởng, những cái ác pháp tham vọng như vậy đó. Mà cở sức nó làm cho hành tinh chúng ta hoại diệt. Thì nó không những mặt Trăng, mặt Trời, tất cả mọi cái trên cái trật tự của cái luật nhân quả này nó đảo lộn hết. Thì tất cả những cái này nó đều rơi rụng hết, nó không còn cái trật tự như thế này nữa.
Cho nên do vì vậy mà những cái như đạo Phật ra đời. Thì vốn là cũng đưa chúng ta, để mà chúng ta sống trong thiện pháp. Sống trong thiện pháp thì chúng ta không bao giờ có thấy ác pháp. Cho nên vì vậy mà tâm chúng ta như đất. Không có thấy nghịch mà thấy thuận. Vì vậy mà muốn dạy chúng ta bởi vì cái này là chúng ta làm được chứ không phải không làm được.
Làm được là tại vì chúng ta thấy rõ ràng, từ cái chỗ suy nghĩ của chúng ta hiểu rõ ràng. Như người khác chửi, thì mình nghĩ người này tội quá, họ vì sân hận, họ tức nên họ mới chửi mình. Do mình hiểu được như vậy thì mình đâu có ghét họ.
Thấy một cái người đó bây giờ họ chưa biết Phật pháp, họ ăn thịt chúng sanh, họ giết hại chúng sanh thì mình cũng thương họ. Bởi vì họ chưa biết cho nên họ mới làm cái điều đó. Cho nên những người này thật đáng thương. Còn mình may mắn thì mình biết hơn thì mình giữ gìn.
(22:14) Rồi bắt đầu thí dụ như bây giờ đặt thành vấn đề. Như cô Út nấu cơm, canh gì đó, có một con sâu rớt trong đó. Vô tình mà, bỏ rau có con sâu chết trong đó chứ gì. Như vậy là nói cô Út làm dơ hay này kia, như vậy là sai. Bởi vì mình phải hiểu rằng trong khi làm mọi người ăn đông như thế này, thì cái việc sơ sót này thì nó có thôi, không thể nào không. Rất tội cho cô Út, bởi vì làm quá nhiều, không thể nào làm kỹ được.
Trong khi đó đó mình lại bỏ cái tô này ra. Bây giờ đặt thành vấn đề, có một cái xương cá nào đó rớt trong đó. Phải không? Trong khi, bao giờ người ta cũng nghĩ rằng người ta làm trong sạch cho mình chứ, cho mình ăn chứ người ta đâu muốn làm dơ cho mình ăn. Nhưng mà nó rớt cái xương cá trong đó. Thì bắt đầu bây giờ nói mấy người nhà bếp này làm dơ. Phải không?.
Rồi hoặc là mình mới nghĩ thế này, thế khác. Do đó khi mình nghĩ cái người ta làm dơ, hoặc là mình nghĩ người ta kiếm thêm những điều thiện pháp, thì cái tâm mình, đầu tiên thì cái tâm mình động trước, mình có giải thoát không? Không có giải thoát. Có phải không, con thấy không? Mình chưa có giải thoát. Vì vậy mà khi đó mình phải nghĩ cái công lao của người ta. Mình đến đây mình có nấu bữa cơm nào cho người ta ăn không? Mình có phục vụ người ta cái gì không? Mà người ta làm mỗi lần có hở, trái một chút là mình tìm cách người ta. Chứ mình không biết thương người ta.
Cho nên người ta chửi mình, mà mình còn khởi mình còn thương được. Còn cái này người ta không chửi mình thì ít ra thì mình cũng nghĩ: “Ờ, cái này, cái sự sơ sót hay như thế nào”. Mình nghĩ làm sao luôn luôn Thầy nói, trong đạo Phật nó dạy mình Chánh Tư Duy là nghĩ làm sao nghĩ tốt, chứ đừng nghĩ xấu ai hết. Thì lúc bây giờ nó mới có được cái tâm mình giải thoát. Chứ còn mình nghĩ, chỉ nghĩ cần cái xấu một chút xíu thôi thì đủ mình đã bất an rồi.
Mà sự bất an thì chắc chắn là mấy con không muốn rồi. Bởi vì không muốn bất an cho nên mình đến Tu Viện mình tu. Chứ mình muốn bất an thì mình ở ngoài đời, chứ ai vào Tu Viện tu làm gì? Mà Tu Viện vốn mục đích để dạy cho mình tu để an. Nhưng mà nó phải có những cái chướng ngại pháp chứ làm sao không có chướng ngại pháp. Bây giờ không có thì người ta cũng tạo nữa.
Bây giờ thí dụ như cô Út biết tánh con là như vậy. Mai mốt cô Út mua một cái đùi gà bỏ trong tô canh con. “Trời ơi! Cô Út sao cô cho tui ăn?”. Bắt đầu từ đó mình không nói ra, không gì hết chứ trong bụng dạ cứ nghe ấm ức, ấm ức hoài. Tu hành làm cái gì?
Do đó nó có làm khổ mấy con không? Nhưng mà trên cái đó mấy con phải biết tư duy quán xét. Thứ nhất mình quán: “Cô Út thì không cố ý làm vậy, nhưng mà cô thử mình coi như thế nào”. Phải không? Mình phải đặt nhiều góc độ. Bởi vì ở trong Tu Viện chứ đâu phải ngoài đời người ta nấu thịt, cá cho mình ăn đâu. Thế mà bây giờ nó có như vậy, thì mình phải đặt câu hỏi. Để cho mình thấy được cái sự tu tập của mình chứ không phải gì.
Thầy muốn nói để mà xả cái tâm. Mà nếu cái tâm mình xả được thì những cái phương pháp kế đó mình mới tu được. Chứ còn nếu mà cái tâm mình không xả được thì nó không thanh tịnh thì những phương pháp khác mình không tu được.
(25:40) Thì Thầy nói ở đây cũng như sư cô Phương Uyên, cô cũng nhiều trận bị cô Út chứ đâu phải một trận. Đó là cô già rồi đó. Bây giờ hỏi cô Nguyên Thanh, rồi mấy cô nè, cô nào cũng bị thiếu điều muốn lạy hết đó. Mà nếu mà mấy cô cứ chấp mà cứ bỏ đi như vậy là chuyện đó thì cô Út đâu có màng, người nào muốn đi đi chứ cô đâu có cần.
Thầy nói ở đây, cái người nào mà không bị cô Út đó, thì Thầy nói người đó là cái ông Phật ở đâu trên trời xuống rồi mới không bị, chứ còn phàm phu chúng ta đều bị hết. Thì Thầy nói ở đây không có sót người nào đâu.
Đó còn cô cảnh thì bị đòn nhừ thôi. Phải không mấy con, Thầy nói coi có không? Thầy nói như vậy thì mấy con biết không có người nào mà sót hết hà. Đây là một cái thử thách tất cả mọi cái để mà chúng ta thấy xả tâm hay là không xả tâm.
Mà vấn đề quan trọng, cho nên cái cuốn Thiền Căn Bản Thầy thường nhắc đó, để mấy con thấy một người tu sĩ phải tu luyện mình ở trong cái lò lửa. Cho nên hoa Sen nó nở trong lò lửa chứ không thể nở ở ngoài bùn đâu. Người ta có thể rằng, người ta phải khóc, phải tức tối, phải đủ cách hết. Nếu mà không có Thầy đó thì kể như là không ai mà chịu nổi hết.
Đó thì các con phải hiểu trong cái vấn đề tu tập ở đây nó rắc rối ghê gớm lắm! Bởi vì nó không có cần, mà nó chỉ cần con người giải thoát chứ nó không có cần đông. Mà nó không cần danh, không cần lợi, không cần tiền, không cần bạc gì hết. Có cũng vậy, không có cũng vậy.
(26:58) Các con cứ thấy người ta có nhiều tiền thật sự, người ta bảo cô Út tùy thuận đi. Đây Thầy nói như vầy nè, cái cô bữa đó, cái cô gì đó, cô gì có tiền lắm, nhiều lắm. Cho nên cái cô Kim Tiên nói: “cô Út tùy thuận cổ đi”. Cô Út xạc liền chứ cô không có tùy thuận, cô không có cần tiền đâu, cô nói thật sự đi thì đi chứ cô không có nói có tiền là để cô dung dưỡng ở đây đâu. Cho nên ở đây một bữa, hai bữa là phải quẩy gói rời khỏi thôi. Mà lên đây muốn gặp Thầy thì cũng khó khăn lắm. Chớ không phải dễ!
Cho nên Thầy thấy thật sự ra ở đây là cái thử thách thật sự, để đem lại một con người thật sự làm gương hạnh sau này để xây dựng lại Phật giáo. Còn nếu không thì mặc, có giải thoát được thì mấy người nhờ, không được mấy người chịu. Cho nên nó cả một vấn đề khó, khó lắm!
Bởi vì Thầy nói người mà xả tâm hoàn toàn thì mới đạt được quả A La Hán, bởi vì Vô Lậu mà. Còn mình còn lậu hoặc mà mình ngồi thiền để mà nhập định thì chắc là định này không biết gì nữa rồi. Cho nên phải hoàn toàn Vô Lậu, cho nên tâm nó bất động, bất động thật bất động hoàn toàn.
Đó thì hôm nay Thầy nói, cái đầu tiên mà mấy con còn bền chí, còn cố gắng. Là thứ nhất mấy con cứ nghĩ rằng Thầy, mấy con bám. Chứ còn theo cô Út một ngày chắc mấy con phải biết là, nhưng mà chính cô Út là cái người giúp mấy con xả tâm nhiều nhất.
Chứ còn đối với Thầy thì, cái con người của Thầy là con người rất tùy thuận. Cho nên Thầy rất ngọt ngào, Thầy rất an ủi. Mấy con bị cô Út đập, mấy con bị cô Út làm gì thì Thầy an ủi mấy con thôi. Dù như thế nào mấy con hễ Thầy, thí dụ như mấy con một người mà đến đây mà sáng 7 giờ có mặt thì Thầy cũng tìm mọi cách ra Thầy gặp để giải quyết cái tâm mấy con đang cần một cái gì. Mặc dù là cái tâm của con cần mà nói cần tìm hiểu một từ thôi, chỉ từ để mà hiểu trong kinh sách thí dụ như: Vô Lậu, Hữu Lậu, Dục Lậu như thế nào mà nó không hiểu. Thầy biết cái đó nó không có nhằm nhò gì cái chỗ mà mấy con tu, nhưng mà mấy con rắc rối chưa hiểu, thấu hiểu. Mà chắc chắn là chỉ có Thầy mới giải thích được cái điều hiểu này. Bởi vậy cho nên mấy con mới cần gặp Thầy. Vì Thầy biết rằng bây giờ đã không hiểu thì nó phải đi tìm hiểu. Mà không tìm hiểu được thì nó cứ rắc rối trong bụng mình hoài ngồi tu cũng không được. Cho nên chỉ có Thầy mới cởi mở được cái này cho nên Thầy lần lượt Thầy cũng ra Thầy cởi mở cho mấy con hết, Thầy không có để cho mấy con cái gì mà âm thầm, rắc rối trong bụng hết. Để chi các con biết không? Về đặng mình nhiếp ở trong hơi thở, mình đi kinh hành cho nó yên ổn. Chứ nếu còn mà không hiểu các con cứ hơi cái nó lòi cái đó ra đó. Cái nghĩa nó cái gì. Các con hiểu chưa?
(29:53) Cho nên Thầy rất là thông cảm mấy con, dù là cực khổ như thế nào Thầy cũng đến. Trừ ra mấy con không có mặt đây thôi, thì thôi. Mà hễ có thì có Thầy đến, Thầy nói thật sự mà phải có, hễ mấy con cứ ngồi chờ Thầy đi, từ 7 giờ mấy con ngồi tới 9 giờ là có Thầy hay hoặc 10 giờ cũng có Thầy nữa. Nghĩa là vừa thấy mấy con ở đây là Thầy mặc dù làm việc gì quên, mà hễ Thầy ra Thầy dòm thấy có người láng cháng ở trên cái Tổ Đường nghĩa là có chuyện rồi chứ không phải không, thôi đến. Đó là cái điều thiện của Thầy trợ duyên.
Cho nên ở đây Thầy muốn nói mấy con cần nhất. Thứ nhất mấy con nhớ kỹ xả cái tâm cho nó sạch. Xả cái tâm cho thật sạch! Nghĩa là khi gặp chướng ngại pháp thì phải Chánh Tư Duy, suy nghĩ như thế nào để xả cái tâm đó. Thì xả cái tâm đó thì mấy con sẽ an ổn.
Ở đây nó có nhiều, trắc nghiệm mà. Thật sự ra Thầy nói, chứ còn thật sự ra thì cái người trắc nghiệm họ không nói mấy con đâu. Họ không có nói nhưng mà họ làm. Để cho mấy con đừng có hiểu, mà nếu mấy con hiểu thì coi như đã biết rồi thì làm sao trắc nghiệm người ta. Không hiểu mới trắc nghiệm.
Thầy nói để cho mấy con biết thôi, chứ còn thật sự ra thì cô Út, cô muôn đòn, cô ấy muôn mặt, cô muôn cách. Chứ không phải là, Thầy cũng không lường được cái đòn chiêu của cô Út đâu. Bởi vì thuộc về loại võ rồi, võ công nó đánh đủ loại đòn. Thầy không có nghĩ được. Nhưng mà tới chừng lộ ra, trời đất ơi, những cái đòn này độc thiệt, chớ phải chơi đâu, đánh tan nát thiệt chớ!
Nhưng mà khi biết được thì mấy con đã ăn đòn quá trời rồi. Muốn chới với, đứa nào cũng quẩy gói xách, Thầy đâu có kịp mà cản trở đâu. Thành ra khi mà xách đi Thầy biết, trời ơi! Cái đòn đánh mặt đất thiệt chứ không phải không. Nhưng mà thôi nếu mà cái người nào mà còn cái duyên đó, mà còn phước gặp Thầy, thì chắc chắn còn trụ lại được chút, chứ còn không khéo chịu không nổi!
(31:58) Cổ thì thẳng thắn, Thầy nói thẳng, làm thẳng. Nghĩa là cái người phụ nữ mà như cô Út thật trong đời này Thầy nói rất khó, cô mạnh mẽ lắm! Chính Quyền ai bất kỳ mà cô làm thì cô làm thẳng hà, không có sợ ai hết. Nhưng mà có điều kiện, thật sự ra thì mấy con ở đây bị thử thách hết, Thầy thấy tâm mấy con như là sợi bún. Nó yếu quá! Mà khi mà muốn đến đây mà rèn luyện để mà tu với Thầy thì ít ra mấy con cũng phải sợi dây lòi tói cà. Nó mới không có đứt chứ còn không khéo nó bị đứt.
Nhưng mà Thầy thấy, kể như là mấy con còn bền chí mà cho đến những cái ngày từ 1 tuần, 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng mấy con còn bền chí mà ở lại đây tu tập đó cũng là khá lắm rồi. Chứ còn lơ mơ thì chắc một tuần lễ là bay sạch, trong vài ngày là cũng bay sạch chứ không phải dễ đâu.
Thật sự ra Thầy thấy, nó trãi qua một cái thời gian ở đây nó mười mấy năm rồi. Thầy đã chứng kiến biết bao nhiêu cái sự ra đi mà với những cái đòn của cô Út đánh, làm họ không có chịu nỗi. Họ phải đi với một sự ôm cái lòng hờn giận, chứ không phải là đi với cái sự vui vẻ chút nào đâu. Đi với sự buồn phiền, cô Út đau khổ, thì cô nói nhân quả vậy thì phải chịu thôi. Tại vì mình chính cái điều ác pháp người ta làm mà mình ôm cái hận thì mình ráng mình chịu chứ ăn thua gì cô. Có ai làm gì, ai nói xấu hay làm gì cô, có ăn thua gì cô đâu. Nghĩa là tâm cô nó bình thường thôi, có gì đâu. Cô làm rồi thôi chứ cô không oán ai hết, cho nên cô không giận ai nữa. Nhưng mà hồi đó làm mạnh lắm đó, cái máu thấy như là Trương Phi vậy, nghĩa là luôn lúc nào cũng muốn làm mạnh. Dùng lời lẽ, Thầy thấy lúc bây giờ cô đóng kịch, thật sự ra Thầy nói không có gương mặt nào đóng kịch bằng cô Út.
Trời đất ơi! Lúc mà cô mà đập mấy con là gương mặt của cô là mấy con thấy phải sợ thôi. Thầy còn phát run chứ đừng nói chuyện. Không Thầy nói thật mà, chuyện nói đùa với mấy con đâu. Nhưng mà sự thật ra Thầy làm không có được. Bởi vì Thầy không phải là cái người đóng kịch được, Thầy không làm nổi. Nhưng mà cô Út làm được. Cô mà đi ra cô làm diễn viên, đào kép thì cô rất là tài đó, cô đóng kịch rất hay đó, không có người nào đóng bằng cô hết.
(34:21) Cho nên vì vậy đó, nhiều khi cô ấy thử thách mấy con, cái lúc mà cô thử thách mấy con nhìn cái mặt là mấy con mắc sợ rồi, chứ chưa nói gì đâu. Cho nên vì vậy mà giúp cho mấy con thấy mình có sợ hãi hay không? Cái thứ nhất.
Hai là mình có thấy cái tâm mình động hay không? Để rồi mình nỗ lực, mình xả cái tâm. Nhưng mà cái người nào mà xả được, mà bền được cô rất mừng. Qua những cái điều kiện của mình đã tạo ra, mà người ta đã xả được, hiểu được rồi. Cô nghĩ rằng cái công lao của mình làm nó không phí. Còn mấy con mà bỏ đi rồi, Thầy thấy bao nhiêu công lao cô làm là phí hết, bỏ hết.
Đó thì hôm nay Thầy nói, trước tiên là cái sự tu tập cần phải xả tâm. Cái thứ hai là về cái phần mà Chánh Niệm Tỉnh Giác, về cái phần Định đó, thì chỉ có hai phần là nhiếp phục được tâm và an trú được tâm thôi. Mấy con chỉ tu bao nhiêu đó thôi.
Nghĩa là an trú được thân hành trên thân hành của mấy con. Làm sao mà an trú được ở trên đó. Thì phải nhiếp phục được tâm ở trên đó. Tức là dẫn nó từ 5 hơi thở đến 10 hơi thở, hoặc 20 hơi thở hoặc 20 bước. Tất cả những hành động của các con mà các con dẫn cho cái tâm mình nó an trú, nó ở trên được thân hành nó thôi. Cái người mà làm được thì nó dễ rồi, còn cái người chưa làm được chưa phải dễ đâu, nó rất khó trong cái vấn đề đó.
Cho nên chúng ta phải khéo léo và thiện xảo, thì chúng ta mới có thể làm được. Còn nếu không khéo léo thiện xảo thì không có làm được. Nhất là những khi mà chúng ta luôn luôn, khi mà tu yên yên được rồi, thấy nhiếp phục được tâm rồi. Thì đùng một cái là cô Út đập. Để cho mình đừng có nhiếp được cái thứ đó. Mà là phải nhiếp các thứ khác. Cho nên khi mà các con thấy yên yên đó. Tại sao mà chúng ta tu mà bữa nào mà thấy tốt là coi chừng! Đây, sắp có chuyện à.
Đây là qua kinh nghiệm của cô Kim Tiên là mấy con thấy, khi mà cô tu hơi được được là có chuyện xảy ra cái cô phải quẩy gói đi giải quyết. Phải không? Như vậy là nó có yên được không?
Nó bảo phải xả cái tâm, chứ không phải là ở đây mà ngồi yên ở đó mà nó xả. Mà mục đích của mình mình cứ nghĩ rằng nó yên vậy là tốt. Nhưng mà sự thật ra là đối tượng của chúng ta là ác pháp. Cho nên đức Phật mới dạy: “Ngăn ác, diệt ác. Sanh thiện, tăng trưởng thiện”. Chứ đâu có dạy chúng ta mà ngồi ở trong thất, mà ngồi đó mà an trú ở trong hơi thở, thân hành đâu. Cái an trú hơi thở, thân hành đó là cái phụ của nó thôi, cái phụ. Khi mà chúng ta xả hết cái tâm của chúng ta rồi. Hoàn toàn mà nó thuận duyên hết, nó không còn có duyên nghịch nữa rồi. Thì lúc bây giờ mà ngồi an trú nó dễ, không khó!
(36:38) Bởi vì chính những cái niệm mà chúng ta có là tại vì chúng ta ức chế nó, nó hay bung ra, nó hay phóng dật, nó hay phóng niệm chứ không phải gì. Thì bây giờ chúng ta ráng ức chế cái tâm của chúng ta để vào cái chỗ không niệm. Thì nó bị ức chế, nó sanh ra những cái trạng thái tưởng.
Thì như vậy, thì các con thấy cái lợi ích thứ nhất để cho chúng ta thấy nè. Xả tâm xong rồi, thì nhiếp phục tâm dễ. Nghĩa là cái tâm mình nó không có bị chướng ngại, luôn luôn ở trong Chánh Tư Duy. Thì lúc bây giờ cái người đó xả tâm rồi. Ly dục, ly ác pháp rồi. Ly chứ không phải diệt nó đâu. Cho nên ly nó bằng cái tri kiến, Chánh Tư Duy của chúng ta, tri kiến của chúng ta.
Cho nên vì vậy luôn luôn lúc nào chúng ta cũng thấy tâm mình có chướng ngại gì đến thì chúng ta cũng an ổn hết. Thậm chí như bệnh đau nó cũng an ổn nữa. Cho nên, thí dụ như bây giờ cái sự cương quyết, gan dạ cũng như cô Nguyên Trí. Khi mà thấy nói một là chết hay là sống trước cái bệnh đau của mình. Thì cô nghe lời nói Thầy, thì cô thấy nghe nó an ổn, bệnh đau ở trong thân thì có bệnh đau đó. Mà lời nói như vậy, nó làm cho cái tinh thần mình nó không có dao động, thì thấy nó an ổn, không có lo, không có nghĩ đi bệnh viện gì hết.
Nhưng có người thôi, bảo phải đi bệnh viện. Thì nó bắt đầu nó dao động rồi đó. Phải không? Tự nhiên không? Nếu mà nghe có nội mình Thầy đó, thì chắc chắn cái tâm nó không sợ đâu. Chết quyết chết, một là chết, hai là mình sống chứng quả, tối ngày cứ ôm tu. Cho nên thấy cái bệnh nó cũng không có nhiều điều. Nhưng mà khi bảo nó đi bệnh viện rồi bắt đầu cái bệnh nó sẽ tăng lên. Nó tăng lên, nó đánh đến cái góc độ này, cho nên vì vậy bị tâm phân hai, nó dao động. Nó vừa sợ mà nó vừa thấy như thế nào, không biết mình có tu mình đẩy lui được nó hay không.
Còn hồi đó nó chỉ có một hướng thôi, thì nó đâu có đường tẽ nữa. Cho nên vì vậy nó quyết đi tới, cho nên cái bệnh thấy nó giảm. Ờ, thấy nó cũng còn nhưng mà nó cũng thể đỡ được. Nhưng mà khi có phân tâm rồi, thì bắt đầu cái bệnh thấy tăng lên. Thấy sao mà hồi đó thì còn có thể đi được mà nay đi hết được. Hồi đó nó thở còn được, bây giờ thở hết muốn được. Tức là nó làm thêm đặng cho mình đi bệnh viện. Cái tâm lý nó ở chỗ đó.
(39:00) Cho nên đến khi mà đến bệnh viện rồi mà nếu mà nó êm xuôi thì không nói gì. Nó có cái nghịch nữa, trời ơi, thôi bây giờ nó đảo lộn hết! Trời đất, hồi đó Thầy dạy bảo là một chết, hai là tu chứng thì nó mới an ổn quá, nghe nó sung sướng quá. Chỉ có một đường đi thôi, bây giờ nó tới hai đường. Bây giờ đến bệnh viện rồi, nó đảo lộn một lần nữa, nó tới ngã ba đường. “Trời đất ơi! Giờ biết sao bây giờ?”. Có đúng không con?
À, đúng rồi! Bây giờ nó dở chết, dở sống. Đường đạo thì nó không tới, mà đường đời thì nó linh chinh. Đây, Thầy nói thật sự mà nó tất cả những cái này là cái thật, thật ở trên cái sự sống, ở trên cái thân tâm của các con, mà các con phải gặt lấy những cái điều này.
Cho nên có nghe lời Thầy tin không, tin Thầy không?
Mà nếu tin Thầy đó, thì người nào nói nhất định tôi cũng một thôi, thì người này sẽ rất là nghị lực và rất là bản lĩnh đó! Có đúng như vậy không? Các con có hiểu không ?
Còn cái người nào mà nghe người khác cái dao động tâm rồi thì người đó có bản lãnh không? Chưa, bởi vì tâm phân, tâm phân thì bắt đầu thì bệnh thọ nó phải tăng. Tâm nó dao động thì nó phải tăng lên. Nó tăng lên thì bắt đầu đến, tưởng đâu cái đường nhân quả nó đâu có suông đâu, nó đầy chông gai! Đi nó đâu có suông, mình cứ nghĩ là như vậy là nó suông lắm, đến đó cái bác sĩ nó coi, nó cho toa, nó cho thuốc trị bệnh hà.
Không ngờ nó lại có những cái chuyện khác nó xảy đến. Nó xảy đến là nó làm cho mình cái ngã ba, ngã tư, chứ nó không phải là một ngã. Nó thậm chí như tới ngã bảy nữa, không biết đi cái đường nào bây giờ, nó rối ren quá! Đó thấy không, mấy con thấy không?
Chết thì không chết mà sống không sống. Mà nó đứng trước cái ngã bảy này thì hết biết đường đi. Nó làm cho con rối, phải không?
Cho nên vì vậy đó. Thầy thì chỉ có duy nhất một đường mà thôi. Đến với Thầy chỉ có duy nhất một là chết, hai là chứng quả A La Hán, có vậy thôi.
Ai gan thì với Thầy, mà không gan thì bị nhân quả nó cám dỗ, nó lôi đi thì ngã bảy, ngã tám, ngã chín, ngã mười nữa chứ đừng nói. Nó còn có nhiều ngã nữa. Nó bắt đầu đi từ ngã hai rồi bắt đầu ngã ba, rồi ngã tư, rồi tới ngã sáu, ngã bảy, nó tới đủ thứ ngã. Cuộc đời nó nhiều ngã lắm mấy con! Mà chúng ta thấy tưởng cái ngã đó nó hạnh phúc. Bước vô một cái là, vừa bước vô một cái là không hạnh phúc chút nào đâu. Mình cứ ngỡ tưởng, mình cứ sống tưởng.
Đó, thì Thầy nói thật sự đời người ta cứ nhìn đời người ta hạnh phúc lắm. Nhưng mà cuối cùng thành lập gia đình đi rồi coi hạnh phúc. Có người nào mà hạnh phúc đâu! Nó khổ sở đủ thứ ở trong đó, mấy con có gia đình rồi mấy con biết Thầy nói có đúng không. Nó bao nhiêu cái ngã ở trong đó mà không biết mình chọn cái ngã nào mà để đem lại cái cuộc sống cho mình an ổn. Mà cứ mình rớ tới cái ngã nào thêm thì trời ơi! Toàn là cái thứ khổ ở trong đó không chứ không thấy cái ngã nào mà giải thoát!
Chỉ duy nhất có cái ngã một là chết, hai là chứng quả A La Hán là duy nhất chỉ giải thoát.
Các con thấy, bệnh đau như con đó mấy hôm rày cứ nghe lời Thầy thì con thấy vững tâm không. Mà bây giờ mà không nghe lời Thầy thì nó dao động ghê gớm. Nó còn khổ sở, nó khổ từ tâm, mà nó khổ từ thân, thân bệnh. Còn hôm rày cái thân bệnh vậy chứ mà cái tâm nó không có dao động. Tức là nó nghe coi như thường. Sớm mơi, quét nó không có run tay. Còn nay quét nó run tay. Có đúng không? Không, Thầy nói rút tỉa kinh nghiệm để cho mấy con thấy trên con đường tu cái tâm quan trọng vô cùng!
(42:10) Vì vậy mà những người chúng ta đang ở trong một cái lồng của nhân quả. Kẻ nào mà thoát ra nhân quả? Bây giờ chưa có ai thoát ra nhân quả, đụng tới là có chuyện này, đụng tới có chuyện kia thì nhân quả nó chi phối mình rồi.
Cho nên cái người tu là phải vượt lên nhân quả. Khi mà cái nhân quả nó tác động vào mình ở trong cái lồng nhưng mà mình vượt ra ngoài, là tại vì nó tác động vô mình thì bắt đầu mình Chánh Tư Duy là ngay đó mình ra ngoài cái vòng nhân quả rồi. Tức là chuyển nhân quả, thoát ra ngoài.
Đó, cho nên Thầy lập thành cho mấy con cái ý chí dũng mãnh. Là khi không đến với Thầy thì thôi, mà đã đến với Thầy một là chết, hai là chứng quả A La Hán. Chứng quả A La Hán trên cái bệnh khổ, trên cái tâm đau khổ chúng ta đều vượt qua, thì chúng ta sẽ thành tựu. Mà hễ chúng ta nhút nhát là kể như cuộc đời chúng ta…
Ai sớm muộn cũng biết là chúng ta chết một lần chứ có người nào mà nói tôi sống cả triệu tuổi đâu. Có chắc không? Không có bao giờ mà có thể nói rằng ai cũng biết rõ cái điều này rồi. Bây giờ không chết thì ngày mai cũng chết hà, chắc chắn là ngày mai, ngày mốt tương lai chúng ta cũng sẽ một cái ngày chết. Mà chắc chắn cái số tuổi mà chúng ta chết đó, chưa chắc có người nào được hai trăm tuổi đâu. Phải không? Bây giờ mấy con cứ nghĩ tôi sống hai trăm tuổi chưa chắc có thuốc thang nào mà có thể kéo dài tuổi thọ mấy con hai trăm đâu. Phải không?
Như vậy rõ ràng mấy con biết cái thời gian mấy con chết nó cũng không có xa lắm đâu. Bởi vì nhìn ông bà chúng ta cao lắm là trăm tuổi. Còn ông nào có ráng lắm thì trăm rưỡi, là hết mức đó, chứ còn nói thật sự chưa có ai hai trăm. Phải không?
Thì như vậy thì rõ ràng là nhìn cái tuổi của mình rồi so sánh với cái tuổi mà sắp sửa mình đi còn mấy năm đây? Thế mà sợ chết chứ!
(43:48) Hở hở một chút là chúng ta chạy bệnh viện hà, nó cứu được không? Nếu mà nó cứu được thì đồng mả đâu có người chết. Rõ ràng là cái thứ bệnh viện nó không có cứu được đâu. Mà chính chúng ta phải cứu chúng ta. Phải không? Như vậy là rõ ràng một là mày chết, sớm mày cũng chết. Bây giờ mày có đau mày chết, là nhân quả tới mày chết, thì tao nhất định ôm pháp. Thì tức là có tái sanh tiếp tục thì cũng ở trên pháp chứ không phải là bỏ pháp đâu.
Còn bây giờ mình chạy bệnh viện là bỏ pháp rồi mấy con. Bởi vì bệnh viện là mình nương bác sĩ rồi chứ đâu phải mình nương pháp mình nữa.
“Pháp như cái bè mà qua sông, như cái phao mà vượt biển”. Sóng gió ba đào cứ ôm chặt pháp cho Thầy!
Cũng như mấy con ở ngoài mấy cái nhà ngoài đó, trời nóng chứ gì, hầm hầm chứ gì. Mà trời nóng hoặc trời lạnh đó nó là cái nhân quả của nó. Mà thân chúng ta mắc mớ gì mà nó cũng bắt chước nó nóng theo? Mình phải tự hỏi coi tại sao nó lại nóng theo?
Tại vì nó nằm ở trong cái lồng của nhân quả thì nó phải nóng theo. Mà trời lạnh thì nó nằm trong cái lồng nhân quả. Vậy thì cái tâm ở đâu mà nó không vượt ra?
Thì khi đó lúc bây giờ mấy con cứ ôm pháp đi. Mấy con cứ ôm pháp chặt đi, rồi mấy con sẽ xem coi trời có nóng không. Không nóng nữa!
Mấy con ôm không chặt, tức là ôm phao không chặt…
Ở trong bệnh viện học về Y tá hay là Y sĩ hay là Bác sĩ gì không biết. Mấy cô gặp cái chú này nghe cái kiểu bệnh, thấy cũng dễ thương lắm. Bắt đầu mấy cô cũng chăm sóc, nào mua kẹo, mua bánh đồ đủ thứ cho. Ôi thôi, nó cám dỗ cuộc đời quá nhiều!
Cho nên từ cái chỗ đó, mà khi về rồi tháo cái vấn đề rất khó! Khi mà cái ao nước nó sạch, mà khi nó đã lỡ dơ thì nó khó vô cùng là theo thầy biết, Thầy nói sau này gặp những cái tai họa nhân quả thì ráng chịu. Cũng như mà Quỷ Cốc Tiên mà khuyên Tôn Tẫn đừng có đạp mã mà đi ra thì mới cứu được, chứ còn nếu mà đạp mã đi ra sau này cụt giò ráng chịu. Đúng vậy Tôn Tẫn bị cụt giò, thì cũng bị cụt giò ráng chịu chứ đâu có trách Thầy, phải không?
Nhưng mà nếu rời khỏi Thầy thì mất hướng. Cho nên Mật Hạnh luôn luôn Thầy kèm theo, ở bên Thầy in ấn, phụ Thầy đánh vi tính là không mất hướng. Nghĩa là còn bám cho đến khi trở lại tu là thầy Mật Hạnh mau nhất, chứng quả A La Hán mau nhất.
Thầy nói thật sự, nó có cái đà. Và đồng thời cái cuộc đời đi ra vậy chứ thầy trang bị những cái tri kiến đều là quan sát được hết. Còn chuyện nói xấu, nói tốt, chuyện tốt, chuyện xấu, chuyện đời không quan trọng vấn đề đó đâu, ai khen chê không quan trọng đâu, mà quan trọng ở chỗ mình tu cho được, và quan trọng là giữ tâm mình đừng có bị chìm đắm, đừng có bị sa ngã. Sợ nó ra ngoài đó nó xỏ mũi nó lôi đi luôn mất mới chết thôi. Chứ còn nó không xỏ mũi thì chắc chắn là bảo đảm.
(46:08) Đó, cho nên vì vậy mà muốn giữ được như vậy là luôn luôn sống gần bên Thầy. Bởi vì cái gương hạnh của Thầy nó có thể làm cho người ta không có rời khỏi. Còn xa thầy thì nó sẽ bị móc, cái nhân quả nó mạnh lắm, cái lực của nó nó móc đi. Còn còn Thầy thì nó móc không nổi đâu, Thầy nói rằng khi mà cái người tu như Thầy thì không có nhân quả nào móc ra được hết. Mà ở gần bên Thầy thì nó móc lôi không được, bị vì cái lực của Thầy nó cả cái lực của vũ trụ, cho nên nó có sức mạnh ghê gớm. Cho nên ở bên ngoài móc gì móc, móc lôi không được.
Cho nên đó là một cái điều kiện. Cho nên thí dụ mấy con tu ở đây, dù hoàn cảnh như thế nào mấy con đừng rời Thầy thì mấy sẽ con chứng quả A La Hán. Chớ mấy con rời Thầy, nói: Ờ tôi nghỉ, tôi sẽ về núi hay gì đó, nó yên ổn rồi tôi tu, để mà chứng thì chắc chắn là số không mấy con. Nhưng mà Thầy biết rồi, ra khỏi cái lực, cái từ trường lực của Thầy thì mấy con bị những cái nhân quả nó lôi.
Còn ở đây thì cái lực của Thầy nó trợ giúp cho mấy con ghê gớm, nó vượt qua từng những cái khó khăn. Bởi vì ra ngoài mấy con cũng có sẽ gặp cái dễ đụng của các con, chứ không phải là hoàn toàn nó dễ hết đâu. Cái nghĩ của mấy con nó không theo cái nghĩ được đâu, mà nó theo cái dục của nhân quả.
Đó thì, còn ở đây nó lôi mấy con không được là tại vì khi mấy con sắp chới với thì có Thầy, Thầy lại nói tiếng nói cũng như Thầy đưa tay mà lôi mấy con ra, có vậy thôi. Không, Thầy nói thật mà mấy con.
Cho nên khi cô Út đập mấy con mà tơi tả thì chỉ có Thầy đưa tay đón mấy con thôi, chớ nếu mà không có Thầy thì mấy con chỉ còn có nước chìm xuống dưới đáy sông, đáy biển chứ đừng nói, khó lắm!
Cho nên mấy con thấy, có nhiều khi mấy con mà được an ổn là mấy con nhờ cái niềm tin ở Thầy. Cho nên cô Út đập gì đập mấy con cũng sẽ thấy an ổn. Nhưng mà cái người mà giúp cho mấy con mà được giải thoát được tâm mấy con chính là cô Út, chứ không phải Thầy. Nhưng mà thầy là cái người an ủi để cho mấy con vững vàng mấy con mới tiến lên. Cái người mà giúp mấy con xả được tâm là cô Út, chứ không phải Thầy đâu. Cái đó là lớn, cái ơn lớn nhất! Cô phải chịu cực khổ rất nhiều để mà đập, để mà làm cho mấy con xả được cái tâm.
(48:00) Cho nên, coi vậy chứ mình từ lâu tới giờ mà nghe nói chứng quả A La Hán nó không dễ. Nó không dễ là tại mình không thấy ai chứng quả A La Hán và chứng quả A La Hán bằng cách tu như thế nào mình cũng chưa thấy. Nhưng mà đến đây chúng ta phải thấy được cái quả A La Hán thiệt là máu và nước mắt chứ không phải! Phải khóc, nhiều khi cô Út đập phải khóc thôi, thì nước mắt chứ sao. Rồi nhiều khi mình tu trong cái đau cũng phải khóc thôi. Gì con?
Tu sinh: Kính bạch Thầy cho con hỏi, hồi đó Thầy tu đâu có ai đập đâu Thầy?…
Trưởng Lão: À, thật sự ra đập nhiều lắm con! Nhưng mà con sẽ đọc cái cuốn Người Chiến Thắng phần thứ hai con sẽ biết. Cuộc đời đã đập Thầy cũng nhiều lắm. Đập nước mắt mà khóc, một lời than của mẹ Thầy trách, trách thân phận của mình thôi. Mà Thầy thì ngồi trong thất mà cái lời than đó, nó cả như là một cái sự đau khổ nhất của Thầy chứ đâu phải. Đó cũng là những cái thử thách ghê gớm lắm, mà Thầy an ổn được mà Thầy ngồi Thầy tu. Chứ không mà Thầy nói: “Đi ra làm nuôi mẹ chứ không ở đây ngồi nữa”, thì thôi cuộc đời hết rồi!
Nó có cái nghị lực, có cái sự quyết định ghê gớm lắm chớ. Coi vậy chứ mấy con sẽ sau này, không có nghe Thầy nói về cá sự thử thách chứ gì, chứ nó thử thách nhiều lắm, rất là nhiều! Nếu mà không thử thách thì không bao giờ ai xả tâm, không có bao giờ ngồi trong thất mà cứ nằm ở đó, nó nằm ở trong đó mà nó không có đối tượng, không có thấy mình xả được cái tâm.
(49:37) Tu sinh: Thầy ơi con hỏi Thầy câu nữa. Như tụi con không chứng quả A-La-Hán, chứng quả thấp hơn được không Thầy?
Trưởng lão: Được!
Tu sinh: Thưa Thầy, chứng quả A La Hán, nghe chữ A La Hán con thấy khó, khó làm quá!
Trưởng lão: Đúng là Vô Lậu thật sự mà. Cho nên nó khó con, nó không có còn một chút vi tế. Nếu mà nó còn chừng một hạt đất hay là một hạt cát nhỏ ở trong móng tay con thôi, thì cũng chưa chứng quả A La Hán. Bởi vì cái quả Vô Lậu hoàn toàn, đã nói Vô thì không còn.
Tu sinh: Thầy ơi, những quả khác con ráng con luyện, chứ A La Hán con không thấy…
Trưởng lão: Bây giờ cái quả khác như là..
Tu sinh: …(không nghe rõ).
Trưởng Lão: Đó, thì những cái quả đó thì mấy con sẽ được thôi. Bởi vì ít ra mấy con tu, mấy con cũng xả được năm hạ phần kiết sử nè, phải không? Còn cái Ngũ Triền Cái thì mấy con cũng làm nó vơi bớt được phân nữa chớ đâu phải. Mặc dù là trong cái vi tế của Triền cái nó chưa sạch thôi. Nhưng mà ít ra thì những cái đó là cái quả rõ ràng là, theo đạo Phật thì ngay mình tu là có cái quả, quả nhỏ, quá lớn nó cũng có cái quả giải thoát trong đó rồi.
Đó thì cái quả rồi, chứ nó đâu có đòi hỏi mà phải tu tới chứng quả A-la-hán mới là… Cái quả A la hán là quả rốt ráo của một bậc Thánh rồi. Còn mình nữa thánh mà nửa đời rồi. Tôi đi vào đây chứ tôi được nữa Thánh, chứ tôi chưa hết toàn diện Thánh, thì được chứ sao không con.
Yên tâm mấy con, không theo đạo Phật thôi, chứ theo đạo Phật thì mấy con cũng được quả.
Phải biết vậy thôi thôi tui đừng tu, tu gì cực quá! Phải không? Thầy nói thật sự tu cực vậy mấy con. Bởi vì nó lở rồi, Thầy khi mà tu xong Thầy nói: “Phải chi mình biết hồi đó đừng có theo cái đạo Phật”.
Cho nên bây giờ Thầy mới trách tôn giáo dữ lắm. Con đọc tới cái tập mà “Đạo đức làm người tập 2”, thì trách Tôn giáo nhiều lắm. Tôn giáo, đặt đẻ ra làm chi cho nhiều Tôn giáo, mấy người bộ tưởng là đem giải thoát được thế gian sao? Nhưng mà cuối cùng mấy ông sống ở trong tưởng rồi mấy ông, trời ơi! Đưa ra những cái pháp của ông Phật làm tui lòi con mắt, xấu tui chứ bộ.
Tu sinh: Cái Đạo đức làm người sao Thầy chưa cho Thầy?
(51:39) Trưởng Lão: Ít hôm rồi Thầy in Thầy cho. Các con sẽ thấy, Thầy sẽ nói về nhân quả. Như hồi nãy mà Thầy đã giảng về cái luật nhân quả, rồi cái định lực của nhân quả, nó tự nhiên nó có mà không ai chế nó ra, mà nó cả cái hệ thống của vũ trụ lận. Để nói cho các con hiểu về cái nhân quả một chút để cho các con biết thôi. Rồi sau đó mới nói về đạo đức nhân quả đó để cho biết, đặng cho mình đang sống ở trong lòng của nhân quả để chuyển mình cho ra khỏi nhân quả bằng một cái nền đạo đức của mình.
Thì sắp sửa chừng nào Thầy in Thầy gửi cho. Bởi vì cái công việc làm của Thầy nó nhiều quá. Ví dụ như thay vì Thầy rảnh mà ngồi không đừng có tiếp, đừng có nói chuyện gì với mấy con hết phải không. Ngày nào nó cũng rảnh, thì nay còn mười cái tập đạo đức thì Thầy cũng ra được rồi. Nhưng mà Thầy có chút xíu hà, vô đó chưa, ngồi chút xíu cái tới ăn cơm rồi cái nghỉ. Nghỉ rồi tới chiều bắt đầu có khách nữa hay hoặc là không có khách nữa, thì bắt đầu ngồi viết chút xíu một xấp thơ vầy phải trả lời nữa. Thầy không bỏ một bức thư người nào, trừ ra cái bức thư đó không đến Thầy. Nghĩa là cái người nào gửi thư Thầy, Thầy có trả lời. Thầy bây giờ Thầy trả lời ngắn gọn hơn trước, không có nói dài dòng, nói dài dòng mất thì giờ mình quá.
Cho nên Thầy viết mấy chữ, để khi người ta nhận được bức thư của mình cũng là niềm an ủi người ta. Thì khi mà gửi bức thư mà được hồi âm bức thư là thấy cầm bức thơ đọc cái chữ “kính gửi con” thì nghe cũng ấm áp trong bụng rồi, thì cũng đủ rồi đó là cái nguồn an ủi của Thầy mà mấy con, Thầy hiểu tâm lý mà.
Thành ra mặc dù tu không được gì hết, chứ sự thật ra nghe Thầy có bức thư gửi cho mình, nghe nó cũng là thấy, Thầy cũng còn biết nhớ mình, thì cũng thấy an ổn trong tâm, thấy cũng yên ổn. Vì vậy mà người ta có chửi cũng không giận được, phải không? Có Thầy bên mà đâu có giận.
Còn nếu mà Thầy không gửi thư, coi như là gửi bức thư nay ba tháng, sáu tháng mà không thấy bức thư nào hồi âm, “buồn quá! Không biết Thầy có quên mình không?”. Phải không? Nó làm cho cái người đó buồn khổ chứ, Thầy hiểu mà.
Cho nên vì vậy mà luôn lúc nào mà hễ có thơ mà đến, thì bắt đầu Thầy không có đọc liền đâu, Thầy đọc lúc nào Thầy trả lời lúc nấy. Chứ đọc xong rồi, lát nữa rồi mất công đọc lại trả lời cũng mất công, mất thì giờ. Cho nên đọc lúc nào Thầy ghi Thầy trả lời liền, cho nên cứ tuần tự cái nào mà được sắp ở trên thì Thầy cứ theo đó Thầy tuần tự, người ta có duyên để trước thì mình cứ đọc trước rồi mình trả lời trước, còn cái người nào đọc sau, mình trả lời sau. Do đó cái việc làm của Thầy thì Thầy không bỏ sót ai hết đâu.
Cho nên Thầy cứ làm việc như vậy, mà mấy con biết vừa cả thư, trả lời thư, rồi có những cái bức thư ở trên mail mà họ hỏi về cái phần tu tập nè. Đối với Thầy thì Thầy thấy qua Thầy nói cái ý hoặc là Thầy trả lời cho cô Út cô trả lời trên mail cho người ta nữa. Nó đủ thứ chuyện Thầy làm mà có một mình thì con biết rằng nó không có thì giờ, chứ không thì Thầy nói mười tập đạo đức làm người nay nó đã êm, đã viết xong hết rồi.
Cho nên mấy bữa mà chú Nam mà chú sắp sửa về đó, chú nói thôi bây giờ con đến, con sắp sửa con về thì Thầy có chuyện gì thì giao cho con đánh phụ Thầy chút. Thầy nói thôi, cái bữa thứ hai đó, là còn tuần nữa chú vô, Thầy nói: Ờ, bây giờ thôi vô đánh giùm Thầy đi. Rồi bắt đầu Thầy ngồi Thầy viết, Thầy viết về đạo đức đó, Thầy viết Thầy đưa cứ viết đưa, hết giờ Thầy nghỉ, tới giờ Thầy viết Thầy đưa, cứ đánh liên tục. Ờ Thầy muốn viết gì Thầy viết, chú đánh thôi. Cứ đánh, cứ vậy thôi, còn sau này chỉnh lời Thầy chỉnh thôi chớ không có gì hết.
Cho nên Thầy không viết, nhưng mà Thầy ngồi Thầy viết thì nhanh lắm, chứ không phải là lâu. Nhưng mà có điều kiện là nó, không lẽ bây giờ mấy con đang gặp những khó khăn mà Thầy không tiếp mấy con.
(55:11) Cho nên cái mà cần thiết phải gặp mấy con để mà cởi mở, để giải cho cái tâm mấy con cho nó an ổn để mấy con tu. Mặc dù là mấy con có tu không được đi nữa thì nó cũng là niềm an ủi cho mấy con.
Bởi vì mấy con đã vứt bỏ gia đình mà, bỏ duyên mình đến đây mà nỗ lực tu tập, chứ đâu phải mấy con không quyết tâm tu đâu. Quyết tâm tu thật sự, nhưng mà mình không hiểu cái đường tu. Cho nên cứ nghĩ lo rằng, bây giờ mình phải ngồi thiền hít thở, rồi phải đi kinh hành vậy là tu. Rốt cuộc rồi mấy con không có chịu tu cái tâm của mình. Phải không?
Cho nên cái vấn đề quan trọng là chỗ tu cái tâm của mình, làm sao mình xả được những cái niệm ác ở trong tâm của mình. Khi mà mắt mình thấy, tai mình nghe mà mình xả được cái tâm an ổn nè. Đó là cái vấn đề quan trọng!
Bởi vì cuộc đời luôn luôn mình thấy điều là ác pháp chứ đâu phải mình thấy thiện pháp hết đâu. Buộc lòng mình phải bắt buộc con mắt mình phải Chánh kiến, phải thấy cái thiện pháp, không được thấy ác pháp. Và cái sự tư duy suy nghĩ bắt buộc mình, mình bắt buộc mình chứ không ai bắt buộc. Bởi vì tại sao mình bắt buộc mình? Vì mình muốn giải thoát, mình muốn không khổ. Còn nếu mình muốn khổ thì ai bắt buộc mình. Mình muốn nghĩ cái ác, cái thiện thì mặc mình.
Còn cái này mình muốn mình được giải thoát thì cái giáo pháp của Phật bắt buộc mình phải suy nghĩ thiện pháp, không được suy nghĩ ác pháp. Suy nghĩ như thế nào mà tâm mình an ổn, mà mọi sự việc ở ngoài an ổn thì đó là thiện pháp. Còn tâm mình mà không an ổn, mà mọi đối tượng bên ngoài không an ổn đó là ác pháp. Tức là mình gieo thêm cái nhân quả ác cho mình, cho người mà mình không biết, mình đã làm mình động mà làm cho người khác động. Thì không có ai mà bắt tội mình cái điều này hết, nhưng cái người mà thọ khổ chính mình.
Vì vậy mình không muốn mình khổ thì mình phải đi vào con đường của đạo Phật dạy. Cái chơn lý này dạy chúng ta phải tư duy, tư duy thiện. Thì chúng ta sẽ giải khổ mà tư duy ác là chúng ta sẽ không giải khổ.
Đó thì các con hiểu được cái điều này thì mới biết được con đường của đạo Phật là thực, đó là chơn lý chứ không phải triết lý. Triết lý là chúng ta còn mò mẫm. Còn cái chơn lý là một cái, bây giờ ngàn đời sau nó không lỗi thời nữa. Phật giáo mà đưa bốn cái chân lý này một ngàn đời. Nghĩa là bây giờ về sau này triệu triệu năm đi nữa, thì cái chơn lý này không bao giờ lỗi thời đối với con người. Nói nó khổ là phải có khổ, mà nói nguyên nhân khổ là cái nguyên nhân đó bây giờ không ai thay đổi cái nguyên nhân khác được. Cho nên nó là cái chơn lý!
Mà nói là cái trạng thái hết khổ thì cái này cũng không ai thay được hết. Và nói con đường mà thực hiện cho nó thoát khổ thì con đường này không còn ai thay một con đường khác được. Cho nên đừng nói: “Ờ, tôi sẽ tu pháp này pháp kia, tám mươi bốn ngàn pháp môn”, để thay vào Bát Chánh Đạo này, thì cái người đó nói sai.
Bởi vì nó là chơn lý chớ không phải là triết lý nữa, cho nên cái chơn lý thì không được ai thay đổi nó nữa. Bởi vì dạy, bây giờ người ta chỉ chửi mình, mình tư duy để cho tâm mình nó không khổ và người khác không khổ thì đó là chơn lý rồi không thể nào sai được. Bởi vì chính cái này mình làm được, thì do đó là một cái thật chứ không phải là một cái giả nữa.
Buộc lòng chúng ta muốn thoát chứ không ai ép buộc ai. Nhưng mà chúng ta muốn thoát ra nỗi đau khổ thì chúng ta phải suy nghĩ như vậy.
Cho nên chúng ta phải, đức Phật nói: “Cái gì cần phải hiểu biết thì cần phải hiểu biết”, chứ đừng hiểu biết mênh mông. Mà mình hiểu biết cái gì để khi mà nó gặp cái ác pháp đó mà chúng ta phải hiểu biết cái đó để áp dụng vào thì ác pháp đó nó sẽ hóa giải, nó làm cho tâm hồn chúng ta được giải thoát, thanh thản, an lạc. Thì chúng ta chỉ tu bây nhiêu đó thôi, chứ chúng ta cần tu cái gì nhiều?! Thì ngay đó là giải thoát rồi chứ gì.
Mà khi tâm mà nó được bình an, nó được giải thoát rồi thì tự nó nó có cái lực. Cho nên khi mà tác ý để đẩy lui những cái bệnh khổ trên thân nó, nó sẽ đẩy lui được. Các con thấy không? Cho nên người ta không cần ngại gì nữa.
(59:27) Còn những cái phương pháp khác như tập Chánh Niệm Tỉnh Giác, hơi thở là đẩy phụ, để cho biết cách để khi mà mình bị những cái ác pháp khác ở trên thân chúng ta, thì chúng ta dùng cái đó để đẩy lui, chứ đâu có gì. Thì đó là cách thức trang bị cho chúng ta biết cái phương pháp nó phải làm như vậy.
Chứ sự thật ra nếu mà chúng ta chỉ ở trong Chánh Tư Duy, ở trong Chánh Kiến, Chánh Tư Duy thôi. Thì lúc bấy giờ ác pháp không xâm chiếm chúng ta được, thì tâm chúng ta thanh tịnh, tự nó có cái lực. Thì lúc bấy giờ chúng ta không có học phương pháp nào hết tự nó nó cũng, khởi đau nó: “Thọ là vô thường, đi đi!”, ngay đó nó nạt chừng một tiếng như vậy là cái thọ nó cũng đi rồi. Bởi vì cái tâm thanh tịnh nó không còn ác pháp trong đó, cho nên cái thọ này nó vẫn phải đi liền thôi.
Còn cái tâm của mình, mình bảo nó đi mà nó cứ còn nhức, còn đau thì tức là cái tâm mình nó còn đau nhức trong này nè, nó còn tham sân si trong này nè, mình phải rõ cái vấn đề này. Cho nên vì vậy mà cái tâm mình nó thanh tịnh thì tất cả những chướng ngại gì nó, nhưng mà thanh tịnh không có nghĩa là tôi ngồi đây tôi hết vọng tưởng là thanh tịnh. Mà tôi ngồi đây mà hết tham sân si, người ta chửi mắng cái gì tôi không giận, không hờn, không buồn phiền gì hết. Mà ngồi đây mà nó không buồn ngủ, thì như vậy mới gọi là không tham sân si. Còn ngồi đây cứ gục lên gục xuống như thế này thì nói tôi hết tham sân si làm sao đúng?
Bởi vì nó còn gục vầy nè, cứ ngồi hơi nó gục xuống vầy, thì như vậy rõ ràng là nó còn si. Mà còn si thì còn tham, mà còn tham là còn sân chứ sao. Lẽ đương nhiên là cái dòng họ của tụi nó đến mà, một nhóm của tụi nó.
Mà giờ nó còn cái thằng này, vậy thì bây giờ mấy con ngồi thử coi, giờ ngồi một đêm thử coi nó có gục không? Nếu nó có gục thì vẫn còn, còn thì còn tham sân si. Vậy thì tôi chưa ly hết, vậy thì tôi phải nỗ lực tôi phá cái thằng si này trước. Vậy tôi phá như thế nào?
Tôi phải đi kinh hành. Phải không? Tôi phải đi thân hành niệm. Phải không? Tôi phải tác ý, tôi phải tác ý với câu: “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô, với tâm định tỉnh tôi biết…”, để cho nó định tỉnh, chứ không khéo nó cứ gục, thì nó làm sao? Mà nó đâu phải nó cứ gục mình hoài, nó lát nó lặng vầy nó ngủ mất hà. Nó không thèm gục mà nó ngủ, nó chơi độc vậy nó không làm cho mình hay, thì nó lại còn khôn hơn. Nó nhiều cái, nó vi tế vô cùng về cái si này.
Cái thằng si, thật sự ra nói muốn mà hết tham sân si thì cái thằng si nó khôn nhất, đó nó khôn nhất. Cho nên nó cứ làm cho mình và đồng thời cũng chính lười biếng nhất, khuya nó không thèm dậy thằng si chứ không ai hết hà. “Lôi cái mặt nó ra mà lấy cái tầm vông mà quất nó mấy cây cho lòi nó ra”, chứ nó không muốn dậy tức là si, chớ không phải là gì.
Thì trên cái con đường tu mấy con nhớ kỹ cái vấn đề mà Thầy nói, đó là cái si nó hết thì mấy con sẽ giữ sạch. Mà cái si không hết thì nó lý luận, nó che đậy, nó che đậy tội ác của mình, thì nó sẽ không hết.
(01:01:51) Cho nên tất cả những cái tu này là đầu tiên các con sẽ đi vào sáu cái nẻo: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn. Nó sáu cái nẻo đầu tiên này.
Thì như vậy rõ ràng là khi mà các con từ cái Chánh kiến, Chánh tư duy hai cái này rất quan trọng. Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng thì nó phụ thuộc thêm để làm cái thân mạng của mình nó không còn cái cảm thọ đau đớn gì nữa hết, nó gọi là Chánh mạng. Mình nuôi Chánh mạng bằng cái tư duy, bằng cái suy nghĩ, bằng Thức thực mà.
Các con thấy có bốn cái loại ăn chứ gì? Mà Thức thực cũng là một cái phần ăn của mình chứ gì?
Cho nên do như vậy mà nếu mà cái Chánh tư duy thì nó cũng nuôi cái thân của nó bằng cái tốt đẹp cho nên nó ít có bệnh đau. Còn mấy con mà không Chánh tư duy cái bệnh đau nó làm cho mình bệnh đau thêm. Thí dụ như bây giờ Thầy nói như cô Nguyên Trí, khi mà tâm cô dao động rồi thì nó là ác pháp. Mà ác pháp thì tức là cái bệnh cô nó sẽ tăng thêm, bằng chứng nó cụ thể, nó rõ ràng. Cho nên do đó các con thấy, từ cái tâm nó an ổn, nó yên ổn thì cái bệnh nó sẽ giảm. Mà cái tâm nó không an ổn thì cái bệnh nó tăng lên.
Đó, thì do tu tập thì chúng ta phải biết cách thức tu tập. Cho nên vào tu tập là mấy con phải luôn luôn lúc nào đời sống các con phải luôn luôn là Chánh kiến, Chánh tư duy. Các con hiểu chưa?
Cho nên luôn lúc nào trước mặt chúng ta cũng phải Chánh kiến.
(01:03:18) Còn cái sự kiện mà nó xảy ra. Cũng như ví dụ bà già con, mà nó xảy ra. (Con cứ ngồi yên, Thầy nói cho mà nghe).
Nhân quả mà, nó xuôi bà này cho bả đi về để mà gặp nhân quả thì vậy là tốt thôi, để trả cho nó hết, có gì đâu mà ở đây mà lo, đâu có lo. Nó không chết là may đó, cỡ mà chết thì cũng tốt thôi, không sao đâu. Già yếu rồi bây giờ chết có thân xác tu học nữa. Chớ bả tu chớ bả làm gì đâu, thì huân cái tu này nó còn quài chứ. Nó giờ có sanh ra đứa nhỏ khác đi nữa, thì đứa nhỏ này nó vẫn nhớ cái chuyện tu nó chứ, đâu làm sao. Mà bả còn tu sướng hơn mình nữa, bả còn trẻ khỏe hơn nữa. Phải không? Như vậy rõ ràng là mình thấy thiện pháp chứ, mình tư duy đúng pháp mà, nó làm cho mình đâu có bị rối.
Còn bây giờ, khóc bù lu bù loa nè: “Mẹ tôi mất rồi, phải hồi tôi đi tôi giúp bà thì đâu có chuyện này”. Thì do đó trái lại là đều ác pháp không à. Phải không các con?
Từ cái chỗ nghĩ này nó làm cho chúng ta an ổn, mà chúng ta thấy: “Ờ, bà sanh ra một đứa trẻ khác khỏe mạnh hơn và còn trẻ, khỏe hơn. Mà bà ôm pháp bà đi như vậy bà tu thì bà chết bà đâu có mất cái này đâu”. Do đó cái tâm mình an ổn mình nỗ lực tu, tới cuối cùng chứng quả A la hán. Bà cuối cùng cái duyên đó bà cũng chứng quả A la hán. Các con thấy phải không?
Chỉ có một cái thân này qua thân khác, cái mình khóc bù lu bù loa hà. Thân nào cũng là thân, chớ có thân nào mà nó, đâu có phải thân này nó có hai chân mà thân kia có một chân đâu, mà mình khóc. Có bao giờ chuyện đó đâu.
Còn con than thân trách phận, tại sao con cứ nghĩ cái thân này tu, còn cái thân khác không tu à? Chỉ bây giờ mình ôm pháp hay là không ôm pháp nè. Nếu mà con không ôm pháp tức là ôm phiền não, mà ôm phiền não thì mai mốt phiền não nó sẽ lôi con cái thân xác nó phiền não chứ nó đâu có làm sao có pháp tu.
Còn con bây giờ không phiền não chết rồi thì cái thân xác nó cũng không phiền não thì tiếp tục nó tu nữa chứ sao. Có gì đâu, đó là cái luật tự nhiên, đương nhiên nó như vậy, tôi ôm cái nào, tôi huân cái nào thì cái đó nó sẽ về với tôi.
(01:05:03) Cho nên vì vậy tại sao Thầy nói cô Liễu Kim, mà cô giữ gìn được cái tâm bất động tu như vậy, rõ ràng là cô đâu có mất Chánh pháp đâu mà sợ. Bây giờ chồng với con cô thì thấy là nói cô mất, nhưng mà sự thật ra cổ đâu có mất đâu, cô đang ôm pháp cổ tu, bây giờ tu lại không có chồng, có con lại còn sướng hơn là hồi đó có chồng, có con tu cũng khó, muốn xin vô trong này chồng con không cho đi. Phải không? Còn bây giờ cổ có mình cổ tu còn sướng hơn. Mà cái duyên cổ lại tu còn sớm nữa, còn dễ hơn nữa, không phải sướng sao?
Các con thấy Thầy nói có đúng không? Bởi vì hồi đó cổ đau gần chết vầy mà cổ vẫn cứ ôm cái tâm thanh thản cổ đi, thì như vậy là cô ôm pháp chứ cô ôm gì. Biết mấy con có làm như vậy được chưa?
Cho nên, bây giờ mấy con cố gắng tập để cho mình vững vàng hơn cô Liễu Kim nữa. Mà cô Liễu Kim cổ có tu bao nhiêu đâu!
Nhưng mà cổ chỉ cổ đặt trọn cái niềm tin ở Thầy thôi. Cho nên do đó mà Thầy viết bức thư gửi cho, cổ đọc cái bức thư đó mà cô giữ gìn tâm bất động cô thôi, trước những cảm thọ quá đau đớn của cái bệnh ung thư.
(01:06:04) Phải không, thì bây giờ mấy con về đây, tất cả những cái điều mà Thầy dạy cũng là rút tỉa từ kinh nghiệm để chúng ta biết rằng, chúng ta huân được cái gì, ôm chặt được cái pháp thì cái pháp đó không rời chúng ta đâu. Bỏ thân này đi qua thân khác thì cái pháp nó vẫn còn bám chúng ta. Bởi vì cái đó là chúng ta tạo cái nghiệp giải thoát mà, cái nghiệp làm sao mất được.
Cũng như bây tạo cái nghiệp tham sân si, bây giờ bụng mình cũng tham sân si. Tại hồi đó mình cũng ôm tham sân si mình đi, thì bây giờ nó cũng còn trong bụng, trong dạ chứ làm sao. Bây giờ mình xả tham sân si mình đi, thì tham sân si nó hết rồi qua thân kia nó đâu còn tham sân si. Có phải sung sướng không?
Bây giờ nói thật sự ra thì mấy con cái tham sân si mấy con cũng bỏ xuống. Thầy bảo bây giờ cái tham sân si nó có đây nè, mà giờ muốn bỏ nó xuống phải cứ ôm cái pháp thôi. Trời nóng nực mà ôm pháp còn không thấy nóng nực, mà huống hồ là cái thứ tham sân si này nó đeo mấy con sao được. Cứ ôm pháp đi làm sao nó đeo. Mấy con nhớ kỹ điều đó!
Tại vì mấy con bỏ pháp, cho nên tham sân si nó bám vô mấy con sẽ được. Đó, bây giờ Thầy nói trời nóng ở ngoài đó, mấy cái thất ở ngoài đó trời nóng như vậy đó, mấy con cứ ôm pháp đi mấy con thấy. Ôm riết sao nó quên không thấy nóng nảy gì hết. Chứ còn cái người nào ở trong mát mát này đi ra, trời ơi! Nóng quá, y như cái lò. Nhưng mà mấy con ở ngoài đó mấy con thấy có cái lò gì đâu! Bình thường thôi, cái phản ứng tự nhiên của cái cơ thể chúng ta tự nhiên nó cũng nó quân bình được với cái sức nóng đó.
Thành ra mấy con thấy, bây giờ một số người này ở trong này bóng cây mát vậy, xách mấy con ra ngoài đó là mấy con nhăn mặt, nhăn mày liền. Nhưng mà cho mấy con bắt buộc phải ở đó không có đi đâu hết, ba bốn bữa thấy nó bình thường, không có gì hết. Còn nếu mà cho mấy con chạy ra, chạy vô Thầy bảo ở ngoài đó không nỗi. Có đúng không? Mấy con thấy rõ ràng.
Còn bây giờ ở đây mấy con biết là, bởi vì cái phương pháp của Phật nó thật, chúng ta phải ôm chặt nó đi, rồi chúng ta sẽ vượt qua tất cả những cái khó khăn.
Cho nên trong cái bài pháp Thân Hành Niệm, đức Phật nói mười cái điều kiện lợi ích cho chúng ta, mà năm cái điều đầu tiên là nhiếp phục tất cả những cái khó khăn của chúng ta rồi. Tại chúng ta không ôm chặt cái pháp Thân Hành Niệm. Cho nên do đó mà chúng ta không có nhiếp phục được.
Các con nhớ, khi nào mà nhớ lời ông Phật dạy là không bao giờ ông Phật dạy sai mình chút nào hết, dạy có kinh nghiệm. Bởi vì nó là cái chân lý rồi, nó không phải là một triết lý cho nên nó có kinh nghiệm, kinh nghiệm thật sự. Cho nên khi mà tu được rồi Thầy thấy đúng, đúng là ông Phật dạy không có sai đâu. Bữa nào mấy con ôm thử đi, mấy con ôm chặt đi, nó càng nóng mấy con cứ ôm rồi mấy con sẽ thấy rằng nó sẽ. Và như vậy cái tâm tham sân si mấy con có chứ không phải không, nhưng mà các con ôm pháp thì cái tham sân si nó không ở lâu.
Bây giờ thật sự ra cái tâm của mình nó khởi một cái ham muốn cái gì đi nữa, các con cứ cố gắng nhiếp phục cái tâm mình trong cái hơi thở đi. Thì một lúc cái ham muốn nó cũng đi mất, các con không có được. Đó là một sự thật bằng chứng chúng ta nhỏ nhỏ thôi, chúng ta cũng vẫn thấy đó là cái thật, chứ không phải là cái nói mà không có.
Cứ bây giờ mình ôm hơi thở mình cứ thở ra thở vô, mà cái ham muốn cứ ở trong bụng mình nó cứ ham muốn hoài hoài trong này, không có đâu. Ôm lát cái nó say ở trong hơi thở, sao cái ham muốn đó bây giờ nó quên mất rồi?
Nó là sự thật mà, nó lìa ra được, nó không có còn ở trong cái thân của chúng ta được. Nhưng mà chúng ta bỏ cái pháp thì bắt đầu nó vô, nó lìa chứ nó đoạn đâu mà nó không vô được.
Cho nên nghe đức Phật nói: “Ly dục, ly ác pháp”. Chứ chưa phải là đoạn diệt nó đâu. Cho nên mình ly nó, mình nhờ cái pháp này mình ly nó ra. Rồi khi mà mình bỏ cái pháp ra thì bắt đầu nó dính vô, rồi bắt đầu mình lìa nó ra nữa. Và cứ tập luyện như vậy thì nó sẽ đến cái mức độ cuối cùng của vi tế của nó không còn thì nó không có kéo ra, kéo vô nữa thì hoàn toàn…
Đó, thì đó là cái sự tu tập. Bởi vì đến đây là mấy con biết nó cả một cái vấn đề của chúng ta. Cả một cái vấn đề, sự thử thách bao nhiêu sự đau khổ, mà chúng ta không nỗ lực tu thì rất uổng!
(01:09:48) Bây giờ đó thì mấy con hỏi Thầy gì nữa thêm không? Hiểu rồi phải không?
Thứ nhất là phải xả tâm, thứ hai là phải an trú tâm, có hai cách thôi. An trú tâm để đẩy lui những bệnh khổ. Chứ mấy con chưa làm chủ được cái hơi thở mấy con đâu. Nghĩa là chưa làm chủ được cái sự sống chết.
Do đó thì đương nhiên là mấy con phải nỗ lực. Thứ nhất là xả tâm, hoàn toàn là thấy thiện pháp Chánh tư duy chứ không được thấy ác pháp, tức là ngăn ác diệt ác pháp. Nhớ lời Thầy dạy! Thì không có cái gì mà ác pháp đối với chúng ta. Bởi vì đây là cái môi trường, cái nơi mà chúng ta tu tập thì nhất định là không được để ác pháp lọt ở trong tâm chúng ta, phải xả ra hết. Đó là cái duy nhất.
Rồi mấy con có hỏi gì, có thêm gì không?
Tâm có dao động sao mà hỏi Thầy đây?
(01:10:29) Tu sinh 2: Kính bạch Thầy! Con xin hỏi Thầy, cái thứ nhất là con bị chướng ngại về hơi thở, nhưng mà con không tu 18 đề mục của nó mà con đi Thân Hành Niệm với con xả tâm có được không Thầy?
Trưởng Lão: À được! Không sao hết, con nghe em của ông Cấp Cô Độc, chỉ tu Tứ Vô Lượng Tâm, Từ, Bi, Hỷ, Xả mà chứng quả A La Hán, đâu cần phải tu Tứ Niệm Xứ đâu. Đâu có cần phải tu 18 Định Niệm Hơi Thở đâu, phải không? Mà người ta có tu Tứ Vô Lượng Tâm, tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả. Thế mà rồi người ta chứng quả A La Hán.
Cho nên tùy cái duyên, tùy theo đặc tướng, mình hợp cái pháp nào tu. Bây giờ con hợp pháp đi kinh hành Thân Hành Niệm con tu, nó cũng y như trong hơi thở chứ gì. Rồi bắt đầu bây giờ con an trú ở trong cái bước đi con, thì con đẩy lui cũng được chướng ngại pháp chứ đâu phải cần an trú trong hơi thở.
Ví dụ như bây giờ: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”, thì con áp dụng cái câu nói nè: “Cái thân nó phải an tịnh trên bước đi, ta đi ta biết ta đi”. Đủ rồi! Ý nghĩa cũng vậy thôi có gì khác nữa đâu. Kia nó hơi thở, cài này bước đi. Thì con thấy có khác đâu, cho nên nó đâu cần phải hơi thở đâu. Hiểu chưa?
(01:11:38) Cho nên hợp cái nào cứ tu cái nấy. Chứ bây giờ tôi thở tức ngực tôi quá trời, tôi làm sao thở được mà bắt tôi cứ thở hoài, chắc tôi chết tôi rồi làm sao?
Cho nên ở đây con phải tu theo cái đặc tướng của con. Bây giờ con hợp với đi kinh hành, cũng tu ở trong cái tỉnh thức ở trên kinh hành, còn cái kia nó tỉnh thức trên hơi thở cũng vậy thôi chứ không có khác đâu. Nhưng mà cái câu pháp hướng nó phải thay đổi, cái kia thì an tịnh trên hơi thở, còn cái này an tịnh trên bước đi, chỉ có khéo tác ý thôi.
Ờ, Thầy chỉ nói tác ý như thế này, nó linh động, nó thiện xảo. Thì lúc bấy giờ chúng ta thí dụ như bây giờ cái câu: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành…”, đó là cái câu ở trong cái ý của kinh Phật. Nhưng mà chúng ta có thể nói như thế này nè, ngắn gọn hơn: “Cái thân và tâm phải an ổn ở trên cái hơi thở”. Rồi bắt đầu bây giờ hít thở không nói tới lui gì nữa, rồi một chút: “Cái thân tâm này phải an ổn trên cái hơi thở”, nhắc nó vậy.
Một lúc mình thở, khi mình nhắc nó rồi mình thở nghe cảm giác nó chưa an ổn thì mình cảm giác nó an ổn. Bây giờ hít vô tôi nghe từ trên đầu tới dưới chân nó không có chướng ngại gì, nó an ổn rồi đó, phải không? Bắt đầu từ đó nó an ổn, mới đầu thì mình cảm nhận cái an ổn đó sơ sơ, sau đó nó hiện ra cái tướng an ổn thật. Cho nên bền chí, cứ tập đi rồi nó sẽ an ổn thật.
Mới đầu thì mình có như cảm tưởng là như thấy nó an ổn, mà thật sự nó an ổn thật. Là tại vì nó đâu có ngứa, đâu có nhức, đâu có đau chỗ nào mà không an ổn. Phải không? Bây giờ tôi hít vô nè, tôi bảo cái thân tâm này an ổn, mà cái bảo này là chuẩn bị cho nó lát nữa nó đau nhức, ngứa gì đây. Phải không? Mình dặn nó: “Mày không có được, lát nữa mày không có đau nhức, ngứa nghe”. Đó là mình bảo nó về sau, chứ không phải bây giờ, bây giờ nó đâu có đau nhức đâu mà bảo bây giờ. Nhưng mà mình dặn câu này có nghĩa là “cái thân này phải an ổn, không có được đau nhức nữa nghe không. Mày lát nữa đau nhức là không được”. Ý của mình muốn nói nó như vậy.
Cho nên bây giờ tôi nương vào hơi thở, tôi mới nhận cái sự an ổn của cái thân tôi bây giờ không có đau, có nhức chỗ nào hết. Đó, mà bây giờ tôi hít vô, ờ bây giờ cái tay mày ngứa hả, được rồi, cái ngứa này: “Thọ là vô thường, mày phải đi nghe. Tao bảo cái thân an mày không chịu an là chết mày nghe! Bây giờ phải nương vào hơi thở nè”. Mình nói như vậy thôi, rồi mình hít thở, hít thở mình cảm giác an. Một chút xíu thôi, cái ngứa này nó đâu mất, con muỗi cắn nó cũng bay đi đâu mất, không biết.
(01:13:53) Đó như vậy là rõ ràng nó an rồi, thì như vậy nó không còn nữa thì, từ cái chỗ mà cái cảm giác ngứa của con muỗi mà mình lại nương vào cái hơi thở chứ mình không cần gãi nó, do đó mình tác ý rồi, mình thấy nó không còn ngứa nữa. Nó trở về cái trạng thái bình thường hồi đầu mà chưa bị con muỗi cắn. Bắt đầu bây giờ nó lại có một sự an, lạ lạ. Mình thấy cảm giác nó lạ lạ rồi. Bắt đầu bây giờ nhắc thêm coi nó tới nữa không? Nhắc thêm nó tới chút, nó an chút. À, như vậy là tôi an được rồi, tôi làm được rồi.
Ờ, bắt đầu mấy con nhảy tởn lên: Tôi làm được rồi! Tôi thấy nó an ổn rồi! Mình phải làm được mình mừng chứ gì. Nhưng mà mừng là mất đó mấy con. Bắt đầu bây giờ mình ngồi lại làm lại, dẫn cho nó an cho được, thì cái mục đích của chúng ta dẫn tâm mà cho nó an trú được rồi, chúng ta đẩy lui chướng ngại pháp ở trên thân rất dễ, có vậy thôi.
Cái mục đích của mình đẩy lui chừng nào mà tất cả Thân, Thọ, Tâm, Pháp của chúng ta không còn chướng ngại nữa thì chúng ta thành tựu. Hiểu chưa?
Cho nên vì vậy mà con đâu có cần tu hơi thở đâu. Nhớ chưa? Cứ lo đi kinh hành cho Thầy. Thân hành niệm đi được thì cứ đi, mà đi không được thì đi kinh hành bình thường thôi, cũng là tu thôi. Do đó thì tùy theo câu tác ý linh động mà chuyển câu tác ý theo đặc tướng của mình thì hiệu quả của nó mà trong Thất Giác Chi gọi là Trạch pháp, chọn lựa câu tác ý cho mình tu tập, cho hợp với mình thì nó sẽ có kết quả.
Chứ đừng có ôm chặt kêu là học thuộc lòng đó, thì không có được. Cái câu nào đó tôi cứ học thuộc lòng, tôi cứ tác ý theo kiểu thuộc lòng, tôi tụng như tụng tâm kinh bát nhã. Các con biết tụng tâm kinh bát nhã không? Gõ mõ vầy, “hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn…” đọc lia lịa chớ mà không biết ở trong đó muốn nói gì hết, mà đọc lia lịa. Thì đó là không có được đâu. Các con mà tác ý cái kiểu đó không được đâu.
Mỗi một cái mà tác ý ra, là khi mình tác ý bảo cái thân mình là an tịnh đó. Thì bắt đầu hít vô mình mới cảm nhận từng cái thớ thịt của mình có an tịnh hay không? Thì như vậy mấy con sẽ tu kết quả. Chứ còn mấy con mà không chịu cảm nhận được thì mấy con tu không kết quả đâu. Phải không?
Đó Thầy nói rồi đó, thì như vậy còn hỏi Thầy gì thêm nữa không?
(01:15:56) Tu sinh 2: Còn cái thứ hai nữa thì thí dụ như bà già con, thì con cũng quán về cái nhân quả của bà. Theo như con nghĩ, tự nhiên cái ác pháp nó lại tới là con quá bức xúc đi, nhưng mà con cũng quán lại, thành ra tới tối mà 9h rưỡi con thấy là con không có suy nghĩ. Nhưng mà cuối cùng là phải cho cô Út hay. Cô Út thì, kính bạch Thầy, thì hôm nay cái tâm con cũng…
(Cô Út Diệu Quang: Dạ Thầy, ở ngoài cửa có một đống thơ, ai gửi, quăng vô.
Trưởng Lão: Ờ, được rồi…
Cô Út Diệu Quang: Không có, ở ngay cái gốc cây để một đống như vầy…)
Tu sinh 2: Kính bạch Thầy! Con hỏi nhiều quá có mất thời gian không Thầy?
Trưởng Lão: À, không có sao đâu con. Bây giờ Thầy nói, về cái phần mà nhân quả như Thầy nói về phần mẹ con, thì con yên tâm không có lo gì. Bây giờ bà có đang ở trong cái tịnh xá nào đó mà con muốn đưa bà về thì con nên đi về rồi con đưa bà về tới tịnh xá cho yên ổn đi, coi như là nhân quả bà trả rồi bây giờ người ta sắp xếp cho bà yên ổn. Phải không? Bây giờ bà trả nhân quả rồi, thì bắt đầu…
Tu sinh 2: Bây giờ con hỏi thêm, kính bạch Thầy! Tại vì Thầy nói là hỏi để bà về, bà về đề giải quyết công chuyện rồi bà lên, nhưng mà cô Út nói con phải đi về, thành ra bây giờ con không biết làm sao?
Trưởng Lão: À giờ không biết sao, con cũng xin phép cô Út bây giờ thôi cho con về con giải quyết bà già.
Tu sinh 2: Cô Út thì kêu con đi, nhưng mà con thì con không có muốn đi, con sợ về gặp chướng ngại pháp.
(01:17:56) Trưởng Lão: Ờ, thì gặp chướng ngại càng tốt, gặp chướng ngại thì mình xả, có gì đâu! Càng có chướng ngại thì càng tu tốt chứ có sao mà sợ. Con sợ, con tránh né không tốt đâu. Con cứ ra gặp, như cô Kim Liên cứ về, cho nên càng tốt. Bây giờ nó hết rồi bây giờ nó đâu có nữa, cho mày có nữa tao đến nữa, đến cuối cùng mà tới ngày mà cuối cùng mà tao tới hơi thở cuối cùng mà còn nữa thì thì tao cũng xả nữa. Cuối cùng tao chứng đạo, không có gì tao sợ!
Cho nên đừng có tránh né con, những cái đối tượng đó là những cái nhân quả rồi, mình đừng có sợ. Thôi giờ nói vầy: “Đi ra thì sợ động này kia”. Đừng có nghĩ như vậy đâu, tại cái duyên nó tới rồi, con hiểu không? Nếu mà nó không tới thì mình đừng có kiếm chuyện mình đi phá nó, mà nó tới thì mình phải giải quyết nó chứ đừng có nghĩ.
Thầy nói như cô Kim Liên cổ đâu có muốn cái chuyện mà cổ đi xuống dưới đó đâu. Nhưng mà bây giờ người ta báo rằng bây giờ sư bà, sư trưởng gì bệnh đau thì phải đi, chứ bây giờ cái nhân duyên như vậy mà mình nói: “Tui làm lơ đi, tui cứ nỗ lực tui tu, tui độc cư”, thì không có được đâu, mấy con đừng có nghĩ.
Đây là những cái ác pháp nó đến để cho mình giải quyết được cái tâm của mình mà mình tiếp duyên nhiều khi nó có lợi trên con đường tu mình rất lớn, chứ không phải nó có hại đâu, đừng có sợ!
Độc cư là khi nào mình sống ở đây nó bình an vậy đó mình tự mình tạo ra cái mất độc cư đó thì cái này đáng trách. Còn cái này từ đâu ở ngoài nó đến nó làm cho tui mất độc cư nhưng mà tui vẫn giải quyết được, làm cho cái tâm tui không độc cư, chứ đâu phải là tui ở chỗ này độc cư đâu, tui đi ra chứ tui vẫn giữ độc cư là vì cái tâm của tui nó không bị động trong đó là độc cư chớ.
Con hiểu chữ nghĩa độc cư, Thầy nói cái phá…
Bây giờ cái sự kiện đó, con ngồi đây con nói con giữ độc cư nhưng mà sự thật cái pháp ở ngoài nó tác động vô mình rồi, thì mình cũng giữ độc cư được đó, thì tức là mình đến đó mình xả cái tâm của mình nó không còn vướng mắc trong này là độc cư. Con cứ đi đi, con cứ đi lo cho bà già đi. Thứ nhất là mình phải tỏ ra đứa con có hiếu, qua cái hành động người ta thấy mà.
(01:19:51) (Cô Út Diệu Quang: Thầy Thầy, cho con 2 cái.
Trưởng lão: Hai cái thơ hả?
Cô Út Diệu Quang: Dạ, cho con 2 cái con trình.
Trưởng lão: Thôi thôi, để chờ Thầy chút, Thầy coi đã.
Cô Út Diệu Quang: Không có để con phải đi trình chứ còn cái này để vầy không được.
Trưởng lão: Để Thầy coi chớ.
Cô Út Diệu Quang: Cho con 2 cái.
Thầy đếm đó là mấy cái dạ?
Trưởng lão: Không biết, bao nhiêu đây để Thầy coi. 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10…
Cô Út Diệu Quang: Con không biết của ai mà một đống quá trời, con lại con lượm
Trưởng lão: Biết đâu chừng của học trò…
Cô Út Diệu Quang: Không phải, thơ không, con có đọc rồi.
Tu sinh: …
Cô Út Diệu Quang: Con đi báo.
Trưởng lão: Trời ơi! Mấy thằng này nó viết cho tốn mực, tốn giấy chứ làm gì! Cho nên mấy thằng này nó viết tốn giấy, kệ nó! Ăn thua gì.
(01:20:54) Trưởng Lão: Bắt đầu bây giờ về phần con xong rồi hén. Con giải quyết cho bà già rồi về tu, không có gì đâu. Vậy nó, cái đó là mình xả cái tâm chớ không có gì. Con hiểu chưa? Đó là cách thức xả tâm mà thực tế, cụ thể hơn. Bởi vì đức Phật trang bị cho mình cái Chánh Tư Duy mà. Cho nên, do đó đâu có bảo mình Chánh Niệm không đâu, đâu có bảo mình Chánh Định không đâu.
Cho nên nếu mà ờ bây giờ đức Phật dạy không có Chánh Tư Duy, ờ Chánh Niệm, Chánh Định…(không nghe rõ). Hiểu chưa?
Rõ ràng là đức Phật đã trang bị cho mình tám cái nẻo tu chứ đâu phải một cái nẻo đâu mà mấy con cứ cố chấp cái Chánh Niệm, Chánh Định à, mà quên mấy cái kia hết à. Mà chính mấy cái kia mới là quan trọng chứ, nó thuộc về trí mà. Nó thuộc về Tri kiến giải thoát của chúng ta, nó thuộc về trí rồi.
Cho nên do đó mà chúng ta phải đi vào trong cái nẻo này nó nhiều chừng nào, nó lại thấy thoái mái chừng nấy. Cho nên người ta không cần tu Chánh Niệm, Chánh Định luôn. Mà người ta tu nội cái Chánh Kiến, Chánh Tư Duy không, thì người ta ngăn ác diệt ác, người ta sống một đời sống bình thường mà không ai làm động được cái tâm người ta hết, trong cái Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, ác pháp không có xâm chiếm được người ta.
(01:22:00) Tu sinh 3: Con mọi hôm con cũng nói chắc mình thiếu tu quá, mới sanh thiện về đây, rồi giờ vô xả chưa xong nữa là tới thiện pháp rồi, chắc thiếu tu quá.
Trưởng Lão: Sao con nghĩ con thiếu tu? Lẽ Chánh Tư duy thì không có bảo chứ: “À, mình đủ duyên tu quá cho nên nó mới có chuyện này để mà tu”. Phải không? Con phải lý luận như Thầy như vậy mới gọi là mình Chánh Tư Duy chớ. Còn con cứ nghĩ rằng: “Tui thiếu tu, nên thấy buồn bã quá!”. Còn Thầy nghĩ là mình đủ duyên tu, cho nên nó mới xảy ra điều này kia để cho mình tu, thì đó là mình thấy là ờ được phước chứ!
Có gì không con?
(Cô Út Diệu Quang: Thầy cho con để lại chỗ cũ, để lại chỗ cũ rồi công an lại làm việc.
Tu sinh: Cô Út thấy lo quá.)
(01:23:11) Trưởng Lão: Cổ thì nói chung cổ lo quá lo! Bởi vì nó ảnh hưởng lắm mấy con. Có cái gì đó người ta bỏ tùm bậy tùm bạ, người ta nói mình đó. Người ta chụp mũ mình đó chứ đâu phải chuyện giỡn đâu.
Đó mấy con thấy, Thầy thì bất kỳ, bây giờ bắt bỏ tù Thầy vui vẻ thôi, Thầy đâu có ngán đâu. Bởi vì đối với Thầy là giải thoát rồi. Còn sợ mấy con chưa giải thoát mới là khổ thôi, trời ơi! Vầy tôi làm sao tôi tu đây? Mới chết chứ! Giờ Thầy ai làm gì mặc, không lo gì hết.
(01:23:37) Tu sinh 4: Thầy Thầy cho con hỏi.
Trưởng lão: Rồi, con hỏi gì?
Tu sinh 4: …(không nghe rõ).
Trưởng Lão: Trong cái mà về cái Xả Giác Chi thì ở đây cái Xả Giác Chi nó mới tới cái Trạch Pháp Giác Chi, hai cái này là cái cuối cùng.
Thì bắt đầu, đầu tiên con thấy cái Tinh Tấn Giác Chi, ở đây mình nói cái Tinh Tấn Giác Chi chứ sự thật ra đây là cái tinh tấn của thường chứ chưa phải là giác chi thật sự đâu. Nhưng mà nó thực hiện ra mình biết sử dụng nó đó, cái tinh tấn này mình sử dụng theo cái ý thức mình điều khiển, tức là điều khiển cái lực tưởng. Không có được vượt ra ngoài cái ý thức của mình đó, thì nó còn nằm ở trong đó thì mình gọi nó là Tinh Tấn Giác Chi.
Còn nếu nó ngoài cái sức của mình điều khiển nó, thì nó là thuộc về tưởng chứ gì. Nhưng mà sự thật nó hiện ra cái tướng này là cái tướng của tưởng, tức là cái tâm mình nó chưa xả hết đâu. Khi nào mà nó xả hết thì nó mới trở thành cái lực của Tinh Tấn Giác Chi thật sự. Nhưng mà khi xả hết, nhưng mà nó hiện ra mình biết sử dụng nó, biết sử dụng được cái lực để cho mình thực hiện để cho cái phương pháp nó dễ tu. Con hiểu Thầy muốn nói không?
Chứ không phải nó là cái Tinh Tấn Giác Chi thật sự bây giờ đâu, chưa đâu. Bởi vì khi nào mà Xả Giác Chi nó xả sạch hết rồi, nó thanh tịnh đó thì cái siêng năng này mới chính thật sự là Tinh Tấn Giác Chi.
(01:25:12) Còn cái xả giác chi nó chưa có hiện ra, chớ không phải là khi mình tu vậy là xả nó có xả liền ở đó, không có đâu. Tại cái tưởng nó che chứ cái tham sân si của mình còn. Cho nên khi mà con rời tu rồi, có ai nói chướng thì mình thấy tâm mình cũng chướng chướng. Phải không? Như vậy nó chưa có xả đâu, thế nhưng khi mà nó xả, kêu là nó có xả thì người ta nói không có chướng nữa.
Mặc dù nó vi tế, nó vi tế rất vi tế. Nhưng nhiều khi cái vi tế đó nó chưa có hiện ra cái hình, nhưng mà mình vẫn thấy nó có những cái điều kiện mà báo động cho chúng ta biết là xả chưa hết. Là cái thân mà xả chưa hết là cái thân chúng ta có những cảm thọ. Cảm thọ ví dụ như đau nhức hay hoặc cái này kia là nó chưa hết cái tham sân si của chúng ta ở trong này nó chưa xả hết đâu. Nó còn đó là nó còn cái hiện tượng cái quả của nó còn.
Còn nó hết, thí dụ xả hết tham sân si rồi thì cái quả của nó cũng sẽ mau hết, nó xả chưa hết thì nó gọi là… Mà còn cái quả là còn phải đau nhức, phải này kia. Nếu mà nó không xả hết rồi thì cái trời nắng này, cái trời nắng mà hầm hầm con cũng không thấy nắng, nó xả hết rồi.
Cho nên nó xả luôn cả cái thời tiết, bởi vì nó thuộc về xả mà. Mà bây giờ cái Xả Giác Chi nó chưa hiện ra được, cho nên trời hầm hầm thì mình chỉ còn ôm pháp, mà ôm pháp mình quên nó đi, chứ nó có xả đâu. Rồi khi mà mình quên mình tưởng là nó xả ra. Đâu phải đâu, nó có xả đâu. Mà tại nó quên. Phải không? Con hiểu chưa?
(01:26:32) Cho nên đừng có nghĩ rằng bây giờ cái Khinh An Giác Chi nó có cái xả trong đó nó mới khinh an, không phải! Cái khinh an là cái trạng thái Xúc Tưởng Hỷ Lạc của chúng ta nó xuất hiện ra thôi. Nhưng mà mình biết sử dụng nó, đừng có để cho nó thoái quá, đừng có đắm chìm nó, ham thích nó thì lại bị nó dẫn dắt. Cho nên vì vậy mà chúng biết sử dụng nó để cho cái thân chúng ta nhẹ nhàng, nó an ổn mà chúng ta tu tập ở trên pháp Thân Hành Niệm nó không bị mệt nhọc.
Chớ pháp Thân Hành Niệm mà không có Tinh Tấn Giác Chi, cái Khinh an, cái Hỷ Giác Chi này con tu rất là mệt nhọc đó, rất là cực đó.
Cho nên, đầu tiên Thầy dạy người ta 5 hơi thở đi kinh hành 20 bước đó, người ta nói: “Pháp gì mà cực quá!”. Bởi vì đi 20 bước cái ngồi xuống, ngồi xuống thở 5 hơi thở chưa có được yên thân cái đứng dậy. Mới đầu ai cũng vậy, bởi vì con biết nó có Khinh An, có Hỷ Giác Chi, Có Khinh An Giác Chi chưa mà cho nên không thấy cực, phải không?
Còn mình bây giờ nó có chút ít rồi mình thấy không cực, mà phải khoái quá. Thích tu, thích lắm! Bữa đó là nó có cái này rồi cho nên nó mới thích. Còn bữa nào mà nó không có là mấy con thấy cũng cực chứ đâu phải không, mà ráng đó chứ. Kêu là nó cũng vất vả, nhiều khi đi sao nó mỏi chân quá trời, đó là cái khi đó nó không có. Còn nó có thì mấy con đỡ.
Nhưng ở đây chưa hẳn là giác chi. Nhưng mà Thầy nói nó giác chi để các con biết lấy cái ý thức chúng ta điều khiển nó trở thành giác chi thật sự, sau khi nó Xả Giác Chi và Trạch Pháp Giác Chi nó hiện ra đủ thì nó mới trở thành bảy giác chi thật sự của mình. Bởi vì xả nó mới hết rồi thì tức là tất cả những cái này, cái tưởng, cái lực của nó nó cũng bị diệt đi.
Cho nên từ cái lực tưởng nó trở thành, Thầy nói lấy lực ma làm lực của mình mà. Các con hiểu cái chỗ đó? Chỗ mà Thầy trả lời con hôm đó, lấy cái lực ma mà làm lực mình. Thì bây giờ mình sử dụng nó đó là lấy lực của nó chứ không phải là lực của mình thật sự đâu.
Cho nên sau khi cái Xả Giác Chi với cái Trạch Pháp Giác Chi nó hiện ra rồi, thì từ cái lực ma nó trở thành lực mình toàn bộ hết rồi. Lúc bây giờ mình mới sử dụng nó mình nhập các định và mình thực hiện Tam Minh. Các con thấy không, mình sử dụng toàn việc.
Bởi vì cái tưởng nó cũng ở trong thân tâm của mình, nó là ngũ duyên của nó mà, năm cái uẩn của nó mà. Cho nên nó hiện ra mà nó điều khiển theo kiểu của nó, mình bị lệ thuộc vào nó, nó dang tay, mình ở trong cái dục của nó.
Cho nên, đó cũng như là cái ý thức của mình nó có cái dục của ý thức đó, thì mình bị cái dục nó sai cái ý thức của mình làm. Còn cái này cái tưởng, nó cũng có cái dục của tưởng nó sai, cái tưởng nó sai nó làm theo cái dục của nó. Cho nên vì vậy nó ngoài cái điều kiện của mình, buộc lòng mình phải có sự điều khiển của mình, tức là có một cái Chánh Tư Duy của nó. Cái tư duy, suy nghĩ tức là cái trạch pháp. Cho nên mình buộc nó phải theo cái trạch pháp của mình. Cho nên gọi là Chánh Tư Duy của nó ở trên cái pháp tác ý, Như lý tác ý. Gọi là Trạch Pháp Giác Chi đó.
(01:29:17) Khi mình trạch pháp như vậy đó, đầu tiên đó là mình trạch, chưa phải là Trạch Pháp Giác Chi xuất hiện, mà là trạch pháp của chính mình. Con hiểu không? Bởi vì khi đó các nhà học giả, họ dạy về Thất giác chi, đầu tiên họ dạy đó là cách thức pháp trạch giác chi. Còn pháp xuất hiện Thất giác chi là khác. Do tu Tứ Niệm Xứ, do tu Thân Hành Niệm mà xuất hiện Thất giác chi, chứ không phải là pháp Thất giác chi.
Cho nên nó xuất hiện ra mình sử dụng, chứ mình có tu nó đâu. Còn cái đầu tiên mà mình vào mình gọi là tu Thất giác chi là cái pháp Thất giác chi, nó thuộc về Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, nó thuộc về pháp. Cho nên chúng ta trạch pháp, trạch cái câu này ra, chọn lựa cái câu này, trạch là chọn lựa, chọn cái câu này ra để mà tác ý cho nó đúng. Do đó là trạch, phải không? Đó là thuộc về Trạch Pháp Giác Chi.
Bây giờ tôi chọn lựa cái niệm, cái niệm hơi thở hoặc là cái niệm tay tôi đưa ra, hay tôi bước đi và tôi trạch cái niệm đó ra để làm cho tôi có chánh niệm. Con hiểu chỗ đó không? Thì đó nó cũng thuộc về nằm ở trong cái Niệm Giác Chi. Nhưng mà cái niệm đó nó chưa phải, mình mới trạch ra để mình chọn lấy cái niệm đó thôi, để mình tu thôi. Thì cái này là nó thuộc về pháp Thất giác chi, chứ chưa phải là giác chi xuất hiện.
Đó mấy con phân biệt được vậy mấy con mới hiểu. Cho nên những nhà học giả họ…
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian: 2004
Thời lượng: [01:30:50]
Tên cũ: 2004-Học tu TNX (2 ngày Thọ Bát)
https://thuvienchonnhu.net/audios/2004-che-ngu-va-an-tru-tam-tinh-giac-de-xa-tam.mp3
(00:00) Trưởng lão: Phải cố gắng hết sức lực của mình để mà vận dụng từng hơi thở mình. Nhất là người vận dụng hơi thở chầm.. chậm.. chậm.. chậm, thở ra thở vô thì sự ức chế rất cao.
Cho nên mấy con thấy những pháp mà gọi là mấy con biết để xả tâm ly dục, ly ác pháp rồi thì mấy con xả tâm mấy con dùng cái pháp Thân Hành Niệm sẽ không bị ức chế, mà mấy con chưa xả tâm là mấy con bị ức chế. Bởi vì mỗi hành động như thế này, mấy con tác ý ra, mấy con bảo: “Cánh tay mặt đưa ra!” thì từ từ con tập trung rất kỹ trong cánh tay mặt của con đưa ra từ từ. Con bảo: “Cánh tay mặt đưa vào!” thì con từ từ đưa vào, con tập trung rất kỹ như vậy gọi là ức chế tâm. Cho nên pháp Thân Hành Niệm, nếu người ly dục, ly ác pháp thì cái đưa tay ra là tự nó tập trung trên đó rồi chứ không cố gắng để tập trung.
(00:46) Hiện giờ, các con chưa ly dục, ly ác pháp thì các con cố gắng nhìn từng hành động đưa chầm chậm như thế này, đó là ức chế tâm, ức chế tâm toàn bộ rất cao. Cho nên Pháp Thân Hành Niệm đối với người chưa ly dục, ly ác pháp mà tập, nó sẽ bị phản ứng. Còn chúng ta ly dục, ly ác được phân nửa hay được hai phần rồi thì không bị ức chế. Nó khó, cho nên nhiều người mới tu thì không nên tu pháp này bởi vì mình mới tu là tâm mình chưa ly dục, như mình ăn ngày một bữa chưa được, mình ngủ chưa nghiêm chỉnh, còn bị hôn trầm, thùy miên tức là còn ham ngủ, còn ham ăn mà bây giờ mình vào tu pháp Thân Hành Niệm là bị phản ứng.
Tâm mình còn ác pháp, hễ người ta nói gì hơi nặng là tức giận, mình sân lên là còn ác pháp. Còn ác pháp mà tu pháp Thân Hành Niệm thì một (thứ nhất) là mình lọt vào Tưởng, bị vì mình bị ức chế nên mình lọt vào Tưởng; Hai là mình bị phản ứng làm cho mình bị đau nhức, đi không được, để chân xuống nó thốn, nó đau, nó làm cho mình khó khăn, đó là mình ức chế. Cho nên mình phải hiểu sự ức chế, ức chế là do tập trung quá cao độ gọi là ức chế.
(01:43) Trưởng lão: Còn “Chế ngự tâm” thì như thế nào? “Chế ngự tâm” có nghĩa là không làm theo tâm. Bây giờ là hai giờ, tâm muốn ăn cái bánh hay muốn ăn trái chuối, thì mình bảo tâm: “Giờ này mày sanh dục, muốn ăn hả? Tao nhất định không ăn.” Mình không ăn tức là mình chế ngự.
Giờ này không phải giờ ngủ mà nó buồn ngủ rồi, nó gục tới, gục lui rồi; mình thấy nó muốn đi ngủ, mình thấy nó luận trong đầu: “Mình ngủ cho khỏe để lát nữa dậy tu cho tốt.” Đó là nó luận để cho nó ngủ, chứ bây giờ nó bị dục ngủ; cho nên: “Giờ này không phải giờ ngủ, nhất định tao không cho mày ngủ, mày phải đi kinh hành, đi trong Chánh Niệm Tỉnh Giác.” Do đó mình đi tới đi lui, đó là mình chế ngự tâm không làm theo nó; mình ly cái dục gọi là chế ngự.
Chẳng hạn bây giờ tâm mình thấy đống rác kia dơ, mà giờ này đang ngồi thiền thấy nó dơ, thôi để quét nó rồi vô ngồi cũng được. Do đó mình nói: “Mày khởi cái tâm, mày muốn quét rác tức là còn dục, giờ này là giờ tu chứ đâu phải giờ quét rác.” Cho nên vì vậy mình ngăn chận không cho nó làm cái này, không cho nó đi hốt rác. Đó là chế ngự tâm của mình. Các con hiểu chế ngự không? Không phải mình ngồi nhiếp hơi thở ra vô là chế ngự.
(02:55) Còn bây giờ nói về “An trú tâm”, mình phải hiểu như thế này. Bây giờ bình thường, tâm con không có gì hết mà con ngồi nhiếp trong hơi thở, con thở ra, thở vô, thở ra, thở vô, con tập trung không có vọng tưởng tức là con bị ức chế tâm.
Còn an trú tâm - Bây giờ thân tôi đau quá, đang đau bụng quá, nhức đầu quá. Bây giờ, tôi sẽ an trú trong hơi thở tức là tôi cố gắng tập trung trong hơi thở giống như là mình ức chế tâm đó các con, nhưng khi mình đang bị đau, nếu mình không cố gắng tập trung hơi thở thì nó cứ thấy đau làm sao. Nên mình ráng biết hơi thở, biết hơi thở và mình tác ý: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra.” Tức là mình bắt buộc cái tâm của mình phải trú vào trong hơi thở là nó làm cho thân hết đau. Như vậy, “an trú tâm” là khi có đối tượng làm cho tâm chúng ta đau khổ hoặc tâm chúng ta phiền não; khi đó, chúng ta trú vào hơi thở hay bước đi gọi là an trú; an trú để thân, tâm mình an ổn trở lại. Các con hiểu chỗ đó chưa? Gọi là an trú.
(03:51) Còn bây giờ thân, tâm tôi nó có bệnh đau gì đâu mà tôi an trú, tôi an trú kiểu này là tôi bị ức chế tâm tui sao? Các con hiểu chữ “an trú” chưa? Không khéo mấy con chưa biết, do đó lúc nào tôi cũng an trú trong hơi thở, không ngờ là mình ức chế tâm mình. Tu riếc nhức đầu, tu riếc căng mặt, tôi riếc nó loạn thần kinh, nó điên, tu riếc nó lọt vô không tưởng mới chết tôi chứ! Đó là hiểu sai mà tu sai, phải hiểu đúng thì tu đúng. Vì nói an trú là mình biết cái thân nó đau hoặc tâm đang phiền não, lo lắng cho nên mình trú để cho nó an, gọi là an trú, đặng cho nó được an trở lại chứ gì. Các con nhớ chưa?
Cho nên vì vậy khi nào mình biết, khi nào thân có đau mà bây giờ tôi phải trú tâm để thân hết đau, như vậy gọi là an trú. Cái Tâm của tôi có phiền não, giận hờn “hồi nãy người ta chửi, giờ nó còn hầm hầm, nó tức quá trời!” Bây giờ làm sao đây? Tôi phải an trú trong hơi thở rồi tác ý ra để cho an ổn trở lại, không có phiền não, không giận nữa như vậy gọi là an trú.
Còn bây giờ thân tôi an, tâm tôi cũng an thì tôi trú làm chi nữa? Tôi trú cái an này là thanh thản - an lạc - vô sự không phải sướng hay sao mà bây giờ phải nhiếp vô hơi thở làm chi đây? Tôi điên hay sao mà ôm cho chặt, rồi lát tôi mệt? Bộ ngồi nhiếp tâm trong hơi thở không mệt hay sao, ngồi chơi không sướng sao? Các con biết không?
(05:06) Khi mà ngồi chơi thanh thản, an lạc, vô sự thì thân, tâm mình có gì đâu. Cho nên, do đó tôi tu Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ là tôi ngồi, khi nó có thì tôi an trú tôi đẩy, không có thì tôi ngồi ở trong tâm thanh thản của tôi. Như vậy rõ ràng tôi có pháp thật sự, pháp nào tôi cũng có hết rồi. Phải không, mấy con thấy đúng không?
Đây là những cái danh từ, người ta không hiểu, người ta sai, không biết mà tôi bây giờ bình thường, tôi cứ hít thở tôi biết hít thở, tôi an trú trong hơi thở chứ gì. Rõ ràng mình trú trong hơi thở thật, nhưng mà thân tôi có đau, nó mạnh giỏi, bình yên thì an trú làm chi? Nó an rồi mà tôi còn trú chi nữa? Để nó ở trong cái an không sướng sao mà tôi còn trú? Hiểu chưa?
Hiểu như vậy, mấy con mới biết cho nên con đường tu của Phật hay ở chỗ chúng ta thấy có chướng ngại thì chúng ta mới “an trú”, mà bây giờ không chướng ngại mà trong cái tâm chúng ta ham muốn cái này, cái kia thì đây là “chế ngự”.
(06:01) Còn bây giờ mình tu tập một cái gì khác thì cũng bị ức chế hết. Phải không, các con thấy không?
Nhưng trước khi muốn cho mình tỉnh táo để từng cái ác, cái thiện đến cho mình hiểu biết thì phải tập Chánh Niệm Tỉnh Giác. Cho nên, khi mà đi Kinh Hành Chánh Niệm Tỉnh Giác, mấy con đi như người đi vô sự. Khi mình đi mà thấy tâm mình gom trong bước đi thì mình ngó ra để cho nó tự nhiên hơn, chứ mình cứ nhìn chăm chăm bước đi thì bị ức chế rồi làm sao? Cho nên rốt cuộc mấy con tu sai lúc nào mấy con không biết.
Cứ nghĩ mình tu làm sao cho đừng có vọng tưởng, đi làm sao mà từ đây tới đằng kia hai mươi bước, ba mươi bước mà không có vọng tưởng thì nó tốt chứ gì?
Không tốt đâu mấy con, có vọng tưởng càng nhiều càng tốt đó. Tại sao vậy? Nó có vọng tưởng nhiều, mình mới có cách thức mình ly, mình mới hiểu được cái tâm mình mình ly. Cho nên Đức Phật nói: “Ngồi đó mà suy nghiệm lại tâm của mình, nếu có công đức nào thì giấu không cho ai biết, mà nó có lỗi lầm nào thì nói ra để sửa lỗi lầm đó.”
Mà khi ngồi lại một mình, những niệm này, niệm kia thì mới thấy lỗi lầm của mình trong những niệm đó. Coi nó còn tham ăn, tham ngủ; nó còn tham tiền, tham bạc; nó còn tham này kia không? Mà nó tham nhiều là mình biết nó có lỗi lầm chứ gì?
(07:24) Phải không? Mấy con ngồi chơi, bây giờ tâm tôi bảo đừng có nghĩ, thì như vậy tôi thành cây, cục đá sao; để cho nó nghĩ chứ. Nhưng khi nó suy nghĩ thì tôi biết cái niệm này là cái niệm thiện, cái niệm này là niệm ác, niệm này sẽ lỗi lầm.
Tôi ngồi đây suy nghiệm từng tâm niệm của tôi; từng thân, thọ của tôi, coi nó có quả gì; nó đau cái chân, nhức cái đầu hoặc ngồi mỏi, mệt, đau cái lưng; tôi biết từng cái quả đó để tôi tìm cách đẩy lui nó ra khỏi, đem lại sự thanh bình cho thân và tâm tôi. Các con hiểu? Mà đem lại sự thanh bình cho thân, tâm tôi là giải thoát chứ gì!
(08:04) Cho nên Đức Phật nói: “Ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện” có phải đúng không? Chớ đâu có dạy tôi tụng kinh niệm Phật, đâu có dạy tôi ngồi thiền. Mà chính cái tôi tâm ly dục, ly ác pháp nó là tâm thiền, nó là tâm bất động.
Mà khi cái tâm ly dục, ly ác pháp, nó bất động thì nó có bảy năng lực của Giác Chi chứ không phải là pháp giác chi, mà là năng lực của Giác Chi. Cho nên lúc bây giờ, tôi muốn nhập Định nào, tôi dùng cái năng lực đó nhập tất cả các Định.
Trong Bát Chánh Đạo, quý phật tử thấy rõ ràng có tám lớp tu tập mà lớp Chánh Định nó cuối cùng; lớp Chánh Định không khó khăn. Bởi vì tám lớp này, mà bảy lớp nó đều tu trên Giới, tu trên Tứ Niệm Xứ thân, thọ, tâm của nó. Mà Tứ Niệm Xứ nó sung mãn, nó thanh bình rồi, nó ly dục ly ác pháp là nó thanh bình rồi, thì nó đủ lực để chúng ta nhập bốn định tức là Chánh Định. Chánh Định là bốn thiền đó.
Khi nhập bốn định rồi, ở trên bốn định này, tôi sẽ thực hiện Tam Minh, tức là nhìn lại Lậu Tận Minh: hoàn toàn cái mầm tái sinh luân hồi, tôi thấy nó hóa giải, không còn mầm tái sinh nữa. Tôi biết rằng tôi chỉ có một đời này chứ không còn tái sinh luân hồi nữa. Tôi biết rất rõ. Tại vì Lậu Tận Minh làm tôi biết rõ nguyên nhân tôi còn tái sinh hay không còn tái sinh, tôi biết rất rõ.
Cho nên ở đây quý phật tử tu tập, mình biết mình hơn ai hết, mình còn tham thì biết tham, mình còn sân thì biết sân, mình còn ham ngủ thì biết còn ham ngủ, còn ham ăn biết còn ham ăn. Khi biết còn như vậy thì mình ngăn ngừa, diệt nó đi thì lần lượt nó sẽ hết.
Bữa nay, nó bớt một chút, ngày mai bớt một chút. Bữa nay, mình cấm nó không cho nó phi thời thì ngày mai mình cấm chút không cho phi thời. Một tuần sau, mình thuần nó hết, nó không thèm ăn thèm uống, tới giờ ăn, nó ăn rất ngon mà ăn rất tự nhiên, không còn thèm khát vật gì hết; đó là mình thuần hóa được cái tâm tức là mình ly dục ly ác pháp. Vấn đề tu tập là như vậy.
(10:05) Bây giờ về câu thứ hai, trong thư này con có hỏi Thầy trong những phương pháp tu tập con thay đổi như vậy có tốt không?
Thật sự ra xem sự linh động của con thay đổi như vậy: chẳng hạn hai giờ này con sẽ tu Định Niệm Hơi Thở “con biết hít vô, con biết con hít vô. Con thở ra..” mà bây giờ ngồi xuống con thấy buồn ngủ thì con thay đổi, con đứng dậy đi Thân Hành Niệm hoặc đi Chánh Niệm Tỉnh Giác; con thay đổi, con không ngồi tu hơi thở nữa mà con thay đổi, thì sự linh động đó rất tốt đó con. Như vậy mình thiện xảo, khéo léo từng phương pháp chứ không cố chấp “giờ này ngồi hít thở thì giờ này ngồi hít thở, buồn ngủ tôi cũng ráng ngồi”. Điều này không đúng đâu.
Đạo Phật dạy chúng ta linh động, thiện xảo, khéo léo từng pháp môn cho nên câu hai mà con hỏi thầy đó là sự linh động của con rất đúng, rất tốt, con biết thay đổi. Khi mình có bệnh thì phải tu pháp gì mà không bệnh. Mình phải biết tu pháp gì chứ không phải lúc nào cũng cố chấp: giờ này tôi phải đi Kinh Hành, giờ kia tôi phải tu Thân Hành Niệm, giờ nọ tôi phải tu Định Niệm Hơi Thở. Như vậy mấy con đã bị cố chấp, là sai. Mấy con phải khéo léo, linh động theo từng thời tiết, từng đặc tướng của mình để thực hiện những pháp này thì mới có hiệu quả.
Bức thư của con có những câu hỏi đặc biệt, Thầy đã trả lời rồi. Bây giờ tới những bức thư khác.
(11:53) Có một vị Phật sống. Một người bị bệnh đau đến đó để cầu vị Phật sống đó, quả là cái chân của vị đó đang bị đau. Đây là bức thư, không biết cô đó có ở đây không, Thầy cũng không biết?
Do vị này có lòng tin nên khi nghe vị Phật sống này, ông ta phán như vậy rồi, thì cô này, người bệnh này lạy lễ vị đó. Rất là niềm tin ở trong tâm của mình nên về cố gắng tập dần; cuối cùng, vài ba tháng sau cái bệnh nó đi lại được như thường, không còn khó khăn nữa; cho rằng đó là nhờ vị Phật đó cứu mình, chứ không phải chính lòng tin - tín lực của mình cứu mình, tin rằng lời nói đó sẽ giúp mình.
Chẳng hạn, bây giờ Thầy dạy mấy con theo cái pháp Như Lý Tác Ý, mấy con có tin rằng sẽ dùng nó để đẩy lùi được bệnh khổ của các con không? Như pháp Phật dạy: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra.” Nếu mấy con có lòng tin, do có lòng tin đó mà mấy con ôm chặt pháp này tác ý thì bệnh sẽ hết trong tâm mấy con. Là cái lòng tin của mấy con.
Còn mấy con không tin thì như thế nào? Mấy con cũng tác ý năm mười lần hoặc một, hai phút, một giờ thấy bệnh còn đau hoài, mấy con thấy thôi bỏ, đi uống thuốc. Như vậy lòng tin mấy con có không, mấy con?
Lòng tin có, nhất định một là chết chứ người ta không bỏ cái pháp đâu, người ta không bỏ lời đó đâu. Vì người ta tin rằng pháp đó sẽ hết bệnh nên người ta tác ý một giờ chưa hết thì hai giờ, hai giờ chưa hết thì một ngày, một ngày chưa hết thì hai ngày cho đến cuối cùng bệnh hết thì thôi. Mấy con thấy lòng tin mãnh liệt như vậy.
Nhưng sự thật, Thầy nói cái thời gian nó dài chứ sự thật nếu có lòng tin, nếu người ta có lòng tin thật sự, tin cái pháp sẽ hết bệnh, mình chỉ tác ý năm ba câu là hết rồi. Chỉ có lòng tin mình chưa đủ nên mình tác ý kéo dài. Chứ thật sự Thầy nói cái tín lực của chúng ta mạnh lắm, cái tinh thần của chúng ta ghê gớm lắm. Nhưng chúng ta không ngờ trong cái thân quá bất tịnh, thân hôi thối như thế này mà có cái lực vô cùng vĩ đại ở trong đó chứ không phải thường.
Cho nên chúng ta thấy nhiều khi các nhà võ học, yoga hay nhân điện, nhiều cái mình thấy không ngờ được, có những cái đặc biệt ở trong đó. Sự thật ở đây Đức Phật dạy từ ý thức chúng ta rèn luyện trở thành cái lực. Cái lực đó giúp chúng ta ly tham, sân, si. Tâm chúng ta càng ly tham, sân, si thì nghiệp nó chuyển. Vì vậy, lực đó rất mạnh, làm cho tất cả đau khổ của kiếp người chuyển hết không còn đau khổ nữa; chứ không phải chúng ta bị nhân quả, chịu đựng trong nhân quả rồi phải chịu số phận nhân quả đó, không phải đâu.
(14:27) Nhân quả luôn luôn thay đổi. Cho nên thân của chúng ta là thân nhân quả, cho nên từ bé cho đến lớn chúng ta phải vô thường thay đổi chứ. Cho nên nhân quả đâu phải cố định, nó thay đổi theo quy luật của nó. Vì vậy chúng ta biết, Phật biết rõ nhân quả là phải thay đổi nên Đức Phật dùng phương pháp chuyển hóa làm cho nó không còn nữa. Chứ nếu mà nó không thay đổi, nó cố định thì đạo Phật không ra đời đâu, nhất định là không dạy chúng ta cái pháp Như Lý Tác Ý đâu.
Hôm nay, Thầy trả lời câu hỏi này để thấy được vấn đề tín lực là quan trọng và cũng là nhằm khích lệ mấy con rằng khi pháp của Phật dạy: “ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện” và những đề mục trong Định Niệm Hơi Thở là rất quan trọng, vì cái đó trang bị cho chúng ta những phương pháp để mà chúng ta đẩy lùi tất cả các ác pháp trong thân tâm chúng ta.
Cũng như bây giờ trong tâm chúng ta có sân, rõ ràng sân nè, thì Đức Phật mới dạy chúng ta cái bài pháp để đối trị sân: “Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân tôi biết tôi thở ra.” Rõ ràng là chúng ta nương vào hơi thở, chúng ta tác ý như vậy thì tâm đang sân ầm ầm, bắt đầu nó hạ xuống liền và nó diệt ngay liền, chứ không để trong tâm chúng ta đâu. Nếu chúng ta tin tưởng thì ngay đó chúng ta đạt kết quả liền tức khắc. Các con thấy niềm tin nó rất là vĩ đại, không phải một cách thức thường đâu, cho nên nó rất cao quý mà chỉ có lòng tin chúng ta mới có sự liên tục, chúng ta mới tiếp tục mà tu tập.
Ví dụ thầy Chơn Thành về đây tu tập. Do lòng tin của thầy, khi thầy có những bệnh đau, trong một phút thầy chưa đuổi được thì một giờ, hai giờ, ba giờ thầy vẫn đuổi nó đi hết, nó không còn đau nữa. Thật sự ra nếu một người mà nhát gan thì chắc chắn là người ta không đủ niềm tin, người ta sẽ bỏ cuộc.
(16:22) Còn Thầy, còn trái lại bây giờ chỉ trong vòng đau một tích tắc là Thầy tác ý thì nó hết liền. Tại sao vậy? Tại vì lòng tin đó trở thành cái lực thật, không còn kéo dài như vậy nữa. Đó thì mấy con thấy qua lòng tin mà nó xác định thời gian chịu đựng nỗi thống khổ nơi cái thân bệnh chúng ta không? Xác định như vậy để thấy rằng kết quả của những người huynh đệ tu tập ở đây, không phải riêng Thầy mà có những người khác, người ta vẫn làm chủ được.
Và đồng thời những bệnh nhẹ, đối với mấy con cũng thấy: hiện giờ khi có bệnh đau, cái sức của mấy con đủ đẩy lùi bệnh nhẹ đó; còn cái nặng, mấy con chưa đẩy lùi được vì cái năng lực cao hơn, mạnh hơn nữa, mấy con phải tu tập hơn nữa. Mấy con ở chỗ này chưa đủ nên mấy con chỉ đẩy lùi được những bệnh sơ sơ, còn bệnh nặng quá mấy con chưa đẩy lui được, vì vậy mà mấy con còn phải cố gắng tập luyện hơn.
(17:12) Có người hỏi Thầy về mấy chữ: “nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng”. Họ không hiểu “nhẫn nhục” là như thế nào? Thường thường người ta nói nhẫn nại. Còn ở đây Thầy lại nói “nhẫn nhục”.
“Nhẫn” là mình chịu đựng, mình chấp nhận một cái gì đó, “nhục” là chịu nhục trên đó. Người ta chửi mình “chó” hoặc người ta chửi mình một cái gì đó, người ta nói mình, mạ nhục mình cái gì đó, mình chấp nhận trên vấn đề đó, mình không trả lời, không nói tới nói lui gì hết, họ nói gì mặc họ. Đó là “nhẫn nhục”. Nhẫn tức là chịu nhục trong lời nói đó hoặc là trong sự xỉ vả, sự mạt sát của người ta, mình không nói gì nữa tức là nhẫn nhục. Mình phải hiểu nghĩa như vậy.
Nhưng “nhẫn nhục” mà còn “tùy thuận”. Ở đây, mình “nhẫn nhục” nhưng mà mình biết “tùy thuận” theo điều kiện đó để rồi mình mới “bằng lòng” được. Do chỗ đó, nó kết hợp ba danh từ kéo theo một cụm, một nhóm của nó. “Nhẫn nhục” rồi, không thể nào kéo dài sự chịu đựng như vậy nổi. Tâm nó sẽ sinh ra phiền não, buồn rầu, đau khổ trong thân tâm của mình.
(18:17) Cho nên, khi mà mình nhẫn nhục được rồi thì mình mới tùy thuận, thì cái người đó họ không hiểu nghĩa từ “tùy thuận” như thế nào, nên họ cũng hỏi Thầy danh từ “tùy thuận” nghĩa như thế nào?
“Tùy thuận” là thuận theo, mình chấp nhận điều kiện đó, mình thuận theo ý đó, theo lời nói đó, mình không buồn rầu với lời nói đó, cho nên mình tùy thuận.
Chẳng hạn, người ta uống rượu, mời mình uống thì mình cũng tùy thuận với họ, cũng nhận ly rượu nhưng không bị lôi cuốn vào ác pháp tức là mình không kê ly rượu uống lên miệng, mà mình chỉ nhận lòng tốt người ta, mình nhận ly rượu, mình cầm rồi để xuống. Mình chỉ nhận, tùy thuận theo họ đó.
Nhẫn nhục là vì mình là người không uống rượu, mà họ mời mình uống rượu coi như họ sỉ nhục đó, họ làm nhục nhã mình đó. Do đó mình biết nhẫn cho nên mình không tức giận họ, bắt đầu mình tùy thuận là mình nhận ly rượu của họ, nhưng nhất định mình không bị lôi cuốn vào ác pháp nên mình để ly rượu xuống.
Họ nói tại sao mình không uống?
Mình nói rằng: Tôi không quen uống, cho nên tôi không uống mà tôi chỉ nhận lòng tốt của anh, tôi đã cầm ly rượu của anh là tôi đã nhận lòng tốt của anh, tới đây là tôi xin dừng, tôi không thể tùy thuận hơn được nữa. Mình sẵn sàng nói thẳng, nói thật vì tôi tùy thuận đến đây là cái mức, tôi không thể lôi cuốn vào ác pháp. Nếu tôi để ly rượu uống vào thân thì ngày nay chưa bị ghiền, thì ngày mai nó sẽ bị ghiền, nó ghiền thì thân tôi sẽ bị bệnh đau nên tôi không dại gì đem đau khổ vào thân, không để bị lôi cuốn vào ác pháp.
Tùy thuận nghĩa là thuận theo, làm theo người khác nhưng làm theo ở mức độ, chứ không thể nào làm theo ác pháp của họ. Họ bảo mình đi đánh lộn thì mình cũng đi đánh lộn với người ta thì không phải. Người ta bảo mình đi đánh lộn, nhất định là tôi chấp nhận: anh đánh lộn, hai anh đánh, tôi tùy thuận anh, tôi không cản anh nhưng mà tôi không làm theo anh mà đánh lộn. Đó là mình tùy thuận, còn mình cản người ta đó là mình không tuỳ thuận. Còn mình tùy thuận là mình biết rằng mình không thể cản họ được, cho nên mình tùy thuận mình không có cản người ta, nhưng không làm theo, không xách cây đi đánh lộn với họ. Đó là “tùy thuận”.
(20:28) Trong những phương pháp tu tập này, “tùy thuận”. Bây giờ hoàn cảnh gia đình của mình chưa có người nào ăn ngày một bữa, chưa có người nào ăn chay mà mình muốn ăn chay muốn ăn ngày một bữa, do đó mình không tùy thuận cho nên mình làm gia đình mình tan nát. Nghĩa là chồng thì ngồi ăn đằng kia, vợ ăn nọ; tôi ăn chay còn chồng thì ăn mặn, ăn kia chứ lại gần tôi nghe tôi ăn không được; làm như mình chê đồ ăn người ta, người ta phải tức. Từ chỗ đó, mình thiếu “nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng”.
Mình nhẫn nhục là trước mâm cơm thịt cá ê hề, nó gợi cái dục, mình cũng thèm ăn chứ đâu phải không thèm, nhưng mà mình nhẫn nhục mình chịu đựng cái sự thèm khát của mình, mà mình thực hiện chén cơm tương rau, ngồi ăn cả gia đình, đó là mình nhẫn nhục. Mình tùy thuận là vui vẻ không ngồi tách lìa với họ, để mình chia sẻ từng cái đau khổ với họ trong khi họ chưa hiểu. Mình biết như vậy, mình tạo cảnh êm ấm gia đình của mình, mình luôn luôn vui vẻ, mình luôn luôn phục vụ gia đình mình.
Ví dụ, mình ăn chay, ông ăn cá ăn thịt, mua cá thịt về tôi không làm đâu, như vậy gia đình mình tan nát. Mình vui vẻ làm tất cả cho gia đình mình ăn, nhưng tôi nhất định không ăn một miếng thịt cá trong miệng tôi. Vì tôi khởi sự lòng thương yêu đối với chúng sanh, tôi không nỡ nhai miếng thịt trong miệng, tôi không ăn, nhưng tôi vẫn phục vụ cho gia đình. Từ hành động biết được như vậy làm cho gia đình trở về ăn chay với mình mà gia đình rất là vui vẻ, không bao giờ thấy mình tức giận.
Còn khi mình ăn chay, người ngồi chỗ này người ngồi chỗ kia chứ không bao giờ ăn chung. Mình ăn ngọ thì thôi, ông với mấy con ăn gì ăn, còn riêng tôi thì tôi ăn riêng, tôi không thích ăn chung với mấy người nữa, mấy người là chúng sanh, còn tôi là Phật. Kiểu đó là mình trèo lên bàn ngồi để cho người ta thờ mình, chứ còn chưa chắc… Mình ích kỷ quá, mình nhỏ mọn quá, mình chỉ lo cho mình mà không nghĩ đến gia đình, con cái, cả một chùm nhân quả đang đau khổ mà mình không lo, mình chỉ biết có mình, mình lo tu à.
(22:26) Ờ, bây giờ tôi thọ Bát Quan Trai, thôi ông ở nhà ông làm gì làm tôi không biết, tôi đi thọ Bát Quan Trai để mai mốt tôi đi làm Phật, tôi ngồi trên đó, mấy ông ở địa ngục ráng chịu. Té ra là mình bỏ vợ, bỏ con cái hết, mình lo cho cá nhân mình. Như vậy là không đúng đâu.
Mình biết hòa hợp nhưng mà không bị lôi cuốn, mấy con. Cho nên những đức “nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng” Thầy đã nói trong “Thiền căn bản”, Thầy đã nêu những hạnh mà mấy con phải làm, tức là không làm khổ mình khổ người. Mình không chấp nhận một điều gì gọi là ác pháp thì mình phải làm cái gì để người ta thỏa mãn, vui vẻ.
Ví dụ, người ta mắng chửi gì mình cũng vui vẻ. Ở đây cô Nguyên Hạnh có trình bày cho Thầy, cô quyết định chấm dứt vấn đề sắc dục. Đối với ông chồng thì ông chồng tức giận, ổng kiếm chuyện này chuyện kia, ổng rày rà, ổng mắng. Cổ cứ vui vẻ, ổng quăng cái này thì cổ lượm lên; vui vẻ lo cơm, lo nước cho ông đầy đủ hết; vừa giũ màn, giũ ghế, vừa giặt quần, giặt áo, lo lắng cho ổng đầy đủ hết; nhưng có điều kiện không được là không được. Cuối cùng, ông không làm gì được hết mà thấy bà vợ sao càng ngày càng tốt hơn hồi đó. Hồi đó, cái gì cũng được hết, mà nhiều khi bà bỏ nhà đi chơi, không lo gì hết. Mà bây giờ, bả lo tất cả trong gia đình, không có cái gì mà bả không lo, con cái bả lo đầy hết; có cái điều kiện là bả không chấp nhận. Cuối cùng, ông khâm phục, bà này là thánh tiên chứ không phải phàm phu.
Còn mình không làm được như vậy thì sao làm mình làm được! Phải không? Khi mình tu Phật pháp thì phải thiện xảo, khéo léo, biết áp dụng đạo đức. Biết cái đó là ác pháp sẽ đưa mình vào địa ngục, nhất định mình ngăn và diệt. Mà mình phải có can đảm chứ nếu yếu đuối thì mình không thể nào thắng được mình. Chính mình không thắng được mình nên mình mới bị lôi vào cái vòng ác pháp. Đó là Thầy giải thích về những chữ “nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng”. Vì không giải thích thì không hiểu, nghe thì biết như vậy nhưng coi thường.
Coi như vậy chứ rất khó, nhẫn nhục là một điều khó mà Đức Phật nói: “Nhẫn một việc khó nhẫn; làm một việc khó làm”, chứ không phải dễ. Nên ở đây nhẫn nhục không phải là dễ; mà tùy thuận không bị lôi cuốn thì không phải dễ đâu; coi vậy chứ áp dụng vào đời sống chúng ta cay đắng lắm mấy con. Bởi vậy, Đức Phật nói “gánh nặng của thiện pháp”, mình kê vai mình gánh nặng của thiện pháp chứ không phải là thiện pháp nó nhẹ đâu, nó nặng hơn là ác pháp.
(24:51) Bây giờ mình muốn ăn là dễ đó, là ác pháp đó, nó dễ đó. Mình muốn chửi người ta dễ đó, chứ còn mình không chửi người ta là khó, nhất định không ăn phi thời là khó, không ngủ phi thời là khó; chuyện đó là gánh nặng. Nên Đức Phật dùng danh từ, Thầy đọc trong kinh sao ông Phật hay quá! Ông dám nói “gánh nặng thiện pháp”. Thật, đúng là ăn ngày một bữa là gánh nặng thiện pháp chứ, ai cũng ăn thì nó bắt mình cũng thèm mà thèm không cho nó ăn thiệt là gánh nặng chứ đâu phải là nhẹ. Các con thấy, đây là vấn đề đối với thiện pháp không phải là chuyện dễ làm, nó rất khó làm.
Cho nên chúng ta khi mà đi vào con đường đạo Phật, chúng ta phải thấy thiện pháp là một gánh nặng cho chúng ta. Cho nên chúng ta chấp nhận được, chúng ta tự nguyện chấp nhận chứ không ai bắt buộc. Nên thầy nói giới cấm của đạo Phật không phải của Phật, mà giới cấm là do các Tổ viết ra cấm.
Còn đạo Phật là tự nguyện đến thì ai mà cấm mình. Tôi tự nguyện đến, tôi sống, ăn chay, làm như vậy như vậy; Phật làm sao thì tôi làm như vậy; Phật không sân thì tôi nhất định tôi không sân; Phật ăn một bữa, tôi nhất định tôi ăn một bữa nên không ai cấm được, tôi tự nguyện mà. Đây đâu phải vì giới luật cấm tôi mà tôi ăn một bữa đâu.
Bây giờ mấy con thấy, giới cấm không ăn phi thời. Do giới cấm mà tôi thọ Bát Quan Trai, tôi không ăn phi thời. Qua mấy ngày đó rồi, tôi cứ ăn phi thời. Nghĩa là mấy ngày không thọ Bát Quan Trai thì tôi cứ ăn chứ sao nên tôi không bị giới; Còn bây giờ, tôi thọ giới rồi mà tôi ăn thì tôi phi thời. Vì vậy mà những ngày kia, tôi thỏa mãn đủ ăn ngày ba bốn bữa thậm chí ăn đêm không sợ tội. Khi có giới cấm rồi, bắt đầu những ngày thọ giới thì tôi không làm. Như vậy tôi bị cấm nên tôi bị ức chế.
(26:37) Còn cái này, tôi tự nguyện đến đây sống trong đời sống giải thoát gọi là đời sống phạm hạnh nên đạo Phật là đạo tự giác, tự nguyện, không ai bắt buộc ai nên giới cấm cũng bằng thừa, cấm ai được đâu. Người ta tự nguyện đến, sống không được thì người ta về chứ không ai bắt ở đây đâu.
Người tu sĩ như Thầy mà sống trong giới luật Thầy sống không được thì tự nguyện ra chứ không ai bắt buộc thầy mang cái áo này mà ăn uống phi thời. Hễ người ta ăn uống phi thời mà cứ cho mình là thầy chùa, cho mình là thầy tu thì thầy nghĩ như thế nào? Ông Phật đâu có bắt buộc mình ở đây để mà ăn phi thời? Thế mà người ta phi thời. Đó là những cái không có đúng đó, mấy con.
Cho nên theo Thầy thiết nghĩ giới luật của Phật là giới cấm là… Sau này, các con sẽ đọc bộ Giới Đức Thánh Tăng, Thầy sẽ xác định bộ giới cấm thì đối với sa di có mười giới sa di, giới tỳ kheo có hai trăm năm chục giới, bên ni có ba trăm bốn mươi tám giới. Như vậy là giới cấm.
(27:32) Còn Giới Hành của nó thì tất cả các pháp Phật đã dạy chúng ta đó gọi là giới hành. Nên nó là hạnh Sa Môn, những đức hạnh một người tu gọi là Giới Hành. Ở đây, chúng ta tu ngăn ác, diệt ác đều là tu trên giới này. Chúng ta tự nguyện tu, chúng ta ngăn, chúng ta tự nguyện không ăn phi thời, nên chúng ta ngăn chận không cho ăn phi thời chứ không phải sợ giới cấm chúng ta.
Cho nên, các con thường thấy pháp luật đặt ra, ai vi phạm pháp luật là bị ở tù, bị bắt nhưng người ta vẫn phạm pháp. Còn ở đây, tôi tự nguyện tôi thực hành không vi phạm, nó khác. Ở đây muốn thực hiện, thực hiện mà không phạm pháp thì phải có đạo đức dạy người ta trên pháp luật đó thì người ta sẽ không phạm pháp. Đằng này, không dạy mà đưa ra pháp luật tức là người ta bị phạm, bị phạm thì phải bị tù. Nên Đất nước chúng ta thường có những người tù vì phạm những tội hình sự: trộm cắp, tham lam, xì ke ma túy, mãi dâm, đủ loại tội.
Do chúng ta không giáo dục Đạo Đức, vì vậy chúng ta thiếu một cái gốc độ đạo đức nên người ta không tự giác thực hiện, tự nguyện để giữ gìn pháp luật. Bởi vì Pháp luật là hình thức phạt vạ. Còn tự nguyện để giữ gìn pháp luật đó tức là giữ gìn đạo đức đó, thì chúng ta phải có bài học, có những môn Đạo Đức để học. Cho nên Thầy thiết nghĩ, xã hội chúng ta đang thiếu đạo đức và đang thiếu những môn học Đạo Đức. Còn pháp luật chúng ta có rồi, nước nào cũng có pháp luật nhưng pháp luật không đủ làm con người trở thành con người đạo đức hoàn toàn.
(29:20) Ở đây, bức thư này hỏi Thầy: Người thân mất sẽ tiếp tục theo nhân quả đi tái sanh rồi, không còn cầu siêu, cầu an để siêu sanh Tịnh độ.
Chỉ còn có cách là mình xin ấn tống những kinh sách đạo đức, kinh sách thiện hoặc kinh sách nhân quả. Kinh sách dạy Đạo Đức như: “Thập Thiện”, “Tứ Vô Lượng Tâm” hoặc những kinh sách dạy về đạo đức làm người, mình xin ấn tống. Mình ấn tống những kinh sách đó sẽ ban rải ra khắp cùng; do đó cha mẹ mình sinh lên, ước nguyện của mình: cha mẹ sẽ gặp được Chánh Pháp. Hiện giờ cha mẹ mình thành ra một đứa bé còn ở trong bụng, nếu là mới chết; còn chết ba, bốn năm thì cũng trở thành ba, bốn tuổi. Kinh sách Đạo Đức này được phổ biến rộng khắp cùng thì chắc chắn những kinh, do lòng thương của mình đối với cha mẹ, sẽ đến tay người cha của mình là một đứa trẻ bốn năm tuổi.
Muốn lòng hiếu thảo như vậy, tiền mình ít thì mình chỉ cần mua một cuốn sách đó thôi, hai chục hay ba chục hoặc mình đến chùa xin ấn tống hai hay ba cuốn. Trong khi đó mình bỏ một ngàn, hai ngàn, năm ngàn, mười ngàn hay một trăm, cái lòng của mình.
Hoặc là bây giờ, mình bỏ một ngàn đồng mình xin ấn tống cuốn kinh; mặc dù chưa đủ cuốn kinh nhưng cái lòng hơn bao nhiêu cuốn kinh. Mình xin mà: “Xin Thầy con gửi một ngàn đồng này để con ấn tống, phụ giúp với Thầy để in kinh sách, để làm lợi ích cho chúng sanh trong đó có ba con- người đã chết trong hai, ba, bốn năm hoặc mới chết bốn tháng, ba tháng. Mong Thầy chứng minh cho con.” Thì vị thầy, người ta nhận số tiền ấn tống kinh này. Công đức này, kinh này được phổ biến cho mọi người, trong đó sẽ đến tay đứa trẻ. Sau khi nó lớn lên, học hiểu biết, nó có duyên sẽ đọc những kinh đó, không có mất mát đâu hết. Vả lại những kinh này dạy cuộc đời đem lại hạnh phúc cho con người, làm con người không có ác pháp nữa. Do đó, nó lợi ích khi cha mẹ của đứa bé này đọc được sách này, cha mẹ không làm điều ác, do đó khi nó lớn lên trong môi trường gia đình không làm điều ác thì nó trở thành người tốt. Từ cái duyên người con ở trong hiện kiếp này ước nguyện như vậy để ấn tống kinh như vậy, nhân quả cha mẹ mình được tái sinh có đủ duyên đó đi tu sớm hơn nữa, không có lập gia đình, mà được vào chùa tu sớm.
(31:42) Trong khi đó những kinh sách thiện, những Đạo Đức của đạo Phật được phổ biến thì hầu hết trong môi trường sống có nhiều bậc A La Hán. Bởi vì những kinh sách thiện được phổ biến thì có những bậc chân tu, do đó cha mẹ mình vừa mới được mười tuổi hay mười sáu, mười bảy tuổi được một vị thầy hướng dẫn cho tu tập, được gặp một vị thầy. Đó là lòng tha thiết của mình ước muốn cho cha mẹ mình và thực hiện được điều đó. Nhưng trước khi thực hiện lòng hiếu thảo này thì các con nên nhớ rằng Đức Phật có dạy trong bài “Kinh Ước Nguyện”, muốn ước nguyện điều gì mà được thì mình nên giữ gìn giới tức là Thọ Bát Quan Trai rồi ước nguyện.
Ngày Thọ Bát Quan Trai, mình đến nơi ấn tống kinh, xin gửi số tiền để ấn tống kinh cho sự hồi hướng, cho sự ước muốn của mình cho cha mẹ mình. Như vậy trong ngày đó, mình giữ tám giới nghiêm chỉnh, mình đem số tiền tuy là rất nhỏ chưa đủ một cuốn sách - một ngàn đồng thôi - mình xin ấn tống kinh. Vì sự nghèo tiền mình ít, nhưng lòng mình nhiều cho nên gửi một ngàn đồng để xin Thầy ấn tống kinh- một thiện pháp để giúp cho mọi người, trong đó con ước nguyện cho ba con đã mất. Xin Thầy chứng nguyện dùm cho con như vậy. Ông Thầy nhận số tiền, ổng làm công việc phát hành kinh ấn tống. Đồng thời ổng chú nguyện; còn mình giữ giới ước nguyện cho cha mẹ mình. Những cái này tương ưng với nhau, giúp cho cha mẹ mau sớm gặp được Chánh pháp. Như mình biết Chánh pháp rồi, mình thấy giải thoát rồi chứ gì; còn cha mẹ mình gặp được Chánh pháp mà chưa có gia đình thì hạnh phúc biết mấy, không còn khổ đau. Phải không mấy con?
Cho nên Thầy thấy trong sự tu tập mà chúng ta biết cách, mà chúng ta nhớ thương những người sinh thành dưỡng dục mình, công lao như vậy mà mình thực hiện được như vậy thì hạnh phúc ghê gớm.
(33:43) .. Nó là cái nghiệp cho nên có bốn lớp học về Đạo Đức làm người. Thứ nhất mình thấy mọi việc ở trong đạo đức như thế nào thì người ta sẽ dạy cho mình, đó là lớp thứ nhất. Lớp thứ hai, mình suy nghĩ như thế nào về đạo đức? Lớp thứ ba, nói như thế nào là đạo đức? Chứ nhiều khi lời nói chúng ta thiếu đạo đức, mấy con.
Sau này, mấy con học bộ “Đạo Đức Làm Người”, Thầy sẽ dạy cho mấy con, từ Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ đến Chánh Mạng, Chánh Nghiệp là hành động làm của mình, mình làm nghề nghiệp này kia, nó thuộc về chân chánh hay không chân chánh, người ta sẽ dạy. Hành động đánh người thì không chân chánh đâu, làm nghề nghiệp sát hại chúng sanh như mấy người bắt cá, chài lưới, hành động chài lưới bắt cá, đâm heo, giết chó, sát sinh, làm thịt chúng sinh, đó là những hành động không chánh nghiệp, nó là tà nghiệp, nó là sự đau khổ trong đó.
(34:57) Cho nên sau này thì chúng ta học từ suy nghĩ, từ nhìn thấy cho đến cái nói và hành động của chúng ta nó nằm trong đạo đức. Cho nên đây là học Đạo Đức làm người, thì chúng ta học những hành động đạo đức của chúng ta. Cho nên cuốn “Đạo Đức Làm Người - tập 2” mới nói năm điều ngũ dục lạc thế gian thôi. Đến “Đạo Đức Làm Người - tập 3” thì nói đến ba hành động này: hành động suy nghĩ, hành động lời nói và hành động không làm những công việc, nó sẽ có cái tập đạo đức đó. Cuốn Đạo Đức thứ ba thì thời gian nữa mới in ra. Nó nói những hành động đó để dạy chúng ta cái đạo đức làm người.
Và đồng thời trong những hành động làm để sống đó còn có những cuốn đạo đức dạy về đạo đức nghề nghiệp, vì nghề nghiệp là hành động sống mà. Mình làm nghề đó mà không hiểu nghề đó, nhiều khi mình hiểu nhưng làm sai lệch, không đúng cách thì nó là tà nghiệp, không đúng chánh nghiệp. Cho nên vì vậy những bộ sách Đạo Đức sẽ dạy cho mấy con trong những hành động đó.
Cho nên Thầy xin trả lời không thể nào mà trong buổi như thế này mà dạy bài học đạo đức làm người cho ngay liền được. Hiện giờ Thầy có thể dạy cho mấy con được nhưng rất cô động. Vì hiện giờ, mấy con học qua Chánh Kiến về Đạo Đức. Khi mình nhìn vào sự việc, một đối tượng, người ta chửi mắng mình, hay có chuyện gì xảy ra, mình nhìn nó bằng nhân quả, mấy con.
(36:28) “Nhân” là như thế nào? “Quả” như thế nào?
“Nhân” là: những hành động của mình hoặc của người khác. Ví dụ hành động người ta chửi mình là cái nhân chửi. Cái “quả”: xem cái quả, coi tâm mình có giận không? Nếu tâm mình không giận thì đó là cái quả không khổ, nó là thiện; còn quả khổ là mình tức giận lên, thì đó là ác.
Cho nên mình nhìn nó nhân quả rồi mình xét, chứ mình đừng nhìn người ta chửi: “Người đó sao tôi đâu có chọc ghẹo đâu mà chửi tôi.” Như vậy mình thấy mình đúng, người ta sai nên mình căm tức. Cho nên đừng có nhìn thấy cái đúng cái sai mà nhìn cái nhân quả. Mọi sự việc xảy ra mà chúng ta nhìn bằng nhân quả thì nó mới hóa giải được tâm chúng ta, mấy con; không làm khổ mình, khổ người, mấy con. Ngay đó là mấy con đang học đạo đức đầu tiên là cái nhìn đầu tiên, tức là lớp Chánh Kiến.
Cho nên lớp Chánh Kiến người ta dạy Đạo Đức Nhân quả đó, tức là cái nhìn trong nhân quả chứ không có gì khác hơn hết. Đến đây Thầy tóm lược cho mấy con hiểu để khi mà mấy con về, gặp sự kiện xảy ra trong hoàn cảnh của mình thì các con hãy nhìn bằng nhân quả, đừng nhìn đúng sai, đừng thấy mình đúng mà người ta sai, đừng thấy người ta đúng mình sai, do đó mình không thấy nhân quả. Nhân quả sẽ hóa giải được, không làm con khổ, không làm người khác khổ nữa đâu. Đó là Thầy trả lời cho bức thư này.
Mấy con nhớ những lời Thầy dạy, những lời di chúc, lời tâm huyết để sau này khi gặp khó khăn, mấy con nhớ đến Phật, nhớ đến Thầy thì mọi sự khó khăn đó đều được hóa giải, đều được tan biến không làm mấy con đau khổ nữa.
(38:21) Ở đây, về bức thư thứ nhất của một cụ ở Hà Nội, Thầy đặt pháp danh là Tâm Nhẫn có hỏi câu hỏi: “Tại sao Thầy viết thư cho con lại đề là “Kính gửi” và cuối thư là “Kính thư”?”
Như Thầy trả lời hôm qua là chung chung. Hôm nay, Thầy trả lời bức thư này để gửi lại cho cụ. “Kính gửi” và “Kính thư” là thể hiện lòng tôn kính của Thầy đối với các con, tức là đối với học trò, đối với tất cả mọi người chứ không riêng đối với đệ tử của mình. Vì mọi người sinh ra đều giống nhau, như nhau nên không được xem có kẻ cao người thấp, phải bình đẳng. Đó là Đạo Đức của Đạo Phật như vậy.
Ví dụ, cha mẹ sinh con, cha mẹ có đạo đức của cha mẹ; còn con cái có đạo đức của con cái.
Vì chúng ta chưa học Đạo Đức làm người nên chưa biết đạo đức trong gia đình, cha mẹ đối với con cái, con cái đối với cha mẹ. Ở đây, Thầy chỉ tóm lược trả lời chữ “kính thư” và “kính gửi”.
Cách đối xử nhau, cha mẹ xem con mình như một người bạn thân chứ không được xem nó là một đứa bé, còn con cái xem cha mẹ như người ân nhân. Các con thấy như vậy, mình phải tôn kính nhau chứ không thể nào thiếu sự tôn kính, xem nhau như vậy là có sự tôn kính.
(39:51) Cho nên khi đối xử với nhau đều phải có lòng tôn kính. Với thầy trò cũng vậy, phải có lòng tôn kính. Vì thế thầy trò cũng vậy: thầy đối với học trò cũng tôn kính và học trò đối với thầy cũng tôn kính. Đó là Đạo Đức bình đẳng của Phật Giáo, Đạo Đức Nhân bản - Nhân quả.
Sau này, các con sẽ học và đọc những bộ sách “Đạo Đức Làm Người” tức là Đạo Đức Nhân bản - Nhân quả thì các con sẽ thấy những khoản này Thầy dạy rất kỹ. Nên dùng chữ “kính gửi” và “kính thư” đều nói lên nét đẹp đạo đức có văn hóa, có phong cách; đập tan bản ngã, kiêu mạn mà từ xưa đến nay loài người còn mang nặng trong lòng.
Mấy con thấy rõ ràng Đạo Phật là đạo vô ngã. Thế mà cách xưng hô của mình coi người đệ tử của mình người thấp cho nên mình không dám “kính gởi”, không dám “kính thư” thì rõ ràng là mình còn mang bản ngã. Một người mà bản ngã không còn tức là người ta sẽ đối xử rất bình đẳng.
Đạo Phật là đạo bình đẳng. Dù ông Phật đã thành Phật rồi nhưng mà ông vẫn xem ổng là một người như mọi người khác. Cũng như Thầy, bây giờ Thầy xem Thầy cũng mang thân này, cũng già, cũng bệnh, cũng đau, cũng chết, cũng như mọi người, ai cũng vào quy luật đó đều giống nhau.
Rồi tâm tư từ cái hồi mình chưa có tu, tâm mình còn tham, sân, si cũng giống như mọi người; bây giờ mình tu rồi, hết tham, sân, si rồi thì cũng như mọi người chứ không khác. Vì mọi người cũng sẽ cố gắng tu, cũng sẽ không tham, sân, si nữa, cũng giống như mình. Không ai cao hơn bậc nào hết, chỉ có người đi trước và người đi sau, người đi trước dẫn người đi sau. Cho nên Đạo Phật là đạo bình đẳng nên khi đạo Phật xuất hiện ở đất nước Ấn Độ đã phá tan những giai cấp của Ấn Độ, dám nhận một người giai cấp cùng đinh vào đạo Phật làm một tu sĩ làm chướng ngại giai cấp Bà-La-Môn và giai cấp Sát Đế Lỵ tức là giai cấp vua chúa.
Người ta đến với Đức Phật, người ta phải đảnh lễ giới cùng đinh mà trong lúc giới cùng đinh đó, khi mà giai cấp vua chúa và Bà-la-môn đi thì giới cùng đinh không dám đi trên đường đó mà phải nằm sát dưới lề để cho cái giới đó đi. Các con thấy ở Ấn Độ, giai cấp đó quá khổ. Người phụ nữ bên Phi châu đều bịt mặt lại hết, không được để mặt ra, các con thấy họ áp đặt người phụ nữ không có quyền hạn gì trong xã hội. Thế mà Đức Phật dám nhận người phụ nữ vào trong giáo đoàn của mình trở thành giới tu sĩ của Đức Phật trong thời đó.
(43:04) Cho nên hiện giờ theo Thầy thiết nghĩ, Phật Giáo Nguyên Thủy, họ không chấp nhận cho nữ xuất gia thọ cụ túc là còn ảnh hưởng của Bà-la-môn rất lớn chứ chưa phải hết. Cho nên ở đây, đối với Thầy đã thực hiện được sự bình đẳng đối với đệ tử của mình, vì vậy bộ sách Đạo Đức do Thầy viết ra phải nói cái Đạo Đức bình đẳng này để thực hiện, để chúng ta thấy từ cha mẹ đối với con cái như thế nào cho đúng đạo đức, mà đạo Phật mới có đạo đức đó. Đó là Thầy trả lời cho Tâm Nhẫn, Thầy xin gửi bức thư này cho Chánh Hạnh, con sẽ mang bức này về cho bác.
(44:24) Còn đây là bức thư của một người xin Thầy quy y, chắc là không có mặt ở đây, có nói rằng: “Trong nhà hiện giờ thờ tượng Phật Di Đà nhưng bây giờ theo Phật Thích Ca thì tượng Phật Di Đà này làm sao? Hồi theo Đại thừa thì hàng tháng, ngày ba mươi, đem nước, muối, gạo, quả tươi ra cúng giữa sân, bây giờ con còn làm điều đó nữa hay không?”
Thầy nói để hướng dẫn cho vị cư sĩ này, Thầy đặt pháp danh là Hương Phước. Tượng Phật Di Đà nên đưa vào chùa Đại Thừa và thỉnh tượng Phật Thích Ca về thờ. Bởi vì trong cuộc đời khi quy y Phật, quy y Pháp, khi mình quy y Phật thì chọn lấy một vị Phật nào đúng một sự thật mới quy y. Chứ rất nhiều Phật, vì theo kinh sách Đại Thừa có bảy vị Phật của quá khứ và tương lai còn có thêm một vị Phật Di Lặc. Bây giờ mình không biết quy y với vị phật nào, cho nên chọn lấy một vị Phật thật sự là con người ở trên hành tinh này, có cha có mẹ.
(45:50) Còn ngày nay, ngày mai nữa là chúng ta đi vào buổi quay phim rồi. Vậy trong mỗi nhóm bất kỳ, người nào đã thấy sự tu hành của mình như đi Kinh Hành Chánh Niệm Tỉnh Giác, như ngồi quán tu về Định Vô Lậu, người nào đã có tu về Định Niệm Hơi Thở đã có căn bản thì trong mỗi nhóm, mấy con hãy hướng dẫn cho những người đó, hoặc cho danh sách để Thầy biết những người đó. Thầy sẽ tập những người đó trước khi chúng ta chính thức quay phim, những người đó được hướng dẫn trong khi đó các con ngồi xem, hướng dẫn tập trước để vào buổi quay phim không còn bỡ ngỡ, không còn chướng ngại, nó sẽ suôn sẻ.
(46:56) Chúng ta nên chọn ở Hà Nội, mấy con đông An Giang… mấy con chọn được người nào thì cứ cho vào danh sách, gửi chung cho Thầy để Thầy biết những người đó và trong giờ nào đó, Thầy sẽ họp lại với những người đó sau.
Các con nhớ không, sau những thì mỗi nhóm ba người. Trong khi Thầy hướng dẫn, Thầy thấy người nào đã thuần thục ở trên phương pháp để lấy những hình ảnh đó ghi lại trong cuộn băng, từ cái tập đi đứng, ngồi thiền cách thức như thế nào mà Thầy chọn lấy người đó sẽ quay phim làm tài liệu tu học cho quý phật tử sau này.
Mỗi nhóm đều được chọn lấy ba người chứ đông quá thì làm sao hết được. Bây giờ đông quá thế này thì không quay hết được đâu, chỉ chọn lấy mỗi nhóm ba người. Trong khi Thầy hướng dẫn cho những người này, họ tập ngày nay và ngày mai cho thuần trong những phương pháp tu tập để khi quay phim không có bỡ ngỡ, không còn những sai lầm, cho nó đúng.
Bây giờ phần Hà Nội thì các con nên chọn, về phần Hải Phòng, Phú Yên, Nam Định,người đó để rồi Thầy sẽ chọn và có sự huấn luyện để cho họ tập tu như thế nào. Trong khi họ có căn bản rồi nên dễ dàng lắm, không có khó khăn.
(48:44) Hầu hết, ở đây mấy con đều là những người tu tập, đều quen hết với những cái pháp chứ không phải không quen đâu, nhưng hiện giờ mình chọn lựa ra để quay phim cho bảo đảm và chắc ăn hơn, để không có làm trật nữa, để nó bảo đảm hơn. Cũng như những người diễn viên của phim ảnh vậy. Ở đây phải tập luyện như vậy để khi cuốn băng video này ra đời, nó là bài học chung cho tất cả mọi người nên cần cẩn thận hơn để cho không bị sơ sót, để người ta theo đó. Dù người ta chưa bao giờ gặp Thầy, chưa bao giờ được Thầy hướng dẫn nhưng xem cái đó người ta cũng tu tập được. Người ta không còn bị sai nữa. Đó là về phần nhân sự để quay phim.
Còn phần thưa hỏi để tu tập hiện giờ thì chúng ta còn có thì giờ. Còn thắc mắc những gì thì mấy con có quyền thưa hỏi Thầy, đừng có rụt rè. Vì đến đây chúng ta còn những gì thắc mắc, chưa hiểu biết về cách thức tu tập thì chúng ta cứ hỏi, còn có gì chướng ngại trong tâm mình chưa thông suốt thì cũng hỏi để thông suốt. Không hỏi thì không khéo còn cái tâm nghi ngờ, nghi vấn điều này thế kia làm chúng ta không nhiệt tâm trên con đường tu thì cũng phí thời gian của mình rất nhiều và mình cũng khó đạt được. Mấy con hỏi gì thì cứ hỏi, Thầy sẵn sàng trả lời, để rồi mấy con muốn tu tập Định Niệm Hơi Thở hoặc Tứ Niệm Xứ hay cái gì đó thì mấy con cứ đưa tay lên Thầy sẽ kêu. Muốn tu tập cái nào thì đưa lên, Thầy sẽ hướng dẫn trực tiếp ở đây những điều mấy con muốn hỏi.
(51:10) Khi ngồi hít thở mà thấy cơ thể nóng lên, nó không sai đâu con. Nhưng khi chuyện đó mấy con có cảm nhận như vậy tức là có sự tập trung gom tâm mình rồi, thì nó có sự thay đổi trong cơ thể nên mình thấy nhiệt trong người mình nóng lên là tốt. Không sao hết, nhưng không phải vì cái đó mà khởi tâm mình là mình tu tốt, đừng có nghĩ, mà ôm pháp nương vào pháp của mình. Nếu mình an trú trong hơi thở thì biết hơi thở ra, biết hơi thở vô, cứ ôm chặt pháp thôi, còn trạng thái gì nó xảy ra thì trình cho Thầy. Như khi có cảm thấy hơi nóng trong người tăng lên, cái này tốt không sao, không có gì đâu mà sợ nhưng mình không lưu ý đến nó, chỉ ôm pháp thôi. Nếu có hiện tượng gì nữa thì mình cũng vẫn ôm pháp mà thôi; đừng thấy có hiện tượng gì đó mà mình bỏ pháp, ôm trạng thái đó thì nó sai, không đúng. Mình chỉ ôm pháp: “Biết hơi thở ra, biết hơi thở vô, tâm đừng lưu ý đến trạng thái, hiện tượng xảy ra trong cơ thể của mình”. Con nhắc như vậy thì rồi cứ nương vào pháp để tu tập thì sẽ không sao. Đó là những hiện tượng có sự thay đổi trong thân mình.
(52:28) Cho nên vì vậy mà ở bên phương pháp khác gọi là mình khai mở luân xa. Khi nơi nào trên thân mình có phát hiện ra một trạng thái gì đó thì nó báo động cho chúng ta biết đó là khai mở. Nhưng ở đây, chúng ta không có chú ý đến nó. Còn bên kia, người ta chú ý: khai mở huyệt này, khai mở luân xa kia, nó mới có hiện tượng như vậy. Ở đây, khi mình ngồi tu thì bắt đầu cơ thể mình có sự thay đổi. Nói như những phương pháp khác như yoga này kia thì người ta “khai mở”. Còn mình đâu có cần khai mở gì đâu. Mình chỉ cần ngồi an để trú được, an trú được để nương vào đó ly dục, ly ác pháp, chứ khai mở cái đó để làm gì.
Trạng thái mà con thấy nóng, thân nhiệt nóng lên trong người hoặc những trạng thái hiện tượng xảy ra khi mấy con ngồi nhiếp tâm trong hơi thở thì theo phương pháp yoga, phương pháp khí công thì người ta cho đó là khai mở luân xa, khai mở huyệt trong người chúng ta. Do nói như vậy làm chúng ta hướng đến “khai mở” đó.
Trái lại, chúng ta tu theo Phật thì không cần thiết nó, chúng ta chỉ biết an trú định trong hơi thở. Biết hơi thở ra, biết hơi thở vô để làm gì? Để an trú định nó, đẩy lui chướng ngại pháp trên thân, thọ, tâm của chúng ta mà thôi.
Mục đích của Phật không bao giờ theo hướng khai mở. Mà mình tu tập, nhiếp tâm an trú được là tự nó có sự thay đổi trong cơ thể, nó báo động cho chúng ta thấy được những trạng thái đó. Nhưng chúng ta không cần thiết nó đâu! Chúng ta không cần mở khai chỗ nào hết, hoàn toàn nó mở hay không mở thì kệ nó. Tôi chỉ biết an trú để đẩy những bệnh tật trong thân ra khỏi; tôi biết an trú để đẩy những tâm tham, sân, si ra khỏi. Đó là điều kiện chúng ta tu tập để giải thoát, làm chúng ta không còn đau khổ nữa thôi. Mục đích của chúng ta rất rõ ràng.
Còn ái kia cũng rõ ràng với phương pháp của nó: khai mở như vậy để thân tâm tôi nó nhập định, hoặc để nó thể hiện thần thông, hoặc qua việc khai mở đó, tôi xuất hồn đi chu du, chơi chỗ này chỗ kia; đó là mục đích của pháp người ta như vậy.
Còn mục đích của pháp mà Phật dạy mình nhằm để ly tham, sân, si, nhằm để ly dục ly ác pháp, diệt ngã xả tâm chứ không phải ở chỗ này, nhằm để chúng ta làm chủ được bốn sự đau khổ: sinh, già, bệnh, chết. Bây giờ bệnh đau thì chúng tôi biết nhiếp vào hơi thở, an trú trong hơi thở, xả cái bệnh đau, đó là mục đích của đạo Phật chứ không có mục đích gì khác.
(55:00) Cho nên ở đây, mấy con nhớ, nếu không có câu hỏi này thì chúng ta không biết, có câu hỏi này là nhờ chúng ta biết những trạng thái ngồi tu thường hay xảy ra tức là sự khai mở trong thân của chúng ta chứ không gì hết. Nhưng chúng ta không lưu ý đến vấn đề đó mà lưu ý đến hơi thở ra, hơi thở vô, lưu ý đến bước đi, lưu ý đến cái hành động đưa tay đưa chân mà chúng ta không cần biết gì. Tất cả những hành động như: hơi thở, đưa tay, đưa chân, bước đi của chúng ta đều gọi là pháp Thân Hành Niệm Nội hoặc Thân Hành Niệm Ngoại. Mà pháp thì ôm chặt pháp, lấy pháp làm chỗ nương tựa, lấy pháp làm sao để chúng ta điều khiển; đó là phương cách của Phật chứ không có dùng phương pháp đó để khai mở trên thân chúng ta.
Cho nên bất kỳ một trạng thái nào, một thanh tưởng nào, một sắc tưởng nào hiện ra: ánh sáng hào quang Chư Phật hiện ra hoặc âm thanh chư Phật, chư tổ, chư thiên nói, chúng ta đều chẳng tin điều nào cả hết vì chúng ta biết đó là những loại ma, loại tưởng trong tâm chúng ta lưu xuất mà thôi. Những sự xảy ra trong thân khiến chúng ta thấy rung động chỗ này hoặc tác động chỗ kia hoặc xuất phóng chỗ này, xuất phóng chỗ kia hoặc râm ran chỗ này, râm ran chỗ kia đều là do sự thay đổi khi chúng ta tu tập an trú được đều có sự thay đổi đó. Cho nên chúng ta không chấp nhận những điều đó, vì vậy chúng ta chấp nhận chỗ ly dục, ly ác pháp, cái chỗ ngăn diệt các ác pháp xảy đến trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta mà thôi.
Đến đây, mấy con còn hỏi Thầy thêm gì nữa không?
(56:44) Phật tử: Thưa Thầy, nhóm chúng con ở ngoài Hà Nội có Đức Minh, Thiện Nhẫn… Năm ngoái chúng con được gặp Thầy, đã biết được Chánh Pháp. Qua đây bạch Thầy khai mở cho chúng con. Chúng con biết ơn thầy, biết ơn chú Minh Đạo đã có công chỉ cho tu hành. Thưa Thầy, trước khi chúng con đến với Thầy, biết đến con đường Chánh pháp để tu tập, chúng con đã từng, đã mười năm rồi từ 1992, bao năm chúng con tụng rồi chuyển qua tu Thiền Tông của Hoà thượng Thích Thanh Từ, rồi cũng đã tập tu, đi qua cả nhân điện năng lượng, rất nhiều vấn đề. Vì thế cho nên là đến bây giờ chúng con nhận ra được pháp, chúng con có suy nghĩ. Riêng con có một suy nghĩ như thế này. Con có trình bày với chú Minh Đạo: “Riêng cá nhân tôi thì tôi thấy cứ để tâm thanh thản, chú bảo tâm thanh thản thì chỉ một hai phút thôi thì thấy thanh thản thật. Con thấy thanh thản thật, con thấy vô sự thật. Sau đó thì con đã được giải thích đó là tưởng. Nhưng hôm qua Thầy dạy mấy đạo hữu già, con lại thấy hình như là con đúng. Thế cho nên con thắc mắc chỗ này.
Bây giờ, nhất là các đạo hữu công nhận đã ngót tám mươi, chú Đức Thông cũng đã tám mươi rồi. Các bác ấy có dặn con vào đây bạch Thầy và thấy được điều gì thì về nói lại các đạo hữu đó vì các đạo hữu đó già, yếu không đi được.
(58:59) Hôm qua, con thấy Thầy dạy các đạo hữu già như thế con thấy nó đúng quá. Đối với các bác ấy bây giờ mà tập đi dò từng bước và tất cả những quy trình như thế thì nó lâu quá và không làm được. Bác Tâm Nhẫn đi bây giờ phải chống gậy thì làm sao đi như thế được. Cho nên nó lâu mà lại không thiết thực. Hôm qua con thấy điều này, con cảm thấy trước đây ở nhà, nhất là thời gian sau Tết vừa rồi, con thấy suy nghĩ của con chưa đúng, như thế có phải là Tưởng không? Cũng có thể là Tưởng.
Tại sao con biết là Tưởng? Bởi vì bản thân con có lúc có thấy hào quang, bản thân con có lúc là thấy mạch chạy dọc xương sống nó chạy ào lên đỉnh đầu, bản thân con có thấy cái huyệt bách hội làm tóc nó rung rung lên. Bây giờ con mới tiếp thu được là ta bám vào nó tức là tâm phóng dật, không bám vào nó chỉ bám vào hơi thở thôi, thì mới gọi là tâm không phóng dật. Bây giờ con nghiệm ra điều đó và không thể theo cái đó được. Nó như thế thì nó có vấn đề gì? Con xin Thầy chỉ rõ cho con.
Thứ ba hôm qua, Thầy cho con quyển sách mà đạo hữu Liễu Tâm đưa cho con. Hôm qua, con đọc, con thấy trước đây con chưa hề nghĩ đến, con thấy danh từ “liên pháp”, đang Định Niệm Hơi Thở, biết rõ hơi thở vào, hơi thở ra, tu như thế năm phút hay bảy phút tùy khả năng của mình, hay ba phút tuỳ khả năng của mình; muốn chuyển qua đi kinh hành thì phải vào tác động nó: “chân đưa ra, tay đưa ra, chân đưa ra, đứng lên, tiếp tục đi kinh hành”. Điều này, mới hôm qua con mới nhận ra được danh từ liên pháp như thế. Con nhận như thế là đúng hay sai? Hay vẫn là trong Tưởng? Con kính xin Thầy dạy cho con.
(01:01:11) Trưởng lão: Bây giờ tiếp tục Thầy giảng cho con. Rất đúng. Khi mình đang thở mà bây giờ muốn chuyển qua hành động khác tức là cái tâm chú ý qua hành động khác thì dùng hơi thở, nếu mình không tác ý ra thì mình liên pháp không được, vì vậy có kẽ hở. Còn mình vừa dứt hơi thở này mà muốn chuyển qua một cái khác tức là mình muốn đưa cánh tay này ra thì bắt đầu vừa dứt hơi thở này mình có sự chuẩn bị để liên pháp; pháp này chuyển qua pháp khác, tức là từ hành động này chuyển qua hành động khác. Trên pháp Thân Hành Niệm nó có cấu kết Thân Hành Niệm Nội và Thân Hành Niệm Ngoại; có hơi thở, có hành động đi và có hành động co ngồi, cho nên từng hành động tạo thành cái liên pháp của nó gọi là cấu kết thành cỗ xe rất kiên cố. Đây là pháp Thân Hành Niệm là phương pháp liên pháp nghĩa là từ pháp này đến pháp khác, nó tạo thành chuỗi liên tục của nó. Đó là liên pháp.
Bây giờ, mình từ pháp này chuyển qua pháp khác thì mình đừng để nó bị phóng dật qua pháp khác. Bây giờ, tôi ngồi tu Hơi Thở, xong rồi chuyển qua đi Kinh Hành Chánh Niệm Tỉnh Giác thì nó có hai pháp đó mấy con. Mấy con thấy không?
Còn liên pháp tức là bây giờ tôi đã chuẩn bị sẵn sàng, không có kẽ hở của pháp từ Ngồi Hít Thở đến khi tôi chuyển qua đi Chánh Niệm Tỉnh Giác, đi kinh hành thì tôi đã chuẩn bị sẵn rồi nên tôi tạo thành cái pháp mà từ pháp này qua pháp khác, mà nó vẫn giữ ở trong một tâm trạng của nó. Cũng như, Thầy giữ tâm thanh thản, an lạc, vô sự; bây giờ Thầy đứng dậy đi kinh hành thì vẫn giữ cái thanh thản, an lạc, vô sự đó chứ không phải Thầy chú ý bước đi. Nên trước khi đi, mình tác ý: “tâm phải thanh thản, an lạc, vô sự”; Thầy đứng dậy, giữ trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự đó đứng dậy, chứ Thầy không chú ý vì Thầy tu cái Thanh thản - An lạc - Vô sự như các cụ luôn luôn liên pháp.
Ngồi đây mà chút xíu buồn ngủ, nếu không dậy đi thì không được, ngồi đây giữ thanh thản mà đứng dậy đi chú ý bước chân đi thì nó tạo thành hai pháp, nó không liên pháp được. Vì vậy mà tôi giữ cái tâm của tôi duy nhất mà chuyển qua một pháp khác. Các con hiểu chỗ này Thầy muốn nói không? Do đó, tôi tu: cái hành động của tôi thì thường thay đổi nhưng tâm duy nhất một pháp.
(01:03:51) Bởi vì dạy các cụ chỉ ôm một pháp để đi đến cuối cùng chứ không được nhiều pháp. Còn như các con chuyển từ pháp này qua pháp khác gọi là liên pháp, thì bắt đầu bây giờ từ pháp hít thở muốn đứng dậy thì mấy con phải tác ý cái hành động đó để nó chuyển từ pháp này sang pháp khác, nó liên hệ mà nó không bị phóng dật.
Nếu không tôi tu hơi thở rồi, bây giờ đứng dậy đi kinh hành thì nó có kẽ hở; mình muốn chuyển nó về thì mình tác ý, ví dụ: “hít vô, tôi biết tôi hít vô” thì nó hít thở; khi vừa thở ra thì mình bảo “đứng dậy”; thay vì bảo hít thì bảo “đứng dậy”; cái đứng dậy thay thế cho hơi thở. Bắt đầu mình co chân mình đứng dậy. Đứng dậy rồi mình mới bảo “bước đi”, tiếp tục mình bước đi thì nó thành liên pháp, từ pháp này nối liền với pháp khác không có kẽ hở - tức là không bị phóng dật. Còn bây giờ tôi tu hơi thở rồi đứng dậy, rồi tôi chuẩn bị để bước đi thì có kẽ hở, nó không liên pháp. Đó là liên pháp của người trẻ.
(01:04:59) Còn liên pháp của người già thì như thế này: Bây giờ tôi ngồi đây là hành động của thân ngồi, tôi giữ tâm thanh thản, an lạc, vô sự. Bây giờ, tôi đứng dậy cũng ôm duy nhất cái pháp của tâm thanh thản, an lạc, vô sự mà hành động tôi phải đi vì nếu tôi ngồi tiếp tục thì sẽ bị hôn trầm thùy miên, sẽ gục buộc lòng tôi phải đi; vì vậy tôi đi mà vẫn giữ thanh thản. Các con hiểu không? Đây là đối với người già, người ta tu có một pháp, không có tu nhiều pháp; người ta giữ cái tâm bất động của người ta thôi. Cho nên mọi hoàn cảnh, mọi cái gì như khi thân đau người ta vẫn giữ như vậy nên người ta liên pháp vẫn giữ một cái Tâm Bất Động. Đó là cách thức đối với người già, người lớn tuổi, người ta chỉ ôm một pháp thôi; pháp đó gọi là Pháp Xả.
Các con đọc lại “Những Lời Gốc Phật Dạy” có bài kinh “Bát Hành” mà Đức Phật dạy, Thầy có nêu tám pháp độc nhất để chúng ta đi vào chỗ cứu cánh hoàn toàn.
Các cụ nhớ kỹ, khi tu liên pháp không có nghĩa là mình đi kinh hành rồi trở lại mình biết mình đi kinh hành nữa, mà đi kinh hành vẫn giữ tâm thanh thản vì một pháp mình sống, duy nhất có một pháp chứ không có hai pháp, ngồi cũng một pháp thanh thản, đi cũng một pháp thanh thản, chỉ có quét ra thôi: có chướng ngại thì quét, không có chướng ngại thì đi cũng thanh thản, không được cho phóng dật. Cuối cùng, chúng ta đạt được đỉnh cao của giải thoát không có gì khó khăn. Đó thì nhớ như vậy là cho người già.
(01:06:23) Còn người trẻ thì phải tu tập, tại sao? Người trẻ còn sức khỏe tu tập để có năng lực sức lực của mình đủ sức chiến đấu, làm chủ được. Mình thấy khoảng thời gian của mình còn dài, vì vậy mình tu tập liên pháp như mười tám đề mục Định Niệm Hơi Thở: “An tịnh thân hành”, “An tịnh tâm hành”, "Với tâm định tĩnh…”, tất cả các đề mục này mình đều tu hết lòng, nhuần nhuyễn, hiệu quả. Khi gặp những điều kiện gì khó khăn thì mình đẩy lui ra rất dễ dàng.
Nhưng người già không đủ sức đi, đứng, ngồi, hít thở như vậy được, thì người ta chỉ giữ tâm thanh thản, không cần rèn luyện gì ở trong thân, hơi thở hoặc những điều kiện khác nên người ta không nhọc nhằn, còn chút ít sức khỏe để giữ được nội cái tâm thanh thản không là năng lượng trong người họ đã tiêu hao rất nhiều rồi, chứ chưa phải nói tu tất cả các pháp khác.
Còn cái này, mình đứng lên, ngồi xuống, mà suốt ba mươi phút làm công việc nặng nhọc ghê gớm: vừa tâm tập trung, vừa phương pháp tác ý, vừa hành động đứng lên ngồi xuống của pháp Thân Hành Niệm thì các con tiêu hao năng lượng trong người rất lớn chứ đâu phải ít đâu, làm việc hơn tất cả những sự làm việc khác.
(01:07:37) Ở ngoài đời, người ta làm việc bằng trí óc, ngồi suy nghĩ, tính toán sổ sách. Người nông dân thì họ chỉ lao động sức cơ của họ thôi, họ không có nghĩ, cứ cuốc thôi, cuối cùng họ làm việc nhẹ hơn mình. Mình cả trí óc, cả thân hành của mình nữa, phải làm suốt cả tiếng đồng hồ mà không nghỉ thì mấy con thấy hao năng lượng rất nhiều. Trên con đường tu phải biết người già tu pháp nào, người trẻ phải tu pháp nào, chứ không phải người già tu giống người trẻ thì người già làm sao tu cho kịp, làm sao mà tu nổi. Vì vậy trong khi già thì nhớ những gì Thầy trao cho các con là những bí quyết để mấy con ở trong tuổi già tu tập cho đúng cách.
Nhớ như vậy thì mấy con tu tập có kết quả. Về con sẽ trình bày lại để cho mấy cụ hiểu, về cái liên pháp đó con đã hiểu như vậy là đúng rồi, bây giờ thầy nói thêm để cho mình hiểu chính xác hơn nữa để khi đó các cụ luôn giữ tâm thanh thản tới đó mà thôi, không có gì khác hơn nữa.
(1:08:46) Biết được cái tâm thanh thản, an lạc, vô sự rồi thì tiếp tục duy trì, kéo dài nói được thời gian dài chừng nào thì tốt chừng nấy, nhưng không phải dễ. Thầy nói nó không phải dễ. Nói là một điều nhưng tu tập là một chuyện khó. Chúng ta sẽ thấy đầu tiên chúng ta vào tu cái pháp Xả này, trong khi mới tu chỉ ngồi một chút xíu thì thấy có nhiều ác pháp đến tác động vào thân và tâm của chúng ta. Nó không bao giờ để chúng ta thanh thản được lâu đâu nên chúng ta ngồi đó quét mệt thôi, chứ không phải nói là không quét. Lúc nào cũng dùng phương pháp Như Lý Tác Ý để giữ gìn Tâm Thanh Thản. Ví dụ hễ chúng ta ngồi độ một phút thì tác ý: “Tâm phải thanh thản, an lạc, vô sự”; bắt đầu có chướng ngại trên thân thì chúng ta cũng tác ý để tâm bất động, không bị dao động. Như vậy, mấy con mới có thể tu tập được cho nên gọi là ngồi đó quét thân, thọ, tâm, pháp; quét những rác rến, quét những chất bẩn trên thân, thọ, tâm, pháp; quét mãi, quét chừng nào sạch thì mới thôi.
Hằng ngày, mấy cụ lớn tuổi không làm chuyện gì cứ ngồi quét, ngồi chơi; có nhiều thì quét nhiều, có ít thì quét ít, tác ý đuổi nó ra sạch. Bất kỳ niệm gì, bất kỳ một cái cảm thọ gì trên thân này thì các cụ cứ tác ý mà đuổi thì cuối cùng các cụ cũng thành tựu. Người già nhớ tu như vậy.
(01:10:20) Nghĩa là các con thấy tuổi của con già rồi thì tu Tứ Niệm Xứ, tu kiểu đó là nó dễ hơn hết. Đừng có tu gì hết, tu bậy tu bạ, bởi vì tuổi già thần kinh yếu sẽ sinh tưởng nhiều. rồi tưởng đây nhiều mấy con mới bay bổng, nó trật đi. Nhiều khi già rồi sinh tưởng. Nếu tưởng có trí tuệ thì hay; chứ tưởng mà quên trước quên sau, nó lẫn, tới chừng đó không biết để cái này ở đâu, rầy con rầy cháu mới chết được. “Tao để mà tụi bây lấy”, không ngờ mình quên thì cái đó là nguy hiểm. Vì tu nhiều khi sai, làm cho trí óc lẫn lộn trong khi cơ thể, bộ thần kinh trí óc của chúng ta già yếu mà nó sai một chút là làm chúng ta lẫn lộn; khi lẫn lộn, vô phân biệt rồi thì chắc chết luôn!
Người ta bảo xách cái ly mà đi ra xách cái thùng thì thôi hết rồi, bảo xách cái rổ mà mình xác cái gầu, đâu có được. Đó các con hiểu, đó là lẫn lộn rồi. Mình mới để đây, “tao mới để cuốn kinh đây mà đứa nào lấy rồi?”, không ngờ mình để đằng kia mà lại đây tìm. Như vậy mình tu sai rồi.
Các cụ cứ tu theo lời Thầy dạy thì không bao giờ lẫn lộn vì mình thanh thản, có cái gì thì mình cũng giữ tâm mình thanh thản, chứ không có gì cho nên nó càng sáng suốt. Đến khi mình chết, nó cũng rất tự tại, nó không đau khổ nhiều.
Ngay từ bây giờ, chúng ta không nhắc cái tâm thanh thản, đến chừng sắp sửa chết rồi, mấy cụ không đủ sức đâu. Cái thân mấy cụ mà rã rồi, từng thớ thịt, từng cái sớ trong thân chúng ta rụng rời hết thì khổ lắm, bởi vì nói chết khổ mà. Các cụ chưa bao giờ làm chết thử lần nào, chết thử một lần thì thấy khổ ghê gớm; chết rồi mình sống lại, mình thấy khổ.
(01:12:14) Không, nói sự thật ra Thầy có nghe người ta nói ở bên Tây Tạng về vấn đề chết, cơ thể tan rã, nó đau nhức làm như ai bầm, dập gì trong đó; trạng thái khổ sở vô cùng. Lúc bấy giờ, tinh thần chúng ta không còn sáng suốt nữa, làm bấn loạn, khổ quá, không thể giữ gìn được. Vì vậy, pháp Như Lý Tác Ý mà hàng ngày chúng ta tác ý: “thanh thản, an lạc, vô sự; tâm bất động, đừng sợ hãi”, mình tác ý như vậy tạo thành cái lực; đến khi cơ thể tan rã, mình vẫn bất động được.
Các con đọc trong khi cô Liễu Kim bệnh đau, chết thì cô nhờ pháp Như Lý Tác Ý mà giữ vững được thân và trạng thái tâm bất động. Nếu cô không dùng pháp tác ý thì cô chịu không nổi. Mấy con thấy những gương hạnh, các cụ - những người sắp sửa đi, bây giờ còn đang nằm trên giường bệnh mà đang khổ đau - nếu không có pháp Như Lý Tác Ý thì không chịu nổi.
May là phương pháp Như Lý Tác Ý của Phật mà Thầy đưa ra để giúp số các cụ hiện giờ ở Hà Nội, tất cả mọi miền. Nếu người nào được pháp này là được của báu đó các con. Nó sẽ giúp tâm chúng ta bất động, an ổn trước những đau khổ mà không có người nào gánh vác cho mình được; chính bản thân mình phải chịu đựng những đau khổ đó.
Chỉ có pháp Như Lý Tác Ý mà giúp chúng ta bất động được, không hề sợ hãi, không dao động. Chính không hề sợ hãi, không dao động sẽ làm giảm lực đau đớn; lực phân tán thân tứ đại chúng ta, cái lực đó giảm đi, mười phần giảm đi còn có năm. Phương pháp đó làm cho chúng ta cảm thấy sự đau khổ: thay vì mười thì bây giờ còn năm hoặc ba mà thôi.
(01:14:15) Thậm chí như cái lực mà chúng ta nỗ lực từ ngày này mà tu một năm sau thì cái lực đó có thể nó giảm khi cái thân chúng ta sắp sửa tan rã, phân ly thì sức đau nhức của nó một trăm chỉ còn có một, hai à; nó sơ sơ; cho nên mình nằm, nó im phăng phắc, nghe thanh thản, dễ dàng lắm, do đó mình tự tại chứ không phải phương pháp thiếu sức lực của nó đâu. Các cụ nghe, cố gắng về thực hiện; hàng ngày, tác ý như lời Thầy dạy mà mình thấy như thế nào mà mình trạch pháp ra những câu nó còn hay hơn nữa, để nó hợp với đặc tướng của mình, mình tác ý thì thấy ngay hiệu quả liền. Phải tu tập như vậy mới đủ hiệu quả sau này, nếu mình không tập tu thì không đủ hiệu quả đâu.
(01:15:03) Nhớ hàng ngày, từ đây về sau, từ ngày gặp Thầy dạy pháp này rồi thì các cụ nên chuyên cần. Một ngày qua là mình đã thêm một sức lực của nó, rồi một ngày kế, một ngày kế; bữa nay mà ngày mai lỡ chết thì chúng ta có sức lực bất động. Được thêm ba ngày thì có thêm lực bất động; một tháng mà chúng ta chết thì đã có thêm lực bất động.
Mà đến khi một năm thì người được nghe Thầy giảng thì đã có lợi ích cho người đó. Ngay liền trong một ngày, một giờ; hai ngày, hai giờ hoặc qua đi một tháng thì người này đã có lợi ích một tháng trong tu tập pháp này. Nếu người này được một năm còn sống thì người này được lợi ích một năm còn sống thì cái lực đó được tăng lên trong một năm. Nếu được hai năm còn sống, ba năm còn sống nữa thì người này tăng thêm lực nhiều hơn. Nên người này từ khi nghe được pháp này cho đến khi chết đều có lợi ích.
(01:16:16) Người mà bữa nay nghe pháp, mai chết thì vẫn có lợi ích, không phải là không có lợi ích. Ngày mai chết, mình có sự đau đớn thật nhưng có pháp làm tâm bất động, tức là thanh thản, an lạc, vô sự, không sợ hãi. Được một tháng tu tập thì người này lại còn bất động hơn. Rồi một năm mà chết, thì người này vững vàng hơn. Đến khi thân rã mà không đau đớn gì hết, tâm bất động không lo gì, chỉ tác ý một cái là nghe êm re; nằm đó mà như người bay về trời chứ không còn khổ đau nữa.
Mấy cụ nhớ trước khi chết ai cũng khổ hết nên Đức Phật nói: “Chết khổ” mà. Mình biết tại sao các cụ, cha mẹ, ông bà khi chết thấy họ lăn lộn, trăn trở đến mức cuối cùng họ không còn trăn trở nữa, họ mới chịu nằm im rồi mới chết, không có người nào là không trăn trở; người nào cũng trăn trở. Chúng ta biết sự trăn trở đó là sự rã rời cơ thể của người đó.
Chúng ta cũng sẽ đi trên con đường đó mà nếu chúng ta muốn cho nó đừng có sự đau khổ như vậy thì chỉ có pháp Như Lý Tác Ý giúp chúng ta không còn những lậu hoặc, đau khổ đó. Các cụ nhớ chuẩn bị cho mình từ bây giờ - khi Thầy đã dạy mấy cụ. Mấy cụ phải ráng, chứ Thầy không ráng dùm được; phải cố gắng.
Thầy xin trả lời cho cụ phương pháp tu tập như vậy là liên pháp từ chỗ đứng lên để nương vào một pháp khác đều giữ tâm thanh thản của mình; đó là liên pháp. Mình đi là đi trên pháp khác trên Thân Hành Niệm hoặc đi trên Chánh Niệm Tỉnh Giác, mà vẫn giữ cái tâm thanh thản; đó là liên pháp trên một Tâm Thanh Thản.
Liên pháp của người còn trẻ thì khác, chúng ta từ pháp này chuyển qua pháp khác đừng để phóng dật, đừng để kẽ hở thì gọi là liên pháp. Không khéo nghe liên pháp rồi người nào cũng liên pháp kiểu này thì nó sai. Người già liên pháp khác, người trẻ liên pháp khác.
Nhớ kỹ những lời Thầy giảng, mục đích của đạo Phật là tâm không phóng dật mà mình hễ một chút tu pháp này, tu pháp khác, đó là không có liên pháp. Tạo làm sao để liên pháp mà tâm đừng phóng dật, luôn ở trên từ pháp này chuyển sang pháp khác một cách rất nhẹ nhàng.
(01:18:47) Phật tử: Con bạch Thầy, trước khi con vào đây, có một anh bạn từ lâu bị bệnh đau dạ dày, cũng đến nhà con và xin được con hướng dẫn cho. Con nói chữa bệnh thì chỉ có tu tập tác ý đẩy lùi nó đi. Anh chưa biết đến đạo Phật, chưa biết quy y ai mà từ trước đến giờ bệnh anh chữa đã chữa sạch nhà, sạch của rồi mà chưa khỏi. Em cũng xin mạn phép của Thầy em để em chỉ nói với anh, làm sao anh chỉ buông cho cái tâm thanh thản, an lạc và sau đó cùng với câu tác ý: “Thọ là vô thường, hãy đi đi, bệnh đau dạ dày này không phải của ta, hãy ra mau, ra mau.” Con cũng chỉ dạy như vậy thôi, con bảo làm sao tâm anh phải thanh thản an lạc, không phải suy nghĩ gì cả, bây giờ nghĩ làm sao phải thanh thản. Anh cũng có trình độ, anh suy nghĩ như thế và anh cho tâm thanh thản, an lạc rồi anh tác ý. Trong vòng thời gian hai tháng, coi như bệnh anh hết, không còn đau dạ dày, không có ợ chua, anh đi khám thì rất là tốt. Đặc biệt là không có uống thuốc.
(01:20:23) Vừa rồi, anh bị đau răng, năm cái răng đều bị sâu và đau nó long tới óc, anh cũng dùng tâm thanh thản, an lạc để đuổi, có tác ý “Thọ là vô thường, thọ hãy đi đi, đau răng không phải của ai, ra hết mau mau.” Anh có nói khi anh ấy vuốt thì anh ấy thấy nó đỡ, rất tốt, cái đau răng của anh bớt. Anh thấy như dòng điện từ ở tay vuốt qua bên má vuốt ra ngoài như dòng điện trên cái tay mà xoa đến đâu anh ấy thấy nhẹ đến đấy. Anh ấy hỏi con thì con nói để em vào bạch Thầy em là như thế nào, như vậy có đúng hay không? Con cũng trình Thầy, trước đại chúng để Thầy hoan hỷ góp ý cho chúng con giúp cho anh ấy.
(01:21:38) Trưởng lão: Con sẽ về nói lại với người bạn của con. Cái thứ nhất, người này do cái lòng tin, vì tận cùng bệnh của mình, uống thuốc nhiều quá mà không hết, nhưng nghe nói như vậy là đặt cả lòng tin, lòng tin nơi pháp, mà lòng tin là tín lực, cái lực của lòng tin. Cho nên khi mà áp dụng vào, coi như không có thuốc trị, không còn phương hướng nào nữa nên đặt trọn hết, trọn vẹn lòng tin vào tu tập, rốt ráo tu tập nên giữ tâm thanh thản, tác ý bệnh. Do đó với lòng tin nhiều nên cái tâm dễ dàng thanh thản, trị bệnh mình. Chính mình thanh thản để trị bệnh mình, mình cố gắng thanh thản chứ còn nếu nằm yên thì chắc chắn có thanh thản một chút. Trong cơn đau khổ, ý muốn của mình hết bệnh; nghe nói cái pháp này do Thầy dạy, Phật dạy thì anh đặt trọn niềm tin ở pháp cho nên cái tín lực ở anh tạo ra lòng tin nhiệt tâm, do đó nó đẩy lùi được bệnh.
(01:22:54) Cái thứ hai nữa là cảm thấy có một dòng điện. Sự thật ra, Thầy đã nói với mấy con, khi giữ tâm thanh thản của mình mà đúng cách của nó rồi thì tương ưng với những dòng thanh thản khác của chư Phật. Do đó, nó sẽ gặp những lực đó nó mới đẩy mau, cho nên anh thấy cảm nhận qua cái tưởng, qua giao cảm, cảm nhận chứ không phải anh thấy được điều này đâu. Đó là cảm nhận của Tưởng thức; nó có Tưởng uẩn, phần Tưởng ở trong thân. Chúng ta có năm cái uẩn, Tưởng uẩn có phần giao cảm với vô hình, với từ trường; còn ý thức của chúng ta không có giao cảm được. Do đó nó giao cảm qua xúc giác, qua sáu căn thì nó có cái tương thích của nó, giao cảm qua phần đó. Cái tưởng thì thường giao cảm qua hoạt động đó nhiều hơn.
Nghĩa là trong sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý thì cái thân có cảm nhận của nó qua cảm nhận xúc giác, tất cả có phần cảm nhận. Do đó, tưởng sử dụng xúc giác này mà cảm nhận được cái từ trường nên mới thấy những điều kiện đó xảy ra chứ không có cái gì lạ hết.
(01:24:08) Còn con mắt của chúng ta cũng có cảm nhận, cái lỗ tai nghe của chúng ta cũng có cảm nhận, cái da của chúng ta sẽ cảm nhận. Cho nên con thấy loài dơi cảm nhận bằng xúc giác của nó nên bay không đụng cây. Nó cảm nhận bằng xúc giác.
Chúng ta không có mắt, chúng ta sẽ đi, đưa tay ra trước, đi sẽ không đụng; đó là cảm nhận bằng xúc giác, khi có cái gì cản ở trước, nó có lực cản thì chúng ta biết có vật gì như vậy. Xúc giác của chúng ta vi tế, nó cảm nhận được.
Con thấy những người mù họ không thấy đường, họ đi cầm cây gậy, họ lần vậy chứ hoặc là họ đưa tay ra trước mà đi. Các con nhìn thấy người mù, họ thường tập đưa cái tay ra trước, dùng xúc giác dò đường đi. Còn mình nhờ con mắt thấy đường mà đi. Nên cái tưởng dễ làm xúc giác, dễ hoạt động trên xúc giác của chúng ta. Những tế bào xúc giác thì cái tưởng hoạt động nơi đó.
Khi người giao cảm được với từ trường của người chết, những hình ảnh bên ngoài là phần nhiều xúc giác của chúng ta - cái sáu căn. Nên khi thân này chết rồi, hoại rồi, cái xúc giác không còn tiếp nhận được thì cái tưởng cũng không hoạt động được. Cái xúc giác chúng ta còn tức là cái căn xúc giác thì cái tưởng mới dụng sáu căn trong xúc giác mới giao cảm được, nó biết người chết như thế này, người kia chết như thế nào, nó giao cảm được qua xúc giác. Đó là phần vật chất. Nếu phần vật chất này, thân ngũ uẩn của chúng ta đều hoại hết, nó không sử dụng nhau được. Nó phải cấu kết cái khối của nó gọi là thân ngũ uẩn.
Con nhớ về nói lại, đó là tín lực chứ không có gì hết, còn hiện tượng xảy ra đó là sự giao cảm của Tưởng mà thôi.
(01:26:05) Trưởng lão: Bây giờ, ở đây có một câu hỏi Thầy như thế này mấy con.
Hỏi: “Tận hư không” là phủ trùm hết không gian này chỗ nào phủ trùm cũng hết, mà sao còn có chữ “Thập phương” là mười phương nữa? Sao lại “tận hư không” mà còn “mười phương”?
Đáp: Ở đây, nó có những vị trí, mấy con. Sau này, mình phải hiểu những danh từ này, vì đây là về chữ nghĩa mà dùng.
Nói về “tận hư không” là khắp cùng không gian này, chỗ nào nó cũng tới hết - gọi là tận hư không pháp giới, không có chỗ nào là không có.
Nói về “thập phương” thì chúng ta nói về trên hành tinh của chúng ta, nó có mười phương, phương trên, phương dưới. Nếu “tận hư không” thì đâu có phương trên, phương dưới. Nhưng mà khi chúng ta nói tận hư không là khắp cùng hết.
Nhưng nói về vị trí của hành tinh chúng ta đang đứng, đang đứng trên hành tinh này có phương trên, phương dưới nên mới gọi là mười phương. Tám phương cộng với phương trên, phương dưới là mười phương, có phải không?
Nói tận hư không pháp giới là nói không gian chúng ta, chỗ nào cũng có hết. Bây giờ nói về vị trí của hành tinh chúng ta đang đứng gọi là mười phương. Bây giờ, không gian hết, mình chẳng biết vị trí của Sao Mai, của Mộc Tinh hoặc của mặt Trăng, nó cũng có vị trí mười phương của nó ở trên đó chứ; còn mình cũng có vị trí mười phương của mình ở đây - hành tinh của mình có. Nhưng mình đứng trên mặt Trăng thì vị trí của mười phương của cung Trăng đâu có giống với hành tinh của mình.
Cung Trăng, mình lên hành tinh của nó, nó có cái phần đó nhưng còn nằm trong Thái Dương Hệ của chúng ta. Còn nếu có những Thái Dương Hệ khác thì nó lại trong dòng của nó khác nữa, nhiều thái dương hệ chứ không phải có một thái dương hệ.
(01:28:03) Trong thái dương hệ của chúng ta có mặt Trời, mặt Trăng, các sao xung quanh, trong đó có hành tinh của chúng ta. Trong không gian vũ trụ hư không này có nhiều thái dương hệ, trên mỗi thái dương hệ có nhiều ngôi sao, nhiều hành tinh ở trên đó.
Ở đây, nói cái xa là vô tận hư không, nhưng mà nói cái gần là đứng vị trí hành tinh của chúng ta mà nói thập phương. Đứng trong vị trí của mình nói thập phương là có tám phương: bốn phương chính và bốn phương phụ cộng lại. Cũng như nói đông bắc, tây bắc đó là những phương phụ; nói đông, tây, nam, bắc là những phương chính. Còn nói hai phương phụ là phương trên, phương dưới, dưới là ở dưới mặt đất, trên là trên đầu của chúng ta; nên gọi là thập phương. Đó thì Thầy giải thích như vậy để chúng ta thấy rõ. Chúng ta diễn tả thập phương tận hư không phủ trùm.
(01:29:16) Trưởng lão: Bây giờ về Sơ thiền, các con bắt đầu tu tập về phương pháp Sơ thiền thì mấy con sẽ tu tập thứ nhất là tu tập cách thức xả tâm. Có bốn phương pháp xả tâm:
Phương pháp thứ nhất là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định
Phương pháp thứ hai là Định Vô Lậu, ngồi mà đặt cái đề tài ra quán xét, làm cho tất cả những cái tâm phiền não, tham, sân, si của chúng ta không có lậu nữa gọi là Định Vô Lậu.
Định Sáng Suốt, làm chúng ta sáng suốt mà không có mờ mịt gọi là Định Sáng Suốt tức là Định Thư Giãn
Định Niệm Hơi Thở. Định Niệm Hơi Thở có mười tám cái đề mục để tu, để ly dục ly ác pháp.
Trong khi chúng ta tu bốn Định này là bốn cái Định để tu tập trên Tứ Chánh Cần: ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện. Bốn loại định này tu tập trên Tứ Chánh Cần. Tứ Chánh Cần này phải nằm trên Tứ Niệm Xứ mà tu tập. Cho nên hoàn toàn không phải chúng ta tu bốn cái Định này là Tứ Niệm Xứ, mà tu theo pháp Tứ Chánh Cần. Nhưng ở trên Tứ Niệm Xứ tu Tứ Chánh Cần.
Cho nên muốn nhập Sơ Thiền phải tu Tứ Chánh Cần vì Tứ Chánh Cần còn có tên là Định Tư Cụ - dụng cụ tu thiền định tức là dụng cụ để tu tập nhập Sơ thiền chứ không có gì hết. Do đó là danh từ trong kinh mà Thầy giải thích ra để chúng ta hiểu biết.
Cho nên nói đến tu thiền định không phải ngồi khoanh chân, xếp bằng mà ngồi tu thiền định mà phải tu bốn loại định như Thầy kể ở trên. Như vậy, những loại định đó mới có những phương pháp ngăn và diệt tất cả các ác pháp, sanh thiện, và tăng trưởng tất cả những thiện pháp. Cuối cùng, chúng ta tu tập những loại định này thuần thục; do đó mà nó ly dục, ly ác pháp chứ không có pháp nào tu hơn hết bằng cái pháp này.
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian: 2004
Thời lượng: [46:18]
(00:00) Trưởng lão: Hôm nay Thầy sẽ dạy những cái Pháp để tu tập trong cái ngày Thọ Bát Quan Trai. Pháp của Phật, mục đích của nó là giúp cho chúng ta làm chủ được bốn sự đau khổ của kiếp làm người, tức là là làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Bởi vì đạo Phật ra đời, cái bài pháp đầu tiên của Ngài là dạy chúng ta bốn cái chân lý, tức là bốn cái sự thật của kiếp con người.
Cái sự thật đầu tiên, tức là cái chân lý đầu tiên nói về con người là khổ, thì Đức Phật đã xác định do tâm tham, sân, si chúng ta mà khổ. Như vậy chúng ta xét thấy từ đứa bé mới sinh cho đến một cụ già tám chín mươi tuổi tâm vẫn còn tham, sân, si, thì người nào là con người, thì người nào cũng có tâm tham, sân, si, cho nên đó là một cái chân lý.
Và chân lý thứ hai nói đến cái nguyên nhân sinh ra sự đau khổ, tức là sanh ra tham, sân, si, thì đó là cái lòng ham muốn, mà cái lòng ham muốn thì từ đứa bé mới sinh cho đến cụ già tám chín mươi tuổi, một trăm tuổi vẫn còn ham muốn, chưa có người nào là hết ham muốn. Do đó là cái nguyên nhân sanh ra đau khổ, một sự thật.
Bởi con người là có lòng ham muốn, do ham muốn nó mới có tham, sân, si, còn không ham muốn thì không có tâm tham, sân, si. Cho nên đời người khổ là vì tham, sân, si, nhưng do nguyên nhân ham muốn mà có tâm tham, sân, si. Đó là hai chân lý.
Chân lý thứ ba mà bài pháp của Đức Phật gọi là Diệt Đế tức là trạng thái không tham, sân, si. Mà trạng thái không tham, sân, si đó là tâm thanh thản, an lạc, vô sự. Hiện giờ các Phật tử xét lại mình có thấy cái trạng thái không tham, sân, si không.
Đó là lúc bấy giờ chỉ trong vòng 1 giây, rồi 1 phút suy ngẫm lại, chúng ta sẽ thấy tâm chúng ta thanh thản, không nghĩ ngợi một điều gì hết, và thân chúng ta an ổn, không đau, không nhức, thì đó là an lạc. Và trong khi trong tâm tư của chúng ta không có khởi lo chuyện này, làm chuyện khác, do đó gọi là vô sự. Vì vậy ba cái nhóm danh từ này hợp lại để chúng ta thấy được trạng thái tâm chúng ta đang giải thoát đó là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
Vậy ai cũng nhận ra được cái trạng thái này, từ người nhỏ cho đến người lớn đều là nhận được, như vậy đó là một cái chân lý của con người. Cho nên có nhiều người nói Diệt Đế là một trạng thái Niết Bàn, sự thật người ta tưởng nghĩ ra Niết Bàn, chứ không phải có cõi Niết Bàn, mà đó là trạng thái tâm của chúng ta thanh thản, an lạc, vô sự.
Do nó, do cái trạng thái sự thật như vậy, vì vậy mà Đức Phật dạy chúng ta để chúng ta sống cho được trong cái trạng thái đó, mà người sống được trong trạng thái đó gọi là chứng đạo, hay hoặc là chứng đạt chân lý. Muốn chứng đạo và chứng đạt chân lý thì chúng ta phải có những cái phương pháp tu tập.
(03:39) Nhưng Đức Phật đưa ra cái chân lý để tu tập, chứ không phải là một cái bài pháp suông, mà đó là một cái chân lý, và cái chân lý đó là cái chương trình giáo dục đào tạo để hướng dẫn chúng ta tu tập rèn luyện mình sống để được cái trạng thái giải thoát, tức là cái trạng thái thanh thản an lạc vô sự. Cái chương trình đó nó có tám lớp học, gọi là Bát Chánh Đạo, tám lớp học từ cái lớp Chánh Kiến cho đến Chánh Định.
Bởi vì đạo Phật không phải là một cái bài pháp suông, mà là một cái chương trình giáo dục đào tạo xây dựng cho chúng ta có một cái sự hiểu biết, có một cái nền đạo đức, mà đạo đức gọi là không làm khổ mình, khổ người. Nghĩa là không làm khổ mình, khổ người thì nó mới gọi là đạo đức, còn làm khổ người là không đạo đức, còn làm khổ mình thì không đạo đức.
Do như vậy chúng ta phải học từng lớp một, tức là lớp Chánh Kiến cho lần lượt cho đến lớp thứ tám là lớp Chánh Định, mỗi lớp đều có bài vở học, trong những cái bài mà vở học để cho trong cái tám lớp này, thì Đức Phật gọi là 37 Phẩm Trợ Đạo tức là 37 Phẩm, có nghĩa là 37 cái bài pháp để cho chúng ta học trên các cái lớp này.
Cũng như chương trình giáo dục học ở ngoài đời thì nó có cái lớp 1, lớp 2, lớp 3, lớp 4 cho đến Trung Học, Đại Học, thì nó có những cái bài vở học ở trên các cái trường lớp đó, thì Đạo Phật nó cũng như vậy, cho nên mới gọi nó là chân lý.
Nếu chúng ta không hiểu, đạo Phật chỉ là một bài pháp suông, thì không đúng. Bởi vì từ cái lớp 1 thì nó có những cái bài vở cho cái lớp 1, mà cái bài vở cao cho những cái lớp cao, cho nên trong 37 pháp môn để tu tập thì nó có những cái pháp cao và có những cái pháp thấp.
(05:42) Ví dụ, người mới vào tu thì có những cái phương pháp ngăn ác, diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện, đó là những cái bài pháp đầu tiên để chúng ta tu, để hằng ngày chúng ta ngăn không có cho các ác pháp tác động vào thân tâm của chúng ta, thì đó gọi là cái bài pháp đầu tiên.
Và cái bài pháp cuối cùng gọi là Tứ Thần Túc hay là Tam Minh, đó là những cái bài pháp cuối cùng, cái bài pháp mà dạy cho chúng ta tu tập để rồi chúng ta ngay bây giờ, hiện tại trong kiếp này mà chúng ta nhìn thấy và hiểu biết được nhiều đời nhiều kiếp của quá khứ của chúng ta, đó là cái bài pháp cao.
Với cái ý thức của chúng ta làm sao mà chúng ta nhớ được nhiều đời, nhiều kiếp mình được, thế mà dạy cho chúng ta tu tập để mà chúng ta nhớ được nhiều đời, nhiều kiếp của mình, đó gọi là Túc Mạng Minh, hiểu được nhiều đời nhiều kiếp của mình gọi là Túc Mạng Minh.
Ngồi đây mà nhìn khắp cả vũ trụ như một cái đài thiên văn, quan sát chỗ nào cũng không sót, thì cái phương pháp tu mà đến cái mức độ cao như vậy thì gọi là Thiên Nhãn Minh. Nó có cái tên Thiên Nhãn Minh.
Nhưng tất cả những cái điều kiện mà tu tập để có cái lực hay cái nhìn thấu suốt như vậy, thì Đạo Phật có cái tên chung gọi là Tứ Thần Túc, 4 cái lực như thần, thì chúng ta sẽ, trong con người chúng ta tu tập có những cái Thần Túc như vậy thì chúng ta mới có quan sát vũ trụ, mới có nhìn lại quá khứ và tương lai xảy ra điều gì chúng ta biết.
Không phải ở đây thầy thuyết giảng nói về thần thông nhưng mà nói về những cái bài pháp có thấp, có cao, chứ không phải nói về thần thông mà đây là nói cái Phật Pháp nó có những cái bài thấp bài cao.
(07:38) Có người cho rằng Phật Pháp có 84.000 Pháp môn, sự thật ra không có nhiều như vậy đâu, đạo Phật có 37 Phẩm Trợ Đạo, có 37 pháp tu hành mà thôi, chứ không có 84.000 ngàn. Cho nên những gì mà không đúng, những cái bài mà, những cái bài vở tu tập, những cái bài pháp tu tập trong tám cái lớp này, hoàn toàn phải đúng chứ không thể được sai, vì sai thì không thể nào nằm ở trong cái chương trình giáo dục đào tạo.
Cho nên khi mà chúng ta học thì phải học cho đúng pháp của Phật chứ không dựa vào một cái mơ hồ khác mà chúng ta nói, thí dụ nói 84.000 ngàn Pháp Môn, vậy bây giờ các bác, các cư sĩ kê ra thử coi tất cả các pháp ở trong thế gian này, hiện giờ tất cả các tôn giáo, thậm chí như cả tư tưởng triết học của các nhà triết, thì thử hỏi đem hết tất cả những pháp đó mà cộng lại coi có được đủ 84.000 ngàn pháp hay là không, không có.
Cao lắm thì chúng ta có 100 pháp đó là cũng hết sức rồi, cho nên vốn đạo Phật có chương trình giáo dục đào tạo thì có 37 Pháp để chúng ta, 37 bài vở để mà chúng ta học tu ở trên cái 8 lớp này. 8 lớp này được phân chia ra làm ba cấp: cấp Giới, cấp Định, cấp Tuệ.
Cấp Giới tức là học đạo đức làm người sống không làm khổ mình khổ người. Như vậy thì cái chương trình học đó sau này Thầy sẽ soạn thảo cái giáo trình học tập trên 8 cái lớp này, còn bây giờ chúng ta chưa có nhưng chúng ta vẫn có phương pháp tu tập.
(09:30) Vậy thì hôm nay vì lợi ích cho các cụ, các bác, có người thì lớn tuổi sắp sửa, tuổi đời không còn dài lâu nữa, thì cơ thể đã già yếu thì nay, có thể nay đau, mai bệnh và có thể sắp sửa sự vô thường đến và không biết nay còn sống mai chết nữa là khác.
Thì do đó hiện giờ chúng ta phải có những cái phương pháp tu để giúp cho chúng ta, thứ nhất là vượt ra khỏi những cái cơn bệnh đau, thứ hai là giúp cho tâm chúng ta bình an, thanh thản không để giận hờn phiền não hoặc thấy mình quá cô đơn.
Đó là những cái phương pháp hiện giờ cần phải tu tập trong những ngày Thọ Bát Quan Trai. Vì chúng ta có giữ giới thì do giới nó mới chuyển được cái nghiệp cái ác pháp, cái nghiệp của chúng ta, vì chúng ta, trong cuộc đời của chúng ta có nhiều điều chúng ta làm những cái điều mà chúng ta không hiểu, do vô tình mà chúng ta tạo những cái ác mà chúng ta không biết.
Mình tức giận quá mình la một cái người khác hoặc là mình đánh một đứa trẻ, cái hành động đó đều là hành động ác, cho nên nó huân tập những cái điều không đúng. Cũng như từ lâu tới giờ các bác, các cụ, sự tu học, sự tu hành của mình theo Phật Giáo, mình chưa có hiểu rõ, cho nên sống mình còn ăn thịt chúng sanh.
Mình chưa có tu được cái Đức Hiếu Sinh, cái lòng thương yêu sự sống, cho nên mình cứ ngỡ rằng tất cả cá, tôm, gà, vịt, heo, dê là những cái loại mà để cho mình ăn, cho nên mình bắt ra mình làm thịt mình ăn, nhưng mà không ngờ mỗi loài vật đều bị giết chết thì đều có sự đau khổ.
Nó cũng ham sống, sợ chết như mình, mình cũng vậy, nó cũng vậy, nhưng mình nỡ lòng nào mình lại ăn thịt chúng, mình lại giết chúng. Đó là một điều mình hiểu sai, cho nên mình chưa hiểu vì vậy mà mình vô tình mình đem cái sự đau khổ của chúng sanh vào thân mạng của mình, rồi mình bảo thân mình mạnh khỏe không đau ốm thì điều đó không đúng.
Và mình ăn thịt chúng sanh như vậy mà đến chùa lạy Phật cầu để cho mình được bình an thì đặt điều đó không bình an. Tại vì mình sống không bình an cho mọi loài vật, thì sự cầu khẩn của mình để bình an thì không có bình an.
Và chính mình giữ gìn, không có làm đau khổ chúng sanh, không có ăn thịt chúng sanh, thì do đó cái cơ thể của mình nuôi cái thân mạng của mình bằng cái sự không đau khổ thì nó lần lượt nó cũng sẽ giảm sự đau khổ.
Do vô tình như vậy, hôm nay chúng ta mới hiểu được Phật pháp, do cái ác mà đến cái khổ, mà do cái thiện mà đến cái hạnh phúc, cái an vui. Vì vậy mình phải sống thiện, làm thiện thì đem đến cho mình được cái sự an ổn, bình an chứ không ai mà cứu khổ mình được khi mình làm một điều ác.
(12:29) Như vậy hôm nay, là do như vậy mà các bác, các cụ, các Phật tử về đây Thọ Bát Quan Trai là giữ gìn 8 giới, trong khi đó đời thì chạy theo dục, ngày ăn ba bốn bữa, mình hôm nay mình tập làm Phật ăn ngày một bữa.
Phật Ngày xưa sống đến 80 tuổi Ngài vẫn ăn một bữa. Một hôm Ngài bị cảm, bởi vì cơ thể ai cũng như ai, Đức Phật cũng có cơ thể như mình, cho nên Ngài đi nắng gió rồi Ngài cũng bị cảm nhức đầu, sổ mũi hoặc là sốt do cảm như vậy, cho nên Ngài trong cái bữa trưa hôm đó Ngài ăn cơm không được. Ai bị cảm mà ăn cơm được nhiều, cho nên Đức phật ăn không được.
Do thấy Đức Phật ăn không được, ông A Nan mới đi xin cháo cho Đức Phật ăn. Nhưng vì quá giờ Ngọ rồi, quá cái giờ trưa rồi cho nên Đức Phật mới nói ông A Nan: “Ta như vầy mà ăn cháo sao?”. Nghĩa là một người tu hành không nên ăn phi thời, thà chết chứ không ăn phi thời. Mặc dù bữa trưa đó ăn không được, nhưng có chết đâu, Đức Phật vẫn còn sống mà sống tới 80 tuổi mới chết.
Do như vậy chúng ta biết rằng không phải ăn nhiều mà sống, như Thầy ăn ngày một bữa Thầy vẫn sống như thường, và không bệnh đau, thì các bác, các cụ thấy rất rõ. Tuy ốm nhưng mà sự thật ra có sao đâu, ăn một bữa để sống, sống để tu hành, chứ thân chúng ta hoàn toàn là cái, khi nó sống thì phải có một sự đau khổ của một loài vật khác.
(14:13) Thậm chí như ăn chay, chúng ta ngỡ thấy rằng không có nghe tiếng kêu la của loài động vật khi chúng bị giết, nhưng loài cây cỏ thảo mộc vẫn có sự cảm nhận và vẫn có sự đau trong đó chứ, có sự đau trong cây cỏ chứ. Cho nên chúng ta sống mà chúng ta ăn cái loài vật khác chết, dù là cái cây, dù là cây rau, nó chết chúng ta mới sống chứ, nếu không ăn làm sao chúng ta sống.
Do đó hôm nay chúng ta sống không phải vì ăn mà sống ăn để mà tu, để ra khỏi thoát khỏi cái thân người, cái thân người, cái thân mà sống mà có sự chết của kẻ khác, cho nên chúng ta là người tu theo đạo Phật, lòng thương yêu chúng ta không thể nào nhìn thấy cái sự sống của mình mà có sự chết.
Đây là Thầy nói cây cỏ thảo mộc rau cải thôi, nhưng lòng chúng ta còn xót xa thay, huống hồ mà chúng ta ăn loài động vật, lăn lộn, rên la kêu đau khổ của loài động vật, còn cái cây có kêu la có rên không? Nhưng chúng ta biết chúng có đau khổ.
Tại sao chúng ta biết được, chúng ta thử nếu mà cái cây không cảm nhận thì chắc chắn là nó sẽ không đau khổ, còn cái cây mà cảm nhận thì có sự đau khổ, chúng ta thử đụng vào cái cây mắc cỡ, tức là cây Hoa Trinh Nữ, thì chúng ta thấy cành lá chúng xụ xuống, tức là chúng có sự đau khổ, chúng có sự cảm nhận.
Nếu không cảm nhận sao lại khi chúng ta đụng vào, hay hoặc là một con vật gì đụng vào cái cây mắc cỡ thì cành lá chúng lại xụ xuống? Sao không vươn lên như cái cây thảo mộc ngoài kia? Tức là cái loài cây có sự cảm nhận. Mà đã có cảm nhận thì phải có đau khổ.
Cho nên chúng ta ăn là vì chúng ta thấy mình phải sống, mượn cái thân này sống, sống để làm gì? Sống để tu, tu để chúng ta không còn tái sanh luân hồi.
(16:14) Tại sao vậy? Tại sao mà chúng ta lại bị tái sanh luân hồi mà chúng ta không biết? Tại vì chúng ta hằng ngày chúng ta sống có thiện, có ác. Chúng ta nói một lời nói, lời nói thiện nó vẫn phóng ra cái từ trường, tức là phóng ra cái nghiệp thiện, lời nói ác chửi mắng người thì nó sẽ phóng ra một cái từ trường ác, nó lưu lại ở trong không gian khắp trên cái quả, cái hành tinh sống của chúng ta.
Rồi đến khi mà chúng ta chết tất cả những cái hành động thiện ác đó nó trở thành gọi là nghiệp. Khi thân chúng ta chết thì không có linh hồn cái gì còn tồn tại hết, hoàn toàn hoại diệt, hoàn toàn không còn vật gì hết, nhưng cái nghiệp cái hành động thiện ác mà chúng ta sống nó vẫn còn.
Do nó còn cho nên nó tương ưng với sự tham, sân, si những cái ác của những người khác còn đang sống trên cái quả địa cầu này, trên hành tinh này, nó tương ưng nó giống nhau, những cái hành động thiện ác, cái nghiệp của chúng ta nó giống nhau người nào, thì lúc bây giờ khi mà chúng ta chết thì nó tương ưng nó sẽ làm con của những người đó.
Một mình chúng ta đã tạo nên cái nghiệp ác, thiện đó, nó sẽ sanh ra nhiều đứa con khi nó tương ưng với nhiều người, chớ không phải một mình chúng ta mà sanh ra có một người. Nếu một người mà có một linh hồn thì họ chỉ sanh ra một người, còn bây giờ chúng ta nó do nhân quả cho nên nó tương ưng nhiều người, thì khi mà chúng ta bỏ thân này thì cái nhân quả của chúng ta nó sẽ tương ưng nhiều người thì nó sanh nhiều đứa bé.
Một người mà sanh ra nhiều người, thì nhiều người phải thọ lấy những cái đau khổ của nhiều. Một mình chúng ta sân chúng ta thấy khổ có một mình, nhưng bây giờ 10 người 10 đứa người như vậy, thì 10 cái sân như vậy nó phải khổ gấp 10 lần.
Cho nên chúng ta thấy, vô tình mà chúng ta không ngờ rằng, một mình mình mà tạo ra cho 10 người phải chịu khổ. Một mình mình đau nhức cái đầu, mà bây giờ 10 người đau nhức cái đầu thì 10 cái đau nhức phải nhiều gấp 10 chớ. Quý cụ, quý bác có thấy cái khổ của nhân quả, nhưng mà làm sao?
Tại vì mình phóng ra cái từ trường này, nó tương ưng nó tái sanh chứ nó đâu phải là ai bắt nó đi, ai làm gì nó đi được, nhưng nó tương nhưng nó phải tái sanh mà thôi, nó giống nhau thì nó phải tái sanh.
Muốn dứt không còn tái sanh thì chúng ta không còn giữ cái tâm, không còn để cho cái tâm tham, sân, si nữa. Không tham, sân, si thì, chung quanh chúng ta ai cũng có tham, sân, si. Mà cái hành động sống của chúng ta phóng ra không tham, sân, si thì nó đâu có tương ưng được, thì nó đâu có tái sanh, mà nó đâu có tái sanh thì nó đâu có làm thân này nữa.
Mà không có làm thân này nữa thì nó đâu có ăn loài, nó đâu có ăn những cây cỏ, nó đâu có ăn loài động vật, nó đâu có ăn loài thảo mộc mà nó sống. Cho nên vì vậy nó đâu có thân thì nó đâu có ăn, mà nó đâu có ăn thì nó đâu có huân cái đau khổ của vật khác vào trong thân nó.
Cho nên trong khi đó chúng ta tu tập, mục đích là chúng ta lìa tham, sân, si, mà hết tham, sân, si thì chúng ta không tương ưng với ai hết, không tương ưng ai hết thì đâu có làm con ai được, cho nên vì vậy chúng ta chấm dứt luân hồi tái sanh.
(19:33) Mục đích của đạo Phật là làm chúng ta thoát ra khỏi cái thân này, để chúng ta có một cái thân mà không còn tội lỗi, không còn đau khổ, một cái thân không tham, sân, si. Còn bây giờ chúng ta mang cái thân này tham, sân, si, cho nên vì vậy muốn nuôi sống nó thì có sự đau khổ của vật khác để mà nuôi sống nó.
Cho nên chúng ta không nỡ lòng, muốn có cái thân này mà lại sống thì lại chết, lại có sự đau khổ của loài động vật, của loài thực vật thì chúng ta không nỡ. Cho nên hôm nay chúng ta ăn, sống, mục đích chúng ta sống để tu tập, để chúng ta lìa hết cái tham, sân, si, giữ cái tâm thanh thản an lạc vô sự này, cuối cùng chúng ta chấm dứt tái sanh luân hồi không làm thân con người nữa, không làm thân động vật nữa.
(20:21) Cho nên trong cái sự tu tập theo đạo Phật là phải hiểu rõ để mà chúng ta thực hiện, vậy thì muốn lìa tham, sân, si, thì tham, sân, si nó có những cái hiện tượng đến với chúng ta:
Một là tâm chúng ta giận hờn phiền não, lo lắng sợ hãi, thương ghét đó là tham, sân, si. Hai là thân chúng ta đau nhức chỗ này chỗ khác làm chúng ta rất khổ sở, đó là do quả tham, sân, si. Vậy muốn chấm dứt nó thì chúng ta có những phương pháp, phương pháp đầu tiên Thầy dạy các bác, các cụ là phương pháp Như Lý Tác Ý.
Đức Phật dạy chúng ta tác ý một tướng khác của một tướng kia thì tướng kia sẽ không còn nữa. Bây giờ chúng ta biết rằng trong thân tâm của chúng ta có tham, sân, si, vậy muốn không còn tham, sân, si thì chúng ta nên tác ý không tham, sân, si.
Vậy thì ngày xưa, khi Thầy ngồi tựa cửa mà Thầy tu tập như thế này mà tâm Thầy hết tham, sân, si: Thầy nhắc: "Tâm như cục đất phải lìa hết tham, sân, si. Tham, sân, si là ác pháp, là đau khổ". Do Thầy nhắc tâm Thầy như vậy.
Cho nên Thầy thường nhắc: "Tâm như cục đất ly tham, sân, si hết đi. Tham, sân, si là đau khổ, mai mốt tâm không còn được tham, sân, si nữa". Thầy cứ nhắc như vậy, cuối cùng tâm Thầy hết tham, sân, si.
Hoặc Thầy nhắc mình: "Tâm ly dục, ly ác pháp hết, còn ham muốn là còn ác pháp, còn ác pháp là còn đau khổ", cho nên Thầy nhắc: "Tâm ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền, vào trạng thái Sơ Thiền". Hoặc là Thầy nhắc: "Tâm ly dục, ly ác pháp nhập vào bất động tâm".
Bất động tâm là gì các Phật tử biết không? Bất động tâm là chỗ tâm thanh thản, an lạc, vô sự, chỗ đó không có động, có động thì làm sao thanh thản được. Có động thì làm sao mà ngồi yên ổn được, cho nên chỗ đó là chỗ bất động. Cho nên Thầy thường nhắc tác ý một tướng khác của một tướng kia thì tướng đó sẽ hết.
(22:28) Đồng thời khi chúng ta bị, chúng ta bị tác động, tâm chúng ta khởi lên phiền não, thì Đức Phật dạy chúng ta có những phương pháp đẩy lui cái tâm phiền não đó. Thí dụ như bây giờ chúng ta đang giận, thì Đức Phật dạy cho chúng ta có cái bài đề mục để tu tập, cái đề mục đó Thầy xin nhắc lại để thấy. Cái đề mục đó dạy như thế này:
Khi tâm chúng ta đang sân thì chúng ta tác ý: "Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân tôi biết tôi thở ra". Phương pháp của Phật rất hay mấy con, nghĩa là mình nương vào hơi thở mình tác ý thì cái tâm sân của mình nó sẽ hết.
Bây giờ thí dụ như cái thân của quý Phật tử nhức cái đầu, đau cái bụng, thì quý vị tác ý: "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra". Đó là cái thân của quý vị sẽ an ổn trở lại mà không còn bị nhức đầu, không còn bị đau bụng nữa.
Nhưng trước khi tác ý cái câu để mà nương vào hơi thở như vậy, thì quý Phật tử tác ý như thế này, “thọ là vô thường”, nếu đau cái đầu thì nói ngay cái đầu: "Cái thọ vô thường, cái đầu đau này phải rời khỏi cái thân ta không có được đau, không được nhức đầu nữa", rồi tiếp tục tác ý: "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra".
Và tác ý như vậy 5, 10 hơi thở, rồi tác ý 5, 10 hơi thở nữa, thì nhìn lại thì cái đầu nó không còn đau nhức nữa, không cần uống một viên thuốc nào cả. Đấy là phương pháp đẩy lui chướng ngại pháp làm cho thân chúng ta bình an, không còn đau nhức.
Cũng như tâm lúc nãy Thầy nói đang giận hờn, đang tức giận thì chúng ta sử dụng cái câu tác ý: "Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân tôi biết tôi thở ra" thì tâm sân chúng ta cũng sẽ hết không còn sân, không giận, không phiền trong tâm chúng ta nữa.
(24:50) Đó là những cái phương pháp đẩy lui chướng ngại pháp trên thân tâm của chúng ta. Vậy thì muốn tập thì chúng ta phải tập luyện hơi thở hoặc là tập luyện cánh tay, nhưng vì hơi thở rất khó và dễ rối loạn hô hấp, tức là rối loạn cơ thể chúng ta.
Cho nên Thầy sẽ dạy cho các bác, các cụ, là vì đôi khi mình lớn tuổi mà lúc mình sắp chết thì hơi thở mình mệt hoặc là nó làm cho chúng ta đờm, làm cho chúng ta thở không được, làm sao mà chúng ta nương hơi thở để mà đẩy lui được?
Do đó chúng ta chỉ còn có cánh tay chúng ta để mà đẩy lui nó được mà thôi. Thì khi mà gặp trường hợp đó, chúng ta chỉ sử dụng cánh tay chúng ta như thế này đưa ra, đưa vô, đưa ra tức là hơi thở ra, mà đưa vô là hơi thở vô, cho nên tác ý.
Thí dụ như bây giờ cái đầu đau, mà chúng ta muốn đẩy lui cái đầu đau mà chúng ta dùng cánh tay, thì chúng ta nói: "Thọ là vô thường, cái đầu đau nhức này phải rời khỏi thân ta không được đau nữa", rồi các cụ, các bác sẽ tác ý: "An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra ".
Khi đưa tay ra thì các bác, các cụ nên nhìn, nên tưởng như cái bệnh nhức đầu theo cánh tay mà đi ra. Và khi đưa vào thì chúng ta nhắc: "An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô". Và cứ đưa ra đưa vô như thế này thì một lúc sau, cái bệnh đau nhức đầu sẽ không còn có đau nhức đầu nữa.
Đó gọi là phương pháp đẩy lui bệnh trên thân của chúng ta mà trong pháp môn Tứ Niệm Xứ Đức Phật dạy: “trên thân quán thân để khắc phục tham ưu”, làm cho thân chúng ta hết đau, nhưng phải bằng cách nương vào hơi thở, hoặc nương vào cái thân hành của chúng ta để mà đẩy lui cái bệnh mới được.
Tại sao vậy? Bởi vì cái Pháp Như Lý Tác Ý nó giống như cây đòn bẩy, mà cái hơi thở và cái hành động đưa tay ra đó là cái điểm tựa, cho nên chúng ta tựa vào cái chỗ đó, nương vào cái hơi thở, nương vào tập trung vào cái hành động đưa ra đưa vô mà cái pháp Tác Ý nó sẽ đẩy lui cái bệnh ở trong thân của quý vị.
(27:16) Cho nên nếu mà chúng ta có một cái điểm tựa thì chúng ta đẩy được cái bệnh đó ra, còn bây giờ mình không có điểm tựa mà cứ đau thì chúng ta không đẩy lui nó được. Cho nên đạo Phật dạy chúng ta có cái chỗ tựa lưng để mà đẩy những cái đau khổ ở trong thân chúng ta ra.
Như vậy nó là cái pháp thiết thực cụ thể lợi ích cho chúng ta rất lớn, là vì chúng ta đẩy lui được bệnh trong thân, và chúng ta đẩy lui được tâm phiền não chúng ta trong mọi hoàn cảnh, và chúng ta giữ được tâm thanh thản, an lạc, vô sự.
Khi chúng ta sắp chết thì cơ thể chúng ta nó rất là đau khổ, nó làm chúng ta mệt nhọc, làm chúng ta mê sảng không còn tỉnh táo nữa, nhưng chúng ta vẫn ôm chặt pháp từ đầu chí cuối, cho nên tâm chúng ta không còn mê, và đồng thời Pháp Như Lý Tác Ý giúp chúng ta đẩy lui tất cả những cái đau đớn trong thân chúng ta thoát ra khỏi khổ.
Do đó chúng ta chết một cách bình an mà không có khổ đau, chứ không khéo mỗi người chết đều khổ đau lắm, nằm trên giường bệnh cơ thể đau nhức. Ai có nuôi người sắp chết mới thấy, trước khi chết, cái người nào cũng vậy họ rất là trăn trở, họ trăn trở như thế nào.
Thầy đã từng nuôi ông Thân của Thầy, Thầy biết, “Đỡ”, ông Thân Thầy bảo đỡ ngồi dậy nó làm như bứt rứt trong người như thế nào, cho nên bảo đỡ ngồi dậy, ngồi dậy chưa ngồi xong bảo để nằm xuống, cứ đỡ lên, đỡ xuống, nằm lên, nằm xuống cho đến khi chịu hết nổi rồi ra đi. Rất là khổ, thấy cái cảnh tượng mà trăn trở của người sắp chết chúng ta thấy khổ quá, khổ quá khổ.
Mà ai chết cũng có sự trăn trở chứ không phải là chết bình an đâu. Cho nên vì vậy mà chúng ta thấy trước ngày mà chúng ta chết rất là khổ, ngay bây giờ mà không tu thì tới ngày đó làm sao chúng ta tu cho kịp, cho nên ngay bây giờ phải ráng cố gắng mà tu.
(29:18) Vậy thì các bác, các cụ hãy cố gắng tập, nghe lời Thầy tập. Hôm nay thứ nhất là chúng ta tập tỉnh thức, “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”, nghĩa là đi trong 30 phút thôi, mấy cụ mấy bác đi nhiều không được thì đi chừng 10 phút, đừng đi nhiều hơn đi chỉ 10 phút mà thôi. Còn các vị mà tuổi còn trẻ, sức khỏe còn nhiều nên đi 30 phút, đi mình biết mình đi, thì đi như thế này Thầy dạy cho để một lúc nữa mình sẽ tập.
Trước tiên mình đứng thẳng rồi mình tác ý: "tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành", rồi lần lượt bước đi mình đếm 1, bước thứ 2 đếm 2, bước thứ 3 đếm 3. Nhưng đi các cụ đừng nhìn xuống dưới, đừng cúi đầu mà nhìn xuống dưới bước chân mình, mà nhìn thẳng ra ngoài.
Bởi vì nhìn xuống dưới cái chân mình, cái tâm mình nó sẽ gom lại, đi một lúc nó nặng cái đầu. Còn mình nhìn ra xa vầy mà mình biết bước đi, mình cảm nhận bước đi thôi, cảm nhận cái bước đi thôi thì nó sẽ không nặng đầu. Còn mình cúi đầu xuống vậy mình đi, cúi đầu xuống để mình nhìn cái bước chân mình đi đó, thì mình sẽ bị nặng đầu. Nhớ lưu ý điều đó.
Nếu khi đi 30 phút mà không nặng đầu thì nên tập 30 phút, mà nếu đi 30 phút mà cảm giác mình có nặng đầu thì mình lui lại đi 20 phút mà thôi, mà nếu 20 phút có bị nặng đầu, thì mình lui lại còn 10 phút mà thôi. Thà tu tập ít mà không bị chướng ngại, lần lượt cơ thể chúng ta thích nghi được chúng ta tăng dần lên 30 phút mà không bị nặng đầu. Do tu tập nó sẽ quen chớ không ai giỏi.
Còn người nào mà đi mà không có nặng đầu thì nên giữ 30 phút mà tu tiến lên. Đó là giai đoạn đi kinh hành Chánh Niệm Tỉnh Giác. Đi 10 bước thì chúng ta đứng lại tác ý một lần, cứ đi 10 nước đúng 10 bước thì đứng lại tác ý một lần "tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành", đó là giai đoạn tu tập tỉnh thức thứ nhất.
Giai đoạn tu tập tỉnh thức thứ hai, khi chúng ta đi 10 bước chúng ta đứng lại, thì chúng ta không tác ý “tôi đi kinh hành” nữa mà lại tác ý: "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra". Tác ý 5 hơi thở như vậy, 5 hơi thở như vậy rồi tác ý: "Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành" rồi tiếp tục đi kinh hành. Rồi đúng 10 bước, đứng lại hít thở 5 hơi thở rồi lại tác ý đi kinh hành như trước. Và cứ như vậy đúng 30 phút xả nghỉ. Đó là giai đoạn đi Chánh Niệm Tỉnh Giác thứ hai.
(32:16) Giai đoạn Chánh Niệm Tỉnh Giác thứ ba, thì quý vị tiếp tục trên con đường đi kinh hành đó, nhưng thay vì đứng mà thở thì mình lại ngồi xuống, ngồi xuống xếp bằng, bán già cũng được kiết già cũng được, tùy theo sự tu tập của mình thì mình lại "hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra".
Bây giờ ngồi mà hít thở chớ không phải như lúc nãy đứng mà hít thở. Rồi bắt đầu đứng dậy, rồi tiếp tục đi kinh hành 10 bước nữa rồi lại ngồi xuống hít thở 5 hơi thở, rồi đứng dậy đi kinh hành 10 bước nữa. Đó là tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác, Tỉnh Thức lần thứ 3.
Đến lần thứ tư thì quý vị không còn tu tập như vậy nữa, mà mỗi hành động của quý vị thì quý vị tác ý một lần. Thí dụ như hai chân, muốn bước đi không nói rằng “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”, rồi bước đi rồi đếm 1, 2, 3, 4, ở đây khác. Giai đoạn thứ tư để tập tỉnh thức thì phải tác ý khác.
Muốn bước chân trái thì ra lệnh “Chân trái bước”, “Dở gót lên” thì dở gót lên, “Dở chân lên” thì dở chân lên, “Đưa chân tới” thì đưa chân tới, “Hạ chân xuống” thì hạ chân xuống, “Hạ gót xuống” là hạ gót xuống. Mỗi động tác của cái hành động bước đều chia ra rất rõ ràng dỡ chân, dở gót lên, dở chân lên, đưa chân tới, hạ chân xuống, hạ gót xuống. Tất cả mọi hành động đó đều có lệnh tác ý, đều có lệnh trước hành động sau, rồi tới chân mặt cũng như vậy. Pháp đó gọi là tỉnh thức thứ tư.
(34:08) Nhưng tỉnh thức thứ tư lại có cái tên là pháp Thân Hành Niệm. Tập luyện nó, nó có đủ thần lực để giúp chúng ta làm chủ được sự sống chết, chấm dứt được sự luân hồi, nhưng pháp đó các cụ già tu không nổi đâu. Các cụ không thể tu pháp đó, nhưng những người còn trẻ khỏe thì nên tập pháp đó rất hữu ích.
Khuyên các cụ già chỉ tu tỉnh thức ở giai đoạn 1 và 2, còn giai đoạn ngồi xuống đứng lên, cơ thể suy yếu không thể ngồi xuống đứng lên nhiều mà kết quả tốt được.
Do đó chỉ có đi kinh hành, rồi đứng lại hít thở 5 hơi thở rồi tiếp tục đi, và đúng 30 phút là các cụ đã tu quá nhiều rồi, quá nhiều. Thay vì tu ít lại chừng 10 phút mà thôi, chứ đừng tu tới 30 phút, để làm gì để khi có bị hôn trầm thùy miên, các cụ sẽ dụng nó mà đi kinh hành để cho nó đừng buồn ngủ, đó là cách thức phá tâm si của các cụ.
Còn bình thường thì đối với người già, các cụ không nên tu về hơi thở nhiều, mà trái lại tu về Tứ Niệm Xứ giữ tâm thanh thản an lạc vô sự. Nghĩa là các cụ cứ ngồi bình thường, ngồi như thế nào cũng được, ngồi trên ghế như Thầy cũng được, nhắc tâm "tâm thanh thản, an lạc vô sự" rồi để tâm mình thanh thản, an lạc, vô sự.
Nếu có một cái niệm nào khởi vào thì nói như thế này, nếu mà niệm đó nó thương nhớ con cái của mình thì nhắc "đây là kiết sử, đây là nhân quả, chỗ này là thanh thản an lạc, không phải được vào đây!" Các cụ nhắc như vậy thì cái niệm đó nó sẽ tan biến đi, nó sẽ không còn nữa và lúc bấy giờ tâm thanh thản tiếp tục.
(36:07) Và nó có một cái niệm nào khởi để mà lo lắng, sao giờ này con nó đi làm mà nó chưa về, nó lo lắng cho con mình, thì các cụ nói: "Đây là nhân quả, dù tai nạn xe cộ hay gì cũng đều do nhân quả, chỗ này là phải giữ tâm thanh thản, an lạc chứ không được lo lắng điều đó, vì đó là nhân quả, lo có được không, có giải quyết được gì không mà phải lo?" Cho nên tâm lo lắng đó nó sẽ tan biến đi, cái niệm đó nó sẽ không còn ở trong tâm nữa, nó để lại cho chúng ta một trạng thái thanh thản an lạc và vô sự.
Các cụ nhớ tu như vậy, tác ý như vậy. Còn nếu thân của các cụ bị mỏi, bị đau, bị nhức, bị bệnh thì nương vào cánh tay đưa ra, đưa vô như lúc nãy thầy dạy, thì sẽ đẩy lui những chướng ngại do thân bệnh và đem lại sự bình an cho tâm mình thanh thản, an lạc và vô sự.
Hằng ngày cố gắng tu tập, cho đến khi chết thì các cụ cố gắng giữ gìn tâm bất động, không cho thân tâm chúng ta bị động một chút xíu nào, dù đau như sắp chết nhưng chúng ta vẫn giữ được tâm thanh thản, an lạc, vô sự đó.
Nếu lúc bấy giờ thấy chúng ta bị dao động trước cái cơn đau, làm chúng ta không có được bình tĩnh thì các cụ nên niệm: “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, con đang gặp nghiệp khó khăn, xin Phật chứng minh cho con, trợ giúp cho con để vượt qua nghiệp này!” thì các cụ sẽ niệm Phật rồi các cụ giữ tâm thanh thản, an lạc, vô sự.
Thì các cụ sẽ tiếp tục, tiếp, tiếp nhận được cái từ trường bên ngoài thanh thản, an lạc, vô sự của chư Phật, thì các cụ có một cái sức lực mạnh để mà đương đầu với cái nghiệp đang tác động trên thân mình quá khổ đau, thì các cụ sẽ cảm thấy nhẹ nhàng và sự đau khổ giảm đi. Sự mệt nhọc lúc sắp chết, thở không được sẽ phải nghe thông suốt làm cho quý cụ, quý bác thở rất dễ dàng.
Do đó nhớ lời Thầy dạy mà tu tập để tự mình cứu mình. Đức Phật đã dạy tự thắp đuốc lên mà đi, đó là dùng những cái phương pháp tu tập như vậy là mình đã tự thắp đuốc lên mình đi để mình tự cứu mình thoát khổ.
(38:22) Vậy thì ngay trong giờ này Thầy đã truyền cho 8 giới Bát Quan Trai. Giới thứ nhất, bây giờ vào đây thì rõ ràng là mình giữ giới, mình ăn chay rồi, cho nên giới thứ nhất là mình không sát sanh, tức là mình giữ đức hạnh hiếu sinh.
Giới thứ hai thì mình buông xả, bởi vì mình vào đây mình tu mình buông xả hết rồi, mình đâu có mang theo gì đâu, cho nên đó là giới buông xả, đức buông xả. Giới thứ ba tức là Đức Chung Thủy, lòng chung thủy đối với các cụ, các bác, những người mà có gia đình, chắc chắn là chúng ta phải cố gắng giữ gìn giới đức chung thủy, lòng chung thủy với nhau đó là cái đức hạnh.
Đức Thành Thật là không nói dối, ở đây đến đây trong cái ngày giờ này thì chúng ta nhất định thấy cái gì thì nói thấy, mà không thấy thì nói không thấy, nghe thì nói nghe, mà không nghe thì nói không nghe, đó là đức thành thật. Đức Minh Mẫn là giới thứ năm, tức là chúng ta không uống rượu, vào trong cái buổi Thọ Bát Quan Trai mà mình uống rượu là sai, cho nên nhất định là không uống rượu.
Hoàn toàn khi xả giới ra các cụ, các bác có thể uống rượu được, nhưng mà khi mà thọ năm giới làm đệ tử Phật thì cố gắng khắc phục mình không uống rượu nữa, và không hút thuốc lá nữa, để mình trở thành một người đệ tử của Phật xứng đáng. Còn bây giờ ở đây Thọ Bát Quan Trai cho nên các cụ, các bác, hoàn toàn giữ gìn trọn vẹn trong ngày hôm nay, không rượu chè, không say sưa không gì cả, đó là giữ giới trọn vẹn.
Và kế đó thì không trang điểm, không nằm giường cao rộng lớn, không ăn uống phi thời. Như bây giờ mình đâu có trang điểm vậy đâu, tất cả những vật gì mà mình trang điểm đều là mình bỏ xuống hết. Không có còn trang điểm, không có còn mặc áo đẹp, không có mặc đồ sang đẹp, mà rất là đơn giản bình thường. Đó là về cái giới luật đó thì mình giữ trọn vẹn.
(40:40) Như bây giờ nhìn qua các bác, các chú đều ở đây thì mình thấy đâu có trang điểm gì, bên nữ thì người ta còn đeo bông đeo vàng, còn mình có gì đâu. Cho nên đối với nam thì chúng ta thấy rất dễ về cái giới mà trang điểm thì chúng ta không phạm.
Nhưng cái giới nằm giường cao rộng lớn, ngày hôm nay các bác, các cụ giữ gìn giới, Đức Phật ngày xưa đi đến đâu, ăn thì dưới gốc cây, ngủ thì dưới gốc cây chứ đâu có giường chõng. Do đó chúng ta theo cái gương hạnh của Phật, thì bữa nay tới giờ trưa ăn cơm thì quý bác, quý cụ sẽ để cái mâm cơm của mình ở dưới cái nền chùa sạch sẽ như thế này, mình ngồi ăn dưới đất giống như Phật, chứ đừng có để trên bàn, trên ghế ngồi ăn thì không đúng.
Phật ngày xưa đều là ngồi dưới đất ăn chứ không có ngồi trên bàn, trên ghế cao sang. Do đó hôm nay mình giữ cái giới luật mình cũng ngồi dưới đất ăn. Và đồng thời mình ăn chỉ có một bữa, cho nên mình đâu có ăn ba bữa, cho nên mình không ăn phi thời như vậy là giới luật bữa hôm nay là các cụ, các bác sẽ nghiêm chỉnh.
Và đồng thời chúng ta cũng không nghe ca hát cho nên chúng ta không nghe ca hát, nghe radio, tivi hoặc là xem hát nghe ca hát. Ở đây mình không có tụng niệm, tụng niệm cũng là một cái hành, cũng là một cái sự ca hát của đạo. Bởi vì tiếng mõ, tiếng chuông nó nhịp nhàng đó là cái giọng ca hát nhưng mà ca hát của đạo gọi là tụng kinh. Cho nên ở đây mình đâu có tụng kinh đâu mà có ca hát, cho nên mình giữ đúng không phạm vào cái giới ca hát.
Do như vậy thì giữ gìn 8 giới này, thì các cụ sẽ trong một ngày làm Phật cố gắng mà tu tập, buổi chiều còn gặp lại Thầy để kiểm tra coi sự tu tập của mình có chính xác hay không.
(42:29) Bây giờ Thầy tóm lược lại để thấy những cái pháp tu. Đầu tiên thì đi kinh hành Chánh Niệm Tỉnh Giác, đi mình biết mình đi, các cụ, các bác, các cư sĩ nhớ chưa.
Cái thứ hai là mình tu về cánh tay của mình đưa ra, đưa vô như thế này để đẩy lui những cái chướng bệnh của mình.
Cái pháp thứ ba là giữ tâm thanh thản an lạc vô sự, giữ tâm bất động của mình, giữ trạng thái thanh thản của mình, nhắc “Tâm thanh thản an lạc vô sự”, rồi ngồi để giữ yên lặng một chút, rồi lại nhắc “Tâm thanh thản an lạc vô sự”, rồi một lúc mình lại tác ý để cho cái sự thanh thản đó kéo dài.
Bây giờ nó lại không kéo dài được, nó có một cái niệm nào khác vào thì mình lại tác ý. Cái niệm đó nó thuộc về nhớ thương thì mình nói "Đây là kiết sử, ái kiết sử hãy rời khỏi thân của mình đi, tâm của mình đi!". Mà nếu mà có cái niệm lo lắng buồn phiền tức giận thì đây là cái niệm nhân quả, thì đây là mình nói "Đây là nhân quả, đi ra khỏi thân, tâm ta đi!".
Còn nếu mà cái niệm thân đau nhức mỏi mệt thì các vị dùng cái cánh tay mà tác ý đưa ra "Thọ là vô thường, cái thọ, cảm thọ đau tay, nhức đầu, đau bụng này phải rời khỏi thân!", thì lúc bấy giờ quý vị sẽ tập luyện.
Mặc dù bây giờ thân của mình không đau, không bệnh, nhưng tới cái giờ mà mình tập cánh tay mình, thì mình cũng tập để cho mình biết đưa tay ra, đưa tay vô, và đồng thời khi có mỏi mệt, đau nhức thì mình dùng tưởng đẩy cái đau nhức bệnh đau theo cánh tay mà ra.
Thì trong buổi hôm nay, thì sau khi nhận lãnh 8 giới xong, thì thực hiện những pháp Thầy đã dạy, vì những pháp đó sẽ đem lại lợi ích cho các cư sĩ, các cụ, các bác cố gắng mà tu tập. Rồi lần lượt sự nhuần nhuyễn của pháp này nó sẽ đem lợi ích rất lớn cho người tu tập, đem lại lợi ích rất lớn cho chúng ta.
(44:22) Cuộc đời tu tập là phải có sự lợi ích như vậy mới tu tập, chứ còn tu tập mà không lợi ích thì chúng ta không tu tập để làm gì. Để mất công và bỏ ngày giờ của chúng ta đi đến đây mà không lợi ích thì quá uổng. Cho nên hôm nay phải cố gắng tu tập để rồi Thầy kiểm tra, Thầy xem lại đúng hay sai, nếu sai Thầy sửa lại cho đúng, mà đúng thì cố gắng tiếp tục tu tập nhiều hơn, để rồi kết quả sẽ đem lại một đời sống an ổn, thanh thản, an vui không còn khổ đau nữa.
Đến đây Thầy xin chấm dứt buổi truyền giới Bát Quan Trai cho quý Phật tử, để nỗ lực tu tập trong một buổi hôm nay đến đây là, các bác, các chú sẽ trở về vị trí của mình, những thất, những nơi yên ổn mà tu tập xung quanh ngôi chùa này. Vậy đến đây xin chấm dứt.
Rồi bây giờ, con có thể sắp xếp cho mấy cụ, mấy bác ra những cái phòng nào đó để hướng dẫn hỏi cô… Có xếp rồi hả con? Có rồi hả? Vậy thì các bác, các cụ cứ về phòng của mình rồi tập tu. Rồi buổi chiều khoảng 2 giờ rưỡi Thầy sẽ đến xả 8 giới cho, và đồng thời Thầy sẽ kiểm tra lại coi sự tu tập ra sao Thầy sẽ giúp đỡ thêm.
Rồi cứ mỗi người đều giao phòng thất tu tập đi, tại thời gian nó ngắn quá, rồi trưa nhớ ăn cơm cho đúng cách ngồi dưới, dưới dưới nền ăn cơm như Phật. Rồi mấy bác, mấy chú vào lo tu tập!
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Ngày giảng: 2004
Người nghe: Phật tử
Thời lượng: [51:05]
(00:00) Trưởng lão: Đó là chính cái điều kiện mình nhắc nhở mình như vậy, đó là mình tác ý, phải không? Các con thấy. Mà mình tác ý như vậy là mình dẫn cái tâm của mình và cái thân của mình vào chỗ giải thoát.
Bây giờ mấy con thấy đạo Phật lợi ích lắm, về hơi thở đức Phật dạy đâu có phải dạy như các Tổ: sổ, tùy, đếm hơi thở, rồi tùy hơi thở để cho vọng tưởng đừng có thôi. Còn ông Phật dạy hơi thở hay lắm mấy con. Khi thân mấy con bệnh đau nhức, nghĩa là bất kỳ đau bệnh gì, đức Phật rất là hay, thì đức Phật dạy như thế nào để mà chúng ta đẩy lui cái bệnh của chúng ta ra khỏi thân?
Bởi vì đạo Phật đạo làm chủ bệnh, chứ đâu phải là để chúng ta bệnh đi nằm nhà thương, đi bác sĩ cho tốn tiền thì sao! Có sung sướng gì đâu, mấy con thấy vô nằm nhà thương mà có hạnh phúc gì đâu? Rồi bác sĩ trị bệnh mình, nó có cho mình đồng xu, đồng điếu nào đâu, nó còn lấy tiền mình thêm. Các con thấy, mình quá dại đem tiền chúng ăn, mà trong khi mình có phương pháp đẩy lui được bệnh mà không chịu tu tập.
Bây giờ Thầy nói cái pháp của đức Phật đơn giản lắm mấy con. Đức Phật dạy: "An tịnh thân hành", hồi nãy tâm chứ gì mấy con thấy, bây giờ thân chứ gì: "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra". Bây giờ cái thân tôi bị đau quá, cho nên tôi bảo, “mày phải an, đừng có đau nghe không!”, ý muốn nói cái câu đó là như vậy. Cho nên mình cứ cố gắng mình tác ý, thường xuyên tác ý câu này và an trú trong hơi thở, thì cái bệnh sẽ được đẩy lui, bệnh gì cũng đẩy lui hết.
Có người hỏi Thầy, như bệnh lao bị vi trùng rồi có đẩy lui được không? Vi trùng nó lo nó xách gói nó chạy không kịp chứ ở đó! Tác ý một hơi là nó lo nó bay mất, chứ nó đâu có dám ở trong cái phổi chúng ta mà đục khoét đó nữa! Thật sự ý thức lực của chúng ta rất mạnh mấy con, đức Phật đã biết cái điều này. Các con có nghe một nhà bác học, người ta nói như thế này không: “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi bẩy cái vũ trụ này cho mà xem!”
(2:08) Các con thấy, cái ông này, ông thực sự ông muốn bẩy cái vũ trụ này, mà phải cho ông cái điểm tựa. Thì bây giờ làm sao mình có cái điểm tựa đâu mà cho ổng, mà có cái điểm tựa thì các con bẩy cái gì cũng bay hết. Vậy mà đức Phật dám cho chúng ta cái điểm tựa mấy con, mấy con thấy điểm tựa là chỗ nào không?
Bây giờ bệnh đau chúng ta là cái nghiệp mấy con. Nếu mà không do nghiệp nhân quả làm sao chúng ta bệnh đau được, có phải không? Vì vậy, do đó mà đức Phật cho chúng ta có một cái điểm tựa. Điểm tựa chỗ nào mấy con biết không? Cái hơi thở đó mấy con! Cái cánh tay của Thầy đưa ra, đưa vô, cái hành động đưa ra, vô vậy nè, đó là cái điểm tựa đó mấy con. Có phải không? Bây giờ cái pháp tác ý là cây đòn bẩy đó.
Bây giờ Thầy bẩy cái bệnh của Thầy ra, tức là Thầy bẩy cái nghiệp của Thầy văng ra chứ gì? Nghiệp đau của Thầy chứ gì? Thì do cái chỗ mà Thầy bẩy đó, thì các con thấy Thầy tác ý chớ gì? Mà Thầy trú vào cái hơi thở của Thầy chứ gì? Hay hoặc trú vào cái hành động thân của Thầy chứ gì? Thầy bẩy cái bệnh này nó bay mất đi chớ, bệnh gì nó cũng bay hết. Vũ trụ kia bẩy còn bay, ở đó cái bệnh!
(03:14) Các con thấy không? Ông Phật biết cách thức cho chúng ta được cái phương pháp rất là tuyệt vời, cho nên đạo Phật làm chủ bốn chỗ sanh, già, bệnh, chết. Các con nghe điều đó chớ? Mục đích của đạo Phật trước khi mà đức Phật thành đạo, thì đức Phật đi ra bốn cửa thành. Các con có đọc lịch sử Phật chưa? Đi ra bốn cửa thành, thấy bốn sự khổ của con người phải không?
Bắt đầu đi ra cửa thành thứ nhất thấy bệnh, thấy ông già chớ. Một người già cả lụm cụm, trời chà ông già này khổ quá. Rồi đức Phật suy ngẫm mình bây giờ còn trẻ nó vậy, chứ về già nó cũng như ông này rồi, đi nó run rẩy, đi nó sợ té gần chết, phải không? Cho nên thấy già khổ, đức Phật thấy con người khổ quá!
Rồi đức Phật đi ra cửa thành thứ hai thấy cái người bệnh, thấy người bệnh họ rên la, họ đau nhức, mà họ không rên la sao được? Trời ơi bệnh khổ quá! Bây giờ mình còn trẻ, khỏe nó không đau, chứ mai mốt nó đau thì cũng khổ quá. Bây giờ mấy con mạnh, mấy con đang mạnh, mấy con đang ngồi nói chuyện với Thầy, chứ sự thật trong người mấy con đang có bệnh đó!
Có người có bệnh đã hiện ra rồi, nhưng mà có người có bệnh chưa hiện ra, nhưng chắc chắn là cái bệnh nó đeo theo. Bởi vì đức Phật nói cái thân con người là cái ổ bệnh, các con có nghe lời nói đó không? Có ai mà không bệnh mấy con? Chắc chắn là phải có bệnh. Dù người trẻ nhỏ cũng là cái ổ bệnh thôi, sớm muộn rồi cũng bệnh. Vậy thì bệnh là khổ mấy con!
Rồi chết, mấy con thấy, đức Phật đi ra cửa thành thứ ba, thấy cái người chết. Thân nhân đau khổ, khóc lóc. Bởi vì mất người thân mình mà không đau khổ sao được? Quá khổ! Khổ quá khổ!
Rồi đến cửa thành thứ tư thì thấy gì mấy con thấy! Thấy cái ông tu sĩ. Ui cha! Cái đời sống ông này coi sướng quá. Không có làm, đi xin ăn mà, sướng quá, còn mình làm gần chết, có phải không? Đó là một cái đời sống. Bây giờ ông ta, ông không có gia đình thì làm sao có cái gì mà đòi ông, ổng đi tu ổng khỏe quá.
Vì vậy đức Phật nói, sống cái đời sống của ông tu sĩ này và đời sống của một con người ở tại thế gian, hai cái đời sống của người thế gian khổ! Cho nên nói sanh, già, bệnh, chết khổ mấy con. Sanh nghĩa này thì đừng có hiểu nghĩa là sanh đẻ, mà sanh nghĩa này là sanh là đời sống. Bởi vì thấy, cái người tu sĩ là đời sống chứ đâu phải thấy người phụ nữ đẻ đâu, sanh đâu! Cho nên do bốn cái đau khổ của con người là đời sống, là già cả, là bệnh tật, là chết, đó là bốn cái đau khổ.
(05:45) Vì vậy mà đạo Phật ra đời là quyết định, là chứng đạt được, làm chủ được bốn sự đau khổ này. Vì vậy đức Phật mới đưa ra cái chân lý để mà chúng ta biết, để mà chúng ta giải quyết bốn cái sự đau khổ. Chớ không phải đưa ra đạo Phật ra đời để giúp chúng ta đi về cõi Cực Lạc mấy con, không có! Hay hoặc là giúp chúng ta đi về Niết Bàn, không có! Hay hoặc là chúng ta Kiến Tánh Thành Phật, không có! Ông Phật không có dạy chúng ta điều đó đâu, kinh sách Phật Nguyên Thủy hẳn hòi đàng hoàng.
Người sau bịa ra điều này, thế kia, ảo tưởng trong cái sự ảo tưởng của họ, rồi nghĩ ra điều này, thế kia, rồi chổng khu nhau mà lạy sám hối, để mà cầu cho tiêu tai, thoát nạn, cầu cho tâm mình để mà tu tập thiền định, ông Phật nào cho điều đó? Các con thấy trong kinh Hồng Danh, các con thường hay, Phật tử mà, thường hay đến chùa trong cái ngày rằm, trong cái ngày 14 hoặc là ngày 30 để mà lạy sám hối Hồng Danh chứ gì?
Trong Hồng Danh có một vị Phật, có nhiều vị Phật tưởng chứ không phải là một vị Phật. Nhưng mà Thầy nhắc lại một vị Phật tưởng, để cho mấy con thấy. Một cái nhà viết tiểu thuyết là Ngô Thừa Ân đã viết câu chuyện Tây Du Ký, trong đó các con nghe cái nhân vật Tôn Ngộ Không phải không? Tức là Tề Thiên Đại Thánh đó. Sau này thì phong cho ổng làm cái chức là Đấu Chiến Thắng Phật, có phải không mấy con, mấy con đọc kinh Hồng Danh có nghe cái tên Đấu Chiến Thắng Phật không?
Vậy thì trong cái thời mà Huyền Trang đi sang qua thỉnh kinh, theo lịch sử Huyền Trang mà thật, thì đi thỉnh kinh, thì ông Phật ổng chết mất rồi. Đi qua bên đó mới học ở bên trường học ở bên Ấn Độ, trường học Phật Giáo ở bên đó, hình như là trường đại học Nalanda thì phải. Mà trong thời ông Phật đã có cái trường đó chưa? Có phải không? Ngài Huyền Trang qua học có lịch sử hẳn hòi.
Thế mà cái ông này ổng tưởng tượng rằng, khi mà Đường Huyền Trang tức là Tam Tạng đó, là đức Phật còn sống. Cho nên qua mà, trong khi mà thỉnh kinh, các con nhớ không, thỉnh kinh rồi mà không có cái lo lót đó, thì cho thỉnh ba cái kinh không có chữ, có phải không? Tới chừng mà đem cái bình bát vàng mà đưa cho ông Ca Diếp chứ gì, đưa cái bình bát vàng, cái ổng cho mình thỉnh kinh! Trời đất ơi! Phật mà còn ăn lo mấy con! Nói cái kiểu gì kỳ vậy, phải không?
(08:13) Nhưng mà ở đây Thầy muốn nói, cái tưởng tượng của một nhà văn người ta viết, người ta tưởng tượng ra những cái nhân vật, chứ làm gì mà có Tề Thiên Đại Thánh? Thế mà bây giờ trong kinh Phật, kinh mà gọi là kinh Đại Thừa đó, tụng niệm Hồng Danh đó, lại có tên cái ông Đấu Chiến Thắng Phật đó, có phải không? Mấy con thấy, cái này có đúng không?
Rồi mình bây giờ cũng nghĩ rằng, kinh sách Đại Thừa nó trúng, sự thật ra nó tưởng tượng ra nó viết, nó viết ra tưởng tượng. Đó là những nhà văn người ta tưởng tượng ra thôi. Rồi bắt đầu mình chổng khu lạy sám hối. Cái ông đó có thật không mà ông phù hộ mình? Cho nên chổng khu mà lạy sám hối kiểu này, lạy cái ông Phật tưởng không à! Đấu Chiến Thắng Phật là ông Phật tưởng chứ đâu phải thật!
Cho nên Thầy nói thật sự, cái ông Phật thật chỉ có ông Phật Thích Ca mà thôi, người Ấn Độ. Còn ông Phật Di Đà, có phải thật không mấy con? Cũng đâu có thật. Ông Phật tưởng không à, nó đâu có thật. Người ta tưởng cõi Cực Lạc, người ta vẽ ra cõi Cực Lạc để người ta tạo cái lòng ham muốn của mình. Đời thế gian này cực quá, làm được một tấc vàng, một chỉ vàng quá khó, mà đất nước Cực Lạc mấy con nghe họ diễn tả, đất họ đó trải bằng vàng không! Trời ơi tui ham! Nếu mà tui được về đó tui cạy hết, có phải không?
Bởi vì lòng tham của mình mà. Mà ở đó sướng thiệt, muốn ăn gì có nấy hết, còn ở đây tui muốn ăn, tui làm cực gần chết, tui mới có ăn. Nó tạo cho cái lòng ham muốn mình càng cao lên. Bởi vì Cực Lạc nó sung sướng quá mà, Cực Lạc là sung sướng mà. Cho nên nó tạo cho mình, mình mới ham mình ráng mình niệm Phật để tui bỏ cái thế gian này mà tui về cái kia, tức là người ta dụ mình mấy con!
Đó là kinh sách Tịnh Độ nó dụ mình bằng cách đó. Còn kinh sách Pháp Hoa nó dụ mình bằng cách nào các con? "Dù cho tao tội hơn núi cả, Diệu Pháp Liên Hoa tụng mấy hàng". Trời mấy con tạo tội như núi, đi ăn trộm, ăn cắp, bây giờ công an bắt, rồi bây giờ mình tụng chừng vài ba câu kinh Pháp Hoa thì nó cũng thả mình ra! Thì như vậy sướng quá rồi chứ gì? Đó là dụ mình chứ làm sao có chuyện đó được mấy con! Tất cả những kinh sai quá sai!
Cho nên ở đây Thầy nói thẳng nói thật, có mất lòng, nhưng mà sự mất lòng đó, mấy con còn có sự suy nghĩ cái đúng cái sai. Còn dạy mấy con ở đây là giúp cho mấy con có những cái điều kiện làm chủ sự đau khổ của mấy con ngay liền. Khi mà mấy con làm chủ được bốn chỗ sanh, già, bệnh, chết, mấy con hạnh phúc rồi, cần gì mấy con đi Cực Lạc nào?
Ở đây ngày ăn một bữa, làm sao mấy con thiếu? Mấy con ăn ba bốn bữa, thì mấy con thấy làm chật vật quá ăn không đủ, chứ còn ăn như Thầy một bữa, làm sao ăn nhiều được mấy con? Mà Thầy, các con thấy Thầy bây giờ là bảy mươi mấy tuổi rồi, gần tám mươi tuổi, còn một năm nữa là tám mươi tuổi rồi. Thế mà Thầy ăn một bữa, Thầy có chết, Thầy có bệnh đau đâu? Cái sức của Thầy bây giờ già rồi, mà Thầy còn nói rổn rảng như thế này thì mấy con thấy, cái lợi ích thiết thực của một người tu ăn ngày một bữa rất lợi ích, không đau bệnh.
(11:07) Cho nên nãy giờ Thầy muốn nói cho mấy con thấy, đức Phật rất hay. Dạy chúng ta có cái đòn bẩy và có điểm tựa, để chúng ta bẩy những bệnh khổ của chúng ta, bẩy những cái tâm phiền não của chúng ta. Bây giờ các con đang bị sân, tâm các con đang giận hờn, thì đức Phật dạy chúng ta bẩy cái giận hờn ra khỏi thân tâm các con liền tức khắc.
Thì đức Phật dạy trong hơi thở đức Phật dạy rất rõ: "Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, Quán ly sân tôi biết tôi thở ra". Tâm mấy con đang sân chứ gì, phải không? Mấy con tác ý một cái, rồi mấy con nương vào hơi thở, hít thở 5 hơi thở tác ý một lần, 5 hơi thở tác ý một lần. Chừng khoảng độ 5 phút mấy con xả ra, thấy cái tâm sân mình đâu mất, các con làm thử đi nó mất liền à!
Còn cái bệnh cái bệnh đau ở trong thân của mấy con, nó tùy theo cái nghiệp nặng, nhẹ. Nếu nó nhẹ mấy con tác ý một, hai lần, mấy con nương vào hơi thở mấy con hay hoặc là, nương vào cánh tay đưa ra, đưa vô như thế này, thì mấy con bẩy nó cũng bay mất hết. Còn nếu bệnh nặng, thì nó phải có cái thời gian dài hơn.
Thay vì nhẹ thì các con chỉ cần 5, 10 hơi thở là cái bệnh đó nó bay rồi, còn nó nặng hơn thì nó phải 5, 10 phút, mà nặng hơn nữa thì 1 giờ, 2 giờ. Mà nặng hơn nữa cái bệnh các con, nghiệp mà, cái nghiệp mà nó có cái lực, nó nặng. Có cái thì nó nhẹ, có cái nó nặng. Mà nó nặng thì các con cho nó một hai ngày. Các con cứ ngồi đó tầm mà, đấu tranh với nó riết rồi nó cũng phải bay mất nó chứ! Có cái nào mà nó không bay? Bởi vì mình có cái điểm tựa và mình có cái đòn bẩy. Bẩy riết nó phải bay thôi, không có còn cái chỗ nào nó không bay!
Cho nên mình có pháp cứu mình mà, thoát ra khổ, khỏi khổ mà. Cái này thực tế con. Các con thấy, mình cầu về Cực Lạc không thực tế, mà mình cầu cái này, mình học tu cái này nó thực tế, mình làm chủ ngay cái thân đau khổ của chúng ta, thân đau khổ.
Vậy thì mấy con nhớ tập tỉnh thức như Thầy đã nói đầu tiên, mấy con đừng tập nhiều. Tập, rồi thí dụ như mấy con tập nhiều lắm là 10 phút thôi, rồi mấy con nghỉ, nghỉ khoảng độ 5 phút hay 3 phút rồi mấy con tập lại. Thấy mình khỏe là mình tập lại, để không nó mất thời gian. Rồi mình tập lại nữa. Và cứ mấy con tập chừng 5 phút rồi mấy con nghỉ, nghỉ rồi tập, nghỉ rồi tập, cứ bấy nhiêu đó mấy con tập.
Còn về hơi thở thì Thầy dạy mấy con. Bởi vì hơi thở nó tới 19 cái đề mục hơi thở, 19 cái đề mục để đối trị 19 cái khó khăn ở trong thân tâm của mấy con. Do đó cái pháp nào của Phật nó cũng nhằm vào cái đối tượng khổ đau của chúng ta mà dạy chúng ta, để chúng ta đẩy lui những cái khổ đau đó, chứ không phải là dạy chúng ta tu chơi, hay hoặc là dạy chúng ta cầu khẩn, không phải vậy đâu! Dạy chúng ta tự sức, tự lực mình làm chủ.
Cho nên đức Phật nói: "Tự thắp đuốc lên mà đi", phải không? Tự thắp đuốc lên mà đi. Thì do đó, bây giờ các con tu tập như vậy là các con đã tự thắp cái ngọn đuốc sáng, để soi đường mấy con đi, mấy con sẽ hết khổ.
(14:02) Bây giờ thì Thầy dạy tiếp cho mấy con về cái hơi thở: "Hít vô tôi biết tôi hít vô. Thở ra tôi biết tôi thở ra". Hồi nãy Thầy dạy mấy con “đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành” chứ gì, phải không? Bây giờ Thầy dạy cho mấy con tu, tu 1 phút, không được tu nhiều.
Nhưng mấy con tác ý "Hít vô tôi biết tôi hít vô, Thở ra tôi biết tôi thở ra". Rồi mấy con hít vô thở ra đúng 1 phút, thì mấy con lại dừng lại nghỉ. Nghỉ rồi mấy con đi kinh hành một vòng, thì mấy con lại nghỉ, rồi mấy con lại tu lại hơi thở. Tức là hai pháp rồi mấy con, hai pháp rồi, các con thấy hai pháp. Bây giờ trong một ngày hôm nay Thọ Bát Quan Trai, mấy con tu như vậy cũng nhiều lắm, nhưng mấy con phải ráng cố gắng tu.
Bây giờ Thầy dạy một pháp thứ ba. Khi tu mà bây giờ nói, Thầy hồi nãy Thầy nói, bây giờ các con tu hơi thở hay hoặc là đi Chánh Niệm Tỉnh Giác, đi kinh hành chứ gì? Thì phải có một khoảng giữa nghỉ chứ gì, phải không? Nghỉ rồi mới tu cái pháp khác, có phải không? Vậy thì cái khoảng giữa nghỉ đó, nó không phải là nghỉ như mình nghỉ thường, mà mình nghỉ có pháp thư giãn mấy con!
Khi mình ngồi nghỉ, mình ngồi nghỉ mình bảo “các cơ thư giãn ra, tinh thần đừng tập trung ở trong cái hơi thở, đừng tập trung trong cái bước đi nữa!”. Các con bảo nó, tác ý nó vậy. Rồi các con ngồi buông thõng tay ra mình ra hết, thì đó là cách thức thư giãn mấy con, gọi là Định Sáng Suốt. Cái tên đó gọi là Định Sáng Suốt, phải không?
Hồi nãy Định đầu tiên dạy mấy con là Chánh Niệm Tỉnh Giác đi kinh hành 10 bước, các con nhớ rồi phải không? Rồi bắt đầu bây giờ tới cái hơi thở "Hít vô tôi biết tôi hít vô, Thở ra tôi biết tôi thở ra", tu 1 phút thôi phải không con? Thì như vậy mấy con cứ tập như vậy gọi là Định Niệm Hơi Thở.
Vì Định Niệm Hơi Thở mấy con đây là tu cái đề mục đầu tiên, rồi sau lần lượt mấy con sẽ tu những cái đề mục khác nữa, nó tới 19 cái đề mục, 19 cái bài pháp của hơi thở, chớ không phải một bài. Mà Thầy chỉ dạy mấy con hôm nay mấy con nhớ tu bài thứ nhất, chứ đừng có tu bài thứ hai, thứ ba.
Còn những người khác mà Thầy dạy tới tu Tứ Niệm Xứ rồi, để lát Thầy sẽ dạy thêm, về cái vấn đề của mấy con tu cao. Còn mấy người mà mấy con mới biết tu, mới biết Thọ Bát Quan Trai hôm nay là lần đầu tiên, thì mấy con tu như vậy, kế đó mấy con thư giãn. Bây giờ hai pháp tu, 1 pháp thư giãn mấy con làm được chưa?
Rồi bắt đầu bây giờ đó mấy con sẽ về tu ba cái pháp này thôi. Còn về Định Vô Lậu để triển khai cái tri kiến của mấy con thì mấy con chưa, chưa nên tu tập cái Định này. Nó bốn cái loại Định đầu tiên mấy con cần tu. Đó là những cái điều kiện của những người mới tu tập.
(16:31) Bây giờ mấy con cũng ngồi đây mấy con nghe thêm những người mà tu cao hơn, khó hơn. Bây giờ mấy con đã tu có một thời gian, mấy con đã tu được Định Niệm Hơi Thở, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác đi Kinh Hành, rồi có người tu đến pháp Thân Hành Niệm. Thân Hành Niệm tức là mình tu để rèn luyện cái lệnh để trở thành Tứ Như Ý, Tứ Thần Túc đó, thì mấy con có nhiều, bây giờ có một số mấy con đã có tu qua rồi, nhưng mà nó chưa có thể nói rằng, chưa đến cái giai đoạn mà thuần thục của nó.
Cho nên vì vậy mà hiện giờ thì cái quan trọng của mấy con đang tu tập mà Thầy đang dạy mấy con ở đây, là những người đã tu rồi đó, thì đó là pháp Tứ Niệm Xứ. Các con có nghe trong đạo Phật nói về pháp Tứ Niệm Xứ không? Tu trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp của chúng ta.
Nghĩa là chúng ta chỉ cần giữ tâm bất động, thanh thản, an lạc, hồi nãy Thầy đã nói tâm thanh thản, an lạc, vô sự đó là cái chân lý thứ ba của đạo Phật, cái trạng thái giải thoát của mỗi con người. Đó là khi người tu Tứ Niệm Xứ là phải nhận ra cho được cái trạng thái này, và đã từng có sống từng 5 phút, 10 phút ở trong cái trạng thái này. Nghĩa là trạng thái này nó đã thể hiện qua cái thời gian 5, 10 phút thanh thản, an lạc, vô sự.
Còn cái người mà chưa có cái trạng thái này thì tu không có được đâu! Mấy con chỉ bắt đầu mấy con tu theo những cái pháp đầu tiên Thầy dạy mấy con thôi. Còn cái người mà đã tu, có tu Tứ Niệm Xứ rồi, thì bắt đầu bây giờ tu như thế nào đúng mà như thế nào sai?
Bởi vì cái tu của những người mà tu Tứ Niệm Xứ này gọi là hộ trì chân lý. Làm sao cái chân lý này cho nó luôn luôn nó hiện mặt nó ra, nó đừng mất gọi là hộ trì chân lý. Mà khi mà chân lý đã lộ mặt ra, nó từ 1 giờ, 2 giờ luôn luôn lúc nào trong khoảng thời gian này đều thanh thản, thì bắt đầu bây giờ chúng ta chuyển một cái pháp khác để chân lý được hộ trì.
(18:35) Vậy các con có nghe trong kinh Tứ Niệm Xứ đức Phật nói, tích tập cái trạng thái đó, tích tập rồi kiên cố, rồi sung mãn. Tích tập, kiên cố, sung mãn.
Bây giờ Thầy giải thích chữ tích tập. Mấy con đã tu Tứ Niệm Xứ rồi mấy con biết tích tập. Bây giờ Thầy chỉ tu, bây giờ ở đây Thầy tu 1 phút thanh thản. Rồi một lát nữa Thầy tu được 5 phút thanh thản, một lát nữa Thầy tu 10 phút thanh thản. Thì mỗi cái thanh thản đó đó, Thầy tích tập lại thành ra một cái thanh thản dài. Các con hiểu không? Bởi vì đức Phật dạy tích tập mà, nó mới sung mãn mà. Nếu mình không tích tập, không góp nhặt lại thì nó sẽ không có.
Bây giờ cái sức của các con bây giờ đang kéo dài được trạng thái đó 5 phút thanh thản, đó là mấy con sẽ được thanh thản đó. Rồi một lát mấy con tu được 5 phút nữa. Rồi bây giờ suốt tới chiều mấy con tu 5 lần, 10 lần thanh thản đó mà cứ mỗi lần một chút, mỗi lần chút gọi là tích tập lại. Thì các con sẽ thấy cái khoảng thời gian mà tích tập, tu tập mà tích tập như vậy đó, thì nó nó rất nhiều phải không?
Mà tu thì mấy con phải tu kỹ, thanh thản, an lạc, vô sự chứ gì? Tu trong khi đó mình không được ức chế nó, mình ức chế nó là sai, các con nhớ nhắc như thế này: "Tâm thanh thản, an lạc, vô sự", phải không? Thì nó sẽ thanh thản an lạc vô sự đó. Nhưng mà các con chú ý thanh thản, an lạc vô, sự, thì mấy con bị ức chế!
Cho nên thường thường mấy con tu về cái pháp Tứ Niệm Xứ mà mấy con nhắc ngay, trực tiếp ngay cái tâm thanh thản, an lạc, vô sự đó, thì mấy con bị ức chế. Thay vì mấy con bảo “tâm như cục đất, ly tham, sân, si hết đi!”, rồi mấy con để tự nhiên nó thanh thản, thì các con không bị ức chế. Các con hiểu điều đó không? Chứ không, mấy con nhắc ngay nó là mấy con bị ức chế đó!
(20:25) Cho nên ức chế, thì mấy con sẽ thấy rằng, khi ức chế thì cái tâm nó không xả. Cho nên vì vậy mình cứ nhắc như vậy, thì có những cái niệm, có những cái niệm khác nó khởi ra, tức là cái tâm nó mất thanh thản nó phải khởi cái niệm mấy con, hoặc là nó bị buồn ngủ hôn trầm, nó hiện ra. Thì do đó các con sử dụng những cái pháp, để mình đẩy lui, tức là câu hữu cái pháp khác để đẩy lui nó.
Thí dụ như có cái niệm khởi, bắt đầu bây giờ có cái niệm ái kiết sử đi. Nó khởi mình nhớ nhà mình, mình nhớ bà con hay là em út, con cháu gì đó, đó là ái kiết sử. Hay hoặc là nhớ bạn bè của mình đi, đồng tu mình cũng nhớ, bây giờ chị đó đi lên Tu viện Chơn Như ở tu mà không biết làm sao, đó cũng là ái kiết sử, mấy con!
Thì khi mà nó khởi ái kiết sử vậy đó, thì mình nói: "Đây là ái kiết sử, chỗ này là thanh thản, an lạc, vô sự chớ không phải chỗ mày vô, mày đi đi!", thì các con tác ý nó rồi nó đi. Nhưng mà lúc sau lại nó vô. Bây giờ nó vô, “mày được rồi, mày vô thì tao sẽ đưa mày thành một cái đề tài, tao quán cái kiết sử này”.
Khi đó con đưa cái đề tài con quán kiết sử: "Nó có duyên gặp nhau trong sự tu tập, cho nên thành chị em, mà chị em là phải lo tu tập, để cứu độ với nhau. Chứ mày cứ nhớ nó như vậy, là mày sẽ tu không được", thấy không? Các con thấy không? Mình quán cái kiết sử, mình quán đây là cái nhân quả, có cái nhân duyên nhân quả trong cái sự tu tập mới gặp nhau, mà gặp nhau mà để dính mắt như vầy thì mày chết!
Vì vậy khi mà các con tư duy suy nghĩ như vậy, thì cái niệm này nó sẽ đi luôn mà nó không tới nữa, tức là nó đã chuyển đi, nó đã diệt đi, nó đã ly đi, nó đã không còn nữa. Do đó thì tiếp tục thanh thản nữa. Rồi nó có niệm khác thì tác ý đuổi ngay liền, mà nó không đi, thì nó trở lại nữa, thì đưa nó thành cái đề tài của Định Vô Lậu đuổi nó đi. Cách thức tu Tứ Niệm Xứ là như vậy mấy con, đó thuộc về tâm.
(22:14) Còn thuộc về thân là sao? Thuộc về thân bây giờ, tu Tứ Niệm Xứ, nó không phải bắt mấy con phải ngồi nhiều hoặc đi nhiều, nó không phải đâu. Nó có chướng ngại thì mấy con thay đổi. Và bây giờ mấy con đang ngồi tu Tứ Niệm Xứ nè, ngồi khoanh chân kiết già hẳn hòi lưng thẳng chứ không phải là ngồi gục tới gục lui đâu, cho nên ngồi rất là tốt.
Không ngồi thôi, mà ngồi là ngồi phải cho đúng cách, chứ đừng có ngồi mà cái kiểu dẹo qua vầy, ngồi cúi cái đầu xuống vầy, để chạy theo cái trạng thái an lạc của cái thanh thản đó, thì không đúng mấy con. Không cần cái trạng thái an lạc đó, mà chỉ cần cái trạng thái bất động của thanh thản mà thôi.
Cũng như bây giờ ở đây mấy con, người nào cũng đang ở trong cái bất động tâm thanh thản, an lạc, vô sự chứ gì, có phải không? Bây giờ mấy con có ai chửi đâu mà giận, có ai tham, sân, si đâu, đó là bất động chứ gì? Thân mấy con bây giờ không có mỏi mệt, không có đau nhức gì hết, thì đó là bất động chứ gì? Do chỗ trạng thái bất động này mà giữ chứ không phải là giữ, bây giờ tui ngồi đây sao mà nghe nó hỷ lạc, nó an ổn quá tui thích thú, rồi tui cúi đầu, để mà tui hưởng cái lạc đó thì chắc chết rồi, trật rồi! Mấy con đi vào xúc tưởng hỷ lạc rồi, sai rồi!
Bởi vì bất động tâm là sống bình thường như mọi người, trong đó không tham, sân, si, như vậy gọi là bất động tâm. Cho nên cái người mà tu chứng đạo như bậc A La Hán, như Phật, người ta sống trong bất động, chứ người ta có nhập Thiền Định gì đâu. Nhưng mà nó là Bất Động Tâm Định mấy con! Ở trong đó nó không có giận hờn phiền não, không có tham, sân, si, đó là bất động.
Mà trạng thái Tứ Niệm Xứ là trạng thái bất động. Làm cho sung mãn cái trạng thái bất động này, đặng nó luôn luôn cái thời gian của nó là 12 tiếng đồng hồ hoặc 24 tiếng đồng hồ thì nó mới thực hiện được đạo lực của nó là Tứ Thần Túc. Nó mới từ cái thanh tịnh đó, nó mới có Tứ Thần Túc. Còn nếu mà không có được cái thời gian mà như vậy, thì Tứ Thần Túc không được.
Cho nên đức Phật mới dạy trong Tứ Niệm Xứ là tích tập, phải không? Tích tập lại những cái trạng thái thanh thản đó. Chứ bây giờ tui làm sao mà tui kéo dài cái trạng thái đó được liền? Bởi vì tôi ngồi ở đây là chướng ngại pháp nó sẽ đánh vào thân nè, nó mỏi, nó mệt, nó đau, nó nhức, nó tê nè, có phải không? Rồi thân bệnh nó lòi ra ba cái bệnh nữa, chứ đâu phải là nội cái thân nó mỏi mệt không đâu? Rồi kế đó cái tâm nó cũng đâu có yên. Lúc thì nó buồn ngủ, lúc thì nó niệm này, niệm kia, nó đủ thứ hết chứ!
Cho nên vì vậy tui còn nhiều cái chướng ngại pháp lắm. Cho nên do đó tui tích tập được cái thời gian thanh thản được phút nào tốt phút nấy, nhưng mà ngày nào tui cũng tích tập. Tích tập cho đến khi mà tui tích tập nó thành một cái 12 tiếng đồng hồ, có phải không? Do tui sự tích tập đó mà tui kéo dài được 12 tiếng đồng hồ, chứ tui không tích tập thì tui không, tích tập có nghĩa là siêng tu, giữ gìn cái trạng thái đó gọi là tích tập.
Bởi vì bây giờ tôi tích tập chút, chút, chút, cứ lát tui tu, lát tu, tui siêng năng tui tu thì tui tích tập lại cái đó, tui gôm lại cái đó, cho nên bây giờ tui ngồi 12 tiếng đồng hồ, thì nó vẫn thanh thản, an lạc, vô sự. Bởi vì tui tích tập, tui gôm lại nó thành nhiều chứ. Còn tui, tu sao tui tu hoài mà tui thấy sao nó không có? Nhưng mà đức Phật khéo léo nhắc cho chúng ta biết rằng tích tập các con!
(25:12) Do cái sự mà cố gắng tích tập đó, ngày chút, ngày chút thì mấy con sẽ có một cái thời gian, nó sẽ dài đi 12 tiếng đồng hồ. Tức là Nhất Dạ Hiền đó mấy con. Một đêm làm Thánh Hiền có 12 tiếng đồng hồ làm Thánh Hiền. Tức là chúng ta muốn làm Thánh Hiền, chúng ta phải có Tứ Thần Túc, không có Tứ Thần Túc thì chúng ta chưa làm Thánh Hiền.
Bởi vì tâm chúng ta còn tham, sân, si thì không bao giờ có Tứ Thần Túc. Mà còn tham, sân, si thì hoàn toàn chúng ta là còn phàm phu, phải không? Còn phàm phu, thì nó mới còn tham, sân, si chớ. Còn Thánh mà sao còn tham, sân, si, các con hiểu không?
Cho nên một bậc Thánh người ta lìa tham, sân, si, người ta không còn tham, cho người ta cái chùa đẹp, người ta không ham đâu mấy con, mất công lau dọn! Bởi vì cái đầu óc của cái người mà tu Chánh Niệm Tỉnh Giác họ khôn lắm, họ đâu có ngu để họ cực, con hiểu không? Cho cái nhà tranh vách lá chứ họ khoẻ lắm, họ sướng lắm. Họ tới đó họ ngồi, họ tu chứ họ khỏi cần quét, các con thấy cái nào lợi?
Nhưng mà cho cái nhà tốt như thế này, trời đất ơi, nếu mà để rác rến họ không quét, bụi bặm không thì coi sao được! Mình con người sao ở dơ quá vậy, phải không? Mà cái nhà tốt nữa, phải lau chùi. Mà con biết lau chùi từ cột rồi cái này kia, trời đất ơi, nếu mà một mình Thầy mà làm cái này chắc là hết buổi sáng, có phải không? Cực khổ lắm!
Cho nên cái chùa tốt thì mấy con thấy nó sang đẹp thật, nhưng mà đôi mắt phàm phu, đôi mắt không giải thoát. Cho nên thường thường mấy con ham cái nhà tốt, nhưng mà có cái nhà tốt rồi mấy con cực nhiều. Tối ngày cứ lau dọn, từ cái thang lầu mấy con cũng lau, chứ không để nó dơ thì sao? Cho nên mấy con cực. Còn cái người giải thoát, người ta ngồi ở gốc cây thì người ta đi, người ta bỏ cái gốc cây đó, người ta lại gốc cây khác, có gì đâu, người ta đâu có dọn dẹp gì cực khổ! Có phải không, mấy con thấy? Đó là cái sự tu tập của mấy con.
Trong cái sự tu tập như vậy, mấy con thấy lợi ích thiết thực và vì vậy mấy con nhớ. Những người tu Tứ Niệm Xứ rồi thì mấy con phải tích tập cái tâm thanh thản này. Nỗ lực, hàng ngày nỗ lực. Các con tích tập nhiều thì mấy con mau, mà mấy con lười biếng, tu tập, tích tập ít thì mấy con bị.
Vì vậy mà có hôn trầm thì mấy con đi Chánh Niệm Tỉnh Giác. Mà sợ trước khi chuẩn bị đừng cho có hôn trầm, thì mấy con, trước khi mấy con ngồi tu Tứ Niệm Xứ thì mấy con phải tu tập Thân Hành Niệm, vì pháp Thân Hành Niệm, các con tu tập nó sẽ tỉnh thức. Tu nó trong một tiếng, hai tiếng đồng hồ rồi, sau đó mấy con ngồi nó không có buồn ngủ nữa đâu. nó hết rồi, nó chạy, buồn ngủ nó chạy mất rồi! Bởi vì cái pháp đó, nó quét ba cái buồn ngủ đi ra rồi.
Còn bây giờ, mấy con ngồi tu Tứ Niệm Xứ, rồi mấy con thấy nó buồn ngủ, tức là nó chưa đủ sức tỉnh của nó, cho nên nó không có được kéo dài. Vì vậy mà khi bị buồn ngủ thì ngay đó các con đứng dậy, các con đi Chánh Niệm Tỉnh Giác, đi kinh hành để biết bước đi của mình thôi. Thì lúc bây giờ nó sẽ hết.
Hoặc các con ngồi lại và đồng thời dùng Định Niệm Hơi Thở mà tác ý: "Quán, với tâm định tỉnh” hay hoặc là: "Quán tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô. Quán tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra". Các con tác ý vài ba lần thì cái tâm của mấy con nó sẽ định tĩnh, nó không buồn ngủ nữa. Nó có cái phương pháp trong hơi thở mà mấy con.
(28:02) Cho nên vì vậy mà mấy con biết cách, thì mấy con sẽ tu tập rất tốt. Nhưng Thầy xin nhắc lại Tứ Niệm Xứ không phải tu có một oai nghi mà tu bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi.
Khi đương ngồi vầy, tự tâm mình nó tu tập Tứ Niệm Xứ, mà cái thời gian nó kéo dài chừng 6 tiếng đồng hồ, nó được thanh thản 6 tiếng đồng hồ, nó sáng suốt lắm mấy con! Tự tâm mình nó sáng suốt. Nó biết rằng ngồi thêm chừng 5 phút nữa hay 3 phút nữa là cái thân này bị mỏi chân hay hoặc bị tê chân, bị đau chân, nó biết.
Cho nên nó hướng tâm nó bảo đứng dậy đi, thì ngay đó đừng nói nó là vọng tưởng, đừng nói nó là cái niệm mấy con. Đừng nói là cái vọng, đừng nói là cái niệm, mấy con tác ý nó bảo dừng đi tao không có đi đâu thì mấy con chết. Mấy con sẽ bị cảm thọ đánh vào chân mấy con đó!
Khi mà nó hướng ra, tức là nó đã chuẩn bị, nó trạch chúng ta, nó biết là cái thân nó sắp sửa bị mỏi mệt, bị đau tê gì rồi, bị đau lưng, bị này kia rồi, bị mỏi rồi, nó biết trước rồi, mà chưa mỏi đâu, nó biết rồi, thì nó tác ý bảo “đứng dậy”, thì mấy con đứng dậy. Mà nó bảo “đi” thì mấy con đi, nó bảo “nằm” thì mấy con nằm. Nhớ!
Mà khi trước khi đi, đứng, đi, nằm thì phải cảnh giác! Bởi vì mấy con không cảnh giác, thì niệm nó sẽ xen vô chỗ đó. Mà không cảnh giác hôn trầm, thùy miên nó sẽ đánh vô đó. Mấy con biết, nó khôn lắm! Nó bảo bây giờ nó khởi nó muốn nằm, thì mấy con không cảnh giác, mấy con nằm xuống cái bắt đầu nó ngủ đó! Cho nên nó dụ mấy con chứ không phải không đâu! Cái tâm ma của mấy con nó ở bên đó chứ không đâu đâu. Nhưng mà cái trạch pháp nó biết, nó biết cái điều đó.
Cho nên đức Phật căn dặn là khi chúng ta tu trong bốn oai nghi, thì từ cái oai nghi này mà chuyển sang cái oai nghi khác, là phải tỉnh thức ngay từ ở trên cái hành động, chuyển, chỗ mà chúng ta giao thời mà chuyển cái hành động, đó là phải tỉnh thức. Và khi mà chuyển qua hành động đó rồi, thì phải tỉnh thức trên hành động đó, để đương đầu với những cái ma chướng nó sẽ xen vô. Nó làm cho chúng ta, cái chân lý bị chìm mất đi!
(29:52) Thì hôm nay Thầy dạy cặn kẽ như vậy, để rồi mấy con sẽ tập thì mấy con sẽ thấy kết quả rất lớn. Đó là những điều mà cần tu cho những người đã tu tới Tứ Niệm Xứ. Còn tu Tứ Niệm Xứ xong rồi, thì chừng mà nhập các Định thì Thầy sẽ dạy thêm, chứ bây giờ Thầy dạy thêm mấy con cũng chưa làm được, có phải không?
Còn mấy con mà Thầy dạy bây giờ tu Tứ Niệm Xứ mà như các cô khác, thì mấy con cũng chưa có làm được đâu! Bởi vì khi mà cái thân đau này mấy con tu hơi thở chưa có biết cách, thì mấy con làm sao đẩy lui cái bệnh của mấy con được, có phải không?
Còn người ta, cái thân người ta đau, thì người ta nương vào hơi thở người ta tác ý: "Thọ là vô thường, cái nhức đầu này phải đi ra khỏi thân tao" phải không? Mình nói vậy rồi bắt đầu mình hít vô, thở ra, hít vô, thở ra mình tác ý: "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra", thì ngay đó cái đầu đau nó hết rồi, phải không? Mấy con thấy người ta biết.
Còn mấy con mới, mới tập, mấy con làm sao mấy con biết. Mấy con chưa có nhuần nhuyễn ở trên cái pháp, thì mấy con đâu có đuổi được phải không? Cho nên bây giờ mấy con tập, để mai mốt mấy con làm chủ bệnh hạnh phúc lắm mấy con. Tiền mấy con để cho mấy người nghèo còn sướng hơn để cho bác sĩ ăn, mà tốn tiền thuốc nữa. Các con nhớ kỹ đi, tốn tiền thuốc. Uống thuốc nó hết bệnh này chứ nó có bệnh khác, nó nguy hiểm lắm!
(31:04) Cho nên chúng ta có pháp Phật dạy. Chúng ta là con của Phật, là đệ tử của Phật rồi, mà Phật cho chúng ta những cái phương pháp để trị bệnh, thần dược đó mấy con! Bằng chứng như Thầy già như thế này mà bệnh đau dám đến thân Thầy không? Lẽ ra Thầy già nó thăm viếng Thầy hoài chớ! Còn này, nó đâu có dám tới! Tới Thầy hét một tiếng là nó bay ra, nó chạy, nó xách gói nó chạy! Thầy nói cái cửa ở đây ra ngoài đó, mà chạy thấy đó mấy con, cái bệnh nó chạy thấy đó!
Các con thấy ghê lắm, nó sợ lắm! Nhưng mà mấy con, tự mấy con đã có cái lực đó, tại sao mấy con không tập? Người nào cũng có cái lực đó hết, mà không tập thì uổng phí quá! Một đời người, con người sinh ra đức Phật nói, chỉ có con người mới làm chủ được cái điều này.
Các con nghe bốn cái câu kệ đó không? Đức Phật nói: “Trên trời dưới trời - Con người là duy nhất - Làm chủ sanh già bệnh chết!” Có phải không? Nói con người chớ không phải, các con nghe cái câu kệ như thế này:
“Thiên thượng thiên hạ
Duy ngã độc tôn
Nhất thiết thế gian
Sanh lão bệnh tử.”
Có đúng cái câu kệ đó không? Mà thế mà có người hiểu như thế này, mấy con thấy, hiểu như thế này: “Thiên thượng thiên hạ - Duy ngã độc tôn!” Trời ơi! Ông Phật, ông xưng ông là con người thứ nhất, có mình ông là con người à! Ông Phật đâu có bản ngã quá tay, vì vậy mà gọi là làm Phật mấy con. Ông Phật ổng nói “Duy Ngã”, tức là chữ “Ngã” ở đây có nghĩa là nói con người, chứ đâu phải là nói ông Phật, con hiểu không?
Cho nên chỉ có con người duy nhất mới làm chủ bốn sự đau khổ này, thì Thầy làm chủ được, ông Phật làm chủ. Ông Phật ông nói duy nhất, thì ông Phật làm chủ chứ Thầy làm chủ được không? Mà sao giờ Thầy làm chủ được, các con hiểu điều đó! Như vậy là có hai người rồi chứ gì? Mà còn những bậc A La Hán, người ta cũng làm chủ chứ đâu phải riêng có ông Phật.
Cho nên đức Phật nói chữ “Ngã” đây có nghĩa là con người, chứ không phải là “Ngã” là ta! Các con hiểu không? Tại vì người ta hiểu qua cái danh từ chữ Hán, mà người ta hiểu chữ “Ngã” là Ta, thì nó quá sai cái ý của đức Phật. Đức Phật nói con người là người nào cũng có thể làm chủ được hết.
Thầy làm chủ rồi bây giờ bắt đầu tới mấy con làm chủ. Thì bắt đầu bây giờ, mấy con đẩy lui bệnh mấy con bay đi, mấy con tác ý: "Thọ là vô thường! Cái bệnh đau bụng này đi ra khỏi chứ mày ở đây mày không có được đau bụng!". Thì chút xíu cái bụng nó đâu mất, không có đau nữa, mà không uống một viên thuốc! Thì như vậy là rõ ràng là mấy con cũng làm chủ được như Phật chứ đâu phải gì đâu, các con hiểu không?
(33:22) Cho nên có một lúc đức Phật sắp sửa Niết Bàn, thì có lúc đức Phật đi trên đường đi, đức Phật đau gần như muốn chết. Thì trong cái đoạn kinh, cái tập “Những Lời Phật Dạy” tập 4 không biết mấy con có đọc chưa, mấy con biết. Thì lúc bấy giờ đức Phật mới tập trung trong cái sức tỉnh thức, tỉnh thức mà như hồi nãy Thầy dạy mấy con đi kinh hành đó. Nhưng mà đức Phật lại bị đau, cho nên đức Phật nằm tỉnh thức trong hơi thở mấy con. Hơi thở ra, hơi thở vô mà, tỉnh thức. Rồi tinh cần, ở trong cái câu nói tinh cần. Tinh cần cais gì? Tinh cần tác ý chứ gì!
Thì Thầy siêng năng. Bây giờ cái đầu Thầy nhức, Thầy bảo: “Thọ là vô thường, cái đầu này đi. An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh”. Rồi bắt đầu Thầy hít thở một hơi, rồi Thầy tác ý nữa “Thọ là vô thường đi đi, không có được ở đây nhức nữa!”, rồi bắt đầu an tịnh nữa thì chút cái nó hết mất. Có sung sướng không mấy con? Khỏi mất công đi bệnh viện, đi nhà thương, khỏi gì hết, không phải khỏe hay sao?
Đó, thì như vậy pháp Phật rất là lợi ích cho con người. Đem lại hạnh phúc cho con người, tức là đạo Phật, chứ không phải đạo Phật đem lại sự cầu an, cầu siêu cho chúng ta. Đó bây giờ mấy con thấy, bây giờ mấy con chết, linh hồn đâu có mà siêu, có phải không? Mà cái còn lại của mấy con là gì, còn lại cái nghiệp chứ gì? Mà bây giờ cái nghiệp của mấy con còn lại cái nghiệp gì mấy con biết không? Nghiệp tham, sân, si!
Mà thầy tu hành rồi, thì Thầy còn cái nghiệp là gì? Nghiệp không tham sân si chứ gì! Cái này nó có tái sanh được không? Nó có giống ai không? Bao nhiêu con người ở trên hành tinh này, thì người nào cũng tham, sân, si, mà cái nghiệp của Thầy là không tham, sân, si thì không giống ai, thì nó phải ở chỗ nào đó chứ, có phải không? Chỗ giải thoát chớ, có phải không?
Các con thấy, cái gì còn? Linh hồn đâu có, mà cái nghiệp còn. Mà cái nghiệp kia, nghiệp tham, sân, si thì tiếp tục tái sanh luân hồi, còn cái nghiệp không tham, sân, si thì có luân hồi không? Chấm dứt! Cho nên Thầy chấm dứt luân hồi, làm sao sanh người nữa? Mà không sanh làm người, làm vật thì Thầy giải thoát! Có hạnh phúc, sung sướng không mấy con?
Vậy phải ráng tu chớ! Mấy con không ráng tu, ba cái nghiệp tham, sân, si này lôi mấy con đi tái sanh, mấy con không biết đâu! Lúc thì nó sanh làm con vật, con bò, con dế, con trùng nữa không biết chừng, lúc thì nó sanh làm người, có phải không? Có lúc thì sanh làm người nghèo đói gần chết, nằm ở vỉa hè, có lúc thì sanh làm người giàu có, làm vua nữa! Ôi thôi! Đâu có biết được, các con hiểu không?
Tùy theo cái hành động sống của các con, các con làm những điều thiện hữu lậu, thì mấy con làm vua, làm chúa, mà mấy con ích, kỷ bỏn xẻn thì mấy con làm chúng sanh, côn trùng, con dế, có gì đâu! Chuyện đó ăn thua cái sống của mấy con thôi, cái tâm niệm của mấy con thôi. Đó là quy luật của nhân quả mà. Mấy con làm sao thì mấy con phải gánh chịu, mấy con không bao giờ mấy con thoát khỏi cái khổ đau của mấy con là chấm dứt tái sanh được. Chỉ có con đường của đạo Phật mới chấm dứt tái sanh mà thôi!
(36:00) Đến đây, Thầy tuyên bố bữa nay là truyền giới cho mấy con, tám giới, bắt đầu tập tu. Những người nào thuở giờ chưa biết tu Bát Quan Trai, thì hôm nay các con sẽ tập những lời mà Thầy dạy nãy giờ. Thì trong khi mấy con khép tới chiều, Thầy sẽ xả Bát Quan Trai và Thầy sẽ làm lễ Quy Y cho mấy con để cho mấy con được trở thành những người đệ tử của Phật, và cố gắng sống như Phật, làm như Phật, ăn như Phật, ngủ như Phật thì như vậy mới đúng nghĩa là đệ tử của Phật.
Chứ mình con của Phật mà làm không giống như Phật, con của Phật gì ăn ngày ba bữa, làm sao giống Phật! Có phải không mấy con? Thì bây giờ mấy con đang còn phàm phu thì mấy con tập, có phải không? Con của Phật gì mà ăn thịt chúng sanh, phải không? Con của Phật phải thương chúng sanh chứ sao lại ăn thịt!
Như vậy là mấy con muốn Quy Y thì lần lượt mấy con sẽ tập. Đức Phật nói Hướng Lưu, hướng vào cái thiện chứ đừng hướng vào cái ác. Cho nên mấy con Quy y là mấy con hướng vào cái thiện, chớ không còn hướng vào cái ác nữa. Và cuối cùng mấy con mới Nhập Lưu, tức là nhập vào cái thiện, mấy con hiểu không? Đó là cái đường lối của đạo Phật.
Chứ không phải mấy con Quy Y rồi cái bắt buộc mấy con phải làm y như Phật, làm sao nổi? Trời ơi ông Phật ông sống kiểu này, chắc tui ăn ngày một bữa, chắc tui chết luôn, có phải không mấy con? Cho nên trong cái sự tu tập, là rèn luyện cho mình sống thành một cái thói quen thiện, chớ không phải là gì khác hết.
Bởi vì chúng ta cái bản chất, có người hỏi như thế này: “Có phải từ con người có cái bản chất riêng của họ?” Đâu có cái bản chất riêng mà có cái sự huân tập thành cái bản chất mà thôi. Cũng như bây giờ con huân tập cái giận hờn, phiền não ác pháp, thì con thành cái bản chất ác chứ có gì. Mà con huân tập cái thiện, con biết thương người, con biết thương chúng sanh, con không ăn thịt chúng sanh, con hằng ngày con huân tập cái đó nó thành bản chất thiện chứ sao?
Cái đó là cái thói quen. Cái bản chất của con là do từ cái chỗ mà học tập, do từ cái chỗ tu tập mà thành cái bản chất. Chớ không phải là tự có cái bản chất đâu. Cái bản chất không có tự nhiên mà có, các con hiểu chưa? Cho nên tại sao có cái người này thiện, mà có cái người này ác, mà có người giận dữ, mà có người kia lại giận ít, tại sao vậy?
Tại vì người ta đã huân cái đó nó thiện cho nên người ta thiện, mà người này huân cái đó ác, cho nên người đó ác, có gì! Có người sao mà giận mặt đỏ lên mà có nước đập đồ đập đạc, nhà cửa muốn xô hết đó là huân cái sân nhiều. Tức là bản chất anh ta dữ và tợn đó là do anh ta huân cái giận hờn nhiều, cho nên bây giờ nó thành cái bản chất đó, chớ không phải là khi không mà anh ta có cái bản chất đó, các con hiểu không?
Cái bản chất không có nghĩa là tự dưng nó có được, mà do hằng ngày chúng ta sống, chúng ta luôn huân nó vô, thành ra nó thành cái bản chất của chúng ta. Cho nên bây giờ muốn cái bản chất tốt, thì chúng ta phải có cái phương pháp tốt. Cho nên đức Phật dạy chúng ta ngăn ác, diệt ác, sinh thiện, tăng trưởng thiện.
Hằng ngày chúng ta ngăn và diệt cái ác pháp đi, thì chúng ta sẽ tạo thành mình có cái bản chất thiện chứ gì, các con thấy đúng không? Mà bản chất thiện thì nó không làm khổ mình, không làm khổ người thì đó là giải thoát. Mà không làm khổ mình, khổ người là đạo đức nhân bản nhân quả. Các con hiểu chưa?
(39:00) Cho nên đạo Phật dạy chúng ta đạo đức, mà cuối cùng để làm chủ được sự sống chết của chúng ta cũng đều do đạo đức. Cái hành động mà Thầy đuổi cái bệnh trong thân Thầy ra khỏi đó là hành động đạo đức, đạo đức không làm khổ mình! Còn bây giờ mấy con đuổi cái bệnh mấy con không ra được, thì mấy con có đạo đức không làm khổ mình không? Trời đất ơi, giờ đau cái đầu như thế này, mà cứ nằm đó rên không thì như vậy mấy con có đạo đức với mình không? Cứ đau khổ mà cứ ôm khổ không thì đâu có đạo đức! Các con thiếu đạo đức với các con!
(39:31) Các con nghe đạo đức không làm khổ mình, khổ người không? Thế mà bây giờ cái tâm con giận mà cứ để nó giận thì mấy con có đạo đức với mình không? Nó đang khổ mà mấy con cứ để cho nó khổ, vậy thì mấy con không phải là cái người có đạo đức với mình! Cho nên đạo đức với người khác, khi người ta chửi mình, mình nhẫn nhịn, mình không chửi mắng lại họ, thì đó là không làm khổ họ, thì nó mới dễ đó, chứ mà đạo đức với mình thì khó lắm mấy con!
Người ta nói mà mình giận, đó là thiếu đạo đức với mình rồi. Còn mình chửi người ta đó là mình thiếu đạo đức với người ta. Bởi vậy, cho nên mấy con ráng mà tu tập thì mấy con sẽ có những cái đạo đức làm người, sống không làm khổ mình, khổ người, những cái đạo đức rất hay mấy con!
Thầy sẽ lần lượt Thầy sẽ viết sách đạo đức, và Thầy sẽ dạy cho mấy con học đạo đức, tu tập đạo đức. Những hành động mấy con tu đó là đạo đức đó, gọi là giới hành. Tức là cái đức mà chúng ta hành động cái đó để mà trở thành cái đức hạnh của chúng ta, nó làm cho chúng ta sống được trong cái đạo đức không có làm khổ mình, khổ người nữa. Nó dạy toàn là đạo đức chứ không có gì hết.
Bởi vì các con biết rằng cái Đạo Đế, tức là cái giáo trình đào tạo tu học của đạo Phật, đó là tám cái lớp học, ba cái cấp Giới Định Tuệ. Tám cái lớp học là Chánh Kiến, Chánh Tư Duy cho đến Chánh Định đó là tám cái lớp học, cái chương trình giáo dục đào tạo của đạo Phật mà, chứ đâu phải là cái pháp môn đâu.
Cho nên hiện bây giờ nó chưa thành hình được cái chương trình giáo dục, nó chưa có tám cái lớp học hẳn hòi, Thầy sẽ dạy mấy con những cái điều kiện cần thiết cho mấy con tu tập cái căn bản này thôi.
Chứ sau khi mà có cái lớp học rồi, thì như thí dụ như ở chùa này có lớp học rồi, thì bắt đầu vô học cái lớp Chánh Kiến, mấy con bắt đầu vô phải học lớp 1 thôi. Dạy cho mấy con biết cách thức sống như thế nào là đạo đức không làm khổ mình, nhìn mọi đối tượng, nhìn mọi pháp, để giúp cho mấy con có cái hiểu biết bằng cái không làm khổ mình, khổ người, như vậy mới gọi là đạo đức không làm khổ mình, khổ người.
(41:30) Thì cái lớp học đó sẽ học một năm. Đầu năm sẽ học những bài vở gì? Nữa năm học gì, mà cuối năm học gì? Học rồi phải thi tốt nghiệp, y như chương trình giáo dục đào tạo của nhà nước. Mấy con đậu thì Thầy mới cho lên lớp Chánh Tư Duy. Mà rớt thì ở lại học nữa, có hiểu không?
Phải đậu chứ! Mấy con tập tỉnh thức mà giờ không tỉnh thức, thì bắt buộc phải ở lại, chớ làm sao mà cho mấy con lên, rồi làm sao mấy con học lớp cao được nữa? Người ta tỉnh thức thứ nhất, đạt được người ta mới lên người ta học caí lớp tỉnh thức thứ hai. Còn mấy con chưa có tỉnh thức lớp thứ nhất mà lên học lớp tỉnh thức thứ hai, biết cái, làm sao tu được, các con hiểu không?
Nó phải có trình độ học đàng hoàng, có bài vở đàng hoàng. 37 Phẩm Trợ Đạo của Phật, tức là 37 pháp môn để tu học trong tám cái lớp này. Cái pháp nào tu trước, cái pháp nào tu sau, cái pháp nào ở lớp nào, lớp nấy rõ ràng. Chớ không phải nói mơ hồ như bây giờ vô chùa cứ bảo các con niệm Phật, lạy Phật để sám hối, để tiêu tai tiêu tội, không phải đâu, mà do chính dạy mấy con sống đạo đức là tiêu tai, tiêu tội!
Người ta chửi không giận thì tức tiêu tai, tiêu tội chứ gì? Còn nếu mà con giận mấy con chửi lộn coi, tai tội nó có tiêu không? Nó bắt đầu bây giờ đánh lộn với nhau, có thể đi nằm nhà thương nữa là khác, có phải không? Mấy con thấy. Rồi có người đi ở tù nữa, tại vì mình tức quá mình đâm người ta chết rồi, thì phải đi ở tù chứ sao! Thì đó tiêu tai, tiêu tội sao được? Nó tăng lên chứ ở đó! Phải không, mấy con hiểu chưa?
Ở đây Thầy dạy mấy con, tự mấy con không giận, không hờn, thì tức là nó sẽ không làm khổ mình, khổ người thì tiêu tai, tiêu tội liền tức khắc, đâu còn ai bắt mình ở tù, mà đâu còn ai mà chết đâu! Có đúng không? Mấy con thấy, học đạo đức, học đạo Phật là đạo đức như vậy chứ! Nó thiết thực vậy. Và cái lớp học đó nó phải đi từng lớp, từng lớp.
Bây giờ mấy con là những người Phật tử, những người mà đã đến với chùa, là những người phải học đạo đức. Bởi vì đạo đức của đạo Phật, đạo đức nhân bản mà. Nó là cái gốc của con người rồi, cái đạo đức gốc của con người. Mà chúng ta làm người, mà chúng ta không học đạo đức thì chúng ta chẳng quá là cái loài động vật thôi chứ không khác gì hết!
Bởi vì mình là một con người cũng là một cái loài động vật chứ có gì đâu. Nhưng mà con người có đạo đức mới là thực sự một con người. Nó khác hơn loài động vật là chỗ có đạo đức, còn cái chỗ không đạo đức là nó không phải là con người, mặc dù chúng ta mang lớp người nhưng sự thật ra thì không phải là con người.
(43:41) Thôi đến đây Thầy xin chấm dứt để mấy con còn thì giờ tập. Chiều nay mà Thầy kiểm coi mà tập sai, thì Thầy bắt phải Thọ Bát Quan Trai nhiều nữa, để cho mấy con tu cho được, phải không? Thương mấy con mới vậy, chứ còn ghét mấy con, tu được, tu không được kệ thôi, thôi Thầy đi về cho rồi! Có phải không? Tu được mới nhờ, chứ bộ tu được mà Thầy nhờ đâu! Giải thoát là giải thoát cho mấy con chứ bộ giải thoát cho Thầy sao, phải không?
Cho nên mấy con phải ráng tu, tu cho lợi ích cho mấy con chứ! Thầy nói nãy giờ thật sự ra nó hao hơi, tổn tiếng của Thầy, nhưng mà Thầy phải ăn bao nhiêu cơm để nó bồi dưỡng lại Thầy, chứ mấy con có ăn dùm cho Thầy được bữa cơm nào đâu? Có phải không? Đó mấy con thấy không? Mà lợi ích thì mấy con tu, thì mấy con lợi ích. Nhân vì vậy mấy con ráng!
Nhưng cuộc đời mấy con tu là mấy con không phụ lòng Thầy, Thầy dù cực khổ cách gì mà mấy con nỗ lực tu là mấy con đã đền đáp ơn Thầy. Thầy muốn cho mấy con giải thoát! Thầy đâu muốn mấy con phải khổ đau như thế này! Mỗi lần mấy con giận hờn, mấy con đau khổ Thầy đâu có sung sướng đâu mấy con! Khi biết mấy con là, coi như mấy con là con của Thầy, mà để con mình đau khổ mình nỡ lòng nào mấy con, có phải không?
Cho nên mấy con ráng tu mấy con. Thầy khuyên lơn, Thầy sách tấn cho mấy con tu, để mấy con được giải thoát, mấy con được an ổn, mấy con được thanh thản, an lạc thì hạnh phúc của mấy con. Nhưng mà Thầy làm người Cha mà thấy mấy con như vậy là Thầy rất vui chứ sao! Con mình hạnh phúc mà. Con mình đau khổ mình làm sao mình chịu được!
Khi mà Thầy không gặp mấy con, nhưng mà Thầy vẫn thương, vẫn thương hết mọi người chứ không phải là không thương. Hôm nay có sự, có căn, có duyên chúng ta mới gặp nhau trong một cái ngôi nhà như thế này, để rồi chúng ta trao đổi một kinh nghiệm, nhắc nhở nhau, khuyên lơn nhau. Là một người cha, là một người Thầy là phải như vậy!
Thầy không nhận mình là Thầy thôi, mà Thầy nhận Thầy là Thầy, Thầy nhận Thầy là Cha, thì Thầy phải có lời khuyên mấy con chứ! Thầy có lời khuyên để cho mấy con được an ổn, để mấy con được giải thoát chớ! Đó là cái tình của Thầy mà đối với mấy con mà. Nhưng mà mấy con đừng phụ lòng Thầy. Nghe rồi mấy con lỗ tai bên đây chạy lỗ tai bên kia, về đời vẫn ôm đời, đạo thì cứ bỏ qua một bên, nghe chơi đó thì rất uổng mấy con! Rất uổng, mà phụ lòng Thầy, rất phụ lòng Thầy!
Vì vậy mấy con nhớ kỹ, đừng phụ lòng Thầy mấy con. Thầy chỉ mong như vậy để cho mấy con được giải thoát mà thôi. Thầy nói thẳng, nói thật những cái sai nãy giờ của kinh sách Đại Thừa là muốn mấy con đừng lầm lạc. Bởi vì lầm lạc mấy con không giải thoát mà mấy con phí công, phí sức của mình!
Các con ngồi các con tụng kinh, phí công của mấy con chứ, rồi các con cúng dường phí tiền bạc của mấy con chứ! Được những gì đây, hay là mình được tiếng người ta nói mình là người Phật tử cúng dường, lo cho chùa? Tiếng đó nó rỗng mấy con. Mà cái sự thật mà Thầy dạy mấy con không rỗng đâu, nó sẽ đem đến lợi ích thiết thực cho mấy con đó, lợi ích cho mấy con thật sự đó, bằng hành động của mấy con cứu mấy con!
(46:30) Đến đây, Thầy xin chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay và mong mấy con tu tập tốt. Các con nhớ mỗi người chia ra từng gốc cây. Nếu mà có thất thì mấy con vô thất tu, còn nếu không có thất, thì mấy con sẽ chia ra ở trong cái chùa này mấy con tu cũng được, cái chỗ nào mấy con tu cũng được. Tu Thọ Bát Quan Trai rất dễ, tìm cái gốc cây nào đó yên tịnh mình tu là được hạnh phúc mấy con. Nhớ không?
Cứ tự tu tập theo cái pháp Thầy thôi. Ai nói chuyện, đừng có nói chuyện. Bữa nay sống đừng có nói chuyện với ai, đừng có tu hơi rồi lại ngồi nói chuyện thì mấy con tu sai rồi. Những cái hạnh của nó, ăn là một bữa, ngủ thì có giờ giấc chứ đừng có ngủ sai, rồi độc cư nghĩa là sống một mình, độc cư, độc bộ, độc hành. Đạo Phật có cái sự độc cư.
Độc cư là gì mấy con biết không? Là cái phương pháp phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Mà nếu mấy con gặp nhau nói chuyện thì mấy con có phòng hộ nó không? Không phòng hộ thì mấy con bị phóng dật, phóng tâm rồi mấy con. Nhớ, hôm nay mấy con tập làm chủ một ngày, học như Phật, làm như Phật, phải cố gắng mấy con đừng nói chuyện.
Sau cái ngày này rồi, xả thọ Bát Quan Trai. Xả Bát Quan Trai rồi, thì mấy con sẽ nói chuyện với nhau gì cũng được hết. Nhưng mà khi mà vào tu rồi thì từ đây cho tới khi mà Thầy xả Bát Quan Trai, có mấy tiếng đồng hồ, nó không có nhiều đâu, thì mấy con cố gắng đúng giờ thì mấy con nghỉ, mà chưa đúng giờ thì mấy con tu tập.
Mà chưa đúng giờ thì nhất định không ăn, mà đúng giờ mới đi ăn. Thí dụ như từ 10 giờ cho đến 12 giờ, trong khoảng cái thời gian đó mấy con ăn. Ăn giờ nào cũng được mà trong khoảng thời gian đó. Mà ngoài thời gian đó thì các con không ăn.
Ngủ thì từ 12 giờ cho đến 2 giờ, trong khoảng thời gian mấy con muốn ngủ bao lâu cũng được. Mà hễ 2 giờ thì báo thức dậy, chứ mà 2 giờ mà còn nằm ngủ nữa thì không được, con hiểu không? Cho nên có hai tiếng đồng hồ ngủ, mà ba tiếng đồng hồ ăn. Mấy ăn con cứ ngồi ăn tới suốt 3 tiếng đồng hồ Thầy cũng không nói đâu, ăn bao nhiêu đó mặc sức ăn, phải không?
(48:28) Mà ngủ cho hai tiếng đồng hồ, từ 12 cho đến 2 thức dậy. Mà trong khoảng thời gian đó mấy con muốn ngủ bao lâu đó ngủ, ngủ say mê, ngủ gì đó, mặc sức mà ngủ trong hai tiếng. Thừa sức mấy con ngủ mà, đâu có thiếu đâu. Thầy cho giờ ăn cũng không thiếu. Nói Thầy cho ngắn quá, con ăn chưa rồi bữa cơm mà hết giờ rồi làm sao? Thầy cho 3 tiếng đồng hồ mà làm sao mà gọi là thiếu giờ? Mà Thầy cho ngủ 2 tiếng đồng hồ thì làm sao thiếu giờ? Đâu có thiếu giờ đâu, phải không?
Cho nên vì vậy mấy con cố gắng! Thầy không bao giờ Thầy cho mấy con dư giờ chứ không có thiếu giờ. Cho nên mấy con cứ cố gắng mà tu tập đi thì mấy con sẽ thấy cái kết quả của sự tu tập đem lại lợi ích rất lớn cho mấy con. Thầy không có cho thời khóa mấy con tu quá ngặt nghèo. Bây giờ thí dụ, chẳng hạn bây giờ Thầy cho mấy con ăn chừng nửa tiếng đồng hồ, trời mấy con ăn cái kiểu này, chắc là mấy con đau bao tử, có phải không? Nữa tiếng đồng hồ phải nhai, ăn uống phải nhai kỹ, phải tỉnh thức ở trên hành động ăn nữa.
Nhưng mà bây giờ Thầy chưa dạy mấy con đâu, đó là những cái oai nghi tế hạnh của sự ăn. Cho nên hầu hết là tu sĩ, đều là Thầy dạy cách thức ăn. Vừa ăn, ăn như thế nào mà để tỉnh thức từng cái hành động. Khi mà muỗng cơm múc bỏ vào miệng phải tỉnh thức từng hành động. Rồi nhai, rồi từ cái nuốt cũng phải tỉnh thức nữa. Đó là gọi là tỉnh thức ở trên cấp cao, cấp 2 rồi. Còn cái cấp của mấy con là mới bước đi kinh hành, đó là cấp 1, con hiểu chưa?
Người ta dạy tới cái tỉnh thức, tới từng cái hành động của mấy con, là luôn luôn không bao giờ mà mấy con được quên cái hành động của mấy con. Đi mấy con phải biết đi, mà đi bình thường chứ không phải là đi ở trong cái phương pháp đi kinh hành đâu. Nghĩa là bình thường con xả ra rồi, những hành động gì các con phải tỉnh thức hết. Đó là những cái tỉnh thức của cái giai đoạn 2, 3, 4 rồi, chứ nó không phải là giai đoạn của người mới tu.
Đó thì Thầy nói như vậy các con biết đạo Phật nó có từng lớp, chớ đâu phải là muốn vô tu tập lớp nào là tu. Muốn ngồi thiền là xếp chân lại ngồi rồi hít thở hoặc là ngồi giữ tâm đừng có vọng tưởng, nó không phải đâu! Tu như vậy là mấy người đó chưa có biết cái chương trình giáo dục đào tạo của đạo Phật dạy như thế nào hết đâu, họ chưa có hiểu đâu. Họ tu như vậy tu điên!
Thầy nói tu điên nghĩa là mai mốt họ loạn thần kinh, họ điên thiệt đó chứ không phải là nói. Điên ở đây có nghĩa là tu sai. Cái nghĩa của chữ điên của Thầy nói đó là tu sai. Cái thứ hai là điên thật, là loạn thần kinh, nhiếp tâm bậy, đó là điên thật, đó là rối loạn thần kinh. Thì cái nghĩa của Thầy nói điên nó hai phần, nó rất rõ nghĩa. Cái người mà tu sai cũng vẫn có thể nói điên. Nhưng mà cái người mà tu đến đỗi mà loạn thần kinh rồi thì cũng điên thật đó. Bây giờ nó không phải còn là con người bình thường.
Thôi! Thầy chấm dứt, mấy con lo tu để hết giờ!
Thôi mấy con xá rồi, ra tìm những nơi yên tu!
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian: 2004
Thời lượng: [45:40]
(00:00) Trưởng lão: Cho nên cái vấn đề mà thấy ác thì mấy con không bao giờ có giận ông ta, thì cái tâm sân của mình đâu còn có nữa mấy con. Bởi vì nó thiện ác mà. Mà khi tâm sân của mình không có, là mình chuyển được cái nhân quả của mình chứ gì? Thay vì mình tức giận chứ gì? Mình tức giận, tức là mình bị nhân quả. Còn mình thấy nhân quả thiện ác, cho nên lòng mình không có giận nữa. Rồi từ đó mới các con tập lòng thương yêu của mình, Tứ Vô Lượng Tâm đó. Tâm từ vô lượng đó, mình thương yêu người ta. Người ta đang ở trong ác pháp, tại sao chúng ta không thương họ? Cho nên từ cái lòng thương yêu của mình, ngay đó mình xả cái tâm mình rất dễ là không giận ông ta nữa. Đó là cái thứ nhất.
Mấy con nhìn cuộc sống của mấy con bằng nhân quả, đừng nhìn nó bằng sự đúng, sai, phải, trái. Các con nhớ câu nói đấy chứ gì? Thì các con sẽ có sự giải thoát bằng cái tri kiến của các con gọi là tri kiến giải thoát. Các con nghe đức Phật dạy mình niệm năm thứ hương không? Giới Hương, Định hương, Dữ Huệ hương, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến hương. Có phải cái Giải Thoát Tri Kiến Hương là sau cùng chứ gì, phải không? Bây giờ con có tu Giới nè, tu Định nè, tu Tuệ nè, phải không? Các con tu ba Giới, Định, Tuệ nè. Ba cái lớp này nè thì nó không ngoài, không hoàn toàn, nó không ngoài ra cái tri kiến giải thoát của mấy con. Cho nên cây hương cuối cùng gọi là tri kiến giải thoát, có phải không? Vậy mà tri kiến giải thoát là gì? Là sự hiểu biết giải thoát.
Bây giờ Thầy dạy con ở trong Chánh Kiến là con phải hiểu biết đúng cái Chánh Kiến là các con, tâm các con không có giận hờn, phiền não. Tức là muốn, con mà được giải thoát bằng cái tri kiến hiểu biết đó, là phải thấy mọi sự việc, mọi hoàn cảnh, mọi các pháp, tác động đến với con, đều là thấy nó là nhân quả. Là có cái nhân thì phải có cái quả, mà nhân quả thì nó phải thiện ác mấy con, có phải không? Do thấy nhân quả thiện ác, thì mấy con sẽ không đau khổ, mà mấy con chuyển được nhân quả, làm cho cái quả khổ đau của mấy con sẽ hóa giải được. Người ta chửi con, con không giận, tức là con chuyển được nhân quả mình rồi đó, các con hiểu chưa?
(1:42) Rồi bây giờ đó, tới cái giai đoạn mà để cho mấy con chuyển được cái nhân quả của cái cơ thể. Bây giờ chuyển đó là chuyển, thấy bằng cái tri kiến của mấy con rồi. Thì tức là mấy con thấy nhân quả rồi, thì cái tâm của mấy con nó không còn đau khổ nữa. Khi mà các con thương nhớ một cái người thân mình mất, mình đau khổ, mình khổ sở, mình mất người thân mà. Như cha mẹ mình mất, mà mình làm sao mình không đau khổ, nhưng mình thấy đây là nhân quả.
Bây giờ nhân quả như thế nào? Hoặc là cha mẹ mình vay nợ mình, mình mới làm con ông ta. Hoặc là ông ta vay nợ mình, hoặc là mình vay nợ ông ta, cho nên mình làm con ông ta, để cho mình phải hiếu hạnh, phải đối xử với ông ta, phải thương xót ông ta như thế này, thế khác. Đó là nhân quả mà mấy con. Có nhân quả mới gặp nhau, chứ không nhân quả làm sao gặp nhau làm cha con, chồng vợ được, đó là nhân quả. Cho nên cái hiểu biết nhân quả là cái hiểu biết đúng, không sai.
Còn cái hiểu biết đúng, sai, phải, trái, cha mình, con mình, mình thương mà người khác mình không thương. Đó là mình hiểu cái cá nhân, cái ngã, bản ngã của mình, cái của mình chứ không phải là của người khác. Cũng như cha của mình, mẹ của mình mình thương, còn cha mẹ người khác chết mình không thương, mình không khóc. Thì như vậy rõ ràng là mình sống trong cái bản ngã, cái ngã, chứ không phải là cái không ngã. Còn nhân quả thì nó hoá giải cái ngã này, nó không còn có nữa. Cho nên cha mẹ mình, mình cũng bình thường, chết đây là mình thấy các pháp đều vô thường mà. Mà vô thường thì cha mẹ phải tới cái giờ, ngày giờ đó cái nhân quả hết, thì phải chết thôi. Chứ tại sao mình lại khóc. Khóc phỏng (làm) ông bà có sống được không? Làm cho mình đau khổ, có lợi ích gì đâu.
Cho nên cái tư duy đó, nó làm cho các con không có đau khổ về cái tình thương của mấy con, phải không? Đó là cái thứ nhất mấy con phải dùng cái tri kiến. Hằng ngày mấy con đem cái tri kiến này ra mấy con tư duy, suy nghĩ trên cái sự việc làm cho mấy con đau khổ. Rồi mấy con sẽ nhìn nó bằng nhân quả, thì mấy con sẽ thấy nó hết đau khổ. Đó là cái pháp thứ nhất mà Thầy gọi, mấy con gọi là Định Vô Lậu. Nó làm cho các con không có lậu hoặc, đó là cái mấy con cần phải tu.
(3:50) Nghĩa là hằng ngày có sự việc gì đó, thì các con đưa nó thành một cái đề tài. Đề tài ra các con suy nghĩ. Cũng như một người ta cho các con cái dàn, cái đề tài để mà làm bài văn, bài luận văn vậy đó. Thì các con sẽ từ ở trên cái đề tài đó mà các con luận ra. Thì cái này luận ra bằng cái hướng, bằng cái hướng luận của nó là bằng cái hướng luận nhân quả. Luận cái đề tài đó bằng nhân quả. Bất kỳ những cái sự kiện gì xảy ra thì các con đưa nó thành một cái dàn bài, thành một cái đề tài, cái đề bài để mấy con luận nó ra làm thành một cái bài luận, thì cái bài luận đó, buộc lòng các con phải suy nghĩ. Các con từ cái chỗ mà suy nghĩ đó, các con sẽ trở thành một cái người có đầy đủ tri kiến, mà tri kiến ở trong nhân quả. Thì nó là cái hiểu biết, giúp cho các con được giải thoát, làm cho thân tâm của các con bình an không có còn đau khổ nữa. Đó là cái pháp đầu tiên mà gọi là cái pháp đó là Định Vô Lậu. Các con nhớ.
Bây giờ các con ngồi không thì các con đưa ra một cái đề tài. Bây giờ, thí dụ như các con thấy cái tâm mình sao mà nó chưa tới giờ ăn mà nó thích hoặc là nó thích cái món ăn đó ngon. Nó ưa cái món ăn đó, các con bị cái dục rồi. Thì các con đưa cái đề tài, cái đề tài cái món ăn ra, các con sẽ quán thực phẩm bất tịnh chứ gì? Các con tư duy nó bất tịnh chứ gì? Nó thiu, rồi nó hôi, nó chua, nó chát, rồi nó mốc meo lên, thì dòm cái món ăn đó hết muốn ăn, nó thấy gớm quá. Đó, làm cho mấy con nhàm chán cái món ăn, làm cho mấy con không muốn ăn, do đó gọi là quán bất tịnh, quán thực phẩm bất tịnh.
Nó làm từ đó, sáng con cũng hổng cần thức ăn, ăn để sống chứ còn bây giờ không có thích ăn nữa. Còn nếu mà các con không quán như vậy đó, thì các con bị ức chế. Nếu mà các con tu theo Thầy, sống như Thầy, tức là mình sẽ ăn ngày một bữa chứ gì? Thì các con bị ức chế. Ép buộc nó ăn một bữa, nhưng mà sáng muốn ăn, chiều cũng muốn ăn, mà cứ ráng chịu đựng. Còn cái này Thầy quán thực phẩm bất tịnh, nó làm cho Thầy nhàm chán, Thầy không thích ăn. Mà Thầy không thích ăn thì còn ức chế nó đâu? Cho nên tự nó, nó đã thanh tịnh nó rồi.
Cho nên ngày ăn bữa là tại Thầy nhìn thấy thực phẩm bất tịnh. Vì ăn để sống chứ không phải còn thích ăn nữa. Còn các con ăn còn thích cái món này ngon, cái món kia dở, còn thích. Bữa nào món ngon thì ăn nhiều nhiều, mà món dở thì ăn ít, đó là con bị dục, con hiểu không? Cho nên, vì vậy mà khi quán thực phẩm bất tịnh, đó là cái tư duy đó nó làm cho các con đã xa lìa cái dục, cái dục ăn. Đó là cái lợi ích cho mấy con. Đó là cách thức tu mà. Tu như vậy nó mới có lợi ích.
(6:16) Rồi cái thân của mấy con, mấy con thấy sao nó hay giận hờn, thì mấy con quán cái thân nó, quán thân vô ngã, thân này không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Các con tư duy suy nghĩ, tại sao nó của ta mà tại sao chúng ta sai nó không được? Nó bệnh chúng ta bảo nó hết bệnh không, mà gọi là của mình, phải không? Nó chết mà tại sao chúng ta bảo nó đừng chết mà tại sao nó chết? Như vậy nó của ai chứ đâu phải là của mình? Của mình thì phải biết nghe chứ. Như vậy rõ ràng thân này không phải của mình đâu.
Và vì vậy mà các con không có chấp nó, cho nên người ta chửi mình, thân này đâu phải của mình đâu mà mình giận. Các con chỉ cần nhớ như vậy là đủ. Thân này đâu phải của tao đâu tao giận. Mày chửi cái thân này chứ mày đâu phải chửi tao. Cho nên vì vậy mấy con không giận. Từ cái tư duy đó mà mấy con được giải thoát, đó gọi là Định Vô Lậu.
Mà nếu mà các con triển khai được cái tri kiến này, mọi pháp đụng đến con là cái tri kiến nó đã hóa giải từ ở bên ngoài tâm. Nó không tác động vô tâm con được, tâm con không phiền não nữa. Mà tâm con không phiền não, thì thân con có bệnh không mấy con? Cái người mà hay giận hờn, phiền não là cái người dễ thân bệnh lắm mấy con. Còn cái người mà không giận hờn, luôn luôn thanh thản, an lạc thì cái thân người đó không bệnh đâu. Thầy nói thật sự. Tại vì Thầy không bệnh là tại vì Thầy không giận hờn. Còn mấy con bệnh đau là mấy con cứ hở chút là giận, hở chút hờn thì nó phải bệnh đau chứ sao. Nó ảnh hưởng cái tâm, nó ảnh hưởng cái thân ghê gớm lắm.
(7:27) Rồi ngủ không được, ăn không được. Còn Thầy bảo ăn thì phải ăn, là tại vì Thầy làm chủ cái ăn mà. Thầy bảo ngủ là phải ngủ. Còn mấy con có khi nằm ngủ cả giờ đồng hồ không chịu ngủ, cứ trăn qua trở lại. Rồi nghĩ chuyện tầm bậy, tầm bạ nữa chớ phải là nằm đó yên đâu. Như vậy mấy con phải mệt nhọc. Mệt nhọc thì nó sinh bệnh, có phải không? Còn Thầy, bảo ngủ thì nó nằm ngủ queo, bảo thức thì nó thức. Tại vì cái người tu sĩ mà đạo Phật làm chủ cái ăn, cái ngủ thì mới làm chủ được bệnh tật, làm chủ được sanh, già, bệnh, chết. Ăn ngủ mà không làm chủ, thì thử hỏi mấy con làm cái gì mà được, có phải không?
Đó! Thì mấy con thấy cụ thể rõ ràng. Ăn bây giờ nó muốn ăn, bây giờ trưa nay mày không ăn, tao không cho mày ăn, được không? Dễ lắm, phải không? “Trưa tao cho mày ăn, mà mày ăn mà no quá tao cấm không có được. Ăn vừa thôi chứ mày ăn phát ách thì không được. Chứ mày đừng nghĩ mày ăn một bữa, mày ráng mày ăn thì không được”. Thì do đó mình cho nó ăn điều độ, đúng, không cho nó ăn nhiều, mà cũng không cho ăn ít. Bữa nào đồ dở nó ăn ít, “mày phải ráng ăn. Không ăn tao quậy nước tao đổ”, thì nó cũng phải ráng thôi. Nhưng mà sự thật ăn ngày một bữa không bao giờ có cái gì mà nó ăn dở, phải không? Bởi vì cơ thể nó đói con, cái gì ăn nó cũng ngon hết. Còn mấy con ăn ba bữa thì có bữa ăn dở lắm, mà đồ ăn không ngon là kể như là không ăn. Bởi vì nó ăn ba bữa nó thừa rồi. Cho nên nó muốn ăn cái ngon, tức là nó chạy theo dục, con hiểu chưa?
Cho nên vì vậy mà sự tu tập của đạo Phật, là ngay từ cái chỗ đời sống chúng ta, chúng ta làm chủ được, thì chúng ta sẽ làm chủ được cái bệnh, cái chết của chúng ta cụ thể. Nó đi từng bước con. Con tu tập như vậy nó làm chủ cái đó. Mà con tu tập cao nữa, nó làm chủ cái cao nữa, chứ nó không phải là ở chỗ này đâu. Cho nên bây giờ mấy con mới tu, mấy con muốn làm chủ được như Thầy, muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống, mấy con nằm trong mơ, chứ làm sao có được cái chuyện này.
Bây giờ cái ăn con chưa làm chủ được mà con đòi làm chủ cái này. Cũng như bây giờ các con thấy nè, cái ăn mấy con còn ăn ba bữa mà mấy con cứ nói ngồi thiền nhập định. Trời đất ơi cái chuyện này, định của mấy con là định mơ, định tưởng chứ làm sao mà có thật. Mấy con dù mấy con ngồi ba, bốn tiếng đồng hồ, nhưng mà cái định của mấy con là định ma chứ định gì. Khi mà cái đời sống của mấy con, giới luật mà ăn ngày một bữa mấy con chưa làm chủ, thì cái định này nó có làm chủ được cái gì? Chỉ ngồi chơi vậy thôi. Khoe cái tướng ngồi của mình cho người ta biết là ngồi chơi, chứ nó có lợi ích gì.? Thầy nói thẳng, nói thật đó mấy con Thầy biết mà. Thầy đã thực hiện thiền định của Đại thừa và Thiền Đông Độ quá, chín năm trời Thầy tu như sắp chết Thầy, mà đâu phải ít đâu. Thầy biết rất rõ nó quá.
(10:04) Cho nên nó không phải đâu, mà chính bây giờ Thầy quán thực phẩm bất tịnh, Thầy ăn ngày một bữa rất dễ, không bị ức chế. Bởi vì Thầy sợ nó quá, hễ nghĩ đến thực phẩm mà nó thiu là Thầy bắt ớn, hết muốn ăn. Đó là những cái kết quả của sự tu tập thực tế. Nhưng Thầy không quán quá sức, Thầy quán mà tới cái độ mà nó bốc lên cái mùi thối. Nghĩa là bây giờ không có cái món ăn ở đây, mà Thầy quán nó bốc lên cái mùi mà thiu, thì cái tưởng mà kêu là cái hương tưởng, nó xuất hiện ra. Rồi cái không có cái món ăn thiu đây mà nó hiện ra cái hình ảnh, cái dĩa món ăn thiu, thúi, mốc meo. Nó hiện ra rất rõ như là cái dĩa đó để trước mặt. Đó là đã thấm nhuần được quán thực phẩm bất tịnh qua cái tưởng rồi.
Nhưng mà Thầy quán đến mức độ này chắc là Thầy sắp chết, Thầy ăn không nổi. Không có lúc nào, Thầy cứ hễ nhìn đồ ăn là nó bắt đầu nó thấy nó thiu à. Mặt dù không có cái gì, cái chén cơm Thầy nó không thiu mà Thầy thấy nó mốc meo hết. Nó tự nó, cái tưởng nó thực hiện ra, Thầy hết dám ăn, Thầy sẽ chết đó con. Cho nên Thầy quán đến cái chỗ nó nhàm chán thôi, Thầy dừng lại, chứ không dám quán tới sâu đâu, quán tới đó là sợ lắm đó mấy con. Các con nghe người ta quán xương trắng không? Khi một người đi ngang mà người ta tưởng xương trắng, thấy cái người đi đó là bộ xương đi mấy con. Ghê gớm lắm! Sợ lắm đó.
Cho nên trong cái vấn đề mà tu tập của đạo Phật, là phải có một một người tu chứng hướng dẫn. Chứ Thầy dạy mấy con quán thực phẩm bất tịnh. Mấy con quán riết, bắt đầu cái tưởng của mấy con thực hiện ra được rồi. Chừng đó mấy con hết muốn ăn rồi, thì ít hôm cái cơ thể của các con còn uống nước sống. Nếu không thì bắt đầu nó còn như cái que tăm, đi cái gió nó tấp, nó muốn té và vì vậy mấy con sống không bao lâu đâu. Mượn cái thân này để tu tập, cho nên chúng ta phải quán tới cái mức độ đó thôi. Đừng có còn tham ăn nữa mà thôi, đừng có chạy theo dục nữa thôi, thì dừng lại không tu nữa. Để chúng ta mượn cái thân còn ăn được bữa sống rồi thì chúng ta mượn cái thân này tiếp tục tu, tu đến giải thoát.
Bởi vì còn cái thân là còn ý thức, còn dùng phương pháp tác ý. Mà khi mà tác ý, nó thành một cái nghiệp không tham, sân, si, tức là cái trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự. Khi mà nó toàn thiện nó hiện ra rồi thì cái tham, sân, si; cái nghiệp mà tham, sân, si; cái nghiệp mà tái sanh luân hồi này nó sẽ chấm dứt rồi. Thì lúc bấy giờ, chúng ta có đủ thần lực muốn sống là sống, muốn chết là chết, muốn nhập định nào là nhập định nấy. Đó là cái lực thanh tịnh của thân tâm chúng ta do ly tham, sân, si mà có. Mà muốn ly tham, sân, si thì phải tu Tứ Niệm Xứ.
(12:21) Bây giờ Thầy nhắc tới về Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ là tâm thanh thản, an lạc, vô sự. Ai cũng có cái này hết, không có người nào mà không có. Nhưng cái có của mấy con, có trong vòng một phút là cao. Sau một phút đó thì có niệm khác, sau một phút đó thì ngồi phải nhúc nhích thân chứ không nó mỏi, có phải không? Mấy con hổng được kéo dài nó lâu đâu. Tức là chân lý của mấy con, cái chân lý giải thoát đó nó không được trường tồn với mấy con. Nó chỉ trong một, năm, mười giây, hoặc là một phút, hoặc là năm phút là cao lắm, nó không lâu nữa đâu. Do nó muốn bảo vệ cái chân lý đó, nó phải đi từng các pháp. À các pháp, bây giờ các con phải tập đi kinh hành mấy con. Mấy con nhớ đi kinh hành, đi Chánh Niệm Tĩnh Giác như thế này.
Thầy dạy mấy con, các con đứng đây, bắt đầu các con khởi sự. Các con đi kinh hành các con nhắc trước, tác ý dẫn nó trước: “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”, các con sẽ bước đi. Bước đi, các con bước. Mỗi bước đi các con đếm 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10. Đúng 10 bước thì các con tác ý: “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”. Rồi các con tiếp tục bước đi. Các con tu 30 phút. 30 phút thôi, nghe không? Chứ đừng có tu nhiều.
Sau đó thì khi mà các con tu tập được như vậy, trong 30 phút mà các con tác ý như vậy, mà không có một niệm gì trong tâm các con khởi ra trong khi đi kinh hành, thì các con lại thay đổi. Đừng tu cái pháp này nữa mà tiếp tục tu. Thì các con thay vì đứng các con tác ý: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”. Thì các con đứng, các con tác ý như thế này: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, rồi các con đứng các con hít vô thở ra. Đếm đúng 5 hơi thở rồi các con đứng, các con ngưng hơi thở lại. Các con tác ý tiếp: “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”, rồi các con đi 10 bước đứng lại, rồi các con tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Rồi các con hít vô thở ra, đếm đúng 5 hơi thở, rồi các con tác ý đi kinh hành. Và cứ như vậy tập, đó là giai đoạn 2 của Chánh Niệm Tĩnh Giác, các con hiểu chưa?
(14:21) Bây giờ tới giai đoạn 3 của Chánh Niệm Tĩnh Giác, thì các con tác ý: “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”, các con đếm đúng 10 bước. Rồi bắt đầu bây giờ các con không đứng, mà cái con ngồi xuống, ngồi xuống khoanh chân kiết già đàng hoàng, các con hiểu chưa! Rồi bắt đầu các con mới nhắc: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Rồi các con hít vô thở ra 5 hơi thở. Rồi các con đứng dậy. Rồi đứng dậy xong, rồi các con tác ý: “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”, rồi các con đi đúng 10 bước. Rồi các con lại ngồi xuống, phải không? Ngồi xuống, rồi bắt đầu ngồi thẳng lưng đàng hoàng, rồi cái con nhắc: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, đó là giai đoạn tỉnh thức thứ ba.
Để tập làm gì? Để tập rèn luyện nghị lực. Bởi vì 10 bước rồi ngồi xuống hít thở, nó nhọc nhằn lắm mấy con. Mà mấy con chịu đựng được cái nhọc nhằn này thì các con có nghị lực. Cái phương pháp rèn luyện nghị lực. Bởi vì trên con đường tu, mấy con sẽ gặp những cái khó khăn. Mà các con không nghị lực thì mấy con không vượt qua cái khó khăn.
Như bây giờ cái thân con đau, mà nếu mà con không nghị lực, thì con dựng thân con ngồi con chịu không nổi đâu, con hiểu không? Mà khi đau, mà con dựng thân nổi là con người có nghị lực. Mà không rèn luyện nghị lực, làm sao mấy con có nghị lực, mấy con chịu với nó nổi, các con hiểu chưa? Đó, đó các con thấy chưa? Đó là những cái phương pháp rèn luyện nghị lực, nhưng mà nó ở trong tỉnh thức mấy con. Cái tỉnh thức cao chứ không phải là thấp đâu.
Rồi bắt đầu bây giờ cũng từ cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác này, đi kinh hành này nó sẽ thay đổi. Bây giờ nói tới cái cái giai đoạn thứ tư của nó là gọi là pháp Thân Hành Niệm kiên cố như cổ xe, phải không? Thầy nói giờ các con lưu ý nè, mai mốt tập rồi có dịp Thầy chỉnh lại coi có sai hay không nữa, chứ không cái nó sai.
Bây giờ đó thì các con, thí dụ các con đứng dậy, mà để cái cánh tay mà đi nhúc nhích vầy. Thì hồi nãy là con đi con nhúc nhích, con đâu có gói cánh tay con kỹ đâu, thì tức là nó có động cánh tay con. Cho nên ở đây là tới các giai đoạn thứ tư của nó thì các con phải gói chặt hai cái tay. Để cái tay trái sau lưng con tác ý: “Tay trái để sau lưng”, thì con đưa cái tay trái sau lưng. Đây là pháp Thân Hành Niệm. Nó tác ý trước, nó ra lệnh trước, mỗi hành động nó làm sau: “Tay mặt để lên tay trái”, để ra sau lưng, hai tay con gói chặt, tức là đi không nhúc nhích rồi mấy con.
Bây giờ đó các con bảo bước đi, thì các con không phải là dở chân bước đi nữa. Một cái bước đi các con nó có nhiều hành động trong đó rồi. “Dở gót lên”, tức là các con sẽ dỡ gót lên. Hai tay con gói chặt ra sau lưng rồi thấy không?. Coi như là chắp tay sau lưng rồi đó, là cái tay không cục kịch rồi đó. Bây giờ theo hành động mà con truyền lệnh nó. Thí dụ như chân trái con bước trước thì con bảo: “Giở gót lên chân trái dở gót lên!”, thì con dở lên: “Giở chân lên, đưa chân tới, hạ chân xuống, hạ gót xuống!”. Đó là một bước đi của mấy cái lệnh của nó ở trong đó. Mỗi lệnh là một hành động của nó chứ gì? “Chân mặt bước, dở gót lên, dở chân lên, đưa chân tới, hạ chân xuống, hạ gót xuống!”, rồi tiếp tục chân trái mà đếm đúng 10 bước như vậy thì các con sẽ tác ý ngồi.
Muốn ngồi thì các con, các con đứng hai cái tay nó còn vầy thì làm sao các con ngồi được phải không? “Buông tay mặt thỏng xuống, buông tay trái thỏng xuống”, Từng hành động, từng cái ra lệnh nó, rồi mới làm xuống. Rồi bắt đầu các con bảo: “Tay trái đưa lên, tay phải đưa lên!”, để cái thế mình ngồi xuống cho nó vững vàng, phải không? Rồi bắt đầu bảo ra lệnh: “Hai chân co ngồi xuống!”, thì hai cái chân co ngồi xuống. Cái tay trái, tay mặt nó đưa để nó làm cái thế vững, để cho nó không té. Sau khi mà ngồi xuống rồi, ngồi chòm hỏm xuống rồi thì bảo: “Cái tay trái đưa ra sau lưng chống, tay phải đưa ra sau lưng chống, hạ mông xuống!”, mình hạ mông mình xuống, phải không?
Rồi bây giờ mới tác ý chân mặt: “Chân mặt duỗi ra, rồi chân trái co lại!”, rồi lần lượt tréo lên. Thì lần lượt những cái tác ý tréo lên, hai chân tréo lên ngồi kiết già đàng hoàng. Rồi hai cái tay chống này, để cái tay mặt để vào, tay trái để vào rồi tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. “Hít!” bắt đầu hít vô, “Thở!” thở. Mình tác ý nó rồi mới thở. Rồi hít, thở đúng năm hơi thở. Rồi bắt đầu mới từ cái tay trái mới bung ra, tay mặt bung ra chống sau lưng. Rồi hai chân này mới từ dở cái chân này ra, rồi dở cái chân kia ra, co lại. Từng hành động tác ý co lại, rồi bắt đầu mới chống, mới ngồi dậy.
À các con đi từng hành động, ngồi dậy rồi mới bắt đầu tiếp tục lại đi kinh hành. Hai tay gói ra sau lưng, rồi mới chân trái dở bước. Nó trở lại cái chu kỳ cũ, tức là cái cỗ xe Thân Hành Niệm bắt đầu nó quay. Mà khi tập nó thuần, nó quay rồi, nó quay đều đặn lắm. Do đó mấy con đã tập được cái pháp Chánh Niệm Tĩnh Giác hay là Thân Hành Niệm trong Chánh Niệm Tĩnh Giác.
(19:03) Cái pháp đó nó có 10 thần lực. Tức là mười công đức Như Lai, nó sẽ thực hiện Tứ Thần Túc. Cái pháp này mà tu tập thì nó có đầy đủ 10 thần lực của nó. Đó thì, đó thí dụ như bây giờ đó con tu trời mà nóng nực, trời nóng nực, rất là nực. Con ôm pháp đó là con nhiếp phục được trời nóng không còn nóng, không còn nực nữa. Trời lạnh con mặc chiếc áo mỏng như Thầy, vẫn tác ý trên pháp đó, trời không còn lạnh nữa. Nó nhiếp phục được thời tiết, nó nhiếp phục được muỗi mòng. Trong cái Chùa này muỗi rất nhiều, các con tu một hơi thì muỗi đi mất hết, không có muỗi vô nữa.
Cái từ trường của các con trên cái pháp đó nó toả ra, nó làm cho những cái loài vật, nó không có tác động vào con, nó không có cắn con. Muỗi nó cũng không có, mà những kiến, những con vật xung quanh con nó cũng không có nữa. Mà các con tu đúng, chứ còn tu không đúng thì cái từ trường con nó phóng ra không có, không đủ, cho nên nó phải có. Mà cái pháp đó nó hay như vậy, nó nhiếp phục được sự sợ hãi, nó làm cho những cái vật khác làm cho con sợ hãi. Như trời sét, trời gầm hay hoặc là giông mưa, bão tố gì nó nhiếp phục hết. Nó làm cho con rất an ổn mà không có động địa đến con được.
Đó thí dụ như bây giờ đang cái cơn sóng thần đi, mà cái người ôm pháp Thân Hành Niệm là sóng thần dừng lại đó. Cái quy luật của nó như vậy đó, mấy con thấy đó. Bởi vì nó là Tứ Thần Túc mà, nó như thần mà, cái pháp đó nó mới thực hiện được. Bởi vì con thấy, tác ý là cái lệnh nó rồi, nó trở thành cái lệnh của nó rồi, chứ không phải. Cho nên Dục Như Ý Túc, con muốn cái gì là nó làm theo cái nấy.
Con có nghe ông Châu Lợi Bàn Đặc không? Ổng thực hiện Tứ Niệm Xứ nó thanh tịnh, nó sung mãn rồi, ổng bảo. Khi mà đức Phật mọi người đều đi thọ trai có một người mời mà. Nhưng mà ông không có đi thọ trai, ông ở trong khu rừng có mình ông. Ổng khi mà mọi người đi thọ trai các tu sĩ đi thọ trai hết, còn mình ông. Ông mới, ông thử coi cái lực của mình coi có phải là Dục Như Ý Túc không, như cái ý muốn mình được không? Ổng bảo: “Cái thân này phải biến ra 1000 thân mà ngồi khắp cái rừng này cho ta”. Ổng chỉ ra lệnh vậy thôi. Thì ổng ra lệnh rồi, thì dưới gốc cây nào cũng đầy ông Châu Lợi Bàn Đặc ngồi đầy hết. Tại sao ông có thần lực như vậy mấy con? Cho nên trong lúc đó thì đức Phật đang thọ trai ở nhà của người cư sĩ. Đức Phật biết ông Châu Lợi Bàn Đặc đã chứng đạo, mới nói, với sai cái người, người chủ nhà đó: “Ông hãy đến cái khu rừng mà chỗ đức Phật ở đó, hãy gọi ông Châu Lợi Bàn Đặc về thọ trai, đức Phật gọi”, hãy gọi ông về thọ trai.
Thì đức Phật biết ông ở đây ông thị hiện thần thông cái kiểu này rồi. Thì cái ông mà cư sĩ ông chạy đến ông đến cái khu rừng của đức Phật thì ông thấy đâu phải có mình ông Châu Lợi Bàn Đặc, mà ngồi đầy rừng hết. Ổng không biết làm sao gọi cái ông nào, nhiều quá, 1000 ông lận mà chứ đâu phải ít. Ổng chủ nhà đó ông mới chạy về mới trình với đức Phật. Nói: “Con đến khu rừng đâu có ông Châu Lợi Bàn Đặc, mà bây giờ 1000 ông, bây giờ biết kêu ông nào”. Đức Phật nói bây giờ ông đến cái đầu cửa rừng đó, ông kêu như thế này: “Ông nào Châu Lợi Bàn Đặc, hãy vâng lệnh Phật đi thọ trai”. Thì bao nhiêu ông Châu Lợi Bàn Đặc nó mất hết, chỉ còn có một ông ôm bình bát, mang cái túi bát đi ra. Đó là ông Châu Lợi Bàn Đặc đi ra thất (khất thực). Con thấy không? Đó là Dục Như Ý Túc, thần túc mà, gọi là Thần Túc Thông đó. Thì chỉ có cái tâm chúng ta hết tham, sân, si thôi thì nó có.
(22:18) Bây giờ đó nhờ cái thần túc, nhờ cái định thần túc này mà chúng ta nhập các định. Muốn nhập định nào thì chúng ta cũng ra lệnh. Mà cái pháp Như Lý Tác Ý hồi nãy Thầy nói: “Giở gót lên, dở chân lên” là tập cái lệnh đó mấy con. Cái lệnh đó nó trở thành lệnh đó, các con hiểu chưa?
Cho nên, tại sao mà chúng ta tu tập lại là: “Giở gót lên, dở chân lên, đưa chân tới, hạ chân xuống, hạ gót xuống”. Bảo đâu hành cái thân nó phải làm theo cái nấy, các con hiểu chưa? Tại vì mình tập cái lệnh để cho nó trở thành cái lệnh Tứ Thần Túc. Cho nên nó mới trời nắng nó nóng nực, nó nhiếp phục hết không có nóng nực. Cái người tu không có nóng nực mà ngoài kia người ta đổ mồ hôi gần chết. Người ta nực quá, nóng quá, nhất là miền Trung.
Thế mà cái người mà tu pháp đó thì không còn nóng được gì hết. Thời tiết nó nhiếp phục hết, nó thích nghi. Cái cơ thể nó thích nghi nó không còn nóng, nó mát rượi. Các con thấy không? Đó là một cái vi diệu của Phật Pháp mà người ta không ngờ, người ta không ngờ. Thầy biết tất cả những cái pháp đó là cái pháp vi diệu. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là chúng ta tham đắm cái đó đâu mấy con, chúng không ham thần thông đâu. Thần thông có lợi ích gì? Biến ra 1000 ông Châu Lợi Bàn Đặc ngồi trong rừng chơi chứ có lợi ích gì đâu. Hơn là bây giờ cái thân Thầy bệnh, Thầy đuổi nó đi có lợi ích cho Thầy chớ. Cái này mới là thần thông chớ. Thân bệnh mà đuổi đi không uống thuốc thì thần thông chứ gì, các con hiểu chưa? Phải không các con thấy.
(23:32) Bây giờ, Thầy bây giờ già yếu rồi, Thầy nói: “Thôi chết, sống chi cho cực”. Nhưng mà bộ muốn chết dễ không mấy con, thí dụ như bác đây, như cụ đây muốn chết dễ ha? Nhưng mà Thầy dễ đó mấy con. Thầy bảo: “Hơi thở tịnh chỉ ngưng đi, nhập vô Tứ Thiền cho Thầy”. Thì bắt đầu thân tâm Thầy nó vô đó đó. Nó vô đó là tại sao? Hơi thở nó ngưng, mà cái Thầy có một cái trạng thái an ổn mà không có bị, không bị ngộp thở.
Chớ mấy con thử đi, mấy con ngưng hơi thở, mấy con nín coi. Trời đất ơi! Cái thân của mấy con nó, nó làm bừng bừng, cái lỗ tai con nó ve ve. Nó làm cho các con chịu không có nổi đâu, bắt buộc mấy con phải thở ra. Trừ ra mấy con có nhảy xuống dưới sông, thì tới nước nó tràn vô miệng, con thở không được, mấy con ráng chịu chết, chứ lúc đó giờ các con muốn sống lắm đó, chớ đâu phải.
Mấy người tự tử là lúc mà họ sắp chết, họ bị uống nước, trời đất ơi, họ muốn sống lắm, mà bây giờ làm sao ai cứu họ, các con hiểu không? Cho nên người nào mà tự tử, mà được cứu sống rồi, được đem nhà thương mà cứu sống họ rồi thì sau đó họ hết muốn tự tử. Họ sợ lắm mấy con. Nó ngộp, nó làm cơ thể họ sao, khổ lắm. Cho nên họ sợ lắm, sau này họ hết dám tự tử.
Cho nên vì vậy mà đối với phật pháp nó có cái vi diệu, khi đó chúng ta ở trong cái trạng thái tứ thiền. Bởi vì chỉ có tứ thiền nó mới tịnh chỉ được hơi thở mà thôi. Nó xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh mới nhập tứ thiền mấy con. Mà xả lạc, xả khổ tức là xả cảm thọ chứ gì? Mà còn thở là còn cảm thọ, mà hết thở mới hết cảm thọ. Các con thấy cái thây ma nó hết thở rồi, nó có cảm thọ không? Các con lấy roi mà quất cái thây ma nó có rên không? Nhưng mà bây giờ con còn thở, mà lấy roi quất con lăn lộn đó chứ đừng nói, phải không các con thấy. Như vậy cái pháp của Phật nó hay lắm. Muốn làm chủ là phải có cái định, cái định đó nó mới làm chủ được hơi thở.
Cho nên Thầy ra lệnh bảo: “Hơi thở tịnh chỉ, ngưng, nhập Tứ Thiền”. Lúc bây giờ cái thân của Thầy, cái tâm của Thầy nó nghe theo, bắt đầu nó vào tứ thiền. Nó vào trong cái trạng thái an lạc hơn là cái trạng thái của sơ thiền, do định sanh hỷ lạc. Cái hỷ lạc của sơ thiền, không bằng cái cái cái lạc của tứ thiền. Mà cái lạc của tứ thiền nó tuyệt vời. Nó là ở trong cái trạng thái của Tứ Thiền Thiên mà, nó đâu có thường. Tứ Thiền Thiên là cái thiền cái cõi trời thứ 4, cái trạng thái thứ 4, con hiểu không?
Mà trong kinh sách của Phật nói là cõi trời, nhưng mà cõi trời đó là nói cái trạng thái. Còn ngoại đạo không hiểu nó tưởng là có cái cõi trời đó, cho nên nó cái hiểu sai. Nhưng mà đây là cái trạng thái của một người tịnh chỉ hơi thở. Sau đó ở trong cái trạng thái của Tứ Thiền Thiên rồi Thầy mới vào niết bàn, Thầy bảo xả bỏ cái trạng thái này. Ở trong đó cái lệnh của Thầy truyền mà, “xả bỏ cái trạng thái Tứ Thiền Thiên vào niết bàn”. Thì ngay đó thân Thầy chết và Thầy, tâm Thầy vào niết bàn, vào trạng thái bất động. Khỏe không mấy con? Quá sung sướng chứ gì, đây là cái làm chủ sự thật.
(26:18) Con nghe gia đình ông Bàng Uẩn chưa? Ông Bàng Uẩn cô Linh Chiếu gạt ông Bàng Uẩn chứ gì? “Cha ra xem coi, mặt trời nó đang ăn mặt trăng”. Nghĩa là bây giờ mặt trời nó đang đứng bóng, mà bây giờ cái mặt trăng nó hiện ra, (hai). Cái ông chạy ra ông xem. Trời ơi! Ông Bàng Uẩn mà bị đứa con gái mình lừa đảo như vậy thì tu như thế nào mấy con? Đó là cái sai của Thiền Tông, huyền thoại một cách rất là sai lạc.
Một cái là bị đứa con gái mình, và đồng thời cô Linh Chiếu trèo lên cái sàn thiền của ông nhập định rồi chết, phải không, các con? Chết một cách tự tại. Nhưng mà pháp nào cô chết đây? Không có! Mấy ông huyền thoại, mấy ông nói, chớ mấy ông có chưa biết pháp đâu. Còn ông Phật ông nhập tứ thiền, ông mới xả bỏ báo thân. Chỉ có tứ thiền mới tịnh chỉ hơi thở. Trong Phật pháp chúng ta thấy có một pháp này tịnh chỉ hơi thở, còn không có pháp thiền nào tịnh chỉ hơi thở.
Bây giờ quý vị mà tu thiền đông độ, quý vị làm sao quý vị biết cách thức nhập định đâu? Tịnh chỉ hơi thở, có ai dạy mấy người biết cách thức nào mà tịnh chỉ hơi thở không? Tại sao mấy người nói thu thần nhập diệt, mấy người làm sao mấy người thu được cái hơi thở? Thần có nhiều cái, thần thức, phải không? Thần khí, thần khí là hơi thở, phải không? Thần hồn? Vậy chứ ba cái thần này, mấy người thu cái thần nào? Nếu mấy người thu thần thức, tức là Phật tánh, thì mấy người làm gì mấy người thu nó nè? Rồi nói thần hồn, cái hồn mấy người có đâu mấy người thu nè. Rồi mấy người (nói)thần khí, cách thức thu thần khí mấy người thu sao? Mấy người nói đi. Không khó làm sao mấy người thu hơi thở mấy người được?
Nhưng mà tui tịnh chỉ hơi thở là tui thu thần khí đó, có phải đúng không mấy con? Mà đạo Phật đã xác định được cái tứ thiền rồi, nó là tịnh chỉ hơi thở. Cho nên chúng ta tu tập để mà chúng ta nhập được cái tứ thiền là chúng ta đã làm chủ được sự chết của chúng ta rồi, muốn chết là tự tại rồi. Cho nên mấy người nói, như gia đình ông Bàng Uẩn nói, chứ mấy người có thực hiện được cái pháp không? Nói mấy người nói tui nói. Thầy nói bây giờ Thầy nói như thế nào cũng được. Thầy nói Thầy chết như thế nào cũng được. Nhưng mà cái đó là huyền thoại, nhưng mà nói phải có pháp, phải có sự thực. Chứ mấy người đừng có nói cái chuyện thường thường.
Bây giờ có một vị Hòa thượng đó chết, họ cũng nói thu thần chết, thu thần nhập diệt. Họ nói trong báo chí đăng về cái cáo phó tang khó gì đó, cái vị Hoà thượng đó chết thu thần nhập diệt. Sự thật ông chết lăng, chết lộn ở trên bệnh chứ ở đó thu thần, có phải không? Tới chừng mà ông nghẹt thở, đờm ông chận, ông thở không được nữa, ông mới chết mà nói là thu thần. Thu cái gì mà ông lăn lộn ở trên giường bệnh, mà rõ ràng ông bệnh ông chết. Chứ phải ông đang mạnh ông chết thì thôi tui cũng không nói, mà ông biết pháp nào đâu.
Bây giờ các vị Hòa thượng, bây giờ các ông đều là những bậc gọi là lãnh đạo Giáo hội. Những bậc cao tăng đó, mấy ông biết cái chỗ nào đâu mà mấy ông gọi là mấy ông thu thần. Mấy ông chưa nhập được tứ thiền mà làm sao thu thần khí? Còn cái thần hồn của mấy ông có sao mấy ông thu? Còn cái thần thức, mấy ông biết cái thần thức là cái gì không? Chưa ông nào biết hết mà làm sao mấy ông gọi? Mấy ông nói cái chuyện đó, mấy ông nói mơ hồ. Mấy ông chưa chắc biết ở trong thân này cái gì mà thần thức.
Đức Phật nói thân ngũ uẩn này không còn cái gì. Hoại diệt hết, không còn cái vật gì trong đó, làm sao mấy ông thu cái gì? Chỉ cái thân tứ đại của chúng ta nó còn có cái hơi thở, thì chúng ta chỉ có thu cái cái hơi thở của chúng ta chứ. Là dừng cái hơi thở là chúng ta làm chủ sự sống chết của thân chúng ta thôi, chứ có cái gì đâu. Đó thì Thầy nói như vậy để mấy con lấy cái trí mấy con suy nghĩ cái đúng, cái sai.
(29:58) Đó muốn vậy thì chúng ta phải tu tập, đó là những cái pháp từ cái Chánh Niệm Tĩnh Giác mấy con thấy Thầy dạy bốn giai đoạn tu về đi kinh hành rồi chứ gì? Các con thấy rõ, chứ đâu phải là nói đi kinh hành là mấy người cứ đi thôi. Trời đất ơi! Đi có nhiêu vậy là mấy con, mấy người tới đâu? Nó bốn giai đoạn tỉnh thức, thì nó phải có bốn giai đoạn đi kinh hành. Thì hồi đó Thầy đã nói, tỉnh thức thứ nhất là Thầy sẽ biết được ngày giờ chết của Thầy. Như mấy người mà tu Tịnh Độ nói biết ngày giờ chứ gì? Có hay ho gì chuyện đó. Mấy ông niệm Phật mấy ông tỉnh thức có chút đó thôi chứ gì. Rõ ràng là như tui đi kinh hành, tui biết tui bước đi kinh hành thôi chứ có gì đâu. Tui mới tỉnh thức bước thứ 1, tui biết ngày giờ chết tui.
Nhưng mà khi mà tui vào bụng mẹ thì tui không biết nữa. Tui chết cái tui mất luôn, tui không biết tui như thế nào nữa, thì đó là tui tỉnh thức bước thứ nhất? Mà bây giờ tui vào bụng mẹ tôi biết, tức là tỉnh thứ hai. Và tui ở trong bụng mẹ, tui còn biết tui ở trong bụng mẹ tức là tỉnh thức thứ ba. Và khi mà bà mẹ sanh tui ra, tui còn biết được sanh tui ra, thì tui còn nhớ được đời tui kiếp trước tui thế này, thế nọ. Ông nào ở làng nào, xã nào? Có vợ, có con mấy đứa như thế nào tui biết hết. Hay hoặc là tui là tu sĩ ở Chùa nào? Ở mấy Chùa tôi biết rõ hết, là như vậy là ông tỉnh thức thứ tư.
Tỉnh thức đó, có tỉnh thức như vậy thôi chứ có cái gì đâu, lợi ích gì đâu? Tỉnh thức để biết chơi vậy thôi chứ có lợi ích gì? Mà mấy con thấy cũng hay chớ? Cho nên có nghe nói những vị thần đồng mà nói những ông Lạt Ma mà sanh ra, rồi ổng biết ổng hồi đó ổng Lạt Ma thứ mấy. Rồi ổng chết đi, giờ ổng sanh ra bên nước này, nước nọ kia, mấy con nói hay đó, mới có tỉnh thức à. Mà giỏi gì, mới có tỉnh thức mà giỏi gì. Nhiều khi Thầy đọc lại cái câu chuyện của ông Lạt Ma có nhiều cái giả dối. Thầy vừa đọc cái cuốn sách gì đó của ai nói về ông Lạt Ma, ông nói vậy đó. Vì nếu mà mình không nói mình là tiền kiếp trước thì nhà nước sẽ bắt mình đi làm thư ký cho nhà vua của bên đất nước Tây Tạng.
Cho nên ông này, ông ở trong chùa mới bày như thế này nè, nói ông bây giờ là ông Lạt Ma cái đời nào đó, cái tên tuổi đó, ông là người đó, như vậy, như vậy đó thì ông sẽ là Lạt Ma như vậy. Thật sự ra, sao lại họ lại bày cái nói láo này, một đạo Phật mà nói láo vậy sao? Một ông Lạt Ma sắp sửa là ông Lạt Ma, hướng dẫn sau này ông này trở thành ông Lạt Ma thật sự. Mà trước đó ông lại có những cái điều kiện nói láo nó như vậy. Thì các con thấy, các con có tin tất cả những ông Lạt Ma, mà tất cả mọi cái không? Họ huyền thoại tất cả mọi cái chứ chưa hẳn, làm sao mà tu tập được tới cái sức tỉnh thức thứ tư này, mấy ông có biết không?
(32:30) Tỉnh thức thứ tư này là pháp Thân Hành Niệm mà Thầy dạy mấy con hồi nãy, tác ý từng hành động chứ gì? Thì nó có đủ Tứ Thần Túc của người ta, người ta có đủ thần thông Tam Minh người ta rồi. Làm gì mà mấy ông Lạt Ma này có? Mấy ông chỉ ảo thôi chứ mấy ông đừng có gạt. Bởi vì cái lực của người ta, người ta biết cái sức tỉnh thức tới đó người ta biết. Mà nó có Tứ Thần Túc rồi thì tức là người ta có thực hiện Tam Minh người ta mà. Bởi vì Tuệ Như Ý Túc là Tam Minh rồi, các con hiểu chưa? Cho nên đâu có phải. Đó là cái kết quả cuối cùng của định tuệ của người ta.
Thì Thầy dạy mấy con một loạt bốn pháp tỉnh thức chứ gì? Mấy con nãy giờ nghe Thầy dạy tỉnh thức chứ không? Nhưng mà tới tỉnh thức cuối cùng đó là Tứ Thần Túc rồi mấy con. Đó là sanh ra mà biết mình là con ai, nhà ai, ở đâu đều là Tam Minh đủ rồi. Thì Tam Minh là mấy con biết bây giờ Thầy nhiều đời nhiều kiếp quá khứ Thầy biết được mà, tức là Túc Mạng Minh mà, các con hiểu không? Thiên Nhãn Minh là Thầy ngồi đây mà Thầy nhìn cả ở thế giới Thầy biết mà, cả vũ trụ Thầy mà, đó là Thiên Nhãn minh mà. Cái không gian này nó đâu có trải dài đối với Thầy được mấy con. Còn cái thời gian mà quá khứ vị lai nó đâu dấu Thầy được.
Nhưng mà Thầy sống như thế nào? Thầy sống ở bất động tâm mấy con, ở trạng thái thanh thản, an lạc. Cho nên không có gì mà làm cho Thầy động tâm. Mà chính không động tâm Thầy mới duy trì được sự sống của Thầy, mà làm công việc ích lợi cho mấy con, các con hiểu không? Mà không có muốn, vì không có lợi ích cho mấy con, thì Thầy muốn đi hồi nào Thầy đi. Không ai mà xin Thầy được, mà cũng không ai mà làm Thầy gì được hết.
Bởi vì cái Túc Mạng Minh nó đã sẵn sàng trong một người tu. Nó đủ cái lực, nó biết được quá khứ vị lai, nó biết được cái không gian vũ trụ, nó biết sự kiện xảy ra ngày mai, ngày mốt như thế nào, nó đủ. Nhưng mà cái này, nó không phải lợi ích, nó không lợi ích. Nó lợi ích cho một cái người làm đạo, để biết sự kiện xảy ra phải làm cho đúng thời, cho cái người làm đạo. Chứ cái người tu có lợi ích gì? Cái người tu của mấy con là chỉ làm chủ sanh, già, bệnh, chết là hạnh phúc rồi, đủ rồi. Các con hiểu chỗ đó chưa?
(34:19) Rồi bây giờ các con tu tập bốn cái pháp đi kinh hành, nhớ chưa? Bây giờ 19 cái đề mục của hơi thở, hơi thở tu 19 cái pháp chứ không phải một pháp. À cho nên vì vậy đó, đầu tiên thì: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Cho nên mấy con về, mấy con nhớ tập về hơi thở. Nhưng tập hơi thở chỉ trong vòng 1 phút, chớ mấy con không được tập nhiều. Bởi vì hơi thở là thân hành nội. Khi mà nó bị rối loạn, nó bị tức ngực, nó bị thở nghẹt hoặc là nó bị căng mặt, thì tất cả nội tạng của mấy con sẽ bị dễ rối loạn.
Bởi vì nó thân hành nội. Các con thở bình thường, thì trong cái cơ quan của nội tạng của con tim, gan, phèo phổi, tuần hoàn đều làm việc bình thường. Mà nếu các con thở dài, thì nó làm việc khác mấy con. Các con thở ngắn nó làm việc khác mấy con. Các con thở lúc dài, lúc ngắn nó làm việc khác mấy con. Nó sẽ ảnh hưởng đến cơ thể của mấy con và mấy con sẽ bị bệnh, nội thương. Cho nên các con chỉ tập ít mà thôi. Rồi có điều gì, nó có sự mà rối loạn của hô hấp thì mấy con báo cho Thầy biết để Thầy hướng dẫn.
Bởi vì hơi thở không phải dễ, mà hơi thở lợi ích rất lớn. Có bệnh dùng hơi thở đẩy lui cũng được, tâm mình có phiền não đẩy lui cũng được, phá tâm buồn ngủ của mình nó cũng được. Bởi vì nó là cái pháp để đẩy lui tất cả những chướng ngại pháp. Nhưng nó rất khó là tại vì nó thân hành nội. Bởi vì nó nội, nó phải có cái lực nội của nó mấy con. Mà luyện tập sai là nó sẽ nguy hiểm đến sinh mạng của mấy con, nó thành bệnh của mấy con. Cho nên về hơi thở thì thôi mấy con đừng tu tốt hơn. Nhưng mà mấy con có tu thì tu chừng 1 phút thôi, đừng tu nhiều. Nhiếp nhiều là nó bị rối loạn.
(36:07) Bây giờ mấy con sẽ tu tập hơi thở kiểu này, tức là tu thân hành ngoại. Thầy sẽ dạy cho cái pháp này cuối cùng để cho mấy con về tập luyện rất dễ và đẩy lui bệnh của mình rất dễ. Mấy con lớn tuổi rồi, khi bị mệt này kia thì mấy con không thể dùng hơi thở được nữa. Thì mấy con dùng cánh tay đưa ra tức là hơi thở ra, đưa vô tức là hơi thở vô. “Đưa ra tôi biết tôi đưa ra”, phải không? “Đưa tay vô tôi biết tôi đưa tay vô”, phải không? “An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô”, phải không?
Rồi khi mà các con bị bệnh, thọ là vô thường, cái đầu các con nhức, các con bảo: “Thọ là vô thường, cái đầu nhức phải đi đi không được ở đây”, Thì các con mới nhắc: “An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra”, thì các con dùng cái tưởng mấy con thấy như cái đầu bị bệnh theo cánh tay đi ra. Nhưng mà: “An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô”. Thì con đừng tưởng gì hết, đưa tay vô theo sự an tịnh của thân con. Đưa tay ra thì con dùng cái tưởng của con, con nghĩ cái bệnh theo cánh tay của con mà đi ra. Và như vậy chỉ trong vòng 5 phút, 10 phút là cái bệnh nhức đầu, hay cái bệnh nào trong thân con nó sẽ giảm đi, nó sẽ hết.
Còn khi nào mà nó bị đau quá, tâm con dao động thì con niệm Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Phật chứng minh cho con. Con sẽ quyết định, con sẽ bền chí tin theo Phật và kêu gọi tên Thầy: “Thầy ơi cứu con, con đang gặp cái bệnh khó khăn, nó đau nhức con quá, con chịu không có nổi nữa”. Thì lúc bấy giờ con kêu tên Phật, con gọi Phật, con kêu tên Thầy.
Rồi các con nhất định đã có Phật, đã có Thầy hỗ trợ, nhất định không sợ cái bệnh này. “Ngồi thẳng lưng lên”, mình tác ý như vậy để rồi mình ngồi thẳng lưng lên. Rồi bắt đầu các con đưa tay ra “An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra”. Rồi các con tác ý, các con thấy như cái bệnh mình theo cánh tay ra. “An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô” các con đưa vô. “An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra” tay này, rồi tay này, rồi tay này. Các con làm chừng hơi 2, 3 vòng, 5, 10 vòng. Hay hoặc là 1 phút, 2 phút, 5 phút, 10 phút thì cái bệnh các con hết, xả ra đi nghỉ không còn đau nữa.
(38:11) Đó là cái để đối trị bệnh. Tâm các con có phiền não cái gì, các con cũng sử dụng cái cánh tay đưa ra, đưa vô. Các con cũng ngồi kiết già hẳn hòi, đưa ra, đưa vô. Nó sẽ cứu mấy con khỏi những cái đau khổ của thân và của tâm mấy con, nhớ chưa? Đây là cái pháp hơi thở. Mà những cái đề mục của hơi thở mà Thầy chuyển nó qua thành cái thân hành ngoại của mấy con. Đưa ra thì đó là hơi thở ra, mà đưa vào thì hơi thở vào, các con hiểu chưa?
Mình thay đổi cái thân hành ngoại thành cái thân hành nội. Vì thân hành nội mấy con không được gần Thầy thì đừng nên tu. Vì gần Thầy, Thầy có cái việc sự gì sai, Thầy chỉnh lại cái hơi thở của các con nó sẽ theo đúng cái đặc tướng, mà mấy con tu không có lạc, lầm nữa. Chứ còn không khéo nó sẽ rối loạn hơi thở, thì nó nguy hiểm cho mấy con. Khi ở xa mà Thầy đâu ở trên Tây Ninh, thì tới chừng mà Thầy hay được là mấy con ở ngoài này đã tiêu tùng rồi còn gì, thành bệnh mất, các con hiểu không?Cho nên các con khoan tu hơi thở.
Khi nào có dịp được gần Thầy trong một tuần lễ, một tháng, hai tháng, Thầy sẽ dạy cho mấy con về hơi thở. Còn không được gần Thầy thì mấy con cứ dùng cánh tay mà thôi, các con hiểu không? Cánh tay mấy con đưa ra, đưa vô nó mỏi tay mấy con, chứ nó không có đau cái phổi hay hoặc là đau cái hô hấp của mấy con. Đau tim, đau gan gì trong này, nó không có đau đâu. Bởi vì ở ngoài này(thân hành ngoại) nó không sao. Còn cái hơi thở các con thở chứ nó vận dụng ở trong đó. Nó làm cho tim, gan, phèo phổi con, nó theo cái hơi thở con dài, ngắn hay hoặc là rối loạn, nó cũng sẽ bị rối loạn đó. Nhớ chưa, nó cũng phải như vậy.
(39:28) Đó là những pháp Thầy dạy, mấy con nhớ về tập nha. Cái gì mà Thầy dạy thì mấy con tu tập, nó sẽ được những kết quả tốt cho mấy con. Nhớ sống thì xả tâm, luôn luôn lúc nào, mọi cái đều thấy nhân quả cho Thầy, thì mấy con sẽ được xả tâm tốt, tâm mấy con được an ổn. Rồi! Bây giờ xong rồi mấy con về tu tập! Chỉ còn có mấy con tập thôi, còn Thầy đã dạy rồi đó. Được thì mấy con sẽ không phụ lòng Thầy, mà không được thì mấy con phải hỏi lại Thầy. Thầy sẽ cố gắng Thầy dạy cho mấy con. Mấy con sẽ kết quả, đem lại cái đời sống của mấy con thanh thản, an lạc, vô sự. Mấy con sẽ được hoàn toàn giải thoát. Không còn sợ bệnh đau, không còn sợ một cái ác pháp làm cho các con phiền não. Trước cảnh nghèo đói mấy con cũng không có sợ nữa. Trước cảnh giàu sang mấy con cũng không có lo ăn cướp, ăn trộm gì hết. Mấy con không sợ gì hết.
Đó là cái pháp của Phật để giúp cho mấy con đem lại cái đời sống giải thoát, bình an cho mấy con suốt trong cái từ lúc mà gặp Thầy cho đến khi mấy con chết. Mấy con nhớ kỹ, hành đúng kỹ thì như vậy mới không phụ lòng Thầy. Thầy thương mấy con, Thầy chỉ ban cho mấy con như vậy thôi. Còn các cụ già, Thầy sẽ gửi những bức tâm thư. Bức tâm thư tức là tâm sự với mấy con để giúp mấy con. Tuổi mấy con còn không bao lâu nữa rồi, còn ngắn lắm mấy con!
Mấy con cứ nghĩ, bây giờ mấy con còn thấy sống, chứ 3, 4 năm, 10 năm nữa là cao lắm, mấy con cũng ra người thiên cổ rồi mấy con. Thầy biết mấy con không còn lâu nữa đâu. Cái tuổi trẻ như mấy con thì nó còn dài, nhưng mà không có nghĩa là nó vô thường nó không đến. Nhưng mà tuổi già đã hiện tượng tóc bạc, mặt nhăn, sự yếu đuối nó hiện ra rõ rồi. Nó báo cho chúng ta biết không còn lâu nữa.
Đó là cái hiện tượng của mấy con lớn tuổi. Vì vậy mà mấy con ngay từ bây giờ, tất cả những cái việc gì đó, mấy con giao cho con cháu nó làm đi. Đừng có làm phụ nó, rồi mấy con cũng chết, rồi mấy con cũng không có phụ nó được đâu. Thường thường già như thế này, nó thấy còn khỏe, nó coi, “mẹ coi dùm con giùm con”. Trời đất ơi! Nó để cho bà già coi dùm con nó. Tới chừng bả chết rồi thì bả cũng tiêu ma luôn. Tốt hơn: “Thôi bây giờ tao già rồi tao còn có chút ít ngày tháng, thôi để cho tao tu đi, còn tụi bay ráng mà chăm sóc mấy đứa nhỏ. Chứ bây để tao coi nó thì chắc chắn là tao, cuộc đời tao chắc hết”. Phải không?
Cho nên vì vậy mấy con giao lại con cái đi. “Tao giờ coi chừng nhà được, nhưng mà tụi bây cứ đi làm đi. Tao (coi) chừng nhà yên tịnh, tao ngồi đây tao tu. Tao coi chừng nhà, ăn trộm, cướp vô thì tao la được, chứ nhưng mà bắt tao coi mấy đứa nhỏ này chắc là tao chết. Lát là nó đòi ăn, lát nó đòi uống, lát nó đòi dẫn đi chơi, hoặc này kia nó khóc. Tao dỗ nó chắc là tao không có yên tâm”. Thấy không? Các con nhớ vậy đi, thì mấy con sẽ theo Thầy mấy con sẽ tu được, mấy con sẽ an trú được.
À, đến đây Thầy xin chấm dứt mấy con!
(42:21) Phật tử 1: Chúng con đi tìm Thầy nhiều lần, bây giờ mới gặp được Thầy.
Trưởng Lão: Mới gặp Thầy, lần trước cũng không gặp, đúng không? Lần trước Thầy về Ninh Sơn.
Phật tử 1: Dạ con lên trên đó là Thầy gì đó nói là Thầy đã về rồi.
Trưởng Lão: Thầy mới về rồi, kỳ này thì gặp, có duyên mà. Có duyên rồi sớm muộn là phải gặp. Cho nên vì vậy đó, Thầy thấy cô rất có duyên. Cho nên vì vậy, Thầy mong rằng Thầy sẽ độ cô, nghĩa là chấm dứt được tái sanh luân hồi.
Phật tử: Ở lại một đêm nay con mới gặp được, đi tìm gì mà tìm quá trời luôn, con mới gặp.
Trưởng Lão: Bởi vậy tìm Thầy khó lắm mấy con. Có đủ duyên thì Thầy mới đến, chứ không đủ duyên thì khó tìm Thầy lắm. Như vậy là mấy con ráng tập mấy con, với chiếc áo của Tu Sĩ mấy con ráng. Thầy sẽ soạn thảo cái bộ giới, sau này Thầy dạy những oai nghi tế hạnh cho mấy con. Từ cái ăn tỉnh giác ở trên (cái ăn), tỉnh thức ở trong từng cái ăn, như hồi nãy Thầy đã nói. Các con từ cái chỗ mà mấy con gắp một món ăn, mấy con bỏ trong cái bát. Rồi mấy con xúc cơm với những cái món ăn đó mấy con bỏ trong miệng, đều là phải tỉnh thức từng hành động hết đó mấy con. Chớ không phải ngồi ăn mà để ngồi ăn đó đâu, không phải đâu. Tu sĩ là phải tỉnh thức trong cái ăn, cái oai nghi tế hạnh nó phải có.
Phật tử 2: Con xin thỉnh một số sách để gởi cho cái huynh ở nước ngoài, còn mấy người ở đây đó thì ai muốn lấy sách thì ghi cái địa chỉ để con gởi tới, còn riêng cái Huynh mà mà ở nước ngoài đó thì con gởi. Vì những người ở đây thì dễ rồi.
Trưởng Lão: À bây giờ, chú Vàng nói như thế này. Tức là Thanh Trí muốn nói như thế này, mấy con ở trong này thì nó còn có cái dịp mà chú sẽ gởi kinh sách cho mấy con. Còn chú kia, thì chú sẽ có dịp chú về ngoại quốc rồi, không còn. Cho nên tập trung gom cái này lại, còn lại chút ít thì gởi cho con. Ở đây thì chắc có cũng tạm đủ chứ chưa phải đủ đâu, sách Thầy nhiều lắm.
Phật tử 2: Nói chung Huynh có một cái địa chỉ, địa chỉ bên Mỹ đó, thì có một số huynh đệ cái nhóm ở bên đó sẽ gởi bên đó in đó, ở bên Mỹ in thì gởi tới địa chỉ cho Huynh, xin cho con biết cái địa chỉ rồi con gởi cho.
Trưởng Lão: Rồi, thì có cái địa chỉ đó mình sẽ gửi qua bên Mỹ cho mấy người bên đó, họ in kinh sách Thầy bên đó, họ gởi. Họ gởi ra ngoại quốc dễ lắm. Còn mình ở đây thì khó thôi, chứ còn ở ngoài dễ.
Phật tử 3: Con muốn xin Thầy viết cho con nội dung của bức tâm thư.
Trưởng Lão: Rồi, Thầy sẽ gửi cho con bức thư, những bức tâm thư. Thầy sẽ giúp con. Giờ mấy con lớn tuổi rồi Thầy sẽ gửi hết con. Thầy sẽ cho photo một cái số những bức tâm thư này, Thầy gửi đến cho mấy con, nghe không? Thôi bây giờ nghĩ con. Rồi mấy con về nhớ nghe không, nhớ tập nghe không? Thầy ngồi lại là dạy cho mấy con đó! Mấy con phải tập, nghe không!
HẾT BĂNG
ĐỨC PHẬT LÀM CHỦ BỆNH VÀ LỜI DI CHÚC CUỐI CÙNG
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Ngày giảng: 2004
Người nghe: Tu sinh
(00:02) Định, thì Thiền đó chẳng qua là Tà Thiền chứ không thể nào là Chánh Thiền Định của Phật được hết. Vì bài kinh Ước nguyện - đức Phật đã xác định 17 điều lợi ích của giới luật. Muốn ly dục, ly ác pháp, muốn nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền đều phải giới luật nghiêm chỉnh không hề phạm một lỗi lầm nhỏ nhặt nào thì chúng ta mới nhập được, còn không thì chúng ta chẳng nhập được.
(00:26) Nhất là những giới luật mà Thầy đã đưa ra, giữ độc cư sống trầm lặng một mình để phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình thì mình mới mong mình nhập được các Định, mới mong làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Thậm chí như chúng ta giữ gìn giới luật ước nguyện cho người khác thì kết quả cũng đem đến lợi ích cho người khác được. Các con thấy giới luật rất là tuyệt vời! Thế mà tại sao chúng ta xem thường giới luật đến mức độ như vậy? Trong khi Thầy đã cố gắng để phản lại những bài kinh, những cái lời đức Phật dạy rất là cụ thể để chúng ta thấy lợi ích của giới luật như vậy.
Và đến hôm nay thì các con thấy rằng, Thầy đưa ra giáo pháp để chỉ thẳng, vạch thẳng để chúng ta thấy cách thức làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Nếu chúng ta ly dục, ly ác pháp thì tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự. Người ta chửi mình không giận, đó là giải thoát chứ sao! Mình không tham muốn một vật gì, đó là giải thoát chứ sao. Có gì khác!
(01:15) Đạo Phật thực tế, cụ thể, rõ ràng, không mơ hồ, không đi tìm một cảnh giới nào gọi là Cực Lạc, Thiên Đàng. Mà chỉ nơi tâm chúng ta không còn tham dục, không còn ác pháp là nơi đó là Niết Bàn, nơi đó là Cực Lạc, nơi đó là Thiên Đàng, nơi đó là Phật tánh chứ không phải cần chi cầu tu tập để kiến tánh thành Phật. Chỉ cần ngăn ác, diệt ác là chúng ta đã đạt được những điều… Mà khi tâm chúng ta bất động thì nó đầy đủ những năng lực, có thể chúng ta làm chủ được bệnh tật.
(01:54) Nhưng trong bước đường tu tập, chúng ta có nhiều cái khó khăn. Đạo lực chưa đủ mà bệnh đau đến chúng ta làm gì đây? Đức Phật có dạy chúng ta cách thức để đối phó những cơn bệnh của chúng ta bằng pháp Tứ Niệm Xứ với tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác của chúng ta.
Vậy thì Thầy xin đọc một đoạn kinh để thấy đức Phật làm chủ bệnh của mình. Đây là Thầy đưa ra một bài kinh thật sự, một đoạn kinh để chúng ta thấy đây là một sự thật chứ không phải Thầy bịa đặt ra mà nói rằng pháp Tứ Niệm Xứ là tu tập để làm chủ bệnh, làm chủ sự sống chết của chúng ta, không phải đâu. Đây là kinh sách có hẳn hoi, đàng hoàng bằng chữ, bằng nghĩa, bằng sách, bằng mực, giấy trắng, mực đen rõ ràng. Chứ không, Thầy không đặt.
(02:39) Những gì Thầy dạy cho các con tu tập là những gì đức Phật đã dạy cách đây 2548 năm chứ không phải Thầy tự đặt ra, không phải là giáo pháp này của Thầy mà chính của đức Phật. Thầy chỉ là người hiện giờ có công là dựng lại cho đúng, còn những cái sai là dẹp xuống, đập xuống. Như ngày xưa đức Phật là một vị Bà La Môn tu theo Bà Là Môn nhưng sau khi chứng đạo thì tất cả những điều sai của Bà La Môn được đức Phật đập xuống, và đồng thời dựng những gì đúng của Bà La Môn lên chứ đức Phật cũng không có gì khác hơn hết.
Cho nên trong thời đức Phật vẫn có Tứ Thiền - Tứ Thiền của ngoại đạo của Bà La Môn, chứ không phải của đức Phật. Vẫn có Tam Minh, nhưng là Tam Minh của Bà La Môn chứ không phải của Phật. Nhưng Tam Minh nào đúng và Tam Minh nào sai? Thời đức Phật không có nghĩa là người ta tu không có thần thông, có thần thông là Tam Minh chứ. Nhưng mà Tam Minh đó sai, không đúng đâu.
Cho nên đức Phật dựng lại cái đúng và cái sai để chúng ta thấy rằng trong con đường của đạo Phật không hoàn toàn đức Phật cũng chẳng có gì mới. Giới luật thì Phạm Thiên đã có sẵn rồi. Tất cả những đức hạnh giới luật đều có sẵn. Đức Phật chỉ lập lại giới nào đúng, giới nào sai. Cái giới mà gọi là Giới Cấm Thủ là những cái giới khổ hạnh, cái giới mà làm cho người ta quá khổ đau để gọi là tìm trong sự khổ đau đó mà sự giải thoát thì đức Phật đã chứng nghiệm qua thân của mình. Sáu năm khổ hạnh nhưng cuối cùng chẳng tìm thấy được trong những giới khổ hạnh đó để mà tìm lấy sự giải thoát. Cho nên đức Phật phá bỏ không chấp nhận những cái giới sai lầm đó. Và những cái giới mà đưa lại sự giải thoát thì đức Phật dựng lên tất cả những cái điều kiện đó cho chúng ta, hôm nay chúng ta tu tập.
Vậy thì Thầy xin đọc đoạn kinh này để thấy, chúng ta thấy rõ ràng đức Phật đang có những phương pháp trị bệnh rõ ràng mà chính đức Phật tự trị ngay ở thân mình, bản thân của mình bằng phương pháp, để rồi Thầy sẽ giải thích từng cụm từ để chúng ta thấy đức Phật dùng pháp gì. Bởi vì những cụm từ đó quá cô đọng làm cho người ta không hiểu đó là cái pháp gì. Nhưng đối với Thầy là người đã trải qua sự tu tập có kinh nghiệm cho nên Thầy biết đó là cái pháp nào mà đức Phật đã sử dụng. Thầy sẽ giải thích cho mấy con nghe.
(04:45) Đây, Thầy đọc đoạn kinh: "Trong khi Thế Tôn an cư trong mùa mưa, một cơn bệnh trầm trọng khởi lên, rất đau đớn, gần như muốn chết". Đây là một đoạn kinh rõ ràng chứ không phải Thầy bịa đặt đâu, Thầy không đặt. Ở đây trong bộ kinh này là bộ kinh Trường Bộ Tập I, nói về Kinh Đại Bát Niết Bàn: "Nhưng Thế Tôn giữ tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác, chịu đựng cơn đau, cơn đau ấy không một chút ta thán". Nghĩa là không một chút rên la đó mấy con. Các con đọc lại đoạn kinh này. Thầy đọc lại cho các con nghe: "Nhưng Thế Tôn giữ Chánh Niệm Tỉnh Giác", các con nghe cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác đó, Thầy đã dạy mấy con, từng dạy mấy con Chánh Niệm Tỉnh Giác Định chứ gì.
Thì bây giờ, lúc bấy giờ thân của đức Phật đau gần như muốn chết, thì đức Phật chỉ giữ cái tâm của mình Chánh Niệm Tỉnh Giác, chịu đựng cơn đau ấy không một chút ta thán, tức là không một chút rên la. Các con nghe câu kinh của Phật rõ ràng không? Nếu mà bây giờ các con đọc chữ "ta thán" mấy con nói, ờ, mấy con khó hiểu. Nhưng mà Thầy nói không một chút rên la, không một chút lăn lộn nào hết, nghĩa là giữ tâm Chánh Niệm của mình như vậy.
Cho nên thường Thầy dạy mấy con khi mà bệnh đau, mấy con dựng thân sừng sững lên, đừng có sợ hãi. Thọ là vô thường, nó đến rồi nó đi, nó không phải thật của mình đâu mà sợ. Dựng lên và ôm pháp mà tu, như ôm phao qua biển, Chánh Niệm Tỉnh Giác. Chánh Niệm Tỉnh Giác ở chỗ nào, mấy con biết không? Ở Thân Hành Niệm chứ ở đâu, nếu mà nói Chánh Niệm Tỉnh Giác mà không có Thân Hành Niệm thì chúng ta ở chỗ nào? Thân Hành Niệm thì có Thân Hành Niệm nội và Thân Hành Niệm ngoại. Vậy thì cái phao của Chánh Niệm của chúng ta- cái Chánh Niệm- đó là Chánh Niệm thân hành cho nên gọi là Thân Hành Niệm.
Các con nghe cái pháp Thân Hành Niệm chứ gì, là cái niệm thân hành, cho nên bây giờ Chánh Niệm Tỉnh Giác. Bây giờ tỉnh giác ở trên Chánh Niệm đó, ở trên cái thân hành đó. Thì bây giờ một là cái hơi thở, đức Phật đã ở trong hơi thở rồi, hai là phải ở trong thân đi tới, đi lui hoặc là đưa tay ra vô rồi, có phải đúng không mấy con? Như vậy rõ ràng pháp Phật rõ ràng chứ đâu phải là dối chúng ta đâu. Cho nên ở đây chúng ta nương vào Thân Hành Niệm thì chính đó là Chánh Niệm của Phật rồi.
(06:48) Vì vậy mà khi thân này đau gần như muốn chết nhưng chúng ta vẫn giữ thân ngồi kiết già hẳn hoi lên, và đồng thời Chánh Niệm Tỉnh Giác trên thân hành của chúng ta. Thì bây giờ ngồi thì có thân hành nào có khác hơn là hơi thở mấy con, các con thấy rõ chưa? Như vậy là Phật pháp có hẳn hoi, đàng hoàng. Đây là một bài kinh rõ ràng chứ, để đức Phật đối trị cái bệnh của mình đây. Thì lúc bấy giờ đức Phật có rên la, nói đau không? Nếu mà nói đau thì thôi không bao giờ còn Chánh Niệm nữa, phải không các con? Các con thấy đúng chưa?
Thế Tôn tự nghĩ: "Thật không hợp lẽ nếu ta diệt độ mà không một lời với các đệ tử hầu cận ta, không từ biệt chúng Tỳ kheo…". Nghĩa là đức Phật bấy giờ suy nghĩ, nếu mà mình bây giờ diệt độ, đau gần chết mà, chỉ cần bây giờ đức Phật chỉ cần tịnh chỉ hơi thở đức Phật bỏ thân khổ quá thì đâu còn đau nữa mấy con. Nhưng mà đức Phật nghĩ rằng, bây giờ ta chưa có nói một lời nào với đệ tử của ta, với những người hầu cận bên ta, như ông A Nan, chưa nói lời nào. Ta ra đi như thế này không được, đau như sắp chết mà không nói lời nào trước ai hết thì như vậy là không được.
Cho nên, đức Phật phải duy trì cái sự sống mình ra và đẩy lui bệnh này ra. Cho nên vì vậy mà đức Phật, Thầy sẽ đọc tiếp cái đoạn kế để mà các con thấy rằng đức Phật làm sao mà cho bệnh ra, làm sao mà đuổi bệnh ra. Bây giờ có Chánh Niệm Tỉnh Giác rồi, ôm đó mà chịu đựng. Thì câu đầu các con thấy nè, đức Phật nói rất rõ: "Nhưng Thế Tôn giữ Chánh Niệm Tỉnh Giác chịu đựng cơn đau ấy", bây giờ nương vào cái hơi thở của mình là đang chịu đựng cái cơn đau, cơn đau như cắt ruột. Các con thấy không? Ôm cái đó mà chịu đựng, biết hơi thở ra, biết hơi thở vô nhưng vẫn đau chứ không phải không đau. Nhưng mà nhờ nương vào hơi thở mà chịu đựng mới nổi, còn không nương vào hơi thở thì không bao giờ chịu đựng nổi, tức là không nương vào Chánh Niệm Tỉnh Giác thì không bao giờ chịu nổi cơn đau. Cho nên chúng ta có những phương pháp để nương vào. Vì vậy, mà khi Thầy bảo các con khi cơ thể chúng ta bị bệnh đau đó thì chúng ta ôm chặt pháp tức là ôm cái Thân Hành Niệm của chúng ta, cái hơi thở hoặc là cánh tay chúng ta đưa ra vô, ôm cho chặt. Đó là ôm phao vượt biển mà, sóng gió ba đào nó không dập chúng ta xuống biển được đâu. Rồi chúng ta sẽ đến bờ an ổn chứ không có gì. Thường Thầy dạy mấy con như vậy mà.
(09:18) Nhưng mà Thầy tin rằng các con chưa đọc bài kinh này, các con chưa đủ niềm tin nơi Thầy đâu. Chỉ biết rằng Thầy chỉ kiến giải, tưởng giải cũng như mấy ông Đại thừa bằng tưởng giải, kiến giải. Nhưng mà ở đây Thầy tưởng giải, kiến giải bằng sự thật của đức Phật, chứ không phải bằng cái khác.
Thầy tiếp tục, khi mà đức Phật nghĩ rằng mình chưa có di chúc, mình chưa có nói lời từ giã các đệ tử mà bây giờ đau mình chết thì nó thật là nó không đúng cách. Cho nên đức Phật mới nói: "Vậy ta hãy lấy sức tinh tấn, vậy ta hãy lấy sức tinh tấn". Tinh tấn là lấy sức gì? Siêng năng. Bây giờ nó mệt mỏi, nó làm đau nhức, nó khổ, nó làm cho chúng ta không có còn tinh tấn được nữa, có phải không? Cho nên đức Phật mới phải lấy sức tinh tấn để mà nhiếp cái tâm mình ở trong cái pháp để đẩy lui cho nó được. Bây giờ lấy sức tinh tấn như thế nào? Thay vì đau thì ráng mà nằm mà chịu đau thì nó dễ dàng thôi. Còn mở miệng tác ý để cho đẩy lui bệnh thì nó rất khó khăn, phải không các con?
(09:56) Cho nên khi đó, chúng ta biết rằng, trong khi đó đức Phật nói rằng phải tinh tấn để mà nhiếp phục cơn bệnh. Tinh tấn nhiếp phục cơn bệnh là dùng pháp gì các con biết chưa? "Thọ là vô thường, hãy rời khỏi thân ta đi. An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành, tôi biết tôi thở ra." Các con thấy cái tác ý đó để chúng ta đem lại sự an ổn cho thân chúng ta, phải không? Nếu mà không tác ý, không tinh tấn tác ý thì một lát chúng ta không tác ý đâu, chúng ta chỉ ôm cái pháp đó mà chịu đựng, như vậy là chúng ta chịu đựng chứ chưa phải đẩy lui bệnh. Mà tới cái đoạn này chúng ta mới thấy rõ ràng nhiếp phục cơn bệnh này, nhiếp phục làm cho cơn bệnh này nó phải phục, nó phải lui ra, có phải nghĩa như vậy không?
Cho nên, vì vậy muốn nhiếp phục nó thì pháp Như Lý Tác Ý chứ gì? Không có pháp Như Lý Tác Ý thì không thể nào chúng ta đẩy lui được bệnh này hết. Các con thấy Thầy dạy có đúng lời của Phật không? Trong đoạn kinh này Thầy dạy không bao giờ sai cái ý của Phật chút nào hết, chính chỗ này mới là cứu chúng ta. Những người nào có bệnh đau mà dùng pháp Như Lý đuổi được bệnh, mấy con mới có được niềm tin nho nhỏ với Thầy. Chứ cũng chưa chắc đã tin Thầy lắm, bởi vì chưa bao giờ mấy con đọc bài kinh này, đoạn kinh này mà mấy con biết được. Cho nên, dù mấy con có đọc nhưng mà đọc lướt qua, mấy con quá xem thường nó. Mỗi chữ, mỗi lời của đức Phật ở trong những kinh của Phật đều có những ý nghĩa rất là sâu, giúp chúng ta có đủ cái niềm tin để vượt qua những khó khăn.
(11:31) Đó cho nên vì vậy, bây giờ phải tinh tấn, phải nhớ tinh tấn, phải siêng năng, phải tác ý hoài, phải nhắc nhở hoài, phải nói: "Thọ là vô thường, hãy đi khỏi thân ta đi, ở đây không phải là chỗ mày ở. An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành, tôi biết tôi thở ra". Rồi tiếp tục tác ý nữa, rồi cứ yên lặng một hơi thở rồi tác ý nữa, chừng nào mà đẩy lui được, nhiếp phục được bệnh thì mới thôi.
Đây, tới câu kế nữa, nó tuyệt vời. Ở câu này là nhiếp phục được bệnh bằng pháp Như Lý Tác Ý rồi mấy con. Rồi câu kế: "Duy trì mạng căn và tiếp tục sống", kế bây giờ đẩy lui bệnh mới duy trì được mạng căn, không đẩy lui được bệnh thì phải chết thôi, không có cách nào khác. Mà bây giờ tiếp tục sống mà sống không có bệnh trở lại, chứ không phải là sống để cho bệnh trở lại tác động chúng ta nữa. Bây giờ, chúng ta ở trong pháp chúng ta tác ý như vậy nó hết nhưng khi mà xả nó ra trở lại sao? Các con hiểu điều đó.
Cho nên, cái câu cuối cùng đức Phật: "Duy trì mạng căn và tiếp tục sống", làm cho nó không còn bệnh đau nữa, làm cho cái mạng căn của chúng ta sống an ổn trở lại chứ không còn đau khổ nữa. Các con thấy cái chỗ mà đức Phật dạy chúng ta nó rõ ràng và cụ thể không? Rất rõ ràng. Mà Thầy đã từng dạy mấy con để đối trị với bệnh. Bởi vì mỗi chúng ta, mỗi con người chúng ta ai cũng biết cái bệnh hết, ai cũng có bệnh hết, ai cũng khổ vì bệnh hết, bệnh sơ cũng khổ.
Bây giờ chúng ta lỡ đứt tay thôi chúng ta cũng thấy đau khổ rồi chứ chưa nói đến những bệnh ngặt nghèo. Thế mà những phương pháp của Phật để đối trị những bệnh rất rõ ràng như thế này, tại sao chúng ta không tu tập để cứu mình thoát ra những bệnh khổ. Người tu theo đạo Phật như trong khi đức Phật đau như gần chết như thế này mà có đi bệnh viện, có đi thầy không? Có kêu A Nan phải đi rước ông thầy này, ông thầy kia đem đến hốt thuốc cho Phật uống không? Hay là đức Phật nằm đó mà tỉnh giác để mà dùng pháp của mình đẩy lui?
Đây là một đoạn kinh để làm chủ bệnh đó mấy con. Sau này các con đọc cái tập Những lời Phật Dạy mà tập IV, thì mấy con sẽ được đọc đoạn kinh này, từ chú thích của Thầy rất cặn kẽ để các con biết cách để làm chủ bệnh. Bởi vì làm chủ bệnh là một, là các con đã làm chủ được, là các con đã dứt được một nỗi khổ rất lớn ở trong đời sống của các con rồi đó.
(13:49) Đó thì các con thấy, trong cái vấn đề của đạo Phật nó quan trọng đến cái mức độ đến đời sống của con người thật là ích lợi quá lớn cho đời sống chúng ta. Đời sống chúng ta không khổ đau, không tham muốn, không danh, không lợi. Cho đến khi tuổi già, chúng ta khỏe khoắn, quắc thước không có cái gì làm chúng ta khổ đau hết. Rồi đến khi mà bệnh đau thì chúng ta có những phương pháp đẩy lui, không còn gì hết. Chứ đâu phải cầu Phật mà Phật cứu chúng ta hết bệnh được sao, không ai cứu chúng ta hết được đâu.
Cho nên tất cả những cái mà gọi là cầu để cho người khác cứu mình thì không bao giờ có. Chính đức Phật ở đây không cầu ai mà chính đức Phật đã tự cứu mình. Vậy thì trong khi thời đức Phật chưa có Ông Phật, vậy thì đức Phật đau, cầu ai mà cứu Phật? Còn chúng ta hiện giờ đó, có Phật thì cầu Phật cứu, nhưng mà Ông Phật Ông có bảo Ông cứu mình được đâu. Bởi vì nhân quả do mình tạo, thân mình bệnh đau thì mình phải tự cứu mình, chứ không ai cứu mình được hết.
(15:00) Cho nên giới luật của Phật là thiện pháp, là đức hạnh. Vì vậy chỉ có giới luật, nó mới chuyển được nhân quả ác của chúng ta nếu đời sống mà chúng ta sống đức hạnh, chúng ta không nói một lời nói làm người khác buồn phiền, chúng ta không có những hành động, không có những ý nghĩ ác ở trong đầu chúng ta thì làm gì chúng ta có những quả khổ, các con hiểu điều đó.
Cho nên giới luật của Phật kê ra đều là những điều thiện để giúp chúng ta sống một đời sống không làm một cái nhân ác thì quả làm sao có khổ đau. Và đồng thời, những cái quả từ xưa đến giờ mà chúng ta đã gieo một cái nhân vô minh không biết mà chúng ta đã tạo ra bao nhiêu điều ác mà bây giờ chúng ta đã thọ cái lấy cái thân nhân quả này.
Cho nên hôm nay chúng ta chịu, nhưng mà chúng ta chịu mà chúng ta chuyển nó, chứ đâu phải chúng ta không chuyển. Bây giờ đức Phật đau gần chết đây, gần như muốn chết đây. Vẫn là cái nhân quả chứ đâu phải không? Nhưng mà đức Phật đã dùng Chánh Niệm Tỉnh Giác, dùng pháp Như Lý Tác Ý đẩy lui ra bệnh thì nhân quả còn tác động được nữa không? Không! Hết! Và duy trì mạng căn và tiếp tục sống bình thường như những người khác. Đây là một bài kinh rất có giá trị, để biết được các phương pháp của Phật, chúng ta có đặt trọn niềm tin với đức Phật không? Việc làm của đức Phật cụ thể, rõ ràng chứ không phải nói mơ hồ. Mà đây chính đức Phật đã chứng minh trên bản thân bệnh đau của mình.
(16:13) Đó thì, hôm nay các con thấy rằng, trong cái vấn đề mà Thầy dạy ở đây, các con đã bỏ hết cuộc đời vào đây rồi, ăn ngày một bữa, có lợi ích gì cho các con đâu? Tại sao các con lại đi nói chuyện? Vui gì mà nói chuyện? Còn kết bè kết bạn để làm gì mấy con? Cho nên những lỗi lầm của mấy con đã làm cho cái Tu viện gần như tan nát. Nếu như một người nào thì kể như là sụp đổ, nếu mà một người nào mà tu chưa xong, chưa làm chủ được sanh, già, bệnh, chết như Thầy thì chắc chắn Tu viện này sụp đổ. Người ta sẽ nói như thế này, nói thế khác thì cái tâm mà nó không bình tĩnh, nó sân lên một chút thì nó đập tan nát hết. Thầy chỉ cần la hét lên một cái là tan nát hết Tu viện này không còn một chút nào nữa. Các con hiểu điều đó!
Cho nên mấy con, người nào mà ở trong cái hoàn cảnh, ở trong cái hoàn cảnh đối tượng này, biết thì hiểu, mà những người khác thì chỉ nghe thôi chứ còn không biết là chuyện gì nữa, các con biết. Nếu mà Thầy không có bất động tâm thì cái Tu viện này còn gì mấy con biết không? Các con hiểu điều đó. Cho nên sự bất động của Thầy nó cũng giữ cho Tu viện này sừng sững và mãi mãi muôn đời không ai làm nó tan hoại, không ai đốt sạch nó được. Nhất định là Tu viện Chơn Như sẽ sáng chói, huy hoàng. Nó càng gặp khó khăn thì người ta mới thấy được Tu viện Chơn Như. Chứ nếu mà không có khó khăn, không có những điều kiện gian nan của nó thì chúng ta không thấy nó. Và hôm nay do nhân duyên này mà Thầy đưa ra cái bài này để cho các con thấy rất rõ ràng, để các con hiểu.
(17:50) Thầy sẽ tiếp tục đọc một đoạn kinh nữa để các con thấy đây là một sự thật của đạo Phật mà đức Phật cũng như Thầy hiện giờ rất là thương yêu các con. Thầy sẽ đọc lại đoạn kinh kế tiếp, trong cái đoạn kinh này. Đây là cái cơn đau thứ nhất và kế tiếp trên bước đường mà đức Phật đi đến chỗ nhập Niết Bàn. Một nỗi đau thương khi mất Phật. Trong thời điểm đó người ta mất Phật như người ta mất một cái gì. Cũng như thời điểm này, mấy con mất Thầy là mấy con mất một cái gì rất quý của mấy con. Đạo đức Thầy viết chưa xong. Nền đạo đức chưa dựng được lại, ai thay thế Thầy làm việc này? Những đức hạnh của Tu sĩ của Tăng Ni, ai làm được cái điều này? Chắc chắn chưa ai làm được. Và kế đó, giáo trình tu học cho tám cái lớp của đức Phật ai làm cái công việc này, nếu mà trong thời điểm này, Thầy ra đi? Thầy đi thì dễ dàng thôi, Thầy muốn đi hồi nào rất là dễ dàng theo ý Thầy mấy con. Nhưng nỗi đau thương của chúng sanh không bao giờ hết sự đau khổ.
Còn đức Phật ngày xưa, Ngài đã làm xong, Ngài đã làm xong cái nhiệm vụ của Ngài. Nghĩa là tất cả cư sĩ và Tăng Ni đều hiểu được chánh pháp của Phật trong lúc đó. Ngài biết rất rõ và Ngài rặn hỏi tất cả bốn chúng của Ngài đều là người nào cũng nhận thấy rõ ràng những điều này cả, cho nên Ngài ra đi, chứ không phải vì lí do mà Ngài hứa với Ma Vương Ngài đi. Mà chính đệ tử của Ngài là thông suốt những điều Ngài đã dạy.
Còn hiện giờ các con chưa thông suốt, đối với Thầy các con chưa. Còn có người còn bán tín, bán nghi. Chưa người nào có thể nói rằng quá tin tưởng ở Thầy. Cho nên những điều mấy con tu là mấy con tu được thì kết quả thì mấy con tin, mà không kết quả thì mấy con đa nghi. Nhưng mà không kết quả do mấy con tu sai chứ không phải là do Thầy sai pháp. Thầy dạy đúng chánh pháp của Phật, từng nghĩa lý, từng kinh nghiệm bản thân của Thầy đã trải trên những chữ nghĩa đó mà viết ra chứ không phải Thầy tưởng tượng mà viết ra.
(19:48) Nghĩa là một cái nghĩa của nó ở trong này là phải bằng máu và nước mắt của Thầy trên sự tu tập để làm chủ được thân mình mà nói lên, chứ không phải nói với một cái hiểu tưởng ra mà dạy. Các nhà Đại thừa, họ hiểu tưởng ra họ dạy làm chúng ta không biết đường đi. Còn ở đây, Thầy giải ra điều kiện cụ thể, rõ ràng. Thì các con thấy những điều kiện mà Thầy giảng như bây giờ đứng trong danh từ với trí óc của mấy con, mấy con đọc câu này mấy con hiểu nghĩa như thế nào? Như Chánh Niệm Tỉnh Giác: “Đức Thế Tôn giữ gìn tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác", mấy con biết đọc Chánh Niệm Tỉnh Giác mấy con cứ giải thích cái chữ nghĩa Chánh Niệm Tỉnh Giác, mấy con có biết pháp đó là pháp gì đâu? Rồi Chánh Niệm Tỉnh Giác ở đâu? Mấy con cũng chưa biết nếu mà Thầy không giải. Đó là một.
Bây giờ: "Lấy sức tinh tấn để nhiếp phục bệnh", các con biết pháp gì không nếu Thầy không giảng ra. Những cái danh từ đó, mấy con lấy gì mấy con hiểu nó là pháp gì không? Thầy nói rằng, lấy cái trí mà phàm phu của mấy con mà hiểu chỗ này mà không kinh nghiệm tu, không có tu xong thì mấy con không hiểu được mấy chữ này đâu. Không biết lấy pháp gì. Cho nên vậy mà các nhà học giả cứ lờ qua, giảng lờ qua chỗ này làm cho người ta không biết Phật pháp, lấy pháp gì mà làm chủ bệnh đây? Các con thấy rất rõ là cái sai của người không tu mà đi giảng thì như là nói láo gạt người ta chứ sự thật không làm được gì hết.
(21:11) Đây Thầy tiếp tục đọc đoạn kinh này cho mấy con thấy: "Này Ananda, chúng Tỳ kheo còn mong mỏi gì nữa ở nơi Ta! Này Ananda, ta đã giảng chánh pháp, không có phân biệt trong ngoài, mật giáo và không phải mật giáo. Vì này Ananda, đối với các Pháp, Như Lai không bao giờ là vị Đạo sư còn nắm trong tay." Với còn giữ những gì bí mật nữa các con - đức Phật đã dạy hết rồi. "Này Ananda, những ai nghĩ rằng: "Như Lai là vị cầm đầu chúng Tỳ kheo" hay “Chúng Tỳ kheo chịu sự giáo hóa của Như Lai." Thời này Ananda, người ấy sẽ có lời di giáo cho chúng Tỳ kheo. Này Ananda, Như Lai không nghĩ rằng: "Ta là vị cầm đầu chúng Tỳ kheo."
Các con thấy đức Phật, đức Phật nói Ta không phải là người cầm đầu lãnh chúng đâu, đức Phật từ chối cái vấn đề đó, mà đức Phật thật sự không phải cầm đầu. Trong đó có Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên và có một số người lãnh chúng chung chứ không phải có riêng đức Phật, phải hiểu như vậy. Nếu không có ông Xá Lợi Phất, không có ông Mục Kiền Liên, mà hỗ trợ cho cái giáo đoàn của Phật ngày xưa thì đức Phật không bao giờ làm cái công việc đó.
Còn ở đây, nếu mà không có cô Út trợ giúp Thầy chắc Thầy cũng làm không nổi đâu. Thầy có nói là công cô Út cũng không ít đâu.
(22:54) "Này Ananda, Như Lai không nghĩ rằng: "Ta là vị cầm đầu chúng Tỳ kheo hay "Chúng Tỳ kheo chịu sự giáo huấn của Ta." Thời này Ananda, làm sao Như Lai lại có lời di giáo cho chúng Tỳ kheo? Này Ananda, ta nay đã già, đã thành bậc trưởng thượng, đã đến tuổi lâm chung, đã đến tám mươi tuổi. Này Ananda, như cỗ xe đã già mòn, sở dĩ còn chạy được là nhờ dây thắng chằng chịt, cũng vậy thân Như Lai được duy trì sự sống giống như chính nhờ chống đỡ dây chằng. Này Ananda, chỉ trong khi Như Lai không tác ý đến tất cả tướng, với sự diệt trừ một số cảm thọ, chứng và an trú Vô Tướng Tâm Định, chính khi ấy thân Như Lai được thoải mái."
Nghĩa là như thế này, bây giờ thân của Như Lai đã già, sắp cằn cỗi, sắp chết rồi, không có có còn sống dai được nữa. Nhưng mà Như Lai không tác ý đến tất cả các tướng và với sự diệt tất cả các cảm thọ. Nếu mà hằng ngày đối với bản thân Thầy, Thầy mà không dùng pháp Như Lý Tác Ý để mà diệt các tướng nó đang hoại diệt trong thân của Thầy, thì Thầy cũng không sống nữa. Bởi vì Thầy làm việc quá nhiều, quá sức làm việc của Thầy. Cho nên đối với Phật ngày xưa thì đức Phật chỉ cần không tác ý, thì ngay đó đức Phật đã nhập diệt liền tức khắc, cái thân nó cằn cỗi như vậy.
Cho nên, đức Phật nói Như Lai không tác ý đến tất cả tướng với sự việc trừ mọi cảm thọ, chứng và an trú Vô Tướng Tâm Định. Khi ấy thân Như Lai được thoải mái. Nhờ phá đi tất cả những cảm thọ, nhờ an trú được Vô Tướng Tâm Định tức là Bất Động Tâm đó, thì Như Lai mới thoải mái, còn nếu không thì nó đau nhức chỗ này, đau nhức chỗ kia.
Các con bây giờ có nhiều người tuổi già, mấy con thấy cái thân con nó hành, nó không chết mà nó đau chỗ này, nó đau chỗ kia, nó nhức chỗ nọ, lát thì nó mệt, lát thì nó khỏe, nó đủ thứ. Cái người già thì bao giờ cái thân già nó như vậy, nó khổ sở vô cùng.
Nếu không nhờ cái pháp đó thì cái thân già đó không bao giờ an ổn được nó rất là khó. Bởi vì trong đoạn này đức Phật nói như thế này, cái đoạn này, đầu đoạn này, chúng ta thấy đức Phật, có nghĩa là đức Phật nói: "Ta đã dạy hết tất cả các pháp rồi không còn cái gì nữa". Nghĩa là hiện bây giờ coi như cái thân già này, Ta không còn mà lãnh chúng nữa được, không còn làm cái việc lợi ích cho chúng được nữa. Vì vậy mà bây giờ chỉ còn cái tác ý này mà thôi, nếu mà Ta không tác ý thì coi như Ta xả bỏ thân của Ta. Đó là cái chỗ mà đức Phật đã nói, cái quan trọng đức Phật sắp ra đi rồi, cái thân nó cằn cỗi rồi, chỉ nhờ sống được là nhờ pháp Như Lý Tác Ý mấy con. Nhờ cái pháp Như Lý Tác Ý này mà đức Phật ở trong tâm cái bất động của mình, thanh thản, an lạc, vô sự. Chỗ Bất Động Tâm này mà kéo dài cái tuổi thọ mình ra. Đó là cái chỗ mà Thầy muốn đọc đoạn kinh này để cho chúng ta thấy rằng, cái trách nhiệm của đức Phật đã xong với chúng Tỳ kheo đó rồi, không còn nữa.
(26:32) Cho nên cái đoạn kế tiếp để mấy con thấy đức Phật nhắc nhở như thế nào. Trước đó là nói trách nhiệm, cái đoạn kinh đầu thì nói mình đã giảng xong hết tất cả các pháp không có gì mà đức Phật bỏ sót hết, không có gì mà Ta còn nắm giữ pháp trong tay nữa, ta đã dạy hết rồi. Kế đó là nói đến cái thân già của mình, chỉ còn là sống nhờ pháp Như Lý Tác Ý mấy con. Mấy con hiểu chỗ Thầy nói.
Như vậy là pháp Như Lý Tác Ý của chúng ta rất là quan trọng chứ không phải là thường đây mấy con. Chính đức Phật nhờ cái đó mà duy trì cái tuổi thọ của đức Phật mà lúc khoảng thời gian bảy mươi mấy, tám mươi tuổi đức Phật sắp chết, thì Phật đều là nhờ hoàn toàn pháp Như Lý Tác Ý để giữ tâm bất động của mình. Đến cuối cùng là đức Phật kêu gọi, các con, bây giờ cuối cùng các con hãy tu tập cái pháp gì?
Vậy nên: "Này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình". Đây các con nghe, đừng có nương tựa vào ai hết. "Hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác. Này Ananda, thế nào là vị Tỳ kheo hãy tự mình làm ngọn đèn cho chính mình". Đây mới nói ra cái pháp đây các con. "Hãy tự mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác."
Ở đây là nhắc đi, nhắc lại chỗ này rất nhiều, để chúng ta được cái chánh pháp để mà chúng ta tu tập. Nếu mà chúng ta không biết chánh pháp thì khi đức Phật mất và khi chúng ta bị bệnh đau thì chúng ta không biết cách mà chúng ta nhiếp phục những cái bệnh đau đó. Cho nên đức Phật xác định tới cái đoạn kế để chúng ta thấy. Đoạn kinh vừa rồi Thầy đọc đó là nhắc nhở: "Chỉ có mình cứu mình mà thôi chứ không ai cứu mình được hết". Đừng có cầu khẩn ai, đừng có van xin ai, đừng nhờ tựa vào ai hết mà chỉ có mình mà thôi. Tin vào mình, tin vào pháp, đó là cái đoạn kinh vừa rồi mà Thầy nhắc. Tin nơi mình, tin nơi pháp thì mình sẽ cứu lấy mình.
(28:43) "Này Ananda, ở đời, vị Tỳ kheo, đối với thân quán thân, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ưu, ưu bi trên đời. Đối với các cảm thọ, đối với tâm, đối với các pháp, quán pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ưu, ưu bi trên đời." Đây là một đoạn kinh mà đức Phật thường nhắc nhở chúng ta, đó là đoạn kinh gì mấy con biết không? Tứ Niệm Xứ mấy con! Thân, thọ, tâm, pháp mà khắc phục tham ái, ưu bi ở trên cuộc đời của chúng ta. Đó là cái pháp mà chúng ta làm cái ngọn đèn, lấy pháp mà làm cái ngọn đèn, dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chứ nương tựa một vật gì khác.
Cái đoạn trên bảo chúng ta phải dùng chánh pháp, đoạn dưới để nói lên chánh pháp. Vậy chánh pháp đó là gì mấy con biết không? Đó là Tứ Niệm Xứ! Tứ Niệm Xứ đâu có gì khó đâu. Chỉ là phương pháp quét tâm thôi chứ đâu có gì khó. Tâm thanh thản, an lạc, vô sự, ngồi đây thanh thản, an lạc, vô sự có nương tựa vào pháp nào không? Nhưng mà có chướng ngại nào trên thân, thọ, tâm, pháp đó thì mau mau chúng ta dùng các pháp đẩy lui ra khỏi tức khắc, có đúng không mấy con? Nó là cái pháp, là ngọn đèn để mà chúng ta soi đường chúng ta đi. Đây có hoàn toàn Thầy dạy mấy con có ngoài pháp Tứ Niệm Xứ bao giờ đâu.
"Này Ananda, như vậy vị Tỳ kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác". Thì các con thấy, đây là cái lời mà đức Phật xác định mình lấy mình và lấy chánh pháp, mà chánh pháp của đức Phật có nhắc cái bài nào có khác hơn là Tứ Niệm Xứ không? Ở đây những cái lời di chúc, đây là những lời di chúc cuối cùng của đức Phật để cuối cùng đức Phật nhập Niết Bàn. Đức Phật sẽ sắp sửa nhập Niết Bàn. Cho nên vì vậy mà nhắc đi nhắc lại những điều này, tức là nên lấy Tứ Niệm Xứ mà tu tập cho chính mình và pháp Như Lý Tác Ý và tất cả những điều mà Thầy giảng ra.
(30:57) Bởi vì đầu tiên thì các con vào tu, Thầy dạy cho các con tu bốn cái loại định: Định Vô Lậu, Định Thư Giãn, Định Sáng Suốt, Định Niệm Hơi Thở. Do bốn cái Định này mấy con mới ở trên Tứ Niệm Xứ, mới khắc phục được tham ưu nó mới nổi. Còn nếu không có bốn cái Định này thì mấy con lấy gì mấy con khắc phục ở trên Tứ Niệm Xứ? Thầy dạy các con có căn bản không? Rất là căn bản! Nhưng cái tu tập được hay không được là do chỗ các con tu tập chứ không phải chỗ Thầy.
Bây giờ mới là chỗ của các con, các con có tin hay không? Mà bây giờ các con không tin là các con đi nói chuyện, phá giới luật, các con làm tùm lum, tà la, thì như vậy các con còn tu được nữa không? Các con thấy cái lỗi của các con hay là cái lỗi của Thầy? Thầy dạy các con cặn kẽ không còn một chỗ nào Thầy giấu giếm, không còn một chỗ nào mà Thầy còn nắm giữ trong tay của Thầy hết, Thầy không có giữ bí mật chỗ nào hết. Chỉ bây giờ là quyền của các con. Tu được hay là không được là do các con mà thôi.
Nghĩa là Thầy nói rằng mấy con bỏ hết cả gia đình, cả xứ sở quê hương mấy con đến đây, chỉ có đi xin ăn có 1 bữa thôi. Vậy mà, mấy con còn nói chuyện, mấy con còn vui vẻ, mấy con còn thích đời, vậy thì mấy con làm sao mà tu được? Cho nên ngày xưa, một người đến xin Phật, Phật chấp nhận nhưng ở đây bốn tháng biệt trú được thì ở tu, mà không được thì thôi. Thì các con cũng vậy, khi mình thấy mình ở đây, mà mình thấy mình tu không được: "Ờ, mình thích nói chuyện, mình thấy vui, mình ham vui thì mình thấy tâm mình, mình biết mình không thể mình tu được thì mình xin về." Thầy có rầy, Thầy có bắt buộc đâu. Thầy có ép buộc phải tu như thế này, thế khác, phải ráng cố gắng này kia đâu. Thầy không. Thấy mình tu không được, mình sống không nổi những cái giới luật, cái phạm hạnh ở đây thì mình xin Thầy đi về thôi. Thấy chừng nào mà con có thể con tu được thì con trở lại con giữ gìn đúng giới. Chứ bây giờ con sống vậy con buồn khổ quá, con cô đơn quá, con không có thắng mình được, con phải đi nói chuyện này, chuyện kia thì thôi xin cho con về quê con sống chừng nào con thấy được con trở về con tu tập. Thì như vậy lợi ích cho mình mà lợi ích cho người khác. Tại sao vậy?
(32:53) Tại vì mình nói chuyện thì mình làm động người khác, cho người ta tu không được. Và đồng thời người khác, người ta ngồi tu mà người ta thấy hai người nói chuyện: "Trời ơi! Thầy đã cấm không cho nói chuyện mà bây giờ nói chuyện như vậy thì cái Tu viện này ra sao?" Thì cái người mà đang nỗ lực tu, họ cũng bị động nữa, họ không nói chuyện đó họ vẫn bị động. Bởi vì cái giới hạnh nó ràng ràng rồi, mà bây giờ mấy con làm như vậy làm động chúng hết rồi, là cái lỗi của mấy con rất lớn. Thà là mình thấy tu không được, thôi mình về, chứ đừng có làm khổ sở cho người khác.
Và chính Thầy đang khắc khoải mong chờ từng giây, từng phút được một người tu chứng quả A La Hán mấy con. Làm chủ được như Thầy mấy con, để tiếng nói rằng Phật pháp sống lại. Còn một mình Thầy thì người ta nói chỉ có Thầy thôi chứ không có ai làm được hết. Bởi vì cái niềm tin mọi người, người ta đang nhìn vào mình mà Thầy thì đang ước mong. Bởi vì đây là một pháp thực mà! Đang ước mong có một người đệ tử của mình tu chứng.
Nhưng mà mấy con làm sai một chút là nó quậy hết, thời gian kéo dài ra biết bao nhiêu thời gian không? Bởi vì tâm người ta còn yếu đuối, khi mà thấy người khác nói chuyện, người khác là tâm họ bị phóng dật rồi. Họ nói sao mà người đó không giữ được như vậy. Họ chỉ nói thầm trong lòng họ thôi thì họ cũng đã bị phóng dật. Mình thương mình thì phải thương người. Đến đây là đến chỗ tu chứ không phải đến đây là đến chỗ mà đi nghỉ mát, đi dưỡng lão, đi dưỡng bệnh đâu. Cho nên nó khác xa lắm mấy con.
(34:20) Vì vậy mà Thầy kêu gọi, Thầy gào thét hết mình nhưng cuối cùng không được. Mà đến nỗi, cái Tu viện tan nát, ngăn từng rào, từng vách, từng lá như vậy. Khi một người khác người ta nhìn vào, người ta hỏi tại sao Tu viện ngăn rào như vậy? Nói tại quý thầy ở đây nói chuyện quá, phải ngăn như vậy. Trời ơi! Còn giá trị gì đạo đức của chúng ta nữa mấy con? Cái đạo đức gì ở đây nữa mấy con? Nhìn Tu viện như thế này, chúng ta xấu hổ lắm mấy con. Cô Út mà làm như thế này chúng ta xấu hổ lắm. Một cái Tu viện như thành phố mà kéo rào dạo như vậy là thành cái thành phố đang bị chiến tranh đó, nghĩa là giới nghiêm 24/24 đó. Ở đây cũng giới nghiêm 24/24 đó mấy con, xấu hổ lắm đó mấy con.
Một người tu như chúng ta theo Phật giáo mà bị rào dạo như vậy chúng ta xấu hổ lắm, chúng ta bị nhốt trong tù đó mấy con. Thầy nhục nhã lắm mấy con. Cho nên Thầy nói thật sự, cái Tu viện Chơn Như như thế này là không xứng đáng chút nào. Không phải chỗ Thầy dạy Đạo. Mà nếu Thầy bỏ Thầy đi, thì ở đây sẽ tan nát hết. Thầy nói rằng Thầy bỏ Thầy đi ở đây, ngày hôm nay Thầy bỏ Thầy đi, Thầy không trở về đây nữa, thì trong 5 ngày, 10 ngày là ở đây đi hết, không còn một người nào. Thầy báo cho mấy con biết rằng Thầy là nòng cốt, Thầy là trụ cột của một sự hướng dẫn tu tập. Thầy là gương hạnh cho mọi người, mà gương hạnh rời khỏi cái nơi đây rồi thì nơi đây kể như hoang tàn, không còn một bóng người. Thầy bảo đảm với mấy con điều đó. Mọi người, người ta về đây là vì Thầy chứ không phải vì ai hết đâu. Không phải vì cái Tu viện này đâu mà vì Thầy, Thầy bảo đảm với mấy con, điều đó là điều chắc chắn.
(36:18) Cho nên những điều mà Thầy nói hôm nay là những điều nói hết những cái tình lý để mấy con hiểu khi tu tập là chúng ta biết mình tu được hay là không được. Biết mình sống giới luật được hay là không được. Làm sao chúng ta cũng phải giống như Phật ngày xưa. Khi đến đây Thầy sẵn sàng, Thầy chấp nhận cho mấy con. Cho nên có lúc, có một vài thầy đến đây, Thầy từ chối vì Thầy nói rằng Thầy đi ẩn bóng Thầy không có ở đây nữa, là vì cái trường hợp quá đau. Mà đưa một người khác vào đây để ở trong hoàn cảnh này họ làm sao tu được mấy con. Nhưng mà vì sự tha thiết, sự quyết tâm, Thầy không nỡ cho nên Thầy nhận. Nhưng Thầy quyết định là Thầy sẽ giải quyết mọi mặt để Tu viện càng ngày càng sáng tỏ hơn.
Các con có những lỗi lầm thì các con cố gắng sửa và đồng thời những lỗi lầm đó không phải là Thầy cố chấp, Thầy giữ mà Thầy rất thương yêu khi một người biết lỗi lầm, biết sửa. Điều đó là một cái điều Thầy rất mừng. Bởi vì Thánh nhân từ con người mà trở thành Thánh, có phạm lỗi mà có biết sửa. Còn con người mà không biết sửa thì làm sao, không những làm người mà còn làm loài động vật. Mình không biết sửa lỗi là mình trở thành động vật. Lùi trở lại mà làm loài động vật chứ không còn con người nữa. Từ con người là một loài động vật như các loài động vật khác, chúng ta hơn loài động vật là vì chúng ta có trí suy nghĩ, có sự phát triển của trí tuệ, hiểu biết đúng sai, thiện ác, nhân quả. Chúng ta biết sửa mình lần lượt chúng ta sẽ trở thành những người có đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Không giết hại lẫn nhau đó là con đường của đạo Phật đã vạch sẵn cho chúng ta biết để xây dựng con người, để thoát kiếp loài động vật, để trở thành con người thật sự con người và sống đúng đời sống Thánh hạnh chứ không còn là con người tầm thường. Đó là đường lối giáo dục đào tạo của đạo Phật bằng tám lớp học và ba cấp của nó hẳn hoi, rõ ràng.
(38:11) Đó là con đường giáo dục của đạo Phật để xây dựng con người trở thành con người tốt trên hành tinh này, không thể là con người đang sống như thế này, là đem lại sự đau khổ cho người. Đạo Phật không phải là tôn giáo, mà đạo Phật là đạo đức của con người, đem lại sự sống an vui cho con người trên hành tinh này chứ không phải xây dựng cõi Cực Lạc, Thiên Đàng hay hoặc là một trạng thái Phật tánh nào, không phải. Điều đó là điều nhận sai của những người không tu chứng, rồi kiến giải, rồi luận thế này thế khác, để chứng minh cho những sự thật đó, đó là cái sai. Con người chỉ có Bốn Chân Lý: Khổ, Tập, Diệt, Đạo, chân lý này ngàn đời không bao giờ có sự thay đổi được.
Hôm nay là sự xác định và quyết định như vậy để chúng ta thấy rằng con đường tu theo đạo Phật. Ở đây, Thầy muốn đem bài kinh này xác định cho chúng ta thấy cái pháp nào là chơn chánh để mà chúng ta tu tập, đó là Tứ Niệm Xứ! Thầy xác định cho các con, Thầy dẫn dắt các con đi từ Tứ Chánh Cần cho đến Tứ Thánh Định thực hiện Tam Minh vẫn không lìa khỏi Tứ Niệm Xứ. Bởi vì Tứ Niệm Xứ là thân, thọ, tâm, pháp của các con. Bốn chỗ này là bốn nơi mà các con phải thực hiện trên đó. Bây giờ các con có Tam Minh các con ở trên đó mà thực hiện, chứ không phải các con rời khỏi chỗ này mà thực hiện Tam Minh được. Đó là một cái điều quyết định và xác định chắc chắn trong đạo Phật mà đức Phật đã xác định Chánh Niệm - trong Bát Chánh Đạo là đạo đế - Đức Phật đã xác định Chánh Niệm, thì Chánh Niệm đó là Tứ Niệm Xứ chứ không phải pháp gì khác.
Cho nên nói Chánh Niệm tức là trên Tứ Niệm Xứ mà tu cái Chánh Niệm của nó, chứ không phải là Chánh Niệm là tu những pháp này, pháp kia, niệm Phật hoặc là tụng kinh niệm chú là Chánh Niệm đâu. Không phải! Tất cả thứ này không phải Chánh Niệm. Chánh niệm chỉ có Tứ Niệm Xứ mới là Chánh Niệm mà thôi.
(40:12) Thầy hôm nay đứng trên góc độ của đạo Phật, Thầy xác định cho các con rõ. Cho nên đức Phật di chúc, cái lời di chúc của đức Phật: "Hãy lấy mình làm chỗ nương tựa, hãy lấy mình làm ngọn đèn, mà lấy chính Tứ Niệm Xứ làm ngọn đèn, làm chỗ nương tựa vững chắc để tu tập". Đây là lời di chúc của đức Phật cuối cùng. Sau lời di chúc cuối cùng này, đức Phật không nhắc chúng ta phải kiến tánh thành Phật? Sao đức Phật không nhắc chúng ta phải lấy Tứ Thiền? Sao đức Phật không nhắc chúng ta phải lấy Tam Minh hay là Tứ Như Ý Túc mà lại nhắc chúng ta lại Tứ Niệm Xứ. Thì các con biết cái pháp nào là quan trọng. Sao không nhắc mấy cái đó để mà làm ngọn đuốc, làm nơi nương tựa của mình? Mà tại sao lại nhắc Tứ Niệm Xứ làm ngọn đèn sáng để soi đường mình đi, làm chỗ nương tựa vững chắc cho mình? Thì các con biết đây là lời cuối cùng của đức Phật mà. Cho nên lời cuối cùng là một lời di chúc thật sự thương các con, thương tất cả chúng sanh, để lại cái lời này để chúng ta biết được cái pháp mà chúng ta tu tập. Cho nên chúng ta làm sao mà chúng ta tu sai được cái lời này.
(41:21) Đây, bây giờ Thầy tiếp cho mấy con thấy cái đoạn này: "Này Ananda, những ai đã tu Bốn Thần Túc (tức là Tứ Như Ý Túc) *tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo, thời nếu muốn, người ấy có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại. Này Ananda, nay Như Lai đã tu Bốn Thần Túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo. Này Ananda, nếu muốn, Như Lai có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại"*.
Các con thấy khi mà cái người mà Thầy đã nói rằng là đã có bảy năng lực của giác chi và có Tứ Như Ý Túc tức là Tứ Thần Túc - 4 Như Ý Túc đó tức là Dục Như Ý Túc, Định Như Ý Túc, Tuệ Như Ý Túc, Tinh Tấn Như Ý Túc, 4 cái Thần Túc này thì cái người này, họ có thể kéo dài cái tuổi thọ. Thì các con thấy, ngay cái bài đầu trên kia đức Phật chỉ cho chúng ta cái pháp để chúng ta đối trị bệnh. Còn cái người mà đã có 4 cái Thần Túc rồi, điêu luyện trên Thần Túc đó, lão luyện trên Thần Túc đó thì người ta sử dụng Thần Túc đó người ta kéo dài tuổi thọ, người ta không có cần phải dùng những cái pháp đó đâu mấy con.
Mà tại sao đức Phật khi mà đau gần chết, đức Phật lại dùng cái pháp này để chỉ cho chúng ta cái đường lối đi. Chứ tại sao đức Phật có mà đức Phật không dùng Tứ Như Ý Túc, hét nó một tiếng để cho nó đi liền? Tại sao đức Phật không dùng như vậy? Là đức Phật muốn xác định cái bài đoạn kinh đó, là xác định để chúng ta biết rằng bệnh phải dùng như vậy để mà trị đó. Đức Phật dạy chúng ta rất cặn kẽ. Cho nên đọc đoạn kinh này, chúng ta thấy Tứ Như Ý Túc của Phật rất tuyệt vời. Người mà tu đến đó là đạo lực đã đầy đủ rồi. Cho nên người ta có Tam Minh, có Thần Túc đầy đủ. Người ta không còn lo lắng nữa, muốn sống sống, muốn chết chết. Chúng ta tu tập chúng ta cũng phải đi tận cùng như vậy, chứ không phải giữa đường đâu mấy con.
(43:35) Hiện giờ, không có nghĩa là mấy con tác ý mấy con đuổi bệnh được mấy con nói là: "Tôi đi tới đây là tôi mãn nguyện tôi rồi". Chưa đâu mấy con! Con đường mấy con đi tới nữa chứ chưa phải tới đây đâu. Cho nên con đường còn đi tới, nó còn đòi hỏi chúng ta nhiều chông gai, nhiều khó khăn, đâu phải dễ!
Chẳng hạn bây giờ Thầy nói, bây giờ các con giữ được tâm mình thanh thản, an lạc, vô sự trong 1 giờ thì các con thấy nó không có gì hết. Nhưng mà 2 giờ, 3 giờ, 6 giờ đồng hồ thì mấy con, trạng thái thanh thản này còn đứng ở đây không? Hay hoặc là nó thay đổi cái gì hay hoặc có những cái gì khác xen vào đó các con biết không? Mà cỡ không có Thầy, ai gỡ cho mấy con ra chỗ này? Chứ đừng nói chi. Rồi bắt đầu bây giờ nó từ 10 giờ, 12 giờ đồng hồ thì mấy con sẽ thấy, nó sắp sửa nó đến cái mức của nó để cuối cùng để mà nó đạt được đạo lực của nó thì nó xảy ra biết bao nhiêu điều khó khăn cho mấy con chưa?
Nếu không có một người đi qua, không có người đã đi qua, trải qua kinh nghiệm mà đi trên con đoạn đường này thì lúc bấy giờ, tâm thanh thản của con nó hiện ra một cái tướng nào đó mấy con có biết cái gì không?
Bởi vì khi mà tâm thanh thản nó không phải là tâm phàm phu. Nó không có khởi vọng tưởng. Nó không khởi tham muốn cái này, cái nọ, cái kia đâu. Nó không bao giờ còn cái chuyện của phàm phu nữa, mà là những cái chuyện siêu hình, những cái chuyện mà con người bình thường không thể hiểu được. Và mấy con là con người đang ở trong cái dạng bình thường mà gặp những cái này mấy con biết cái đó đúng hay sai không? Dục không!
Bây giờ cái hơi thở con nó thở ào ào vậy, các con biết làm sao mà thắng đây, khi ở trong trạng thái vậy mà nó làm như vậy. Hoặc là bây giờ nó co rút cái thân con lại thì con biết làm sao đây không? Bây giờ đang ngồi sừng sững như vậy mà nó bắt cái gân nó ở trong thân con nó rút lại, nó rút nó co lại như thế này. Ở trong cái trạng thái thanh thản đó, Thầy đặt thành vấn đề, nó rút co như thế này lại, đầu con cúi sát đất, lúc bấy giờ các con biết…
(45:15) Các con làm vậy được sao? Các con hiểu điều đó? Cho nên vì vậy, khi mà tu hành, phải quyết định, phải có một hướng tới, chứ không có hướng lui, đi không ngó trở lại. Một là chết, hai là chứng đạo.
Nhưng mà có Thầy mà làm sao các con chết được? Thầy nói, trước cái cơn bệnh mà có thể sắp chết, mà có Thầy thì mấy con cứ vượt qua cơn bệnh liền tức khắc, chỉ cần Thầy nhắc: "Chết bỏ! Phải sừng sững thân ngồi lên!” Thì ngay đó mấy con đủ cái nghị lực, đủ tinh thần. Chỉ một lời nói Thầy đơn giản thôi, mà có Thầy mấy con sừng sững mấy con chiến đấu với nó. Còn nếu không có Thầy, ai nói lời nói này mấy con, thì chỉ còn có nước mấy con đầu hàng giặc mà thôi.
(46:03) Đó, thì hôm nay các con biết rằng Thầy muốn nhắc nhở, nếu các con đến đây mà các con thấy mình sống độc cư, trầm lặng được thì các con sẽ xin phép Thầy cho các con ở đây tu tập. Còn các con thấy sống không được thì các con xin về, Thầy vui vẻ cho các con về. Thầy chỉ cần ở đây một người chứng đạo chứ Thầy không cần nhiều. Và khi chứng đạo rồi sau này những giáo trình mà tu học cho tám lớp của đạo Phật và ba cấp của đạo Phật, chừng đó mở cửa và chuyên tu tất cả những cư sĩ, tu sĩ đều có thể đi vào cái lớp của Phật giáo học từ lớp Chánh Kiến học một năm, sau một năm thì lên lớp Chánh Tư Duy, rồi một năm sau nữa lên lớp Chánh Ngữ, lần lượt tám cái lớp này chúng ta đều tu học. Mỗi lớp đều dạy chúng ta từ hành động đạo đức hẳn hoi.
Chánh Kiến tức là dạy ý thức của chúng ta nhìn thấy hiểu biết mọi cái ở trong Chánh Kiến. Nó có những bài vở để mà chúng ta học, chúng ta tập luyện.
Đến lớp Chánh Tư Duy làm chúng ta có sự suy nghĩ đúng, suy nghĩ sai. Dạy cho chúng ta có những bài vở để mà chúng ta suy nghĩ đúng.
Đến lớp Chánh Ngữ dạy chúng ta từ ngôn ngữ, từ lời nói, từ cách thức xưng hô cho đến cách thức nói ra lời nói không làm khổ mình, không làm khổ người. Người ta dạy tất cả những ngôn ngữ đó, cái lời nói đó để huấn luyện cho chúng ta tập luyện. Chúng ta nói sai một cái lời nói, nói một cái lời nói thô ác là chúng ta bị phạt liền tức khắc. Đó là những cái lớp dạy các con. Cho nên khi mà các con đã thấm nhuần được một năm mà trong lớp dạy học về Chánh Ngữ, các con ra không bao giờ nói một lời nói thô lỗ, không bao giờ nói một lời nói lỗ mãng, làm cho người ta bận tâm mình. Các con không bao giờ nói một lời nói sẽ làm quá đau khổ người ta. Người ta sẽ huấn luyện cho các con từng cái ngôn ngữ, từng những cái hành động các con sống để mà hoàn toàn đạo đức không làm khổ mình, khổ người.
Đó, thì hôm nay trong cái vấn đề về tương lai thì như vậy. Nhưng mà vì hiện giờ mà muốn đào tạo cho có những người chứng quả A La Hán để đứng trong các lớp đó mà dạy. Thì Thầy chỉ mong mấy con quyết tâm tu để giải thoát thì mấy con là những người có thể sau này đứng trên các lớp đó dạy. Các con tu tập không phải lợi ích riêng cho các con đâu mà còn lợi ích cho bao nhiêu người khác. Người ta đang chờ đợi mấy con. Con cháu chúng ta đang chờ đợi. Cả cái thế gian này chứ không phải chỉ có riêng có dân tộc Việt Nam.
Bởi vì Phật giáo không phải là Phật giáo của riêng một nước nào hết. Phật giáo là cả con người chứ không phải của một nước nào. Người nào cũng có thể vào con đường Phật tu học được hết. Bởi vì nó huấn luyện đạo đức sống không làm khổ mình, khổ người. Chứ nó không có dạy một cái gì cầu khẩn, cái gì khác có một ông Thần khác, một bà Chúa khác, mà lạy lễ khác. Không có, không bao giờ có! Mà chính hành động đạo đức của chúng ta. Cho nên nó không, đối với các tôn giáo nó không có cái tôn giáo nào mà chướng ngại với nó hết. Ở đây thờ Chúa, kia thờ Phật thì có chướng ngại. Người ta thờ Phật còn kia thờ Chúa thì nó khác, cho nên nó có chống nhau. Còn ở đây không có thờ ai hết. Hoàn toàn là chúng ta sống đạo đức sống không làm khổ mình, khổ người.
Cho nên nó không bị chống ở trong cái hệ tôn giáo và nó không bị nằm trong đảng phái nữa. Hễ có đảng, có phái thì có phe, có nhóm. Còn có tôn giáo thì phải có thế lực này, thế lực kia. Cho nên nó manh mún làm cho con người đau khổ thêm. Còn ở đây đạo đức không làm con người đau khổ, không có phe phái, không có nhóm, không có tôn giáo gì hết. Ở đây hoàn toàn.
Bởi vậy Thầy nghĩ rằng cuộc đời này chỉ có cái đạo đức mới đem lại cho con người hạnh phúc mà thôi, không có chia con người ra nhóm này, nhóm kia, tôn giáo này, tôn giáo kia để chia rẽ nhau mà chống nhau. Làm cho con người khổ, làm cho con người phải chết trong những tư tưởng đó, cái hệ tư tưởng đó."Ờ, tôi theo tôn giáo này thì tôi không ưa tôn giáo kia đâu, mà tôi theo cái phe này thì tôi không ưa phe kia đâu." Cái tinh thần nó như vậy, con người mà.
(49:44) Cho nên vì vậy mà chỉ có đạo đức, không có phe nhóm nào hết. Đó là cái mục đích, hôm nay mà Thầy nói để cho khi các con biết nhận, mình biết cái nhiệm vụ và trọng trách của chính mình.
Thứ nhất là cứu mình khỏi bốn sự đau khổ: sanh, già, bệnh, chết.
Thứ hai là lợi ích cho người sau. Chứ không phải mấy con tu để mà lợi ích cho mấy con.
Trừ ra những người già yếu, người ta tu được là người ta không còn sức khỏe để mà giúp cho những người sau. Nhưng cái hành động tu của người ta đạt được vẫn là tiếng nói của người ta tốt, làm cho người sau, người ta tin tưởng. Cho nên có nghĩa là, những người già không trực tiếp bằng sức lực của người ta ra giảng dạy hoặc là giúp đỡ nhưng cái sự tu tập của người ta đạt được vẫn là tiếng nói tốt cho nền đạo đức này, chứ đâu phải không. Cũng có lợi ích.
Chứ đâu phải mấy con nói rằng: "Tôi tu, tôi lợi ích cho tôi rồi, tôi nhập diệt tôi bỏ tôi đi". Không! Chỉ cần mấy con tu xong là mấy con đã làm cái lợi ích rất lớn, thắp lên ngọn đèn sáng cho mọi người khác. Người già như vậy, người ta vẫn làm được như vậy mà. Đó là sách tấn cái tinh thần người ta nỗ lực người ta tu.
(50:53) Cho nên bữa nay Thầy nhắc nhở cho mấy con biết. Bây giờ chúng ta, nó không có đông người nhưng một ngày nào đó nó sẽ càng đông, mà càng đông thì phức tạp càng nhiều. Và thì nói chuyện này nó càng động.
Một ngày kia đức Phật, các con biết 1250 vị, 1250 vị tập trung trong một khu rừng như thế này mà nếu không giới luật thì không làm sao mà không ồn náo. Cho nên vua A Xà Thế khi đến khu vực của đức Phật, sao một ngàn, bao nhiêu tu sĩ như vậy mà im phăng phắc, từ cái lá rơi xuống nghe tiếng động của cái lá rơi. Tại sao mà im như vậy được? Ông không tin rằng có thể có một sự im lặng như vậy được. Thế mà trong thời đức Phật im lặng, bởi vì đức Phật: "Anh có chấp nhận được giới luật bốn tháng biệt trú thì anh ở tu. Mà anh không chấp nhận được thì anh về, tôi không ép, tôi không cấm anh, tôi không bắt buộc anh vào đây. Mà anh vào đây mà anh làm sai thì không được."
Thì từ đây về sau các con nhớ rằng, ở Tu viện Chơn Như này cũng áp dụng đúng thời đức Phật để đào tạo những con người tu chứng quả A La Hán, chứ không thể nào mà cái lòng vị tha của mình để cho người ta từ từ người ta tập thì không thể được!
Thầy thấy từ mười mấy năm nay rồi, bao nhiêu người đến đây, vì cái tật mà nói chuyện thì vẫn muôn đời nói chuyện không có người nào mà giữ trọn vẹn. Đó thì mấy con thấy, trong cái này, từ đó mười mấy năm nay, đâu phải là ít. Cái thời gian mà đạo Phật xác định cho chúng ta biết có bao nhiêu năm xong mấy con biết không? 7 ngày, 7 tháng, 7 năm. Cái thời gian mà chúng ta tu 7 năm phải chứng đạo. Thế mà chúng ta tu tới bây giờ là mười mấy năm rồi mà chúng ta chứng đạo chỗ nào? Tại vì chúng ta như thế nào mà không chứng đạo? Nói chuyện!
Nói chuyện tức là phóng dật, mà phóng dật làm sao mà chứng đạo được. Chúng ta không phòng hộ cái ý thì đi nói chuyện, không phòng hộ được miệng thì phải nói chuyện chứ sao. Các con thấy, mà nói chuyện thì ý không phòng hộ, miệng không phòng hộ thì tất cả sáu căn này rất là nhạy, mắt thấy, tai nghe… Tất cả cái này làm sao mấy con tránh khỏi hết. Cho nên sáu căn của các con bị phóng dật hết toàn bộ. Như vậy, mấy con muốn 7 năm mà chứng đạo thì làm sao được. 7 năm sống độc cư không hề nói một lời nói. Thiền Đông Độ còn dạy, các Tổ còn dạy: "Cái miệng mà không để mốc meo, thì không bao giờ chứng đạo”. Đó là những lời khuyên mấy con thấy rất là rõ.
Muốn tu tập đạt thì phải giữ gìn cho đúng. Thầy cặm cụi để cho Thầy yên, mà Thầy, mấy con tu tốt bao nhiêu, mấy con giữ gìn giới luật bao nhiêu thì Thầy cặm cụi Thầy viết từng bộ sách giảng cho mấy con. Mỗi bộ sách Thầy đưa ra mấy con đọc đều thấy có những cái hay, cái lợi ích rất lớn cho mấy con. Mấy con cứ đọc cuốn sách nào Thầy viết ra rồi thì mấy con thấy nó thực tế và cụ thể, rõ ràng, lợi ích rất lớn. Không có bộ sách nào mà Thầy viết là không có lợi ích. Bộ sách nào Thầy viết ra thì mấy con đọc thấy rất hay, có nhiều cái thấm thía, thấm thía, nhắc nhở cuộc đời của mình ghê gớm lắm. Xây dựng cho mình có một nền đạo đức thật sự, đem lại lợi ích riêng cho chính bản thân mình rất lớn. Các con cứ đọc sách Thầy rồi sẽ thấy.
(54:13) Cho nên các con phải ráng cố gắng. Từ đây về sau, các con đừng nói chuyện và cố gắng. Nếu các con thấy mình không thể giữ được, thì các con xin Thầy cho các con về. Thầy vui lòng cho mấy con về, có vậy thôi.
Thì đến đây, Thầy sẽ chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay và đồng thời cũng đem lại những đoạn kinh để cho mấy con thấy tin tưởng rằng mấy con sẽ làm chủ được bệnh và làm chủ được những cái sự đau khổ của mấy con mà mấy con là một con người bình thường nhưng vẫn ôm pháp Phật vẫn làm chủ được những điều cần thiết. Đến đây Thầy xin chấm dứt.
(54:39) Thì mấy con có ý kiến gì nữa không? Còn những người Thầy tiếp tục, còn những người nói chuyện thì Thầy đề nghị cô Út là sắp xếp cho mấy con ở có nơi, có chỗ. Còn nội trú trong Tu viện là phải giữ gìn. Ngoại trú thì mấy con quyền nói chuyện với nhau, những người ngoại trú. Nghĩa là Tu viện bây giờ phân làm hai phần, phần nội trú và phần ngoại trú.
Phần nội trú là giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Phần ngoại trú là mấy con muốn nói chuyện gì thì mấy con ở ngoài. Mấy con có thể có quyền đến đây thưa hỏi pháp rồi mấy con trở về phòng của mấy con. Rồi chừng nào mấy con giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh được thì mấy con xin bây giờ con giữ được, con sẽ xin vào nội trú thì chừng đó Tu viện chấp nhận, thì chừng đó mấy con thấy mấy con được Thầy chấp nhận cho mấy con nội trú.
Chứ còn bây giờ, thì coi như những người mà giữ đúng những hạnh độc cư, những người này đang chấp nhận cho họ nội trú để cho họ thực hiện con đường tu tập của họ. Còn những người mà đã có những lỗi lầm thì cho ngoại trú. Thì sau khi mà thời gian mấy con cố gắng khắc phục được thì chừng đó Tu viện vẫn chấp nhận cho mấy con tu tập tốt, vẫn cho mấy con trở vào nội trú. Ở đây hoàn toàn là Thầy mong muốn mấy con trở thành Tu sĩ nội trú chứ không phải ngoại trú nữa.
Nghĩa là Thầy nói thật sự ra, cái người mà ngoại trú, một ngàn đời họ tu chẳng bao giờ làm chủ được hết. Nghĩa là bây giờ mấy con cứ xin mua đất xung quanh Tu viện này, mấy con cất nhà dài, mấy con cứ lập thất mấy con ở tu đi, mấy con chẳng bao giờ được gì hết. Bởi vì ở bên ngoài thì mấy con không bao giờ phòng hộ được mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý mấy con. Dòng họ, bạn bè này kia ít bữa, ít bữa tới lui thì mấy con tu vô ích thôi. Mấy con ở đây để có hình thức tu chứ sự thật ra… Trừ ra mấy con cấm dòng họ mấy con không được tới đây nữa, thì mấy con mới tu được.
Bởi vì đức Phật, các con thấy giới luật của đức Phật: “Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không gia đình, không nhà cửa.” Không gia đình, không nhà cửa mà ít bữa có gia đình, ít bữa có dòng họ đến thăm viếng hoài như vậy là tu hành cái gì? Lôi mình trở về với ái kiết sử chứ làm gì. Sống trong tình cảm của dòng họ còn cái gì mà tu tập nữa. Cho nên thật sự ra không đúng cách.
Cho nên, vì vậy ở Tu viện hôm nay đã phân rõ ràng, phân định rõ ràng và khi mà phân định rõ ràng thì tất cả các cái giàn rào này của cô Út mà giăng vậy là dẹp sạch xuống hết. Nội trú là nội trú, mà ngoại trú là ngoại trú. Để đào tạo thật sự người tu hẳn hoi, đàng hoàng. Chứ không thể nào mà, thà là Tu viện Chơn Như chỉ còn một người thôi, còn một người Thầy đào tạo một người, còn tốt hơn là nhiều người mà đào tạo không được, uổng công, uổng sức Thầy rất nhiều.
Các con nhớ! Cho nên ở đây Thầy, cái sự quyết định là quyết định như vậy. Và cái người tu sĩ mà ở đây Thầy đào tạo như vậy rồi thì họ sẽ trở thành Du Tăng Khất Sĩ. Bữa nay ở đây một tuần lễ, thì ngày mai họ sẽ ở chỗ khác. Có xe đưa họ tới chỗ nơi, đến đó họ vào thất họ tu tập như là ở đây luôn. Thầy thay đổi cái không khí và thay đổi cái vị trí, cho con người của họ nó không còn dính mắc tại một chỗ nào nữa hết. Để họ buông xả sạch. Họ tới đâu, họ cũng giữ giới luật đức hạnh họ nghiêm chỉnh. Họ làm gương sáng cho một cái vùng đó, họ thắp sáng ngọn đèn ở vùng đó. Đó là cái mục đích của Thầy, hôm nay Thầy nói để cho mấy con được biết. Đến đây thì chấm dứt, mấy con về nghỉ. (57:58)
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian: 13/01/2004
Thời lượng: [01:19:19]
https://thuvienchonnhu.net/audios/20040113-chuan-bi-pham-hanh-de-co-ngay-xuat-gia.mp3
(00:04) Trưởng lão: Khi mình an trú được ở trong cái hơi thở hoặc là trong cái bước đi của mình, tức là không có niệm khởi rồi, thì lúc bấy giờ đó mình lo mình xả cái tâm mình tham, sân, si. Mà có cái phương pháp là Như Lý Tác Ý.
Còn ở bên kia thì nó không có pháp Như Lý Tác Ý. Cho nên khi mà an trú được cái tâm rồi, thì nó không có cách nào khác hơn hết là nó ngồi im lặng, để nó hiện ra những cái trạng thái khác. Càng im lặng, thì nó sẽ từ cái trạng thái Tưởng này nó chuyển qua cái trạng thái Tưởng khác, nó hiện đủ 18 loại Tưởng của nó.
Cho nên khi mà Thầy trở về tu với phương pháp của Thiền Nguyên Thủy của Phật, tức là bốn thiền đó, thì Thầy không có bận phải tu lại cái sự an trú tâm mình.
Còn giờ mấy con ngồi năm, ba phút thì có vọng tưởng. Còn Thầy ngồi ba mươi phút, một giờ, hai giờ, ba giờ không vọng tưởng. Các con thấy nó khác xa của mấy con. Mà khi mà nhiếp tâm, an trú cho không vọng tưởng cũng là một điều khó, không phải dễ. Thầy nói, Thầy cũng là một cái người có căn duyên trong cái sự tu tập. Cũng là nhiều kiếp, chứ không phải trong một kiếp này.
Cho nên khi lên Chơn Không mà Hòa Thượng dạy cho pháp Tri vọng- ‘biết vọng liền buông’, thì Thầy ngồi mà Thầy giữ cái tâm của Thầy không vọng. Thầy ngồi tỉnh táo như thế này trong vòng ba mươi phút, không có một niệm khởi.
Cái sức của mấy con bây giờ mà tu như Thầy, không làm nổi đâu. Thầy nói thật sự, mấy con có thể là dùng cái hơi thở, dùng cái đối tượng, hay câu niệm Phật mấy con cố gắng, mấy con đem hết sức lực tập trung của mình, cao lắm là mười phút, mấy con cũng có nhiều niệm khởi à, còn Thầy thì không niệm.
Cho nên, Thầy thấy, thì mình cũng có căn duyên đã tu tập nhiều. Cho nên bây giờ mà ngồi ba mươi phút mà không niệm, thì đó là cái điều kiện tốt. Nhưng mà lại là không có cái phương pháp tu. Cho nên do đó, thay vì ba mươi phút, mà Thầy đã xả tâm thì nó quá dễ dàng rồi. Trái lại cái này không có xả tâm được, mà cứ giữ cho sự im lặng nó đi vào.
Càng im lặng, thì cái sự thay đổi ở trong cái trạng thái tâm của mình kéo dài, thì nó có cái hiện tượng xảy ra. Từ ba mươi phút đến một giờ, hai giờ, ba giờ, thì tất cả những cái loại tưởng nó hiện ra. Từ cái Sắc tưởng, từ cái Thinh tưởng, rồi từ cái Hương tưởng, … tất cả những cái này nó hiện ra. Rồi tất cả sáu cái thần thông tưởng nó hiện ra. Rồi những cái Thức tưởng nó hiện ra đầy đủ. Cho nên nó là mười tám loại hỷ tưởng nó hiện ra.
(02:45) Vì vậy mà xét lại mình thì không thấy hết tham, sân, si. Mà nó lại có những cái trạng thái nó đặc biệt.
Do đó cho nên Thầy mới chuyển qua cái pháp Nguyên thủy. Do cái pháp Nguyên thủy, thì Thầy rất sợ những trạng thái tưởng. Vì vậy mà luôn luôn cứ giữ gìn cái câu tác ý, chớ Thầy cũng không hiểu được.
Trước kia, thì Thầy đọc trong các kinh sách của Nguyên thủy, thì đức Phật nói quá cô đọng cho nên mình cũng không có biết. Nhưng vì mình chỉ thấy được đức Phật dạy cái pháp Như lý Tác Ý là: “Có như lý tác ý, thì lậu hoặc không sanh. Mà không tác ý như lý, thì lậu hoặc sẽ sanh”. Cho nên Thầy luôn luôn tác ý để cho cái tham, sân, si của mình cho hết thôi. Chớ không phải là có mục đích để tu tập cho mình vào Định. Vì vậy mà khi tu thiền định của Thiền Đông Độ, thấy nó bị tưởng nhiều, thì chuyển qua bên đây. Ngồi lại im lặng thì tưởng nó hiện ra, cho nên cứ thường xuyên tác ý.
Vì vậy hôm nay qua kinh nghiệm đó mà Thầy dạy các con tác ý, chứ không phải là gì khác hơn hết. Nghĩa là Thầy thường tác ý, bởi vì nghe trong Sơ Thiền, đức Phật có nói một cái câu: “Tâm ly dục, ly ác pháp, nhập Sơ Thiền”. Cho nên Thầy mới chỉ bắt chước cái câu đó thôi, chứ cũng chưa có hiểu cái câu đó có cái công năng gì, Thầy cũng chưa biết. Nhưng mà vì ngại, sợ, có cái tưởng của mình, cho nên…
Như Thầy cũng thường nói với mấy con đó, Thầy ngồi tựa cửa thất của mình mà nhìn trời. Chứ không dám mà ngồi khoanh chân, ngồi xếp bằng, ngồi mà nhìn xuống như vầy, là tưởng nó hiện ra. Cho nên ngồi tựa cửa mà nhìn trời ra, để cho cái tâm nó đừng có gom lại. Bởi vì cái tâm Thầy nó không vọng tưởng, nó gom lại thì nó lọt trong tưởng.
(04:33) Còn cái tâm mấy con mà nhìn trời ấy, mấy con nghĩ lung tung. Còn cái tâm của Thầy thì nó không nghĩ lung tung nữa. Do đó cho nên Thầy ngồi đó mà Thầy cứ thỉnh thoảng Thầy tác ý. Thầy sợ nó gom vô, thì nó hiện cái Sắc tưởng. Nó hiện ra một cái hình người, nó hiện ra hình Phật, nó hiện ra cái cảnh giới này, nó hiện ra cái cảnh giới kia.
Thậm chí như nó hiện ra ma, hiện ra quỷ, nó hiện ra những cái người có cái đầu năm, bảy sừng, rồi nanh vuốt, nó hiện ra đủ loại. Nếu mà ban đêm khuya khoắt mà ngồi mà nó hiện ra như vậy, thì mình rất sợ. Thấy cái đầu, thấy con người ghê gớm thì mình rất là sợ.
Cho nên đó là những cái hiện tượng của tưởng của mình nó xuất hiện, đó là Sắc tưởng. Vì vậy mà Thầy không muốn để cho nó hiện những hiện tượng này nữa, cho nên ngồi đó mà nhắc. Bởi vì ý thức mình còn, cho nên mình tác ý mình nhắc, thì nó không có hiện ra được. Do vì vậy mà Thầy cũng biết rằng khi mà các con bị những cái trạng thái tưởng, Thầy bảo tác ý thì nó đi: “Thọ, hoặc là cái tưởng gì đó, cái âm thanh này,… ta biết là tưởng, hãy đi đi, ta không chấp nhận!”. Do mình tác ý, khi mình tác ý thì ý thức mình tác ý ra, thì cái này nó lần lượt tan biến đi, nó không còn nữa. Để nó không có cái trạng thái của Tưởng Uẩn nó hoạt động.
Cho nên trong khi Thầy ngồi sáu tháng trời tựa lưng ở cửa, chứ không dám mà khoanh chân ngồi thiền nữa, cho nên ngồi tựa cửa, mà tác ý.
Trừ ra khi nào mà thân này bị bệnh đau ngặt nghèo, hoặc là những cái bệnh đau quá ngặt, thì Thầy mới khoanh chân lên, mà an trú trong hơi thở, để mà tác ý đuổi những cái bệnh, khổ trên thân của mình.
Thì những cái điều này nó là kết quả, hiệu quả mà bây giờ Thầy đem Thầy dạy lại cho các con, đó là cái kinh nghiệm bản thân của Thầy.
Chứ sự thật ra thì đọc trong Kinh mà nếu mà không có một kinh nghiệm, thì mấy con không biết được. Như Thầy đọc trong bài kinh Xuất Tức Nhập Tức dạy về hơi thở, đức Phật dạy: “An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành, tôi biết tôi thở ra”.
(06:30) Nếu mà không có kinh nghiệm của Thầy tu, thì cái câu này chúng ta không biết nó để làm cái gì nữa. Chỉ biết nó an tịnh, để tập chơi vậy thôi.
Còn khi qua kinh nghiệm của Thầy, Thầy biết là cái tác ý này nó có hiệu quả, nó làm cho cái thân mình an ổn. Bởi vì trước kia, Thầy rất sợ tưởng, cho nên Thầy cứ dùng câu tác ý mà Thầy tác ý. Rồi cái thân Thầy bệnh đau, Thầy cũng tác ý trên bệnh đau.
Qua rút tỉa kinh nghiệm mà Thầy mới hiểu được lời của Phật dạy ở trong Kinh này. Chứ nếu mà không có kinh nghiệm tu, thì Thầy không hiểu nổi cái nghĩa mà đức Phật dạy trong những bài Kinh này.
Cho nên cái người mà không có kinh nghiệm đọc lại bài kinh Xuất Tức Nhập Tức về hơi thở, họ không hiểu cái công dụng của những câu tác ý đó, những cái đề mục đó, công dụng những cái gì họ không hiểu. Họ cứ dạy chúng ta tu, luôn luôn, cứ hết cái đề mục này rồi tiếp tục tới, tác ý cái đề mục khác, tu cái đề mục khác. Các con thấy hầu hết là những người mà dạy chúng ta tu về Xuất Tức Nhập Tức thì họ dạy như vậy. Còn không thì họ dạy mình Tùy Tức, hay Sổ Tức thôi, chứ họ không biết cách nào khác hơn hết.
Trái lại, thì nhờ kinh nghiệm của Thầy, mà Thầy triển khai ra được những lời của Phật dạy rất là thực tế. Là khi mà Thầy đã tu tập được mà Thầy thấy cái sức, cái năng lực của pháp tác ý, nó giúp cho chúng ta làm chủ được sự sống chết của mình rất rõ ràng. Là mình tác ý ra, muốn cái gì thì tác ý ra, thì được cái nấy, thì đó là cái năng lực của phương pháp tác ý.
Vì vậy mà sáu tháng trời ngồi tác ý mà nó trở thành một cái năng lực siêu việt, Thầy không ngờ được.
Nhưng mà Thầy cũng nói rằng nếu mà cái tâm mình mà không thanh tịnh, và cái đời sống của mình mà không có nghiêm chỉnh Giới luật, thì chắc không bao giờ có. Bởi vì Thầy nghĩ rằng khi bước vào mà ôm pháp Thiền Đông Độ mà tu tập, thì Thầy sống với Hòa thượng Thanh Từ ba tháng ở trên Tu viện Chơn Không. Thì trong lúc bấy giờ ở đó sáng thì ăn tiểu thực, trưa thì ăn cơm, chiều thì uống bột, Thầy thì lại không thích.
(08:05) Thầy nghĩ rằng đức Phật dạy mình Giới luật: “Không ăn uống phi thời, ăn ngày một bữa”, nhưng Hòa thượng lại rộng rãi, cho mình ăn uống như thế này, thì đối với huynh đệ ai cũng thấy, như thế này thì cái cơ thể của mình ăn uống như vậy thì nó đầy đủ, nó khỏe thì tu tốt.
Nhưng mà Thầy lại có cái tâm niệm, sao lại mình sống không giống Phật? Phật ăn ngày một bữa, đi xin ăn. Còn mình bây giờ Phật tử cúng dường mà ăn nhiều như thế này? Ngồi tại chỗ, không đi xin, mà ăn nhiều quá. Thì Thầy lại cũng không thích ăn nhiều, mà chỉ muốn sống làm sao giống như Phật.
Cho nên, ở trong chúng thì Thầy không có dám làm điều đó. Bởi vì mình làm ngược lại thì nó trái lại. Còn mình, chỉ có mình sống riêng một mình thôi. Lúc bấy giờ Thầy nghe bên Khất Sĩ, thì người ta ăn ngày một bữa, người ta sống đúng Giới luật. Cho nên Thầy ba tháng an cư kiết hạ ở Chơn Không, thì Thầy mới rời khỏi Chơn Không, Thầy xin phép Hòa thượng Thầy xuống núi.
Rồi Thầy đi với hai huynh đệ của Thầy là hai người khất sĩ. Rồi Thầy đi vào trong Khất Sĩ thì Thầy thấy cũng có nơi thì giữ trọn vẹn, nhưng mà cũng có nơi thì không được trọn vẹn.
Cho nên Thầy nghĩ rằng, hiện giờ chắc có lẽ là mình giữ Giới luật của Phật thì mình nghiên cứu kỹ, rồi tự mình giữ một mình mình thôi, chứ bây giờ không có chùa nào mà mình tin tưởng.
Do đó Thầy mới tách lìa hai cái vị khất sĩ này, rồi Thầy về thăm mẹ Thầy, rồi Thầy ra Hòn Sơn Thầy ở, Thầy tu. Thầy giữ gìn Giới luật rất nghiêm chỉnh. Mười giới Sa Di, Thầy không hề vi phạm một chút xíu nào hết. Nghĩa là ăn ngày một bữa, ăn vừa đủ mà thôi, không bao giờ mà ăn phi thời. Do từ cái Giới luật Thầy rất nghiêm chỉnh, và đồng thời Thầy dùng cái pháp Tri vọng của Hòa thượng. Thầy an trú, nhiếp tâm được, không có vọng tưởng. Đó là hai cái mà Thầy biết là cái kết quả của sự tu tập ở giai đoạn đầu.
(10:05) Và cái giai đoạn sau, thì Thầy nhờ cái pháp Như Lý Tác Ý. Cho nên Thầy thấy nó quá tuyệt vời, vì vậy mà Thầy ghi ngay vào cái bia đá đầu tiên ở đây. Thầy đặt, Thầy đặt cái bia đá đó, Thầy bảo: “Dẫn tâm vào đạo, chứ đừng dẫn đạo vào tâm”, đó là cái câu để nói lên cái pháp Như Lý Tác Ý.
Nhưng mà nhiều người người ta không hiểu cái câu nói của Thầy, mà người ta hiểu “dẫn đạo vào tâm”. Phải là “Dẫn tâm vào đạo, chứ đừng có dẫn đạo vào tâm”. “Dẫn đạo vào tâm” là mình học hỏi, mình hiểu biết nhiều, thì cái hiểu biết đó nó sai.
Thầy chỉ nghĩ rằng mình cứ tác ý, mình muốn giải thoát cái gì thì mình tác ý cái đó, tức là mình dẫn cái tâm mình vào cái đạo, chứ đừng dẫn đạo vào tâm. Cho nên, mình dẫn làm sao vào cái chỗ giải thoát, đem cái tâm mình vào cái chỗ giải thoát, thì cuối cùng thì Thầy giải thoát.
Như thí dụ bây giờ Thầy muốn cái tâm của Thầy không còn tham, sân, si, Thầy nhắc: “Tâm như cục đất, ly tham, sân, si hết đi”. Thầy có cái câu đó thôi, Thầy đâu có tu cái gì nhiều đâu. Mà Thầy cũng không có ngồi kiết già, cũng không có nhiếp tâm. Mà chỉ ngồi cứ thỉnh thoảng nhắc. Vì cái tâm không vọng tưởng cho nên ngồi cứ nhắc. Rồi nó yên lặng, nó thanh thản.
Rồi từ đó sự nhắc của Thầy nó càng ngày càng thưa ra. Thầy thấy nó thanh thản. Nó thanh thản, mà nó có cái lực. Hễ nhắc một cái là nó thành, nó rất là vi diệu.
Cho nên Thầy thấy tu hành của đạo Phật rất đơn giản, nó không có khó khăn.
Vì vậy mà hôm nay Thầy nhắc lại mấy con mà tuổi già, cái tuổi mấy con lớn thì mấy con nên ở trên Tứ Niệm Xứ mà tu. Tức là cái pháp thanh thản, an lạc, vô sự. Thường nhắc: “Tâm thanh thản, an lạc, vô sự”. Rồi mình ngồi, mình lắng nghe cái thân, tâm của mình nó thanh thản, an lạc, vô sự đó. Rồi mình lại nhắc. Nếu thời gian thanh thản, an lạc, vô sự đó kéo dài, là cái thời gian không phóng dật.
(12:10) Cho nên, xét lại cái câu nói của đức Phật: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật”. Đó thì chúng ta thấy rất rõ. Bởi vì thanh thản, thì nó đâu làm sao mà nó phóng dật? Mà an lạc, thì cái thân của mình an ổn, nó đâu có nhức, có đau chỗ này, chỗ kia đâu mà nó phóng dật ở trên chỗ đau khổ đó? Cho nên cuối cùng thì Thầy thành tựu.
Bởi vậy Thầy nghĩ rằng, nếu chúng ta đặt trọn niềm tin thì giữ gìn mười Giới Sa Di trọn vẹn, đừng vi phạm. Hằng ngày ngồi tựa cửa nhìn trời mà tác ý. Ai chửi mình thì mình như cục đất, đừng có phiền não. Ai nói xấu, nói giận, nói tức, nói hờn gì, thì mình cũng đều như cục đất hết đi, thì chúng ta sẽ thành tựu đạo Phật, không lâu, rất nhanh. Đó là qua cái kinh nghiệm tu hành của Thầy là như vậy, nó không có khó khăn.
Nhưng mà khi ngồi lại mà viết thành cái giai đoạn chiến thắng, thì nó có nhiều cái điều kiện viết lắm.
Bởi vì có nhiều cái chi tiết ở trong đó. Khi ngồi lại tựa cửa thì lúc bấy giờ nó bị hôn trầm như thế nào? Bởi vì mình ngồi nó yên lặng, nó không vọng tưởng, mà nếu không khéo thì nó sẽ lặng, nó sẽ buồn ngủ.
Cái cơ thể mình là cơ thể vật lý, nó không phải là một cái gốc cây hay cục đá, cho nên nó dễ bị trạng thái này, bị trạng thái kia.
Mình ngồi một lúc thì nó mỏi. Thế mà chúng ta tu tập như thế nào mà không mỏi, không nhức, không đau mà ngồi suốt cả giờ? Mà như vậy đó nó mới gọi là “không phóng dật”. Còn nếu không, thì nó phải phóng trên cái trạng thái thọ khổ của thân, hoặc là của tâm.
Cho nên phải ghi lại những hành động đó để biết khi mà gặp cái trường hợp nào nó xảy ra, mà trong khi đó mình phải xả nó bằng cách nào, thì cái này chưa có nói lên cho mấy con nghe được. Là tại vì chưa có ngồi lại mà viết thôi, chứ viết ra nó thành một bộ sách gọi là cái “Người Chiến Thắng - Phần thứ hai”.
(14:09) Và đồng thời, thì Thầy cũng không muốn ghi lại những cái điều của mình. Mà có một cái người nào đó thì có thể họ ghi lại. Trước kia thì có bác sĩ Trí về đây, nhưng mà… Thầy định Thầy sẽ thuật lại hết những công phu, từ những ngày nào, Thầy tu như thế nào, thế nào, thì cái người này ngồi ghi lại những cái trang sử tu tập của Thầy.
Chứ không lẽ Thầy viết để Thầy khoe cái của mình sao? Cho nên Thầy không viết. Chứ sự thật người mà viết cái trang sử đó, chỉ có Thầy là người viết chính xác nhất, không ai viết chính xác bằng Thầy. Nhưng mà Thầy nhắc lại cho một người khác viết, hơn là Thầy, mới là đúng cái nghĩa.
Đến đây thì mấy con cứ nhớ rằng những gì Thầy dạy, là qua cái kinh nghiệm tu hành của Thầy. Cho nên người già thì phải tu theo pháp người già, mà người trẻ thì phải tu theo pháp người trẻ.
Vì người trẻ còn sức khỏe, chúng ta nên tu Định Niệm Hơi Thở, nên tu Chánh Niệm Tỉnh Giác, nên đi Kinh hành nhiều.
Còn người già thì nên tu Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ để khắc phục tham ưu. Đó là cách thức như vậy để mà chúng ta thực hiện được những gì mà chúng ta tu tập.
(15:21) Bây giờ thì Thầy sẽ làm cái lễ thế phát cho cô Diệu Minh.
Thật sự ra Thầy rất lo ngại. Ở đây thật sự ra, quý thầy mà về đây mặc dù là Thầy đã làm lễ xuất gia, truyền học giới Sa Di, mười giới Sa Di cho quý vị, thậm chí như ở đây có người Thầy đã thỉnh quý thầy và đồng thời Thầy làm Hòa Thượng Đường Đầu để mà mở cái Giới đàn thọ Tỳ kheo. Ở Tu viện này Thầy đã làm tất cả những điều đó. Và có một số đệ tử của Thầy đã thọ Tỳ kheo.
Nhưng mà chưa có vị thầy nào mà Thầy cấp giấy tờ. Tại sao vậy mấy con biết không? Không phải Thầy không cấp giấy tờ được, bởi vì trong đạo Phật chúng ta có quyền mở Giới Đàn Thọ Phương Trượng.
(16:04) Còn bây giờ thì Giáo hội mở Giới đàn có phép tắc đàng hoàng. Còn một cái tu viện nào, hoặc là một cái nơi nào đó, người ta có quyền mở cái Giới đàn để người ta hướng dẫn đệ tử người ta giữ gìn Giới luật, người ta có quyền mở Giới đàn.
Nhưng mà khi người ta có quyền mở Giới Đàn Phương Trượng, thì người ta có quyền cấp giấy tờ cho đệ tử người ta. Có giấy tờ hẳn hoi, người đó ở đâu, tên gì, thọ giới đàn Tỳ kheo hay hoặc là Sa Di ngày giờ nào, người ta có. Thậm chí, đều phải có dán hình trong đó hết, chứ không phải là không có hình của các thầy đâu. Ngày xưa thì nó không có cái điều kiện đó, nhưng nó có giấy tờ của cái Giới Đàn Thọ Phương Trượng, chứ không phải không có.
Bây giờ cũng vậy, nhưng mà tại sao Thầy không cấp giấy tờ? Thầy ngại mấy con oai nghi tế hạnh không có đúng. Cấp giấy tờ ra, “đây giấy tờ đây, con đây đã là đệ tử của thầy Thông Lạc”. Mà cái oai nghi tế hạnh của mấy con không xứng đáng, mà mấy con lại nói rằng đệ tử của Thầy - là một người giữ gìn Giới như thế này, mà mấy con sống như vầy, thì nó làm nhục nhã vô cùng cả thầy lẫn trò.
Mà cái giấy tờ của mấy con, nắm ở trong tay là một cái bằng chứng – Thầy đã chứng nhận, Thầy đã ký tên trên đó rồi, thì coi như đương nhiên là mấy con là đệ tử của Thầy.
Còn trái lại, Thầy chưa có chứng nhận mấy con giấy tờ gì hết, chờ mấy con tu mà Thầy thấy được oai nghi, Phạm hạnh của mấy con trọn vẹn, thì Thầy mới chứng nhận cho các con có một cái giấy. Còn nếu mà không, thì mấy con cũng vẫn là một người đệ tử của Thầy qua cái hành động oai nghi, tế hạnh của mấy con.
Còn trái lại, Thầy rất ngại. Là vì Phật giáo nó đã hư hoại nhiều rồi, tu sĩ oai nghi tế hạnh không có rồi, mà bây giờ Thầy lại chứng nhận cho một số đệ tử của mình cũng chẳng ra gì hết, thì rất tội cho Phật giáo. Tự Thầy đã làm hoại Phật giáo thêm. Số đệ tử của Thầy các con biết, cũng có những vị Tỳ kheo được Thầy mở cái Giới Đàn Thọ Phương Trượng ở đây, đã thọ Giới cho họ, và sau này Giáo hội đã làm giấy tờ cho họ hẳn hoi, đàng hoàng.
(18:15) Nghĩa là Thầy thọ trước khi có những cái điều kiện mà Giáo hội cho phép mở Giới đàn. Thì trước đó thì Thầy đã mở những Giới đàn thọ Tỳ kheo ở đây. Nhưng mà số những đệ tử của Thầy hiện giờ - những cái vị Tỳ kheo chẳng ra gì hết: danh lợi, Giới luật phạm, không còn cái gì hết.
Bởi vậy Thầy nhắc đi nhắc lại, nhưng cuối cùng cái dục lạc thế gian cám dỗ, họ không làm sao mà thắng lại được. Đáng thương hơn là đáng ghét họ. Nhưng mà họ tự tạo tội lấy thì trong đó có cái phần Thầy nhận họ đệ tử, nhưng mà may Thầy không có làm giấy tờ gì cho họ, chỉ có Giáo hội cấp giấy tờ họ mà thôi.
Còn ở đây một số người mới sau này, thì mấy con đã biết rằng, Thầy có làm lễ thế phát. Rồi từ lễ thế phát đó, mấy con phải cố gắng học hành những cái Phạm hạnh, sống cho đúng oai nghi, tế hạnh của một người tu sĩ. Thì chừng đó, khi mà các con tu đến cái mức các con mà thực hiện được Tam Minh, các con thực hiện được những Thiền Định mà làm chủ sự sống chết của mình, thì Thầy cấp giấy không muộn.
Mà không cấp giấy, thì mấy con cũng có những cái khả năng bảo đảm là sự tu tập của mấy con đã được như vậy rồi. Cho nên giấy nó cũng quan trọng, nhưng nó cũng không quan trọng đối với một người tha thiết tu hành.
Cho nên trước khi làm lễ thế phát cho mấy con… Bởi vì, ở trong cuộc đời này có rất nhiều cái rất đau khổ. Người ta ham thích xuất gia, người ta ham thích làm thầy, những cái ham thích đó cũng còn một mức độ ham thích, tức là muốn cho mình làm thầy. Cho nên có nhiều người tự cạo tóc mình, rồi tự mặc đồ tu sĩ. Người cư sĩ họ không biết, họ thấy cái hình dáng đó họ chắp tay, họ xá, họ lạy.
(20:06) Nhưng mà sự thật mỗi người chắp tay, xá, lạy, cung kính mình, trong khi mình tưởng mình học hiểu một số kinh sách nào đó thì mình nghĩ rằng đó là mình giải thoát, là Phật, hay hoặc là một vị thầy xứng đáng. Nhưng mà sự thật mình là con số không. Vì ngay cái chỗ mình tự cạo tóc, mình tự mặc y áo thì đó là một cái điều mình vi phạm rất lớn, là mình lừa gạt người khác.
(20:35) Cho nên ở đây, Thầy muốn mấy con tu hành, oai nghi, tế hạnh hẳn hoi. Rồi mấy con mới cạo tóc xuất gia. Thì làm một người tu sĩ không phải dễ, nó rất khó chứ không phải dễ. Lỡ mình nói lời nói, một chút xíu mà người ta có lời nói trái ý mình, cái mình sân đùng đùng lên, người ta nói ông thầy hay cái cô này tu hành gì mà “mặc y, mang bát” mà sân dữ vậy?
Như vậy là mấy con cũng làm mất uy tín của Phật giáo rồi. Cho nên nó khó lắm. Tâm mình còn sân, tâm mình còn tham, thì xuất gia mình mặc những bộ y áo này vô mà sơ suất một chút, là người ta sẽ nói ngay cả cái tôn giáo của mình lận, chứ không phải nói riêng mình đâu, cho nên nó rất khó.
Cho nên đối với một người mà “đầu tròn, áo vuông”, “mặc y áo” rất khó chứ không phải dễ. Chứ chúng ta đừng có thấy mình mặc y áo rồi mình hãnh diện, mình hơn người ta đâu. Sự thật mình so sánh lại cái tâm của mình, cũng như cái tâm của người cư sĩ còn tham, sân, si, còn ham ăn, thích ngủ, còn thích nói chuyện… Thì thôi, mấy con phải biết rằng: Đừng cạo tóc.
Chừng nào mà mình sống được cái hạnh độc cư trọn vẹn, mình thắng được mình, mình làm chủ được mình thì lúc bấy giờ- về cái tâm của mình mình làm chủ được rồi, người ta nói mình, mình như đất, mình không có buồn giận- thì mình mới cạo tóc.
Cho nên tại sao em của Thầy, mà Thầy không xuất gia, Thầy không cho nó cạo tóc? Tại vì Thầy biết rằng, không thể thực hiện được một cái điều kiện của Phạm hạnh, Thánh hạnh cao quý của đức Phật, thì dù tình thân ruột thịt của mình cũng vậy, không được dùng nó để mà lừa đảo, không được dùng nó để mà lừa gạt người khác. Mà phải bằng thực chất, bằng thực lực.
(22:31) Chẳng hạn mà bây giờ mà cô ấy không rầy, không la, không nói này nói kia, thì hầu như quá dễ dàng, thì những người vào đây Thầy nói thật sự họ không áp dụng được cái Phạm hạnh, cái Giới luật ở đây.
Thí dụ như ăn, ngủ, độc cư, mà nếu mà không có Diệu Quang, thì chắc chắn là Thầy không làm sao mà Thầy rầy mắng các con được. Bởi vì đối với người tu như Thầy, không bao giờ rầy mắng ai. Chỉ biết tùy thuận, nhẫn nhục, biết vui vẻ, biết khuyến khích, biết nhắc nhở. Mà cái nhắc nhở như của Thầy ấy thì Thầy nghĩ rằng các con tật nào, tật nấy, không bao giờ mấy con chừa.
La như cô Diệu Quang, mà nhiều khi mấy con còn không bỏ. Huống hồ như Thầy, thì chắc chắn là cái Tu viện này nó ồn náo như một cái chợ, cỡ như một vài trăm người.
Thì hôm nay cái Tu viện này đó mấy con, hai ba trăm người, cả ngàn người chứ không phải ít. Thầy nói thật sự, rất đông. Người ta rất ham tu, nhưng mà người ta tu theo cái kiểu của người ta, chứ không phải là tu theo kiểu của Thầy dạy.
Thầy bảo rằng nếu mà Tu viện không có cô Diệu Quang, thì nơi đây rất đông người ra vào nhưng mà chẳng có chất lượng gì hết mấy con. Thật sự ra mấy con về đây thì mấy con thấy biết, cô Diệu Quang là cái người không nghĩ cô làm Bồ tát hạnh, cô không nghĩ cô ấy làm một cái gì. Nhưng mà cô nghĩ cô chỉ giúp Thầy thôi, cũng như cô giúp Thầy tu hành thôi. Cũng như giờ giúp mấy con cơm nước, này kia, là cô ấy giúp mấy con tu hành thôi, chứ cô không nghĩ cô làm phước báo gì hết.
Hiện bây giờ thì cô cũng đang lo xả tâm của mình, cũng đang tập tu từng chút, cũng như mấy con vậy, để mà cô chịu đựng với mấy con thôi. Rồi cái gì mà trái ngang, làm cho cô buồn phiền, thì cô cũng ráng cô xả như mấy con thôi. Cô cũng đau, cũng bệnh, cô cũng ráng cô xả. Rồi khi hết, khi không, chứ không phải là lúc nào cũng hết. Do đó cô cũng đem hết sức lực mình ra tu cho mình, nhưng cô tu trong cái độc, rất độc, cái rất đáng thương.
Thay vì cô được yên tĩnh tu tập, thì nó mới mau. Nhưng mà tu trong cái thế này thì nó không mau được. Cho nên vì vậy mà, hi sinh đời của mình cho mọi người thì cũng tốt chứ không sao.
(24:38) Nhưng mà Thầy thấy ở trong cái giai đoạn này, thì chưa có đủ những người mà tu chứng. Chứ nếu mà đủ những người mà tu chứng, cùng Thầy mà mở tám cái lớp học đạo Phật, thì chắc chắn là cái người mà xuất gia không sợ rồi. Nghĩa là phải trải qua tám cái lớp này rồi Thầy mới cho xuất gia, rồi trở thành… chứ không phải…
Cho nên các con thấy, ngày xưa một người mà đến xin đức Phật, nhất là ngoại đạo mà đến xin đức Phật, thì phải bốn tháng biệt trú. Đức Phật cho vào ở trong chúng bốn tháng biệt trú, để rồi người ta xem coi mình có chấp nhận được cái Phạm hạnh, được những cái đức hạnh. Oai nghi, tế hạnh mà mình chấp nhận được thì người ta mới chấp nhận. Còn mình chấp nhận không được thì cứ tự nhiên mình về, chứ không có bắt buộc, không có ép buộc ai hết. Cho nên bốn tháng.
Thì thường thường trong Kinh hay nói là các vị ngoại đạo đến xin Phật để mà tu, thì đức Phật nói bốn tháng biệt trú thì đức Phật mới cho thọ Tỳ kheo, mới cho xuất gia tu theo Phật, còn nếu không được thì thôi. Thì các vị đó mới nói bốn năm các vị cũng chịu nữa.
Nhưng mà ở đây, Thầy nói thật sự ra mấy con thấy rõ ràng, mấy con đến Tu viện Chơn Như là mấy con quyết tâm tu, quyết tâm tu thật sự, chứ không phải là không quyết tâm, nhưng mà các con sống nó không có đúng cái hạnh ở đây.
Thí dụ như về ăn, ngủ, nói chuyện, nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, thì mấy con cũng chưa có trọn vẹn được. Cho nên chấp nhận nó, thì bắt đầu bây giờ các con thấy chấp nhận một người mà chưa biết pháp tu mà chấp nhận cái nhẫn nhục, chấp nhận cái tùy thuận, chấp nhận bằng lòng, thì không bao giờ tức giận. Bởi vì mình chấp nhận nó mà, mình phải chịu đựng. Thì trong cái thời gian chấp nhận, chịu đựng đó, người ta biết người này có quyết tâm tu, cho nên người ta chấp nhận người ta mới dạy cho họ, để họ biết cái pháp nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng như thế nào.
(26:22) Còn bây giờ mấy con vô thì mấy con phải ở trong cái Giới luật của nó, là nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. Cho nên ai nói cái gì, thì mấy con phải là cố gắng nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, chứ không có được…. Và đồng thời thì những cách sống của mấy con phải sống đúng.
Ăn thì không ăn phi thời, không có mang sữa, mang bơ, mang bánh, mang trái theo. Phải ăn ngày một bữa.
Và đồng thời, mấy con giờ giấc phải nghiêm chỉnh. Giờ nào ra giờ nấy. Chứ không có được ngủ trước, ngủ sau như thế này. Đó là những cái hạnh mấy con sống.
Và đồng thời thì phải độc cư trọn vẹn, không được nói chuyện. Người nào sống riêng người nào, chứ không được nói chuyện này kia.
Do những cái hạnh này mà trong bốn tháng người ta xét thấy đúng thì người ta chấp nhận. Mà không đúng thì mấy con về. Có phải không? Như vậy rõ ràng là người ta đang trắc nghiệm để chọn lấy người tu thật, người tự giác, hay là người không tự giác.
Còn bây giờ đến đây, thì trong vòng một tuần lễ thôi mấy con nói chuyện ào ào. Mấy con gặp chuyện này, chuyện nọ, chuyện kia đủ thứ hết. Rồi thậm chí, Thầy nói thật sự, thậm chí mấy con còn nói cô Diệu Quang là này kia nọ, đủ thứ hết.
Hoàn toàn mấy con nói sao Thầy đều nghe hết. Nghĩa là các con tưởng Thầy không biết, không nghe. Thầy biết hết, toàn bộ Thầy biết. Nói như thế nào, sau khi mà bị rầy la thì mấy con tức giận, mấy con nói với người này như thế này, thế khác, đều là Thầy biết hết. Thầy biết là cái điều đó – như vậy mấy con chưa có nhẫn.
Mấy con nói ra một cái điều gì đó, thì mấy con phải biết là Thầy biết chưa có nhẫn. Như vậy là Thầy biết mấy con theo Thầy tu chưa có tới, chưa có được. Người ta nói cái gì người ta nói, nói oan nói ức, nói gì thì nói, mình vẫn phải nhẫn và vui vẻ. Tùy thuận, bằng lòng mà. Trước cái cảnh thử thách đó, mới thấy đạo Phật tự giác để mà đi tìm con đường giải thoát.
Từ đó sau khi người ta nhận vô rồi, thì người ta mới dạy cho mình những cái pháp, để cho mình thực hiện, để cho mình giải thoát.
(28:13) Cho nên thí dụ như có nhiều người hỏi Thầy cái pháp “tu nhanh”. Thật sự ra trong con đường tu tập, nó có nhiều bí quyết tu tập, để đạt được cái kết quả làm chủ sanh tử luân hồi. Nhưng mà người đệ tử không ra gì, thì hoàn toàn không trao những cái pháp bí quyết đó đâu. Thầy nói thật sự mấy con giữ đúng hạnh, đúng đắn, hẳn hoi - là con người có đủ những cái điều kiện đáng truyền cho họ- thì mới truyền. Mà không đáng truyền, thì không truyền. Bởi vì Phật pháp mà, nó là cái pháp quý. Chúng ta biết kính trọng nó thì chúng ta sẽ được cái gì: Kinh nghiệm tu tập.
Người ta làm chủ hẳn hoi, người ta biết cách, nhưng mà người ta đâu có truyền. Cái người nào cũng tham lam, vì vậy nhiều khi chúng ta truyền, họ không tu, họ lấy cái đó họ đi ra, họ nói như là họ làm được.
Cho nên tại sao có những loại sách mà Thầy nói, nhưng có loại sách Thầy lại không viết ra, các con hiểu điều đó. Cho nên có nhiều điều mà Thầy không viết ra. Thầy biết rằng đức Phật rất khéo léo, Ngài cô đọng những cái pháp đó bằng những cái ngôn ngữ rất là cô đọng, chỉ có những người tu chứng người ta mới hiểu được cái ngôn ngữ đó. Cho nên bây giờ Thầy cũng bắt chước Phật, nói những cái ngôn ngữ đó, để khi những cái bí quyết đó, có người tu chứng, người ta sẽ triển khai cho những người đệ tử quyết tâm tu giải thoát, thì người ta mới dạy.
Còn mấy con quyết tâm có, nhưng mà cái điều kiện mấy con lại phạm vào cái Phạm hạnh, không chấp nhận cái đời sống Phạm hạnh, thì làm sao người ta dạy mấy con được? Mấy con luôn luôn sống ở trong danh, trong lợi, làm sao người ta dạy mấy con được? Buộc lòng là phải những người “ly dục, ly ác pháp” thật sự thì mới truyền dạy sự giải thoát. Cho nên sau một thời gian, một tháng hay hai tháng, ba tháng, bốn tháng mấy con ở đây, là người ta biết cái người tu được, người tu không. Nghĩa là người ta thấy rất rõ.
Bây giờ đặt thành vấn đề nữa: Khi mấy con bước vào Tu viện, mấy con đến đây mấy con xin theo Thầy tu tập, Thầy biết cái người này tu được hay không tu được. Ngay liền là biết rồi, chứ còn không cần đợi mấy con ở đây một, hai tháng.
Nhưng mà để thấy rằng cái sự rõ ràng hơn, cụ thể hơn, là mấy con ở đây một, hai tháng, để cho mấy con trong vòng mấy tháng đầu mấy con còn phạm phải, và những tháng sau thì được Thầy nhắc nhở. Từ cái chỗ nhắc nhở đó, mấy con mới khép mình trong cái khuôn khổ, không hề vi phạm nữa. Từ đó, Thầy mới biết rằng những người đệ tử này mới xứng đáng là người đệ tử của Thầy, mới đem những cái bí quyết này mới dạy cho họ.
(30:21) Chứ còn không khéo, thì cũng không dạy. Bởi vì mấy con cứ còn vi phạm những cái lỗi lầm này thì không bao giờ mà Thầy dạy. Dù dạy thì mấy con tu cũng không đạt được những kết quả như Phật đã dạy. Cho nên các con nhớ kỹ.
Vì vậy hôm nay Thầy biết cái hoàn cảnh của cô Diệu Minh, cho nên Thầy làm lễ xuất gia để cho cô có một cái duyên, cái duyên để mà tiếp tục thực hiện cái nguyện vọng ao ước tu hành.
Cũng như các con hôm nay có một số người cũng xin Thầy để mà xuất gia. Cái ước nguyện của các con là ước nguyện cao đẹp. Nhưng mà cái hành động sống Phạm hạnh, các con phải chuẩn bị. Vì Thầy nghĩ rằng khi mà quyết xuất gia, thì mình phải chuẩn bị để cho mình sống trong một cái khuôn khổ, cái khuôn phép của đạo Phật. Chứ không thể nào mà ra ngoài cái khuôn phép đó mà là người xuất gia được. Nó có cái hành động sống của nó.
Cho nên bên nữ nó còn khó hơn nhiều bên nam. Cho nên vì vậy mà các con phải cố gắng khắc phục mình, để mà Thầy tìm thấy được cái hạnh của mấy con sống đúng.
Chẳng hạn bây giờ các con muốn xuất gia, các con về đây, các con ở đây trong bốn tháng. Thầy xem được cái hạnh của mấy con đúng rồi, thì Thầy sẽ chấp nhận cho mấy con xuất gia, cạo tóc thọ Sa Di liền, ngay liền. Vì mấy con có thể sống được, và là một tu sĩ của Phật giáo được, là qua những cái hạnh mà ăn, ngủ, độc cư, nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. Thì đó là những cái hạnh đầu tiên của đạo Phật để xem xét lại những cái người đệ tử của mình, để chấp nhận cho họ trở thành người đệ tử của Phật hay không.
Đó là cái điều kiện mà Thầy nói ở đây, để cho hôm nay là cái lễ thế phát cho cô Diệu Minh thì Thầy nói chung để cho mấy con có cái tinh thần chuẩn bị. Vì cuộc đời của mình có nhiều người quyết tâm tu lắm, nhưng mà mình chưa biết cái cách thức nào hết. Không phải nói để cho mấy con sợ, mấy con không tu đâu.
(31:55) Nói để cho mấy con chuẩn bị tinh thần của mình vững vàng. Khi bước chân vào, là mình phải làm, phải sống đúng oai nghi, tế hạnh của người tu sĩ. Như vậy mới bảo đảm. Chứ không khéo, mấy con sống y như ngoài đời, nó không có khác chút nào hết. Cho nên nó là một cái sai.
Còn bây giờ, Thầy xin làm lễ.
Sau này có dịp, thì cái bộ “Người Chiến Thắng – Phần thứ hai”, thì mấy con sẽ đọc thấy những cái kinh nghiệm tu hành của Thầy. Và chắn chắn Thầy cũng sẽ nói lại với một cái người nào đó, để mà người ta ghi chép lại những kinh nghiệm tu tập. Thì mấy con sẽ được đọc cái hành động…
Bây giờ cô Diệu Minh, con đến đây đi, Thầy làm cái lễ cho con.
Lễ cạo tóc xuất gia tức là lễ thế phát. Vậy thì thế phát tức là tạo cho mình có một hình dáng của một người đệ tử tu sĩ của đạo Phật. Và cái hình dáng đó rất là trang trọng. Cho nên cái hình dáng mà cạo tóc, “đầu tròn áo vuông, mặc áo cà sa”, hoặc nói một cách khác là “mặc áo tu sĩ” thì cái hành động sống hằng ngày phải cố gắng học hiểu, giữ gìn cho nghiêm túc, đúng cách của một người tu sĩ: Từ cái đi, đứng, ngồi, nằm.
Ngày xưa chúng ta thì ngồi đâu cũng được, nhưng hôm nay khi mà cạo tóc, mặc áo tu sĩ, thì khi ngồi phải nhìn trước nhìn sau. Chỗ nào là đúng chỗ cho mình ngồi, thì mình ngồi. Chỗ nào không đúng, thì mình không được ngồi. Và tránh khi mà chỗ không đúng như thế nào?
(34:32) Như trên chiếc võng, trên cái giường ví dụ như trên cái giường của người nữ, thì người nam không được ngồi. Trên cái nơi mà của người nam, thì mình không được ngồi trên đó, hoặc nằm trên đó. Mình phải quan sát trước cái chỗ này xứng đáng cho mình ngồi. Chỗ kia không xứng đáng thì không nên ngồi, nằm trên những cái chỗ đó. Đó là những cái điều cần thiết mà sau này con còn phải học nữa.
Và đồng thời khi đi, thì không phải đi chậm quá, mà cũng không phải đi nhanh quá. Khi có công chuyện gì vội vàng, thì chúng ta không được chạy. Cũng đi chậm chạp, không được vội vàng. Đó là những điều cần thiết. Cho nên khi mà cái đầu tròn như thế này mà chạy ào ào thì không thể được. Cho nên chúng ta tránh, nhất là người tu sĩ nữ, thì lại càng tránh những cái oai nghi vội vàng đó. Nó không hay, không tốt.
Còn khi nói chuyện với những người khác, thì luôn luôn cố gắng dè dặt, giữ cái lời nói mình ôn hòa, nhã nhặn khi mà mình là người tu sĩ. Không được nói lời nói to tiếng, không được nói lời thô lỗ. Đó là những cái lời nói của mình.
Vì tất cả những cái này, người ta dễ nhận xét. Người ta dễ nhận xét và người ta phê bình tu sĩ Phật giáo, tội cho người tu sĩ Phật giáo, và tội cho đạo Phật. Đạo Phật không muốn có những người đệ tử như vậy. Mà có những người đệ tử như vậy là đã làm cho người ta mất niềm tin với Phật giáo.
(36:20) Cho nên hôm nay khi mà cạo tóc cho con rồi, thì đối với trong gia đình của mình – mọi người, thì mình coi như là những người thí chủ. Mình đừng xem họ là những người thân, ruột của mình nữa, mà hãy xem như những người ân của mình.
Thí dụ như cha mẹ, là mình đừng có xem họ như cha mẹ nữa, mà mình hãy xem họ là người bố thí, người ân của mình, người tri ân của mình, ban cho mình cái thân tâm này, ban cho mình có cái thân này đến hôm nay mình tu tập. Đó là cái ân nghĩa của cha mẹ, là ân nghĩa của một người đại bố thí, mới có cái thân này.
Chứ không còn nghĩ rằng cái tình cảm của mình mà đối với cha mẹ như xưa nữa. Mà phải thấy đây là một cái ân – ân nghĩa rất lớn đối với người đại bố thí này – của cha mẹ mình.
Còn đối với anh, em ruột thịt, mình nên xem họ là tất cả những người có thể giúp mình trên con đường tu tập, cũng là người đàn na thí chủ - mà người đàn na thí chủ rất thân cận với mình- chứ đừng nghĩ họ là anh, em ruột, thịt. Thậm chí như con cái của mình, mình cũng xem họ là những người đàn na thí chủ, giúp mình trong cuộc đời của mình.
Cho nên nói: “Xuất gia thì ly gia cắt ái”. “Ly gia” là lìa khỏi cái gia đình của mình. “Cắt ái” là cắt tất cả những cái tình thương của mình đối với những người trong gia đình của mình. Nhưng không có nghĩa “cắt ái” là cắt lòng thương của mình. Bây giờ nó thương, nhưng mà nó thương với cái sự kính trọng của một người đàn na thí chủ. Chứ không phải là thương với cái tình cảm mà còn quây quần trong một cái gia đình nữa. Nhớ, cái này rất khó.
(38:18) Bởi vì nghe cái câu nói: “Xuất gia thì ly gia cắt ái”, đó là những điều rất khó, khó làm, chứ không phải là dễ làm. Cho nên thường xuyên những cái ái kiết sử nó khởi lên, tức là cái tình cảm của mình đối với con cái, đối với chồng con, đối với cha mẹ…, tất cả những cái này là ái kiết sử.
Cho nên khi mà có những cái niệm thương, ghét của ái kiết sử, thì mau mau dùng câu tác ý mà tác ý: “Đây là kiết sử, hãy đi đi, ta là người tu hành ly gia cắt ái, các ngươi không có đến đây mà quấy rầy ta nữa!”. Con khắc ghi những lời này, để giữ gìn cho mình khi mình xuống tóc, cho nó trọn vẹn trong tâm tư của mình. Nếu mà con không nhớ câu này, thì ái kiết sử nó sẽ làm cho con mất cái hạnh “cắt ái, ly gia”. Cho nên nó làm cho con không có lìa khỏi cái sự ràng buộc của cái chùm nhân quả. Cho nên phải nhớ những câu nói như vậy. Để giữ tâm mình cho nó được lìa ra cái cõi thế tục.
Bởi vậy khi mà xuống tóc cho con, Thầy rất lo. Là làm sao cho con xứng đáng là một người đệ tử của Thầy, của Phật. Là phải sống như thế nào cho đúng. Nhớ những lời Thầy dạy hôm nay. Đó là những cái điều rất khó cho mấy con. Thà là mấy con mặc chiếc áo cư sĩ, có gì thì cũng không sao hết. Nhưng mà mặc chiếc áo tu sĩ, cái hình dáng của người tu sĩ, thì nó có phải khác hơn đời.
(39:51) Cố gắng! Khi mà cạo tóc rồi thì: “Ngày một bữa. Không nên ăn phi thời. Nhất định chết bỏ”. Ngày nào con cũng thọ trai trong một cái bát. Mặc dù là con không có đổ thực phẩm vào ở trong một cái bát, mà con trộn lẫn lại ăn, con cũng để cơm, đồ ăn bỏ dần trong bát, rồi con cũng dùng cái muỗng mà múc ăn. Rất là nhẹ nhàng. Phải tập. Phải tập ăn, nó mới được.
(40:22) Không khéo không tập ăn trong bát, thì con sẽ không ăn được. Là vì bây giờ thì chúng ta tập, nhưng ngày mai chúng ta trở thành một tu sĩ thật sự ôm bát đi xin, ăn trong bát, không có bàn, đĩa, không có chén, bát nhiều, không có đũa, dĩa. Mà chỉ có cái muỗng múc ăn mà thôi, chứ không có nhiều. Ngày xưa thì đức Phật dùng tay bốc. Chúng ta mới thấy là một đời sống của người tu sĩ đặc biệt là cái hạnh.
Hạnh ăn, rồi hạnh ngủ. Khi nằm ngủ, thì mấy con nhớ rằng không có nằm ngửa, nằm sấp, mà chỉ có nằm kiết tường, nằm nghiêng thôi. Hễ nếu nằm nghiêng bên đây mỏi, thì con nghiêng qua bên kia nằm. Chứ đừng có nằm ngửa, hoặc là nằm sấp, không có được. Và nằm đừng có nằm mà hai chân gác lên trên như người đời. Chúng ta nằm thì cứ nằm nghiêng bên tay phải, hoặc là bên tay trái, nằm nghiêng hai chân chồng lên. Đó là những cái oai nghi của người tu sĩ. Để không khéo, mình nằm như vậy thì sai.
Người tu sĩ không được nằm võng, vì nằm võng cái thân của mình bị cái võng lúc lắc. Mà nằm võng thì các con nằm nghiêng không có được đâu. Thường thường nằm võng là nằm ngửa, mà cái oai nghi của người tu sĩ không có cho phép. Cho nên những tu sĩ mà nằm ngửa, thì không có được. Cho nên vì vậy người tu sĩ mà nằm võng, thì sai cái hạnh của người tu rồi, không có đúng cái phạm hạnh. Cái võng nó có cái tiện lợi, là chúng ta giăng chỗ nào đó chúng ta nằm cũng được hết. Nhưng mà không tốt, nó không đúng cái oai nghi. Tránh nằm võng. Mà ở trong các chùa Đại Thừa, thường thường là các sư, các thầy hay treo võng nằm, để lúc lắc. Đó là cái cách thức chạy theo cái dục của thế gian.
Chúng ta sống (…) Cho nên khi mà chúng ta có một cái ghế xếp mà chúng ta nằm, ngồi ở trên ghế xếp thì chúng ta ngồi dựa lưng thì được. Nhưng khi mà trải nó nằm ra, chúng ta nên nghiêng mình (…) Đó là những oai nghi. Phải tập rồi nó quen. Còn nếu mình không tập, thì nó không quen. Chứ tập rồi nó quen. Các con sẽ nằm nghiêng kiết tường thì rất tốt, rất đẹp, và rất kín đáo. Đó là cái nằm.
(42:27) Còn cái đi, thì mấy con đi theo Chánh Niệm Tỉnh Giác. Đi thư giãn nhưng mà đi chậm chạp, đừng có vội vàng. Đi để mà tập trung trong từng bước đi của mình, đi để mà tỉnh thức ở trên thân hành của mình, thì không được đi vội, đi lật đật. Đó là những cái hành động đi.
Còn khi đứng lại, thì chúng ta cũng phải biết cái nơi đứng lại. “Không được đứng trước cửa người, dưới nhà người. Không được đứng chỗ nơi thanh vắng, mà cũng không được đứng nơi đông đảo”. Những chỗ mà đông đảo, thì chúng ta đừng có đứng cái nơi chỗ đó. Mà cũng không được đứng chỗ nơi thanh vắng, vì chỗ thanh vắng không biết nó lỡ có trộm, cướp, hay này kia người ta sẽ rình cái nơi thanh vắng.
Hoặc là có người khác, nhất là nữ một mình mình, mà đứng chỗ thanh vắng, lỡ có một người nào đó người ta làm những điều sai quấy thì mình làm sao? Tức là cái thân người nữ rất khổ. Cho nên khi đó, thường thường là mấy con khi mà xuất gia rồi, thì mấy con đừng có đi một mình, mà phải ít nhất có hai người, có gì thì còn bảo vệ với nhau.
Cho nên trong thời đức Phật đó, thì Tăng đoàn nam ở chỗ nào, thì cách đó thì Tăng đoàn nữ sẽ ở gần đó chứ không có được ở xa. Nhưng mà ở riêng, chứ không có được ở chung. Nhưng mà Tăng đoàn của chư Tăng thì ở cách xa với Tăng đoàn của nữ. Để có sự bảo vệ cho nhau. Chứ nếu mà mấy con ở riêng rẽ, thì người đời nó sẽ hiếp đáp mấy con. Cho nên do như vậy, mà trong thời đức Phật khi mà cho người nữ xuất gia thì đức Phật đã dạy cho chúng ta biết những cái điều này, để bảo vệ cho giới nữ. Rất là khổ. Bởi vậy, nó không có đơn giản. Nó rất khó chứ không phải dễ.
(44:22) Đó là những bộ Giới để dạy Phạm hạnh cho mấy con chứ không có gì hết, mà Thầy làm chưa có xong. Cho nên bây giờ mấy con ham xuất gia sớm, thì phải cố gắng nghe lời Thầy dạy những cái oai nghi, tế hạnh như vậy.
Và đồng thời con đọc lại một trăm giới chúng học mà Thầy đã dạy trong bộ Giới Đức Làm Người. Thì con đọc lại một trăm oai nghi đó, để mình thấy những cái oai nghi. Để mình giữ được cái nào, thì mình cố gắng mình giữ. Còn cái nào nữa, thì lần lượt những cái lớp Thầy sẽ mở cho số tu sĩ mà được về bên Thầy - là tu sĩ đó, có những lớp học oai nghi, tế hạnh. Tức là học Giới luật đó. Thì chắc chắn là Thầy sẽ phải đảm nhận những cái lớp đó để dạy cho số đệ tử xuất gia của mình, trong đó có nam và có nữ. Chứ từ lâu tới giờ Thầy chỉ nhận dạy cho mấy con tu, chứ đâu có dạy Giới luật. Nhưng mà chính dạy tu, tức là dạy Giới hành. Giới hành tức là cái pháp tu.
Cho nên vì vậy mà nhớ những lời Thầy giảng dạy hôm nay, để giữ gìn những oai nghi, tế hạnh: cách thức nằm, cách thức đi, cách thức ngồi.
Ngồi, nhất là người nữ, không nên ngồi chồm hổm. Ngồi thì phải ngồi xếp bằng, hoặc ngồi ở trên một cái ghế, đừng có ngồi chồm hổm. Cách thức của người tu sĩ không được ngồi chồm hổm. Cho nên khi mà chúng ta tu pháp Thân Hành Niệm, thì chúng ta mượn cái thế ngồi chồm hổm để chúng ta đứng dậy mà thôi. Chứ không phải là chúng ta ngồi chơi mà ngồi chồm hổm. Cho nên mấy con nhớ kỹ trong cái vấn đề oai nghi mà ngồi như vậy.
Mà ngồi trên một cái ghế mà tréo chân, bắt chân, gác đầu gối chân này gác lên đầu gối chân kia, thì không được. Mấy con ngồi như vậy không có được. Cho nên chúng ta không, người nam cũng vậy, mà người nữ cũng vậy. Chứ không phải là nữ không cho ngồi, mà nam cho ngồi. Người nào cũng vậy, ngồi cứ thả chân xuống vầy. Chúng ta để hai cái bàn chân tréo vậy, là để giữ cái thân mình kín đáo, chứ không phải. Còn khi mà hai cái chân này nó gác lên cái đầu gối chân này kia, kêu là ngồi chữ ngũ đó, thì là ngồi như vậy không có được mấy con. Cho nên chúng ta tránh. Ngồi chồm hổm không được, ngồi hai chân gác lên nhau không được. Đó là tránh được cái điều kiện ngồi.
(46:36) Ngồi trên ghế, bình thường ngồi dựa lưng như thế này. Đó, ngồi vậy thì được. Nhưng khi mà ngả lưng nằm trên ghế thì nghiêng qua các con, đừng có nằm ngửa. Đó nhớ cái cách thức nằm. Mà nằm ngủ trên giường cũng vậy.
Mà sau này các con thọ giới rồi, thì các con sẽ có một miếng vải làm cái tọa cụ, xếp lại thì ngồi, mà trải ra thì làm cái tấm vải trải ngủ. Nghĩa là mình đi đâu, đi đến bất kỳ chỗ nào thì các vật dụng cũng có những cái điều kiện thuận tiện để cho mình ngủ. Lấy tay thì làm gối, không có mang gối theo. Nghĩa là lấy cái tay co lại làm gối mà nằm. Còn cái tấm tọa cụ là nó trở thành cái tấm trải giường cho mình nằm. Và đồng thời nó xếp lại vuông, thì nó trở thành tọa cụ để mình ngồi thiền. Đó là cái cách thức của người tu sĩ.
Và đồng thời, người nữ thì như mấy con mà xuất gia thì có hai bộ đồ ngắn và một cái y thượng. Còn hoàn toàn không được thừa hơn. Bởi vì người phụ nữ thì như vậy, còn người nam thì người ta chỉ có một bộ đồ mà thôi, với một cái y thượng người ta thôi. Đó là “ba y một bát”. Còn mấy con bên nữ thì mấy con được hai bộ đồ. Là tại vì mấy con nó khác người nam, cho nên nó phải có hai bộ đồ để bộ này giặt, bộ kia thay.
Còn người nam thì người ta có thể giặt cái y hạ và y trung, thì người ta có y thượng. Còn mấy con có y thượng, nhưng mà sự thật ra thì y thượng của mấy con để giữ gìn cái tướng phước điền, hơn là lấy cái y thượng mà che thân của mấy con. Vì vậy mà mấy con phải có cái bộ đồ mặc kín đáo hơn, đó là hai bộ đồ, thì như vậy nó mới được. Cho nên trong những cái oai nghi, cái cuộc sống của người tu sĩ, phải chuẩn bị cho họ hẳn hoi, để đời sống họ nó vừa đủ, nó không thừa, nó mới là giải thoát.
(48:41) Những cái điều mà Thầy nói như vậy lần lượt thí dụ con tập, chứ không phải ngay bây giờ. Ngay bây giờ là làm cái lễ thế phát mà thôi. Sau đó học Giới luật, sống cho đúng Giới luật. Rồi lần lượt Thầy sẽ truyền, từ tập giới Sa Di cho đến Thức xoa, cho đến Tỳ kheo ni, tất cả những Giới luật này đều được học, và được sống – Sống cho rất đúng, không còn sai phạm nữa.
Và các con nhớ rằng khi mình sống đúng Giới luật, là tâm mình mới ly dục lần mới hết được. Nghĩa là “ly dục ly ác pháp” lần mới hết. Bởi vì Giới luật là cái pháp vô lậu. Vì vậy mà mình tập sống cho đến khi mà mình trọn vẹn không còn vi phạm Giới luật, là cái tâm “ly dục, ly ác pháp” nó gần xong rồi.
Cho nên chúng ta muốn sống như vậy, thì một bên là chúng ta có pháp hành, tức là Giới hành làm cho cái tâm nó giữ gìn Giới luật càng ngày càng nghiêm chỉnh hơn. Cho đến khi mà Thầy gọi các con: “Thiện lai Tỳ kheo”, thì lúc bấy giờ các con đã trở thành những bậc A La Hán vô lậu hoàn toàn. Đó là mới đúng nghĩa của người tu sĩ của đạo Phật.
(49:49) Vậy thì bây giờ Thầy sẽ chải tóc để xuống tóc con. Con hãy quỳ trước Phật.
(50:12) Chúng ta thường hay giết hại chúng. Thí dụ như bây giờ các con thấy như cái loài gia súc, nó thấy con người chúng ta (…) dữ tợn, thường bắt chúng ăn thịt, thường giết hại chúng.
Thầy nói thật sự, bây giờ có một cái người đó (…). Mà đối với chúng ta nhìn thì đẹp, nhưng mà đối với một cái loài vật, nó không phải vậy. Cũng như mấy con nghĩ, khi xưa mình nhìn con người chúng ta mấy con biết sao không? Khi xưa nhìn con người chúng ta đã thấy từ cái tâm, cho đến cái thân xác của chúng ta, hoàn toàn là bất tịnh, hoàn toàn là dơ bẩn. Không có gì mà sạch sẽ mà trong cái thân của chúng ta.
Cho nên cái người mà gọi là chư Thiên, là cái người đã thấy rõ được bất tịnh, đã thấy rõ được mười cái điều ác mà con người của chúng ta hoàn toàn là ở trong những cái điều ác đó. Cho nên không hở ra thôi, mà khi hở ra thì giận dữ. Khi hở ra thì đủ cách, có thể mà giết hại người khác được, giết hại loài vật khác được.
Cho nên cái con người - thân của chúng ta - là bất tịnh. Nó dơ bẩn, ghê gớm lắm. Chứ nó không có đẹp đẽ. Người thì mặt như thế này, người mặt như thế khác, nó thể hiện qua cái sự hung ác của nó, qua cái nghiệp lực của nó, chứ nó đâu có tốt lành gì.
Cho nên có nhiều người nói dâng hoa cúng Phật để cho mình sinh ra được đẹp đẽ, cái sự đẹp đẽ đó nó có ra gì khi mà… Như các con nghĩ lúc mà mấy con còn trẻ, mà còn là những cô thiếu nữ, mấy con thấy nó đẹp. Nhưng mà sự thật cái đẹp của cái con người chúng ta nhìn với nhau, là nó gợi những cái coi như là đi theo dòng của quy luật nhân quả. Nó gợi cái lòng dục mà thấy nó đẹp.
Chứ như chúng ta quán đi, chúng ta suy tư theo Phật, thì cái đẹp đó nó chẳng có cái gì. Hoàn toàn cái thân của chúng ta nó chẳng ra gì hết. Cho nên đối với cái gọi là chư Thiên, mà nhìn cái thân con người, thì người ta thấy nó xấu xí vô cùng. Nó không có cái gì mà đẹp đẽ ở đó hết. Cho nên vì vậy mà tại sao đạo Phật không để cho chúng ta còn mái tóc trang điểm cho đẹp, mà lại cạo đi, tức là làm cho chúng ta xấu đi, làm cho chúng ta không còn đẹp đẽ nữa.
(52:42) Cho nên trong mười cái Giới Đức Thánh Sa Di đó, Thầy có nhắc có một cái cô người Nhật Bản, cái cô này rất đẹp đến xin một vị Thiền sư tu hành. Nhưng mà cái vị Thiền sư này nói cô đẹp quá, tôi không chấp nhận cô tu đâu. Bởi vì cái người đẹp khó tu lắm. Cho nên khi đó, cô này về mới hủy hoại cái mặt của mình làm cho xấu mới đến xin, thì vị Thiền sư này mới cho cái vị này tu hành.
Thì sự thật ra, thì cái câu chuyện huyền thoại như vậy. Chứ ít ai mà có cái gương mặt đẹp mà họ đi làm cho họ xấu. Họ làm cho đẹp nữa thì họ làm, chứ họ đâu có làm cho họ xấu, các con hiểu điều đó không? Cho nên ở đây là cái huyền thoại như vậy. Chứ ít ai mà cái mặt như thế này, thì đem ít xút tạt trên đó cho cái da này nó đùn lên, nó làm hơn là cái mặt của con quỷ, thì chắc không ai dám hết, điều đó không bao giờ người ta làm.
Nhưng mà điều kiện người ta muốn nêu câu chuyện đó ra, để thấy rằng cái thân của chúng ta nó không có bằng cái sự tu tập, nó không có bằng cái con đường mà tu tập giải thoát. Để không chúng ta chấp là mình tu tập để mình đẹp trai này kia, hoặc là đẹp gái này kia. Điều đó là điều sai.
Bởi vậy trong đạo Phật các con thấy, rõ ràng là đức Phật không chấp nhận ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Thế mà Đại Thừa thì chấp nhận, còn chính Nguyên thủy không chấp nhận. Cho nên đức Phật, trong những điều kiện của Bà la môn, có nói rằng nếu một Bà la môn thì phải đẹp đẽ, tướng phải tốt, phải đẹp đẽ. Thì đức Phật nói đẹp đẽ mà ăn trộm, ăn cắp, nói láo, vọng ngữ, tà dâm, uống rượu, thì cái đẹp đẽ đó nó có xứng đáng là một Bà la môn hay không? Cho nên một vị Bà la môn trả lời, như vậy dù đẹp đẽ mà tham lam, trộm cắp thì không phải là Bà-la-môn. Thì đức Phật chấp nhận, cho đó là những vị Bà la môn, đã chấp nhận.
(54:39) Như vậy rõ ràng là đức Phật bác cái vẻ đẹp, đâu có nói người xấu, người đẹp. Người nào cũng là con người, chứ không phải là người đẹp mà mới tu thành Phật. Cho nên “ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của đức Phật” thì sự thật ra, cái điều này là của Đại Thừa bắt chước Bà la môn mà thôi, chứ còn đối với đạo Phật thì không cần.
Cho nên cuối cùng thì đạo Phật chỉ lấy cái Giới luật và cái Trí tuệ mà thôi. Nghĩa là: “Giới luật ở đâu, thì trí tuệ ở đó”. Người mà xấu, người không có thuộc kinh sách, người không có cúng bái, tụng niệm, người không bảy đời của dòng Bà la môn, mà người này giữ gìn Giới luật nghiêm chỉnh, thì cái người này vẫn xứng đáng là Bà la môn.
Đó như mấy con thấy, ở trên cái Giới luật mà người ta đạt được, chứ không phải cần. Cho nên từ đây về sau, trong cái giới của Phật không còn trang điểm.
Cho nên cô Diệu Minh hôm nay cạo bỏ tóc, tức là cạo bỏ cái sự đẹp, cái sự cố chấp đẹp đẽ của mình. Cho nên chỉ còn một cái đầu không còn tóc tai, lấy gì mà trang điểm. Đâu còn cài hoa, đâu còn cài lược trên đó nữa? Đó là làm cho chúng ta không còn, mất đi cái sự đẹp đẽ của mình. Đó từ đây về sau chúng ta trở thành một vị tu sĩ, phá vỡ đi những cái đẹp này.
Đối với Thầy mặc cái y như thế này vẫn là đẹp, các con thấy không. Còn ngày xưa đức Phật mặc cái y như thế nào? Mặc cái tấm vải lượm từ thây ma, rồi kết nó lại. Rồi miếng thì ẩm mốc, miếng thì như thế này thế khác, kết lại mặc. Đó là làm cho mình xấu.
(56:18) Còn mặc như Thầy đây quá đẹp, vải này quá tốt, cho nên Thầy cũng là cái người đang phạm Giới.
Vì những cái y mà của Thầy đã rách nát, Thầy đã làm những cái tấm trải giường, cho nên bây giờ không lẽ mà trong cái lễ này, mà Thầy lại lấy cái y rách nát đó mà đắp lên. Đạo Phật thì rất có vệ sinh, khi cái y nó lem luốc, nó dơ như vậy, mặc dù mình giặt sạch, nhưng vẫn thấy cái ông thầy đó ở dơ. Cho nên buộc lòng Thầy phải lấy cái y này vấn lên mình để cho nó giữ sạch sẽ, nghiêm trang trước. Chứ còn đối với Thầy thì bình thường nếu vấn cái y rách, cái y mà loang lổ, nhưng vẫn sạch sẽ, thì cái đó là cái rất đẹp của một người tu. Còn mặc cái y mà vải cho đẹp, cho tốt, bóng, thì cái này không đúng cái hạnh người tu. Nó còn phạm vào cái Giới, ‘thích trang điểm’.
Nhớ kỹ khi mà cạo tóc rồi, thì đó là cạo hết trần cấu của thế gian. Làm cho chúng ta xả hết, bỏ hết tất cả những ái kiết sử. Chúng ta cũng từ đây, từ cái mái tóc này rũ xuống, không còn gì chuyện thế gian nữa. Cho nên khi mà xuất gia rồi, thì nhớ cạo tóc rồi thì chúng ta bỏ hết. Bỏ hết, không có còn nay đứa con này, mai đứa con kia. Bởi vì “ly gia cắt ái” là phải đoạn trừ. Đoạn trừ cho thật sạch. Các con nhớ kỹ như vậy mới xứng đáng là người “ly gia cắt ái”.
Cho nên các con tưởng mình chỉ cạo đầu rồi mình mặc áo thôi, không phải. Nó cả một cái tâm trạng của mấy con nó phải cạo cho sạch. Cạo được hay không, mấy con phải ráng cố gắng.
Hôm nay Diệu Minh cạo, sự thực Thầy rất lo. Cạo tóc bên ngoài, còn cạo cái tâm mình được chưa đây? Không biết nó cạo được không đây, rồi nó sẽ tạo thành tội lỗi, chính nó, chính bản thân nó đã tự tạo tội lỗi, và tội lỗi cho Phật giáo nữa.
(58:25) Cho nên phải cạo tóc bên ngoài, mà còn cả cạo trong tâm hồn của mình nữa. Những cái điều mà ràng buộc mình từ nhiều đời, nhiều kiếp, đó là ái kiết sử, đó là cái dòng nhân quả, cái quy luật nhân quả. Mà hôm nay chúng ta cạo tóc, chúng ta cắt đứt cái quy luật của nhân quả. Các con nhớ, khi mà cạo tóc tức là cắt đứt quy luật nhân quả.
Nhưng mà cắt đứt quy luật nhân quả trong hình tướng, hay là trong tâm niệm của chúng ta? Nếu cắt đứt quy luật của nhân quả là phải cắt đứt trong tâm niệm của chúng ta, mới thật sự là cắt đứt. Còn nếu mà cạo tóc, cắt tóc bên ngoài, mà trong tâm chúng ta vẫn còn nguyên tình cảm “thất tình lục dục”, còn ái kiết sử, đối với chùm nhân quả của mình còn thương, còn ghét, còn giận, còn hờn, thì tất cả những cái này đều là sai. Cho nên chúng ta chưa cạo sạch được tâm chúng ta. Cạo tóc chỉ là bên ngoài hình thức mà thôi.
Thôi bây giờ xong rồi, con đảnh lễ Phật con.
Tăng đoàn ni, mình sẽ ở trong đó sinh hoạt trong tập thể Tăng đoàn cho đúng cái hạnh sống của một người tu sĩ hoàn toàn “ly gia cắt ái”, chứ không phải mình còn sống trong gia đình mình nữa.
Nhưng hiện giờ thì con cứ về sống ở trong gia đình của mình. Cố gắng những oai nghi, tế hạnh, Giới luật mà Thầy đã soạn cho người Sa Di, thì con hãy đọc và cố gắng mình sống cho đúng. Bây giờ hiện giờ thì con luôn luôn ở trong thất mà lo tu tập, và tập sống trên cái hạnh.
(01:00:24) Rồi sau một năm con trở về, khi mà thấy mình trong một năm mà sống đúng được những cái hạnh rồi, thì mình trở về thì Thầy sẽ truyền cho thọ giới Sa Di. Và nếu thấy chưa sống đúng, còn sai sót, thì con hãy ở lại trong gia đình của mình, ở trong nhà của mình mà tập nữa. Tập cho nó đúng, rồi mình mới trở về đây. Để mình coi như là lìa bỏ hết thế gian, để trở thành một người tu sĩ thật sự trong một cái giáo đoàn của Ni chúng. Như vậy mới rõ ràng là mình quyết tâm “ly gia cắt ái”. Chứ còn nếu không thì mình cũng không cắt hết nổi.
Cho nên bây giờ thì con còn sống ở trong gia đình, để hoàn toàn giúp đỡ cho gia đình mình. Còn những cái gì chưa ổn, để giải quyết cho nó ổn. Sau khi chừng nào mà ổn xong, và Giới luật, oai nghi, tế hạnh của mình được nghiêm chỉnh, thì trở về thì Thầy sẽ cho thọ Giới.
Và còn những gì sơ sót trong sự tu tập, trong Giới hạnh, thì sẽ được sự hướng dẫn và dạy bảo của Thầy hơn nữa. Để rồi thì mình được trở về, để mà giúp đỡ cho gia đình mình, để cho thấy những cái hạnh sống của mình, để những người thân của mình họ có hướng về với Phật. Và đồng thời sau những thời gian tu tập như vậy, thì đến một lúc nào đó thì chúng ta rời bỏ khỏi gia đình, để trở thành một người tu sĩ, thành một người khất sĩ đi xin ăn mà thôi, qua cái giáo đoàn bên Ni của các con. Thì trong khi đó thì coi như là con cố gắng hết mình như vậy, thì mới trở thành người tu sĩ xứng đáng, là người đệ tử của Phật. Nhớ kỹ chưa? (…)
Tu sinh Diệu Minh: (…) Con kính bạch Thầy!
Hôm nay là ngày vinh dự nhất của con (…)
Trưởng lão: Đến đây Thầy xin tuyên bố buổi lễ thế phát cho cô Diệu Minh chấm dứt.
Bây giờ còn có thì giờ, để tiếp tục mấy con còn có thưa hỏi Thầy gì thêm không?
(01:02:51) Rồi, con cứ ngồi đó rồi con trình Thầy là được rồi con.
Tu sinh 1: Kính bạch Thầy, xin Thầy chỉ dạy cho con pháp môn con tu tập. Thì con tu qua mười năm rồi, mà cũng qua nhiều thầy thì thầy nào chỉ dạy tùy theo kinh nghiệm của thầy đó, con cũng tin lời theo. Thì nay con xin trình những pháp con tu để Thầy chỉ dạy lại cho con, con đi cho nó đúng.
Kính bạch Thầy, đầu tiên là con tu pháp của ngài Mahasi. Qua thời gian ba năm, sau có ngài Kim Triệu về dạy cho con pháp Thọ Quán Niệm Xứ, thì con đi được từ năm 2000 đến 2002. Đến 2002 cũng vẫn ngài Kim Kiệu về, thì ngài dạy là đi theo Niệm Tâm, chứ không có còn đi theo môn pháp của ngài Mahasi, mà cũng không đi theo cái Thọ Quán Niệm Xứ nữa.
(01:04:29) Thì từ đó đến nay con cứ theo dõi tâm. Ngài Kim Triệu ngài có dạy là cứ theo dõi tâm, khi nào tâm sanh khởi như thế nào, thì biết như thế đó. Nếu tâm sanh khởi ác thì để nhìn, coi thử nó sanh khởi ác. Và nó sanh khởi ác rồi cứ nhìn và nhìn đến khi nó hết. Rồi thì nhìn tâm khi mà nó sanh khởi bất thiện pháp, thì biết bất thiện pháp. Nếu nó sanh khởi thiện pháp, thì biết thiện pháp. Thì như vậy con cứ mải theo cái phương pháp của ngài Kim Triệu chỉ dạy cho con đến nay như vậy.
Con về đây con nghe Ngài giảng, con kiểm soát qua những cái phần con tu, thì những cái con bị sai lệch là chính con. Có những cái mà chưa xả bỏ, thì con lại quen đi, con lặng lại con cố chấp. Ngài dạy cho con “ba giờ buổi sáng thì thức dậy tu, Đi Kinh hành một tiếng, ngồi một tiếng” con cứ giữ theo cái quy luật đó mà con làm.
Thì con cố chấp vào giờ giấc quá, rồi đến khi mà con nhìn vào tâm con, con thấy con Đi Kinh hành nó cũng muốn hôn trầm rồi, thì con lại cứ nghĩ đi theo cái giờ thôi, chứ con không dám bỏ rời giờ. Vô ngồi thì nó hôn trầm quá mức. Rồi đến khi vô ngồi, hôn trầm nó hết cả tiếng đồng hồ luôn mà con chẳng biết, hôn trầm nó mơ mơ màng màng đó Thầy. Rồi khi mà hết rồi, thì con đứng dậy con đi. Con Đi Kinh hành thì con cũng theo dõi thân, tâm nữa. Đến khi đi mà đúng một tiếng nó cũng qua hôn trầm tiếp. Con cũng không biết là vì sao con cứ mãi vậy con làm.
Thì cái ngày con về đây con nghe Thầy chỉ dạy khi mà phá hôn trầm, thì con cũng theo lời của Ngài. Con cũng về đây đúng một tuần con cố gắng phá hôn trầm theo lời Ngài chỉ dạy, thì con thấy có phần đỡ nhiều lắm. Nhưng mà nó vẫn chưa hết.
(01:06:34) Và tới bây giờ, chính ngay cái pháp con bây giờ thì con chỉ biết nhìn tâm. Mà khi tâm sanh khởi như thế nào, con chưa biết.
Mà trước đây thân con bệnh dữ lắm, mà con không thể trị bệnh được. Con uống thuốc, đi bác sĩ rồi dữ lắm. Đến bây giờ cái ngày con về đến đây là con còn đang uống thuốc ở nhà, nhưng con quyết tâm con đi. Thì con có suy nghĩ nếu vô thường đến, thì không biết là đến với con trước, hay là đến với Thầy trước.
Mà khi con đợi bệnh bớt con mới đi, thì nếu mà con không đủ duyên, đủ phước để gặp Thầy thì cả một cuộc đời con quá đau khổ đi. Vì cũng đã qua nhiều thầy dạy. Rồi nói là ngài Kim Triệu, thì lâu lắm ngài mới về được mười ngày thôi, hai năm hay hoặc năm rưỡi ngài mới về Việt Nam được có mười ngày. Phật tử thì quá đông, không làm sao con trình được hết việc tu hành của con hết. Con thấy vậy, con quyết tâm con ra đi.
Con về đến nay đó, thì hiện giờ con đang tu là con phá hôn trầm. Khi hôn trầm đến, theo như lời Ngài dạy, là con thực hành coi như là một người gác cổng thành vậy, cứ ngồi vậy đó. Rồi con Đi Kinh hành con thấy nó phá hôn trầm, thì con cũng đi tiếp tục. Thì Ngài dạy đi giở chân sâu, con giở chân sâu. Giở chân sâu hơn, con cũng giở chân sâu hơn. Con làm như vậy đó mà đến khi nó mỏi người quá, nó mệt thì con lại dưới đất, con ngồi tựa lưng. Con thở chưa hết hai hơi thở, mà hôn trầm nó đến dập con, con cũng (…), giúp con cái là con nhìn thấy hôn trầm thì con lại đứng dậy con đi tiếp. Mà cứ thấy hôn trầm mãi đó Thầy.
Dạ bạch Thầy, Thầy hoan hỉ chỉ dạy cho con.
(01:08:28) Trưởng lão: Thì đầu tiên, bây giờ con thấy bị hôn trầm, là con tu pháp gì nữa nó cũng không được tỉnh táo lắm đâu. Cho nên mình phải tìm cách mình phá hôn trầm.
Phá hôn trầm thì phải có những cái pháp phá. Chứ không phải là mình muốn phá như thế nào là mình phá được. Vì vậy đầu tiên, mình thấy mình bị hôn trầm nhiều thì cái giờ giấc mình lui lại. Tu ít lại, đừng có tu nhiều. Thay vì một buổi ba tiếng thì mình tu hai tiếng thôi. Cho mình giữ gìn cái giờ giấc cho nghiêm chỉnh mà mình chiến đấu với nó.
Nó còn hôn trầm nữa trong giờ tu thì nhất định là chết bỏ, chứ nhất định là cũng phải sử dụng những cái phương pháp đi Kinh hành, mình phá cho được, chứ đừng có để.
Bởi vì mình ngồi, mà có hôn trầm, thùy miên thì ngồi không tốt đâu, cho nên buộc lòng phải di Kinh hành. Đi Kinh hành nó có nhiều cách đi, chứ không phải mỗi một cách đi. Cho nên cái cách mà Đi Kinh hành để phá hôn trầm đó là đúng pháp, bởi vì đó là đi Chánh Niệm Tỉnh Giác mà, cái tên của nó là Chánh Niệm Tỉnh Giác, để nó làm cho mình đừng bị hôn trầm. Nhưng mà mình phải thiện xảo, khéo léo trên cái bước đi của mình. Khi bị hôn trầm, thì mình đừng có đi với một cách đi như người tu sĩ, không có được. Mình đi vậy nó (…)
Nếu mà phá hôn trầm, thì bây giờ đầu tiên con bị cái hôn trầm nó nặng, mà từ lâu tới giờ con không biết cách phá, cho nên nó còn dai dẳng hoài. Phá nó, thì bắt đầu mình phải tập Chánh Niệm Tỉnh Giác, Thân Hành Niệm. Hai pháp này phải tập cho nó thuần.
Khi mà nó thuần rồi, thì hễ có mặt hôn trầm khi mình nhiếp tâm, cái buổi mình tu- bảy giờ cho đến chín giờ, thí dụ hai tiếng đồng hồ- thì mình biết rằng trong cái khoảng giờ nào nó sẽ bị hôn trầm. Thì trong khi đó biết cái giờ đó sắp đến, thì đừng có để cho nó hôn trầm. Nó còn tỉnh mình lo mình đi Kinh hành trước đi, thì nó không có lọt hôn trầm vô.
Còn lỡ mình gục rồi, mình phá, nó khó phá lắm. Cũng như bây giờ con tỉnh, mà con biết chừng lát nữa, mình ngồi yên là một lát nữa nó vô, cho nên mình không có ngồi, mình đi, mình đi Kinh hành.
Rồi tập những cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác hay là Thân Hành Niệm thì mình cứ liên tục, mình đừng có tập cái pháp khác. Khi nào tỉnh, như tụi con bây giờ mà tỉnh đó, thì con chỉ tập Định Niệm Hơi Thở và tất cả những pháp khác là đi Kinh hành mà thôi.
Định Niệm Hơi Thở nó có những cái đề mục, mình phải nhiếp tâm, an trú trong hơi thở, rồi mình phải dẫn tâm mình, cho thân của mình và tâm mình nó được an tịnh. Con hiểu không, mình phải tập những cái đó.
(01:10:44) Rồi mình dẫn tâm bằng hơi thở thì mình định tĩnh. Nó định tĩnh, nó tỉnh, nó không có buồn ngủ. Thì cái đó là cái lối dẫn tâm, phải tập. Khi nào nó tỉnh táo thì tập.
Mà khi nào nó biết rằng cái giờ đó nó sẽ buồn ngủ, thì con hoàn toàn lại ôm Chánh Niệm Tỉnh Giác và Thân Hành Niệm mà tập thôi.
Thì nó có những cái pháp. Mà phải tập luyện cho nó quen những cái hành động đó đi. Do đó khi nó chưa có, mà mình đã tập cái pháp đó, thì qua khỏi cái giờ đó nó không buồn ngủ nữa, nó hết buồn ngủ rồi.
Mà nó qua cái giờ buồn ngủ đó rồi, thì nó tỉnh, thì mình lấy cái pháp khác mình tu. Chứ mình không có đi Kinh hành nữa, mà mình cũng không có tập Thân Hành Niệm nữa, mà mình tu cái pháp khác.
Thí dụ như qua cái giờ đó mà tỉnh rồi, mình mới đặt cái niệm mình tu Định Vô Lậu. Là vì mình thấy cái tâm của mình bây giờ nó còn ham ăn, thì mình đặt cái niệm vô lậu bằng cái: “Thực phẩm bất tịnh”, để cho mình nhàm chán nó.
Bây giờ mình thấy cái tâm mình nó đang có những cái dục, cái ham muốn gì, thì mình phải đặt cái niệm ham muốn đó – nó ham muốn cái dục gì, thì lấy cái dục đó đặt thành cái niệm – để quán cái dục đó nó vô thường, nó khổ như thế nào. Để làm cho nó nhàm chán cái dục đó thì nó yểm ly được, nó không tham đắm, con hiểu không?
Đó là mình phải biết mình, mình đang bị cái gì. Bây giờ cái tâm của con nó đang bị hôn trầm, thùy miên, thì con phải dùng cái pháp gì để đối trị nó.
Đạo Phật nó phải vậy. Chứ không phải là cứ ngồi nhìn nó, hay hoặc là thế nào, mà nó hết được. Cũng như con ngồi con buồn ngủ, nó ngủ. Nó không có thể nào nó tỉnh lại được. Mà chỉ có mình động thân mình đi tới đi lui, mình chịu khó, mình đừng có lười biếng, thì nó sẽ được. Mà nó có những phương pháp phá. Mình đi, cách thức đi phá hôn trầm khác, mà cách thức đi với cái tâm tỉnh giác khác. Rồi cách thức mà đi Thân Hành Niệm, dùng những tác ý liên tục trên cái hành động của nó để phá cái hôn trầm.
Đây là thầy Chơn Thành ngồi gần bên đây. Thầy là người mà rất là khổ đau với cái sự hôn trầm, thùy miên. Mà hôm nay thầy phá sạch, không còn nữa. Thì các con biết, nó phải có một thời gian tu tập để mà đối trị với cái bệnh đó. Cũng như con bị hôn trầm, thùy miên nặng, là con đang bị cái nghiệp nó nặng. Vì vậy mình phải tập trung dồn hết sức lực mình vào cái chỗ đó để phá. Mình phá sạch rồi thì nó chẳng có gì hết.
(01:12:50) Nó có pháp, chứ đừng có tìm cách này, cách kia. Cũng như Thầy đã nhắc đó, như bị hôn trầm, thùy miên mà đi tắm, rồi mình đánh một đường võ, đánh một đường quyền hay hoặc là tập một đường giẫm chân nào đó cho nó tỉnh, thì nó sai pháp Phật.
Ngay tại đó mình dùng cái câu tác ý: “Với tâm định tĩnh, tôi biết tôi hít vô. Với tâm định tĩnh, tôi biết tôi thở ra”. Bây giờ nó không định tĩnh, nó buồn ngủ rồi, mình cứ nhắc nó. Lấy cái pháp đó mà đối trị nó thì cái pháp đó thành cái lực cho con, con hiểu không? Đã luyện được, đủ được thành cái nghiệp, trở thành cái lực để cho mình sử dụng sau này.
Còn con đi ra tắm, cái lực tắm làm sao có, con hiểu không? Cho nên nó sai pháp rồi, nó mất rồi. Thay vì có cái này mình mới có được cái lực. Mà có cái này nhưng lại không chịu tu cái pháp để cho nó có cái lực. Mà cái lực này không những dẹp được cái thùy miên, hôn trầm, mà nó còn dẹp cả những cái khác được, cái mục đích của nó mà. Cái pháp của Phật nó như vậy, mà nó không phí thời gian con?
Tu sinh 1: Kính bạch Thầy, bây giờ con cũng (…) có làm sao không Thầy?
Trưởng lão: Thực sự ra thì con nên đi ở trong một cái (…) Thì trong khi con đi phá hôn trầm thùy miên, nó không còn phải đi một cách nhẹ nhàng, một cách uyển chuyển như cái hạnh của một người tu nữa. Mà tôi đang bị một cái bệnh, bệnh tim, cho nên là tôi phải sử dụng cái lực đi như thế nào, để mà phá nó. Cho nên khi đi mà nện cái chân mạnh để làm động nó, để cho nó khỏi buồn ngủ.
(01:14:41) Mà tốt hơn hết là con tập cái pháp Thân Hành Niệm. Để mình tu mình tác ý trên từng cái hành động của mình, thì nó dễ phá lắm. Con ôm, con tập cái pháp Thân Hành Niệm thì nó rất hay, thì nó sẽ phá được. Mới đầu còn chưa quen thì nó cũng khó. Nhưng chịu khó mình luyện một thời gian sau, thì cái pháp Thân Hành Niệm nó có cái nội lực nó sẽ phá, nó làm cho mình không buồn ngủ được nữa.
Con phải tập cái pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác hay là Thân Hành Niệm, ít ra cũng phải một, hai tháng, rồi mới đánh được cái hôn trầm, thùy miên.
Chứ không phải thôi ngay bây giờ nghe nói vậy con ra dẹp hôn trầm, thùy miên liền thì không có được. Mà phải tập luyện cho nó thuần thục trong một tháng. Sau khi con áp dụng vô thì con sẽ thấy được cái lực. Nó sẽ có cái lực.
Mọi pháp đều phải tập thuần, rồi mới đối trị được cái chướng lực của nó. Mà chưa có tập thuần, thì mình đối trị không có được. Cũng như mới tu thì làm sao con: “An tịnh thân hành…” mà nó an tịnh được cái thân con khi bệnh đau? Cho nên con phải tập một thời gian cho nó nhuần những cái pháp này. Rồi sau khi nó thuần rồi thì thân con có bệnh, con tác ý là nó đối trị. Cho nên phải tập.
Cho nên người ta có thời gian tập rồi người ta có đối trị nó mới được. Còn mình chưa có tập mà mình nghe nói vậy, về mình cũng tác ý, mình cũng vậy, cũng làm: “An tịnh thân hành…”, “An tịnh tâm hành…”. Nhưng mà cuối cùng thì mình chưa có tập, cho nên nó chưa có đủ cái nội lực. Phải tập rồi nó mới có nội lực. Thí dụ như con tập một tháng chưa có, thì hai tháng. Hai tháng chưa có, thì ba tháng, sáu tháng, bảy tháng… con sẽ có, thì khi mà con nhắc: “An tịnh…”, nó an tịnh liền.
Rồi con nhắc, bỏ hôn trầm, thùy miên, thì con ôm, con tác ý nó hết liền, nó không còn buồn ngủ nữa liền. Nhưng mà phải tập luyện. Phải tập luyện cho cái pháp có cái hiệu quả, có kết quả đã, thì nó mới có hành tựu được. Chứ không phải là mình vô mình nghe nói pháp, cái mình vô mình phá ngay cái hôn trầm, thùy miên không được.
(01:16:37) Mình tập có thời gian cho nó nhuần nhuyễn, cho nó trở thành một cái cỗ xe. Để rồi cho cái cỗ xe chạy là tất cả những cái chướng ngại vật là nó phá nát hết, không còn nữa. Còn mình chưa có xe, lúc mà tập như vậy, cái hành động của mình nó nhức nhối nó gom lại. Mà lúc hôn trầm mà lại nhức nhối nữa thì nó chết, nên không được. Mình phải tập cho nó thuần.
Bây giờ ráng tập. Thí dụ như ở đây thì Thầy chỉ cái pháp nào phá hôn trầm, thùy miên. Cái pháp nào phá cái gì, cái gì, nó rõ ràng lắm. Đó như con thấy bình thường cái hơi thở nè, cái pháp mà phá cái ác pháp trên thân là bệnh đau thì có: “An tịnh thân hành, tôi biết tôi hít vô…”. Còn cái pháp mà phá cái tâm trạo cử, hoặc tâm sân si, thì: “An tịnh tâm hành, tôi biết tôi hít vô. An tịnh tâm hành, tôi biết tôi thở ra”. Đó là cái pháp để phá cái đối tượng đó, con hiểu không. Cho nên mình phải học, phải tu, mới phá được cho mình. Chứ không mình vô, mình tu mà không có pháp, thì biết đâu mình đẩy lui?
Cho nên con nghe ở trong Tứ Niệm Xứ nói: “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu”. Nói cái lời nói đó, nhưng cái pháp nào mà khắc phục được tham ưu khi mà thân nó bị bệnh? Cho nên nói Tứ Niệm Xứ thì người ta nói vậy, nhưng mà khi tu người ta có pháp để đẩy lui nó mà. Thì như vậy gọi là tu Tứ Niệm Xứ. “Trên tâm quán tâm…” thì sau đó mình có cái pháp để khắc phục được cái tâm tham ưu của nó, không còn ưu phiền, không còn khổ đau trên đó nữa. Đó mình có cái phương pháp.
Cho nên nếu mà chúng ta không tu tập những cái pháp này thuần thục, làm sao chúng ta khắc phục được tham ưu trên Tứ Niệm Xứ được? Đó làm sao mà khắc phục được nó.
Cho nên bây giờ, coi như hồi nào tới giờ pháp tu đều dạy con, nó cũng không phải là không lợi ích, nó cũng biết cách rồi. Nhưng bây giờ phải áp dụng cái đúng cách. Đúng cách để cho chúng ta đẩy lui được cái giặc sanh tử này, (…) có phải không?
Tu sinh 1: (…)
(01:18:38) Trưởng lão: Họ không bao giờ tu chứng. Người ta sống đúng phạm hạnh thì mới tu chứng.
Cho nên Thầy nói chiếc áo của người cư sĩ, mặc dù người ta không cạo tóc nhưng người ta phải sống đúng Phạm hạnh thì người ta cũng vẫn tu chứng, chứ không phải không. Nhưng mà người cư sĩ thì nó khó, nó khó là tại vì cái gia duyên người ta nó khác.
Còn mình là người cạo tóc xuất gia rồi, thì mình phải có một cái hiếu. Lần lượt mình phải giải quyết hết được những cái góc độ của gia đình của mình, để cho mình hoàn toàn mình “ly gia cắt ái”, thì nó mới thực hiện được: vừa là cái tướng của người tu sĩ, mà vừa là cái hạnh của người tu sĩ, mà cũng vừa nói lên được cái tâm của người tu sĩ nữa.
Cho nên vì vậy mà các con nên nhớ rằng trong cái sự tu tập, phải lần lượt tu tập, chứ không thể nào một ngày, một giờ được. Cho nên tập thử xem nó như thế nào.
Thì sau khi tập ví dụ như bây giờ Diệu Minh về tập thử cái ăn uống như vậy. Rồi sau đó Thầy còn coi cái ăn uống có đúng hay không chứ đâu phải…(01:19:35)
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian: 01/09/2004
Thời lượng: [58:28]
Tên cũ: 20040901-Thầy khai thị
https://thuvienchonnhu.net/audios/20040901-khai-thi-nen-dao-duc-cua-phat-giao.mp3
(00:01) Trưởng lão: …(. . .). Cái cơ thể mình… về việc món ăn này kia, nhiều khi mình ăn chạy theo dục, ăn cho ngon, cho bổ, khỏe.
(00:16) Người ta làm kinh tế, người ta làm sao cho mình có cái cảm giác ngon để người ta bán cho được người ta lấy tiền, còn chết mặc ai, chết chết kệ! Không cần biết.
Cho nên, con biết khi mà người ta sản xuất ra những chiếc xe, thì người ta đâu có nghĩ cái sức khỏe con người đâu, người ta nghĩ làm sao mà bán được nhiều chiếc xe, chạy cho nhanh tốc độ cho ngon thì họ xúm nhau họ mua, mình lấy tiền bỏ đầy túi thôi. Cho nên, sản xuất ra một số xe bây giờ tai nạn giao thông chết ai kệ, chứ họ đâu có nghĩ đâu.
Rồi kế đó là cái xe đó lại phun ra những cái chất khói, cái chất đó là chất thải, thải trong không khí làm ô nhiễm, mình hít thở rốt cuộc rồi sao có nhiều thứ bệnh, không biết gì nữa, phải không? Thời trước người ta đi xe bò, xe ngựa nó đâu có ba cái thứ đó, cho nên nó đâu có cái bệnh ngặt nghèo. Còn bây giờ nó thải ba cái này không, nó tiện lợi cái này thì nó hại cái kia.
Nhưng mà cái người sản xuất họ chỉ nghĩ họ sản xuất bán lấy tiền, chớ khi mà họ sản xuất cái đó được thì họ sản xuất cái bộ phận để mà hủy hoại cái chất ô nhiễm đó, họ làm được chứ đâu phải không làm được, nhưng mà làm được thêm thì nó phải đắt tiền, và đồng thời nó đắt hơn thì khó bán. Cho nên họ làm tiền rẻ để bán lấy tiền, còn đau bệnh thì có bác sĩ lấy tiền thêm. Còn cái tai hại là cái người mà sử dụng đó, cái người mà tiêu dùng đó cái người đó bị tai hại, chứ còn mấy người mà sáng chế, chế tạo ra thì họ làm giàu trên đó.
(01:46) Cho nên, Thầy nghĩ rằng trong khi Thầy viết sách đạo đức Thầy nói về người Thầy sẽ nhắc nhở. Cái trách nhiệm bổn phận là vì sức khỏe của con người, vì sự sống của con người trên hành tinh, không có được sản xuất ra một cái vấn đề đó để phục vụ đời sống phải phục vụ sức khỏe người ta, chứ không phải phục vụ đời sống cho tiện nghi để giết sức khỏe người ta. Cái đó phải biết, ý thức của mọi người. Mình chỉ vì kinh tế làm cho giàu, cũng như mình chế súng đạn để mình đi đánh giặc, bắn giết với nhau, để mà bán súng bán đạn lấy tiền, trong khi người ta chết như rác vậy. Cái đó là cái vô đạo đức, không đúng!
Đã là con người có trí tuệ, sanh ra có trí tuệ mình đâu phải là loài động vật, mà mình dùng cái sức mạnh, mình dùng trí tuệ mình để tạo ra cái lực, cái lực mạnh để mình giết với nhau như vậy, vậy thì mình thành con vật, giết nhau. Thành thử Thầy không chấp nhận điều đó, đó là những điều thiếu đạo đức.
(02:46) Cho nên Thầy nghĩ rằng có thì giờ nhiều để mà Thầy viết tất cả những cái điều sai, mà xã hội chúng ta đang lầm tưởng là nó đúng, nhưng mà đó là cái sai. Nhưng mà vì không có người viết ra, không có người nói lên, không có người nhắc nhở thì người ta đâu có biết. Người ta cứ nghĩ đúng chứ đâu nghĩ là sai đâu. Mà chính cái đó nó có thể tiêu diệt cái quả đất, cái môi trường sống chúng ta trên hành tinh này.
Hiện giờ cái môi trường sống của mình là nó tiêu diệt sự sống rồi đó. Mà Thầy chuẩn bị đạo đức ra đời cho kịp để nó… (. . .). Nhà nước thì coi như là sách đạo đức của Thầy hai tập, tập 1 - tập 2 đưa vô nhà xuất bản TP HCM,…(. . .). Đưa vào nhà xuất bản xã hội á, thì người ta chấp nhận liền chứ còn ông đưa thằng thì không chấp nhận. Do đó, đưa nhà xuất bản xã hội, văn hóa xã hội. Nó còn hỏi vầy nữa, hỏi Thầy nữa: “Hỏi sách này được mấy tập?”, Thầy nói: “Mười mấy tập lận”. Nghe mười mấy tập nó ham lắm, nó nói xin một tập được rồi, sau tập này mấy tập sau dễ bởi vì sách nó có lợi ích cho xã hội.
Cho nên, nếu mà Thầy viết được mười mấy tập thì nhà xuất bản nào cũng chấp nhận, bởi vì khi mà nó xin phép được tập thứ nhất, thứ hai, thứ ba thì nó dễ rồi. Do đó, thì trở về sau coi như có sự làm ăn với nhau rồi, thành ra nó…(. . .).
Thầy nói bây giờ nghĩa là có thời giờ rảnh Thầy viết không bao lâu đâu. Mười tập đạo đức này Thầy viết… nhưng mà không có thì giờ. Đầu óc thì sẵn sàng rồi, nhưng mà thì giờ không có.
(4:55) Bây giờ, thì Thầy lo Thầy chấn chỉnh lại cái đạo đức Tăng, Ni cho họ sống cho đúng cách. Cái trách nhiệm Tăng, Ni bây giờ nó cao. Sống sao đúng giới luật, nó phạm giới, nó phi thời không đúng cách của người tu sĩ Phật giáo. Không ai nói thì coi như cái người tu người ta không có biết.
Bây giờ, những cái bộ sách Thầy nói rõ ràng ra, kể như là chấn chỉnh lại tu sĩ Phật giáo hẳn hòi. Từ ông lớn đến ông nhỏ, từ trên Giáo hội Trung ương cho đến Giáo hội Tỉnh, ban đại diện đều chấn chỉnh lại hết. Nếu mà không chấn chỉnh lại thì coi đương nhiên là họ không phải Phật giáo rồi, coi như là phật tử người ta sẽ thấy bởi vì sách Thầy đưa ra thì phật tử người ta thấy đây không phải Phật giáo rồi, mà là một cái đạo, một cái tôn giáo nào nó không đúng Phật giáo, bởi vì giới luật nó hẳn hòi, đời sống phạm hạnh của tu sĩ so nó không đúng mà, nó làm sai thì làm sao gọi là tu sĩ Phật giáo được. Đó là cái chấn chỉnh rõ ràng, mà con đường nó phải đi tới chứ không thể dừng lại, cho nên đi tới chấn chỉnh chừng nào hoàn tất được cái nhiệm vụ của nó nó mới dừng.
Rồi cái nhiệm vụ của cư sĩ của các con là ủng hộ cho cái đúng chứ không phải ủng hộ cái sai. Ví dụ như bây giờ, người ta tu không đúng các con không đến chùa thì tức nhà chùa phải chịu. Tu cho đúng người ta đến, tu không đúng người ta không đến.
(06:09) Nhưng mà phải nói rằng nó còn phải một cái thời gian, và đồng thời nó còn phải có sự khó khăn chứ không phải dễ. Với cái truyền thống hai ngàn mấy trăm năm như đất nước này trời, mà bây giờ muốn lật ngược trở lại điều đó là điều khó!
Nhưng mà Thầy nghĩ rằng cái giới mà trí thức người ta đã hợp tác, người ta đã hiểu biết người ta hợp tác, thì những cái bài viết người ta lần lượt người ta sẽ theo cái hiểu biết mà Thầy đưa ra, những cái đúng thì những cây bút của họ họ sẽ cố gắng họ chấn chỉnh lại. Một người thì họ chưa nghe, nó nhiều cây bút lại, mỗi cây bút của họ là súng đại bác, một bài viết của họ là tan nát hết. Nhiều cây bút thì mấy con nghĩ đi, đập tan nát hết. Sắp sửa cái tập đặc san mừng ngày sinh nhật của Thầy, kỉ niệm ngày sinh nhật của Thầy, những cái bài viết của họ, thấy những cái ngòi bút của họ tập trung cũng đông, nó nhiều cây bút viết sẽ sáng.
(07:14) Nói chung trong cái cuộc mà trấn chỉnh nào đi nữa thì mấy con thấy rằng, những cây bút của họ là những ngòi bút mà có thể làm nên việc lớn. Đúng hay hoặc là sai, nếu sai là cái ngòi bút nó đưa đến cái chỗ sai cũng ghê gớm lắm, mà đúng thì cái ngòi bút nó vạch ra từng chút để mà chỉnh đốn lại.
Cho nên, con thấy ở ngoài mặt trận người ta dùng súng đạn không có bằng cái người cầm cây bút. Trước tiên, trong một cuộc cách mạng thì cái ngòi bút của cái người người ta cầm cây bút họ có cái công rất lớn trong cuộc cách mạng. Còn trong cái cuộc mà chấn chỉnh lại cái Phật giáo thì chúng ta cũng thế,… cho nên các con thấy cái ngòi bút của Thầy là một cái tiếng sấm, cái vang dậy, nó là cái ngòi bút chứ Thầy có la, có hét gì đâu, tại cái ngòi bút viết như vậy. Dùng cả cái tư tưởng đúng sai vạch ra từng cái sai của nó để cho thấy được cái sai, không có đúng.
(08:15) Rồi lần lượt rồi cái ngòi bút của mấy con tiếp tục đó, mà mấy con mỗi người điều có góc nhìn. Bởi vì, khi mà thấy sai rồi thì mấy con sẽ nhìn thấy sự thật, thì do cái ngòi bút con sẽ nói lên những điều mà mấy con trực tiếp thấy, nghe. Do từng đó, mà mười người như một thì Thầy nói…
Bây giờ thì nó có những cái ngòi bút cũng đang chuẩn bị để mà nó phủ lấp những cái điều đúng để mà dựng lại những cái điều sai để duy trì, duy trì những cái truyền thống sai đó, còn muốn duy trì, những ngòi bút đó bao giờ viết để bưng bít, chứ không phải không. Nhưng mà sự thật là sự thật, không thể nào mà mình che đậy nỗi được, khi mà người ta đã lật ra rồi thì không thể phủ lên. Còn khi mà người ta không lật thì mình phủ trùm lên, lớp này lên lớp kia thì được. Nhưng mà người ta lật ra rồi thì không bao giờ mà che đậy lại được, không có bao giờ mà đốt kinh sách của Thầy được, không có bao giờ bây giờ sách của Thầy làm sao con đốt, không ai đốt được hết!
Nó như vậy là nó như vậy, mà ngàn đời con cháu của mình càng ngày cái dân trí nó càng lên thì nó đọc thấy đây là sai, đúng. Bắt đầu từ đó nó sẽ cố gắng hơn để nó chỉnh đốn lại cho cái tinh thần của dân tộc, hay hoặc cái tinh thần của con người nó đi đúng.
(09:40) Cái mục đích của Thầy là dựng lại cái đạo đức của Phật giáo, nói Phật giáo là nói riêng chứ còn nói chung là cái đạo đức của con người, cho nên dựng lại cái sự sống của con người cho đúng, đó là cái lối sống từ rất lâu.
Vì vậy, mà nó còn đòi hỏi một cái thời gian rất lớn, và Thầy thấy hôm nay có một số cây bút tập trung với Thầy để làm cái công việc này. Từ những người này họ cũng có những cái khả năng cầm cây bút rồi, nhưng mà từ lâu thì họ không hiểu, cho nên bây giờ họ hiểu những cây bút của họ mới trở lại chấn chỉnh, thì nó hợp với cây bút của Thầy nó nhờ đông, chứ còn một mình không làm sao…
Rồi lần lượt những cái cây bút khác có nhiều, như bây giờ Thầy đặt như con thấy như ở trên mạng có nhiều người viết về Thầy chứ gì, nhưng mà Thầy nghĩ những cây bút đó nó trở về sau này nó hợp Thầy chứ không gì. Bây giờ nó chưa hiểu thì nó phải viết như vậy thôi, nhưng mà khi nó hiểu rồi những cây bút đó nó lại ủng hộ những cái sai, rồi từng đó nó có những cái lời nói để sám hối ở trong cái vấn đề nó đang làm trật.
Con người ta nó có trí tuệ chứ đâu phải là không trí tuệ, khi người ta không hiểu thì người ta cố chấp, nhưng mà khi người ta hiểu rồi thì cây bút đó nó trở lại nó lật ngửa, nó sâu sắc hơn, thấy rõ.
Chỉ có mình lo cho cái con đường để mà chấn chỉnh tuy là nói như vậy để mình biết để nó đi tới, nhưng mà trong đó mình phải lo nghĩ làm sao để mà củng cố được cái nền giáo dục đạo đức của Phật giáo, nó phải có những bài vở, phải có những cái giáo trình từng cái lớp chứ không thể nào mà nói suông được. Vì vậy, mà cái công trình còn phải rất nhiều, mà hiện giờ thì nó chưa có người, chứ còn có người làm thì nó nhanh. Nói chung cũng là cái duyên của chúng sanh chưa đủ, chứ cỡ mà đủ chừng có 5, 10 người mà chứng quả A La Hán như Thầy thì người ta làm việc nó mau lắm, và chừng đó nếu mà có 10 người trong vòng hai năm đó thì tất cả những cái giáo trình mà tu học từ cái lớp một cho đến cái lớp tám tức là Bát Chánh Đạo đó, lớp Chánh Kiến cho đến Chánh Định người ta sẽ làm xong.
(12:00) Còn một mình Thầy thì chắc chắn là không phải cái chuyện, con thấy một mình Thầy mà soạn những cái giáo trình đó là tám lớp này cũng phải 5, 10 năm. Mà nếu có 10 người thì họ soạn trong hai năm là xong, mà hai năm xong rồi mà 10 người như vậy, đã 10 người thì đã có cái lực lượng người ta thấy rõ ràng người ta tu chứng. Thì Thiên hạ người ta tập trung rồi thì mở tám cái lớp này không những tỉnh nào cũng có những lớp, chứ đâu có riêng gì ở Tây Ninh, hay hoặc là nơi nào đâu, mà mỗi tỉnh đều có tám cái lớp học.
Nghĩa là vô học, vô theo Phật giáo dạy đạo đức thì vô cái lớp 1, ví dụ như lớp Chánh Kiến người ta dạy cho mình từ lâu tới giờ mình đang sống trong cái nếp sống cũ. Bây giờ người ta dạy cho mình cái lối nhìn, rồi sống nó khác không có giống như cái nếp sống cũ, cho nên người ta dạy cho mình nghe người ta chửi mình không giận. Còn bây giờ nghe người ta mắng mình mình giận, tại vì mình sống từ lâu theo cái nếp cũ, cho nên nghe người ta chửi mắng mình, ai quát mình hay hoặc nói xấu mình thì mình tức. Còn khi người ta giảng dạy cái lớp này rồi, có những bài vở rồi thì mình học rồi, luyện rồi thì sau đó nghe người ta chửi mình mình vẫn thản nhiên. Bởi vì cái hiểu của mình, cái đầu óc của mình hiểu và được huấn luyện, cho nên mình nghe người ta chửi mình chó, trâu hay hoặc nói mình đồ này, đồ kia,… mình không có giận hờn chút nào, tại vì mình hiểu cái khác rồi, nó đưa cái dòng tư tưởng của mình nó đi vào cái quỷ đạo khác nó không còn ở trong đối tượng.
(13:27) Cho nên nói giải thoát đâu có phải là có cái gì khó đâu, tại mình chưa có bài bảng làm cho người ta hiểu qua góc mức độ khác, chứ không phải là gì. Rồi từng đó thì mình hiểu mình xả tâm được, cái tâm mình nó không giận, không hờn, không phiền não không tham muốn, không còn lam trộm cắp gì hết thì nó thanh tịnh thì nó đi dần tới cái mức khác nữa, nó đi sâu hơn. Chứ bây giờ còn tham muốn một bụng, còn thèm ăn, còn khát uống, còn ăn ngủ phi thời, mà bây giờ muốn đi vô thiền định thì vấn đề đó tu điên chứ, tu phải tu đúng lớp chứ tu sao mà, cái căn bản không vô mà vô giờ cứ lo ngồi thiền, niệm Phật và nhiếp tâm, thì cái chuyện này chắc là ức chế tâm rồi chứ còn gì nữa. Sáng còn thấy đói bụng, trưa còn thấy muốn ăn đồ ngon, đồ dở. Mình còn tham ăn, tham uống quá mà mình bảo mình đi vào định, định gì được?! Người ta nói hơi nặng chút mình nghe mình đỏ mặt rồi, thì thử hỏi làm sao mà gọi là mình vô định? Định gì cũng không được hết!
(14:24) Cho nên trong cái hiện tượng mình phải thấy cái tâm nó luôn luôn nó phải như thế nào trong khi nghe thấy hiểu biết mọi ác pháp, tâm mình thấy mình thản nhiên, thì lúc bây giờ tới giai đoạn thứ hai.
Chứ còn giai đoạn thứ nhất mình xả tâm, ly dục ly ác pháp mình ly chưa được mà đòi hỏi mình đi vô cái Chánh niệm, Chánh định thì không bao giờ có. Cái con đường tu nó phải có thứ lớp vậy, chứ không thể nào.
Cho nên vì vậy, mà Thầy nói mấy con sống ở trong gia đình mấy con luôn luôn lúc nào mình cũng biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, biết xả tâm, đừng có làm khổ mình khổ người.
Mỗi lời nói, các con thấy đọc trong bộ giới Sa di mà đức Phật dạy cho La Hầu La. Với một hành động đó, làm cái gì đó, đứng dậy đi thì phải quan sát cái hành động của mình sắp sửa đi để coi nó có cái lỗi gì không, nếu không có thì mình… Còn nếu mà có khổ mình, khổ người, khổ chúng sinh… như bây giờ Thầy ngồi đây mà Thầy đứng dậy Thầy quan sát dưới chân này, rồi Thầy bước đi Thầy không đạp bao giờ một con kiến. Còn mấy con dục đi, dục đứng thì thế nào cái chân của mấy con cũng đạp kiến hà, thế nào cũng gãy dò, gãy cẳng, nhiều khi… Có phải không? Đó là cái lỗi đó, vô tình chứ đâu phải mình cố ý, nhưng mà làm không có sự chú ý.
Bây giờ Thầy nói lời nói, Thầy suy lời nói này nói ra, nó có thể làm buồn lòng người ta không, có làm cho mình chướng ngại không? Hay hoặc làm buồn lòng cả hai? Nếu mà có sự buồn phiền như vậy nhất định là không nói, mà không nói ra thì đâu có làm buồn phiền. Con thấy, đức Phật dạy kỹ lưỡng rất kỹ lưỡng mà!
(15:47) Rồi từng cái tâm niệm mình khởi lên cái niệm mình phải tư duy cái niệm, cái niệm này có đau khổ cho mình không? Nếu mà đau khổ nhất định phải diệt cái niệm này, ngăn diệt nó không được để. Còn cái niệm này nó không đau khổ thì mình tăng trưởng nó lên, mình sống trong niệm này. Mà cái niệm này nó tăng trưởng, nó phát ra cái lời nói, hành động nó làm cho người ta khổ, nhất định là phải diệt cái niệm này, không được để cái niệm này.
Nội trong thân hành, khẩu hành, ý hành mà cẩn thận như vậy thì Thầy nói đời sống mình có giải thoát không? Làm sao có khổ nữa mấy con!
Mà nếu mình không như vậy thì mình phạm giới. Như bây giờ Thầy đứng dậy Thầy đi mà Thầy không ngó trước ngó sau Thầy đứng dậy Thầy phạm giới rồi. Phạm cái giới, tức là giới thân hành. Cái đó là cái giới luật của Phật, buộc lòng cái người phải giữ gìn nghiêm chỉnh không được vi phạm, đó là cái lỗi nhỏ nhặt. Mà mình không biết xấu hổ những lỗi nhỏ nhặt, mình phạm những lỗi nhỏ nhặt này thì mình sẽ có đau khổ. Dạy rất kỹ mà!
(16:47) Cho nên dạy cho mình đời sống, đời sống bằng Chánh kiến, cho nên phải tỉnh thức hành động của mình. Các con thấy, nếu mà cái người mình biết tu thì mình làm chứ có gì đâu, mình làm thì có giải thoát liền chứ có gì. Chứ đâu phải mà cầu Phật, đâu phải ngồi thiền mới giải thoát đâu. Ở đây, thiền định là ly dục ly ác, tâm thanh tịnh thì nó là thiền định chứ gì.
Tu tập đơn giản như vậy mà giải thoát hoàn toàn. Vậy mà thiên hạ làm không được chứ. Mình có lật đật gì đâu! Thầy nói cuộc đời mình không có lật đật gì hết, biết Phật pháp rồi làm từ từ, chậm chạp, không có lo gì hết. Các con thấy không, đâu có lo gì. Bởi vì, ngày ăn có bữa cơm đâu phải ăn ba bữa nữa đâu lo cho lung. Người ta ăn ba bữa người ta phải lo, còn mình ăn bữa không có lo. Ăn có bữa đâu có ăn nhiều được, mình làm chừng mấy tiếng đồng hồ là bữa có đủ ăn rồi, không cần nhiều. Phải không, các con thấy không? Cho nên vì vậy mình không có lo.
(17:43) Còn về cái về mà làm chủ thân này, thân mình đau bệnh, thật sự ra mình làm chủ cái…(. . .) của mình, làm chủ cái bệnh của mình thì Phật cũng dạy cho mình có cách thức như cánh tay đưa ra, đưa vô; hoặc hơi hơi thở hít ra, hít vô; chân bước đi tới, đi lui thì đó là Thân Hành Niệm chứ gì, cái hành động. Mà mình đối trị được cái tâm phiền não, đối trị được cái bệnh đau của mình nó có 3 giai đoạn đối trị.
Cái giai đoạn thứ nhất là phải tập luyện nhiếp phục cho được thân, tâm. Nghĩa là mình đưa tay ra biết ra, đưa tay vô biết vô, gọi là nhiếp phục.
Rồi bây giờ khi mà nhiếp phục rồi thì phải an trú cho được thân và tâm phải an trú cho được ở trên cái hành động đó, nghĩa là ngồi đây mà nghe nó không mỏi, không mệt, nghe nó an ổn thì đó mới gọi là an trú. Còn nó chưa có an ổn như vậy, nó còn có mỏi mệt trong thân của mình thì nó chưa có an trú như vậy thì tức là chưa được, phải tu cho đến khi an trú. Đó khi mà an trú rồi thì mình xả được, mình xả cái xả có 3 giai đoạn: Nhiếp phục tâm, an trú tâm và xả tâm.
(18:39) Con thấy ba giai đoạn, bây giờ một cánh tay Thầy đưa nè nó có ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là nhiếp tâm, biết đưa ra biết đưa vô gọi là nhiếp tâm.
Bây giờ đưa ra đưa vô mà thân tâm mình an trú, an trú trên đó cho nên nó an ổn, nó không gì nó an ổn, nó sung mãn vô cùng, ngồi không biết mệt, đưa ra đưa vô vậy mà cái tay mình không mỏi. Còn bây giờ, mấy con không tin mấy con đưa ra đưa vô hơi nó mỏi tay đó, là nó chưa an trú, còn Thầy an trú rồi thì Thầy đưa hoài, đưa giờ tới chiều, bây giờ Thầy ngồi Thầy đưa suốt tới ngày mai, sáng mai cũng không mỏi tay nữa là an trú.
Con thấy không, ngồi vầy mà nó không mỏi nữa, là an trú. Mà nó chưa an trú là nó… bởi vì an là an ổn mà, mà không an ổn là nó không trú được chứ gì. Mà mình an trú rồi thì nó không mệt nữa.
Mà khi an trú rồi, cái thân này đau chỗ nào là đẩy ra liền. Bây giờ cái đầu Thầy đau nè, Thầy đưa cánh tay ra Thầy cho an trú rồi, Thầy tác ý Thầy bảo: “Thọ, cái đầu đau phải đi theo cánh tay Thầy ra” , Thầy đưa ra đưa vô trú ở trong này nó an rồi, thì khi mà nó an thì cái đầu không còn nhức. Các con hiểu? Còn nó còn nhức tức là nó chưa an, có phải không? Chưa an ổn. Cho nên cái phương pháp rất hay, đưa ra đưa vô vầy mà Thầy đẩy bệnh.
(19:44) Bây giờ cái tâm Thầy nó phiền não, nó buồn, nó lo, nó rầu Thầy đưa ra đưa vô an trú rồi, Thầy bảo: “Cái phiền não trong tâm của Thầy đi đi, không được ở đây” thì Thầy cứ an trú, Thầy tác ý vậy rồi Thầy an trú trên cánh tay. Cái tâm mình nó không còn lo rầu nữa, bị vì nó an trú nó không có lo.
Còn mấy con an trú không được nó cứ nhớ hoài trong bụng nó lo, buồn, tức tối, sợ hãi… Người ta an trú được trên cái thân hành người ta đâu có còn nữa. Cho nên cái phương pháp của Phật nó thực tế, nhưng mà người ta không có biết người ta tu cho nên người ta không có giải quyết được cái nỗi khổ này. Cho nên, cái khổ gì đối với thân tâm của người tu rồi người ta đẩy lui ra hết. Cho nên, nhân quả tác động trên thân người ta không được.
(20:24) Vì trong cái tu theo đạo Phật làm chủ được đời sống, làm chủ được sanh, làm chủ được già, làm chủ được chết, bệnh đau đó là cách thức. Pháp Phật hay mà không tu tập uổng một đời, uổng! Con người mà biết không tu Thầy nói, dở. Phải nỗ lực con!
Thầy nói thí dụ như bây giờ mấy con có bệnh, Thầy dạy. À, bắt đầu bây giờ các con nhiếp tâm mấy con nói: “An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh thân hành…”, thì các con đưa tay ra, đưa tay vô. Các con bảo: “An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô” rồi tay này. Mình tập hơi đưa ra đưa vô, phải không?
Khi mà ra vô rồi đó bắt đầu bây giờ cái thân của mình nó đau, cái bụng mình, mình đưa ra tưởng như cái bụng đau mình nó theo cánh tay nó đưa ra, mà đưa vô mình tưởng như cái thân không có đau đi vô. Cứ tưởng theo nó, cứ đưa ra thì tưởng bệnh ra, mà đưa vô thì tưởng cái không bệnh đi vô. Cứ vậy đưa ra, mình tưởng hơi nó ra mất, khỏi cần uống thuốc cũng hết khỏi tốn tiền. Phải không, mấy con thấy có cái cánh tay mà trị bệnh. Thầy có làm cái gì đâu, mà hết bệnh không sướng sao, khỏi tốn tiền mà khỏi đi nhà thương, nhiều khi nó bắt mình nó mổ, nó xẻ nữa, chuyện đó thấy ghê. Tốt hơn mình ở nhà vậy mình ngồi mình chơi vậy sướng, vô nhà thương ba cái mùi thuốc ancol, thuốc chích đồ nó hôi gần chết, chịu đâu có nỗi. Còn mình ở nhà mình yên tịnh sung sướng, đưa tay ra vô vầy mà trị hết bệnh, không sướng sao!?
Tâm giận hờn phiền não, lo sợ cũng hết, bệnh đau gì cũng hết, vậy mà có cái phương pháp vậy mà không tu, thiệt uổng mấy con!
(22:15) Còn tất cả mọi cái sự kiện xảy ra, dạy cho mình nhìn mọi vật để cho mình thấy là nhân quả cuối cùng mình xả tâm không phiền não, cho nên mình nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng được trước mọi ác pháp, mọi hoàn cảnh của mình. Hoàn cảnh mình nghèo mình cũng bằng lòng trước hoàn cảnh đó mình không đòi hỏi nữa, nhưng mình bằng lòng rồi thì tất cả mọi cái nó êm xuôi, nó vượt lên, thành ra cơm ăn áo mặt nó không thiếu thốn, tại thiện pháp nó phải chuyển ác pháp nó đâu có làm cho mình khổ nữa. Các con thấy chưa? Bởi vậy Thầy nói gặp Phật pháp mà không tu uổng quá!
Niệm Phật Phật không cứu khổ, mà mình niệm tay của mình mà tay cứu khổ. Tại vì, đây cái lực của mình mà cho nên đức Phật nói “tự thắp đuốc lên đi”. Anh đưa tay ra anh mới cứu khổ anh, chứ anh không đưa tay ra tui có đưa tay giùm anh đâu! Có phải không? Ông Phật nói các con tự thắp đuốc lên mà đi, thì mình đưa tay là mình đốt đuốc chứ gì. Có phải không mấy con thấy?
Nếu mình không đốt đuốc thì đừng đưa ra. Còn mình đốt đuốc lên thì nương theo cánh tay thì nó làm cho mình tỉnh táo, mình sáng suốt chứ gì.
(23:02) Tu, hạnh phúc quá! Thầy nói thiệt Thầy tu rồi thôi chứ phải hồi đó mà Thầy biết là cho Thầy ngày bữa cơm Thầy cứ ngồi suốt ngày chơi vầy sướng, ngồi mình chơi có gì đâu, phải không?
Thí dụ như mấy con đó, vợ con cho ngày bữa cơm, tôi ngồi tôi chơi vầy suốt ngày này qua ngày khác, 7 ngày tôi chứng đạo. Có phải không? Đức Phật nói: “7 ngày, 7 tháng, 7 năm”. Mà bây giờ có vợ con lo cơm mình trưa ăn bữa thôi không xin nhiều, cho ăn bữa cơm thôi cứ ngồi chơi vậy. Ngồi chơi vậy chứ mà 7 ngày là hoàn toàn làm chủ đó.
Các con thấy, Phật pháp đâu có phải tu lâu, đâu có tu nhiều kiếp. 7 ngày, 7 tháng, 7 năm người nào mà dở nhất là 7 năm. Mà 7 năm mà làm chủ được sự sống chết là hạnh phúc vô cùng mấy con. Người ta học đỗ tiến sĩ hai mươi mấy năm, người ta mới đỗ được cái bằng tiến sĩ mà chỉ chẳng qua là nhai lại những cái bã mía của người khác, chẳng có gì mới mẻ đâu. Anh ta có làm cái gì mới. Học lại ba cái người hồi xưa tới giờ để lại học muốn chết. Cuối cùng rồi mình góp nhặt ba cái bã mía của người ta mình nhai lại, mình có gì của mình? Có ông mà tiến sĩ nào mà nói cái mới không? Toàn bộ cái nhai lại.
(24:14) Còn mình tu rồi bắt đầu mình vừa làm chủ được sống chết, mà không nhai lại của ai, muốn hiểu gì là tự cái tâm mình nó hiểu, nó sáng suốt mà nó hiểu. Cho nên Thầy nói tu hành hạnh phúc lắm mấy con, mà thời gian đâu có lâu có 7 năm thôi. Bởi vì, tám cái lớp này có 7 năm thôi chúng ta học nó đâu có nhiều. Hết sức nỗ lực, cố gắng làm chủ được sự sống chết, nó không có tái sanh luân hồi là hạnh phúc vô cùng!
Bởi vì, mấy con biết sao không? Khi mà tâm mình còn tham, sân, si thì mình phải đi tái sinh luân hồi bởi vì xung quanh mình ai cũng còn tham, sân, si cũng giống nhau thì tức là họ sẽ làm cha mẹ mình đó. Thí dụ như bây giờ thí dụ như bây giờ mấy con nghĩ nè, bây giờ mấy cháu còn nhỏ tuổi, mấy cháu cũng có tham, sân, si. Thầy giờ lớn tuổi Thầy cũng tham, sân, si, phải không? Thì bây giờ mấy con, mấy cháu cũng tham, sân, si Thầy cũng tham, sân, si giống nhau rồi chứ gì, thì Thầy thế nào cũng chết trước mấy cháu rồi, mà Thầy chết trước Thầy sẽ làm con của mấy cháu chứ không đâu. Bây giờ kêu Thầy là Thầy, là bác, là ông chứ. Nhưng mà tới chừng đó tới chừng cái nhân quả nó tương ưng rồi thì, nó là con cháu mình mình vẫn phải sanh là con cháu nó, huống hồ con chó mình nuôi khi mình còn vô mình làm con chó con nữa chứ đừng nói làm con nó, làm cháu nó. Đâu có chạy đâu khỏi cái quy luật của nhân quả.
(25:30) Thí dụ như bây giờ, một đứa cháu mình thương mình lo lắng cho nó, không ngờ là cái tình cảm của mình thương đó mà khi mình chết là mình làm con nó, các con hiểu? Cho nên bởi vậy, khi mà con có cái đôi mắt rồi mà con nhìn trời đất ơi, xung quanh mình thấy ghê quá vậy! Nguyên ông bà cha mẹ mình không hà, lỡ mà lấy roi mà quất con chó không ngờ là trời ơi! Mình đánh ông già mình. Nếu mà mấy con thấy mấy con giật mình đó. Bởi vì, ông tiếc đất đai này, ông tiếc của ông đi không được, ông sinh thành làm con chó đây để mà giữ của đây mà mình không biết gì hết, mình cho nó ăn hay hoặc là nó cắn ai đó mình không thấy mình lấy roi mình quất nó, trời đất ơi! Mình biết, cũng như mình nhìn qua mình thấy cái lớp nghiệp của nó, đó là nghiệp ông thân của mình, ông già của mình rồi, mà lấy roi mình quất nó như vậy, hay là mình đá nó gần chết như vậy là mình nghĩa lý gì?!
Cho nên, từng mọi vật xung quanh của mình coi chừng những người thân của mình đó, cho nên đừng có đánh đập nó. Nói tôi thương cha tôi lắm, mà tới chừng ông mang cái lớp chó rồi từng đó mình đập thôi tan nát hết. Nó lỡ nó ăn cái trứng vịt, ăn trứng gà gì thôi đem con chó mà đập gần chết. Con người gì mà giữ vậy, nó ăn rồi thôi chứ.
(26:52) Cho nên Thầy nói thật sự con vật gì mình nuôi trong nhà của mình con gà đi, bắt cắt cổ làm thịt, nó biết chừng đâu là nó cắt cổ gà hồi đó nó nuôi con nó, bây giờ nó làm con gà đó để nó trả. Cho nên bây giờ mình cắt cổ làm thịt không ngờ mình làm thịt mẹ mình, chết rồi! Đó, mấy con hiểu chỗ đó.
Cho nên nó trải qua một cái lớp nghiệp rồi con mắt của mình nó bị không gian nó ngăn cách nó làm cho mình thấy không được. Cái người tu rồi người ta vén sạch, người ta không còn bị không gian ngăn cách, cho nên người ta nhìn suốt qua cái lớp nghiệp. Cho nên từ đó mà người ta rất thương yêu sự sống mọi loài vật, người ta không có nỡ ăn thịt. Còn mình không thấy cho nên mình nuốt nhai, nuốt nhai, nuốt miễn ngon thôi không biết gì hết. Không ngờ mình nhai nuốt cha mẹ mình nhiều đời nhiều kiếp nữa chứ đâu phải một đời.
Vừa rồi ông mới chết làm đám ma ông thành cái con vật gì đó không biết mình bắt làm thịt cắt cổ liền, trời đất ơi! Mới chết ông làm con vật chết đó, mới mấy tháng mình bắt cắt cổ liền, ông chết ông thành con vật nữa. Tiếp tục, bởi vì hồi đó ông giết bao nhiêu con vật, bây giờ ông phải trả những cái nhân quả đó chứ làm sao ông chạy khỏi.
(27:41) Cho nên vì vậy mà mấy con thấy cái nhân quả, cái nghiệp mình không có thấy được. Cho nên, mình sống thiện đừng có làm khổ chúng sanh, đừng có giết hại chúng sanh, bởi vì tất cả chúng sanh nó nhiều đời của nó, những con vật mà nó sống xung quanh mình đều là những cái người có nhân quả với mình, đều là những dòng họ, cha mẹ của mình, nó có liên quan mình hết chớ không phải ai xa lạ. Cho nên, mỗi con vật đều là thương yêu chia sẻ, đó là những người thân của mình.
(28:17) Mà Thầy nói vậy là tại vì con mắt của Thầy thì Thầy thấy rồi, còn mấy con chưa có thấy mấy con, Thầy nói vậy khi nào mấy con tu như Thầy rồi mấy con mới nhìn, mấy con mới giật mình. Không phải Thầy bịa đặt Thầy nói đâu, nó bằng sự thật. Cho nên, tại sao mà mỗi con vật Thầy yêu thương? Con vật nào Thầy cũng yêu thương, chính là những người thân của Thầy, chớ không phải ai xa lạ.
Cũng như bây giờ, mấy con ngồi đây mấy con biết, mấy con là những người gì của Thầy không? Mấy con biết được không? Nhưng mà Thầy Thầy hiểu khác, nếu không có những người thân của Thầy làm sao ngày hôm nay Thầy? Không phải dễ đâu! Mà nhiều đời nữa, thì mấy con biết cái số lượng người mà nhiều đời biết bao nhiêu người không. Phải không, mấy con hiểu. Cho nên cái nhân duyên nó có.
Cho nên, mấy con phải ráng tu! Thầy đi qua rồi tuy rằng nó khó thật chứ không phải dễ, nhưng mà cuộc đời của mình đừng có để phí cái thời gian nó trôi qua. Ráng lo sắp xếp con cái có nơi yên đâu ổn rồi, mình ngay từ trong cuộc sống còn tiếp xúc thì mình xả tâm, nên nhớ mình tiếp tục mình xả tâm, mình xả!
Phật tử 1: …(. . .) con bị ảnh hưởng cái hệ phái thầy là ổng truyền dạy là có Di Lặc ra đời, xây dựng cái hội Long Hoa, mê tín quá con thấy cũng thương quá.
(29:55) Trưởng lão: Bây giờ thì nói chung là cái vấn đề nhà nước đang đưa ra cái nghị quyết về cái pháp luật mà bài trừ những cái mê tín ở trong tôn giáo.
Cái pháp luật đó nó sắp sửa áp dụng, nhưng bây giờ thì coi như nó chưa, thiệt ra cao lắm cũng phải là sang năm áp dụng. Cho nên tôn giáo nào mê tín, dạy tầm bậy tầm bạ, bị liền nó đưa ra thành pháp luật. Thành thử có thể ở tù, có thể bị phạt. Nếu mà nhè thì bị phạt tiền, còn nặng thì bị ở tù đó con, chứ không phải là không có pháp luật con. Bởi vì, những cái điều mà hại dân, hại nước tốn hao tiền bạc mê tín, nhảm nhí nhiều quá. Cho nên bắt đầu nhà nước cũng lưu ý về cái phần này, cho nên mới có những cái nghị quyết về tôn giáo, những cái điều mê tín này.
Rồi bắt đầu nó đưa ra Quốc hội để mà thành cái luật, luật về tôn giáo mê tín, cấm. Tôn giáo nào làm cái chuyện mê tín, từ nào tới bây giờ thì người ta nghĩ rằng tôn giáo làm như vậy là do cái phần tôn giáo tự do tín ngưỡng rồi người ta không có đưa ra cái pháp luật. Bây giờ, người ta thấy nó quá sai rồi người ta chấn chỉnh lại. Để nó đi thái quá nó làm hao tài tốn của của nhân dân, quá lớn. Cho nên buộc lòng nhà nước phải đưa ra pháp luật, có pháp luật mới bắt tội người ta được, không pháp luật không bắt tội được.
Đó, là Thầy cũng mong được như vậy để chấn chỉnh lại, không riêng gì Phật giáo mà còn những tôn giáo khác nữa. Chứ không khéo người ta cứ tự do tín ngưỡng, mà trong khi tự do tín ngưỡng mà trong tà tín chứ đâu phải là chánh tín sao, mà tự do tín ngưỡng thì phải chánh tín chứ còn tà tín làm những cái điều phi pháp như vậy.
(31:54) Phật tử 1: …Nội lực của dân tộc bị chia chẽ, nó làm cho mất sức mạnh về trí tuệ.
Trưởng lão: Đúng vậy con!
Phật tử 1: Mấy ổng ra luật như vậy thì coi như là nhà nước cũng nhìn thấy.
Trưởng lão: Theo Thầy thì nghe về tôn giáo (. . .) mời các tôn giáo đến hợp cái nghị quyết để mà hướng về…(. . .), nhưng mà chưa phổ biến rông ra, nó chỉ những cái người mà lãnh đạo tôn giáo,… (. . .). Sau này thì quý thầy mới về triển khai cái đó ra…(. . .).
(32:50) Phật tử 1: Con thấy từ ngày cái bộ Đường Về Xứ Phật của ban văn hóa tư tưởng Trung ương đó Thầy, dường như mấy ổng cũng tâm đắc theo cái bộ sách đó cho nên nó cũng ảnh hưởng đến bước đường xây dựng Đảng, với củng cố cái đạo đức của người công chức nhà nước, với cán bộ. Mấy ổng cở này có những bài con đọc trên báo tuổi trẻ thì mấy ổng đang đả kích rất mạnh về cái tệ mà hành dân, hống hách với dân. Cũng như dân là ông chủ mà phải xin, phải cầu lụy những cán bộ đầy tớ, con thấy xây dựng về cái đó dữ lắm. Cái nội lực của dân tộc, ít nhiều cái ban tư tưởng văn hóa chịu ảnh hưởng của cái bộ “Đường Về Xứ Phật” nó cũng tác động vào cái tư tưởng của họ, nó xây dựng lại.
(33:44) Trưởng lão: Chính cái vấn đề mà bày trừ nạn mê tín ở trong tôn giáo, ở trong bộ “Đường Về Xứ Phật”…(. . .). Nhất là nó đập vỡ cái thế giới siêu hình, nó hợp với cái đường lối của cách mạng thực tế, cụ thể hơn. Cho nên họ cũng dựa vào cái chỗ đó. Trước kia thì họ mặc dù là, họ là những người cộng sản thì không tin cái thế giới siêu hình đâu, nhưng mà họ cũng bán tín bán nghi, cái người chính là đảng viên cộng sản họ vẫn cúng bái, họ cũng thờ phượng chớ họ đâu có biết chắc chắn là có hay không. Thì khi cái bộ sách Thầy xác định cái thế giới siêu hình không có, bằng một cái bằng chứng cụ thể,…(. . .). Cho nên vì vậy mà họ tập trung, họ làm công việc, chứ trước kia họ có mở cái cơ quan tiềm năng để truy tìm cái thế giới siêu hình, cái trạng thái kỳ lạ của…
Rồi họ cho mở cái trường học cũng lớn lắm ở ngoài Hà Nội, nhưng mà trường đó nó chỉ nhẫm lại những cái tư tưởng củ kỹ thôi, chứ không có gì khác hơn hết. Thành ra nó lại xây dựng cái thế giới tưởng là như vậy, thế giới siêu hình lại nhiều hơn nữa, cho nên nó không có đủ cái niềm tin. Nhưng mà nhà nước thấy xây dựng vậy đó, cho nên cứ tin rằng có thế giới siêu hình. Nhưng mà không ngờ cái bộ Đường Về Xứ Phật Thầy đã đập tan nát hết. Cho nên kêu gọi cái cơ quan, cái trường để mà dạy người ta tìm hiểu cái tiềm năng của con người đó, Thầy bảo những cái người đó họ muốn tìm hiểu cứ đến trực tiếp với Thầy, Thầy gửi thơ cho ông Hùng, cho cái cơ quan đó Thầy bảo nếu mà muốn tìm cái thế giới siêu hình, muốn tìm cái nội lực của thế giới siêu hình thì hãy về đây. Và đồng thời ông tìm ở đâu? Cứ đi tìm ở ngay cái bộ óc đó thì ra cái thế giới siêu hình chứ không phải tận chỗ nào. Thầy chỉ điểm cho người ta tìm, chứ đừng có tìm bên ngoài, tìm cái linh hồn của người chết thì không có, cứ tìm ngay cái bộ óc của chúng ta còn sống thì chúng ta sẽ tìm được, Thầy chỉ điểm cho họ đi tìm.
(36:02) Thành ra ở ngoài đó thì họ cái cơ quan đó, cái trường Đại học đó họ định gửi người vào đây để thăm Thầy, nhưng mà chắc chắn là có ông Giáo sư Trần Phương hay giáo sư gì Phương, Hoàng Phương, giáo sư Hoàng Phương, ông đã viết cái bộ Dịch Số. Ông có đến đây thăm Thầy, ông ở trong trường đó ông dạy về cái vấn đề siêu hình.
Cho nên ông đến đây ông có đem cái bộ sách mà dịch số ông đưa cho Thầy, Thầy nhận xét ổng. Thầy nói bộ sách này ông cũng nhẫm lại cái lối mòn của người khác thôi. Cái hiểu của cái tưởng ông nó làm lệch, nó không có đúng.
Khi mà gặp Thầy nói chuyện rồi, bộ sách không có giá trị, ông làm thêm cái điều tai hại lớn cho những người khác. Người ta nghĩ rằng ông có trình độ hiểu biết Giáo sư, có trình độ hiểu biết bằng Tiến sĩ, nhờ cái bằng đó mà ông viết cái bộ sách này thì người ta rất tin tưởng, tin tưởng theo cái khả năng. Nhưng mà ông làm hại, cái tư tưởng này sai, bởi vì những bộ sách này về dịch số không đúng.
Cho nên Thầy xác định với ông ta, và ông ta từ đó về sau coi bộ không có ưng rồi. Ông làm bản thảo, ổng viết mấy tập dày vầy ổng đưa. Khi mà Thầy đọc mấy trang đầu Thầy nói dẹp, cái này không đúng! Nếu mà đúng từ xưa đến giờ vua chúa đứng trong góc độ nó xây dựng không có ai chiếm nước được đâu, nó bảo thủ dữ lắm chế độ phong kiến mà ông biết. Nếu mà nó đúng thì bao giờ Chúa Nguyễn còn ở ngoài Huế nó làm vua ở đó chứ chưa có thằng nào đi đâu.
(37:42) Thầy vạch ra những cái điều kiện sát thực để chỉ. Nó không có đúng, nếu mà nó đúng ra thì người ta củng cố rồi.
Còn nhiều người thì nói Trạng Trình giỏi, Thầy nói Trạng Trình không giỏi. Trạng Trình là một cái người gây tai họa cho đất nước chúng ta, những cái nạn ngày xưa, cất xây xung quanh, tịnh dưỡng là do Trạng Trình chỉ điểm cho Nguyễn Hoàng mà đi vào nam để xây dựng, để thành ra cái nội chiến của đất nước bốn mươi mấy năm trời xương máu của dân tộc, người dân đổ vào xung quanh biết bao nhiêu, một cái hận rất lớn mà ông Trạng Trình là người đầu tiên. Đó các con biết, sấm đó.
Đó là những cái sai, Thầy nói thật sự ra đừng có nghĩ rằng đem cái tài học của mình ra, mình làm nguy hại cái vấn đề lịch sử của dân tộc thì tai họa, người ta khen ông chứ thật sự ra đứng trong lịch sử người ta sẽ chê ông. Tại sao, ông biết như vậy thì ông ngay từ đó ông cấm ông đừng có làm vậy.
Còn bây giờ sự tình như vậy, mình phải làm sao mình khắc phục được sự tình để đồng hợp nhất dân tộc phải một, không thể chia rẽ làm hai phe như vậy. Để mà cái nạn chia rẽ, cứ đem dân ra, thanh niên đi lính đánh với nhau chết ở…(. . .) biết bao nhiêu, đó là khổ đau nhất, cái hận của dân tộc. Một đất nước mà chia ra như vậy.
Cho nên nói mình giỏi sao mình không đem cái hòa bình giúp cho đất nước, mà đem đau khổ cho đất nước, cái giỏi nó như vậy sao?
Từ lâu nói thật sự ai cũng ca ngợi Trạng Trình, riêng Thầy không ca ngợi. Làm dân tộc chúng ta đau khổ bốn mươi mấy năm trời.
(39:41) Phật tử 1: Những bài con gửi mail qua…
Trưởng lão: Có con! Thầy đưa coi như cái tập mà đặc san mừng ngày sinh nhật của Thầy có con, Thầy trình bài trong cái trang, bao nhiêu cái bài pháp Thầy đưa vô. Làm cái công chuyện này nó mất thời giờ Thầy quá. Nói chung là nó phải có, về cái sách thì nó làm theo cái kỹ thuật nó làm sách, rồi về cái mỹ thuật của nó kích thước, mà làm đặc san thuộc về báo chí, thì con biết cái trang của nó phân làm hai cột chứ nó không thể một cột. Cho nên, từ hình ảnh báo chí thì nó phải có hình ảnh chen vô, nó cả một vấn đề rắc rối mấy con, cực lắm!
Còn sách thì mình chữ không mà trang nó nguyên vậy, rồi cách thức trình bày nó không phải bởi vì một cái trang sách là một cái hình, và cái bìa xung quanh của nó là cái khuôn, cho nên đừng có ít giấy mà để cái khung nó meo quá, ít quá nó coi không đẹp, mà nó to quá thì nó hao giấy nó cũng không tốt, làm sao vừa với cái trang sách của mình, để nó nói lên cái mỹ thuật cái trang. Đó!
Rồi báo chí cũng vậy, cho nên vì vậy khi mình muốn làm thì mình phải lật xem coi những cái tờ báo như thế nào, cách thức người ta cái kỹ thuật làm như thế nào cho rành. Chứ còn không biết, không rành thì chèn hình chèn ảnh vô không có được, nó khó nó đủ thứ hết, mà Thầy nói thiệt cho nên khi mà nói làm rồi thì những cái điều này bắt buộc Thầy phải thọt tay vô chứ còn không thọt tay vô thì làm không có được. Làm nó không có ra ôn gì hết, báo thì nó ra báo, mà sách thì nó ra sách, không khéo làm cho lấy có thì không được.
(41:25) Rồi, bài vở nó phải khi mà đưa ra cho người ta đọc, đâu phải mình: Ờ, tôi viết sao tôi viết, coi rẻ người ta không được, mình phải viết cho đúng. Rồi câu cú, rồi văn phạm, rồi chính tả, chứ đừng có nghĩ tôi viết chính tả sai kệ, ai đọc hiểu không hiểu mặc ai, đừng có nói chuyện… Bởi vì mình phải trân trọng, tôn kính khi mà người ta cầm người ta đọc cái bài của mình, thì mình phải hết trách nhiệm của mình mình viết sao cho đúng, đừng có để sai sót, lỡ mà sai sót người ta hiểu lầm mình đành chịu thôi. Bởi vì ghi nhiều quá mình không thể nào xem xét bao quản, chứ khi mà người ta trân trọng cái bài của mình người ta đọc là mình phải viết làm sao để đừng có lỗi với người ta.
Cách thức làm, bởi vậy Thầy nói nếu một cái trách nhiệm của một việc làm nhỏ mọn như vậy, mình đừng có nghĩ mình sơ xuất là không được, hầu như người ta chỉ làm cho có. Chứ thiệt ra, cái khả năng của mình tới đó thôi, mình không làm hơn được nữa mình đành chịu thôi, chứ khả năng mình có hơn nữa, làm được cuốn sách không có… Con thấy không, nhà xuất bản văn hóa thông tin mà đưa ra cái bộ sách, Thầy đưa cái bộ sách, rồi biên tập cái bộ sách người ta mà lỗi ở trong đầy hết hà! Vậy thì văn hóa thông tin cái nỗi gì? Thầy dốt đây mà Thầy còn không làm nổi cái chuyện…, có phải không mấy con thấy?
Cách thức như vậy, cái nhiệm vụ cái trong trách của mình khi mình ngồi cái chức vụ mà biên tập, thì mình phải có cái khả năng học thức mình người ta mới đưa vô cái ghế ngồi đó. Chứ còn cỡ không có học thức ai mà đưa mình biên tập, biên bậy sao! Mình có trình độ rồi, bây giờ trình độ rồi cấp bằng của mình phải học, mình tốt nghiệp có chuyên môn rồi đó. Bắt đầu giờ mình duyệt, phải không? Mà mình duyệt kiểu này, có khả năng người ta đọc không được…(. . .).
Có phải không, mấy con thấy sách vở đâu phải, bởi vì sách vở không phải một người đọc, mà cả trăm cả ngàn người đọc. Nếu mà bộ sách đó in năm ngàn thì phải có năm ngàn người đọc, mà còn hơn cái số đó nữa, bởi vì người ta mượn người ta đọc mà.
À, thế mà mình viết, làm sai như vậy coi rẽ người ta, bộ coi người ta dốt hả? Coi người ta ngu không biết hả? Mình đưa ra mà lở một hai lỗi không nói gì, mà tràng giang cái lỗi như vậy mình xem thường đọc giả à?
(43:33) Cho nên, báo chí đừng có nghĩ rằng mua rồi năm ngàn, ba ngàn tờ báo về coi vậy, sự thật ra không phải viết báo là chuyện dễ, mình phải tôn trọng đọc giả, mình phải viết cho đúng chứ mình không thể viết trật.
Thầy nói cái nhiệm vụ trọng trách, sau này mà Thầy nói về nghề nghiệp, mấy ông báo chí, mấy ông viết văn đồ Thầy nói ra hết, mấy ông mà duyệt mà biên tập, cho phép này kia… Thầy nói hết, nói toàn bộ ra hết. Mấy ông phải biết cái nhiệm vụ trọng trách của mấy ông, mấy ông coi thường đọc giả, coi thường người đọc.
Dù cái người đó họ mới học lớp 3, lớp 4 họ biết chữ họ đọc thôi, nhưng cũng phải kính trọng người ta, người ta đọc cái tác phẩm người ta đem cái đầu óc người ta hiểu cái vấn đề đó, sai lỗi chính tả mấy con cũng xem thường, văn phạm cũng không đúng, rồi những cái trình bày của mấy ông làm kiểu này, bộ mấy ông bán lấy tiền sao? Ít ra cũng phải nói được cái gì chứ!
Đối với Thầy, cái trách nhiệm bổn phận đạo đức là ở chỗ đó, làm sai là thiếu đạo đức liền. Chửi người ta hả?
(44:31) Phật tử 1: Cái bộ Đường Về Xứ Phật của mình mấy ổng cắt cái lời tựa, mấy ổng làm lỗi cái ngôn ngữ, cái từ ngữ. Hơn nữa cái lỗi lớn nhất là cái người không có chuyên môn về Phật học, không có tư tưởng về Phật học, chưa nói tới cái chứng. Cho nên ổng làm cái bộ sách của mình cũng bị hụt hẫng, nó mất hơn trơn. Mấy cái lời tựa quan trọng thì không có, cho nên con hướng dẫn người ta đọc trên mạng không hà, con kêu gọi người ta cứ mở mạng người ta đọc…
(45:27) Trưởng lão: … Bắt đầu bên Phật giáo, mấy ông Đại thừa ổng đến ổng kiện mấy nhà xuất bản văn hóa, mấy ông biên tập như thế này, trời nó chửi tui tan nát hết trơn hết trọi rồi, mấy ông đưa ra như vầy tui còn đất đâu mà tui chui. Mấy ông lên đào lỗ mấy ông chôn tui luôn đi, mấy ông cho phép kiểu này thì chết tui rồi còn gì. Ba cái ông Đại thừa ổng dám vô đó nói chuyện chứ bộ, ông đâu có sợ. Mấy ông nghĩ coi, người ta nói tôi vậy, vậy, vậy đó, mà mấy ông dám cho ra như vậy rồi, để cuối cùng rồi Phật tử có đến chùa tôi nữa không? Rồi tôi ăn cái gì mà tôi sống? Mấy ông có đem cơm cho tui ăn không?
Mấy ổng đến đó ổng nói chuyện với mấy ông bộ giáo dục, bộ văn hóa thông tin đó. Mấy ông cho phép cái kiểu này tụi tui còn cái nước nào mà sống, mà bây giờ nhà nước chấp nhận tôi rồi, cho tôi được thành lập tôn giáo mà bây giờ cho như vậy tôi sống chỗ nào không? Tui chết tui rồi!
Con thấy không, nếu mà cho thật sự cho ra mà phổ biến hết toàn bộ cái bộ Đường Về Xứ Phật thôi, mấy ông Đại thừa này chỉ còn có nước đào lỗ mà chôn, chứ còn mặc áo đi ra dòm ai được nữa, không dòm ai được nữa hết, chỉ còn có nước mà bây giờ về vườn để trồng ruộng sống chứ còn không cách nào, vác cái mỏ đi tụng kinh mà ai được nữa.
Thầy nói thiệt mà, bởi vậy cho nên mấy ông nhà nước này họ cũng khéo lắm, chứ không khéo nó kiện mấy ông…, tức là mấy ổng cũng sợ… (. . .) đó, mình chứng rồi mai mốt nó kiện rồi bắt đầu nhà nước đến không cho…(. . .), cho vừa lòng.
(46:56) Cho nên cái gì cũng từ từ, từ từ, nhẹ nhẹ để cho mình lấy bạn, lấy thù mà làm bạn, lấy cái người sai họ trở về mình. Thì Thầy thấy cái số người mà hiện giờ họ trở về cũng nhiều lắm. Cái số mà tu sĩ, con nhớ cái số tu sĩ mà nó chưa có quyền tu gì hết cái số này nó đông, còn cái cái số có quyền chính từ giáo hội thì coi như cái số này nó bảo thủ.
Còn số kia thì nó… những cái người lớn, các tu sĩ lớn họ cấm không cho tu sĩ nhỏ đọc cái này. Nhưng mà ở đời này cái gì mà người ta cấm thì cái đó nó đi tìm. Cho nên nó tìm nó đọc, cho nên cái số tu sĩ nhỏ bây giờ nó sợ nó không dám nói ra, chứ cái hướng của nó có hướng rồi, nó hướng về Thầy hết rồi. Nhưng mà chưa nói ra, chờ mấy ông già này chết rồi nó… chứ không gì.
Cái chuyện đó là nó chuẩn bị, vậy mà Thầy thấy hàng ngày ở đây, Thầy kiểm nghiệm lại cái số người mà đến với Thầy ngày càng đông, cái lực lượng nó càng ngày càng đông. Mỗi ngày nó có cái sự diễn biến họ đến, một cái người xa mà họ cũng tìm đến để mà thưa hỏi những cái điều sai. Nó là một cái hiện tượng nó rõ ràng là người ta đang hướng về cái Chánh pháp, người ta thấy cái sai. Nhưng mà có người thì dám đi rồi, có người chưa dám. Họ cũng muốn rồi nhưng mà chưa dám, tức là chưa có điều kiện. Bây giờ họ bỏ chùa ngay thì họ chưa bỏ được, nhưng mà rồi từ từ.
(48:17) Thầy nói tất cả những cái này là cái hướng đi không thể nào chạy khỏi. Và Thầy nghĩ rằng đạo Phật nó chuyển biến thành cái đạo đức chung cho con người rồi thì nó không những ở Việt Nam mà cả trên thế giới.
Nhất là khi mà cái bộ Tứ Diệu Đế, mà Thầy đang chỉnh đốn lại và đưa ra cái chương trình học của nó được dịch ra tiếng Tây phương, người Tây phương nó chịu thực tế. Cho nên, từng đó thì kể như những cái giáo pháp mà của Phật giáo hiện giờ kể như dẹp hết, nó không theo nữa. Cho nên, thậm chí như Thiên Chúa bây giờ lần lượt nó bỏ Thiên Chúa nó theo Phật giáo. Nhưng mà cuối cùng Thầy nói rằng khi mà bộ sách đạo đức này nó ra đời nó trọn vẹn rồi, được dịch ra tiếng khác, tiếng ngoại quốc… Hiện bây giờ đó Thầy thấy… Nó làm tốt lại.
Cái nhiệm vụ mà của những người mà họ dịch, thì cũng có nhiều người xin Thầy để mà dịch. Nhất là dịch cái bộ Đường về xứ Phật, có người xin Thầy dịch cái bộ Giới Đức Thánh Sa Di. Cái khả năng mà dịch nỗi thì cứ dịch, tại vì từ nó cũng khó. Dịch nỗi nó mới thoát ra được cái ý, chứ còn dịch không nỗi nó tối nghĩa, tối nghĩa họ hiểu sai.
(49:40) Cái bộ Đường Về Xứ Phật này nó đang dịch ra tiếng Đức. Bởi vì, có một cái người ở bên Đức, mà cái người đó họ lãnh đạo Phật giáo ở bên nước Đức, nghĩa là Phật giáo người Việt mình ở bên đó, và đồng thời người Đức mà theo Phật giáo bên đó, cho nên chúng nhóm mà theo Phật giáo bên đó thì họ đang dịch cái bộ sách Đường Về Xứ Phật Thầy ra tiếng Đức cho những người Đức theo Phật giáo cho họ học, thành ra họ cũng đang làm cái công việc đó.
Thì đầu tiên, thì cái gia đình của cô Thúy Mùi, con biết cô Thúy Mùi cô mà xuất gia rồi đó. Thì đứa con gái cổ có chồng ở bên đó, thì cái người chồng của con gái cô nó đọc nó hiểu được và nó lại là cái người lãnh đạo Phật giáo ở bên đó, ở bên Đức cho nên nó thấy cái này đúng quá, cho nên vì vậy mà, nó tập trung nó dịch cái bộ này ra, bị vì nó lãnh đạo Phật giáo, coi Phật giáo. Coi như là nó làm công chuyện này, cho nên cổ biết cái điều này, vì vậy tài liệu của Thầy mà cô xin, xin rồi gửi qua bên đó cho nó dịch. Tiếng Đức nó dịch trước, tại nó cái duyên ở đâu nó dịch trước.
Còn ở đây viết gửi qua, nhưng mà vì cái vấn đề nó chưa có xong cho nên đình chỉ…(. . .). Chứ còn dịch được tiếng Anh thì nó phổ biến,…(. . .). Để nó phổ biến cho rộng ra cái đường lối của đạo Phật.
(51:37) Rồi lần lượt những sách của Thầy Thầy viết ra nó cụ thể hơn, nó rõ ràng hơn. Con thấy cái bộ “Đường Về Xứ Phật” là nói cái sai của Phật giáo nhiều, nhưng mà nói chung chung là những cái phương pháp Phật. Đến cái “Những Lời Phật Dạy” thì nó cụ thể rõ hơn, thành ra nó rõ ràng cái đường lối. Nhưng mà đến cái bộ “Giới Đức” để mà trấn chỉnh lại cái căn bản của đầu tiên bước vào, cái bộ giới luật, đức hạnh, phạm hạnh. Sau khi, những cái bộ Giới xong rồi bắt đầu mới qua tới bộ Đức. Nó chấn chỉnh cái đạo đức của đạo Phật, mà sau khi bộ “Đạo đức làm Người” xong rồi, thì bắt đầu mới soạn cái giáo trình của từng lớp, tám lớp học. Cái chương trình nó phải đi căn bản như vậy.
Bây giờ Thầy còn đang soạn thảo có lẽ là phải bốn, năm tập cái bộ giới Tỳ kheo Tăng, Tỳ kheo Ni bốn năm tập dày ba bốn trăm trang, mà bốn năm tập. Đủ biết cái bộ giới Tỳ kheo của nó, con thấy 250 giới Tỳ kheo, 348 giới tỳ kheo ni không? Đó là Giới bổn. Còn Giới kinh, Giới hành, Giới đức, Giới hạnh. Cho nên vì vậy, mà cái bộ này tới bốn, năm tập, nó nhiều lắm.
Nó nói tất cả những cái hành động, cái đạo đức của người tu sĩ như thế nào đúng và như thế nào sai, xác định từng cái nghĩa, từng cái hành động của nó, nó nói rõ ràng từng cái hành động của nó.
Do đó, cái hạnh sống của một người tu sĩ phải sống như thế nào đúng, có đạo đức hay là vô đạo đức, xác định. Cho nên cái bộ đó viết ra cũng là …(. . .).
Thầy định năm nay Thầy sẽ cho ra bốn tập. Nhưng mà không làm kịp, vì hầu như người ta biết được Thầy nhiều người ta đến Thầy lại thuyết pháp nhiều. Rồi lại buổi sáng lại mất đi một buổi, trực tiếp để hướng dẫn người ta tu tập, buổi sáng nào cũng như vậy, mấy con biết. Rồi trưa tiếp khách, rồi nhiều khi như mấy con về cũng phải tiếp… thành ra cái thì giờ tiếp mấy con đi.
(53:54) Cho nên trong cái vấn đề mà Thầy làm nó mất thì giờ, cho nên vì vậy mà nó lâu. Rồi qua những cuốn sách như đặc san đồ, thì thay vì Thầy giao cho cô…(. . .) cổ làm, nhưng rồi rốt cuộc rồi nó không được chuẩn lắm cho nên Thầy phải thọt tay vô chỉnh lại cho nó đỡ đỡ chứ thiệt ra mà bỏ hết, điều kiện mà làm cho đúng cái đặc san như những cái đặc san mà đã có thì cái vấn đề đó nó còn đòi hỏi phải rất nhiều cái kỹ thuật, về những cái mỹ thuật, cách thức trình bày của tập đặc san. Cho nên nó có những điều kiện mà mình phải học hỏi rất nhiều. Nhưng mà bây giờ làm sao có thì giờ để mà học. Mình học hỏi rồi mới làm được, chứ không học hỏi làm sao làm được. Thí dụ như bây giờ mình làm như vậy, mình biết ờ, bây giờ muốn làm cái trang như vậy thì phải hỏi như thế nào, bây giờ chèn hình như thế nào, những cái chữ đó sao, sao thì phải hỏi cái người có chuyên môn người ta chỉ cách cho mình mình mới làm được chứ đâu phải dễ con, chứ đâu phải ở trên máy mình bấm nó ra đâu, in bậy đâu có được, khó lắm!
Thí dụ như một trang in cái trang lớn vầy nó dễ, in cái trang nhỏ cái trang như trang sách, trang báo nhỏ. Cho nên thí dụ như con bây giờ con làm cái trang lớn, rồi con chữ lớn rồi con mới photo rồi nó thu nhỏ lại để làm cái trang nhỏ. Còn cái này soạn thảo liền cái trang sách nhỏ vầy, in ra là một trang. Rồi máy đó con biết, in nhiều thì nó bị hư nó đâu phải dễ, cho nên thí dụ mình in rồi phải nghỉ, chứ còn mình in liên tục từ hôm đó tới nay Từ Quang in liên tục thành cái máy bây giờ nó bị hư, rồi mới đem xuống thành phố sửa, chưa đem về thành ra chưa có in.
(55:27) Nhưng mà hai ba máy chứ không phải một máy mà làm kịp đâu con, bị vì cái tài liệu nó in máy này rồi in máy kia… Thí dụ như Từ Quang nó in những cái tập để chuẩn bị nó đem về Úc để nó in ra cái bản, thì nó in nó sử dụng mấy thì Thầy phải sử dụng máy khác. Nhưng mà rồi cái máy mà in liên tục suốt cả ngày vậy thì nó phải hư. Cho nên nó hư cái máy này thì phải đưa đi, rồi đưa cái máy này vô làm nữa thì máy này hư nữa phải đưa đi. Mà ở đây 2 3 máy chứ phải một máy đâu, như vậy mà làm không kịp. Bởi vì người này làm, người kia làm, nhiều người làm chứ đâu phải một người. Cho nên, Thầy nói ở đây nó gần như là cái nhà xuất bản.
Các con có hỏi Thầy gì không con?
Xá Thầy thôi đừng có lễ, mấy con đứng xá Thầy. Thôi! Đừng có lễ con…xá Thầy thôi, chấp tay xá Thầy.
Thầy chỉ viết sách đạo đức cho mấy con học mà…
Con, để Thầy đem gửi cho con mấy cuốn sách con. Cho thêm mấy cuốn sách.
Thôi! Xá Thầy thôi con.
(58:03) Phật tử 1: Cô Diệu Thiền có nhờ con xin vài tấm hình của Thầy cho tụi con, như hình chân dung đó. Với sách cái ngày thọ Bát Quan Trai đó.
Trưởng lão: Rồi con!
HẾT BĂNG