Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian: 2001
Thời lượng: [1:13:23]
https://thuvienchonnhu.net/audios/2001-cach-song-tu-cua-nguoi-tu-si.mp3
(00:00) Trưởng lão: Các con từ cái ngày mà tu tập ở đây với Thầy thì cái thứ nhất là qua những lời Thầy dạy là chắc chắn thì trong thời gian tu của mình mà nó có thì trong phần tu tập. Thứ nhất là phần tu tập là cái phần quan trọng nhưng mà cái đời sống, cái đời sống tu tập của mình, cái pháp tu thì nó quan trọng nhưng mà nó không quan trọng bằng đời sống của mình. Nếu mà hạnh sống đúng thì pháp tu mới có kết quả, còn mình sống không đúng thì pháp tu không có kết quả. Tại sao vậy? Tại vì thí dụ mình đây phải sống sao cho đúng ba hạnh ăn ngủ độc cư như cuốn tập Thiền Căn Bản mà Thầy dạy bốn năm rồi. Thì Thầy đã dạy về ăn, về ngủ, về độc cư: nó nói về cách sống của người tu sinh sao cho đúng thì chúng ta sẽ có kết quả, còn sống không đúng dù muốn thế nào cũng không thành tựu.
Ví dụ như tâm tham của chúng ta còn, chúng ta chưa nói ly dục ly ác pháp, cái tâm dục chúng ta còn, dục về ăn, dục về ngủ, dục về không độc cư thích nói chuyện cho nên những cái dục đó nó rất cụ thể rõ ràng đối với bản thân mình còn dễ nhận xét, thì bây giờ mình bỏ nhưng có điều cái tâm của mình hay dối gạt mình.
(01:50) Cái cuộc sống mà hồi xưa Đức Phật dạy cho chúng ta ăn ngày một bữa, Đức Phật đã có kinh nghiệm rất cụ thể, ăn để đủ sống không thừa thì nó không sanh dục. Nhất là cái thân của chúng ta nhứt là thanh niên thì về tình dục, ái dục nó rất mạnh, thông thường ăn nhiều thì nó sanh ra dục, nó bị thiếu, cái đối tượng của chúng ta nó cám dỗ. Cho nên mình ăn, Đức Phật ăn ngày một bữa mà cũng không chấp cho mình ăn quá nhiều. Người ta nghĩ rằng ăn một ngày ăn ba bữa, mà bây giờ ăn một bữa, ăn nhiều chút cho có sức khỏe, mà sức khỏe chúng ta là ăn vừa đủ no thôi. Nghĩa là không ăn quá căng thì do đời sống của chúng ta, chúng ta muốn như vậy thì cái tâm về cái sắc dục, cái chuyện mà Thầy nói nó xuất tinh nó cũng giảm bớt đi. Còn chúng ta ăn nhiều quá, đồ bổ nhiều coi vậy chứ nó không tốt cho cái người tu sĩ chúng ta; cái cơ thể của chúng ta, cái dục nó khó làm chủ lắm chứ phải không dễ. Từ đó mà nó ảnh hưởng đến cái tâm, cái thân ảnh hưởng tới cái tâm, cái tâm ảnh hưởng tới cái thân, vì coi vậy chứ thân tâm gắn bó với nhau, cho nên cái thân nó đòi hỏi thì cái tâm nó cũng đòi hỏi, mà cái tâm nó đòi hỏi thì cái thân bắt đầu nó cũng chịu ảnh hưởng theo. Do đó chúng ta sống đúng để cái thân của chúng ta nó thanh tịnh thì cái tâm nó lành, mà cái tâm chúng ta không phòng hộ, tức là chúng ta không giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân ý của mình để cho sáu cái trần ở ngoài nó xâm chiếm vô thì tạo ra cái duyên để nó phát khởi ra cái dục, dục ăn, dục uống, dục nói, dục này kia đủ mọi thứ.
(03:38) Cho nên chúng ta sống độc cư là chúng ta phòng hộ sáu căn của chúng ta tối đa. Khi mà chúng ta đi ra từ ở thất của mấy chú mà ra đây, tuy chúng ta thấy quãng đường nó ngắn nhưng coi vậy chúng ta cũng phải thực hiện được sự phòng hộ sáu căn của chúng ta, đi thì mắt ngó xuống, đi chậm chậm để chúng ta tránh đạp dẫm lên côn trùng.
Thầy nói thật sự mình vô ý một chút xíu thôi, một con vật nhỏ như kiến thì mình không thấy sự đau đớn của nó, chứ thử mình đạp con cuốn chiếu coi, nghe cái rớp, nhìn xuống nó lặn lộn, nó xót xa, nó đau đớn, làm sao mình thiếu tỉnh thức để cái sự đau khổ của chúng sinh như thế này? Mình đặt thành câu hỏi, mình thấy nó lăn lộn khi mình đạp nó cái rớp, thì mình thấy nó bị dập bể chỗ nào đó, nó bị đau khổ, thử hỏi con kiến thì làm sao mình đạp mà mình thấy được? Cho nên mình đâu thấy sự lăn lộn của con kiến bị gãy chân hoặc bị bể ra rồi nó chết, cho nên mình giết chúng sinh rất nhiều. Các loài chúng sinh hạ liệt, do cái nhân ác đời trước mà đời nay chúng sinh làm cái loài vật hạ cấp như vậy để cái chết nó dễ dàng trước mắt, mà cái sơ suất của chúng ta là cái chết trước mắt của chúng phải chịu.
Cho nên đối với người cư sĩ chúng ta phải thực hiện tâm từ, lòng yêu thương của chúng ta đến với muôn loài, thậm chí như trong Giới Luật trong Đức Phật cấm chúng ta không được đạp trên cỏ vì mình lỡ đạp mình sẽ làm chúng đau. Đối với Đức Phật ngày xưa vào khu rừng chắc chắn là đi trên con đường mòn, không thể đi trên cây cỏ được. Đức Phật cấm không cho giậm lên để làm héo úa lá cỏ, huống hồ cái việc gì, huống hồ gì mà chúng ta nắm đầu cây cỏ mà nhổ. Lòng từ người ta tu tập như vậy mới thấy được giải thoát, còn mình bây giờ đạp cây cỏ nó lung tung đủ thứ hết. Coi như vậy Thầy tổ chức như vậy nghĩa là đối với thời Đức Phật, sự tu đối với tu sĩ thời Đức Phật với Thầy thì Thầy chỉ mới có một phần trăm. Thầy chưa nói nếu mà đúng theo cái hạnh sống của các vị tu sĩ trong thời Đức Phật thì Thầy chỉ có một mà Đức Phật có cả trăm.
Còn muốn tìm một cái nơi để cho nó sống y như Phật mà Nhà nước họ không chấp nhận thấy mình sống rừng rú, không có chùa, không có chiền, không có này kia, chỉ có ba cái chòi lá cho nên họ không chấp nhận, họ sợ, cho nên thời đại chúng ta quá khó, vì vậy mà Thầy mới tạo được phải làm như thế này để họ đến họ thấy mình có nhà có cửa có này kia, họ thấy như vậy thì họ còn chấp nhận. Bây giờ quý thầy còn khuyên chứ Thầy là Thầy để nguyên cái rừng âm u như thế này, nghĩa là đi trong lối mòn chứ không dẫm đạp lên cây cỏ, không có được nhổ cái gì hết, chắc chắn là người ta không có cho mình làm rồi.
(06:42) Đó là những cái mà Thầy ước muốn để mà sống cho đúng những cái hạnh tu giải thoát của Thầy, để cho những người người ta bước vào, người ta sống trong cái đời sống của người ta, nghĩa là bỏ sạch ở ngoài đời, người ta không còn việc gì nữa, người ta vô đây người ta tìm cái hỷ lạc của sự ly dục, người ta sống ngay đó.
Các con vô đây, ví dụ như các con vô đây các con sống chịu khó mà tu, đừng có làm cái gì hết, ngay đó là mấy con có thấy ly dục ly ác pháp rồi, ly cái cuộc đời, mình ly rồi. Còn giờ quý Thầy, quý cư sĩ còn làm này làm kia thật sự ra chưa phải là đời sống của người ly dục, còn lao động còn làm, nhưng dù sao chúng ta cũng phải nói rằng trong cuộc sống hiện giờ thì cũng phải có những người làm như vậy để rồi chúng ta yên chúng ta tu hành, nhưng mà chúng ta yên tâm tu hành để trả công ơn của những người mà làm.
Ví dụ như Thầy Minh Trí làm củi, bửa củi, còn chú Đức thì xây phòng tắm, làm cái này cái kia, bắt điện này kia cho mình, cái công lao của họ làm coi như cư sĩ họ làm mình phải ráng mình tu sao cho đúng để đền đáp, mình tu sao cho đúng hạnh để mình đền đáp công ơn của họ đã làm giúp mình, họ hoàn toàn không giải thoát đâu, họ cũng không có phước báo gì đâu nhưng họ sẵn sàng giúp mình chứ họ không được phước báo gì hết, đừng nghĩ theo Đại thừa họ làm vậy họ có phước báo, họ chỉ gieo duyên để ngày nào đó họ tu (không rõ). Đối với Thầy thì những việc làm đó nó có lợi ích thiết thực vì họ đang ở trong cảnh đau khổ của họ, họ đang trong cảnh xây dựng. Còn mình hằng phút, hằng giờ, hằng giây mình giải thoát giữ mình không còn bận tâm đến chuyện đó, có cũng vậy không cũng vậy, không cần, có đèn thì mình có, mà không thì mình ở trong bóng tối, có gì đâu.
Ngày xưa Thầy ở trên Hòn sơn gần cả năm trời trên đó không một bóng đèn, tối là sống trong tối trong đêm tối chớ không bao giờ mà thắp đèn, khuya ở trên đỉnh mà. Thì tất cả những cái này là những cái điều mà Thầy nhắc nhở chúng ta sống hằng phút hằng giây chúng ta như vậy. Còn ví dụ bây giờ đèn đuốc này kia rồi phải lo này kia nọ như ở ngoài đời rồi. Ngày xưa thời Đức Phật nay dời chỗ này mai dời chỗ kia, có bao giờ mang điện mang đèn theo đâu, ba y một bát Thầy có nghe nói xin đèn xin đuốc gì đâu. Ở chỗ nào, ai Vua chúa ai có cúng dường này kia thì thắp, không thì thôi, nhưng hoàn toàn Đức Phật đâu có xin đèn đuốc mà chỉ xin ăn thôi. Cái bốn tứ sự là nó có bốn cái điều kiện xin của Đức Phật, đặt ra bốn điều kiện: xin y áo rách, lượm vải vá hay may lại hoặc phải xin vải để mà có y áo mặc; ăn uống thì khất thực xin ăn; giường nằm có nghĩa là những chòi tranh vách lá. Xin những cái đó với thuốc thang. Có bốn cái tứ sự có như vậy.
(09:54) Thì ở đây Thầy chỉ tạo cái thế chúng ta sống độc cư cho được cho nên có những tiện nghi trong thời đại của chúng ta, chứ sự thật đúng là thời Đức Phật sống đúng như vậy. Thầy đi vào cái khu rừng Thầy sống nghĩa là Thầy cất những chòi tranh vách lá vừa gọn một người ở một cái một cái vậy đó, nghĩa là luôn luôn chúng ta không bao giờ chúng ta sống được như ở đây, ở đây tiện nghi như ở trên thành phố xây, như vậy chưa đúng cái hạnh, nhưng mà phải ráng tu. Nhiều khi chúng ta tu trong cái môi trường hiện đại, thuận tiện rồi chúng ta sẽ bị đắm chìm, mà hễ đắm chìm thì chúng ta khổ.
Cho nên chúng ta nghĩ tưởng rằng chúng ta an nhàn rồi phải cố gắng khắc phục chúng ta không sống tiện nghi trong thời đại, chúng ta sống kiểu giải thoát, tâm hồn chúng ta không bị vật chất bị lệ thuộc, không bị đèn đuốc, không bị tất cả các mọi cái, không bị ăn uống. Ví dụ như nhà bếp người ta cho mình ăn những cái gì coi như mình xin ăn, mình ăn không được thì mình ăn còn ăn không được thì bố thì chúng sinh. Đó là cách thức để cho mình thực hiện cái đời sống của người tu giải thoát, cái đời sống của bậc Thánh.
Hôm nay cái sự tu nó đơn giản nếu mà chúng ta sống đúng, ăn đúng thì tâm chúng ta ít dục, ít dục tức là chúng ta lìa, rồi chúng ta tập theo pháp thì lần lượt chúng ta ly những cái vi tế của cái dục. Còn cái thô thì chúng ta ăn rồi ngủ, nhưng tại sao bây giờ mình còn buồn ngủ? Tại vì mình còn thô, chứ là người ta đâu còn buồn ngủ như vậy, cho nên mình phải tập để xã cái thô.
(11:20)Đó thì trong cái sự tu tập thì nhớ cái đời sống của chúng ta là quan trọng nhất. Cho nên khi một người mà đến tu với Đức Phật, vì con muốn sống đúng phạm hạnh là con phải nương tựa vào Đức Phật, con tin vào Đức Phật. Tín, tức là Ngũ lực thì Tín lực là đầu tiên, tin vào Đức Phật, Đức Phật sống như thế nào, cuộc sống như thế nào chúng ta sống như thế nấy, thì cái đó là cái quan trọng nhất để chúng ta ly dục. Nếu chúng ta sống mà không ly dục thì làm sao chúng ta ly ác nổi.
(11:56) Cho nên đây phải lưu ý những cái lời mà Thầy dạy, lấy cuộc sống của chúng ta làm cái nền tảng giải thoát thật sự, đó là cuộc sống Giới luật đó. Cho nên chúng ta không học Giới luật mà chúng ta sống đúng là chúng ta không phạm Giới luật, cái thứ nhất.
Rồi cái thứ hai thì về phần tu tập. Chúng ta biết rằng các pháp thì Thầy đã nêu rất rõ rồi. Nó có những loại Định để mà chúng ta tu ở trên Tứ Niệm Xứ, tức là bốn cái nơi để chúng ta thực hiện được cái pháp Định đó. Mà những cái pháp Định đó để chúng ta tu Tứ Chánh Cần, ngăn ác - diệt ác, sanh thiện - tăng trưởng thiện. Hằng ngày chúng ta sống trong thiện pháp, hằng giây hằng phút chúng ta sống trong thiện pháp.
Có một ác pháp hay chướng pháp nào trong thân-thọ-tâm-pháp của chúng ta khởi lên thì ngay đó chúng ta đẩy lui liền. Chúng ta tìm cách quán xét, chúng ta tư duy, chúng ta tu Định Vô Lậu. Chúng ta để tâm chúng ta trở về với trạng thái thiện pháp: không tham, không sân, không si tức là nó ly dục ly ác pháp hết. Do đó từng phút giây chúng ta biết được tâm niệm đó, cho nên chúng ta ăn rồi ngồi không để làm gì, để quan sát lại thân-thọ-tâm-pháp của chúng ta, tức là trên thân quán thân, trên thọ quán thọ, trên tâm quán tâm, trên pháp quán pháp, như Đức Phật dạy trên Tứ Niệm Xứ đó.
Đó là chúng ta đang tu trên Tứ Niệm Xứ, quán sát nó. Như bây giờ mình ngồi quán, Đức Phật đâu có dạy chúng ta ngồi đó mà ức chế tâm. Nhưng mà chúng ta ngồi đó để quan sát cái bốn chỗ này. Để làm gì? Để khắc phục tham ưu, tức là ác pháp. Có ác pháp đến thì chúng ta khắc phục đẩy lui, mà không có thì nó là thiện pháp; thiện pháp thì kéo dài và tăng trưởng nó tức là tâm không tham sân si của chúng ta. Và hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, mình cứ tu như vậy mãi và mình sống đúng như vậy, đừng vi phạm thì hoàn toàn chúng ta sẽ ly sân và khi ly hết rồi thì chúng ta thực hiện các định. Có vậy thôi chứ không có cái gì hết.
Cho nên những pháp Thầy dạy nhớ kỹ những điều pháp hướng Như lý tác ý như thế nào? Chúng ta kết hợp với các loại định khác như Định Niệm Hơi Thở, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác. Thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ tu đi kinh hành đi phá hôn trầm, mục đích chúng ta đi kinh hành là phá hôn trầm. Cho nên hễ nghe buồn ngủ này kia thì đi liền là tốt nhứt, đừng có nên lười biếng không chịu đi thì nguy hiểm lắm. Thầy nói rất khó về cái ngủ chứ không phải dễ. Cho nên phải thực hiện cho kỹ, cho đúng, nghĩa là bây giờ thí dụ như, cũng như bây giờ sức của chúng ta chưa chiến đâu với cái thời gian hơn hai ba tiếng đồng hồ đi nữa, thì chúng ta phải căn cứ vào cái thời gian nhứt định.
(14:38) Thí dụ như bây giờ chúng ta tu bảy giờ đến tám giờ, mà nếu mà tu tới tám giờ mà chúng ta thấy cái sức chúng ta không có buồn ngủ thì chúng ta tu tới chín giờ. Nhưng mà đến chín giờ nó buồn ngủ mà thường xuyên chúng ta tu một thời gian, mới đầu chúng ta chưa thấy nó buồn ngủ, nó đánh chúng ta, nhưng mà lần lượt chúng ta sẽ thấy nó đánh. Do nó đánh chúng ta, khi đi nó cũng ngủ trong bụng nữa chứ đừng nói. Nó vậy đó.
(15:05) Cho nên khi mà bị hôn trầm thì chúng ta khéo léo, chúng ta phải nhìn thấy mình tu nhiều, dụng công nhiều, hằng ngày nhiều, để giữ tâm mình hay hoặc là ức chế trong hơi thở để đừng có niệm thiện niệm ác của nó thì do đó mình bị ức chế quá nhiều do mình tu sai. Chúng ta thấy được cái tu sai của mình, chứ đừng nghĩ rằng tôi ức chế nó không vọng tưởng này kia chưa có đúng đâu, không phải đâu! Mình tu quá sức của mình là mình đã tu sai rồi, mặc dù nó không vọng tưởng nhưng tu sai. Mình tu vừa sức mình thì hôn trầm nó không có, mà mình tu nhiều thì hôn trầm nó sẽ tấn công nó đánh mình. Đó là mình tu sai.
Cái nữa là mình không chịu tu theo cái đặc tướng của mình, bởi vì cái đặc tướng của mình , cái tướng của mình nó còn si mê nhiều tức là nó còn ham ngủ. Mà bây giờ mình ăn một ngày một bữa vừa đủ rồi mà nó còn thì nó không phải do ăn mà sanh ra, mà nó do tu sai sanh ra, hoặc là nó do mình độc cư mà nó sanh ra lười biếng sanh ra buồn ngủ. Mình phải quan sát tất cả những cái này, nếu buồn ngủ mà do công phu tu tập nhiều thì mình tu tập ít lại. Tu tập ít lại để cho nó đừng có quá căng thì nó hết buồn ngủ. Do mình sanh ra lười biếng, không tinh tấn thì nó sanh ra buồn ngủ, tức là nằm lên nằm xuống cứ nghĩ rằng mình có cái tâm nó dối trá mình, mình cứ nói mình tập mình tu, nhưng sự thật là nó lười biếng.
Cho nên khi mà mới vào tu thật sự ra thì Thầy rất sợ cái giường, cái giường nằm của mình, rất sợ cái ghế, rất sợ cái võng. Tất cả cái này Thầy đều sợ hết, không có dám nằm, không dám đặt lưng, phải ngồi, thường là ngồi kiết già, ngồi thẳng đến nổi mà Thầy nói rằng ngồi dựa lưng vào gốc cây mà Thầy cũng không dám nữa đó, sợ cái tâm lười biếng của mình. Cho nên thỉnh thoảng, người tu hành phải thỉnh thoảng nhắc “tâm phải siêng năng tinh tấn”. Đừng nghĩ rằng chúng ta siêng năng đâu.
Nhưng mà chúng ta siêng năng tinh tấn tu nhiều là chúng ta cũng bị sai, nó căng. Cho nên Đức Phật dạy chúng ta như một cái dây đàn, mà lười biếng mà không chịu căng như dây đàn mà chúng ta căng không thẳng, mà căng quá tức là tu nhiều thì nó như dây đàn căng, nó cũng không thực hiện được. Nó vừa. Cho nên tu sao cho vừa là phải nhắm được cách tu.
Đó là những điều kiện mình phải biết xét cái chỗ tu của mình. Có cái gì sai? Thí dụ như trình bày cho Thầy thấy đó có những kết quả nhưng mà chưa phải đâu, mình chưa ly dục ly ác pháp hết đâu. Bởi vì cái nội lực của mình tuy rằng nó có trạng thái chúng ta nhận xét ra được, nhưng nó còn ngắn lắm, nó chưa có tự động đâu. Bởi vì mình bây giờ mình còn dụng công chứ chưa phải là lúc nó hết phóng dật.
(18:10) Khi nó hết phóng dật thì tâm của chúng ta nó sẽ định vào trong thân, nó định vào trong thân thì nó luôn luôn biết hơi thở, mà khi mình biết đi thì nó không tập trung nơi hơi thở, mà nó tập trung trong bước đi. Mà hễ khi mình ngồi thì nó biết hơi thở, mà hễ khi mình đi nó biết mình đi. Khi mình làm hành động gì nó biết ngay hành động đó tức là tâm định trên thân.
Còn bây giờ ví dụ như mình đi và mình ngồi thì nó biết hơi thở, mình đi nó cũng biết hơi thở, cái này là tại vì ức chế. Thành ra mình phải thấy được cái sai của sự tu tập.
Tại sao mà mình đi nó cũng biết hơi thở, nó không định trên cái hành động đi? Bởi vì hành động đi nó thô hơn hành động của hơi thở, mà tại sao nó không định trên hành động đi mà định trên hành động hơi thở? Tức là nó thành thói quen của mình ức chế nó trong hơi thở. Phải lưu ý cái phần này, cái sai mình biết cái sai để cho mình sửa cái sai. Còn nếu mình tu mà mình không biết sai thì coi chừng mình bị lầm. Mình thấy nó hoàn toàn đúng: mình đi nó cũng biết hơi thở, mình ngồi cũng biết hơi thở, như vậy nó định trên hơi thở, chớ không phải đâu. Cái thân của chúng ta thay đổi hoàn cảnh nào đó thì cái tâm chúng ta sẽ định theo cái hoàn cảnh đó, cái nào thô thì nó sẽ định ở trên cái đó trước.
Cho nên chúng ta biết cái tâm không phóng dật là cái tâm nó quay vào. Mà nó quay vào là bắt đầu chúng ta ngồi im lặng, cái thân bất động nè, thì bắt đầu nó sẽ thấy cái động của nội thân nó. Mà khi chúng ta đi thì nó không thấy nội động của thân nó, mà nó thấy cái bước đi của nó bởi vì đó thuộc về hành động ngoại. Còn kia là hành động nội. Cho nên hành động nội: khi mà chúng ta đi, chúng ta làm, chúng ta đâu có biết hơi thở nhưng mà khi chúng ta ngồi lại chúng ta mới thấy được cái tâm nhiếp vào hơi thở. Đó là cái nội và ngoại rất rõ ràng.
Vì vậy khi mà khi cái tâm nó định vào cái thân tức là nó không phóng dật rồi, nó không khởi ra niệm thiện ác của nó rồi, thì lúc bấy giờ nó phải định ở trên cái thân hành của nó: đi thì nó biết đi, mà ngồi thì nó biết hơi thở. Đó là ngay cái kết quả đó là cái mà nó đã định trên thân.
(19:46) Chúng ta biết cái mà định trên thân như vậy đó, cái đó gọi là Nhất Tâm. Khi mà chúng ta quán xét lại cái mà Nhất Tâm thì như vậy chúng ta biết nó do ly dục sanh hỷ lạc. Cái hỷ lạc của nó như thế nào? Chúng ta sẽ quan sát thấy cái chỗ Nhất tâm này.
Cái chỗ mà tâm nó quay vào để nhập Sơ thiền, mà nhập Sơ thiền thì lúc bấy giờ nó không phóng dật nó sẽ nhập Sơ thiền. Khi nhập Sơ thiền thì nó có hỷ lạc, do ly dục mà sanh hỷ lạc. Cái cảm giác hỷ lạc của nó chúng ta sẽ nhận ra.
Còn bây giờ khi mà cái tâm chúng ta yên ổn, nó có hỷ lạc rất rõ; coi chừng chúng ta sẽ bị hỷ lạc tưởng. Gọi là hỷ, bởi vì dục tưởng của chúng ta nó còn nhiều lắm, nó sẽ dễ sanh ra khi mà chúng ta nghĩ đến cái gì đó nó tưởng ra, rồi nó làm cho chúng ta có cái cảm giác. Cho nên chúng ta phải cẩn thận trong vấn đề này.
Còn khi mà cái tâm ly dục ly ác pháp rồi ,thì nó sẽ định vào thân của nó, thì lúc nào chúng ta đi thì nó biết đi, còn chúng ta ngồi thì nó biết hơi thở và nó luôn luôn lúc nào cũng không tác ý ra. Nhưng khi mà chúng ta muốn tác ý một cái gì thì chúng ta ý rất sáng suốt, nó tác ý ở trong cái điều thiện, tác ý ở trong điều đúng chứ không tác ý ở trong cái điều sai đâu. Người ta gọi nó là trực giác. Nó tác ý không bao giờ có cái sự gì khác, nó tác ý rất đúng, chính xác. Một cái người đi ngang qua nó tác ý người đó là nó biết cái tâm niệm người đó. Cho nên nó là trực giác đó.
Nó bước qua cái giai đoạn để mà nó biết được tất cả mọi tâm niệm của người khác, tức là lúc bấy giờ nó nhập Nhị thiền. Nhưng bây giờ nó Sơ thiền, nó đã có cái trực giác, nó không tác ý ra thôi mà nó tác ý ra thì nó biết. Đó là cái Sơ thiền cho nên nó có giác có quán. Ở trong kinh A Hàm thì Đức Phật nói, khi Đức Phật ở trong đó không nói có cái tầm có tứ, mà Đức Phật nói có giác có quán. Nghĩa là khi mà nó có giác rồi, thì khi mà nó khởi ra một cái ý gì đó là cái tầm tứ nó tác ý ra, thì cái gì nó cũng sáng suốt. Ví dụ ngồi đây mà khi nó tác ý ra thì ăn trộm lấy đồ đằng kia là nó biết liền. Nó không tác ý ra thì thôi, mà nó tác ý ra là nó biết. Đó là cái chỗ người tâm thanh tịnh người ta có, nó sắp sửa nó nhập định thì sẽ có trạng thái đó, hiện tiền, nó thông suốt gọi là trực giác. Trực giác nghĩa là cái mà biết mà nó không có qua cái sự tư duy của mình, mình chỉ tác ý ra là mình đã thấy cái đó nó đúng, nó không sai thì cái đó là trực giác.
(22:24) Cho nên ở đây mình xét qua sự tu tập, đời sống là thứ nhất, kế đó chúng ta ôm pháp tu là chúng ta có những cái pháp để tu, cho nên hằng ngày chúng ta tu nhưng mà tu với đặc tướng chứ không được tu theo kiểu không đặc tướng. Tu theo kiểu không đặc tướng: khi mình mới tu thì mình hăng hái tu lắm, nhưng mà mình tu mình sẽ gặp những trường hợp như Thầy nói như hôn trầm, trạo cử, thụ động, nó làm tâm chúng ta thụ động, thì do đó tất cả cái đó là những cái bệnh. Vì vậy mà lưu ý trong những phần này. Khi bị thụ động thì nên đến xin hỏi Thầy, khi bị trạo cử đến hỏi Thầy, khi bị hôn trầm đến hỏi Thầy, để tìm cách phá hôn trầm để rồi chúng ta sẽ ôm pháp, chúng ta sẽ tìm cái kinh nghiệm đúng, đúng là cái kinh nghiệm để chúng ta ôm pháp, theo pháp, bám vào pháp để luôn luôn tăng trưởng giải thoát hoàn toàn. Đó là cách thức để mà thực hiện cho được bằng cách ly dục ly ác pháp.
Cho nên Thầy nói, hiện giờ như quý thầy cũng như các cư sĩ mà về đây tu tập, thì cái điều quan trọng nhất là sống cho đúng, tập sống cho đúng. Bây giờ mình quan sát lại, tới buổi trưa này, mình thấy tới giờ này mình đói bụng chưa? Bởi vì trên thân-thọ-tâm-pháp mà, nó có cái cảm giác đói, nó có cái sự như thế như thế khác: “đời sống tu hành biết tu hành, không để cái chướng ngại pháp này, đẩy lui ra, đúng giờ”. Nghĩa là ví dụ như bây giờ lúc nào mười giờ là đi khất thực là mười giờ đi, rồi về xong thì ăn chứ không để làm gì hay hoặc là mười một giờ đi khất thực là mười một giờ. Trong khoảng thời gian đó mình coi xem cái thân, cái tâm của mình đối với ăn như thế nào. Rồi coi nó có thấy thèm khát cái gì không, nó có muốn cái gì không? Để mình quan sát coi thử tâm tham của mình diệt được chưa.
(24:00) Đời sống của mình mà khi đã khắc phục được khi mà đã khắc phục được cái đời sống của nó tức là mình đã đi được một phần đường ở trên con đường ly dục ly ác pháp.
Ly dục ly ác pháp: ba cái tướng của nó, nó sẽ thực hiện ra cho chúng ta thấy. Thứ nhất là ăn, thứ nhì là ngủ, thứ ba là độc cư. Cái ăn thì nó không khó đâu, khắc phục một thời gian sau sẽ quen. Cái ngủ phải chiến đấu hết mình thì chúng ta mới chiến thắng được cái ngủ. Tới độc cư là cái khó nhất.
Cho nên cái độc cư đầu tiên là chúng ta phải có những giai đoạn độc cư chứ không ép nó quá thì bị ức chế, nghĩa là mình cố gắng mình, trong tâm của mình thì nó chưa muốn độc cư mà cứ ép cho nó độc cư. Thì tức là mình độc cư, mình sống không nói chuyện với ai, mình không tiếp duyên với ai hết, hoặc mình thấy nó buồn bã, cô đơn quá. Mình nghĩ cái này khởi cái kia đủ thứ thì mình ép nó.
Mình đừng ép nó tức là mình phải có đi lao tác, mình phải quét sân, mình phải hốt rác. Mình phải làm cái này, cái kia để lấy cái này mà giảm bớt, chứ không khéo thì nó sẽ đi nói chuyện này, chuyện kia, nó kết bè kết bạn thì nó nguy hiểm hơn; còn mình làm vậy thì thấy nó giảm bớt cô đơn. Cho nên từng những cái độc cư để tránh sự cô đơn đó thì có từng giai đoạn, chứ không phải bắt buộc úc chế. Ví dụ như bây giờ mình bắt nó cũng được, nó không làm gì hết nó ngồi không vậy nhưng nó sẽ sanh những chuyện khác. Nó sanh chuyện khác như nó buồn ngủ, nó sanh ra chuyện khác như nó nghe băng, nó sanh ra chuyện khác như nó đọc kinh sách, nó sanh chuyện khác như tất cả cái sự kiện mà có thể xảy ra.
(25:44) Đó cho nên vì vậy mà cái lối ức chế. Và nếu mình ép buộc nó nữa, ép buộc tức là bây giờ không cho nó đọc sách, không cho nó nghe băng, không cho nó lao động, không làm gì hết. Bắt buộc nó cứ sống như là độc cư một trăm phần trăm, thì lúc bấy giờ ức chế đến độ, khi mà ức chế đến độ mức cuối cùng thì nó hưng phấn. Nó hưng phấn thì bấy giờ nó điên. Cho nên một con người, cái người mà hiện giờ người nào đó, ta bắt họ nhốt họ vào trong đó, bỏ họ trong cái nhà đóng cửa lại, không nói chuyện không gì hết, cứ tới mỗi giờ đút cho họ ăn đi. Đồ ăn rất là đầy đủ, cho họ ăn đi nhưng mà không cho họ nói chuyện. Thì một thời gian người đó điên. Đó, nó đơn giản. Thầy nói là nó đơn giản lắm, nghĩa là cho con ở trong nhà này thôi, đừng cho nói chuyện với ai hết, đừng cho làm cái gì hết. Ở trong này thời gian, tới giờ Thầy cho ăn, tới giờ Thầy cho ăn. Rồi Thầy nuôi trong một năm, hai năm, ba năm, người đó sẽ bị điên. Không có tư tưởng người ta chịu không nổi đâu, người ta sẽ bị điên.
Người ta nếu mà, ví dụ như bây giờ người đó ở trong cái nhà này, họ không hát, họ không la, họ không hét, họ cứ làm thinh làm thinh thì họ bị điên mất. Cho nên ví dụ chẳng hạn mình bắt người tù nào đó, mình nhốt, mình cho họ độc cư đi. Nghĩa là không cho họ tiếp ra ngoài, thì những người ở trong đó họ phải ca, họ ca hát thì họ mới chịu đựng nổi. Họ không ca hát họ buồn. Nhưng mà nếu bắt buộc họ không được ca hát, không được xem, không được gì hết, không được đọc báo, không được gì hết. Một thời gian người này điên.
Đó thì cái độc cư nó quan trọng đến cái mức độ như vậy. Đây là Thầy nói sự thật. Bởi vì ở đây có trường hợp sau này các con sẽ đọc tới những cuốn kinh của Thầy viết, nó cụ thể rõ ràng. Thì trường hợp ở đây, nó cũng có nhiều người đến đây cũng nghe nói độc cư, ham lắm, muốn làm Phật sớm. Nghe độc cư là bí quyết thành công của Thiền định mà. Cho nên họ nhào vô họ độc cư. Họ ức chế, họ bắt buộc cái thân tâm của họ không được nói chuyện theo đúng như lời Thầy dạy. Một thời gian sau họ nói loạn, nó bậy, khi mà tiếp với Thầy, Thầy thấy nó trật, nó trật hết rồi. Bởi vậy cho nên đó là kinh nghiệm rút tỉa, họ không hiểu được pháp độc cư. Vì vậy là một điều kiện rất khó chứ không phải dễ đâu. Tu sai. Pháp của Phật đó, mà tu sai nó trở thành pháp của ngoại đạo chớ không phải đúng.
(28:08) Cho nên ở đây nhớ kỹ những lời Thầy dạy. Có cái gì thì phải thưa hỏi mau, cấp tốc, không có được mà cứ nghĩ theo cái cũ của mình tu, là mình tu sai. Bây giờ thấy cái đó nó không kết quả tức là mình tu có giải thoát mình biết mà, nói không kết quả mình biết mà. Chẳng hạn như bây giờ thấy nó có chướng ngại, tu thấy nó buồn bã hay là như thế nào thì đến hỏi Thầy tại sao không thấy cái niệm an vui ở trong đó, thì nó trật rồi. Thì phải hỏi, thì ông Thầy người ta mới dạy cho mình. Còn mình không hỏi, mình cứ lo mình tu, mình nghĩ mình đúng là mình sẽ giết mình đó.
Cho nên ở đây tuy rằng có những cái pháp nó đã nêu ra như vậy, nhưng không khéo thì bị ức chế. Cho nên mình cần phải hỏi kỹ lưỡng. Và khi hỏi kỹ lại thì mình mới biết cách mình tu. Đó, bắt đầu bây giờ ở đây tu thấy nó có kết quả tốt đó, nhưng mà thử đời sống của mình còn có những gì vướng mắc không? Là Thầy nói là tu giữa đời sống của mình, cứ gần thiện pháp đó là cái trụ để chúng ta tiếp tục chúng ta ly dục, ly cái vi tế của nó. Chứ không, dục và các ác pháp của chúng ta nó vi tế lắm. Còn cái đời sống của chúng ta sống, là chúng ta ly cái dục và ác pháp thôi. Đó thì như vậy nói rõ mới biết được cái đời sống là quan trọng đối với chúng ta.
(29:12) Ví dụ như chúng ta nhìn cái đời sống của quý thầy đây, người nào tu được hay không được người ta biết liền. Bởi vì cái đời sống nó tượng trưng cho sự xả ly của họ. Mà họ sống như vậy là họ không xả ly, chứ không phải là nó thành công giới Phật khen. Đời sống là cái phạm hạnh, mà cái phạm hạnh không có, thì không thể nào sống đạt được kể quả đâu. Chẳng hạn bây giờ chú ở đây chú ở tu, Thầy đi qua đi lại không phải là Thầy không biết đâu. Thầy nhìn Thầy biết đúng hay tu sai, Thầy biết. Cho nên vì vậy phải tập luyện đời sống.
Phải tập luyện đời sống thì phải sống như thế nào? Thì cứ trình bà: “con sống như vậy, nó có chướng ngại, xin Thầy chỉ dạy cho con”. Thì những cái đó có chi tiết để chúng ta khắc phục, như vậy là: “Hằng ngày sao con thấy tới giờ ăn, sao nó cũng còn muốn ăn, nó cũng còn thèm ăn này kia, mà sao nó chưa hết. Con cũng khắc phục rất nhiều”, thì lúc bấy giờ đến hỏi Thầy. Thầy cho cách thức tìm cách khắc phục, tìm cách dùng pháp Như Lý Tác Ý như thế nào để hằng ngày mình tập luyện cho đúng cách. Mình tu tập từng chút nhỏ vậy đó thì mình sẽ đạt được kết quả lớn.
Còn mình không hỏi mình cứ lo mình ôm pháp mình tu, mà đời sống của mình nó còn ê chề, nó còn nằm trên đống rác bẩn thỉu. Ví dụ như chưa tới giờ ăn mà muốn ăn, thì nó thèm cái này, hôm nay sao nó thèm chè, mai thèm cháo. Thời gian người ta không cho mình ăn ngọt, bắt đầu mình thèm. Như vậy cái tâm của mình như thế nào, nó như thế nào đây? Đó rồi mình còn lý luận nữa, tại vì cái thân của mình nó phải đòi hỏi đủ chất, nó thiếu chất thì nó sẽ sanh ra cái thèm. Ta thấy con bò nó có ăn đường đâu, đâu ăn thịt đâu. Nó ăn cỏ không, nó có ăn dầu, ăn mỡ chỗ nào đâu, mà nó cũng mập béo như thường. Còn mình hở một chút thế này thế khác.
Ngày xưa Thầy ở trên Hòn Sơn, Thầy ăn toàn rau không, Thầy có ăn dầu, ăn mỡ, ăn đường, ăn gì đâu. Thế mà Thầy vẫn khỏe mạnh như thường. Đâu có gì đâu. Tại vì chúng ta không tập luyện thì chúng ta nghĩ rằng không ăn đường, bây giờ không có ăn đường thì nó thèm. Ừ đúng rồi! Tại vì mình ăn, lâu quá không ăn thì nó thèm, nó muốn ăn ngọt. Rồi mình lý luận tại cơ thể mình thiếu đường. Không phải. Cô Út nói vẫn ăn cơm nó vẫn sống. Nó nạp đường trong thân của chúng ta đủ trong đó, nó không bao giờ thiếu đâu. Nhưng mà tại vì chúng ta ăn rồi, nó quen rồi, bây giờ thiếu nó đòi thôi, nó ham thôi. Tức là thực hành không đúng cách.
(31:42) Cho nên Thầy hiểu biết, trải qua cái thời gian tu khổ hạnh, Thầy biết sống trong ăn uống, ăn bằng rau không, không ăn cơm, mà Thầy vẫn sống. Thầy nói con bò nó ăn cỏ chứ nó có ăn thứ gì đâu, có thấy nó ăn củ mì đâu, có thấy nó ăn lúa đâu mà nó vẫn mập, vẫn khỏe, vẫn cày ruộng nổi. Còn mình, con người cũng vậy thôi chứ có gì đâu mà lại ăn cái này, ăn cái kia. Rồi cuối cùng Thầy ăn rau được. Cái ý chí của Thầy nó quyết định như vậy. Cho nên nó không đụng cái gì nữa hết. Thầy lấy con bò Thầy chỉ cho Thầy, tại sao nó ăn được mà Thầy ăn không được để mà cực khổ mang từng túi gạo lên trên núi mà ngồi ăn, quá vất vả như thế này. Làm sao giải thoát. Nhớ những điều này là những kinh nghiệm bản thân của Thầy, cho nên chúng ta không lo gì về vấn đề ăn.
Tại vì cái tâm chúng ta giao động, thì nó làm cơ thể chúng ta bại liệt, đau theo cái tư tưởng đó. Đau theo tư tưởng là thiếu chất này, chất kia. Cho nên đối với Thầy, Thầy biết là cơ thể già yếu của mình rồi, mình làm việc nhiều thì mình sẽ mệt nhọc, mình làm vừa sức nó thì không mệt nhọc. Cho nên đâu phải đòi hỏi ăn cái này, ăn cái kia để mà làm cho nhiều.
Đó thì nhớ như vậy. Đợt này về để mà chuẩn bị cho sự tu tập của mình là cái đời sống trước tiên. Sống cho đúng những cái phạm hạnh. Mà những cái phạm hạnh đó là cái giải thoát chứ không phải cái gì khác hơn, là cái nền tảng. Phải nhớ cái đời sống chúng ta, cái phạm hạnh đó là cái nền tảng để chúng ta thực hiện ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Mà khi thực hiện ly dục ly ác pháp hoàn toàn thì chúng ta sẽ thấy có sự giải thoát hoàn toàn và có lực thanh tịnh của tâm của chúng ta. Nó hiện tiền, khi chúng ta Như Lý Tác Ý, chúng ta hướng tâm đến chỗ nào, thì cái chỗ đó chúng ta sẽ đạt được như ý muốn. Nó không có khó khăn. Mà nếu chúng ta sống không đúng đời sống và không ly dục ly ác pháp được, thì kể như đời sống của chúng ta tu để mà tu, chứ không có kết quả gì cả.
(33:39) Đó, thì hôm nay nhớ những lời Thầy dặn: về mà quan sát lại cái đời sống. Quan sát cái đời sống của mình nó ở chỗ nào? Thân - Thọ - Tâm - Pháp của mình chứ ở đâu. Bốn chỗ này gọi là Tứ Niệm Xứ.
Quan sát nó để coi thử coi đời sống của mình ăn như vậy đó, nó còn ham thích nữa không?
Rồi ngủ như vậy nó còn ham thích nữa không?
Độc cư như vậy nó còn buồn không? Nó còn cô đơn không?
Đó thì như vậy. Mà nếu mà ba cái chỗ này mà sống đúng rồi thì đó là đời sống của chúng ta. Phạm hạnh đã hợp với đạo giải thoát rồi. Và từ đó chúng ta ngồi mà quan sát một ngày nó mới có một cái niệm, một ngày nó mới có một chướng ngại pháp, nó mới xảy ra. Chứ không phải nó liên tục như bây giờ chúng ta ngồi lại một lúc thì quên, lúc thì nhớ, huân tập đủ thứ.
Đó, cách thức tu tập như vậy. Để rồi chúng ta kiểm điểm lại cái tâm của chúng ta, xem nó có chướng ngại pháp, ác pháp nó có ngăn cái gì không? Còn bây giờ chúng ta đời sống chưa đúng, thì chúng ta sẽ không thấy được nó đâu. Nghĩa là đời sống mình còn ham ăn, ham ngủ, còn ham vui thì chắc chắn là không bao giờ chúng ta kiểm điểm được nó. Lúc chúng ta nhờ cái này, lúc chúng ta nhờ cái kia, cái tâm của chúng ta nó lung tung hết. Còn đời sống của chúng ta đúng rồi thì chúng ta ngồi xuống điểm lại tâm, thì chúng ta thấy nó rất ít, rất thưa và nó thưa lần, chúng ta sẽ điểm mặt nó tất cả .
(34:54) Khi nó hiện ra thì chúng ta điểm mặt nó, quán xét mày là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Mày là cái thứ này, mày là cái thứ kia, mày là nhân này quả kia. Mình nhận ra mặt nó hết. Khi mình nhận ra mặt nó hết, toàn bộ nó là ác pháp. Do đó khi mà biết nó là ác pháp thì nó ly hết, là xả hết. Đừng có thấy nó hiện cái tướng ra mà chưa biết nó cái gì hết, mà lo ngăn mà diệt nó, đừng ức chế nó. Mà phải nó là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu hoặc là thấy nó nhân này quả kia, hoặc mình thấy nó là bất tịnh, hoặc là thấy nó vô thường, hoặc thấy nó khổ, hoặc thấy nó như thế nào? Tất cả mọi cái này kia đều là, chúng ta thấy được cái niệm ở trong đầu chúng ta, phải rõ như vậy. Thì khi mà biết nó là ác pháp, biết nó là dục hữu như thế nào thì nó sẽ ly hết liền tức khắc.
Đó thì cái này là cái Định Vô Lậu, để chúng ta thực hiện điểm mặt tất cả những tâm niệm của chúng ta khi nó phóng khởi ra. Nó làm cho tâm của chúng ta không còn phóng dật nữa. Từ đó chúng ta mới thấy được cái chỗ giải thoát. Đó, nhớ kỹ như vậy.
Ở đây thì những cái lời này, thì sau những ngày tu hành, Thầy thấy có cố gắng, nhưng mà coi chừng nó sai ở trong này chứ không phải đúng đâu. Cho nên phải quan sát những cái căn bản nhất là cái đời sống của mình đang tu. Nhất là trong cái hạnh mình sống độc cư, coi mình vui không hay mình buồn. Rồi coi thêm cái sự một đêm mà điện tắt, coi thử tâm nó có bực dọc không? Chứ như “sao mà điện nay nó cúp như thế này”, mình thấy cái tâm mình có những đêm mà không có ánh sáng thì nó như vậy, chứ thật ra nó không phải đâu. Nhất định có cũng được, không có cũng được, không quan trọng. Có thì mình sử dụng nó để phá hôn trầm, để cho nó đừng ở trong bóng tối, nó dễ buồn ngủ. Mà không có thì mình thấy cái tâm của mình nó như thế nào?
(37:04) Cho nên nó có những trường hợp như cúp điện này kia đều là những cái tu của mình hết, chứ không phải. Cho nên nhiều khi Thầy thấy cúp điện, Thầy đem đèn đến Thầy trao cho, để mà đốt. Thì đó là cái trợ giúp của Thầy nhắc nhở là mình phải đốt cái đèn trong tâm của mình sáng lên. Đừng có dùng cái đèn bên ngoài, cái ý của Thầy nó như vậy.
Nhưng mà sự kiện là Thầy cái trao nó cụ thể là cái đèn sáp, cái đèn cầy để thấy trong vấn đề đó, nhưng mà không phải đâu, không phải đâu. Cái mà mình quan sát coi cái tâm mình, khi cái hoàn cảnh này, khi đang sáng tốt như thế này, nó thay đổi, coi cái tâm của mình lúc bấy giờ nó thay đổi có an nhiên không?
Nếu mình an nhiên, mình vẫn thản nhiên. Trong khi đó mình có lười biếng không? Nó không đèn coi chừng mình lười biếng, mình ngủ. Mình đặt thành vấn đề mình tu giải thoát cho mình. Chứ không lẽ tu giải thoát cho Thầy sao, mà Thầy phải canh phải gác, phải đi rầy, đi la, phải phạt phải vạ như vậy. Bởi vì mình đi tìm con đường giải thoát là mình phải tự giác rồi.
Cho nên vì vậy Thầy không cần; ai tu Thầy dạy. Ai tu đúng, ai hỏi thì Thầy chỉ cách cho họ tu thôi. Chứ bây giờ đâu có phải là một cái trường học, đâu phải là một cái điều kiện gì mà phải dạy mọi người, phải rầy phải mắng họ, phải này kia. Cái kia Thầy, thật sự ra thì đầu tiên khi mà thành lập Tu viện, Thầy giữ giới luật có gắt cho nên Thầy có đuổi một số tu sĩ làm sai kỷ luật. Nhưng mà Thầy nói, thật sự ra ngày xưa Đức Phật cũng có đuổi chứ không phải không; nhưng Thầy nghĩ rằng cuộc đời người ta còn đắm nhiễm quá nhiều, cũng đáng thương, mình không nên đuổi. Thôi Thầy nhắc nhở, tu được thì được, tu không được thì phải chịu. Chứ bây giờ bây giờ làm sao, lỡ nhận người ta vào, coi người ta như là một đứa con. Bàn tay có ngón dài ngón ngắn, đứa vầy đứa khác, không nên đuổi nó tội nghiệp. Để gieo cái duyên cho tốt. Nó không biết, nó vô đây mà nó tu, nó đắm mê như vậy thì nó sẽ mang nợ, nó mang nợ của đàn na thí chủ, mang nợ công lao của người khác, tội nó. Nhưng Thầy biết làm sao hơn, chỉ nhắc nhở khéo mà thôi. Đó là cách thức.
(39:06) Đến giờ này Thầy luôn luôn lúc nào cũng tâm niệm không nên phạt vạ, ít rầy mắng những người khác. Để tự họ. Mình khéo nhắc nhở, khích lệ cho họ tu để cho họ đi đúng, chứ không nên làm cho họ có cái tâm hờn giận, mà đau khổ thêm, tội cho họ tạo thêm cái nghiệp ác.
Thành ra cho nên vì vậy mà quý thầy phải ráng cố gắng, đừng có.., nỗ lực mà sống cho đúng. Đó, thì ráng những phần Thầy nhắc nhở nãy giờ. Ráng quan sát cái đời sống của mình hằng ngày: ăn, ngủ, độc cư. Có ba phần này phải quan sát chính nè. Còn những pháp tu thì biết chừng rồi. Bây giờ nó không có, khi nó này kia thì mình biết rồi mình dùng pháp mình tu, chứ không phải pháp là chính đâu.
Mà Định Niệm Hơi Thở nó không phải chính đâu, mà Định Chánh Niệm Tỉnh Giác nó không phải chính đâu, mà Định Sáng Suốt cũng không phải chính đâu, mà Định Vô Lậu cũng không phải chính đâu. Mà chính bây giờ là cái quan sát coi đời sống của mình coi mình sống, ăn, ngủ, coi như thế nào? Độc cư như thế nào? Đó là quan sát chính. Kế đó mới dùng cái pháp. Đời sống của mình bây giờ nó còn tham ăn, nó còn muốn ăn thì phải dùng Định Vô Lậu, phải quan sát nó, xem xét nó, đó là cái Thứ nhất.
Rồi về cái ngủ cũng vậy, quan sát xem xét nó rồi mới dùng cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, tức là đi kinh hành đó. Mình mới tập đi kinh hành để cho mình phá cho được cái này.
Đọc cư: bây giờ mình độc cư thấy buồn bã, cô đơn này kia thì mình phải dùng Định Vô Lậu, mình quán xét mình phá cái tâm này và mình thay đổi. Mình thay đổi, ví dụ như mình ở không, mình thấy cô đơn quá nó sinh ra loạn tưởng, ảo tưởng tuôn trào. Cho nên mình đi ra lao động, mình không có lao động chung với ai hết. Bởi vì lao động chung thì nó sẽ mất độc cư rồi. Cho nên vì vậy mình lao động hoặc là mình thấy bây giờ mình phải cần, lúc này mình không phải ép nó, mình lấy kinh sách ra những lời Thầy dạy, mình nghiên cứu đọc lại kỹ lưỡng. Rồi mình mới thành lập một cái đường hướng, một cái phương án, rồi bắt đầu mình tu cái gì, cái gì. Mình khởi sự, mình thành lập như một cái thời khóa biểu, nhưng mà ở đây là một cái phương án, vì cái thời khóa biểu thì cái giờ giấc nó nghiêm chỉnh. Nhưng mà cái phương án của mình để mình thực hiện con đường tu, mình thành lập phương án đó.
(42:03) Bắt đầu bây giờ phải, bây giờ mình đang tu cái gì, bây giờ về sự hướng dẫn của Thầy là dạy mình ăn, ngủ, độc cư. Thì mình phải quan sát như thế nào? Kế đó mình quan sát mình gặp cái chướng phải ở trên cái đó. Ví dụ như bây giờ cái ăn, mình gặp cái chướng ngại như có cái niệm, tức là mình phải dùng cái pháp nào đó, để mình đẩy lui cái này ra. Ngủ cũng vậy, rồi độc cư cũng vậy.
Do đó mình lấy kinh sách mình nghiên cứu để mình soạn thảo ra một cái giáo trình cái đường hướng để mình tu tập, phương án để mình tu tập, đó là cách thức. Khi mà mình thấy cái tâm mình bị cô đơn, nó tuôn trào ra, mình mới lấy cái này ra. Còn nếu mà tâm không cô đơn, không cần đọc kinh sách gì hết, chỉ quan sát. Mình hiểu biết cái đó, mình không cần nghe những cái lời băng, lời dạy gì nữa hết. Sau khi mình nắm vững rồi thì ôm pháp, tin tưởng vào pháp của Phật và lời dạy của Thầy là sẽ có giải thoát hoàn toàn. Do đó mình cứ ôm chặt, mình cứ thở , nó vậy. Phải nhớ kỹ. Đó, cái độc cư nó có nhiều cái giai đoạn.
Nên vì vậy mà nếu mà mình thay đổi được cái này thì mình thấy nó an ổn. Mà mình thấy nó chưa có an ổn, nó còn tuôn trào thì mình thay đổi cái độc cư. Mình ra mình trồng cây này, hoặc làm cái kia hoặc quét cái sân nọ, hay hoặc là coi chỗ nào đó sửa sang lại. Bởi vì ở đây Thầy rất tự do, để cho các con tự làm, đẹp xấu gì Thầy chẳng quan trọng gì hết, mà để cho mình tu tập cho được, để mình sống cho được con đường tu. Giảm bớt sự cô đơn của mình đó là cách thức.
Cho nên Thầy thấy các con làm vậy, ví dụ như bữa mấy Thầy thấy con làm cây kiểng này kia đó, Thầy thấy là cái chuyện này làm như vậy cũng là lợi ích cái sự độc cư của mình để … cho nó tốt. Đừng nghĩ rằng con làm vậy nó đẹp, hoặc là đặt như vậy như kia, nó không có đúng. Thầy nói bây giờ mấy con đặt sao Thầy cũng thấy đúng hết, miễn là tu là đúng. Mà đặt bây giờ có làm đẹp cái vườn của Thầy đây, bây giờ đủ hoa kiểng rất đẹp, nó không đẹp chút nào. Mà chính cái làm để chúng ta tu cái đó, cái giải thoát tâm hồn trong đó, chứ không phải cái tìm bên ngoài. Cái này nó không đẹp đâu, Bữa nay làm cây kiểng này, chứ ngày mai cây kiểng này sẽ tàn liền, nó hết hoa nó cũng không đẹp, Nó làm vậy, chứ ví dụ bây giờ trồng bụi cau bên đây, bụi cau bên kia, rồi tiếp tục trồng cây nọ, kia. Người đời thì nhìn thấy cái đó nó đẹp, nhưng đối với Thầy cái đó không đẹp, mà chính cái làm này để cái tâm của chúng ta sống đúng độc cư, thì cái này cái đẹp, nó rất tốt.
(44:33) Nhớ cái điều mấy con làm như bây giờ mấy con quét cái sân, không phải cái sân sạch là đẹp đâu. Đối với mắt của Thầy cái sân nó không đẹp đâu, mà chính quét cái này để làm giảm bớt sự độc cư của mình, giảm bớt sự tuôn trào, để cho mình sống độc cư cho được, nó không bị ức chế. Thì cái đẹp là cái chỗ không bị ức chế, phải hiểu được cái ý của Thầy nói.
Chẳng hạn bây giờ thầy Minh Trí thầy chặt củi, thầy chặt củi thì tức là thầy phải tu ở trong chặt củi, thầy phải biết cái xả tâm của mình để giảm bớt sự cô đơn; thầy đang tu tập cô đơn chứ đâu phải thầy đang tu định. Thầy đâu có ngồi thiền nhập định như quý thầy đâu. Cho nên đừng lấy cái của người khác mà cho cái chỗ tu của mình.
Thầy đang tu độc cư đó, Thầy đang làm như vậy độc cư đó, thì cái tâm của Thầy nó đang tuôn trào lên. Cho nên ví dụ như có những người nghĩ sai thầy một chút, thì cái tâm Thầy tuôn trào ra qua cái mức độ. Vì vậy những cái đó mà thầy đã thấy được, thầy làm để xả được cái tâm thầy.
(45:33) Cho nên chúng ta thấy có nhiều cái chúng ta tu, trong này có nhiều cái người ta làm chướng lắm, nhưng mà chướng mới tốt, nhưng tại vì mình nhìn ở gốc độ của mình, mình thấy chướng chứ thật ra người ta ở trong chỗ người ta tu, người ta không thấy chướng đâu. Chính là thực hiện độc cư, người ta phải làm như vậy để cho người ta trọn vẹn sự độc cư, trọn vẹn trong giai đoạn độc cư.
Đó, cho nên … Đó là những cách thức chúng ta phải biết về nó. Thì cho nên trong cái vấn đề đó, ví dụ như bây giờ chú Luân, chú làm cái này, cái kia nọ. Bắt đầu bây giờ chú làm như vậy, chú tu ở trong cái chỗ của chú đó. Chúng ta phải biết cái hành động làm, chứ không phải làm để mà chú cầu được cái phước. Chẳng hạn bây giờ chú làm cho quý thầy đèn đuốc, phòng tắm, vòi nước, này kia. Nếu mà chú nghĩ ra cái kiểu Đại Thừa thì chú nghĩ làm cái đó chú sẽ được phước, nhưng mà ở đây Thầy thấy cái đó không được. Bởi vì cái phước đó, nếu mà quả thật nó có đúng cái phước, nó vẫn là cái phước hữu lậu. Mà đã nói hữu lậu thì nó có cái khổ trong đó. Chừng nào mà vô lậu thì nó mới hết khổ chứ. Mà được cái phước mà khổ thì được cái phước làm gì? Ai mà ham cái phước khổ, thà là người ta muốn được phước là phước không khổ chứ. Bởi vì ông vua, ổng được phước hữu lậu, ổng làm vua. Ổng làm vua có khổ không? Ông vua khổ lắm, ai cũng biết chứ, ông đâu có sung sướng. Đi ra một mình là chúng ám sát đó. Ông đâu có sung sướng như mình. Cho nên đừng nghĩ rằng ông vua là cái phước lớn, không phải đâu. Cái phước nhỏ chứ không phải lớn đâu.
Cho nên Thầy nói rằng cuộc đời tu hành là chúng ta tìm phước vô lậu, chứ không ham phước hữu lậu. Đó bây giờ quý thầy thấy có những chùa to này kia nọ lớn đó, ông thầy mà làm trụ trì cái chùa to là ông thầy có trách nhiệm với nó rồi đó. Tức là làm con mọi cho nó, phải lau chùi, mà không lau chùi thì phải sai chúng phải lau chùi. Cái vườn kiểng của ông ta đẹp thì bắt chúng phải tưới luôn, phải này kia nọ chứ không làm cái thì làm sao nó đẹp được nữa. Cho nên hằng ngày chăm bón như vậy thì chắc chắn cái phước này cái phước hữu lậu, chứ không thể vô lậu được. Bởi vì nó có sự cực khổ quá. Làm sao mà ngồi không như mình được. Còn mình hiện giờ thì quý thầy thấy mình tu không có làm gì hết thì vô lậu thiệt mà. Mà mình có đói không, có đói chỗ nào đâu. Còn họ có làm gì đi nữa, họ cũng ăn như mình thôi, họ có ăn hơn được sao? Không ăn hơn như mình được, thì họ cũng sống như mình, mình cũng sống như họ.
(48:04) Chứ họ bây giờ có ăn, ví dụ họ ăn năm bữa, mười bữa, họ ăn thì cái cơ thể của họ làm sao nó tiêu thụ hết cái điều đó đâu, rồi nó cũng thải ra. Còn mình giờ ăn bữa cũng đủ nuôi cái thân sống của mình, cho nên mình khỏe re. Còn họ ăn nhiều, thân phì mập ra, họ mang như cái bao rất nặng. Rồi bệnh này bệnh kia; chứ giờ mập thì đâu có ít bệnh đâu. Còn mấy người ốm ốm vậy chứ không có bệnh tầm bậy.
Đó là những cái chúng ta thấy rõ ràng. Bây giờ họ có ăn nhiều, phước hữu lậu mà, ăn nhiều thì họ khổ nhiều chứ làm gì. Họ mắc công ăn nữa. Còn mình phước vô lậu, cho nên mình ăn đủ sống, cho nên mình thấy mình khỏe, đó là một cái giải thoát. Cái mà mình thấy thật sự là mình giải thoát thật sự, mình không còn khổ nữa. Còn họ, nhìn cái chùa ai cũng khen ông này sao mà cái phước quá lớn, trời, quá đẹp. Cái cảnh của ông, ông làm núi Hòn Sơn giả nè, nào là giá trị này kia, cây kiểng rất đẹp. Nội cái giá trị này không cũng là mấy chục triệu, cái vườn kiểng của ông cũng mấy chục triệu.
Thật sự ra đó là cái phước hữu lậu. Quá khổ! Ông ta muốn được cái lời khen của thiên hạ, thì ông ta quá khổ với cái chùa của ông ta. Đó là bằng chứng Thầy nói ở đây, thì các con sẽ thấy cái này rất rõ ràng. Cho nên chúng ta tìm cái vô lậu. Vậy bây giờ thầy cứ ở trong thất thầy đi mà thầy không làm cái gì, có ai rày không? Có ngày nào mà thầy đói không? Cho nên rõ ràng là các phước vô lậu rõ ràng mà. Tại sao chúng ta không tìm cái phước vô lậu, cái phước giải thoát mà? Cho nên ở đây không đúng.
Bây giờ mình còn nghiệp chướng, cho nên cái hữu lậu nó vẫn còn. Vì vậy mình sống như thế này kia chưa nổi, cái phạm hạnh như thế này kia chưa nổi. Cho nên nó làm cho mình khổ đủ thứ, cái tâm của mình làm đủ chướng ngại. Cho nên vì vậy đó, mình phải đi ra mình lao động, mình làm thoải mái. Để làm gì? Để cho mình tìm đến cái vô lậu thật sự của mình, quét sạch cái hữu lậu.
(50:15) Cho nên cuối cùng cái con sẽ thấy rất rõ ràng. Đó, Thầy muốn nói lên như vậy, để cho thấy được cái chỗ mà chúng ta làm sai. Ví dụ như thầy Chơn Trí, thầy bửa củi, thầy chặt củi, bây giờ đó là cái phước hữu lậu rất lớn đó. Mà càng hữu lậu bao nhiêu thì thầy càng khổ bấy nhiêu đó. Cho nên thầy biết lấy được cái chỗ đó, thầy giữ gìn được cái hạnh độc cư của mình. Thầy làm sao thầy thực hiện cái độc cư để cho cái tâm thầy bớt căng thẳng. Đó là cái việc của cái tu, nếu mà người ta hiểu được vậy; còn nếu người hiểu sai tức là người ta bất trật.
Cho nên vì vậy chúng ta thấy mọi cái ở đây người tu vậy, kẻ tu khác. Nhưng mà tại vì sao có một pháp môn mà lại tu vậy, mà lại tu khác, kỳ vậy? Còn ở chùa người ta tại sao tụng niệm? Người nào cũng lên tụng niệm. Bây giờ lên ngồi thiền thì người nào cũng ngồi thiền, lao động thì người nào cũng lao động. Ở đây khác. Người thì có lao động, người không lao động, tùy theo đặc tướng của mọi người, tùy theo sự độc cư, tùy theo ăn, ngủ của người ta. Đó là cách thức của ở đây, người ta tu giải thoát mà. Người ta đi từ chỗ hữu lậu đến vô lậu. Còn mình đi từ chỗ hữu lậu đi vào chỗ hữu lậu, thì nó không có vô lậu rồi.
Thì rõ ràng là quý thầy đang tu, họ đi từ hữu lậu đến hữu lậu, chứ không phải vô lậu. Còn mình đang tu đây là từ cái hữu lậu đi vào cái vô lậu. Cho nên hiện giờ có người ta ở trong vô lậu. Còn mình chưa vô lậu, thì mình còn hữu lậu, mình phải chịu thôi chứ mình không cầu cái phước đó. Phải hiểu rõ ràng những cái như vậy. để chúng ta thực hiện con đường tu.
Đó thì nhớ những lời Thầy nói nãy giờ: Ăn, ngủ, độc cư đó là đời sống của chúng ta phải thực hiện cái phạm hạnh. Thực hiện những phạm hạnh đó thì lần lượt những bộ kinh Giới, những cái đức hạnh của một bậc Thánh tăng, người ta sống cái đức hạnh như thế nào, thì lần lượt Thầy sẽ soạn thảo bởi vì giới luật của chúng ta chỉ là cái pháp luật.
(52:11) Từ xưa đến giờ thầy Tổ của chúng ta thành lập cái pháp luật chứ chưa phải là cái giới luật của Đức Phật. Cái giới luật của Đức Phật tức là cái hành động Thánh, cái hành động làm Đạo Đức. Một người đạo đức là một người xứng đáng.
Thầy bận nhiều việc không thể mà làm hết được những cái việc này. Cho nên do đó thì các con lần lượt phải nỗ lực, phải sống cho đúng cái phạm hạnh. Thì cái phạm hạnh đầu tiên của chúng ta có ba cái Đức Ăn, Ngủ và Độc cư. Phải thực hiện những đức hạnh trong đời sống cho nó hoàn chỉnh, cho nó nghiêm chỉnh. Để rồi chúng ta có cái sự, ngay cái đức hạnh đó, chúng ta có sự giải thoát trong đó. Mà muốn được vậy thì chúng ta có cái pháp để chúng ta tu. Thầy nhắc đó là Định Niệm Hơi Thở, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Sáng Suốt, Định Vô Lậu. Bốn cái Định. Bốn cái Định đó thì đặt ở trên bốn cái chỗ thân - thọ - tâm - pháp của chúng ta, để thực hiện cái pháp Tứ Chánh Cần, ngăn ác diệt ác để mà ly dục. Có vậy thôi, pháp của chúng ta chỉ đơn giản vậy thôi, không có cái gì mà khó hết. Cho nên ở đây cái quan sát đầu tiên của chúng ta là quan sát cái đời sống. Rồi sau đó quan sát tâm niệm của chúng ta, để chúng ta đẩy lui tất cả các chướng ngại pháp. Nhớ kỹ chưa?
Nhớ kỹ: quan sát đời sống. Coi đời sống của chúng ta như vậy nó có thích nghi không? Nếu mà thích nghi thì được. Còn chưa thích nghi thì phải dùng các cái pháp này để mà hướng tâm, để mà nhắc để mà Như Lý Tác Ý, để mà thực hiện cho được cái chỗ tu học. Rồi bắt đầu bây giờ, bước tới một cái giai đoạn khác, thì chúng ta lại thực hiện những cái pháp khác. Còn bây giờ ở giai đoạn này, chỉ có vậy thôi.
Phật tử: (không nghe rõ)
Trưởng lão: Trong cái thời gian tu tập về Định Niệm Hơi Thở thì trong cái thời gian này chúng ta chỉ tu có năm phút, có năm phút cái thời gian để ức chế tâm mà nếu mà hơn năm phút, hơn mà năm phút thì chúng ta bị ức chế tâm. Nghĩa là bây giờ mình tập trung mình gom tâm, mình hít vô, hít vô; thở ra, thở ra khoảng năm phút là cái sức ức chế tâm của chúng ta nó ít, nó không có nhiều, nhưng mà kéo dài hơn chỗ đó mà chúng ta ráng tập trung để cho nó kéo dài từ mười phút đến hai mươi phút, đến ba mươi phút, thì đó là chúng ta ức chế quá mạnh. Ức chế quá mạnh là đã đi sai rồi.
(54:56) Cho nên vì vậy tuy rằng Phật pháp nói rằng không có ức chế, nhưng sự thật có ức chế chứ không phải không có ức chế. Chứ không được ức chế nhiều. Ức chế nhiều là nguy hiểm, rất nguy hiểm. Cho nên ví dụ như bây giờ mình đi kinh hành, đi từ đây tới đằng kia, bây giờ đó mình tác ý mình hướng, mình tác ý: “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành”. Rồi bắt đầu mình đi, đi tới khoảng nữa kia, bắt đầu mình hướng tâm lần nữa. Thì như vậy để cho mình dẫn dắt cái tâm của mình đi được tỉnh thức mà không bị ức chế. Còn bây giờ mình ráng mình tập trung, để đi từ đây tới kia mà mình không nhắc; nhớ, mình không nhắc tức là mình gom tâm mình rất ức chế. Cũng khoảng thời gian năm phút, mà trong năm phút này, mà mình hoàn toàn mình không ức chế nó. Là sau khi cái tâm nó thuần thục, nó có ly xả trong đời sống của mình, nó mới được cái khoảng này, thì nó không bị ức chế.
Còn bây giờ mình không có ly, mình ăn uống cũng phi thời, mình sống không có đúng hạnh, ngủ còn ham ngủ, độc cư thì chưa có được cô đơn mà hoàn toàn chịu đựng nổi, mà lại tu có thời gian ức chế tâm dài, thì như vậy rõ ràng là mình không dùng cái pháp hướng, không dùng cái pháp hướng nhắc tâm mình. Mà mình kéo dài được cái thời gian năm, mười phút như vậy đó là hình thức ức chế tâm.
Nghĩa là như hồi nãy con hỏi Thầy, là tu như thế nào để không bị ức chế tâm phải không? Nghĩa là tu mà nó không bị ức chế tâm. Ví dụ ở đây đi ra ngoài kia, thì mình đây đi tới cái cầu kia, thì mình sẽ nhắc ba lần hoặc bốn lần. Còn mình không nhắc là ức chế tâm, là tập trung hết sức nó mới được như vậy. Còn mình nhắc là mình tập trung ít hơn. Hiểu chưa?
Đi kinh hành cũng vậy, ngay ngồi Định Niệm Hơi Thở phải nhắc tâm “Thở, tôi biết tôi đang thở”. Rồi mình tiếp tục như vậy, cứ năm phút hơi thở mình nhắc lần nữa. Cho nên năm phút mà mình nhắc, đó là mình không ức chế tâm. Còn mình không nhắc là bị ức chế tâm. Tức là mình quá gom tâm cho nên phải gom tâm cho chặt, chừng khoảng năm phút không có một niệm, một vọng tưởng nào nữa thì ức chế. Hiểu chưa?
Phật tử: (không nghe rõ) muốn đi kinh hành nhiều khoảng một tiếng, hai tiếng có bị ức chế không thưa Thầy?
Trưởng lão: Nếu mà mình đi kinh hành, mà rơi vào ức chế, là mình đi suốt thời gian một tiếng hai tiếng đồng hồ không có niệm vọng tưởng nào là mình bị ức chế. Giờ mình chỉ đi kinh hành khoảng chừng độ năm hoặc ba phút, mà mình thường nhắc tâm mình. Còn mình đi kinh hành không ức chế là mình đi như thế này: Mình quan sát thân - thọ - tâm - pháp, mình không quan sát cái bước đi, không có dùng một cái đối tượng của nó để gom đối tượng để mình gom cái tâm mình vào đó mà mình quan sát một cái khác mà tâm nó tập trung vào đó, là nó không bị ức chế.
(57:45) Thí dụ như bây giờ Thầy đang đi, Thầy không có lưu ý bước đi đâu, mà Thầy lưu ý cái thân cái thọ cái tâm cái pháp của Thầy. Thầy coi bốn nơi này, Thầy quan sát cái thân của Thầy coi cái cảm giác, cái cảm thọ của Thầy, cái tâm của Thầy nó có khởi niệm hay không? Các pháp bên ngoài có đánh đập Thầy không, nghĩa là có đập vào không?
Ví dụ như Thầy nghe âm thanh như tiếng chim, tiếng hát hò này kia, hay là nghe chó sủa coi nó có làm động Thầy không? Thì Thầy quan sát bốn cái chỗ này, mà Thầy vẫn thấy cái tâm của Thầy, nó vẫn không có cái gì hết xảy ra, thì nó vẫn thấy bước đi. Đương nhiên là Thầy không tập trung trong bước đi, tức là đi suốt đêm cũng tốt không sao hết, không bị ức chế.
Còn mình tập trung ngay cái đối tượng của nó, là mình bị ức chế. Hiểu chỗ Thầy đang nói không? Nghĩa là giờ mình đi, mà mình tập trung mình biết mình đi là mình bị ức chế. Còn mình đi mà tâm mình tự nó biết, mà mình quan sát một cái chỗ khác, mình không quan sát chỗ này, mình không tập trung chỗ này, để ý một cái gì khác, mà cái tâm nó lại luôn biết cái chỗ đi, thì cái đó không bị ức chế. Hiểu chưa?
(58:50) Phật tử: Dạ Thầy, mình đi kinh hành cũng quan sát trên thân - thọ - tâm - pháp?
Trưởng lão: Trên thân - thọ - tâm - pháp của mình, chứ mình không quan sát bước đi.
Phật tử: Còn Định Niệm Hơi Thở?
Trưởng lão: Định Niệm Hơi Thở cũng vậy. Mình quan sát thân - thọ - tâm - pháp của mình, mà tâm nó ở trên hơi thở. Bởi vì nó không có niệm gì, nó không có cái gì, nhưng nó không có gì trên thân thọ tâm pháp của mình. Mà nó có thì ngay đó mình quán vô lậu, mình đẩy nó ra. Cho nên mình không chuyên về cái hơi thở. Còn khi mà mình tu hơi thôi, khi mình có cái niệm gì, thì mình nhìn ngay cái niệm đó, để mình tiếp tục hơi thở thì mình ức chế.
Nhưng mà cái giai đoạn này là cái giai đoạn đầu mà chúng ta tu, thì chúng ta phải có sự ức chế của hơi thở. Nghĩa là chúng ta phải nương vào hơi thở để mà tu một cái giai đoạn đầu là khoảng đầu năm phút mà thôi. Nghĩa là bây giờ mình muốn biết hơi thở ra, hơi thở vô. Mình muốn biết hơi thở, thì mình tập trung trong hơi thở chứ chưa có quan sát gì được. Cái này là cái giai đoạn thứ hai rồi. Còn giai đoạn thứ nhất là phải tập tỉnh thức trước. Bởi vì nó tỉnh thức nó mới Chánh niệm.
(59:49) Nghĩa là bây giờ Thầy nhắc như thế này:
Giai đoạn đầu của chúng ta là tỉnh thức để mà xả tâm. Tỉnh thức để mà xả tâm. Nghĩa là bây giờ mình tỉnh thức trong cái hành động của mình, mình thở ra thở vô, mình biết thở ra, thở vô. Mà nó cái niệm gì xen vô này thì chúng ta xả cái niệm này, để trở về cái hơi thở. Hiểu chưa?
Còn bây giờ giai đoạn thứ hai là nó không phải ở trong hơi thở nữa, mà nó là Chánh niệm mà xả tâm. Nghe rõ chứ? Cái kia là Tỉnh thức để mà xả tâm, tức là tỉnh giác để mà xả tâm. Còn cái này Chánh niệm để mà xả tâm. Cho nên cái Định, cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, có cái Định Chánh niệm tỉnh giác bởi vì hai cái trạng thái này nó kết hợp trở lại. Bây giờ mình định cái giác để mà xả tâm thì luôn luôn cái tâm nó sẽ ở trong cái Chánh niệm của nó là cái niệm thiện của nó, nó không ở niệm ác cho nên bây giờ tỉnh giác.
Còn bây giờ mình ở trong Chánh niệm để mà xả tâm thì nó không còn chỗ tỉnh giác nữa, bởi vì cái tỉnh giác này là cái giai đoạn đầu mình đã tỉnh rồi. Còn mình tập tỉnh nữa nó chỉ có có tỉnh thôi, nó không kết quả. Mà nó xả không rốt ráo tới cái vi tế. Còn bây giờ nó ở trong cái tỉnh, nó ở trong cái Chánh niệm để mà xả tâm thì cái Chánh niệm nó quan sát trọng, cái Chánh niệm là luôn luôn mình quan sát tất cả thân - thọ - tâm - pháp của mình để cho mình biết niệm chánh của nó, chứ không phải là biết hơi thở hay bước đi.
Còn cái kia là mình tỉnh giác là mình tỉnh giác trong hơi thở để cho mình xả cái tâm. Tức là cái tâm mình nó có những cái niệm gì vừa khởi ra thì mình ở trong cái sức tỉnh này, để mình biết cái niệm đó là tà niệm không có đúng, để xả ra cho cái tâm nó hoàn toàn ở trong Chánh niệm đó.
Cho nên lưu ý: cái phần đầu tiên của người tu là đầu tiên chúng ta chưa có tỉnh, mà chưa có tỉnh do đó chúng ta phải nương vào hơi thở, phải nương vào bước đi kinh hành nè, để tập tỉnh. Hiểu chưa? Nếu mà chúng ta không nương vào hai cái này, thì chúng ta không tỉnh, vì vậy bị hôn trầm, bị buồn ngủ. Cho nên còn cái chỗ Chánh niệm để mà xả tâm, cái chỗ mà Chánh niệm xả tâm, cái chỗ này nó là giai đoạn mà mình đã tỉnh thức rồi, mình đã tỉnh giác rồi, mình đã tu cái giai đoạn đầu rồi, bây giờ qua giai đoạn kế.
Cho nên lúc bấy giờ quan sát là quan sát về cái ăn, ngủ, độc cư của mình, chứ chưa phải quan sát thân - thọ - tâm - pháp của mình, thì lúc bấy bấy giờ phải tu Chánh Niệm Tỉnh Giác này. Tức là lấy cái tỉnh giác này hay là tỉnh thức này, để mà xả cái tâm. Hiểu không? Biết cách không? Coi vậy chứ nó rắc rối, chứ không khéo hai cái này coi chừng nó lộn. Một cái mình không có nhìn cái đối tượng của nó, cho nên mình đã tỉnh rồi, mình không có dùng cái đối tượng này nữa mà chỉ dùng cái Chánh niệm của nó coi cái niệm của nó. Bởi vì cái niệm thường thường nó hay khởi lên ở trên thân - thọ - tâm - pháp của mình, có bốn chỗ để khởi niệm.
Cho nên mình nhìn bốn chỗ này để biết cái niệm, gọi là Chánh niệm. Giữ cái niệm chân chánh ở trên bốn chỗ này. Còn khi người mới tu, người mới tu thì tỉnh thức phải không? Tỉnh thức để xả tâm, tỉnh thức trong cái hành động của nó. Bởi vì cái hành động là tự nó có.
(01:03:14) Còn bây giờ mình đặt ra một pháp nào đó, thì như vậy nó sai. Ví dụ bây giờ Thầy đặt ra câu niệm Phật “Nam Mô A Di Đà Phật” thì Nam - Mô - A - Di - Đà - Phật này là nó không ở trong hành động của Thầy có. Mà Thầy phải đặt ra một cái pháp để mà Thầy niệm, phải không? Để làm cho nó được nhiếp tâm, nó tỉnh trong câu đó. Còn cái hơi thở của chúng ta, nó sẽ có trong thân. Cho nên Thầy mượn cái hành động Thân này, nội thân của Thầy là cái hơi thở thì nó tỉnh thức ở trong cái nội thân của Thầy. Tại vì cái mục đích của đạo Phật muốn chỉ chúng ta thấy khi mà tâm nó không phóng dật thì nó sẽ định vào cái thân nó. Mà nó định vào trong thân của nó thì định vào cái hơi thở, phải không? Nó định vào hơi thở của nó hay định vào bước đi của nó, đó gọi là tâm định trên thân.
Cho nên khi mà chúng ta tu, chúng ta thấy nó cũng có căn bản của chúng ta. Bây giờ chúng ta nương vào hơi thở, biết hơi thở ra vô ra vô. Sau khi tâm không phóng dật nó lại quen cái này, nó lại vô trong hơi thở nó dễ. Còn giờ nếu mà chúng ta cứ niệm Phật đi, Nam Mô A Di Đà Phật, thì khi mà tâm của chúng ta ly dục ly ác pháp được, nó luôn ở trong câu niệm Phật. Mà câu niệm Phật nó ở ngoài thân - thọ - tâm - pháp của chúng ta rồi. Hiểu không? Nó thành ra một cái tác ý của cái ý của chúng ta, nó không phải ở trong cái thân. Mà vì vậy chúng ta nương vào cái thân để ly dục ly ác pháp, để làm cho cái thân tâm của chúng ta nó thanh tịnh, nó ly những cái ác pháp, nó ly những cái dục của nó, nó làm cho nó thanh tịnh rồi. Còn cái câu niệm Phật kia, nó ở ngoài kia chứ nó không có ở trong thân chúng ta.
Cho nên cái pháp môn niệm Phật là sai đường lối của đạo Phật. Nhớ kỹ há. Bây giờ tu, đang tu ở trong cái giai đoạn này là gia đoạn tu ba cái Đức ăn, ngủ, độc cư. Quan sát ở trên cái ăn này để mà tìm cái tâm của mình coi nó tham chỗ nào? Nó còn gì? Nó tham cái gì gì? Đó, chứ đâu phải là, chưa phải là quan sát trong bốn cái chỗ này đâu, mà quan sát trong ba cái Đức hạnh này.
Bây giờ quan sát trong ba cái Đức hạnh này thì phải tập tỉnh thức; tỉnh thức để quan sát cái này để xả cho được ba cái này, để cho đời sống chúng ta trọn vẹn. Bắt đầu bây giờ đời sống chúng ta thấy an ổn rồi, nó không còn thèm khát. Tới giờ ăn, nó cũng ăn đi xin ăn thôi chứ mình không thấy đói, không thấy khổ, làm cho mình khổ sở nhức đầu hay chóng mặt gì hết. Thì do đó mình thấy bây giờ nó thuần rồi thì bắt đầu mình tu cái giai đoạn khác là ở trong Chánh niệm tỉnh giác.
Phật tử: (không nghe rõ) Vấn đề ăn ngủ độc cư thì tâm tham muốn về ăn và ngủ, con sẽ quán xét cái tác hại của ăn ngủ… ly được cái ăn ngủ… Còn cái độc cư
Trưởng lão: Cái độc cư, bây giờ coi nó cô đơn, nó trầm lặng, nó sống một mình nó có vui không
Phật tử: Con coi nó sợ không rõ
(1:06:22) Trưởng lão: Coi nó, cái độc cư thứ nhất là bắt đầu nhìn vô nè, mình xem coi nó lúc đầu mình còn lao động, sau đó mình không lao động, mình ngồi mình coi nó có hiện tướng của nó không?
Thứ nhứt là hiện tướng nó tuôn trào, nó khởi niệm này niệm kia, nó nhớ tùm lum đủ thứ, nó nhớ cái này nó nhớ cái kia, cái gì nó cũng nhớ được hết. Rồi cái thứ hai nó buồn ngủ, nó hôn trầm. Mình ngồi không chứ nó buồn ngủ dữ lắm, nó lười biếng sanh ra hôn trầm.
Hai cái trạng thái này coi có hay không? Nếu không có thì nó định, nó tỉnh, nó không bị buồn ngủ, mà nó không bị loạn tưởng, nó không bị trạo cử; do đó mình thấy nó chịu độc cư rồi. Còn hễ mà mình sống một mình mình, mà mình muốn nói chuyện này kia, mà nó sanh cái này, cái kia nọ thì chưa được thì phải tu tập. Đó mình phải quan sát để cho mình biết cái độc cư của mình nó ở cái mức nào, để cho mình thực hiện cái độc cư ở cái mức đó. Chứ còn khi không mình kéo vô thì bị ức chế. Vì pháp độc cư thì nó ức chế dữ lắm. Đó nó rất rõ.
Giờ ăn thì nó không còn tham, ngủ thì mình còn biết cách chiến đấu cũng được, tạm được đi không còn ham ngủ. Nhưng mà coi vậy chứ cái ngủ nó ở trong cái thân của mình. Khi mà nó có những cái đợt, nó đánh mình kinh lắm. Nghĩa là giờ mình biết là mình không tham nhưng mà nó đánh mình, mình đi ngủ. Tức là tự thân, tự bản thân nó, bây giờ cái tâm của mình nó không ham ngủ rồi đó. Nói thì biết cái tâm, nhưng mà cái thân nó còn ham ngủ. Cái thân nó còn ham ngủ lắm, nó chưa phải định đâu.
Cái tâm thì mình hiểu biết được thì mình ngăn chặn nó rồi không cho tham ngủ. Nhưng mà phải ngăn chặn bằng cách nào đây? Chứ không khéo cái thân nó tới chừng nó buồn ngủ rồi thì kể như cái tâm nó không làm chủ nó, lôi nó không được nó đâu. Đó, phải thấy hai phần này phải rõ.
Cái thân này nó buồn ngủ, ví dụ như bây giờ mình thức coi thử. Thầy nói bây giờ mình thức thử một đêm hai đêm mình không ngủ coi. Mình coi cái thân cái tâm mình làm chủ nổi không? Nó làm như cái thân nó ngủ, cái tâm nó cũng đi đâu mất à, cái tâm nó không còn tỉnh chút nào đâu. Nó nguy hiểm lắm. Bởi vì mình có hai cái chỗ, cái tâm nó lôi thì cái thân cũng chạy theo; mà cái thân nó lôi thì cái tâm nó cũng chạy theo. Đó, đó là cái quan trọng đó, phải lưu ý.
(1:08:38) Rồi bây giờ cái ăn thì bắt đầu bây giờ mình thấy mình làm chủ được rồi, thì bắt đầu bây giờ tới cái ngủ khó hơn nè. Coi chừng hai cái này, cái ăn cũng ở trong thân và tâm nữa. Cái tâm nó khởi thèm ăn thì cái thân, cũng như bây giờ cái tâm nó khởi nó thèm me, nó muốn ăn trái me, thì cái thân bắt đầu chảy nước miếng. Đó, nó ảnh hưởng nhau như vậy đó.
Thầy nói đấy là về phần cái ăn. Cái tâm khởi muốn ăn cái gì đó, thì cái thân nó thèm đó. Còn cái thân, bắt đầu cái tâm nó không khởi, cái thân giờ nó thèm; nó thèm thì nó khởi cái tâm lên, nó thúc đẩy cái tâm mình muốn ăn cái đó, thì nó cũng lôi, cái thân nó lôi.
Còn cái ngủ bây giờ cái tâm của mình biết ngủ là si mê, cái tâm nó biết, nó hiểu rồ, nhất định là nó không ngủ. Nhưng mà tới chừng cái thân mình ngủ, mình thức một hai ngày coi thử cái thân của mình coi. Tới chừng đó cái thân nó ngủ, cái tâm này nó làm chủ được không? Nó không làm chủ nổi đâu. Vì vậy nó khó hơn.
Cho nên từng bước mà tu tập, chúng ta quan sát kỹ, cho kỹ, rồi chúng ta tập coi bây giờ nó còn không? Coi còn hôn trầm, còn buồn ngủ không thì nó không phải vội vàng đâu. Bữa nay mình đi kinh hành, bữa nay mình đi kinh hành năm vòng, ngày mai mình tăng lên sáu vòng, ngày mốt mình tăng lên bảy vòng, bữa kia mình tăng lên tám vòng, rồi chín vòng mười vòng. Mình cứ tăng dần tăng dần lên. Chứ đừng vội. Mình vội bữa nay mình đi một trăm vòng là mình chết với nó. Mình tập dần dần cho nó quen dần, quen dần thì nó phá đẩy lui được cái hôn trầm.
Nhưng có nhiều người vô không tập mà muốn cho mình thắng được hôn trầm liền, thì Thầy thấy đi kinh hành … Bởi vì mình không có chịu tập, mình phải biết tập. Cái ngủ đâu phải chuyện dễ. Cho nên bắt đầu mình tu tập, mình đi một giờ mình không buồn ngủ. Mà đi tới một giờ không buồn ngủ thì phải tập một giờ năm phút nè, hoặc một giờ mình tăng lên. Ngày mai mình tập một giờ năm phút, ngày mốt mình tập một giờ mười phút. Mình tăng dần, tăng dần lên hai giờ thì nó không buồn ngủ. Chứ mình không tập, nó buồn ngủ. Phải tập luyện cho nó quen, nó thuần. Cái gì nó quen rồi, nó hết; mà nó chưa quen là nó không hết đâu. Thì cái vấn đó, thì cứ hỏi Thầy. Khi mà gặp trường hợp nào thì cứ hỏi Thầy.
(1:11:02) Phật tử: Mình đi kinh hành mình đi chậm rãi.
Trưởng lão: Đi chậm rãi, đi như người vô sự. Nếu mà cái khi mình bị buồn ngủ, thì mình chỉ tăng lên vừa với sức nó thì nó không buồn ngủ đâu. Mình phải tăng đi lên, đi cho đúng giờ và đi đúng giờ rồi mới ngủ. Còn nếu mà nó buồn ngủ, quá buồn ngủ thì nhất định là mình phải chiến đấu trong khoảng thời gian đó bằng cách là mình đi nhanh hoặc bằng cách mình vận động cơ thể bằng cách này, bằng cách khác, để cho mình chiến đấu với nó. Hoặc là mình phải lấy một cuốn kinh sách ra mình đọc, để cho tư tưởng của mình tập trung vào trong đó, để cho nó hết buồn ngủ.
Đó là cách thức mình phá thôi. Nó không có sự kiên trì như sự chiến đấu, mà đây là cái giai đoạn mà chớp nhoáng để phá cho nó hết. Chứ không phải lấy cái đó để thực hiện trường kỳ mà biết chính cái kinh hành tập dần dần, đó là sự kiên trì chiến đấu. Còn cái phá nó, thí dụ mình đang buồn ngủ quá, thì mình chạy. Mình chạy hoặc là mình vận động tay chân, đi tắm đồ đó. Đó là cấp thời để phá nó. Chứ không phải cái này là cái phương pháp phá cho hết hôn trầm đâu. Cấp thời phá nó để nó tỉnh hồi đó thôi. Còn cái phá cho nó hết là chỉ có đi kinh hành mà thôi, nó quét sạch. Đó mình phải nhớ cái pháp kinh hành là cái pháp phá hôn trầm. Mà tất cả những hành động khác là cấp thời để chiến đấu với hôn trầm thôi.
Như bây giờ đang buồn ngủ quá, mình đi rửa mặt thấy nó tỉnh. Cũng như bây giờ ví dụ buồn ngủ quá để mình uống ly cafe, thì cách thức đó là cách thức cấp thời thôi. Chứ không phải cafe là nó phá được cái buồn ngủ đó. Phải hiểu như vậy. Thầy nói đó là những cái cấp thời để chiến đấu với nó thôi, để cho mình giữ đúng giờ thôi. Sau khi mình giữ đúng giờ rồi mình tập luyện đi kinh hành. Mà từ từ nó quen đi thì nó mới chiến thắng, mới đẩy lùi cái hôn trầm. Coi vậy chứ khó lắm, chứ không phải dễ.
Phật tử: Ví dụ như ngủ một ngày bốn tiếng.
Trưởng lão: Ngủ bốn tiếng đủ rồi. Thật sự bốn tiếng cũng thừa, chứ nó không nhiều đâu. Ngủ bốn tiếng là thừa đối với sức một con người mà ngủ say, ngủ ngon giấc, ngủ thật ngon chỉ một tiếng là đủ một ngày cũng như ăn một ngày một bữa.
HẾT BĂNG
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Ngày giảng: 2001
Người nghe: Phật tử thọ Bát Quan Trai
Thời lượng: [01:31:38]
https://thuvienchonnhu.net/audios/2001-linh-hon-khong-co.mp3
(00:00:00) Bắt đầu từ giờ này coi như là con không còn thọ giới nữa, coi như hoàn toàn là con xả tám giới, vì vậy mà con không có bị phạm lỗi nữa, ngay giờ này là Thầy đã xả giới cho con rồi.
Được chưa? Rồi nghe không? Thì coi như là con không còn bị dính mắc ở trong giới nữa, rồi bắt đầu từ đây con muốn đi về thành phố lúc nào là tự ở bụng con, phải không? Bây giờ con còn hỏi Thầy gì thêm nữa không? Không, phải không con?
Thầy sẽ gửi cho con tập một ‘Giáo Án Tu Tập Cho Người Cư Sĩ’, trong đó có cái bài ‘Lời Di Chúc Của Mẹ’. ‘Lời Di Chúc Của Mẹ’ của con đã làm bao nhiêu người mẹ, coi như con thay mặt cho bao nhiêu người mẹ nhắc nhở con của mình, làm cho mọi người, người ta xúc động nhiều lắm.
Như vậy là cái bài của con thì coi như là nói lên được cái lòng của người mẹ. Cho nên Thầy mong ước rằng mọi người mẹ của Việt Nam của chúng ta đều có những lòng mong ước con mình được tốt đẹp và sự hiếu hạnh đúng như vậy.
Cho nên những cuốn sách ‘Giáo Án Tu Tập Cho Người Cư Sĩ Vì Chánh Phật Pháp’ nó sẽ ra đời là giúp cho các con hiểu qua những cái lòng tha thiết của người mẹ đối với Phật pháp. Muốn cho các con mình cũng hướng về Phật pháp đúng, chân chánh như vậy và bao nhiêu kinh nghiệm đã nói lên trên con đường mà người cư sĩ đã tha thiết đi về con đường của đạo Phật cầu sự giải thoát.
Người ta đã bỏ biết bao nhiêu công lao, biết bao nhiêu tiền của để rồi cuối cùng người ta hưởng được những gì? Điều đó ai là người chịu trách nhiệm và bổn phận? Chúng ta thấy không ai chịu trách nhiệm và bổn phận.
Còn hôm nay các con về đây nếu các con thực hiện đúng lời Thầy dạy thì Thầy là người chịu trách nhiệm và bổn phận, nếu các con tu sai, đi lạc đường Thầy sẽ chịu toàn bộ trách nhiệm. Nếu mà Thầy hướng dẫn, các con tu không đúng theo lời Thầy dạy thì đó là các con chịu trách nhiệm và bổn phận của các con, tu sai các con không giải thoát.
Nếu các con nghe lời Thầy dạy đúng, các con sẽ thấy từng phút từng giây trong cuộc đời của các con có một niềm giải thoát chân thật như lời đức Phật nói: “Pháp Ta không có thời gian, đến để mà thấy!”
(00:02:02) Cho nên ở đây, thật sự ra khi mà Thầy tu xong Thầy mới dám giảng đạo, Thầy mới dạy người ta tu. Còn Thầy tu chưa xong chắc chắn Thầy không dám giảng. Bởi vì Thầy như người mù mà dẫn những người mù đi, thì coi như chúng ta đồng chết.
Thầy đã biết được con đường đó đi tới đâu? Làm những gì? Có những gì? Hầm hố nguy hiểm như thế nào? Thầy đã thông suốt hết cái quãng đường này, đi đến cái chỗ cuối cùng là chúng ta làm chủ bốn chỗ: sanh, già, bệnh, chết.
Thầy không bao giờ mà tu tập để cầu thần thông, phép tắc mà chỉ tu tập để thực hiện được sự giải thoát của kiếp sống con người quá khổ đau. Cho nên hôm nay Thầy dẫn dắt các con đi đến cái mục đích cuối cùng để thoát ra khỏi bốn sự đau khổ của kiếp làm người, đó là cái mục đích mà đạo Phật ra đời để giải quyết cho con người.
Ngày hôm nay Thầy là người đã thực hiện được phép màu đó và bắt đầu làm sống lại phép màu đó bằng cách dẫn dắt các con để các con thực nghiệm cái lời nói đó có đúng hay sai. Các con không phí đâu nhưng mà các con phải sống đúng giới luật mới được.
Vì sự giải thoát nhỏ, các con sẽ thấy có những sự giải thoát lớn. Ngay các con tu mà không có sự giải thoát thì ngàn đời sẽ không có kết quả giải thoát. Còn ngay các con tu đã thấy được tâm mình ly tham, ly sân, ly si thì hoàn toàn có ngày sẽ hết tham, sân, si và như vậy là giải thoát- bất động tâm.
Cho nên hôm nay có những câu hỏi mà các con đã hỏi Thầy ở trong những bức thư này vì vậy mà ‘Giáo án tu tập cho người cư sĩ’ ra đời cũng là những trả lời. Vì trong những cái bài mà Phật tử các con đóng góp về đây do cô Diệu Quang kết hợp lại thành những tập sách này. Vì vậy trong những cái thơ mà các con gởi về Thầy có những câu hỏi, do đó trong tập giáo án bây giờ có những câu trả lời cho các câu hỏi của các con.
(00:04:13) Hôm nay các con về đây thăm Thầy và thọ Bát Quan Trai tại Tu viện trong cái mùa hạ an cư. Cách đây 2545 năm đức Phật đã ra đời và đem cái giáo pháp này dạy lại cho chúng ta. Và bây giờ các con về đây cũng trong cái ngày an cư kiết hạ mà ngày xưa đức Phật đã chế ra để giúp cho chúng tăng trong những ngày này giữ thân tâm mình tránh khỏi những cái điều vô tình mà sát hại chúng sanh. Vì cái mùa này là tất cả chúng sanh đều sanh nở, trên bước đường du tăng khất sĩ sẽ đạp và chết biết bao nhiêu loài, chính vì vậy mà ba tháng an cư, để tránh sự đau khổ của chúng sanh do mình đạp nó.
Hôm nay các con cũng đủ duyên về đây tuy rằng không như các tu sĩ- ba tháng an cư- mà chỉ trong một ngày một đêm cũng đủ là các con thực hiện được cái hạnh an cư kiết hạ của chư Phật mười phương, của chư Thánh Tăng. Vì vậy những câu hỏi của các con sẽ được Thầy lần lượt trả lời trong những bức thư này.
Từ sáng tới giờ các con biết rằng Thầy làm việc liên tục và dùng cái sức của mình rất nhiều để mà trả lời những câu hỏi, những thắc mắc và làm cái lễ Tam quy - Ngũ giới và lễ thọ Bát Quan Trai. Cho nên các con biết rằng cái sức khoẻ của Thầy nó cần thiết đối với các con rất nhiều cho nên khi sử dụng thì Thầy sử dụng hết mình đối với các con, không bỏ một người nào.
(06:04) Nghĩa là bất kì một người nào mà đến có duyên mà gặp Thầy, Thầy không bỏ một người nào. Mặc dù là Thầy tiếp duyên mọi người khác nhưng Thầy lưu ý họ. Người nào còn chờ đợi là Thầy ngay khi mà chấm dứt thì Thầy đến tiếp ngay người đó, không bỏ.
Thì như vậy các con thấy rằng trong cuộc đời của Thầy có hiện hữu là có sự ích lợi. Lời nói của Thầy tuy ngắn nhưng an ủi họ rất lớn, giúp cho họ có một cuộc sống an ổn.
Hôm nay các con đủ duyên về đây được thưa hỏi Thầy thì hiện giờ, hồi nãy có một cư sĩ hỏi Thầy, Thầy trả lời chưa hết, thì bây giờ xin mời cư sĩ đó hỏi tiếp tục để Thầy trả lời, sẵn đây các con sẽ nghe và đồng thời tiếp tục.
Hồi nãy cái cư sĩ đó hỏi Thầy, cái chú nào đó? Con đến đây hỏi Thầy đi, đi, đừng có sợ, lên chỗ này ngồi đi, hỏi Thầy đi, ở dưới xa lắm, lên đây đi. Lên đây gần Thầy hỏi đi. Bây giờ con hỏi thêm một cái điều gì? Hồi nãy con hỏi Thầy là nhân quả… Con ngồi xuống đi con, ngồi xuống đi, ngồi đây đi cũng được, ngồi bên đây.
Hồi nãy Thầy trả lời cho con, trong cái đôi mắt nhân quả mà chúng ta nhìn cái nhân quả thì cái nhân quả nó không có chết mấy con. Cái nhân quả thì nó có vô thường, nó có sự thay đổi của nó, chứ nó không có chết.
Cho nên vì vậy mà các nhà Đại thừa họ không thấu suốt, cái lỗi của họ là vì cái ảnh hưởng của ngoại đạo, của lục sư ngoại đạo. Cho nên ngày xưa Bà La Môn có tụng niệm, cúng bái, cầu an, cầu siêu đó, thì đó là thuộc về ngoại đạo, thuộc về Bà La Môn giáo.
(00:07:57) Cho nên hôm nay mà Đại thừa có cúng bái, tụng niệm như hình thức của Tịnh độ đó thì đó là thuộc về Bà La Môn. Chúng ta phải khẳng định đó là thuộc về Bà La Môn. Phật giáo không có tụng niệm cúng bái. Thậm chí bây giờ chúng ta thấy Thiền tông người ta vẫn còn tụng Bát nhã, người ta vẫn còn tụng kinh sách, do đó người ta cũng chịu ảnh hưởng của Tịnh độ.
Ngày xưa đức Phật không có dạy chúng Tỳ kheo tụng kinh đâu, mà dạy chúng Tỳ kheo thực hiện quét sạch tâm tham, sân, si của họ để cho họ được giải thoát. Tụng kinh không giải thoát đâu.
Cho nên vì vậy mà Thầy xác định cho các con thấy rằng trong cái đôi mắt nhân quả thì không có sự chết, mà trong cái đôi mắt phàm phu, mắt thịt của chúng ta thì thấy có sự chết.
Tại sao Thầy nói rằng, đôi mắt nhân quả không thấy sự chết? Là tại vì cái nhân quả nó luôn luôn nó có ở trong cái bầu không khí của chúng ta, cái không gian này luôn luôn nó có cái nhân quả. Một cái hành động của chúng ta đưa tay đánh người thì cái từ trường đó vẫn còn. Một lời nói của chúng ta an ủi một cái người đang khổ, cái lời nói thiện đó nó vẫn thải ra một cái từ trường trong không gian này, nó lưu lại những cái điều kiện đó hết.
Cho nên nếu mà không có lưu lại thì làm sao mà một cái người tu chứng mà người ta bắt được những cái hình ảnh đó? Người ta làm sao mà người ta trở về với cái quá khứ mà người ta bắt được những cái hình đó, mà người ta thấy, người ta biết được những hình ảnh đó?
Ví dụ như bấy giờ Ông Phật đã thuyết giảng, thì Ông đã thải ra những cái hình ảnh, cái từ trường, cái âm thanh đó nó vẫn còn ở trong không gian này mà. Cho nên những cái hành động thiện và ác của chúng ta luôn luôn nó đều ở trong không gian này, nó đâu có mất. Cho nên nó đâu có mất đâu, nhưng mà nó thực hiện cái nhân quả đó nó mới có duyên hợp lại, nó hợp lại, nó hợp lại nó mới có cái thân của chúng ta, cái thân của vạn hữu, cái thân của chúng sanh, cái thân của cây cỏ.
Mỗi vật có hiện thân mà chúng ta thấy được hình sắc thì đó là tứ đại các con: Đất, nước, gió, lửa và không khí nó hợp thành. Cho nên nó cụ thể và rõ ràng và rất khoa học, không có sai khác nào cả. Cho nên khi mà có cái thân như vậy thì cái thân đó là do cái nhân quả của nó mà sanh ra chứ đâu phải có linh hồn, đâu phải có một vị Thánh nào mà nhập vô đâu.
(00:10:15) Do cái môi trường sống, môi trường sống đó là nhân quả. Vì vậy mà khi chúng ta, cái thân của chúng ta nó luôn luôn nó vô thường, nó vô thường từ khi chúng ta sinh ra một đứa bé cho đến khi chúng ta già chết. Thì thử nghĩ bây giờ chúng ta lấy cái máy chụp ảnh, chúng ta chụp ảnh một cái người mới sinh ra cho đến bây giờ một người bảy mươi tuổi, chỉ có một người đó mà chúng ta thấy cái mặt của đứa bé và cái mặt của ông già đó có giống nhau không? Nếu không giống nhau thì chúng ta rõ ràng là chúng ta thấy có sự vô thường thực sự. Đúng là thật sự vô thường.
Vì vậy mà vô thường cho đến khi cái thân này nó vô thường, nó không còn vô thường được nữa, nghĩa là nó không còn sức vô thường được nữa thì nó phải hoại diệt. Cũng như cái thân của Thầy bây giờ nó, cái sức vô thường nó muốn hết, không vô thường được nữa thì nó sẽ hoại diệt.
Nhưng mà phải có một cái lực gì để cho cái sự vô thường còn duy trì được chính nó thì nó còn sự vô thường tiếp tục nữa. Thì cho nên ngày nay mấy con gặp Thầy nhưng mà một năm sau các con gặp Thầy, Thầy già hơn tức là nó vô thường đó, các con thấy sự vô thường không?
Nhưng mà trải qua cái thời gian vô thường một năm sau các con gặp Thầy thấy nó vô thường vậy thì nó trải qua cho Thầy biết bao nhiêu sự đau khổ ở trong thân của Thầy không? Cho nên khi một người tu xong, người ta muốn rời khỏi cái thân người ta, người ta muốn bỏ nó liền, người ta muốn tịnh chỉ cái hơi thở người ta bỏ cái thân. Bởi vì chính cái thân vô thường này nó làm cho người ta khổ lắm.
Chúng ta không còn ham sống nữa đâu. Nhưng mà không ham sống thì phải tu hành để chấm dứt, chứ không ham sống cái thân này thì nó có cái thân khác, nó là cái luật của nhân quả mà, nó đâu có chết đâu? Mình bỏ thân này, bây giờ Thầy nói Thầy chán quá, đời nhàm chán quá, thôi chết cho xong. Nhưng mà chết rồi cái luật nhân quả nó còn, nó tiếp tục, cái thân này vừa thắt cổ chết thì ngay đó nó có cái thân khác. Chứ không nó nói tui chết oan như vậy để mà tui nằm vơ vẩn ở trên cái không gian này để mà đi bắt, đi bớ người kia để mà người ta cúng cho mà ăn. Điều đó sai, mấy con.
(12:12) Bởi vì cái thực phẩm mà của linh hồn, nếu mà có linh hồn thì phải có thực phẩm của linh hồn để mà ăn. Cũng như bây giờ con người mà có sanh ra trên trái đất này phải có thực phẩm để nuôi con người, thì con người mới sanh ra. Nếu không có thực phẩm thì sinh ra con người thì con người lấy cái gì sống?
Vì nếu mà có linh hồn thì phải có cái vật thực để cho linh hồn ăn để sống, chứ không có vật thực ăn thì linh hồn lấy cái gì sống? Mà nếu nói rằng linh hồn không cần ăn thì vậy chúng ta cúng làm gì đây? Tại sao lại đem đồ thực phẩm của con người mà cúng?
Cho nên đức Phật nói cái thân của chúng ta là thân tứ đại, phải không? Thực phẩm bên ngoài kia là cũng là tứ đại ,phải không? Tứ đại bên ngoài nó nuôi tứ đại bên trong này, nó mới sống được, các con hiểu chưa?
Cho nên có môi trường sống thì mới sống được, nếu không có lúa gạo, thực phẩm cho con người ăn thì con người chưa có sanh ra trên trái đất này được, có đúng không? Bởi vì sanh ra nó phải có sự sống chứ, các con hiểu chưa?
Cho nên vì vậy mà chúng ta biết rằng khi cái thân này nó hoại diệt thì ngay đó nó có cái thân khác liền tức khắc. Nó không bao giờ chờ đợi một phút giây nào hết. Nó như ngọn đuốc này tắt thì cái ngọn đuốc kia sẽ cháy lên liền, bởi vì luật nhân quả nó luôn luôn nó liên tục. Nếu mà nó chờ như vậy thì cái kẽ hở này ai chịu khổ cái chỗ này? Ai hưởng hạnh phúc cái chỗ này đâu?
Bốn mươi chín ngày như Đại thừa nói, thì trong bốn mươi chín ngày kia cái nhân quả nó làm cái việc gì đây? Nó đâu có việc nó làm. Thì như vậy nó làm sao nó làm khổ, nếu không có cái thân này thì ai thấy khổ, phải không? Cho nên luật nhân quả mà mất cái thân rồi thì cái gì là luật nhân quả nữa?
Cho nên có cái thân thì chúng ta mới thấy rõ nhân quả, phải không? Cho nên khi mà thân này mất thì phải có một cái thân khác, phải không? Vì nó là trong cái môi trường sống cho nên người ta đặt câu hỏi, các tôn giáo đặt câu hỏi: “Con người từ đâu sanh ra? Chết đi về đâu?” Người đó vô minh không thấy được. Nếu trên quả địa cầu này không có môi trường sống thì con người không thể tiếp nhận được, thì do ai sanh ra được?
(00:14:12) Bây giờ trên cung trăng không có môi trường sống, thử hỏi có Chúa Trời hay hoặc là có ông Thánh hay hoặc là có Đấng tạo hoá nào mà sanh con người, bỏ trên đó được không? Những con người ở trên đó ăn đá được mà sống sao? Phải không các con? Cho nên nó phải đủ cái duyên hợp của nó, vì có môi trường sống cho nên con người và con vật, loài cỏ cây mới sanh ra được ở trên hành tinh này, đúng không? Khoa học không? Đúng, thật đúng, không bao giờ mà ai nói sai được.
Nghĩa là khi mà Thầy đã xác định một điều gì thì các con tư duy cái điều đó. Thầy nói, không bao giờ Thầy nói sai. Thầy thấy bằng cái đôi mắt vô hạn của mình chứ không phải bằng cái đôi mắt hữu hạn như các con mà thấy đâu. Cho nên Thầy xác định một cái điều gì đó là điều đó phải đúng, không thể nào sai.
Các con đọc sách Thầy… Nhà bác học nói rằng sự tiến hoá của con người từ con khỉ- là thuỷ tổ của chúng ta, điều đó là điều sai. Nhà bác học vẫn sai, mặc dù là bác học nhưng vẫn sai. Bởi vì con người là con người chứ không thể con khỉ. Đó, Thầy xác định được những cái điều đó thì các con đủ biết rằng cái trí tuệ của Thầy nó phải thấy được mới dám nói, không thấy được đâu dám bác nhà bác học. Mình có phải bác học đâu mình bác nhà bác học, nhưng mà bác học đâu phải là người nào cũng đúng hết. Cho nên đối với Thầy cái thấy đúng thì chấp nhận mà thấy cái không đúng thì phải không chấp nhận, phải bác liền.
Cho nên ở đây thì chúng ta thấy rõ ràng khi chúng ta sanh ra làm người thì từ nhân quả mà sanh ra làm người. Tức là từ môi trường sống mà sanh ra làm người, thiếu môi trường sống thì không có ai mà sanh chúng ta ra hết. Rồi chúng ta chết đi về đâu? Chết đi về môi trường sống đó, đi về nhân quả.
Cho nên trong kinh Phật nói: “Chúng ta là người thừa tự của nhân quả, nhân quả là cha mẹ của chúng ta.” Đức Phật đã xác định một cái điều đó, trong kinh Nikaya đức Phật đã nói cái điều đó rất rõ ràng. Như vậy ông Phật có cái đôi mắt nhân quả, có cái đôi mắt vô hạn chứ không phải hữu hạn như chúng ta.
(00:16:14) Các tôn giáo khác xây dựng một đấng tạo hóa để sinh ra con người để sanh ra vạn vật, các tôn giáo khác nằm trong đôi mắt hữu hạn chứ không phải vô hạn, không thấy rõ. Cho nên không đúng, đem ra chứng minh không đúng sự thật.
Vì vậy hôm nay Thầy xin trả lời con rằng khi con người chết không có linh hồn. Cái thứ nhất linh hồn ăn cái gì sống? Đâu phải ăn thực phẩm tứ đại của chúng ta mà sống? Cho nên chúng ta đem thực phẩm đâu phải linh hồn ngồi đó mà ngửi cái hơi đó mà sống được. Chúng ta tưởng là cái linh hồn ông bà, chúng ta đem cúng lên, các người đó về hít cái hơi đó, rồi một năm hít có một lần đó rồi sống làm sao được?
Các con nghĩ coi cái linh hồn mà nếu mà có ăn vậy thì bây giờ ai mà cúng? Đi ra chỗ cúng đó hít sao? Phải không? Bởi vì tụi con này nó mắc đi làm ăn cho nên mỗi năm tới ngày giỗ, nó cúng có một lần, rồi như vậy là mấy cái linh hồn này nó xúm nhau nó chết đói hết à? Phải không?
Cho nên cái linh hồn nó ăn cái gì nó sống đây mà tới một năm nó hít được có một lần? Chúng ta nói hít có nghĩa là hít cái hơi, chứ còn cái đồ ăn thật sự ra không thấy mất miếng nào hết thì có phải là hít không? Phải không?
Rồi bây giờ chúng ta xài tiền bạc, chúng ta cũng lấy giấy đồ cũng in tiền, vàng mã đồ này kia chúng ta đốt để cho mấy người đó sài. Linh hồn đi xài cái thứ đó à? Nếu mà thật sự có thế giới linh hồn, Thầy nói linh hồn nó còn xài cục tiền còn tốt hơn chúng ta nhiều, nó đâu cần cái thứ tiền của chúng ta. Phải không?
Các con thấy nè, thực phẩm của chúng ta, chúng ta nghe nó ngon, nó thơm, nó béo chứ gì? Nhưng mà chư Thiên nghe nói là hoảng sợ rồi. Các con cứ thử nghĩ đi nếu mà thực phẩm chúng ta để một đêm sáng hôm sau nó thiu, thúi chúng ta nghe cái mùi chúng ta dám ăn không? Nó nhớt cũng như là đống nhớt chúng ta làm sao nuốt, có không?
Cho nên khi mà một người tu, người ta quán cái thực phẩm bất tịnh như vậy người ta quá nhàm chán, dù là cái miếng ngon người ta cũng không thèm vì vậy mà người ta muốn tâm người ta ly dục, ly ác pháp. Còn quý vị, tuy nói như vậy chứ thấy món ăn ngon quý vị vẫn thích. Hôm nay nó nấu món ăn này sao tôi thích quá trời, thấy món chè này nó bỏ hạt điều trong này nó nấu sao mà ngon quá, phải không?
(18:16) Cái tâm thích của mình như vậy là còn tham chứ. Tới chiều chúng ta thấy nó thản nhiên, nó không đói khát. Còn mình tại sao đói khát, tại vì mình tham ăn chứ làm gì mà đói khát?
Một cơ thể nó cần phải tiêu hoá bao nhiêu cái tứ đại của nó ở ngoài để nó sống thì nó đủ, nó đâu cần đòi hỏi thêm nữa. Còn mình chỉ vì thói quen ăn nhiều bữa cho nên bây giờ nó nghe ruột mình cồn cào, nó thèm ăn, tức là nó tham ăn nó mới làm như vậy. Ở đây chúng ta sống phần nhiều là tưởng thức, cho nên chúng ta tưởng ra như vậy mà làm cho chúng ta khổ chứ không ai mà làm cho chúng ta khổ.
Đó thì các con sẽ thấy rằng từ cái chỗ thế giới siêu hình, cái tập III ‘Đường Về Xứ Phật’, Thầy sẽ đem cái tài liệu của một ông giáo sư Trần Phương, ông viết cái tài liệu mà ông đi tìm hài cốt em ông, rồi ông nêu lên những cái câu hỏi, ông đặt nhiều cái nghi ngờ.
Ông coi như là một cái nhà khoa học, cho nên vì vậy mà là giáo sư mà trong cái vị thế của ông, từ lâu ông không tin thế giới siêu hình nhưng mà sau khi tìm em ông rồi, ông nghĩ cái thế giới siêu hình có thật. Bây giờ bắt đầu ông viết lên để mà ông nói, ông yêu cầu những người mà có cái khả năng để giải những cái câu hỏi của ông, những bí ẩn đó, tại sao nó có như vậy?
Nó có những cái linh hồn như vậy mà không biết cái linh hồn đó là một cái vật lý gì? Mà nó tồn tại được như vậy? Mà nó thực hiện đúng như vậy, nó không sai?
Nhưng mà Thầy nói rằng ở trên hành tinh này, người duy nhất mà giải quyết được cái này chỉ có Thầy mà thôi. Thầy dám xác định điều đó. Bởi vì không ai có thể giải quyết được cái này hết, người ta sẽ thấy thật sự có cái thế giới siêu hình.
Nhưng đối với Thầy thì Thầy sẽ giải thích tất cả những cái này để rồi khi mà các con đọc cuốn Đường Về Xứ Phật tập III, các con sẽ thấy Thầy sẽ đập phá hết tất cả các trạng thái mà người ta nghi rằng đó là thế giới siêu hình. Từ đâu mà lưu xuất, Thầy sẽ chỉ cho các con thấy, thấy rất rõ và Thầy cố gắng, cố gắng hết sức để dùng những cái từ, làm sao để cho các con hiểu được thế giới siêu hình nó không có.
(00:20:06) Những trạng thái đó do từ đâu mà lưu xuất ra như linh hồn người ta, giống như là cái người mà lên đồng nhập cốt người ta nói lại người đó tên họ gì mà tại sao họ không biết, họ vẫn nói đúng. Rồi cách thức cái lời ăn, tiếng nói, họ hành động, họ làm giống như cái người đó, cái người đó như họ còn sống vậy. Tất cả những cái đó là do đâu mà có?
Thì hôm nay các con theo đạo Phật là các con phải sống với ý thức của mình. Đừng có nghe lời Thiền tông; nghĩa là luôn luôn ý thức không phân biệt; nghĩa là còn phân biệt là không giải thoát.
Ở đây ý thức chúng ta hoàn toàn phân biệt, biết thiện biết ác. Sống thiện đem lại hạnh phúc cho mình, cho người. Sống ác đem lại sự khổ đau cho mình, cho người thì nhất định là không bao giờ sống trong ác pháp.
Vì ý thức chúng ta mới có sự phân biệt như vậy, mới có nắm rõ được điều này, chúng ta mới sống đúng, sống đúng như vậy mới có giải thoát, mới ly tham, ly sân, ly si. Đó là cách thức chúng ta giữ gìn ý thức. Tại sao mỗi hơi thở chúng ta lại nhắc tâm phải ly tham, tâm phải ly sân? Là chúng ta muốn giữ gìn ý thức chúng ta trong hơi thở.
Nếu chúng ta ngồi cứ biết hơi thở ra vô mà không tác ý thức ra thì hơi thở đó đang biết là biết trong tưởng thức chứ không phải trong ý thức. Cho nên cái sai, chúng ta tu sai mà chúng ta không biết, chúng ta cứ ngỡ tưởng là mình đang ý thức biết nó, mà sự thật là không phải ý thức biết mà là tưởng thức biết trong hơi thở đó.
Cho nên đùng một cái, tâm không sanh vọng tưởng, tức là không tác ý ra nữa được, thì lúc bấy giờ nó có trạng thái hỷ lạc, do đó chúng ta mới nhập định có trạng thái hỷ lạc của thiền định, đây là thiền định giả. Nó là ảo giác, nó là súc tưởng hỷ lạc, nó là ma tưởng lưu xuất ra để làm cho tâm chúng ta thích thú, tạo cho chúng ta ham thích cái thiền định đó, đó là những cái sai. Cho nên hôm nay Thầy trả lời con cái câu hỏi mà con vừa nói, con còn thêm gì nữa không?
(22:08) Bây giờ Thầy trả lời trong những bức thư, hay là mấy con có cái gì hỏi riêng thì cứ hỏi, hỏi rồi Thầy sẽ trả lời.
Tu sinh 1 : (…) tỉnh thức trong hơi thở (…)
Cái tỉnh thức ở trong hơi thở là cái tâm của con nó định trên hơi thở, nó biết hơi thở ra, hơi thở vô gọi là tỉnh thức trên hơi thở. Còn chú tâm trong hơi thở là bây giờ con phải cố gắng con nhìn cái chóp mũi con, con phải tập trung con biết cái hơi thở con ra vô gọi là chú tâm hơi thở là ức chế tâm đó con. Gọi là tập trung tâm, gom tâm, gọi là chú ý tâm của mình.
Còn cái hơi thở, cái tâm nó tự nó định lên hơi thở, tự nó biết vô hơi thở, nó biết hơi thở ra vô, là tự nó định lên hơi thở, cho nên đức Phật nói, Định Niệm Hơi Thở. Cái tâm nó định lên hơi thở vì vậy mà đức Phật nói, tâm định trên thân tức là tâm định trên hơi thở, chứ nó không có chú tâm.
Còn mình đang chú tâm là mình tu sai, cho nên đức Phật dạy chúng ta ly dục, ly ác pháp. Khi mà ly dục, ly ác pháp xong thì cái tâm nó định vào cái thân, cái hơi thở của nó chứ không phải chúng ta ngồi đây mà bắt buộc phải biết thở ra, thở vô. Cho nên sự mà tập trung, sự mà chú ý hơi thở thì đó là bắt buộc cái tâm nó biết hơi thở mà nó không ly cái tham, sân, si của nó ra. Vì vậy nó bị ức chế, các con phân biệt rõ chưa?
Thì như vậy rõ ràng là chúng ta tu sai chứ không phải Phật dạy sai. Phật đâu có gọi là quán hơi thở, quán niệm hơi thở hay là quán sổ tức quan, phải không? Phật đâu có dạy chúng ta tuỳ tức mà đức Phật dạy chúng ta Định Niệm Hơi Thở. Định trước, Định Niệm Hơi Thở, tâm nó thanh tịnh nó sẽ định lên hơi thở cho nên gọi là Định Niệm Hơi Thở, hiểu rõ không?
Còn quán niệm hơi thở tức là chúng ta lấy cái hơi thở rồi tập trung nhìn xem, quan sát cái hơi thở. Thở thấy biết ra, biết vô, biết ra, biết vô, đó là quán niệm hơi thở, hiểu chưa? Mấy con hiểu chưa? Như vậy là ức chế tâm. Cho nên đức Phật dạy chúng ta ngăn ác, diệt ác là Định Tư Cụ, là dụng cụ thực hiện thiền định.
(00:24:19) Khi mà tâm ngăn ác, diệt ác; ly dục, ly ác pháp xong thì tâm nó thanh tịnh, nó không còn niệm khởi nữa. Thì không còn niệm khởi thì nó sẽ định trên hơi thở của nó, mà định trên hơi thở thì đức Phật gọi là Định Niệm Hơi Thở. Cái danh từ của đức Phật dạy rất đúng, không sai.
Nhưng mà người, chúng ta đẻ ra Quán Niệm Hơi Thở, rồi Sổ Tức Quan, tức là quán sổ tức. Các con thấy cái đó là tự mình kiến giải ra, mình làm lệch đi kinh sách của Phật. Mà may kinh sách nguyên thuỷ của Phật còn gọi cái tên rất rõ ràng, Định Niệm Hơi Thở. Và đức Phật còn xác định thêm cho chúng ta biết rằng, tâm định trên thân, thế mà người ta không biết tâm định trên thân, nó định chỗ nào.
Nếu mà không có Định Niệm Hơi Thở thì chúng ta đâu biết nó định trên thân là định chỗ nào? Thì hôm nay mấy con rõ rồi, như vậy mấy con coi chừng tu sai mà không biết mình tu sai. Bây giờ còn ai hỏi Thầy gì nữa không?
Tu sinh 2: (…) làm chủ già (…)
Bởi vì cái già là do ba cái nơi mà hoạt động mà nó sinh già, nó sinh vô thường cái thân này, phải không? Bây giờ chúng ta ngồi đây, chúng ta khởi niệm, khởi cái ý ra, thì đó là sự hoạt động của cái ý chứ gì? Mà nó còn hoạt động thì tức là nó còn thay đổi. Bởi vì nó hoạt động thì nó phải hoạt động trong nhân quả rồi, không thiện thì ác chứ gì? Ý mà suy nghĩ, không ác thì phải thiện thôi, không thể nào chạy đâu khỏi hết, phải không?
(00:26:00) Bây giờ tới miệng mình, nó suy nghĩ rồi, bây giờ nó mới nói ra. Thì cái hành động mà nói ra, nó làm cho cái cơ thể này bị hao tổn, nó thay đổi đó, phải không? Nó sẽ già đó. Rồi bây giờ Thầy đi, Thầy đứng, Thầy tới, Thầy lui, Thầy hoạt động, nó sẽ già đó. Thầy không nói, Thầy không suy nghĩ mà Thầy cứ đi tới đi lui, nó sẽ già. Bởi vì nó động rồi là nó phải thay đổi, còn nó bất động là nó không thay đổi.
Như vậy là chúng ta nhập cái định nào mà bất động? Tức là chúng ta diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền là bất động, thân chúng ta không già. Cho nên cái định Sơ Thiền là làm chủ được tâm phải không các con? Mà cái định Nhị Thiền làm chủ được già. Sanh, già rõ không?
Bây giờ chúng ta mới lìa cái trạng thái chiêm bao của chúng ta tức là lìa cái tưởng, tức là ly hỷ trú xả, tức là ly tưởng chứ gì? Thì nhập Tam Thiền, thì nó chưa thấy nó làm chủ được cái gì hết, phải không? Nhưng nó làm chủ được bệnh. Bởi mình bệnh là do tưởng, phải không các con? Bệnh nó đau ít mình tưởng nhiều nó thành nhiều à, còn mình không sợ nó cho nên nó không bị tưởng thì thấy cái bệnh mình nó giảm liền tức khắc. Cho nên nó làm chủ được bệnh.
Cho nên cái người mà nhập Tam Thiền là người mà không còn chiêm bao là bệnh không còn có nữa. Nghĩa là thân có bệnh họ không có hề dao động, cho nên họ hướng tâm họ nhắc: “Bệnh lui đi, vô thường không được ở đây!” Ngay đó cái bệnh lui liền thì làm chủ bệnh đó các con.
Con nhập Tam Thiền làm chủ bệnh đó. Bởi vì mình không còn sống trong tưởng nữa, cho nên bệnh không có còn nữa. Còn vì mình có tưởng cho nên cái bệnh ít nó thành tưởng nhiều, rồi tưởng ra, trời ơi bệnh này chắc ung thư đây, nó sẽ chết nữa, cho nên nó bấn loạn, nó lo lắng đủ thứ hết, nó thành ra nặng nữa, có không mấy con? Nó thuộc về tưởng rồi, nó mới nặng, còn nếu chúng ta không sống tưởng thì mặc mày, mày bệnh mày vô thường tao đâu có ngán, cho nên tâm không động thì nó hết run, có không mấy con?
Đúng là Ông Phật dạy cho chúng ta bất động tâm trước cảm thọ mà. Cho nên chúng ta làm chủ được bệnh rồi, mà làm chủ được bệnh bằng cái lực của chúng ta, bằng cái lực tâm lực của chúng ta, bằng cái pháp Như Lý Tác Ý mấy con.
(00:27:59) Đức Phật nói gặp một cái chướng ngại thì mình phải an trú trong một cái tầm thiện. Tức là tác ý của cái tướng thiện thì cái tướng kia nó sẽ hết. Mà bây giờ cái thân mình thọ khổ, tức là đau bệnh, nhức chứ gì? Thì đó là chướng ngại pháp rồi mà tác ý một cái tướng không đau nhức thì nó sẽ hết.
Thì đức Phật nói khi mà nó đau, nó thọ đến mức tận cùng của nó là nó sẽ mát lạnh, nó sẽ hết. Mà chúng ta chưa có tận cùng mà chúng ta bấn loạn rồi thì thử hỏi làm sao nó hết? Cho nên chạy đi bác sĩ rồi chạy đi uống thuốc, đó là chúng ta điên rồ. Cái tâm lực của chúng ta là một thần dược mà chúng ta không chịu lấy đó mà dùng, cho nên chúng ta bị khổ, chúng ta bị bệnh mà chết.
Bây giờ nhập Tứ Thiền là sao? Tịnh chỉ hơi thở làm chủ được cái chết chưa? Bây giờ muốn chết thì mình tịnh chỉ thì nó chết chứ gì? Mà bây giờ muốn sống thì bắt nó thở thì nó sống chứ gì?
Mình làm chủ được cái hơi thở thì sống chết dễ dàng quá, như vậy có làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Bốn cái loại thiền này là chúng ta thực hiện tới đâu làm chủ tới đó, đâu phải là đợi nhập Tứ Thiền hay là Tam Minh rồi mới có thể làm chủ được sanh, già.
Ngay vô Sơ Thiền là Thầy đã làm chủ được cái tâm của Thầy rồi, ly tham, sân, si rồi thì ngay đó người ta chửi mình không giận rồi thì đó là làm chủ được rồi, có đúng không? Tu tới đâu giải thoát tới đó, chứ đâu phải là tu xong rồi mới giải thoát hết đâu.
Cho nên Thầy nói, Thầy cần nhập Sơ Thiền là Thầy cũng thấy đời sống giải thoát rồi, đời sống đạo đức mà. Sơ Thiền là đạo đức mà, giới luật nó mới được Sơ Thiền chứ gì? Mà giới luật là đạo đức rồi, các con thấy chưa? Có phải đúng không? Có phải đúng như cái điều kiện mà Thầy nói không? Các con chưa có thấy những cái pháp của Phật.
Cho nên khi mà chúng ta Chánh niệm thì chúng ta quét sạch thì chúng ta mới nhập được Sơ Thiền. Thì bắt đầu Chánh định, từ cái Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền tất cả là Chánh định rồi, chúng ta vào Chánh định thật sự thì chúng ta hoàn toàn làm chủ được bốn sự đau khổ của kiếp người.
Còn Tam minh là chỉ là quét sạch cái lậu hoặc vi tế để chúng ta không còn cái mầm mà tái sanh luân hồi, tức là hết tái sanh luân hồi đó mới được giải thoát. Mà không điên gì mà khi mà Thầy nhập Tứ thiền rồi mà Thầy không thực hiện Tam minh? Bởi ít ra Thầy cũng muốn biết Ông Phật Thích Ca cái mặt như thế nào chứ? Không lẽ là Ông giáo chủ mà bây giờ mình theo Ông mà không biết mặt Ông?
(00:30:11) Còn bây giờ mấy con, thực sự ra mấy con không biết đâu! Phải không? Nhưng mà Thầy tu tới Tứ thiền rồi thì ai lại mà không biết Ông Phật Thích Ca một cái, sao cũng uổng quá vậy. Có con mắt đó, có cái trí tuệ Tam minh đó thì phải đi thấy Ông chứ? Thăm Ông một chuyến coi chứ. Thì lẽ đương nhiên là Thầy phải thăm thôi, không có người nào mà tu tới đây mà không thăm.
Phải thăm Ông già coi Ông nay Ông sao? Ông mập, Ông ốm, Ông như thế nào? Ngày xưa Ông ăn ngày một bữa mà sao bây giờ người ta tưởng Ông mập như thế này, có đúng không? Đúng là thực sự ra người ta tưởng quá tưởng, ăn ngày một bữa mà mập.
Thầy nói như con búp bê thì mấy con nghĩ là như vậy có đúng không? Ông Phật thần thông quá cho nên mới mập dữ tợn như vậy, thì nó sai quá rồi. Đó là những cái sai. Các con cứ nỗ lực tu đi rồi các con sẽ thực hiện, các con sẽ được gặp đức Phật. Nó không khó đâu mấy con, không uổng cuộc đời của mấy con.
Được thân người là khó mà được Phật pháp mà tu mà để mà gặp được đức Phật Thích Ca là một hãnh diện rất lớn. Cuộc đời tu của mình mà gặp được đức Giáo chủ của mình là không hãnh diện sao? Nó không phí đâu mấy con, không phí cái cuộc đời của mình. Cái sự hiện hữu của mình đã có lợi ích rất lớn cho mình là mình được gặp một bậc thầy, một người cha thân thương của mình để lại một cái đạo đức tuyệt vời. Mà mình gặp được người thì kể như các con khóc lu bù.
Thực sự cũng như các con về đây mà gặp được Thầy cái nỗi niềm các con, không phải là các con đau khổ mà các con mừng, mừng vì gặp một vị thầy đã sống đúng đức hạnh, đã dẫn đường mình đi. Các con khóc mà nước mắt các con rơi, rơi trong cái sự vui mừng của kiếp đời của mình đã may mắn gặp một người tu chứng. Huống hồ là chúng ta gặp được đức Phật các con thì chúng ta không có nỗi mừng nào là hơn là khi gặp được đức Phật Thích Ca.
Thôi bây giờ Thầy nói như thế này, cái sự tu tập của chúng ta dù có gian khổ cách gì mà đến cái giờ phút mà chúng ta gặp được đức Phật Thích Ca rồi thì bao nhiêu gian khổ đó chúng ta thấy không có gian khổ nữa.
(00:32:30) Đó thì các con thấy trong cái sự tu tập của các con mà hôm nay phần nhiều là Thầy khích lệ các con hết. Thầy không để các con phí cái thân của các con, dù nam cũng như nữ, các con đều là những con người. Chứ các con đừng có nghe lời Đại thừa nói, nữ tu không thành Phật đâu. Thầy nói rằng người nữ cũng có đủ khả năng, cũng có thể làm chính phủ được, đất nước chúng ta tượng trưng cho Trưng Vương và Triệu Ẩu là những người phụ nữ, họ khuất phục đầu hàng giặt không?
Thì chúng ta là những người phụ nữ của Việt Nam thì chúng ta phải thực hiện làm Phật, làm A La Hán chứ không thua ai hết. Các con hiểu, cho nên các con đừng có nghĩ rằng người nữ khó tu. Thầy nói không khó gì hết, tại các con để tình cảm lằng nhằng là các con khó tu, dứt hết đi thì nó dễ tu thôi, đó là cách thức của Thầy.
Thầy khích lệ các con đến tận cùng, người nữ cũng như người nam. Còn người nam các con biết không? Trần Hưng Đạo, phải không? Quang Trung là những gương hạnh mà chúng ta phải thực hiện để xứng đáng với những bậc anh hùng của dân tộc của chúng ta, đánh giặc, đuổi giặc. Các con trước cảm thọ, tu giải thoát gì mà các con sợ.
Hơi đau đau cái là lo chạy bác sĩ uống thuốc rồi. Hồi đó súng đạn sao mà không chạy trốn? Mà sao bây giờ đau cái chạy trốn đi? Để phá độc cư đi? Các con thật là tệ, phải không các con? Hồi đó các con ôm súng các con chạy, các con bắn giặc mà các con không sợ chết. Còn bây giờ mà ôm súng để mà bắn cái thằng giặc sanh tử mà không bắn cứ để cho nó làm chủ sanh tử mình hoài.
Tại sao mình không gan dạ? Gan dạ như Thầy, ngồi sừng sững mà chống lại các thọ, không có sợ chết. Thì các con biết là phải gan dạ chứ, tu hành mà, đâu có phải là những cái thứ mà hèn nhát đó đâu? Cho nên chúng ta là những con người của dòng giống anh hùng của dân tộc này, nhất định là chúng ta phải làm.
Vì cái nhìn của Thầy trên bước đó, Thầy nói rằng người Việt Nam phải làm được những việc này. Hoà thượng Thanh Từ đã khích lệ, một người tu chứng Phật pháp sẽ còn, mà không có ai tu chứng là Phật pháp sẽ mất. Cho nên vì vậy Thầy nghĩ rằng một con người Việt Nam phải làm được điều này.
(00:34:17) Không có chùn bước đâu, cho nên nhất định chết là chết phải thành Phật chứ nhất định là không đầu hàng. Cho nên trong mọi thứ Thầy đều vượt qua tất cả những thứ khó khăn. Các con biết Thầy ăn rau mà Thầy sống ở trên Hòn Sơn thì các con đủ biết rằng cái gan dạ của Thầy đến mức độ nào? Nghĩa là ăn như con bò vậy đó, mà vẫn sống để mà duy trì cái sự tu tập của mình.
Còn các con bây giờ hở các con ăn cực một chút là các con than trời trách đất rồi, trời ơi ăn vậy làm sao sống tu? Chứ còn Thầy ăn rau làm sao Thầy sống được mà tu? Sao không lấy cái gương đó? Thầy nhắc lại những cái gương hạnh của Thầy để làm cái gương cho các con mà gặp cái khó khăn mấy con vượt. Hở ra một chút các con cực là các con thấy…
Thầy nói với cô Út bây giờ cứ luộc rau lang luộc đi, chấm với muối đi, người nào ăn được thì tu được, mà người nào ăn không ăn được thì rút lui đi đừng có ở đây mà làm bận mắt, phải không các con? Mình đi tu để giải thoát chứ đâu phải mình đi tìm đồ ăn. Đó là cách thức tu của chúng ta có sự nghị lực quyết định, đâu phải mất có 5,10 kí lô mà sợ chết đâu.
Chết là do nhân quả. Nếu mà nhân quả chết thì làm gì bây giờ chúng ta mập cũng chết hết. Nếu mà nói rằng những cái người mà không chết thì mấy người mà ăn đầy đủ đó sao họ không chết đi, rõ ràng bây giờ họ ở chật đất rồi, còn mấy người nào ốm là chết hết à?
Đâu có lý do đó đâu. Chết là do nhân quả, mập bao nhiêu tới chừng chết nó vẫn chết, mà ốm bao nhiêu bây giờ chưa chết nó vẫn chưa chết. Thầy nói như vậy để cho các con biết cái luật nhân quả nó chi phối chúng ta từng giờ, từng phút.
Chúng ta đừng sợ hãi, chúng ta thấy rằng cái thân này nó càng nhỏ bé thì cái tâm của chúng ta nó càng rộng lớn và vĩ đại, nó càng gan dạ hơn hết, đó là cái sự tu theo Thầy. Còn mấy con nhát gan thì mấy con phải đầu hàng, phải chạy trước đi.
(35:59) Theo các nhà Đại thừa ăn uống đầy đủ, mở tivi ra coi, giải trí như mọi người, xem đá banh hay hoặc là đá bóng … Tất cả những cái sự giải trí thế gian bao nhiêu thì các nhà Đại thừa họ làm bấy nhiêu, thì các con muốn tu sướng như vậy, dục lạc như vậy thì cứ theo các nhà Đại thừa đi, đừng có vô đây mà làm khổ cho thân mình, nó phí.
Thật sự muốn tu thì phải tu để giải thoát. Thà là cam khổ để tìm thấy sự giải thoát chân thật, làm chủ được sự sống chết, đó là cái sự tu tập.
Hôm nay thì các con hỏi Thầy, còn ai hỏi thêm gì nữa không? Mà không thì Thầy sẽ đọc bức thơ và trả lời.
Ở đây kính bạch Thầy, theo hiểu biết của con Đại thừa là những ngôi chùa, niệm phật đường, tu dịch … tụng kinh chữ Phạn, từ nguyện hương …
Ở đây nó không phải là chữ Phạn mà ở trong các chùa này tụng bằng chữ Hán, âm Hán chứ không phải âm Phạn.
Bởi vì chữ Phạn là do các Tu viện Nguyên thủy của khất sĩ mà Nguyên thủy đó nó tụng chữ Phạn, nó tụng cái tiếng Phạn con nghe nó khác, bên Nguyên thủy mà cái nhóm tu sĩ mà ăn thịt chúng sanh đó nó mới tụng tiếng Phạn. Còn các chùa của mình, Phật đường, Tu viện, Tịnh thất thì chuyên tụng kinh chữ Hán, chữ Nho đó mấy con.
(37:14) Còn chữ Phạn là tiếng Sanskrit hay là tiếng Pali gì đó. Đó là chữ Phạn, chữ Phạn tức là tiếng Ấn Độ chứ không phải là tiếng của Tàu. Thầy xin sửa lại cái từ đó cho nó đúng để các con thấy nó không sai. Bởi vì những cái điều mà con nêu dưới này, những cái kinh, tán nguyện ly hương đồ đó đều là nằm trong chữ Hán hết chứ không phải tiếng Phạn.
Ví dụ như kinh Di Đà, kinh Phổ Môn, kinh Phổ Môn là một phẩm ở trong kinh Pháp Hoa rút ra để làm bài kinh Phổ Môn. Bát Nhã là do cái bộ kinh Bát Nhã người ta rút ra người ta làm cái bài kinh Tiểu Bát Nhã tức là Tâm kinh Bát Nhã Ba La Mất đó, hằng ngày mà mình nhật tụng đó là theo Tiểu Bát Nhã đó.
Và Tiểu Bát Nhã, cái bộ kinh Bát Nhã đó, cái người mà viết ra bộ kinh Bát Nhã đó các con biết ai không? Là ngài Long Thọ, cho nên ngài viết cái bộ Trung Quán Luận để luận cái trí tuệ Bát Nhã đó.
Cho nên ngài bảo chúng ta về tu thường xuyên, hằng ngày nhật tụng cái Bát Nhã đó: “Hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không.” Cho nên các chùa chổng khu mà tụng, thời nào cũng tụng Bát Nhã. Nhưng mà Thầy thấy ngũ uẩn không có giai không, đụng tới nó, nó giận hờn đủ thứ hết cho nên nó không giai không.
Vì vậy đó là cái thế giới tưởng của ngài Long Thọ, ngài đã đặt sai cái vị trí rồi. Ngài đem trên cái thế giới tưởng ngài đặc cái pháp này thì ở trên cái thế giới tưởng người ta tu được, chứ ngài đặt trên cái thế giới con người của chúng ta, thế giới hữu hình này thì không ai tu được đâu. Cái đó là cái ảo tưởng của ngài.
Ngài đã phá luôn cái chân lý của đạo Phật, cho nên trong Tiểu Bát Nhã thì ngài nói: “Vô khổ, tập, diệt, đạo”. Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế, bốn cái này ngài cũng nói “vô” luôn, không có đâu. Bởi vì Bát Nhã phải thấy nó là không chứ gì? “Vô khổ, tập, diệt, đạo” mà, cho nên ngài phá luôn cái chân lý của đạo Phật.
Cho nên vì vậy nó không thể đặt vào cái chân lý con người được. Còn cái chân lý của đạo Phật đặt vào cái vị trí của con người. Khổ, chắc chắn con, chắc chắn quý cư sĩ đều thấy hoàn toàn ai cũng khổ hết, có đúng không? Nếu nó không đúng thì nó đâu là chân lý. Còn nó đúng, với con người của mình ai cũng khổ thì đó là chân lý.
Tập là cái nguyên nhân sinh ra đau khổ thì đức Phật đã xác định như vậy chúng ta thấy không ai chối cãi được hết. Nó là lòng tham muốn, tâm ái dục của mình mà nó thành ra cái sự đau khổ, nó tập hợp lại cái sự đau khổ của nó gọi là Tập đế.
Còn Diệt đế là làm cho hết cái ái dục, làm cho hết cái tâm ham muốn, tức là ly dục, ly ác pháp thì nó là Diệt đế chứ gì? Thì nó là Niết bàn của Phật ở trạng thái đó. Chứ đức Phật đâu có nói là Diệt đế là cái cảnh giới ở đâu đó là Niết bàn, đâu có nói đâu. Nhưng mà đức Phật bảo mình diệt hết cái lòng ham muốn của mình thì Diệt đế là diệt hết cái lòng ham muốn, cái nguyên nhân đau khổ đó thì chúng ta sẽ được giải thoát.
(40:01) Và Đạo đế là chân lý thật sự, chân lý sống của đạo Phật. Nghĩa là từ Chánh kiến, các vị thấy rất rõ hàng ngày chúng ta sống phải sống trong chánh kiến, nếu mà không sống chánh kiến thì có khổ đau. Có khổ đau thì quý vị thấy như thế nào?
Có khổ đau thì tức là ác pháp chứ gì? Thì tà kiến chứ làm sao mà chánh kiến được, đã chánh kiến thì nó thiện pháp. Chứ chánh kiến thì làm sao có khổ. Có mình khổ, có người khổ thì như vậy đâu phải chánh kiến, cái đó là tà kiến. Cho nên từ Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, tất cả những cái Chánh này rõ ràng là cái cuộc sống của chúng ta phải sống trong sáu nẻo này, phải không?
Nhưng mà khi mà chúng ta trở thành một vị xuất gia thì chúng ta mới Chánh niệm, phải không? Chúng ta phải sống toàn bộ Chánh niệm tức là nhìn lại, quan sát thân, thọ, tâm, pháp mình thì lúc bấy giờ chúng ta mới quét sạch những vi tế của tham, thân, si của chúng ta, để thực hiện viên mãn được Tứ Niệm Xứ.
Thì lúc bấy giờ viên mãn được Tứ Niệm Xứ thì chúng ta mới thực hiện được Chánh định, vì Chánh định là nẻo cuối cùng của Bát Chánh Đạo. Nó là một chân lý để chúng ta thực hiện con đường giải thoát. Như vậy, cụ thể quá mà, đâu có gì đâu. Là cái chân lý của đức phật vậy mà ông này nói, “Vô khổ, tập, diệt, đạo”, đâu cần đi tu Bát Chánh Đạo. Cho nên bây giờ cứ ngồi đó mà giữ cái trí tuệ Bát nhã thì nó cũng được giải thoát chứ gì?
Cho nên đâu có cần mà phải thực hiện Chánh kiến, Chánh tư duy làm gì? Mấy ông làm cái chuyện đó, nó đi lòng vòng lắm. Còn riêng tôi, ở đây tôi giữ cái tâm ‘không’ là được rồi. Nó không dính mắc là nó là trí tuệ Bát nhã là gì? Nhưng cuối cùng có ai giữ được cái tâm ‘không’ không quý vị?
Chắc chắn là suốt cuộc đời mà chúng ta giữ tâm ‘không’, thật sự ra nó là cái ảo vọng rồi. Người nào thực hiện được cái tâm ‘không’, đâu chỉ cho Thầy. Nếu mà ông ta ‘không’ thì ông trở thành cây, đá. Thật sự, bây giờ ông không biết gì nữa hết thì ông là cây, đá chứ cái gì. Mà nếu còn phân biệt thì tức là vô phân biệt thì nó đâu ‘không’.
(00:41:59) Còn ông Phật dạy chúng ta là phân biệt ác thì ngăn và diệt mà thiện thì tăng trưởng, phải không? Cho nên chúng ta sống thiện đâu làm khổ ai thì giải thoát thôi, chứ đâu bảo chúng ta tâm ‘không’ đâu. Nếu mà bảo chúng ta tâm ‘không’ thì chúng ta thành cây, đá rồi. Tu để thành cây, đá để làm gì mấy con? Đúng không? Đó chúng ta luận ra, chúng ta thấy rất rõ cái sai và cái đúng, để rồi con đường chúng ta thực hiện cho đúng.
Như vậy là kinh sách này là kinh sách, từ kinh Di Đà tưởng tượng ra cái cảnh giới Tây phương đó là sống trong tường rồi. Rồi kinh Phổ Môn tưởng ra cái bà Quan Âm để rồi cứu khổ chúng ta. Bây giờ chúng ta bị giam cầm tù tội thì niệm Quan Âm thì ngay đó là giam cầm tù tội được thả liền.
Như vậy là Thầy đi ăn trộm cắp sướng hơn. Công an có bắt Thầy, ở nhà vợ con nó sẽ tụng Phổ Môn cái là ngay đó thì công an thả ra, rồi Thầy đi ăn cắp nữa. Có sướng không? Khỏi cần làm mà vẫn có ăn mà, vì đêm tối mình lén vô nhà lấy được đồ này kia, công an có bắt được thì vô khám ngồi sáng cái công an thả ra vì có đức Phật Quan Âm phù hộ rồi, chỉ cần mua nải chuối cho bà ta cái là mình ra khỏi.
Vợ mình ở nhà đâu lý nào nó để cho mình ngồi tù. Phải không các con? Trời ơi, nó lấy Honda, nó lấy đồ của người ta đem về mình ăn sung sướng quá trời khỏi cần làm thế mà bây giờ nó bị nạn như vậy mà không lẽ mình không cầu Quan Âm sao? Vì bà ta đã nói là nếu mà bị tù, cầu bà thả. Nếu mà tôi không làm tội ai bắt bỏ tù tôi vì tôi ăn trộm cách nó mới bắt thôi chứ. Cho nên bây giờ tôi bị tù tội thì ngay đó là vợ tôi đi cầu Quan Âm thì ngay đó là được thả liền.
Bà phóng hào quang là cứu tôi liền. Như vậy sướng quá trời, còn nói gì nữa mấy con? Như vậy là có phi đạo đức không? Kinh dạy như vậy có đáng tin không? Đâu bao giờ chúng ta đáng tin được? Bát nhã bảo chúng ta sống ‘không’ để rồi chúng ta thành đá chúng ta có tin được không? Đó là những cái mà chúng ta phải thấy rằng, ngoại đạo đã lừa đảo chúng ta, đưa vào giáo pháp của Phật nói rằng Phật thuyết, để lừa đảo chúng ta, để cuối cùng chúng ta tu chết người.
(44:15) Thầy tổ chúng ta từ xa xưa, cách đây mấy ngàn năm đã thực hiện, có người nào được những gì? Rồi kế chúng ta đã nhìn thấy được thầy tổ của chúng ta đã thực hiện được gì? Hay là phải chìm vào cái chết, các thầy tổ chúng ta quá khổ.
Cho nên, tại sao mà Thầy đã nói, Thầy đã bài bác, thật sự bài bác Thiền tông và kinh sách Đại thừa, tại sao vậy? Tại vì Thầy thương thầy tổ và thương những người sau này. Họ sẽ lầm lạc trên những cái lý giải này, làm cho người ta khổ.
Vì lòng thương yêu của Thầy thẳng thắn nói, không nói ông hòa thượng tu sai mà Thầy nói pháp sai. Nó dẫn dắt người ta khổ đau chứ không có hòa thượng nào, bởi vì ông không có biết đâu. Ông chỉ thấy kinh sách nói Phật thuyết, ông cũng tin vậy thôi, ông cũng đang vô minh, cũng đang ngu như người khác. Ổng làm sao biết được. Mà trách ông là nói ông tu sai sao được, ông đâu có sai.
Pháp, đã người ta đưa vô như vậy, người ta lồng như vậy, mình đâu có biết được. Chính Thầy cũng là ngu cho nên Thầy mới tu chín năm trời không được, được những gì? Công trình khổ sở chứ đâu phải, chín năm trời khép mình trong khuôn khổ tu hành đâu phải sung sướng.
Thì các con biết rằng, tất cả những cái sai mà không nói thẳng, nói thật thì làm sao mà người ta tránh được? Cho nên hôm nay các con cũng quy tụ về đây, có huân tập về đây, có vân hội về đây là để nghe một sự thật của một cuộc đời cay đắng trong tôn giáo của Phật giáo mà từ xưa chúng ta đã bị người ta lừa đảo, lầm lạc. Người ta lồng vào những cái giáo pháp của Phật để nói rằng Phật thuyết, đã lừa đảo mình ở mức độ mình đau khổ.
Các con bỏ tiền cất chùa chiền như vậy để làm gì các con? Người ta nghĩ rằng như vậy chùa nó còn thì mới còn Phật giáo. Đâu phải mấy con. Phật giáo còn là có một người giữ gìn giới luật. Đức Phật nói: “Giới luật ta còn là Phật giáo còn, giới luật ta mất là Phật giáo mất.” Chứ đâu phải Phật nói, chùa chiền còn là Phật giáo còn, chùa chiền mất là Phật giáo mất đâu.
Ông Phật có tuyên bố lời nói đó không? Nếu mà Ông Phật tuyên bố lời nói đó thì Thầy nói là Ông Phật này chắc nhà cửa lắm nè, Ông này Ông bỏ cung vua chứ Ông muốn cái đền đài cho lớn hơn nữa, cái cung vua của Ông nè. Ông Phật này tham nè chứ không phải là ít. Còn đằng này Ông Phật nói rất rõ: “Giới luật còn là Phật pháp còn, giới luật mất là Phật pháp mất.”
(46:27) Các con thấy lời di chúc của Ông Phật, lời nói của Phật rất đúng. Nhưng mà hôm nay chúng ta cứ nghĩ rằng bây giờ cất chùa, chùa còn là còn Phật. Còn ma, còn quỷ ở trong đó thì chúng ta đau khổ chứ làm gì.
Thầy nói thẳng, thật. Bởi vì tất cả những cái hình ảnh này là hình ảnh đau khổ, mồ hôi nước mắt của Phật tử đóng góp cho ông thầy đó có làm tiền ra để cất cái chùa đó không? Bao nhiêu người đóng góp mới cất được cái chùa hàng tỷ bạc. Làm rất đẹp y như là những cái ngôi nhà cung vàng điện ngọc của vua chúa phong kiến của Trung Quốc. Thầy thấy các chùa Thầy đau lòng lắm.
(00:46:59) Ở đây nó thật sự từ khi mà cô Út muốn bảo vệ các máy móc, cô mới xây dựng cái nhà để mà cất những cái máy vi tính, cất những cái máy photo để mà tiết kiệm, để cái đồng bạc Phật tử để mà tự mình lấy sức photo. Vì vậy mà Thầy phải làm suốt cả đêm ngày để mà photo cho mấy con có những tập sách mấy con đọc. Vì bây giờ chúng ta đâu có tiền mà bỏ ra mướn người ta toàn bộ hết thì làm sao chúng ta có tiền?
Chúng ta có giấy ở Hà Nội các con gửi vào, ở đây Thầy bỏ công sức thì nó ít hao tốn. Chứ Thầy cứ tiếc như vậy, tiếc mồ hôi nước mắt của Phật tử. Nhưng mà rốt cuộc hư thì mình phải mua cái máy khác. Cho nên Thầy làm cho chắc, trong chùa không bao giờ, một viên gạch cũng không được xây cất chứ huống hồ cái sự xây cất dữ tợn.
Nhưng vì cái lý của cô Út rất đúng là bảo vệ mồ hôi, nước mắt của Phật tử. Một cái máy là mấy triệu đồng, mỗi người một đồng bạc mới mua được cái máy chứ đâu phải ít. Mười mấy, hai chục ngàn, ba chục ngàn thì như vậy ai làm ra? Thầy có làm được đâu. Mồ hôi nước, mắt của mấy con, mấy con cúng dường. Rồi mỗi lần, mỗi người một chút, dành ra từng chút, từng chút để mà có được nó.
Chứ cô Út có dám kêu mấy con là bây giờ tôi cũng mua cái máy này, kêu Phật tử đóng góp thì các con sẽ đóng góp đó. Nhưng mà điều đó làm không đúng. Thầy nói với cô út Diệu Quang nếu mà cô muốn nói sắm cái gì đó thì cô phải dành dụm từng chút, lâu ngày mới được. Vì Phật tử người ta sẽ tiết kiệm cái mồ hôi, nước mắt nhiều lắm.
Vì Phật pháp người ta sẽ tiết kiệm ra cho mình làm cái điều đó, người ta thấy vừa đủ, thấy dư người ta mới đem cúng dường. Mình phải để dành chút ít cho dù nó có lợi ít. Hôm nay chúng ta ăn một bữa muối mà bốn mươi bốn vị ăn thì trong cái bữa muối này chúng ta để dành được một số tiền, mà ăn cái bữa muối này với rau nó không có tốn hao nhiều mà chúng ta dành được cái này để làm cái điều có ích.
(48:55) Chúng ta phải biết tiết kiệm mồ hôi, nước mắt của đồng bào, của Phật tử chứ. Tại sao chúng ta không tiết kiệm? Mình tu, ngồi không, tại sao mình ăn cơm với muối không được, luộc mình ăn không được, vậy lý do nào? Có phải toàn là kẻ tham ăn, ăn ngon không (…) Cứ dành dụm ra, mình sống được cái gì thì cứ sống để làm lợi ích cho mọi người.
Cho đến hôm nay các con về đây các con sẽ thấy sự thật máy móc này là mồ hôi, nước mắt của các con, Thầy không có, Thầy là cái người mượn cái mồ hôi, nước mắt của các con làm cái việc, để phục vụ lại cho các con bằng (…) để cho các con sống không còn khổ đau nữa.
(49:39) Thì các con sẽ thấy ở những cái bài kinh này thì nó không đúng rồi. Thiền gì mà thân hành thiền vẫn có tụng niệm thì việc mà tụng niệm là ảnh hưởng của Tịnh độ rồi. Cái đó sai, tại sao Thầy dám nói sai, Hòa thượng là thầy của Thầy, nhưng mà nếu mà tu thiền là phải thiền thật thiền. Ông thầy dạy ngài là từ ông thầy Tịnh độ cho nên ngày không có thể (…)
Đối với thiền Đông độ, thầy của Thầy dạy thiền của thiền Đông độ, còn dính mắc một chút tụng niệm của Bát nhã tâm kinh, vì lấy cái tiêu chuẩn đó chỉ cho chúng rằng đó là Bát nhã tâm kinh, là trí tuệ Bát nhã. Đây là cái Phật tánh ở đó, cái chơn không ở đó, cho nên Hòa thượng lấy cái đó để làm cái khóa tụng để nhắc nhở chúng ta. Cho nên là hình thức của Tịnh độ.
Cho nên đối với Thầy thì khác. Đến khi Thầy thấy nổi khổ của tất cả mọi người, những cái sai, người ta chỉ chắp vá với nhau người ta làm thành như vậy chứ nó không đúng, Thiền tông không có tụng niệm đâu? Chỉ có chắp vá thôi, cho nên khi mà thiền Trúc lâm nó vẫn là thiền chắp vá cho nên nó có sám hối này kia. Sám hối là của Tịnh độ chứ không phải là Thiền tông. Bởi vì Thiền tông cái tâm của nó mà nó không dính mắc cái này kia là nó chân sám hối.
“Tánh tội vốn không do tâm tạo. Tâm đã diệt rồi tội sạch không? Tội trong tâm thấy cả hai không. Thế mới gọi là chân sám hối.” Nó lý luận như vậy mà nó còn thực hiện sám hối thì nó là sai rồi? Phải không? Các con thấy Thiền tông nó chỉ đạo như vậy rồi mà bây giờ có tụng niệm như vậy là sai.
(51:15) Đó thì chúng ta phải xét thấu tất cả mọi khía cạnh để chúng ta thấy rất rõ ràng. Cho nên ở đây Thiền viện Trúc Lâm nhưng sử dụng nghĩa Việt Nam, nghĩa là tụng kinh bằng cái nghĩa của Việt Nam cho nên thầy Thanh Từ là tinh thần của Việt Nam. Thầy giải nghĩa tức là không có tụng như chúng ta tụng Bát nhã tâm kinh bằng tiếng Hán mà chúng ta lại tụng bằng tiếng Việt. Nó dịch ra bằng cái tiếng Việt ngữ để chúng ta vừa tụng mà vừa hiểu. Cho nên Hòa thượng đã dịch ra Việt ngữ, biến cái bài kinh tụng đó trở thành cái bài kinh của người Việt nghĩa rất rõ ràng, dễ hiểu. Đó là cái tinh thần dân tộc của Hòa thượng.
Cũng như ngày xưa chúng ta nghe cái từ mà chúng ta thấy như thế này: “Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”, Hòa thượng đổi lại: “Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca”, phải không? Người Việt mình Phật Bổn Sư Thích Ca chứ đâu có Thích Ca Mâu Ni Phật, phải không?
Cho nên cái Phật ở sau là người Tàu, tại vì cái văn phạm của người Tàu, cái dùng phát âm của nó đó thì cái danh từ Phật đặt ở sau, còn cái danh từ của mình thì đặt ở phía trước. Cho nên Hòa thượng cải cái câu tụng niệm trở lại cũng là một cuộc cách mạng về cái văn chương, về cái lối phát âm của cái người dịch cho đúng.
Cho nên Thầy thấy Hòa thượng là người có tinh thần Việt Nam. Ngài đã đặt, ngài đã sửa lại những cái tụng niệm theo cái câu cú, cái văn của dân tộc Việt Nam chứ không phải văn của người nước khác nữa. Đó là cái hay của ngài.
(53:04) “Tịnh xá là hệ phái Khất sĩ, tu theo tổ Minh Đăng Quang vẫn tụng niệm kinh nghĩa Việt Nam.”
Nghĩa là ngài là cái người Việt Nam cho nên ngài mới làm những cái bài kệ này kia, hoặc là những cái câu kinh tụng đều là hoàn toàn là bằng tiếng Việt Nam. Cho nên ngài cũng có tinh thần dân tộc, cho nên ngài không có tụng Hán ngữ hay là Phạn ngữ như bên khất sĩ hoặc là bên Đại thừa, nó còn dùng Hán ngữ.
Cho nên Thiền tông có thay đổi trên cái cái tinh thần của dân tộc và Khất sĩ nó có thay đổi, nó giữ được cái bộ y bát của nó nhưng mà sự thật nó cũng vẫn tụng niệm là nó chịu ảnh hưởng Đại thừa và Tịnh độ. Như vậy là trong Khất sĩ chưa có pháp môn tu.
Thầy nói chưa có pháp môn tu cho nên mới lấy Đại thừa mà tu. Nếu nó có pháp môn tu mà đúng thì nó đâu có lấy Đại thừa nó tu? Bởi vì Đại thừa hồi đó chưa có ai nói nó sai, còn bây giờ cỡ có người nói nó sai và chúng ta quan sát thấy nó thật sai thì chắc không ai mà tụng niệm nữa đâu.
Còn người nào mà đang tụng niệm, như các con thấy người nào mà đang tụng niệm trong các con, đang sám hối, đang tụng niệm thì người đó là người đang tu tập Đại thừa chứ người ta tu tập đúng pháp của Phật. Nhưng mà cái người đó họ không biết pháp tu, họ câu hữu với pháp này để rồi họ tu bằng cách là họ dung hợp, đó là cái người tu với một chiếc áo chắp vá chứ không phải thật sự.
(54:16) Nguyên thủy là Nguyên thủy mà Đại thừa là Đại thừa, không được chắp vá với nhau như vậy. Còn cái này nó chắp vá tùm lum, bậy bạ. Nó chắp vá như ngài Ngọc Lâm ngày xưa chắp vá. Các con nghe những lời công phu ngày xưa trong các chùa không? Nó lấy Thiền, Tịnh, Mật nó hợp nhau lại nó là một bài công phu, cho nên Bát Nhã Tâm Kinh nó thuộc về thiền rồi, phải không?
Vì vậy mà chúng ta hàng ngày mà học bên Tịnh độ tụng kinh Di Đà rồi cũng tụng Bát nhã, nó hợp với thiền nó tụng ra đó. Còn nó tụng Thập chú, Đại Bi chú thì đó là nó lấy Mật tông nó tụng ra. Cho nên nó hợp Thiền, Mật, Tịnh nó hợp lại thành một thời khóa, nó tụng niệm như vậy nó gọi là nó công phu, nó tu Thiền, Mật, Tịnh của nó. Đó là ngài Ngọc Lâm - Quốc Sư trong cái thời nhà Thanh.
Nhà Thanh thấy Phật giáo chia rẽ, Thiền, Tịnh, Mật, chia rẽ quá nặng cho nên ngài mới bảo Quốc sư, ông làm sao phối hợp cho các chùa nó phải đi theo một cái tổng hợp như thế nào? Thì ông này không biết cách nào cho nó hợp lại. Bắt đầu ông lấy các bài kinh này, ông hợp lại. Bát nhã bây giờ nói về thiền, Mật tông thì nó nói về chú, Tịnh độ thì nó tụng những bài kinh như Di Đà hay Phổ Môn. Ông kết lại, ông làm những cái bài này vô trong một cái thời mà tụng niệm thì nó có đủ 3 cái tông phái này gọi là thống nhất các tông phái này lại trong cái thời nhà Thanh, chứ trước kia không có đâu.
(55:11) Bởi vì tất cả những lịch sử mà của một vị tu sĩ như Thầy đều phải thông suốt hết, không có bao giờ mà Thầy không biết. Cái xuất phát từ cái tụng niệm, từ cái bùa chú từ đâu? Phải biết. Nhưng mà về lịch sử đó thì không nói ra, nhưng mà cái người mà sau hai năm ở mà khi mà Thầy gặp lại Hòa thượng bảo Thầy đọc lại kinh sách và sử Phật giáo. Thầy đọc sạch hết tất cả những cái này đều ghi chép kỹ lưỡng. Cho nên tất cả những sử này đều là Thầy biết từ đâu mà truy xuất ra cái này.
Cho nên Thầy rất thông suốt chứ không phải là một người ngu ngơ đâu mấy con. Cho nên khi mà ai hỏi cái gì là phải biết trả lời, biết cái người đó sẽ ảnh hưởng trong kinh nào? Cho nên các con thấy được một cái người tu cái trí tuệ vĩ đại và tu học tất cả những cái gì mà ở trên thế gian này, để người ta làm cái gì giúp Phật pháp.
Như vậy rõ ràng là chúng ta thấy Khất sĩ chưa có các cái pháp môn tu cho nên còn tụng niệm, còn bắt chước nhưng mà khéo léo viết ra Việt ngữ coi như nó khác. Thấy mấy ông ở chùa kia tụng: “Ma ha bát nhã ma la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không.” Còn ông này là tụng khác, à như vậy là Khất sĩ tụng khác không giống nhau.
Nhưng mà cái tụng này với cái tụng kia có giống nhau hay không? Giống nhau lắm mấy con. Có khác gì đâu ông cũng gõ mõ tụng, tôi không gõ mõ mà tôi cũng ngồi đây tôi tụng, cũng vậy thôi, có gì đâu. Mà giờ tôi tiếng Phạn, tôi tụng tiếng Hán, tôi tụng tiếng Việt cũng là tụng thôi, đâu có gì mà khác cũng là tụng, phải không? Đâu có gì.
Thì ông này niệm Phật Di đà, ông này niệm Quan Thế Âm thì cũng hai người cũng niệm y như nhau. Có ông Phật Di Đà thì cũng tưởng mà ông Quan Âm này cũng tưởng, có ông Phật nào thật đâu. Thì như vậy rõ ràng là mình vẫn sống trong tưởng chung nhau, thì nói tôi Quan Âm khác, ông niệm Di Đà khác.
Đâu có lý khác nào đâu. Ông Phật Di đà cũng là Phật tưởng, ông Quan Âm này cũng là Phật tưởng chứ đâu có ông Quan Âm mà tu mà thành Phật bao giờ đâu. Đó các con thấy có không? Do đó mà chúng ta biết rằng ông nào tụng niệm thì cũng giống nhau thôi, chứ không có khác nhau đâu.
(57:11) “Như vậy, những cái Thầy nói kinh sách Đại thừa bịa đặt nhưng ở Tịnh xá hay Thiền viện đều tụng niệm chung. Lạy kinh mang một ý chứ đâu riêng hệ phái nào, có phải vậy không?”
Đúng rồi, họ đạp cứt với nhau mà. Thầy nói thiệt, bây giờ cứt người ta đổ đó mình đạp, người nào cũng đạp như nhau thì lẽ phải giống nhau thôi. Chứ nó có khác chỗ nào đâu. Nếu khác thì phải khác mà phải đúng của Phật giáo thì mới là của Phật giáo. Khác mà không đúng của Phật giáo thì không được nói là của Phật giáo.
Cũng như Thầy, nếu mà Thầy không tụng niệm thì ít ra kinh Nguyên thủy của Phật dạy cũng không tụng niệm. Chứ nếu mà kinh Nguyên thủy dạy tụng niệm mà Thầy không tụng niệm là Thầy làm khác Phật giáo, phải không các con? Cho nên khi đọc lại kinh sách Nguyên thủy các con sẽ thấy, Thầy dạy không bao giờ sai một lời nào của đức Phật dạy. Vậy mới là niềm tin của các con, mới là Thầy dẫn các con đi vào con đường của đạo Phật đúng chứ.
Còn cái này Phật không dạy, lời gốc của Phật không có mà bây giờ lại tụng niệm ó é như thế này thì các con nghĩ sao, có đúng Phật không? Phật không dạy mà tại sao bây giờ có? Ai đặt ra đây, ai làm ra đây? Có phải mấy ông tổ già hàm, lẻo mép này không? Có không?
Mấy con thấy tại ông ấy chứ sao, mấy ông làm hay mà tu không ra tới gì hết, tu không biết được cái gì hết, không giải thoát được. Thôi, nó tụng niệm vậy nó cũng đã an ủi đi chứ gì. Bây giờ nếu mà nó không, bây giờ mình tôi không có giải thoát được, không có lên Niết bàn được thì ít ra nó cũng có cái thế giới Cực lạc mình tụng đồ. Cũng may ra nó tin tưởng rằng chết rồi cũng được sanh về Cực lạc, nó cũng còn hy vọng. Hơn là tụng mà cũng không biết đi đâu nữa thì chắc nó không tin đâu.
Vì vậy mấy ông mới xây dựng cái thế giới tưởng của ông mới ra, để rồi chúng ta nuôi dưỡng cái ảo tưởng của chúng ta. Cho nên chúng ta an tâm mà tu niệm chớ, an tâm mà tụng kinh niệm Phật chứ. Còn nếu mà không có như vậy, làm sao chúng ta niệm Phật. Nếu mà đẻ ra Phật Quan Âm và không phù hộ chúng ta thì chắc chắn ai mà niệm Phật Quan Âm, ai mà niệm chú Bạch y, phải không các con?
Vì nó có cứu khổ, vì nó giải nạn được cho nên chúng ta mới cố gắng chúng ta niệm. Bởi vì chúng ta đang sống trong cái khổ mà, bây giờ có người mà cứu khổ thì mừng quá rồi. Nhưng mà người ta lừa đảo mình, cho nên người ta đẻ ra để lừa gạt mình, cho nên đến chùa cúng bái mấy cái ông đó, để rồi ông làm gì? Cúng một nải chuối mấy ông cũng ăn chớ bộ ông quăng sao. Các con hiểu không?
(59:36) Cho nên vì vậy mà nói đức Phật Quan Âm phù hộ vậy thì tôi cứ đem nải chuối tôi cúng Quan Âm nhưng mà ông Quan Âm ông có ăn được cái gì đâu, phải không? Cái tứ đại của ông thầy ở chùa đó họ sẽ ăn hết ba cái tứ đại này. Còn cái ông Quan Âm, ông xi măng ông ăn không có được. Thầy nói thật sự ông xi măng mà làm sao ăn chuối được. Không, Thầy nói thật.
Nếu mà thật sự có một đức Quan Âm thì ông phải ăn cái gì chứ đâu phải ăn chuối? Cho nên nếu mà bảo ông ăn cái gì đó thì chúng ta đem cái đó mà ông ăn được, thì chúng ta chắc không bao giờ biểu Phật tử đến cúng đâu. Mấy ông cúng cái kiểu này tôi đâu có ăn được, như vậy là cúng cho cái ông Quan Âm đó ăn chứ tôi đâu có ăn được. Vậy mấy ông cúng như vậy thôi chết tôi. Vậy tôi nhất định tôi không thờ ông này nữa rồi.
Bởi vì không có cái nải chuối mà tôi ăn được thì tức là tôi không thờ ông này rồi. Còn bây giờ mấy người cũng nảy chuối mà ông Quan Âm này phù hộ mấy người thì tôi còn ăn được cái nải chuối thì tôi sẽ thờ ông Quan Âm này để tôi thọ hưởng được cái nải chuối thì tôi thờ, có đúng vậy không?
Còn nếu mà tôi thờ đức Phật Quan Âm đó mà bây giờ ông ăn nguyên là toàn cây mục không thì Phật tử cứ đem cây mục cúng thì cái ông thầy chùa này ông ăn không được thì nhất định không thờ ông Quan Âm đâu. Họ không thèm đúc cái tượng Quang Âm tốt đâu. Có không? Bởi vì ông ta có ăn được cây mục đâu mà ông thờ, phải không?
Thầy nói thật sự đó mấy Phật tử suy nghĩ đi. Chứ còn mấy vị mà đem tiền cúng nè, đem bánh, đem trái cúng Quan Âm nè, đem gạo cúng Quan Âm nè thì cái ông thầy đó ăn được, mấy ông đúc tượng lớn ra. Đó là cách thức để mà người ta có sống được thì người ta phải đúc ra người ta làm. Chứ chắc gì mà ông phù hộ mình được?
(01:01:11) Như vậy rõ ràng là tất cả những cái điều kiện mà nêu lên câu hỏi để mà biết, Thầy nói chung là Thầy nói với danh từ là nhai lại đờm dãi của nhau. Hồi nãy Thầy nói đạp cứt đó là nó thô lỗ, nhưng mà Thầy nói đờm dãi của nhau thì cũng thô lỗ lắm đó.
Thật sự ra bắt chước nhau cả. Bởi vì tu không chứng là phải bắt chước nhau thôi. Tu không chứng là không biết đường đi rồi. Thì bây giờ thấy cái đó làm vậy thì mình thay đổi chút chút để cho nó mới một chút thôi chứ có gì khác, phải không các con? Để làm cho người ta lạ lạ vậy thôi, để người ta theo mình thôi.
Nghĩa là khéo léo lắm mấy con. Người ta khéo léo người ta lừa đảo, làm cho mới mới ra chút. Người ta khéo thuyết giảng cho mình, à ông giảng hay quá, ông này nói hay quá, có lý. Nhưng mà thử nếm được mùi vị đó không? Vậy mà người ta còn bảo: “Y pháp chứ đừng y nhân”
Ông thầy làm bậy thì đừng có theo ông mà cứ nghe lời ông dạy. Trời đất ơi ông là thầy của mình mà ông làm còn chưa được mà ông biểu mình làm. Thì cứ bảo mình nghe theo, y pháp thôi: “Pháp của Phật dạy chứ tôi không có dạy, tôi chỉ nói lại cho quý Phật tử thôi, tôi cũng chưa làm được nữa. Đừng có như tôi, tôi bây giờ tôi còn hút thuốc, uống rượu. Thôi, quý vị ráng cố gắng giữ giới uống rượu này kia chứ còn tôi thì tôi đã bị nhiễm rồi.” Rõ ràng là ông lừa đảo mình ghê gớm không?
Ông bảo mình là đừng uống rượu, đừng có hút thuốc mà thế mà ông hút thuốc, uống rượu thử coi cái ông dạy mình như vậy thì mình nghĩ như thế nào? Đâu có đúng mấy con. Ít ra mình dạy người ta được thì mình phải làm cho được trước người ta chớ, còn mình làm không được mà bảo người ta làm được. Như vậy là một đám Phật tử, một đám quý thầy mà vào tu, không ông nào làm được hết. Rồi cuối cùng ông thầy hút thuốc này còn sướng quá, thôi bây giờ mình cũng bắt chước thầy một chút mình cũng phải hút thuốc theo, phải không? Có không?
Vì vậy mà ông thầy có vợ thì đám đệ tử của ông sau này cũng có vợ. Vì vậy mà chùa nào cũng có vợ con hết ráo. Rồi cuối cùng thì bây giờ vợ con như vậy ai còn cúng dường cho mấy ông ăn nữa thì mấy ông mới bày ra đủ thứ cầu siêu, cầu an để rồi mình có cha mẹ chết đến rước ông.
Như vậy rõ ràng là cách thức làm cái nghề sống rồi, mấy con? Biến Phật giáo thành một cái nghề sống. Cho nên đó là cái nghề thầy tụng, chứ không phải là tu sĩ mà đó là một cái sự tụng.
(01:03:11) Rồi bày ra thuyết giảng pháp này, pháp kia cuối cùng ông thầy tu không được, không làm chủ được. Đi nằm nhà thương suốt ngày giờ. Ông thầy mà giảng đạo thiền, giảng này kia mà cuối cùng bệnh đau thì thuốc nơm nớp.
Mấy ông nói làm chủ sanh, già, bệnh, chết mà bây giờ bệnh đau ông cũng đâu có trị được đâu. Ông cũng đi ra bác sĩ trị cho ông thì thôi tôi đi học bác sĩ còn hơn là tôi đi học ông. Đi học ông mai mốt nó bệnh tôi cũng đi vô bác sĩ như vậy có nghĩa lý gì với tôi, có đúng không mấy con?
Tu hành đã làm chủ được bệnh mà giờ ông không làm chủ được mà bây giờ ông đi nằm nhà thương mà giờ tôi học với ông thì mai mốt tôi cũng nằm nhà thương vậy thôi. Cái lý đâu? Cho nên cái chỗ tu hành nó không phải thực hiện được với người lãnh đạo. Các con nhớ khi Thầy bệnh, Thầy phải làm chủ được Thầy, mấy con mới tin chứ. Bây giờ Thầy cũng đi nằm nhà thương này kia, ai mà tin Thầy?
Thật sự ra cái điều kiện mà đức Phật nói, không có nên tin mà phải nên thấy được cái điều, pháp đó nó có lợi cho mình, cho người. Bởi vì người đó làm được, nó có lợi ích cho người, đúng là cái pháp đó có giải thoát. Ông này bệnh, ông tự trị được. Làm như vậy thì chúng ta mới thấy, có niềm tin. Còn không tin, chúng ta không tin. Bởi vì con người chúng ta có trí tuệ, không có để bị người khác lừa đảo chúng ta.
(01:04:28) “Tại sao có những ngôi chùa làm các món chay mang tên gọi mặn như là: Khô lươn, tôm, cá kho, thịt kho. Mấy thứ này, khi thành phẩm con ăn thấy rất ngon, chẳng khác gì thịt heo kho thật. Thực sự vẫn có nạc, da giòn, mỡ béo. Người đạo diễn hay là người diễn viên khéo quá, có đúng lời Phật dạy, các con nên sống như vậy không? Các tôn giáo khác nhìn đạo Phật bằng đôi mắt gì?
Lúc chế biến thức ăn người làm tập trung tâm mình vào đâu, ý thức ra sao? Đã ăn chay sao còn tưởng đến thức ăn mặn, còn cái đau của chúng sanh trong bàn tay, sức lực, uy thế của mình. Cuối mong Thầy chỉ dạy để con và nhiều người khác cùng sống đúng như Phật, như thật mà Thầy là người trực tiếp lời giáo huấn di chúc của đức Phật.”
Đây các con nghe đây trong cái bài kinh Jivaka ở trong kinh Trung bộ thì đức Phật đã dạy người cư sĩ mà làm thực phẩm mà cúng dường cho Phật và chư tăng, làm thực phẩm động vật tức là có thịt chúng sanh trong đó thì có năm điều phi công đức, tức là năm cái điều tội lỗi đó mấy con.
Như vậy quý Phật tử nghe cái lời Phật nói như vậy dám làm thịt heo mà đem cúng dường chư tăng không? Hay là bắt gà làm thịt, hay ra đem cá hầm, chưng để mà đem cúng dường chư tăng không? Mấy ông Nam tông là ăn hết đó mấy con. Mình quán rau, mình quán thịt nó thành rau là cứ ăn thôi, bởi vì rau mà, tưởng nó như rau là cứ ăn, đúng là lý luận để mình nuốt cho trôi miếng thịt vì nó thèm khát quá rồi.
(01:06:29) Cho nên ở đây khi mà đọc sách của Thầy mấy ông Nam tông ông tức, tức lộn ruột rồi. Đó Thầy bác mấy ông dữ lắm. Nhưng mà sự thật là mấy ông không đúng kinh sách Nguyên thủy. Mấy ông đọc, mấy ông dám luận như vậy để cho mấy ông ăn. Cái đó đức Phật dạy chư tăng như thế nào? Dạy chư tăng chúng ta như thế nào? Mấy con biết: “Ăn không thấy, không nghe, không nghi.”
Mấy ông luận như thế này để nuốt cho được mà. Ăn không thấy nghĩa là không thấy người ta bắt con heo làm thịt cho mình ăn, người ta làm ở đâu, mình đâu thấy. Không lẽ bây giờ ông đem đến chùa làm con heo trước mặt cho mấy ông thầy thấy sao, phải không các con? Nó làm ở lò sát sinh đó chứ nó đâu có làm ở đây. Cho nên ông nói ăn không thấy, không thấy người ta làm.
Nhưng mà ý của Phật như thế nào? Ăn mà thấy miếng thịt là không ăn. Mặc dù là miếng đậu hũ mà các con làm như thịt heo đi nữa, nhất định sẽ không ăn, thấy thịt theo là có cái sự đau khổ. Thấy hình dáng mà có miếng thịt, miếng cá mà còn làm bằng đậu hũ mà giống như thật thì nhất định là cái người mà tu theo đạo Phật nhất định thấy như vậy là không ăn. Bởi vì thấy như vậy là chúng ta có một cái tưởng thật sự, có một loài vật chết?
Bởi vì có sự thật, có loài vật chết người ta mới bắt người ta làm thịt thật sự, cái đó là tưởng đúng. Còn tưởng sai là không có linh hồn mà tưởng có linh hồn là sai? Còn có miếng thịt như vậy là có cái sự thật của một con heo bị cắt, bị giết mới có miếng thịt, đó là một sự thật đúng.
Mà bây giờ làm bằng đậu hũ không có lừa đảo tôi được đâu, cái tâm từ của chúng tôi, đức Phật nói một vị tỳ kheo ăn thực phẩm khi mà ăn thì tâm từ phải phủ trùm. Thứ nhất là biết ơn của đàn na thí chủ, cái công ơn của người ta bằng mồ hôi, nước mắt. Thứ hai là nhìn món ăn của chúng ta có bao nhiêu sự chết chóc đau khổ ở trong này? Cái lòng từ của đức Phật mà. Cái lòng từ bi của chúng Thánh tăng mà, chúng ta nỡ lòng nào chúng ta ăn. Đó là khi thấy thì không ăn.
(01:08:16) Khi thấy ở trên đĩa có miếng đậu hũ mà làm giống thịt heo thì nhất định không ăn. Cho nên Thầy nói có một lần cô Út đi mua bánh mì mà họ dồi ba cái thịt heo giả, cũng có nạc, mỡ, da này kia bỏ trong đó rồi đem về. Dồi bánh mì mà về, Thầy banh ra nhất định là bỏ chứ không ăn, nhất định. Đây là thịt thật chứ gì? Thịt heo nó phải giống vậy không? Bây giờ làm cái gì cũng không ăn, đem bỏ.
Còn quý thầy thấy như vậy là khoái ăn nữa, như là, mình tưởng như là mình ăn thịt thật, ngon thật. Đó là đúng là chúng ta đã bị cái tâm lừa đảo chúng ta. Do cái tâm sát sanh của chúng ta nó thể hiện qua cái lòng tham. Đối với người tu sĩ đạo Phật chúng ta không vậy, không có quyền mà ăn uống trên cái hình dáng mà đau khổ của một miếng thịt của chúng sanh như vậy.
Ăn không thấy, không nghe. Bây giờ chúng ta có một cái đĩa thực phẩm như thế này, không có thấy thịt chút nào, người ta bầm nát hết. Mà nghe người ta nói trong cái đĩa này, họ bằm trong này mỡ đồ này kia, nó bỏ mỡ heo trong này thì cũng không thấy thật sự nó bỏ mỡ heo nó chiên đó, nhất định là Thầy không ăn đâu. Hễ nghe người ta nói có thịt chúng sanh, có con vật chết trong đó là không ăn, đó là người tu sĩ đạo Phật. Các con thấy chưa?
Nghe người ta nói là không ăn mà không nghe, bây giờ mình không nghe thì mình ăn. Nhưng mà không nghi, đức Phật đã dạy không nghi. Bây giờ ăn nghe có mùi mỡ heo đây, ăn nghe mùi tanh cá đây, trời đất ơi tôi phải nghi rồi chứ gì? Món ăn này người ta bằm tan nát hết, không biết người ta cho cá ở trong này hay gì mà nó tanh quá trời, phải không các con? Phải sinh nghi rồi nhất định của món ăn này dẹp qua bên chứ tôi không có ăn.
Các con thấy đức Phật dạy chúng ta rõ chứ gì: “Ăn không thấy, không nghe, không nghi.” Mà ăn thấy, nghe, nghi thì nhất định là không ăn rồi. Có vậy thì là ai mà đã làm cách thực phẩm bằng…
Bởi vì có một lúc người ta mua về những cái đồ mà Đài Loan nó làm giống như thịt nạc đó mấy con, về đây cô Út làm. Thầy nói trời ơi như vậy là thịt heo rồi, thôi nhất định là không ăn, không ăn, không ăn, nhất định là từ đây về sau ăn rau thôi. Rau với muối là tốt nhất. Chúng ta là người tu sĩ phải tâm từ bi, phải biết thương yêu, một cái hình dáng phải biết đồ ăn chay như thế này mà giống như thịt heo bỏ trong miệng mình nhai như thịt heo là nhất định không ăn. Có ngon gì cũng không thèm hết.
(01:10:35) Ngon cái miệng nhưng mà cái tội khổ ở trong cái tâm của mình mai mốt ăn thịt heo mà vẫn nói là đó là đồ chay nữa thì thôi chết rồi. Cho nên cái lòng từ chúng ta không thể nào cho phép chúng ta phải bỏ miếng đồ ăn mà trong miệng nhai mà nó giống thịt thì không thể được.
Cho nên bằng dưa, những cái củ cải hoặc là bằng đu đủ, người ta bào, người ta làm coi như là dưa trộn muối mà họ nói mắm chay. Thôi nói mắm chay mấy người ăn đi chứ tôi không ăn đâu. Bởi vì mắm thì mấy người phải có thịt, có cá trong đó rồi tôi đâu có bỏ vô miệng ăn được. Mấy người nói mắm thì mấy người cứ đem về, chứ còn mấy người nói dưa muối thì tôi ăn. Nếu mấy người nói mắm thì tôi không ăn.
Mắm mà còn có chay thì sao được. Cá mà còn có chay trong đó sao được. Bộ mấy người lấy cây mấy người đẽo bỏ đó rồi nó chay. Cho nên khi mà nói ra một cái điều gì rồi thì cái tâm của một người tu sĩ chân thật của đạo Phật nhất định là hoàn toàn, không phải là con bò ăn cỏ đâu.
Cái hình dáng, mà các con làm thịt bằng đồ chay giống cá, tôm, cua hoặc tất cả mọi hình dáng là vì cái tâm còn thèm thịt, cá nên làm ra nó. Cho nên điều đó là điều ác đức, điều đó là điều không còn tâm từ bi nữa. Người ta thực hiện, con người tu theo đạo Phật, người ta thực hiện cái tâm từ bi và thương xót chúng sanh. Cho nên cái người mà tu thật sự không có làm đồ giả. Đồ đó là đồ giả mấy con.
Đồ giả đã mang tội ăn thịt chúng sanh. Thèm khát để mà thực hiện ăn thịt chúng sanh mà còn cái tội là giả dối. Nó không phải thịt mà làm cho nó thành thịt. Đó là cái tội giả dối, cái tội lừa đảo. Thầy kết tội liền tức khắc với những người Phật tử mà làm khéo tay như vậy. Đối với Thầy, người đó là tội lỗi.
Bây giờ con làm thịt heo này, chứ đâu phải thịt heo, đó là đậu hũ, nó là những mì căn, Thầy cứ ăn đi không có sao đâu. Nhưng mà Thầy cứ ăn, mà Thầy cứ thấy như vậy hoài, mai mốt thịt heo Thầy cũng ăn được như thường, tức là những cái sai. Cho nên ở đây tất cả những cái đó là những cái người ta bịa ra để người ta ăn, để người ta giảm bớt sự thèm của người ta. Như vậy thì chúng ta không có nên, không có nên ăn thịt chúng sanh. Khi mà thọ Bát Quan Trai thì hoàn toàn chúng ta ăn rau cải, thực phẩm thực vật.
(01:13:13) “Nếu một người ăn chay trường nói câu thịt heo, thịt gà thì người này có phạm tội vọng ngữ hay không?”
Mình ăn chay trường thì mình không nên nói thịt là ở trong cái chỗ ăn. Bây giờ đang ăn chay mà nói bữa hôm qua tôi ăn đám giỗ hay đám gì đó, trời ơi cái cô đó làm thịt gà tiềm hay là thịt gà quay ngon quá trời. Như vậy rõ ràng là đang ăn chay mà còn nói, người ta nói thức thực, nó có bốn cái loại thực: thức thực, tưởng thực…
Nghĩa là mình ăn bằng cái thức của mình. Khi mình khởi ra một cái hình ảnh gì đó là mình đang thức thực. Cho nên Thầy nói con người chúng ta, là đoạn thực đó là chúng ta ăn từng miếng như rau cải, tương dưa hoặc là miếng thịt, miếng cá từng miếng, từng miếng gọi là đoạn thực.
Còn bây giờ thức thực là như thế nào mấy con? Khi thấy hiểu biết một cái gì đó, thấy đó mình ham muốn là mình ăn cái đó rồi. Thầy thích cái ly là đã ăn cái ly luôn, cái thức thực nó ăn tất cả mọi vật hết, nó không phải ăn đồ ăn đâu, đó là thức thực. Cho nên ở đây thì chúng ta phải học bốn cái loại thực của thức thì trong kinh, trong cái ‘Đường Về Xứ Phật’ có giảng, có người hỏi Thầy, Thầy có giảng.
Thì chúng ta thấy rằng trên cái sự tội lỗi của chúng ta khi mà chúng ta ăn chay thì chúng ta không có nhắc đến một cái thịt, cá gì ở trong tưởng của chúng ta. Còn nếu mà chúng ta nhắc tức là nó có thức thực ở trong đó rồi, nó sai. Hễ mình nhắc thịt tức là thức thực thịt rồi. Hễ nói thịt heo là thức thực thịt heo mà nói cá là thức thực cá.
Cho nên cái thức của chúng ta sẽ ăn con cá. Các con biết, mình ăn như vậy là mình phạm tội rồi, bởi vì tội sát sinh mà. Mà thật sự ra mình có cầm dao giết con vật đâu, ngay cái tư tưởng của mình đó là tội rồi. Bởi vì Phật nói những cái ăn đó chúng ta phải dẹp mới được …
(01:15:09) “Trong các sách nói về nhân quả như quyển ‘Nhân Quả Ba Đời’ của dịch giả Thiền Tâm gồm có bốn mươi sáu nhân quả, ở câu thứ tám mươi chín: Tướng mạo đẹp, xinh đẹp do nhân gì ?- Đời trước dâng hoa tươi cúng dường Phật.”
Các con thấy nghĩa như thế nào? Cái bông hoa là cái gì các con biết không? Cái bông hoa là con của một cái cây. Khi mà các con cắt cái bông hoa các con nói đẹp nhưng mà chư Phật có thấy đẹp không các con? Chắc chắn là không đẹp đâu. Các con cắt cây hoa cũng như bắt đứa con mà lìa mẹ. Các con đem lên cúng Phật để mà cho mình đẹp chứ gì, đẹp như hoa chứ gì, đẹp như túc chứ gì? Thật ra xấu như quỷ các con.
Người nào cúng hoa thì mặt sẽ xấu như quỷ, các con sẽ làm cái gì để chia cắt mẹ con, người ta đau khổ? Các con sẽ thành ác quỷ. Bởi vì bây giờ mình có một đứa con mà ai bắt đứa con của mình thì có đau khổ không mấy con? Người ta đem đứa con mình, không biết nó giam chỗ nào, nó làm như thế nào, có thể nó giết con mình chết. Người mẹ rất đau khổ, còn đứa con thì tha thiết để gần bên mẹ, để bú từng cái nhúm sữa của mẹ.
(01:16:15) Thế mà không được, người ta không cho. Người ta cắm vào trong cái bình nước để cho nó sống trong một, hai ngày rồi mà tàn úa, nó chết đi, có đúng không các con? Vậy mà cái người tà ác này là cái người sẽ bị hình dáng xấu như quỷ. Bởi vì làm một cái sự chia cắt đau khổ của người mẹ với con. Thầy nhìn sự sống của một loài thảo mộc, một loài cây như là sự sống của con người. Cho nên vì vậy mà những người cắt bông hoa cúng là những người phạm tội lỗi chứ không phải là người có tướng mạo xinh đẹp.
Ông Phật nhìn cái đó là đau lòng. Chúng ta thấy đẹp chưng bình bông, chúng ta có những bình bông bằng giấy chúng ta chưng cũng được mà. Đừng có nghĩ là cắt cái bông thật là tốt đâu các con, mà là sự đau khổ. Nếu đứng trong tâm từ chúng ta không nỡ nào, một cái cây cỏ mà đức Phật dạy chúng tỳ kheo không nên được đạp cho nó héo, huống hồ cắt mẹ, lìa con thì sao không đau khổ?
Lòng yêu thương của chúng ta, lòng hiếu sinh của con người, đạo đức hiếu sinh của con người không cho phép chúng ta làm một cái điều đau khổ đó. Thầy nói thật với các con, một cây cỏ mỗi khi mình nắm cây cỏ nhổ Thầy xót xa lắm. Nhưng mà vì trên đường đi của mình, phải giữ gìn sạch sẽ để tránh đi đạp côn trùng khổ đau mà phải nhổ cây cỏ.
Ăn một cái ngọn rau, rau lang ngắt cái ngọn ăn đi. Vì sự sống chúng ta phải ráng ăn để mà sống nhưng trước khi ăn như vậy chúng ta không phải được phí cái cọng rau này. Khi thừa chúng ta phải ráng ăn hết không được bỏ, bởi vì đó là cả một sự sống của cây rau. Cho nên đối với Thầy là không có vật gì mà bỏ, ăn hết không có bỏ.
Vì mồ hôi, nước mắt của mọi người, vì sự sống của muôn loài, cây rau nó cũng muốn sống chứ đâu bao giờ muốn chết, nhưng vì chúng ta sống mà không ăn nó thì chúng ta sẽ chết, nên buộc lòng chúng ta phải ăn, ăn nhưng chúng ta phải tiết kiệm được cái sự sống chết. Đó là cái người tu sĩ của đạo Phật phải bằng một cái trí tuệ hiểu biết, bằng sự thương yêu chân thật, bằng cái lòng từ bi thật sự, không phải là giả dối.
(01:18:23) Hôm nay Thầy nói như vậy, qua những câu hỏi này để cho quý vị thấy được con đường tu đạo Phật, từ bi. Cho nên những sách mà nói cắt hoa để làm cho mình được xinh đẹp, điều đó là sự giả dối của nhân quả, không đúng.
“Thông minh, trí tuệ là do nhân gì?- Đời trước ăn chay trường, niệm Phật.”
Người nào niệm Phật, ăn chay mà thông minh? Trí tuệ của đức Phật dạy như thế nào? Các vị có nhớ không? Đức phật nói: “Giới luật đâu là trí tuệ đó, trí tuệ đâu là giới luật đó.” Tức là: “Đức hạnh ở đâu thì trí tuệ ở đó, trí tuệ ở đâu là đức hạnh ở đó. Đức hạnh làm thanh tịnh trí tuệ, trí tuệ làm thanh tịnh đức hạnh.” Có phải đúng không?
Chỗ nào mà tâm ác là ngăn diệt, đó là đức hạnh chứ gì? Không làm khổ mình, khổ người là đức hạnh. Mà cái người mà không làm mình, khổ người là người trí tuệ chứ sao? Chứ đâu phải trí tuệ là do cái chỗ mà tụng kinh, niệm phật, ăn chay mà trí tuệ được. Con bò ăn cỏ có trí tuệ không quý vị? Con bò có ngu không? Người ta nói ngu như bò, có phải không? Vậy thì con bò nó ăn chay, nó có thông minh không? Nếu nó thông minh thì nó đâu làm con bò làm chi,quý vị? Có không?
Chúng ta phải xét thấy, như vậy là nói về nhân quả, một cách nói sai. Mặc dù là cuốn kinh nhâ quả này Thầy cũng đã đọc, Thầy đã thấy sai nhiều lắm các con. Dụ người ta, bảo người ta phải cúng vàng để xây chùa cho to thì mình sẽ được phước báo dữ lắm.
Gạt người ta, để người ta đổ tiền ra làm cái điều kiện phi pháp. Trong khi đất nước đang nghèo như đất nước Campuchia đó các con, thế mà nhà vua lấy Phật giáo làm Quốc giáo bắt buộc dân chúng phải bỏ vàng ra, phải đem công lao, công sức ra để cất chùa cho đất nước, bây giờ gọi là kỳ quan thế giới.
(01:20:12) Thật sự đây là một sự đau khổ của dân tộc đó phải chịu, gánh lấy cái hậu quả đau khổ, cái gọi là Phật giáo thì Thầy thấy vô lý. Phật giáo không có làm đau khổ cho một người nào hết. Nếu mà làm đau khổ người ta, bắt người ta phải đi làm lao động như vậy, khiêng từng tảng đá lớn như vậy để mà làm cái chùa như vậy thì các con nghĩ như thế nào trong cái thời đại này?
Bao nhiêu mồ hôi nước mắt của người ta, bao nhiêu chồng con người ta phải chết trên cái chùa này? Nghĩa là nhà vua bắt phu đi làm, dân chúng phải đi làm, thì làm sao dám cãi? Trong khi đó ở gia đình của người ta có một người chồng phải đi làm, vợ con ở nhà đói làm sao? Rồi bây giờ vàng bạc bao nhiêu trong dân phải đổ để làm cái chùa này. Các con nghĩ làm được cái kỳ quan như vậy đâu phải là ít tiền, ít bạc. Đối với Thầy lên án liền tức khắc.
Cho nên dân chúng Campuchia cầm súng giết, diệt chủng tộc. Nó có đạo đức gì đâu. Đạo phật là Quốc giáo của nó thế mà nó cầm súng giết người mà không gớm tay thì thử hỏi đạo đức của nó đúng chưa? Cho nên thật sự ra là một điều đau khổ cho Phật giáo.
Người ta đã làm lệch Phật giáo, vì vậy mà Phật giáo đã đau khổ. Đó là cái nhân quả. Người Trung Hoa viết những bài kinh này, hòa thượng Thiền Tâm là người dịch lại mà thôi, người Trung Hoa bịa đặt.
Thầy nói thật sự tu chứng mới nói nhân quả, tu không chứng đừng nói nhân quả.
Chúng ta bịa đặt đủ thứ nhân quả để làm lừa đảo. Thậm chí nhân quả có địa ngục để rồi người ta chết, người ta làm tội ác trên thế gian xuống địa ngục hành hạ chúng ta, cắt lưỡi, cưa tai, nấu dầu đủ các loại hết thì có phải gạt chúng ta không? Địa ngục chỗ nào đâu, quý vị chỉ cho Thầy xem? Mấy ông thấy cái địa ngục ở đâu mấy ông nói, hay là mấy ông ngồi đây mấy ông tưởng. Tưởng dưới đất này nó có cái địa ngục hay là cảnh giới chỗ nào mấy ông chỉ đi.
Trong khi đạo Phật xác định cho chúng ta biết địa ngục là ngay cái ác pháp làm cho tâm chúng ta đau khổ, thì ngay đó là địa ngục. Cho nên chúng ta mở cửa địa ngục hay là mở cửa thiên đàng đều là do cái hành động thiện ác của chúng ta. Đó là một cái cụ thể, rõ ràng, không có mơ hồ, không có trừu tượng.
(01:22:15) Còn nói ở đâu đó có cõi Diêm Vương, nào là Thập điện Diêm Vương, nào là Ngưu đầu Mã diện, nào là ngục tốt. Linh hồn chúng ta phải chết đi xuống dưới rồi bây giờ sanh lên không nhớ gì hết, nó bị ăn cháo lú. Trời đất ơi, cháo lú ở chỗ nào? Ai mà làm quán ở đâu mà bán cháo kỳ cục vậy. Có phải đặt chuyện không? Các con thấy rất nhiều cái điều kiện người ta đặt quá.
Đó là những cái sai mà phần đông đạo Phật đã làm cho người có ý thức người ta thấy đạo Phật ngao ngán quá. Cái ông này, sao mà ông Phật này nói cái chuyện gì mà mơ hồ, trừu tượng quá trời. Cái chuyện không có ông đặt ra như vậy, làm sao có quán cháo lú? Cháo lú nghĩa là ăn để mà quên đó.
Người nào không ăn chắc là sanh lên trên thế gian này chắc là nhớ hết, nhớ đời này, đời trước. Có ai mà không ăn, chắc bộ có trạm kiểm soát, công an nó gác cái cổng đó dữ lắm cho nên không ai lọt qua được hết. Cho nên vì vậy mà ai bây giờ chúng ta có nhớ đời trước chúng ta không? Mấy vị do ăn cháo lú hết ráo. Có không, có ai mà nhớ không? Không nhớ thì tức là mình ăn cháo lú chứ gì?
Quý vị có thoát khỏi cái quán cháo lú không? Y như là cái cổng mà nhà nước gác, mình phải đóng tiền đi qua. Đâu có cái cổng nó đưa qua vầy, rồi đâu có đi được, buộc là phải bỏ cái, mua cái vé bỏ vô thì mở cổng cho đi. Thì cái quán cháo lú chắc cũng vậy, mình đi ngang qua cái nó mời vô ăn tô cháo đi rồi mới được đi chứ còn không tôi không cho đi. Tôi ra tôi gài cái cổng cửa lại. Ba, bốn thằng lính nó gác ở đó, mà ai mà băng qua là tôi bắn đó, thì ông nội ai dám. Cho nên, vì vậy cứ người nào cũng phải vô quán ăn hết.
Cho nên bây giờ thật sự mình sinh ra và không người nào mà nhớ đời trước kia. Nhưng mà tại sao mấy ông thầy nhớ? Chẳng hạn, bây giờ Thầy đi tái sanh, tại sao mà Thầy không ghé quán cháo lú Thầy ăn chút chơi? Chắc mấy thằng lính nó sợ Thầy nó không mời vô chứ gì.
Như vậy chắc không có đâu. Nếu mà người nào cũng bị như vậy chắc Thầy cũng là con người như quý vị mà Thầy đi tiếp tục tái sanh thì chắc Thầy cũng phải nuốt ba cái cháo lú, phải không? Chứ bây giờ Thầy tu xong rồi tại sao không mời Thầy vô ăn?
Như vậy là rõ ràng, tại vì trong lúc bây giờ Thầy có cái trí vô hạn, còn các con không có cái trí vô hạn cho nên các con không thấy mà thôi. Tại vì từ lâu tới giờ các con không khai mở nó thì bây giờ làm sao mà có con hiểu được?
(01:24:21) Cho nên Thầy do sự tu tập mà Thầy khai mở. Cho nên bây giờ có cất trăm ngàn cái quán cháo lú này vô ăn chắc miễn phí nữa, phải không? Người mà tu xong rồi thì không bao giờ người ta đem một bát cơm phi thời bảo người đó ăn thì người đó dại gì mà ăn.
Các con đem một tô hủ tiếu rất ngon, mời Thầy vô ăn cái tô hủ tiếu này cho khỏe, bởi vì Thầy đi hồi sáng tới giờ nó mệt quá. Nhất định là đúng giờ ăn, không đúng giờ ăn nhất định không ăn.
Bởi vì một người người ta sống bằng trí tuệ người ta, người ta thấy cái bát phở của mấy con là người ta đã quá rùng mình, người ta quá sợ. Các con thì thấy ngon đó, đói bụng rồi thấy cái là ngon hơn nữa, phải không? Còn Thầy, đói chết bỏ, nhất định đói chết bỏ chứ nhất định không ăn, cái món ăn đó là bất tịnh. Cái đôi mắt của Thầy thấy được cái món ăn bất tịnh, còn các con không thấy nó bất định mà các thấy cái tô hủ tiếu này ngon quá. Cho nên các con bị lầm rồi.
Thôi thì hôm nay tất cả những sự mà các con hỏi ở trong này, đều là cái mắt thấy, tai nghe của các con mà các con không giải nổi. Hôm nay Thầy giải cho các con để mà các con nghe. Bây giờ tối rồi phải không các con, thì ngày mai các con về thì tất cả những cái này để Thầy viết để trả lời. Chứ bây giờ mình trả lời đâu hết được các con.
Bởi vì những cái điều mà Thầy nói ra thì nó phải giải thích cho các con để hiểu cho rõ, mà nếu mà hiểu rõ thì phải mất thì giờ nhiều chứ, phải không? Nếu muốn ngắn gọn sao được, mà nếu ngắn gọn thì Thầy trả lời ngắn gọn cũng được, Thầy nói năm ba câu các con hiểu, không hiểu thì thôi.
Thực sự ra khi mà Thầy viết ‘Đường Về Xứ Phật’, đầu tiên đó thì Thầy chỉ trả lời chúng ở đây thôi, nói ngắn gọn cho đỡ mất thì giờ. Cũng cố giữ gìn sức khỏe của mình. Nhưng mà ngày hôm nay là Thầy sắp sửa gần ngày Thầy đi rồi, Thầy còn giữ gìn sức khỏe Thầy để làm gì nữa, Thầy nói hết cho mấy con nghe tất cả những cái điều kiện.
Rồi sau khi các bộ sách đạo đức mà xong rồi, có người thay Thầy, Thầy sẽ ra đi. Có người thay Thầy để dẫn dắt các con tới nơi tới chốn. Các con đừng nghĩ rằng Thầy ham sống trên cuộc đời này. Thầy muốn đi cách đây hai mươi mấy năm. Khi mà năm 1980 Thầy thực hiện xong là Thầy về thăm thầy Thanh Từ, Thầy thấy chúng sanh khó đổi lắm, không phải dễ. Con đường giới luật mà, đâu phải dễ đâu, cuộc sống đâu phải dễ. Cho nên Thầy ráng sức mà ở lại
(01:26:26) Vì vậy mà cái nhân duyên nó còn lại với chúng sanh. Vì vậy mà Hòa thượng đầu tiên sách tấn Thầy: “Đạo mà còn là còn người tu chứng”. Thầy đã thực hiện được, cái công ơn đó thì nhớ hoài. Khi mà Thầy xin Hòa thượng nhập diệt, Hòa thượng nói hãy ở lại giúp Hòa thượng để chấn hưng Thiền tông Việt Nam.
Một vị thầy mà cái lòng tha thiết vì Phật pháp mà người đệ tử tu hành xong mà nỡ bỏ thầy mình đi sao? Cái tình cảm đó làm sao mấy con? Cho nên Thầy ở lại, Thầy đọc toàn bộ kinh sách theo như lời Hòa thượng bảo Thầy về đọc. Thầy đọc hết, những cái sai Thầy gạch hết, Thầy gạch hết tất cả các bằng chứng sai. Cho nên bây giờ mấy con mới có cái giáo án tu tập mà Thầy lật ra tất cả những cái bề trái. Các con ngày xưa đâu có biết tất cả những cái sai của đạo Phật đâu. Nhờ đọc bộ sách của Thầy và các con bây giờ suy ngẫm thấy đúng là cái sai.
Cái trí tuệ của các con ngày xưa đâu có đủ sức thấu suốt qua được cái lý của nó đâu. Nó quá bưng bít, nó làm cho các con bị mê mờ. Nhờ Thầy triển khai ra các con thấy những ngày mà báo hiếu, ngày Vu Lan rồi những cái hành động sai trái, tất cả những cái sai của Phật giáo nó quá nhiều mà không ai lật ra được.
Tới Thầy, Thầy lật ra các con mới suy ngẫm lại. Mới đầu các con bị dao động liền. Nhưng mà sau đó các con còn có trí tuệ, suy nghĩ chứ? Thì như vậy hôm nay các con được nghe lời Thầy, được gần một cái người mà đã thực hiện được cuộc đời giải thoát của mình, nói cho các con nghe thì các con hãy cố gắng, cố gắng thực hiện để đáp ơn của Phật. Trước là Phật, sau là Thầy, người đã đi theo con đường đó, làm sống lại con đường đó. Thì các con thực hiện được là các con đền đáp, mà có con không thực hiện được là các con phụ lòng Thầy.
(01:28:07) Đem hết hết sức lực của mình, can trường của mình, dám sống chết để mà nói lên những sự thật này thì các con biết con người của Thầy là vì cho sự lợi ích của mọi người. Vì thương yêu của mình đối với muôn loài mà Thầy thực hiện những cái này. Thầy chẳng hề mà sợ chết đâu mấy con. Thầy chỉ thương các con mà thực hiện những điều này.
Cho nên cái ước vọng của Thầy chỉ còn cái bộ sách ‘Đạo Đức Làm Người’ ra đời, thì đưa cho con người có một cuộc sống an vui, cuộc sống không làm khổ mình, khổ người thì Thầy thấy, Thầy đem lại hạnh phúc cho con người trên hành tinh này là đủ. Đủ cái ước vọng của Thầy rồi. Đó là mơ ước của Thầy nhưng mà Thầy sẽ thực hiện được, cơ thể của Thầy sắp chết nhưng mà Thầy sẽ phải kéo dài thêm chừng nào mà xong tập sách đạo đức.
Thầy không để chết ngang đâu mấy con, mà nếu lỡ cơ thể này mà Thầy chết ngang, tức khắc Thầy phải hóa thân liền thành một con người, tiếp tục làm công việc này cho tới cùng. Nghĩa là Thầy phải ngay liền, Thầy phải có liền chứ không bao giờ để gián đoạn mất Thầy. Thầy nói như vậy, các con biết là cái năng lực của Thầy có thể hóa sanh được một con người thay thế Thầy làm công việc tiếp tục.
(01:29:15) Khi mà cái thân nhân quả của Thầy nó sẽ tàn lụi, nó sẽ hư hoại, nó không phục hồi lại được nữa, Thầy bỏ liền tức khắc và Thầy hợp các duyên, với tâm lực của Thầy sẽ hợp tất cả các cái cái gen, hợp lại là một con người thứ hai tiếp tục trên con đường để mà viết cái bộ sách đạo đức đó.
Thầy nói thật với mấy con mà, Thầy có đủ khả năng để làm cái điều này. Cho nên vì vậy, bộ sách đạo đức của Thầy ra đời xong thì Thầy ra đi, thì Thấy thấy được cái ước nguyện của mình đã hoàn thành.
Và Thầy nhìn thấy được các con, mỗi người, mỗi người một đồng, hợp tác với Thầy để in bộ sách này. Thì đến bây giờ Thầy rất vui là vì chúng ta đã chung lưng nắm tay, nắm chặt bàn tay, chung lưng đấu cật xây dựng lại đạo đức cho loài người trên hành tinh này? Các con là những người sẽ nắm chặt bàn tay với Thầy, dù là các con rất nghèo mà các con chỉ bỏ công, một cắc với Thầy thôi cũng đủ với cái tâm nguyện của các con cùng Thầy in sách đạo đức.
Nghĩa là sách đạo đức, Thầy in rất nhiều nhưng Thầy không bán, chúng ta sẽ cho tất cả mọi người. Ai có duyên, không duyên chúng ta cũng mang đến nhà giúp cho họ có được. Và các con là những sứ giả mang những kinh sách này đến.
Cũng như hôm nay những cuốn ‘Hành Thập Thiện’ nó có tuy đạo đức như vậy, nhưng nó vì nằm trong kinh sách cho nên các con có mang bộ sách đạo đức này để rải ra. Nếu mà các con cần dùng thêm những sách này thì Thầy sẽ trao cho các con bộ sách ‘Hành Thập Thiện’ để các con trao, những cái giai đoạn gần đây.
Còn tới sau này cái bộ sách Đạo Đức Làm Người, năm cuốn, ba cuốn, bốn cuốn, mười cuốn nó trọn vẹn hết cái đạo đức. Lúc bấy giờ, các con sẽ cùng nhau để mà in những kinh này, chúng ta rải ra, đem tất cả họ hàng chúng ta, mỗi nhà đều có một cuốn sách đạo đức.
Và các con là những người sứ giả mang những cuốn sách đạo đức này đi khắp cùng ngỗ tận trao cho mọi người trên hành tinh. Thầy tin rằng các con sẽ làm điều này thay Thầy vì sức khỏe Thầy không cho phép Thầy đi làm cái việc này, vì các con còn khỏe, các con sẽ làm được. Đó là những điều mà các con đã chấp cái ngọn đuốc đạo đức của đạo Phật, làm sáng thế gian.
Đến đây Thầy chấm dứt. Các con còn gì cứ hỏi Thầy, các con xá Thầy thôi, xá Thầy thôi con, đừng đảnh lễ.
Thôi suốt ngày hôm nay Thầy phải làm việc nhiều con, Thầy nói nhiều, nhiều nhất là hao tổn khí lực nhiều lắm.
Các con dẹp các con, Thầy để những bức thư này … (01:31:38)
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian: 15/05/2001
(00:00) Trưởng lão: Trong cái sự tu tập tuy rằng kinh sách Thầy viết nó nhiều, nhưng mà cái tu tập thì nó không khó, gom lại thì nó không nhiều đâu, nó rất dễ, nhưng mà tại vì mình đọc nhiều quá, không biết cái nào tu trước, cái nào tu sau. Thành ra nó lộn xộn kinh sách, không có soạn thành một cái giáo trình cho nó từ đầu tới đuôi cho rõ ràng, cứ bài kinh này tới bài kinh khác, mình không có biết. Cho nên vì vậy mà mình thấy hơi khó tu. Mình phải nghe cái pháp nào mà nó hợp lý, đúng rồi mình cứ mình tu, xong mình tu riết căn cơ các thứ luôn, tu cái gì trước tu cái gì sau.
Cho nên trước tiên, qua kinh nghiệm tu hành của Thầy, Thầy biết trước tiên mình phải rèn luyện, rèn luyện cái nghị lực, cái sự kiên trì bền trí của mình. Ai thì cũng nói mình có nhưng gặp khó khăn, mình phải kiên trì, cái nhẫn nhục, cái ý chí của mình thì lúc bây giờ mới không bỏ cuộc, vì vậy mà ngay từ lúc đầu mình tập cái sự kiên trì. Muốn tập nó được cái sự kiên trì, mình luyện tập cho được kiên trì. Nếu mình thấy nó cực quá, thì tức là mình không có kiên trì rồi. Mà mình thấy nó không có cực, và đồng thời mình cố gắng mình vượt qua được cái khổ đó như vậy thì nó là kiên trì, đó là cái ý chí của mình vượt qua.
Vậy thì muốn tập luyện nó thì Thầy có phương pháp Thầy dạy như các con biết rồi, năm hơi thở rồi đứng dậy đi kinh hành, hai mươi bước thì ngồi lại, thì cái đó là mục đích của nó để tập cho mình rèn luyện cái nghị lực, cái kiên trì cái bền chí của mình, chứ không có gì hết. Mình biết rằng nó là cái con đường mình tu tập, nó sẽ mang đến cái sự lợi ích rất lớn là mình làm chủ bốn sự đau khổ và chấm dứt cái sự tái sinh luân hồi.
Thì cái sự mà làm chủ bốn sự đau khổ và chấm dứt bốn sự tái sinh luân hồi nó là một cái điều quan trọng và quý báu nhất của cuộc đời người. Khi mà chúng ta sinh ra mà chúng ta làm chủ được bốn sự việc này và chấm dứt được cái sự tái sinh luân hồi thì ở trên thế gian này không có một vật gì quý báu mà đổi được cái sự làm chủ mình, nó quý báu đến cái mức độ như vậy.
Cho nên vì vậy mà chúng ta có cực khổ cách gì đi nữa, thì chúng ta cũng không có nản lòng. Bởi vì đó là quý báu, và nó quý báu mà mình cố gắng để mình làm cho được thì nó phải có cực khổ, nó phải có nhọc nhằn.
Cho nên vì vậy mà cái phương pháp đầu tiên để rèn luyện cái cái nghị lực, ý chí của mình, để cho nó đạt được đó là năm hơi thở và đi kinh hành.
Nhưng nó còn có cái, cái lợi ích cho chúng ta nữa mà bây giờ chúng ta chưa có bị hôn trầm thùy miên, nhưng mà khi mà chúng ta bị hôn trầm thùy miên, thì cái phương pháp mà đi năm hơi thở, đứng dậy đi kinh hành, nó giúp chúng ta phá được cái hôn trầm thùy miên, nó làm cho chúng ta không còn bị hôn trầm thùy miên nữa.
Đó thì nó đã có hai cái phần lợi ích rất lớn của phương pháp tu này. Cho nên người mới tu phải tập ngay liền cái pháp này để rèn luyện cái nghị lực, cái ý chí, kiên cường của mình. Rồi kế đó, thì nó sẽ trợ giúp khi mình tập thuần quen rồi, khi bị hôn trầm thùy miên thì chúng ta sẽ áp dụng nó vào cái hôn trầm thùy miên, thì hôn trầm thùy miên sẽ không còn nữa. Đó là nó có hai cái lợi ích rất lớn, vì vậy mà cố gắng tập cái phương pháp này.
(03:13) Kế đó thì chúng ta trong cuộc sống chúng ta người mới tu, thì trong cuộc sống chúng ta phạm nhiều ác pháp, còn nhiều ác pháp.
Như vậy cho nên Đức Phật dạy chúng ta ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện, tức là nghĩa là chúng ta từng sống trong thiện, luôn luôn lúc nào cũng ngăn ngừa các ác pháp nó xâm chiếm. Bởi vì bây giờ chúng ta thấy đang yên, nhưng một lúc nữa có người nào đến họ nói, những cái lời nói nghe nó không có, nghe nó bất toại nguyện trong lòng, nghe nó nghịch ý mình, thì nó sinh ra những phiền não nữa, cho nên vì vậy có những sự kiện nó xảy ra. Nó xảy ra mà mình không ngờ trong đó cái nhân quả.
Cái luật nhân quả thì nó đã sắp xếp những cái sự kiện xảy ra, nó phải đúng cái giờ nào, phút nào, cạnh nào, cái nhân quả nó sẽ xảy đến cho mình, để cho mình trả những cái nhân quả. Nhưng mà mình biết được, cho nên mình chuyển nhân quả, chớ mình không bị trả.
Thí dụ như người ta nói một lời nói nặng, làm cho mình tức, buồn giận. Thì lúc bấy giờ đó mình không buồn giận, thì tức là mình chuyển nhân quả, còn hể mình buồn giận tức á tức là mình bị luật nhân quả chi phối, làm cho mình đau khổ, đó là bị luật nhân quả chi phối. Còn nếu mình chuyển được là tâm mình không có phiền não, mình chuyển nhân quả.
Vì vậy mà cái phương pháp “ngăn ác, diệt ác - sanh thiện, tăng trưởng thiện” mà Phật dạy ở trong cái Tứ Chánh Cần thì nó rất cần thiết cho cái người đang sống ở trong cái ác pháp, trong các đối tượng.
(4:55) Trưởng lão: Con thấy rằng trong cái sự tu tập của mình, đầu tiên là mình phải tu cái pháp Tứ Chánh Cần - “ngăn ác diệt ác”. Hằng ngày sống chung đụng với mọi người, mọi việc làm của mình nó có thể đem đến cho một sự đau khổ, sự lo lắng, sự suy tư, sự giận hờn, sự phiền não trong đầu của mình, luôn luôn các ác pháp.
Bởi vì các ác pháp đó, không có thể nào mà, nó là cái luật nhân quả, nên mình không thể nào chận đứng nó lại được. Mà luật nhân quả nó là cuộc sống, mà cuộc sống thì phải có sự giao tế, có sự giao tiếp, không thể nào cuộc sống chúng ta hoàn toàn là chúng ta cắt ly tất cả những cái ác pháp hết thì không được.
Còn người tu sĩ như một vị Thánh tăng đi nữa người ta còn không cắt ly cái thế gian ra được, người ta còn phải đi xin ăn, người ta chỉ sống trầm lặng xin ăn. Thế mà có nhiều người, người ta còn mạ nhục các vị Thánh tăng: “các ông”, như Đức Phật mà người ta còn mạ nhục Đức Phật, hay người ta nói: “các ông lười biếng không chịu ra làm ăn, không chịu cày ruộng như chúng tôi mà đi xin ăn!” này kia. Người ta còn mạ nhục, người ta chửi mắng. Như vậy rõ ràng là nó còn có ác pháp chứ nó đâu phải hết ác pháp đâu.
Còn chúng ta là những người cư sĩ, còn bao nhiêu ác pháp, tức là chúng ta chưa có, chưa có cái hàng rào phòng hộ nó, cho nên chúng ta phải trực tiếp với các ác pháp. Do đó cái pháp Tứ Chánh Cần là giúp cho chúng ta để ngăn ác, diệt ác, chớ không phải Tứ Chánh Cần mà để cho những người mà xuất gia mà sống độc cư, trầm lặng. Thì những người mà xuất gia, mà sống độc cư trầm lặng thì người ta đâu có ác pháp nhiều đâu, ác pháp không nhiều. Cho nên vì vậy mà cái sự ngăn ngừa - “ngăn ác, diệt ác” - cái phương pháp Tứ Chánh Cần để dành cho người cư sĩ của người ta.
Nhưng trong khi mà hiện giờ người tu sĩ chúng ta, họ sống không đúng những cái phạm hạnh, cho nên họ tạo những cái duyên, cái duyên họ đi ra ngoài họ tiếp duyên, họ nói chuyện, họ lý luận như thế này thế khác, họ tạo ra, họ phóng dật ra. Cho nên vì vậy, coi như người tu sĩ hiện giờ mà tu Tứ Chánh Cần, cái đó là không đúng. Người tu sĩ tu Tứ Niệm Xứ mới đúng, chứ họ tu Tứ Chánh Cần là không đúng. Tứ Chánh Cần dành cho người cư sĩ.
Cho nên ở đây, chúng ta mới biết được cái pháp của Phật, cái pháp nào cho cái giới nào tu. Trong kinh điển của Phật thì không phân biệt, qua kinh nghiệm Thầy thấy rất rõ ràng, mình tiếp duyên nhiều, gặp nhiều ác pháp, thì chỉ còn có nước mà ngăn ác diệt ác, nhìn thấy nó bằng nhân quả, bằng chánh kiến, bằng chánh tư duy thì nó xả được cái tâm của mình, nó ly dục, ly ác pháp, đó là những cái thô.
(7:26) Còn bây giờ các con được về đây thọ Bát quan trai, thọ Bát quan trai tức là tập sống một người tu sĩ, tu tập theo pháp của người tu sĩ chứ không phải còn tu tập của người cư sĩ nữa.
Chẳng hạn bây giờ con sống về đây, con sống năm ngày, mười ngày, tuần lễ, thì con phải sống đúng theo cái hạnh của người tu được: ăn ngày một bữa, không ăn uống phi thời, rồi bắt đầu tu tập, tu tập theo cái pháp của cái người tu sĩ, chớ không phải người cư sĩ nữa.
Còn khi mà con xả Bát Quan Trai rồi, con trở về con sống với cuộc sống bình thường của mình, thì luôn luôn lúc nào cũng phải ngăn ác diệt ác.
Nhưng trong những cái ngày giờ của mình nó có những buổi đêm khuya thanh vắng, nó không còn cái động nữa, thì mình phải tu Tứ Niệm Xứ chớ, chớ mình tu làm sao có pháp ác đâu mà ngăn. Còn hàng ngày mình sống mình tiếp duyên người này người kia, thì luôn luôn tỉnh giác.
Cho nên Chánh niệm tỉnh giác để cho mình tỉnh giác được, để cho mình ở hoàn toàn ở trong cái chánh niệm, nó không tà niệm, chứ không khéo tà niệm nó làm khổ mình, khổ người. Rõ ràng là Đức Phật dạy chánh pháp quá cụ thể, vì vậy mà chúng ta sống thì chúng ta có pháp để mà tu tập cái tâm thì chúng ta được an ổn, đó là cái rất cụ thể.
Mà bây giờ nếu mình xuất gia mình tu hành rồi, thì mình phải sống, mình phải độc cư, chớ không phải là từ cái thất này đi lại thất kia nói chuyện, hay hoặc là còn tính ăn uống, còn để dành ăn uống, như vậy là rõ ràng là mình còn là người cư sĩ, chứ chưa phải là tu sĩ.
Cái điều kiện là cần thiết, để chúng ta biết được cái pháp nào tu, ở trong cái vị trí nào. Nó thí dụ như bây giờ con đến tu viện, suốt ngày con ở có một mình, con hổng nói chuyện với ai thì con phải tu Tứ Niệm Xứ chớ, Tứ Niệm Xứ thì cái tâm của con nó được phòng hộ bằng cái độc cư rồi, bằng cái trầm lặng của một mình mình rồi, do đó mình thực hiện Tứ Niệm Xứ.
À mình thực hiện pháp Tứ Niệm Xứ thì mình sẽ tu tập như thế nào, và Tứ Chánh Cần tu tập như thế nào?Bây giờ, thì đầu tiên như hồi nãy Thầy đã nói, trước tiên mình phải rèn luyện nghị lực, cái ý chí của mình, phải hong? thì mình phải năm hơi thở đi kinh hành một vòng, để chuẩn bị cho mình khi gặp hôn trầm thùy miên, tức là trạng thái ngu si, trạng thái vô minh của mình nó được thể hiện qua cái góc độ đó. Thì lúc đó bây giờ chưa tới giờ đi ngủ mà nó buồn ngủ trước, chúng ta sẽ sử dụng cái phương pháp này, chúng ta sẽ phá nó đi.
Do đó tập dần dần thì chúng ta sẽ phá nó, nó không còn cái hôn trầm thùy miên nữa, mà từ đó chúng ta rất tỉnh thức. Bởi vì còn hôn trầm thùy miên là cái trạng thái không tỉnh thức, mất tỉnh thức, cho nên chúng ta phải phá cho sạch nó thì nó mới có tỉnh thức. Ai cũng nói hiện giờ tôi không có buồn ngủ, tôi tỉnh thức, nhưng mà lát tôi buồn ngủ rồi thì nó hết tỉnh thức rồi, thì như vậy rõ ràng tôi còn vô minh, tôi còn si, chứ chưa phải tôi đã hết si. Mà tôi còn si thì tôi chưa hẳn là tỉnh thức, chưa hoàn toàn tỉnh thức được.
Vì vậy mà trong khi tôi tập tôi đi kinh hành, tôi nương vào hơi thở, chỉ trong vòng một chút thì tôi lại thấy có một niệm khác khởi ra rồi. Sao lại nó không yên, nó không yên là chính vì, chính vì tôi biết rằng tại vì tôi còn cái tâm chưa có ngăn ác diệt ác, chưa có ly dục cho nên nó còn cái niệm ác.
Vì vậy mà tôi ngay cái niệm đó tui ngăn chận nó, tôi không cho nó khởi một cái niệm, thì tức là tôi bị ức chế tâm tôi rồi. Cho nên vì vậy mà tôi phải sống với tất cả các ác pháp.
(10:33) Lát nữa Thầy dạy thực hành, con ngồi bên đó con sẽ đi ra bên đó con đi lại nữa, còn cô ở đây thì lát nữa con ở bên đây, con đi bên đây. Ở bên cái vị trí nào thì đi, bởi vì ở đây Thầy sẽ nói cho mình biết cách mình tu tập rồi bắt đầu mình còn thực hành. Cái thực hành nó quan trọng lắm.
Cho nên Thầy kiểm tra lại cái sự thực hành coi nó đúng hay không. Mà nếu nó đúng thì bắt đầu khi mà Thầy xem được rồi, thì sau đó coi như là con Diệu Lan trước, con sẽ tu tập ở ngoài cái Điện Phật ở ngoài đó đi kinh hành, mình tập ở trong cái thất của mình, còn Giác Minh Điền thì con ở đây, con sẽ tập ở trên cái Tổ Đường này, nó rộng rãi và nó có thể đi tới đi lui, đi kinh hành, thân hành niệm, tùy việc.
Còn con ra đằng trước, ở gần bên thất con có cái chỗ Điện Phật, con tập ở trên đó, con đi kinh hành, đi trên đó. Còn trong cái thất của mình thì nó hẹp lắm. Vì mới tu nó phải có cái thành như thế này thì mới dễ, còn cái người tu lâu rồi mình ở trong cái phòng hẹp nó dễ.
(11:41) Bây giờ Thầy tiếp tục, như hồi nãy Thầy nói thì chúng ta bắt đầu chúng ta tu cái Định Niệm Hơi Thở bằng cách mà năm hơi thở đứng dậy đi kinh hành một vòng hai mươi bước, rồi tiếp tục.
Khi mà tập xong những cái này rồi, thì hàng ngày nếu mà tiếp duyên ra ngoài với mọi người đó, trong cái ác pháp, trong cảnh động thì chúng ta thường để mà quan sát tỉnh giác từng mọi chuyện xảy ra, để chúng ta ngăn các ác pháp, diệt các ác pháp.
Ngăn cái ác pháp như thế nào, là mình tỉnh giác từng mọi chút, khi mà nó một cái đối tượng, có một cái pháp nó đến, nó làm cho tâm mình bất an, thì mình ngăn nó. Cho nên vì vậy mà khi nó vừa đến thì mình thấy tâm mình không động, còn mình không ngăn, mình không tỉnh giác mình sẽ bị động, sẽ bị bất toại nguyện, do đó mà ngăn.
Còn nếu mà khi tâm mình bị động rồi, nó bị động rồi nó phiền não, nó lo lắng, tức là nó bị động rồi. Khi mà nó bị động thì lúc bấy giờ đó chúng ta phải dùng cái phương pháp: chúng ta tư duy, chúng ta chánh tư duy, chúng ta suy nghĩ tìm cái bị động đó, cái pháp mà nó làm cho tâm chúng ta động đó, nó ác pháp hay là nó thiện pháp, cái pháp nào.
Chúng ta đứng ở trong góc độ nhân quả, hay hoặc là nhân duyên, hay hoặc là Tứ Niệm Xứ, cái lý của Tứ Niệm Xứ để mà quán xét nó ra “khổ - không - vô thường”, “khổ - không - vô ngã”. Chúng ta quán xét để đẩy lui nó, đoạn dứt nó, đừng để cho tâm chúng ta phải lo lắng phiền não, phải đau khổ trong lòng, phải đẩy lui các ác pháp ra.
Bất kỳ một cái ác pháp nào, dù nó cay đắng đến cái mức độ nào, chúng ta là người tu sĩ của Đạo Phật, thì chúng ta phải hoàn toàn phải đoạn diệt nó, không có được để, dù nhất định chết bỏ chứ luôn luôn phải giữ cái “tâm mình thanh thản, an lạc, vô sự”, không có để cho nó phiền não, thì như vậy mới xứng đáng là đệ tử của Phật.
Vì chính chỗ đó, chỗ mà quyết tâm đó, thì tâm hồn của chúng ta sẽ được giải thoát liền ngay. Còn nếu mà chúng ta không quyết tâm, thì tức là chúng ta cứ ôm ấp ở trong lòng của mình sự phiền não đó, thì mình không phải là đệ tử của Phật. Đệ tử của Phật biết nó ác pháp mà không xả được tức là chúng ta chưa đủ gan dạ, chưa đủ cái nghị lực, để mà chiến đấu, để mà xả.
(14:05) Vì vậy mà đầu tiên mà Thầy dạy năm hơi thở đi kinh hành để chúng ta rèn luyện nghị lực. Khi thấy tâm mình nó có phiền não giận hờn, đừng có để kéo dài nó một hai giờ đồng hồ, mà ngay đó phải tìm mọi cách đẩy lui nó ra, đẩy lui nó ra, nó không còn ở trong tâm chúng ta một chút nào phiền não giận hờn. Mà còn khởi lòng từ bi thương xót những người mà làm cho mình đau khổ, và còn biết ơn những người đó đã tạo cái môi trường làm cho mình xả khổ.
Mình luôn luôn mình nhớ rằng có lòng từ thì nó mới xả được cái tâm sân, có lòng bi thì mới xả được tâm hại của mình. Nếu mà mình không có lòng bi không có tâm từ thì tâm sân với tâm hại người thì không bao giờ mình xả được hết.
Cho nên khi đó, khi mà mình đau khổ nhất, khi mình thương cái người mà làm cho mình đau khổ thì mình sẽ hóa giải được ngay. Còn nếu mình không thương họ thì chắc chắn là mình thấy họ là thù, thì tức là cái tâm sân của mình, cái ác pháp nó sẽ tăng cường lên, nó làm cho mình đau khổ.
Cho nên mình nghĩ rằng người ta quá đau khổ, người ta mới nói lời nói đó, hoặc người ta làm hành động đó. Mình nên thương người ta, đừng có giận người ta, đó là những cái được dùng để đối trị cái tâm của mình đang gặp những cái khó khăn.
Bây giờ thí dụ như, đó là về cái tâm sân rồi. Còn về cái tâm tham hay hoặc là tâm thương yêu, ái kiết sử, thì mình làm sao đây?
Thì mình cũng quán nhân quả rồi: ngày trước, mình có gieo một cái nợ cho vì vậy bây giờ cái người đó thương mình, lo lắng cho mình này kia, bây giờ mình vì một chút xíu tình cảm mà nhẹ dạ, mình không chuyển được cái này, thì mình sẽ khổ muôn đời. Cho nên vì đó mình cũng quán xét được ở trong cái lý nhân quả, để rồi đẩy lui được cái tâm thương yêu, cái tâm lo lắng, đau khổ này. Từ đó mới đẩy lui được, vì vậy mà đem lại cái Tâm Thanh thản - An lạc - Vô sự.
(15:51) Sự tu hành của đạo Phật nó đơn giản lắm. Nó đơn giản, nó không có tụng niệm cúng bái, nó không có cầu khẩn ai cứu mình, mà chính mình phải tư duy, mình phải sáng suốt, cho nên Đức Phật nói Chánh tư duy. Khi mình tư duy, mình sáng suốt, thì luôn lúc nào tâm mình cũng sẽ được giải thoát; còn mình không có Chánh tư duy, mình tà tư duy, mình nghĩ mình tức giận, mình căm thù họ, thì ngay đó là mình đã tà tư duy. Và khi mình tư duy như vậy đó nó sẽ tăng trưởng lên cái ác pháp, nó làm cho mình đau khổ nhiều.
Đó là cách thức mình phải hiểu. Mình hiểu rõ như vậy thì Thầy nghĩ rằng mấy con sẽ là người hiểu được Phật pháp. Từ cái tri kiến mà tư duy, hiểu được đó, nó sẽ trở thành cái tri kiến giải thoát, nó giúp cho mình không còn đau khổ nữa, gọi là Tri Kiến Giải Thoát.
Mà hàng ngày mình triển khai cái sự quán xét đó, để mà diệt ác đó, thì nó giúp cho mình có trí tuệ, cái trí tuệ rất bén nhạy. Mỗi mỗi cái gì đều có sự tư duy sắc bén hơn, nó làm cho tâm hồn của mình trở về cái trạng thái thanh thản và an lạc. Đó là cách thức, phương pháp, để mà ngăn ác, diệt ác.
(16:40) Còn cách thức để mà chúng ta tu, để mà chúng ta đạt được thiền định, nhập được các định sau này, thì đó là phương pháp Tứ Chánh Cần.
Phương pháp Tứ Chánh Cần thì chúng ta phải tu tập như thế nào? chúng ta phải sống đúng cái đời sống như một vị Thánh tăng, nghĩa là người ta sống trong im lặng, người ta sống độc cư, sống trầm lặng, người ta sống một mình, độc cư, độc bộ , độc hành. Người ta đi cũng một mình, người ta ở cũng một mình, cho nên người ta không có một người nào thứ hai đi với người ta trên con đường này, vì có hai người là không thể nào đi được.
Cho nên chúng ta phải hoàn toàn chấp nhận những cái Hạnh Độc cư - Độc bộ - Độc hành, nghĩa là chúng ta hoàn toàn là không có bạn ở trên con đường này được. Vì nếu có bạn tức là tâm có phóng dật, mà tâm có phóng dật thì không thành tựu. Vì vậy cho nên khi mà tu hành, chúng ta quyết định tu Tứ Niệm Xứ là phải sống đúng cái Hạnh Độc cư - Độc bộ - Độc hành.
Còn Tứ Niệm Xứ mà tu mà không giữ được cái hạnh này thì không thể nào mà tu Tứ Niệm Xứ. Vì Tứ Niệm Xứ nó quét cái tâm của chúng ta những cái vi tế, chứ không phải là còn những cái thô nữa.
Còn Tứ Chánh Cần thì nó quét những cái thô, mà nó không thể quét được những cái vi tế trong thân của chúng ta.
Chúng ta phải hiểu được những pháp nó đặc biệt, và nó vi diệu của Phật, chớ không phải là những cái thứ mà tầm thường. Cho nên chúng ta phải thấy nó là cái Pháp bảo. Cái Pháp bảo là cái pháp nó giúp cho mình được giải thoát, mà mình không biết cách tu đúng, thay vì người tu sĩ lại lấy Tứ Chánh Cần mà tu thì không hợp, mà người cư sĩ lại lấy Tứ Niệm Xứ mà tu thì không hợp, phải biết.
(18:26) Cho nên chúng ta nghe nó tràn lan, nào Tứ Chánh Cần, nào Tứ Niệm Xứ, nào Bất Hoại Tịnh, nào Tứ Vô Lượng Tâm, không biết tu cái nào hết, không biết cái pháp nào mình áp dụng cho đúng cái trường hợp của mình để mình tu cho kết quả. Do đó mình rối ren, mình rối ren mình không biết, rồi cứ lấy Định Niệm Hơi Thở tu.
Định Niệm Hơi Thở nó có nghĩa là dùng cái hơi thở để cho cái tâm nó định chớ không phải là lấy cái hơi thở để mà quán hơi thở, để mà ức chế cái tâm của mình. Mục đích của hơi thở là nó chỉ cho chúng ta biết rằng cái tâm nó sẽ định trên hơi thở, thì nó gọi là Định Niệm Hơi Thở. Cái tâm nó định rồi, nó thanh tịnh không tham sân si, thì cái tâm đó nó mới quay vô nó định trên hơi thở.
Còn cái này chúng ta lại lấy cái hơi thở rồi quán cái hơi thở, rồi xem xét hơi thở, rồi tập trung trong hơi thở, bắt buộc ức chế cho đừng có cái niệm khởi. Rồi cho như là cái niệm không có khởi, đó là chúng ta thành tựu! Rồi từ cái niệm không khởi đó rồi chúng ta mới quán, quán để quán cái gì đây ?
Trong lúc đó mà cái niệm nó không khởi thì tức là chúng ta bị cái tưởng, cái pháp tưởng. Cho nên mà khi mình quán ra thì chúng ta bị tưởng, cho nên quán cái tưởng của chúng ta chứ nó không có đúng đâu, nhiều khi là quán sai. Đó là những cái mà chúng ta sẽ tu sai, vì vậy mà con đường tu chúng ta nó không đến đâu.
Chúng ta muốn tu cho đúng thì cái khi đó chúng ta vào ở trong một cái, khi mà tu Tứ Niệm Xứ thì chúng ta vào cái cái chùa, hoặc là vào cái tu viện, xin cho mình thọ Bát quan trai. Thì người ta sẽ cho mình một cái thất ở trong cái tu viện đó, người ta sẽ dành cho những người mà thọ Bát Quan Trai mỗi người một cái thất, nghĩa là cái ngày đó sống đúng như một vị tu sĩ không có sống chung với ai cả, không có tập trung ở trong cái thiền đường, năm mười người, bảy tám người hay chục người, hai chục người mà ngồi thiền dài hàng hàng như vậy. Không phải đâu.
Cái đời sống tu sĩ của đạo Phật không bao giờ mà tập trung làm cái chuyện phi lý như vậy, làm cái chuyện động như vậy, vì nhìn người này nhìn người kia là bị động rồi, cái tâm của chúng ta đâu phải là hai con mắt của chúng ta, hai cái lỗ tai của chúng ta đâu phải là nó đâu nghe không thấy. Mà hễ nghe thấy, thấy cái người này đi như vậy, nó thấy người này đi như vậy sai, thấy người kia ngồi cái lưng ẹo qua thấy sai. Mà, hễ thấy người ta sai là tâm mình nó bị phóng rồi, nó làm sao mà nó thanh tịnh được mà khi mà tập trung đông như vậy làm sao mà tâm nó không phóng, cho nên đó là những cái hướng dẫn sai, hướng dẫn thọ Bát Quan Trai kêu ta sai.
Rồi vả lại, khi mà thọ Bát Quan Trai có nghĩa là sống một đời sống trầm lặng, độc cư, thế mà rồi bây giờ phải nghe thuyết giảng bằng cách này cách khác thì như vậy thì còn gì là độc cư trầm lặng? Sau khi người ta đến người ta xin thọ mà tám giới để người ta sống một cái ngày như Phật, thế rồi mình lát trưa, lát chiều, lát sáng gì tới giờ đó đi thuyết giảng để cho người ta nghe pháp, làm tâm người ta động, người ta duyên ra, người ta không có thanh tịnh, cái đó là không đúng.
Cho nên vì vậy mà trong khi đó, khi mà mình đến những cái nơi mà người ta dạy hướng dẫn đúng thì tức là cái ngày đó mình sống trầm lặng độc cư, và mình ở trong cái pháp Tứ Niệm Xứ để cho mình quét sạch, coi từng cái tâm niệm của mình khi nó khởi ra. Bởi vì khi mình sống độc cư thì nó phải có những cái niệm đó phóng ra, rồi cái niệm nó phóng ra thì mình mới quan sát cái niệm đó nó thuộc về dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu?
(21:35) Nếu mà trong ba cái lậu hoặc này mà nó nằm trong cái lậu nào, thì chúng ta sẽ biết rõ nó là nằm trong lậu nào thì chúng ta sẽ đẩy lui nó rồi. Và đồng thời chúng ta còn cái pháp “Như Lý Tác Ý”. Khi chúng ta thông suốt rồi thì chúng ta ra một cái lệnh để đẩy lui nó liền.
Thí dụ như bây giờ chúng ta biết nó hữu lậu. Hữu lậu tức là có một cái vật gì đó mà nó bị mất đi, nó làm cái tâm chúng ta nó đau khổ, phiền não.
Thí dụ bây giờ Thầy có cái xe nó bị ăn cắp nó lấy đi, hoặc là có cái máy này có thằng ăn trộm vô nó lén lấy bây giờ Thầy mất đi, cho nên vì vậy mà cái vật bị mất đó gọi là hữu, cái hữu cái vật có đó nó mất đi, rồi nó làm cho tâm Thầy có lậu hoặc lên, nó có buồn khổ lên, thì do đó Thầy biết rằng đây là do cái hữu lậu rồi. Do cái hữu lậu này nó có nó khởi lên rồi, vậy thì nó là hữu lậu nó sẽ đem đến cho mình khổ, vậy thì những vật này nó không phải mình nô lệ cho nó, mình làm tôi tớ cho nó, mình sắm nó, nó có mất thì thôi, nó còn thì mình xài, có gì mình phải buồn khổ? Do cái lý luận đó nó làm cho tâm của chúng ta trở về bình thường, không còn luyến tiếc, không còn tiếc cái vật đó nữa.
(22:48) Bởi vì tất cả mọi pháp đều là vô thường, nay nó của mình, mai của người khác, có gì đâu. Mà nếu mà người ta tham lam, người ta lấy của mình, đời nay người ta không trả mình, đời sau người ta cũng phải trả, luật nhân quả mà. Tham lam thì đâu có chạy đâu khỏi đâu, cho nên mình vẫn thấy an vui.
Bây giờ mình bị người ta lấy của mình nhiều, đời sau thì người ta đem cho mình nhiều, có gì đâu. Có gì đâu mà phải mất chỗ nào đâu, mà lại thương, lại tiếc, lại làm cho mình khổ đây. Mình ngu quá, không thấy! Mình cứ nghĩ rằng một đời của mình chết rồi mình mất ha?Đâu có mất, cái luật nhân quả nó luôn luôn nó tiếp nối, nó không bao giờ để chúng ta có kẽ hở để mà bốn mươi chín ngày, hay là một trăm ngày hay như thế nào đó để mà chúng ta chưa đi tái sanh, không phải đâu. Luật Nhân Quả nó không để kẽ hở cho chúng ta có một khoảng, không có thọ nhân quả, cho nên nó bắt buộc là chúng ta phải tiếp nối cái sự nhân quả nó liên tục.
Cho nên chúng ta nghĩ rằng với cái đôi mắt nhân quả thì người ta thấy không có người chết, mà với con cái con mắt của phàm phu thì thấy con người chết, mất. Còn cái đôi mắt nhân quả thì thấy có sự nối tiếp. Người này rồi nó kế nó tới người khác, cũng một cái lực, cũng một cái nghiệp lực nhân quả đó nó tiếp nối hoài hoài nó không bao giờ dứt. Nghĩa là vừa chết chỗ này thì nó sanh chỗ kia rồi, nó có cái thân khác rồi, để đi tiếp nối cái nhân quả của nó chứ nó không thể để kẽ hở của nhân quả nó ra được.
Cho nên từ khi chúng ta sanh ra, cho đến chúng ta lớn lên, thì chúng ta thấy luật nhân quả chúng ta thấy nó thay đổi trong cái thân chúng ta liên tục, mà cứ mỗi lần thay đổi chúng ta nó cho nó chết nó sao, đâu có lý. Cũng như đứa bé mới sanh ra, chúng ta là đứa bé mới sanh ra, bây giờ cái thân chúng ta già chúng ta nghĩ rằng cái thằng bé đó nó chết rồi đâu? Nó chết đâu? Nó có một sự thay đổi rồi bây giờ nó già.
Cũng như Thầy hồi đó là một chú bé ba bốn tuổi, rồi mười hai tuổi, rồi một chú thanh niên hai mươi hai mốt tuổi. Mỗi lần mà nó thay đổi, cái bộ mặt nó như vậy nó thay đổi như vậy, nó lớn lên vậy rồi cho cái hình ảnh cái thằng nhỏ. Nó chết đâu? Nó đâu có chết.
Cho nên vì vậy mà đối với Luật Nhân Quả khi bỏ cái thân này nó có cái thân khác chớ nó mất đi đâu. Nó đâu có mất đâu, nó có sự thay đổi nó thôi chứ nó đâu có cái gì đâu. Cho nên Luật Nhân Quả nó luôn luôn nó chi phối chúng ta trong cái sự thay đổi đó, mà gọi là vô thường. Vô thường là cái sự nó không có thường, nó không có đứng một chỗ, cho nên nó thay đổi hoài hoài hoài. Rồi bây giờ cái thân này vừa bỏ thì nó có cái thân khác, nó cũng liên tục coi như là mình đang sống chứ không có gì.
(24:53) Đó là cái đôi mắt của người phàm phu, người ta không thấu triệt được nhân quả, còn ta thấy rõ ràng đâu có chỗ nào để chết đâu.
Vì vậy đã không có chỗ chết thì làm sao có linh hồn, nếu mà có chỗ chết thì mới có cái linh hồn mới nằm ở trong cái thế giới siêu hình này, còn cái này nó không có chỗ chết thì cái linh hồn nó chạy đi đâu.
Bởi vì nó nối tiếp nhau hoài thì làm sao có cái linh hồn người khác được. Chúng ta phải thấy cái đó nó mới thực tế chớ, nó mới cụ thể, nó mới rõ ràng chớ. Còn nếu nó có kẽ hở, khoảng này phải làm linh hồn, rồi khoảng này mang thân thì cái khoảng linh hồn nó thọ cái khổ gì đây? Kể như luật nhân quả nó phải có kẽ hở rồi sao. Như vậy Luật Nhân Quả nó sẽ tha thứ cho những cái linh hồn này, mà còn cái người mang thân này mới bệnh đau chớ cái linh hồn này làm sao nó bệnh đau được, phải không?
Cho nên vì vậy chúng ta phải thấy được nó rõ ràng và nó cụ thể như vậy, cho nên chúng ta xác định rằng không có thế giới linh hồn con người. Bởi vì nó đâu có kẽ hở, con người nào cũng tiếp nối. Nó tiếp nối nó mang cái lớp thân khác, thí dụ như bây giờ mình mang thân người, nhưng mà vì ác pháp, vì những cái điều kiện mình đã tạo, thì cái nghiệp lực đó nó lại tái sanh làm con thú con vật, con này con kia, thì nó cũng là cái thân, chứ làm sao mà nó không còn cái thân được nữa. Cho nên vì vậy đó mà chúng ta thấy rằng thế giới siêu hình không có.
(26:15) Vì vậy mà chúng ta biết rằng chỉ bây giờ làm sao mà chấm dứt được cái nghiệp lực này không tái sanh luân hồi. Thì cái nghiệp lực này chúng ta biết cái nghiệp tham-sân-si này nó luôn luôn tái sanh luân hồi chứ gì, nó là ác pháp. Còn bây giờ cái nghiệp không- tham-sân-si thì nó không luân hồi, vậy thì bây giờ cái tâm mình bây giờ nó không tham sân si thì nó không luân hồi chứ có cái gì đâu. Nó dễ quá tại sao mà chúng ta không thấy.
Cho nên vì vậy mà “tâm như cục đất, không tham, không sân, không si” hay hoặc là “tâm ly tham, ly sân, ly si đi”. Ly hết những cái này rồi thì tức là chấm dứt sanh tử luân hồi chứ gì? Nó đâu còn có mang cái thân này nữa, còn có khổ.
Cho nên cái thọ hay hoặc là cái đau khổ của chúng ta là tại vì cái Nhân Quả của nó nó phải mang cái này, cho nên cái thọ là nó phải khổ như vậy, nhưng mà lầm chấp mình cho rằng tôi chịu đau, tôi đau quá, chớ không ngờ là cái thọ nó đau chứ đâu phải ai đau đâu, đâu có người đau.
Bởi vì cái thân tứ đại của chúng ta do duyên hợp mà thành, chứ đâu phải có cái người mà vô đó mà chịu đau. Cho nên vì vậy khi mà ta thấu rõ được cái lý này thì chúng ta chấm dứt được cái nghiệp tái sanh luân hồi. Mà chấm dứt được cái nghiệp tái sanh luân hồi là phải đi ngược lại được cái nghiệp luân hồi của nó. Cái nghiệp luân hồi là do tham sân si, mà cái nghiệp không luân hồi thì nó sẽ không tham sân si chứ gì; ngay nơi đó thì chúng ta hết tham sân si thì nó không còn gì tái sanh. Đó là cái mục đích của đạo Phật, cái chính của đạo Phật.
Cho nên chúng ta thực hiện đúng thì chúng ta biết rằng chúng ta thực hiện tiếp, còn thực hiện không đúng, còn tham sân si thì chúng ta …
Đó hôm nay Thầy nói như vậy để biết được chúng ta lầm lạc, lầm lạc cái thế giới siêu hình, cái thế giới linh hồn của con người. Chúng ta đã làm điên loạn, cho nên chúng ta xây dựng nó một cách quá đáng, không đúng cách. Vì vậy bây giờ chúng ta tiếp tục chúng ta tu cho đúng cách.
(27:53) Bởi vì muốn cho tâm mình không bị tham sân si á! thì đức Phật có dạy chúng ta rất nhiều pháp, chứ không phải một pháp. Thứ nhất là “ngăn ác diệt ác”: ngăn ác diệt ác tức là ngăn tham sân si chứ có gì đâu, nhưng mà nó còn cái thô.
Rồi bây giờ chúng ta lại ở trên Tứ Niệm Xứ của chúng ta, thì chúng ta lại quét những cái vi tế của nó, cái vi tế của cái tham sân si. Khi mà quét hết, nó sung mãn hết rồi, thì nó ly dục ly ác pháp hoàn toàn, bắt đầu chúng ta có cái Sơ thiền.
Thiền định bây giờ nó mới thể hiện ra được. Cái tâm không tham sân si tức là Sơ thiền đó, thì bây giờ thiền định rồi, chớ đâu phải chúng ta ngồi khoanh chân, ngồi kiết già rồi tìm thiền định ở chỗ đó, rồi làm sao mà có được. Nó hiểu được như vậy thì chúng ta biết rằng chúng ta tu tập đúng hay là chúng ta tu tập sai.
(28:44) Rồi bây giờ khi mà cái tâm nó thanh tịnh rồi, thì cái năng lực của cái tâm nó có màu nhiệm thực sự, nó làm những cái chuyện siêu việt hơn. Cho nên vì vậy như cái ý thức của chúng ta bây giờ nó đang hoạt động như thế này, mà nó ra lệnh á thì cái ý thức nó ngưng, cho nên nó diệt tầm tứ, ngưng được đi.
Chớ bây giờ mà chúng ta bảo nó ngưng làm sao nó ngưng, bây giờ ngồi đây, ngồi đây bây giờ chúng ta không có khởi niệm gì hết, nhưng nó làm sao nó ngưng được, trời sét nó cũng nghe nè, âm thanh tới lui ai làm gì nó cũng nghe cũng thấy, mọi hình ảnh cũng thấy.
Mà khi nó ngưng thì con mắt không thấy, cái lỗ tai không nghe và cái ý không còn phân biệt, không nghĩ gì được nữa hết. Thì vậy nó mới ngưng chứ, còn bây giờ nó có ngưng gì đâu.
Tại vì mình không có ngưng, mình không có nghĩ, nhưng mà âm thanh sắc tướng nó cũng đánh vào lỗ tai chúng ta cũng nghe, bởi vì nó là sáu cái thức của ý thức mà, của cái nhóm của nó mà. Cho nên diệt một cái ý thức, chúng ta diệt một cái tầm tứ, thì chúng ta diệt cái ý thức thì mắt tai mũi miệng thân ý của chúng ta cũng diệt.
Cho nên cái Nhị thiền: coi nó là Nhị thiền nhưng mà nó mới bắt đầu nó có định, mà cái định của nó trời sét không nghe, cho nên đức Phật chỉ cần nhập nhị thiền là trời sét cũng đã không nghe rồi, chứ đâu phải nhập thiền nào cao siêu.
Cho nên có một bài kinh đức Phật ngồi trong cái chòi của người nông dân rồi nhập cái định, mà không nói cái định gì chúng ta biết hết.
Nhưng mà khi đức phật xuất định ra thấy người ta lùm xùm ở chỗ đó, thì mới hỏi ra trời sét chết mấy con bò với cái người nông dân ở đó. Lúc bấy giờ người ta hỏi: "Ông ở đâu mà ông không nghe trời sét lớn vậy?”
Nói: “Tôi ở trong cái chòi cất cách hai trăm thước”.
“Mà tại sao ông hong nghe?”
“Tại vì tôi nhập định”.
Nhưng mà chúng ta không biết là cái định gì, nhưng bây giờ Thầy mới nói cho biết, đó là cái Định Diệt Tầm Tứ, tức là cái Định Nhị Thiền của người ta, cái lực của nó như vậy đó. Nói đến định đâu phải là cái sự mà ngồi đây mà hết vọng tưởng là định đâu, đó là sai. Họ không hiểu. Cho nên hầu hết một số người không hiểu định, mà nói về thiền định, thì họ giải thích theo kiểu sai.
(30:41) Cho nên vì vậy khi đến cái định Tam thiền_ly hỷ_thì nó không có chiêm bao. Tức là cái Tưởng thức của chúng ta, cái hệ thần kinh Tưởng thức nó không có hoạt động nữa, nó làm cho chúng ta không còn chiêm bao nữa. Tức là nó "ly hỷ trú xả", cho nên nó mới nhập Tam thiền, thì cái Tưởng thức nó hoàn toàn là không có.
Nó không có nữa thì thứ nhất chúng ta thấy nè: Ý thức phải đóng, tức là ý thức phải dừng, tức từ diệt tầm tứ, mà diệt tầm tứ rồi thì nó còn Tưởng thức. Nếu mà chúng ta không có nhập có Tam thiền, thì chúng ta không bao giờ chúng ta nhập Tứ thiền được, bởi vì cái Tưởng thức nó còn đang hoạt động thì làm sao Tứ thiền nó vô được.
Cho nên chúng ta phải nhập Tam thiền. Chúng ta phải nhập Tam thiền thì chúng ta biết là chúng ta sẽ ly tất cả các trạng thái Tưởng, tức là Tưởng thức của chúng ta hoàn toàn nó lìa ra, nó không có hoạt động nữa, chúng ta không còn mộng mị được. Cho nên một cái người mà nhập Tam thiền là cái người ngủ không còn chiêm bao. Còn chúng ta còn chiêm bao thì đừng nói chúng ta Tam thiền được, bởi vì chúng ta chưa có ly cái hỷ, hỷ tưởng đó.
Đó, thành ra khi đó một cái người mà chứng quả A-la-hán, người ta đâu có chiêm bao, thân tâm người ta thanh tịnh chứ đâu phải như ngài Đại Thiên mà nói rằng: một cái người mà chứng quả A-la-hán là còn phải bất tịnh, còn phải xuất tinh thì cái điều đó là điều sai.
Ông này không có tu chứng, ngài Đại Thiên lãnh một cái hệ phái, một cái nhóm, do đó ngài ca ngợi mình là A-la-hán, rồi cái người thị giả mới giặt đồ ông mới hỏi A-la-hán mà sao còn bất tịnh vậy, thì ông mới nói A-la-hán vẫn còn bất tịnh chớ. Đó là cái sai, ông lý luận để che đậy. Sự thật ra cái thân người ta thanh tịnh đến cái mức độ người ta không có còn cái bất tịnh đó, rồi đến cái tâm người ta nó ly cái hỷ tưởng, cái tưởng ra, nó làm sao còn chiêm bao, nó còn tưởng cái gì nữa, nó còn dục tưởng gì nữa đâu mà làm sao nó ly.
Cho nên thường thường người ta bị mộng tưởng người ta mới bất tịnh, còn người ta không bị mộng làm sao người ta bất tịnh. Đó tất cả những cái này đều là do cái lý luận sai của ngài Đại Thiên. Ngài làm cho chúng ta lệch đường, không biết là quả A-la-hán nó như thế nào.
(32:43) Một bậc A-la-hán là hoàn toàn thân tâm người ta thanh tịnh, mà thân tâm thanh tịnh thì người ta mới tịnh chỉ được hơi thở của người ta; hơi thở nó mới dừng.
Còn mình mà thân tâm không thanh tịnh mình dừng là kể như là mình tiêu luôn, mình chết luôn đó, làm sao mình sống dậy được.
Còn thân tâm người ta quá thanh tịnh cho nên vì vậy mà muốn sống muốn chết người ta làm được, cho nên tới Tứ thiền là người ta tịnh chỉ hơi thở, nó ngưng hoàn toàn không có thở nữa. Tất cả các hành trong thân người ta không hoạt động: Tim, gan, phèo phổi, máu mủ trong thân của chúng ta đều là hoàn toàn đứng lại, nó không có hoạt động chút nào. Nhưng mà nhờ cái sức ấm, thân của chúng ta nó không bị lạnh, cho nên cái máu nó không đặc, nó đứng lại đó mà nó không đặc.
Cũng như bây giờ mình cho nó vào một cái ống nghiệm để giữ cái máu của người khác người ta cho, thì giữ ở trong cái nhiệt độ như thế nào thì cái máu này nó không bị hư, chứ không khéo nó hư thì làm sao mình truyền máu cho người ta được.
Thì do đó cái ở trong cơ thể máu nó đứng lại hết, nhưng mà nó giữ cũng như là ở trong cái bình nghiệm của các nhà y học, cho nên vì vậy mà cái máu này nó không bị hư. Do đó khi người ta phục hồi thì bắt đầu nó lưu thông lại, cũng như mình cho cái máu nó vào cái người khác, nhờ cái sự hoạt động của cơ thể người đó, sẽ đưa những cái máu đó nuôi khắp cơ thể của người họ.
Cho nên vì vậy ở đây khi mà chúng ta phục hồi lại cái hơi thở, thì tất cả các cơ thể chúng ta hoạt động, thì cái máu nó bắt đầu nó lưu thông nó nuôi khắp cơ thể trở lại, cho nên người ta không chết. Còn mình không có làm sao mình điều khiển được, do đó khi mà mình ấy thì cái thân nó lạnh liền tức là máu nó đặc liền, nó làm sao mà lưu thông lại được nữa. Đó là một cái đặc biệt, nếu mà cái thân của chúng ta chưa thanh tịnh thì chúng ta không bao giờ nhập được Tứ thiền. Thân tâm phải thanh tịnh hoàn toàn mới nhập được Tứ thiền.
Cho nên cái tâm nó thanh tịnh tức là nó ly dục ly ác pháp rồi, nó không còn tham sân si rồi, thì nó mới có điều khiển được cái thân của nó mới tịnh chỉ được hơi thở, nhưng mà cái thân này nó hoàn toàn phải thanh tịnh, mà nếu nó không thanh tịnh, nó còn ô nhiễm, nó còn dục thì tức là nó không bao giờ mà nó có thể thực hiện được cái hơi thở nó dừng được. Nó chỉ có cái tưởng, nó cảm giác như nó dừng chứ hơi thở không dừng được.
Cho nên đừng nghĩ rằng cái Tứ thiền nó tầm thường, nó quá là màu nhiệm, nó quá màu nhiệm cho một cái người mà đang tu, mà thân tâm họ phải hoàn toàn thanh tịnh.
(34:42) Vì vậy mà trong Tứ thiền đó nó mới thực hiện được Tam Minh, tức là nó mới hướng đưa tâm nó đi vào ba cái ba cái trí tuệ minh của nó, mới thấy được túc mạng, nó mới thấy được thiên nhãn, nó mới thấy được lậu tận minh, chứ không khéo thì nó làm sao nó thấy được. Nếu mình không thanh tịnh thì mình hổng làm được cái điều này đâu.
Cho nên ngoại đạo không làm sao có Tam Minh được, mà chỉ có Ngũ Thông mà thôi. Nếu mà ngoại đạo có Lục Thông thì nó phải có Tam Minh, bởi vì Lục Thông thì nó có Lậu Tận Thông, mà Lậu Tận Thông thì nó phải nằm ở trong cái Lậu Tận Minh. Còn cái Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông đều nó nằm ở trong cái Thiên Nhãn Minh hết rồi. Bởi vì Thiên Nhãn Minh là nó không có không gian trải dài, cho nên vì vậy ở đâu nó cũng nghe, cũng thấy được hết, vì vậy nó nằm trọn ở trong cái Thiên Nhãn Minh.
Cho nên cái Thiên Nhĩ Thông, Thiên Nhãn Thông thì nó nằm trọn ở trong cái Thiên Nhãn Minh. Nghĩa là trong Thiên Nhãn Minh nó đủ thứ ở trong đó chứ không phải là nó chỉ có cái Thiên Nhãn Minh không, nó rất đủ nhưng mà cái năng lực của nó, ở trong đó nó thông suốt hết cho nên vì vậy gọi là thông, nhãn thông hay là nhĩ thông.
Đó, mình phải hiểu được những cái điều kiện của nó, cho nên một cái người mà thực hiện được Tam Minh rồi, thì cái người đó lục thông họ đầy đủ, chứ không phải là đợi họ còn tu cái gì nữa, còn cái người ngoại đạo đó họ tâm họ còn dục.
Cho nên vì vậy mà họ sử dụng được có Ngũ thông, Ngũ thông của họ còn nằm ở trong cái Tưởng dục của họ, nó chưa phải hết. Cho nên họ không có bao giờ họ quét sạch được cái mầm tái sanh, họ còn tiếp tục tái sanh cho nên Lậu Tận Thông họ cũng không.
Đó, Thầy nói như vậy để biết rằng con đường của chúng ta tu, nó phải đạt được cho đến khi mà chúng ta đạt được Lậu Tận Thông, hoặc là Lậu Tận Minh thì chúng ta hoàn toàn chấm dứt được cái sự tái sanh luân hồi của chúng ta, chứ không khéo nó còn cái mầm thì nó cũng vẫn tái sanh, nó không giải thoát được đâu.
Cho nên một vị A-la-hán người ta phải đủ Tứ thiền, Tam Minh, Lục Thông người ta đủ hết, không có người nào mà không đủ, mới là A-la-hán. Chứ không phải A-la-hán kiểu của Đại thừa, thì hoàn toàn là A-la-hán dỏm, A-la-hán giả, giả hiệu đó, mang cái danh từ A-la-hán chứ sự thật là chưa phải chứng đúng được quả vị A-la-hán. Bởi vì A-la-hán là cái người đã hoàn toàn người ta đã giải thoát, đó là cái quả vị A-la-hán.
Nghĩa là nó chỉ thua Phật, là vì Phật là giáo chủ, còn nó là cái người học theo cái pháp của Phật nó thành tựu giải thoát thôi. Nó chỉ thua Phật là vì đức Phật đưa ra cái giáo pháp, thành lập cái đạo Phật, còn nó đó, cái người mà chứng quả A-la-hán, họ chỉ theo cái pháp đó mà họ thành tựu được cái quả giải thoát này, thì cũng giống như Phật, nhưng mà khác xa Phật, tức là ông Phật tại vì ổng là người đưa ra cái giáo pháp đầu tiên, còn mình chỉ tu chứng thôi, học theo cái giáo pháp đó.
Thành ra, cái quả vị A-la-hán với Phật nó không có sai, không có sai khác chút nào. Ông Phật hiện thần thông gì thì nó làm cũng được, ông Phật giải thoát mức độ nào nó cũng giải thoát, ông Phật hết tham sân si thì nó cũng hết tham sân si, nó không còn chút nào hết, cho nên nó với Phật giống nhau.
(37:48) Vì vậy mà trong cái bài kinh Tương Ưng, trong cái bộ Tương Ưng đức Phật có viết cái bài kinh: “Ta chỉ khác quý thầy”, tức là các vị A-la-hán đó, “ta chỉ khác các vị có một chút, là ta là người đưa cái giáo pháp đó ra thôi”. Đó là đức Phật đã xác định trong cái bộ kinh Tương Ưng rất rõ ràng mà, khi nào mà đọc “Những Lời Đức Phật Dạy” thì các con sẽ thấy đã trích cái câu nói của đức Phật đã dạy trong cái bài kinh Tương Ưng, chứ đâu phải là muốn nói sao thì nói.
Có mấy ông Đại thừa muốn phân biệt cái quả A-la-hán của người ta, muốn nói sao thì nói, ở kinh sách Nguyên Thủy nó còn đây mà, còn chứng nhận rõ ràng, cái điều đức Phật đã xác định cái quả vị A-la-hán và đức Phật nó sai khác ở chỗ nào rõ ràng, cho nên làm sao mà chúng ta lại tin cái ngoại đạo được, không có tin mấy cái ông đó được.
Cho nên các con nghĩ rằng các con tu là các con sẽ tương đương sự giải thoát y như Phật, thần thông đức Phật làm như thế nào, biến hóa như thế nào thì các con cũng biến hóa như thế nấy, không có thua đức Phật chút nào hết. Chớ không phải nói đức Phật có thần thông nhiều, còn mình ít thì không có, không bao giờ có cái điều đó.
Đức Phật hết tham sân si thì các con cũng hết tham sân si, khi tâm các con hết tham sân si thì cái năng lực của các con thị hiện bao nhiêu thần thông thì đức Phật cũng làm như vậy thôi chứ không hơn các con được trong cái sự tu tập. Bây giờ chỉ còn có tu tập.
(38:55) Mà bây giờ đã có may mắn là chúng ta được thân người, rồi được chánh pháp của Phật, được gặp chánh pháp của Phật, rồi được Thầy hướng dẫn, một người có kinh nghiệm trực tiếp hướng dẫn nữa, thì còn cái phước báu nào lớn nữa.
Cho nên có nhiều người ước ao phải chi mà tôi có đủ phước báu tôi sanh đồng thời với một đức Phật, các con nghe khi mà cái vị tiên nhân, khi mà đến để xem đức Phật không, thì ông ta khóc. Ổng nghĩ là đức Phật khi mà chứng đạo rồi thì ông không còn ở trên thế gian này, ông sanh ra ông gặp được Phật, nhưng mà cái tuổi ông già quá rồi, thành ra ông khổ ông khóc, chứ hổng phải là ông khóc như thế nào, ông khóc tủi thân ổng.
Còn mấy con bây giờ, mấy con gặp Thầy nó cũng quá muộn rồi, lẽ ra mấy con phải gặp Thầy trong lúc còn bảy tám tuổi, thì bấy giờ các con đủ khả năng các con tu tập, còn bây giờ mà các con gặp Thầy cái tuổi lớn rồi, như thế này các con phải nỗ lực hết sức mình chớ còn lơ mơ thì các con không kịp cứu, hổng kịp cứu mình rồi đời sau mình gieo cái duyên đó, mà mình biết có gặp được cái bậc chơn tu không, hay hoặc trải qua một cái giai đoạn nào đây.
Bởi vì cái nhân quả mà các con đã tạo, từ khi mà các con không biết chánh pháp, các con tạo trong tà pháp rất nhiều, cho nên cái nhân quả đó nó dẫn lôi các con chứ đâu phải để yên cho các con, mà các con đi suôn sẻ được đâu. Nhưng mà cái hướng đó các con cũng còn sẽ gặp Phật pháp, nhưng mà nó trễ tràng rồi làm sao mà tu tập.
Đó thì, như vậy thì các con sẽ nỗ lực ở trong cuộc đời này, đừng vì tiếc một cái gì hết mà phải làm bổn phận. Có nghĩa là không tiếc, không tiếc nhưng mà phải làm hết bổn phận, bởi vì luật nhân quả mình đã gói ghém rồi, mà mình không tiếc là mình bỏ không có cần tiếc nữa, coi như mình tiêu cực thì cái này là cái sai, không đúng. Cái Đạo Đức của Nhân Quả nó không chấp nhận cho mình làm cái điều như vậy, bỏ phế hết thì không được. Mà phải giải quyết bằng cái Đạo Đức Nhân Quả.
Thí dụ như mình có cái hoàn cảnh gia đình vợ con, thì mình phải giải quyết như thế nào để đưa cả một cái chùm nhân quả của mình, bởi vì trong cái gia đình của mình là cái chùm nhân quả mà, cho nên mình phải giải quyết cho cả một cái chùm này nó đi vào chỗ tốt, chứ không thể làm cho nó khổ.
(41:02) Đọc ở trong cái bộ mà Thánh ni đó, Trưởng lão ni kệ đó, thì có một cái cô đó, cô gặp đức Phật, rồi khi mà cô muốn tu, nhưng mà có chồng rồi, thì lúc bấy giờ đó, đức Phật không có cho, thì cô phải chờ cho chồng chết rồi cô mới đi tu được, bởi vì ông chồng không cho thì phải chịu thôi, chứ không có được bỏ chồng.
Bởi vì cái chùm nhân quả của mình đã tạo ra rồi, thành cái chùm nhân quả rồi, thì phải chuyển cái nhân quả, thì mình tu như thế nào mà nó chồng con nó vui vẻ nó cho mình đi, nó sớm chừng nào tốt chừng nấy, còn mình cứ cằn nhằn, rằng ri hoài nó không cho đi thì mình phải chịu suốt đời. Chứ còn vô đạo Phật..
Đó thì cái Đạo Đức của đạo Phật nó cụ thể. Khi có đạo Phật rồi thì nó khác lắm, nó không phải giống như cái thời đức Phật. Đừng có nói rằng đức Phật bỏ vợ bỏ con, bây giờ tôi cũng bỏ vợ bỏ con như Phật, thì không bao giờ được. Cái đó là trước khi đạo Phật chưa có, còn sau khi đạo Phật có rồi thì không được. Đứng trên cái nền Đạo Đức không làm khổ mình khổ người, cho nên nó cụ thể lắm.
Ngay cả con ông Cấp Cô Độc, con trai ổng mà xin xuất gia mà ông nói: “Bây giờ tao có một thằng con, mà bây giờ mày đi thì của cải đây ai ăn”, ông Cấp Cô Độc thì ổng giàu rồi, bây giờ của cái để cho thằng con này ăn chứ ai ăn, mà bây giờ nó đi tu rồi làm sao, cho nên ổng đâu có chấp nhận. Vì vậy mà thằng con này đến xin Phật, Phật đâu có chấp nhận, chừng nào mà ông già cho đi tu thì đức Phật mới chấp nhận, còn không cho đi tu thì phải ở nhà làm cư sĩ.
Như vậy mà cuối cùng thì cậu con trai này làm căng quá thì ông già ổng cũng cho, nghĩa là cậu bắt đầu cậu không có ăn uống, cậu buồn khổ cậu không có ăn uống, cho nên ông Cấp Cô Độc mới nhờ các bạn bè, nhờ các bạn bè của thằng nhỏ này đến khuyên nó cũng hổng có ăn uống, nó cũng nhịn đói, ổng nói: “Thôi! Tao hết rồi, tao đầu hàng mày rồi, thôi mày cứ đi tu đi”.
Đó con thấy không, nó chỉ có đấu tranh ổng vậy thôi chứ nó không dám làm gì hết, nó không dám nói nặng nói nhẹ cái gì hết. Nó nói: “bây giờ ba không cho con đi tu, con buồn quá, con ăn không có được, con không ăn nữa”. Rồi nó nằm đó nó coi như nó không ăn, vì vậy mà ổng đành đoạn, ổng không lẽ nào thấy thằng con mình không ăn mà nó ốm như vậy. Ngày nào nó cũng không ăn như vậy kể như là nó chết rồi còn gì, cho nên đành phải cho nó đi tu để cho nó sống, chứ thiệt ra ổng đâu có muốn.
Nhưng mà điều kiện, nhờ cái phương pháp đấu tranh đó mà thằng nhỏ này được đi tu, sau này nó chứng quả A-la-hán. Còn ổng thì, ổng Cấp Cô Độc thì ổng cúng dường Phật này kia thì ổng được phước báu, chứ đâu có làm sao mà ổng chứng quả A-la-hán được.
Chúng ta thấy những câu chuyện mà trong Thánh tăng kệ và Thánh ni kệ, thì chúng ta thấy rõ ràng là cái thời đức Phật nó có một cái nề nếp của nó, có cái đạo đức hẳn hòi chứ hổng phải không đâu.
(43:33) Chúng ta học những cái đạo đức đó, để mà chúng ta xây dựng được cái đạo đức của đạo Phật, chớ không phải là, lấy cái chỗ mà ông Phật bỏ cha bỏ mẹ đi rồi chúng ta bắt chước cái điều đó đâu.
Trước khi chưa có đạo Phật là ông Phật ổng đã lầm, ổng đã lầm là tại vì Bà la môn trong cái thời đó … sáu tháng khổ hạnh chúng ta làm được không, sáu tháng khổ hạnh đó là đức Phật đã trả cái nghiệp làm khổ cha mẹ rồi.
Xem lại nguyên cả cái chùm nhân quả của mình giải thoát luôn, nó đi trong cái êm thấm, còn đợi đến khi mà đức Phật chứng rồi, về độ cha mẹ mình, thiệt ra thì cái chùm nhân quả nó cũng tốt đó, nhưng mà trải qua đức Phật phải trả một cái giá quá đắt, sáu năm khổ hạnh, mà Thầy nói đến đỗi mà ăn ít quá, đi không nổi mà, nằm mẹp xuống đó mà, coi như sắp chết mà.
Còn tu khổ hạnh đến cái mức độ mà dùng hơi thở, như ai mà lấy dây mà siết cái đầu của mình, khi mà ói ra máu nữa, những cái điều kiện mà trong kinh Phật, Thầy đọc, thầy nói thiệt đúng là con người chúng ta không thể nào mà thọ những cái khổ hạnh đến cái mức độ này được.
(44:28) Thì như vậy rõ ràng, bây giờ các con có đủ cái duyên gặp Thầy, thì đó là thứ nhất được thân người, rồi được gặp chánh pháp, được thiện hữu tri thức có kinh nghiệm người ta dạy, không có để lạc sai đường, thế mà các con hổng chịu tu hành, cái đó là cái các con phí bỏ cái quý báu nhất của cuộc đời.
Hôm nay được thân người, các con thấy tại sao bây giờ con người nhiều như vậy, mà nói được thân người là khó? Được thân người mà được trong năm cái điều thiện thì nó khó mấy con. Nhìn cái số người hiện giờ có mặt ở trên trái đất của chúng ta, có người nào mà giữ đúng năm cái điều lành của chư Phật không, tức là cái giới, cái năm giới của người cư sĩ không?
Cho nên được cái thân người, mà được năm cái điều lành này đâu phải là chuyện dễ đâu, nó khó lắm. Các con bây giờ là đi tu rồi, mà các con giữ gìn năm giới này trọn chưa mà các con dám bảo rằng mình là người? Là được người có phải khó không? Được cái người như vậy mới là con người thật chứ, còn cái người mà phạm giới, năm cái giới này thì con người đó ác quỷ, con là loài vật, là động vật chứ đâu có phải là con người đâu.
Nhưng mà đôi mắt chúng ta cứ nhìn nó là con người tại vì nó giống con người, nhưng mà cái tâm nó đâu phải là con người đâu, nó sống theo kiểu con thú vật mà. Nó ác, nó giết người, nó cướp của, nó coi cái mạng người không ra cái gì hết, đó là về cái phần sát hại. Về tham lam trộm cắp nó đủ cái mánh khóe, nó tham lam nữa, thì nó làm sao nó con người được.
Nó thấy người ta có ăn thì nó ganh tị, nó thấy người ta cất nhà tốt là nó không ưa rồi, thì như vậy nó là con thú rồi chứ gì. Nó thấy con chó kia tha cái bánh mì, cái miếng ăn lớn thì con chó này nó ỷ mạnh nó cắn con chó kia cho nhả ra nó ăn mà. Còn bây giờ con người mình có vậy không, như vậy là mình con thú chứ đâu phải, mình là con chó chứ đâu phải con người đâu, tại sao mình không thấy. Cho nên được thân người đâu phải dễ đâu.
Cho nên đức Phật xác định: được thân người là khó, khó như con rùa mù tìm bọng cây giữa biển mà, mà thân người nào, chớ còn thân người mà thân thú này làm cái gì, phải không? con thấy không? sống như thú.
(46:16) Bây giờ nhìn ở trên cái địa cầu chúng ta, cái thân thú này nó quá … không gặp được chánh pháp để tu, thì làm sao các con xả, nếu chịu tu thì chúng ta phải xả được thôi.
Thì bây giờ ngay cả cái pháp đầu tiên, Thầy dạy năm hơi thở đi kinh hành hai mươi bước, thế mà nói trời ơi nó cực quá trời, tu vậy nó nhọc nhằn quá, tu không nổi. Nên bây giờ chỉ có ngồi thiền hai ba tiếng đồng hồ tôi ngồi hoài cũng được nữa, mà tu như vậy tôi thấy cực quá. Nhưng mà tu ngồi hoài để làm gì đây, có lợi ích sao?
Còn cái này, mình tu tập như vậy để cho mình, luyện cho mình được cái nghị lực, luyện cho mình được cái ý chí, để sau khi nó gặp cái khó khăn, cái gì khó để giờ mình vượt qua. Bây giờ cái tâm mình đang sân nè, mà bây giờ muốn diệt nó nè, đâu phải chuyện dễ sao, nếu mình không có nghị lực chưa chắc đã mình bứt nó được.
(47:07) Cho nên mình … rơi nước mắt là vì người ta thấy mình quá vô minh, quá khổ đau mà mình cứ lao đầu ở trong cái khổ mà … Tới giờ ăn là muốn ăn, muốn thèm ăn hà, còn cái người mà người ta tu người ta thấm nhuần được bất tịnh rồi, người ta ngao ngán người ta không có muốn ăn.
Thế mà chúng ta đem những cái thực phẩm chúng ta lên dâng cúng Phật các con nghĩ như thế nào? ông Phật ông dám ngồi gần ở đó không? Ổng thấy như là toàn là bất tịnh, cho nên ở đây chúng ta thật sự Đức Phật dạy chúng ta không có nghĩa là đem những cái gì, bông hoa, cây trái này kia cúng dường Phật hoa quả, nhang đèn. Mà đức Phật dạy chúng ta phải thắp lên năm cây hương giải thoát ở trong tâm của mình: Giới hương, Định hương, phải không?
Mình giữ giới thanh tịnh là mình đã thắp cây hương cúng Phật rồi, phải không? Mình thắp cây hương Định hương, mình có những cái thiền định đó là mình cúng Phật rồi, phải không? Giới Định Tuệ, Tuệ hương là cái trí tuệ để tri kiến giải thoát làm cho mình không tham sân si, đó là mình thắp hương, thực tế quá.
Bây giờ mình lại lầm lạc đốt ba cây hương vỏ cây rồi cúng trái cây này kia nọ, chúng ta làm nhiều điều tội lỗi. Một cái trái cây là một cái đứa con của cái cây mà, nhờ đó nó mới có được cái cây nó lên thành cái cây, nó ra bông ra trái nó tiếp nối với cái cây mẹ nó.
Bây giờ chúng ta cắt cái này đi, rồi chúng ta ăn đi, rồi chúng ta đem cúng Phật đi, thử hỏi người ta bắt con mình ra rồi người ta đem người ta cúng Phật đi, thử hỏi rồi, thử hỏi như thế nào?
Bây giờ mình có đứa con, hai ba đứa con, năm ba đứa con nè, người ta bắt đứa con mình người ta đem lên cột trói đem lên để trên bàn cúng Phật, ông Phật ổng dám ăn không?
(48:56) Rồi cái bông là cái gì, cái bông là cái đứa con của người ta ở trong cái bào thai, thế mình móc cái bào thai của người ta ra mình đem mình dưng cho Phật để mình cúng Phật thì có nghĩa lý gì không, sao mình không thấy?
Đức Phật, hoàn toàn tâm từ bi của đức Phật đối với cái cây cỏ mà trong giới luật của đức Phật cấm chúng ta không được giậm trên cây cỏ để làm nó héo, tâm từ bi của người ta. Thế mà mình lại cắt cái bông đó mình dưng trưng cúng Phật, cắt cái bào thai của người ta để mình cúng dưng Phật, thì Thầy nói nghĩa lý gì nữa, còn cái nghĩa lý gì của đạo Phật nữa đâu.
Cho nên vì vậy mà chúng ta đừng có làm những cái điều sai, làm những điều không đúng, mà chúng ta hãy làm cái điều đúng mà Phật đã dạy, dâng lên những cái lòng giải thoát Giới, Định, Tuệ của mình, tri kiến giải thoát, tri kiến hương. Những cái lòng này mình dâng lên cúng Phật, thì đức Phật ở đâu người ta cũng chấp nhận điều đó. Đức Phật đâu có bảo mình cúng cái này, cúng cái kia, cúng cái nọ để mà phù hộ cho mình bao giờ đâu.
Cho nên ở đây các con nên nhớ rằng sự thực hiện tu tập cho thật giá trị và đúng cách để luôn luôn lúc nào chúng ta cũng giải thoát, mà khi mà tâm hồn chúng ta thanh thản thì nơi đó chúng ta đã gặp Phật. Rõ ràng là ta cúng dưng Phật đúng cách cho nên vì vậy mà luôn luôn gặp, sống bên Phật, cho nên đức Phật nói: “Người vị tỳ kheo nào mà sống đúng giới là người tỳ kheo đó đang sống bên Phật”, đâu có xa Phật đâu.
Đó là những cái điều kiện mà cần thiết để chúng ta hiểu, để chúng ta thực hiện. Dù là một ngày mà chúng ta thọ Bát Quan Trai, chúng ta sống đúng Giới Luật là chúng ta đã sống trong lòng đức Phật, trong vòng tay của đức Phật.
Mà nếu một ngày mà chúng ta sống không có đúng Giới Luật là chúng ta đã xa lìa Phật, thì các con nghĩ rằng trong gia đình của mình, mình đối xử nhau không làm khổ mình khổ người là mình đang sống ở trong lòng Phật, còn mình làm đau khổ nhau thì tức là mình đã xa Phật. Đó là cái mục đích của đạo Phật, đem lại một cái sự trật tự, đem lại một cái sự an vui cho con người trên hành tinh này. Sống lúc nào cũng là sống trong tâm Phật, như vậy nó mới đúng cái ý nghĩa.
Bây giờ các con đã nghe rồi, các con bây giờ cúp máy đi, rồi chúng ta thực hành.
(50:58) Phật tử: Nhờ có một sự hướng dẫn của một vị ân sư mà dẫn dắt con trên bước đường tu học, từ lúc mà con biết là con sáu tuổi rồi, hướng dẫn tới giờ này. Thay gì năm ngoái á, để khoảng mười ngày nữa con được gặp Thầy, nhưng mà cũng cái nghiệp con quá nặng rồi, khiến cho xin ở bển nó không có cho con đi … cứ lôi kéo cất cho được cái thất nữa, thành ra nó trễ tràng cho tới ngày hôm nay.
Cái tự nhiên hôm qua con gặp được Thầy nghĩa là cái duyên của con nó tròn đủ rồi, trái nó chín rồi. Cái chiều đó, sau khi con về thất đó Thầy, con quét dọn xong cái tự nhiên nước mắt con nó chảy, con cầm nó không được vậy á! Rồi sáng đêm hôm con cứ nhớ cái lời Thầy dạy là Thầy nói: “Muốn gặp được thầy, rồi muốn gặp được Phật thì tâm mình thanh thản, an lạc, vô sự” đó thưa Thầy. Sau đó con dùng cái pháp hướng, hồi đêm hôm con tu coi như con không có ngủ thầy. Dạ, con vui mà con nghĩ là con sẽ gặp được Thầy, con vui lắm.
(52:06) Trưởng lão: Lẽ đương nhiên là ở trong tâm trạng đó sẽ gặp Thầy, gặp Phật hà.
Phật Tử: Dạ! con tưởng tượng từng cái môi, cái miệng thầy nói, rồi những cái lúc Thầy mệt Thầy không có uống nước mà thầy chỉ chép miệng, con thương quý rồi cái con tập thêm cái phước báu của con từ đây cho tới suốt cuộc đời còn lại á.
Mà con tu được nhiêu con xin kính dâng lên Thầy đặng Thầy có sức khỏe đó Thầy sống đời, tâm phúc tâm thọ, Thầy dẫn dắt chúng con đến nơi đến chốn, giải khổ cái kiếp đời này, an lạc, yên vui. Phải nghĩ hoài luôn đó Thầy. Đêm hôm con cứ như vậy không hà.
(52:50) Trưởng lão: Thôi! Bây giờ ráng tu, ráng tu, bây giờ con cố gắng hơn để thực hiện.
Phật Tử: Dạ! Nếu Thầy làm phước Thầy chỉ cho con cái… nó biểu đêm hôm con cũng không biết có sai phạm như thế nào không, bây giờ Thầy cho con vô cốc, Thầy biểu con độc cư vậy đó.
Mà nếu con không đọc hai cái cuốn Cô Út đưa. Thay mà bữa nay không có gì để hỏi thầy, thành ra con đọc hết trơn luôn, là con thấy nó à.., trong cái thời khóa biểu đó Thầy, Thầy cho con tự … hai tiếng trong ngày đi, mà mỗi một lần vậy thì ba tiếng, ba tiếng. Trong cái khoảng ba tiếng đầu ở buổi sáng đó Thầy. Đi kinh hành và ngồi vậy, là như con đi kinh hành khoảng bao nhiêu phút, rồi ngồi bao lâu?
(53:28) Trưởng lão: Bây giờ ở đây thì không có cái giờ giấc mà nó nhất định là phải đi kinh hành trong bao nhiêu, nhưng mà tùy theo cái thân của con, tùy theo cái thân và tâm của con, cái sức khỏe của con. Thí dụ con thích đi kinh hành nhiều thì con cứ đi, mà con đi con thấy không có mỏi, không có gì hết thì con đi nhiều thì càng tốt.
Bởi vì đi kinh hành rất là tỉnh, bởi vì mình tu tập giai đoạn mình đi kinh hành là mình tu tập tỉnh thức thôi, cho nên nó tỉnh thức để luôn luôn tập luyện ở trong cái tỉnh thức đó, mình luôn luôn mình nhớ tác ý ra, chớ không phải tỉnh thức nó để đi vào ở trong cái tĩnh lặng, con phải phân biệt cho rõ.
Khi mình đi như thế này mà cứ mình biết ở trên bước đi, mình mà nghe không có cái niệm gì khởi hết, nghe nó lặng lẽ đó, thì nó bị tĩnh lặng rồi. Nó vẫn biết cái bước đi, nhưng mà nó không có một cái niệm gì khác khởi hết thì nó bị lặng lẽ, nghĩa là con đang tỉnh chứ con hổng phải là mê.
Nhưng mà nó không có một cái niệm gì khởi ra trong đầu của con, thì con luôn luôn con đi mà con thấy bước đi của mình, thay vì mọi người khác người ta tu người ta thấy. Mà mình không có niệm, mà mình luôn luôn mình biết bước đi như vậy đó, thì người ta thấy nó là hay quá. Còn Thầy thì Thầy sợ cái này.
Tại sao? tại vì khi mà con đi mà con cái tâm con nó đang biết, nó chỉ biết duy nhất có bước đi như vậy đó thì nó sẽ mất cái ý thức của con, mà nó sẽ bị cái tưởng thức.
Bởi vì khi cái tưởng thức nó đã thực hiện qua cái góc độ nó biết cái đi của con, thì cái niệm tưởng thức nó không có, chớ hổng phải là vì cái ý thức nó còn.
Thì cái tưởng nó dễ hoạt động, cho nên nó có cái niệm ra. Cho nên muốn cho cái niệm nó không ra, vì vậy mà đức Phật có dạy: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”, tức là cái hành động mà thở ra thở vô đó là cái tỉnh thức của chúng ta. Nhưng mà cái tỉnh thức này không có được để, mà cứ biết hơi thở ra vô mãi là nó sẽ bị tĩnh lặng, nó sẽ đi vào Tưởng.
Vì vậy mà chúng ta luôn luôn kêu gọi cái ý thức cho nó hoạt động trở ra, cho nên quán ly tham, quán ly sân đó là cái ý thức của chúng ta, mà ý thức thì nó phải luôn luôn, nó phải chủ động điều khiển cái tâm tham sân si của nó, mà cái sức tỉnh thức của nó ở trong cái ý thức của nó thì nó luôn luôn.
Bởi vì mình tác ý ra, thì cái ý thức nó quan sát chứ không phải cái tỉnh thức quan sát nữa, cho nên xem không khéo léo, thì chúng ta sẽ bị tưởng mà chúng ta không biết. Khi nào mà cứ đi, mà bước đi đi hoài vậy, tức là nó bị tĩnh lặng là nó bị tưởng rồi, đó là sai. Còn bây giờ mình đi mà mình nhớ, mình tác ý ra, chứ không có quên, tác ý ra: “Tâm như cục đất, tôi biết tôi đang đi kinh hành”, hoặc là “Tâm phải ly tham, tôi biết tôi đi kinh hành”. Nghĩa là mình nhắc tâm, tức là mình tác ý ra, mình giữ cái ý thức của mình, đừng có để cho nó mất cái ý. Bởi vì cái ý thức khi nào, khi mà mà cái tâm nó yên lặng như vầy, cái ý thức nó bị mất, nó không hoạt động nữa.
(56:09) Trưởng Lão: Đó, mình phải sử dụng, mình tác ý ra, tức là “như cái lý mà tác ý ra” hoài.
Tức là mình tác ý ra để cho mình giữ cái ý thức của mình cho nó đừng có mất, mà đức Phật gọi là “tu cái định, diệt cái tầm mà giữ cái tứ”, diệt cái tầm ác, mà giữ cái tứ.
Cho nên đức Phật có cái tên cho nó “Định diệt tầm mà giữ tứ”. Cái tứ là cái tác ý ra là giữ cái tứ, mà diệt cái tầm này là diệt cái tầm ác chớ không phải là, diệt cái tầm là diệt cái vọng tưởng của chúng ta. Còn cái người không hiểu, người ta tưởng là mình diệt cái vọng tưởng, không có cho vọng tưởng cho nên hoàn toàn nó không có khởi cái niệm ra.
Còn cái này không phải, Đức Phật nói diệt cái tầm này là tầm ác; Đức Phật nói diệt tầm ác mà tăng trưởng tầm thiện mà, trong cái bài Kinh Song Tầm rất rõ mà.
Vậy thì tầm ác nó ở chỗ nào? Tầm ác nó ở chỗ tham sân si, cho nên quán ly tham, quán ly sân, quán ly si này đó là diệt cái tầm ác của nó. Mà giữ cái tứ để diệt cái tầm ác, nhưng mà biết cái hơi thở, cái ý thức của chúng ta vừa tác ý thì cái ý thức của chúng ta nó sẽ biết cái hơi thở chứ không phải là Tưởng thức.
Đó, cái cách như vậy đó. Như vậy nó mới thật sự là chúng ta mới biết cách tu. Còn nếu chúng ta cứ đi mà biết đi không, cũng như mình làm cái gì, biết ở trong hành động làm không, thì nó là không đúng, bởi vì coi chừng mình làm mà làm ở trong cái Tưởng.
Cho nên vì vậy nếu mà cái Tưởng nó không khởi ra, nó không khởi ra một cái niệm đang làm, nó không khởi ra cái niệm thì chúng ta tưởng rằng cái ý thức của mình nó đang biết cái hành động làm. Không phải. Cái tưởng thức nó đang biết nên cái vọng tưởng nó không khởi ra.
Còn cái ý thức của mình nó đang biết cái hành động làm, mà mình không có nhắc nó; cho nên cái tưởng thức nó không có khởi ra, cái niệm vọng tưởng nó không có khởi ra, thì cái đó là bị cái tưởng thức rồi. Cái Tưởng thức nó biết cái hành động làm chớ không phải cái Ý thức biết hành động làm, nó bị mất rồi.
Cho nên nó xê xích một chút thì quý vị tu sẽ bị ức chế tâm, còn nó đúng thì quý vị sẽ được xả tâm, có vậy thôi.
Cho nên vì vậy mà cái phương pháp cứ nhắc, cho nên đức Phật nói: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra. Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán vô ngã tôi biết tôi hít vô, quán ly ngã tôi biết tôi hít vô”, tức là chúng ta tác ý để cái ly tham sân si để mà luôn luôn lúc nào chúng ta cũng ở trong cái chánh niệm của nó hết.
Phật tử: (thưa hỏi)
(58:19) Trưởng lão: Đi kinh hành chớ, vẫn nghe vẫn nhắc hoài như vậy. Thí dụ như bây giờ con đi năm mười bước, con nhắc một lần. Còn nếu mà con đi bước nào con cũng nhắc vậy là con niệm nó, bị trật; nó sẽ thành ức chế. Lấy cái niệm đó mà trở thành ra ức chế, lấy cái niệm pháp hướng mà niệm nó là trật. Mà con hướng tâm rồi, con đi im lặng như vậy đó, để rồi cho cái tâm nó, cái ý thức nó đang chú ý theo cái bước đi mà không bị tưởng thức. Nhưng mà con kéo lâu quá thì Tưởng thức nó xen vô nó làm việc, thì cái ý thức nó dừng.
Cho nên vì vậy mà cứ vừa năm, ba bước như vậy đó, thì con lại nhắc một lần, ý thức lặn đâu nó trở về, nó không mất cái ý thức. Bởi vì lấy cái ý thức, bởi vì cái định này, mình nhập bốn loại định này là bốn cái Định Hữu Sắc tức là nó thuộc về Ý thức. Còn cái Định Vô Sắc nó thuộc về Tưởng thức, coi là bốn cái Định Không nó thuộc về Tưởng, tức là Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ đó, rồi Vô Sở Hữu Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Tức là bốn cái Không Định thì đó là thuộc về định tưởng. Còn bốn cái định Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thuộc về Định Hữu Sắc, tức là thuộc về Ý thức.
Thôi bây giờ thì mấy con tập đi, tập đi rồi đặng cho bữa nay tập đã rồi còn ngày mai. Bởi vì máy móc thì chỉ có thầy biết thầy kiểm kỹ cho con.
HẾT BĂNG
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Thời gian: 16/05/2001
Thời lượng: (01:00:20)
https://thuvienchonnhu.net/audios/20090100-su-minh-sang-van-dao-nhan-qua.mp3
(Sư Minh Sang cùng với vài vị Phật tử đến Tu Viện xin gặp Thầy và nhờ Thầy hướng dẫn tu tập. Quý sư thầy và Phật tử lạy Thầy, Thầy bảo chỉ xá Thầy là được rồi. Sau đó Thầy mời mọi người ngồi xuống).
(00:14) Sư Minh Sang thưa hỏi: Kính bạch Thầy, lúc trước con có ở Tu Viện Chơn Như tại đây, và con cũng có hứa với Thầy là con tu suốt đời. Hôm đó do tâm con phóng dật quá, lúc Trưởng Lão dạy bốn người vào độc cư, thì con cũng có thực hiện, nhưng mà khi đã vào thất được ba bốn bữa thì tại thất hay nói chuyện phóng dật, rồi con mới tính đi ra xả tâm một hai ngày rồi con xin vô lại. Không ngờ khi con đi ra thì con thấy cái mũi của con nó bị nghẹt, nên con nghĩ con ở ngoài để điều trị bệnh một thời gian, cho nó thông cái lỗ mũi rồi con vô con tu, hít thở nó sẽ dễ hơn.
Trong thời gian đi ra, con có đi ra Quảng Ninh và đem theo hai quyển sách Những Lời Gốc Phật Dạy của Thầy để con ôn những cái gì con ôn lại. Rồi con có lên trên Chùa Ba Vàng, chỗ Thầy Thái Minh chơi, và xin ở lại tu tiếp. Rồi con gặp vị Thầy này xin đọc cuốn sách của Thầy, và chú nói: “Bây giờ đi tu ở đây là con đường chân lý rồi”, nên chú xin vô đây đi tu. Con cũng không biết sao, con nghĩ vào đây tu được thì tốt, và con dẫn chú từ Hà Nội vô đây. Con xin Thầy có đôi lời chỉ dạy cho chúng con.
Thầy đáp: mấy con cứ ngồi lên ghế đi con. Thôi, xá đi con.
Thầy dạy: Sự thật ra thì mấy con đi tu, tuổi mấy con mà bỏ cuộc đời đi tu, thì cái người mà tu rồi, người ta thương mấy con lắm. Vì đi tu là mình bỏ hết rồi, không còn dục lạc thế gian, mình nỗ lực để mình tu, chỉ còn con đường đi tìm cái sự giải thoát, để làm chủ sự sống chết, chấm dứt sanh tử luân hồi.
Mà nếu đi tu thì cái người tu trước người ta cảm thông được cho người tu sau lắm, mấy con mà quyết tâm tu thì Thầy sẵn sàng hướng dẫn tới nơi tới chốn, nhưng nó có nhiều cái khó lắm con! Bởi vì cái hạnh ăn đó, mình ăn ngày có một bữa thôi không có ăn nhiều. Bởi vì, giới luật của Phật là không ăn phi thời mà, rồi ngủ cũng không được phi thời, có cho mình ngủ chớ không phải không cho, nhưng không được phi thời, giờ nào ngủ thì ngủ; giờ nào thức thì thức. Nhưng mà tập sống để cho mình đừng có phóng dật, thì phải phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, thì phải độc cư. Mấy con hiểu không?
(02:36) Có ba cái đức, trong cái oai nghi chánh hạnh của đạo Phật, có ba cái đức đầu tiên, người quyết tâm tu thì mới sống nổi, không quyết tâm tu thì sống không nổi: Ăn - Ngủ - Độc cư, nó có ba cái thôi chứ không có nhiều. Mấy con ráng được, thì chắc chắn là Thầy sẽ dẫn dắt tới nơi tới chốn. Ráng ba cái hạnh này mà không được - giới luật mà không xong; đức hạnh mà không xong - thì làm sao mà mình tu thiền định được mấy con. Mấy con hiểu điều đó!
Cho nên, nếu mấy con quyết tâm được thì Thầy sẽ giúp đỡ mấy con tu tới nơi, tới chốn. Bởi vì cái kinh nghiệm của Thầy đã đi qua rồi,Thầy biết cách thức tu như thế nào để làm chủ sự sống chết. Cho nên Thầy dạy là không bao giờ sai, mà cũng không bao giờ Thầy dạy ngoài cái pháp của Phật. Bởi vì, bắt đầu mấy con giữ giới, thì học giới Thầy không có gồm cho đến 250 chục giới Tỳ Kheo cho nó nhiều, nhưng mà Mười Giới Sa Di là gốc đó con.
Mình xuất gia thì có mười giới Sa Di, còn cư sĩ thì có năm giới. Người cư sĩ đã thọ Tam Quy Ngũ Giới mà không giữ được thì người cư sĩ chưa thành người cư sĩ, chưa thành đệ tử của Phật đâu. Mà giữ trọn năm giới thì người cư sĩ đó mới là đệ tử Phật. Hầu hết người ta thọ Tam Quy Ngũ Giới, mấy con thấy, có nhiều người cư sĩ chưa ăn chay được, thì thử hỏi còn những cái giới khác: buôn bán làm sao không nói dối, có phải không mấy con, thế là phạm rồi chứ gì? (Thầy cười)
Nội cái đơn sơ như vậy đó con. Còn cái giới mà đừng tham lam trộm cắp, giới ly tham, cái đức ly tham của người ta, làm sao mà mấy con giữ trọn được những cái đức đó được đâu. Khó lắm, không tham cái này thì cũng tham cái kia, mà điều cái tham đó không trộm cắp của người ta thôi. Thì trong giới luật cấm như vậy đó, không tham lam trộm cắp tức là đến chùa không lấy của không cho, người ta không cho thì không lấy; mà người ta đã cho thì mình mới lấy.
(4:28) Cái tham để mà tham sân si, tham dục thì nó vẫn còn, nhưng tham xấu, lấy của không cho thì mình chấm dứt, thì các cư sĩ làm được, con hiểu không? Còn cái nói dối, thiệt là nó khó, những cư sĩ khó lắm, buôn bán thì thế nào cũng nói dối à! Thành ra, do đó nó rất khó cho người cư sĩ, nó có những cái giới khó, nhưng mà cũng có những cái giới rất dễ, nó không khó đâu.
Còn mấy con chỉ có Thập giới thôi: Mười Giới Sa Di. Bởi vì xuất gia thì có mười giới Sa di, nhưng mà Thập giới phải giữ trọn. Thầy gồm lại cho những cái giới: Thập giới Sa di thì mấy con nên cố gắng giữ ba đức, ba hạnh. Mà ba đức, ba hạnh của mấy con đó, ba đức là: Nhẫn nhục - Tuỳ thuận - Bằng lòng; ba hạnh là: Ăn - Ngủ - Độc cư, phải không? Mình biết nhẫn nhục là trước hoàn cảnh nào mình cũng nhẫn nhục được, đừng có nổi xung, đừng có tức giận, đừng có phiền não. Thấy trong cảnh động này tu không được, đó là mấy con không nhẫn nhục. Mấy con thấy chưa? Mà thấy cái cảnh này sao buồn khổ quá, thôi đi chơi một vòng, thì đó là mấy con không nhẫn nhục được mà. Do đó mấy con phải nhẫn nhục, tuỳ thuận, tùy thuận trong hoàn cảnh của mình, để mình giữ gìn những cái đức, cái hạnh cho nó trọn vẹn! Phải không?
Do đó mà mấy con mới sống trọn vẹn được độc cư, mà độc cư phải phòng hộ mắt tai. Mà khi ba đức, ba hạnh mấy con giữ trọn rồi thì người đó sẽ tu được, căn cơ người đó sẽ chứng đạo trong kiếp này. Còn cái người mà giữ không trọn ba đức ba hạnh thì căn cơ kiếp này tu chưa xong. Dù có muốn khuyên lơn với cách gì đi nữa họ tu (cũng không được), vì những cái đức hạnh đó không tròn.
Đi vào con đường của đạo Phật, mấy con thấy là: Giới, Định, Tuệ phải không? Bây giờ cứ lo vô tu định à, ngồi nhiếp tâm ức chế. Mấy con biết, cái sai của người tu thiền bây giờ là sai quá sai, là vì ức chế tâm. Bây giờ Thầy nói: “Tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự”, mấy con cứ chú ý vào cái chỗ bất động con giữ tâm là bị ức chế rồi, chứ đừng nói chi là mấy con dùng hơi thở.
Còn mấy con cứ nhiếp tâm trong hơi thở, thấy thở vô thở ra để không niệm chứ gì, là nó bị ức chế mất. Người ta ngồi chơi, cách thức mà sống đúng với những cái giới luật đức hạnh rồi, bắt đầu mấy con mới ngồi chơi, mấy con thấy từng tâm niệm của nó khởi lên. Mỗi tâm niệm (khởi lên) chúng ta dùng phương pháp Như Lý Tác Ý để xả, chứ không phải dùng ức chế tâm. Bởi vì đức Phật nói: “Ngăn ác diệt ác, sinh thiện tăng trưởng thiện”, tức là mình ngăn và mình diệt. Mình ngồi đây là mình đã có cách thức để ngăn nó rồi đó. Tức là nó không khởi ra đâu.
Mình nhìn lại cái đầu của mình coi có cái niệm gì không, chứ mình không phải nhìn trong cái trạng thái bất động tâm thanh thản. Con hiểu không? Mà nhìn trong hơi thở thì mình cũng bị ức chế tâm, chứ không phải không ức chế. Cho nên ngồi chơi, nhưng mà nhìn trong cái đầu nó có từng niệm không. Suốt ngày, cứ hễ có niệm, thì: “Chỗ này chỉ có một niệm duy nhất là Tâm Bất Động, Tâm Vô Lậu. Tất cả các niệm ta không chấp nhận, đi ra”. Thì cái niệm đó nó sẽ đi, và cái niệm đó nó tới lui một hai lần, tư duy quán xét niệm đó chứ không phải đuổi nữa. Đuổi nữa sẽ bị ức chế.
Bởi vì mình cứ gạt ngang nó thì nó chưa có thoả mãn nó rồi, cho nên nó còn ở trong lòng của mình, cho nên nó chưa hết. Một lần mà nó đi luôn nó không có tới nữa, thì đó là nó đã thông suốt. Mà lần thứ hai cũng cái niệm này nữa, cũng cái điều kiện này nữa thì đem nó mổ xẻ ra để quán, tại sao nó như vậy? Thì khi mình quán xong, tức là mình đã xả xong trong lòng rồi. Mấy con phải hiểu điều đó, chớ nếu mấy con cứ thấy niệm nào cũng gạt ngang, “biết vọng liền buông”! Buông riết mấy con cũng bị ức chế, mấy con hiểu điều đó. Thiền tông đó!
(08:09) Sư Minh Sang: Vậy mình phải có tri kiến, phải không Thầy?
Thầy trả lời: Phải có tri kiến đó, bởi vì nhờ tri kiến nên khi một niệm mình gạt ra rồi mà nó không tới nữa thì nó đã thông suốt, cái niệm đó nó xả rồi. Mà nếu còn tới nữa, thế nào nó còn tới nữa tức là nó bị ức chế, nó sẽ tăng nữa, mà nó tăng nữa thì mình mổ xẻ nó ra để mình tìm hiểu nó, mà hiểu nó rồi thì tri kiến của mình nó giải thoát thôi, thì nó không tới nữa (Thầy cười).
Phật tử hỏi: Cho con hỏi, cái này mình chỉ thông hiểu nó, chớ không phải mình theo nó ?
Thầy trả lời: Không phải theo nó con, không phải theo nó. Nghĩa là mình có phương pháp Như Lý Tác Ý con. Cho nên mình biết vọng không theo là mình không theo nó tức là mình buông ngang; còn cái này mình bắt đầu có một cái niệm, mình ngồi im lặng như vầy, mình không dùng cái phương pháp nào ức chế nó hết. Khi nó có niệm khởi trong đầu thì lúc bấy giờ đó mình bảo: “Ở đây chỉ có niệm bất động, tâm thanh thản, an lạc và vô sự, tức tâm vô lậu, không có niệm nào ta chấp nhận, đi”! Thì ngay khi đó nó dừng liền con. Nhưng mà ngồi lại một lát nó tới nữa, à như vậy là mày chưa, tri kiến mày chưa giải quyết được, cho nên tao đuổi mầy mày còn tới, vì vậy bây giờ tao mổ xẻ cái niệm này ra tao quán, gọi là quán vô lậu đó, quán cái niệm đó ra. Quán thông suốt hết rồi, tức là nhờ cái tri kiến thông suốt của mình đó, nó sẽ đi luôn.
Sư Minh Sang hỏi: Vậy là cái giai đoạn nào tu cần nhất là phải quán vô lậu, phải không Thầy?
Thầy trả lời: Phải quán vô lậu con! Tức là mấy con chưa hiểu thì người ta sẽ dạy con về nhân quả, phải không? Rồi người ta dạy về nhân duyên, Thập Nhị Nhân Duyên, mấy con phải hiểu những cái điều đó, để khi nó cấu kết nhau thành những cái niệm, nó có đủ duyên của nó mà. Do đó, cho nên chúng ta phải thật thông suốt, thông suốt như vậy để khi mà có cái niệm đến chúng ta mổ xẻ coi cái niệm này nó ở chỗ nào? Thì khi nó thông suốt rồi thì nó sẽ đi, các con hiểu chưa? Chớ không khéo mình ức chế nó. Đó là cách thức ngăn ác, diệt ác.
(09:54) Phật tử thưa hỏi: Bạch Thầy! Thắc mắc của con, bản thân con cũng như bao nhiêu người khác là khi mà đọc được quyển sách Những Lời Gốc Phật Dạy. Con thấy là nó cũng nằm trong những cái điều mà làm cho con thay đổi rất là lớn, nhất là ví dụ như Thầy nói về cái việc niệm Phật A Di Đà cũng vậy. Cái thiền đây con nghĩ lẽ ra, đúng là thực ra thì mình cứ thả lỏng nó ra một cách tự nhiên, chứ mình ép như thế cũng là ức chế. Cái tâm của mình sẽ bị ức chế. Vì vậy mà con mới tìm đến Thầy và cũng mong Thầy chỉ dạy.
Thầy trả lời: Thầy sẽ kềm mấy con chớ, sự thực ra Thầy thấy có cái khó, tại vì cái người mà chưa tu, thì người ta dạy cách thức rồi cũng lọt vào ở trong cái chỗ ức chế, vì ức chế nó dễ lắm.Tại vì mình nhìn cái hơi thở vô ra như thế này thì bị ức chế.
Cũng như bây giờ nói Tứ Niệm Xứ, trên thân quán thân để nhiếp phục tham ưu, thì mình cảm giác toàn thân của mình, mình quán sát. Rồi mình nương vào hơi thở, coi như mình dùng tưởng hơi thở, hơi thở lên tới trên đầu rồi xuống dưới chân. Kiểu này là bị tưởng tức, thì nó cũng nguy hiểm rồi. Thay vì trên thân quán thân thì phải quán bằng cách nào? Nhưng mà không ngờ cái sức của con người bây giờ quán thân chỉ ở cái mức độ đó thôi, bằng tưởng thôi, không khác. Nó đã đưa mình sai, tại vì bây giờ mình chưa biết cách, trong khi cái tâm của mình nó chưa ly dục, ly ác pháp, tức là Tứ Chánh Cần chưa xong chớ gì? Tứ Chánh Cần chưa xong mà tu Tứ Niệm Xứ, mấy con nghĩ làm sao? Có phải mình dùng quán thân mà để ức chế không? Đó là một cái sai.
Bây giờ, Tứ Chánh Cần ngăn ác diệt ác, để rồi tự nhiên cái tâm nó bất động, nó thanh thản, an lạc vô sự. Tự nó thanh thản, an lạc, vô sự thì nó sẽ quán trên thân rồi, các con hiểu không? Còn bây giờ (tâm còn) dục không à, bây giờ mình cũng quán thân, tức là thấy hơi thở chạy từ trên đầu xuống chân, thấy hơi thở từ chân lên đầu, gọi là tu quán thân!
Sư Minh Sang hỏi: Như ngài Ajahn Chah, Ngài dạy như thế là dùng tưởng phải không ?
Thầy trả lời: Dùng tưởng không con! Đó là cái tưởng, thành ra sai. Cho nên dù như thế nào thì Thầy xem xét, trước là những cái đức cái hạnh, ba cái đức hạnh đầu tiên: Ăn - Ngủ - Độc cư. Nhẫn nhục - Tùy thuận - Bằng lòng. Mấy con sống được thì bắt đầu đó rồi Thầy mới dạy tu.
Mà dạy tu, thì bắt đầu Thầy dạy mấy con: À, bắt đầu bây giờ mấy con phải ngăn ác, diệt ác như thế nào? Tác ý như thế nào, cách nào? Thầy dạy mấy con xong rồi, mấy con tu một ngày, ngày hôm sau Thầy qua Thầy kiểm tra. Chớ không để hở; hở, mấy con tu trật thì phí của mấy con mất. Thầy kiểm tra coi bây giờ mấy con tu, mấy con trình bày cho Thầy cách tu như thế nào để Thầy nghe.
Sau khi Thầy nghe rồi mà Thầy thấy nói đúng, được, thì bây giờ mấy con ngồi xả tâm cho Thầy xem. Thầy ngồi ghế kia, con ngồi xếp bằng con tu đi để Thầy theo dõi, theo dõi coi con có xả đúng không, hay con bị ức chế nữa, chứ đâu phải. Theo dõi như vậy mới dẫn dắt người ta đi tới nơi tới chốn, còn không khéo để buông lỏng một cái là mấy con sẽ bị ức chế. Nó khó như vậy đó mấy con!
(12:58) Sư Minh Sang hỏi: Thời gian con đi, con rất nhờ Thầy và cô Út. Con cũng mong muốn trở về tu, tại vì con nghĩ là con không muốn đi xa Thầy, sợ vì có gì không an ổn thì lên gặp Thầy. Có gì Thầy chỉ dạy cho con xả, thì con cũng hứa xin sẽ về. Và con cũng có câu hỏi xin hỏi Thầy là làm thế nào để biết mình đã lọt vô tưởng, và thứ hai là xả tưởng như thế nào?
Thầy trả lời: À, mình biết rõ ràng là mình lọt tưởng như thế này? Nó có nhiều cái tưởng lắm, có 18 loại tưởng chớ không phải một tưởng. Chẳng hạn bây giờ con ngồi đây nè, phải không? Con ngồi vậy nè, mà con ngồi con cũng thấy mình tỉnh, mình hoàn toàn im lặng không niệm gì hết. Bởi vì cái số này Thầy đã kiểm tra cái số Tăng sinh ở trong đó rồi, quý Thầy trong đó rồi. Ngồi im lặng như vầy. Thầy cho người Giám luật họ đi, thì rõ ràng là không thấy cái người đứng trước mình, mà mình ngồi mình thấy mình tỉnh rõ ràng. Mình thấy mình đang hít thở đàng hoàng rõ ràng, nhưng mà người ta đứng trước mình (mình lại không biết).
Thường thường trong các trường hạ, trường hương đó - hồi mà Thầy còn nhỏ đi học ở trường hương - thì trong khi mình tu tập, trong cái giờ mà chưa được ngủ đó, người ta đi gác để coi mình ngủ hay thức. Người ta đi ngang cái phòng của mình, mà mình không khảy móng tay ba cái thì người gác để một cái thẻ, báo cho mình biết là mình đã ngủ, hiểu không? Cho nên vì vậy mà thầy Chơn Thành đi làm giám luật, đi gác, mà người ta đến trước mình, rồi người ta viết tờ giấy, người ta bỏ chỗ mình mà cũng không hay. Đâu có khảy móng tay cho người ta biết đâu, người ta vẫn cho mình là ngủ. Bây giờ mình nói đang thiền định, mình không biết cái gì bên ngoài chứ gì, là mình ngoan không sao? Là trật nữa rồi, các con thấy đó.
Cho nên vì vậy, khi mà người ta kiểm tra cái ăn, cái ngủ của mình hoàn toàn rồi độc cư, người ta cũng thấy mình không nói chuyện, mình sống đúng hạnh rồi, bắt đầu người ta mới đưa vô, người ta dạy cho mình tu xả tâm, tu Tứ Chánh Cần chớ. Chớ còn nếu không, ai mà dạy cho mình Tứ Chánh Cần, thì làm sao mà xả được? Nếu tu Tứ Chánh Cần mà Giới luật không nghiêm chỉnh, thì mình bị ức chế đó sao, con hiểu không? Cho nên mấy con đến Tu Viện là để thử thách mấy con đó, coi mấy con là người có quyết tâm hay không? Mà nếu không quyết tâm, thì mấy con cứ ít bữa chạy đi nói chuyện người này người kia, thì Thầy thấy không được! Rồi thấy ở trong này Cô Út rầy la, hoặc là cho ăn uống cực khổ quá này kia, tức là thiếu nhẫn nhục.
Sư Minh Sang hỏi: Vậy đó là thử thách đó hả Thầy?
Thầy trả lời: Thử thách đó! Hoàn toàn, Thầy cho vô Tu Viện là thử thách mấy con hết.
Sư Minh Sang: Vậy mà con không biết, cứ tưởng là Thầy….
Thầy trả lời: Đâu phải, khi nào mà Thầy thấy được rồi, Thầy mới rút ra ở gần Thầy, chứ phải đâu. Dạy tới pháp tu Tứ Chánh Cần: Ngăn ác, diệt ác là phải được ở gần Thầy, chứ không khéo, coi chừng ngăn mà nó không ngăn, mà nó lại ức chế tâm. Các con có hiểu chưa?
(15:46) Phật tử hỏi: Về vấn đề khi ngủ ấy, có cách gì để giúp không để cho mình bị ngủ quá nhiều không ạ ?
Thầy trả lời: À! Nó sẽ có pháp con, nó có pháp phá hôn trầm, người ta dạy cho mình mà. Bây giờ về cái ăn thì một ngày người ta cung cấp một bữa rồi, mình đừng có liên hệ với ai mua thêm cái gì hết, thì người ta sẽ biết. Còn có nhiều người vô ở Tu Viện, chớ lén móc nối mấy người đi chợ mua đồ ăn riêng. Cái đó tội lỗi lắm đó! (Thầy cười)
Phật tử hỏi: Dạ, theo con thì cái ăn, con nghĩ cũng không có gì khó khăn.
Thầy trả lời: Rồi Thầy biết cái ăn nó dễ rồi, bây giờ tới cái ngủ, người ta dạy cho mình cách thức đi kinh hành con. Cái pháp Thân Hành Niệm - Đức Phật đã dạy pháp Thân Hành Niệm đó, là mình phải tu tập nó kiên cố như cỗ xe. Nghĩa là cộng hết tất cả thân hành của mình: Thân hành ngoại là đi, đưa tay, rồi ngồi xuống, co chân, phải không? Rồi tới hít thở là thân hành nội. Ngoại nội tổng cộng lại hết gọi là pháp “Thân Hành Niệm”.
Mà Thân Hành Niệm đó, cái hành động đưa tay ra, rồi đưa tay vô, đưa tay chống sau lưng, rồi hạ cái mông xuống, rồi duỗi chân ra, rồi co chân lại,… đều đặn liên tục như vậy đó, gọi là cỗ xe kiên cố. Còn con làm một hơi cái quên, không biết cái chân này đưa trước, hay cái chân này đưa sau? Thì như vậy là chưa kiên cố, cho nên phải tập. Con hiểu không?
Phật tử hỏi: Bạch Thầy! Như thế thì so với cái thiền Minh Sát, nó có giống hay là khác nhau ạ?
Thầy trả lời: Khác nhau, Thân Hành Niệm khác, Minh Sát khác con! Coi như là khác. Bởi vì thực sự ra, khi mà dùng cái thiền Minh Sát đó, mà nếu đúng, thì người ta phải dùng trên Tứ Niệm Xứ người ta tu. Mà nếu nó không đúng thì cũng bị ức chế rồi. Thiền Minh Sát mà Thiền sư Mahasi dạy đều bị ức chế hết, Thầy xem rồi. Cho nên cái trường thiền mà gọi là “trên thân quán thân”, hoặc là “trên tâm quán tâm”, “trên thọ quán thọ” của Miến Điện đó, Thầy đã thấy rồi, tu sai rồi, trật rồi, không dẫn dắt người ta tới.
Bởi vì cái trình độ đó, nó chưa tới giai đoạn (tu Tứ Niệm Xứ). Một người cư sĩ mà đến đó người ta vẫn cho vô tu Tứ Niệm Xứ. Trời đất ơi! Tứ Niệm Xứ là các pháp mà người ta sắp sửa chứng đạo, chứ đâu phải chuyện dễ đâu! Mà vô đó, ai cũng cho vô tu hết, đâu có được.
(18:14) Nghĩa là (căn cứ vào) Giới luật, người ta coi thử coi cái hạnh, qua giới luật đức hạnh của mình mà người ta đưa cái giới nào. Nó có căn bản chớ! Ví dụ như Thầy nói: Ăn - Ngủ - Độc Cư, bây giờ người cư sĩ còn ăn ba bữa mà vô đây họ tu à? Các con hiểu không? Ngủ họ còn gục tới gục lui; ngồi thiền gục tới gục lui mà vô đây tu Tứ Niệm Xứ được à? Cái vấn đề này đâu được.
Cho nên người ta phải dạy cho mình phương pháp đi kinh hành, pháp Thân Hành Niệm để cho mình phá thật sạch hôn trầm thuỳ miên. Mà khi hôn trầm thuỳ miên không còn có nữa thì con mới tỉnh, con ngồi con tu Tứ Chánh Cần, chứ chưa hẳn là tu Tứ Niệm Xứ được đâu. Nó tỉnh mình mới tu Tứ Chánh Cần, mình mới ngăn ác, diệt ác, còn nó còn cứ gục tới gục lui thì làm sao ngăn, ngăn cái gì? Nó đâu có còn biết nữa mà ngăn, có phải không? mấy con thấy không?
Ở đây tu có căn bản đàng hoàng, chứ không phải! Thầy viết ở trong sách, là Thầy viết chung chung như vậy đó, nhưng mà tới chừng hướng dẫn, thì từ bài bản, đàng hoàng. Cũng như người ta cho con vô Tu Viện là thử thách mấy con đó, chứ chưa tu cái gì đâu. Thầy chỉ nói: Ăn - Ngủ - Độc cư, có phải không? Nhẫn nhục - Tùy thuận - Bằng lòng, có nhiêu vậy thôi.
Rồi mấy con bây giờ đó, là một người quyết tu là phải nhẫn nhục. Ai nói gì nói, mình chẳng giận hờn, chẳng phiền não gì hết, chẳng bỏ đi đâu hết, ráng trì chí. Rồi bắt đầu nhẫn nhục được, tùy thuận được, bằng lòng được rồi; hễ nhẫn nhục được, thì tùy thuận, bằng lòng được; mà nhẫn nhục không được, thì tùy thuận, bằng lòng không được. Còn Ăn - Ngủ - Độc cư: thì ngủ thì người ta có phương pháp dạy cho mình để mà phá hôn trầm, thùy miên, phải không? Còn Độc cư thì mình tự ráng đó, chứ mà còn đi nói chuyện thì ai mà kềm mình được, có phải không?
Phật tử hỏi: Về cái độc cư, là khi mà mình đang trong môi trường đang động mà vào tĩnh thì nó cũng có sự thay đổi. Bởi vì, cái tâm nó chưa tịnh thì có khi nó khởi lên những phiền não, thì mình sẽ dùng cái gì ạ?
Thầy trả lời: Mình sẽ dùng pháp Như Lý Tác Ý, mình dùng cái pháp đó, như đức Phật nói: "Có Như Lý Tác Ý, lậu hoặc chưa sanh sẽ không sanh, mà đã sanh thì bị diệt". Cái pháp Như lý của mình, thì do đó người ta nhắc mình, có một cái niệm nào đó thì Như Lý Tác Ý ra, đuổi ra, không được để.
(20:18) Sư Minh Sang thưa hỏi: Dạ, bạch Thầy, cho con xin hỏi thêm một vấn đề như Thầy Thiện Thảo tu bị lọt vô tưởng, tưởng mình chứng đạo. Vậy thì xả cái tưởng, thì xả như thế nào ạ?
Thầy trả lời: À! Xả thì coi như là không được ngồi, bây giờ ngồi thì nó lặng vô liền, nó lọt tưởng chớ gì? Nhất định từ là từ đây về sau là cấm không được ngồi! Coi như là sống bình thường. Nhất là những người bị tưởng rồi thì bắt đi ra nhà bếp, đi lao động, đi làm công việc thôi, chớ không được tu gì hết, để cho nó trở về bình thường, đừng có hiện cái tướng tưởng đó ra nữa.
Sư Minh Sang: Vậy phải có thời gian nó mới xả được phải không ạ?
Thầy trả lời: Nó có thời gian, phải 6 tháng sau đó mới hết tưởng con.
Sư Minh Sang: Ui da, khó á!
Thầy: Nghĩa là mình phải sống (như người bình thường), không được tu cái gì hết, thì đó mới là xả tưởng. Chớ còn ngồi im là bị, ngồi im cái là bị đó.
Sư Minh Sang hỏi: Bạch Thầy, có một số Phật tử hỏi về cái vấn đề tự nhiên lên đồng nhập cốt, thấy linh hiển rồi bị tưởng hành, bây giờ người ta muốn hết cái trạng thái đó, không có bị nữa, người ta muốn làm chủ cuộc đời, thì họ phải xả bằng cách nào?
(21:11) Thầy trả lời: À! Người đó phải đến với một thiện hữu tri thức để người ta trợ giúp, người ta xả cho. Bây giờ đó, trong lúc như vậy thì bắt đầu, người ta dạy cho mình cái tri kiến, để cho mình không có tin cái vong hồn, cái này kia, Mẫu, hoặc cái này kia nhập nữa. Người ta dạy cho mình hiểu biết, để cho cái niềm tin của mình nó mất đi, cái niềm tin của mình, đó là thứ nhất.
Cái thứ hai, là cái trạng thái trong thân mình, vì cái tưởng của mình nó hay hoạt động nó quen rồi, nó hay hoạt động lắm. Cho nên vì vậy, người ta dạy cho mình bằng cách là, mình phải nhiếp tâm ở trong Chánh Pháp của người ta. Người ta dạy cho mình câu tác ý, tác ý như thế nào? Vì cái trạng thái mà cái tâm mình nó bị hoạt động, mình tác ý xả cái đó ra, cứ tác ý hoài nó xả sạch. Ý thức nó mạnh lên thì tưởng nó không hoạt động được. Người ta sẽ dạy. Bây giờ mấy người mà bị lên đồng nhập cốt rồi đó thì phải vào đây gặp Thầy, chớ còn ở ngoài kia mà Thầy nói không có được.
Sư Minh Sang: Con thấy ở ngoài đó nhiều lắm Thầy ạ.
(22:07) Thầy trả lời: Mấy người đó phải vô đây, Thầy trị cái bệnh của họ mới hết. Thầy dạy cách để xả cái tưởng đó, tức là xả cái hoạt động của cái tưởng, cái này bị cái tưởng hoạt động, chớ không phải họ muốn đâu. Chừng nó hoạt động rồi thôi….
Sư Minh Sang: Họ giao cảm với từ trường không gian…
Thầy trả lời: Họ giao cảm đó, tưởng nó giao cảm, rồi họ nói… (Thầy cười) Thành ra nguy hiểm lắm con. Bởi vì dục không à, mà mình có cái hướng đó thì thấy nguy hiểm lắm! Một cái người bình thường thì dễ, còn mình tu bậy, như Thiện Thảo đó, lọt trong tưởng là bây giờ bắt không có ngồi trong thất tu, mà xin chỗ nào yên tịnh là tưởng nó cũng hiện à, không có trật. Cho đi lao động, đi dẫy cỏ, đi trồng cây, trồng kiểng… suốt ngày vậy thôi, mà 6 tháng nó mới trở về bình thường, bởi vì nó không có hiện ra nữa.
Sư Minh Sang hỏi: Vậy còn phải có tác ý nữa chứ Thầy?
Thầy trả lời: Phải có tác ý con! Chớ không có tác ý nó cứ hiện, bởi vì mình lao động thì lao động, chứ mình mà ngồi nghỉ là nó vô đó, yên tịnh là nó vô đó, cho nên hễ có vô là tác ý, để cho mình lấy lại bình thường. Bởi vậy có tưởng khó lắm!
Sư Minh Sang: Bệnh con không sợ, chớ con sợ tưởng lắm.
Thầy trả lời: Vọng tưởng người ta không sợ, chớ người ta sợ tưởng (Thầy cười). Vọng tưởng nó dễ trị, còn cái kia nó khó trị lắm, bởi vì nó vô hình. Khó lắm!
Bởi vậy, Thầy nói đừng có tu điên, muốn tu là phải tìm Thầy cho đàng hoàng mà tu, thì chắc ăn, bảo đảm.
(23:33) Sư Minh Sang: Có cái cô xin qua Tây Tạng để tu. Ở Việt Nam có người tu chứng mà không chịu tu, qua Tây Tạng ở chi bên đó.
Thầy trả lời: Mấy ông Tây Tạng là mấy ông Cầu vồng, bởi vì họ cứ đọc thần chú là nó hiện cái cầu vồng ra, mọi người xúm tin, thiệt là mấy người điên! Ai đi tu (cái kiểu đó), tu là nhằm giải quyết sinh tử luân hồi, chứ hiện cái thần thông làm cái gì đây? Đâu có cần cái thứ đó. Ở đây, Thầy nói thật sự, Thầy dạy thật đúng theo chương trình của Phật giáo, để chúng ta làm đúng để làm chủ cái sự sống chết của chúng ta thôi. Mục đích Đạo Phật ra đời là vậy, chứ không phải dạy chúng ta thần thông, phép tắc gì hết.
Sư Minh Sang hỏi: Thưa Thầy, quan trọng là cái niềm tin, ở chỗ con hiểu như: Người muốn tu chứng đạo A La Hán là phải có cái duyên, chớ đâu phải tự nhiên muốn chứng là chứng phải không ạ?
Thầy trả lời: À, nó có duyên, ví dụ như có duyên mấy con mới gặp Thầy; mà không có duyên tức là mấy con không gặp Thầy. Tức là mấy con đã gieo một cái duyên đời trước rồi, cho nên gieo cái duyên đó với một cái vị nào đã tu đúng pháp, chứ không phải không. Nhưng có thể nói rằng, trong cái duyên gieo đúng pháp đó, chưa có một bậc A La Hán để dạy, cho nên mấy con còn chơi vơi, bám bên nay bám bên kia, nó chưa đúng. Chớ còn nếu thật sự mà có một người đã tu chứng rồi mà mấy con đã gặp rồi, đã quyết tâm rồi, thì trong một kiếp này thôi, trong một đời này thôi, chứ không có hai ba đời. Chứng liền!
Bởi vì tâm Vô Lậu mà, chứ tôi có chứng gì đâu? Tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự: “vô lậu”. Mà bây giờ muốn kéo dài được cái trạng thái này ra, thì người ta có kinh nghiệm người ta dạy mình mới kéo dài được, chớ còn không có kinh nghiệm có kéo dài được sao? Nó trong một phút, một giây, 30 phút thì còn tu. Mà 30 phút là bị ức chế rồi, nó trật rồi!
Thế mà bây giờ có một người, người ta dạy, người ta sửa cho mình 30 phút mà nó bất động, nó không có bị ức chế, mà nó tự nhiên thanh thản, an lạc và vô sự. Nó yên lặng như vậy mà tu không ức chế chỗ nào. Thì như vậy là tâm Vô Lậu chứ còn cái gì? Như vậy là chứng Đạo chứ gì?
Vậy cái tâm lúc bây giờ nó sẽ định ở đâu, nó ở chỗ nào? Người ta sẽ xác định cho mình thấy, và đồng thời người ta nói, lúc bấy giờ cái tâm mình, mình thấy rồi, thì người ta bảo bây giờ ở đó mình phải tu cái gì, mình tu pháp gì để mà đi tới bảy ngày đêm của nó.
(25:46) Phật tử hỏi: Bạch Thầy, cái quan trọng là khi mà các bậc Thầy dạy cho chúng con pháp tu, phù hợp với căn cơ của mình, trong cái vọng tưởng của mình, chỉ dạy đúng cái điểm đó, thì con nghĩ nó sẽ loại trừ được nó.
Thầy trả lời: Đúng rồi! Lẽ đương nhiên, người ta dạy theo đặc tướng của mình, cũng như bây giờ hai con chớ hai cái đặc tướng nó khác nhau. Như bây giờ, người này thì cái phương pháp đó phá hôn trầm, thùy miên vậy được, mà con thì phá không được. Do đó cái người dạy, người ta biết đặc tướng người này phải đi như vậy mới phá được, chứ đi pháp Thân Hành Niệm phá không được, người ta biết liền.
Sau khi hướng dẫn, người ta thấy cách tập, cách thực hành người ta biết người này cái đặc tướng không đúng. Chẳng hạn như bây giờ Thầy dạy con về hơi thở, mà con hít thở nghe tức ngực, Thầy biết con người này dạy hơi thở chưa được đâu, có phải không? Nó báo cho mình biết cái chuyện chướng ngại của nó rồi. Còn con thông suốt, con thở nghe nó nhẹ nhàng, nó thoải mái, ờ được rồi. Thì cái người này, đặc tướng người ta là hơi thở.
Còn con cái đặc tướng hơi thở không được, mới hít thở năm, mười phút đã thấy tức ngực, hay là khô cổ, thì người ta biết rồi, không được. Người này chưa có sử dụng hơi thở được đâu. Tức là cái đặc tướng, với cái nhân duyên của hơi thở chưa làm được. Người ta đưa cho mình cái thân hành ngoại để cho mình tập, tức là cách thức như đưa tay, duỗi chân, đi kinh hành thôi, để tập trung trong cái chỗ đó để mà luyện cái sức tỉnh thức của mình thôi.
(27:15) Sư Minh Sang hỏi: Bạch Thầy! Nhiều khi con thấy nghiệp sát sanh là nó tàn nhẫn, ví dụ như gia đình lỡ có nghiệp sát sanh, mà không biết khuyên như thế nào để mà họ nghe được không nữa?
Thầy trả lời: À mình chỉ cần khuyên họ thấy cái sự sống là cái quý báu nhất. Bởi vì mình đã thương yêu sự sống của mình, tại sao không yêu sự sống của loài chúng sinh, mà mình nỡ mình bắt, mình giết, mình ăn thịt chúng? Mình khuyên lơn.
Sư Minh Sang: Dạ, Thầy nói, để cho con về con mở cho cha mẹ con nghe.
Thầy: Đó, thì bắt đầu bây giờ, tại sao mà mỗi người chúng ta phải đi tu, tại sao chúng ta lại ăn chay? Tại vì khi mà chúng ta ăn chay, thì cái cơ thể chúng ta nó sẽ ít bệnh tật. Tại sao vậy? Đã có nhiều bác sĩ, người ta đã nghiên cứu về vấn đề đó rồi, chứ không phải chỉ riêng có Phật giáo nói không, nhưng mà sự thật mình phải thấy cái quy luật của nhân quả.
Các con thấy rõ ràng nè, bây giờ Thầy cầm dao Thầy cắt cổ con gà, Thầy làm thịt Thầy ăn nè, thì Thầy sẽ thấy rằng cắt cổ con gà thì cái cổ con gà phải đau, nó phải giãy giụa chứ gì? Nhưng mai mốt mình đau yết hầu, hoặc đau trong cổ họng mình, thì mình nói sao tôi đau bệnh đó? Chứ không ngờ cái hành động mình làm để nó mình tích luỹ cho mình thọ lấy cái quả bệnh tật. Vì vậy mà cái người ăn thịt chúng sanh, giết hại chúng sanh, ăn cá, ăn tôm, ăn gà, ăn vịt, heo, dê, gà, ngỗng… Ai mần gì mần, mà mình đem về, mình làm thực phẩm mình ăn, thì mình phải nhận lấy cái sự đau khổ đó vào thân của mình. Không bao giờ mà cái người ăn mặn mà không đi nhà thương. Một trăm người cũng bệnh hết, không có người nào không.
Nhưng mà người ăn chay, ngồi đây cũng ăn rau cải mà cũng thèm thịt, cho nên mới chế ra đùi gà, thịt heo bằng cách làm bằng đậu hủ, mà vẫn thèm thịt cho nên phải chế ra cái hình thức đó để mà thoả mãn cái tâm của mình, thì người này cũng vẫn bị bệnh.
Còn người ăn chay với lòng thương yêu thực sự: “Vì tôi thương chúng sanh, tôi thương sự sống của tôi, tôi thương sự sống của chúng sanh, tôi không nỡ tôi ăn chúng nữa”, cho nên vì vậy, người ta ăn chay từ cái lòng thương thì người này không đau. Con hiểu không? Mình đâu có huân cái sự đau khổ trong lòng mình, mình đem cái sự thương yêu, thì sự thương yêu làm sao đau khổ, nó phải đúng không? Từ tinh thần cho đến vật chất, cơ thể mà nuôi dưỡng bằng cái thiện pháp; còn cái này nuôi dưỡng cái vật chất là ăn chay, nhưng mà tinh thần thì thèm thịt, vậy mấy con thấy nghĩ sao? Có phải mình còn huân cái ác không?
(29:43) Sư Minh Sang hỏi: Rồi những người nuôi tôm đem đi bán cũng không được?
Thầy trả lời: Đó chớ sao, mình nuôi cá nuôi tôm mà bán để lấy tiền, làm tiền bằng cách đó là mình còn tạo cho người ta làm ác theo nữa. Thì như vậy là vừa thọ cái tội ác của mình, vừa thọ tội ác của kẻ khác do mình làm ra, mình nuôi ra. Con thấy không? Tất cả những cái này là vì cái sống của mình.
Ở trên cuộc đời này nó có nhiều cái sống, tại sao chúng ta không sống cho tốt? Cho nên có một nhà nghiên cứu về loài người, người ta nghiên cứu con người xuất hiện ra đầu tiên là người ta ăn trái cây, ăn lá cây, chứ người ta không ăn thịt! Nhưng mà mãi đến cái thế kỷ nào đó, con người bị vì ai cũng ăn rồi không có chịu trồng trỉa ra, thành ra thiếu. Bắt đầu bây giờ mới đi vô rừng mà lùng những con vật mà ăn. Bây giờ mới ăn thịt, mới quen rồi, cho nên con người đã quen ăn thịt rồi. Thì bắt đầu nó đã không có thực phẩm thảo mộc, thì mình phải trồng trỉa ra thêm, thì lẽ đương nhiên mình ăn không hết chứ gì; đằng này không chịu trồng! Người xưa làm biếng lắm chớ đâu phải! Cứ đi lùng săn (loài vật) ăn thôi. Cho nên, cuối cùng cây trái không còn, bắt đầu bây giờ mới thấy con vật nhiều: Chồn, chóc, hoặc heo rừng, này kia rồi săn bắn cái đó ăn, ăn rồi cái nó quen, bây giờ bỏ ăn thịt không được!
Đó là câu chuyện của những người khảo cổ người ta viết ra. Thầy đã đọc hết những cái điều này nên Thầy thấy rất rõ: Con người đầu tiên là con người rất tốt. Bởi vì con người sinh ra mà được làm con người rất là thiện, nhưng mà mãi về sau thì chúng ta huân thành cái nghiệp (ăn thịt). Nhưng mà sinh ra, cha mẹ mình nuôi, bắt đầu cha mẹ mình ăn thịt cá, mớm con đầu tiên cũng thịt cá nữa, làm sao nó không quen? Chứ, đẻ ra rồi cứ cho nó ăn rau cải tương dưa coi, tới chừng mà bỏ thịt vào trong miệng, nó có ăn được không? Phải không? Cái gì nó cũng thành thói quen.
Cho nên ở đây, do chúng ta thành thói quen mà tạo thành cái nghiệp ác, nó mất đi cái đạo đức nhân bản, cái đạo đức gốc mà sanh con người. Cho nên, do đó mà muốn làm con người rất khó, không phải dễ. Đức Phật nói: “Được sinh làm người rất khó mà! Khó như con rùa mù tìm bọng cây giữa biển”.
Bởi vì năm cái giới của đức Phật đưa ra, thì hiện giờ chúng ta nhìn trên cái thế gian này, có thấy ai giữ đúng không? Nhất là cái giới sát sanh này, Thầy nói hầu hết là, chắc nữa rồi đi sanh làm gà, vịt, heo, dê , trâu, bò, ngựa, tôm, cá, … chứ không cách nào khác hơn hết.
Rồi lại còn thêm nuôi từ ao này, ao kia tôm cá để bán chứ gì? Rồi lại nuôi gà chuồng này chuồng kia chứ gì? Nuôi heo thì biết bao nhiêu con để bán lấy tiền. Lấy tiền rồi để làm gì đây? Cuối cùng cũng để cất nhà cửa, sắm đồ để sống! Coi như là mình hạnh phúc, chớ sự thật ra mình tạo ra biết bao nhiêu điều ác không. Cuối cùng mình sẽ chết, mình sẽ sanh làm những loài chúng sanh, đời đời làm sao mà làm người nữa, mà để có cái nhà đẹp ở?
Họ cất một cái chuồng heo để cho mình vô trong đó ở, hoặc là cất cái chuồng gà vô đó mình ở, nó hôi thúi chớ bộ! Còn không, người ta cho mình xuống dưới ao. Bắt đầu bây giờ, mấy con biết không, nuôi gà, nuôi vịt, nuôi heo, cá… Nó cho ăn ba cái đồ để cho mau lớn chứ gì, thậm chí nó không cần cho ăn nữa, nó chỉ cần chích thuốc cho mau lớn để nó bán nữa.
Con thấy không? Cuộc đời còn cái nghĩa lý gì mà mấy người lại ham đi ăn thịt cá, để rồi bây giờ mấy người đi sanh làm những con vật đó, rồi mấy người biết chừng nào mới trở lại làm người?
Sư Minh Sang: Thí dụ, giết một ngàn con, sẽ sanh một ngàn con?
Thầy trả lời: Giết một con đó! Cái hành động mà mình cắt cổ con gà, thì cái hành động đó nó sẽ tương ưng, nó sẽ sanh con gà liền tức khắc. Mình nói tại cái hành động đó đi sanh, chứ đâu phải tôi! Nhưng mà chính mình làm cái chuyện đó. Cái hiện kiếp của mình đang sống, là mình phải thọ cái quả, quả là bệnh tật. Mấy con hiểu chưa? Bởi vì mình làm đau khổ chúng sanh thì mình phải thọ cái quả, đó là cái quả hiện tại; còn cái quả tương lai khi mình chết, thì những cái nghiệp của mình, cái nghiệp của mình tạo ác đó, nó đi tiếp tục, nó cứ sanh chúng sanh không! Còn những hành động mà mình vừa cắt cổ con gà, thì từ trường cái hành động ác đó nó tiếp tục tái sanh con gà khác.
Cho nên vì vậy, biết bao nhiêu con! Họ đưa vô trong cái nhà máy để cắt cổ gà thì ôi thôi, không biết bao nhiêu mà nói, chết hàng loạt… Ai đó? Chính mấy người ăn thịt chúng sanh đó, đã làm ra để mà thọ lấy đau khổ đó. Rồi mấy người nói: “Tôi làm mà mấy con gà nó đau khổ, chứ tôi có đâu”! Ở đây bệnh rề rề, ở đó mà không đau khổ. Chưa chắc! Cắt cổ con gà thì cổ phải đau yết hầu à, không có trật; mà đâm cổ nó, rồi mai mốt ở trong cổ này nổi mụt. Mấy người đâm heo chứ gì, đâu có chạy đâu cho khỏi!
(34:21) Đã nói nhân quả, thì nhân quả nào quả nấy, mình làm cái điều ác nào thì mình phải thọ lấy cái quả khổ đó, cho nên không chạy đâu. Bởi vì quy luật nhân quả là quy luật của vũ trụ. Từ cây cỏ, đất, đá, núi, sông chúng ta có được đều theo quy luật của nó, chứ không thể nào (khác được). Bởi vì môi trường sống là nó phải môi trường duyên hợp, không duyên hợp thì nó không thành môi trường sống, mà đã là môi trường sống thì phải theo quy luật nhân quả.
Nếu bây giờ con thấy cái quy luật nhân quả con người, thì chúng ta thấy nó hành động ở đâu? Thân, Miệng, Ý có phải không? Nơi đó là nơi xuất phát nhân quả. Còn bây giờ thân, miệng, ý chúng ta đều bất động, thì nhân quả có hoạt động được không? Không hoạt động được! Con thấy rõ ràng: cây thì có lúc lặng, lúc động, rõ ràng nó đi theo quy luật nhân quả; còn chúng ta nó động không được. Bây giờ, thay vì có người chửi mình, mình giận chứ gì? Mà bây giờ biết Phật pháp rồi nên không giận, như vậy là nhân quả tác động không được rồi. Mấy con hiểu chỗ mà mình làm chủ chưa? Nhưng cây đó, gió thổi làm sao nó đứng lại được. Có phải không? Nhân quả mà, gió thổi cái cây đâu có đứng được. Nhưng mà mình gió thổi đứng im phăng phắc, bất động mà.
Cho nên, con người mình nhờ có cái trí tuệ mà mình được bất động, mà mình không tu thì mình sẽ bị động theo nhân quả, mà động theo nhân quả thì phải đi vào cái vòng luân hồi, phải sanh diệt, không thể nào chạy đâu cho khỏi hết.
Thầy giảng tiếp: (35:42) Cho nên pháp của Phật nó thực tế và cụ thể. Cho nên khi biết rồi, thì mấy con bỏ hết! Vào tu thì người ta thử thách, chỗ tu thì bao giờ cũng bị thử thách à! Không bao giờ người ta không thử thách mấy con, người ta thử thách được thì người ta mới hướng dẫn, mà không được thôi người ta không hướng dẫn. Tại vì duyên nghiệp của mấy người đấy, họ chỉ có duyên mà họ chưa đủ! Do đó thì mấy con cố gắng. Khi mà Thầy cho mấy con ra Tu viện là Thầy thử thách mấy con hết. Rồi bắt đầu mấy con được rồi, thì bắt đầu Thầy cất những cái ngôi nhà và Thầy cho mấy con đến, Thầy sẽ hướng dẫn cách thức mấy con tu.
(36:19) Bao nhiêu Tăng mà Thầy chỉ rút qua ba người. Mấy con thấy đó, một Tăng đoàn ở trong Tu viện Chơn Như mà Thầy vô Thầy chọn trong ba kỳ thỉnh nguyện, tức là một tháng rưỡi, mỗi tháng thì Thầy dặn phải giữ gìn như vậy, mà suốt trong ba tháng mà cái lỗi lầm này không chừa được, không giữ được thì phải chịu lấy, chứ không thể mà phân bì được với người khác. Rõ ràng mà, cái này đâu phân bì: “Tại sao Thầy cho người vào theo Thầy tu, mà Thầy bỏ con”? Tại vì con giữ giới không được, thì bây giờ ở lại giữ, không có phân bì Thầy được.
Cho nên cái lớp Thầy đưa vào những người mà được, thì được ở gần bên Thầy, bây giờ Thầy mới dạy cho tu tập xả tâm. Thì bắt đầu bây giờ, bất kỳ mấy con ở đâu đến đây Thầy cũng thương yêu hết, nhưng mà phải thử thách mấy con.
Phật tử: Dạ!
Thầy giảng tiếp: Cái đó là cái bằng chứng để mà dẫn dắt cho mấy con tới nơi tới chốn. Nó có trường lớp chớ, đạo Phật có trường lớp đàng hoàng. Các con thấy Bát Chánh Đạo có tám cái lớp, từ lớp Chánh Kiến cho đến lớp Chánh Tinh Tấn, thì đó là giới luật để mà triển khai cái tri kiến của mình, sự hiểu biết về Đức hạnh, Giới luật của mình. Đến cái lớp Chánh Tinh Tấn là cái lớp Tứ Chánh Cần, phải không? Mấy con sống giữ gìn mà năm cái lớp kia hẳn hòi, thì lớp thứ sáu là lớp Chánh Tinh Tấn. Nhưng mà Chánh Niệm thì nó là Tứ Niệm Xứ đó mấy con, nó phải trên lớp Tứ Chánh Cần chứ. Còn Chánh Định là Tứ Thánh Định, Tứ Thiền rồi. Mà nếu Tứ Niệm Xứ chưa xong thì làm sao nhập Tứ Thiền? Nó có lớp lang của người ta.
Cho nên Thầy dẫn dắt mấy con; bây giờ thử thách mấy con là thử thách Giới luật, là năm cái lớp này: Chánh Kiến rồi cho đến Chánh Tinh Tấn, mấy con thấy không? Được rồi, Thầy mới nhận vô để mà thực hiện Chánh Tinh Tấn, mà khi được Chánh Tinh Tấn rồi thì mấy con được gần Thầy. Còn bây giờ mấy con ở đó để mấy con sống, người vầy kẻ khác mà mình khép chặt, khép chặt khuôn phép. Khi mà khuôn phép mấy con khép chặt rồi, thì Thầy không bỏ người nào hết, Thầy sẽ lôi qua, lôi qua hết. Cho nên Thầy hướng dẫn mấy con sẽ đi tới nơi. Không khéo mấy con tuổi trẻ, mà mấy con tu như vậy là tương lai của Phật giáo rất lớn, mà không đào tạo mấy con thì còn đào tạo ai?
Sư Minh Sang: Hôm nay con nghe Trưởng Lão nói, con mới hiểu.
Thầy nói tiếp : Đó, cho nên mấy con hiểu được ý của Thầy. Tại sao Thầy không cho mấy con vô đây tu? Khi mấy con vô cảnh tịnh, mà nếu chưa có chuẩn bị cho mình, nó cô đơn quá mấy con chịu không nổi, còn ngoài kia nó động như vậy đó mà mấy con giữ được bất động thì được.
Sư Minh Sang: Dạ, nó quen rồi.
Thầy: Nó quen rồi thì vô đây nó im lặng, lại đúng với cái sở thích của mình rồi, thì do đó người ta dạy hàng ngày mình ngồi xả tâm, thì mấy con sẽ xả được. Chớ còn không, thì giới luật mình chưa xong mà vô mà xả tâm, mấy con bị phạm giới nó bung ra, tu không tới, mấy con hiểu không? Cách thức của Thầy hướng dẫn, thì vẫn đi tới nhưng mà phải nghe lời Thầy, phải làm đúng, chớ mà làm sai thì không làm sao mà Thầy cứu độ. Cho nên ráng mấy con!
(39:25) Mấy con có duyên đọc được sách Thầy, mấy con thấy Thầy hoàn toàn dạy trong cái điều kiện của đức Phật, chứ không phải dạy cái kiến giải của Thầy. Thầy không thêm một cái gì, nghĩa là Thầy dạy cái nào là phải có bài bản của Phật dạy. Mấy con thấy Thầy dạy, không bao giờ Thầy nghĩ ra mà Thầy dạy như thế này, thế khác.
Ví dụ như Thiền tông, mấy con thấy họ dạy, tự họ chế ra, tự họ rút tỉa kinh nghiệm ra họ dạy. Đó khi không, “biết vọng liền buông”, đó là một, hai nữa là tham thoại đầu, tham công án, mấy con thấy không? Rồi bây giờ từ những cái điều kiện mà tu Thiền không đạt được, rồi nó đẻ ra Tịnh Độ, nó sanh ra. Các con thấy ngài Huệ Viễn chớ ai? Ngài lập ra “Liên Trì Thư Xã” chớ gì? Rồi ngài mới chế ra những kinh sách đó, rồi ngài mới đẻ ra cái pháp Tịnh Độ, cho nên vì vậy mà ngài nói: “Người tu thiền mà tu thêm tịnh độ nữa thì như cọp một sừng” chứ gì, có phải đúng không? Làm cho người ta phấn khởi quá, vừa niệm Phật, vừa như vậy, là tu thiền chứ gì? Sự thật ra tu thiền không đạt rồi, cho nên mới đẻ ra cái này để an ủi cho mình, là mình tu cái này còn có chỗ mình đứng, đới nghiệp vãng sanh, mình còn về cõi Cực Lạc.
Đó, thì mấy con thấy họ đẻ ra, họ kiến giải họ đẻ ra, chứ họ không đi vào cái con đường của đạo Phật mà đức Phật đã dạy cho mình tất cả những phương pháp (tu tập). Từ cái chỗ mà đức Phật ngồi dưới cội Bồ đề, Thầy nhắc lại mấy con nhớ nè. Mấy con nhớ cho rõ:
Khi đức Phật hồi nhỏ, ngài đi theo Vua cha làm lễ Hạ Điền, Vua cha xuống cày ruộng. Đầu tiên trong cái vụ mùa đầu tiên, thì đức Vua phải xuống ruộng cày trước, để rồi dân mới theo đó mà cày, bởi vì người ta lấy nông nghiệp làm chính mà.
Thì đức Phật theo Vua cha chơi thôi, thì trong khi còn nhỏ mới bảy, tám tuổi, mới ngồi dưới cây hồng táo, mới bắt chước các Quan với Vua cha mà ngồi thiền, ly dục, ly ác pháp nhập sơ thiền chớ gì? Bây giờ, ông nhỏ này ông cũng bắt chước như vậy, chứ Ông biết cái gì mà ông tu, và do đó Ông ngồi thiền. Sau này khi Ông tu Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, Ông thấy không giải thoát, (lúc ấy) đức Phật mới bỏ hết các pháp. Rồi khổ hạnh cũng không có kết quả, cho nên mới bỏ, mới tìm đến dưới gốc cội Bồ đề. Bây giờ ngồi dưới gốc cội Bồ đề cũng chưa biết pháp nào tu, mới nhớ lại hồi nhỏ mình có ly dục, ly ác pháp chứ gì. Rồi bắt đầu, bây giờ cũng ly dục ly ác pháp.
Mà ly dục, ly ác pháp thì hồi đó, mình được các vị dạy cho nhập Không Vô Biên Xứ, với Phi Tưởng Phi Tưởng Xứ thì nó cũng giống nhau, ức chế tâm không vọng tưởng chớ gì? Như vậy ông Phật ông thấy không được, như vậy là rõ ràng ly dục ly ác pháp này không đúng. Bởi vì, ngồi lại giữ cái tâm mình bất động chớ gì? Ly dục, ly ác Pháp chớ gì? Chớ còn cách nào nữa khác hơn. Ngoại đạo nó biết cách gì nó dạy hơn, cho nên ông Phật nói: “Như vậy không đúng”. Cho nên Ông tư duy suy nghĩ từng cái niệm khởi trong đầu của mình, phải tư duy quán xét xả như thế nào, cho nên mới lòi ra cái pháp Tứ Chánh Cần, có phải không? Ngăn ác diệt ác, chớ đâu có ngồi đây mà ức chế ý thức, từ đó mới đẻ ra được cái pháp “Tứ Chánh Cần”.
Khi mà pháp Tứ Chánh Cần, đức Phật tu tới cái chỗ thấy tâm nó yên lặng, bất động thì đức Phật cảm nhận rõ ràng, tự nó thấy toàn thân một cách rõ ràng. Bởi vì lúc bây giờ nó bất động rồi, thì nó không niệm chứ gì, mà nó cứ ở trên cái thân nó thấy, bởi vì nó phải trụ ở trong thân nó thôi, thì nó trụ trong thân thì nó cảm giác. Còn mình chưa trụ trong thân mà bắt phải quán thân chứ gì? Do đó thì mình đẻ ra thiền Minh Sát Tuệ. Có phải không, Thầy nói mấy con suy nghĩ phải không?
Từ Tứ Chánh Cần người ta mới đi tới Tứ Niệm Xứ, là vì nó đạt được Tứ Chánh Cần thì tự nó quán trên thân nó, khi mà tự nó quán trên thân rồi thì chúng ta mới tu Tứ Niệm Xứ. Chứ đâu có phải tâm còn dục không, mà muốn tu Tứ Niệm Xứ là được sao? Có phải không? Rồi bây giờ mình chưa có gì hết, rồi mình đẻ ra cái chuyện “Trên Thân Quán Thân” bằng cách là “Quán Thân” cái kiểu đó.
Là (phải tu từ) Tứ Chánh Cần, từ Tứ Chánh Cần nó mới ra được Tứ Niệm Xứ. Cái kết quả của Tứ Chánh Cần nó mới quán thân. Còn mình chưa có kết quả của Tứ Chánh Cần mà ngồi quán thân, thì dùng quán thân để ức chế rồi. Đó là thiền Minh Sát Tuệ, sai mất rồi! Cho nên cuối cùng các sư không có được gì hết!
(43:33) Thầy nói, đúng là họ nhập vào thiền tưởng nên mới có thấy tưởng, tưởng như khói, thấy nó hiện ra ánh sáng, hoặc là khói trắng. Đây là định tướng rồi, các sư mới mừng. Rõ ràng là mình ngồi đây im lặng không vọng tưởng mà thấy cái dạng như là khói trắng đó, thì đây là định tướng rồi, xúm nhau mà mừng!
Không ngờ là Thầy đã biết cái này rồi quá, bởi con đường đi Thầy biết mà, bị lọt vô tưởng nó phải như vậy thôi, cho nên các sư tu sai rất uổng. Nhưng mà bây giờ ai biết sửa? Chỉ thấy những cái kết quả này thì ai cũng mừng thôi chứ, chớ họ có biết họ đi tới chỗ nào để làm chủ?
Nhưng mà không ngờ là khi trên Tứ Niệm Xứ, người ta đến đó nó không có hiện cái tướng nào hết, mà nó đi đến cái tâm Vô lậu. Cái tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự, nó không có cái tướng gì cả hết. Cho nên từ cái tâm vô lậu đó, nó mới thực hiện trong suốt thời gian mà kéo dài bảy ngày đêm. Nó thực hiện từ cái Năng Lực Của Giác Chi: Khinh An Giác Chi, Hỷ Giác Chi, rồi Niệm Giác Chi, Định Giác Chi, Xả Giác Chi. Tất cả những cái giác chi này nó hiện đủ, thì nó thành Tứ Thần Túc, bốn cái lực như thần! Dục Như Ý Túc, đó là một cái phải không, Tinh Tấn Như Ý Túc, Định Như Ý Túc, Tuệ Như Ý Túc. Mấy con có nhớ Tứ Thần Túc không? (44:50)
Bây giờ nó hiện ra cái lực như vậy là cái lực của Ý thức của chúng ta, khi mà xả tâm thì chúng ta thường tác ý, mà đến Tứ Niệm Xứ thì chúng ta đâu còn tác ý nữa mấy con. Bởi vì nó bất động mà, nó tự nó quán rồi nó bất động rồi, đâu còn (tác ý nữa), nó kéo dài cho đạt được cái tiêu chuẩn tâm vô lậu của nó là bảy ngày đêm. Cho nên đức Phật nói: Bảy ngày, bảy tháng, bảy năm. Nhưng không ngờ tu suốt cái thời gian bảy năm nó gồm lại bảy tháng; bảy tháng đó nó mới kéo dài được bảy ngày cho chúng ta; bảy ngày tâm vô lậu nó mới đạt được cái Tâm Vô Lậu.
Mà khi suốt trong bảy ngày đó mà con còn có đói, thì con còn lậu hoặc. Nó không có đói đâu! Bảy ngày đêm người ta không có đói khát nữa. Bảy ngày đêm, người ta không còn cảm thọ đau đớn trên thân nữa mà nó vẫn sống bình thường, như một người bình thường. Chứ nó không phải lọt trong cái trạng thái tưởng nào; còn lọt trong trạng thái tưởng mà ngồi sáu tháng như một cái chú bé ở Ấn Độ phải không? Đó là sai pháp. Đừng có nói chuyện như vậy là làm Phật, Phật không phải chuyện đó đâu! Phật sống bình thường, (nhưng) tâm vô lậu.
(45:59) Đó mấy con thấy không? Phải tu như vậy mới đúng. Bởi vì pháp Phật cái nào Thầy thông suốt, bởi vì qua kinh nghiệm của Thầy tu rồi. Hồi đầu Thầy mày mò cũng gần chết, nhưng mà khi tu rồi mới thấy: À, như vậy rõ ràng là ông Phật tu như vậy, như vậy… Thông suốt như vậy rồi.
Rồi đâu phải mà nghĩ tưởng không đâu, lại còn dùng cái Tuệ Tam Minh của mình để quan sát, coi trong thời đức Phật ông tu như thế nào? Đâu phải cái hình ảnh đó ở Ấn Độ đâu, nó ở trên toàn cả cái vũ trụ của chúng ta. Bây giờ muốn thấy hình ảnh của đức Phật ngày đó ngồi dưới cội Bồ đề tu cái gì, làm cái gì, tư duy, suy nghĩ cái gì đều có hết. Các con thấy, Tuệ Tam Minh của người ta, làm cái gì ai mà dấu được người ta. Con hiểu không? Không có hình ảnh nào giấu được!
Sư Minh Sang thưa hỏi: Đức Phật ngồi dưới cội bồ đề 49 ngày có đi đứng gì, hay chỉ ngồi một chỗ vậy Thầy?
Thầy trả lời: À! Trong cái thời gian đầu còn đi đứng, nhưng mà kế đó suốt bảy ngày đêm Thầy nói: không đi đứng, không ăn uống, không đi khất thực, không đi gì nữa hết.
Sư Minh Sang: Vậy lúc trước 49 ngày còn có đi đứng không ạ?
Thầy trả lời: Còn đi đứng chứ chưa phải ngồi lì, không phải ngồi một chỗ được, còn đi đứng. Tu trong bốn oai nghi đó con: Tư duy, suy nghĩ cho đến thanh tịnh. Sau này Ông A Nan chỉ đi kinh hành không, mà một đêm chứng Đạo đó con.
Đó, thì mấy con thấy ở trong vấn đề tu tập, phải có người thiện hữu tri thức dạy, chớ không khéo lơ mơ là chúng ta bị ức chế. Thôi, bây giờ thì mấy con đã hiểu rồi thì cố gắng sống giữ gìn những cái hạnh, cái đức cho Thầy rồi có ngày sẽ gặp Thầy. Thầy nói chắc chắn là mấy con quyết tâm tu để giải thoát, đời không có gì, đời là toàn khổ mấy con ạ. Thầy nói thật sự, mấy con lãnh một cái chùa to là mấy con đã có cái nghiệp lớn của mấy con rồi, có Phật tử tới lui là mấy con đã khổ rồi, mấy con không còn tu gì được nữa.
Thà là bây giờ mấy con còn một vị tu sĩ, không còn có ai, thậm chí mấy con tu rồi mấy con dặn gia đình đừng có gọi điện thoại, đừng có báo gì hết. Trong thời gian mà đến Tu Viện này là nỗ lực sống độc cư, giữ im lặng trọn vẹn, thì như vậy mấy con sẽ tới nơi; chớ còn mấy con còn gọi tới gia đình, gọi tới gọi lui, thì mấy con tu không được. Và đồng thời coi như độc cư, độc bộ, độc hành, không chơi với ai hết.
Nghĩa là, vô đây quyết tâm rồi thì Thầy nói mấy con sẽ tu không lâu, cao lắm, nếu mà sự thật được rút theo Thầy thì sáu tháng đến một năm là mấy con chứng Tâm Vô Lậu. Còn chưa được thì mấy con ở bên đó một năm, hai năm, ba năm, giữ trọn vẹn những cái giới luật đức hạnh. Nếu mà trong vòng sáu tháng, giới luật đức hạnh mấy con trọn vẹn được Thầy rút liền, sáu tháng thôi, không lâu; mà mấy con giữ không trọn, thì mấy con lâu à.
Sư Minh Sang: Dạ, tức là do tụi con ạ.
(48:44) Thầy trả lời: Do phần mấy con! Ăn - Ngủ - Độc cư nè phải cố gắng. Nhớ! Biết pháp đi kinh hành không? Đi Thân Hành Niệm? Thì cứ ôm pháp. Giờ này không phải giờ ngủ, tức là phải đi kinh hành, chớ không có thể ngồi đó mà chịu đựng nổi với nó đâu. Không thắng nổi! Phải đi kinh hành.
Mà đi kinh hành có phương pháp: Đừng có buồn ngủ rồi đi vô phòng tắm để tắm, hoặc là tập võ, hoặc là tập thể thao, thể dục đều sai pháp hết. Phật dạy chúng ta chỉ có đi kinh hành thôi. Mấy con nhớ kỹ, có đi kinh hành thôi! Rồi kềm theo đó có cái pháp Thân Hành Niệm mới tạo cho chúng ta có cái lực: sức tỉnh thức. Khi mà phá được hôn trầm thì sức tỉnh thức của mấy con nó có cấp độ cao; mấy con phá chưa được hôn trầm thuỳ miên thì cấp độ tỉnh thức mấy con còn kém. Mà đi kinh hành, mà tập Thân Hành Niệm thì sức tỉnh thức của mấy con càng ngày càng cao, mà càng cao thì hôn trầm thuỳ miên hết.
Mấy con nhớ! Nhiêu đó là đủ rồi, để rồi vào đây mà tỉnh rồi thì ngồi xả tâm mới được, mới ngăn ác, diệt ác, ly dục ly ác pháp. Thiếu sức tỉnh thức mà ngồi tu Tứ Chánh Cần, người ta đâu cho ha. Cho đâu có được, ngồi đó mà nó im lặng một hơi, im lặng không có niệm một cái là mấy con gục đó, bảo đảm với mấy con là một trăm phần trăm. Mấy con tỉnh mấy con mới xả, chớ còn gục thì làm sao xả. Do đó, mấy con cũng từ cái tri kiến của mấy con nghe lời Thầy, mấy con hiểu, Thầy nói rất đúng không có sai đâu. Ráng cố gắng! Bây giờ mấy con cứ yên tâm. Bây giờ vô trong Tu viện xin ở trong đó, Cô Út cho cái thất. Ráng tu, mấy con.
Sư Minh Sang: Dạ, bây giờ con phải đi về lại Thành phố cái ạ. (TP.HCM)
Thầy: Rồi, được rồi mấy con đi về.
Sư Minh Sang: Dạ, xin để quý thầy này ở đây …
Thầy: Được con. Con ở tạm đây đi, rồi vài hôm con cứ lên, rồi con cứ dẫn qua bên đó nói với Cô Út cho mấy con ở, ở đây Tu viện cho một cái thất ở.
Sư Minh Sang: Dạ, bây giờ thầy này ở đây trước phải không ạ?
Thầy trả lời: Bây giờ ở tạm đây đi, bởi vì con chưa quen bên đó phải không?
Phật tử hỏi: Dạ chưa biết bên đó.
Thầy: Tưởng con biết, thì con qua bên đó con giới thiệu thì được.
Sư Minh Sang: Dạ, con cũng ngại. Bởi vì lúc con đi, con thấy cũng phụ lòng cô Út quá…
Thầy: Được rồi, bây giờ để Thầy sẽ viết cho mấy chữ, rồi cầm mấy chữ đó, con cầm qua bên Cô Út.
Sư Minh Sang: Để con chở thầy này sang bên ấy.
Thầy: Con có giấy, viết gì không đưa đây Thầy viết cho.
Sư Minh Sang: Dạ, để con chở qua đó cũng được.
Thầy: Để Thầy sẽ viết cái tờ giấy để Thầy giới thiệu cho mấy con qua đó, Cô Út sẽ chấp nhận cho con ở bên đó để mấy con tập thực hành.
Sư Minh Sang: Dạ, còn giấy tờ thì sao hả Thầy?
Thầy: Qua bên đó thì mình đăng ký về giấy tờ của mình. Thí dụ, bây giờ tôi ở đâu, ở đâu… Giấy tờ của mình thì mình sẽ đăng ký cho xã của mình ở đây thôi, chuyện đó dễ thôi mà. Mình là người Việt trong nước, mình cứ đưa giấy tờ đăng ký, rồi người ta cho ở. Khỏi có tạm vắng, tạm trú gì hết.
Sư Minh Sang: Dạ, thầy đây mới tu nên chưa có giấy tờ xuất gia ạ.
Thầy: Xuất gia hả con? Không sao! Bây giờ mình coi như là cư sĩ đi, khỏi cần lo gì hết. Bây giờ mình đưa cái giấy chứng minh của mình, xin tạm trú ở đây một thời gian để mà giữ giới luật đức hạnh, nếu mà giữ giới luật đức hạnh được thì tôi sẽ xin ở luôn, có vậy thôi.
Sư Minh Sang: Dạ, để chúng con lấy giấy viết ạ.
Thầy: Rồi, Thầy sẽ viết giấy cho, rồi mấy con sẽ đem cái giấy vô trong đó, cho nó bảo đảm mấy con vô trong đó tu.
(52:20) Một cô phật tử thưa: Dạ, Con xin hỏi Thầy.
Thầy bảo: Con ngồi xuống đi con.
Phật tử: Dạ! con vào đây là 3 tháng rưỡi ạ, con ăn có một bữa, không nghĩ gì đến thèm khát gì nữa…
Thầy: Vậy hả con! Vậy là giữ hạnh ăn được rồi.
Phật tử: Ba ngày nay con bắt đầu tập Định Niệm Hơi Thở, con nói: “Cảm giác toàn thân an lạc”, con cũng thấy là, trước đây con không dám nghĩ đến… Con chỉ biết hít vô hơi thở dài, hơi thở ngắn, và “an tịnh thân hành”. Bắt đầu hôm qua con mới tập đến đề mục: “Cảm giác toàn thân an lạc con biết con đang hít vô, cảm giác toàn thân an lạc con biết con thở ra”, thì con thấy là người con nó im lặng. Im lặng hết và tỉnh lắm. Lúc bấy giờ là 30 phút rồi, con chỉ ráng thêm có 10 phút thôi, con thấy rất là tĩnh, nhưng mà con sợ và con không dám thêm nữa, bởi vì con cũng sợ có vấn đề gì sai, con lại sợ tưởng.
Thầy trả lời: À, không phải, bây giờ Thầy nói như thế này nè: Định Niệm Hơi Thở có 18 đề mục lận, có 18, 19 cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở con. Bây giờ con tu, con nhiếp được một cái, tâm con nó bất động được 30 phút rồi, con không tu thêm. Bắt đầu mới tu cái đề mục khác! Rồi tu cái đề mục khác trong bao lâu để mà nó thuần thục cái đề mục đó. Nó quán ly tham, quán ly sân, quán ly si, tất cả mấy cái đề mục này đều phải lần lượt tu hết, để chuẩn bị cho cái sự xả tâm ly dục, ly ác pháp cho nó sạch sẽ. Cho nên khi mà hướng dẫn cho con, con mới sống đúng những cái đức hạnh: Ăn - Ngủ - Độc cư trọn vẹn đó, thì bắt đầu người ta dạy con vào Tứ Chánh Cần, thì cái tâm của nó ngồi tu Tứ Chánh Cần nó tỉnh bơ, nó rất tốt con.
Mà tu Định Niệm Hơi Thở rồi, chẳng hạn con ngồi tâm không yên, bắt đầu con nói “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”, thì nó yên; tâm con nó lăng xăng nó vọng tưởng con nói: *" An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra"*, thì nó sẽ im liền tức khắc à con.
(54:24) Phật tử hỏi: Bạch Thầy, con cũng mới tập được 30 phút, nếu con tiếp tục nâng lên, con để thử xem cái tâm nó như thế nào, có được không ạ?
Thầy trả lời: Được con! Con cứ để coi thử cái tâm nó yên không? Mới đầu con tập từ đề mục thứ nhất cho tới đề mục thứ tư thôi, đừng tu tập nhiều, chừng để tới đó Thầy sẽ dạy tiếp theo, phải không!
Phật tử: Dạ! Thưa Thầy con về.
Thầy ngồi viết thư để giới thiệu 2 sư thầy mới đến cho cô Út biết.
(55:26) Thầy: Hai con phải không, con với vị thầy này phải không?
Thầy viết tiếp: “Con hãy giúp đỡ hai vị Thầy này…”
Sư Minh Sang: Dạ, cô Út thì con có biết rồi ạ.
Thầy vừa viết thư, vừa đọc nho nhỏ: “Con hãy giúp đỡ hai vị Thầy này có chỗ ở tu tập, để giữ gìn hạnh Ăn - Ngủ - Độc cư”… rồi Thầy lại viết tiếp.
Thầy viết thư xong và quay sang nói với sư Minh Sang: Con hãy cầm cái giấy này đưa cho cô Út. Rồi sau đó con giải quyết xong rồi con nói là: “Con còn ít chuyện để con đi về Thành phố, rồi con sẽ trở lên thăm”. Con nói với cô Út như vậy. Trong cái giấy này Thầy có giới thiệu mấy con, qua đó cô Út cô sẽ sắp xếp cho.
Ráng cố gắng! Mấy con ráng cố gắng! Thầy nỗ lực giúp đỡ cho mấy con, ráng mà giữ gìn giới luật, đừng phụ lòng Thầy nghe mấy con. Thầy lo cho mấy con, mà mấy con phụ lòng Thầy, Thầy rất buồn! Rất buồn là tại sao? “Mình lo cho mọi người mà họ tu tập như thế này, thiệt là uổng công mình quá”! (Thầy cười)
(57:42) Phật tử hứa: Chúng con sẽ cố gắng tu tập.
Thầy khuyên: Ráng con! Có một điều gì đó thì sắp xếp ngay từ bây giờ, sắp xếp hết. Bây giờ Thầy đã giới thiệu cho cái thơ qua chỗ cô Út rồi, nếu có cái điều kiện gì thì con nói để con sắp xếp cho nó ổn hết. Khi mà vô rồi thì quyết định là đi tới, chứ đừng có ra vô, ra vô… là tu không có được, vì nó bị động.
Phải sắp xếp cho nó xong hết, còn cái gì ghút mắc là phải sắp xếp hết. Hoặc một tháng, hoặc là năm tháng, ba tháng…, một năm cũng được nữa, nhưng mà phải sắp xếp cho ổn. Vô đây là chỉ còn có: “Một là chết, hai là chứng đạo”, có vậy! Có tâm huyết như vậy thì sẽ được. Chứ không khéo, cái nghiệp của mình, cái duyên cái nghiệp của mình nó hay lôi tới lôi lui, mất công tu hoài không tới. Vô tu không có chuyện gì, ít bữa đây nó xảy ra, kêu gọi chuyện này, chuyện kia, chuyện nọ nữa thì thôi rồi, rốt cuộc là uổng công của mấy con, mà mất công Thầy! (Thầy cười). Nhớ không?
Thầy nói với cô Phật tử: Còn con, cố gắng con, tập đi. Cái hơi thở, con thở nó thông suốt phải không con?
Phật Tử: Dạ.
Thầy giảng tiếp: À, thông suốt thì, muốn tập về hơi thở, tức là tập căn bản nhất là Định Niệm Hơi Thở. Nó có những đề mục, nó có thể giải quyết tất cả những cái tâm: Tham, sân, si, mạn, nghi gì, tất cả đều là nó giải quyết hết được. Thân mà không an nó giải quyết được an, tức là nó đẩy lui được bệnh.
Về Định Niệm Hơi Thở, nó có đủ cái lực của nó đó, cho nên tâm mà vọng tưởng hoặc là loạn tưởng đi nữa, thì đề mục của nó sẽ giúp cho tâm của con không vọng tưởng. Cho nên vì vậy, những cái điều kiện đó, những cái phương pháp đó giúp cho mấy con tu tập. Nhưng mà không phải vì nó mà để ức chế thân tâm của chúng ta.
Cho nên để lần lượt rồi Thầy sẽ dạy từ từ. Bây giờ mấy con cố gắng giữ những cái hạnh: Ăn, ngủ, và độc cư; cái hạnh ngủ này nó vất vả cho mấy con lắm. Nhớ cho kỹ! Phải siêng năng đi kinh hành, chớ mà lơ mơ là ngủ nó dập đó. Rồi độc cư là phải tránh duyên, chứ không được nói chuyện với ai hết, để mình sống cho nó quen cái nếp. Độc cư là cái nếp tu. Phải tập thành nếp sống, chứ cứ nói chuyện nhau thì thôi, nó không thành cái nếp.
(1:00:00) Sư Minh Sang: Cái mũi con bây giờ nó nghẹt có một bên này, nó không có Định Niệm Hơi Thở được. Bây giờ con nghe vậy, để con dùng thuốc một thời gian cho nó thông, được không Thầy?
Thầy trả lời: Được!
Sư Minh Sang: Rồi con mới vô quyết chí luôn, để đánh luôn, chứ để nó cứ gục tới gục lui hoài.
Thầy trả lời: Đúng vậy đó con.
Sư Minh Sang nói tiếp: Con nghĩ bây giờ con giải quyết cái mũi của con, là con không có bệnh gì nữa là con quyết chí đi một đường luôn.
Thầy trả lời: Được rồi, phải tự lo trị đi. Bởi vì bệnh là một trong 5 điều khó tu mà đức Phật đã xác định. Cho nên có bệnh; bất kỳ có bệnh nhỏ, bệnh lớn gì thì phải cho nó ổn đi, chớ còn để bệnh mà vô tu, gặp Thầy dạy, thì gặp bệnh nó cản đường mấy con.
Sư Minh Sang: Khi con Định Niệm Hơi Thở, nghẹt quá con không được… đâu.
Thầy trả lời: Không! Con tu không được nó đâu. Thôi, rồi! Được rồi. Xong rồi hả mấy con?
Thầy dặn cô phật tử: Con đi con nhớ Thầy nghe con, ba cái hạnh này phải giữ trọn cho Thầy, thôi Thầy về.
Cô Phật tử hỏi: Bạch Thầy, ngoài giờ con lao tác một chút có được không ạ?
Thầy trả lời: Được con! Cũng không sao, đó là mình lao tác cho nó vận động, một chút cho nó vui, như rửa rau, lang, bông đồ cũng được. Thôi mấy con nghỉ đi! Thôi, bây giờ chuẩn bị Thầy về, Thầy chào mấy con!
KẾT THÚC
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian: 16/05/2001
Thời lượng: [02:11:10]
Phật tử: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Hôm nay là ngày 16/05/2001, nhân chuyến về Việt Nam thăm quê hương, chúng con có duyên may được diện kiến Hòa thượng Thích Thông Lạc, tại Tu viện Chơn Như, Trảng Bàng. Thầy đã từ bi ban cho chúng con những lời pháp nhũ, để chỉ dạy cho chúng con, con đường thoát khổ sanh, già, bệnh, chết. Chúng con xin đê đầu đảnh lễ tạ ơn Thầy.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Dạ thưa con xin phép Hòa thượng, Dạ cái câu hỏi mà thứ nhất của nhóm Nguyên Thủy là như thế này. Chúng con là những Phật tử tu theo Nguyên Thủy dưới sự hướng dẫn của Thầy, trong khi gia quyến bạn đạo có người qua đời, chúng con đến viếng thăm thì phải làm thế nào? Nghi lễ ra sao? Xin Thầy từ bi chỉ dạy?
Trưởng lão: Trong cái vấn đề, nếu mà trong những cái người bạn của mình hoặc là những người thân mà qua đời thì điều trước hơn hết mình đến mình viếng thăm, mình chia buồn mà không nên tụng niệm. Mà chỉ đến chia buồn một cách rất bình thường. Và đồng thời thì mình an ủi bạn bè của mình, chứ đừng có tụng niệm gì hết.
Nhưng trước khi cái người mà khi mất, người mà bạn của mình khi mất, mình đến mình thăm bệnh, sắp sửa mất đó thì mình đừng hộ niệm gì hết. Mà mình chỉ nhắc cố gắng giữ tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Nhớ nhắc cái điều đó: “Giữ tâm thanh thản, an lạc và vô sự”. Và đồng thời mọi người đến mà thăm đó, mình ước nguyện. Nghĩa là mình nỗ lực mình thực hiện cái giới luật của Phật để ước nguyện cho người đó sau khi mất mà đủ cái duyên để gặp được cái chánh pháp của Phật.
Còn nếu mà người đó đã mất rồi thì các con sẽ đến chia buồn, thì các con đứng trước cái quan tài của cái người chết, thì các con ước nguyện là tôi tu tập mà cố gắng giữ gìn giới luật của Phật. Mong rằng người đã mất đi sẽ tiếp tục tái sanh, gặp được chánh pháp, trên con đường tu tập theo đúng Phật pháp, thì cái sự ước nguyện đó là cái sự sống của mình đúng với Phật pháp, thì cái sự ước nguyện đó nó sẽ thành tựu.
(2:25) Chứ đừng tụng niệm, đừng làm gì hết, thầm ước nguyện ở trong lòng của mình mà thôi, đó là cái điều của người cư sĩ theo Nguyên Thủy. Vì đức Phật có dạy với tất cả các cư sĩ cũng như tu sĩ, khi mình muốn làm một điều gì, mình ước nguyện một điều gì thì hãy giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì ước nguyện sẽ được như ý nguyện mình. Đó là cái lời của Phật dạy trong bài Ước Nguyện trong kinh Trung Bộ, các cư sĩ hãy nhớ điều này.
Bởi vì chúng ta thường là bị ảnh hưởng của Đại thừa giáo quá nhiều, nên thấy tụng niệm không, hộ niệm cho cái người trước khi chết, rồi tụng niệm để cầu siêu, cầu an cho người chết. Đó là một việc làm không đúng mà chỉ còn ước nguyện mà thôi, ước nguyện với cái tâm thành, với cái sự giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì cái sự ước nguyện đó sẽ được thành tựu. Khi cái người đó mất đi tức là người đó chết thì người đó sẽ tiếp tục tái sanh chứ không phải (không nghe rõ).
Vì đối với chúng ta nên biết trong cái sự sống của chúng ta, nó khó lắm, nó chỉ là một cái sự thay đổi chứ nó không có sự chết đi. Vì chúng ta có không có cái trí vô hạn, cho nên chúng ta còn nằm trong trí hữu hạn, vì vậy chúng ta thấy có sanh tử. Trái lại, một người có trí vô hạn thì họ không thấy có sự sanh tử mà chỉ có sự thấy thay đổi của họ.
Vậy thì trong môi trường sống, như chúng ta cũng đã hiểu từ trong môi trường sống nó mới sanh ra chúng ta. Nếu không có môi trường sống thì không có sanh chúng ta. Cho nên các tôn giáo đều đặt câu hỏi: “Con người từ đâu sanh ra? Chết đi về đâu?”. Thực sự con người từ ở trong môi trường sống mà sanh ra, rồi chết cũng trở về môi trường sống, nhưng đối với cái người mà trí hữu hạn thì không có sanh và tử, chỉ có một sự thay đổi của định luật nhân quả mà thôi.
(4:21) Do đó đạo Phật đã xác định rõ ràng, như trong kinh đức Phật nói: “Con người là thừa tự của nhân quả. Nhân quả là cha mẹ của con người”. Chứ không ai khác hơn. Vì vậy mà khi chúng ta đến thăm, chia buồn, chúc tang cho một người gia đình mình cũng như gia đình của bạn bè, thì tốt nhất là mình hãy ước nguyện, ước nguyện bằng cái sự thực hành giới luật của Phật nghiêm chỉnh, để ước nguyện cho cái người mất, cũng như cái người còn sống mà gặp tai nạn mình ước nguyện. Mình giữ gìn giới luật mình ước nguyện thì cái tại nạn cũng như người mất sẽ được may mắn đúng chánh pháp để tự họ thực hiện, mới đem lại sự ước chứng của bản thân mình, chứ chúng ta không làm giúp gì cho họ khi định luật nhân quả đã xảy ra, đã quy định rất cụ thể, rõ ràng tự làm ác thì phải tự thọ lấy khổ, mà tự làm thiện, thì chính mình mình cũng được phước, mấy con yên tâm chỗ này (không nghe rõ), đó là cái bài thứ nhất nói về (không nghe rõ).
(05:30) Phật tử: Dạ con có một chút thắc mắc đó là như thế này. Là khi mà chúng con chẳng hạn như bây giờ là tại vì cái chúng con là cái nhóm Nguyên Thủy, là khi chúng con mà gặp trường hợp như vậy, thì có thể là một nhóm tới năm, mười người đến thì làm thế nào mà để cho có những cái nghi lễ cho nó gọi là nó thống nhất, cho nó đều.
Chứ nếu mà mình chỉ tới rồi người này đứng, người kia nhìn chẳng hạn như vậy, thì có thể là một cái người trong gia đình không hiểu, mặc dầu mình lúc đó mình đứng ở với một cái tâm niệm là ước nguyện cho cái người mà đã khuất và ra đi mà trong cái cõi lạc. Thì mình chỉ đứng như vậy mà mình không có một cái câu niệm Phật, chẳng hạn như là Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật hay là những cái câu mà mình xướng lên, thì như vậy có thể là làm cho người thân nhân của họ nghĩ rằng mình không có giúp ích được gì cho thân nhân của họ hay không?
(6:23) Trưởng lão: Thật sự ra thì cũng là một cái hình thức để an ủi cho những người mà có một cái sự đau buồn, mất mát thì chúng ta nên niệm hồng danh của đức Bổn Sư. Thí dụ như bây giờ một nhóm chúng ta làm một cái lễ viếng tang thì chúng ta đặt cái lễ viếng tang trước cái quan tài, rồi nhóm chúng ta ngồi sang rồi, chúng ta đồng thanh niệm hồng danh đức Bổn Sư ba lần và tiếp kế đó chúng ta đọc cái bài Ước Nguyện. Thì cái bài Ước Nguyện đó, nó có lẽ là Thầy sắp cho mấy con, chứ không có gì.
Phật tử: Dạ con cám ơn, rất là cám ơn nghĩa là Thầy… Đó là điều mà anh em nhóm Nguyên Thủy chúng con vẫn là còn ưu tư là tại vì là chúng con, ở bên đó thì dù sao trong cái những buổi lễ mà như vậy đó, thì bên Tịnh Độ họ cũng có những cái hình thức nghi lễ rất là rườm rà.
Chúng con thì không bao giờ mà mong là làm như vậy, nhưng nếu chúng con chỉ đến với một cái sự im lặng thì Hòa thượng dạy rất là thích hợp, rất là quý cho những cái người vừa mới ra đi, nhưng để lại trong tâm của những người ở lại một cái gì làm như là mình thờ ơ đối với họ. Thành ra ngày hôm nay là Hòa thượng đã chỉ dạy cho chúng con như vậy, chúng con thật là vô cùng đội ơn Hòa thượng.
Trưởng lão: Coi như là mấy con mọi mọi cái điều gì mà cần thiết, mấy con đặt hỏi rồi Thầy sẽ trợ giúp mấy con, để cho chúng ta có sự giao tiếp với nhau. Mặc dù cái hình thức nó cũng có thể nói lên được cái nội tâm của chúng ta đối với những con người, trong tâm chúng ta. Chớ nếu mà không có hình thức thì nội tâm chúng ta không có như vậy.
Cho nên ở đây có cái gì con hỏi rồi lần lượt Thầy sẽ giúp đỡ các con. Chớ nếu mà không khéo thì chúng ta hoàn toàn trong cái nội tâm của mình, mà mình thấy không có thì người ta thấy mình vô tình. Nhưng mà hình thức như thế nào để đúng, chứ còn hình thức mà quá trừu tượng và mơ hồ thì không có nghĩa. Nên ở đây cái hình thức nó phải hợp với cái nền đạo đức nhân bản – nhân quả đạo Phật, thì đúng.
Cho nên vì cái đó mà Thầy sẽ giúp đỡ các con, bởi vì Thầy nghĩ rằng cái giáo án tu tập cho người cư sĩ nó còn nhiều điều cần phải viết ra để giúp cho các con biết cách mà, mà chứ không phải riêng có một cái phần tu tập không đâu, mà còn cái mặt giao tiếp nữa. Bởi vì là người cư sĩ các con còn phải nhiều cái duyên sự trong giao tiếp ở trong mọi cái nghiệp. Nếu mà không khéo thì chúng ta không có cái mặt mà giao tiếp thì, như người cư sĩ thì không thể (không nghe rõ).
Phật tử: Con đội ơn Hòa thượng. Sau đây là con xin phép Hòa thượng cho chúng con được hỏi câu hỏi thứ hai. Dạ, là khi tu tập Định Niệm Hơi Thở, Thầy dạy chúng con trụ tâm nơi tụ điểm ở nhân trung, (dạ chỗ này). Nhưng có vài người bị cao huyết áp khi trụ tâm nơi tụ điểm ở nhân trung thì sẽ làm huyết áp càng tăng cao hơn. Trong khi theo dõi hơi thở phồng xẹp nơi bụng thì huyết áp không bị tăng cao. Như vậy có gì khác biệt trong hai cách thở này? Xin Thầy từ bi chỉ dạy.
(09:39) Trưởng lão: Các con nhớ rằng đức Phật không phải là cố định ở trong Định Niệm Hơi Thở mà tập luyện. Mà hơi thở chỉ là một Thân Hành Niệm của Thân Hành Niệm. Mà Thân Hành Niệm thì rất nhiều, chớ không phải là có một cái đó thôi. Ví dụ như người bị bệnh về phổi thì cũng không nên dùng hơi thở mà tu, cao huyết áp cũng không nên dùng hơi thở mà tu hoặc là khi tập trung mà ngay chỗ nhân trung mũi mà bị nặng mặt, bị căng cơ ở mặt thì cũng không nên tu hơi thở.
Chỉ hành động tu của Thân Hành Niệm thì tức là đi kinh hành hoặc cho mình lao động hoặc làm cái gì đó động thân thì chúng ta sẽ sử chúng riêng cái hơi thở. Bởi vì mục đích dùng cái Thân Hành Niệm để giúp chúng ta tỉnh giác, tỉnh thức để mà xả tâm chứ không phải là tỉnh giác để đi vào thiền định được.
Cho nên khi mà tâm chúng ta ly dục, ly ác pháp hoàn toàn thì cái tâm của chúng ta nó sẽ định trên hơi thở, do đó chúng ta không bị tập trung, không bị căng. Nếu mà chúng ta hiện giờ mà có những cái bệnh khó khăn để mà tập trung hơi thở, thì lúc bây giờ chúng ta cố gắng tập trung thì chúng ta sẽ sinh thành bệnh.
Đó, cho nên do đó mà chúng ta sẽ linh động và tu tập khéo léo, khi người bị bệnh như vậy thì chúng ta không nên tập trung vào hơi, mà chúng ta chỉ tập trung nơi hành động. Nơi hành động, thí dụ như bây giờ cơ bụng phình xẹp cũng là một cái hành động của cơ bụng của chúng ta, nhưng theo trong thân của chúng ta không nên tập trung chỗ này vì nguy hiểm, mà tập trung trong hành động, thứ nhất là một cái hơi thở có nhiều cái nguy hiểm rất là nguy hiểm.
Cho nên muốn tu tập Định Niệm Hơi Thở, cái người mà tu tập phải được một vị thầy có kinh nghiệm sẽ hướng dẫn, không khéo thì mình lại bị dùng hơi thở ức chế tâm, điều đó nó sẽ bị sai. Cho nên khi mà một người mà tu hơi thở, thì luôn luôn phải được một vị thầy theo dõi, theo dõi để giúp đỡ.
Còn không thì chúng ta nên đi kinh hành hoặc là chúng ta ngồi để quán xét chứ không được tập trung trong hơi thở. Ngồi quán xét tâm mình tu Định vô lậu, còn tu tỉnh giác thì chúng ta nên đi kinh hành. Thỉnh thoảng thì chúng ta quan sát bốn chỗ Thân – Thọ – Tâm – Pháp, tức là Tứ Niệm Xứ không để tập trung vào hơi thở nữa, chỗ này (không nghe rõ).
Thì khi quan sát bốn chỗ Thân – Thọ – Tâm – Pháp của mình tức là mình quan sát thân trước, rồi các cảm thọ, rồi tâm của mình coi có khởi niệm hay không, rồi tới các pháp bên ngoài có tác động gì không. Nếu không có thì tâm sẽ thanh thản, an lạc, vô sự. Mà tâm sẽ thanh thản, an lạc, vô sự thì nó sẽ thấy biết hơi thở. Do đó chúng ta không tập trung mà tâm sẽ biết hơi thở. Vì vậy mà chúng ta nghe thấy thanh thản, an lạc, nhẹ nhàng không bị… Dù chúng ta bị cao huyết áp hay là hoặc là bị đau phổi chúng ta cũng không thấy mệt, không thấy khó khăn, phải biết cách.
(12:36) Cho nên do cái sự tu tập về hơi thở chúng ta không quan trọng lắm đâu. Mặc dù đức Phật có dạy chúng ta xuất tức nhập tức, nhưng cái điều quan trọng nhất là trong cái sự tu tập của đạo Phật đó, là an trú tầm thiện, an trú tầm thiện. Hay hoặc là sanh tầm, sanh tầm tức là chúng ta tư duy tầm nào tầm thiện và tầm nào tầm ác.
Thì do đó chúng ta thấy một cái bài kinh An Trú Tầm của đức Phật dạy chúng ta tìm cách an trú trong tầm thiện, tức là cái ý niệm của chúng ta về thiện, còn cái ý niệm về ác thì chúng ta không nên an trú trong đó, thì cái đó là cách giải thoát của đạo Phật, chứ không phải khó. Xuất tức nhập tức, tức là phải biết hơi thở ra biết hơi thở vào, là mong vậy.
Nhưng nếu mà chúng ta có một cái hơi thở tốt, không bị căng, không bị tức, không bị cao huyết áp thì chúng ta tập hơi thở để trợ giúp thêm, chứ không có gì hết.
(13:30) Cho nên thí dụ như chúng ta đi kinh hành, chúng ta: “Quán ly tham tôi biết tôi đi kinh hành”, cũng như: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”, cũng y như vậy thôi, không gì khác. Cũng như bây giờ mình đang làm một cái việc gì, mình đang quét sân hay quét nhà, đó thì mình có thể mình: “Quán ly tham tôi biết tôi đang quét nhà”.
(13:46) Chỉ quét nhà nó chỉ là để tỉnh thức, để tỉnh giác để cho mình biết là mình đang ly cái tâm tham của mình, chớ không phải quét nhà để mà mình biết quét nhà, (không nghe rõ). Mình hiểu cái chỗ này thì chúng ta mới thấy được cái mục đích của đạo Phật là chỗ ly dục, ly ác pháp để xả cái tâm ác của chúng ta, cái tâm dục của chúng ta chứ không phải bằng cái hơi thở, bằng cái chỗ đi.
Nhưng mình nương vào chỗ đi để biết mình đang động, để biết mình đang tỉnh chứ không nó mê nó quên, nó không nhớ về cái chỗ mà tâm ly tham, sân, si. Cái chính là chỗ ly tham, sân, si chứ không phải biết hơi thở. Đó, thì nhớ như vậy thì trong vấn đề mà tu tập về hơi thở nó không quan trọng mà nó chỉ nguy hiểm mà nếu chúng ta không biết, mà chúng ta tập trung ức chế tâm thì rất là nguy hiểm.
Bởi vì nó có một cái đối tượng, cái đối tượng duy nhất, tâm chúng ta bị ức chế, cho nên chúng ta phải khéo léo tu những cái hành động nào trong thân coi chừng bước với mình đi. Chúng ta, mục đích chúng ta cho nên vì vậy mà trong cái bài Xuất Tức Nhập Tức, đức Phật dạy chúng ta là khi mà tập trung trong hơi thở, thì phải quán ly tham, quán ly sân, quán ly si. Luôn luôn lúc nào cũng phải tác ý ra, không được im lặng ở trong duy nhất biết một hơi thở.
Cho nên thí dụ như bây giờ chúng ta tập trung ở trong cái bụng phình xẹp thì chúng ta cũng sẽ quán, quán ly tham, quán ly sân, quán ly si để trong khi tôi biết cái bụng phình xẹp thì như vậy thì đúng, chứ còn biết cái bụng phình xẹp không thì không đúng, nó sẽ bị ức chế vì có một cái đối tượng để tập trung duy nhất thì nó bị ức chế, cho nên luôn luôn phải tác ý.
(15:15) Vì tác ý ra như vậy để làm gì? Để tâm không rơi vào định tưởng. Bởi vì giữ gìn cái ý nó luôn luôn nó hoạt động thì cái tâm nó không rơi vào tưởng. Còn nếu mà để duy nhất có một đối tượng cho tâm bám vào, thì cái ý không hoạt động thì cái tưởng sẽ hoạt động.
Cho nên hầu hết những người tu thiền định dùng cái đối tượng như câu niệm Phật, công án, thoại đầu hay hoặc là hơi thở hoặc quán niệm hơi thở coi như là như giặc, chứ không phải là… Đó là cái đối tượng ức chế tâm mà hầu hết từ xưa đến giờ (không nghe rõ) đã quen, không có hiểu được cái chỗ này. Trái lại thì chúng ta thấy đức Phật đâu có để chúng ta nghỉ ngơi mà chuyên một cái đối tượng, luôn luôn nhắc chúng ta để sẵn cái tâm ly tham, sân, si khắc phục tham ưu. Đó là cách nhiếp tâm tu trong đạo Phật.
Biết rõ được như vậy thì các con khi mà về đây tu tập những điều Thầy dạy, thì phải lưu ý rất kỹ, khi về đây nếu không có Thầy, thì mấy con sẽ không bị lạc đường, không bị sai và kết quả rất lớn là các con sẽ thấy khi mình tu, rồi mình áp dụng vào cái đời sống hàng ngày của mình, mình sống mà có sự kiện gì mình thấy cái tâm của mình dễ buông xả nó không giận hờn, không phiền não, nó không có cái tôi, đó là cái sự (không nghe rõ), nó cụ thể, nó rõ ràng khi chúng ta tu, mình ngồi tu thì chúng ta chủ động điều khiển ý thức, khi chúng ta xả ra không ngồi tu mỗi mỗi các pháp đến thì chúng ta sẽ chủ động ý thức làm chủ được tâm mình một cách rõ ràng.
(16:49) Phật tử: Dạ, tại trong này có những câu hỏi mà của nhóm Nguyên Thủy của chúng con với lại những cái phiếu Phật tử ở ngoài. Thành ra như vậy con xin phép Hòa thượng cho con hỏi những câu hỏi của nhóm Nguyên Thủy trước, rồi sau đó rồi con xin đọc ra được Hòa thượng trả lời những câu hỏi của các Phật tử phía ngoài, được không? Dạ thưa câu hỏi tiếp theo là Tổ Huệ Khả nói: “Tâm con bặt hết các duyên, rõ ràng thường biết”, đó có phải là Tổ Huệ Khả đang ở trong trạng thái Nhị Thiền không? Kính xin Thầy từ bi giảng trạch.
(17:15) Trưởng lão: Tổ Huệ Khả nói tâm bặt hết các duyên tức là không khởi niệm, không khởi niệm thì nó có hai cách.
Khi mà tâm bặt hết các duyên thì lúc bấy giờ một là rơi vào trạng thái tưởng Không Vô Biên Xứ Tưởng. Mặc dù là cái không là không niệm, chứ không phải là không ngơ, nó còn biết rất rõ ràng. Bặt hết các duyên nhưng vẫn biết, thì không khéo thì chúng ta sẽ rơi vào những cái định tưởng.
Còn nếu mà bặt hết các duyên mà tâm không phóng dật thì đó là tâm ly dục, ly ác pháp, cái đó mới nhập Sơ Thiền. Còn Nhị Thiền thì khi nào mà Nhị Thiền thì nó diệt tầm tứ, diệt tầm tứ tức là diệt ý thức. Bởi vì cái ý thức của chúng ta nó một trong sáu thức của thân của chúng ta, nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức nó sáu cái thức, mà chúng ta diệt ý thức tức là tầm tứ không có khởi niệm ra được nữa tức là chúng ta diệt.
Cho nên khi mà Nhị Thiền mà nhập Nhị Thiền, âm thanh không còn nghe nữa, cái âm thanh không còn nghe nữa, mắt không còn thấy nữa nhưng vẫn tỉnh táo vẫn biết, cho nên là sáu thức của chúng ta hoàn toàn ngưng hoạt động, tuyệt vời, không thể nào bặt các duyên không, nghĩa là tai không còn âm thanh mắt không còn thấy sắc. Khi đó thân không còn hoạt động đứng lại tức khắc, ví dụ đang đi mà nhập Nhị Thiền, đứng lại. Cho nên hoàn toàn chỉ còn có hơi thở nhẹ nhàng, mạch máu lưu thông nhẹ nhàng thôi. Hoàn toàn là ý thức, sáu thức của chúng ta không còn hoạt động.
Bởi vì trong Bốn Thiền của Phật, cái Nhị Thiền, nó Bốn Thiền nó chỉ có Nhị Thiền là diệt thôi còn ba thiền kia không có diệt. Chúng ta thấy như Sơ Thiền thì ly dục chứ chưa phải diệt dục, cho nên nếu mà chúng ta không tiếp tục tu thì dục vẫn còn.
Còn Nhị Thiền thì nó diệt tầm tứ tức là ý thức chúng ta bị diệt, tức là hoàn toàn ngưng hoạt động, giống như người mù không còn phân biệt, không còn nhìn thấy gì hết, giống như người mù. Mà Tam Thiền thì nó ly hỷ, nó ly trạng thái tưởng cho nên nó Tam Thiền, mà tới Tứ Thiền thì nó xả, nó không có gì hết. Trái lại có Nhị Thiền là diệt.
Mặc dù là Tứ Thiền thì nó tịnh chỉ hơi thở, hơi thở nó ngưng nhưng nó chỉ xả thọ mà thôi chứ nó không có diệt cái thọ. Cho nên xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh, nó xả tức là nó buông xả ra chứ nó không có diệt. Cho nên vì vậy mà khi nhập Tứ Thiền xả chứ không có diệt, mà tới cái diệt thì phải tới Diệt Thọ Tưởng Định thì nó mới có diệt cái Thọ, cái Tưởng của nó vẫn còn, còn không có diệt.
Còn Tam Minh thì Lậu Tận Minh, nó là cái trí tuệ, nó quét sạch những cái mầm để đi tái sanh luân hồi. Tức là cái mầm lậu hoặc vi tế mà trở thành cái nghiệp để chúng ta tiếp tục tái sanh luân hồi đó. Nó là Lậu Tận Minh chứ nó cũng không diệt. Chỉ có Diệt Thọ Tưởng Định là cái định nó mới diệt thôi và cái định của Nhị Thiền nó mới diệt thôi, còn bao nhiêu cái không có diệt.
Thì con thấy cái định Nhị Thiền không thể nào mà tâm bặt các duyên mà nhập Nhị Thiền, mà chỉ có thể nói hai trường hợp, một là rơi vào khi mà người tu không biết xả tâm, không biết ly dục, ly ác pháp thì sẽ rơi vào định tưởng Không Vô Biên Xứ Tưởng.
Không Vô Biên Xứ Tưởng thì nó sẽ vượt qua Không Vô Biên Xứ Tưởng thì nó sẽ đi đến Thức Vô Biên Xứ Tưởng và nếu mà vượt qua Thức Vô Biên Xứ Tưởng thì nó sẽ nhập vào Vô Sở Hữu Xứ Tưởng. Mà vượt qua Vô Sở Hữu Xứ Tưởng thì sẽ nhập vào Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, nó bốn cái Định Vô Sắc.
Còn nếu mà tu đúng tức là ly dục, ly ác pháp xả tâm thì nhập vào Sơ Thiền tâm không phóng dật. Cho nên đức Phật mới dạy chúng ta: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật”.
(20:52) Người tu mà nhập được Sơ Thiền tức là tâm không còn phóng dật, mà còn phóng dật thì chưa phải (không nghe rõ), chưa giải thoát đâu. Vì lúc bây giờ tâm ly dục, ly ác pháp là nó không còn dục, nó không còn ác pháp. Cho nên tâm nó không còn chướng ngại pháp nữa. Do đó tâm lúc nào cũng quay vào định trên hơi thở, gọi là tâm định trên thân. Đó là cách thức như vậy chúng ta thấy rất rõ.
Cho nên khi mà một người nói về nhập Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền chúng ta đều hiểu rõ là chúng ta biết họ đúng hay sai, không thể nào lừa gạt chúng ta được, không thể nào mà nói tôi nhập Tam Thiền, Tứ Thiền. Khi mà nhập Tứ Thiền thì con thử cái ngay lỗ mũi này, con thấy thân họ không còn rung động. Tức là không còn lên xuống theo cái nhịp của hơi thở thì biết rằng họ nhập Tứ thiền, tức là hơi thở không thở.
Còn nếu mà cái người mà còn chiêm bao, mộng mị thì người đấy chưa nhập Tam Thiền, người mà hết chiêm bao, mộng mị thì người đấy mới nhập Tam Thiền, bởi vì ly hỷ. Còn cái người mà nhập Nhị Thiền là cái người đó trời sét cũng không nghe.
Cho nên có một bài kinh đức Phật nhập một cái định, thì người ta cũng chưa xác định đức Phật nhập cái định nào ở trong cái bài kinh đó. Nhưng cách đó thì hai trăm thước, có mấy bác nông dân người ta cột mấy con bò ở đó bị trời sét đánh chết, là do đó khi đức Phật xuất định thì người ta hỏi đức Phật thấy người ta lùm xùm đông, đức Phật hỏi chuyện gì vậy, thì người ta mới nói đó là trời vừa sét hai con bò chết, mà ông ở đâu mà ông không nghe, nói tui ở trong cái chòi này, thì như vậy rõ ràng là cái định đó là định Nhị Thiền chứ không phải là đức Phật nhập cái định nào khác. Chúng ta biết cái định Nhị thiền siêu, mầu nhiệm như thế.
(22:20) Phật tử: Kính bạch Thầy. Lúc xưa con lại nghe cái đó con lại tưởng là lúc đó đức Phật đang nhập cái gọi là cái Diệt Tưởng Định, vì vậy mà đức Phật không có nghe những cái tiếng sét đánh và đôi lúc mà lại nhập những cái Diệt Thọ Tưởng Định như vậy, vì vậy nhiều khi mà người ta đốt cũng không cháy thân chỉ cháy áo thôi, vậy có phải đúng như vậy không?
Trưởng lão: Không phải đâu, bởi vì khi mà nói cháy áo không, thì họ chưa hiểu cái Diệt Thọ Tưởng Định, cái Diệt Thọ Tưởng Định khi mà con nhập cái từ trường của nó, tức là cái sức định của cái thân nó, nó tỏa ra nó như một cái lồng kiếng, nó chụp cho con ở trong đó nó cách bao nhiêu thước lận chứ không phải ít, cho nên mưa không ướt làm sao mà đốt lửa vô được, con đi…
Thí dụ như Thầy ngồi đây Thầy nhập Diệt Thọ Tưởng Định, con đi tới đó con bị cái vách bằng cái lực của từ trường đó, nó sẽ bật con ra, con không có đi vô được sát Thầy đâu. Cho nên không có con vật, không có một con kiến gì mà bò vô trong cái khung đó được, đó là cái định Diệt Thọ Tưởng Định. Nghĩa là mưa, ở chỗ này mưa không ướt, nắng nó cũng không có, ở trong này coi như nó bảo vệ cái thân của cái người nhập Diệt Thọ Tưởng Định đó.
Nó không phải cái thân cứng như đồng, sắt đâu mà người ta tưởng, nhưng mà nó có cái lồng bao, giữ gìn nó lửa đốt không cháy, mưa ướt không ướt, tất cả những cái này là cái từ trường của cái định đó, nó bảo vệ cái thân, chứ không phải cái thân này biến thành thiết bố sam, tức là trở thành như đồng sắt người ta tưởng tượng, đó là cái tưởng thôi.
(23:40) Phật tử: Khi Thầy mà dạy cho chúng con vừa qua biết rằng cái Nhị Thiền nó rất là quan trọng như vậy và vi diệu vậy, thì con nhớ tới cái bài kinh ở trong Nguyên Thủy, khi mà đức Phật mà về thăm ba người em, thì nghe nói là có một cái người thợ hớt tóc, cắt tóc cho Phật.
Khi mà người thợ hớt tóc đó đang cắt tóc cho Phật đó, thì đức Phật mới nói những cái bài kinh để cho người thợ hớt tóc đó nghe, thì ông đó ông từ từ ông bỏ hết những cái ý niệm của ông và ông nhập tới Sơ Thiền. Rồi sau đó đức Phật mà nói thêm những cái ra lời pháp nữa thì người đó nhập Nhị Thiền. Khi đó thì đức Phật mới dặn là cái người hầu kế bên là hãy đỡ cái người thợ hớt tóc này, nếu không thì người đó sẽ té xuống.
Có phải là khi thời gian đó thì, lúc mà cái người hớt tóc đó nhập Sơ Thiền thì tâm, thân của ông bất động và ông không còn hớt tóc được cho Phật nữa, như là ở trạng thái mà gọi là đứng yên, có phải như vậy không thưa Hòa Thượng.
Trưởng lão: Không phải con. Cái Sơ Thiền nó còn tầm tứ, ông vẫn làm công việc được với một cái tầm tứ của mình, cho nên nhập Sơ Thiền là cái tâm bất động nhưng mà hoàn toàn nó vẫn bình thường như một con người khác, nhưng mà ít ra nó nằm ở trong cái tầm tứ thiện, không có bị cái tầm tứ ác làm cái chướng ngại tâm nó.
Mà chỉ có cái Nhị Thiền, tức là ông sẽ thay đổi hơi thở thôi. Tức là khi cái hơi thở mà của người Sơ Thiền thì nó bình thường như mình đang thở vậy, nó không có thay đổi. Cho nên đức Phật mới nói ông… Bà mẹ hỏi đức Phật vì vậy thì ông Ưu Ba Ly ông cạo tóc cho đức Phật như vậy có được không? Thì đức Phật nói còn thô lắm.
Do đó đức Phật nói qua hơi thở của ông, tức là ông còn thở vô đó, thì ông bắt đầu ông thở chậm nhè nhẹ lại, chậm nhè nhẹ lại thì lúc bấy giờ đó ông sẽ nhập Nhị Thiền diệt tầm tứ, cho nên ông đứng đó ông không còn cắt tóc được nữa, lúc bấy giờ đức Phật mới nhờ cái người khác đỡ ông lên trên ghế, để không thì nó nguy hiểm.
Cho nên đức Phật mới nhờ người khác cạo tóc cho mình, vậy Ưu Ba Ly là một người cắt tóc đi theo đức Phật đó, thì ông ngày đó là ông hớt tóc cho các vương tử. Cho nên khi theo các vương tử mà xuất gia tu thì ông cũng xuống tóc ông tu, nhưng mà cuối cùng thì mà ông… Trong cái thời gian mà tu thì ông luôn luôn ông theo ông cạo tóc cho các vị Tỳ kheo và ngay cả đức Phật nữa.
Lúc mà ông cạo tóc cho đức Phật thì đức Phật vừa cạo tóc mà vừa nói chuyện, vừa thuyết giảng, do đó mà ông cứ theo lời đức Phật dạy mà ông lần ông thở chậm nhẹ theo cái nương vào cái hơi thở đó và đồng thời ông hướng tâm thì ông sẽ diệt tầm tứ, ông nhập Nhị Thiền, do đó ông đứng ông ngả ra đó là cái chỗ nhập Nhị Thiền, chứ không phải nhập Sơ Thiền đâu.
Phật tử: Dạ con xin lỗi Hòa thượng vì con nói sai cái chỗ đó và con muốn hỏi là cái chỗ đó có phải là Nhị Thiền hay không, cám ơn Hòa Thượng dạ.
Trưởng lão: Đó cái đó đó.
(26:23) Phật tử: Dạ thưa Thầy cái câu tiếp theo của nhóm Nguyên Thủy là, xin Thầy từ bi chỉ dạy cho chúng con, pháp đi kinh hành trong Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Trưởng lão: Pháp đi kinh hành trong Chánh Niệm Tỉnh Giác. Khi đi kinh hành thì chúng ta biết chúng ta đi kinh hành, mà luôn luôn lúc nào chúng ta cũng nhắc riêng một cái câu pháp hướng, chứ nếu mà chúng ta chỉ tỉnh giác ở trong đi kinh hành thì không có nghĩa, không có Chánh Niệm.
Thường thường người ta hiểu mình biết mình đang đi kinh hành, mình biết mình đi kinh hành, thì cái niệm đi kinh hành là Chánh Niệm. Bởi vì cái niệm đó không phải là niệm thiện, niệm ác cho nên nó đâu có phải là Chánh Niệm.
Còn cái Chánh Niệm là không có cái niệm tà mà là niệm thiện, còn tà niệm là cái niệm ác. Bởi vì hai cái này Chánh Niệm với tà niệm con hiểu hai chữ này nó đối với nhau, cho nên cái tà niệm là nó phải ác pháp, mà cái Chánh Niệm là thiện pháp. Còn cái chỗ mà chúng ta hơi thở hoặc là chúng ta đi, chỗ đó nó không thiện, không ác thì cái chỗ đó nó không phải là Chánh Niệm mà tà niệm.
Cho nên cái chỗ này chỉ là cái nương vào chỗ đó để mà tạm tỉnh thức mà thôi thôi, tỉnh giác mà thôi. Để rồi bắt đầu khi mà có tỉnh thì mình mới biết được cái niệm tà, niệm chánh, thấy nó Chánh niệm hay tà niệm. Do vì vậy đó mình nương vào cái chỗ hành động để mà mình quan sát. Cũng như bây giờ người ta chửi mình mà mình không giận tức là mình phải có tỉnh, nếu mà mình không tỉnh tức là mình mê thì ngay đó là mình có sân.
Cho nên ở chỗ này, thì khi mà chúng ta tu tập cho đúng cách đó là chúng ta đi năm bước hay mười bước chúng ta nhắc một lần. Nhắc một lần: “Tâm phải ly tham, tâm như cục đất tôi biết tôi đi kinh hành”. Thì như vậy con cứ mười bước, năm bước con nhắc một lần, để có một khoảng thời gian tâm yên lặng, tâm yên lặng rồi mới nhắc nữa.
Còn nếu mà con nhắc hoài một câu đó thì thành ra con niệm cái câu pháp hướng, thành ra nó không phải là cái pháp hướng mà là niệm pháp hướng, thì nó sai. Niệm pháp hướng tức là tập trung trong cái đối tượng câu pháp hướng đó, ức chế tâm thì nó trật, nó không đúng.
Cho nên con đi để mà con biết con đi, rồi con lại nhắc đi như vậy nhưng phải xả cái tâm: “Quán ly tham, tôi biết tôi đi kinh hành”. Nghĩa là đi như vậy nhưng mục đích đi để mà xả cái tâm tham, chứ không phải mục đích đi để mà mục đích. Thì như vậy là tu tập đi kinh hành đúng cái nghĩa tu Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Còn nếu mà không có thêm cái nghĩa của nó mà ly tham, ly sân, si thì nó không đúng nghĩa là Chánh Niệm. Bởi vì tham là ác pháp, tham là tà niệm, mà không tham là Chánh Niệm, phải không? Do đó là niệm thiện.
Vì vậy mà chúng ta luôn luôn phải biết cái niệm thiện và niệm ác, thì vì vậy mà tỉnh thức, tức là tỉnh giác trong Chánh Niệm. Vậy thì lúc nào chúng ta tỉnh được thì chúng ta phải nhớ nhắc cái tâm của mình để ly tham, sân, si, mà tham, sân, si hết thì tức là chúng ta thoát khổ, còn tham, sân, si là còn khổ.
Đó như vậy rõ ràng là con muốn đi kinh hành đúng, thì con không được đi từ đây ra tới cổng kia trở vào đây đi hai vòng hay ba vòng, mà hoàn toàn chỉ có duy nhất biết đi thì trật, đó là sai không phải là Chánh Niệm Tỉnh Giác. Mà đi từ đây ra đó vòng trở lại đây phải ít ra cũng có năm lần hướng tâm về Chánh Niệm, thì như vậy mới đúng, mới đúng cách đi kinh hành.
Cũng như con làm cái gì mà con tu trong hành động làm của con, thì con cũng nhớ nhắc rằng con nhắc: “Tâm như cục đất ly tham, sân, si đi, tôi biết tôi đang lặt rau”. Nghĩa là nhắc cho mình biết mình đang lặt nhau, nhưng lặt rau để mà xả tâm, chứ không phải lặt rau để mà lặt rau để ăn cơm, con hiểu chỗ đó.
Phật tử: Dạ.
(29:41) Trưởng lão: Nếu mà lặt rau hay hoặc làm món ăn để mà ăn thì không có nghĩa, mà tôi làm tất cả những cái này là vì mục đích tôi ly tham, sân, si xả cái tâm để cứu tôi thoát ra khỏi cái cuộc đời đầy đau khổ này. Con hiểu chỗ đó, cái mục đích chính của chúng ta là nhắm vào chỗ ly tham, sân, si chứ không phải chỗ ăn, chỗ làm việc mà cái mục đích tìm ra con đường giải thoát. Đó là cái ý của tâm mình nó vậy.
(30:02) Phật tử: Chúng con xin đội ơn Hòa thượng những cái lời dạy này, là tại vì là một số người Phật tử ở bên Mỹ họ tu cái pháp gọi là Chánh Niệm Tỉnh Giác này, mà khi đi kinh hành đôi lúc rồi họ theo những pháp môn đi quá chậm thế rồi lại quá nhanh, thành ra chúng con không hiểu với lại cái khi họ đi như vậy, họ chỉ biết theo cái lời dạy của các vị thầy, thì họ chỉ biết trên những cái hành động trên bước đi thôi, chứ không phải là như Hòa thượng vừa dạy chúng con là trên cái hành động bước đi, là bước đó là mình phải xả cái tâm ác của mình.
Tại vì đó con xin đội ơn Hòa thượng, thành ra khi Hòa thượng cho chúng con biết rằng khi mình đi như vậy, mình có phải đi theo một cái tốc độ vừa phải hay là vừa với cái cơ thể của con người, chứ không phải là khi mình đi quá chậm hay là đi quá nhanh, thưa Hòa thượng.
Trưởng lão: Thật sự ra thì đức Phật có dạy chúng ta ba cái tướng. Thứ nhất là nhân tướng, thứ hai là hành tướng, thứ ba là đặc tướng. Chúng ta đi theo cái đặc tướng của mình, một người mà hay đi nhanh thì không được tập đi chậm lại, đi tự nhiên theo cái bản chất đặc tướng của mình, một người đi chậm thì cũng không nên mà đi nhanh, đi theo đặc tướng của mình, tu gọi là đi tự nhiên đó.
Còn mình đi bình thường, mình không nhanh không chậm thì mình cứ đi bình thường. Khi tu thì mình cũng lấy cái tự nhiên, bởi vì lấy cái tự nhiên đó mình tu nó tự nhiên hơn. Để cho chúng ta nương vào cái tự nhiên đó mà chúng ta xả.
Cũng như bây giờ chúng ta làm việc, không lẽ bây giờ chúng ta tu, chúng ta phải làm chậm hay sao. Hãy làm việc với một sự bình thường của mình, người làm nhanh thì làm nhanh, nhưng vẫn cái mục đích là phải xả tâm. Chứ không phải bắt buộc cái hành động đó chậm lại hay hoặc là nhanh hơn, không được.
Cho nên cái đi kinh hành mà chậm, quá chậm để tập trung đó là người ta nghĩ rằng để tập trung cho đừng có niệm khởi nữa, thì sai, không đúng cái sai đó. Đạo phật không bảo chúng ta diệt cái niệm, mà chính đạo Phật dạy chúng ta ly dục, ly ác pháp, làm cho tâm ham muốn, tâm tham, sân, si chúng ta sạch thì cái niệm nó sẽ không có. Còn cái tâm mà chúng ta còn tham, sân, si thì ức chế cách gì đi nữa, cũng vẫn còn.
Cho nên do như vậy, chúng ta không nên mà đi chậm mà cũng không nên đi nhanh, mà đi theo đặc tướng của mình, đi theo bình thường tự nhiên thì tốt nhất. Người đặc tướng nào đi tu các đặc tướng nấy.
Cho nên chúng ta nghe đức Phật dạy cái hơi thở, thì chúng ta cũng thấy biết rằng đức Phật cũng cụ thể rõ ràng. “Hít vô dài, tôi biết tôi thở dài”, nghĩa là tôi thở dài thì tôi biết tôi thở dài, chứ không được ngắn. Mà: “Hít vô ngắn, tôi biết tôi thở ngắn”, nghĩa là bây giờ tôi thở ngắn tôi biết tôi thở ngắn không buộc nó phải dài như hơi thở dài, các con hiểu không?
Nghĩa là tu tự nhiên, bởi vì mình hơi thở dài là thở dài, còn hơi thở ngắn là mình tu hơi thở ngắn. Đừng bắt nó ngắn quá mà cũng đừng bắt nó dài quá, hoặc là bắt nó dài, ngắn theo kiểu mình điều khiển nó thì không được, để tự nhiên mà tu tập. Vì cái hơi thở không phải là mục đích để vào định, mà hơi thở chỉ là cái hành động để chúng ta tập tỉnh thức mà thôi. Như vậy chúng ta hiểu được thì chúng ta tu dễ dàng, không có khó khăn.
(32:51) Phật tử: Dạ kính bạch Hòa thượng, đây là con xin hỏi thêm là nó tại nó có liên quan đến cái câu hỏi vừa rồi. Là trong anh em chúng con thì có người nói là Hòa thượng khi mà chỉ cho chúng con cái cách tập và đi, ngồi kiết già, thở năm hơi thở xong rồi đứng dậy đi kinh hành, trong năm bước đó thì sẽ nhắc một câu hướng.
Cái pháp môn đó dùng để mà làm cho mình tỉnh giác, luôn luôn lúc nào cũng tỉnh giác để tránh cái, gọi là trị cái bệnh hôn trầm và thùy miên mình. Nhưng mà nếu mà khi cái người hành giả đó trong cái lúc mà họ tập đó, họ không có bị hôn trầm thùy miên thì họ có cần tu cái đó hay là họ tu Định Niệm Hơi Thở?
Trưởng lão: Thầy xin nhắc như vấn đề này. Bởi vì chúng ta biết rằng trong cuộc đời tu hành chúng ta có ba cái giới mà chúng ta cần phải giữ gìn.
Đó là giới ăn, khi mà chúng ta Thọ Bát Quan Trai, tức là ngày ăn một bữa không được ăn phi thời, dù cách gì chúng ta cũng phải giữ gìn giới này. Cái thứ hai nữa thì chúng ta phải tỉnh giác, tỉnh thức không được hôn trầm buồn ngủ. Cái thứ ba nữa phải là tu sống cho mình, không nói chuyện, không được phóng dật. Thì đó là ba cái giới mà chúng ta cần phải giữ gìn.
Vậy thì trong ba cái giới này thì chúng ta thấy cái ăn thì có thể dễ rồi. Nghĩa là ăn ngày bữa thì có thể dễ. Nhưng mà đến cái ngủ thì khi mà cái thân nó mà ngủ, thì rất khó chiến thắng.
Cho nên do đó mới có cái pháp môn là năm hơi thở đi kinh hành một vòng và trong khi đi kinh hành còn phải hướng tâm. Thì như vậy là khi nào phải áp dụng? Lúc bấy giờ nếu mà chúng ta không tập, thì tới chừng mà gặp bị hôn trầm thì chúng ta không còn đủ cách mà chúng ta tập, chiến đấu được.
Cho nên trong lúc này chúng ta tập, nghĩa là chưa có hôn trầm chúng ta tập, nghĩa là người mới bắt đầu vào tu thì bắt đầu phải tu tập cái pháp này đầu tiên. Mặc dù là họ không có tu Định Niệm Hơi Thở, quán ly tham, quán ly sân gì cả hết, không hít vô hít ra gì hết, mà chỉ biết hít thở năm hơi thở, rồi đứng dậy đi dậy đi kinh hành, đặc biệt nhất cần phải tập cái này.
Nhưng tập nó không phải được dài lắm, tức là tập ba mươi phút. Khi mà đạt được ba mươi phút rồi, thì ngay đó chúng ta đã thấy thuần thục, nghĩa là lúc nào chúng ta áp dụng nó vào giai đoạn nào chúng ta cũng làm thấy nó không có mệt nhọc, không có mất thì giờ, không có khó khăn, thì lúc bấy giờ chúng ta không tập nữa, chúng ta tập cái khác.
Nhưng khi mà chúng ta tăng cái giờ lên để chúng ta tu tập thì chúng ta bị hôn trầm, bị thùy miên, như vậy lúc bấy giờ chúng ta sử dụng nó, để mà giữ gìn chiến đấu với hôn trầm thùy miên, trong khoảng thời gian chúng ta chưa phải tới giờ chúng ta đi nghỉ, mà nó buồn ngủ trước.
Thí dụ như bây giờ từ bảy giờ đến chín giờ mình đi ngủ, mà mới có tám giờ rưỡi là nó buồn ngủ rồi, nó bị hôn trầm rồi, thì mình phải chiến đấu suốt ở trong ba mươi phút này để mà chiến đấu cho đúng chín giờ mình mới đi ngủ. Thì như vậy là mình có pháp để chiến đấu, chứ không có thì kể như là mình mình không chiến đấu được nó.
Cho nên khi một cái người tu mà gặp cái trường hợp mà hôn trầm, thì người ta rất sợ, nếu không có pháp chiến đấu thì chúng ta chỉ còn có nước nằm ngủ, chứ không thể nào thoát ra được.
(35:45) Phật tử: Dạ. Con xin đội ơn Thầy. Dạ thưa con còn một cái câu hỏi cuối cùng của nhóm Nguyên Thủy. Xin Thầy từ bi chỉ dạy. Thầy Chơn Giác lúc xưa là pháp danh là Từ Đồng, có cho chúng con biết là ở Phan Rang có một nhóm tu học Nguyên Thủy, trong khi hải ngoại cũng có nhóm tu học Nguyên Thủy, xin Thầy từ bi cho chúng con biết lý do có sự trùng hợp này.
Trưởng lão: Cái trùng hợp này nó không phải, bởi vì ở Phan Rang có một số cư sĩ cũng được theo Thầy, sau khi Thầy cho một cái nhóm Nguyên Thủy, là nhóm của các con là Nguyên Thủy. Cho nên nhóm Nguyên Thủy ở Phan Rang này cũng do Thầy đặt, nhưng mà nhóm Nguyên Thủy 2, chứ không phải nhóm Nguyên Thủy 1.
Bởi vì từ gốc Nguyên Thủy mà ra chúng ta tu Giới, Định, Tuệ thì chúng ta lấy Nguyên Thủy. Bây giờ có một nhóm khác họ cũng sẽ là Nguyên Thủy nhưng mà Nguyên Thủy 3, chứ không thể nào mà chúng ta đặt thêm cái tên khác, vì vậy chúng ta xem coi như là anh em trong một nhà.
Phật tử: Dạ. Con hiểu cái đó. Dạ thưa, anh em mà thắc mắc là thế này là nghĩ là cái nhóm mà Nguyên Thủy ở hải ngoại chúng con là ra đời sau, tất nhiên là sinh sau đẻ muộn, mà Hòa thượng thương chúng con lại cho là nhóm Nguyên Thủy 1, thành ra anh em thấy sợ là phạm thượng chăng. Dạ. Thành ra chỗ đó chúng con phải hỏi Hòa thượng.
Trưởng lão: Không phải, cái nhóm của các con tuy rằng mới lập Thầy sau, nhưng mà có tâm tha thiết xin Thầy cho cái tên, còn cái Phan Rang thì như thầy Chơn Giác gặp Thầy trước nhưng họ cũng không có quan tâm lắm. Cho nên vì vậy mà mới xin Thầy đây. Xin cô Diệu Quang, Cô Diệu Quang đặt chứ không phải Thầy muốn đâu.
Sau khi mà có những cái bài pháp, mà các con đã hỏi về giáo án tu tập cho người cư sĩ, thì tập 1 của cái giáo án tu tập cho người cư sĩ, thì lần lượt người ta thấy rằng, cái số cư sĩ đó đóng góp rất lớn về các cái sai của Phật giáo cũng như cái đúng, dựa vào những cái mười tập Đường Về Xứ Phật của Thầy, con triển khai ra. Người ta mới thấy đó là cái đúng, chứ trước kia thì người ta cũng không có nghĩ cái sự đúng, sai. Người ta chỉ đó là coi như là cũng là cái lý luận nào đó thôi. Nhưng mà khi gần đây thì người ta nhận xét ra cái đó là cái đúng. Do cái góp ý của các cư sĩ các con rất nhiều, vì đôi mắt của các con ở khắp miền, cho nên các con thấy được cái sai của Phật giáo quá nhiều, cho nên các con đóng góp lại cái bài vở đó, thì người ta mới thấy chung là Phật giáo Đại thừa đang ở trong con đường sai thật sự, nó có những cái sai, mà trong khi chúng ta kê cái giới luật ra thì chúng ta thấy rõ cụ thể.
Vì vậy mà một số người hiện giờ họ mới thấy được cái điều này, chứ trước kia thì họ cứ tin rằng Đại thừa đúng chứ làm sao họ dám nói sai. Cho nên bây giờ nhờ như vậy mà họ thấy được, từ đó họ mới trở về cái góc độ, gốc của Phật giáo là Nguyên Thủy, cho nên họ mới lần lượt tin. Cho nên các con tuy rằng gần đây thì các con mới gặp Thầy, nhưng trái lại các con là những người đi trước trong cái nhóm Nguyên Thủy.
(38:27) Phật tử: Dạ. Con xin đội ơn Thầy. Kính bạch Thầy như vậy là nhóm Nguyên Thủy của chúng con đã có những chuỗi câu hỏi, mà đã được Thầy từ bi chỉ dạy, chúng con đội ơn Thầy. Sau đây là con xin có những câu hỏi mà những cái Phật tử mà không phải trong đám chúng con, nhưng mà đã được đọc sách hay là nghe ra những cái lời giảng của Thầy, thì họ có những câu hỏi thắc mắc, xin Thầy từ bi giải đáp cho họ. Dạ, con cám ơn Thầy nhiều lắm.
Dạ thưa, cái câu thứ nhất là Tổ Sư Tử để cho vua Kế Tân chặt đầu đó có phải là Tổ Sư Tử đã làm được hạnh xả giác chi? Dạ cái Phật tử này là Phật tử Diệu Thanh ở Florida.
Trưởng lão: Tổ Sư Tử là vì… Nói chung chịu ảnh hưởng của Trung Quán Luận của Bát Nhã Tâm Kinh: “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không…”. Cho nên vì cái câu đó nhà vua Kế Tân không phải là một người, không thông Phật pháp, cho nên ông muốn thử một cái vị này xem như thế nào.
Ông đã tu Bát Nhã thì ông phải thấy ngũ uẩn giai không, vậy thì tôi xin cái đầu ông, ông có bằng lòng không? Như vậy rõ ràng là trong cái vấn đề mà Phật pháp là chúng ta mới thấy được cái điều sai. Bởi vì đạo Phật không làm khổ mình, khổ người mục đích là ly tham, sân, si chứ không phải hy sinh với một cách vô cớ như vậy.
“Quán tự tại hành thâm Bát Nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không…”, thì vua Kế Tân là một người có quyền, ông có quyền. Cho nên đối với một vị tu sĩ, ông đâu có thương tiếc gì, ông thử coi cái người tu này thế nào. Nếu mà cái người này mà không chấp nhận như vậy thì đâu có ngũ uẩn, đâu có giai không. Cho nên ông là một người lãnh đạo Phật giáo mà coi như uy tín, thì coi như là ông phải thí mạng của mình, bằng cách là hy sinh. Vì phải thấy rằng Bát Nhã không có đúng chân lý của đạo Phật.
Thứ nhất là mình sẽ thấy được vua Kế Tân do cái câu này mà tạo ác pháp. Thứ hai thay vì Tổ Sư Tử phải còn một thời gian dài hơn nữa, dài hơn nữa để nói lên sự làm chủ được thân tâm của mình, trước tín đồ của mình, là cái hay hơn chứ đâu phải thí mạng mình bằng cách vô cớ vậy. Người ta cũng có thể dám chết vì Phật pháp, cũng như Huệ Khả tử vì đạo, cũng dám hy sinh cho Thiền tông, nhưng mà thử nghĩ nó có giải thoát được gì không? Cái này là cái rất khó.
Theo Thầy thiết nghĩ đó là một cái lý luận, mà đức Phật thường nói là cái hý luận, hý luận của ngài Long Thọ, chứ không thật có một người tu nào mà tu, mà: “Quán tự tại hành thâm Bát Nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không…”. Chúng ta đã từng đọc Bát Nhã từ lúc vào xuất gia. Từ nhỏ, Thầy vào chùa tu tám tuổi cho đến bây giờ, thậm chí như những ngày mà theo Hòa thượng tu Thiền Đông Độ vẫn tụng Bát Nhã, quá nằm lòng, quá làm nhưng mà không có công giải thoát.
(41:21) Bây giờ nó đã lỡ như vậy rồi thì chúng ta phải chịu chết thôi chứ không làm sao cách nào khác hơn nữa. Ví dụ như bây giờ có cái người hỏi Thầy cắc cớ thế này, nếu mà Thầy tụng Bát Nhã vậy Thầy có thấy ngũ uẩn giai không không? Thầy nói không. Thì người ta hỏi bây giờ tôi xin cái đầu Thầy, Thầy dám không? Thì không lẽ đã nói không, thì không dám sao được.
Nhưng mình thấy điều kiện oan uổng, khi chết như vậy rất khó. Một cái lý luận trừu tượng, quá trừu tượng làm sao chúng ta đi vào chỗ không này được. Khi chúng ta đã có thân ngũ uẩn, thì trong thân ngũ uẩn chúng ta chỉ có thể thiện và ác mà thôi, mà thiện thì đâu có làm khổ ai, mà ác thì nó mới có khổ mình khổ người.
Tại sao chúng ta lại không làm ích lợi cho mọi người, cho mình? Mà lại chịu hy sinh một cách vô cớ, bằng cái lý luận suông như vậy được. Cho nên đối với Thầy, thì Thầy không chấp nhận cái sự chết của Tổ Sư Tử như vậy, Thầy thấy quá tội. Vì cái lý mà người ta đưa ra, để cho chúng ta phải hy sinh như vậy, thì chúng ta quá tội, quá khổ.
(42:18) Phật tử: Dạ, con đội ơn Thầy nhiều. Dạ thưa, câu hỏi tiếp theo của Phật tử Từ Chí ở Westminster. Đức Phật sau khi nhập Niết Bàn có còn giảng pháp hay cứu độ chúng sinh?
Trưởng lão: Khi đức Phật nhập Niết Bàn thì đức Phật không còn giảng pháp. Nghĩa là trước khi nhập Niết Bàn đức Phật nói: “Ta đã dạy cho các đầy đủ hết rồi, còn cái gì thắc mắc thì cứ thưa hỏi ngay liền”. Nếu mà không có câu hỏi đó thì chắc chắn đức Phật còn tiếp tục giảng. Bởi vì đức Phật nói: “Ta đã giảng đầy đủ hết rồi, nhưng hiện giờ ai có còn gì thắc mắc thì hỏi Ta nữa đi”. Để rồi không còn hỏi nữa, đúng không? Như vậy rõ ràng là đức Phật không còn giảng pháp.
Người ta tưởng ra đức Phật luôn lúc nào thuyết giảng trong 49 năm thuyết pháp hay là 40 năm thuyết pháp độ chúng sanh, đức Phật đã dạy đủ hết, không giảng thừa, không giảng thiếu. Nghĩa là trong kinh đức Phật nói: “Ta nói một cái gì mà mọi người hiểu bằng ý thức thì đó là Ta không nói láo trong Ta; còn Ta nói mà các người phải hiểu bằng tưởng thức, hiểu tưởng tri thì đó là có nói láo trong Ta”. Cho nên đức Phật nói thật, nói cái gì chúng ta hiểu cụ thể rõ ràng, không thể nào có sự trừu tượng mơ hồ.
Cho nên không thể nào mà chúng ta triển khai cái giáo pháp của đức Phật, mà ngoài cái ý thức của chúng ta thì nó là trật, chúng ta sẽ đi trật đường. Do, trên con đường tu hành theo đạo Phật, theo Thầy thiết nghĩ trong cái bộ kinh Nguyên Thủy vừa đủ cho chúng ta thực hiện được tâm hồn giải thoát, làm chủ được sanh, già, bệnh, chết đó là cái mục đích của đạo Phật rồi, không còn mà thêm một cái gì khác hơn hết.
Nghĩa là đạo Phật ra đời có mục đích thật cụ thể rõ ràng, chỉ định cho chúng ta. Cho nên nó không phải là ở trong giới luật, nó cũng không phải thiền định, nó cũng không phải là Tam Minh, mà là ở chỗ tâm bất động của chúng ta. Tâm bất động chúng ta là giải thoát, tâm bất động chúng ta sẽ có đủ định, để mà chúng ta làm chủ được sự sống chết được và chúng ta đủ Tam Minh để quét sạch mầm tái sanh luân hồi, đó là tâm bất động.
Nếu tâm còn động thì không làm được chuyện đó, đó là cái mục đích của đức Phật đã xác định trong kinh Nguyên Thủy cụ thể rõ ràng. Ngoài những cái vấn đề lý luận cao siêu hơn nữa đó là người ta đã tưởng theo kiến giải các pháp của ngoại đạo, chứ còn đạo Phật rất thực tế, không có nói xa, nói gần mà chỉ nhắm vào để giải thoát kiếp sống của con người trên hành tinh này.
(44:33) Đồng thời thì đức Phật lại xây dựng cho con người trên hành tinh này, một nền đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Thì chúng ta thấy quá tuyệt vời, con người sẽ có đạo đức hết, không ai làm khổ cho ai. Còn bây giờ chúng ta có đạo đức mà người khác không đạo đức, thì người ta làm khổ mình quá nhiều. Còn nếu mọi người đều có đạo đức hết, mà sống đúng như lời đức Phật dạy trong cái nền đạo đức nhân bản không làm khổ mình, khổ người chắc hạnh phúc vô cùng, con người trên hành tinh này không còn làm khổ nhau nữa.
Thì đạo Phật ra đời nhằm phục vụ cho con người như vậy cũng quý lắm rồi, không cần mục đích sâu xa. Vì đòi hỏi xa hơn thì tôn giáo người ta đã vẽ ra những cái xa hơn rồi, chúng ta cần gì phải lặp lại, cho nên chúng ta chỉ cần để được giải thoát đủ cái kiếp sống của chúng ta không còn khổ (không nghe rõ) Đó là Thầy thấy đạo Phật thực tế cụ thể không ngờ.
(45:23) Phật tử: Dạ thưa câu hỏi tiếp theo là của Phật tử Tâm Khuê ở Santa Ana. Tất cả các thế giới có ba cõi, sáu đường, ba mươi sáu tầng trời đều là thế giới tưởng. Vậy thì theo Thầy có thế giới nào là thật không?
Trưởng lão: Không có thế giới nào thật cả, vì nó là nhân quả cho nên nó không thật. Thậm chí như cuộc sống của chúng ta hiện giờ, cái thế giới của chúng ta hiện giờ, có, chúng ta thấy biết có người, có chúng sanh, có cây cỏ vạn vật, đức Phật cũng nói là thế giới tưởng, vì chúng ta không thấy rằng nó là duyên hợp mà thành có; có rồi tự nó cũng sẽ trở thành hoại diệt, nó không vĩnh viễn đâu. Cho nên nó không thật. Toàn bộ không có thế giới nào là thật hết.
(46:02) Phật tử: Con đội ơn Thầy. Dạ thưa cái câu hỏi tiếp theo là của Phật tử Vạn Phúc. Khi con làm một việc quá quen thuộc, giống như là một người máy, như là dán cái nhãn ở trên hộp theo hệ thống làm dây chuyền, thay vì tập trung Chánh Niệm trong việc dán nhãn, con có thể trụ tâm vào hơi thở ra vào nơi tụ điểm trong khi tay vẫn làm việc có được không? Xin Thầy từ bi chỉ dạy.
Trưởng lão: Cái đó tu như vậy là bị ức chế tâm, trong khi chúng ta làm việc thì chúng ta chú ý trong việc làm chúng ta.
Mặc dù là làm rất quen, rất quen nhưng chú ý rất cẩn thận hơn, chú ý từng hành động. Nhưng mục đích chúng ta hàng ngày, trong hành động làm quen đó chúng ta còn phải nhớ để nhắc tâm ly tham, sân, si, nếu có điều kiện tạo duyên cho tham, sân, si nó bừng dậy thì chúng ta ngay liền, chúng ta phải biết nó tham, sân, si dập tắt liền, thì như vậy còn hữu ích, chứ không phải mình làm quen.
Cũng như một người đang buôn bán rổ, thúng, nia thì họ làm quen, họ đâu cần phải lưu ý, nhưng mà họ đang (không nghe rõ). Nhưng không phải như vậy là đúng đâu. Cho nên chúng ta nhiều khi chúng ta làm cái việc quen rồi, chúng ta cứ làm rồi đầu óc chúng ta suy nghĩ một việc khác, thì cái đó không hay đâu, không tốt.
Chúng ta làm, chúng ta phải chú ý trong cái việc làm đó, nhưng mục đích chúng ta là bao giờ cũng nhắc tâm phải thoát ra khỏi sự đau khổ thì hay nhất. Thí dụ như bây giờ chúng ta đang ngồi, chúng ta làm một cái việc gì đó thì chúng ta nhắc tâm như thế này, câu hữu: “Tâm phải thanh thản, an lạc, vô sự đừng nghĩ bậy bạ”.
Chứ nhiều khi mình đang làm mình quen tay, rồi cái đầu nó nghĩ chuyện khác tùm lum, bây giờ mình bắt buộc nó trong hơi thở để cho nó đừng nghĩ tức là bị ức chế. Cho nên vì vậy mà mình phải nhắc tâm mình: “Thanh thản, an lạc, vô sự”, hay: “Tâm như cục đất, ly tham, sân, si đi, mai mốt có chuyện gì gặp tham, sân, si thì mày không được tham, sân, si nữa”. Nhắc như vậy thì có ngày nó sẽ tâm tham, sân, si nó có vậy.
Phật tử: Thưa Hòa thượng như vậy là mình vừa làm việc mà vừa tỉnh giác mà xả tâm.
Trưởng lão: Mà xả tâm.
Phật tử: Dạ, dạ. Xả tâm mình.
Trưởng lão: Không bị ức chế.
Phật tử: Dạ, dạ, dạ. Con đội ơn Hòa thượng.
(47:55) Phật tử: Dạ thưa Thầy, câu hỏi tiếp theo là của Phật tử Vạn Phúc, cũng giống như là Phật tử trên. Dạ, theo Thầy không cần xây chùa to tháp lớn nhưng nếu thế gian này không có một ngôi chùa hay một tượng Phật, không còn một di tích, lịch sử nào của đức Phật Thích Ca, thì chúng sanh còn chịu luân hồi vô lượng kiếp, làm sao còn nhân duyên gặp lại Phật pháp để tu.
Trưởng lão: Nếu thật sự mà trong thế gian này đã có đạo Phật, đã có nền đạo đức nhân bản – nhân quả mà mọi người đều sống không khổ cho nhau thì đạo Phật đương nhiên vẫn còn, không cần phải có một ngôi chùa. Thầy muốn nói như vậy các con hiểu. Bây giờ đạo Phật không cất một ngôi chùa nào cả, không xây dựng, không làm hao tốn tiền bạc ai cả, nhưng mà tiền bạc cho họ được cái nền đạo đức nhân bản không làm, khổ mình, khổ người thì đạo Phật vẫn còn mãi mãi.
(48:48) Phật tử: Khi mà cái người mà Phật tử mà Vạn Phúc mà hỏi câu này thì con nghĩ rằng, tại vì khi mà anh đã đặt ra một cái câu hỏi là nói là, đa số những người Phật tử mà đến chùa hay là Phật tử mà quay trở về với đạo Phật đó là chín mươi phần trăm là họ đến chùa. Thì họ nghe những cái tiếng chuông này hay họ lạy Phật, thì họ thấy cái lòng thanh thản, thì từ đó họ bắt đầu họ mới đi tìm hiểu đạo Phật để trở về với lại đạo Phật.
Mà bây giờ đó thì không còn chùa, không còn những cái gì di tích của đức Phật để lại, thì cái người đó làm sao có cái duyên để mà trở về với lại đạo Phật?
Trưởng lão: Bây giờ chính những ngôi chùa, những sự hoạt động trong cái sự tụng niệm chuông mõ nó gây ra cái niềm, họ gọi là đạo Phật nhưng nó gây ra cái sự mê tín trong, chứ không phải đạo Phật.
Nếu họa chăng mà con người trên hành tinh này, mà đã sống với cái nền đạo đức nhân bản – nhân quả không làm khổ mình, khổ người thì ít ra những vị tu sĩ mà làm gương hạnh đó, là những người đó gốc cây, ở hang đá, họ không ở chùa cao Phật lớn nữa, họ là những bậc A La Hán.
Cho nên mới duy trì được cái mạng mạch của đạo đức của Phật giáo như vậy, thì những người này thì là nó chiêm ngưỡng cho tất cả tín đồ của Phật giáo và mọi người trên hành tinh, chứ không riêng gì đạo Phật, không phải cần cái chùa to. Một người sống thật, một người sống hẳn hòi đức hạnh, giới luật giới Thánh của Phật như vậy, thì có quý hơn là ngàn cái chùa không?
Cho nên làm sao khi mà đạo đức của đạo Phật đã được truyền dạy cho con người trên hành tinh này thực hiện được như vậy, thì làm gì không có bậc A La Hán trong thế gian này. Cho nên những bậc A La Hán là sự chiêm ngưỡng, là sự quy tụ của tất cả tín đồ Phật giáo, là nó tuyệt vời, không còn chỗ chê.
Phật tử: Dạ, con đội ơn Thầy.
(50:26) Trưởng lão: Thầy nói thêm, chỉ vì là những chùa to, những Phật lớn, những tượng mà tốt đẹp kia, nó đã làm mất đi cái chánh pháp của đạo Phật rồi và biết bao nhiêu hao tốn tiền của, của mọi người và biết bao nhiêu là để lại cho người Phật tử phải gánh một gánh nặng của cái ác pháp, nhưng sự lợi ích không thiết thực, không thiết thực.
Còn nếu mà Phật giáo để lại một vị đạo quả A La Hán, một vị A La Hán thôi thì thế gian này hạnh phúc vô cùng. Nơi chiêm ngưỡng đó là quý nhất, thực tế nhất. Cho nên chúng ta đừng lấy cái sai mà dẫn dắt người để đi vào chánh đạo thì không được, mà phải lấy chánh đạo để dẫn dắt người vào chánh đạo để (không nghe rõ).
(51:09) Phật tử: Dạ, con đội ơn Thầy. Thưa Thầy cái câu hỏi cuối cùng Phật tử mà không phải trong nhóm chúng con là Phật tử Chơn Hương ở tiểu bang Utah. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật chỉ ngài A Nan về tánh nghe, tánh thấy là thường hằng không sinh, diệt. Nhưng khi thân người hoại diệt thì tánh nghe, tánh thấy có còn không? Bạch Thầy từ bi chỉ dạy.
Trưởng lão: Bởi vì ngay cả khi mà chúng ta còn sống mà khi chúng ta ngủ thì tánh nghe, tánh thấy đâu còn, thì làm sao khi chúng ta mất mà làm sao còn tánh nghe, tánh thấy được.
Khi chúng ta còn là do cái ý thức của chúng ta, ý căn của chúng ta hoạt động, ý thức chúng ta có thì cho nên tánh nghe, tánh thấy, tánh biết của chúng ta. Khi cái ý căn chúng ta bị hoại diệt, tức là não bộ chúng ta bị hoại diệt thì tánh thấy, tánh nghe, tánh biết chúng ta cũng không còn.
Cho nên không có, đó là một cái lý luận của một cái tưởng. Cho nên kinh Thủ Lăng Nghiêm không thật đúng của Phật. Bởi vì không có cái thường hằng nào cả, vì sáu cái thức của chúng ta nó chỉ mới là thân thức mà thôi, nó còn hai cái thức nữa là tưởng thức với thức thức, chúng ta chưa nói trong thân ngũ uẩn kia mà. Vậy thì cái thức thức còn mất huống hồ là cái sáu thức của chúng ta, làm sao còn.
Nghĩa là cái thân ngũ uẩn của chúng ta, năm uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Thì cái thức này vẫn hoại diệt thì cái thân thức của chúng ta, tức là ý thức, nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thân thức của chúng ta làm sao còn. Quá rõ khi mà hoại diệt, không còn cái gì còn.
Đức Phật nói: “Nếu còn một chút xíu cái biết thì đạo Ta không ra đời”. Bởi vì không thể giải quyết được sự khổ của con người. Nếu mà thế gian này có một cái bản ngã thật sự thì đạo Ta cũng không ra đời, là vì không thể giúp cho con người thoát khổ, cho nên không ra đời. Vì nó vô duyên hợp nó không có bản ngã thật sự, cho nên đạo Phật mới ra đời, ra đời để giúp con người thoát khổ. Vì nó không thật cho nên nó mới giải quyết được cái khổ, còn nếu mà nó có thật, có người chịu khổ thì không thể giải quyết được.
Đó là cái lý luận của đạo Phật rất cụ thể và rõ ràng. Nếu chúng ta có một người thật sự làm ác thì làm sao chúng ta giải khổ được, bởi vì chính người đó đã làm ác thì không thể giải khổ được. Mà có thật sự một người hoàn toàn là vĩnh viễn thì dù là linh hồn, dù thần thức đi nữa thì chúng ta không giải quyết được.
Còn đằng này nó do duyên hợp không có, cho nên nó hoàn toàn nó không có cái khổ, nhưng mà chúng ta vì lầm, lầm cho nên thấy mình khổ, vì vậy mà chúng ta giải khổ, khi chúng ta hiểu thì chúng ta sẽ hết khổ.
Phật tử: Dạ, con đội ơn Hòa thượng. Dạ. Sau đây thì không biết là em họ qua bà xã con đây có, cũng là người đã thích nghe, hiểu biết, tìm hiểu Phật giáo. Dạ. Chúng con mới vừa được biết, nghĩa là anh rất là thích về đạo Phật, những cuốn Phật viết là những cái bộ kinh Nguyên Thủy, thì con hơi ngạc nhiên. Vì vậy mà ngày hôm qua, đó là cái cơ duyên của anh đó, anh qua con, xin phép Hòa thượng là con xin rủ anh đi theo con để đến đây, để có những cái gì thắc mắc thì xin hỏi Hòa thượng, rồi Hòa thượng từ bi chỉ dạy.
Trưởng lão: Con qua bên ghế đây ngồi đi con.
(54:26) Phật tử 2: Thưa Thầy cho con hỏi là, còn con nghe lời Thầy nói như vậy đó thì là con có thắc mắc như này. Có gì thì Thầy bỏ quá cho con nhé. Con muốn hỏi là sau khi đức Phật nhập Niết Bàn như vậy, thì bây giờ đức Phật ở đâu?
Trưởng lão: Đức Phật ở trong Niết Bàn. Bởi vì cái điều này hẳn nhiên, là vì một cái người mà đã nhập được Niết Bàn như Thầy, thí dụ như bây giờ con hay hoặc là bốn người chúng ta, ai cũng đều nhập được vào Niết Bàn gì, nhưng mà chúng ta đang sống, chúng ta chưa có bỏ cái thân này, nhưng mà chúng ta vẫn đi vào đó được mà, phải không? Vậy nó có thực sự cái trạng thái đó chứ. Cho nên khi mà nhập cái vào cái định nào đó, thì nó sẽ vào được cái Niết Bàn gì, vào Niết Bàn thì chúng ta sẽ gặp Phật rồi.
Cho nên Thầy nói như thế này. Có một câu chuyện ông Phú Lâu Na với ông Ca Diếp, hai người tranh nhau về vấn đề giới nhỏ nhặt như vậy. Đầu tiên thì ông A Nan, đức Phật di chúc lại tất cả những giới nhỏ nhặt đều phải bỏ, nhưng mà ông A Nan thì bây giờ tu chưa chứng, cho nên ông mới nghe Phật sắp sửa chết, ông đau khổ quá, ông quên hỏi cái giới nào bỏ.
Do đó khi mà đức Phật chết rồi, thì ông A Nan mới trình rằng đức Phật bảo giới nhặt bỏ. Ông Ca Diếp hỏi: “Giới nhỏ nhặt nào, giới nhỏ nhặt thì nhiều lắm chứ đâu phải có một giới, vậy cái giới nào bỏ?”. Thì ông A Nan nói lúc bấy giờ ông quên rồi, ông không có hỏi. Thì ông Phú Lâu Na ông nói: “Nếu mà ông quên hỏi thì tất cả những giới nhỏ nhặt bỏ hết”. Ông Ca Diếp nói, ông Ca Diếp nói như thế này: “Như vậy hoàn toàn là không hỏi đức Phật, không biết cái giới nào hết bỏ, thì như vậy là chúng ta sẽ không bỏ giới nhỏ nhặt nào hết”. Rồi hai vị A La Hán mà tranh chấp nhau.
Cái thứ nhất chúng ta sẽ thấy cái này rõ ràng, là hai vị A La Hán thì đều vào Niết Bàn được hết, phải không? Bây giờ muốn vào Niết Bàn hỏi Phật cái gì lại không được, mà phải vấn nạn ông A Nan làm gì cho khổ ông, ông chưa chứng mà. Tại sao?
Bây giờ hai ông, tôi với ông nè, hai ông Phú Lâu Na với ông Ca Diếp đều là những bậc A La Hán hết, phải không? Bây giờ hai ông nè, bây giờ tôi với ông bây giờ vào hỏi đức Phật bỏ giới nhỏ nhặt nào có bỏ hay không, hay hoặc là người ta đặt, thí dụ vậy đi.
Thì hai người nhập vào Niết Bàn gặp Phật liền, Phật ở Niết Bàn chứ Phật đâu mất, chỉ bỏ cái xác này thôi, tu hành nó phải còn chứ đâu mất, nếu mà mất thì ai tu làm gì, phải không? Vô Niết Bàn mới hỏi Phật, vậy Phật sẽ bỏ những giới nhỏ nhặt nào? Thì ông Phật ngay, ông nói cho mình biết liền chứ gì. Phải không? Thì do đó có gì đâu mà khó mà tranh chấp.
Như vậy rõ ràng người ta muốn hạ, thứ nhất là hạ đệ tử của đức Phật bậc A La Hán còn tranh chấp. Mà hai ông này chứng quả A La Hán là do giới mới sanh hai ông ra, thì làm gì mà bỏ giới luật được. Một cái giới là một cái thiện pháp, giữ gìn một cái giới tức là đẩy lui được một ác pháp, các con hiểu chưa?
Cho nên mình mới ly dục, ly ác pháp là phải thanh tịnh giới chứ, không bỏ được giới nào hết. Hay bây giờ Thầy nói như thế này, những cái giới nhỏ nhặt người ta cho trong giới chúng học là giới nhỏ nhặt, như cái giới mà thí dụ như đức Phật dạy cái giới về vệ sinh, cấm chư Tăng không được khạc nhổ, xả rác bậy bạ dơ, không được tiêu tiểu trên nước, ở trên bãi cỏ xanh trên đường, giới nhỏ nhặt mà, phải không? Do đó thì chúng ta bây giờ bỏ, nhưng mà chúng ta thấy cái giới này là cái nền đạo đức của người ta mà, là giữ gìn cái môi trường sống, là vệ sinh mà.
Ví dụ như bây giờ khạc nhổ vậy đó, ví dụ ném nắm rác, rác sẽ mục bay lên bụi, bụi sẽ làm khổ mình, khổ người chứ gì, sẽ sanh bệnh chứ gì. Rõ ràng là không cho khạc nhổ, tiêu tiểu bậy bạ, nếu tiêu tiểu bậy bạ thì bốc hơi lên nó cũng làm cho cái môi trường chúng ta ô nhiễm gì.
(57:31) Ngay thời đức Phật mà biết những cái giới luật đặt ra như vậy để cấm chư Tăng như vậy, thì chúng ta thấy tuyệt không? Đâu còn mà tại sao nó nhỏ nhặt đâu. Nếu mà cái xã hội chúng ta, cái môi trường chúng ta hiện giờ ai cũng giữ vệ sinh thì chúng ta thấy, có chúng ta bệnh đau không? Bởi vì chúng ta thải ra trong cái không khí này biết bao nhiêu cái chất ô nhiễm. Đó, như vậy mà đạo Phật đã biết từ xưa rồi.
Thì như vậy rõ ràng là người khác đặt cái bài kinh này vào để phá đạo Phật. Thứ nhất là hạ bậc A La Hán trong kinh Tương Ưng, đức Phật có xác định A La Hán với Phật cao thấp như thế nào. Đức Phật nói Tứ Diệu Đế là do Ta nói ra, còn cái quả A La Hán các vị Tỳ kheo khác mà chứng quả A La Hán thì chỉ theo Tứ Diệu Đế mà thực hiện, mà giải thoát, thì sự giải thoát Ta với các vị này như nhau. Nhưng tại vì Ta là người đưa ra Tứ Diệu Đế, bốn cái chân lý chứ gì? Các vị này không có đưa ra cho nên thấp hơn Ta, chứ có thấp cao gì đâu. Tại vì Ta là người truy ra được, tìm ra được cái chơn pháp này, còn các vị này không tìm được. Thì như vậy là A La Hán với Phật bằng nhau chứ đâu có khác nhau, chỉ vì đức Phật là giáo chủ thôi, sau này giáo chủ là cái người đẻ ra cái giáo pháp đó, cái tôn giáo đó. Còn A La Hán thì theo con đường đó tu để mà thành tựu giải thoát, thì như vậy A La Hán với Phật hai người đồng nhau.
Cho nên bây giờ trên cái vấn đề chúng ta thấy rõ này, những cái vị A La Hán này họ vào Niết Bàn họ hỏi giới nhỏ nhặt nào bỏ thì đức Phật trả lời. Cũng như bây giờ đức Phật cách chúng ta hai ngàn năm trăm mấy chục năm, bốn mươi mấy năm, năm trăm bốn mươi lăm năm (2545 năm). Bây giờ Thầy tu được, con tu được, người nào chứng quả chúng ta vào Niết Bàn, thấy Phật, thấy hình ảnh Phật, gặp Phật, nói chuyện Phật được (không nghe rõ).
Bởi vậy Thầy có khuyên các con, ví dụ như trong gia đình chúng ta mà, vợ chồng và các con chúng ta đều giữ cái tâm thanh thản, an lạc và vô sự trạng thái đó là trạng thái ly dục, ly ác pháp. Cho nên khi mà tất cả mọi người đều có một cái trạng thái chung nhau thì chúng ta sẽ gặp nhau trên một điểm khi chúng ta bỏ thân này.
Còn nếu mà người có trạng thái này kẻ trạng thái khác thì chúng ta chết rồi chia ly nhau, người một ngã không bao giờ gặp lại. Bởi vì từ cái sống của chúng ta, tâm niệm của chúng ta nó đều không giống nhau rồi, thì làm sao mà gặp nhau nữa. Các con hiểu chưa? Cho nên Niết Bàn là một trạng thái chung nhau, chúng ta tu được thì chúng ta sẽ gặp nhau.
Bây giờ các con bên Mỹ, mà các con ở trong cái trạng thái tâm thanh thản, an lạc, vô sự đó, bất động tâm đó thì Thầy ở đây cũng bất động tâm đó, thì ở bên đó con ước muốn gặp Thầy ngay đó con thấy Thầy. Mà Thầy ước muốn gặp con thì ở trạng thái đó sẽ gặp nhau, mà nếu ngoài trạng thái đó thì không gặp nhau, con hiểu chỗ đó.
Cho nên nó rất đơn giản, mà nó dễ dàng lắm mà nó đâu có khó đâu, chỉ cần xả bỏ là đủ. Tâm thanh thản, an lạc tâm không phóng dật là được rồi, nó đơn giản lắm mấy con. Nhưng mà có quyết tâm ở trong đó mới đạt được, chứ không quyết tâm…
(1:00:03) Phật tử 2: Ý con hỏi muốn rõ hơn là sau khi mà đức Phật mất đi, thì là coi như là con muốn biết cái trạng thái nào, trạng thái đức Phật mà sau khi mất đi, gọi là không còn gì cả, nghĩa không có nào thường hằng hết.
Trưởng lão: Thật sự ra thì nếu mà nó còn, thì tức là chấp thường, mà nói không thì chấp đoạn. Đạo Phật thì không có chấp cái này, bởi vì thân của chúng ta là thân ngũ uẩn, chết đi là không còn cái gì nữa hết, không còn một cái vật gì, nhưng mà chúng ta nhớ cái pháp của Phật vi diệu lắm.
Bây giờ hàng ngày chúng ta chết đi, toàn bộ thân ngũ uẩn chúng ta không còn cái gì mà để đi tái sanh hết, mà chúng ta có những cái hành động, hành động thiện ác, nó trở thành một cái nghiệp, cái thói quen một cái nghiệp của chúng ta, cái nghiệp đó là cái từ trường mà chúng ta thảy ra hàng ngày, thảy ra trong không gian, cho đến khi mà chúng ta bỏ, tức là nhân quả, cái thân nhân quả chúng ta hết trong cái đời nay chứ gì, nó sẽ hoại diệt, cái từ trường đó nó còn đó. Chứ còn cái thân của chúng ta không còn nữa và cái từ trường đó nó sẽ tương ưng nơi đâu đó, thì nó sẽ tiếp tục, nó tái sanh lên làm con người thứ hai của chúng ta nữa. Cái từ trường của chúng ta thải ra, hằng ngày Thầy đưa cánh tay vậy có cái từ trường, Thầy nói nó có cái từ trường. Vì vậy mà bây giờ những cái lời nói của đức Phật ngày xưa nó vẫn ở trong không gian này, chứ nó không có mất.
Cho nên khi mà Thầy hướng tâm về, Túc Mạng Minh đó, tức là làm cho cái thời gian nó không còn có quá khứ, vị lai, hiện tại nữa, mà trong hiện tại thì ngay đó là Thầy đã nghe thấy được cái âm thanh của đức Phật nói trong cái thời gian đó. Nghĩa là nó còn ở trong không gian này, nhưng mà chúng ta chưa có cái máy bắt được mà thôi.
Nhưng mà cái đầu của chúng ta nó bắt được. Cái đầu của chúng ta, cái pháp như thế nào các con? Như Lý Tác Ý. Tức là đức Phật nói Dục như ý túc mà, chúng ta muốn nghe được cái lời đức Phật nói cái bài kinh đó, thì ngay đó ý mà chúng ta muốn vậy thì chúng ta phải ở trong cái trạng thái của định nào đó. Thì lúc bấy giờ chúng ta muốn một cái thì ngay đó chúng ta bắt gặp được liền, bắt gặp được cái âm thanh đó và cái hình ảnh của đức Phật trong thời gian (không nghe rõ). Nó không có gì khó, bởi vì cái hình ảnh này nó lưu.
(01:01:51) Thầy nói như thế này, bây giờ có một cái người đó họ là liệt sĩ đi, trong cái cuộc chiến tranh, họ đã chết người ta chôn ở đó. Thì cái hình ảnh mà chết chôn ở đó nó lưu lại, bây giờ 10 năm, 20 năm rồi. Có một cái nhà ngoại cảm họ đến, họ ngồi đó, bởi vì cái tưởng họ cảm, giao cảm, họ cảm được, họ nhận lại tức là cái tưởng của họ nó không có không gian, không có thời gian.
Cho nên trở lại bây giờ quá khứ nó giao cảm được, cho nên nó chỉ lại móc lên có cái bộ xương đó và người đó chết cách nào cách nào, bị giặc bắn chết như thế nào, họ nói rõ không có sai chút nào hết. Tại vì họ giao cảm được cái hình ảnh, cái sự kiện nó còn lưu lại ở trong không gian của chúng ta, gọi là ngoại cảm. Họ ngoại cảm được hết cái điều này, bây giờ gọi là đồng cốt hay này kia đó là cái danh từ chúng ta gọi.
Còn cái nhà khoa học thì chúng ta không biết cách thức như thế nào, chúng ta nói đó là nhà ngoại cảm, nó cảm, giao cảm được bên ngoài. Con người mình như thế này mà khi cái ý thức nó ngưng rồi, cái tưởng thức nó hoạt động, nó giao cảm được. Còn cái người mà tu hành thì cái tâm thức người ta nó mới hoạt động, nó giao cảm như vậy. Tức là nó sống ở trong đó luôn chứ nó không phải là giao cảm như cái nhà ngoại cảm bằng tưởng. Nên chúng ta thấy nó vi diệu lắm! Nó không có, cho nên chúng ta thấy nó không có…
Phật tử 2: Vậy coi cái đó là thường hằng?
Trưởng lão: Thường hằng.
Phật tử 2: Là cái đó thường hằng? Còn không còn cái gì là thường hằng hết?
Trưởng lão: Không có còn gì.
Phật tử 2: Dạ.
Trưởng lão: Tức là cái hành động mà của chúng ta hằng ngày mà cái đó, còn bây giờ cái hành động chúng ta sống như thế này, tâm như cục đất không có tham, sân, si. Chúng ta thải ra những cái ngôn ngữ, những cái từ trường đó bằng cái hành động chúng ta và chúng ta không bao giờ mà đánh người, chúng ta thường làm những cái điều thiện giúp người hơn là chúng ta chửi mắng, hơn là chúng ta tức giận thì những cái từ trường nó thải ra, thì cái này nó sẽ còn của chúng ta, cái này nó sẽ vậy nó không tái sanh luân hồi, con hiểu chưa?
Như vậy nhưng mà nó, khi mà nó như vậy thì nó có cái trạng thái của nó chứ, trạng thái nó là thanh thản, an lạc, vô sự, bất động tâm. Cái tâm mà không tham, sân, si nó có cái trạng thái vậy, còn cái tâm tham, sân, si thì nó có cái trạng thái tham, sân, si, giận dữ, tức giận, tham lam, ham muốn cái trạng thái của nó, nó khổ đau là trạng thái của tham, sân, si.
Đó thì các con thấy không? Mình chỉ, nó có hai ngã thôi, rất là rõ ràng, một ngã thiện và một ngã ác. Một ngã thiện thì thanh thản, an lạc, vô sự một ngã ác thì đau khổ, phiền não luôn lúc nào cũng có xảy ra cái điều đó. Phải không?
Cho nên bây giờ mình đi ngã thiện thì luôn luôn cái tâm mình nó huân cái từ trường thiện này, thành ra một cái lực của nó, cho nên cái lực này nó còn. Cái lực này thì nó thanh thản, an lạc đó, thì đó là cái Niết Bàn của nó chứ sao. Các con hiểu không? Cho nên các con thường sống, Thầy thường sống thì mình ước ao mình gặp nhau thì ngay đó là nó không có cái thời gian mà chia cắt, chúng ta sẽ gặp nhau không có không gian mà trải dài, cho nên chúng ta bắt gặp nhau dễ dàng. Bắt gặp nhau nói chuyện nhau cũng dễ dàng.
(01:04:20) Phật tử: Có duyên gặp Hòa thượng, nhân dịp có câu hỏi này thì Hòa thượng, Thầy mới giảng cho chúng con, thì trong đó cũng có cái thắc mắc của trong nhóm Nguyên Thủy là như thế này.
Chúng con bị nghiệp nhiều đời, nhiều kiếp quá sâu dày thành ra may mắn bắt được cái giáo pháp của Thầy, đã triển khai ra từ đức Thích Ca Mâu Ni, nên chúng con cố gắng để mà nương theo để mà tu hành. Nhưng mà nghiệp chướng thì nó nhiều quá, mà thời gian tu hành của chúng con quá ngắn.
Mà Thầy nói là Thầy sẽ bỏ đi, thì như vậy thì có cái cơ duyên nào mà chúng con còn có thể, khi mà lưu lạc ở trong sinh tử này, còn có thể được gặp Thầy, để Thầy từ bi chỉ dạy cho chúng con vượt qua khỏi những cái bể khổ và vượt qua luôn cả cái sanh tử luân hồi luôn thưa Thầy.
Trưởng lão: Thầy đã có cái điều kiện, Thầy nói rằng cách đây hai ngàn mấy trăm năm từ khi đức Phật xuất hiện, rồi kế đó vì sự tranh chấp của các hệ phái của Phật giáo đã làm cho Phật giáo chết đi, chết mất, mất luôn cả cái nền đạo đức của Phật dạy. Do đó không lẽ một lần bây giờ làm sống lại thì chúng ta lỡ tâm bỏ, để bao nhiêu con người trên hành tinh này bơ vơ theo đạo Phật (không nghe rõ)
Cho nên Thầy có ý là phải triển khai toàn bộ cái đạo đức nhân bản – nhân quả của đạo Phật để giúp cho con người trên hành tinh này, sống có đạo đức. Đó là điều cần thiết nhất.
Kế đó thì, nếu mà Thầy thấy cơ thể nhân quả của mình nó không đủ duyên, mà thì không đủ sức phục hồi lại, bởi vì nó cằn cỗi quá rồi, bởi vì nó là thân nhân quả rồi thì không thể nào mà nó vĩnh viễn được đâu. Cho nên Thầy phải bỏ, Thầy bỏ thì lúc bấy giờ các con muốn đi sâu thì cái kinh nghiệm làm sao các con thấy được, phải có một người có kinh nghiệm, bởi vì con đường còn rất dở dang. Vì vậy cho nên khi mà Thầy ra đi, ít ra có người đệ tử phải thực hiện được điều này, tức là một vị A La Hán, các con yên tâm.
(01:06:14) Mà nếu Thầy đặt thành vấn đề, nếu không có người. Nghĩa là bây giờ người ta chịu ảnh hưởng của Đại thừa nhiều quá rồi, người ta vô người ta tu giới luật, người ta sống chịu không nổi, người ta sống ngày bữa người ta sống theo cái kiểu mà độc cư buồn tẻ này, không được xem hát, ca hát mà trong cái giai đoạn của xã hội chúng ta phục vụ những vấn đề đó, thì làm cho tâm người ta không có thể nào khép chặt ở trong giới luật của Phật được. Là do đó không có thể có người mà thực hiện được, chắc chắn điều đó Thầy phải hóa sanh.
Chứ còn mà Thầy tái sanh thì nó thời gian nó dài quá. Và đồng thời mấy con gặp được Thầy, thì ít ra Thầy cũng từ đứa bé lớn dần lên, cũng mấy chục năm thì tội cho mấy con quá, thì mấy con đã chết mất rồi. Như tuổi các con mà Thầy mà chết rồi, Thầy đi tái sanh tới chừng nào Thầy được ba mươi, hai mươi tuổi mà giảng đạo cho mấy con, thì chắc mấy con đã chết mất rồi.
Thì trong khi các con gặp Thầy rồi cuối cùng rồi bỏ các con bơ vơ ở trên con đường đạo, thì lòng từ bi của Thầy không thể thấy các con bơ vơ. Khi các con đã đọc được kinh sách Thầy rồi, thì bao nhiêu cái đổ vỡ của các con từ bao giờ xây dựng về tôn giáo Phật giáo thì nó đổ sạch xuống hết rồi. Các con không còn cái chỗ nào bám, mà khi mất Thầy các con biết bám ai. Phải không? Nếu mà không có Thầy thì các con bám chỗ nào đâu được.
Bây giờ vô trong chùa các con thấy chán quá rồi, không còn bám được nữa. Thấy quý thầy tu kiểu này các con cũng thấy biết rõ ràng, tại Thầy nói quá rõ rồi. Vì vậy bây giờ còn cái hướng đi, là mình đi làm sao không có người hướng dẫn, trên con đường nó còn gian nan chứ đâu phải là nó dễ dàng đâu.
Phật tử 3: Dạ con hiểu cái đó Thầy.
Trưởng lão: Bởi vì cái nghiệp lực các con đã huân nhiều đời, bây giờ mà muốn xả nó đâu phải một ngày, một giờ là được. Vả lại đạo đức của đạo Phật nó lại có một cái nền đạo đức, như bây giờ con muốn tu mà con bỏ vợ con đi tu, Thầy không chấp nhận.
Tại vì con đã tạo cái nhân quả đó rồi con phải làm sao cho cả gia đình con đều phải thực hiện trên con đường tu. Thì tức là con phải kéo theo một lô đông đảo như vậy thì con đâu thể nào mà đi nhanh được, con phải đi chậm và đi chậm như vậy mới trọn nghĩa đạo đức của một người cư sĩ của đạo Phật. Như vậy thì Thầy phải trợ giúp cho các con, chứ không lẽ lại bỏ các con.
Nhưng mà Thầy nghĩ rằng, trong cuộc đời Thầy nó khó nhưng mà sau này thì nó dễ là tại vì có nhiều người, thì lúc bấy giờ chúng ta thấy cần đi, rồi chúng ta cần đi vì con người khác chúng ta không còn ham thích, trong cái thế gian này.
Vì các con biết ăn ngày một bữa, sống mà phạm hạnh, đức hạnh như các bậc Thánh, thì ngủ dưới gốc cây hoặc trong hang đá thì không còn cái gì gọi là… Trên thế gian này không còn cái gì cám dỗ họ được, họ không còn ham thích cái gì nữa mà. Bởi vì họ với cái đôi mắt của họ, họ thấy tất cả đều là nhân quả, không còn có cái gì. Nhưng phải vượt qua khổ, giúp đỡ người vượt qua khổ, chứ không phải thấy khổ mà chán khổ để rồi tu được bỏ đâu.
(01:08:44) Cũng như bây giờ tuổi Thầy, Thầy ra đi, Thầy khỏe, mà Thầy còn mang cái thân này, nay bệnh, mai đau làm công việc này nọ thì quá khổ gì. Các con hiểu. Cho nên vì vậy mà Thầy nghĩ rằng phải lợi ích chúng sanh, chứ không phải vì thấy khổ mà bỏ. Nghĩa là vượt qua khổ của mình rồi, bây giờ tìm cách để cho mọi người cũng vượt qua khổ, chứ không thể bỏ chúng sanh bơ vơ được.
Cho nên đức Phật ông vào Niết Bàn rồi, thì trong kinh Niết Bàn mà Đại thừa nói đức Phật không bao giờ bỏ chúng sanh, nhưng mà sự thật đức Phật đã bỏ chúng sanh. Chúng ta tu mãi, tu không được thì không phải là bỏ chúng ta hay sao? Chúng sanh còn đó, nhưng những người dạy chúng ta không làm được thứ gì, ông Thầy dạy cũng không tu giải thoát được, tới mình tu cuối cùng mình cũng nỗ lực hết mình, mình cũng không giải thoát được.
Còn bây giờ Thầy đã giải thoát được, mà Thầy nỡ bỏ các con sao? Không bỏ các con đâu, các con yên tâm. Nhưng mà phải lo tu tập cho đúng đạo đức để lần lượt rồi Thầy có ra đi, ít ra cũng phải có người thay Thầy, để làm cho những điều khó khăn. Nghĩa là người đó phải có đủ kinh nghiệm, phải chứng quả A La Hán. Nghĩa là phải làm chủ, phải thực hiện tới Tam Minh hẳn hòi, Tứ Thiền phải nhập làm chủ sống chết rõ ràng, bệnh tật làm chủ đàng hoàng, rồi Tam Minh thực hiện rõ ràng rồi cuối cùng thì người này ở lại và tuổi họ còn trẻ. Họ sẽ dẫn dắt mấy con tới nơi tới chốn.
(1:09:55) Phật tử: Kính bạch Thầy, chúng con rất là đội ơn Thầy đã cho chúng con biết như vậy. Chắc có lẽ nên ở trong nhóm Nguyên Thủy cũng như Phật tử hải ngoại mà nghe được cái này thì họ phấn khởi vô cùng. Cũng trong cái ý này mà có một số anh em trong nhóm Nguyên Thủy chúng con, lúc nào cũng nghĩ đến Phật pháp, mong Phật pháp được trường tồn và trải rộng ra cho tất cả những chúng sanh ở trong cái cõi Ta Bà này.
Vì vậy mà chúng con xin được mạn phép hỏi Thầy là một người hay là hai người, chúng con nghĩ rằng đã đắc quả, chúng con nghĩ là vẫn chưa đủ để mà có thể mà hướng dẫn được số lớn chúng sanh ở trong cõi Ta Bà này. Xin Thầy có cách này để giúp cho, hay là phương tiện nào để giúp cho có nhiều vị đắc quả để mà giúp cho chúng sanh hay không?
Trưởng lão: Trong vấn đề này Thầy đã tư duy, bây giờ chúng ta mà thực hiện, hiện bây giờ có mười vị, hai chục vị hay một trăm vị chứng quả A La Hán, thì nó trở thành một cuộc chiến tranh tôn giáo mất. Mà bậc A La Hán thì không thể nào chiến tranh, thì như vậy là A La Hán chỉ chẳng qua cũng chẳng giúp đỡ đời gì cả, các con hiểu điều đó.
Chỉ có một nền đạo đức chúng ta sẽ đưa ra nền đạo đức, thì các con chỉ có cách thức mà giúp Thầy mỗi người, mỗi em học sinh nhịn ăn quà buổi sáng để rồi đóng góp với Thầy in cái bộ sách đạo đức nhân bản – nhân quả này, để trao tận tay cho mỗi người ở trên hành tinh này, thì đạo Phật sẽ sáng tỏ và sau đó là bậc A La Hán xuất hiện ra đời, thì giữ gìn cái mạng mạch của Phật giáo thì vĩnh viễn không có tranh chấp. Còn bây giờ mà nếu mà có một trăm vị A La Hán thì có sự tranh chấp.
Phật tử: Dạ.
(01:11:39) Trưởng lão: Cho nên các con sẽ thấy nguy hiểm, đó là tranh chấp hệ phái tôn giáo hay là tranh phạt người ta. Bây giờ thí dụ như bây giờ, Thầy tại sao Thầy mặc chiếc áo này mà Thầy không mặc chiếc áo Nguyên Thủy, nếu mà Thầy mặc áo Nguyên Thủy như đức Phật thì người ta nói Thầy là hệ phái Nguyên Thủy chống Đại thừa. Còn Thầy mặc chiếc áo Đại thừa, Thầy là một tu sĩ Đại thừa chỉnh đốn lại cái sai của Đại thừa, để xây dựng Đại thừa chứ không phải là hệ phái chống hệ phái. Các con hiểu ý Thầy chưa?
Đó, cho nên Thầy biết cái gì đưa ra mà cái gì không đưa ra, tại sao mà những kinh sách của Thầy, Đường Về Xứ Phật, Thầy cấm lưu hành, chỉ được lưu trong cái giới tu sĩ mà tu chuyên tu. Tại vì bây giờ đưa ra là coi như là chúng ta khởi sự cho cái ngòi chiến tranh tôn giáo không tốt đâu.
Bởi vì các con sẽ đọc tới cuốn mà Giáo Án Tu Tập Cho Người Cư Sĩ tập 1 và tập 2, kêu gọi tất cả cư sĩ các con người ta có chửi mắng Thầy, người ta có nhục mạ Thầy cái gì các con cứ “im lặng như Thánh” thì tốt nhất. Đừng có dùng cái ngòi bút của mình, bút chiến với họ thì không hay ho, mình không nên trả lời nhiều.
Cho nên cũng có nhiều người họ đã viết những cái bài, Thầy thấy có cái điều mà Thầy không có bằng lòng. Và đồng thời thì Thầy coi như cái bộ Đường Về Xứ Phật thì các con có duyên cũng như là sáu mươi mấy cuộn băng, các con được nghe rồi các con chỉ giữ lại thôi đừng có lưu hành gì cả, đó là cái điều tốt.
(01:13:00) Chỉ có cái bộ sách Đạo Đức, bộ sách Đạo Đức Thầy cố gắng viết thế nào để tránh những danh từ tôn giáo. Để cho cái người không tôn giáo, không Phật giáo người ta vẫn đọc, thì đó là bộ sách Đạo Đức của chúng ta. Và cái người mà có tôn giáo khác họ vẫn đọc sách tôn giáo, họ vẫn đọc sách Đạo Đức của chúng ta.
Thầy không nói đó là cái đạo đức của đạo Phật đâu, mà sẽ Thầy đưa cái nền đạo đức của đạo Phật mà đến tận tay người ta, để khi mà cuối cùng thì người ta nhận ra được nó, thì người ta mới thấy được cái sự đặc biệt của Phật giáo và cái nhiệm vụ và trọng trách của Thầy, thì Thầy nghĩ rằng không thể để Phật giáo chết đi một lần nữa. Mà phải làm sống lại, để sống lại mãi mãi, chỉ có cái nền đạo đức mà thành.
Cho nên cái sự đầu tư trí tuệ để viết cái bộ sách đạo đức này, thì Thầy không có thì giờ, chứ đã có thì tập một đã ra đời rồi. Vì trả lời thư, rồi bao nhiêu thứ chuyện, nhiều chuyện mất thì giờ. Đâu hay gì các con biết đâu phải viết một cái bộ sách đạo đức mà mình ngồi lại mình viết thường được.
Ví dụ như bây giờ Thầy muốn biết gia đình con có nỗi khổ gì. Bắt đầu bây giờ Thầy phải trở vào cái sự quá khứ của con cách đây một năm, từ đó trong gia đình con xảy ra cái gì mà làm cho khổ vợ, khổ con như thế nào, rồi vợ con làm khổ con như thế nào. Thầy quan sát hết những cái khổ này, Thầy mới biết cái này sai đạo đức, rồi mới dạy cái đạo đức để mà phá đi những cái khổ này. Như vậy gọi là đạo đức nhân bản đem lại cái hạnh phúc cho gia đình con.
Thì như vậy thì cái khả năng đó thì phải có cái thời gian để mà quan sát, chứ nếu mà không có thời gian thì làm sao quan sát. Con biết khi mình viết một điều gì thì mình phải là cái người sống ở trong đó mình mới viết ra, chứ còn mình tưởng ra mình viết coi chừng sai mất. Phải không?
Cho nên một nhà văn họ muốn viết một cái câu chuyện tình tứ gì, ít ra cái người đó họ cũng phải sống ở trong cái trạng thái tình tứ đó, mà đau khổ ở trong đó, họ viết ra thì chúng ta thấy một cái câu chuyện nó hay là tại vì nó có thật. Còn cái mà không thật họ viết, họ tưởng hay họ vay mượn thì mình đọc mình thấy chán quá, nó không đúng sự thật.
Cho nên bộ sách của đạo đức của Thầy viết ra là bộ sách Đạo Đức sự thật cuộc sống con người đang khổ, đang lầm lạc, đang hiểu sai để mà đối xử nhau, làm cho khổ cho nhau trong cuộc sống trên hành tinh này. Cho nên vì vậy mà phải có thời gian viết bộ sách mà nó…
Con thấy nếu mà thí dụ như nó là sách mà có lợi ích lớn như vậy đó, thì từ cái lỗi chính tả mình cũng phải chỉnh cho hẳn hòi. Bởi vì một cuốn sách có giá trị mà cái lỗi chính tả sơ vậy thôi, một vài năm, mười lỗi trong đó, cũng càng làm mất đi cái giá trị của cuốn sách nữa. Rồi văn phạm rồi câu cú của nó như thế nào để cho nó đúng, chứ còn như Thầy nói chuyện thì nó khác rồi, các con hiểu.
Cho nên cái vấn đề này còn phải làm rất cụ thể và đồng thời Thầy nghĩ rằng, trong khi đó Thầy sẽ soạn thảo được cái tác phẩm này xong, thì giao cho người khác, người ta làm phụ Thầy cái vấn đề mà văn phạm rồi coi như biên tập cái lỗi chính tả, thì cái người mà chuyên môn về phần này họ làm. Còn bây giờ Thầy không chuyên môn Thầy làm cả vấn đề đó khó hơn. Phải không?
Đó, cho nên Thầy sẽ giao lại, khi mà làm xong rồi Thầy đưa ra xin phép, xin phép Nhà nước chấp nhận cho giấy phép xong thì chúng ta sẽ in. Mới đầu thì chúng ta ít tiền, chúng ta in ít, sau khi cuốn sách này được mọi người đọc thấy có lợi ích, thì trong cái cuốn sách Thầy sẽ kêu gọi sự đóng góp để chúng ta cho đạo đức, chứ không thể bán đạo đức.
(1:16:08) Do đó mọi người sẽ tích góp nhau, thì lần sau mình có thể mình in cả triệu, hai, ba triệu, năm, mười triệu cuốn để cho mình gởi chỗ này, chỗ kia. Thì đó là cái ước nguyện của Thầy để đem cái nền đạo đức.
Từ cái nền đạo đức đó thì sẽ giảm thiểu tất cả những sự mê tín, bởi vì trong cái nền đạo đức đó Thầy sẽ vạch ra tất cả những sự mê tín của nó làm không lợi ích, để cho chúng ta thấy được cái đạo đức nó phải nằm chỗ nào, cái mê tín là cái phi đạo đức ở chỗ nào. Đó là như vậy để chúng ta tránh những cái này, thì cuối cùng cái thế giới siêu hình chúng ta phá bỏ, phá bỏ hoàn toàn để xây dựng lại cái nền đạo đức.
Cho nên chúng ta không cầu cạnh, không van xin ai hết, mà chính chúng ta đem lại hạnh phúc cho chúng ta, chứ không ai mang hạnh phúc cho mình, trong cái nền đạo đức. Thì như vậy là con thấy, từ đó mà cái đạo đức nó đã phổ biến rộng ra rồi, thì tất cả cái số quý Thầy mà tu theo Đại thừa họ cũng giảm xuống rồi. Họ đã đọc sách Đạo Đức này thì họ cũng giảm xuống, họ thấy được cái sai của mình giảm xuống.
Còn những người nào mà cố chấp, kiến chấp của họ cố giữ thì lúc bấy giờ thì chúng ta có những bậc A La Hán xuất hiện, thì chúng ta chứng minh cho họ. Thì từ đó họ mới tự bỏ để (không nghe rõ). Thì cái điều chúng ta làm coi như là không kiến chấp, không chiến tranh tôn giáo, không có hệ phái gi, đó là cái lý thuyết.
Nhưng mà như vậy chúng ta phải biết cái thời gian, Thầy xác định được cái thời gian đó bao lâu để mà làm được chuyện này, chứ không phải không biết thời gian. Nhưng mà nó không phải ngắn, không phải mau, chúng ta phải chờ đợi phải lâu có thể cả trăm năm. Cả trăm năm mà đem lại một cái nền hạnh phúc, xây dựng lại một chánh pháp của Phật, đâu phải là thời gian dài.
Một cuộc chiến tranh giải phóng quê hương đất nước này còn phải 20, 30 năm, huống hồ là một cuộc chấn hưng, một cái hệ tư tưởng, một cái tôn giáo như vậy đâu phải dễ, cầu cả trăm năm, hai, ba trăm năm nữa đã. Để cho nó hoàn chỉnh, để đem lại cái lợi ích lớn cho con người trên hành tinh này. Thì điều đó là chúng ta phải làm và các con là những người nối tiếp theo sau.
Phật tử: Dạ, con kính bạch Thầy. Anh em chúng con ở trong nhóm Nguyên Thủy là những cái người nào cũng rất sẵn sàng là khi mà nghe Thầy nói như vậy, thì anh em cũng nhắn là con về hỏi ý kiến Thầy, là chẳng hạn như những cái khi Thầy mà soạn ra những cái sách như vậy, thì Thầy có cần những cái phương tiện gì mà để mà giúp Thầy, để trong cái việc mà để hoàn thành cho nó sớm.
Chẳng hạn như Thầy nói là cần phải những người sửa lỗi chính tả, Thầy có cách nào mà gửi qua chúng con, để chúng con có thể giúp đỡ, để mà sửa những lỗi chính tả đó, rồi gửi trả lại cho Thầy, để rồi Thầy duyệt lại, rồi Thầy cho in hay không?
Trưởng lão: Trong cái vấn đề đó nếu mà các con bên đó, Thầy sợ các con bận công việc nhiều rồi, nếu mà các con dành ra được, một ngày các con dành ra được một giờ, hai giờ để mà các con sửa trên vi tính các con.
Phật tử: Dạ.
Trưởng lão: Thì lúc bấy giờ có thể đưa lên mạng rồi.
Phật tử: Dạ. Thưa con không giấu gì Hòa thượng, Tâm Duy đây là người gốc người bắc ở Hà Nội, thành ra như nói vấn đề này chính tả thì rất là rành. Khi mà con viết một thơ gì hay gì mà có những cái lỗi chính tả, con phân vân không biết dấu hỏi hay dấu ngã, con đều hỏi Tâm Duy, là Tâm Duy trả lời rất là chính xác, là khi con giở lại cái quyển từ điển mà dấu hỏi, ngã thì nó đúng như vậy. Thì con không biết là…
Xin mạn phép Hòa thượng là, Hòa thượng có giao cho Tâm Duy để mà sửa lỗi chính tả cho nó hoàn thành? Tại vì chúng con là một cái người hiện tại là đang đói pháp. Dạ, đói cái lời, nghĩa là hướng dẫn chỉ dạy của Hòa thượng, thành ra chúng con như là những cái thửa ruộng mà bây giờ nó khô hết rồi, nó thiếu nước mà lời của Hòa thượng như là những cái giọt mưa, thành ra chúng con rất là mong đợi như là nắng hạn mà mong mưa. Dạ.
(1:19:38) Trưởng lão: Theo đơn giản thì Thầy thấy cái… Mặc dù là cái hành tinh chúng ta nó rộng nhưng mà hiện giờ cái giao thông của chúng ta mà cũng nhanh chóng, nó cũng không khó khăn gì.
Các con thấy từ ở bên Mỹ mà các con qua bên đây đó, đi có thời gian ngắn thôi chứ đâu có dài lắm đó là cũng ngắn. Do vừa rồi thì Tâm Hạnh với Hoàng Dũng về đây tu tập, Thầy thấy cả nửa trái đất mà về đây, ở bên đây tu tập rồi về bên, như là chúng ta đi thành phố chứ đâu có xa, thì như vậy là chúng ta thấy tiện lắm.
Rồi cái sự mà truyền đạt Thầy thấy, thí dụ như bây giờ đưa qua cái tài liệu mà qua đĩa để mà đưa cho mấy con về bên đó, thì cũng thấy tiện rồi. Các con đâu cần phải đánh lên đâu, chỉ đưa vô đĩa thì các con đưa lên vi tính là các con mở ra một cái tài liệu của Thầy rồi, đó là một.
Cái thứ hai nữa đưa lên mạng, thì ở đây cũng như là Thầy thấy cô Út mà gửi thư qua bên đấy cho mấy con, rồi Thầy thấy chỉ cần bấm là nó chỉ chút xíu là nó đưa qua bên rồi, thì một cái tài liệu của Thầy chắc bấm nó cũng đi như vậy, chứ đâu có gì.
Phật tử: Dạ. Đúng như vậy.
Trưởng lão: Cũng nhanh chóng chứ gì đâu. Thì qua bên đó thì kể như nó nằm ở trong vi tính của các con rồi chứ gì, thì do đó thì các con chỉnh đốn rồi bắt đầu sửa nhuận xong rồi, tất cả mọi cái xong rồi thì cái gì mà các con nghi, thì các con đánh câu hỏi để mà hỏi lại Thầy chứ gì? Thì lúc bây giờ các con gửi qua bên đây thì Thầy bên đây Thầy tiếp nhận Thầy biết liền, chỉnh lại những cái chỗ đó nữa chứ có gì đâu, thì rất tiện. Cũng như là chúng ta sống trong một cái văn phòng làm việc có gì đâu. Thì như vậy là rất tiện rồi không có gì hết.
(01:21:01) Bây giờ thì coi như là Thầy còn chỉnh lại, nhuận lại như cái tập 7, tập 3 trong Đường Về Xứ Phật chỉ còn hai tập đó đó. Đã in trước kia rồi bây giờ thì Thầy còn nhuận lại cho nó hoàn chỉnh được mười cái tập Đường Về Xứ Phật.
(1:21:14) Phật tử: Đó là cái điều con cũng thắc mắc luôn là tại sao mà Thầy cho con những cái bộ khác, mà riêng cái số 7 là con không bao giờ thấy Thầy nhắc đến, là không hiểu là trong đó là có cái gì.
Trưởng lão: Nói chung là tại vì cái đợt mà in ra đó đó, là do một cái Thầy giao cho chú Hùng con của cô Châu đó, làm bộ phận này để in ra cuốn này. Nhưng mà sau khi in ra cuốn này, thì chú đánh chú in ra cái cuốn đó thì phổ biến có một đợt thôi, nhưng mà Thầy đọc lại, Thầy thấy cái cuốn này cần phải chỉnh lại, chứ chưa có thể phổ biến ra được như vậy. Cho nên mấy con không có, còn có người có, có người không, chỉ cho nên được có lần đầu.
Còn cuốn 3 là tại vì trong khi cái bộ Đường Về Xứ Phật là Thầy viết cái cuốn 1 thì nhuận lại cuốn 1 ha, thì cuốn 2 với cuốn 3 nó thuộc về giới, thì lại giao cho một cái người khác giao cho một… Gia Trúc nó làm công việc này. Khi đó hai cuốn này in ra thì nó thuộc về bộ giới. Do đó sau khi Thầy xem xét là Đường Về Xứ Phật là nó phải thuần, còn giới nó phải đưa qua cái bên bộ khác.
Cho nên cuốn 2 với cuốn 3 này, thì nó tách rời nó đưa qua cái bộ Giới Đức Làm Thánh và Giới Đức Làm Người. Vì vậy mà mấy con được đọc cái Giới Đức Làm Người rồi, mà trong giới chúng học đó.
Phật tử: Dạ.
(1:22:17) Trưởng lão: Còn cái Giới Đức Làm Thánh thì coi như là Thầy còn đang soạn thảo, cho nên nó chưa ra đời, là do đó bây giờ mới nhuận lại cái cuốn 1, cuốn 1 đầu tiên đó, Thầy nhuận lại. Thì nó trên một ngàn trang, trên một ngàn trang giấy chia làm ba tập, tập 1, 2 và 3. Nội cuốn 1 không nhuận lại đó, thì coi như là nhuận lại xong thì nó thành ra ba tập.
Hồi đó thì Thầy trả lời ngắn cho chúng ở trong Tu viện mà thôi, chứ còn không có giảng rộng. Bởi vì được theo Thầy tu học thì hỏi gì Thầy nói ngay đó, chứ không có giảng ra thành cái bài pháp. Còn khi mà được phổ biến ra, thì mỗi câu hỏi này nó cô đọng quá người ta không hiểu, cho nên phải được giảng ra. Vì vậy mà từ một tập mà phải giảng rộng ra nó thành ba tập. Ba tập nó cũng gần trên cả ngàn trang giấy rồi, thì các con biết nó quá nhiều đi.
Do đó còn tập 7, thì do đó giao chú Hùng, kể cả Thầy cũng soạn thảo cái bản thảo rồi chú đánh, rồi chú in ra thành cái tập 7. Nhưng mà khi đó Thầy đọc lại Thầy thấy chưa được, cho nên nó chỉ phổ biến có lần. Cho nên các con thấy phải hoàn toàn là mười tập, nhưng mà còn hai tập, tập 3, tập 7 là chưa, chưa hoàn chỉnh.
Cho nên tập 3, thì ít hôm đây chắc có lẽ là Thầy sẽ in tập 3, khoảng độ chừng một tháng nữa thì tập 3 sẽ hoàn chỉnh. Là vì gần đây Thầy mắc bận, kết hợp lại tất cả các bài của mấy con, để rồi in ra thành sách Giáo Án Tu Tập Cho Người Cư Sĩ tập 1 rồi tới tập 2. Tập 2 cũng vừa in cách đây chừng năm, mười ngày, tập 2 của Giáo Án Tu Tập. Mà cái tập 2 thì nó dày hơn cái tập 1 nhiều, tận ba trăm mấy chục trang lận, nó nhiều. Vì vậy mà Thầy phải mất cái thời gian này rất nhiều với mấy cái tập sách này.
Mà nếu mà Thầy không nhuận lại, không chỉnh lại nhiều khi các con quá lời, các con đụng chạm bên Đại thừa với Thiền Đông Độ là Thầy thấy không được. Nhiều khi các con chỉ viết thôi chứ các con đâu có nghĩ, nhưng mà nhiều khi các con đụng chạm.
Cho nên Thầy đọc lại tất cả những bài này Thầy chỉnh lại. Nhưng mà cái bài nào mà được Thầy lưu ý, Thầy chỉnh lại thì nó hoàn chỉnh hơn. Còn bài nào mà Thầy thấy nó không có hết Thầy không có thì giờ mà để đọc thì các con đủ biết rằng Thầy lướt qua cái bài đó, nó có những cái sơ sót, chứ không phải không. Nhưng mà sao một mình Thầy, làm sao có thì giờ mà đọc hết tất cả những tài liệu.
(1:24:24) Phật tử: Dạ kính bạch Thầy. Không biết là quyển mà Đạo Đức Nhân Quả là, Thầy có thể là cho chúng con sớm để mà chúng con có thể phổ biến được ở bên hải ngoại hay không?
Trưởng lão: Thầy sau khi mà Thầy nhuận lại tập 3 với tập 7 xong rồi, thì cái cuốn sách đạo đức này thì Thầy sẽ soạn thảo ngay, coi như là Thầy cho đánh ở trên vi tính nhưng mà chưa có nhuận lại. Thầy bắt đầu bây giờ đánh trên vi tính xong rồi bắt đầu nhuận lại. Ít ra trong cái thời gian cũng là nửa tháng, một tháng thì xong rồi, thì Thầy sẽ đưa qua bên đó cho mấy con liền.
Phật tử: Dạ.
Trưởng lão: Nhưng mà ở bên đây thì tức là Thầy lo thủ tục xin phép tắc, còn bên đó Thầy cho bên đó mấy con đọc trước đi.
Phật tử: Dạ,dạ.
Trưởng lão: Ưu tiên cho mấy con.
Phật tử: Dạ. Khi đó chúng con sẽ xin được phép hỏi ý kiến Thầy là chúng con có được in để mà phổ biến hay không? Dạ. Vấn đề mà in sách ra để mà phổ biến, thì không giấu gì Thầy, con cũng có một ít kinh nghiệm ở trong vấn đề đó. Những điều trình bày làm sao mà phát hành cho được rõ ràng, bài sắp phát hành đều được tặng không, biếu không. Chứ không có một cái lợi dụng nào ở trong đó, là tại vì chúng con muốn là phổ biến Phật pháp cho mọi người, cho đến mọi người, để cho mọi người cũng được hưởng những phúc lợi, như Thầy đã ban bố cho chúng con.
Trưởng lão: Như vậy là Thầy giao ở bên đó, rồi sau khi Thầy giao bên đó là con sẽ in ấn này kia, con làm tất cả mọi cái. Nếu chỉ ở bên Việt Nam thì phải xin phép con, xin phép rồi mới đưa lên nhà in in, in rồi mới được phổ biến, phổ biến rộng ra. Và Thầy tin rằng là sách Thầy viết đạo đức thì không đến đỗi mà nhà nước không cho phép đâu. Thậm chí như cái cuốn Đường Về Xứ Phật của Thầy nó đụng chạm bên Đại thừa như vậy đó, mà nhà nước còn cho phép thì con biết rồi.
(1:26:09) Phật tử: Dạ, hiện tại thì chúng con chưa có được có cuốn 10. Dạ.
Trưởng lão: Cuốn 10 Thầy in, đây cuốn 10 Thầy cũng mới in cách đây chừng một tháng. Cho nên các con chưa được cuốn 10. Hôm mà Vũ về đó định gửi nó mang về bên đó, mà nó đi xuống dưới để mà coi xem cái chuyến máy bay, không ngờ là cái chuyến máy bay đi gấp quá, nó không trở về được. Chứ không là về Thầy gửi cho mấy con có rồi đó.
Phật tử: Dạ. Anh đó cũng ngạc nhiên lắm thưa Thầy, là đáng lý ra để xuống đó để mà đăng ký lại cái vé máy bay trở về Mỹ, thì anh cũng nghĩ rằng một tuần sau thì họ mới cho. Thành ra do đó anh trở về đây tu tập tiếp, nhưng mà không ngờ đến đó thì nó nói chiều nay đi luôn. Vì vậy mà anh đi không kịp, thành ra anh cũng rất là…
Trưởng lão: Thành ra khi xuống đó thì còn nói tuần lễ trở về, mà cuối cùng thì không có trở về được là vì máy bay đi gấp quá. Bây giờ con hỏi tiếp đi.
Phật tử: Anh hỏi tiếp kìa.
(01:26:55) Phật tử 2: Thưa Thầy trong cái luật nhân quả là, thì nó tác động như thế nào Thầy nhờ? Chẳng hạn như thế nào gần như cụ thể, con bị người bạn đánh để đến kiếp sau, thế thế nào con gặp người bạn kia thì con đánh lại.
Trưởng lão: Nó không phải như vậy con. Nghĩa là cái, bây giờ đó con bị cái người bạn con đánh con, đó là người bạn con tạo cái nhân ác. Cho nên cái quả về sau đó, nó thành ra cái môi trường sống của cái người bạn con. Tức là người bạn con sẽ sanh kiếp sau đó, nó sẽ ở trong cái môi trường những người hung dữ, cái người đánh, chứ không phải riêng con, con đánh đâu.
Phật tử 2: Dạ. Nghĩa là nhân cái môi trường đó.
Trưởng lão: Cái môi trường đó.
Phật tử 2: Anh kia còn gặp người khác chứ không phải con.
Trưởng lão: Nó phải khác cái người khác, chứ không phải con.
(01:27:34) Phật tử 2: Dạ. Con muốn hỏi câu hỏi nữa là, thưa Thầy có phải đầu tiên là chẳng hạn chúng sinh đều như nhau, tức là cũng giống như đức Phật về già. Xong rồi vì cái luật nhân quả chi phối nên dẫn nhiều ra chúng khác nhau. Mà bây giờ là đức Phật nghĩ là, giống như là chúng trở về cái Nguyên Thủy là giống như là hoàn lại ban đầu, có phải con hiểu như vậy chính xác không?
Trưởng lão: Không chính xác. Bởi vì từ khi cái môi trường sống nó bắt đầu nó có, nó có đủ cái tạp chất, nó có cái môi trường sống. Cho nên, thí dụ cây những cái loài cây lớn nó không có đâu, nó chỉ có, mới đầu nó có chỉ có rong rêu nó sống trên mặt đất thôi, không có loại cỏ, loại cây lớn đâu, hoàn toàn nó chỉ, nó có rong rêu, cách sống vậy đó.
Nghĩa là cái môi trường sống nó bắt đầu có, thì nó chưa có đủ cái khí, cũng như nó chưa được cái hợp chất. Cho nên nó chỉ xuất hiện được, tức là nó có nước mưa, có này kia, có độ ẩm nó lên rong thôi. Sau cái rong nó để lại, nó chết đi nó để lại cái môi trường thêm cái, một cái từ tường, cái khí, thêm một cái lớp nữa. Mỗi lần một cái loài vật mà nó chết đi, thì nó để lại trên cái môi trường sống là thêm một chồng thêm một cái lớp nữa.
Thí dụ như bây giờ các con mà làm một cái nhà máy sản xuất ra những cái thuốc độc, để mà diệt sâu hay rầy, bọ đi nhưng mà không ngờ là những cái thuốc độc đó nó lại để trong không gian, chúng ta là một môi… Thêm một cái lớp, một lớp độc nữa, từ đó nó phải, cái môi trường đó nó thêm những cái duyên đó, nó mới sanh ra những cái loài thuốc độc hơn để mà chống lại cái độc đó, thì cái loài đó lại độc hơn nữa.
Cho nên từ ban đầu, thì coi như là cái môi trường sống nó bắt đầu sống, thì nó mới có cái rong rêu thôi, rồi từ cái rong rêu, từ cái này kia nó mới có cây cỏ, rồi nó mới có đủ cái sức sống cho cái loài vật nó xuất hiện, cho cái loài động vật nó phải xuất hiện sau cái loại cây cỏ, thảo mộc. Bởi vì hễ nó xuất hiện nó phải có cái sự sống, chứ còn không có sự sống thì nó không xuất hiện được.
Cũng như khi mà cái môi trường sống nó có, thì bắt đầu nó phải có nước, nó phải có không khí, phải có cái độ ẩm của nó là nó mới xuất hiện nó mới có lên được những rong rêu. Nó phải có độ sống của nó, là nó mới sống được.
Cũng như bây giờ có người ta thì phải có cơm, có gạo, có thực phẩm để ăn người ta sống, thì con người mới xuất hiện được; còn không có thì nó không xuất hiện được, nó không sanh ra được đâu, gọi là duyên hợp, nó hợp đúng cái duyên của nó.
(01:29:30) Đó cho nên các con nghe câu chuyện mà của Tỳ kheo Nāgasena (Na Tiên) nói vua Milindapañhā (Di Lan Đà).
Ông hỏi nhà vua: “Bệ hạ đến đây bằng cái xe, vậy xe có phải là căm không?”, cây căm của cái xe.
Thì nhà vua nói: “Không phải”.
“Có phải là cái trục không?”
“Cũng không phải”
“Có phải là cái gọng không?”
“Cũng không phải”
“Như vậy là cái xe của bệ hạ là cái gì?”.
Đó, tức là tất cả những cái này nó hợp lại, nó mới thành cái xe, chứ không không thể nào cái xe. Cho nên chúng ta có cây cỏ đều là do chúng đang hợp lại. Cái môi trường sống, cho nên chúng ta không phải là có một con vật hiện nào đâu ở đó, không có. Nhưng mà cái môi trường sống nó là vô minh, nó tạo ra. Cho nên vô minh nó có những cái hành động, cái hành động đó nó mới sanh ra cái thức của vô minh, con hiểu chưa?
Cho nên nó, đầu tiên chúng ta không có cái gì hết, chỗ nào mà nó có môi trường sống thì bắt đầu nó khởi sự, nó sống cái gì trước cái gì sau, lần lượt nó có sự gọi gì tiến hóa hay gì đó, nó tiến hóa lần lần nó sanh. Chứ không phải con vật này mà tiến hóa thành cái con người, không phải. Mà nó tiến hóa nó phù hợp được đến cái mức độ con người sanh thì nó phải có con người sanh.
Phật tử 4: (không nghe rõ) khoa học chứng minh là cái gì thuộc giống… nó vậy, thủy tổ loài người.
Trưởng lão: Cái đó sai con.
Phật tử 4: Dạ.
Trưởng lão: Không thể đâu. Nhưng mà cái con vật, cái sự cấu trúc, cái hình hài của con thú cái bộ xương của nó, nó cũng có thể giống con người. Bởi vì cái sự cấu trúc đó nó, cái môi trường đó cái, sắp sửa nó có con người rồi. Nhưng mà cái cấu trúc cái bộ óc của con khỉ, nó không thể cấu trúc cái bộ óc con người được, con hiểu không? Cái bộ óc con người thông minh lắm. Cho nên người cổ thông minh lắm chứ đâu phải người cổ ngu như con khỉ, con hiểu chưa?
Cho nên các nhà khoa học chỉ lấy cái cấu trúc của cái cơ thể, mà cho con người rằng cho khỉ vượn là sự tiến hóa làm con người, thủy tổ của con người thì sai đó không đúng. Thầy thì Thầy không chấp nhận cái điều đó không đúng.
(01:31:18) Phật tử 2: Dạ bạch xin Thầy, vậy là sau đó là mình ăn… Thưa Thầy nghĩa là sau đó mà thì cái vô minh rồi lên con người ạ?
Trưởng lão: À.
Phật tử 2: Thì con người đó mình lọc cái vô minh ấy đi rồi mình đưa về cái dạng giống như Thầy nói là cái Niết Bàn. Đúng không Thầy?
Trưởng lão: À.
Phật tử 2: Mục đích là mình bây giờ muốn trở về cái Niết Bàn.
Trưởng lão: Trở về cái trạng thái an.
Phật tử 2: Thì nó là Niết Bàn đấy ạ? Vậy cái mục đích cuối cùng… Con nghĩ con hỏi có phải là như vậy không Thầy?
Trưởng lão: Chỉ cần như vậy.
Phật tử 2: Dạ.
Trưởng lão: Bây giờ cái đầu tiên đó, cái môi trường sống đầu tiên đó, nó không phải là cái trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự, nó không phải là có cái đó nó sẵn có đâu, không phải.
Cũng bây giờ như một con thú, nó không thể nào có cái trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự. Nó chỉ biết đấu tranh trên sự sống của nó thôi nó chỉ biết, nó không biết thiện, biết ác cả, biết thiện, biết ác nữa. Chỉ có con người có cái bộ óc mới biết được thiện ác.
Cho nên chỉ có con người mới biết được cái trạng thái thanh thản. Bởi vì chúng ta ít nhất chúng ta ngồi lại, có một lúc nào đó chúng ta ngồi lại chúng ta thấy tâm hồn mà thật sự thanh thản, an lạc, vô sự. Không những tâm hồn mà cả thân chúng ta cũng có cả an lạc. Thì chúng ta biết chúng ta còn.
Khi mà cái môi trường nó đã sanh được con người thì nó mang con người, thì con người mới có cái trạng thái này, chứ không thể con người có được. Cho nên vì vậy mà con người mới có thành tựu được cái này, cái này nó không phải sẵn có. Mà do khi mà môi trường nó tạo, nó duyên hợp nó thành con người, thì con người chúng ta, người nào cũng có hết.
Cho nên họ nói đó là Phật tánh không phải, nó không phải đâu. Đó là cái tự nhiên của cái môi trường nó hợp lại, nó phải có bao nhiêu thứ ở trong này chứ không phải. Mà nhưng mà có cái thứ này là cái thứ mà đức Phật đã lọc lừa ra cái này là cái giải thoát. Còn tất cả những cái này phải bỏ xuống hết, thì cái này nó mới là cái giải thoát đúng. Còn con thú, thì con thú phải chuyển từ cái điều kiện nó đi lên, nó thấy rằng con người… Bởi vì cái nhân quả hành động ác của nó, nó đi xuống hơn là đi lên.
Cho nên hiện giờ có người hỏi Thầy, tại sao người ta phải hành thập thiện, người ta phải tu năm giới này, người ta mới sanh ra được làm được con người? Nhưng mà bây giờ con người sao sanh ra dữ vậy? Họ làm ác không mà tại sao họ sanh được con người? Có người hỏi. Thầy nói con thú mà mặt người mới là độc hơn con thú. Bây giờ hầu hết là con người chúng ta nếu mà với cái trí mà nhìn thấu suốt qua cái lớp nghiệp của họ toàn là thú, mà thú độc. Nó diệt chủng nó có thể giết chúng ta chết hết, mà nó không cần.
Cho nên cái con người, cái con thú mà mang cái lớp người con thú độc, đừng nói đó là con người đâu. Chúng ta chỉ nhìn thấy, bởi vì chúng ta một loại động vật mà, một loài động vật như muôn ngàn thứ loài loài động vật khác thôi.
Nhưng mà nó mang cái bộ óc này như con người mà nó ác, đó là cái tiêu chuẩn làm người thiện các con. Mà các con sống thập thiện chứ gì? Mười điều thiện của Phật chứ gì? Các con sẽ làm người Trời đó các con. Thì khi mà các con sống như vậy, bây giờ các con sống như vậy đó, thì cái nhân quả nó tiếp tục các con sẽ…
Bởi vì cái từ trường các con thảy ra nó thiện vậy mà, khi các con sanh lên con người đều là phải con người thiện, chứ tại sao con người quá ác? Con người quá ác là do những cái ác độc mà hành động ác của loài thú vật, nó sẽ trở thành con người thành ra con thú độc hơn nữa. Tức là nó phải đi lên chứ nó đâu đi xuống được, con hiểu không?
Phật tử 4: Dạ con hiểu.
Trưởng lão: Cho nên chúng ta đừng nghĩ rằng mọi người tại sao mà sanh người nhiều? Mà tại sao…? Được thân người là khó, thân người mà thân ác để làm gì đây? Nó khó lắm mấy con. Thân người mà thân thiện nó mới được chứ. Chứ còn thân ác mà có nghĩa lý gì? Nó làm khổ cho chúng ta thôi mà.
(1:34:32) Phật tử: Dạ, kính bạch Thầy như vậy có phải là cái câu mà, gọi là đức Phật nói là, sanh thân người là khó như là rùa mù mà ở giữa biển mà chui vô bọng cây, 100 năm mới chui lên một lần, mà phải chui được qua cái bọng cây. Như vậy là đức Phật, ý Phật nói là con người đó là người thiệt đó, chứ không phải là con người phải không Thầy?
Trưởng lão: Không phải con người ác con. Mà con người thiệt tức là con tu quá được Phật pháp.
Phật tử 4: Dạ.
Phật tử: Dạ thưa Thầy dạy phải, chứ con cũng thấy chưa.
Trưởng lão: Thì con nên nhớ rằng, con người mà được chánh pháp thì đâu phải như con rùa mù tìm bọng cây mà.
Phật tử 4: Dạ.
Phật tử: Dạ. Con đúng như vậy đó Thầy.
Trưởng lão: Còn con người ác thì hết duyên, thì con thú vật ác hơn. Cho nên giới luật của đức Phật dạy, đức Phật nói như thế này: “Ta dạy giới luật, Ta dạy đạo đức để con người thoát ra khỏi bản chất của loài cầm thú”. Bởi vì chúng ta còn mang bản chất của loài cầm thú hung dữ lắm các con. Khi hai cái người giận, họ sân nhau, họ đánh nhau, chửi nhau chúng ta thấy, họ hai con thú các con, không phải là con người như vậy đâu, phải không?
Cho nên đức Phật dạy chúng ta không có sân, để mà chúng ta thoát ra cái bản chất hung dữ đó, để mà chúng ta trở thành con người thật là con người. Vậy mà hôm nay Thầy mới cố gắng mà viết cái bộ sách này để biến con người trở thành thật sự con người. Thì con biết không, đức Phật nói như con rùa mù mà tìm bọng cây.
Phật tử: Dạ. Giờ con hiểu cái đó rồi, con sướng quá.
Trưởng lão: Cũng đâu phải dễ đâu, thí dụ như tại sao kinh sách như vậy đó, mà tại sao con lại thích kinh Nguyên Thủy? Con lại đọc kinh Nguyên Thủy? Đâu phải chuyện dễ ai, nói chung người ta thấy kinh Nguyên Thủy, nó Tiểu thừa đồ kinh thấp quá ai thèm đọc, mà kinh gì đọc lặp đi lặp lại hoài mà không có hay ho gì hết.
(01:36:02) Còn Đại thừa đọc như là mình đọc cuốn tiểu thuyết. Con thấy đưa vào thí dụ như kinh Thủ Lăng Nghiêm, đưa vào ông A Nan bị kẹt Ma Đăng Già, ông Văn Thù ông mới đọc thần chú để cứu ông A Nan về, mới có cái bộ kinh này ra. Rồi chỉ tánh nghe, tánh thấy trời ơi! Thiệt là! Mình đọc là mình thấy hay quá phải không? Nhưng mà nó như là cái bộ tiểu thuyết, mà tiểu thuyết triết chứ phải chơi đâu, nó háy quá. Nhưng mà cuối cùng, sự thật ra sống ở trong tưởng.
Còn kinh sách của Nguyên Thủy, đọc cái bài kinh này nó không có liên hệ với bài kinh khác, nó không giống nhau chỗ nào, rồi lặp đi lặp lại Phật nói hoài có một câu đó, mình nghe nó chán quá. Cho nên có nhiều người đọc kinh Nguyên Thủy thấy chán, dẹp luôn. Nhưng mà con biết cái quý của nó là ở chỗ, nó nằm ở trong cái gốc thiện.
Còn cái kia nó bay bổng lý luận, mình sống theo giấc mơ, theo tưởng, nó trừu tượng, mơ hồ nó làm cho chúng ta thấy thích thú, nhưng mà thích thú trong cái ảo, nó không thật. Còn cái này nó thật, kinh sách Nguyên Thủy mới Phật giáo.
Vậy mà các Tổ còn dám viết những đoạn, Thầy nói một cái bài kinh thôi, các ông xen vô một đoạn thôi, làm sao chúng ta biết cái đó là Phật nói đâu? Nhưng mà chúng ta vẫn tin thôi, bởi vì một đoạn ở trong cái bài kinh, còn khi nguyên một cái bài kinh thì chúng ta còn biết được, nhưng mà một đoạn hay hoặc là một câu nào đó trong đó, trong một cái bài kinh, chúng ta cũng điêu đứng, hết biết.
Đó thì như chúng ta thấy hồi nãy như Thầy nói, như đưa vào câu chuyện như ông Ca Diếp, ông Phú Lâu Na tranh chấp nhau, đó là những người sau đưa vào. Rồi bây giờ đưa vào những cái… những cái thí dụ như lúc mà đức Phật sắp nhập diệt thì có vị Tỳ kheo quỳ trước mặt Phật, thì lúc bấy giờ đức Phật đuổi vị Tỳ kheo, để chư Thiên mà là nhìn ngó, phải không, các con thấy cái điều đó là cái điều họ đặt ra thôi. Ông Phật ông không biết chư Thiên là thiên nhãn sao, nó có vậy gì mà ngăn cản đâu, mà lại đuổi vị Tỳ kheo này một cách đau lòng như vậy, cái đó là sai rồi. Đã thiên nhãn mà.
(1:37:55) Phật tử: Dạ thưa bạch Thầy, con có nghi là trong kinh có nói là một cái vị Tổ, sau khi hàng phục được một cái ngoại đạo là ma, thì ma có thần thông nên vị Tổ đó rất là chiêm ngưỡng đức Phật, vị Tổ đó mong ma nó hiện thành một phái đoàn do đức Phật dẫn đầu với lại 1500 vị Tỳ kheo đi phía sau, để cho mà vị Tổ đó chiêm ngưỡng. Thì ma nó có ra cái điều kiện là, nếu mà khi mà nó hiện thân lên như vậy đó, thì xin yêu cầu vị Tổ đó đừng có đảnh lễ, vì đảnh lễ như vậy sợ nó mất phước.
Thì vị Tổ đồng ý, rồi thì là ma nó hiện thần thông mà thấy ở trong rừng, đức Phật dẫn một cái đoàn 1500 vị Tỳ kheo đi trang nghiêm đi ra, thì vị Tổ này xúc động quá đảnh lễ thì ma nó biến mất.
Cái câu chuyện nó vậy thì con ngạc nhiên, con nghĩ rằng nếu mà là một vị Tổ, mà đã đến một cái giai đoạn tu vậy là một vị A La Hán mất rồi. Thì làm sao mà không biết, không nhập định để mà biết được cái hình ảnh của đức Phật, mà phải nhờ một vị ma làm thần thông để mà cho vị Tổ đó nhìn thấy lại cái hình ảnh đức Phật ngày xưa, xin Thầy chỉ dạy cho chúng con.
(1:39:14) Trưởng lão: Đúng là cái này là những cái bịa đặt của cái người sau, câu chuyện không có đúng đâu. Bởi vì khi mà tu, mà đã nói chuyện được với ma, phải không? Đã nói chuyện với ma rồi, thì tức là mình đã có những cái năng lực, chứ đâu dễ, con làm sao con nói chuyện được với ma. Mà ông này nói chuyện được với ma, mà ma biến ra được phật nữa, thì có lẽ là ông Tỳ kheo này phải là siêu lắm chứ đâu có phải thường được. Vậy thì ông muốn gặp Phật, ông chỉ cần vào Niết Bàn thì gặp chứ gì mà cần phải để mà ma nó hiện ra, rồi mình phải đảnh lễ như vậy, thì đó là cái sai.
Tất cả những cái bài kinh này đối với Thầy, thí dụ như Thầy trước kia mà Hòa thượng Thanh Từ có bảo Thầy đọc lại kinh sách đó, đọc những cái bài kinh nào sai, đều Thầy là hướng tâm về Túc Mạng Minh hết, Thầy xem lại coi có đúng không, Thầy thấy nó sai, nó không đúng. Cho nên Thầy nói Thầy xác định bằng cái trí Tam Minh của mình, chứ Thầy không xác định bằng cái tưởng của Thầy tưởng đâu, cái sai cái đúng này đâu.
Cái nào mà thí dụ như một đoạn kinh mà sai, thí dụ như nói về ông Phú Lâu Na, ông Ca Diếp Thầy đều trở về Thầy xem có không. Chứ Thầy không có xác định bằng cái hiểu tưởng của Thầy, bằng cái thiền đâu, mà Thầy chứng minh thật sự cái điều này có. Cho nên Thầy xác định Thầy nói, Thầy nói là để cho các con hiểu được những cái điều mà các con thấy cũng dễ hiểu, không có gì khó.
Còn cái chuyện mà, nếu mà tu đến cái mức độ mà nói chuyện với ma được, thì như vậy là rõ ràng có thế giới ma thật sự sao? Rồi có ma biến hiện được sao? Điều này thật sự ra, Đại thừa ta bịa ra, chứ không có đâu.
Đức Phật muốn nói có chư Thiên hiện ra, thì tức là đức Phật muốn nói cái thế giới tưởng, chứ không phải nói cái thế giới ma. Mà đức Phật muốn nói ma, ma Ba Tuần, ma thì đức Phật muốn nói ác pháp đó, cái người ác pháp. Chứ không phải là cái người… Bởi vì đức Phật nói cái người mà sống, mà thập thiện là trời, thì cái nào mà sống đúng thập thiện mà đến nói chuyện với Phật đó là người trời chứ gì? Còn cái người nào mà sống trong ác pháp là người ma chứ gì, chứ đâu phải có con ma hiện.
Thì tất cả những cái điều mà đạo Phật, đức Phật đã xác định trong kinh, chúng ta đã, khi mà cái bài Pháp Môn Căn Bản mà đức Phật đã nói trong kinh Trung Bộ, thì các con thấy đức Phật đã xác định tưởng tri với liễu tri. Mà cả cái thế giới mà chúng ta đang sống đều là tưởng tri chứ không phải liễu tri. Chúng ta chưa có cái liễu tri đâu, trừ ra một cái người mà tu mà thành tựu được trí tuệ Tam Minh thì họ mới có cái trí vô hạn, thì họ mới liễu tri được cả thế giới, thế gian này. Chứ còn không khéo thì chúng ta không thể hiểu được đâu.
(01:41:43) Phật tử 5: Thưa Thầy, coi trong những tiền kiếp đức Phật nói, họ coi…
Phật tử 6: Đọc một câu truyện là, khi mà đức Phật là…
Phật tử 5: Thuyết pháp đó.
Phật tử 6: Thì đức Phật không nói gì hết, đưa một cái hoa sen lên, mà dưới các vị Tỳ kheo không ai hiểu chỉ có một vị hiểu là vị đại đệ tử, là vị A Nan gì con không nhớ chính xác. Vậy thì đưa cái hoa sen lên có ý nghĩ gì?
Trưởng lão: Ngài Ca Diếp. Đó là một cái xây dựng của 33 vị Tổ sư Thiền Đông Độ. Bắt đầu từ Tổ Ca Diếp đó, thì trong cái hội Linh Sơn trong lúc đức Phật thuyết kinh Pháp Hoa. Thì đó là cũng là một phẩm ở trong kinh Pháp Hoa mấy con. Thì khi đức Phật đưa cành hoa lên thì ngài Ca Diếp, mọi người ở trong chúng thì ai không hiểu, chỉ có ngài Ca Diếp mới hiểu.
Đó là đưa lên như thế này thì ngài Ca Diếp thấy gì, thấy tánh thấy của mình chứ gì? Thì nhận ra được tánh thấy của mình chứ có gì đâu. Thì do đó thì nhận được cái bản tâm thanh tịnh của mình rồi. Thì đó là cái xây dựng trong cái con đường thiền tông đó con, đó là cái ý của kinh sách này. Nhưng mà kinh sách này nó sau đức Phật 800 năm mới viết ra bộ kinh sách này, vì vậy đây là các Tổ viết ra, nó không thật.
Cho nên khi mà đức Phật nhập diệt thì đức Phật di chúc lại: “lấy giới luật Ta làm thầy”, không có một người nào làm Thầy cho các vị Tỳ kheo hết, thế mà bây giờ mới đẻ ra ông Ca Diếp là Tổ dạy chúng ta tu hành, thì thiệt ra là nó ngược lại với đạo Phật.
(01:42:56) Bởi vì đạo Phật biết rằng chỉ có giới luật là thầy, thầy của đức Phật và thầy của chúng Tỳ kheo. Bây giờ nương ông thầy giới luật, thì do ông thầy giới luật này mới ly tất cả các ác pháp mà mấy con. Còn nương ông thầy nào bây giờ, ông đó bây giờ, nương Phật đi nữa, khi mà đức Phật tu chứng rồi, đức Phật mới đảnh lễ: “cái pháp mà Ta tu chứng đó, mới lấy cái pháp đó mà làm thầy, cho nên sau này các vị Tỳ kheo theo Ta là nương vào cái phạm hạnh Ta, cứ thực hiện ở trên cái giáo pháp mà Ta đã dạy. Chứ không phải thực hiện mà theo cái điều mà Ta dạy, mà cái giáo pháp Ta thực hiện, Ta dạy ra, thì bây giờ các vị Tỳ kheo theo cái giáo pháp đó, chứ không phải theo Ta. Còn Ta sống đúng phạm hạnh thì các Tỳ kheo theo cái phạm hạnh sống đúng của Ta để mà thực hiện cái giáo pháp này”.
Đức Phật bảo như vậy là: “Ta không phải là thầy mà Ta chỉ là người dẫn đường, hướng đạo mà thôi. Bây giờ con đường đó như vậy, vậy thì các thầy phải đi và các thầy chấp nhận ông thầy giới luật là thầy. Cho nên không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt, phải sợ hãi trước những lỗi nhỏ nhặt”, đức Phật thường nhắc mà. Vì những lỗi nhỏ nhặt đó là những ác pháp, nó sẽ, bây giờ chúng ta, thường chúng ta xem thường nó.
Thí dụ như đức Phật cấm như thế này, cấm mình khạc nhổ bậy bạ nếu mình xem thường rồi mình khạc nhổ. Đức Phật cấm mình không ăn phi thời, mình lén ăn lút bậy bạ, rồi cái rốt cuộc rồi mình cũng nói ăn ngọ, ăn này kia sự thật ra mình đã phạm nhiều tội lỗi trong đó. Nó cái lỗi này đâu có ai để ý đâu nhưng mà cuối cùng thì lại trở thành không giải thoát đó.
Cho nên vì vậy chúng ta mới lấy giới luật làm thầy là tốt nhất. Chỉ có thầy giới luật mới dạy, bởi vì mình lấy nó làm thầy, cho nên mình không dám vi phạm, còn mình lấy cái khác thì mình vi phạm.
Cho nên 33 vị Tổ sư thiền Ấn Độ và Trung Hoa, hợp lại là 33 vị Tổ sư Thiền Đông Độ đó, thì coi như là cái này là người ta đã bịa đặt ra. Thậm chí như Tổ Long Thọ nè, Tổ Mã Minh nè, Vô Trước, Thế Thân này tất cả các Tổ này cũng đều liệt kê trong cái bảng này. Nhưng mà các vị này đều hoàn toàn là những Bà La Môn triển khai để diệt Phật giáo chứ đâu phải.
Nhất là Tổ Long Thọ, họ diệt tất cả những cái Nguyên Thủy của Phật giáo xuống mà, họ còn chế ra giới Bồ Tát giới, cấm không cho người Phật tử học, đọc sách kinh Nguyên Thủy nữa, chứ đâu phải không.
Cho nên Hòa thượng Minh Châu nói, lúc Hòa thượng Minh Châu mà đi tu đó thì các Tổ không có cho đọc kinh sách Nguyên Thủy, không có cho. Hòa thượng nói lại trong cái lời đó mà, sau khi mà về Hòa thượng viết xong là dịch cái bộ sách, dịch cái bộ kinh Nikāya, đó là công ơn của Hòa thượng dữ lắm đó.
Người Việt Nam mình là nhớ ơn Hòa thượng, mà Hòa thượng lúc mới về cũng hăng, Hòa thượng nói thẳng, nói thật đập ba ông Đại thừa cũng dữ lắm. Nhưng mà sau đó bị khép, Hòa thượng mất chức đó, coi như là các vị Hòa thượng họp lại nói ông. Hồi đó giao cho ông tổng vụ sự giáo dục Tăng Ni trong cái Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hồi đó mà, giao cái viện Đại Học Vạn Hạnh cho Hòa thượng. Nếu mà ông còn nói vậy thì mất luôn cả chức ông hết, coi như ông về làm tu sĩ quèn thôi. Thành ra Hòa thượng thấy bây giờ mình về, nếu mà mình về mình làm tu sĩ quèn thì có lợi gì? Cái sự học của mình là phải có nơi có chốn, có cái chỗ mình phát triển, cho nên Hòa thượng bắt đầu không nói nữa, không dám nói nữa.
(01:45:54) Bây giờ Hòa thượng, bởi vì Hòa thượng là một học giả các con, cho nên tội lắm. Hòa thượng bây giờ, coi như Hòa thượng run rẩy nhìn tội lắm, Thầy nói thật, không tu thành ra làm sao làm chủ được thân già. Biết pháp nhưng mà không có người kinh nghiệm mấy con.
Bởi vì phàm mà giáo sư mà dạy Hòa thượng đều là học giả hết, người ta thông kinh sách nhưng mà người ta không thông kinh nghiệm. Cho nên không có dạy Hòa thượng tu mà dạy học, học theo kiến giải của họ. Cho nên cuối cùng Hòa thượng dịch ra, thì bây giờ thì Thầy, chỉ có Thầy mới là nói lên được cái pháp hành thôi. Vì vậy chứ không khéo thì không biết pháp hành.
Phật tử 2: cám ơn Thầy.
(01:46:28) Phật tử: Dạ kính bạch Thầy! Những câu hỏi mà chúng con nêu ra đây thì Thầy đã từ bi chỉ dạy cho chúng con rất là cặn kẽ và rõ ràng. Câu hỏi cuối cùng mà con nêu ra đây là, của cũng là của anh em nhóm Nguyên Thủy. Là xin Thầy từ bi chỉ dạy cho chúng con phải làm gì trong tương lai?
Trưởng lão: Các con sẽ giúp cho Thầy tương lai khi mà cần thiết cái điều gì đó thì Thầy sẽ cho con biết. Các con phải, coi như là các con cũng như là những người cùng Thầy mà làm cái việc chấn hưng Phật giáo, làm tốt lại Phật giáo. Cho nên Thầy tin tưởng ở mấy con nhiều lắm, khi mà các con gợi ý cho Thầy vấn đề mà giáo án tu tập cho người cư sĩ, mà các con ở trong nhóm các con đó, cái điều Thầy thấy cái điều này nó cần thiết.
Và cái nhiệm vụ mà trọng trách của Thầy, thì Thầy sẽ soạn thảo cái bộ sách Đạo Đức và sau này các con cố gắng làm việc có tiền, các con dành dụm để chúng ta sẽ đóng góp với nhau, để mà in cái bộ sách Đạo Đức. Ở bên đó thì các con, người Việt cộng đồng của chúng ta cũng nhiều lắm mấy con. Do đó các con sẽ in được cái bộ sách Đạo Đức, các con sẽ mà đem cho họ, giúp cho họ.
Cho nên từ em học sinh chúng ta cũng nên cho họ, cho chúng một tập, một bản như vậy. Để coi như cái tập sách gối đầu nằm, hàng ngày nhắc nhở cho chúng, Thầy không những viết đạo đức suông đâu, mà Thầy còn dạy pháp hành để mà tập tỉnh thức, để mà thực hiện cái đạo đức đó cho được.
Các con nhớ rằng, thường sách dạy đạo đức người ta chỉ nói cái đạo đức suông thôi, không có cách thức để mà sống được cái đạo đức. Còn Thầy viết đạo đức, Thầy đưa ra một cái đạo đức, Thầy gợi, kêu gọi cái lòng của người ta, để người ta sống cái đạo đức đó và đồng thời Thầy dạy cho người ta cái cách thức để mà thực hiện được, áp dụng được cái đạo đức đó vào đời sống. Hàng ngày phải tập những cái gì để rồi mới áp dụng vào được, mà không tập thì tức là không áp dụng được vào cái đạo đức đó.
Thí dụ như Thầy dạy, các con biết rằng một bộ sách thí dụ như Thầy không viết ngoài cái đề tài của Phật giáo đâu, nghĩa là Thầy lấy thập thiện mà viết thành cái bộ sách Đạo Đức đó. Nghĩa là rất đầy đủ đó, nội trong thập thiện nó cô đọng lại đó, mười cái điều lành của phật chứ gì mà Thầy viết ra. Thì các con đủ biết là cái dàn bài đức Phật đã cho mình rồi, bây giờ mình còn triển khai ra thôi. Mình khéo, thì mình kêu gọi cái lòng thương yêu của họ trước những cái sự mà sống chết của loài chúng sanh, trước những cái sự mà bảo vệ cái môi trường sống xanh tươi đẹp của hành tinh của chúng ta.
(1:48:53) Thì Thầy kêu gọi những cái điều đó thì Thầy viết thành một cái đạo đức, chứ không gì khác hơn là ngoài cái dàn bài mà Phật đã cho. Của Phật nó đầy đủ rồi, chỉ có còn mình triển khai nổi hay không triển khai nổi thôi. Thì như vậy là sau khi cái bộ sách đó rồi, con biết một cái bài đó đưa ra một cái bài đạo đức rồi thì có cái pháp hành để thực hiện cái đạo đức, áp dụng vào đời sống có đạo đức.
Đó thì luôn lúc nào cũng kêu gọi mọi người, trong cái bài đó Thầy kêu gọi mọi người cố gắng thực hiện để cứu mình cứu người, để làm cho cái môi trường sống trên hành tinh của chúng ta càng ngày càng đẹp đẽ hơn, hạnh phúc hơn, đó Thầy sẽ kêu gọi. Tất cả những cái này mỗi bài đạo đức Thầy sẽ kêu gọi hết, tới cái gì mà Thầy kêu gọi.
Thầy nói thậm chí như Thầy viết khi mà Thầy nói về cái vấn đề mà không giết hại chúng sanh, tức là Thầy nói đạo đức hiếu sinh, lòng hiếu sự sống đó. Phải không, Thầy viết cái đạo đức hiếu sinh, tức là không sát hại chúng sanh, thì Thầy sẽ viết.
Thì các con sẽ đọc các con sẽ thấy Thầy, cái ngòi bút của Thầy diễn tả cái chết của một con vật khi mà chúng ta cầm dao giết để mà ăn; thì cái đôi mắt của con vật đó dù là con cá, con chim, con gà, con vịt đôi mắt nó nhìn chúng ta với cái vẻ căm hờn, với vẻ tha thiết cầu xin chúng ta cứu chúng, Thầy sẽ diễn tả. Chúng ta sẽ đọc đó, chúng ta sẽ rơi nước mắt trước cái sự đau khổ của con vật sắp chết, mà chúng ta vì quên đi không nhìn được cái sự đau khổ, cái sự cầu cứu trong đôi mắt con vật, sự giãy giụa của con vật, mà chúng ta nỡ tâm để mà biến nó thành thực phẩm, ăn một cách vui sướng, thật là đau khổ. Thầy sẽ viết, các con sẽ đọc đến những cái đạo đức đó thì các con sẽ biết.
Nếu mà đọc thường ở trong cái thập thiện của Phật thì các con không thấy. Nhưng mà đọc cái bộ sách Đạo Đức của các con, các con sẽ khóc, khóc vì thương mình, thương mình tại vì từ lâu tới giờ mình vô minh quá, mình đã làm đau khổ chúng sanh, để rồi mình sẽ gặt hái những sự đau khổ đó mà thôi, mà mình không ngờ. Những điều mà Thầy viết thì các con sẽ sau này các con bỏ, Thầy nghĩ rằng bất kỳ một cái người nào cũng cần phải có cái đạo đức.
Còn Thầy nói về trộm cắp tham lam, Thầy vạch hết, từ một ông thầy giáo ăn trộm giờ, vào ở trong lớp cho bài học sinh rồi mà lấy tờ báo đọc, là Thầy vạch mặt ra là người ăn trộm. Một người làm lao động mà có mặt chủ thì làm siêng năng, mà chủ vắng ngồi không mà chơi, những người này là người ăn trộm, Thầy xác định là ăn trộm cắp. Một người chủ mướn công nhân đến làm mà trả lương ít không đủ sống cho người công nhân với công việc làm của họ, không xứng đáng với công việc làm là người ăn trộm, ăn cắp, Thầy xác định hết vào đó.
Nghĩa là đọc sách Thầy rồi những người nào mà thiếu đạo đức nó lộ mặt, dù là ông chủ, ông giám đốc, ông gì cũng bị Thầy đốn hết. Thầy xây dựng lại cái xã hội cho đẹp mà. Nghĩa là cái người nào phải vị trí nấy làm cho hết bổn phận của mình, họ nhận cái đồng lương phải xứng đáng với công lao của mình, người trả tiền lương phải trả xứng đáng với công lao của người ta làm công việc của họ, kêu gọi đó là những cái đạo đức hết đó con.
Chứ không phải là viết đạo đức mà tôi viết thường thường được, mà phải viết như vậy đó, mới vạch trần ra được những cái sai, cái đúng của xã hội thì mới xây dựng được cái xã hội tốt đẹp này.
(1:52:05) Phật tử: Thưa Thầy con có câu hỏi, nhân tiện con nghe Thầy giảng những cái vấn đề ăn trộm đó. Thì ở bên Mỹ thì đa số một vài hãng xưởng đó, khi mà họ làm việc đó thì họ cho phép công nhân mang những cái cát xét nhỏ nhỏ như thế này để nghe, thứ nhất là nghe nhạc, nhưng mà một số Phật tử thì không dùng cái đó để nghe nhạc, mặc dầu họ có cái quyền nghe nhạc, thì họ lại nghe những cát xét, những băng giảng của Thầy hay là những, của một vị Hòa thượng khác. Mà trong lúc đó thì họ vẫn làm việc rất là đắc lực thì như vậy họ có bị tội ăn trộm không? Thưa Thầy.
Trưởng lão: Cái đó là con, mấy con cũng đặt những câu hỏi đó Thầy sẽ nói. Trong một cái giờ làm việc cho một cái xưởng hãng, một cái xưởng nào đó, thì chúng ta phải làm hết bổn phận chúng ta, đừng có nên ăn cắp cái thời gian của mình, mặc dù là người ta tốt nhưng mà mình phải làm hết bổn phận.
Bây giờ mình tập trung vào làm là mình tu rồi, mình nghe chưa chắc đã mình tu, mình chỉ giải trí cho nó khỏe trong cái công việc mình làm, hơn trong khi, trong khi đó Thầy sẽ giải thích này, nếu mà trong khi chúng ta nghe mà chúng ta ngồi không để mà nghe đó, thì tức là chúng ta đã ăn trộm rồi cái thời gian của cái nhà máy đó rồi, nó không tốt rồi.
Bây giờ chúng ta làm tập trung trong công việc làm, chúng ta thường nhắc nhở tâm mình, trong công việc làm vẫn tu được chứ đâu phải không được sao. Nó lợi ích hơn là chúng ta nghe loãng ra ngoài, để chúng ta sống lại cái công việc của mình và sự nhắc tâm của mình để chuẩn bị cho nó có trường hợp là ác pháp là nó sẽ diệt và đẩy lui được liền, thì cái này lợi ích. Chúng ta tu ở trong công việc làm mà, mà như vậy nó lợi ích.
Còn bây giờ chúng ta thấy thì giờ rảnh thì để nghe băng, nghe làm gì đây? Nó cũng như là cái tuồng hát cải lương thôi. Mình nắm được một cái ý, hiểu được một cái gì rồi thì bắt đầu bỏ sạch tất cả kinh sách hết xuống đi, không cần đọc nữa. Chỉ làm sao đem lại đời sống chúng ta giải thoát mà thôi. Còn con cứ nghe, cứ này, kia, nọ đọc hoài rốt cuộc rồi con chỉ là người giải trí, chứ không phải là cái người tu tập.
(01:53:58) Mất thì giờ các con, mà thì giờ cái tuổi đời các con mất một phút giây nó trôi qua, các con lấy được không? Không kịp. Thầy nói rằng nếu mà mình tu chểnh mảng như vậy, mình không kịp làm chủ trước khi mình sống chết, nó tới nơi rồi.
Cho nên vì vậy đó, khi mà biết được Phật pháp rồi, hiểu được rồi tất cả những băng, những này kia sách vở dẹp xuống hết, không đọc nữa. Chỉ nắm được cái pháp tu hàng ngày để cho tâm không phóng dật đây, mới là quan trọng.
Còn cứ nghe băng, đọc kinh này kia, chúng ta đâu phải học giả để tìm hiểu thêm. Hiểu thêm có lợi ích gì? Chỉ mình đi nói láo thôi chứ gì. Hiểu thêm rồi coi ai nói gì đó, cái nghe trái tai của mình cãi liền, phải không? Chúng ta không cần biết cái đó, mà chúng ta biết được đây là con đường tu đúng, phải sống Chánh Kiến như thế nào, Chánh Tư Duy như thế nào, để luôn luôn đem lại cho tâm hồn mình một cuộc sống giải thoát, thì điều này điều cần thiết.
Cho đến mức cuối cùng là chúng ta bất động, thì như vậy là nếu càng sớm nó bất động tâm trước khi chúng ta chết càng sớm, mà trước lúc nào càng tốt lúc nấy. Chẳng hạn bây giờ con sống còn 30 năm nữa, mà giờ con đã thành tựu rồi, hỏi khỏe không? 30 năm nay mà tôi, bây giờ sắp tới 30 năm sau tôi mới chết mà bây giờ tôi xong rồi thì tôi khỏe quá rồi, tôi đâu còn lo nữa.
Tôi sống giờ thanh thản, lúc nào con biết thanh thản là như thế nào, làm việc thì tập trung làm việc hết sức làm việc của mình, ngồi lại thì tâm bắt đầu quay vào định trên thân của mình, thanh thản, an lạc, vô sự, không có nói chuyện tào lao, không có xem phim, không có này kia.
Người ta đóng phim, người ta giả vờ chứ sự thật đâu có vậy, người ta xây dựng, người ta nghĩ rằng phải làm như vậy để tạo lên cái xã hội cho tốt hay là ca những cái tình yêu ở trong đó bằng thế này, bằng thế khác. Nhưng mà chúng ta, nó đưa chúng ta vào cái ảo, nó không thật, chúng ta phải sống cho mình.
Cho nên vì vậy mà Thầy nói nghĩ rằng, khi mà các con tâm thanh thản, an lạc, vô sự các con cứ mà nó quay vô được, các con thấy nó còn hạnh phúc biết bao, an lạc thật sự mà các con. Nó có một cái trạng thái hỷ lạc vô cùng, nó không phải là do dục mà, cho nên nó là thường hằng, rất là thường hằng. Nó làm cho thân tâm con ít đau bệnh, nó làm cho thân tâm con rất an ổn. Chứ đâu phải là như cái tâm lăng xăng của các con, nó sanh ra nhiều bệnh tật.
(01:55:58) Còn các con xem phim, các con này kia, nhiều khi nó gây cho các con xúc động, mình thấy đứa bé này tội quá, xúc động. Nhưng mà nó giả vờ chứ sự thật ra, nó có khóc thật nó có đau khổ thật đâu, nó làm cho chúng ta khóc, nhưng mà cái khóc đó không đúng.
Các con đọc những cái câu thơ, ngày xưa Thầy học thơ văn của Huy Cận Thầy thấy quá hay. Nhưng hôm nay thì Thầy thấy thiệt đúng là thơ nó gợi cho chúng ta nhiều đau khổ. Thí dụ như cái bài thơ của Huy Cận: “Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp”, nghe câu thơ là nghe đã não nuột rồi. Thì như vậy ai đã làm khổ cho mình? Bây giờ mình có khổ đâu mà đọc câu thơ nó nghe khổ rồi, có không? Như vậy là câu cái ác pháp, chứ đâu phải thiện pháp.
Như vậy là, hồi mà Thầy còn đi học Thầy thấy nó tuyệt và ông giáo sư dạy Thầy dạy Thầy văn, ông đọc cái bài thơ rồi ông giảng, mình nghe rất hay rất thích. Nhưng mà đến bây giờ tu rồi Thầy thấy đúng là nhà văn, họ gợi lên sự đau khổ không đúng, nó không thiệt. Đạo Phật làm sao cho tâm hồn chúng ta giải thoát là thiệt, chứ khóc khổ đau nó có lợi ích gì đâu, đời là phải như vậy thôi, con hiểu chưa?
Cho nên ví dụ như những cái bài thơ mà gọi là hay, như Truyện Kiều của Nguyễn Du, nó ảnh hưởng Phật giáo nhiều lắm đó, nhưng mà trái lại nó không đúng cái con đường của đạo Phật xưa. Cụ Nguyễn Du vẫn ảnh hưởng của Đại thừa do tu sĩ chưa có nắm bắt được đạo Phật. Cho nên nó cũng gây những cái điều kiện tạo cho chúng ta mà nhiều cái không hay.
Cho nên vì vậy, người ta đứng ở trong cái mặt mà thơ văn, thì người ta thấy Nguyễn Du là thi hào, nhưng mà ta đứng ở trong nền đạo đức thì ngài chưa phải là người đạo đức thật sự. Các con thấy Thầy đem một cái ví dụ để con thấy hay thì thật hay đó nhưng mà hay với người thế tục, chứ không hay với người đạo.
Chúng ta là người đang đi tìm đạo, không thể để cho tâm hồn chúng ta bị những cái đó lôi cuốn chúng ta nữa, chúng ta là người giải thoát. Giải thoát để làm gì? Để chấm dứt luân tử sanh tử luân hồi. Nếu mà còn thương vay khóc mướn này nó lôi chúng ta đi mãi, trong cái vòng sinh tử này biết chừng nào ra khỏi khổ thế gian.
Mà mỗi lần sanh lên làm người, mỗi lần sanh lên, đọc thơ văn này để làm gì? Để thương vay khóc mướn, khóc cho đời mình, khóc cho hoàn cảnh của mình nó sẽ gặp những trường hợp đó, đâu làm sao chạy đâu khỏi. Đó cho nên vì vậy mà đối với Thầy, thì bây giờ nó là vô nghĩa, nhưng các con thì bây giờ nó chưa có buông hết, phải nỗ lực.
Phật tử: Dạ, đội ơn Thầy.
(1:58:23) Phật tử 7: Dạ thưa Thầy, con có một người bạn thì người bạn đó thì, con thấy là thỉnh thoảng chị ấy có dư tiền đấy chị muốn xin đi mua những cái con bồ câu để đi phóng sanh. Thì xin Thầy là cho biết là việc làm đó có nghiệp hay không ạ?
Trưởng lão: Tốt chứ, nhưng mà điều kiện như thế này. Bởi vì cái nhân quả của cái loài chim này nó có nhân quả chứ. Một con vật nào sinh trong cái môi trường nhân quả thì nó cũng đều có nhân quả.
Cho nên trong cái duyên mà nhân quả, thì chúng ta có tiền thì cái duyên nhân quả nếu mà chúng ta gặp một con vật gì, bất kỳ một con vật gì người ta sắp làm thịt, người ta nhốt trong lồng thì chúng ta gặp nó là chúng ta có duyên mới gặp, thì chúng ta dù nghèo, dù như thế nào chúng ta không bỏ, cứu nó ra, tội nó.
Nó là một con thú vật, nó cũng biết sống tự do, nó cũng sợ chết, nó cũng sợ nhốt trong lồng, nhốt trong rọ, trong lu nó cũng sợ, thì chúng ta gặp chúng ta sẽ… Đừng đi kiếm nó, nếu mà đi kiếm nó thì biết bao đời chúng ta kiếm biết bao nhiêu tiền, chúng ta đổ ra cũng cứu không hết, mà trái lại chúng ta lại tạo thêm cho kẻ để đi bắt cái đó mà bán, con hiểu không?
Phật tử 7: Dạ thưa, con là…
Trưởng lão: Nó không có phước.
Phật tử 7: Tại chị đó có mua, mua đó là chị toàn là mua những cái con mà sắp bị làm thịt đó.
Phật tử: Sắp bị người ta giết. Dạ.
Phật tử 7: Sắp bị người ta giết, tại vì ở bên Mỹ nó bán cái loại nuôi đại loại là giết ăn thịt. Thì chị mua những cái con mà sắp bị ăn thịt.
Trưởng lão: Cái đó được, cái đó được. Bởi vì mình biết được. Còn bị vì ở bên đó nó có phân loại ra rồi, thành ra mình mua mình có tiền, được không có tiền mình mua, mình cứu nó sống thêm một ngày cũng quý rồi. Thầy nói chỉ vòng chừng một phút mà nó sống được một phút, mình cũng thấy hạnh phúc rồi.
Phật tử 7: Dạ.
(2:00:00) Phật tử: Con xin phép Thầy, đã có một lần con cũng có đi theo để mà, như là đóng góp với chị ấy trong cái việc đó, thì con có một cái nhận xét thế này.
Khi mà mua nó rồi để mà đem về cái khu vực của mình an ổn, mình thả đó, thì trong cái khi mà nó mặc dầu nó còn ở trong cái bọc để mà ấy, tại không có thể thả nó ra liền, thì nó hót và líu lo, làm như là nó vui mừng nó có một cái linh cảm vậy, nó vui mừng không thể tả được, Thầy ạ. Thành ra khi mà đem về thả rồi thì nó hạnh phúc nó sung sướng lắm, mặc dầu mình không có nuôi nó, nhưng mà thả nó rồi nó tự do, nó bay nó rất là hạnh phúc, sung sướng.
Trưởng lão: Cái điều đó là điều tốt, bởi vì ở đây thì Thầy nói như ở Việt Nam của mình, người ta bắt chim người ta đem đến những cái ngày rằm, ngày vía đồ đó người ta đem đến chùa xem, rồi Phật tử mà cứ mua vậy thành ra cái thói quen để người ta nhốt một số chim để rồi chờ ở đó người ta thả xuống. Còn cái này không phải bên Mỹ có cái này, nó loại ra cái loại chim nuôi, cái loại mà chim ăn thịt, nó loại ra để nó bán ăn thịt mà mình cứu những cái điều đó tốt, bởi vì mình không đủ tiền thôi.
Phật tử: Dạ bọn con đúng như vậy. Thầy nói ra được, con nghe thấy như vậy.
Trưởng lão: Nhưng mà nó có cái duyên, thí dụ như mình đến cái đợt đó mà gặp mình, nó có cái duyên với mình để cứu nó, chứ mình đâu có làm sao có tiền mình cứu hết. Nếu mình cứu hết thì lấy gì người ta làm thịt mà người khác ăn, trừ ra những người không ăn thịt nữa thì nó không có loại ra cái này, nó không ưa.
Phật tử 7: Dạ thưa ở bên đó thì nó có riêng ra như vậy.
Trưởng lão: Thành ra cái điều này là Thầy tán thán và ca ngợi các con. Thầy nói chỉ trong vòng một giây, một phút mà mình cứu nó sống thôi, nghĩa là bây giờ nó sắp sửa nó lên án tử hình nó rồi đó. Bắt đầu mình vô mình mua cái người ta bán cho mình rồi, thì cái án tử hình của nó hết rồi. Rồi mặc dù là bây giờ mình đưa về tới cái chỗ mình thả, rủi nó có chết nó cũng là cũng hạnh phúc lắm rồi. Chứ đừng nói rằng bây giờ chết tội, không phải đâu, nó hạnh phúc được mình thả ra khỏi cái án tử hình của nó.
Phật tử 7: Con nhớ nó bị chết trước khi chết mình thả thì sao Thầy?
Trưởng lão: Thì đó, Thầy nói đó. Trước khi chết đó, thì đó là cái nghiệp của nó đã hết, nhưng mà nó cũng hạnh phúc được khỏi cái án tử hình.
Phật tử 7: Dạ. Đó cũng như người ta giúp anh tìm.
Trưởng lão: Mình đem về lỡ nó chết mình đem về mình chôn trong lòng đất các con, thì có phanh thây nó tội, mình chôn nó. Cũng như mình chết mình chôn trong lòng đất, nó cái thân của nó tứ đại mà, đất nó trả về đất, nước, gió, lửa hết, mình chôn nó xuống. Với cái lòng thương yêu của mình như một đứa con mình, mình mua cái sự sống của nó như một đứa con của mình cứu nó, thì nó tốt.
(2:02:18) Phật tử 7: Cám ơn Thầy, dạ thưa Thầy còn một câu nữa là trong giới Phật bàn của con đó, con có quen với một chị là chị Tạ, thì chị đó, bà má chị thì có một mình chị, mà thưa Thầy chị cũng lớn tuổi rồi mà cụ cũng lớn tuổi mà hơi bị nhễnh nhãng, bị quên đó.
Trưởng lão: Bị lẫn đó.
Phật tử 7: Dạ bị lẫn đó, dạ. Bà cụ, chị không đủ sức mà ở nhà trông nom thì phải sống bên đó, chị cũng phải đi làm nữa. Thành ra chị mới để bà cụ ở trong một cái viện dưỡng lão, rồi chị thì vẫn cứ than với con, chị kêu đến chị sốc là…
Phật tử: Gần như là có mặc cảm rồi.
Phật tử 7: Mà tội đó là tại vì chị không có làm tròn bổn phận. Mặc dù là mỗi ngày, chị cũng đều đến chăm sóc cho bà cụ, rồi chị một thời gian rồi chị lại đi về. Chứ chị không thể nào mà ở trông bà cụ suốt một ngày 24 tiếng trên 24 được. Thành ra chị cứ vẫn nói con, than với con là chị rất là áy náy, thành ra thưa xin Thầy là. Chị nhờ con hỏi giùm với Thầy thơ riêng chỉ dạy chị ấy.
Phật tử: Thưa Thầy thì con xin phép là con xin diễn tả là cái đời sống ở bên đó một chút xíu như thế nào, để Thầy thông cảm cho là cái trường hợp của chị đó.
Là khi mà một người già ở bên Mỹ đó, thì vì con cái nó hàng ngày nó phải đi làm xa nhà, đi làm rời khỏi tám tiếng đồng hồ, thì trong cái thời gian đó đó cái người già ở bên Mỹ rất là cô đơn, không có tiếp xúc được như ở bên này, không ra ngoài cũng không có nói chuyện được như thế nào.
Thành ra khi mà người con trở về đó, thì thường thường là người mẹ rất là thích nói chuyện, nhưng mà người con rất là bận rộn, thành ra đôi lúc thì với lại ở trong nhà đó cũng không có đủ phương tiện để mà săn sóc cái người mẹ đã già của mình cho nó được trọn vẹn. Vì vậy mà họ ở bên Mỹ, họ lập ra những cái nhà gọi là nhà dưỡng lão, để mà những người già vào trong đó ở, có bạn bè nói chuyện với nhau và có y tá hằng ngày săn sóc những người đó, dạ.
Do cái nền mà ảnh hưởng của Á Đông nhìn thấy mình làm như vậy, mặc dầu đối với người Mỹ thì đó là một cái trường hợp bình thường, nhưng mà đối với chị vẫn cảm thấy rằng có một cái gì tội lỗi, ở trong tâm của chị, khi mà chị đưa cái người mẹ mình vào trong viện dưỡng lão, mà mặc dầu hàng ngày chị vẫn đến thăm hỏi người mẹ. Xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy cho chị phải như thế nào.
(2:04:37) Trưởng lão: Nó có hai cái trường hợp, nếu mà điều kiện mà mình là người Á Đông ấy, thì coi như là trong gia đình của mình bây giờ có người mẹ hay hoặc là ông cha già, làm sao?
Mà bây giờ đó mình có cái người chăm sóc, tức là mình sẽ mướn cái người ở hay là cái người giúp việc đó, họ chăm sóc để có cái người thân như vậy thì được. Chứ còn mà không có người, mà mình đi làm việc rồi cũng như nhốt ông già, bà già mình ở trong này, thì chắc cái này còn khổ hơn là khi vào trong cái viện dưỡng lão kia ở thì còn có bạn bè, còn có y tá, còn có bác sĩ chăm sóc bệnh, thì nó còn đỡ.
Thí dụ như bây giờ trong nhà có mình bà già, rồi cái cô này đi làm việc đi, rồi đóng cửa lại nhốt bà này ở trong nhà đi, bởi vì lễnh lẵng nữa, lẫn nữa rồi đâu có, khóa cửa chứ đâu có dám cho đi ra ngoài. Đó, cho nên nhốt đi, mà không có người chăm sóc, nhỡ đau thình lình thì ai kêu bác sĩ đây. Tới chừng mà chị này về, cô này về thì mẹ đã chết mất rồi, cái này còn tội nữa, phải không?
Thì bây giờ Thầy nói phải có một người, có một người làm việc công việc cho gia đình của mình, chăm nom gia đình của mình. Thì cái người này sẽ là cái người chăm sóc cho mẹ mình, còn đằng này mình không đủ khả năng mướn người, thì tức là mình đưa vào cái viện dưỡng lão, rồi mình cũng đến thăm viếng, ngày nào mình cũng đừng có bỏ thì coi như là mình cũng là người có hiếu đâu có gì đâu mà sợ.
Nhưng mà cái tinh thần của dân tộc Việt Nam, của người Á Đông của mình đó, thì thấy mình bỏ cha mẹ vào trong cái viện dưỡng lão vậy thì mình xót xa. Thì cái trường hợp này, cái tinh thần đó là tinh thần Á Đông rồi, xót xa. Nhưng mà Thầy thấy một cái gì đi nữa rồi nó cũng thành một cái quen và mình phải có nhiệm vụ, đừng có bỏ bê mẹ mình, không có đến thăm viếng coi như là mẹ mình ít ra một ngày mình cũng phải gặp mẹ mình một lần ở trong viện dưỡng lão, thì điều đó điều tốt.
(02:06:16) Thí dụ như trước khi mình về nhà thì mình giũ mùng, giũ này kia cho mẹ mình, cái nơi mẹ mình nghỉ đó ở trong đó. Rồi mình mua cái này kia, rồi mẹ con cũng… thay vì mình đi làm việc, thí dụ như trưa mình không có về được, thì chiều mình về thì mình mua cái gì đó cho mẹ con đồng ăn với nhau, cho nó vui vẻ trong cái sống trong cảnh, trong cảnh gia đình của mình.
Chứ đừng có mẹ mình ở đây ăn cơm rồi hay là kêu người ta lo rồi, cái này không quan trọng mà quan trọng ở cái tình cảm. Cho nên vì vậy đó, cái cô này cô khi mà cô đi làm vậy đó, thì cô ít ra mua một cái bánh, hai cái bánh không thể nào mà ăn cái bữa cơm, nguyên bữa cơm được, thì mua cái bánh, hai bánh thì mẹ con đồng nhau ngồi ăn với nhau, nó có cái tình cảm.
Phật tử 7: Dạ như có, bên đó chị có làm ạ.
Trưởng lão: Đó làm như vậy là đúng rồi, đâu có gì.
Phật tử: Dạ, chị kia còn có làm như vậy là, chẳng hạn như là, chị chạy buổi chiều về, chị về chị thăm mẹ thì thường thường ở bên đó người già là mà không có cầm chén được mà ăn cơm đó, thì y tá hay đút cơm cho cái người già đó, nhưng mà chính để chiều về, chị tự tay cầm cơm đút cho mẹ ăn.
Trưởng lão: Cái đó là hay quá rồi, cái đó là tốt rồi, không có gì đâu. Bởi vì chỉ có không ở trong nhà của mình thôi. Nhưng mà ở đây nó bảo đảm hơn, có người chăm sóc hơn, mà nó đỡ tốn kém, mình mướn một người mà chăm sóc riêng cho mẹ mình thì nó tốn kém quá.
Ở bên đó đời sống nó phải trả lương người ta, cho người ta sống đủ, chứ không phải như Việt Nam mình dễ. Mà tìm một cái người mà thật sự mà tốt thì cũng không phải dễ đâu, lỡ mình đi làm rồi nó lại cuốn gói đi mất làm sao. Thì tất cả những cái này đều là bất tiện, nhưng mà cái sự chăm sóc như cô này Thầy thấy tốt rồi, làm như vậy đó.
Chứ đừng có, bây giờ mình về đó mình ghé, tạt qua mình thăm cái rồi, nói ba loa vài chuyện rồi cái đi về nhà, thì mình ở đó mình chăm sóc. Thậm chí như mà bưng cơm mình đút cho mẹ ăn thì nó hay lắm. Thầy ca ngợi cái lòng người con, cái người Á Đông của chúng ta có cái lòng như Phật đó.
Mà sống đúng cái đời sống của Mỹ, đó mình phải tùy theo cái phong tục bên đó, sống đúng đời sống Mỹ nhưng mà cái tinh thần đó mình lại làm nổi bật hơn người Mỹ, Thầy thấy… Tức là mình cũng làm, mình cũng ghi được cái nền đạo đức ở xứ người, người ta thấy ở Việt Nam có những người con quá tốt. Thì Thầy thấy cái đó là cái hay lắm mấy con, về khuyên cô bây giờ gửi mẹ mình an ổn cho mình đi làm, ở đây có gì có người chăm sóc rồi, yên tâm đâu có lo.
Do đó bây giờ mình yên để cho mình làm hết bổn phận của mình ở cái cơ sở của mình. Rồi bắt đầu bây giờ về, thì thay vì mình về mình mệt nhọc đi mình nghỉ xong, bây giờ còn mẹ tức là mình phải thăm viếng mẹ, dù mệt cách gì đi nữa thì mình cũng về thăm mẹ và đồng thời một cái bánh, hai cái bánh rồi mẹ con ngồi ăn với nhau trong cái tình, bởi vì còn có hai mẹ con mà, đây là cái hạnh phúc rất lớn cho bà mẹ. Và đồng thời cứ tới cái giờ đó thì bà trông đứa con, cái tình đó. Chỉ có cái không ở trong nhà thôi, không có về, mà ở trong nhà thì bất tiện, thì nhà nào cũng tốt ở đây thì có những người bạn bè, những người già, thì bà có buồn bà cũng nói chuyện với người này người kia được. Ở riết rồi thành quen chứ đâu có gì, thì đó là hạnh phúc cho bà.
Chứ còn không khéo nó cô đơn lắm, người già sợ cô đơn, rồi từ cái cô đơn đó họ sẽ trở thành cộc cằn, gay gắt với con cái. Cứ ngồi nhớ đứa này, nhớ đứa kia rồi… Cái đứa ở trong gia đình nó lo thì không có nói mà cứ nhắc mấy đứa kia, nhiều đứa nó không hiểu, nó buồn, con lo gần chết mà mẹ không nghĩ mà mẹ cứ nghĩ cái thằng nào ở đâu không.
Phật tử: Dạ, đúng như vậy.
(02:09:22) Trưởng lão: Cô đơn đó con, do vì vậy đó. Bởi vậy cho nên những cái điều này mà mấy con gợi ý cho Thầy thì sau này cái bộ sách Đạo Đức, Thầy cũng nói chứ không thể nào mà bỏ được. Thì chúng ta thực hiện được cái đạo đức của người Á Đông và nó cũng phù hợp với cái môi trường của bên Mỹ, nó đem lại cho nó cái cuộc sống cho nó có đầy đủ đạo đức của mình.
Phật tử: Con đội ơn Thầy.
Trưởng lão: Nó là tuyệt vời lắm!
Phật tử 7: Dạ thưa Thầy, tại chị đó nói rằng con đến để xin làm lễ Thầy, hôm nay lễ xin Thầy cho phép con được…
Trưởng lão: Thôi nói như vậy là coi như là chị đảnh lễ Thầy rồi.
Phật tử 7: Dạ, con thay chị, đảnh lễ thọ Thầy ạ.
Trưởng lão: Thì như vậy là đảnh lễ Thầy rồi.
Phật tử 7: Dạ.
Trưởng lão: Thôi được rồi, con cứ đảnh lễ đi, để cho nó mãn nguyện với cái người đã gửi gắm con.
Phật tử 7: Dạ.
Trưởng lão: Con chịu khó.
Phật tử 7: Dạ. Tại chị nhờ con. Con xin… Xin phép Thầy.
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian: 16/05/2001
Thời lượng: [01:21:31]
(00:00) Trưởng lão: Con ngồi xuống đi!
Phật tử: Dạ thưa kính bạch Thầy! Hôm nay, chúng con thật có duyên về đến đây để được nhờ Thầy chỉ dạy. Trong giờ phút này, Thầy là Bổn sư của chúng con. Chúng con xin đội ơn Thầy, và nhờ Thầy chỉ dạy cho chúng con làm thế nào tu hành cho nó có cái kết quả, để mà theo lời Phật dạy, thoát khỏi cái nỗi khổ trầm cứu.
Chúng con có cái tâm nguyện rằng, từ khi mà được Thầy dạy cho chúng con làm những môn đồ, khi mà chúng con, để hôm nay chúng con bước vào cổng tu viện, những cái điều mà, những cái kiến giải, những cái điều mà hiểu biết của chúng con đang từ trước, chúng con đã để ngoài cổng. Chúng con đến đây với một cái cái lòng chân thành, chân thật như là một tờ giấy trắng, xin Hòa thượng, xin Thầy vui lòng chỉ dạy cho chúng con cái đường lối mà chúng con tu hành.
Xin Thầy cho chúng con biết rằng, những cái đặc tướng của chúng con như thế nào, để Thầy chỉ dạy chúng con tu hành có kết quả. Con xin tri ân đội ơn Thầy.
Trưởng lão: Để Thầy sẽ, về cái đặc tướng của các con, thì Thầy sẽ dạy các con. Có những cái pháp mà các con tu chung chung được, nhưng mà có những cái pháp thì các con phải tu theo đặc tướng của mình, chứ không thể tu chung được.
Thì những cái pháp mà dạy theo từng đặc tướng, thì nó là những cái pháp phải thiện xảo, khéo léo từng cái tu tập riêng của mình, thì chừng đó Thầy sẽ dạy riêng cho mấy con chứ không dạy chung. Còn những cái pháp mà dạy chung, bởi vì nó có những cái mình tu tập chung được, nó khỏi cần trong cái đặc tướng, như cái pháp ngăn ác diệt ác thì các con tu chung được.
Như cái pháp tứ, đó là cái pháp Tứ Chánh Cần đó, ngăn ác diệt ác đó, thì các con tu chung được, vì mọi người cũng phải, đều phải ngăn ác diệt ác hết, nó không cần phải đặc tướng của mình. Nhưng mà nói về cái Định Niệm Hơi Thở, thì nó phải tu riêng rồi, vì nó thuộc về thân hành nội của chúng ta rồi, cho nên nó phải tu riêng. Chứ nếu mà tu chung, thì coi chừng nó sẽ bị ức chế, nó ít khó con.
(2:36) Cho nên từ cái hơi thở cho đến cái Tứ Niệm Xứ, thì tất cả những cái pháp này, thì nó khi tu theo mỗi đặc tướng của mình. Thí dụ như một cái người mà tâm dục nhiều, thì họ phải tu quán nhiều, quán bất tịnh, quán xương trắng, quán nhiều. Còn cái người mà tâm dục ít, thì họ không có quán cái điều đó, mà họ phải quán cái hơi thở để ly tham, sân, si thôi, nó là vậy. Cho nên đó là tu theo đặc tướng.
Thí dụ như cái người đó hay tham ăn, hay thích ăn thì họ phải quán bất tịnh. Cho nên họ phải chuyên vào cái đó. mà chính là chuyên vào cái đó mà để mà ly được, mà nhàm chán được cái thực phẩm thích ăn của họ đó, thì họ sẽ ly được tham. Vì cái đặc tướng của họ là cái đặc tướng đó.
Còn một người thích ngủ, họ ham ngủ, ưa ngủ. Họ hay bị hôn trầm, thùy miên thì cái người đó họ phải quán ánh sáng để họ tu theo cái đặc tướng của họ. Cái người thì người ta ít ngủ, còn cái người mà ham ngủ nhiều đó là cái đặc tướng. Cho nên mỗi cái đặc tướng nó đều phải dạy giải pháp riêng chứ không thể dạy chung chung được. Vì cái người ta ít ngủ mà mình bắt người ta cũng phải tu vầy thì nó trật. Nó trật, nó không đúng đâu.
Đó vì vậy cho nên đó là những cái mà Thầy nói đại khái, để rồi các con sẽ tập những cái chung, rồi sau đó, Thầy dạy các con tập những cái riêng. Trong khi đó để rồi các con sẽ, khi mà về bên đó không có gần Thầy được, thì các con có những biết cách các con tu tập được, để cho nó có kết quả.
(3:48) Và đồng thời thì Thầy cố gắng, Thầy sẽ kéo dài cái tuổi thọ. Mà các con thì cũng lớn tuổi rồi, có đủ cái duyên, Thầy dẫn dắt đi đến nơi đến chốn. Để không khéo rồi không có Thầy, để mà không có ai dẫn dắt các con đi cho tới nơi tới chốn được. Nhưng mà cái điều mà quan trọng nhất là các con phải ráng cố gắng, mình phải tự thắp đuốc lên đi.
Chứ còn Thầy dạy mà các con không tập thì Thầy cũng không dẫn các con tới nơi tới chốn được. Mà chính các con phải tập, phải siêng năng tập luyện. Tức là Tứ Chánh Cần, phải siêng năng cần mẫn hay hoặc là Chánh Tinh Tấn. Trong Bát Chánh Đạo nó có Chánh Tinh Tấn.
Các con phải siêng năng tinh tấn, thì nó mới được, chứ còn các con không siêng năng tinh tấn, mà nghe Thầy nói thì thấy hay, mà không có siêng năng tu tập, thì Thầy cũng không dẫn mấy con đi được. Vì chính mấy con không chịu đi, thì Thầy cũng không làm sao được.
Các con phải ráng, ráng siêng năng bền chí, siêng năng và đầy đủ nghị lực để vượt qua những cái lúc khó khăn. Nó còn những cái lúc khó khăn, như cái thân bệnh của mình, nhiều khi đó mình bị bệnh cái mình bỏ trôi mình không tu nữa. Mà trong những bệnh đó, thì trong khi bệnh đau mình sẽ tu những cái pháp gì Thầy dạy, thì các con sẽ ráng, ráng tu. Nó khó nhưng mà phải ráng, đừng có bỏ trôi nó uổng đời tu của mình.
Khi không tu thôi, mà đã tu thì phải có sự liên tục, chứ không thể một nắng hai sương được. Mấy con nhớ. Thí dụ mình bữa nay mình tu mình ham tu, mình tu nhiều, ngày mai mình nghỉ nhiều, thì coi như là số không thôi, không có gì hết. Cho nên mình phải tu liên tục, ngày nay mình tu ít, ngày mai mình tu ít, lần lần, lần lần cái tâm nó quen dần, nó tiến tới tu nhiều được, mới giải thoát được.
(5:23) Thì mới bắt đầu, bây giờ thì các con sẽ, Thầy sẽ giảng cho các con nghe về cái pháp Tứ Chánh Cần, cái pháp đầu tiên. Để chi các con? Bởi vì cái đó là một cái pháp, mà nó ngăn ác diệt ác pháp. Vì các ác pháp là những cái môi trường sống xung quanh của mình, mọi người, mọi vật, sự sống của mình từ cơm ăn, áo mặc, tất cả nhà cửa, rồi phải tiền điện, tiền nước, tiền này kia, mọi thứ lặt vặt các con phải giải quyết. Đó là những cái ác pháp nó làm cho tâm các con phải lo.
Cho nên vì vậy mà mình tu cái pháp này, cái pháp Tứ Chánh Cần, mình ngăn ác, làm cho tâm nó không lo, mà mình làm cho hết bổn phận, thì mình cũng có đủ khả năng để trang trải. Chứ không phải lo mà nó mới có mà trả, trang trải, mà không lo nó không có.
Bởi vì cuộc sống hằng ngày mình lao động mà, mình siêng năng, mình cần mẫn, mình lao động, mình làm công việc thì mình phải có trả. Còn giờ vừa trả tiền nước, tiền nhà tiền cửa, mà lại còn lo nữa, thì cái đó là mình thừa. Mình thừa, các con thấy không? Nhưng mà cái trách nhiệm bổn phận mình cứ lo, chứ mình không có chịu thấy cái đó là thừa.
Cho nên ở đây, cái mục đích của đạo Phật là ngăn những cái điều kiện này, mà chúng ta phải siêng năng chứ không phải ngăn để mà lười biếng. Nhiều khi người ta nói là đạo Phật yếm thế, là người ta nói: “À bây giờ tôi đương siêng năng, tôi làm ra của ra cải mà bắt bỏ hết”. Không phải, đạo Phật không có dạy mình kiểu đó đâu, không có dạy mình bỏ đời.
Mà mình sống trong đời mà tâm hồn mình thanh thản an lạc, không có lo không có sợ cái gì. Bởi vì mình là người siêng năng làm, làm bằng mồ hôi nước mắt của mình, thì mọi sự cái gì mình trang trải nó cũng đầy đủ hết, nó không thiếu nợ ai hết. Các con hiểu điều đó chưa?
Cho nên cái giáo án mà tu tập cho người cư sĩ, mà các con mà gợi ý để mà soạn thảo cái điều kiện để cho các con tu ở trong một cái hoàn cảnh của người cư sĩ mà. Thì các con biết, các con còn là, các con là những người làm ra sự sống cho mình, chứ không ai đem sự sống cho mình, vì vậy mà các con phải siêng năng làm. Làm mà không thấy khổ, làm mà không thấy lo, làm mà không thấy, làm bằng cái trí tuệ suy nghĩ, làm cái đó phải đúng, không ác pháp ở trong đó.
Làm trong đó có sự lừa đảo, có sự gian xảo thì không được làm. Mình phải làm, mình thấy cái này tôi làm bằng mồ hôi nước mắt, chứ tôi không có gian xảo, cướp giựt ai hết, tôi không ăn cắp, ăn trộm giờ giấc của người nào hết. Giờ làm việc, tôi làm hết mình của tôi trong giờ làm việc, tôi làm với khả năng của tôi để tôi nhận cái số tiền xứng đáng với mồ hôi nước mắt của tôi làm.
Thì trong khi đó, mình thấy được cái cái sự việc như vậy, thì mình cứ làm năng nổ, siêng năng làm, cần mẫn trong công việc làm, thì cái đồng lương của mình, nó đủ trang trải cho cái cuộc sống của mình hằng tháng, hằng năm. Con hiểu chỗ đó. Đó là cái đạo đức của đạo Phật, đó là ngăn ác diệt ác.
Còn bây giờ các con làm, mà các con nghĩ phải cho nhiều tiền, rồi các con nghĩ cái mánh khóe này, cái kia nọ, rồi các con làm ông chủ, rồi các con bóc lột công nhân rẻ mạt, mỗi một đứa một ít, nhưng mà nhiều đứa các con trở thành giàu. Thì cái điều đó là cái ác pháp các con, đừng có nên làm cái điều đó. Cho nên vì vậy đó, khi mà chúng ta tư duy được, chúng ta hiểu được như vậy là chúng ta ngăn những cái điều ác đó, mà không ngờ rằng chúng ta lại tạo được những điều thiện.
Vì vậy mà những công nhân, nó thật tình, nó lo lắng công việc của của mình như là công việc của chính nó, nó làm cho cái nhà máy của mình, làm cho cái cái chuyện làm của mình càng ngày càng phát triển lên, nó giàu biết mấy các con. Nhưng mà giàu ở trong cái tập thể, để rồi trang trải cho cái tập thể chúng ta được sống một cuộc sống an vui, chứ không phải giàu để rồi phục vụ cho một cá nhân mình. Còn bao nhiêu người phải đổ mồ hôi nước mắt mà vừa đủ sống, còn mình làm giàu thì nó bất công, nó không công lý.
(8:54) Cho nên đạo Phật, chúng ta phải học cái pháp ngăn ác diệt ác. Vì chúng ta ngăn ác, chúng ta làm sao cho những người công nhân mà làm với mình, những người mà làm công của mình, họ ý thức được cái điều họ làm, để xứng đáng với đồng lương mình trả họ. Mình không bóp chẹt họ, mình không lường lận họ, không ăn cắp cái công của họ, để cho mình làm giàu cho mình.
Còn họ phải làm cho đúng, để xứng đáng với cái đồng lương của mình trả họ trong một ngày họ làm việc. Họ thấy công việc của mình làm, họ coi công việc của mình như là công việc của họ. Họ làm không phải là công việc của cá nhân của mình, mà của họ ở trong đó. Vì vậy cái cuộc sống này là cuộc sống chung, nếu họ bảo vệ nó thì họ được sống.
Mà nếu họ không bảo vệ thì nó bị phá sản, nó bị sập cái nhà máy này thì họ lại thất nghiệp, thì trong đó mình cực khổ chứ sao? Cho nên, họ đã ý thức được và mình đã ý thức được. Thì từ ông chủ cho đến người mà làm công, vẫn có ý thức được với nhau, thì cái nền đạo đức này gọi là ngăn ác diệt ác, các con hiểu không?
Cho nên cái pháp của Phật giúp cho chúng ta, cái pháp mà Tứ Chánh Cần ngăn ác diệt ác, nó giúp cho đời sống của chúng ta, đem lại hạnh phúc chung cho nhau, chứ không phải là mình chỉ có ngăn ác ở trong tâm của mình, còn mặc kệ ai ở ngoài khổ, không phải đâu các con. Nó giải quyết cả bên ngoài mà bên trong của chúng ta nữa. Nó hiểu được những cái điều kiện ác và thiện của nó rất rõ ràng.
Cho nên Thầy nói qua cái bài đó, Thầy mới viết: “Đừng nhìn cuộc sống bằng sự đúng sai phải trái, mà hãy nhìn nó bằng thiện với ác”, con hiểu chỗ đó. Cho nên nó thiện với ác, mình mới ngăn ác, mình mới tăng trưởng thiện. Mình không thấy nó, thì coi như là vô tình cái mình bóc lột người ta, vô tình cái mình lãng phí cái giờ mình đang làm việc, mình lãng phí, mình ăn cướp giờ phút đó, nghỉ ngơi của mình, thì như vậy là mình không xứng đáng với mình, mình vô đạo đức.
Đó thì cho nên, cái pháp ngăn ác diệt ác là cái pháp để chúng ta cùng sống chung nhau. Bởi vì các con còn chiếc áo cư sĩ, các con còn tiếp xúc nào gia đình con cái, nào tất cả mọi người, mà nếu các con không chuẩn bị ngăn ác diệt ác, thì gia đình các con không hạnh phúc. Mà các con biết cách ngăn ác diệt ác thì gia đình các con hạnh phúc.
Cho nên cái đạo đức làm người mà Thầy soạn thảo thì các con sẽ nắm được rõ ràng, những cái hành động sống hằng ngày các con, từ cái lời nói, từ cái ý nghĩ, từ cái suy nghĩ các con, từ cái hành động các con đối xử với nhau, các con sẽ ngăn ác diệt ác toàn bộ. Tức là các con xây dựng mình trên một cái nền đạo đức, đạo đức làm người không làm khổ mình. Đó là cái pháp ngăn ác diệt ác mà Thầy sẽ triển khai.
Thầy triển khai trong Thập Thiện, Mười Điều Lành, mà đức Phật đã, cái dàn bài nó đã sẵn rồi, bây giờ Thầy chỉ cần triển khai ra để rồi từ đó các con sẽ biết được cái cuộc sống của mình phải đối xử phải làm, phải tiếp giao với nhau như thế nào, để cho nó ngăn ác diệt ác, đem lại cái đời sống các con giải thoát hoàn toàn, không còn đau khổ nữa.
Đó là các con về nhớ, luôn luôn lúc nào chúng ta cũng nhớ rằng, xung quanh chúng ta có ác pháp, chứ không phải không ác pháp. Ác pháp xung quanh, rồi ngay cả ác pháp trong tâm của mình nữa. Cho nên ngăn và chặn, trong và ngoài, tất cả những cái này. Đây là Thầy đại khái, để cho chúng ta hiểu được cái pháp Tứ Chánh Cần ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện.
(11:39) Kế đó, Thầy sẽ dạy các con tới một cái phương pháp nữa. Vì ít ra một tháng các con nhớ rằng, các con ít ra, các con cũng phải có một ngày thọ Bát Quan Trai. Một cái ngày mà mình học làm Phật các con, mình làm, mình sống cho đúng cái hạnh của một bậc Thánh các con. Ngày đó mình làm, một ngày mình chỉ làm, một tháng mình chỉ tập một ngày thôi.
Nếu mà một tháng, mà các con được bốn cái ngày Chủ Nhật, mà các con được nghỉ ngơi, mà các con đi vào một cái vị trí nào đó, mà các con được cái thất, người ta cho các con. Các con sống trầm lặng độc cư, rồi các con ngồi tu Tứ Niệm Xứ, thì các con hạnh phúc biết bao. Các con sẽ làm được Phật ngày đó đó. Sống như Phật mà, sống theo pháp mà, sống như các vị Thánh Tăng mà, sống đúng giới hạnh mà.
Bởi vì Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng, Niệm Giới, Tứ Bất Hoại Tịnh các con. Thì cái ngày đó, các con sẽ sống đúng, nghĩa là sống đúng một ngày các con. Khi mà ngày đó các con trở về, con sống với cuộc sống, con thấy một ngày làm Phật của chúng tôi xứng đáng, các con hạnh phúc lắm.
Các con kiểm điểm lại một cái ngày, từ sáng các con đến, chiều các con tu tập xong, tới chiều các con xả Bát Quan Trai, các con trở về nhà chứ gì? Thì các con kiểm điểm lại, mình thấy một ngày làm Phật, tôi không hề vi phạm một lỗi nhỏ, thì đó là con đã làm được bậc Thánh Tăng trong ngày đó rồi. Mà nếu mà ba mươi ngày, mà con làm trọn vẹn, Thầy nói ba mươi ngày, chứ đức Phật nói bảy ngày thôi.
Bảy ngày mà các con làm trọn vẹn sống như vậy, thì bảy ngày con đã thành Chánh Giác rồi, thành Phật rồi đó, không có xa đâu, không có khó đâu. Bởi vì Tứ Niệm Xứ mà con, nó giúp cho các con bảy ngày, bảy tháng, bảy năm nó sẽ thành tựu. Mà chỉ trong bảy ngày mà mình tu tập đúng cách, bảy ngày là mình thành tựu rồi, đạo Phật không khó đâu.
Bởi vì ngày đó, cái ngày mình làm Phật, thì từ sáng đến chiều làm Phật, mà suốt bảy ngày làm Phật, vậy thì các con thấy cái tâm còn phóng dật không? Không phóng dật, thì đã là thành Phật rồi chứ gì? Đức Phật nói: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật”. Mà bảy ngày không phóng dật là làm Phật rồi, chứ đâu phải nhiều. Mà bảy ngày liên tục như vậy, thì con thấy đâu có phải là khó.
Nhưng mà, trong một ngày một tháng, mà trong một ngày con làm được thì bảy ngày con có thể làm được, con hiểu không? Mà đâu phải bây giờ con tập ngay liền bảy ngày mà được đâu, cho nên con tập nhiều lần. Thí dụ như một tháng tập một ngày, tháng sau tập một ngày, tháng sau tập một ngày, cho nên một năm con tập mười hai tháng, được mười hai ngày làm Phật. Nhưng mà năm sau, các con lại mỗi tháng, các con tập được hai ngày. Rồi mỗi tháng con tập bốn ngày.
(13:57) Bây giờ bốn ngày, mình thấy một tháng mình tập bốn ngày mà mình thấy thích thú. Bốn ngày mà thiệt làm Phật cụ thể quá, tôi thấy thiệt an lạc, tâm thanh thản. Mỗi niệm gì khởi ra tôi đều tôi biết, tôi đuổi nó đi hết, thành ra tâm tôi thanh thản. Cho đến khi mà con thấy cái tâm nó hoàn toàn nó không còn niệm khởi nữa. À như vậy là tôi đã tới lúc, tôi đã thành tựu rồi.
Thì như vậy bây giờ con sống suốt bảy ngày thì con đã thành tựu, đâu có khó đâu. Bởi vì mình, mình tập làm Phật từng ngày từng ngày vầy, mà mình thấy được thì tức là bảy ngày là mình thành tựu chứ gì. Còn chưa được, bây giờ con nghe bảy ngày, con bây giờ chưa có tập gì hết, con vô cho con sống bảy ngày là ba ngày con lo con chạy mất rồi chứ con đâu có dám sống nổi, con hiểu chưa?
Còn mình học từng chút từng chút, nhưng mà đến cái mức nào đó, một tháng mà nó bốn tuần lễ, mà bốn tuần lễ mình có bốn cái ngày Chủ Nhật. Thí dụ các con còn đi lao động làm, còn làm sáu ngày, thì bốn ngày Chủ Nhật con nghỉ con tập. Thì trong bốn ngày, một tháng có bốn ngày con Thọ Bát Quan Trai. Con thấy bốn ngày làm Phật, mà trong bốn ngày một tháng, con chiêm nghiệm lại những ngày này, con thấy tâm con nó đi đến mức độ nào con biết rồi.
Bây giờ tâm nó thường thường, nó không phóng dật, khi mình vào thất mình sống trầm lặng không phóng bậy bạ nữa, mình thấy nó sắp chín muồi rồi. Như vậy con sẽ thấy nó đến nơi được trong bảy ngày, chứ không phải bảy năm đâu. Thầy nói tu đúng pháp, sống đúng cách rồi, thì nó không khó nữa.
Chỉ vì mình sống, mình chưa có biết mình, tức là mình chưa có biết mình, mình chưa có tập luyện, mình chưa có ngày nào làm Phật được hết, mà muốn vô làm Phật liền thì không được. Cho nên các con cứ tập Thọ Bát Quan Trai.
Bây giờ con về ở đây, tức là trong cái môi trường này con tập, tức là Tứ Niệm Xứ Thọ Bát Quan Trai rồi. Bữa nay con tập, rồi ngày mai tập, ngày mốt tập, chứ còn Tứ Chánh Cần là lúc nào con cũng phải tiếp giao với ở bên ngoài. Nó có những cái pháp ác, nó có những cái tâm động của các con, nó có những cái nó làm cho các con bất an. Nó bên ngoài nó tác động, nó làm cho con bất an, phải giải quyết cái này, giải quyết cái kia.
Thí dụ bây giờ các con ở đây, các con khỏi cần lo đói, thì cái pháp ác mà không lo đói các con đâu có lo. Bởi vì ở đây cô Út, tới trưa cô Út cho mình bữa cơm, ăn bữa sống được rồi, đâu cần gì phải nhiều. Nhiều làm gì mất công ăn, cho mất công cực, phải không? Mất công rửa nè, rồi mất công ăn nữa nè, chứ đâu phải nói là, làm sao giải thoát?
Sáng mình cũng không ăn, chiều mình cũng không ăn, không uống gì hết. Mình nghỉ, mình thấy giải thoát sung sướng quá mà, còn cái gì. Các con trở về gia đình các con, thì phải sáng ăn nè, phải đi làm nè, rồi tất cả mọi ác pháp nó đập vô làm cho các con nó bận rộn đủ thứ hết. Tức là ác pháp nó đang đánh các con, các con phải ngăn chặn nó.
(16:18) Bây giờ, thay vì bây giờ, mọi lần thì buổi sáng, các con phải làm cái này kia ăn, bây giờ uống một ly sữa, ăn cái ổ bánh nào đó, cái mình lo đi làm. Hay hoặc là không cần ăn buổi sáng, buổi chiều ăn cũng được rồi. Các con hiểu chưa? Mình ăn đơn sơ thôi, chỉ có cái bữa nào đó là cái bữa chính, để cho cả gia đình mình họp nhau ăn, để cho sự sum họp đó, thì lấy cái bữa đó làm chính.
Thí dụ như giờ buổi tối, gia đình mình sum họp được, mọi người đều về hết, mình lấy bữa tối làm chính chứ không phải cần bữa trưa. Con hiểu chỗ đó không. Đây là cái buổi sum họp của mình, mà tại sao lấy buổi trưa? Buổi trưa thì có người ở sở, có người chưa có về, mà bây giờ ngồi ăn có mình mình, mà ăn bữa chính, rồi người kia cũng ăn ở trong sở ăn bữa chính sao được? Đừng có nghĩ vậy.
Bây giờ đó, thí dụ bây giờ tất cả mọi người làm việc, buổi tối thì có mặt đủ hết, mình lấy buổi tối làm buổi chính. Mình ăn buổi chính, ăn no buổi chính. Còn buổi sáng, buổi trưa mình ăn qua loa để mình lo làm việc.
Phải không? Các con mua một mẩu bánh về cái mình ngồi ăn, uống ly nước cái rồi lo làm việc, chiều về cái gia đình họp nhau ăn bữa ăn đầy đủ với nhau, thấy không? Nó có sự sum họp, nó có cái tình cảm. Nó có những cái sống ở trong cái đạo đức thân thuộc của gia đình của mình, người nào cũng gặp nhau hết.
Phật tử: Dạ, đúng như là vậy. Con thắc mắc vấn đề đó thưa Thầy. Tại vì chúng con cứ nghĩ rằng, nghĩa là phải ăn một buổi trưa coi như là ăn Ngọ, như vậy thì, khi mà chúng con về tới gia đình, thì buổi chiều chúng con lại không ăn, hay là ăn quá ít, thành ra đôi lúc rồi con cái nó cũng hơi ngạc nhiên.
Nó nói là sao có vẻ lúc này trong cái buổi cơm, ba má không có ăn uống hay là sinh hoạt chung với chúng con? Mặc dầu là chúng con vẫn chia ra làm hai phần, các con của con đôi lúc còn ăn mặn, chúng con thì ăn chay trường, nhưng chúng con vẫn ngồi ăn chung với nhau nói chuyện vui vẻ.
Thì nay Thầy đã cho giải quyết cho chúng con một cái vấn đề thắc mắc, là con cứ nghĩ cứ phải ăn đúng Ngọ buổi trưa, còn buổi chiều tối thì không được quyền ăn nhiều. Vì vậy, mà đôi lúc các con nó cũng không được vui lắm, khi nhìn thấy chúng con như là không còn hứng thú trong việc buổi chiều dùng cơm với tụi nó nữa.
Trưởng lão: Đúng rồi, bởi vì, đúng là vậy, nó làm cho cái tình cảm của gia đình làm như nó buồn tẻ các con. Nó có cái sự chia cắt, nó rõ ràng. Bởi vì buổi trưa các con lại ăn chính nè, các con nhớ rằng ở bên Mỹ nó trưa, chứ ở bên đây nó là nửa đêm rồi sao? Như vậy là các con lấy cái mốc giờ nào mà cho đúng là Ngọ đâu? Cho nên, Thầy nói cái mốc nào mà sum họp cả gia đình của mình là Ngọ, là tốt nhất, là hạnh phúc nhất, là giải thoát.
(19:10) Bởi vì đạo Phật nhằm vào giải thoát chứ đâu phải nhắm vào, cái hạnh phúc, vào cái sự an lạc, vào cái sự giải thoát mà nó tình cảm đạo đức nó tràn trề với nhau, thì cái này là hạnh phúc rồi, cái này là giải thoát tốt rồi. Tại sao mà ăn như vầy, mà gọi là ngọ để rồi trả cái chỗ này, nó đau khổ nè, con cái nó cũng thấy buồn. Phải không, các con thấy không?
Đó như vậy là đối với Thầy, bởi vì Thầy nhìn thông suốt được cái thời gian của nó. Suốt qua một cái thời gian của nó, cho nên đâu có nghĩa là ăn Ngọ. Bây giờ thí dụ như ở đây, Thầy nói rằng mười hai giờ ăn cơm ngọ đi, phải không?
Thì quý Thầy bây giờ cái thời gian để nó thuận tiện cho người ta ăn cái đó, là tại vì chư Tăng ở đây người ta sẽ họp vào đó, không có người nào mà vắng mặt. Phải không? Cho nên người ta họp người ta ăn giờ đó. Còn bây giờ buổi chiều thì người nào cũng lo tu.
Còn bây giờ, mà cả gia đình của mình, mình sống, mình thấy cái múi giờ này là cái giờ mà gia đình mình sum họp. Bởi vì mình còn lao tác, mình còn lao động để cuộc sống của mình mà, vậy thì mình chọn cái giờ nào là cái giờ chính để cho mình ăn trong cái giờ chính này, để gia đình mình sum họp.
Rồi trong khi đó không có nghĩa là, bây giờ ba mẹ ăn chay rồi thì mấy con dọn riêng ba mẹ ăn riêng. Không, chay mặn là do ở cái tâm từ của mình, cha mẹ ăn chay là không có ăn cái thịt chúng sanh, là tức là vì cái sự đau khổ của chúng sanh cha mẹ không ăn, chứ không phải cấm cái chỗ này. Các con ý thức được cái này, các con ăn chay thì tốt, mà các con chưa ý thức được cái này thì các con cứ ăn mặn, ba mẹ không cản đâu.
Bởi vì, ba mẹ hiểu được là cái chỗ ăn chay không có nghĩa làm Phật, mà ăn chay vì cái lòng thương yêu của ba mẹ, vì ba mẹ nghĩ rằng, cái sự đau khổ của chúng sanh mà huân vào thân mình, chắc mình không thoát khỏi sự đau khổ đó, cho nên ba mẹ không ăn thôi.
Còn các con chưa ý thức được điều này, thì các con ăn như thế nào cũng được. Ba mẹ chưa có ý khuyên. Nhưng mà các con lần lượt rồi tin rằng, khi ba mẹ mà thực hiện được cái con đường tu này, thì chắc các con cũng sẽ khởi cái lòng thương yêu của các con đối với chúng sanh mà các con ăn thôi, phải không?
Từ ba mẹ mà làm cái điều này, thì các con phải có ý thức chứ gì? Tại sao cha mẹ mình không ăn những miếng ăn ngon như vầy mà lại ăn những cái miếng ăn mà rau cải như vậy, nó không ngon như vậy, nó lạt lẽo như vậy mà lại ăn. Lại như thế nào mà ăn được? Mà ăn mập khỏe, ăn không có đau bệnh nữa, tại sao vậy? Con các con sẽ có cái sự tư duy và suy nghĩ đặt ra câu hỏi để hỏi.
Và cuối cùng thì, bây giờ sẵn cái dịp mình, cái hoàn cảnh vậy, ba mẹ nói cho các con biết, không nghĩa là ba mẹ ăn chay làm Phật, mà ba mẹ ăn với ý thức thương yêu. Vì cái sự hiếu sinh của ở trong lòng của ba mẹ đối với những con vật, nó cũng có sự đau khổ, cũng có sự sợ chết cũng như mình, mà bây giờ nỡ nào mình lại ăn thịt chúng để rồi, do mình ăn người ta mới bắt người ta giết chứ. Còn nếu mình không ăn làm sao người ta bắt giết?
Do đó cho nên ba mẹ giảm bớt cái sự mà gián tiếp sát sanh này, thì nó cũng đỡ bớt một cái số lượng chúng sanh bị giết hại. Đó, mình ý thức, mình nói vậy, còn nó hiểu không hiểu kệ nó. Mặc dù mình biết rằng nó có gieo cái duyên đó, cho nên mình mới nói. Còn không thì chưa có đúng duyên thì mình không nên khuyên.
(22:04) Thầy ở đây, Thầy giúp cho các con về vấn đề mà tu tập, để các con ý thức được cái sự tu tập của mình nó chơn chánh, nó nhằm cái mục đích giải thoát, và nó lâu dài. Người ta bốc đồng người ta ăn chay, người ta nói ăn chay để mà được chư Phật gia hộ mình thế này thế khác, mà ăn chay. Để cầu cho gia đình mình bình an, mình ăn chay, thì cái ăn chay này nó chỉ cấp thời thôi, sau đó thì người ta vẫn ăn mặn như thường.
Còn cái mà ăn chay mà nó vĩnh viễn, là vì mình ăn chay với cái lòng thương yêu của người ta đối với các loài vật khác, với cái sự thương yêu của chính bản thân mình, vì mình không muốn huân cái sự đau khổ vô thân của mình nữa. Mình không đem cái sự đau khổ đó vào trong thân của mình nữa, cho nên mình ăn chay. Cho nên dù là ăn ngon ăn dở gì mình cũng ăn được hết, vì mình không thấy sự đau khổ đó nữa.
Đó, đó là cái ý thức của mình, nó giúp cho mình vượt qua những cái khó khăn của cái cơ thể. Khi mà cơ thể mình ăn thịt cá nó quen rồi, bây giờ ăn chay, nó không quen, nó làm cho mình cũng khó chịu chứ không phải không đâu các con. Nhưng mà sau khi cái ý thức của mình nó mạnh mẽ, lòng thương yêu của mình mạnh mẽ, nó chiến thắng, nó vượt qua những cái khó khăn của cái thân của mình.
Bởi vì cái thân nghiệp nó quen, nó quen rồi. Cho nên cái người ăn mặn mà ăn chay họ cũng khó rồi. Cái người ăn ba bữa mà giờ ăn một bữa họ cũng khó rồi, nó thành cái thói quen rồi. Nhưng một cái người mà ăn một bữa, ăn trở lại hai, ba bữa dễ lắm.
Mà trái lại một cái người mà ăn chay mà ăn mặn lại dễ đó, chứ không khó đâu. Mà cái người mà từ mà ăn mặn, mà đi ăn chay nó hơi khó. Rồi từ mà ăn chay đến ăn ngày một bữa nó khó, nó khó hơn. Nó cứ tuần tự nó khó, rồi mình huân quen rồi mình thấy bình thường, không có gì hết, đó mình tập quen.
Cho nên, đạo Phật là đạo dạy cho mình, sửa lại những cái sai, sửa lại những cái tội lỗi, đừng có tội lỗi, tức là đừng có ác pháp đó các con. Đừng có tội lỗi, để đem lại cho thân tâm của mình, nó có cái sự sống thanh tịnh, một cái sự sống thật sự là con người các con. Con người có đạo đức, đạo đức biết thương người, biết thương chúng sanh, biết thương mọi người.
Mà mình bây giờ, mình thương chúng sanh, mà giờ con cái mình không thương hay sao? Mình làm khổ nó. Cho nên cả cái bữa ăn của mình, mình thấy nó cũng buồn là mình đã tự làm khổ nó rồi. Mình tu mà tại sao mình làm khổ những người này? Bởi vậy là ác pháp rồi.
Cho nên từng cái tâm niệm của mình mình suy tư vậy mình biết đó là mình chưa ngăn ác diệt ác, mình đã tạo ra tâm khổ rồi. Cho nên từ đó mình mới tư duy cách thức để mình giải quyết, mình giải quyết làm sao mà nằm trong thiện pháp, cả gia đình của mình vui vẻ, tất cả mọi người đều vui vẻ hết, thì đây là thiện pháp.
Thiện pháp đem lại cho mình vui, người khác vui rồi, thì như vậy là mình sống đúng Phật rồi. Còn nếu mình chấp nhận mình ăn Ngọ, mà mình làm tất cả những sự đau khổ này, thì cái Ngọ này không phải là cái Ngọ của Phật đâu. Cái Ngọ này Ngọ của tự mình đặt ra, đó là sai các con.
(24:24) Phật tử 2: Thưa Thầy! Nhưng mà ở trong nhà, con là người nấu ăn mà con con thì nó ăn mặn, thành ra nhiều khi con thấy khó xử quá thưa Thầy?
Trưởng lão: Không có sao đâu! Bây giờ Thầy dạy con. Bây giờ, con nó ăn mặn, bởi vì con nó chưa có, cả gia đình con mà ăn chay hết thì tốt phải không? Phải không, nó rất tốt. Bây giờ nó ăn mặn, mà con là bây giờ là cái người mà nấu ăn ở trong gia đình, để giúp cho các con mình đi làm, rồi tới tối nó về nó có cái bữa ăn chung nhau đó, cho nó vui vẻ. Được rồi đâu khó gì đâu.
Con đừng có mua con gà về cắt cổ, con đừng có mua con cá về đập đầu. Bây giờ con ra chợ thì người ta đã làm sẵn con, con cứ mua đi. Cái gì họ làm sẵn, con cứ mua đi. Mặc dù đó mình biết, đó là cái gián tiếp sát sanh. Cũng như mà mình ăn thịt chúng sanh, người ta mần sẵn, mình ăn thôi chứ gì?
Nhưng mà đó gián tiếp, thế nào mình cũng mang cái tội. Nhưng mà tôi nghĩ rằng, tôi phải đem lại hạnh phúc cho gia đình tôi, tôi chấp nhận cái tội này. Nhưng mà tôi nỗ lực tôi tu cho tôi, thì tôi sẽ chuyển hóa cái này, tôi chuyển hóa cái nghiệp này, nhưng mà tôi phải chuyển hóa như thế nào để đúng?
Tôi ước ao rằng một ngày nào con cái tôi sẽ toàn bộ, sẽ ăn chay hết. Mà nó ăn chay hết, thì cái lòng tha thiết của một người mẹ nó sẽ cảm hóa được các người con của mình sau này nó ăn chay hết, và cả thậm chí như cháu mình nó cũng ăn chay, nó cũng thích nữa. Cho nên đức Phật nói cái bài kinh Ước Nguyện đó, mình muốn ước nguyện cái gì đó, thì mình nên sống cho đúng giới luật của Phật, rồi mình ước nguyện thì nó sẽ đạt được.
Thí dụ chẳng hạn một ngày nào đó, con đến một cái thất ở trong chùa nào đó, con xin Thọ Bát Quan Trai, con giữ tám giới: “Tôi ước nguyện sao cho các con tôi đều ăn chay, cho cuối cùng tôi không còn thấy những cái cái thịt cá của chúng sanh, mà tôi phải kho nấu. Tôi ước nguyện cho các con tôi đều được ăn chay, để cho tôi không có thấy cái khổ đau này nữa”. Thì con ước nguyện.
Một ngày nào đó, tụi nó nói: “Ba mẹ ăn chay, con cũng ăn chay luôn, ba mẹ không phải…”. Con nó thật sự, nó cảm hóa được. Mà con cứ ước nguyện, thầm ước nguyện, rồi chừng nào cái nhân quả nó chín muồi rồi, thì nó chuyển, thì các con nó tự nó phát tâm ra, nó vui vẻ. Chứ mình đừng ép, đừng ép nó con, ép nó làm nó khổ.
Bây giờ mình ép nó, bảo mấy con phải ăn chay, phải biết thương chúng sanh. Ép nó, trong khi nó còn thèm thịt chúng sanh là tại cái nghiệp của nó con. Mình không ép, nhưng mình ước nguyện, mình thực hiện những cái pháp lành của Phật đó, rồi mình ước nguyện, mình ao ước cho con của mình nó sẽ thực hiện được những cái pháp lành. Từ đó nó tự cái nghiệp lực của mình mà mình huân cái nghiệp lực đó, nó làm cho tụi nó chuyển hướng con, nó chuyển hướng.
(26:34) Cũng như bây giờ, thí dụ như vợ chồng, nó có những cái sự gì tranh chấp, thí dụ như mà chồng độc tài, thì người vợ quá khổ. Nghĩa là cái người chồng độc tài, nghĩa là người chồng muốn cái gì thì người vợ phải làm theo hết không có được, người vợ không có quyền gì hết, thì do đó cái người vợ đó khổ.
Cũng như người vợ mà độc tài, thì cái người chồng chỉ có người tùy thuận thôi, bằng lòng theo cái kiểu mà chịu đựng thôi đó, thì cái người chồng khổ, nhưng mà không nói ra. Nhưng mà cái người vợ thì nắm quyền hết, thì như vậy là coi như là lúc bấy giờ người vợ đó là cái người phải đảm đương rất nhiều, làm tất cả những công việc.
Thậm chí như lương hướng mà tiền bạc ở trong nhà đều là người vợ mà làm ra hết, người chồng chỉ làm phụ thôi chứ không có. Cho nên người vợ nắm quyền hết, thì người chồng rất khổ. Bởi vì cái người đó họ phải độc quyền hết, độc tài hết.
Còn cái người chồng cũng vậy, họ làm ra hết thì cái người vợ chỉ còn có nội trợ không, thì cái người vợ cũng khổ lắm. Nhưng mà người chồng hễ cho người vợ làm vô, thì nó hư công chuyện hết, không có cho làm. Cho nên mình độc tài, vì vậy mà không có thấy cái khổ của người vợ.
Do đó, sau này cái đạo đức của Thầy cũng dạy để mà thấy để chúng ta xả bớt những cái nỗi khổ này, để không vợ chồng chỉ có nước chịu đựng nhau thôi. Thầy nói thật sự vợ chồng chứ, nó ít khi mà vợ chồng nó bình đẳng nhau lắm. Mà có khi thì chồng chịu đựng, có khi vợ chịu đựng thì cái gia đình nó mới hạnh phúc. Hạnh phúc coi như là bề ngoài, chứ thật sự trong tâm, thì họ chưa phải là thật sự hạnh phúc đâu.
Cho nên, Thầy biết rõ những cái tâm niệm của mọi gia đình hết chứ. Thầy không có gia đình, chứ mà Thầy biết hết đó. Bởi vì hầu hết là các cư sĩ, mà Thầy về đây Thầy hướng dẫn, Thầy biết khi mà nói chuyện với nhau đó, thì họ đã nói ra, Thầy biết cái người vợ nắm quyền người chồng, Thầy biết là người vợ độc tài. Mà cái người chồng mà nói chuyện này là người vợ vậy là người vợ, người chồng độc tài, người vợ khổ.
Thầy hiểu được cái điều đó, cho nên Thầy nguyện Thầy sẽ viết cái bộ sách Đạo Đức đó, để Thầy giải nguy hết cái này ra. Thì cho nên vì vậy đó, thì Thầy giải cái này bằng cái phương pháp của đạo Phật, bằng cái sự ước nguyện. Chứ lúc bây giờ, cái người chồng mà độc tài, người vợ nói gì người chồng không nghe đâu. Mà cái người vợ mà độc tài, người chồng nói gì người vợ cũng không nghe đâu.
(28:19) Chỉ có còn mà chịu đựng thôi, chứ còn không có nói gì được hết, không ai nghe đâu. Cho nên chỉ có duy nhất đó, là chỉ có cái người mà chịu đựng đó đó, là phải sống đúng cái đời sống của giới luật của Phật, rồi ước nguyện một ngày nào đó, vợ của mình sẽ thay đổi những cái cái độc tài đó.
Phật tử 1: Làm sao thay đổi hả Thầy?
Trưởng lão: Tự nhiên nó sẽ thay đổi, lần lần nó cởi mở ra. Rồi bỗng một ngày nào đó, sau nó đọc cuốn sách nào đó, nó bắt đầu, nó cởi mở, nó thay đổi. Nó có cái duyên kỳ lạ lắm, nó chuyển được cái nhân quả. Bởi vì mình sống đúng cái giới luật của Phật, thanh tịnh đó, nó chuyển được cái hoàn cảnh nhân quả của mình, nó đưa đến cho cái sự bình đẳng, đem lại hạnh phúc. Nó hay như vậy.
Cho nên cái bài kinh Ước Nguyện con đọc là bộ kinh Trung bộ của Hòa thượng Minh Châu dịch đó, bài kinh Ước Nguyện có giá trị lắm. Nghĩa là một cái người nào đó đau bệnh, mà mình muốn ước muốn cho người đó, không phải hồi hướng tụng kinh này hay hoặc là tu này mà hồi hướng cho được đâu, mà mình ước muốn. Mình giữ gìn giới luật trọn vẹn, mình ước muốn cái người đó đó, sống được cái đời sống thiện pháp để chuyển được cái quả khổ đó, cái bệnh khổ đó.
Vậy mà rồi nó chuyển được, nó làm cho người ta. Rồi cái người đó đó, mình thỉnh thoảng mình đến, mình chi cho một cuốn sách Thập Thiện hay là cuốn sách Đạo Đức nào đó. rồi bắt đầu người đó họ đọc họ tỉnh con. Nhờ cái ước nguyện của mình mà họ tỉnh, bắt đầu họ nguyện họ ăn chay. Họ bệnh vậy chứ họ ăn chay, họ nguyện họ Thọ Bát Quan Trai nữa, họ hay vậy đó.
Rồi tự cái hành động đó, mà nó chuyển được cái bệnh khổ họ, chứ không phải là mình ước nguyện, mà mình đem cái tâm làm thiện của mình mà chuyển cái bệnh họ, mà chính bản thân của họ. Mà chính mình làm cho họ tỉnh thức hơn là chính mình đem lại cho họ cái lực để mà cứu độ họ.
Nó là những cái phương pháp của Phật, tự người ta cứu, nhưng mà mình có cái sự trợ giúp bằng cái tâm thanh tịnh của mình để giúp cho người ta tỉnh để mà người ta ở trong cái thiện pháp người ta chuyển. Cái hướng của đạo Phật nó rất rõ ràng, cụ thể giúp người ta tự lực.
Cũng như người ta yếu mà đi không được, mình giúp cho họ, để mà dẫn cho họ đi, họ tập đi. Tới chừng mà đi được, mình buông họ ra, thì cái lực họ đi được, tức là chuyển. Mình chỉ cần nương đỡ cho họ, để họ đi thôi. Chứ còn cái đi thì phải là cái người đó, chứ không phải chính mình đi, phải không?
Đâu mình cứ cõng họ hoài thì không được, mà bây giờ mình cặp nách cho họ vầy: “Anh hãy bước đi, hay là chị hãy bước đi, tôi chịu nách đây nè, anh chị bước đi”. Thì cái người đó họ dần dần, họ tập cái bước đi bước đi. tới chừng mà họ đi được, cái mình thả ra họ đi được. Thì cái ước nguyện đó là vậy đó con.
(30:55) Nên pháp Phật nó màu nhiệm ở cái chỗ, chứ còn mà nếu mình sai một chút, mình cầu nguyện chư Phật gia hộ cho người đó thì không được. Và mình nói mình tu để mà mình đem cái công đức của mình để cho họ thoát cái khổ đó, cũng không được nữa. Mà chính bản thân của họ phải đi. Nhưng mà mình chỉ là cái người giúp cho họ, để cho họ nương tựa vào cái sự giúp của mình mà họ đi là đúng. Đó là cách thức.
Cho nên ở đây, Thầy nói nó rất cụ thể và rõ ràng. Ở trong cái nhân quả, tự mình cứu mình, chứ không ai cứu được. Nhưng mà nhờ cái tha lực của người khác, để giúp cho mình. Chẳng hạn bây giờ, mình sống ở trong gia đình, hai con nè, ăn chay nè. Coi vậy chứ mà nó chuyển cái đàn con của mình dữ lắm đó con.
Nó bởi vì hằng ngày nó thấy, nó thấy tại sao ba mẹ ăn chay mà mạnh khỏe? Rồi hằng ngày bây giờ tu tập, ít có cau có, ít có giận hờn, ít có la rầy này kia. Hằng ngày, sao thấy ba mẹ mình càng hiền càng tốt. A, nó chợt tỉnh con. Nó chợt tỉnh, rồi từ đó nó hướng theo cái con đường của mình. Đó tự mình, mình đã giúp nó bằng cái tu tập, cái gương hạnh của mình thôi. Mà không ngờ làm cho nó có cái chỗ nương mà nó tiến.
Cho nên đạo Phật nó hay ở cái chỗ mà tu đúng, làm đúng. Các con đừng làm sai các con. Một người cha mà rầy con, mà người cha không gương mẫu rầy con, con không nghe. Còn người cha làm đâu đúng đó hẳn hòi, rầy con, nó sợ lắm, nó nghe. Còn cho nên vì mình tu đúng theo đạo Phật rồi, mình không nói chứ nó nghe, hạnh phúc nó sẽ tràn trề đến gia đình của các con. Đó.
(32:06) Thì do đó, cho nên vì vậy đó, mà khi bây giờ ở đây, khi mà về, thì các con cần phải triển khai cái trí tuệ của mình, sống trong cái pháp ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện. Chứ bây giờ Thầy chưa có viết bộ sách này thì Thầy đâu có cái, đâu có hướng dẫn các con cụ thể từng chút được. Chỉ ngồi để mà viết những cái hành động cụ thể, mới nhắc nhở các con thôi.
Còn bây giờ tự các con, các con triển khai được. Cái hoàn cảnh đó nó làm cho con phải tư duy suy nghĩ, để mà giải quyết cái nỗi khổ của mình với của gia đình mình chứ. Cho nên, ngay đó là mình giải quyết mà mình còn ngộ, tức là cái trí tuệ nó triển khai ở đó, con hiểu không?
Cho nên càng ngày các con tu Tứ Chánh Cần đó, ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện thì cái trí tuệ tri kiến giải thoát của các con phát triển, càng diệt càng đi lên. Hễ các con ngăn không được thì các con khổ rồi.
Mà các con ngăn được, các con diệt được, là các con thoát khổ rồi. Và từng chút thoát khổ như vậy các con thấy. Và từng chút cái trí tuệ các con, nó phát, nó sáng suốt, nó khởi lên, nó sáng suốt. Nó sáng suốt, nó phát ra cái hiểu biết của nó để nó ngăn, nó chặn hết.
Bởi vì đạo Phật là đạo trí tuệ mà, có trí tuệ mới giải thoát, có trí tuệ mới là đạo đức, không làm khổ mình, khổ người. Còn không trí tuệ là không đạo đức. Bởi vì trí tuệ ở đâu là đạo đức ở đó, mà đạo đức ở đâu là trí tuệ ở đó. Đó thì cho nên vì vậy, mà cái pháp Tứ Chánh Cần là cái pháp triển khai trí tuệ của chúng ta.
Đó cho nên các con chịu khó suy nghĩ, bây giờ ác pháp nó làm khổ mình nè, gia đình mình nó khổ nè, phải giải quyết như thế nào nè? Bắt đầu con đặt câu hỏi, rồi bắt đầu con tư duy, con tìm ra manh mối làm cho cái gia đình mình an ổn, tức là trí tuệ rồi. Mà nó làm cho an ổn, tức là đạo đức chứ gì, là thiện pháp chứ gì. Các con thấy chưa?
Đó cho nên, nó từ đó các con phải cố mà triển khai cái trí tuệ tri kiến giải thoát của mình, thì hạnh phúc sẽ đến các con à. Tức là các con ngăn ác diệt ác. Đó, các con sáng suốt trong cái vấn đề đó. Chứ không lẽ bây giờ mỗi mỗi các con Thầy theo Thầy nhắc mấy con hoài, đâu có được.
Chứ lẽ ra có Thầy bên thì các con cứ hỏi Thầy thì dễ rồi. Bây giờ hoàn cảnh con nó vậy, phải giải quyết làm sao? Thì Thầy, bởi cái trí tuệ của Thầy nó sẵn rồi, cho nên Thầy dạy các con nó dễ rồi. Còn bây giờ các con nó chưa có cái biết cái đó, cho nên đòi hỏi chỗ các con phải tư duy suy nghĩ, tìm ra cái cách giải quyết. Giải quyết tức là ngăn ác diệt ác chứ gì? Không cho ác pháp xâm chiếm vào.
(34:31) Đó là các con sẽ tự triển khai. Triển khai đến mức độ mà pháp ác đến con không thấy, nó bất động tâm của mình, không sợ nữa, nó không có dao động nữa. Thì lúc bây giờ là các con sẽ ở trong cái phần. Thì cái phần này nó đã giải thoát rồi, thì các con sẽ tu tới cái phần Tứ Niệm Xứ.
Tức là hằng tháng các con được vào chùa, các con Thọ Bát Quan Trai, các con tu một ngày làm Phật, đó là tu Tứ Niệm Xứ. Mặc dù bây giờ Tứ Chánh Cần các con chưa xong, nhưng mà các con có tập cái này. Vì tập cái này, cái tâm hồn của các con nó sẽ tỉnh táo hơn. Tỉnh táo hơn thì cái trí tuệ nó dễ phát hơn, thì ngăn ác diệt ác nó dễ hơn chứ gì? Phải không?
Còn bây giờ các con không tập cái này, thì cái sức tỉnh táo các con một ngày, một tháng các con không được một ngày tỉnh táo, thì làm gì mà các con thấy được những cái cái ác pháp này, mà các con ngăn chặn được. Cho nên các con ít ra cũng phải có một ngày tỉnh táo thanh thản, an lạc.
Trong cái ngày đó, mình sống Tứ Niệm Xứ để cho mình đẩy lui các chướng ngại pháp vi tế trong tâm của mình mà không bị ác pháp ở ngoài xâm chiếm, do đó cái tâm hồn mình nó thanh thản an lạc. Vì vậy mà sau khi tiếp xúc, thì các ác pháp nó hiện ra, thì cái trí tuệ mình nó phát ra. Nó phát ra, nó ngăn chặn, nó diệt cái ác pháp này. Nó làm cho cái tâm của mình và môi trường sống của mình, con cái trong gia đình hạnh phúc, nó không còn khổ nữa.
Đó là chúng ta tu tập như vậy, con thấy nó lợi ích lắm, nó thiết thực lắm, nó tu là cái cuộc sống mình đó, cuộc sống là tu. Thầy nói sống là tu, tu là sống mà. Đó là ngăn ác diệt ác đó, mà bằng cái trí tuệ của chính mình, của hai con. Mỗi người đều có một cái trí tuệ, mỗi cái trí tuệ đó nó tự phát triển ra nó. Nó nhiều mức độ, nó rất là thiết thực.
(36:07) Thì muốn được như vậy, thì các con hằng ngày nhắc tâm của mình. Khi mà mình tu như vậy, mình sống như vậy, đây là những cái điều kiện, sau này con mở băng lại, con nghe kỹ, đây là những cái pháp, mà để nó thường xuyên, nó nhắc tâm con, nó nhắc tâm con gặp trước ác pháp, nó nhắc tâm con. Thì trong khi đó, con dùng cái câu pháp hướng, thường xuyên con ngăn ác, diệt ác thì con dùng câu pháp hướng như thế này: “Tâm như cục đất không có tham, sân, si nữa. Tham, sân, si là khổ”.
Con nhắc nó như vậy. Rồi khi nào nó gặp ác pháp, thì nó ngăn chặn ngay liền. Nó giúp cho con nhẫn được cái ác pháp, nó làm cho tâm không khổ. Thì ngay đó, nó tự trong tâm con nó khởi ra: “Tâm như cục đất không có tham, sân, si. Tại sao mày còn tham, sân, si”. Nó nhắc mình, tại sao mình lại tham, sân, si? Nó nhắc con, tự nó nhắc con.
Cho nên cái pháp hướng, nó trở thành một người thứ hai của con. Khi có hữu sự nó nhảy ra nó nhắc con. Mà nếu mà hằng ngày bình thường vầy con không nhắc, thì tới chừng mà hữu sự nó không có nó, nó nhắc con thì con bị sân, bị phiền não.
Còn có nó nhắc con được cái thì con thấy nó, coi như là mười phần cái ác pháp đó, nó giảm xuống chín còn một phần à con. Rồi từng đó con quán xét, con đẩy lui luôn, con thấy an lạc trở lại liền. Đó con hiểu không. Cái pháp đó hay lắm con, cái pháp Như Lý Tác Ý, cái pháp mà Phật dạy chúng ta, nó trở thành một cái người thứ hai của mình.
Sau khi, toàn thân ngũ uẩn của mình chết, thì cái người thứ hai này nó còn, cái lực của nó, cái lực không tham, sân, si, cái lực này còn. Nó luôn luôn nó vĩnh viễn với chúng ta, bởi vì nó như cái lõi cây. Một cái cây non mới lên, thì không có lõi. Do cái sự huân tập của cái pháp này, mà nó thành cái lõi, nó thành có.
Cho nên nói, mình bây giờ mình chấp trong thân mình có, thì đó là chấp thường, mà chấp nó không có, là chấp đoạn. Đó cho nên vì vậy, nói không có được. Cho nên gì vậy mà lấy cái thân để mà luyện tập cái này, thì cái này nó mới có, nó mới có cái lõi này. Cho nên nó là cái nghiệp, cái nghiệp thiện.
Còn cái nghiệp tham, sân, si của mình đang có, là cái nghiệp ác. Cho nên cái nghiệp ác nó tái sanh, còn cái nghiệp thiện thì nó chấm dứt tái sanh. Nó có đây mà nó không tái sanh nữa. Cho nên cái tâm mình mà nhắc riết, thì cái này nó có, nó trở thành người thứ hai của mình. Người thứ hai từ ở chỗ không có mà nó trở thành có.
Cho nên đức Phật nói có cũng không được, mà nói không cũng không được. Bởi vì người tu thì người ta nói có, mà người không tu thì nói có sao được, nó đâu có phải có sẵn. Đó, con hiểu chỗ này không? Đó! Cho nên bây giờ con cứ hướng: “Tâm như cục đất không có tham, sân, si” Bởi mục đích con tu để giải thoát là không tham, sân, si chứ gì? Mà hết tham, sân, si là giải thoát chứ gì?
Thì con thấy cái mục đích của đạo rồi. Vậy thì con nhắc nó: “Tâm không có tham, sân, si, ly ác pháp đi”. Và do đó con phải nhắc nó như cục đất, riết rồi bắt đầu nó có một cái người thứ hai của các con. Cái người vĩnh viễn của các con, cái người sống mãi mãi với các con. Cái người không tham, sân, si cũng có luôn. Đó.
(38:27) Phật tử 1: Dạ, con kính bạch Hòa thượng, chỗ này con có cái thắc mắc, xin được Hòa thượng chỉ dạy. Là Hòa thượng truyền cho chúng con biết là cái nghiệp thiện là không tái sanh. Trong khi đó, một vài kinh sách thì lại nói là vô niệm mới là không tái sanh. Vậy thì xin Hòa thượng tùy duyên chỉ dạy cho con.
Trưởng lão: Thầy sẽ dạy cho các con thấy. Vô niệm nó không có tái sanh là vì nó ở trong cái không, phải không? Còn cái mà, cái nghiệp thiện này nó không tái sanh là tại vì nó không muốn tái sanh. Chứ còn nó muốn, là nó bao nhiêu nó tái sanh cũng được, phải không?
Phật tử 1: Bởi vì mới thật sự làm chủ.
Trưởng lão: Mới làm chủ nó. Còn cái kia, nó không, nó không có tái sinh được, mà nó không ngơ luôn. Thì như vậy là để làm gì đây? Phải không? Con thấy cái này, chỗ này là cái nghiệp, cái thiện này nó không tái sanh nữa, nhưng mà mình muốn tái sanh là tái sanh.
Cũng như bây giờ, Thầy không muốn tái sanh thì nó không tái sanh nữa. Bởi vì cái lực của này, cái lực mà nó không tham, sân, si này nó có của Thầy rồi. Cho nên Thầy không muốn thì nó không tái sanh nữa. Nhưng mà Thầy bây giờ Thầy Dục Như ý Túc, Thầy muốn tái sanh nè, để làm lợi ích cho chúng sanh nè, thì nó phải tái sinh thôi. Nó đâu có dám cãi, nó là thiện mà.
Thầy làm chuyện thiện, thành ra nó phải ra lệnh, nó theo đó nó phải làm. Cho nên Thầy làm chủ mà. Làm chủ được cái này, chứ không phải là không làm chủ. Làm chủ được cái mà đi tái sanh. Bây giờ nó không đi tái sanh nữa được, thì bây giờ Thầy cũng làm chủ được cái không tái sanh này nữa, mà tái sanh Thầy làm chủ được.
Cho nên đức Phật muốn tái sanh là tái sanh, mà không muốn tái sanh là không tái sanh chứ. Chứ còn nếu mà không niệm thiện, niệm ác thì nó là không mất rồi. Thì nó không rồi, đâu có muốn tái sanh, đâu có muốn gì được nữa đâu, nó không có. Cái này là sai rồi.
Con thấy đạo Phật nó hay lắm. Bởi vì ông Phật ổng nói, ổng muốn tái sanh bao nhiêu cũng được mà. Cho nên trong cái bài mà Thầy nói, nếu mà toàn thể con người trên hành tinh này mà tu hết rồi thì chúng ta là hóa sanh, phải không? Hóa sanh phải không? Bởi vì cái môi trường có, môi trường sống nó có rồi.
Có rồi thì tức là chúng ta có được cái sự sống ở trên này rồi, có những cái gạo thóc, trái cây, thực phẩm để mà sống, thì chúng ta hợp các gen lại bằng cái tâm lực của mình chứ gì? Thì nó thành ra một con người rất thiện chứ gì? Thì lúc bây giờ con người này cần tu đâu? Họ đâu có làm ác với ai đâu nữa đâu? Họ đâu còn tham lam đâu? Họ sống với trái cây, họ sống gì họ sống cũng được rồi, họ đâu có ham nhà lầu tivi gì nữa đâu.
Thì đó ta là người thiện mà. Tại vì chính Thầy là cái người thiện Thầy đang hợp con người thiện. Thầy làm ra con người thiện, thì con người phải tốt chứ. Hổng lẽ bây giờ một cái đấng tạo hóa là cái đấng tốt, mà lại sanh chúng ta ra toàn là thứ ác này không sao? Đâu phải. Nó là thuộc về nhân quả ác, nó mới sanh ra cái loài ác, con hiểu không?
Chứ còn nếu mà có một cái người thiện, một cái người toàn năng toàn thiện mà sanh chúng ta ra, thì chúng ta là những đứa con thiện, chứ đâu có những đứa con ác được. Thì bây giờ, Thầy hợp tất cả các cái duyên, tức là các cái gen sống ở trên này nó họp lại, nó mới thành ra một con người. Mà do cái tâm lực của Thầy thiện, Thầy mới hợp được nó. Mà tâm lực thiện thì con người này phải thiện chứ.
Cho nên vì vậy, mà Thầy không đi vào cái sự mà sanh bằng cái đường thai sanh đẻ ra con, mà Thầy lại thai sanh bằng cái hóa sanh, hợp gen lại thành con người, thì con người trên hành tinh này là con người quá tuyệt. Nó sống trường cửu chứ đừng nói, không có chết bậy bạ đâu. Không phải là hạnh phúc sao? Đâu có tử biệt sinh ly bao giờ đâu.
Bây giờ sống ở đâu, bây giờ muốn gặp nhau, ngồi đây, bây giờ bên Mỹ cũng gặp nói chuyện nhau được. Tại vì cái người đó, họ không có cái không gian trải dài. Tại vì con người đó họ không bị không gian, họ không bị thời gian chia cách họ nữa. Họ không có quá khứ nữa, họ đang ở trong cái hiện tại với nhau rồi. Đó thấy họ hạnh phúc không?
Còn mình bị thời gian nó chia cắt. Bây giờ nói với con, chứ lát nữa nó quá khứ rồi, đó nó bị chia cắt ra rồi. Còn cái người đó, họ không có chia cắt nữa. Họ khi mà họ nói họ muốn sống trở lại đó, thì nó cũng ngay đó, nó có y như vậy, nó không còn mất cái đó.
Thì cái người, Thầy nói cái người hoá sanh là tuyệt vời. Nhưng mà vì bây giờ, chúng ta chưa có như vậy, thì bây giờ chúng ta đưa cái người này ra thì toàn cả những người ác này, họ diệt mấy người này hết. Đau khổ thêm chứ làm cái gì?
Bây giờ, thí dụ như Thầy hóa sanh ra một triệu người đi. Một triệu người thiện này, họ đâu bao giờ họ đi nỡ làm ác tất cả mọi người khác. Thì những người khác bắt buộc những người thiện này trở thành những lao công, mà họ cướp mồ hôi của người ta. Phải không?
Các con thấy, nếu mà không cướp cái mồ hôi như vậy, thì những người thiện này, có chỉ cạp đất mà ăn, chứ có lấy cái gì ăn. Làm ruộng thì chúng cũng đong hết, đâu có để cho mình ăn. Thiện thì họ đâu có tranh đấu nhau. Thành ra Thầy sanh cái người này ra, chỉ là làm nô lệ cho người khác, thì chắc thầy không sanh đâu.
Cho nên vì vậy mà thầy nghĩ rằng, toàn thế giới mà tu hết rồi thì chúng ta sẽ có hoá sanh thôi, sẽ có con người tốt ở trên cái môi trường này. Bởi vì môi trường này là môi trường sống thì phải có những cái loài vật tốt. Chứ không thể nào mà nói rằng không có con người nữa, không đúng.
Cho nên khi mà thầy dạy mấy con, mấy con lưu ý tất cả những cái này, mấy con sẽ có giải thoát liền tức khắc. Mấy con sẽ tu đúng, và trí tuệ các con sẽ triển khai đúng thì các con sẽ có sự giải thoát. Và hằng ngày, các con tập tỉnh thức, bằng cách như thế nào?
(43:28) Đi kinh hành thì các con biết các con đi kinh hành, lau chùi, làm công việc nhà, các con tập trung biết. Nhưng khi biết, chỉ trong vòng không được dài, nghĩa là không được hơn mười phút hoặc là hơn năm phút. Nghĩa là kéo dài cái trạng biết, cái hành động đó đó trong năm phút hay là mười phút thì không được.
Dưới năm phút thì chúng ta có thể nhắc một lần. Bởi vì chúng ta biết rằng, tâm chúng ta nó còn những chướng ngại pháp. Khi mà gặp ác pháp thì nó còn chướng ngại, nó không có được an ổn đâu. Cho nên chúng ta nhắc: “Cái tâm như cục đất, ly tham sân si đi”.
Vì nó sẽ chuẩn bị cho nó, nó có một cái gì, nó sẽ chướng ngại nó, thì cái pháp hướng nó sẽ hiện ra. nó nhắc chúng ta, để mà chúng ta không còn đau khổ. Để cứu chúng ta thoát ra khỏi những cái ác pháp, mà nó đuổi cái ác pháp đi, nó ngăn chặn những cái ác pháp.
Cho nên các con về, các con cứ hằng ngày nhắc tâm như cục đất. Nhưng các con đừng nghĩ rằng mình sẽ trở thành đất, nó không ngơ như cục đất, không phải đâu. Đất này thuộc về cái tâm, cho nên luôn luôn nó có trí tuệ, chứ không phải là cục đất, nó cục đất mà vô tri. Nhưng mà chúng ta tượng trưng cho tâm của chúng ta như cục đất, nhưng cục đất chúng ta hữu tri, chứ không phải là vô tri.
Đó như vậy thì các con mới hiểu được cái chỗ mà đức Phật dạy chúng ta tâm như đất, tâm như nước. Đức Phật dạy mình quán tâm như nước, quán tâm như đất, đó là cái chỗ mà chính yếu của đức Phật dạy mình. Thì cái pháp Như Lý Tác Ý để mà nhắc tâm mình như đất, để đứng trước ác pháp mà tâm mình nó không bị dao động, nó không bị động. Cách thức để cứu mình ra khỏi những ác pháp.
Người ta có thể người ta nhẫn bằng nước mắt người ta chảy xuống, mà người ta không nói ra một cái lời, nhưng mà nước mắt người ta phải chảy. Cái lòng người ta căm tức, không có thể mà người ta chịu đựng nổi cơn tức tối trong người. Cho nên nước mắt người ta chảy, người ta nhẫn. Nhưng khi mà có một cái người nhắc mình: “Tâm như đất, không có đau khổ nữa”, thì ngay đó cái ác pháp trong tâm của mình nó xả xuống liền, nó làm cho mình sống an ổn liền.
Con nên nhớ rằng, mình mới tu tập thì mình thấy cái pháp nó nhảy ra nó nhắc, nhưng mà mình rất đau khổ. Rất đau khổ để mình dằn cái cơn giận của mình xuống. Thì đó là cái đầu tiên. Nhưng mà sau này nó thành một cái lực, nó vừa nhắc mình là cái tâm mình nó nghe thanh thản liền, như mình đặt một cái hòn núi xuống.
Trước có người ta nói oan ức mình, cái điều gì mình không làm mà người ta nói oan ức mình, nó khổ sở, nó cay đắng, đau đớn trong lòng của mình. Mình không làm cái điều đó mà họ nói mình cái điều đó, oan thì mình tức. Cho nên vì vậy mà khi đó nó nhắc: “Tâm như đất, không có buồn, tức”, thì ngay đó nó nghe, nó xả xuống được liền, nó nhẹ nhàng con người mình, cứu mình ngay liền.
Thầy nói, pháp của Phật dạy chúng ta, có pháp nào đều là có cái sự cứu đỡ, cứu hộ mình liền trong đó. Nếu mình không tu, chứ mình tu là mình sẽ giải thoát được. Phải ráng tu các con. Đó là những cái giai đoạn đầu của chúng ta, rồi chúng ta còn tiếp tục những giai đoạn sau.
(46:07) Đó thì bữa nay, thì Thầy sẽ dạy cho các con thực hành, chứ cái thời gian nó không có. Rồi bây giờ Thầy cứ lý thuyết không rồi các con không biết, tới chừng về có biết đâu mà tu. Rồi ngày mai Thầy dạy thêm, hiểu biết thêm một phần nữa, rồi tới cái gì gì Thầy sẽ dạy thêm. Rồi sẽ dạy thêm tới đâu, thì các con sẽ thực hành cái điều kiện tới đó.
Như bây giờ ở bên đó, thì các con biết năm hơi thở đi kinh hành một vòng, các con biết rồi chứ gì? Các con đã tập quen rồi, phải không? Thì bây giờ, các con khỏi cần tập cái đó nữa, mà bây giờ các con sẽ tập Thân Hành Niệm.
Bây giờ thì các con sẽ ngồi. Bây giờ con qua bên đây, con đi kinh hành từ trên đó trở xuống đây. Còn con ở bên đây, con đi từ ở trên đó xuống đây thôi. Nghĩa là chia làm, cái Tổ đường này chia làm hai, một bên con, một bên con, thấy không? Chia làm hai. Người nào đi theo cái vị trí của người nấy, đừng có đi lộn xộn qua lại heng. Cứ bên đây con đi tới đó, con quanh trở lại bên đây.
Đi tới đây, thì con ngồi lại rồi Thầy kiểm tra. Thầy kiểm từng cái cái hành động ngồi, rồi hành động đi của các con, để Thầy giúp cho các con ngồi đúng, đi đúng, phải không? Đây là thực tế mà, thực hành chứ đâu phải mà cái chuyện nói suông. Bây giờ Thầy nói suông, con về con tu, trật Thầy cũng không biết, các con cũng không biết. Thầy cũng không biết các con ngồi hay đi đúng. Bây giờ các con phải thực hành cho Thầy ngồi coi.
Rồi bắt đầu bây giờ, các con nghe Thầy nè, trước khi mà mình ngồi, phải không. Trước khi mình ngồi, thì bắt đầu bây giờ các con ngồi xuống. Rồi bắt đầu các con, nếu mà ngồi kiết già được thì cứ ngồi, mà ngồi kiết già không được thì ngồi bán già. Không có ép, nhưng mà ngồi xếp bằng đàng hoàng. Bán già với kiết già, ngồi cái nào cũng tốt hết.
Nhưng mà bán già, kiết già, để cho gì? Để cho cái sức gom tâm của mình nó dễ thôi. Thân nó gom, tâm nó cũng phải gom, nó dễ dàng cho mình tập trung trong cái Định Niệm Hơi Thở. Phải không? Thì bắt đầu bây giờ, trước khi mà các con ngồi yên ổn rồi, con mới nhắc tâm con.
Con mới nhắc nó: “Tâm phải biết hơi thở ra, biết hơi thở vô”. Con nhắc cái tâm con: “Tâm phải biết hơi thở ra và hơi thở vô. Biết tại nhân trung”. Biết tại nhân trung, tại chóp mũi mình, mình phải nhắc cho nó trước. Làm một cái gì đi nữa, mình cũng phải nhắc.
(48:03) Bây giờ thí dụ như một nhà huấn luyện những cái con thú vật, thì người ta cũng có những cái điều kiện, người ta nhắc con vật làm hành động này, hành động kia, để con vật nó sẽ bắt chước theo nó làm. Nếu mình không ra lệnh nó trước mà mình bảo nó làm, thì nó biết ở đâu nó làm.
Cái tâm mình nó cũng như là một cái con voi, một con thú vật, mà mình hiện giờ, mình là người huấn luyện viên của nó, mình huấn luyện, mình dạy nó đó. Cho nên mình phải nhắc nó: “Tâm phải biết hơi thở ra, hơi thở vô. Biết tại nhân trung”. Đó mình nhắc nó vậy, thì các con sẽ ngồi hít thở.
Bắt đầu bây giờ, các con ngồi hít thở, Thầy kiểm lại coi các con ngồi đúng hay sai, phải không. Rồi bắt đầu đó, khi mà Thầy kiểm điểm rồi, Thầy thấy các con thở đều, ngồi thẳng thớm, hơi thở điều hoà. Thầy thấy tốt rồi, Thầy bảo các con đứng dậy đi kinh hành.
Thì trước khi đứng dậy đi kinh hành, thì các con lại nhắc: “Đứng dậy đi kinh hành, cái tâm phải biết mình đi kinh hành”. Các con vậy đó, các con nhắc nó, để cho nó, trước khi nó làm cái gì, các con phải tập nhắc. Chứ nhiều khi mình thành, mình làm cái thói quen, chứ mình chưa có nhắc tâm mình, mà nó tự làm, con hiểu không?
Bây giờ mình tập làm chủ, cho nên mình sai nó, rồi nó làm theo, con hiểu chưa? Bây giờ tập làm chủ thân tâm mà, đã đạo Phật là đạo làm chủ mà. Giờ mình không tập làm chủ, rồi mai mốt, rồi nó làm sao nó biết đâu nó làm chủ, con hiểu không? Cho nên từng chút, mình phải tập làm chủ trước, mình cứ nhắc nó, rồi cái mình làm theo.
Sau đó đó, mình vừa nhắc cái nó làm theo y như vậy, mình khỏi cần phải gì hết. Cho nên, mình muốn cái gì, nó làm theo cái nấy. Sau đó nó mới, mình tu Tứ Như ý Túc nó, Dục Như ý Túc nè, Định Như Túc nè, Tinh Tấn Như ý Túc nè, Tuệ Như ý Túc nè, cái gì nó cũng như ý, như ý hết.
Đó, mà ngay bây giờ, mà con không vô đầu, mà con không tập cái này, thì sau này làm sao mà Như Ý Túc được? Đó con phải tập luyện đó. Cho nên vì vậy mình cứ huấn luyện cái tâm mình. Mà cái tâm nó thanh tịnh rồi, thì cái chuyện gì nó làm cũng được, mà cái tâm chưa thanh tịnh, thì làm cái chuyện gì cũng không được đâu.
Mà cái mục đích mình huấn luyện cái tâm cho nó thanh tịnh chứ gì? Mà nó thanh tịnh là mục đích nó ly dục ly ác pháp, tức là ly tham, sân, si chứ gì? Các con hiểu điều đó. Hễ nó tham sân si nó ly rồi, thì nó không tham sân si nữa, là nó thanh tịnh chứ gì? Mà mục đích của mình huấn luyện cho cái tâm.
(49:56) Sau khi vừa ngồi, rồi tu Định Niệm Hơi Thở, rồi kết hợp, tức là câu hữu với cái Chánh Niệm Tỉnh Giác mình đi kinh hành, tức là hai cái định của các con. Cái Định Niệm Hơi Thở, rồi kết hợp với cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, tức là đi kinh hành. Tức là Thân Hành Nội và Thân Hành Ngoại, mình kết hợp lại, mình tu hai cái loại định, một cái loại định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định và một cái loại định Định Niệm Hơi Thở.
Tức là một cái hành động của các con vừa tu đó, Thầy đã kết hợp được hai cái loại định, các con tu. Đó các con thấy chưa? Thì trong khi đó, trong các con chỉ cần tập khoảng độ ba mươi phút thôi. Như vậy, cứ ngồi xuống như vậy cho cái tâm nó an ổn trong cái Định Niệm Hơi Thở như vậy rồi, thì con chia ra, con chia ra ba mươi phút.
Nếu mà cái sức các con tu được một giờ thì con chia ra mỗi một cái định vậy là ba mươi phút. Thí dụ Định Niệm Hơi Thở con ngồi ba mươi phút, rồi tới đi kinh hành ba mươi phút, chứ không phải như năm hơi thở đi kinh hành một vòng. Năm hơi thở đi kinh hành một vòng là tập phá hôn trầm, phá buồn ngủ, còn cái này nó khác.
Thì cho nên, Thầy vừa kết hợp trong cái thời gian ngắn, để cho các con tập cho biết cách thôi, chứ khi mà các con ngồi tu, thì cái thời gian nó phải dài ra. Dài ra để mà con tu Định Niệm Hơi Thở, thì nó phải có cái thời gian dài ra ba mươi phút hoặc mười lăm phút.
Nếu ba mươi phút, các con chia ra mỗi một cái loại định vậy, đó là mười lăm phút, nó mới ba mươi phút. Còn nếu một giờ, thì mỗi thứ nó là ba mươi phút, phải không. Thì các con ngồi suốt cái thời gian của Định Niệm Hơi Thở vậy.
Thì đầu tiên, thì con chỉ có nhắc, hướng tâm nhắc nó thôi, chứ con không có nhắc gì khác hơn hết là: “Tôi thở, tôi biết tôi thở”. Để cho cái tâm nó chỉ biết hơi thở thôi, mà nó không có khởi cái niệm khác. Còn nó có những cái niệm khác, thì con không có quán xét cái niệm đó, mà nhắc lại cái tâm mình biết hơi thở. Mình biết hơi thở thôi, chứ đừng có quán xét.
Chừng nào mà Thầy dạy con câu hữu với Định Vô Lậu, thì các con mới kết hợp với cái Định Niệm Hơi Thở với Định Vô Lậu. Thì khi nó có phóng cái niệm, thì các con mới quán xét cái niệm đó, mà đẩy lui cái niệm đó ra.
Còn bây giờ, thì mình chỉ nhắc cho mình biết hơi thở mà thôi, tức là tập tỉnh thức các con. Tập cho nó được đúng ba mươi phút, đừng có niệm khởi ra. Rồi sau đó mà nó có niệm khởi, thì mình mới dùng cái Định Vô Lậu này.
(52:05) Một cái thời gian sau, mình tập cho thuần cái này, chứ không phải bây giờ, mà ngay đó, mình kêu là mình kết hợp xà ngầu lại đó, thì mình tu như vậy không có cái nào ra cái gì hết đâu. Coi như là món ăn thập cẩm rồi, nó không có ngon với cái gì được, phải không. Bây giờ phải thứ gì nó ra thứ nấy, phải không.
Bây giờ, Định Niệm Hơi Thở thì cứ nhắc: “Tôi thở, tôi biết tôi đang thở” cái đã. Chừng nào mà tôi biết tôi đang thở rõ ràng là trong ba mươi phút này. mà hoàn toàn tôi biết rõ ràng, ba mươi phút này là hoàn toàn nó chỉ biết có hơi thở không, thì lúc bấy giờ, tôi mới tu tập tới cái khác. Thì Thầy dạy tới cái khác cho, chứ cái gì mà cần phải học trước làm chi cho nó rối ren. Phải không?
Đó, phải học từng bước, từng bước vậy thôi. Tại vì Thầy nói có Thầy một bên, thì các con đừng có học nhiều. học ít mà tập cái nào cho nó chín chắn cái nấy ra. Đó, cái đó là cái quan trọng.
Thì bây giờ các con thấy, bây giờ Thầy kết hợp được hai cái thời tu tập là hai cái định, một cái định mà Định Niệm Hơi Thở và cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác, thấy không. Thì bây giờ các con cứ tu cái Định Niệm Hơi Thở ba mươi phút. Rồi cái định, nếu cái khả năng của mình được, thì ba mươi phút cái này, rồi ba mươi phút cái đi kinh hành. Và cứ như vậy tu tập cho thuần. Rồi ngày mai thì Thầy sẽ kiểm tra lại.
Thầy thấy các con tu tập tốt rồi, thì về ở bên đó thì các con phải tập cả tháng chứ không phải là không đâu. Chứ còn bây giờ mình tập cho nó quen biết thôi, rồi Thầy sẽ dạy cái khác, để mà tập cho quen biết thôi. Rồi sau đó, mới về mới tập cả tháng hay hoặc hai, ba tháng cho nó thuần thục cái này, rồi mới tới cái khác. Chứ không phải là cái nào cũng ôm đồm hết, không có được. Phải tập thời gian thì mới được.
Đó. Nhưng mà đây, bởi vì cái thời gian mình không có, dài lắm. Cho nên Thầy chỉ dạy cho mấy con, cho mấy con vừa tập, cho nó quen, cho nó đúng cách. Đó, như hồi nãy, những cái ngồi này kia Thầy dạy mấy con, nó phải vừa cái thân, mấy con ngước lên vầy thì nó trật, mà cúi cái quá vầy, thì cũng không đúng.
Mà cái lưng mà nó khòm vầy thì nó, mặc dù nó thẳng cái lưng, nhưng mà nó ngã tới vầy thì khổng đúng, mà nó phải thẳng, nó vừa. Nghĩa là coi như là nó phải thẳng góc với cái mặt đất. cái xương sống mình nó thẳng với mặt đất. Nó không thẳng góc lắm, thì ít ra nó cũng hơi xiên xiên một chút.
Thì do đó, thì coi như là Thầy giúp đỡ cho cái thân của các con, và chính các con, mình nhìn đúng cái tầm vóc của nó, thì cái đầu nó không cúi, mà cái lưng nó lại bắt buộc, nó phải thẳng lưng. Thành ra vì vậy mà Thầy chỉ mấy con. Rồi ngày mai còn ngồi Thầy sửa nữa chứ, sửa riết cho nó quen, chứ nó đâu phải dễ.
Phật tử 1: …(Không nghe rõ), nó nó bị hư từ hồi xưa.
(54:35) Trưởng lão: Bị từ lâu đến giờ, không ai sửa mấy con, mấy con ngồi nó bị quen rồi. Bây giờ, ngồi lại cái nó nghe nó gượng gạo, làm như nó khó chịu đó. Bây giờ, Thầy sửa lại lần lượt rồi nó quen rồi thì mới tốt được, nó sẽ đúng.
Mình ngồi thấy cái tướng nó, nó quang minh rồi. Còn mình ngồi kia, cái tướng nó không quang minh. Nó ngước cái lưng vầy thì nó không tốt rồi, mà nó cúi quá nhiều, nó không tốt các con. Mà nó nghiêng, chồm tới vầy quá không tốt. Mà nó ngửa ra quá như vầy, không tốt đâu. Tất cả những cái điều nó phải giữ được cái mực thăng bằng của nó, đối với cái cái ngồi của nó.
Rồi cách đi, thì cái tướng của các con đi, thì các con người đi nhanh đi chậm tùy theo cái sự tập trung của mình, chứ không phải bắt buộc người nào phải đi chậm hết, không có đâu. Đó, thành ra Thầy coi các con đó, thì Thầy thấy cái tướng đi, thì như vậy là vừa, chứ không nhanh quá, mà cũng không chậm quá lắm đâu.
Nhưng mà mặc dù là, thí dụ vợ con đi nhanh hơn con chút, n mà cái tướng đi đó của con chậm hơn chút, nhưng mà tại vì cái đặc tướng của con vậy. Còn vợ con đi nhanh hơn chút, là tại vì cái đặc tướng của vợ con. Đó là tại cái đặc tướng nó đi vậy, nhưng mà nó không phải nhanh quá, con hiểu không?
Hễ nhanh quá là Thầy giảm lại đó, mà hễ mà chậm quá, thì Thầy tăng con lên. Thì cho nên vì vậy Thầy thấy cái này vừa, thì cái sức mà tập trung được cái bước đi của mình, mình tỉnh táo được ở trên bước đi, cho nên Thầy không có sửa. Chứ còn nếu mà nhanh quá, Thầy giảm lại, chậm quá Thầy tăng lên. Để cho nó trở thành cái mức tự nhiên của nó, bình thường của cái đặc tướng.
Cho nên coi vậy chứ có Thầy hướng dẫn, các con đừng có sợ. Dạy theo cái đặc tướng của mấy con. Bây giờ, thì coi như là bây giờ, các con sẽ về, rồi các con sẽ tập, heng. Tập cho xong, buổi chiều nay còn được phút nào các con tập. Bây giờ, ở trước thì nó chật chội lắm, phải không. Các con sẽ ra cái Tổ đường này, ở đây nó yên tịnh nữa, mà nó cũng cao ráo nữa. Thì con sẽ chia ra, mỗi người một bên, thấy không?
Thì thí dụ như con ở bên hành lang ở đó, con ngồi con tập tu, vợ con sẽ bên đây, hai người sẽ tập tu. Rồi người nào muốn nghỉ bên nào, thì hai bên đó, thì chia ra. Rồi mình sống coi như là độc cư đó, mình đừng có qua lại rồi nó lộn xộn, để nó động. Mình ở bên đây cứ ở bên đây, vợ con bên đây cứ bên đây tập.
Tập rồi ngày mai rồi, ngày mai rồi sáng mai. Tối nay thì các con, nếu mà các con thấy ở trước nó chật, rồi các con sẽ, tối các con sẽ đến đây, các con bật đèn lên. Bật đèn đi thì nó sáng lên. Bật đèn, mấy cây đèn này nó sáng lên, cái mấy con sẽ tu tập. Các con sẽ tu tập hết giờ, các con về thất, các con ngủ, phải không. Các con nghỉ.
Khuya các con thấy trong thất mình chật, các con ra đây là tốt lắm đó con. Tại sao? Tại vì ra đây nó có cái môi trường rộng, nó làm cho mình không có bị buồn ngủ, không bị lười biếng con. Còn mình ở luấn quấn bên cái giường của mình đó, coi vậy chứ nó dễ cám dỗ, nó lôi mình đi xuống giường nghỉ. Cho nên mình chịu khó, ít nhiều gì nữa mình sẽ chiến thắng, mình ra ngoài Tổ đường mình tu mới được. Đó, thì do đó con sẽ ra ngoài này.
(56:58) Hôm đó, Tâm Hạnh tức là Kim Tiên, nó về đây, mà Thầy bảo nó phải ra đây một mình đó con. Mà nó một mình nó ở cái thất đằng trước, mà nó ra đây một mình đó. Mà nó, nửa đêm thanh vắng khuya khoắt, nó sợ lắm con, mà nó cũng dám, chứ không phải.
Nó nói mới đầu nó cũng sợ lắm, nhưng mà cuối cùng rồi nó thấy, Thầy mới dạy cách thức nó, ai ăn thịt con đâu mà con sợ? Nó nói nghe, nó không phải sợ ai ăn thịt, mà tại vì nó vắng lặng quá, nó sợ. Mà nhất là mình nó phụ nữ đó con, nó sợ như vậy đúng rồi. Chứ phải chi mà có hai người thì nó không sợ con. Cái này một người nên sợ.
Phật tử 1: Chị là người can đảm lắm đó thưa Thầy.
Trưởng lão: Bởi vì con thấy, ai cũng đều nhà cửa người ta cũng tối đen hết, người ta cũng ngủ hết, người ta không bật đèn. Còn mình, mình bật lên mà có một mình mình thức, nó nói sợ lắm.
Vừa rồi, thì Mỹ Châu nó cũng về đây, nó ở Châu Đốc, nó cũng về đây nó tu. Thầy cũng bảo nó ra đây để tập. Nói trời ơi, mọi lần thì con ở phố xá nó gần nhau, con không có sợ, mà sao giờ về đây nghe nó vắng quá trời, con sợ. Mà con biết là con không phải sợ ma, con không có sợ ma, mà thật sự sợ nó vắng. Sợ nó lạnh lẽo, nó vắng vẻ quá, mà có một mình mình thức, sợ.
Vì vậy cho nên, hai con khi mà thức dậy đó, thì kêu với nhau, người này kêu tức là sách tấn nhau con. Rồi các con lên đây chia ra, rồi bật đèn ra mình tu, thì nó nương nhau, nó cũng ít sợ. Vì vậy mà Thầy phải dạy tụi nó cách thức quán đừng có sợ.
Cho nên Thầy mới nhắc lại cái ngày xưa, khi đức Phật vào rừng núi mà tu một mình đó. Thì trước cái cảnh rừng núi âm u trong ban đêm, nó sợ lắm con. Tiếng con ác thú nó réo, nó gầm nó làm cho mình sợ hãi. Trước cái sự sống chết của mình mà, tự cái phản ứng của cơ thể mình. Thành ra, đức Phật cũng sợ nữa. nhưng mà đức Phật nói: “Đã là tu rồi, nhất định không sợ, chết bỏ”.
Nhiều lần hướng tâm như vậy, bắt đầu nó tỉnh, nó không có sợ. Nếu mình sợ là mình phải hướng tâm cho đừng sợ. Chứ cái pháp hướng tâm hay lắm con, nó sợ là mình hướng riết, nó không sợ.
Cho nên dường như là Kim Tiên hay đứa nào đó không biết, nó nói nó sợ con thằn lằn. Nó không cắn, mà nó thấy con thằn lằn, nó sợ quá.
Thầy nói con đừng có sợ, con cứ thử ngay nó. con thằn lằn ban đêm, nó có bóng đèn, nó vô nó ăn những con thiêu thân đó, thấy không. Con cứ từ từ con để cái tay, con rờ nó đi, con tập dần dần đi. Con dặn con đừng có sợ, con thằn lằn nó hiền, con đừng có sợ. Rồi con cứ để tay nhẹ nhẹ từ từ gần gần cái đuôi nó đi. Rồi con thấy, nó lần lượt con với nó là bạn. Nó tập riết, rồi nó không sợ.
(59:18) Mà không biết Kim Tiên hay đứa nào đây không biết, cũng là phụ nữ con, mà nó hay sợ luôn. Mà Thầy dạy, nó tập riết mà nó không sợ luôn. Bởi vì, mình tập riết cái tâm của mình, tự nó dạn lên, không có sợ nữa. Nó đủ cái sức lực của nó, nó không có sợ cái gì nữa. Chứ bản chất của mình sanh ra, nó coi như là, nhiều khi mình thấy cái gì nó không có hợp mình, cái mình lo, mình sợ. Các con sẽ tập riết, các con sẽ không sợ nữa.
Cho nên các con biết là khi Thầy, một mình Thầy trèo lên ở Hòn Sơn mà một mình Thầy ở trên Ma Thiên Lãnh, ở trên cái hang đó. Một mình Thầy dám, Thầy ở trên đó, Thầy cứ ăn rau Thầy sống, thì các con biết. Mới đầu nó cũng sợ lắm chứ, mình mới lên nó cũng sợ. Mà mình: “Đã liều thân tu mà còn sợ, chết còn không sợ, mà ở đây mà sợ ma nữa”?
Cho nên Thầy ở trên đó, ngày đầu Thầy còn sợ, ngày sau không sợ. Ở riết rồi nó quen, rồi thấy nó một mình, rừng núi mình ở một mình, mình thấy nó an lạc. Cho nên, các con sống trong cảnh động, các con về cảnh tĩnh, một mình mà ngủ đêm, mình tu tập, mình thấy mình sợ. Sợ vắng vẻ, chứ không phải sợ ma mà sợ vắng vẻ.
Các con ráng tu tập. Rồi bây giờ tập chớ, rồi ngày mai, rồi đúng hai giờ, Thầy cũng sẽ ra Thầy dạy các con. Bởi vì, bảy giờ ngày mai, sáng Thầy dạy cái chú kia, rồi hai giờ chiều mai, Thầy kiểm tra lại những cái thời gian mấy con tu tập, rồi buổi chiều ngày mai Thầy dạy.
Phật tử 1: Dạ, thưa sáng mai mấy giờ Thầy dạy?
Trưởng lão: Sáng mai bảy giờ Thầy mới dạy cái ông chú kia, cái cư sĩ bên kia về. Và buổi chiều thì Thầy sẽ dạy các con, sẽ dạy các con lúc hai giờ. Thầy sẽ xuống dạy các con ở đây.
Phật tử 1: Dạ, vậy còn buổi sáng sớm thì chúng con thức lúc mấy giờ, thưa Thầy?
Trưởng lão: Sáng sớm ra thì bây giờ theo Thầy thiết nghĩ, thì các con nên lấy khoảng ba giờ, các con dậy con tu. Rồi các con đến đây con tu. Ba giờ, bốn giờ tới năm giờ. sáu giờ nó sáng rồi, là mình xả mình nghỉ.
(1:01:09) Phật tử 1: Con kính thưa bạch Thầy, cho con hỏi một câu để cho nó rõ, là khi mà con ngồi tu Định Niệm Hơi Thở, thì như hồi nãy Thầy nói, là tự mình kêu, tự mình tác ý nó, thì tôi biết như là: “Tôi thở, tôi biết tôi đang thở, và biết là hơi thở ra vô tại nhân trung”.
Trưởng lão: Nhân trung.
Phật tử 1: Dạ, khi mà như vậy thì, khi mình vọng tưởng, lúc đó, mình theo dõi hơi thở mình đều đều là được?
Thầy: Đều đều.
Phật tử 1: Chứ mà vọng tưởng nó lên thì mình mới tác ý một lần, hay là cứ năm phút hay là cứ mấy phút mình tác ý một lần?
Trưởng lão: Nó, mình khoảng mình đếm, mình đếm khoảng độ chừng ít thì 5 hơi thở.
Phật tử 1: 5 hơi thở mình tác ý?
Trưởng lão: Mình đếm một, hai, ba, mình tác ý lên, tác ý một lần. Mà nó có vọng tưởng, thì mình không có theo vọng tưởng, mình tác ý, ngay nó cái vọng tưởng mà nó khởi thì mình tác ý: “Tôi thở, tôi biết tôi đang thở”. Thì mình cứ tác ý cho mình biết hơi thở thôi. Thì nó có vọng tưởng, nó cũng dẹp qua một bên, nó biết hơi thở thôi.
Và lúc bấy giờ là cái giai đoạn này, con chỉ tu để cho nó tỉnh giác ở trong hơi thở thôi. Cho nên mọi cái niệm gì khởi ra, và đồng thời, thì cứ khoảng độ chừng năm hơi thở hay mười hơi thở, thì con tác ý một lần, có vậy thôi.
Để cho mình tập như vậy cho mình quen. Sau khi tập vậy đó, là sau này con về bên đó con tập, ít ra thì nó cũng phải ba mươi phút, nó không có một niệm vọng tưởng nào xen vô, trong cái sức tỉnh thức của con ở đó. Rồi sau đó, mới dạy các con, cũng ở trong định niệm hơi thở đó, mà khoảng năm hơi thở, con sẽ tác ý một cái tướng khác, chứ không phải là nhắc tác ý biết hơi thở ra vô nữa. Nó lại thay đổi rồi, nó thay đổi tướng khác chỗ đó, cái pháp hướng khác.
(1:02:33) Phật tử 2: Thưa Thầy cho con hỏi.
Trưởng lão: Con hỏi đi.
Phật tử 2: Thưa Thầy nếu, thường ở bên Mỹ, con thở như vậy đó thưa Thầy. Nhiều khi còn thở, thì con đếm được khoảng ba, bốn hơi thở, tự nhiên đó con nghe cái tiếng đọc đó, nó im hẳn xuống, như vậy có phải con là bị tưởng không Thầy?
Trưởng lão: Tưởng rồi con.
Phật tử 2: Dạ, thật tình nếu như vậy làm sao con phá được, thưa Thầy?
Trưởng lão: Con bảo cái cái tưởng nó hãy đi đi, không có được nhắc mình nữa.
Phật tử 2: Dạ con thấy tự nhiên nó ồn, mà tự nhiên con tu thấy nó, nó không có nghe ồn nữa, bớt, thấy nhẹ đi, vậy là không biết là bị tưởng.
Trưởng lão: Bị tưởng, Đó cái trạng thái tưởng nó, cái tưởng ấm của mình nó xuất hiện ra, tức cái thinh tưởng đó, cái tiếng đó.
Phật tử 2: Dạ, vậy con sẽ nói là: “Cái niệm tưởng hãy đi đi”.
Trưởng lão: “Đi đi, ở đây ý thức, chứ không phải là tưởng thức nữa”, thì nó sẽ đi.
Phật tử 2: Con biết có một cái sai nữa, mà không biết làm sao.
Trưởng lão: Để phá nó, phá cho được.
Phật tử 1: Dạ kính bạch Thầy, theo trong kinh nói như vầy đó, thì những người mà tu thiền đó, mà được như vậy, thì họ mừng lắm. Nhưng mà chúng con từ ngày là biết được Thầy rồi, thì chúng con biết rằng cái đó, nó không phải là một cái điều mà đáng mừng đâu, dạ.
Trưởng lão: Đáng lo đó.
Phật tử 2: Dạ, con biết, không biết làm sao con bỏ được.
Trưởng lão: Bây giờ bỏ, dẹp cho được để cho mình dùng cái ý thức, cho mình ly dục ly ác pháp, con. Bởi vì, các con tập tới đây rồi, các con hoàn toàn là, các con ly dục ly ác pháp không, để đi vào cái Sơ Thiền đó.
Cái mục đích của mình tập đây, để mình chuẩn bị cho mình ly dục ly ác pháp. Tỉnh thức để mà ly dục ly ác pháp, chứ không phải là tìm những cái trạng thái mà nó lạ lùng đó đâu. Cho nên mình dẹp sạch cái đó đi, dẹp sạch.
Phật tử 2: Dạ, con cũng không muốn vậy.
Phật tử 1: Dạ, tụi con đâu bao giờ mong được những cái đó đâu.
Phật tử 2: Dạ, từ xưa con nghe Thầy rồi ạ, Thầy có khuyên cho tụi con biết, thì lúc nào mình cũng phải biết như nhau, mà đợt này sao con thấy tự nhiên nó lại khác hẳn những đợt trước.
Trưởng lão: Vừa rồi thì có hai người ở ngoài Phú Yên đi vào đây tu. Thì cái sư cô đó, cổ trình cho Thầy, thì dường như là cổ thấy, nó nhắc mình điên khùng, nó không phải là cái pháp hướng theo mình nhắc, mà nó nhắc mình. Nó thí dụ như, mà trong cái giờ mình ngủ vầy, mình đang nằm ngủ vầy, nó nhắc bảo thức dậy tu đi. Mà cái giờ này là giờ ngủ, mà nó bảo mình thức dậy tu đi, tự nó nó nhắc mình như vậy.
Rồi cô nói như thế này, mình đang ngồi tu hơi thở vầy, rồi bắt đầu nó nhắc quán đi, quán bất tịnh đi. Đó, nó nhắc mình tầm bậy tầm bạ, nó làm cho mình động. Rồi cô mới hỏi Thầy, như vầy là nó có đúng không? Thầy nói đây là cái thinh tưởng, nó xuất hiện ra trong cái tưởng thinh đó. Nó cũng dùng cái pháp hướng, nó bắt chước con đã tập cái pháp hướng đó.
Tại vì trước kia con đã dùng những cái định tưởng rồi. Bây giờ con sử dụng cái pháp hướng, thì cái tưởng con nó sẽ bắt chước cái pháp hướng đó, mà nó nhắc con, mà nó nhắc tầm bậy. Nó dẫn con, bây giờ giờ ngủ, mà nó bảo con tu, thì như vậy con nghĩ rằng không tốt đâu. Cái giờ nào con phải làm chủ giờ nấy chứ. Tại sao giờ này là mười hai giờ, con đi ngủ, mà nó bảo con dậy tu, như vậy là nó là ma rồi, con phải xả bỏ nó.
Đừng có chấp nhận, đừng có nghe theo lời nó, thì lúc bây giờ, mà nó hiện ra, nó nhắc vậy đó, con nói: “Mày là cái ma tưởng, mày đi đi, chứ không ở đây. Tao ngủ là tao ngủ, tới hai giờ tao thức dậy là hai giờ, chứ không được, giờ này không được thức dậy tu”. Thì con gạt riết nó không có còn phá con nữa.
(1:05:41) Tại vì trước kia con tu bằng cái định tưởng đó, cho nên nó có cái trạng thái đó. Bây giờ nó học theo cái pháp mà con tu, cái pháp Như Lý Tác Ý Thầy dạy đó, nó bắt chước, nó sai con tầm bậy tầm bạ. Mà con nghe theo lệnh của nó rồi, bắt đầu nó sai con tầm bậy tầm bạ, con sẽ điên đó. Nó sai con làm điên đó, đó chứ không phải không đâu.
Nó nguy hiểm lắm, nó cũng bắt chước được cái tưởng của mình đó con, nó sai đó, chứ không phải không. Bởi vì, khi mà con bị lạc vào trong cái tưởng rồi, thì cái tưởng nó dễ bắt chước những cái pháp của mình đang tu. Nó không có thuộc về ý thức nữa, mà nó thuộc về tưởng thức. Nó ngoài cái ý muốn của mình rồi, thành ra mình cần phải xả, cần phải diệt.
Phật tử 2: Dạ, ở bên Mỹ con thấy vậy, cái con bỏ, con xả, con không ngồi thiền nữa. Con bỏ, con đứng lên con đi, mà con không biết cách mà nói mà…
Trưởng lão: Nếu mà con còn tiếp tục ngồi thì con cứ nhắc, nó hiện ra nhắc, hiện ra nhắc, nhắc hoài. Lấy cái đó mà nhắc, chừng nào nó xả hết thì thôi. Nghĩa là mình dùng cái pháp hướng, trái ngược lại với cái tướng của nó đó. Thí dụ như bây giờ cái tướng của nó hiện ra vậy, thì con nhắc, biểu xả nó ra, không có được nữa. Thì con ngồi một chút nó hiện ra nữa, rồi nhắc nữa, nhắc hoài, chừng nào mà không thì thôi, thì con ngồi.
Còn nếu mà con thấy con yếu hơn, thì con đứng dậy con đi kinh hành, thì nó mất liền. Con đừng có ngồi ddos, xả nó, con đứng dậy đi kinh hành. Còn con gan lì ngồi với nó, mà cứ dùng pháp hướng đánh nó. Cứ nó hiện ra thì dùng pháp hướng đập nó, đập riết, cái pháp hướng đập đầu nó riết, cái nó đi.
Mà đức Phật bảo mình đó, dùng một cái tướng khác của một cái tướng đó, thì sẽ diệt tướng đó. Bây giờ mình đang sân đi, mình dùng cái tướng khác, thì cái tướng không sân, thì nó sẽ diệt cái tướng sân của mình. Thì mình cứ, mình dùng riết, mình tác ý riết, cái nó hết.
Bây giờ mình đang tức giận mình sân thì: “Cái tâm không có được sân nữa nha” thì mình ra lệnh vậy. Mà thấy nó cũng còn sân, mình nhắc: “Tâm không có được sân nữa nha”. Mà bây giờ mình ngồi, mình yên lặng, mình nghe nghiệm lại coi cái tâm mình còn sân nữa không?
Mình thấy nó còn sân nữa, mình nhắc nữa, rồi mình nhắc, rồi mình ngồi nghiệm lại coi nó còn sân nữa. Nếu còn sân nhắc nữa, nhắc chừng nào mình ngồi mình nghiệm, mình thấy không sân nữa thì thôi, nó hết rồi.
(1:07:26) Cách thức mình tác ý một cái tướng khác, con đọc cái bài An Trú Tầm đó. Trong Kinh Trung Bộ, Phật dạy mình an trú tầm. Khi một tầm ác nó hiện ra, thì mình tác ý một cái tầm thiện, thì nó sẽ phá đi cái tầm ác, nó làm cho mình an trú được ở trong tầm thiện, thì tâm không có sân đó. Ông Phật, ổng dạy cách thức mình tu cụ thể lắm con à. Mà thấy hay thiệt, mình nhắc riết, nhắc riết nó hết.
Bởi vì đức Phật nói lúc bấy giờ đó, nếu mình nhắc một lần nó chưa có mòn nó đâu. Nó dữ lắm, nó mạnh lắm, cho nên mình nhắc hai, ba lần, năm lần, mười lần. Mà cứ hễ mình nhắc rồi, mình nghiệm coi thử nó có hết không. Chứ mà nhắc rồi, nếu mình cứ nhắc lia lịa, thì mình niệm nó thì trật. Mình nhắc rồi, mình coi lại thử, nó còn hết hay không? Nó còn thì nhắc nữa, mà nó hết thì thôi, có vậy thôi.
Cho nên Thầy thí dụ, chẳng hạn bây giờ Thầy dạy các con tập quen đó: “Tôi thở, tôi biết tôi đang thở” đó, rồi khoảng năm hơi thở con mới nhắc một lần, chứ con cứ nhắc hoài thì con niệm nó, thành nó không có hiệu quả.
Cách thức đó để mình nghiệm nó, để nghiệm lại. Mình muốn đuổi một cái gì đó, mình nhắc nó, coi thử coi nó có thực hiện không? Nó không thực hiện, nhắc nó nữa. Cũng như bây giờ, mình huấn luyện một con vật gì đó, mà mình ra lệnh nó, nó không nghe, thì mình mới ra lệnh nữa. Mà mình coi thử coi, nó nghe không? Nó nghe rồi mà mình cứ ra lệnh hoài thì đâu được, phải không?
Cái tâm của mình như là mình huấn luyện. Cho nên vì vậy mà có một cái vị Thánh Ni khi theo đức Phật đó, thì đức Phật dạy thì cô không có hiểu. Một hôm, cô mới trèo trên núi, cô mới nhìn xuống, thấy một cái người huấn luyện voi đó. Họ cho con voi uống nước, rồi họ mới huấn luyện con voi cách thức đưa chân như thế nào. Thì cô nói: “như vậy rõ ràng Phật dạy mình huấn luyện cái tâm như vậy mà. Tại sao mình cứ niệm hoài như vậy, là trật”.
Cho nên cô về, cô thực hiện lại cái pháp hướng. cô huấn luyện cái tâm, cũng như cái người nài voi mà nó huấn luyện con voi, thì cô thành tựu, cô chứng quả A La Hán. Những cái kinh nghiệm ở trong “Trưởng Lão Ni Kệ” đó, thì Thầy thấy quá hay.
Thì mình phải tập theo cái chỗ huấn luyện cái tâm của mình, như huấn luyện một con voi, đó như vậy là nó sẽ thuần. Thì nó có một cái gì mà khác lạ, có cái gì tưởng, thì con cũng dùng cái pháp hướng mà con đánh nó, đánh riết. Cái pháp hướng của mình nó sẽ bạt nó, thì nó mất luôn.
Thì cái này là mình ngồi, còn kia là mình thấy mình không có đủ, thì thôi mình đứng dậy, thì nó xả liền. Chứ mình ngồi thì nó cứ hiện ra hoài. Cho nên còn nó không có thì mình dễ tu. Mình dễ tu là mình chỉ có ý thức của mình tu thôi, không có tưởng thức. Thầy nói mấy con mà gần Thầy, Thầy hướng dẫn mấy con tập tu đúng rồi mấy con sẽ dễ đắc lắm.
Phật tử 1: Dạ, sướng quá, Thầy.
Trưởng lão: Không có cái gì hết.
(1:09:37) Phật tử 1: Dạ, vậy dễ dàng hơn là khi mà chúng con không có Thầy. Nhiều khi cứ nghĩ cái này, mình tưởng là mình đúng, mà sự thật hoàn toàn nó không có thật sự là đúng, như là cái lời Thầy chỉ dạy.
Trưởng lão: Đúng vậy đó con. Thật sự con đọc sách Thầy, chứ nó nhiều quá, không biết cái nào khởi sự, cái nào tu hồi sau. Nhưng mà về đây Thầy dạy các con, nãy Thầy dạy ngăn ác diệt ác, Tứ Chánh Cần rồi đó. Các con biết đương đầu tất cả các ác pháp rồi đó, bắt đầu triển khai trí tuệ của mình ra. Dù cách nào, các con cũng phải ngăn nó để mà đem lại cái sự giải thoát cho chính thân tâm của mình chứ gì.
Thì tức là các con, sẽ có những cái phương pháp, cách thức để mà tự con phát triển được cái trí tuệ giải thoát cho mình. Rồi bắt đầu các con tập những cái này, thì các con sẽ thấy nó cụ thể, nó rõ ràng. Thầy dạy từng chút, từng chút, lát con kết hợp thành cái pháp mà các con sẽ tu tập nó thuần thục rồi, các con sẽ thấy tâm không phóng dật. Mà đức Phật đã nói rằng: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật”.
Thầy dẫn cho các con đi vào cái chỗ tâm không phóng dật. Rồi từ tâm không phóng dật, các con sẽ dùng Định Như Ý Túc, các con sẽ, Định nào nó sẽ nhập Định nấy. Bởi vì tâm các con nó không phóng dật rồi, nó thanh tịnh, nó sẽ định. Chừng đó, các con sẽ thấy mình làm chủ được sanh, già, bệnh, chết và thực hiện Tam Minh luôn.
Thì Thầy nói Tam Minh nó đâu phải khó, mà Định nó đâu phải khó. Mà cái tâm ly dục ly ác pháp này là cái giai đoạn đầu này, mới khó nè. Khó với chúng ta. Đời sống nó phải thay đổi toàn bộ hết, nó thanh tịnh nó mới ly dục, ly ác pháp. Chứ mình sống lơ mơ, thì đâu có làm sao mà gọi là ly dục được, khó.
Cho nên vì vậy mà cái giai đoạn đầu này, Thầy dạy các con từng bước. Nhưng mà tới sau rồi, Thầy dạy các con dùng pháp hướng, cái con vô Định liền, nó dễ lắm, Thầy nói nó không có mệt nhọc đâu. Coi thì nghe nó vĩ đại, chứ hơi thở nó ngưng nè, âm thanh nó không còn nghe, nhập Định mà âm thanh không còn nghe, nghe nó vĩ đại. Chứ Thầy thấy đâu có vĩ đại gì đâu, tại cái tâm thanh tịnh nó làm được, chứ ai không làm được.
Tâm mình chưa thanh tịnh thì nó làm không được, mình thấy nó vĩ đại, chứ nó đâu màu nhiệm, chứ nó đâu có gì đâu mà màu nhiệm. Nó có một chút cái chỗ này, cái tâm nó đừng có tham sân si nữa, thì nó được hết. Nó chấm dứt luân hồi, nó cũng do cái tâm không tham sân si. Mà cái tâm còn tham sân si thì nó…
Mà khi cái tâm mà con tu tập, mà nó không tham sân si, là phải nó có cái lực không tham sân si chứ, nó thay thế được cái chỗ này. Cho nên, chúng ta lại có cái chỗ mà chúng ta thường hằng chứ, nó sống vĩnh viễn với chúng ta chứ. Nó là độc đáo như vậy. Từ cái chỗ không có mà đi đến chỗ mình có, mà có lại có thật sự giải thoát, có thật sự làm chủ.
(1:12:10) Cho nên, các con thấy, Thầy dẫn dắt các con thực tế, không có cái gì mà không thực tế, nó cụ thể. Chỉ có còn cái các con chỉ ráng tập thôi. Mà nếu mà biết Phật pháp, đúng chánh pháp của Phật rồi, không ráng tập thì các con uổng cuộc đời các con lắm. Các con phí uổng cuộc đời. Gặp được chánh pháp của Phật là quý báu nhất ở trên đời, cái duyên mấy con.
Con cứ nhìn trong xã hội chúng ta biết hàng vạn người, có ai được gặp? Đâu phải mọi người mà gặp được Thầy đâu, đâu có dễ đâu. Và Thầy còn, các con nghe trong băng của Thầy nè, Thầy tuyên bố Thầy ẩn bóng mà. Cái duyên của các con còn là vì cái bộ Đường Về Xứ Phật, và lôi kéo cho đến cái bộ mà Đạo Đức Làm Người, cho nên nó mới còn duyên mà gặp các con.
Chứ sau khi mà giảng giáo án rồi, Thầy dự định là Thầy ẩn bóng. Nếu mà Thầy còn sống trên thế gian là Thầy ẩn bóng, để Thầy chờ duyên. Để mà trao cho một cái người nào đó có đủ duyên. Để mà họ thực hiện được, chứng quả A La Hán rồi, Thầy mới đi đó. Là Thầy ẩn bóng, Thầy chỉ dạy cho một người thôi, chứ Thầy không có dạy nhiều.
Bởi vì Thầy nói dạy nhiều, nó sẽ đụng chạm Đại Thừa dữ lắm, không được. Dạy một người thôi, để ẩn bóng dạy một người, một người được rồi. Cái duyên người đó, thì sau khi Đại Thừa nó sống bừa bãi như vậy đó, thì khoa học nó sẽ đi lên, dân trí nó càng ngày càng cao, nó sẽ diệt cái sai của Đại Thừa, thì Đại Thừa sẽ diệt. Thì vì vậy mà cái người chứng quả A La Hán này chờ cơ hội đó mà họ đưa Phật giáo họ phát triển.
Còn bây giờ nó đương mạnh, sức của Đại Thừa nó đương mạnh, người ta đang tập trung cho Thiền Tông, Mật Tông. Mà bây giờ Thầy đưa ra như vậy thì nó sẽ trở thành một cái chiến tranh tôn giáo, nó nguy hiểm. Cho nên Thầy định, các con nghe cái 61 cái cuộn băng của Thầy đó, Thầy định là Thầy sẽ ẩn bóng mà.
Nhưng mà vì nó, khi mà nghe cái sáu mươi hai cuộn băng này, về giáo án tu tập của đường lối của đạo Phật, họ mới hỏi, thành ra mới, Thầy mới có thành cái bộ sách Đường Về Xứ Phật, mấy con mới có bộ sách đó, chứ không làm gì có được. Cái duyên nó từ đó, cái duyên của chúng sanh đó con.
Cỡ mà người ta nghe, người ta không hỏi Thầy, thì kể như Thầy tịch. Không hỏi Thầy, kể như Thầy ẩn bóng rồi, Thầy không có hướng dẫn nữa, cái này là cái duyên. Rồi từ cái duyên đó, nó bao nhiêu cái sự đau khổ của gia đình người muốn tu mà gia đình không cho, rồi làm thế này thế khác đủ cách.
Cho nên vì vậy đó, mà Thầy thấy cần phải có một bộ sách Đạo Đức để giúp người ta thấy đạo Phật không phải là, người ham tu theo đạo Phật mà làm khổ gia đình như vậy, cái chính ở chỗ đó con.
Bởi vì có một cái chú đó, chú thanh niên, khi mà được gặp Thầy, thì chú có vợ, mới sanh được hai đứa con. Mà hai đứa con thì mới có giáp năm, còn nhỏ quá. Mà khi gặp được Phật pháp rồi, chú muốn tu.
Thì vợ con đó, thì chú có một cửa hiệu buôn bán, cho nên vợ con có thể buôn bán, sống với một cái người em, buôn bán sống để nuôi hai đứa cháu, thì chú thấy cũng yên tâm. Nhưng ông già chú lại không cho, ông già ruột của chú đó không cho chú tu, mà chú thì thấy cũng tội lắm.
Cho nên Thầy thấy cái hoàn cảnh như vậy đã làm cho gia đình người ta đau khổ. Bây giờ chú bỏ vợ con, vợ con bằng lòng là vì hiểu được Phật pháp. Chứ sự thật xa chồng, mà con còn nhỏ, người ta cũng thấy người ta thương chồng, người ta cũng thấy xót xa lắm chứ. Nhưng mà vì để cho chồng mãn cái nguyện của người chồng, cho nên ép buộc mà để cho chồng đi tu. Nhưng Thầy biết rõ cái tâm niệm này mà.
(1:15:14) Cho nên Thầy thấy phải làm sao xây dựng một cái nền đạo đức của đạo Phật. Vì ngày xưa đức Phật, con ông Cấp Cô Độc mà xin đức Phật vào tu, thì đức Phật không cho, chừng nào ông Cấp Cô Độc cho đi tu, thì mới được tu. Cho nên ông Cấp Cô Độc, ông đem vàng bạc của báu ổng nói: “tao có một mình mày, mày phải hưởng cái này chứ, tại sao mày đi tu rồi ai hưởng cái này?”
Mà ông Cấp Cô Độc cũng biết ông giàu lắm, chứ đâu phải ông nghèo. Ổng cúng dường Phật dữ lắm chứ, nhưng mà ông không cho đi tu là tại vì ông có thằng con. Vì vậy mà cho nên do đó, đức Phật mới nói, khi nào mà ba cậu bằng lòng thì đức Phật mới chấp nhận, ba cậu không bằng lòng thì đức Phật không chấp nhận.
Cho nên cái cậu này, cậu mới về cậu làm trần làm trở đủ cách ông già cậu. Cuối cùng ông già mới cho đi tu, thì đức Phật mới chấp nhận. Nhưng mà cậu chứng quả A La Hán. Ông Cấp Cô Độc cúng dường vậy mà không chứng quả A La Hán, mà thằng con lại chứng quả A La Hán.
Đó thì các con thấy, đời đức Phật là ông, đạo Phật có đạo đức hẳn hòi đàng hoàng. Rồi do đó ông Cấp Cô Độc có than phiền, đức Phật khuyên lơn ông cấp cô độc: “Nó đi tu, không có nghĩa là ông sợ mất dòng giống nhà ông đâu, mà chính nó đem cái dòng giống nhà ông, trở thành bậc A La Hán hết đó. Bậc giải thoát hết không thấy ham sao? Còn ông để vầy, dù có giàu sang như ông đi nữa cũng còn khổ, chứ đâu phải ông hết khổ sao. Ông không thấy cái khổ của cái phước hữu lậu sao?”.
Cho nên đức Phật nói tới đâu, ông thấy rõ tới đó. Do đó ông rất vui lòng khi thấy có một thằng con trai của mình đi tu theo Phật.
Cho nên các con thấy, nếu mà gia đình các con mà có cái sự gì buồn phiền, con cái có gì buồn phiền mà các con đi tu theo Phật, là các con báo cho Thầy ngay liền. Thầy tìm mọi cách Thầy giúp đỡ cho gia đình con rất là an ổn. Mà Thầy giúp đỡ rất nhiều gia đình rồi.
Cho nên thậm chí như chú Tuấn mà Thầy nói hồi nãy, Thầy đã viết một bức thơ Thầy gởi cho ba chú. Thầy nói hết những cái điều kiện lợi hại sau này. Và đồng thời thì hoàn toàn Thầy là một vị Thầy của chú này, Thầy không bao giờ chấp nhận cho chú này phải bỏ vợ con trong khi con còn nhỏ. Phải làm hết bổn phận làm cha đối với mấy đứa con này, và bổn phận làm chồng đối với người vợ còn trẻ tuổi. Không được bỏ ngang, phải sống cho đúng đời sống đạo đức.
Thầy sẽ viết cái bộ sách Đạo Đức, để giúp cho công cụ, để cho nó sống cái đạo đức của nó, đúng Đạo Đức Làm Người. Chứ không phải đạo Phật là cái thứ đạo Phật yếm thế bỏ đời, làm cho người khác đau khổ.
Thầy nói với ông cụ, ổng là người Bắc. Thì coi như là gia đình, cả gia đình khi đọc cái bức thơ của Thầy người ta xúc động con. Thầy là một cái người đem lại sự hạnh phúc cho gia đình người ta, không có làm đau khổ. Vì vậy mới xứng đáng là đạo Phật chứ.
(1:17:37) Cho nên hôm nay mấy con về đây, Thầy dạy các con cố gắng tu tập. Có cái chuyện gì các con, Thầy coi như là gia đình của các con là gia đình của Thầy. Cho nên có cái gì thì xảy ra trong sự buồn bực nào đó, các con viết thơ cho Thầy, thì Thầy sẽ tìm cách Thầy gởi thơ Thầy an ủi. Dù cháu nào Thầy cũng có thể gánh vác.
Cho nên hầu hết là các con nghe những cái cuộn băng Thầy dạy, mà mấy đứa cháu con của các cư sĩ mà về đây đó, tụi nó có những cái gì sai thì Thầy dạy. Trước khi lấy chồng, Thầy đã có một bài Thầy dạy cho cháu rồi, để sau khi mình tiếp nhận nhà chồng, nó gặp những cái khó khăn nào, thì phải nhìn nó bằng đôi mắt nhân quả như thế nào.
Trong tám cái nẻo của đạo Phật từ Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, cho đến Chánh Ngữ Chánh Mạng, Thầy phải dạy cho nó phải tư duy, suy xét để làm sao cho gia đình chồng mình, tất cả những người trong trong gia đình chồng phải vui vẻ, không được làm buồn phiền.
Thì Thầy dạy từng chút, Thầy dạy đem lại hạnh phúc. Cho nên khi mà bắt đầu nó có những cái sự đau khổ của nó khi mà có chồng ở bên Mỹ, cho nên vì vậy mà khi có sự đau khổ cái nó gởi thơ về. Rồi bắt đầu Thầy viết bức thơ, Thầy gởi qua cho nó.
Thầy an ủi nó, rồi Thầy mới dạy cách thức cho nó sống cái này, cái này. Do đó bắt đầu bây giờ gia đình nó rất hạnh phúc. Cả cha mẹ chồng hồi đó thì coi như là, nhất là mẹ chồng không có thương nó, bây giờ thương nó nhiều lắm. Thầy đem lại hạnh phúc.
Thầy nói phải sống đạo đức, thì dù người ta có khó khăn gì nữa, đến ngày nào đó, thì người ta sẽ chuyển hóa được người ta. Mình đừng thấy người ta khó, mà hãy thấy người ta tạo cho mình cái ác pháp, để cho mình vượt qua cái ác pháp, để cho mình chuyển hóa người ta trở thành được, thành ra trở thành người tốt của mình, chứ không phải người xấu.
Là con người, sanh ra làm người, người ta có thể thay đổi được, chứ không phải không thay đổi được. Nếu con người không thay đổi thì đạo Phật không ra đời. Con người có thay đổi, có sửa được những cái lỗi của mình được, cho nên đạo Phật ra đời.
(1:19:27) Nghĩa là mình có ác pháp, thật sự con người mình có ác pháp, nhưng mà mình biết ngăn chặn và sửa được cái ác pháp đó, trở thành thiện pháp. Cho nên, đạo Phật ra đời là do cái chỗ chúng ta biết sửa. Chứ cỡ con người mà không biết sửa, thì thôi chắc ông Phật không ra đời nữa.
Cho nên đạo Phật ra đời là có ích lợi cho loài người, mục đích giải quyết cho con người. Cho nên đạo Phật nói, nếu mà con người như con thú vật, thì chắc đức Phật không có ra đời. Bởi vì không thể cảm hóa được thú vật, nó không có trí tuệ, đủ trí tuệ để mà nó biết cái ác cái thiện, còn con người chúng ta biết.
Dù một cái con người nào đi nữa, họ đang sống trong ác, họ vẫn biết cái đúng sai. Nhưng mà mình cảm hóa làm sao mà dịch chuyển cho họ được cái đúng, để mà họ thấy được, sống cho đúng cái đúng, để mà sửa cái sai của họ rồi, thì họ trở thành người tốt. Đó, đó là những cái tu theo đạo Phật.
Cho nên đối với đạo Phật, không cần gõ mỏ tụng kinh, chỉ cần sửa những cái sai của họ. Từ phàm phu, từ thú vật mình trở thành con người, từ con người mình trở thành bậc Thánh. Bởi vì mình sửa sai rồi, mình lần mình đi lên. chứ không phải Thánh từ đâu mà có ra đây được hết, mà từ con người, từ con thú mà đi ra thành Thánh.
Thầy cũng là con người, Phật cũng là con người, từ đó mà đi lên, để mà sửa sai những cái lỗi lầm của mình, mà mình trở thành người tốt, mình trở thành sự làm chủ của mình, chứ không phải gì. Cho nên các con nên nhớ rằng, đạo Phật rất thực tế cụ thể, không mơ hồ, không dạy chúng ta Thiền Định bằng cách ngồi để ức chế tâm, mà dạy chúng ta ngăn ác diệt ác, để tâm thanh tịnh là Thiền Định.
Cho nên các con hiểu rõ rồi, tâm mình không tham sân si là Thiền Định, chứ không phải hết vọng tưởng là Thiền Định. Thầy xác định cái điều đó. Cho nên chúng ta đừng có ngồi cái gì hết, mà chúng ta chỉ nhắm vào cái tâm hết tham sân si. Mọi cái hiện bây giờ các con tập để tỉnh thức, để mà xả cái tâm, chứ không phải tỉnh thức để đi vào Thiền Định.
Đó, nhiêu đó các con sẽ rõ được cái hướng đi, cái mục đích cụ thể và rõ ràng, và giải thoát rất là từng phút giây, các con làm được như là lời Thầy nói rồi, các con sẽ có sự giải thoát từng phút giây, làm chủ được sự sống của mình từng phút giây.
Thôi bây giờ các con nghỉ con. Rồi ráng tập nha, tập nội bấy nhiêu Thầy dạy nha.
Phật tử: Dạ.
Trưởng lão: Xá Thầy thôi con.
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian: 16/05/2001
Thời lượng: [01:19:26]
Phật tử 1: Kính bạch Thầy, từ ngày chúng con nhận được thư Thầy chỉ dạy cho chúng con bí quyết thành tựu Tâm Bất Động trước các pháp, gồm có: Hằng ngày hướng tâm năm mươi đến một trăm lần bằng câu “Tâm như đất, không được giận hờn phiền não nữa". Mỗi tối ngồi kiết già hay bán già, lưng thẳng đối diện với tượng Phật tư duy, quán xét những gì mình đã làm trong ngày, có làm khổ mình khổ người hay không. Nếu có, thì con xin Phật chứng minh cho con sám hối và nguyện cố gắng khắc phục, không làm khổ mình khổ người nữa. Nếu không thì con xin Phật chứng minh cho con đã sống một ngày an lành tốt đẹp, tròn đầy đạo đức.
Sau đó, con giữ y tư thế ngồi, hít vô thở ra năm hơi xong, đứng dậy đi kinh hành một vòng hai mươi bước đi. Cứ mỗi năm bước con hướng tâm một lần: “Đi kinh hành, tôi biết tôi đang đi kinh hành”. Xong lại ngồi xuống hít thở năm hơi, rồi lại đứng dậy đi kinh hành một vòng hai mươi bước và hướng tâm. Cứ như vậy con làm trong vòng mười lăm đến hai mươi phút rồi xả nghỉ. Một ngày thường con tu tập hít thở và đi kinh hành như vậy hai thời, sáng và tối. Con tu tập như vậy có đúng không, xin Thầy từ bi chỉ dạy?
Trưởng lão: Con tu tập như vậy rất đúng đó con. Tu tập như vậy đó là cách thức để mà mình tu tập trong cái hoàn cảnh của gia đình mình, cái đó tốt lắm.
Phật tử 1: Dạ, cái câu thứ hai là, khi tập tu pháp Bất Động Tâm Định trong một thời gian, con nhận thấy tâm con có nhiều thay đổi như dễ tính hơn, dễ tha thứ hơn, bớt giận hờn hơn và dễ hoà hợp với mọi với mọi người. Do vậy, mà nơi con làm việc trở nên vui vẻ thoải mái, dầu vậy con vẫn thấy là con chưa xả tâm đúng mức, nghĩa là chưa có thể xả tâm rốt ráo được. Kính xin Thầy từ bi chỉ dạy cho con phải làm sao?
Trưởng lão: Rốt ráo là khi nào con trong một tháng, con phải Thọ Bát Quan Trai trong một ngày hoặc hai ngày cho đến một tuần lễ, thì con mới quét sạch cái vi tế, nó mới rốt ráo, Còn đây là chỉ có tu tập theo cái đó thôi. Còn cái phần rốt ráo là cái phần mà tu Tứ Niệm Xứ, mà Thầy định nói sẽ dạy con đó. Đó là cái phần mà mình phải ở trong thất, mình sống độc cư một mình. Rồi mình quan sát Thân - Thọ - Tâm - Pháp của mình mà đẩy lùi chướng ngại pháp, tức là phần vi tế, thì nó mới được rốt ráo. Còn cái phần kia, con thấy cái hiệu quả là nó có kết quả rồi đó, nhưng mà nó kết quả cho cuộc sống mình có đạo đức. Chứ nó cái vi tế nó vẫn còn, nó chưa hết, vì vậy mà mình phải tiếp tục thêm. Ít ra một tháng mình được một ngày Thọ Bát Quan Trai, mình sống cho mình thì ngày đó là cái ngày mình quét những vi tế. Nó không có ác pháp vây quanh mình, mà nó chỉ có cái tâm niệm của mình thôi. Thì do đó thì trong cái ngày đó đó để mình lắng tâm, để mà mình quét cái vi tế. Mà nếu mình quét càng nhiều cái vi tế, thì mình lại xả được cái tâm mình vi tế nhiều, thì nó rốt ráo, nó rốt ráo nó không phóng dật nữa, đó.
(3:00) Phật tử 1: Dạ, thưa kính bạch Thầy! Lúc trước đó bị con chưa có được phép, chưa có bắt được cái pháp tu của Thầy. Do đó con tu theo Thiền Tông và con ngồi thở và biết vọng không theo. Thì thường thường con, cái suất buổi tối con hay bị hôn trầm. Nhưng mà từ khi mà con được cái pháp tu của Thầy, đi ngồi hít thở năm hơi và đi kinh hành, thì con bớt được hôn trầm rất là nhiều. Nhưng đôi lúc con vẫn vì công việc mệt nhọc quá, một ngày mệt nhọc quá, thành ra buổi tối thường thường con thỉnh thoảng vẫn còn bị hôn trầm. Xin Thầy từ bi chỉ dạy làm thế nào để phá được hôn trầm?
Trưởng lão: Coi như là con ban ngày đi làm việc nhiều, ban đêm tu tập nữa thì coi như là con phải nghỉ ngơi nhiều, chứ con không nên tu tập nhiều. Bởi vì tuỳ theo cái hoàn cảnh của mình mà tu tập, làm sao mà cho cái sức tỉnh mình có, chứ để mình mệt nhọc thì không tốt. Cho nên, phải theo cái hoàn cảnh, cái đặc tướng của mình. Mình làm việc nhiều mà mình còn tu tập nữa thì nó mệt nhọc. Mà vì vậy, cho nên con có thể con buổi tối mà con tu đó, thì con giảm bớt cái giờ lại. Cái buổi khuya thì có thể con cũng giảm bớt cái giờ lại để cho mình nghỉ ngơi. Để hôm sau mình có đủ cái sức khỏe mình làm việc, còn cái sự tu tập đó mình giảm bớt trở lại. Còn cái ngày nào mà mình thấy khoẻ khoắn mình tu tăng lên. Những giờ rảnh nào đó mình thấy mình khoẻ, mình tu nhiều hơn để cho cái sức tỉnh thức, cái sự pháp hướng của mình nó nhiều, để cho nó có đủ cái lực nó xả tâm. Đó vậy thôi. Chứ đừng có bắt ép buộc nó phải như một người tu sĩ, người ta không có lao động, người ta không có làm gì hết. Còn mấy con là người cư sĩ còn làm việc nhiều, cái cơ thể nó mất sức nhiều lần.
Phật tử 1: Thường buổi tối con tu tập một tiếng đồng hồ trước khi con đi ngủ. Thời gian hai mươi phút đầu, con quán xét lại mình và tu hít thở năm hơi cùng với kinh hành hai mươi bước. Sau đó con xả nghỉ mười phút. Rồi con ngồi tọa thiền tu Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Định Vô Lậu trong thời gian ba mươi phút. Con tu tập như vậy có được không? Xin Thầy từ bi chỉ dạy. Cái câu hỏi này là lúc trước khi mà Thầy chỉ cho con cái pháp mà ngày hôm qua, thành ra pháp ngày hôm qua thì nó quá hay đối với con. Câu hỏi này không biết là áp dụng có còn đúng hay không? Dạ!
(5:22) Trưởng lão: Cái câu hỏi này nó đúng đó là sau khi mà con ở thất, con tu Thọ Bát Quan Trai thì nó đúng. Bởi vì, nếu mà không có được sự trực tiếp hướng dẫn, đọc sách Thầy thì coi như mình thấy có những cái mình tu nó không đúng cái hoàn cảnh, cái môi trường của mình. Cái pháp thì nó hay đó, nhưng mà áp dụng nó không đúng cái hoàn cảnh, thì nó thành không hay đâu. Cho nên con mà tập tu nhiều cái phần đó thì coi như là con. Thứ nhất là nếu mà con quán, con dùng cái Định Vô Lậu con quán nhiều, con bị loạn. Mà con ngồi, mà con giữ tâm mình yên lặng nhiều, thì con bị coi như là bị mê, bị hôn trầm, hai cái nó cũng bị vậy thôi. Chỉ có cái người mà người ta ở trong thất, người ta chuyên tu rồi, thì người ta nhìn quan sát bốn cái chỗ Thân - Thọ - Tâm - Pháp, người ta mới tu những cái đó mới được. Còn mình thì lao động mệt nhọc, mình coi chừng tu cái này nó bị.
Phật tử 1: Dạ, dạ!
Trưởng lão: Cho nên phải tu cho hợp, hợp cái hoàn cảnh, cái việc làm của mình, cái tính năng, cái đặc tướng của mình nữa. Thí dụ như bây giờ, cái hoàn cảnh của con, con phải làm việc sống. Ban ngày thì phải làm việc rất nhiều. Ban đêm phải thức dậy tu tập, mà tu tập trong kiểu đó thì coi như là nó bị trật rồi. Thí dụ như mà con ngồi yên lặng kéo dài, nếu mà nó không quán thì nó bị vào ở trong cái yên lặng của nó, nó bị rơi vào hôn trầm, vô ký. Mà nếu nó loạn quá, con cứ quán hoài, thì loạn quá, con động, con mệt. Hai cái đó nó không phù hợp với cái con người đang làm việc. Nó lặng quá thì bị vì nó mệt nó lặng quá thì nó không có vọng tưởng, thì nó lại lặng vào, thì nó rơi vào trong hôn trầm hay hoặc là thuỳ miên hay là vô ký. Thế nào nó cũng rớt trong cái trạng thái đó. Mà nếu mà nó loạn quá thì coi như là con đêm đó con suy nghĩ nhiều, sáng ra con rất mệt, bị vì nó làm việc nhiều quá. Tức là mình quán vô lậu đó, mình quán để mình tìm hiểu, thì nó lại mệt cho nên nó bất an, nó không giải thoát. Tốt hơn là con tu như cái kia là tốt lắm.
(7:24) Phật tử 1: Dạ, thật ra con thấy rằng nghĩa là cái kia, cái pháp mà Thầy dạy cho chúng con ngày hôm qua là đối với con cái hiện tại cái thời gian này, rất là thích hợp.
Trưởng lão: Thì đó hợp.
Phật tử 1: Để con về con sẽ cố gắng.
Trưởng lão: Tức là con tu Tứ Chánh Cần đó, là hợp nhất.
Phật tử 1: Dạ, dạ! Dạ thưa, con có câu hỏi tiếp để cũng như là một cái nó tiến bộ trong đời sống rồi, con xin trình với Thầy để Thầy rõ. Như lời Thầy dạy: “Người tập tu phải không làm khổ mình, khổ người và phải quý trọng mọi người dù người đó như thế nào”. Con đã áp dụng lời dạy này tại nơi con làm việc. Nên tất cả mọi người con tiếp xúc, con đều gọi bằng “ông” và đối xử niềm nở. Vì vậy con cũng gọi người lao công bằng “ông”, thay vì con gọi tên trống không như những người khác. Lúc đầu có vài người ngạc nhiên, khi được con gọi như vậy. Nhưng thời gian sau, họ thấy vui trong lòng khi có người quý trọng mình, và từ đó họ thường gọi nhau bằng “ông” thân mật, vui vẻ. Con xin đội ơn Thầy đã chỉ cho con pháp không làm khổ mình, khổ người.
Trưởng lão: Cái đó hay lắm con, cái đó là cái đức Phật đã dạy mình tôn kính lẫn nhau đó. Sự tôn kính lẫn nhau, lỡ người ta có làm một cái gì đó, lòng tôn kính của mình, mình xả được, mình tha thứ được. Còn mình không tôn kính, mình coi họ thấp kém hơn mình, mình coi khinh, coi rẻ mạt họ. Tức là mình có phạm vào cái thiếu đạo đức không kính trọng con người.
Cho nên khi mà Thầy dạy các con, đó là dạy các con cái đạo đức tôn trọng mọi người. Cho nên đem lại cái hạnh phúc cho chính bản thân con, mà đem lại cái an vui cho người khác, người ta thấy mình không bị người khác khi dễ. Thấy hạnh phúc lắm.
Phật tử 1: Nên bây giờ trong hãng con tất cả mọi người đều đối xử với nhau rất là vui. Không có một điều gì. Hồi xưa thì cứ hay nhất là những cái người da trắng với lại da đen hay là người da màu lẫn lộn với nhau đó thì cứ hay có những hiềm khích. Nhưng mà từ khi con áp dụng lời của Thầy, không tự nhiên cái con kết hợp họ lại với nhau, người nào cũng quý trọng lẫn nhau thành ra nó vui quá đi, dạ trong hãng con giờ nó vui quá, nó có nghĩa là…
Trưởng lão: Đúng rồi mấy con áp dụng Phật pháp vào đời sống, vào đời sống.
Phật tử 1: Không còn nghĩa là gây gổ lẫn nhau mà rất là giúp đỡ lẫn nhau. mọi việc đều nghĩa là làm như là, họ rất là thích thú giúp đỡ chứ không phải là bị gò ép giúp đỡ.
(9:56) Trưởng lão: Như anh em trong một nhà vậy đó. Các con làm được vậy Thầy mừng lắm. Ý của Thầy là mong muốn như vậy đó. Mong muốn làm sao mình đối xử với nhau, mình biết tôn trọng, tôn kính lẫn nhau trong cái cuộc sống của mình. Dù là một đứa bé mình cũng đừng kêu nó “mày”. Mà đáng cháu mình kêu “cháu”, đáng con mình kêu “con”, chứ đừng kêu “mày” “tao” ở trong đó. Nghe cách xưng hô, nó làm cho nó thích thú con, cái người mà nghe cách xưng hô của mình họ thích. Còn mình xưng hô một cách nghe nó thô lỗ quá, ỷ lại quá hay hoặc ngã mạn quá, nó làm cho cái người nhỏ hơn người ta mặc cảm. Người ta quen thì người ta không thấy gì, người ta.
Cũng như bây giờ một đứa nhỏ nó quen mình, mình kêu nó “mày", mình xưng với nó “tao” thì nó cũng không thấy gì. Nhưng mà mình thấy cái lời nói của mình nghe nó thô lỗ, nó không có xứng đáng. Mình xưng nó bằng “anh”, “bác” hay “chú”, còn mình nói với nó, kêu nó “cháu” hoặc “em” hay hoặc là bằng “con” nghe nó ngọt ngào, tình nó thắm. Cách xưng hô của mình với cái danh từ của người Việt của mình nó nhiều lắm con, mà nghe nó ngọt ngào, cái tình thắm tình của con người.
Cho nên, sau này các con đọc sách Đạo Đức Thầy sẽ dạy cách xưng hô. Bởi vì cách xưng hô của mình cái đạo đức mà, cái đạo đức rất thâm tình, đem lại cái tình thương cho nhau bằng cách xưng hô. Cho nên Thầy nói Thầy chưa có dạy hết đạo đức, chứ Thầy dạy hết đạo đức con thấy cái giá trị nó ghê gớm lắm.
(11:29) Phật tử 1: Dạ thưa, con có một cái câu nữa là cái này đối với cái tâm trạng của con, con xin Thầy chỉ dạy. Sau hơn hai mươi năm rời xa quê hương đến nay, nhờ có cơ duyên được biết đến Thầy, chúng con mới có dịp trở về Việt Nam. Thì trên cái chuyến máy bay trở về đó, con nghĩ là khi máy bay đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, lòng con sẽ bồi hồi hay là có những xúc động như thế nào đó.
Nhưng lạ thay, không biết tại sao con nhìn qua khung cửa sổ khi máy bay đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Tất cả mọi người Việt Nam ở trong máy bay vỗ tay reo hò, riêng con thì lại không có một cái niềm xúc động nào. Nó cũng như bình lặng và con cảm nhận như là con chưa có bao giờ đi xa khỏi cái xứ này. Vì vậy mà coi như là chưa có đi xa thì cũng như là chưa có trở về. Thành ra con không biết rằng cái tâm trạng đó có phải là còn thích hợp hay là một người coi như là quá vô tình, xin Thầy từ bi chỉ giảng?
(12:37) Trưởng lão: Cái đó, cái tâm trạng của con là cái tâm trạng rất hay. Nó không có nghĩa là mình là người mà ly quê hương. Mà cái tâm trạng coi như là con đang hai mươi năm, con đang ở bên đất Mỹ mà con vẫn thấy như mình đang sống ở đất Việt Nam, cái thâm tình của con ở chỗ đó. Bởi vì, theo Thầy thiết nghĩ, cái con người của mình dù ở đâu trên quả địa cầu này, nhưng mà người Việt Nam, cái tình nghĩa của người Việt Nam không quên xứ sở của họ. Mà không phải vì cái lòng mà khi mình bị chia cắt, mình xa ở trên cái quả địa cầu như vậy, bây giờ trở lại cái quê hương của nó là mình reo mừng, không phải.
Tự mình ở đây mình thấy cái tâm tình cảm của mình nó đối với quê hương, nó đã sống tại đây chỗ cái đất nước Mỹ, chứ không phải là đợi mình về Việt Nam mình mới sống với nó. Còn cách thức của những người khác khi họ về được quê hương họ thì họ mừng, thì coi như là họ bị cái sự chia cắt. Còn mình sống ở bên đất Mỹ nhưng mà mình vẫn thấy tình cảm của mình vẫn sống ở Việt Nam. Cho nên con không thay đổi. Còn người ta sống bên Mỹ chứ người ta có những cái tầm trạng thế là mình đang sống ở nước khác chứ không phải nước mình. Còn mình là sống chung ở trên cái hành tinh này trong môi trường sống, làm sao giữ được cái tâm đó con. Cái tâm đó không có chia cắt. Còn cái tâm mà mình bị chia cắt từ cái việc, từ cái đất nước này đến cái đất nước khác, đó là tâm bị chia cắt.
Mình biết rằng rõ ràng là mình có xa quê hương, nhưng cái lòng của mình thấy nó cũng như mình đang gần gũi, mình sống trên quê hương của mình, cái đó cái hay lắm con. Thầy nói cũng là có một cái tâm niệm rất tốt và vững vàng lắm, nó không thấy bị chia cắt. Chứ không khéo, chúng ta hễ từ đất nước Việt Nam mà ra khỏi đất nước Việt Nam rồi, thấy mình xa lìa quê hương của mình. Mình không có đâu, mình mang theo cả quê hương mình ở trong lòng của mình.
(14:27) Thầy thì không có lần nào mà Thầy rời khỏi đất nước quê hương này, nghĩa là không có đi ra ngoại quốc. Nhưng mà Thầy luôn luôn, Thầy thấy Thầy sống ở trong cái lòng yêu thương của mình. Cho nên thí dụ như Thầy ở thành phố Hồ Chí Minh, Thầy sanh trưởng ở miền Nam. Mà khi ra miền Bắc, Thầy cũng như là Thầy đã sanh trưởng ở miền Bắc, mà không thấy là Thầy là sanh trưởng ở miền Nam. Vì vậy mà những người thân ông cố, ông sơ của Thầy là những người miền Bắc, khi mà chạy vào trong này, sanh con đẻ cái trong này.
Cho nên khi mà Thầy về thăm miền Bắc lần đầu tiên, Thầy thấy mấy cụ, cô, bác, anh, chị, em đến mà gặp Thầy họ mừng quá. Thầy thấy như Thầy đã sống ở trong lòng Hà Nội, chứ Thầy không phải thấy là Thầy từ ở trong miền Nam ra thăm miền Bắc. Thầy không có thấy đi thăm miền Bắc, mà Thầy thấy coi như là những cái người thân của mình được cái dịp gặp nhau vậy thôi, chứ còn không thấy nó cách biệt mà Nam, Bắc.
Cho nên trong những cái câu hỏi của những người phật tử miền Bắc hỏi Thầy về Mục Kiền Liên, về Quan Âm Thị Kính đồ đó, thì người bắc Thầy thấy đúng là cái tâm niệm của họ cũng là những cái tâm niệm của Thầy ở trong miền Nam không khác. Cho nên người bắc, người nam không có xa lìa. Cho nên Thầy thấy Thầy hoà, Thầy ra đó Thầy thấy như Thầy đang sống ở trong Hà Nội. Cho nên Thầy leo những cái đồi, cái dốc Thầy nhớ Thầy cũng như Thầy leo ở trên cái núi Phước Hải vậy. Thầy thấy Thầy leo y như vậy chứ không khác gì.
Cho nên đối với Thầy thì Thầy thấy, đúng là Thầy có cái căn duyên với Hà Nội nhiều lắm mấy con. Những cái băng đầu tiên mà Thầy thuyết giảng như “Mùa Xuân Vĩnh Cửu”, “Trở Về Đạo Phật”, “Phật Môn Bảo Huấn”. Những cái cuộn băng đó, thay vì Thầy giảng ở đây chỉ có một số chừng năm mười người nghe thôi. Nhưng mà những cuộn băng đó lại được cái những người Hà Nội họ được nghe, cái duyên được nghe đầu tiên ở đây. Họ mang về Hà Nội họ phổ biến. Cho nên người Hà Nội họ biết Thầy rất nhiều, mà người miền nam không biết. Miền Nam này không ai biết hết.
Sau này Thầy giảng cái giáo án thì cũng những cái người mà ở ngoài Hà Nội họ vô đây, họ đem máy móc vô đây họ thu đó, họ thu băng. Những cái băng mà mấy con nghe là máy móc ở ngoài Hà Nội, họ mang vô, họ từ ngoài đó họ mang vô, chứ Thầy đâu có sắm. Sau này những cái máy mà cô Út mà sang rồi bị nhiều quá nó hư đó, rồi mới mua mấy cái máy đó để phụ sang. Là do anh của con Trang nó ở Cần Thơ, nó làm việc với điện tử, máy điện tử nè. Cho nên nó thấy cái môi trường vầy nó mới đem cái máy lên nó cúng dường. Chứ Thầy, Thầy nói không sắm gì hết Thầy nói rồi, ngay có duyên thì nó còn mình giữ lại, mà không duyên thì nó mất.
Con có hỏi gì Thầy không, hỏi đi con?
(17:27) Phật tử 2: Dạ thưa Thầy, Thầy dạy chúng con là hàng tháng đó, thì có một ngày Thọ Bát Quan Trai, nhưng mà thưa Thầy khi con đến những thiền thất ở bên Mỹ đó, họ không có tu giống mình thì thưa Thầy, Thầy dạy con phải làm như thế nào?
Trưởng lão: Thầy dạy con sẽ Thọ Bát Quan Trai. Trong một cái ngày một tháng, con có một cái ngày Chủ Nhật hay ngày nào rảnh đi, cái ngày lễ đi. Thầy nói cái ngày lễ mấy con nghỉ đi. Bắt đầu ở dưới này thí dụ như con Thọ Bát Quan Trai đó, thì con bữa đó con sắm thực phẩm này kia cho gia đình của con hay hoặc là mấy đứa con đồ đó. “Giờ mấy con ăn sao ăn. Hôm nay là mẹ Thọ Bát Quan Trai, mẹ giành cái phòng ở trên đó, mấy con không có được động ở dưới này. Mấy con làm im lặng nghe, để cho mẹ ngày đó mẹ học mẹ làm Phật. Chứ đứa nào mà làm động thì bất hiếu với mẹ”. Đó con dặn nó như vậy. Con cứ lên trên phòng đó con thực hiện pháp Thầy, con sống ngày một bữa. Rồi con ngủ thì con trải dưới sàn nhà, con ngủ như Phật nằm ở dưới đất, con làm y như cái hạnh của Phật. Thọ Bát Quan Trai con giữ gìn tám cái giới nghiêm chỉnh, Thầy có thu cái băng đó.
Phật tử 1: Dạ, con có cái băng đó.
Trưởng lão: Rồi con không cần đến chùa đâu hết. Con giành cái phòng nào trên gác thượng hay trên đâu đó, chỗ nào yên tĩnh trong nhà con. Con lấy cái phòng đó, con dặn mấy con con hết: “Mấy con sinh hoạt thì mấy con hôm nay, mấy con yên lặng một chút, để cho mẹ thực hiện cái cuộc sống của mẹ một ngày làm Phật”. Thì lúc bấy giờ con cứ thực hiện ngay nhà, không cần đi đến chùa. Đi đến chùa nhiều khi nó làm động người ta, mình tu pháp khác làm động. Nếu mà người ta thuận thì tốt, mà người ta không thuận, người ta thấy mình sống nó khác họ, họ thấy họ khó chịu. Rồi họ hỏi ra cái này, cái kia rồi mình nói ra, nó đụng chạm lắm. Đừng có đến chùa mà tu. Tốt hơn là mình cứ lên cái gác thượng của mình hay hoặc dành riêng cái phòng nào yên tĩnh nhất trong nhà mình tu, tốt.
Phật tử 2: Dạ thưa Thầy tại vì con đi làm buổi chiều, thành ra từ sáng từ sáu, coi như từ tám giờ sáng con nó đi làm cho tới khoảng mười hai giờ, một giờ giờ đó con rất là rảnh. Con có thể cắt đường phone đó là không ai quấy rầy con được hết.
Trưởng lão: Thì như vậy là con Thọ Bát Quan Trai trong cái giờ.
Phật tử 2: Thì con có thể trong thời gian con ở mấy tiếng đó được không Thầy?
Trưởng lão: Được! Mấy tiếng được. Thí dụ như thay vì đó mười hai tiếng trong một ngày chứ gì, phải không? Thì giờ con trong khoảng thời gian đó con thấy được sáu tiếng hay năm tiếng đồng hồ tu, con sẽ Thọ Bát Quan Trai lúc đó. Cái hoàn cảnh mình nó thuận mà, mình tu trong đó thôi. Hoàn toàn cái giờ đó ra thì mình sinh hoạt bình thường, mình xin thọ bây nhiêu đó thôi. Mình sống cho đúng những cái hạnh của nó trong mấy giờ đó thôi, quý lắm chứ. Thầy nói chừng một giờ cũng là quý, chứ đừng nói chi mà được nhiều.
Phật tử 1: Dạ, thì tụi con có nhiều ngày, dạ mặc dù ít giờ nhưng mà có nhiều ngày, thành ra cũng như là hàng ngày tụi con có thể làm được như vậy.
Trưởng lão: Đó, làm được như vậy. Nhưng mà cái thời gian đó mình chỉ làm một khoảng thời gian thí dụ hai tiếng hay ba tiếng hay năm tiếng đồng hồ, quá quý rồi. Ngày nào mà cũng được thọ một, hai tiếng đồng hồ là quý nhất. Tức là mình sống được một giờ làm Phật là quý cho mình. Sống mà mình gieo cái duyên đó kinh lắm, chứ không phải không. Rồi nó đủ duyên rồi các con sẽ thấy, các con mới sống một mình trong độc cư. Mới trầm lặng, mới nỗ lực, mới thực hiện cái vi tế của cái nghiệp lực của mình, nó mới hết con.
Chỉ có con đường này nó mới hết được cái vi tế, cái nghiệp lực vi tế của mình. Chứ còn mình sống đạo đức là coi như là mình sống cho cái tâm của mình nó bất động trước các ác pháp, nó làm cho mình giải trừ được nó thôi, chứ còn vi tế nó không hết. Chỉ có Thọ Bát Quan Trai để vi tế mới hết. Bởi vì sống như Phật nó mới hết, còn mình sống chưa đúng như Phật thì không hết. Mà trong một ngày, thì có được một cái khoảng thời gian mà con yên tĩnh như vậy đó thì quý quá rồi. Thầy sợ suốt ngày mà nó không được, nó chỉ còn có giờ ban đêm không. Thì giờ ban đêm, mình làm việc ban ngày, ban đêm phải nghỉ, không nghỉ thì mình làm sao có thì giờ để tu.
(21:21) Phật tử 1: Con được cái để xem con được cái ngược lại ạ con kiên trì vào ban ngày, Thọ Bát con ngược lại vào ban đêm thưa Thầy.
Trưởng lão: À, thì đổi lại thì.
Phật tử 1: Dạ, con đi về thì coi như có mình con ở nhà.
Trưởng lão: Đó thì quá quý rồi mấy con. Thay phiên như vầy mà cứ Thọ Bát. Thì Thầy nói các con chỉ cần một ngày mà các con được một giờ mà sống y như Phật. Trong khi mình phát nguyện con sẽ Thọ Bát Quan Trai, trong một giờ con nghiêm chỉnh giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh cũng đủ rồi.
Trong cái giờ đó mình sẽ tu các pháp. Con thấy không, đến bây giờ thì các con vô trong đó thì các con đi kinh hành hay hoặc ngồi đều là quan sát trên Tứ Niệm Xứ, bốn chỗ Thân - Thọ - Tâm - Pháp. Quan sát cái thân của mình trước. Rồi các cảm thọ ở trong thân của mình coi nó có đau, có nhức, có ngứa chỗ nào không? Hễ mỗi khi mà nó có đau, nhức, ngứa thì mình dùng pháp hướng mình đẩy lui: “Cái thọ là vô thường, cái đau nhức cái chỗ này, đau nhức cái đầu hay nhức cái tay hay hoặc ngứa chỗ này, đẩy lui đi, không được ngứa nữa”.
Mình cứ hướng vậy thôi, nó có hết không hết thì kệ nó. Nhưng mà rồi có ngày nó hết. Tin ở cái tâm lực của mình nó sẽ đẩy lui được hết, nó đề kháng được cái thọ của mình, nó làm cho mình hết đau. Nhưng bây giờ mình cứ kệ nó, đau nhức gì kệ, mình cứ dùng cái tâm lực của mình hướng thôi. Bây giờ nó không hết chứ ngày mai nó sẽ hết. Con cứ tin đi, cái đó là cái điều mà Phật đã làm chủ được cái bệnh mà, thì mình cũng dùng cái tâm lực này để mình làm chủ được cái bệnh của mình, nó sẽ hết.
Cho nên mấy con thấy, Thầy đau bệnh mà Thầy ít có uống thuốc lắm. Vì cái thân này vô thường, thường hay đau bệnh. Nhưng mà mình dùng cái tâm lực của mình, khi nó đau nhức thì mình hướng tâm. Cho nên Thầy hay thường bị, Thầy lao lực nhiều. Vì tư duy, vì nói chuyện nhiều mà, do đó nó bị ảnh hưởng cái phổi. Như Thầy nghỉ, Thầy không nói chuyện thì coi như là nó không phải hao. Bởi vì cái phổi của Thầy nó mau phục hồi lắm, nó không có bệnh, nhưng mà vì nói chuyện này kia, tiếp xúc rồi lao. Cái trí tuệ của mình làm việc nhiều, sức khoẻ nó kém, thì cái phổi nó phát triển, nó dễ bị bệnh.
Nhưng mà Thầy tuỳ thuận, cô Út nấu thuốc Nam này kia đồ, Thầy uống cho vui, chứ Thầy biết là không có hết. Nhưng mà Thầy chỉ cần Thầy hướng tâm nó hết, Thầy hướng tâm nó sẽ hết. Nhưng mà vì cái lòng của người khác thương mình, người ta đi hái từng cái trái cây. Người ta nghe người ta nói cái trái này ngậm nó sẽ hết, mà mình bỏ cái lòng người ta thì nó tội. Cũng như các con đem thuốc về, mà Thầy không dùng một viên thuốc của mấy con, thì cái lòng của các con, Thầy cũng như phụ bạc.
Cho nên khi mà các con đem thuốc về, bây giờ có nhức đầu thì Thầy chỉ hướng tâm, nó hết chứ gì, cái lòng của các con Thầy uống viên thuốc. Chứ Thầy không bao giờ mà Thầy nói là Thầy không uống. Mình trị được nhưng mà điều kiện tấm lòng của người ta mình phải nhận, cái duyên cái phước hữu lậu của mình có. Cho nên có người, người ta thương mình, người ta đem cái viên thuốc, người ta tượng trưng cho cái lòng thương của người ta. Thì mình nhận cái lòng thương của họ mình uống, chứ sự thật ra cái khả năng của Thầy đã làm chủ được cái bệnh, mấy con hiểu không?
Nhưng mà Thầy nhận là nhận cái lòng thương của các con đối với Thầy, cho nên Thầy uống, chứ Thầy biết rằng có thuốc hay không có thuốc, thì Thầy cũng phải tự cứu mình.
(24:32) Cho nên, vì vậy mà các con, Thầy biết các con hỏi mà mua thuốc về cho Thầy hay hoặc chúng Tăng. Thầy nghĩ rằng cái đó là cái lòng của các con. Nhưng mà các con để dành cái số tiền đó, để cho mình in được cái kinh sách Đạo Đức. Để giúp cho người ta sống đạo đức là người ta chuyển được cái bệnh khổ của người ta, nó quý hơn mình mua cái viên thuốc.
Bởi vì Thầy nói khi mà sách Đạo Đức Thầy ra, nó giúp cho con người cái bệnh nó giảm nhiều lắm, nó sẽ giảm được những cái bệnh khổ. Cái đời sống, thay vì bây giờ con sống con an vui, cái thân của con nó mạnh khoẻ. Hơn là con sống trong cái phòng làm việc của mình, người thì vậy, kẻ khác nó buồn bã, hay hoặc là nó tức giận, nó có nhiều chuyện nó buồn, thì tự nó sanh bệnh à con.
Còn cái tâm mà con vui vẻ hàng ngày, con thấy anh em này kia làm việc chung nhau. Nó có cái cởi mở, nó hoà hợp, nó có cái sự đoàn kết, nó có cái sự chia sẻ, theo đó mình thấy thích thì tự nhiên mọi người cũng đều mạnh khoẻ, phải không? Cái này là sự thật mà. Còn mình buồn rầu, mình lo lắng, mình thấy nó tức quá. Thành ra lâu ngày cái thân của mình nó bị bệnh do cái tâm mình bệnh, cái đó là không vui. Cho nên mình làm sao cho tâm hồn mọi người đều cởi mở hết thì cái bệnh nó giảm xuống.
(25:49) Phật tử 2: Chúng con hy vọng là khi Thầy ra quyển sách đó thì chúng con có được chia sẻ phát hành bên Mỹ.
Trưởng lão: Thầy sẽ, Thầy sẽ cho mấy con phát hành bên Mỹ để giúp đỡ.
Phật tử 1: Dạ, dạ cái đó là tụi con đang đợi đó thưa Thầy.
Trưởng lão: Với mấy con sẽ sau này, mấy con có khả năng Anh ngữ mấy con, hay Pháp ngữ mấy con giỏi mấy con dịch ra, rồi mấy con phổ biến cho cái người ngoại quốc nữa. Thầy thấy bữa đó có cái chú Mỹ chú về đây, chú đi với cái đoàn chứ chú cũng chẳng biết gì. Theo Thầy biết thì chú chẳng biết gì hết, đi theo cái đoàn Phật tử về đây thăm Thầy, Thầy thấy rất tội. Chú chỉ biết học tiếng Việt, chú biết cám ơn thôi.
Trong khi đó thì Thầy biết rồi, sau khi mà Thầy trở về phòng của Thầy thì Thầy nắm tay chú. Thầy tỏ ý rằng Thầy, coi như là Thầy tự nói thầm ở trong tâm của mình là Thầy nghĩ rằng Thầy cũng sẽ giúp đỡ những người Mỹ cũng sẽ được một cái nền đạo đức tốt. Nhưng mà chú là người tượng trưng đã gặp Thầy đầu tiên về đây, cái ý của Thầy là cái ý như vậy. Cho nên chú thông cảm được cái ý của Thầy, khi mà nắm tay chú, chú thông cảm, chú: “Xin cảm ơn”. chú chỉ biết nói cảm ơn.
(27:06) Phật tử 1: Thưa Thầy, thí dụ như là khi mà như đêm hôm qua, khi con ngồi tọa thiền hay đi kinh hành, mặc dù con vẫn Chánh Niệm Tỉnh Giác. Nhưng chẳng hạn như con muỗi mà nó đậu nó cắn con, con có quyền lấy cái tay đuổi nhẹ nó không Thầy, hay là cứ phải im?
Trưởng lão: Không được con. Bởi vì đó là cái chướng ngại pháp nó đến với con rồi, mà con cứ cắn răng con chịu, thì tức là nó làm cho con bất an lắm. Tốt hơn là con quạt nhẹ cho nó bay đi, rồi con gãi đi, cái nó hết ngứa, rồi cái con ngồi lại an ổn. Tức là con xả đó, đức Phật nói mình xả ác pháp. Cho nên cái thọ của mình, khi nó bị cái thọ thì con phải xả ngay nó, đừng có chịu đựng. Chịu đựng tức là mình ôm ấp nó.
Phật tử 1: Dạ, tại vì con nhớ có một người cứ nói là con ruồi nó đậu hay con muỗi nó chích hay con kiến nó cắn là cứ phải nghĩa là ngồi im, không được gãi hay là không được đuổi, là tại vì đuổi như vậy là nó mất cái định. Thành ra con thấy ngạc nhiên quá, tại con thấy con chính con đó, lại như vậy lại càng không có định một chút nào.
(28:14) Trưởng lão: Con thấy đức Phật nói đó là cái chướng ngại pháp rồi. Khi nó bị ngứa, bị con muỗi cắn nên nó ngứa, mà mình ngồi mình ráng mình chịu, để cho mình cố gắng mình nhiếp tâm. Thật sự ra mình ráng, mình cố gắng, mình tập trung trong cái hơi thở, mình ức chế nó đi. Thì mình cũng sẽ quên cái ngứa này, chứ không phải không. Nhưng mà mình quên bằng cách chịu đựng, không hay.
Tốt hơn hết, bây giờ nó ngứa thì mình xả nó đi. Xả nó bằng cách nào? Giờ quạt con muỗi bay đi, chứ không ấy đập nó chết sao? Tội! Quạt cho nó bay. Nó bay rồi cái mình còn ngứa, mình gãi. Gãi hết ngứa cái thôi, nó trở lại bình thường thanh thản, an lạc, quá tốt con. Vậy là mình xả cái ác pháp chứ có gì đâu.
Cho nên Thầy nói thí dụ, bây giờ con ngồi hai cái chân đau. Mà con ráng, bây giờ nó còn năm phút nữa nó mới hết giờ. Hễ con ráng con ngồi cho nó hết giờ, chịu đau trong năm phút này. Trời ơi! quá trời, con phải khổ không? Tức là ác pháp mà không biết. Đứng dậy cái xả cái hết đau rồi, có phải khoẻ không? Vậy mà cái tâm con nó được an lạc, thì đó là nó định chứ gì? Bởi vậy tu sai rồi, thành ra rốt cuộc rồi mình cứ ức chế. Ức chế rồi nó cũng quen đi, nó cũng hết nhưng mà cứ tăng lên thì nó cũng bị, tăng lên nó cũng bị, nó cũng bị thọ hoài, nó không hết đâu.
Cho nên thọ là khi nào mình dừng nó, kêu là mình tịnh chỉ cái thọ. Mình làm cho cái thọ nó ngưng đi, nó không hoạt động được, thì cái thọ nó hết. Chứ bây giờ mình cứ tăng vượt lên để cho nó, cái thọ nó lần lần nó giảm lui đi, chớ không bao giờ nó hết, mà nó cứ còn hoài. Thí dụ như con ngồi một giờ không đau, thì tới giờ rưỡi bị đau, mà giờ rưỡi hết đau, thì nó leo lên hai giờ nó bị đau, nó cứ vậy nó leo hoài lên à. Nhưng mà con hễ con bỏ không tu ít hôm, cái trở lại con ngồi nửa tiếng cũng đau. Tại vì cái thân của mình cái thọ nó còn mà, mình đâu có tịnh chỉ được đâu. Còn người ta nhập Thiền Định là người ta tịnh chỉ cái thọ nó hành, nó ngưng. Cho nên người ta xả, người ta ly cái thọ rồi, cái thọ ở trong thân người ta nó không còn cảm giác, con hiểu không? Vậy người ta mới nhập Định chứ.
Phật tử 1: Câu hỏi làm cái gì?
Phật tử 2: Trong cái ngày Thọ Bát đó làm cái gì?
Phật tử 1: Cái ngày Thọ Bát làm cái gì? Hình như Thầy có cái, cái cuộn băng đó rồi em ơi.
(30:19) Trưởng lão: Thầy có cuộn băng rồi. Trong những cái ngày mà Thọ Bát Quan Trai đó con không có cái bát, cái bát như Thầy vậy nè, con không có phải không. Mà con cũng sử dụng được là con có thể con mua một cái thố. Cái thố lớn vậy nè. Con cũng sẽ bỏ đồ ăn cơm canh này kia đó, con tuần tự con múc, con đừng có quậy trộn lộn tùm lum trong đó.
Con cứ bỏ như Thầy vậy, con thấy không? Thầy cũng múc đồ ăn, Thầy cũng ăn, nhưng mà Thầy không có múc ngoài cái dĩa. Tại sao vậy? Nó giữ vệ sinh con, bởi vì, thí dụ như mình có nhiều người, người ta gắp người ta ăn, nếu mà lấy cái chiếc đũa mà khác người ta cũng ăn, vừa ăn mà người ta vừa gắp, thì nó thiếu vệ sinh lắm.
Các con thấy, các con lấy đôi đũa các con gắp, rồi các con bỏ vô, các con lấy đôi đũa khác con ăn, thì nó vệ sinh đó. Nhưng mà lỡ nó quên thì sao? Đó nhiều khi đó, cho nên vì vậy mà con bỏ trong đó rồi, bắt đầu bây giờ tới ăn. Canh cái phần ăn canh là cái phần coi như là còn cơm hay hoặc canh con mới đổ vô, còn đồ ăn con đã ăn hết, cái phần canh với cơm vô sau.
Cho nên vì vậy con thấy Thầy không? Thầy chờ cho mấy con ăn hết rồi, bây giờ canh các con ăn còn thừa, Thầy đổ hết vô Thầy ăn hết không bỏ, thấy không? Cho nên vì vậy mà Thầy ăn canh sau cùng. Thứ nhất là nó sẽ tráng được cái bát. Cái bát của mình nó có cơm bựa gì nó đóng, tráng nó không có bỏ những cái bựa cơm.
(31:45) Cho nên đức Phật dạy khi mình ăn rồi đó, mình phải lấy nước, mình đổ trong cái bát vậy đó. Mình tráng những cái bựa cơm đó đó, mình uống cho hết đừng có bỏ. Mỗi cái hột, mỗi một cái bựa cơm đó là cái giọt mồ hôi của cái người nông dân người ta làm cực lắm, cực lắm! Con thấy cái đời sống của ông Phật, nghĩ cái gì Thầy thấy cũng là cái tình hết. Nghĩ đến cái công lao của người khác, cái tình nghĩa của người ta làm ra cho mình sống thì mình ráng ăn cho hết, ăn cho sạch đừng có phí. Có nhiều người ăn thừa phí, bởi vậy Thầy thấy.
Thầy nói thuật lại cho các con nghe, chú Tâm chú giàu có, chú khá lắm. Cái chú mà cúng dường đất Thầy ngoài đó mà có căn cước khu đất ngoài đó. Khi mà thấy chư Tăng ở đây ăn một bữa chú thương lắm, bởi chú nghĩ chú ăn ba bữa, mà chư Tăng ăn một bữa thì khổ lắm, chú mới mua sữa. Cho nên về đây sữa thùng thùng vậy, mua một lần chục thùng, mà thùng lớn vậy, hộp hộp vậy. Về đây Thầy mới phát cho quý Thầy, coi như là hễ ăn hết thì vô xin. Thậm chí như quý Thầy ăn riết mà ớn đó. Con biết uống chừng cỡ độ chừng hai phần ba hộp, còn một phần dưới đít đó há, mấy Thầy nói là bột, đem bỏ qua cô Trang.
Sau này Thầy nói: “Tâm đừng cúng dường nữa, quý Thầy phí lắm. (33:02) Con làm, nghĩa là bây giờ con làm có tiền như vậy là cái phước con có. Nếu mà hết phước rồi, con sẽ ở tù”. Đâu phải chuyện dễ, làm giàu đâu phải chuyện dễ.
(33:12) Đối với Nhà nước họ sẽ thấy, họ nghi mình có thủ đoạn gì đó, chứ đâu phải khi không mà làm giàu được. Họ kiểm tra lại thử coi cách thức làm ăn như thế nào. Thầy nói thật sự ra nếu mà không có Thầy hướng dẫn, thì kể như nó ở tù đó, chứ không phải dễ đâu. Đối với Nhà nước thì đâu phải dễ, làm giàu đâu phải dễ.
Cho nên khi mà Thầy bảo: “Con bây giờ đó, mặc dù là giờ con đang ngồi trên đống vàng, con phải dừng ngay. Chứ con không dừng là Nhà nước họ kiểm tra lại trong cái quá trình mà con làm việc. Tại sao mà trong mấy năm mà con làm giàu? Họ tịch thu hết tài sản mà còn ở tù đó”. Thầy bảo dừng, Thầy nói dừng trong lúc nó rất tiếc. Bởi vì đang làm ra tiền mà, ai tiền bạc chứ nó cuốn mình ham lắm con. Đương làm ra tiền mà Thầy bảo dừng đó, đừng có cãi Thầy. Cãi Thầy là nguy hiểm. Nó nghe lời nó dừng lại. Bao nhiêu bạn bè của nó đều vô tù hết. Thậm chí còn cái thằng bạn cuối cùng là thằng Phúc đó, phải trốn đi ngoại quốc. Bao nhiêu cơ sở đều sập xuống hết.
Thậm chí cái khu đất mà cúng dường Thầy, công an nó đến, nó hỏi để mà nó tịch thu cái khu đất đó, chứ không phải gì. Nhưng mà Thầy nói cho nó rõ hết những cái ngọn ngành, xong rồi. Bởi vì Thầy nói ra thì coi như cũng có cái đức, thành ra nó cũng tin. Vì nó biết, nó biết từng gốc gác Thầy.
Khi mà nó kêu Thầy, nó nói với Trưởng lão: “Tụi này hoàn toàn biết Thầy là con người sống như thế nào, cho nên tụi này rất tin Thầy. Lời nói của Thầy đối với tụi này có trọng lượng. (34:52) Thầy ở trong chòi tranh vách đất, chứ phải Thầy ở trong chùa to thì mới chết Thầy”. Nó nói thẳng đó: “Thầy ở trong chòi tre, chùa tre vách lá như vậy thì tụi tui biết Thầy là cái người chơn phương. Cho nên lời nói Thầy tụi tui tin tưởng, không bao giờ mà tìm cách làm thoát, chứ còn người khác là chết”.
(35:15) Người khác mà mua đất vậy là có những cái thủ đoạn làm giàu đó, chứ còn Thầy thật sự Thầy hông có làm giàu, cho nên Thầy là người thật. Thầy nói cho tụi nó biết rằng Thầy làm lợi ích cho xã hội, cho Phật giáo, cho nên cái đất này Thầy mua là Thầy có mục đích. Khi Thầy đưa cái phương án, để nữa rồi lát nữa Thầy gửi cho con cái phương án cho con đọc, cái Trung Tâm An Dưỡng Từ Thiện Chơn Lạc. Tụi nó biết hết à con, nó biết hết. Từ cái phương án của Thầy đưa ra nó cũng biết hết. Nó biết hết, nó nói: “Chính Thầy có cái mục đích Thầy làm lợi ích cho xã hội lớn lắm, tụi tui biết hết. Cho nên cái lời nói của Thầy, Thầy tụi tôi tin không có bao biện”.
Bởi vì Thầy nói người thật, nói thật, cái gì cái mặt vầy mà công an cái gì nó cũng biết tỏng. Nó nói nó ở thành phố phải không, mà nó biết ở đây Thầy làm sao sao, nó biết hết rõ ràng. Từ cái thất cái nhà ở như thế nào, Thầy ngủ trên tảng đá như thế nào, nó cũng biết hết. Nó nói: “Thầy ngủ làm sao, Thầy ở làm sao tui biết, Thầy ăn ngày mấy bữa tui biết hết, rõ hết”.
Chính thật sự ra thì trải qua một cái thời gian mà Thầy ở đây, Thầy tu hành. Thì cái mặt mà công an, mà kêu công an chìm á, nó mặc đồ như mấy con vậy, nữ cũng có mà nam cũng có. Rồi nó lên đây, nó thăm nó viếng, rồi nó hỏi cái này kia. Rồi nó đến thăm cái thất của Thầy, coi thất Thầy coi như thế nào? Thấy thất Thầy có cái tảng đá. Thầy ngủ tảng đá có với cây đèn, cái bóng nhỏ vầy cho giữ không có để cho bị hao nữa. Thành ra nó đến nó thăm Thầy.
Thì có cái thằng công an, nó xin Trưởng lão: “Thầy cho con ngồi ở trên tảng đá của Thầy, để con lấy công đức của Thầy”. Nó xin nó ngồi trên tảng đá, tảng đá mà Thầy nằm đó. Thầy nói: “Được! Chứ không có gì hết. Thầy thì sống đơn giản, mà mấy cháu mà ngồi được, nữa sau này có duyên mà tu như Thầy được, thì coi như mình xả hết rồi. Mình không có còn phiền não, không còn đau khổ nữa, không còn danh lợi thì không còn khổ đau nữa. Còn không xả hết thì nó khổ đau”. Thầy chỉ nói vậy thôi. Nhưng mà Thầy biết nó là công an, là công an nó mới vào.
Thậm chí ở ngoài Hà Nội, về cái công an mà tôn giáo đó, nó cũng đến đây nữa. Nó cũng mặc đồ sơ vin như con vậy, đến đây mà xin băng với xin kinh đồ của Thầy. Băng mà cuồn băng Thầy dạy, nó xin, Thầy cho hết. Cho nên đối với cái Nhà nước này họ biết Thầy rất rõ. Cho nên Thầy yên ổn như thế này, chứ còn không khéo không yên. Vì vậy đó cho nên Thầy biết cái vụ đất mà xảy ra Phước Hải cũng là truy tố thôi, do truy tố.
(38:05) Phật tử 2: Dạ thưa Thầy! Đất ở Phước Hải đến khi nào Thầy định bắt đầu khởi công?
Trưởng lão: Coi như là Thầy giao cho, Thầy nói bởi vì Thầy làm tu sĩ, Thầy không có đứng ra Thầy khởi công làm gì hết. Cái phương án Thầy đã sẵn rồi. Rồi cái hoạ đồ của cái phương án đó, từ cái dãy nhà, từ cái cất như thế nào thế nào, Thầy giao cho cái chú đất là kiến trúc sư đó, kết hợp với chú Tâm. Hai người này sau khi xây cất, thì cái người thì chuyên môn cái ngành đó, còn một cái người thì chuyên môn làm kinh tế. Thì cái người này bỏ tiền ra cho cái người này xây. Thì người này có tiền, thì người này xây theo cái quy hoạch đó. Cái ý của Thầy đã vẽ ra rồi, thì cứ như vậy cứ xây xong rồi cúng dường Thầy.
Chứ còn Thầy không có đứng ra Thầy làm gì hết. Tiền bạc thì hai con cứ làm vậy cho Thầy, Thầy không biết gì hết. Mà hễ xong rồi bây giờ mấy con lên trình Trưởng lão: “Con đã làm xong, xin Thầy con xin cúng dường Thầy”. Thì chừng đó Thầy về, Thầy tiếp nhận thì Thầy đưa chư tăng về ở. Rồi Thầy tổ chức một cái ban bệ ở đó, ai làm ai người nào người nào.
Thì trong mấy con, mấy con có bổn phận, mấy con sẽ xây dựng này. Thì về những cái dịp từ thiện, như về mà cái dịp cư sĩ mà về mà nghỉ ngơi đó, an dưỡng đó, thì các con sẽ tổ chức một cái ban của các con để giúp đỡ cho người ta. Còn riêng Thầy thì Thầy chỉ biết hướng dẫn Tăng Ni thôi, chứ Thầy không biết hoàn toàn là cái gì từ thiện này đâu.
Cái vấn đề này là vấn đề của các con phải làm để giúp cho xã hội đó. Còn Thầy chỉ hướng dẫn tinh thần và đạo đức cho người ta thôi. Cái trách nhiệm của mỗi người đều có cái vị trí nhau. Thầy chỉ là người đi xin ăn thôi, chứ Thầy không có cất giữ tiền bạc. Còn các con thì đứa giữ tiền bạc làm gì đó thì làm, mấy con chi với nhau làm. Tổ chức làm sao mà trả lương hướng cho mọi người trong cái trung tâm này cho được đầy đủ người ta. Nghĩa là đừng có trả lương thiếu. Làm sao mấy con mà tổ chức có trường học, để con em những công nhân viên mà làm việc trong cái trung tâm này, người ta được ở đây, con em người ta được học đào tạo trong trung tâm này đi ra, đào tạo họ trở thành những cái đứa con có đạo đức.
Thầy nói hết những cái ý của Thầy cho tụi nó biết, tụi nó mong nó tổ chức, coi như là tổ chức một cái làng. Trong đó có bệnh viện, có trường học, có những cơ xưởng sản xuất làm ăn tất cả mọi cái trong đó, công nhân viên đều được ở trong khu vực đó. Cho nên khu đất đó vậy chứ khoăn nữa, cả một cái làng mà đâu. Mà đó chỉ cơ sở nhỏ thôi, chứ nó sẽ tổ chức thành cái làng. Trong cái làng đó thì kể như là nhà, bệnh viện, trường học, Thầy dự định làm cái bệnh viện tư từ thiện cũng ở khu vực đó.
Phật tử 2: Dạ, khi Thầy làm cái đó thì Chơn Như còn hay là Thầy chuyển về đó luôn dạ?
(40:56) Trưởng lão: Coi như là Thầy, coi như cái trung tâm trong đó thì nó có cái khu an dưỡng chư Tăng và chư Ni. Nghĩa là cách nói bây giờ là khu an dưỡng thôi. Trong đó coi như là trường học, rồi bệnh viện, rồi nhà dưỡng lão, nhà nuôi trẻ mồ côi. Đó! tất cả những cái này đều có, hoàn toàn có trong này hết. Rồi có những cái nhà máy sản xuất cái này cái kia nọ.
Cho nên bây giờ tụi nó sản xuất, nó làm những cái nhà máy, thì nhà máy có thể nó đặt vào cái vị trí nó xa ở cái tỉnh này hoặc tỉnh kia đi. Nhưng mà ở đâu thì con em cũng phải được gửi về chỗ đó để mà học. Tức là con em công nhân viên ở tại cái nhà máy này, được gửi về vị trí đó để mà nuôi, nuôi dưỡng học tập, ở đó mà nuôi.
Nghĩa là mấy con phải lãnh đạo, mà nuôi dưỡng mấy con em của những công nhân viên. Dù là một cái lao công ở trong cái nhà máy nào đó của của cái trung tâm này. Thì cái trung tâm đó có nhiều cái nhà máy con. Để mình sản xuất làm kinh tế để mình nuôi những cái số này. Cho nên những con em mà của những lao động, những lao công, những thợ thuyền, công chức mà làm việc trong cái nhà máy này, thì được gửi về trong lớp học đó, được mình nuôi dưỡng.
Thì có nhiều người nói Thầy mà tổ chức làm như vậy, thì nó hơn Nhà nước rồi. Thầy nói Thầy làm nhỏ, Nhà nước làm lớn thì đâu có nổi, còn Thầy làm nhỏ thì nổi. Là tại vì, Thầy làm nhỏ mà cái số Phật tử, cái số người, người ta sẽ trợ giúp được nhiều. Coi như cái bệnh viện đó con biết những bác sĩ mà ở bên Pháp đó, bây giờ cũng lớn tuổi rồi, họ cũng về đó gặp Thầy. Họ nói khi Thầy mà mở được cái bệnh viện đó, thì tụi con sẽ trang bị máy móc mua từ ở bên Pháp, tụi con đưa về bên Mỹ. Tụi con đưa về trang bị cái bệnh viện, cho nó đầy đủ những dụng cụ y khoa tối tân để cho mình làm. Và tụi con, coi như là mấy cái người, mấy cái đứa già này, tụi con sẽ xin về Việt Nam làm việc, làm việc từ thiện, để phục vụ quê hương mình.
(43:05) Nhưng mà Thầy nghĩ rằng cái chuyện này nó cũng khó lắm mấy con, không phải dễ đâu. Bây giờ từng bước, mà Thầy nghĩ rằng đời Thầy chưa làm được, chắc chắn là con cháu Thầy sẽ làm được cái điều này, để xây dựng quê hương của mình. Từ cái quê hương mình tốt được, thì mình mới hướng bên ngoài thế giới, con. Mình đã sanh ra người Việt Nam rồi, thì mình phải làm sao cho đất nước Việt Nam mình, nó có cái hướng đi lên về cái tốt của nó đi. Rồi từ cái tốt của mình nó sẽ nhân lên trên thế giới.
Chứ còn mình thấy rằng cái đất nước mình, những người mà lãnh đạo, họ bao giờ họ cũng lưu ý về sợ chính trị thôi, sợ mình làm chuyện phản lại họ thôi. Chứ mình làm tốt, họ hiểu được mình làm tốt cho quê hương, cho xứ sở. Thì những cái tốt của mình, mình cũng cảm hoá họ, họ cũng sẽ làm tốt theo mình thôi, họ cũng chuyển hóa. Bởi vì họ cũng nghĩ đến dân, đến nước chứ đâu phải. Mà họ là người Việt mà, chứ họ đâu phải nghĩ làm cá nhân cho họ đâu.
Nhưng mà khi nó không có đường hướng đường lối rồi, họ không biết cái lối thôi. Chứ nếu mà có cái mô hình nào tốt thì họ vẫn bắt chước theo à. Mà nếu mà mình làm tốt, thì Nhà nước họ vẫn thấy cái này tốt thì họ ủng hộ, rồi bắt đầu họ bắt chước theo. Rồi bắt chước theo thì những cán bộ họ trở thành tốt, thì tất cả đất nước mình tốt chứ sao.
Nhưng mà mình làm tốt, chứ còn mình làm xấu coi chừng mình vì cá nhân, rồi mình vì tiền mà từ thiện này kia nọ, rồi mình lũng đoạn nhau trong này thì…
Phật tử: Nguy cơ mình chết.
Trưởng lão: Cái đó là cái chết. Bởi vậy, Thầy nói khi nào sách Đạo Đức Thầy ra đời, thì trung tâm an dưỡng này mới ra nổi. Chứ còn nó chưa có đạo đức đây, mà mấy con mà cùng nhau mà làm việc đó, coi chừng tiền bạc nó vô nhiều, rồi mấy con mới choảng với nhau, mới hại với nhau, mới giết nhau đó, khổ lắm. Mấy con làm riết rồi Nhà nước họ coi mấy con không ra gì hết, họ bắt bỏ tù mấy con đó. Có những cái sự gian xảo, để mà làm giàu cá nhân mình đó, thì nó lòi ra, thì Nhà nước mới bắt cả đám đi thôi. Cho nên cái đạo đức nó ra trước, rồi bắt đầu nó sẽ thực hành những cái điều kiện sau này.
(45:09) Khi mà con đọc cái tập một mà Thầy dạy về đạo đức, Thầy kêu gọi những cái nhà có khả năng, có vốn liếng hùn nhau để mà xoá đói giảm nghèo cho quê hương chúng ta. Không những quê hương chúng ta mà trên thế giới, nước nào nghèo đói chúng ta có thể mở mang tại cái địa phương đó, tại cái xứ đó. Để giúp cho những người đó, họ có công ăn việc làm để xoá đói họ, giảm cái nghèo đói, họ có công việc làm hẳn hoi. Rồi mình sản xuất ra những cái thực phẩm, sản xuất ra những cái hàng tiêu dùng nào đó, để phục vụ lại cái đời sống con người thì quá tuyệt.
Thầy yêu cầu, Thầy xin Chính Phủ, tất cả những vị mà lãnh đạo đất nước nào, bất kỳ đất nước nào ở trên đất nước này, hãy vì dân tộc của mình, mà giúp cho những người có khả năng. Họ vì cái lòng thương yêu của họ đối với con người, mà họ làm vì lợi ích đó, chứ không phải là vì cái lợi tư lợi của họ.
(45:59) Bây giờ họ ngồi không, bây giờ họ ăn cũng không hết của. Mấy người đó họ đã có khả năng, họ giàu rồi, bây giờ họ ngồi không họ cũng. Nhưng mà vì những ngày họ còn sống, họ muốn lợi ích cho con người trên hành tinh này. Cho nên họ mới đem đầu óc họ, họ mới đem sức lực ra để mà họ giúp cho những người bất hạnh.
(46:16) Mà giúp những người bất hạnh, Thầy sẽ kêu mà các nhà từ thiện đừng có đem tiền mà đút miệng voi, hổng ăn trật mà nó không có, nó cũng nghèo nó cũng hoàn nghèo. Mà hãy làm cho nó có những công việc làm, thì tự nó, nó làm thì nó phải giàu. Chứ đừng có nay đem một triệu, hai triệu, năm triệu, mười triệu để cứu cho nhà nghèo chỗ này, nó ăn rồi nó cũng nghèo.
Bởi vì nó ăn hết rồi, nó lại còn sinh làm biếng nữa, nó chờ đợi cho mình cho nữa, thì nó còn nghèo nữa. Hơn là mình làm sao bắt buộc nó phải đi ra nó làm. Bởi vì đạo Phật nói mình phải tự lực cứu mình, thì mình làm mình mới có ăn. Còn mình ngồi đây, mình chờ người ta cho mình ăn, cho riết mình nghèo càng nghèo nữa. Mình cứ nhận của bố thí riết mình nghèo.
Còn bây giờ mình cho họ được cái nghề họ làm, rồi từ cái nghề đó họ sản xuất ra, mình có khả năng, mình mới đem cái hàng sản xuất đó mình bán, mình mới lấy cái số tiền đó mình trả lại họ. Họ sống bây giờ họ có dư, họ nuôi vợ, nuôi con, họ có nhà có cửa đầy đủ. Có phải ngay chỗ này là phải mình bố thí ngay cái việc tốt không?
Thầy sẽ viết sách Đạo Đức Thầy sẽ nói những cái hành động đạo đức đúng còn những hành động đạo đức sai. Thí dụ như bây giờ người ta nghèo, người ta sống ở trong những cái xóm lụp xụp đi, thấy không? Bỗng dưng cái cháy nhà, cái bà con mình xúm nhau cho. Họ nói: “Trời ơi, phải mà mình cháy nhà chừng mấy lần như vậy là mình làm giàu, khỏi cần làm mà cũng giàu”.
Rồi từ cái chỗ cháy nhà đó, người ta mới cứu trợ. Nước này nước kia góp nhau cứu trợ, mấy người này bắt đầu bây giờ họ có nhà cửa tốt. Không! Làm như vậy là bất công, bất công. Thầy thấy cứu trợ như vậy là phi đạo đức. Đạo đức mà không có đạo đức chút nào đối với Thầy làm cái chuyện đó. Cho nên Thầy viết bộ sách Đạo Đức, Thầy vạch hết cả những cái việc làm đạo đức thiếu đạo đức. Hầu hết là các nhà từ thiện này chỉ làm danh thôi, chứ không phải làm từ thiện thật sự để cứu người đâu.
Bây giờ, Thầy nói thí dụ như cái lũ lụt năm rồi, ở đồng bằng sông Cửu Long. Trong khi đó chúng ta đóng góp nhau cứu trợ trong cái lúc lũ lụt. Chứ sau lũ lụt rồi không cứu trợ nữa, mà giải quyết cho họ có công ăn việc làm, chứ không cứu trợ nữa. Chứ không có cứ ít bữa có đoàn này đến cứu trợ thêm một thùng mì, ít bữa đem cứu trợ đến một số quần áo, như vậy là sai.
Không cứu trợ, giải quyết cho họ sống trong cái giai đoạn đó thôi. Rồi sau đó họ phải tự giải quyết cuộc sống của họ, bằng cách là mình trợ giúp cho họ có nghề nghiệp sống. Hay là mình trợ giúp cho họ phục hồi lại những cái cơ sở họ đã bị tiêu tan, thì cái đó hay. Để từ đó họ bằng tay họ làm ra họ sống, thì họ không có gì
(48:50) Phật tử 2: Cái đó hiện tại bên Mỹ thì có một số nơi vẫn thường xuyên kêu gọi cứu trợ đó thưa Thầy, vẫn kêu gọi đóng góp rồi cứu trợ mấy người đó.
Trưởng lão: Con thấy bây giờ, thí dụ nghe vậy đó, bắt đầu bên đây. Giải quyết là phải đất nước này người ta giải quyết cho, người ta đâu có để đồng bào người ta đói. Bây giờ ở bên Mỹ kêu, thì các con đi qua, các con cũng cứu trợ cũng vậy, làm cho mấy người này họ lại lười biếng thêm. Thay vì cái số tiền mà các con cứu trợ đó, bây giờ chúng tôi chuẩn bị đồng bằng sông Cửu Long sẽ mở cái nhà máy gì để cho một số người thất nghiệp, số người mà bị tiêu của cải tài sản, họ giàu lên, làm ăn khá lên.
Phật tử 1: Dạ, dạ đó, đó mới đúng đó, cái đó mới đúng đó, dạ.
Trưởng lão: Cái đó cái làm việc từ thiện thật sự đó.
Phật tử 1: Chứ cứ đưa cá nhân mỗi người vài ngàn hay là gì đó vài trăm đại khái vậy thành ra cuối cùng họ cũng họ tiêu hết.
Trưởng lão: Họ cũng đút vô đó, rồi họ ăn cũng rồi tiêu à, chẳng có gì hết à. Thí dụ như chẳng hạn bây giờ các con nè, chùa này đi gọi phật tử đóng góp một mớ, chùa kia gọi đóng góp một mớ. Giáo hội nọ, cơ quan từ thiện kia, kêu gọi đóng góp. Bao nhiêu người Việt mình nói nghĩ thương đồng bào của mình đang khổ, chứ ai không biết, phải không? Ai cũng đóng góp vậy, đóng góp bằng cách từ thiện không đúng cách rồi. Cứ đem bỏ miệng, nghèo đói họ cứ ngồi họ ăn, chứ họ làm biết gì làm ăn nữa. Thành ra ai, ai nuôi họ sau này. Cho nên dân nghèo cứ nghèo hoài à, đâu có làm sao hơn được nữa. Như bây giờ ai cứu nổi? Rồi bây giờ họ cũng không việc làm, rồi cuối cùng họ cũng đói, rồi như không.
Cho nên Thầy nói thật sự, khi mà đóng góp được số tiền mà các con họp nhau vậy, các chùa mà đem về hàng tỷ bạc chứ đâu phải ít đâu. Trong khi đó hàng tỷ bạc chúng ta mở cái gì để người ta cứu trợ được, chứ đâu phải không. Tức là chúng ta sẽ giúp được một số người. Mà bao nhiêu người làm nổi lên bao nhiêu cái nhà máy, thì chúng ta sẽ phục hồi lại những đồng ruộng của họ nè. Chúng ta chỉ đạo cách thức. Những người mà có những học thức về canh nông, kỹ sư canh nông đồ, những người kiến thức họ về, họ điều khiển tất cả những cái sự. Chứ nông dân mình họ đâu có biết đâu. Bởi vì ở bên Mỹ người ta nói khi làm nông dân cũng phải có cấp bằng kỹ sư nữa. Kỹ sư canh nông, nó mới ra làm nông dân mới được. Còn Việt Nam của mình cái ông cày ruộng, ổng cũng ra làm nông dân, cho nên ổng mới đói.
Cho nên vì vậy một cái ông mà kỹ sư canh nông, mà ổng ra ổng điều khiển cái đồng ruộng, thì bây giờ cái đồng ruộng bây lớn đây, họ làm dư sức. Một ông làm dư sức cái đồng ruộng này. Còn bây giờ ở đây, nó phải là hai chục ông nông dân làm chưa hết cái đồng ruộng này, phải không? Mà trong khi làm, hai chục ông nông dân này làm, chứ chưa bằng một người người ta làm. Người ta làm, người ta nuôi cả gia đình của hai chục ông nông dân này mà no mà đủ. Người ta sử dụng máy móc, người ta này kia. Thì cái vốn mà mọi người mà đóng góp làm từ thiện, người ta mở mang những cơ sở. Làm lớn cái cơ sở nông nghiệp ở đây thử coi, thử xem, thì cái sức lao động của nông dân nó giảm xuống biết bao nhiêu.
Thí dụ như bây giờ cái đồng ruộng này, mà cỡ có chiếc trực thăng mà bay ngang nó xịt thuốc rầy, thì nông dân có cần gì mà phải mà bị bệnh thuốc rầy, bị say bị này kia đâu. Nó bay trên trời nó rà xuống vầy nó phun. Nó bay tới bay lui hai vòng, là kể như là trong vòng tích tắc có bao nhiêu phút đồng hồ à, mà cái đồng ruộng này nó xịt đầy đủ không có thiếu chỗ nào, có phải tiện không?
Mà chỉ có mấy cái người mà người ta có học thức, người ta biết và đồng thời người ta kết hợp. Người ta xin viện trợ cho nông dân trong cái cảnh người ta đang đói, bấy giờ cần phải sử dụng cái đồng tiền như vậy. Thì những máy bay mà của quân đội, máy bay trực thăng quân đội nó sẵn sàng hỗ trợ, yểm trợ liền tức khắc. Nó chở mấy cái thùng thuốc rầy đến phun một lát thì đầy hết. Nông dân mình lo làm công chuyện khác, không phải đỡ sao? sản xuất ra cái khác. Con thấy không?
Thầy nói thật sự, Thầy không biết nhưng mà Thầy nghĩ rằng cái nền đạo đức đó phải xây dựng được. Mà trong cái giai đoạn của chúng ta là giai đoạn hiện đại hoá. Khoa học hiện đại hoá đời sống mà, nó không còn mà cái đời sống mà như ngày xưa nữa, tức là phải dùng cái lao động bằng cái sức lao động con người quá. Cho nên, chúng ta sử dụng đồng ruộng, chúng ta có thể bằng cách đem lại cái sự sống cho nông dân rất là giàu.
Rồi từ đó chúng ta mở cái nhà máy chà lúa tại ngay cái địa phương đó, phải không? Gạo lúa của nông dân đem vô đây, nó trở thành là công nhân làm, chứ không phải nông dân làm riêng nữa. Bị vì cái ông kỹ sư này ổng đứng ra ổng tổ chức, thì cả cái đồng ruộng này nó thành ra cái tập thể chứ con. Vô tập thể mà nó không còn là người ta bị buộc vô tập thể. Mà trong khi mà thuỷ tai như vậy đó, thì nó khiến cho người ta đi vào cái tập thể mà rất là, với một cái tổ chức rất hay, mà không có bóc lột trong đó. Bởi vậy người ta nhắm được vào cái hướng từ thiện. Cho nên, khi mà đọc sách Đạo Đức thì Thầy sẽ vẽ ra cái hình ảnh này hết. Vẽ hình ảnh đạo đức để xây dựng đạo đức.
(53:54) Phật tử 1: Kính bạch Thầy, trước khi con qua đây đó, thì có một lần, con có email con xin phép Thầy rằng có một người bạn thì cũng muốn qua đây tu chung với con. Tại vì trong lúc đó, trong thời gian đó, ảnh gặp một cái hoàn cảnh rất là khó khăn. Nhưng mà khi mà ảnh mua vé máy bay xong rồi, thì ảnh lại được người ta, nghĩa là cho ảnh một cái công việc khác. Vì vậy mà ảnh phải đợi công việc người ta cho ảnh làm. Do đó, ảnh không có qua được với con trong cái kỳ này.
Thì có một cái câu hỏi mà con xin hỏi Thầy để xin Thầy từ bi chỉ dạy cho ảnh. Là lúc xưa đó, ảnh tu theo Mật Tông. Mà ông Thầy Mật Tông đó, thì viết ra những cái câu chú để cho ảnh, ảnh tụng, ảnh tu, ảnh đọc. Chính ông Thầy nhiều khi còn không thuộc cái câu chú bằng anh đó. Tại vì ảnh tu quá là miên mật đi. Nhưng mà không ngờ ảnh tu không biết làm sao là càng ngày cái sân ảnh quá dữ dội. Trong cái kỳ vừa rồi, may là ảnh bị người ta cho ảnh nghỉ, chứ nếu không thì án mạng xảy ra ở trong cái nơi ảnh làm việc.
Thành ra vì vậy, mà bà vợ ảnh là Từ Tâm Tịnh đó thưa Thầy, khuyên ảnh là: “Thôi thì bây giờ anh phải trở lại, với lại học với Hoà thượng, để Hoà thượng chỉ cho anh cách xả tâm như thế nào để cho cái sân của anh nó giảm xuống đi”. Vì vậy mà ảnh muốn qua đây, nhưng mà rất tiếc là ảnh chưa có đủ duyên. Thành ra xin Thầy có cái câu khuyên nào cho anh đó mà giảm được cái lòng sân không?
Trưởng lão: Bây giờ Thầy khuyên như thế này, thì con khi mà qua đó, thì con gặp con nói. Nếu mà có đủ duyên thì về gặp Thầy thì tốt lắm. Nhưng mà không có duyên. Bây giờ vì cái cuộc sống của mình, cho nên như vậy mà về cứ nhắc. Bây giờ mình biết rõ ràng, tâm sân của mình nó mạnh lắm. Cứ dùng cái pháp hướng con nhớ không: “Tâm đừng có sân nữa”.
Phật tử 2: (Không nghe rõ)
Trưởng lão: Thầy, đây Thầy xin nhận, Thầy cũng ít khi dùng nó lắm nhưng mà cái lòng con.
(56:17) Con về nhắc hằng ngày anh cứ thường phải nhớ, phải nhớ pháp hướng nhắc: “Cái tâm không có sân nữa. Sân là khổ lắm, khổ mình mà khổ người, mà có thể gây án mạng. Từ đây về sau cái tâm đừng có sân”. Cứ nhắc vậy đi, cứ nhắc đừng có sân thôi. Nội bây nhiêu đó thôi. Nhắc riết hết sân thì nó hết tham à. Một cái câu đó thôi cứ nhắc. Nhắc rồi khi nào nó có chuyện gì, cái bắt đầu nó nhảy ra, nó nhắc ảnh đó. Nó nhắc “Đừng có sân”. Thì lúc bấy giờ nó có hiệu quả rồi đó. Mình nhắc riết nó thành ra một cái người, cái người thứ hai của mình. Cho nên cái người này nó sẽ sống vĩnh viễn với mình.
Cho nên con nên về nói, anh bây giờ anh chỉ có mình anh thôi, cho nên sân anh chỉ biết sân thôi, chứ anh không biết gì khác đâu. Anh phải tập anh nhắc, anh nhắc: “Cái tâm không có sân nữa, đừng có sân nữa, sân là khổ”. Anh nhắc nó vậy đi. Thì cứ thỉnh thoảng anh cứ nhắc: “Cái tâm đừng có sân”. Anh tác ý anh nhắc như vậy. Rồi mai kia mốt nọ có điều kiện gì làm cho anh sân thì nó sẽ nhắc anh, cái đó nó sẽ nhắc anh. Và khi mà nó nhắc anh được thì anh hết sân, có vậy thôi. Anh ráng nhắc đi. Nhắc rồi sẽ có một người sẽ nhắc anh. Thì con về con nói.
Thầy sẽ cứu ông bạn của con đó sẽ không còn sân nữa, và đừng có tu tập Mật Tông nữa. Tu tập bị ức chế đó. Niệm chú nó ức chế, bởi vì cố gắng mình niệm, mình rất là chuyên cần, thì cái niệm trong đầu mình nó không có khởi. Mà nó không khởi thì nó bị ức chế, mà cái tâm sân của người này nó đã sẵn rồi. Cho nên càng ức nhiều thì nó lại sân, khi có chuyện nó sân nhiều. Thành ra do bây giờ thì mình tác ý một cái tướng khác, để thực hiện cái tướng khác không còn sân nữa. Thì do đó khi cái tướng này nó thuần thục rồi, có chuyện gì nó nhảy ra nó nhắc mình.
Chứ còn cái lực của mình chưa đủ để mà nó hết sân, nó chưa đâu. Nhưng mà nó nhắc mình rồi, mình hạ xuống, mình dừng xuống. Mình dừng xuống, nó làm cho cái lực của sân nó giảm đi. Mà mỗi lần nó giảm lần ít, lần ít, lần ít, giảm riết cái nó hết. Đó thấy không? Nó nhờ cái người nhắc mà nó làm giảm cái cơn sân, cái lực sân nó giảm đi. Mà cứ nó giảm lần, giảm lần tới khi mà nó hết. Đó! Đây cũng như là mình lấy một cái mình cũng như là mình quét dần, mòn dần hay hoặc là cũng như một cục ngọc mà mình lau dần cái bụi, lau riết cái bụi nó sạch, thì cái cục ngọc nó hiện ra.
Đó, mình lau cho hết cái bụi sân, để sân nó hết thì nó không còn sân nữa. Mà phải lau lần lần, đó thì cái đó là như vậy. Con về con hướng dẫn đi. Thầy nói nếu mà chuyên cần là trong sáu tháng là hết sân đó. Cứ thường xuyên nhắc, nhớ nhắc thôi, thỉnh thoảng nhắc thôi, đang làm thì mình đừng có nhắc. Bây giờ mình không sân nhưng mình cứ nhắc: “Tâm không có có sân nữa, sân là khổ, sân làm khổ mình khổ người, tâm từ đây về sau chừa”. Đó nhắc như vậy, cứ nhớ nhắc như vậy.
Phật tử 1: Dạ con đội ơn Thầy.
(59:10) Phật tử 1: Dạ thưa còn một câu hỏi nữa, do bà, coi như là cái này của Từ Tâm Tịnh. Thưa Từ Tâm Tịnh là một thời gian tu Thiền, không biết làm sao mà bị bệnh thận. Cái thận nó coi như là bị không làm việc nữa Thầy. Nếu mà một người thận mà không làm việc nữa đó, thì ở bên Mỹ có thể là dùng phương pháp là lọc thận hay là thay cái quả thận mới của một cái người khác.
Thì trong cái thời gian mà chị bị như vậy thì chị cũng có niệm Phật, có nghĩa là làm mọi cách như uống thuốc này kia, làm mọi cách như là làm việc từ thiện. Không biết là Thầy có cái phương pháp nào chỉ cho chị để cho cái trái thận của chị hoạt động trở lại không?
Trưởng lão: Bây giờ chỉ còn có cái điều kiện là, thứ nhất là mình có những cái phương pháp. Về cái phương pháp thì nó cũng có. Nhưng mà nó ngay cả mà cái sự tu, do cái sự tu mình tập nó sai, nó ảnh hưởng đến trái thận.
Thì bây giờ, thứ nhất là mình đình chỉ lại, mình không tu cái pháp đó nữa. Thí dụ như con mà cái thận con yếu sẵn rồi, con ngồi lâu con cũng bị đau thận, nó không hoạt động đó, ngồi lâu. Thí dụ bây giờ mình ngồi lâu, mình ráng một tiếng, hai tiếng hay ba tiếng đồng hồ mà cái thận mình yếu, nó dễ bị sạn thận mấy con. Nó không có lọc cái hạt sạn đó, chứ không phải không đâu.
Cho nên vì vậy đó cái ngồi là khi nào mà nó ngưng hoạt động đó, thì mình ngồi lâu mới tốt. Mà nó còn hoạt động mà cứ bắt buộc nó ngồi, nó chịu đựng hoài đó, cái thận nó sẽ không tốt, nó không tốt. Cho nên nó cũng có nằm về vấn đề tu sai mà nó ảnh hưởng đến cái phần nội tạng của mình, không cái phần này thì nó cũng đến cái phần khác.
Đó, thì do đó bây giờ chúng ta tu đúng, tu đúng thì coi như là khi đã bị bệnh, thì đầu tiên là mình phải trị thuốc thang. Chứ cái sức của mình không có đủ, để mình đề kháng lại mà chống lại những cái bệnh tật ở trong người. Cái mô bệnh ở trong đó, mình không đủ sức chống lại đâu.
Cho nên mình uống thuốc để cho nó phục hồi lại, nhờ thuốc nó trợ giúp, nó đề kháng hoặc nó phục hồi lại những cái. Nó làm nó cho kích thích, nó làm cho làm việc trở lại, nó thì đầu tiên đó là mình sử dụng thuốc. Cái thứ hai, nếu mà cái thận quá nó không có hoạt động được nữa, nó quá tệ. Thì nó quá tệ, thì mình sẽ như người ta, thì ở ngoài đời thì người ta thay, người ta thay nếu mà điều kiện nó quá tệ. Thì mình cũng nên tập những cái động tác, động tác về cái phần cái cơ thể, mà về phần thận của mình. Mình xoa hay hoặc là mình vận động nó, những phương pháp mà dưỡng sinh đó.
Đồng thời thì mình dùng pháp hướng. Mỗi lần mình vận động như vậy thì mình nhắc pháp hướng, để dùng cái nội lực của tâm của mình: “Cái thận hãy hoạt động trở lại, hoạt động bình thường trở lại”. Mình nhắc nó vậy, mình vô tình mình nhắc nó thôi. Nhưng mà mỗi khi mình nhắc, thì mình có sự hoạt động. Trước khi mình tập những cái phương pháp dưỡng sinh về cái phần cơ thể, cái phần dưới, cái phần thận của mình đó. Thì mỗi khi mình tập luyện như vậy đó, thì mình nhắc trước khi đó mình tập luyện. Thì đồng thời những cái sự co bóp của cơ của mình trong đó, nó làm cho trái thận của mình, nó bắt đầu nó hoạt động, vậy là hết rồi.
Hễ khi mình nhắc là mình phải hoạt động nó, mình phải hoạt động nó. Mình cúi xuống, mình ngửa ra, hoặc mình nghiêng qua, mình ấy lại. Để cho cái phần bàn toạ của mình nó hoạt động, cái phần của cái thận, bàng quang của mình đó nó động, nó động ở trong đó. Thì khi mình nhắc, thì mình lúc lắc thì nó động rồi. Nó động thì coi như nó phải hoạt động. Chứ đừng có ngồi im. Ngồi im tức là nó bị cô đọng lại, nó không hoạt động, con hiểu chưa? Cho nên khi mình hướng tâm mình nhắc, để cho nhờ cái tâm lực nó dẫn dắt cho cái thận nó hoạt động lại. Thì một thời gian, nếu bền chí thì chừng một tháng đến ba tháng, thì coi như nó bình thường nó không đau nữa, con.
(1:03:27) À! Nhưng mà nhớ là trong khi đó, thì cái người đó phải sống trong những cái lúc mà mình điều trị bệnh vậy đó, mình sống cái đời sống thanh tịnh con. Mình ăn chay, mình đừng ăn thịt chúng sanh nữa, để nó giảm thiểu cái sự đau khổ của chúng sanh. Trong những ngày nào đó, mình lấy cái ngày đó mình Thọ Bát Quan Trai thì ngày đó mình luyện tập là hay lắm. Vì đó là cái lời của đức Phật dạy, mình muốn ước nguyện một cái điều gì được, thì mình phải sống cái đời sống thanh tịnh, đời sống giới luật. Thì mình ước nguyện sẽ được và đồng thời mình ước nguyện bằng cách mình có hành động đúng. Tức là mình thắp đuốc lên mà đi đó. Tự mình hoạt động cho nó, thì nó sẽ hoạt động trở lại, chứ đừng ngồi im, ngồi im thì không được. Thí dụ bây giờ Thầy bảo, cái thận không hoạt động mà Thầy cứ ngồi im lìm vậy, Thầy không nhúc nhích nó chút nào thì nó làm sao nó hoạt động? Thầy phải hoạt động.
Con nhớ về hướng dẫn cho cái người bạn con, để cho họ biết cách và từ đây về sau thì họ đừng có tu Thiền đó nữa. Bởi vì tu thì coi như nó bị một cái vết, bây giờ mình tu thì nó trở lại cũ. Còn mình xả, mình không tu nữa, mình thấy cái đó sai đưa đến bệnh tật rồi. Còn cái gì mà đưa đến cho mình được giải thoát, thì mình tiếp tục mình tu, mà đưa đến cái sự không giải thoát thì mình bỏ. Đừng có cố chấp, mình đừng có bị cái kiến chấp nó, cho nó là hay. Mà tại mình tu chưa tới, đừng nghe những cái lời đó. Khi mình đã bị bệnh rồi, thì nó là cái pháp sai. Nó không hợp với mình rồi, thì mình bỏ, mình tu tập cái có lợi ích.
Thà là mình đừng tu, mà đã tu thì phải tu có lợi ích. Cũng như mình không làm thì thôi, mà mình làm thì phải làm cho nó có lợi ích. Như bây giờ con làm công không, mà con không có ăn gì hết, thì con làm, làm gì đây, thấy không? Còn bây giờ con làm ít ra con cũng phải nhận được thù lao, con phải nhận có cái lương hưởng con mới làm chứ, thì nó có nó làm. Còn bây giờ con tu mà nó không lợi ích cho con, mà nó còn có hại cho con thêm, thì con tu làm gì? Do cái chỗ đó nhận xét, cho nên đức Phật nói: “Đừng có tin gì hết mà hãy tin cái gì mình làm có lợi ích cho mình, cho người thì mình làm”. Ngay cả lời của đức Phật nói mình cũng đừng có tin nữa.
Nhưng mà lời ông Phật nói mình làm coi nó có lợi ích không, nó có lợi ích thì mình tin mình làm. Chứ đừng có tin Thầy tổ; đừng có tin kinh điển; đừng có tin cái truyền thuyết; đừng có tin cái người có uy quyền hay hoặc là tin những cái bậc Sa môn. Đức Phật dạy mình mười cái điều không có tin mà. Mà tin cái gì mình làm có lợi cho mình. Cho nên Thầy nói bây giờ không lẽ mình đi làm lao công, mà người ta không trả lương, mà cứ làm cho người ta không. Mình không có lợi gì hết, mình nhịn đói làm cho người ta nữa, thì chuyện đó không ai làm đâu. Thì mình tu cũng vậy, tu phải có lợi, tu không có lợi mình đừng tu.
(1:06:04) Phật tử 1: Con xin đội ơn Thầy, dạ con biết giờ nó cũng trễ rồi, xin trước khi con về, không biết là Thầy có nhắn nhủ gì cho anh em, các anh em trong nhóm Nguyên Thủy của chúng con không?
Trưởng lão: Có chứ! Thầy sẽ nhắc, mấy con về nhắc lại trong nhóm Nguyên Thuỷ của mấy con: “Hãy ráng sống một đời sống đạo đức, không làm khổ mình, khổ người”. Nhất là những người trong gia đình của mình là những người gần nhất, mình không nên được làm khổ.
Nghĩa là dù bất cứ cách gì, một tiếng xin lỗi của mình đối với vợ con, không có thiệt thòi chỗ nào hết đâu. Cũng như người vợ hay hoặc con mà xin lỗi ba, hay xin lỗi chồng mình không có thiệt thòi chỗ nào hết. Khi mình thấy cái điều đó đã làm buồn lòng người khác thì mình xin lỗi. Thì nó làm cho người ta vui trở lại, thì đó là mình đem lại hạnh phúc cho chính bản thân mình. Các con nhớ điều đó!
Nhất là những người trong gia đình của mình, mình phải cần khắc phục, đem lại hạnh phúc cho nhau. Bởi vì nó là cái cộng nghiệp của nhân quả. Mà mình đã không chuyển được cái nhân quả ác, mà để tạo cái nhân quả thiện cho cuộc sống cho mình, thì đó là mình không có đủ trí tuệ. Còn mình sống mình đủ trí tuệ, mình chuyển cái ác, làm cho cái gia đình của mình đừng khổ nữa, thì cái đó là cái hay nhất của đạo Phật. Mà các con là nhóm Nguyên Thuỷ của Phật phải sống như vậy mới là hạnh phúc, mới là xứng đáng là đệ tử của Phật. Thầy khuyên như vậy.
Nhớ từng chút, từng chút mỗi mỗi, lỡ có một cái lời nói, một cái hành động nào đó mà làm buồn phiền lòng nhau thì nên xin lỗi nhau, không có mất mát cái chỗ nào hết. Mà chính nó lại nâng cao cái giá trị cho mình, biết hạ mình xuống để tìm hạnh phúc cho nhau thì điều đó hay nhất. Chứ đừng có nghĩ rằng tôi phải, tôi đúng như thế này mà biểu tôi xin lỗi là không được. Chừng nào tôi lầm lỗi, tôi mới xin thì cái điều đó không phải. Dù có lỗi hay không lỗi mà có đau khổ thì trong đó phải có lỗi, con hiểu chưa?
Cho nên mình xin lỗi, để làm cho cuộc sống nó an ổn. Từ đó người ta sẽ thấy được, đứng trên góc độ mình chuyển được cái nhân quả khổ, chứ không phải người này lỗi mà người kia lỗi. Mà đây là nhân quả, cái quả khổ chứ không phải là các con làm khổ cho nhau, các con hiểu không? Cái nhân quả.
Mà cái nhân quả từ đâu có? Từ miệng các con, từ hành động các con, vì vậy mà nó vô tình, các con nói ra một lời nói, làm cho người khác buồn. Thì nó là nhân quả mà. Mà các con không có chuyển nó bằng cái câu xin lỗi của các con và bằng cái mà các con không sửa những cái lỗi của mình, cái lời nói của mình, mai mốt đừng nói lại nữa, các con hiểu không?
Đó là mình chuyển nhân quả mình, để đem lại cái nhân, cái quả tốt, cái quả thiện, cái quả giải thoát. Tức là mình chuyển cái quả ác chứ gì? để mình sống toàn thiện chứ gì? Thì đó là các con đã biết sống nhân quả. Thầy khuyên các con làm điều đó thì các con nghe lời Thầy, thì Thầy nói người nào là đệ tử của Thầy cũng hạnh phúc, không có người nào khổ nữa, Thầy mang đến cái một cái đời sống cho các con tràn trề những cái sự giải thoát, tràn trề những cái sự hạnh phúc, mà từ lâu các con chưa tìm được. Hôm nay, Thầy mang cho các con, để các con tìm được cái hạnh phúc của cuộc sống của các con, đấy là cũng hạnh phúc rồi, các con. Các con nghe lời Thầy các con phải làm được.
Trước khi có điều gì, có chuyện gì buồn mà tức, thì các con nhớ lời Thầy, xin lỗi không có mất mát chỗ nào hết đâu, mà nó chuyển nhân quả. Các con hãy thấy nó là nhân quả, chứ đừng có thấy nó đúng. Mà các con thấy đúng, các con không dám xin lỗi đâu các con. Mình đúng mà mình xin lỗi gì, thì không phải đâu. Xin lỗi để mà chuyển nhân quả các con, các con nhớ kỹ. Những cái lời nói này, các con sẽ truyền đạt lại cho anh em trong nhóm của các con để họ biết. Chứ họ thấy họ đâu có lỗi gì đâu mà phải xin lỗi. Nhưng mà cái lỗi của nhân quả, chứ không phải là cái lỗi của các con.
Cái nhân quả mình đã sống cộng nghiệp đó, thì cái nhân quả nó đang chi phối mình từng chút, vô tình mình không có cảnh giác được. Mình nói cái lời nói, cái lời nói đúng chứ không phải lời nói sai đâu con. Nhưng mà cái người nghe cái lời nói đó, làm cho người ta đau khổ. Cái đúng của mình mà cái đau khổ của người khác thì nhân quả, chứ nó không phải chuyện thường.
Đó thì cho nên vì vậy mà Thầy bảo là các con cố gắng mà chuyển cái nhân quả đi, đừng có thấy lỗi thấy phải gì hết, mà hãy thấy nó là nhân quả để chuyển nó. Hễ có khổ trong đó, có buồn, có phiền não, có buồn một chút là các con biết đó là nhân quả, hãy mau mau chuyển. Khéo léo chuyển xả nó đi, thì các con hạnh phúc. Tu là như vậy đó.
Mà các con luôn luôn, các con sống hạnh phúc, các con sống không có làm phiền nhau, thì đó là các con, tâm các con thấy như thế nào? An lạc! Mà an lạc thì các con hàng ngày, các con lại sống để quét sạch những cái mầm lậu hoặc, cái mầm tái sanh luân hồi của mình. Tức là một ngày các con làm Phật, là các con quét những cái vi tế đi. Thì nó đúng tới cái duyên mà nó đúng rồi, thì cái tâm nó không phóng dật nữa, thì chừng đó các con đã thành tựu chứ gì. Thì mình cứ sống, mình cứ mình sống, rồi mình tập tu như vậy. Mình sống đến một ngày nào đó, nó đúng lúc thì các con sẽ có đủ duyên, các con sẽ gặp lại Thầy.
(1:11:12) Gặp lại Thầy thì Thầy dạy các con cách thức nhập Định. Chứ các con nhập xong, các con làm chủ. Thì thôi bây giờ cuộc đời của mình nó muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống. Ai chửi mình như cục đất rồi, đâu có giận hờn ai nữa, thì bây giờ còn tu cái gì mấy con? Như Phật tại thế rồi còn cái gì mà tu? Cho nên, lúc bấy giờ có ai làm động được mình đâu? Mình coi như là mang cái lốt người nhưng mà cái tâm hồn là tâm hồn Thánh rồi, không ai mà xâm chiếm mình được nữa rồi đó.
À, bây giờ tới giờ mà sắp sửa chết, thì các con nói: “Bây giờ con sẽ thấy rằng cái duyên của con hết, thôi vợ con ở lại, còn những cái nhân quả phải trả cho hết, đừng có làm khổ cho nhau nữa”. Con khuyên lời nói rồi, ra đi tự tại. Nghĩa là vợ, con hãy cố gắng mà thực hiện được như vậy, để cho mọi người họ sẽ nương theo cái chỗ mà tự tại của mình, họ cố gắng họ tu.
Thì các con, ví dụ như con bây giờ là làm chồng nè, rồi làm cha ở trong gia đình nè, mà các con làm vậy, các con nó phục, nó mến ghê lắm, vợ con cũng kính phục. Sau khi ảnh mất ra đi rồi, mình phải nỗ lực để cho mình gặp ảnh trong Niết Bàn chớ, phải không con?
Không lẽ bây giờ, vợ chồng chung sống với nhau một cái thời gian như thế này, bây giờ ảnh mất đi, mình không biết ảnh đi đâu. Thầy đã nói rồi mà, nghĩa là chỉ có mình tu tập, thì mình sẽ gặp nhau trong Niết Bàn. Tại vì ảnh tự tại như vậy, chắc chắn là ảnh phải ở Niết Bàn, chứ còn ở chỗ nào phải không? Mà bây giờ mình cũng đi được vào chỗ đó. Thì mình đang sống, mình cũng biết chỗ đó thì cũng gặp ảnh được rồi. Thì tới chừng chết cũng ở đó chứ đâu, có gì đâu mà xa cách nhau, có đâu là chia cắt nhau đâu, chia lìa nhau đâu.
Cho nên mình chỉ tu, tu để mà gặp nhau. Và đồng thời con cái của mình nó thấy cha mẹ như vậy, nó cũng nỗ lực tu thì cả vợ, chồng, con cái đều gặp nhau trong một chỗ. Hạnh phúc đó chứ, cả gia đình của mình. Thành ra cái nghiệp lực nhân quả cuối cùng thì chúng ta đều gặp nhau trên một điểm của Phật pháp con. Một điểm sống của Phật pháp để giúp cho gia đình chúng ta không còn chia cắt nhau nữa. Đó, thì phải hạnh phúc không các con? Cho nên ráng đi, có Thầy thì Thầy nhắc nhở.
Nhưng mà con thấy rõ ràng là kết quả cuộc sống các con mà từ ở trong gia đình phải không? Trước khi chưa biết, thì các con thấy các con có những cái khổ. Mà sau khi mà biết cách tu rồi, các con thấy các con xả tâm. Rồi các con đem lại cái niềm vui cả gia đình của mình, rồi cả trong cái việc, trong công sở của mình làm việc chung nhau nữa, mình thấy hạnh phúc lắm. Thật sự mà. Mà đó là chưa, nó đây là mới cuộc sống thôi, mới có sống đạo đức thôi chứ chưa sâu đâu, nó còn nữa.
(01:13:41) Từ đây về sau các con còn tập Thọ Bát Quan Trai, rồi các con quét những cái vi tế trong tâm của mình ra nữa. Quét riết rồi Thầy nói, quét riết mà sạch rác thôi. Mà rác sạch thì nó thanh tịnh chứ gì. Bởi vì trong cái bụng của mình, bây giờ cái đầu của mình rác nó nhiều lắm, mình quét chưa hết đâu. Mình dọn được những cái rác rến mà nó khô, nó lớn. Cọng rác mà nó to lớn đó mình hốt được mớ rồi, mình thấy nó an ổn ghê. Rồi bây giờ mình quét những cái vi tế để cho sạch bóng nữa, trời ơi! Còn biết bao nhiêu? Nó mầu nhiệm ghê gớm lắm phải không? (1:14:14) Con thấy mình tu tới đâu mình thấy có kết quả tới đó con. Cái đó là cái niềm tin của mình thật sự con.
Thầy nói bây giờ mình ngồi bảy tám ngày mà tâm mình còn sân, thôi con dẹp cái đó đi, nó không có lợi ích đâu. Còn bây giờ mình tu mà mình thấy mình xả từng chút, từng chút, mình biết nhẫn, tùy thuận, bằng lòng, vui vẻ không làm khổ người. Mọi lần mình hay nói tiếng nói nó ồn náo, hay hoặc là hét la, giận dữ. Nay nó khác xa rồi thì mình có tiến bộ rồi chứ. Cái này là cái sách tấn các con tu lắm đó. Nó có giải thoát thật sự, nó đem lại hạnh phúc cho mấy con thật.
Cho nên khi mà Thầy tu được rồi, Thầy biết Phật pháp hay quá. Cho nên Thầy thấy cái nền đạo đức của Phật thiệt quan trọng. Đúng là cái đạo Phật ra đời để giúp cho con người, mà người ta không biết, người ta lại ném bỏ nó đi, thiệt! Nếu mà cuộc đời Thầy mà không làm nó sống lại thì người ta đã phí cái của báu của người ta. Con người đã phí của báu mà không biết, cứ đi lấy cái rác rến mà coi nó là báu, mà cái vật báu lại ném bỏ ở đống rác chứ.
Cho nên Thầy móc ra. các con thấy Thầy móc ra cái đống rác. Từ trong đống rác, Thầy móc ra những cái viên ngọc quý của Phật. Rồi từ đó các con sống, các con thấy nó quý thật sự. Mà người nào mà được mà hưởng cái viên ngọc quý đó, mặc dù nó chưa trọn đó, nhưng mà vẫn thấy nó quý, nó giúp cho đời sống mình an lạc các con. Cho nên các con thấy, cái kết quả mà các con trình cho Thầy, Thầy cũng mừng là vì các con đã tu đúng, tập đúng những cái lời Thầy dạy. Tuy rằng không được gặp Thầy, nhưng mà qua kinh sách, nghe lời Thầy dạy, thì các con cũng thực hiện nó cũng đem đến kết quả.
Nhưng mà nó có những cái sai, nhưng mà cái sai nó không đến đỗi mà các con đi lạc đường, dù mất thì giờ. Chẳng hạn bây giờ các con ngồi một, hai tiếng đồng hồ mà quán rồi thở vậy đó, chứ không có ích lợi nhiều đâu, nó làm cho các con mệt sức thêm. Khi mà về đây thì coi như là ngăn chặn bớt cái này đi, rồi bắt đầu mình tu học, rồi mình tập Thọ Bát Quan Trai thôi. Và vì vậy đó thì thấy cách thức của mình đúng, chừng đó đó sẽ quét thôi. Có vậy thôi.
(1:16:30) Phật tử 2: Dạ thưa Thầy con còn một câu hỏi cuối, dạ thưa cháu gái, con gái con thì mỗi tháng, cháu đều cho tụi con một ít tiền nhưng mà con thì con không muốn dùng của cháu, thì con có thể dùng cái tiền đó để con cúng dường hay làm cái việc khác dùm cháu, thay cháu làm việc đó được không?
Trưởng lão: Được chớ, con nên nhớ rằng, bây giờ cháu cho con, cúng dường cho con. Nó làm việc nó có tiền, mỗi tháng nó cho con một ít, một ít xài. “Được rồi mẹ sẽ xài, nhưng mà mẹ xài cái đồng tiền của con, mẹ xài cái đồng tiền của con rất quý, tại vì cái lòng hiếu con thương mẹ. Bây giờ con làm được, con cho mẹ, mẹ nhận cái lòng của con, mẹ giữ cái tiền này. Để khi nào mà mẹ thấy rằng cái đồng tiền này, bây giờ mẹ đâu có thèm khát cái gì đâu. Quần áo mẹ cũng không có thích nhiều đâu, phải không? Bây giờ mẹ để cái số tiền con cho mẹ, là cái số tiền của con dành dụm, là cái lòng hiếu của con. Mẹ sẽ tích lũy cái lòng hiếu của con, để làm cho cái hiếu lớn, để làm cái hiếu lớn”. Cái hiếu lớn như thế nào con biết không?
Con sẽ nói với cháu, à bây giờ, thí dụ như bây giờ Thầy viết cái bộ sách Đạo Đức: “Mẹ sẽ bỏ toàn bộ cái tiền này để cho tất cả mọi đứa con ở trên xã hội này, nó sẽ hiếu với mẹ nó, thì đó là cái hiếu lớn. Con hiếu với mẹ nó nhỏ. Nhưng mà cái cuốn sách Đạo Đức này mà do cái đồng tiền hiếu của con, mà được in ra cho bao nhiêu đứa con, mà nó hiếu với mẹ cũng như mà con hiếu với mẹ, thấy không? Thì đó là hiếu lớn, con hiểu chưa? Mẹ sẽ giúp con, sẽ làm cái việc hiếu lớn”. Con thấy chưa, thấy không? đó là con sẽ nói với nó.
Vậy hàng tháng nó cứ cho con, con cứ nhận đi, nhận đi. Con sẽ dành lại đó. Rồi khi nào mà cái bộ sách Đạo Đức ra đời, con sẽ thấy nó là cái lợi ích rất lớn để biến những đứa con bất hiếu sẽ thành đứa có hiếu. Thì lúc bấy giờ cái đồng tiền đó bỏ vào in kinh sách này sẽ lợi ích thôi. Đứa con bất hiếu, đứa con chưa biết hiếu nó sẽ hiếu, đó thì nó là hiếu lớn. Nhiều người hiếu thì phải là hiếu lớn chớ. Một đứa con hiếu thì hiếu nhỏ. Nhưng mà bây giờ cả những đứa con ở trên cái đất nước Việt Nam này nó hiếu với cha mẹ nó hết thì phải hiếu lớn chứ. Rồi bây giờ trên hành tinh này mà đứa con của người nào cũng hiếu với họ hết thì nó là hiếu lớn nữa. Thì lúc bấy giờ là con người mình hạnh phúc không? Con mà nó hiếu với mẹ với cha thì mình hạnh phúc quá.
Phật tử 1: Con xin đội ơn Thầy.
Trưởng lão: Rồi bây giờ mấy con hỏi Thầy gì nữa không?
Phật tử: Dạ chắc chắc đủ rồi.
Trưởng lão: Đủ rồi phải không? Thôi bây giờ Thầy nhận mấy cái này, phải không? Để rồi Thầy sẽ trả lời. Rồi Thầy sẽ viết cái này, rồi Thầy sẽ trao cho con, rồi kinh sách Thầy gửi. Con sẽ cố gắng đem về bển để mà trao cho anh, chị, em với trong cái Tu viện Như Lai ở bên đó, mà Hạnh Tâm đã email gửi bên đây cho Thầy biết đó. Kim Tiên đó.
Rồi bắt đầu thì các con cố gắng mang về gửi cho nó. Nó gửi vào cái Tu viện nó cho quý sư ở đó. Đó là cái tu viện của Nguyên Thuỷ đó, mà nó thường vô đó. Người ta cho nó cái thất, nó nhập nó tu đó. Giờ người ta muốn tìm hiểu, thì thôi giờ cái duyên như vậy thì mình cũng cho họ một số ít kinh sách, cho họ tìm hiểu họ tu tập, giúp cho họ. Thì thôi bây giờ Thầy nghỉ mấy con.
Phật tử 1: Thầy cho con lạy Thầy.
Trưởng lão: Thôi mấy con, xá Thầy thôi.
HẾT BĂNG
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Ngày giảng: 10/07/2001
Thời lượng: [44:45]
Tên cũ: 20010710-Pháp cho người mới tu
https://thuvienchonnhu.net/audios/20010710-phap-cho-nguoi-moi-tu-tinh-giac-chanh-niem.mp3
(00:00) Phật tử: Nay là ngày thứ ba, 10/07/2001, Phật lịch 2545 nhằm ngày 20/05 âm lịch năm Tân Tỵ vào lúc hai giờ chiều, chúng con hội đủ duyên lành cô tu nữ Giác Minh, con là tu nữ Suối-No Diệu Trí cùng với chị cư sĩ Diệu Trí đến thưa hỏi đạo với Thầy Thích Thông Lạc tại Tu viện Chơn Như.
Chúng con thành tâm, thành ý đầu thành đảnh lễ Thầy ba lần trong Chánh Niệm, cầu xin Thầy ban pháp cho chúng con học để tu.
NAM MÔ BỔN SƯ PHẬT THÍCH CA MÂU NI!
(01:08) Trưởng lão: Thầy định hai giờ chiều nay, Thầy sẽ dạy cho mấy con thực hành, thực hành khó hơn cái lý thuyết suông. Nhưng điều mà thực hành không đúng thì nó cũng sai. Cho nên cần thiết mà mình phải ngồi, rồi phải thở, rồi phải đứng dậy, rồi phải đi kinh hành. Ngồi như thế nào cho đúng, rồi đứng dậy như thế nào, hít thở như thế nào cho đúng, rồi đứng dậy như thế nào cho đúng, rồi đi kinh hành như thế nào cho đúng. Nội bao nhiêu đó cũng đủ thấy mình tập cũng mệt nữa, chứ chưa nói chi những cái pháp khác.
Nhưng đây là cái pháp khởi sự cho người mới tu, chứ chưa phải người tu lâu, cái người mới bắt đầu. Thì coi như đương nhiên, hồi nào tới giờ mấy con đã tu năm năm, mười năm, hai ba năm gì đó, nhưng khi đến đây thì coi như bắt đầu trở lại. Tại vì, đi từ cái căn bản. Còn mình cứ tu nhiều thứ pháp nhưng để cho vị Thầy, người ta biết được cái tu hành mình ở một mức độ nào đó thì người ta phải sắp xếp công phu tu của mình đó. Nhưng hiện giờ phải đi vào căn bản. Chứ mình nghĩ rằng mình tu nay mười năm rồi. Bao nhiêu cái điều mình tu mình bỏ hết, không có bỏ đâu, nhưng mà nó không nhằm cái lúc mình mới học cái sơ cơ. Cái sơ cơ mình phải nắm cho vững chắc, rồi mình mới đi tới nữa. Nhiều khi cái sơ cơ, mình tu cái căn bản mình không tu mà mình tu cái cao, cho nên mình cố gắng mình tập trung cái tâm mình nhiều quá, mình bị ức chế. Mình đi nhanh quá, mình muốn nhanh quá, cho nên nó thành trật. Còn ở đây, chúng ta tu, chúng ta biết cái pháp tu đó, nó đối trị cái gì, nó giúp gì cho Tâm chúng ta sẽ được giải thoát.
(03:10) Bây giờ đầu tiên mà chúng ta ngồi, chúng ta ngồi xuống bắt đầu chúng ta, chúng ta muốn ngồi xuống thì chúng ta phải tập, mình phải tập, tập tỉnh thức cái ngồi của mình. Tỉnh thức cái ngồi có nghĩa là mình ngồi xuống mình biết mình ngồi là tỉnh thức chứ gì. Đơn giản quá mấy con!
Không đơn giản vậy đâu, người ta hiểu lầm đó. Người ta hiểu lầm đó, mình ngồi xuống mình biết mình ngồi xuống theo như trong kinh Thân Hành Niệm mà Phật dạy, mình hành động nào mình biết hành động nấy. Đó là mình tu Thân Hành Niệm, đi biết đi, đứng biết đứng. Nói cái danh từ thì nó đơn giản lắm mấy con, nhưng cái Tâm của mình nhiều khi đi nó lại quên nó không biết. Mình biết trong chút đó rồi mình quên đi, cái tâm mình không có biết thường xuyên biết mình. Vì vậy mà muốn cái tâm mình nó biết hoài thì mình phải có cái phương pháp.
Cái phương pháp đó gọi là Như Lý Tác Ý, như cái lý tỉnh thức ra mà tác ý. Đức Phật đã dạy mình phải dùng cái pháp Như Lý Tác Ý. Vậy thì cái như lý của cái sức tỉnh thức là gì? Thì mình muốn ngồi thì mình phải nhắc cái Tâm mình, ngồi để cho nó tỉnh ở trên cái ngồi, mình không nhắc nó thì mình cũng biết ngồi đó nhưng lúc nó quên, nó không tỉnh. Nhưng mà mình cứ ngỡ là mình tỉnh, lúc tỉnh, lúc mê, lúc tỉnh, lúc mê, lúc biết mình ngồi, lúc lại không biết là sao? Phải không?
Còn mình nhắc nó: "Ngồi!", thì mình ngồi xuống. Tức là mình nghe theo cái lệnh của mình, cái pháp Như Lý Tác Ý đó, ngồi xuống, phải không? Vậy là mình tỉnh theo cái lệnh truyền của mình. Bắt buộc cái Tâm nó phải tỉnh rồi. Khi đó, thí dụ mình muốn ngồi nhưng mà mình chưa có cái lệnh, cái ý muốn của mình nó muốn thì mình ngồi xuống thì mình biết mình ngồi nhưng chút thì mình quên đi. Còn trái lại, mình có cái lệnh, bắt buộc cái Tâm phải nhớ nó đừng quên. Phải không? Có cái lệnh thì nó ít quên hơn là không có lệnh thì quên. Cho nên cái lệnh đó là pháp Như Lý.
(05:07) Mà các chùa, các Thầy, các sư không triển khai cái pháp Như Lý để chúng ta hướng dẫn Tâm. Cho nên đức Phật nói, chúng ta cũng như là một cái người nài voi, mà huấn luyện một con voi. Vậy thì huấn luyện cái Tâm mình là huấn luyện con voi. Mà huấn luyện con voi thì mình truyền lệnh cho con voi phải làm gì đó thì nó làm theo mình. Còn này mình chẳng truyền lệnh gì hết mà mình cứ làm rồi mình tưởng là mình biết. Như vậy rõ ràng mình chưa huấn luyện cái Tâm của mình. Cho nên cái câu mà Thầy viết: "Dẫn tâm vào Đạo chứ đừng dẫn Đạo vào Tâm". Dẫn cái Tâm tức là huấn luyện cái Tâm của mình vào cái chỗ giải thoát. Bây giờ mình muốn cái gì? Mình muốn tỉnh thức chứ gì! Thì mình phải dẫn nó vô một cái tỉnh thức. Các con hiểu không?
Vì vậy ngồi, khi mà mình ra lệnh cho mình: “ngồi!” Là mình ngồi xuống. Thì tức là bây giờ tôi ra lệnh, tôi bảo tôi ngồi xuống. Dù bây giờ nói tôi không biết ngồi, nó vẫn phải biết ngồi. Bởi cái lệnh mình bảo ngồi mà. Thành ra giờ nói, giờ mình nói, giờ tôi không biết ngồi thì vẫn là cái lệnh của mình rồi. Thì cái Tâm nó vẫn tập trung trong cái ngồi thì nó biết, phải không? Rồi bắt đầu giờ ngồi xuống, bắt đầu mình nói "Tréo chân lên!" thì nó bắt đầu nó tréo chân lên. Nói "Tréo chân trái lên!" thì nó tréo chân trái lên, "Tréo chân mặt lên" nó tréo chân mặt lên. Nó ra cái lệnh tiếp theo. Ra cái lệnh tức là mình huấn luyện con voi, cái tâm của mình, như là huấn luyện một con vật, để cho nó quen với cái lệnh. Vì vậy, mình mới làm chủ nó chứ. Chứ nhiều khi mà không huấn luyện nó, hễ ý mình muốn thì mình làm. Giờ mình muốn ăn, muốn uống thì mình làm theo vậy, mình chạy theo dục sao? Còn cái này mình huấn luyện theo cái lệnh của mình để cho nó muốn không được mà mình muốn.
(06:39) Ở đây rõ ràng nó có hai cái muốn chứ gì? Cái muốn bây giờ mình có muốn nè, mình muốn gì cái nó dẫn mình chạy theo cái muốn đó. Cho nên nó muốn dục, nó muốn sa ngã, nó muốn tham danh, tham lợi, nó muốn tiền, muốn tài, muốn sầu, muốn khổ, muốn giận hờn đủ thứ,… Có phải nó muốn không? Bây giờ đó mình mới rèn luyện nó lại, cái muốn của nó là "Không muốn khổ nữa", phải không? Thì không muốn khổ nữa thì đây là cái đi ngược lại cái đường nó rồi. Cho nên cái này mình phải tập luyện chứ, mình tập luyện nó có. Chứ đâu khi không mà bây giờ ngồi thiền mà có được sao? Mình niệm Phật nó có được sao? Rồi mình ngồi, mình đi, mình tập riết hoàn toàn mình tỉnh thức mình biết mình đi đó, nhưng sự thật cái lệnh mình cũng có. Đúng không?
Bây giờ mình biết là mình muốn tu để làm Phật, nhưng mà mình không có cái lệnh truyền nó thì mình không thể nào làm Phật được. Cho nên mình phải có, vì vậy cái pháp Như Lý Tác Ý của Phật, Phật dạy mà, phải Như lý phải tác ý mà. Phải dẫn cái Tâm mình vào cái chỗ Đạo, đạo là giải thoát, phải dẫn nó vào chỗ đó, rèn luyện riết cho tâm mình nó luôn luôn nó đi vào chứ nó không đi trật con đường.
(07:42) Thì hôm nay các con nghe như vậy, các con biết rồi đó, thì bây giờ bắt đầu. Bây giờ thực hành, các con chia ra. Một đứa ngồi chỗ này, đứa giữa, đứa qua bên kia, ba người ba chỗ. Con thì ngồi giữa đi, con chia đi há, chia đi, chia làm ba chỗ. Từ đây, từ đây ra đó là một cái khoảng của một người. Con ở bên kia, con đi qua bên kia. Con ở bên đây, đi bên đây.
Bây giờ khoan đã, bây giờ chia ra, chia cái phần đất đã. Rồi bắt đầu bây giờ các con thấy các con ra lệnh, các con bảo: "Ngồi", các con cứ ngồi xuống đi. Các con ra lệnh đi, chứ không phải Thầy ra lệnh đâu nha. Các con ra lệnh các con bảo: "Ngồi" thì các con ngồi xuống. Ừ, thì các con ngồi xuống. Rồi các con ra lệnh: "Tréo chân" thì các con tréo chân ra chỗ nền đất. Tập như vậy cho quen ha.
Rồi bây giờ, các con bảo: "Hít thở", nó hít thở. Rồi bắt đầu các con hít thở năm hơi thở đi. Các con đếm một..hai..ba..bốn..năm, các con thở tự nhiên các con. Rồi năm hơi thở, rồi các con bảo: "Tháo chân ra", bây giờ các con tháo chân ra. Rồi "đứng dậy", đứng dậy. Rồi đứng dậy xong rồi các con bảo: "đi", các con bước đi các con nói: "Tôi đi tôi biết tôi đi", rồi các con đi luôn.
Các con thường làm việc, phải thường phải nhắc mình, nhắc mình trong từng hành động, để cho nó tỉnh thức trong mọi hành động của mình.
Quay lại, nhắc: "Tôi đi tôi biết tôi đi".
Rồi bắt đầu ngồi xuống, nhắc: "Ngồi xuống".
Mấy con già yếu, mấy con tập cái này chắc mệt!
(10:41) Ngồi xuống hết đi, nghe Thầy nói tiếp. Các con ngồi đó đi, ngồi đó đi, nghe Thầy nói. Con ngồi đây đi, con chuẩn bị máy. Bây giờ các con thấy chưa? Bây giờ là các con biết truyền lệnh rồi đúng không? Cách thức con truyền lệnh Thầy nghe lớn, rõ ràng lắm.
Nhưng mà điều kiện là khi mình tu thì mình truyền lệnh thầm trong tâm chúng ta vậy đó.
Tu sinh: Dạ, con truyền lệnh mạnh để cho Thầy nghe.
Trưởng lão: Ừ, vậy là đúng rồi đó. Nhưng mà mấy con nhớ rằng khi mà mình thở, các con nghe đức Phật dạy mình rất là tự nhiên. Bởi vì trong cái con người của mình nó có ba cái tướng.
Nhân tướng là cái người của mình thấp, người mình cao, người mình lớn, người mình mập, người mình ốm là cái nhân tướng đó các con.
Còn cái hành tướng là cái tướng mình đi, đứng, nằm, ngồi. Người đi nhanh, người đi chậm, người đi chậm nữa, phải không? Cái tướng nhanh chậm.
Cái hơi thở cũng vậy. Người thở dài, người thở ngắn. Tùy theo cái thở dài, ngắn đó mà đức Phật mới nói cái đặc tướng của người thở dài thì nó thở dài, người thở ngắn thì phải. Đừng có sửa nó lại, đừng có bắt người ta phải thở lại với một cái bắt buộc, một hơi thở khác bình thường thì không được. Thì các con thở như thế nào là bình thường. Các con nghe cái bài Xuất Tức Nhập Tức mà Phật dạy về hơi thở:
"Hít vô, tôi biết tôi hít vô
Thở ra, tôi biết tôi thở ra
Hít vô dài, tôi biết tôi hít vô dài
Thở ra dài, tôi biết tôi thở ra dài
Hít vô ngắn, tôi biết tôi hít vô ngắn
Thở ra ngắn, tôi biết tôi thở ra ngắn"
(12:11) Mấy cái đó đức Phật nói để làm gì các con biết không? Để chúng ta biết rằng chúng ta thở dài là chúng ta thở dài mà chúng ta thở ngắn là chúng ta thở ngắn. Chứ đừng thở dài mà bắt buộc thở ngắn, mà đừng có thở ngắn mà bắt buộc thở dài. Không có ức chế, nghĩa là tự nhiên. Các con thấy cái bài kinh đức Phật dạy, Đức Phật dạy cái đấy để làm gì? Mình phải hiểu được là đức Phật muốn dạy mình tự nhiên. "Tôi hít vô tôi biết tôi hít vô", "Tôi thở ra tôi biết tôi thở ra", dài thì tôi để dài mà ngắn thì tôi để ngắn, chứ đừng có thay đổi cái hơi thở.
Như vậy rõ ràng là, tới cái đi kinh hành là hành động ngoại, đây là hành động nội là hơi thở. Hành động ngoại là các con đi kinh hành chứ gì! Thì cái người mà đi nhanh cứ để tự nhiên đi nhanh, người đi chậm để tự nhiên đi chậm. Chứ sao lại bắt nó đi chậm. Bắt nó đi chậm đến nỗi mà đi chậm như cái người bệnh, thì cái đó đâu có đúng, phải không?
Đức Phật dạy từ cái câu, từ cái chỗ cái đoạn kinh này, chúng ta suy ra tất cả chúng ta biết rồi: Tu theo cái đặc tướng tự nhiên của chúng ta chứ không có được ép chế chúng ta bằng cách thay đổi, bằng cách này bằng cách khác, đó là sai, phải không?
Bây giờ hơi thở biết ra, biết vô. Đức Phật cũng không có dạy chúng ta tập trung trong nhân trung nữa, chỉ biết hơi thở ra vô thôi, ở chỗ nào cũng được nhưng mà đừng có đặt nó ở chỗ nào hết. Cái này chúng ta đặt nó ở bụng rồi đặt ở chỗ này, đặt chỗ trán, đặt ở chỗ nhân trung đều là không đúng Phật đâu, phải không? Đã tin Phật, chúng ta đừng có thấy cái chuyện ở đâu đâu. Nhưng mà tại vì khi mà chúng ta không tập trung được đó thì bắt buộc. Khó phải không? Nhất là chúng ta phải tập trung hơi thở, nhiếp chỗ nhân trung để chỗ hơi thở ra vô chúng ta thôi. Gom cái thân chỗ đó biết thôi, chứ không dám đặt ở chỗ khác nữa; đặt chỗ khác nó sai, nó dời đi chỗ khác, tại chỗ đó là chỗ hơi thở ra vô mà.
Vì vậy mà mình quá, mà mình nhiếp tâm không được, người ta mới bắt buộc mình tập trung chỗ này. Chứ còn mà mình biết chỗ hơi thở ra vô, miễn ở chỗ trước mặt của mình, mình biết hơi thở ra vô chỗ nào cũng được. Chứ đừng có đặt nó chỗ nào ở trong thân biết chỗ đó mà thôi. Không có điểm tựa chỗ đó được.
(13:57) Mà tu tại trong cái hành động chứ đâu phải, đức Phật nói tu Thân Hành Niệm, chứ đâu phải tu cái nhân trung đó, hay hoặc tu cái hơi thở đặt vô đó, các con hiểu không? Mình phải theo Phật, phải tu cho đúng Phật chứ! Sao mà lý luận này lý luận kia mà đẻ ra sai pháp Phật nói vậy, vậy thì đúng sao? Các con hiểu không? Cho nên các con phải hiểu, Thầy dạy là dạy rất đúng. Thầy nhắc các con rất đúng. Nhưng mà tại sao mà có khi Thầy bảo các con phải tập trung vào nhân trung? Tại vì cái người đó họ gom Tâm không được, bắt buộc phải có cái điểm để họ nhìn, họ chăm chú họ nhìn để họ gom cái Tâm vào chỗ đó, bắt buộc họ phải thấy biết hơi thở thở ra thở vô. Nhưng mà cái người đã gom được, đã sống tự nhiên được thì cứ, hễ họ nói "Thở" thì họ biết thở, mặc tình cứ để cho nó biết thở tự nhiên. Chứ làm gì mà tập trung tại nhân trung chi cho nó nặng nề cái chỗ này, phải không các con? Biết cái chỗ này thì nó nặng nề, còn tập trung là còn động, còn động đó.
"Hít thở" thì mình biết hít thở thôi, nó thở chỗ nào thì nó thở, không có tập trung chỗ nào hết, đừng có chạy theo hơi thở vô tới ruột tới gan rồi lên tới trên đầu. Đừng có theo nó, theo nó là tưởng hết. Ông Phật có dạy mình theo hơi thở bao giờ đâu. Ổng nói thở chỉ biết thở thôi thì các con "Hít vô, tôi biết tôi hít vô; thở ra, tôi biết tôi thở ra" thôi. Chứ ông Phật đâu có tập trung chỗ nào, phải không? Mình tu cho đúng theo lời ông Phật dạy đi thì coi có sai không? Mà Ổng nói dài thì tôi biết dài mà ngắn thì tôi biết ngắn. Chứ đâu có bảo mình thở dài hoặc bảo mình thở ngắn đâu. Có phải không? Đó, cho nên vì vậy mình tu, mình mình tu tập cho đúng, tu tập theo cái tự nhiên của mọi cái đặc tướng con người, phải không?
Cho nên vì vậy bây giờ, các con bảo "Hít vô", hay các con bảo "Thở", thì bắt đầu con thở ra, thở vô. Hễ nói thở tức là cái tâm tập trung trong cái hơi thở rồi, khỏi cần nói năng gì hết thì nó biết hơi thở ra, thở vô. Rồi bắt đầu bây giờ mấy con bảo đếm: "một, hai, ba, bốn, năm", bây giờ "đứng dậy đi kinh hành" thì đứng dậy, con ra lệnh con đứng. Cứ làm như vậy để tập Tỉnh thức mấy con. Như vậy, ông Phật dạy mình Tỉnh Giác Chánh Niệm phải không? Mà giờ cái Tỉnh giác mình chưa có thì mình làm sao mà Chánh Niệm được?
Tu sinh: Dạ đúng rồi.
(15:57) Trưởng lão: Bây giờ mình tập Tỉnh giác trước, như vậy trong khi một buổi vậy các con tu tập tỉnh giác, nếu mà mình đứng lên ngồi xuống mà tỉnh giác trong cái hành động đi, rồi hơi thở nữa, thì nó mệt, nó nhiều quá, nó mệt các con. Bởi vì đứng lên ngồi xuống có năm hơi thở. Chứ phải mình ngồi ì một tiếng đồng hồ thì chắc khỏe lắm, phải không?
Tu sinh: Dạ, đúng rồi Thầy.
Trưởng lão: Mà ngồi ì một tiếng đồng hồ thì các con sẽ bị lặng đi, nó không tỉnh đâu. Nó sẽ lặng trong tưởng đi, nó ngồi yên quá rồi cái nó hôn trầm, nó đủ thứ. Cái chuyện đó xảy ra, mấy con ạ! Chứ còn đứng lên, đứng xuống làm sao các con ngủ được, không có lặng đâu, nó tỉnh chứ.
Tu sinh: Ngồi trên ghế được không Thầy? Ngồi dưới đất thì hơi khó chứ ngồi trên ghế con thấy tiện.
Trưởng lão: Đã là ngồi thì con muốn ngồi sao cũng được hết. Ờ con biểu nó ngồi, ngồi chỗ nào cũng ngồi được hết. Thầy không có bắt buộc phải ngồi chung chung này kia, phải không các con hiểu không? Nên muốn ngồi sao cũng ngồi thì ngồi các con bảo, ví dụ như Thầy đứng vậy, Thầy nói: "Ngồi" thì Thầy ngồi thì cứ ngồi chứ ăn thua gì. Rồi bây giờ Thầy ngồi rồi, thì bắt đầu Thầy nói: "Thở" thì nó thở, rồi Thầy "đứng dậy" thì nó đứng. Như vậy rõ ràng tập Tỉnh thức đó con. Mình truyền lệnh. Bởi vì Phật nói Như Lý Tác Ý mà.
Mình muốn làm cái gì phải như cái lý mà tác ra, để làm cho nó Tỉnh thức trước các pháp. Mà khi tập Tỉnh thức rồi sau một thời gian các con tập Tỉnh thức là chỉ xác định cho các con tu tập như vậy trong khoảng thời gian đứng lên ngồi xuống chỉ ba mươi phút chứ không được hơn. Tại sao? Hơn thì nó thừa, mất công con chứ làm gì. Bởi vì đứng lên ngồi xuống, đứng lên để tỉnh thức, tỉnh thức đó có lợi ích gì cho các con, phải không?
(17:22) Bây giờ tu tập Tỉnh thức trong ba mươi phút rồi, bây giờ áp dụng Chánh Niệm nè. Lấy cái Tỉnh thức này mà áp dụng vô Chánh Niệm để cho cuộc sống này toàn ở trong Chánh Niệm. Mà Chánh Niệm này là niệm thiện, nó đâu có niệm ác được. Cho nên các con nghe ở trong Bát Chánh Đạo nói Chánh Niệm là Chánh Niệm ở chỗ nào? Mình phải biết Chánh Niệm đặt ở chỗ nào chứ. Giờ tôi nói Chánh Niệm mà tôi không biết cái chỗ Chánh Niệm ở chỗ nào hết thì làm sao?
(17:44) Cho nên Chánh Niệm đức Phật xác định: Chánh Niệm là Tứ Niệm Xứ, ở trên bốn chỗ: Thân, Thọ, Tâm, Pháp chúng ta. Bốn chỗ này nó mới Chánh Niệm. Vì nó có những cái chướng ngại, cái ác pháp ở trên đó thì nó làm nó là cái tà niệm, nó mới ác pháp, nó mới chướng ngại. Còn nó không có ác pháp, nó là Chánh Niệm thì nó là thiện pháp chứ gì. Vì vậy mà Tâm chúng ta, Thân, Thọ, Tâm, Pháp chúng ta có chướng ngại là ác pháp thì nó tà niệm; chúng ta đẩy lui tà niệm đi, thì đẩy lui tà niệm thì nó Chánh Niệm chứ sao. Có phải không?
Ở trên chỗ nào mà tu Chánh Niệm? Chứ không phải mình không biết chỗ, làm sao tu? Nói tôi tỉnh thức mà tôi tỉnh thức ở trên cái Chánh Niệm, hoặc là Tỉnh Giác Chánh Niệm, hay Chánh Niệm Tỉnh Giác. Rõ ràng tôi biết tôi đi kinh hành, là cái đi kinh hành đó là cái Chánh Niệm chứ sao. Ông Phật đâu có xác định đi kinh hành là Chánh Niệm, phải không?
Chánh Niệm, rõ ràng Đức Phật xác nhận là Tứ Niệm Xứ, bốn chỗ: Thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta. Tức là chúng ta không ở trên đó mà tu, còn tu chỗ nào nữa? Còn tu trên đó tức là khắc phục tham ưu, nó là Tứ Niệm Xứ cho nên nó khắc phục tham ưu, nó làm cho ác pháp không còn có nữa, thì đó là chúng ta giải thoát chứ. Cho nên Đức Phật nói tu Tứ Niệm Xứ. Ờ tu Tứ Niệm Xứ thì người tu đó nếu người đó từ bảy ngày, nếu bảy ngày chưa chứng, thì từ một ngày cho đến bảy ngày chưa chứng thì bảy tháng. Bảy tháng chưa chứng thì bảy năm. Cái thời gian cuối cùng Đức Phật xác định chúng ta tu Tứ Niệm Xứ là bảy năm chúng ta thành công, thời gian cam kết.
Mà tu như vậy rõ ràng, từ cái tập mà Thầy dạy các con là Tỉnh thức chứ gì. Thì Định Niệm Hơi Thở, đức Phật dạy chúng ta là tỉnh thức chứ gì, đi kinh hành cũng Tỉnh thức chứ gì? Thì lúc bấy giờ Tỉnh thức rồi bây giờ chúng ta mới ở trên Chánh Niệm chứ. Còn chưa có gì hết mà cứ đi biết đi thì cũng nói là Chánh Niệm Tỉnh Giác đó sao, cái đó cái sai rồi.
Bởi vì xác định được cái chữ Chánh Niệm, là Chánh Niệm là cái gì? Ở chỗ nào là Chánh Niệm? Chứ đâu phải ở ngoài sân kêu là Chánh Niệm! Đâu phải ở chỗ bước đi là Chánh Niệm! Cái Chánh Niệm nó rõ ràng Đức Phật xác định ở Tứ Niệm Xứ rồi, bốn cái chỗ để mà Chánh Niệm, chứ đâu phải một chỗ. Con hiểu chưa? Như vậy là Thầy dạy Tứ Niệm Xứ rất rõ phải không? Mà Thầy dạy các con Tỉnh giác rõ không? Bởi vì tôi tỉnh giác là tôi biết: "Ngồi xuống", tôi biết tôi ngồi xuống, tức là tôi Tỉnh giác chứ sao. Còn tôi không truyền lệnh, tôi không hướng tâm nó, bây giờ tôi biết tôi ngồi, rồi lát nữa tôi ngồi, tôi quên sao.
(19:44) Bây giờ cứ tu đi, giờ chỉ còn tập thực hành thôi. Không có gì nữa hết, phải không? Bây giờ, các con về thực hành đi. Các con đừng có nghĩ Thiền Định gì hết. Thầy dạy, chừng nào các con sung mãn được, sung mãn Tứ Niệm Xứ trên bốn chỗ này: Thân - Thọ - Tâm - Pháp. Các con làm sao ác pháp nó không còn có xâm chiếm trên bốn chỗ này, thì tức là các con ly dục, ly ác pháp. Mà ly dục, ly ác pháp thì các con nhập Sơ Thiền liền. Phải không?
Bây giờ mới bắt đầu có Thiền rồi, chưa có Định đâu. Bắt đầu bây giờ, các con mới tập nhập Nhị Thiền để có Định. Cái này nó đi tuần tự chứ. Chứ không mà ngồi để mà nhập Định… cũng như… các con tu cứ biết là đi, bước, bước, bước, bước, bước hoài, bước hoài tới đây để làm gì đây? Nó đâu phải trên Chánh Niệm, nó tỉnh thức phải không. Nhưng mà cứ tỉnh thức hoài, tỉnh thức đến thừa; thừa sức tỉnh thức mà tu tập hoài, không chịu dừng lại. Mười mấy tiếng một ngày mà rốt cuộc rồi có có thấy lợi ích gì không? Người ta Tỉnh thức trong có ba mươi phút à. Người ta áp dụng trên Tứ Niệm Xứ để người ta khắc phục tham ưu để người ta có giải thoát chứ. Còn con tỉnh thức quá trời quá đất mà con chưa giải thoát, con tu sai.
(20:56) Tu sinh: Tại, mô Phật, thưa Thầy chỉ dạy con chưa nắm chặt, chứ thầy Ngài Kim Triệu chỉ dạy chính xác lắm đó, cũng dạy Thiền như Thầy đó, cũng dạy Tỉnh thức xong rồi cũng quán, quán trong Thân…
Trưởng lão: Nói chung là Thầy biết là các sư cũng có kinh nghiệm dạy nhưng tại vì người ta chưa có biết áp dụng. Người ta chỉ dạy mình tỉnh thức để đi vào Minh Sát thôi, tức là quán ra thôi. Còn trái lại, Thầy dạy cho các con chỉ áp dụng vào cái Chánh Niệm để cho mình khắc phục tham ưu.
(21:05) Tu sinh: Thưa Thầy, chúng con tỉnh thức ba mươi phút xong thì chúng con đi kinh hành hay sao thưa Thầy?
Trưởng lão: À, không có con, bây giờ Thầy nói để cho con thấy, bây giờ các con ngồi nghỉ đi. Bây giờ các con tu khoảng độ ba mươi phút, con chia ra cái sức của mình mình tu. Bây giờ đoạn thứ nhất mình tu chừng, đứng lên ngồi xuống vậy các con tu chừng mười phút hay năm phút thôi. Rồi các con chia làm sao một buổi mà các con tu được ba mươi phút, chứ đừng có tu riết ba mươi phút là các con đứng lên ngồi xuống các con mỏi chân lắm, khổ lắm.
(22:00) Tu sĩ nữ hỏi: Ba tiếng, Thầy chia cho tụi con là mươi hai tiếng trong ngày đêm như vậy là trong ba tiếng đồng hồ tụi con tu ba mươi phút rồi nghỉ?
Trưởng lão: Ba chục phút, mà cứ mỗi lần năm phút vậy con ngồi nghỉ con chơi không có gì hết, ngồi nghỉ để tâm hồn thanh thản, nhìn mây, nhìn gió, nhìn trăng, gì kệ nó, không biết nó gì. Nhưng mà đừng có làm, đừng có nghĩ ngợi gì ghen ghét, đau khổ trong lòng các con ra. Thanh thản, an lạc ngồi chơi thôi. Các con sẽ thấy hạnh phúc lắm, ngồi chơi. Mà hễ nó ở trong tâm này con ngồi chơi có mống gì đó, thì đuổi nó liền không cho nó, có vậy thôi. Ờ mình quán, mình tu cái Định Vô Lậu, mình quán để cho mình đuổi cái niệm đó thôi. Chứ còn thật sự chưa phải lúc mình tu cái đó đâu. Nhưng bây giờ để giữ cho cái Tâm được thanh thản, xả nghỉ mà được cho thanh thản, chứ đừng có xả nghỉ ra rồi lo nghĩ thế này thế kia. Mà bây giờ, thất của con ở dưới, không biết ai dọn quét, không biết mấy ông ở rồi phá phách hết trơn. Nó lo tùm lum cái đó, dẹp hết đi. Mình ngồi chơi thì không lo nghĩ cái chuyện đó. Nó hư hao, còn gì thì kệ nó đừng nghĩ bậy bạ đó, do đó mình cứ xả đi ngồi chơi đi.
Tu sĩ nữ hỏi: Thưa Thầy, rồi trong ba tiếng đó, ba chục phút xong thảnh thơi xả vậy rồi chừng bao lâu mới trở lại đi kinh hành?
Trưởng lão: Rồi, bắt đầu thí dụ như bây giờ, con thấy trong ba mươi phút đó con tu trong một buổi, một buổi chỉ có ba mươi phút thôi, chứ không phải ba tiếng đồng hồ chỉ có tu ba mươi phút thôi. Mà trong ba mươi phút đó lại tu chia làm nhiều đoạn thời gian tu, mỗi đoạn thì chỉ có mười phút thôi hay là năm phút gì đó. Hễ nếu là năm phút thì con chia nhiều lần năm phút để trở thành ba mươi phút, phải không? Mà nếu mười phút thì con chia ba lần, ba lần tu. Thì trong buổi đó chia tu ba mươi phút thôi, chứ chia nhiều chi cho mệt.
Tu sinh: Thưa Thầy. Còn thời gian kinh hành thì sao Thầy?
Trưởng lão: Thời gian kinh hành là khi nào mà con, khi nào mà con có buồn ngủ có này kia thì đi kinh hành, mà hễ không buồn ngủ thì thôi. Chứ đi kinh hành, ngồi chơi, rồi đi tới, đi lui chơi chứ đừng nghĩ đi kinh hành. Hễ đi như kinh hành là các con bị tập trung rồi. Không bắt buộc! Đi tới, đi lui vậy. Đi chơi vậy thôi, đi như người vô sự vậy! Coi như là bây giờ không phải giờ tu, giờ chơi. Giờ chơi mà chơi kiểu là Thánh chứ không phải là chơi kiểu phàm phu. Chơi kiểu phàm phu là nghĩ thế này, nghĩ thế kia, lo ăn, lo ngủ, lo tùm lum tà la, hết chuyện này, chuyện kia là phàm phu. Còn bậc Thánh, người ta chơi, tâm không nghĩ tầm bậy, người ta cũng không có tu nữa. Phải không? Nhưng mà sau này những cái giờ đó là giờ để tu Chánh Niệm đó, tức là ở trên Niệm Xứ mà tu ở trên cái giờ đó các con chơi đó. Còn bây giờ là những cái giờ mà các con tập tỉnh thức, sau này áp dụng tỉnh thức trên giờ ngồi chơi. Còn bây giờ thì hai ba cái các con làm chưa được. Tỉnh thức chưa tỉnh thức mà ngồi trên Tứ Niệm Xứ thì không có được đâu.
Tu sinh: Dạ thưa Thầy, rồi về bển chúng con phải vô kỷ luật rồi ạ. 12/24 cứ một tiếng đi một tiếng ngồi. Con tính trong bụng con như vậy được không thưa Thầy?
(24:40) Trưởng lão: Ngồi thì ngồi, người ta ngồi sao thì người ta ngồi, còn mình ngồi chơi, chứ ai biết trong bụng mình sao.
Tu sinh: Con tính vậy Thầy. Con bắt cái ghế lên rừng thiền rồi con cũng cứ kiểu mà tính đi kinh hành mà con hành ba mươi phút như Thầy dạy đó Thầy. Con tính vậy rồi đó. Sắp xếp trong bụng con giờ con về bển, con hành cái pháp vậy đó. Con đâu có biết cái gì, tại vì thấy người ta đi kinh hành thì mình cũng đi kinh hành. Nhưng cứ năm phút, năm cái hít thở rồi đứng lên đi. Dạ, con tính vậy đó, thưa Thầy, được không?
Trưởng lão: Được.
(25:06) Tu sinh: Còn, nhưng thưa Thầy về cái ăn của con, thì con về bển đó, con được quyền rục rịch hay không rục, mà không được rục rịch thì con khổ. Giờ Thầy giải quyết dùm con cái miếng ăn này. Người ta cho con ăn sáng, rồi con ăn trưa thì con ăn theo người ta. Thầy tính dùm con đi.
Trưởng lão: Thôi, có cái gì đâu, con bước vô đây đi con. Được con, con vô đây.
Tu sinh: Sao sao Thầy? Thầy ổn định dùm cái đó đi.
Trưởng lão: Dễ lắm không có khó gì hết. Bây giờ sáng người ta cũng lãnh ăn, mình cũng đến ăn sáng, mình lãnh hết chứ mình đâu có từ chối đâu mà sợ người ta nói mình ăn ngày một bữa đâu. Mình cũng sống mình hòa hợp. Nhưng mà mình ăn hay không ăn là quyền mình. Cũng như bây giờ cô Út, cổ đem cúng dường Thầy, ví dụ cô đem sữa hay gì, uống hay không uống là do Thầy. Bây giờ cổ đem lên thì để đó, đến giờ ăn thì Thầy uống, không tới giờ thì Thầy không ăn uống chứ gì đâu, ai rầy Thầy, phải không? Bây giờ người ta bắt mình, bắt buộc mình ngồi cùng ăn chung thì nó khó. Chứ còn cái mà lãnh về thất của mình, mà bây giờ tôi ăn, tôi đưa về thất, tôi ăn, tôi cũng nhận chứ. Do đó giờ mình không ăn, thì mình cho người nào đó cho người ta ăn.
Tu sinh: Dạ, con có chỗ cho rồi, cho người nấu bếp, thương con lắm đó Thầy.
Trưởng lão: Ừ! Thế thì đó tiện quá có gì đâu! Thì người ta vẫn thấy mình ăn… Ừ, thì đó cứ lãnh cái phần đi, rồi về đó. Mình không ăn thì mình cho người khác ăn. Theo Thầy thiết nghĩ cho người khác, mình cứ cho người khác. Trưa rồi mình lãnh cái phần ăn đủ rồi
Tu sinh: Đủ Thầy ạ. Con ăn sáng dư, ăn trưa đủ, ăn chiều thừa.
Trưởng lão: Chiều họ có cho gì thì nhất định mình cũng lãnh như mọi người nhưng mình không ăn. Mình cố gắng mình giữ giới cho đúng nhất là cái Thánh hạnh. Cho nên các con nghe trong cái bài kinh Thừa Tự, đức Phật nói: "Thừa tự pháp chứ không thừa tự thực phẩm". Nhất định chết là không ăn phi thời. Ngài nói như vậy mà! Thế mà bây giờ mình cứ thừa tự thực phẩm hoài sao. Cứ sáng ăn rồi trưa ăn, chiều ăn. Như vậy mình làm mọi cho thực phẩm rồi, nô lệ cho thực phẩm chứ đâu phải mình là người làm chủ cái ăn của mình. Cho nên vì vậy mà người tu người ta lấy bài kinh Thừa Tự của Phật người ta dạy. Tôi thừa tự pháp chứ tôi đâu thừa tự thực phẩm. Tôi sống trong pháp, tôi ăn bằng pháp, chứ tôi không ăn bằng thứ bất tịnh đó đâu. Tôi sống bằng pháp chứ tôi không có sống bằng thực phẩm bất tịnh.
Bởi vì thực phẩm bất tịnh chứ đâu có phải nó thanh tịnh lắm sao? Còn pháp nó thanh tịnh. Tôi sống, tâm tôi, tôi ngồi đây thanh thản, an lạc, vô sự tức là tôi ăn pháp. Không hỏi cái nào sướng hơn. Còn nhai nó ngọt, nó béo nhưng sự thực nó là bất tịnh. Cái đó là cái dục lạc. Còn cái chỗ mà thanh thản, an lạc, nó là ly dục. Cho nên cái hỷ lạc nó khác xa. Con thấy đây là chỗ giải thoát mà.
Tu sinh: Nam mô Phật, con thưa hỏi Thầy. Con hỏi cho kỹ còn cái chuyện nếu con chuyển sang bên Thầy con, nếu con về thì con phải xin phép Thầy con phải tự nấu đồ ăn, trong cái thất mà có lửa có được không? Con phải nấu chứ còn bên Pháp cho ăn … Giờ con xin phép Thầy được không?
Trưởng lão: Ờ, được! Ở đó, người ta ăn thịt cá…
Tu sinh: Bây giờ, con xin phép Thầy. Giờ con chỉ xin cơm thôi, ngày nào con cũng xin cơm. Họ cũng đem từng mâm để mà con dặn cái người ta nấu ăn người ta người ta không đem đó.
Trưởng lão: Ờ đúng rồi! Ở đó người ta ăn thịt, ăn cá thì các con nên từ chối đi. Bây giờ không ai nấu cho mình. Một cọng rau, lá cải thì làm sao mình ăn cho nên mình phải tự túc làm ăn để cho giữ giới luật. Không có sao đâu.
*Tu sinh*: Thưa Thầy có lửa, có dầu, có đồ canh trong cái thất thì giờ có phạm giới gì không?
Trưởng lão: À nó, đối với cái người tu mà mình tự nấu ăn là mình phạm rồi là vì nấu ăn là mình còn muốn bữa này nấu cái này ngon, nay nấu cái kia dở. Khởi tâm lo lắng cái đồ ăn của mình thì nó không đúng. Nhưng mà hoàn cảnh của mình đang ở trong cái thế như vậy. Mà nếu mình ra mình nhận thịt cá của người ta nấu cho mình ăn thì mình không có nỡ tâm. Cái lòng từ của mình chung thủy mà, từ bi mà, thì mình không thể nào mà mình nhận cái đó mình ăn được. Cho nên vì vậy, mình buộc lòng mình phải, rau cải mình luộc, mình chấm nước tương mình ăn, mình sống trong những giai đoạn mình sống chung với người ta thì mình phải….
Tu sinh: Thưa Thầy, con cũng có một cái chuyện này con thưa với Thầy cho rốt ráo. Con có gạo lứt muối mè nè. Con ăn tới mười mấy năm con sống, thành ra bây giờ con tránh né hay lắm mà lại hạnh phúc. Giờ con khỏi nấu ăn gì hết trơn. Con nấu một nồi cơm rồi mè con rang sẵn, con muốn ăn thì con trình lên với cô trưởng…con xin phép con được con ăn với muối mè. Con tính như vậy đó Thầy. Chứ con thấy cô mệt với con quá. Con đã không muốn ăn như (không nghe rõ)
Trưởng lão: Ờ, thì cái này là tùy thuận của mấy con để thực hiện, sao sống cho đúng theo Tứ Vô Lượng Tâm. Chứ còn đúng là giới luật của Phật thì không cho phép chúng ta nấu đồ ăn ăn. Ta đi xin thôi. Nhưng mà điều kiện mà bây giờ trong hoàn cảnh tu để mình thực hiện được tâm từ bi của mình, Tứ Vô Lượng Tâm đó. Do đó các con phải tự nấu lấy con dùng.
Tu sinh: Con nhờ cô Giác Minh hộ cho con cái đó mà con sống, con cũng mừng lắm Thầy.
Trưởng lão: Thì thôi bây giờ tùy thuận mà làm sao nói đúng cái pháp của Phật tức là mình sống thừa tự pháp mà.
Tu sinh: Chớ giờ nếu giờ con nấu thức ăn, con ăn chay đi. Thế nào cũng có người ta thấy à. Thành ra cái thấy nó làm mình khó chịu, thấy cũng không hòa hợp với chúng, con mệt lắm. Bây giờ con né bằng cách đó thưa Thầy, con ăn gạo lứt đó thưa Thầy, Thầy có tưởng tượng con ăn chín chén cơm thành ra con khỏe lắm, con không có bệnh gì hết.
Trưởng lão: Coi như cái gì ăn sống nó cũng được, chứ không có gì.
Tu sinh: Dạ ăn hoài được hoài
(30:30) Tu sinh: Thầy nói rõ về Tứ Niệm Xứ thêm chút nữa. Hổm nay cô Giác Minh.. xin Thầy nói rõ thêm một chút về Tứ Niệm Xứ
Trưởng lão: Bây giờ, Thầy nói về cái cách thức để mà tu Tứ - Niệm - Xứ. Tứ Niệm Xứ mà tu ở trên Tứ - Niệm - Xứ, chứ không phải là Tứ Niệm Xứ mà tu ở trên cái các pháp khác. Thí dụ như Tứ Chánh Cần cũng tu trên Tứ - Niệm - Xứ chứ không phải Tứ Chánh Cần mà tu ngoài Tứ - Niệm - Xứ. Cho nên thí dụ một người cư sĩ, người ta mới tu, người ta sống chung đụng với mọi người thì luôn luôn có mọi pháp nó sẽ tác động vào Tứ - Niệm - Xứ của họ, nó tác động vào thân - thọ - tâm - pháp của cái người đó. Cho nên cái người đó mới đặt Pháp Tứ - Niệm - Xứ trên thân-thọ của họ vì vậy mà họ ngăn ác, diệt ác. Gọi là họ tu Tứ Chánh Cần trên Tứ - Niệm - Xứ.
(31:24) Còn bây giờ các con là một cái người đã tu, vào trong thất ngồi sống độc cư một mình rồi thì các pháp ác ở bên ngoài không tác động được, nó không có xâm chiếm được, nó làm cho mình thấy thoải mái dễ chịu, nó không bị các pháp nó làm cho mình khổ. Nó hoàn toàn, mình cách ly được cái thế gian, cho nên mình mới tu Tứ Niệm Xứ trên Tứ - Niệm - Xứ.
Bởi vì cái Pháp Tứ Niệm Xứ là cái pháp của Phật, mình lấy cái pháp của Phật mình mới đặt lên Tứ - Niệm - Xứ của mình. Tứ - Niệm - Xứ là thân - thọ - tâm - pháp của mình. Các con hiểu không, chứ đâu có phải, là thân - thọ - tâm - pháp Tứ - Niệm - Xứ rồi mình tu Tứ Niệm Xứ. Thì rõ ràng có Pháp Tứ Niệm Xứ trên Tứ - Niệm - Xứ. Còn cái kia, pháp Tứ Chánh Cần ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện trên Tứ - Niệm - Xứ. Các con thấy không? Thấy rõ không?
Bởi vì mình tu cho cái gì? Tu cho giải thoát, cho cái Tứ - Niệm - Xứ phải không? Giải thoát cho Tứ - Niệm - Xứ thì phải tu trên đó chứ sao? Tứ - Niệm - Xứ là bốn cái nơi để mà chúng ta tu tập chứ không phải để niệm. Nhưng mà chữ "niệm" là danh từ của những nhà học giả, người ta dịch ra Niệm, đó là sai. Nó là niệm tức là nơi chốn, chứ không phải niệm để mà niệm, Niệm để mà ức niệm, để mà nhớ hồi tưởng thì không phải. Niệm là ở đây ta hiểu cái nghĩa nơi chốn, bốn cái chỗ, bốn cái chỗ chứ không phải…Cho nên Tứ - Niệm - Xứ là bốn cái chỗ để tu. Nhưng mà cái pháp của Phật dạy bốn chỗ, bây giờ trong pháp dạy: Thân - Thọ - Tâm - Pháp. Cái pháp nó dạy: Cái thân như thế nào? Quán thân sao? Quán thọ sao? Quán pháp sao? Quán tâm thế nào? Thì ở trong cái bài Tứ - Niệm - Xứ thì đức Phật dạy chúng ta đó là cái Pháp Tứ Niệm Xứ. Còn bây giờ trên Tứ - Niệm - Xứ để mà tu cái Pháp Tứ Niệm Xứ. Đó thì nó khác.
(33:07) Bây giờ, chúng ta đã học thuộc cái Pháp Tứ Niệm Xứ rồi. Bây giờ, chúng ta mới áp dụng cái Pháp Tứ Niệm Xứ trên cái Thân - Thọ - Tâm - Pháp của chúng ta. Thì trong cái Pháp Tứ Niệm Xứ thì Phật dạy chúng ta có tu Định Niệm Hơi Thở, có Thân Hành Niệm, có Quán niệm hơi thở, phải không? Rõ ràng. Bởi vì đức Phật dạy mình biết hơi thở ra, biết hơi thở vô thì trong Tứ Niệm Xứ đã có dạy hành động đó rồi. Trên Tứ - Niệm - Xứ thì có dạy Thân Hành Niệm rồi, cái Pháp Tứ Niệm Xứ đã có dạy các pháp môn đó tu rồi. Vậy thì những cái pháp đó để tu Tỉnh thức. Như hồi nãy Thầy nói mình tu để Tỉnh thức, để Tỉnh thức rồi mới áp dụng trên cái Tứ - Niệm - Xứ của chúng ta mới được. Cho nên cái Pháp Tứ Niệm Xứ nó khác, nó không giống Tứ - Niệm - Xứ trên thân của chúng ta, phải không? Cái Pháp Tứ Niệm Xứ là phải tập: cái hơi thở nè, phải tập đi kinh hành nè, phải ngồi nè, phải tác ý nè, phải Như Lý Tác Ý nè, rồi phải ra lệnh như thế này, như thế nọ thế khác. Đó là cái Pháp Tứ Niệm Xứ. Quán bất tịnh nè, rồi quán xương trắng nè, rồi quán thực phẩm bất tịnh nè. Tất cả những cái quán đó đều ở Pháp Tứ Niệm Xứ hết.
Cho nên khi mà đọc Pháp Tứ Niệm Xứ thì chúng ta tùm lum, không biết đâu mà tu. Mà chúng ta cứ lấy cái Pháp Tứ Niệm Xứ mà tu Pháp Tứ Niệm Xứ thì không biết được. Hầu hết là các học giả đều lấy Pháp Tứ Niệm Xứ mà tu trên Pháp Tứ Niệm Xứ. Mà, tu trên Pháp Tứ Niệm Xứ chứ không phải tu ở trên Tứ - Niệm - Xứ của chúng ta, thành ra nó trật hết rồi. Tu ở ngoài không, tu ở ngoài, cứ lấy cái pháp tu cái pháp ở ngoài chứ không phải tu trong này.
(34:38) Ờ! Cái pháp để dạy cho mình hiểu để mình áp dụng vào từng cái Tứ - Niệm - Xứ của mình. Phải không các con? Cho nên vì vậy mình mới khắc phục tham ưu. Chứ còn Tứ Niệm Xứ kia mình quán tùm lum vậy chứ nó không khắc phục tham ưu trên Tứ - Niệm - Xứ này. Thì như vậy, mình tu rốt cuộc có giải thoát không? Cho nên ông sư nào, ông Thầy nào cũng không giải thoát mà nói Tứ Niệm Xứ rất hay. Bởi vì nói cái Pháp Tứ Niệm Xứ trên cái Pháp Tứ Niệm Xứ, chứ không phải Tứ - Niệm - Xứ, mà trên sự áp dụng cho Tứ - Niệm - Xứ của Thân - Thọ - Tâm - Pháp của chúng ta, phải không? Các con thấy không? Cho nên nhà học giả giảng thì nói giảng thì nghe có lý nhưng mà cái lý mà đúng trong kinh sách nữa, bởi vì đó là pháp trong kinh sách mà. Pháp Tứ Niệm Xứ, chứ đâu phải là Tứ - Niệm - Xứ của kinh sách ở trong thân của chúng ta đâu. Nhưng mà khi học để mà thông suốt được cái pháp, bây giờ chúng ta mới tùy theo pháp đó mà chúng ta sống ở trên Thân - Thọ - Tâm - Pháp chúng ta để mà khắc phục tham ưu, phải không? Cho nên trên pháp quán pháp mà. Trên Tứ - Niệm - Xứ đó mà quán cái pháp Tứ - Niệm - Xứ của chúng ta để khắc phục tham ưu. Vì vậy thì trước tiên trên pháp Tứ - Niệm - Xứ thì chúng ta phải tu cái gì trước?
À bây giờ chúng ta phải tu Tứ Chánh Cần, nó áp dụng Tứ Chánh Cần ngăn ác, diệt ác. Rồi trên Pháp Tứ Niệm Xứ, ở cái Pháp Tứ Niệm Xứ dạy chúng ta Tỉnh thức, tỉnh giác đó. Thì bây giờ chúng ta tu Tỉnh giác, mà Tỉnh giác thì tu ở trên pháp Tứ Niệm Xứ chứ đâu phải Tỉnh giác ở trong cái thân chúng ta đâu, phải không? Nhưng mà tập Tỉnh thức ngay cả cái Tâm của chúng ta đi, để rồi lấy sự Tỉnh thức đó mà áp dụng trên Tứ - Niệm - Xứ mới khắc phục tham ưu mới được.
(36:05) Tu sinh: Bữa hôm Thầy dạy cái Niệm Xứ mà cái pháp hành hay quá Thầy! Thầy dạy đêm thanh vắng đó, rồi cái quán thân trước đó Thầy. Bữa Thầy nói cho cô Giác Minh, cái đó hay quá. Con thì hiểu rồi, nghe rồi. Quá hay!
Trưởng lão: Trên cái đó là giai đoạn của người tu Tứ Niệm Xứ trên Tứ - Niệm - Xứ. Nghĩa là cái thời gian mà Thầy dạy các con đó, cái pháp Tứ Niệm Xứ mà để tu Tứ - Niệm - Xứ là sau khi các con phải tập Tỉnh thức, các con có đủ sức Tỉnh thức rồi. Nghĩa là từ cái đi kinh hành, từ cái hít thở, các con phải tập nó không bao giờ nó có cái niệm gì khác. Cái Tâm của các con nó coi như là nó ly hết cái phần thô của ác pháp và của dục, nó tới cái vi tế rồi. Cho nên lúc bây giờ các con tu Tứ - Niệm - Xứ là con quét vi tế ở trên Tứ - Niệm - Xứ chứ không còn cái thô ở trên Tứ - Niệm - Xứ nữa. Cho nên tới chừng đó các con đủ thoải mái dễ chịu nhẹ nhàng lắm. Nó không còn nặng nhọc, nó không còn đứng lên ngồi xuống mà đi kinh hành như vậy đâu. Nó không còn mà đi tới đi lui như vậy nữa đâu. Các con ngồi ở trong thất như thế này, các con quán trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp, quán từ đầu tới chân của các con.
(37:30) Rồi bắt đầu bây giờ, con quan sát coi từ đầu tới chân con, nó có cái gì, có cái gì xảy ra ở trên thân con không. Như vậy bây giờ trên thân con không thấy con muỗi cắn, không thấy ngứa, không thấy gì thì thân con nó an lạc vô cùng.
Ờ, bây giờ con quán cái thân, con thấy nó an lạc, nó không bị cái thọ gì ở trên này hết. Thân, thọ tức là vừa quán cái thân, từ ở trên đầu con, con quán xuống cái chân con, con không thấy cái gì mà xảy ra cho cái thân con. Tức là ngay đó con thấy nó không có cái thọ trên thân con rồi. Rồi bắt đầu bây giờ con lại quán một lần cái Thọ, cái Thọ của thân con nữa. Bây giờ con quán cái thân rồi, bây giờ con quán sát nó rồi mà con thấy không có cái cảm giác gì nó làm cho cái thọ đó thì tức là nó bình thường cái thân con hoàn toàn, cái thân con rất tốt, nó không có bệnh đau. Chứ còn bây giờ thân con, nó nhức cái chỗ này, đau cái chỗ này, thì con quán từ đầu đến đây, cái con gặp ngay cái nó đau chỗ này rồi. Thì như vậy nó bị cái thọ rồi. Vậy bây giờ con phải quán cái thọ chứ, bị cái thọ rồi con phải quán chứ. Còn bây giờ con quán từ trên này xuống tới dưới chân con, từ trên đầu xuống tới chân mà không thấy có cái đau nào hết, tức là không thấy có cái thọ nào hết, thì như vậy rõ ràng thân con an lạc rồi. Thì bắt đầu con quán cái thọ coi có không? Hoàn toàn nó không có rồi thì cái thọ con hoàn toàn cũng đâu có. Bởi vì con quán, hễ quán cái thân mà nếu có thì nó phải có cái Thọ, thọ thân, mấy con. Nó liền nhau. Nhưng mà giờ cái thọ nó không có, phải không? Mà con quán cái thân, mà cảm giác thấy cái thọ rồi, thì biết rằng, đây là cái thọ rồi, thì bây giờ quán cái thọ, cái thọ này nó đau như thế nào? Coi thử nó vô thường làm sao? Cách thức như thế nào, thế nào? Để rồi mới dùng cái Định Vô Lậu mà quán xét đẩy lui cái thọ đó. Đẩy lui cái thọ rồi thì cái thân con an lạc trở lại không có khổ, an lạc, không còn đau, còn nhức gì nữa hết. Tức là đẩy lùi được cái chướng ngại pháp của nó, đó là vừa quán cái thân mà có xảy ra thọ thì quán thọ, mà không xảy ra thì thấy thân an lạc, thì bây giờ mình mới quán cái thọ thì cái thọ hoàn toàn không có trên thân nữa.
(39:28) Vậy bây giờ mình mới quán cái Tâm. Ờ bây giờ, coi cái Tâm, thử xem xét coi cái Tâm từ ở trong thân của mình, từ trên tới dưới cái thân của mình. Coi cái tâm nó đặt ở chỗ nào? Nó chú ý ở chỗ nào? Nó phóng ra cái gì? Thấy hoàn toàn nó không có thì nó thanh thản, phải không? Còn mà nếu nó có tức là nó có khởi niệm. Tức là bây giờ cái thân con đau chỗ này thì cái Tâm nó phải bám vô đây thôi. Thì con quán tâm. Ờ, cái tâm nó nằm đây, nó mới biết đau đây. À nó biết đau đây, bây giờ phải quán để mà lui, để mà cho nó rời khỏi cái Tâm, nó rời khỏi cái đau. Vì vậy, con mới bảo là bây giờ nó đau chỗ này, con mới bảo cái Tâm: "Tập trung hơi thở đi, không có dí vô cái đau.Cái đau là vô thường, thọ là vô thường, hãy đi đi". Rồi con bắt đầu thở ra thở vô. Thì ngay đó cái Thọ này nó sẽ bị đẩy lui đi. Bởi vì con biết cái Tâm nó bám vô đây rồi, bởi vì con quán cái Tâm thì con phải biết nó bám vào cái Thọ chứ gì, phải không? Nó cứ đi từng phần, từng phần để rồi con sẽ đẩy lui chướng ngại, tức là khắc phục được tham ưu ở trên Thân - Thọ - Tâm - Pháp của con mà. Rồi bây giờ con quán cái Tâm rồi, con thấy cái Tâm mình thanh thản, an lạc không có cái gì xảy ra, nó không khởi niệm gì hết. Hoàn toàn nó thanh thản mà. Cho nên bây giờ con quán cái Pháp, Thân - Thọ - Tâm - Pháp mà.
(40:35) Bây giờ Pháp. Bây giờ con quán các Pháp. Thì bây giờ coi thử coi âm thanh người ta hát radio coi cái Tâm mình có động không? Hát chi mà cái nhà đó hát lớn quá, làm cho mình ngồi đây không yên! Nó cứ bắt buộc mình phải nghe âm nhạc đó, cái khúc nhạc đó. Như vậy mình bảo cái Tâm: "Quay vô, định vô hơi thở, đừng nghe âm thanh đó, đừng có phóng dật ra âm thanh đó". Thì bắt đầu mình thở, thở ra, hít vô. Một hồi cái nó không lưu ý cái chỗ đó nữa, tức là mình đẩy lui được các pháp rồi chứ gì. Dễ không các con?
Tu sinh: Dạ thưa rất dễ Thầy
Trưởng lão: Tức các con tu Tứ Niệm Xứ chứ gì, tức làm sao cho cái Tâm của con nó luôn luôn định trên cái thân của con, tức là định trên hơi thở, thì nó sẽ đẩy lui tất cả các Pháp chứ gì. Mà ngay cả cái Thọ đây con cũng bắt buộc nó định vô cái hơi thở con, tức là định vô thân con, thì ngay nó định thì chỗ đau nó cũng đi mất, phải không? Con thấy rõ không? Đó là mình tu Tứ - Niệm - Xứ để khắc phục tham ưu chứ không có còn tham ưu trong thân trong Tâm của mình nữa. Thì như vậy rõ ràng là mình tu Tứ - Niệm - Xứ. Chứ giờ tu Tứ - Niệm - Xứ để làm gì đây! Cứ Quán hoài, cứ ngồi đó mà Quán Bất tịnh, quán đủ thứ, tùm lum chi đây, mà nó giải thoát liền à!
Mà suốt một ngày mà con ngồi thì nó biết bao cái xảy ra trên Thân - Thọ - Tâm - Pháp con, nhiều chuyện chứ đâu phải một chuyện. Cho nên con đuổi nó mà mệt đi chứ. Chừng nào mà hoàn toàn mà con tới chừng con đuổi mà tới chừng mà nó hết, nó không còn, nó thanh thản suốt ngày đêm. Như vậy là con đã ly dục ly ác pháp hết, trên Thân Thọ con, con hoàn toàn là con bất động tâm rồi. Mà con bất động rồi là con chứng Thánh rồi, nhập nào dòng Thánh rồi. Đó là Sơ Thiền của con chứ gì! Nhập lưu rồi chứ gì, có gì đâu!. Cái đó con đi vào cái chỗ đó rồi!. Bây giờ con mới đi tới những cái Định. Bây giờ đây là cái Sơ Thiền rồi. Bây giờ vào cái Định, tất cả những cái Định sau này Thầy sẽ dạy tới. Chứ bây giờ chưa được cái lớp này mà các con đi tới cái lớp khác, ngay cả Tứ - Niệm - Xứ, các pháp mà học về pháp Tứ Niệm Xứ các con còn chưa thuộc.
Chưa thuộc thì bây giờ mình phải học các pháp Tứ Niệm Xứ chứ bây giờ các con áp dụng sao được? Cho nên bây giờ các con chỉ còn tập Tỉnh thức trên pháp Tứ Niệm Xứ. À, thì bây giờ Thầy dạy sao tu vậy. Chứ mấy con mà tu nữa mấy con rối hết. Gì mà Quán Bất tịnh! Gì quán này kia tùm lum ra! Thì thôi tiêu hết! Các con không biết đâu. Bây giờ dạy các con Tỉnh thức thì tu Tỉnh thức, rồi tới chừng người ta dạy tới cái nào thì tu tập cái nấy thôi con.
Bởi vì mình tu tập thì nó mới có thuần, nó thuần, nó quen rồi người ta dạy tới thì mình mới xả được cái Tâm. Mà bây giờ người ta dạy mình cái quán Bất tịnh, mà người ta biết được đặc tướng của mình bị rơi vào chỗ nào đó, người ta mới dạy cái đó. Còn người ta dạy mình "quán thực phẩm bất tịnh", rồi khi đó người ta dạy mình, người ta thấy tới giai đoạn đó người ta mới dạy mình những đức hạnh Thánh, tập cho để mình biết được đức hạnh Thánh của một bậc Thánh Tăng mà, Thánh Ni mà, nó phải sống được với những đức hạnh Thánh như thế nào. Mà bây giờ mình bị kẹt vào chỗ này không giải quyết được, cho nên người ta giải ra cho mình thấy đây là chỗ Thánh rồi. Thì lúc bấy giờ mình thấy Thánh, mình muốn làm Thánh thì tức là mình chấp nhận là mình sống đúng. Cho nên mình chấp nhận mà mình thấy "A, tui làm Thánh, tui đâu phải làm phàm phu nữa". Còn mình không giải ra người ta nghĩ chỗ này là chỉ giới luật ức chế làm cho mình khổ quá. Người ta dạy cho mình những đức làm Thánh. Kế đó người ta, tùy theo ông Thầy dạy. Từ đó mình sống, sống đúng tức mình xả, ly dục ly ác pháp trọn vẹn thích nghi.
Đó thì các con nhớ lại Thầy dạy thì các con cứ nhớ: đi, đứng, nằm, ngồi đều tu, nhưng mà mỗi buổi vậy các con chỉ tu được ba mươi phút, đừng có tu hơn. Rồi bao nhiêu đó ngồi chơi đi.
Tu sinh: Chia làm bốn buổi?
Trưởng lão: Chia làm bốn buổi, ngày đêm bốn buổi. Mỗi buổi là ba mươi phút.
Tu sinh: Thưa Thầy con chưa hiểu cái ngồi chơi
Trưởng lão: Ngồi chơi thanh thản
Tu sinh: Thí dụ như mình đi kinh hành ra đằng trước, rồi mình quét rác..
Trưởng lão: Quét lá đồ vậy đó!
Tu sinh: Cái Tâm mình không có trụ vô nữa?
Trưởng lão: Không có trụ vô con. Không có trụ vô.
Tu sinh: Quét cầm chổi, cái tâm nó chạy vô cây chổi
Trưởng lão: À nó tỉnh thức, cứ tỉnh thức ở trên đó. Nó cứ tỉnh như vậy.
Tu sinh: Đừng có bám chặt quá.
Trưởng lão: À, Con cứ xả ra đi, con cứ quét, để tự nhiên nó biết quét một cách nhẹ nhàng. Chứ còn con cứ bám vô cái quét, gom gom vô trong đó thì con bị ức chế nó nhiều lắm, nó mệt lắm con.
Tu sinh: (không nghe rõ) Chị bị nhức đầu, ức chế miết là nó bị hao mòn
Trưởng lão: Ờ đúng rồi!
Tu sinh: (không nghe rõ) Con ức chế quá nó căng Thần kinh đó. Cứ gom gom vô trong cái hành động của mình hoài đó thì căng thần kinh, cứ dòm hoài một cái đối tượng thì..
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Ngày giảng: 13/07/2001
Thời lượng: [2:13:33]
Tên cũ: 20010713-Ptử Cần Thơ hỏi đạo
https://thuvienchonnhu.net/audios/20010713-phat-tu-can-tho-nhan-qua-nen-dao-duc-phat-giao.mp3
(00:00) Phật tử 1: 8 giờ sáng thứ Sáu, ngày 13 tháng 7 năm 2001, nhóm Phật tử Cần Thơ thăm quý Hoà thượng.
Trưởng lão: Hôm nay quý Phật tử có duyên, có cái duyên về thăm Thầy, chắc chắn phải có những cái điều cần thiết để thưa hỏi Thầy cho cái sự tu tập con đường của đạo Phật. Có những cái điều gì thắc mắc thì quý Phật tử cứ hỏi Thầy.
Có cái điều mà Thầy mong muốn nhất là hỏi để thực hành, hỏi để tương tác. Cái gì mà có cái nghi ngờ của Phật hoặc không đúng của Phật thì hỏi Thầy, Thầy giúp đỡ cho. Chứ mục đích ở đây Thầy không muốn phản ánh ai hết, nhưng mà muốn làm sáng tỏ là cái gì của đạo Phật mà từ xưa đến giờ thầy trò của nước ta vô tình mà bỏ…
Cho nên tới ngày nay chúng ta tu hành, chúng ta theo cái sự… cuối cùng mình lại không làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp người sanh - già - bệnh - chết.
Ngày xưa đức Phật đã làm chủ được, và để lại giáo pháp giúp cho con người chúng ta trên hành tinh này, nó có một cái nền đạo đức nhân bản không làm khổ mình, khổ người. Thế mà chúng ta vẫn thấy con người đau khổ.
Chính ngay trong cái gia đình Phật giáo hiện tại, chưa có một cư sĩ mà đạt được những cái đạo đức đó, chứ chưa nói chi những cái thiền định. Vì thế mà nói đến thiền định mà làm chủ sự sống chết, chấm dứt sự luân hồi thì chúng ta chưa có một người nào làm được, do đó cái hoài nghi đó rất lớn.
Hôm nay quý Phật tử về đây Thầy mong rằng quý Phật tử sẽ thưa hỏi những cái thực tế, thực tế hơn, và đồng thời chúng ta đọc những kinh sách của Phật, chúng ta thấy rằng đức Phật nói có ba mươi ba cõi trời và sáu nẻo luân hồi. Vậy những cái điều đó có thật hay không?
(02:03) Thế mà đức Phật, một bài kinh, đức Phật đã khẳng định đó là thế giới tưởng. Vậy thì thế giới tưởng là thế giới, có phải là thế giới linh hồn thật, hay hoặc là thế giới tưởng chỉ là ở trong tưởng của chúng ta thôi? Hay hoặc là ở nơi đâu xuất hiện cái thế giới tưởng này?
Do đó thì quý Phật tử… mà trong cái gia đình Phật giáo của chúng ta, mọi Phật tử đều các con tự tìm cái con đường đó… Cho nên hôm nay quý vị cứ vui vẻ, thẳng thắn hỏi… và Thầy hoàn toàn trả lời tất cả những điều đó, để chúng ta biết được cái pháp hành, biết được cái đời sống đạo đức như thế nào là của đạo Phật, như thế nào là không phải của đạo Phật.
(02:46) Ở đây chúng ta không phải hỏi để mà cạnh vấn??? vấn nạn bằng cách này hoặc cách khác để tranh hơn thua. Không phải. Mà ở đây chúng ta hỏi để mà tìm hiểu đường lối tu tập của đạo Phật, để giúp cho những người sau này nghe được những lời dạy này. Nghe được những cái lời mà Thầy nói này, người ta hiểu đây không phải là một cuộc tranh luận, mà là một cái cuộc để mà nói lên được ý nghĩa chân thật của đạo Phật.
Đây Thầy nói thẳng thắn chứ không có nói thiên vị. Nên là chúng ta hoàn toàn mà hỏi thẳng thấy sai nói sai, thấy đúng nói đúng, nên quý Phật tử vui lòng hỏi, đừng có ngại tất cả cái gì hết, đừng có e ngại mà hãy thẳng thắn hỏi. Hỏi để biết mình, biết người chứ không phải hỏi để chúng ta tuyên dương hay để chúng ta… nên quý Phật tử đừng ngại.
(3:47) Phật tử 2: Thưa Thầy, người chết thì đi đầu thai thành thai nhi, nhưng con thấy bây giờ mọi người kế hoạch hoá, người ta cứ móc thai hoài. Vậy thì linh hồn ấy đi về đâu? Không lẽ một linh hồn lại phải đi tìm ba, bốn, chín, mười cái chỗ cho đến khi nào mà mình được sinh ra thì thôi hả Thầy?
Phật tử 3: Câu hỏi hay.
Trưởng lão: Ở đây người ta lầm tưởng rằng con người chúng ta là có một cái linh hồn ở trong. Nếu thật sự mà con người có một cái linh hồn mà đi đầu thai làm con người thì thế gian này con người ta không có đông. Bởi vì mình chết mình đầu thai có một người thôi làm sao mà đẻ ra nhiều quá vậy, linh hồn ở đâu mà nhiều vậy?
Bây giờ chúng ta thấy bao nhiêu người. Ngày xưa, lúc thời đức Phật cách đây hai ngàn mấy trăm năm, con người đâu có bằng chúng ta đâu, phải không? Mà tại sao bây giờ con người ở đâu? Vậy thì chúng ta có thể kết luận rằng con người là những cái loài chúng sanh, mỗi chúng sanh đều có cái linh hồn và khi chết đi, vì một cái duyên làm thiện như thế nào đó mà được sinh làm người.
Nhưng đức Phật đã bảo rằng và thấy rất rõ, đức Phật nói: “Được thân người là khó, khó như con rùa mù tìm bọng cây." Thế mà sao càng ngày người sinh ra nhiều vậy, thì linh hồn con vật chắc chắn là đâu thể nào làm con người được.
(05:21) Cho nên đức Phật có ghi, chúng ta thấy cái tiêu chuẩn làm người. Làm Trời thì phải có mười điều thiện mới làm Trời, mà làm người phải có tham dục. Mà không chừng chúng ta… như những người ngồi trước mặt Thầy, có làm đúng năm điều thiện đó không mà làm người được? Phải không?
Cho nên đâu phải làm người mà dễ. Làm người phải đúng năm tiêu chuẩn mới gọi là làm người. Mà giờ chúng ta không phải, chúng ta có thân người thật sự, nhưng mà tâm của chúng ta có làm người được không?
Cho nên coi vậy chứ con người, cái sự thật ra là con thú vật. Dữ hơn loài thú. Cho nên nói mặt người chứ lòng thú, chứ chưa phải là con người thật sự.
Vì vậy mà cái nền đạo đức của đạo Phật đưa ra cho chúng ta biết, để biến chúng ta từ loài động vật, từ con thú vật trở thành con người. Con người phải sống có đạo đức. Chúng ta hiện giờ con người chúng ta đâu có đạo đức đâu? Cho nên có năm cái tiêu chuẩn để chúng sanh được làm người.
Như vậy để chứng minh rằng chúng ta không có linh hồn. Nếu có linh hồn thì con người chỉ sanh con người thôi, chứ không có sanh hai, ba con người được. Cho nên vì vậy mà chúng ta thấy rằng tại sao mà con người càng sinh nhiều và bây giờ kế hoạch hoá. Mà nếu không kế hoạch hoá thì con người bây giờ đầy đất hết, không có chỗ ở, phải không?
(06:40) Bây giờ cứ cho một gia đình như ngày xưa ông bà mình mỗi hai vợ chồng như vậy là mười bốn đứa con hoặc là mười đứa con thôi. Ngày xưa ông bà, cũng như ông nội, bà nội Thầy là mười bốn đứa con. Mà bây giờ cứ cho gia đình nào cũng mười bốn đứa con hết thì thử hỏi đất này còn chỗ nào mà ở? Trên hành tinh này không còn chỗ ở, thì thử hỏi linh hồn từ đâu, từ đâu mà xuất hiện nhiều quá vậy?
Thì chắc chắn là nếu mà chúng ta có linh hồn thì chúng ta chết chúng ta đầu thai có một người thôi, không thể nào hai người được. Thì như vậy chúng ta biết rõ ràng là không có linh hồn. Bây giờ chúng ta nói là có linh hồn. Cái linh hồn đó, tại sao khi mà chúng ta nói rằng chúng ta thấy người đó chết đi rồi thì cái linh hồn phải giống người đó chứ gì? Nghĩa là cái linh hồn giống người đó chứ gì? Phải không?
Đúng sự thật cái linh hồn làm sao giống người đó được? Nếu mà người đó đi tái sanh đời này, bây giờ kiếp này họ làm Thầy đi, cái linh hồn đó làm Thầy đi, cái mặt của Thầy chứ gì? Nhưng mà kiếp sau họ sanh làm người khác thì cái mặt khác, làm sao cái linh hồn còn cái mặt của Thầy nữa được? Nếu mà cái mặt của Thầy thì cái linh hồn đó phải có cái mặt đó hoài chứ làm sao mà nó thay đổi? Cái thân thì có thay đổi, cái linh hồn làm sao thay đổi? Như vậy rõ ràng không có linh hồn.
(7:52) Nhưng mà tại sao khi mà một cái người đó chết rồi, mà một cái nhà lên đồng, lên cốt, nhà ngoại cảm họ lại bắt gặp được cái linh hồn? Mà linh hồn họ lại thấy giống cái người đó, cái người chết đó? Thấy xác của người chết đó chứ đâu phải là linh hồn. Thay vì cái linh hồn phải cái mặt khác chứ, sao giống được?
Cho nên rõ ràng chúng ta đưa ra những cái này để mà chúng ta thấy rằng không có linh hồn. Rồi cái linh hồn, như đức Phật đã xác định rằng chúng ta có cái thân này thì tức là chúng ta phải ăn những, cái thân của chúng ta là tứ đại vì vậy mà chúng ta phải ăn những cái vật tứ đại để nuôi cái thân này.
Còn cái linh hồn thì nó đâu có cái thân tứ đại. Thế mà nó cũng ăn cái vật của chúng ta được sao? Cho nên chúng ta đem cúng nó, để nó hưởng những cái thực phẩm đó, nó hưởng cái hơi đó để nó sống sao? Cho nên nó phải có những cái thực phẩm của cái linh hồn.
Nhưng mà cái thế giới mà linh hồn, người ta nói rằng sau khi người chết nó còn có sự sống thì nó phải có cái thế giới đó nữa. Mà có thế giới thì nó phải có thực phẩm của nó ăn để nuôi sống nó trong cái thế giới đó. Cái này nó không có thực phẩm nó ăn, thì nó ăn cái gì? Mà bây giờ chúng ta phải đốt giấy tiền vàng mã cho nó mặc, để mà đem thực phẩm chúng ta cúng cho nó ăn, thì có đúng không?
Cái này thật sự ra nó là… Bởi vì nếu mà hoạ chăng có linh hồn, có cái thế giới linh hồn thật sự, thì nó phải cái linh hồn thật sự ít ra phải có cái vật lý gì của nó. Nó phải có cái chất quang học hay điện học, hay cái gì đó, chứ sao mà nói nó không có gì hết. Nói hình ảnh vu vơ vậy thì không có, ít ra nó phải có cái từ trường gì trong đó. Nó phải có. Mà cái từ trường đó để nuôi sống nó bằng cái từ trường nào, để thải ra để mà nuôi sống, để cho nó luôn luôn duy trì mãi mãi cái thế giới linh hồn của nó.
(09:37) Chắc chắn phải có cái môi trường nào đó để duy trì nó, tức là nó phải ăn trong cái môi trường đó. Cũng như bây giờ chúng ta vì ở trên cái môi trường sống của chúng ta, cho nên chúng ta có được cái thân xác này, thì chúng ta phải ăn những vật tứ đại ở bên ngoài để nuôi thân xác của chúng ta. Thì chúng ta phải có cái đó. Cho nên, trước khi mà.
Cũng như bây giờ mình chưa có sinh ra ở trên cái hành tinh này thì những cái vật mà sinh ra để nuôi sống được con người, nó phải ra trước, nó phải mọc trước. Ví dụ như cây cỏ phải mọc trước. Chứ con vật, con người mà sinh ra trước cái loài cây cỏ này thì nó lấy gì nó ăn nó sống? Thì nó đâu phải là thành cái thế giới hiện hữu của chúng ta nữa được?
Cho nên cái môi trường sống chúng ta thì loài thảo mộc, cây cỏ phải được lên trước. Cho nên đến khi mà con người mà xuất hiện thì ngay cả cái lúa trời nó cũng phải ra trước. Cho nên hiện giờ chúng ta đi xuống cái Đồng Tháp Mười, chúng ta thấy có loại lúa gọi là lúa trời, người ta không cấy mà tự đất nó lên, giống như lên cỏ vậy đó.
Rồi người ta đập hạt lúa đó đem về người ta chọt, ngày xưa người ta chọt ra rồi người ta ăn. Chứ không phải như bây giờ, mình phải trồng kiểng, phải lai giống ra, mình mới có những cái loại lúa đó. Cái năng suất nó cao, còn năng suất của lúa trời nó thấp. Nhưng mà nó đẻ được ở nơi đó, thì nó nói đây là cái môi trường sống, khi đó chúng ta mới xuất hiện ra để chúng ta sống. Đủ biết rằng chúng ta hoàn toàn ở trong cái môi trường sống.
Mà môi trường sống thì ngày xưa đức Phật không nói đến từ “môi trường sống”, mà đức Phật nói môi trường “nhân quả”. Nhân và quả. Có cái nhân đó thì có cái quả. Nếu cái quả này để mà cho sống với cái nhân này, thì cái nhân này nó mới phải xuất hiện thì nó mới thành cái quả của nó sau này. Còn nếu không có nhân thì không có quả. Cho nên cái môi trường sống của chúng ta mà đức Phật ngày xưa gọi là môi trường nhân quả.
(11:23) Cho nên đức Phật nói chúng ta là những người thừa tự nhân quả. Thừa tự của cái nhân quả. Tức là nói từ cái môi trường sống đó chúng ta sinh ra, chớ không phải linh hồn chúng ta có ở cõi nào mà sinh ra.
Người ta cứ nghĩ tưởng là có cái thế giới siêu hình nào đó, từ đó linh hồn ở trong cái cõi đó nó mới xuất hiện về đây, sinh ra làm con người của mình. Người ta nghĩ chắc ở trên cõi trời mà làm tội lỗi gì đó thì chạy xuống dưới thế gian này làm con người. Không có.
Trong cái môi trường sống này, nó sẽ đủ cái duyên hợp của nó thì nó sẽ sanh ra thôi. Mà nếu cái duyên mà thiếu thì nó không sanh ra được.
Cũng như bây giờ chúng ta chưa từng thấy những con vật, nhưng mà từng cái từ trường, từng cái không khí, ở trong không khí của chúng ta nó có cái khí của nó, nó tạo thành cái môi trường đó, chúng ta không thấy.
Cũng như bây giờ chúng ta chưa từng thấy một cái loài sâu độc, chưa bao giờ có. Từ cái ngày mà chúng ta xịt thuốc rầy, thải vào ở trong cái bầu không khí của chúng ta có những cái chất độc hơn, bây giờ chúng ta lại thấy xuất hiện một cái loài sâu quá độc. Đó là tại cái môi trường của mình tạo thêm những cái nghiệp nhân của nó cho nên nó sanh ra.
Bây giờ cái môi trường sống của mình, mình tạo những cái từ trường thiện hơn thì nó lại sanh ra những con vật hiền lành hơn, tốt hơn, không có độc hại.
Cho nên bây giờ mà mình, ví dụ như bây giờ mình sinh ra những bệnh tật khó khăn hơn, thì do cái môi trường sống của mình độc hại hơn, nên nó phải sinh ra những thứ bệnh tật khó hơn. Chúng ta thấy như vậy. Từ đó cái nhân quả, từ ở trong cái nhân quả mà tạo ra cái môi trường ô nhiễm hay không ô nhiễm. Là do hành động nhân quả của mình mà tạo ra con người mạnh khỏe hay là ốm đau.
(13:01) Bây giờ ví dụ như bây giờ Thầy nói mình sanh ra cũng do cái nhân quả của mình sanh ra. Tâm mình tham dục cho nên vì vậy quá dục vì vậy cho nên mà mình sanh ra. Rồi bây giờ mình sợ nhiều quá, từ đó mình phải diệt hại từ cái mầm mống của cái kế hoạch hoá để mầm mống của con người. Chứ không ngờ rằng nếu tâm mình thiện hoàn toàn thì mình biết hạn chế được cái lòng dục của mình, thì tức là đâu có đến đỗi mình phải giết những đứa bé ở trong cái mầm mống của nó đâu, trong cái thai nhi đâu?
(13:30) Cho nên đạo Phật ra đời, mục đích là giúp chúng ta thấy bằng sự thật. Sự thật là vì cái tâm càng tham đắm thì chúng ta lại sanh càng nhiều, càng nhiều ra. Cũng như bây giờ nếu mà tự nhiên mà nói cá, tôm mà này kia…, con người chúng ta đừng có ăn nó, thì nó sẽ sanh ra đầy sông, đầy biển hết, thì như vậy nó sẽ, nó sẽ ngập hết, thì nó không còn cái chỗ cho con người sống. Điều đó không có.
Khi mà nó có sự hành và sự hoại diệt của nó, khi mà nó đến mức độ mà nó sinh sản đến một mức độ nào đó thì tự nó, nó cũng hoại diệt. Chứ nó không phải là. Cái môi trường sống mà. Nó hoại diệt để rồi nó thải hồi lại sanh ra một cái loài khác. Chớ không phải là…
Cũng như bây giờ con người chúng ta cứ đừng kế hoạch đi, một ngày nào đó sanh con người đầy ở trên mặt đất này, rồi tới cái giai đoạn nó sẽ bị hoại diệt mất. Nó hoại diệt bằng nhiều cách.
Ví dụ như chẳng hạn chúng ta thấy những cái điều kiện như chiến tranh mà sanh ra, một cuộc chiến tranh giết biết bao nhiêu con người. Cho nên vì vậy mà tự nó nó sẽ hoại diệt nó, chúng ta không kế hoạch.
Còn bây giờ chúng ta sợ cái nạn nhân mãn cho nên chúng ta kế hoạch, ngăn ngừa, để chúng ta duy trì sự sống của chúng ta thêm cái sự đau khổ của chúng ta hơn. Nhưng mà không ngăn ngừa bằng cái gốc của nó. Cái gốc của nó để sanh ra chúng ta là gốc dục.
Cho nên đức Phật mới dạy Tứ Thánh Đế đó là do cái nguyên nhân dục mà làm cho chúng ta đau khổ. Phải không? Vì diệt dục thì nó hết khổ, mà còn dục là đau khổ. Vì khổ, đức Phật nói đầu, Khổ đế.
(15:01) Là con người sanh ra thì không ai. Con vật và con người, mọi vật ở trên hành tinh này sanh ra đều là khổ. Mà khổ thì nó do nguyên nhân nào? Nguyên nhân dục, phải không? Thì cái nguyên nhân mà dục mà chúng ta diệt được cái dục thì nó sẽ hết khổ. Nó là Niết Bàn, chứ không có gì cả hết.
Do vì vậy mà chúng ta biết là do cái lòng dục của chúng ta từ đó mà sanh ra. Bây giờ chúng ta sanh nhiều cũng là do lòng dục, mà chúng ta không sanh cũng do lòng dục.
Nhưng mà bây giờ lòng dục thì phải tu tập như thế nào, thì nó có Bát Chánh Đạo để chúng ta noi theo. Vì vậy con người không có từ ở cõi nào mà đến đây được hết, mà chính cái môi trường sống này nó là duyên hợp.
Cho nên trong cái thế giới quan đức Phật, cái thế giới quan của đức Phật thì đức Phật chia nó làm mười hai nhân duyên, từ cái Vô minh sinh Hành, Hành sinh Thức… cho đến ưu, bi, sầu, khổ của một cái kiếp con người của chúng ta trong cái thế giới quan này. Thì coi như là chúng ta vì tiếp xúc mà sanh ra Ái, sanh ra dục. Vì vậy mà đức Phật đã xác định rõ cho chúng ta, nó không có trong mười hai duyên này, nó không có một cái duyên nào mà vĩnh viễn, thường hằng nó.
Coi như là cái thức nó cũng không thường hằng. Cái linh hồn là cái thức này, khi nó hoại diệt thì nó chỉ còn cái hành động nhân quả thiện, ác. Nhân quả tiếp tục đi tái sanh luân hồi.
Tiếp tục tái sanh như thế nào? Nó tương ưng đúng cái nhân, cái nhân quả của nó thì nó sanh ra. Mà không tương ứng trong cái giai đoạn này thì cái nhân quả nó bị bóp chết ngay từ đó, gọi là kế hoạch hoá gia đình.
(16:27) Cái nhân quả ác của nó mà, nó phải yểu tử. Bởi vì hàng ngày nó giết hại chúng sanh, hàng này nó tạo những cái nhân ác, nó không thiện. Cho nên vì vậy khi nó tương ưng để mà sanh ra một loài vật thôi, thì nó cũng đã bị giết chết rồi. Nó đã bị giết chết ngay từ ở trong trứng nước của nó. Nó đã bị cái nhân yểu tử của cái nghiệp lực tái sanh của nó, chứ không phải linh hồn.
Cho nên đó mình thấy nó tự diệt nó, là tại vì nó làm ác, nó phải diệt nó bằng cách vẫn còn ở trong trứng nước. Còn nếu nó lớn lên được một năm, hai năm thì nó bị xe đụng, hoặc nó bệnh tật, nó cũng chết. Những cái điều đó thuộc về cái nhân yểu tử. Cái nhân mà do mình từng giết hại chúng sanh rất nhiều.
Cho nên trong đạo Phật, đức Phật có dạy sáu nghề không nên làm: nghề săn bắn, nghề bắt cá, tôm, những nghề trực tiếp giết hại chúng sanh. Đó là để chúng ta thấy được không có linh hồn đi tái sanh mà có cái hành động thiện, ác của chúng ta nó trở thành một cái nghiệp.
Chẳng hạn bây giờ chúng ta ít sân là vì chúng ta ít có gặp cái môi trường, môi trường làm chúng ta sân. Nhưng mà cứ ngày nào cũng rầy rà, chửi mắng làm cho chúng ta mãi mãi sân. Thì cái sân đó nó huân thành cái lực. Cái lực đó nó đi tái sanh thì cái người này họ sanh ra họ hung dữ, họ dữ tợn.
(17:44) Cho nên đức Phật nói khi một cái người mà chết mà còn sân thì họ sẽ thành một con rắn, con rắn độc. Thì đức Phật ví dụ như vậy thôi, chứ không phải là con rắn đâu, mà cái người đó tiếp tục sanh làm con người thì họ nổi giận mau lắm. Khi người ta vừa nói móc cái họ bực lên liền tức khắc. Có thể họ đập nhà, đập cửa, giận dữ đập nhà đập cửa họ, bàn ghế, tới chừng mà hết giận rồi họ đi mua sắm trở lại. Còn hồi mà họ giận thì họ mặc kệ, bởi vì cái sân của họ đã huân thành quá lực, quá cái sự kiểm soát.
Ở đây Thầy nói như vậy để chúng ta biết rằng mỗi khi tham sân si, chúng ta đều là huân thành cái nghiệp. Từ cái tham sân si đó, nó mới đi tái sanh luân hồi, chứ không phải có linh hồn, linh hồn chúng ta.
Cho nên một người tu theo đạo Phật, người ta chấm dứt được tái sanh luân hồi, thì người ta đi ngược lại. Bởi vì cái nguyên nhân đi luân hồi là cái tham - sân - si của chúng ta mà trở thành cái nghiệp lực. Cho nên bây giờ chúng ta tu hành là mục đích chúng ta không tham sân si, phải không?
Không tham sân si, thì cái nghiệp lực mà chúng ta tạo cho tâm mình không tham sân si, thì cái nghiệp lực đó nó vẫn còn trong chúng ta. Cho nên đức Phật đã nói khi một người tu, có người hỏi đức Phật: “Khi tu rồi còn có cái gì hay không?” Thì đức Phật nói: “Như cái cây kia, khi nó mới lên thì nó có vỏ, có giác chứ chưa có lõi. Nhưng mà trải qua một quá trình thời gian dài thì cây mới có lõi. Chúng ta là người tu hành, trải qua thời gian tu luyện chúng ta sẽ có cái lõi.”
(19:15) Tại sao bây giờ chúng ta chưa có cái lực? - Cái nghiệp lực chưa có thấm. Cái nghiệp lực không tham sân si. Cái nghiệp lực không tham sân si chưa có ai có? Phải không? Cho nên mọi người chưa có cái này vì vậy mọi người chết đều phải tái sanh luân hồi hết. Còn cái nghiệp lực mà không tham sân si mà có rồi, thì cái nghiệp lực này không có tái sanh luân hồi.
Vậy thì chúng ta tu là còn chứ, còn được cái nghiệp lực không tham sân si chứ, chớ đâu phải chúng ta tu rồi còn có cái linh hồn chúng ta đâu, thành Phật đâu? Như vậy là chúng ta có Phật tánh thì sai rồi. Bởi vì trong thân chúng ta đâu có cái gì đâu. Chết là hoại diệt hết mà?
Như vậy cho nó còn có cái gì thì trật, mà do chúng ta tu tập để cho chúng ta tạo thành cái nghiệp. Bởi vì chúng ta biết cái nghiệp đi tái sanh luân hồi, phải không? Cái nghiệp tương ưng tái sanh luân hồi, chớ không có linh hồn đi luân hồi hay là Phật tánh đi luân hồi.
Mà cái nghiệp luân hồi là bởi vì hằng ngày chúng ta tham - sân - si, chúng ta tạo ra ác - thiện, cho nên cái này đi luân hồi. Bây giờ chúng ta mới tu tập để mà chúng ta tạo cái nghiệp không tham sân si. Thì cái nghiệp không tham sân si thì không làm ác, làm thiện phải không? Cái nghiệp này..
(20:19) Khi mà chúng ta hoàn thành được cái nghiệp này, hễ cái nghiệp này có, thì cái nghiệp kia phải diệt thôi. Nó hai cái: một cái nghiệp không tham sân si và cái nghiệp tham sân si. Mà cái nghiệp tham sân si bị diệt do cái nghiệp không tham sân si, phải không?
Bây giờ mình tu tập theo đạo Phật mình tạo thành một cái nghiệp không tham sân si, do đó cái này nó bị diệt.
(20:40) Cho nên người tu không mất, mà người không tu thì phải tái sanh, không bao giờ mất cái người mà không tu. Người không tu bây giờ “tôi chết tôi mất tiêu hết”, không có, vô lý. Bởi vì hằng ngày mấy con phải có tham sân si, mấy con có tạo thiện - ác rồi. Mà tạo thiện - ác thì làm sao mấy con mất được? Tức là mấy con phải tiếp tục.
Cho nên đức Phật nói: “Luân hồi mãi mãi, không bao giờ dứt.” Cái gì luân hồi? Đâu phải linh hồn mà cái thiện của các con. Cái hành động thiện - ác của mình tiếp tục luân hồi, phải không? Như vậy là mình muốn mất cũng đâu có được. Bây giờ mấy con muốn dừng việc tái sanh luân hồi sao được? Chỉ có cái nghiệp không tham sân si này nó mới chấm dứt, nó mới chấm dứt không luân hồi mà thôi.
Bây giờ muốn cũng không được. Không làm sao, mấy con phải sống ở trong thế tục như thế này thì mấy con chấm dứt luân hồi đâu được. Bởi vì hằng ngày mình đã thải ra từng cái nghiệp, từng cái từ trường thiện - ác này thì làm sao mấy con tránh khỏi nó? Thì nó tiếp tục, chứ đâu phải mấy con đi luân hồi đâu?
Nhưng mà tiếp tục, tức là mấy con phải thọ lấy sự đau khổ của nó. Vì nó còn sanh lên thì nó phải chịu khổ. Cho nên vì vậy khi tu hành rồi mình mới chấm dứt được cái nghiệp này, tạo thành cái nghiệp không tham sân si, thì cái nghiệp này bị diệt.
Khi đó chúng ta tu rồi, chúng ta luyện tập, khi mà luyện tập được hằng ngày thì chúng ta nhắc cái tâm: “Không có tham sân si, như cục đất đi!” Thì cái nghiệp lực mà tâm không tham sân si như cục đất, nó vẫn còn chứ. Khi mà cái pháp hướng như vậy thì nó trở thành một cái năng lực của quý vị. Cái năng lực.
Vì vậy mà, ví dụ như bây giờ quý vị có cái nghiệp lực này thì quý vị muốn tái sanh nó được không? Được chớ! Bởi vì quý vị muốn nó làm một cái điều thiện gì đó, thì quý vị đưa nó đi chứ có gì đâu.
(22:13) Cái tâm quý vị hướng nó đi, dẫn nó đi, dẫn cái nghiệp lực của mình đi. Cũng như bây giờ một cái người uống rượu, họ nghiện rượu đi, thì họ dẫn cái nghiệp lực của họ vào quán rượu họ ngồi uống rượu! Phải không?
Còn mình bây giờ cái nghiệp của mình không tham sân si thì mình muốn dẫn đi chỗ nào, thì cũng như cái người nghiện rượu mà dẫn thân tâm của họ đi vào trong quán rượu mà uống rượu vậy. Bởi vì họ nghiện rượu nên họ bỏ không được, cho nên họ vào cái quán họ ngồi uống rượu họ thoả thích. Phải không? Họ dẫn cái thân tâm họ vào.
Còn bây giờ Thầy ghiền rượu, mà Thầy biết cách tu nên Thầy không có dẫn thân tâm Thầy vào quán rượu. Thầy không uống rượu cho nên Thầy không nghiện rượu. Đó là cái cách thức làm chủ. Còn cái kia mình nghiện rồi thì cái Thức nghiện nó dẫn mình đi vào đó.
Còn cái Thức này là không tham sân si, nó sẽ dẫn mình vào chỗ không tham sân si. Cho nên nó có cái năng lực của nó để cho nó tái sanh luân hồi, hoặc là nó không tái sanh luân hồi. Là quyền của nó, chứ còn không có ai bắt buộc nó được.
Còn cái kia, bây giờ cái nghiệp lực đó nó dẫn mình đi, chứ mình muốn cũng không được nữa. Bởi vì tâm mình, nó cứ giục mình, nó cứ muốn như vậy, muốn như vậy… mà mình không có cái năng lực mình ngăn nó lại. Cho nên mình bị cái nghiệp nó lôi mà mình chịu tái sanh.
Cũng như bây giờ, ví dụ như quý Phật tử không tu, thì tới chừng đó quý Phật tử, trước khi cái giờ chết của mình, thì mình phải thương nhớ con mình chứ gì? Phật bảo đừng có thương! Bởi vì mình không có thấy nó là nhân quả, mà mình thấy đó là con của mình, những người thân của mình… là của cải tài sản mình làm bằng mồ hôi nước mắt rất cực mới có đây. Cho nên lúc chết đi mình tiếc mà mình không dừng được cái lòng tiếc.
Nhưng mà không ngờ cái tiếc, cái thương đó là cái nghiệp, cái nghiệp lực. Thế là thương tiếc thì nó là tái sanh luân hồi. Còn trái lại, người ta lúc bấy giờ người ta không thương tiếc, người ta thấy tất cả đều là vô thường, không có cái gì của mình. Mình chết rồi mình không mang theo được cái gì hết, tiếc nó cũng không làm gì được. Người ta thấy đúng nên vì vậy người ta chặn đứng được, cho nên nó không tái sanh luân hồi.
Mấy con thấy không? Chớ nếu mà có cái linh hồn thì mình làm sao chặn đứng được? Cái này rõ ràng là cái nghiệp lực như vậy nên mình chặn đứng nó được. Cũng như bây giờ Thầy ghiền thuốc nhưng mà Thầy chặn đứng: “Không được hút thuốc. Hút thuốc là tai hại, nó sanh ra bệnh tật, nó làm cho mình tổn hao tiền bạc vô lối, cho nên mình không hút, không mua thuốc hút.” Thì như vậy rõ ràng là mình làm chủ được nó chứ.
(24:23) Còn nếu mà có một cái linh hồn mà nghiện thuốc thì mình làm sao bảo nó được? Đâu có dạy nó được đâu. Cho nên đức Phật nói còn có một chút xíu Thức thì bào thai sẽ không sanh làm người. Nghĩa là còn có một cái linh hồn thì bào thai cũng không ra đời được đâu. Bởi vì ra đời làm sao được, nó là cái cố định rồi. Còn cái này nó do duyên hợp, cho nên khi mà các duyên nó rã ra thì nó không còn cái gì hết, mà nó chỉ còn cái nghiệp lực.
(24:45) Vì chúng ta biết nó là cái nghiệp như vậy, tự chúng ta hoàn toàn chúng ta có một cái nghiệp, một cái nghiệp không có, không có tham sân si. Cái nghiệp không tham sân si này nó sẽ đối trị cái nghiệp tham sân si. Do đó cái nghiệp tham sân si chúng ta chấm dứt, không còn tái sanh luân hồi, làm cho chúng ta thấy khổ . Đó là cái câu mà Thầy hướng dẫn cho các con.
(25:12) Phật tử 3: Thưa Thầy, con thấy tu bộ khó quá, con làm không nổi. Ví dụ bây giờ con có làm một việc ác, sau đó con biết, rồi con lật đật đi năm, bảy kiểng chùa để cúng, rồi con đi bố thí tứ tung hết trơn. Như vậy thì cái phước của con nó có thể bù vô cái ác của con không?
Trưởng lão: Nhân quả mà đối trị, mà chuyển nhân quả thì nó phải tương ưng với cái nhân quả đó.
Ví dụ như bây giờ con làm một cái lỗi đó, thấy cái đó là cái sai, phải không?
Thí dụ như bây giờ đứa con của con, con sinh nó ra, con bảo con phải siêng năng học tập, nhưng mà đụng cái nó lén nó bỏ nó đi chơi nó không học. Bắt đầu ông thầy giáo đến hoặc nhà trường đến báo cho con biết là con của con, nó bỏ học đi chơi rồi. Con tức quá, con giận dữ. Con đánh nó, con rầy mắng nó để cho nó cố gắng nó học chứ gì?
Nhưng mà sự thật cái hành động như vậy, cái đầu tiên con thấy, cái đầu tiên con là người khổ. Con khổ vì đứa con của con nó bỏ học. Con đau khổ con mới tức giận, con mới đánh nó. Con đánh nó, con làm cho nó đau. Rồi bắt đầu từ đó nó sợ con, nó mới xa lìa. Nó làm cái gì nó cũng giấu, nó không cho con biết. Bởi vì con đánh nó, nó sợ quá.
Cho nên từ đó con với nó cách lìa nhau. Tới chừng mà khi mà nó hoạ bệnh, hoặc là nghiện thuốc, hoặc là bị những cái điều kiện gì xảy ra, thì bây giờ nó chết, hoặc nó bệnh, con cũng phải ôm nó con kêu khóc, không ngờ từ đó con tạo cái khổ.
(26:57) Bây giờ con đem tiền bạc tới chùa thì cái quả này không giải quyết cho con được. Phải không? Con đến chùa để cho con con nó tốt thì nó không được, mà chính con phải hiểu biết, phải học cái đạo đức làm người, tức là đạo đức nhân quả.
Con biết cái nhân là tại vì mình cứ lo mình làm có tiền, rồi để con mình đi giao cho trường. Cho nên mình không có gần con, mình sinh nó ra mình có bổn phận hướng dẫn và mình xem nó như một người bạn của mình hơn là đứa con của mình. Tại vì mình xem nó là người bạn thì nó mới gần mình. Nó gần mình, thì nó chơi cái gì nó nói cho mình biết. Mình biết, mình lớn hơn nó, mình mẹ nó, tức là mình ngăn ngừa được nó.
Do đó cho nên đức Phật mới dạy chúng ta cái đạo đức để mà chúng ta biết được, chúng ta gần gũi con cái của mình chứ không la nó. Mình hướng dẫn nó để nó khôn, tốt. Chứ còn con làm cái điều này mà con cúng dường, con có tiền nhiều, con đem cúng cho chùa này, chùa kia để mà chuyển được cái quả ở trong gia đình của con, để con con nó trở thành tốt, điều đó là không đúng.
Mà chính con phải tự mình để cứu mình. Cho nên đức Phật nói: “Các con tự thắp đuốc lên mà đi. Ta không thể cứu các con được.”
(28:05) Thế mà mình làm ra tiền, mình đem cúng dường vô trong chùa, hoặc là mình đem cúng dường cho vị thần nào đó để cho phù hộ gia đình mình được an ổn, thì không bao giờ có chuyện đó. Không bao giờ có chuyện đó!
Đó là cách không đúng cái nhân quả của mình. Bởi vì nhân quả phải tiếp tục.
Ví dụ chẳng hạn bây giờ con có tiền nè, con mua thuốc con cứu trợ những người bệnh tật, phải không? Thì cái quả của việc làm của con đó thì cái thân con ít bệnh. Bởi vì con đã, thay vì cái việc làm của con nó đã chuyển được cái thân của con. Cho nên những cái thuốc thang con đã giúp người ta uống đó, thay vì con sẽ bệnh để mà uống những thứ thuốc thang đó, nhưng mà người ta đã uống dùm cho con hết rồi. Cho nên cái thân con ít bệnh để mà con làm điều đó. Cái nhân quả này nó chỉ tương ưng với việc làm của con thôi, chứ không thể nào con đem thuốc thang con cho mà để bây giờ con làm vậy cho con có tiền nhiều. Không có đâu. Con hiểu không? Đó là cái phước hữu lậu.
Ví dụ bây giờ con có tiền nhiều, con cho những cái người nghèo khổ, bất hạnh trong xã hội, giúp đỡ họ gạo ăn này kia thì con làm có tiền nhiều, con dư dả. Tại vì cái nhân đó thì con sẽ hưởng cái quả này.
Còn cái nhân mà con đem thuốc mà con bảo con làm có tiền thì con không được đâu. Tại vì con đem thuốc con cho người ta uống hết bệnh, chứ người ta đâu có làm giàu được. Người ta đâu có cơm, người ta vẫn phải làm người ta có người ta ăn. Chỉ có uống thuốc thôi để cho nó hết bệnh. Thì cái nhân đó thì cái quả của con là cái thân con ít bệnh. Con hiểu chưa?
Thì cái nhân quả nó phải tương ưng với nhau, chớ không thể nào lấy cái này mà làm, mọi cái phước đều được hết, không được. Cũng như con đem đến chùa con cúng dường cho chùa, người ta cất chùa đẹp, rồi người ta sống đầy đủ. Mấy ông thầy trong chùa sống đầy đủ, thì mình nói chắc có lẽ người ta tu hành lấy phước.
Nhưng mà mấy ông thầy này họ không tu, họ chỉ nói vậy thôi chứ sự thật ra tham sân si họ cũng đầy đủ. Nhưng mà không ngờ rằng mấy ông thầy đã vay nợ con, sau này sẽ làm thân trâu, ngựa hoặc là tôi tớ nhà con chứ không thể nào làm được điều đó. Và đồng thời con lại làm suy đồi Phật pháp.
Ông Phật ngày xưa sống trong rừng, ngồi trên chiếc đệm lá, sống ở đồng mả, sống không nhà cửa, chuyên đi khất thực, nay rày đây mai đó. Bây giờ con biến thành cái chùa này như cái dinh thự, như một cái cung đài. Từ đó những cái này là những cái đau khổ chúng sinh. Con đã làm suy đồi Phật giáo. Vì vậy, trong gia đình con nhiều sự không hay với con, rất là khổ. Con hiểu không?
Phật tử 3: Thưa Thầy, con xin nói cụ thể. Ví dụ như bây giờ con tham, con đi ăn cắp của người ta một trăm đồng, cái con về con giật mình: “Trời ơi, ăn cắp là có tội đó. Thôi mình đem mình cúng cho nó hết cái tội đó đi.” Bạch Thầy như vậy có được hay không?
Trưởng lão: Bây giờ con có một cái, con có tạo một cái nhân quả là con đã, cái nhân con đã lấy của người ta. Rồi bắt đầu bây giờ con thấy bây giờ con hối hận quá, “làm vậy là sai, không được, thôi bây giờ mình đem tiền đó mình đem cúng chùa đi”, phải không? Thì không đúng đâu con.
Bởi vì tại sao? Tại vì khi con tham, rồi thì con nghĩ: “Từ nay về sau nhất định là ta không tham nữa.” Từ đó con hết tội. Con hiểu không? Từ đó con mới hết tội.
Còn bây giờ, con đem cúng chùa, nhưng mà con nghĩ cúng chùa nó sẽ, nó sẽ nhờ chư Phật phù hộ cái tội mình hết chứ gì? Rồi mai kia mốt nọ, con lấy nữa, con cũng nói bây giờ mình lấy thì mình cũng đem cúng chùa. Như vậy cái tội con không hết được.
(31:37) Bởi vì con làm cái đó sai. Con nghĩ lúc đó mình chưa hiểu biết. Còn bây giờ mình hiểu biết mình hối hận, mình lấy của người ta, người ta mất người ta khổ quá. Cho nên từ nay về sau mình không làm nữa, nhất định là không làm nữa! Cái nhân quả đó, nó sẽ đến với con là con sẽ chuyển đổi và con sẽ chuyển được cái quả.
Từ nay về sau con không làm cái điều này nữa, nghĩa là thường thường đức Phật dạy: “Ngăn ác, diệt ác”, “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành.” “Hôm nay tôi chưa biết nên tui còn làm điều ác, nhưng hôm nay, bắt đầu ngày nay tôi đã biết rồi thì tôi sẽ không làm điều ác nữa!” Từ đó chúng ta chuyển được nhân quả của chúng ta. Con hiểu chưa?
Cho nên khi mà biết rồi mình phải tự mình, chứ không thể nào mà mình đem cái số tiền này cúng để mà cho…
(32:20) Giống như bây giờ có một cái người đó nói với Thầy: “Con buôn bán thì người ta đến người ta trả con một cái số tiền, trong khi đó thì con thối trở lại nhưng mà người ta không lấy, người ta quên đi người ta không lấy cái số tiền đó.
Số tiền cũng lớn đó bởi vì một cái tập thể nó mua một lần rất nhiều hàng hoá. Cái tập thể người ta mua rất nhiều hàng hoá mà. Nhưng mà còn lại để thối cho cái tập thể đó thì cái tập thể đó lại quên đi, họ không có nhận cái tiền thối đó. Con bây giờ con nghĩ rằng cái tiền này để, để con cũng không phải thiếu, cho nên con muốn đem cái tiền này cúng dường ở trong chùa người ta làm điều này, điều kia cho được phước, chứ còn giờ con để con xài thì có tội không?”
Đó là Thầy nói cái tiền này là cái tiền người ta quên thôi. Mà bây giờ mình thì nghĩ rằng người ta quên thôi bỏ qua đi, mình không có trả lại người ta, để mình đem lại trong chùa làm lợi ích hơn.
Nhưng mà sự thật là mình đã gian xảo rồi. Khi mà người ta quên vậy thì mình nên đem trả lại cho người ta. Dù là cái tập thể đó người ta quên, mình vẫn nhắc lại cho người ta để người ta lấy lại cái số tiền đó, chứ mình nghĩ đem cúng chùa đâu có lợi ích hơn đâu hoặc đem làm việc từ thiện. Bây giờ cái tập thể này nó giàu có mà, số tiền mà thừa này mình đem đi gửi cho người ta, cho những cái người nghèo khổ thì nó là lợi ích chứ gì?
(33:43) Không. Không lợi ích đâu mấy con. Đã gian xảo thì cái đồng tiền này chẳng có lợi ích gì hết con! Cho nên khi đó chúng ta trả lại cái người đó, chừng đó cái người đó đó, họ nói: “Ờ bây giờ thôi tôi cho anh”… này kia, thì mình có quyền lấy cái đồng tiền này mình làm việc từ thiện. Chứ mình đừng có lấy đồng tiền gian xảo mà làm việc từ thiện.
Cho nên do vì vậy, mà Thầy, khi mà cái điều kiện mà xảy ra mà con đã lầm lỡ thì tự con phải sửa lấy. Con không làm cái lỗi đó nữa thì nó sẽ chuyển được cái quả khổ. Từ nay về sau con cũng có phải trả cái quả của nó chứ không phải không đâu. Con sẽ bị người ta móc túi lấy tiền đó, con cũng sẽ mất đó, nhưng mà con đã biết cái quả của con thì con không buồn. Con không buồn. Tại vì hồi trước con có lấy của người ta mà? Nên ngay trong cái đời này, cho nên con không buồn đâu, con vui vẻ con chấp nhận. Cho nên vì vậy con mất tiền mà con hiểu quả.
Còn cái người mà không hiểu, không có biết ngăn chặn mình những cái ác, lúc mà mất tiền họ thấy họ đau khổ. Họ đau khổ, tức là bị nhân quả rồi. Còn mình mất tiền mà mình không đau khổ là nhân quả không tác động được mình rồi. Mình mà vui nữa, mình biết mình trả được cái nợ của mình đã lấy của người ta.
Bây giờ người ta lấy lại mình thì chắc chắn sớm muộn con cũng sẽ trả cái quả - là người ta sẽ móc túi người ta lấy của con, chứ không có thoát. Nhưng mà từ đây về sau con không làm điều đó nữa thì con hoàn toàn, con trở thành như Thánh. Cho nên một bậc Thánh không phải từ ở đâu mà đến đây mà chính từ cái chúng ta biết sửa lỗi của mình, biết sửa những lầm lỗi của mình.
Vì có khi nào chúng ta làm một cái điều gì khổ ai thì nhất định chúng ta sẽ không làm khổ nữa. Cho dù là một lời nói, dù là một cái nhìn, dù là một cái hành động chúng ta mà làm cho người ta thấy người ta khổ tâm thì từ nay mình sẽ sửa chữa lại, mình không làm điều đó nữa.
(35:22) Thì như vậy rõ ràng là mình không làm khổ người rồi. Mà không làm khổ người tức là mình không làm khổ mình trước. Nghĩa là mình đã hiểu được mình rồi, cho nên mình không làm khổ người.
Vì người ta háy mình một cái là mình có khổ rồi, thì từ đây về sau mình đừng háy nguýt người ta. Thầy nói đây là cái nhìn, cái ngó của mình thôi cũng làm người ta đau khổ rồi, chứ chưa nói đến lời nói đâu.
Vì vậy thì từng cái lời nói, từng cử chỉ chúng ta cố gắng chúng ta giữ gìn, để mà chúng ta thực hiện, để làm chúng ta trở thành người không làm khổ mình, khổ người. Thì như vậy đó là chúng ta có một cái nền đạo đức, chứ đâu phải khi không mà chúng ta tự không mà chúng ta làm được điều đó.
Vì vậy cái nền đạo đức đó mà đức Phật đã nói qua câu kinh Pháp Cú: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành". Chúng ta luôn luôn lúc nào cũng không bao giờ làm điều ác mà phải làm điều thiện. Làm điều thiện tức là đem lại sự vui cho mình và sự vui cho mọi người, không làm khổ mình, không làm khổ người, thì đó mới là chơn pháp của đạo Phật.
Phật tử 4: Bạch Thầy trường hợp của Angulimala giết người quá nhiều mà khi gặp đức Phật xuất gia vẫn đắc đạo được. Nghiệp sát đó ông có phải trả không?
Trưởng lão: Có trả rất nhiều. Và nhờ ông chuyển được cái nghiệp sát đó, bằng cách khi mà ổng xuất gia đi tu thì người ta phang, người ta ném, người ta đánh đập ông lỗ đầu chảy máu tùm lum, nhưng mà ông vẫn không có giết ai nữa. Từ đây về sau ông đã sửa ông. Còn hồi trước ai mà đụng tới ông kể như là nát xương với ông.
Còn từ khi mà ông xuất gia theo Phật, rồi tu cái hạnh nhẫn nhục, cho nên khi ông đi xin người ta thấy ông hồi trước giết người người ta tức lắm, cho nên người ta lấy đá người ta ném, người ta không cho ông ăn nữa. Người ta làm đủ thứ đau khổ hết. Nhưng mà cuối cùng ông vẫn chứng quả được, là trước cái cảnh khổ của một người phụ nữ sanh nở, ông đến đó ông giúp đỡ.
Các con thấy từ cái chỗ ác mà người ta chuyển hết từng cái ác của người ta làm, bằng cái hành động thiện. Người ta chuyển được đó con. Người ta mới chứng quả A La Hán.
(37:10) Nó đâu có phải, nó không có đơn giản đâu. Thử bây giờ cái tâm chúng ta, nếu mà chúng ta không có học đúng Pháp của đức Phật là “ngăn ác, diệt ác" thì thử hỏi bây giờ ra đường có người khi không họ lại họ tát tai một cái thì mình có ngồi im được không?
Còn ông này thì ổng đã từng làm việc ác, ổng đã là người hung dữ rồi. Mà bây giờ khi tu rồi ôm bình bát ra đi như vậy, chúng ném đá, phang ông, chúng chửi mắng chúng nói gì nói, ông khư khư như cục đá. Không phải là một chuyện dễ làm đâu! Để như vậy người ta mới là chứng quả A La Hán được chứ!
Còn như mình chắc chắn là không nói ra chứ về tức giận lắm. “Điều này tôi cũng xin trả bát đức Phật chứ tôi, chứ tôi tu không có nổi điều này đâu. Tôi ra đường là chúng nó nói tôi. Tôi thèm tôi bẻ họng nó quá rồi. Mà nhờ tôi theo đức Phật tôi không bẻ họng, chứ thật ra tôi tức mình lắm.” Còn cái này ổng thản nhiên.
(37:58) Các con biết ổng chuyển tới cái mức độ mà Thầy nói… Thật ra cái người không tu, bởi vì chính đọc về cái ông Vô Não này, Thầy mới nói thật sự rằng cái người biết tu thì có nhiệt tâm! Có nhiệt tâm là tại sao? Bởi vì bây giờ người ta vừa nói thoáng qua mà mình sân lên, mình không chịu xả mà cứ ôm hoài à. Còn cái ông Vô Não này tại sao ông xả được tất cả khỏi thế này?
Cho nên các con nghe tới ngài A Na Luật, ngài Phú Lâu Na, ngài xin đức Phật đi du phương để ngài độ chúng sanh ở cái phương đó thì đức Phật hỏi: “Khi người ta chửi ông thì ông nghĩ như thế nào? Ông có còn thương không? Khi người ta đánh ông thì ông như thế nào? Ông trả lời với đức Phật là người ta còn thương ông. “Khi người ta cầm dao giết ông thì ông nghĩ như thế nào?” Ổng nói người ta còn thương ông. Tất cả mọi cái ông đều thấy người ta thương ông không hà, thì đức Phật nói được rồi. Đó là cái mục đích của đạo Phật toàn thiện. Cho nên tự chính bản thân của mình, nếu mà ông nói ông còn chút nào ấp úng ở trong cái chỗ này, là kể như đức Phật không cho phép. Thì các con hiểu được cái sự tu tập của đức Phật là tại vì cái người tu tập phải nhiệt tâm!
(39:09) Mà chúng ta không nhiệt tâm chúng ta biết được cái tâm tham - sân - si là khổ, là ác pháp. Ai bao giờ người ta cũng nói tham sân si là ác độc, nhưng mà tại sao cái ham muốn làm cho chúng ta không dừng được? Tham là độc mà, bây giờ mà tại sao chúng ta không bỏ? Như vậy chúng ta có bằng ông Vô Não không? Phải không? Ông Vô Não khi nghe được đức Phật rồi thì ông xả bỏ hết. Còn bây giờ, chúng ta bây giờ đi ra còn cái nhà chúng ta cũng còn tiếc nữa, không có dám bỏ!
Thế là nhằm nhò gì. Ông Phật ngày xưa cung vàng, điện ngọc, là một người quyền thế mà khi đi ra rồi thì ông cầm bình bát đi xin như ăn xin vậy. Mà Thầy đọc lại những cái trang kinh sách mà dạy, có nhiều khi mà đức Phật đi ra có nhiều người nhạo báng ông ta thế này, thế nọ đủ cách hết… thế mà ông Phật thản nhiên.
Chứ còn cỡ mà như Thầy, thật sự ra Thầy quăng bình bát, Thầy về Thầy làm vua sướng hơn. Phải không? Đúng là chúng ta xả không được, còn ông Phật xả được.
Cho nên chúng ta phải có cái nhiệt tâm. Bây giờ Thầy nói các Phật tử chúng ta quyết tu theo đạo Phật thì chúng ta hằng ngày phải ngăn ác, diệt ác, chúng ta giữ mình phải như cục đất. Cho nên vì vậy mà cái pháp Như Lý Tác Ý của Phật dạy chúng ta tác ý một cái tướng khác của cái tâm tham sân si. Cho nên chúng ta nói: “Tâm như đất, như nước, không có tham sân si nữa. Bây giờ nó còn tham sân si thì tâm không được tham sân si nữa.”
(40:26) Như vậy chúng ta nhiệt tâm thì nó không tham sân si, tức là chúng ta giải thoát. Còn bây giờ chúng ta không nhiệt tâm, chúng ta tu nhưng không nhiệt tâm, thì chúng ta tu ở trong cái tưởng. Ngồi cứ cố ức chế tâm mình cho nó không có niệm, không có hoặc là niệm Phật để cầu vãng sanh, thì chúng ta làm cái này dễ. Nhưng mà chúng ta dừng chứa tham sân si và ác pháp trong tâm chúng ta, thử hỏi làm sao mà chúng ta thành tựu được cái sự giải thoát?
Cho nên ở đây đạo Phật dạy chúng ta mình sửa lại sai những cái gì sai, mà chính do cái tâm tham sân si của mình nó đã làm khổ mình mà thôi.
(40:58) Phật tử 5: Bạch Thầy, có một cuộn băng gọi là “Chuyện lạ thế kỷ 21” của một vị Hoà thượng ở Vũng Tàu. Có kể về câu chuyện ma da chết rồi nhập vào một ni cô cũng ở ngoài Vũng Tàu. Nhập một thời gian rồi mới nói chuyện lên muốn đi tu. Xong rồi cũng nhờ Hoà thượng cứu cha mẹ cũng cùng chết trên một cái chuyến đò đó mà ở Hậu Giang.
Có một câu chuyện khác nữa cũng bị giết chết thì cũng nhập, mà cái vong hồn khi thì nhập ở đây, khi thì nhập bên Mỹ trong một cái tích tắc. Như vậy con không hiểu cái hoại diệt của cái vong hồn đó nó có những chi?
Trưởng lão: Các con chưa đọc cái cuốn Đường Về Xứ Phật tập 3, nên các con chưa hiểu được cái khái niệm của Tưởng Uẩn…
Trong người chúng ta có ba cái thức, chứ không phải một cái thức. Cái thứ nhất là Sắc thức. Sắc thức thì nó có sáu cái thức của nó: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Con mắt của mình là có cái biết của con mắt, cái lỗ tai mình có cái nghe, cái biết của cái lỗ tai. Cho nên gọi là sáu cái thức của nó, gọi là lục thức.
(42:25) Là cái thân của chúng ta, nó có sáu cái thức, nhưng mà khi chúng ta ngủ thì nó chỉ có một cái Tưởng thức mà thôi, cho nên có cái mộng chiêm bao của chúng ta.
Chúng ta nằm ngủ thì mắt, tai, mũi, miệng chúng ta không còn nghe thấy nữa, phải không? Nhưng mà chúng ta vẫn ở trong mộng chúng ta vẫn nghe thấy chứ? Bởi vì trong giấc mộng chúng ta vẫn nghe thấy nói chuyện với nhau chứ? Rõ ràng đó là tưởng thức. Vì vậy mà…
Còn cái Thức thức của chúng ta, mà gọi là thân ngũ uẩn của chúng ta đó, có sắc, thọ, tưởng, hành, thức phải không? Cái sắc thì chúng ta biết cái thức của nó là sáu thức của chúng ta rồi. Cái tưởng thức là giấc mộng, chúng ta biết rồi. Vậy thì cái thức mà của cái ngũ uẩn này thì chúng ta biết, cái thức này hoàn toàn là nằm im chưa hoạt động. Cái thức này khi nào một vị tu chứng mà thực hiện Tam minh, thì cái thức này người ta dẫn đi vào Tam minh người ta.
Cho nên nó có ba cái thức. Vậy thì cái thức đầu tiên của chúng ta là hằng ngày chúng ta sống bình thường như bây giờ các Phật tử ngồi trước mặt Thầy, nói chuyện với Thầy, hỏi Thầy tất cả những cái điều kiện để chúng ta tìm hiểu thì đó là Ý thức, phải không?
Bây giờ cái Tưởng thức của chúng ta chưa có ai thực hiện hết. Nhưng mà bây giờ trong mọi người chúng ta, bỗng dưng ở đây có một cái người tự tử chết cách đây năm năm, mười năm, thì chúng ta bỗng dưng biết tên họ, bỗng dưng ở trong đầu chúng ta hoặc thấy người đó. Tức là nó thể hiện ra trong cái tưởng của chúng ta nó thể hiện ra, qua cái hình ảnh mà cái người kia chết hồi đó, họ thắt cổ hoặc là họ tự tử bằng uống thuốc như thế nào đó - mà bây giờ cái người đó, cái tưởng của nó, nó thể hiện ra cái hình dáng đó và nó cũng đang bị chết như vậy.
Vậy cái người mà ngoại cảm đó người ta giao cảm được do cái tưởng của người ta làm ra cái thế giới siêu hình đó. Cho nên đồng thời khi con hồi nãy hỏi, đồng thời tại sao cái linh hồn đó họ nhập người này, nhập người kia bởi vì mỗi người đều có cái tưởng hết! Cho nên nó nếu nó giao cảm được hết thì coi như có một cái linh hồn sẽ nhập một lượt năm, ba người được? Phải không?
Thì như vậy rõ ràng là nó đâu phải có một cái linh hồn mà nhập một lượt năm, mười người được. Mà mỗi người đều có cái tưởng của nó, nó thể hiện ra một người thôi.
(44:27) Cũng như bây giờ ở đây chúng ta là tám, chín người ở đây, phải không? Mà bây giờ có một cái người chết oan ở đây mà tám, chín người ở đây mà chúng ta giao cảm được thì chúng ta người nào cũng thấy linh hồn người đó. Đâu phải là có tám, chín cái linh hồn, đâu phải có tám, chín cái linh hồn đó nhập chúng ta? Mà một linh hồn thì nhập một người chứ sao lại nhập tới tám, chín người này, phải không?
Nhưng mà tại sao tám, chín người này chúng ta đều giao cảm được, đều thấy cái linh hồn đó được hết? Hay hoặc là linh hồn người đó nhập vô thì nhập một mình Thầy thôi, sao lại nhập chín người này cũng nói được cái chuyện này?
Như vậy chín người này đều do cái tưởng chúng ta tạo thành linh hồn người đó. Cụ thể chưa? Các con thấy không, nó đồng thời một lượt thì nó đặt thành vấn đề đồng thời một lượt.
Hồi nãy con nói đồng thời một lượt tại sao mà lại có cái linh hồn người đó nhập vậy, mà cũng tu hành. Thực sự cái tưởng của chúng ta, do chúng ta đang tưởng mà. Mà cái tưởng lực của chúng ta, Thầy nói cái năng lực của tưởng nó siêu việt. Nó không phải chúng ta ngồi tưởng tượng suôn đâu, cái năng lực của nó biết.
Bây giờ Thầy nói như thế này. Trong cái giấc mộng, ông bà của chúng ta chết lâu rồi, chúng ta cứ ngỡ tưởng rằng trong giấc mộng chúng ta là những linh hồn người đó về gặp chúng ta. Không phải đâu. Cái năng lực của tưởng chúng ta biến hiện lên những hình ảnh ông bà chúng ta.
Bây giờ mười năm, hai chục năm nếu mà ông bà chúng ta còn sống thì cái họ đã già, cái hình ảnh đó đã sai mất rồi. Thế mà chúng ta vẫn gặp hình ảnh cũ chứ đâu gặp những hình ảnh mới, phải không?
Như vậy rõ ràng là từ cái tưởng của chúng ta lưu xuất ra, biến hiện ra những hình ảnh người sống, biến hiện cảnh nhà cửa, biến hiện cảnh người chết, vẫn làm được.
(46:09) Cho nên trong giấc mộng chúng ta gặp người chết cũng như người sống, chúng ta gặp nhau được hết. Và cả một cái thành phố, cả một cái thủ đô như Hà Nội, cái tâm, cái tưởng của chúng ta nó vẫn biến ra cái thành phố đó được. Vậy thì cái năng lực nó siêu việt lắm. Ai làm được? Cái năng lực tưởng của chúng ta làm được.
Nhưng đây là giấc mộng. Nó là cái bóng dáng, nó không thật. Cho nên trong bài kinh pháp môn căn bản đức Phật mới nói, mới nói: “Tất cả đều là thế giới tưởng”, nghĩa là tất cả đều là thế giới tưởng tri, chứ không phải gì.
Cho nên khi mà cái tưởng của chúng ta nó thể hiện ra như vậy thì nó tạo ra như vậy tất cả mọi cái. Chúng ta trong giấc mộng thì chúng ta thấy mình biết, không có người khác biết.
Nhưng mà trái lại, khi mà cái tưởng chúng ta thực hiện ra thì mọi người xung quanh đây chúng ta biết. Chúng ta thấy ai cũng biết cho nên chúng ta tin. Tin rằng có cái thế giới siêu hình. Nghĩa là bây giờ một người thì chúng ta không thấy, mà hai người thì chúng ta thấy.
(47:06) Bây giờ có một nhà khí công, họ dùng cái khí họ để trị bệnh mình. Ví dụ như họ dùng nhân điện cũng là tưởng thôi! Họ trị bệnh người này, người kia hết, chúng ta thấy hay quá, không ngờ là cái tưởng của chúng ta, chứ có gì hay đâu?
Cho nên nó chỉ an ủi cho chúng ta trong lúc đó nó hết, nhưng mà thời gian sau nó sẽ trở lại. Nó không hết tận gốc đâu. Bệnh là do nhân quả chứ không phải bệnh là do nhân điện, nhịn đói, hay gạo lứt là hết bệnh. Mà chỉ là trong cái giai đoạn đó, cái duyên của chúng ta nó tới giai đoạn đó, chúng ta ăn gạo lứt chúng ta hết bệnh, nhưng mà chúng ta trở thành bệnh gạo lứt.
Chúng ta nhịn đói để mà hết bệnh, thì nó hết bệnh đó, nhưng mà nó thành một cái bệnh khác - là cái bệnh phải lâu lâu phải tiết thực, phải nhịn đói, phải không? Nó trở thành một cái bệnh khác chứ nó đâu làm sao hết bệnh được?
Cũng như bây giờ cái người ăn gạo lứt, bây giờ họ hết cái bệnh, họ vàng da hoặc là đau gan hay đau tim hay đau phổi gì đó, nhưng mà họ bỏ gạo lứt không được. Họ bỏ gạo lứt thì bệnh trở lại, buộc lòng họ phải ăn gạo lứt, thì họ trở thành cái bệnh gạo lứt.
Như vậy là rõ ràng là chúng ta bị tưởng của chúng ta hết rồi. Cho nên cái tưởng chúng ta hết chừng này thì nó sẽ ngưng, nó là thuộc về tưởng. Cho nên cái năng lực tưởng nó siêu việt.
(48:17) Các con nghe người ta thuật lại một cái em bé, hỏi nó có cái năng lực tưởng của nó. Khi một cái cành, cái nhánh cây như thế này người ta chặt chết đi, nó cầm cái nhánh cây, nó vuốt như thế này rồi nó bảo: “Tươi" thì cái cành cây này ra lá tươi tốt. Các con nghe một em bé, một em bé ở bên Trung Quốc, cái năng lực tưởng lực của nó, nó vuốt nhánh cây như vậy thì cái nhánh cây đã khô rồi, mà nó vuốt nó bảo cái cây ra lá tươi, tự nhiên cái cây nó bắt đầu nó nảy mầm, nó ra lá tươi. Cái năng lực của tưởng mà!
Cho nên những nhà mà khí công họ luyện cái tưởng, họ bay được nữa mà. Cái năng lực tưởng Thầy đọc ở trong khí công thì nói khi mà họ dùng cái khí như thế này: một con chim đang bay trên cao, họ đưa cánh tay ra họ tưởng ra cái khí lực của họ, nó sẽ bắn con chim đó, con chim đó rớt xuống. Thì đó là cái năng lực tưởng.
Thầy ở đây có thầy Chơn Thành, nghĩa là tất cả chúng ở đây tập trung để mà Thầy chỉ cho họ cách thức mà trị bệnh mà. Không biết có Từ Đức chắc con cũng có thử à. Ông biểu ông đưa: “Cánh tay nè, cái khí phải tiếp nhận khí”, phải không? Dường như mấy con đưa tay ra, vô vậy, tự cái lực của nó đưa ra, đưa vô vậy phải không? Và nó bắt mấy con múa may đủ thứ phải không? Thì đó là các con thấy cái năng lực của tưởng đó, chứ nó đâu có cái gì đâu mà nó bắt mình phải làm.
Nhưng mà đó là cái ảo thôi, nó không thật. Nếu mà thật hết thì mấy ông đó là chúa của thiên hạ rồi. Cho nên ở đây cái mục đích của chúng ta thấy những cái siêu việt, mà những cái chúng ta nghe nói ông hoà thượng này, ông hoà thượng kia trị bệnh đều là họ nắm ở trên cái tưởng, để mà tạo ra cái thế giới siêu hình. Họ đưa đi đến, chúng ta lầm lạc tất cả mọi cái để làm chúng ta sống trong cái thế giới duy thức, trừu tượng, ảo giác, không thật.
(50:06) Phật tử 6: Trong một gia đình, con một đứa thì có hiếu, một đứa thì bất hiếu. Kính hỏi Thầy do nguyên nhân nào mà điều này xảy ra?
Trưởng lão: Một đứa con có hiếu là một đứa con nợ mình ở trong nhân quả, cho nên nó sinh ra nó rất có hiếu, mình dạy sao nó nghe vậy.
Còn một đứa con không có hiếu là mình nợ nó, cho nên bây giờ nó lên nó đòi mình để mình trả. Khi mình thấy được nhân quả như vậy thì đứa con mà đòi nợ, thì mình vui vẻ mình trả cho hết cái nợ của nó. Khi hết nợ nó sẽ ra đi. Tức là nó phải chết thôi, còn nó không chết thì bắt đầu nó trở thành đứa con có hiếu.
Nếu mà nó nợ, nó xài mình, của cải mình nhiều, nó làm cho mình khổ, thì một thời gian khi mà cái nợ mình trả hết, mình rất vui vẻ. Mình không có chửi mắng nó nữa thì lúc bấy giờ mình trả hết, thì nó hối hận, bắt đầu nó trở thành đứa con có hiếu. Đó là mình chuyển hoá mà.
(51:07) Còn mình giận, mình dữ, mình chửi mắng nó này kia, thì cái nhân quả đó mình trả không hết đâu. Cho đến suốt cuộc đời của mình là chỉ còn khổ đó, không bao giờ hết. Nhân quả nó cứ chồng chất lên, nó theo.
Còn trái lại mình biết mình nợ đứa con này, cho nên nó đến nó phá, do đó cho nên mình rất tuỳ thuận, mình rất vui vẻ, mình rất ngọt ngào với nó để cho mình trả hết cái quả của đời trước của mình nợ nó. Vì vậy mà nó lỡ nó lấy tiền, nó xài phí, mình cũng không rầy mắng gì nó, mình nói nhỏ nhẹ: “Mẹ làm cực khổ lắm, con lấy ít ít thôi đừng có lấy nhiều." Chứ đừng có cấm nó, đừng có lấy chìa khoá giấu nó này kia thì mình trả không hết nợ đâu.
Mình nói: “Con hãy lấy mà lấy từng chút thôi, mẹ không cấm con.” Chứ còn mình cấm nó, thấy nó xài phí, thấy nó ăn chơi vậy đó thì mình dặn dò thêm nó: “Con chọn người bạn tốt, không khéo con sa ngã, con bệnh tật xì ke ma tuý thì mẹ khổ.”
Mình nói mình ngọt ngào thì như vậy mình chuyển cái nhân quả. Mình vui vẻ mình chấp nhận, mình không có buồn con mình, mình chấp nhận nó thì mình sẽ chuyển nhân quả. Một ngày nào đó nó hối hận thì nó trở thành đứa con tốt.
Còn một đứa con mà tốt ở trong gia đình của mình, không khéo, nó luôn luôn nó hiếu hạnh, mình nói gì nó nghe nấy. Hồi nhỏ chở nó đi học nó chăm chỉ học hành, không làm cho mình buồn phiền. Coi chừng mấy đứa con này nó trả hết nợ, tức là nó trả hết cái nợ của nó rồi thì nó chết. Nó không sống với mình lâu đâu. Cho nên nó để lại cho mình một sự đau khổ, đau khổ tột cùng, vì nó là đứa con hiếu mà.
(52:31) Coi chừng mấy đứa con hiếu là nó không có sống dai với mình. Cho nên vì vậy mà nó đem tiền, đem bạc về thì mình khéo léo từ chối. Tức là nó nợ nó trả mình, mà nó đem về nó nuôi mình nhiều chừng nào là nó hết nợ sớm, chừng đấy nó đi. Vì vậy cho nên mình coi chừng, nó đi sớm là mình khổ đó. Cho nên mình nhận chút ít thôi: “Con làm cực khổ, con để nuôi vợ, nuôi con con chứ đừng có lo cho mẹ, mẹ có đủ rồi.”
Con cứ từ chối, khéo từ chối thì nó còn duy trì cái mạng sống nó với mình. Chứ khi mà nó trả hết rồi nó đi. Các con đừng có tưởng, nhân quả cái luật của nó như vậy đó. Cho nên chúng ta thấu suốt điều đó.
(53:06) Phật tử 7: Thưa Thầy, những người mình chết rồi mình thiêu thì mình sẽ có hũ cốt. Con nghe nói là ở trong chùa, con chưa thực tế chứng kiến nhưng chỉ nghe nói thôi, là mỗi đêm đi qua đó có nghe tiếng rên hoặc là những cái tiếng xì xào. Cho nên bây giờ có những cái hũ cốt đó thì mình để ở đâu?
Trưởng lão: À, những cái hũ cốt mà nghe tiếng xì xào, nghe tiếng rên thật sự ra không phải có đâu. Nhưng mà cái tưởng của những người đó, của những người đến mà nghe được đó, thì cái tưởng đó nó lưu xuất các con.
Những cái người đó nó đã chịu ảnh hưởng như thế nào đó, bởi cái tưởng nó làm cho… Có nhiều khi mình đi năm, mười người thì chỉ có một, hai người nghe mà bao nhiêu người khác không nghe tiếng rên. Nghe cái xì xào đó thì có một vài người nghe xì xào, nói chuyện lùm xùm ở trong cái tháp cốt đó thì có một vài người còn bao nhiêu người khác không nghe. Thì đó là cái tưởng của họ, gọi là thinh tưởng. Thinh tưởng, chứ không phải có đâu.
Cho nên những cái hũ cốt này nó như bình thường những cái hũ cốt khác, nó là những cái mảnh đất, những cái mảnh đất hôi thối mà người ta đã đốt cái thân của mình ra người ta bỏ vào. Cho nên nó không còn cái gì trong đó mà xì xào, rên la nữa. Nó không còn biết đau biết đớn. Nhưng mà tại vì cái tưởng của người ta hoạt động, người ta mới thấy được những điều đó…
(54:39) Phật tử 8: Có một người bạn của thằng con của con, cô đó đi làm về cô bị xe đụng chết. Buổi trưa cô về cô báo mộng cho cha mẹ của mình: “Mẹ đi ra mẹ lấy cái gương trong tóc con về. Con mới đụng xe chết.” Thì vừa tỉnh giấc dậy người ta báo tin, người ta cho hay là con của bả chết rồi. Cái đó là có thật không Thầy?
Trưởng lão: Đó là cái tưởng của bà giao cảm… Đó là cái tưởng của bà, cái lòng thương của bà, cái tưởng nó xuất hiện ngay trong giấc mộng bà. Cho nên ngay khi nó chết bà đã thấy nó trong cái sự chết. Cái tưởng của bà, cái lòng thương của bà thương con. Giống như bây giờ con thương con của con, đứa nào nhất mà nó xảy ra tai nạn là con giao cảm với nó chứ.
Bây giờ con không thực hiện qua giấc mộng, ít ra trong thân nó cũng báo động cho con biết. Đó là cái tưởng của con báo động, hoặc là nó nhớ con mình, hoặc là nó hồi hộp, nó lo lắng, nó bứt rứt thì tức là nó báo động qua thân con, tưởng nó báo động qua thân con, nó làm cho con bứt rứt đó.
Còn bây giờ đó bắt đầu con buồn ngủ, đang liu thiu ngủ thì trong giấc mộng thấy nó bị xe đụng đổ máu, con gặp ngay liền ở trên hiện trường đó. Thật sự ra khi người ta báo con đến đó con thấy đúng như vậy không sai. Tức là tưởng của con nó lưu xuất ra, không phải cái linh hồn nó về báo đâu mà chính cái tưởng con nó thực hiện qua cái hình ảnh như linh hồn của đứa con nó về báo cho mình, chứ không phải là đứa con về báo.
Khi nó bị chết thì tất cả những cái gì nó tan rã ra, nó không còn có cái gì nữa hết, nhưng mà cái người mà còn sống đó họ đã giao cảm và tiếp nhận những cái hình ảnh của nó còn lưu lại ở trong không gian. Cho nên ví dụ bây giờ Thầy với các con nói chuyện ở đây, một ngàn năm sau những cái hình ảnh đó còn lưu lại.
(56:26) Cho nên trong khi mà Thầy thực hiện Túc Mạng Minh mà trở về gặp đức Phật thuyết giảng trong cái thời đức Phật cách đây hai ngàn mấy trăm năm, với cái bài kinh dạy ông A Nan, nói là: “A Nan, Nhất Dạ Hiền” Bài kinh đó, Thầy trở về Thầy nghe được đức Phật nói những lời đó. Thầy cũng tham dự, được nghe vào bài kinh đó thì vẫn thấy các chúng Tỳ kheo trong cái thời đức Phật nó rõ ràng như vậy. Thì cái gì đó là cái gì? Cái đó là cái tâm lực của mình, phải không?
Còn bây giờ các con, nó giao cảm được cũng bằng cái tưởng lực của mình rồi, chứ đâu có cái gì khó khăn đâu? Nhưng mà tại vì mình không làm chủ được, còn cái người tu người ta làm chủ được, người ta đưa được cái tâm của mình đi vào chỗ đó.
Còn bây giờ các con không làm chủ được, thình lình cái nó hiện lên giấc mộng, các con không biết làm sao hết. Còn bây giờ nó không mộng thì mấy con không làm sao được với nó hết. Như vậy rõ ràng là nó do cái điều khiển của cái tâm của mình.
Phật tử 9: Thưa hỏi
(57:19) Trưởng lão: À mình sống với nhân quả con, chứ không có linh hồn. Coi như tất cả mọi cái đều là không có cái gì bị … hết, chỉ có nhân quả. Vậy đó, mình tu là tu nhân quả. Bởi vì mình ngăn ác, diệt ác tức là nhân quả ác mình không làm. Mà mình tu, là mình giữ gìn mình thiện, tức là mình tu cái thiện mà mình ngăn cái ác. Vậy cuối cùng thì cái thiện nó còn, mà nó còn toàn thiện, thì đó là giải thoát.
Cho nên nó không còn mà mình bị chấp thiện nữa. Có người nói, có người nói rằng khi mà mình “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” thì như vậy là mình vẫn còn chấp thiện, vẫn còn dính cái thiện. Nhưng sự thật là thiện toàn thiện thì làm sao dính được, nó đâu còn cái đối tượng của nó đâu mà dính? Phải không? Cho nên đức Phật mới tự tịnh kỳ ý. Khi mà toàn thiện rồi tự cái tâm ý mình nó thanh tịnh, chứ mình đâu có làm cái khác mà thanh tịnh được?
Cho nên người ta nói phải còn tu một cái gì đó tâm ý mới thanh tịnh thì không phải. Đức Phật nói cứ “ngăn ác, diệt ác" hoặc là “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành" thì tự tâm ý mình thanh tịnh chứ không phải tu tập một cái khác mà thanh tịnh được cái tâm. Đức Phật nói vậy đó mà.
(58:25) Cho nên mình cứ sống thiện. Bây giờ mười việc thiện mà bây giờ mình sống mới được có năm việc thiện thôi, còn năm cái thiện mình chưa sống, mình còn năm cái ác. Cho nên nó còn đối đãi thì mình còn dính mắc cái thiện. Cũng như nó còn đối nghịch với cái ác cho nên mình còn dính mắc cái thiện.
Bởi vì năm cái thiện mình chưa có làm xong nè, cho nên mình còn dính mắc. Sau khi mình làm xong được năm cái thiện nữa, là mười cái thiện, thì mười cái ác này nó cũng đâu còn. Bởi vì mình được mười cái thiện thì mười cái ác nó đâu còn. Mà nó không còn thì nó toàn thiện, mà nó toàn thiện thì nó đâu có dính chỗ nào nữa đâu? Bởi vì nó còn đối tượng nào đâu mà dính nữa? Các con hiểu không? Cho nên nó “tự tịnh kỳ ý” thôi, bây giờ nó tâm ý thanh tịnh. Mà nơi đó là nơi ly dục ly ác pháp, tức là chúng ta mới bắt đầu nhập được cái thiền thứ nhất, chứ chưa phải thiền định gì hết. Như vậy là chúng ta tu đúng.
Còn bây giờ mình ngồi mình ức chế tâm, mà tâm mình không ly tham sân si thì lúc bấy giờ làm sao mà “tự tịnh kỳ ý" được? Mình đâu có ngăn ác, diệt ác, mà mình ức chế tâm.
(59:16) Ức chế tâm tức là nén cái ác pháp, cái thiện pháp ở trong tâm của mình, mà mình không xả không ly nó được, tức là mình tu sai. Mình tu sai tức là mình sẽ lọt vào trong cái tưởng của mình. Mình tưởng là cái đó thanh tinh, cái tâm mình thanh tịnh. Mình bắt đầu cái tâm không vọng tưởng, không có khởi niệm là mình tưởng nó thanh tịnh, nhưng sự thật là mình nén cái tâm tham sân si của mình.
Còn hàng ngày người ta ngăn ác, diệt ác, người ta xả cái tâm, người ta không tham sân si. Cuối cùng thì tâm ý nó thanh tịnh chứ chúng ta không ép, phải không?
Do đó chúng ta tu sai cho nên cuối cùng không ai đổi được mà làm giàu cái tưởng, tức là chúng ta tưởng cái này, tưởng cái kia. Nó còn bén nhạy trên cái tưởng cho nên chúng ta tưởng ra mà cuối cùng không giải thoát.
Cho nên cuối cùng những người mà càng sống ở trong tưởng, càng tu tưởng thì chúng ta bị dục lôi. Dục lôi như thế nào? Người ta chùa to, Phật lớn, tiền bạc nhiều, xe cộ này kia. Người ta nói làm Phật sự, nhưng thật ra người ta cung phụng cho cá nhân người ta.
Ví dụ ngoài đời các con làm lụng rất là vất vả, các con cất cái nhà cho đẹp các con mới thỏa mãn chứ gì? Còn ở trong chùa chúng ta tu hành, chúng ta cũng thoả mãn cho chúng ta một cái nhà đẹp là bằng cái chùa to chứ gì? Như vậy rõ ràng là chúng ta cũng đâu có gì hơn người ngoài đời đâu?
Còn trái lại, mục đích của đạo Phật là buông xả sạch, sống ba y một bát, chỉ đủ để chúng ta sống một đời sống không nhà cửa, không gia đình, hoàn toàn trắng bạch như vỏ ốc, thì như vậy rõ ràng là chúng ta còn cái gì đâu? Mà không còn thì nó mới xả chứ? Còn một chút là còn ác pháp chứ, phải không? Cho nên cái mà tu đúng thì chúng ta thấy chúng ta vậy.
Cho nên hầu hết là bây giờ chúng ta đang sống trong tưởng đó. Tưởng có thật cho nên cố gắng làm cho nhiều tiền, tưởng có thật nên cố gắng cất nhà cho sang. Nhưng mà cuối cùng có ai mà cất nhà sang mang theo được, có ai tiền nhiều mà chết mang theo đâu? Chúng ta có xài được đâu.
(1:00:56) Khi chết rồi thì cái nhân quả nó tiếp tục tái sanh luân hồi chứ chúng ta có làm cái gì được đâu! Cho nên cuối cùng chúng ta không mang được cái gì theo hết mà chỉ có thiện với ác thôi. Chúng ta sống trong nhân quả.
Phật tử 10: Thưa Thầy, có một hình mà ở tại viện bảo tàng ở Luân Đôn nói rằng đây là hình của đức Phật ngày xưa do ngài Phú Lâu Na vẽ lại, xong được tìm thấy trong một cái vách nào đó. Hình này nhìn thấy mà tức cười vì người trong hình có tóc tai y như người Ấn Độ mà trên tai còn đeo khuyên, xỏ bông. Theo Thầy thì hình ảnh đức Phật ngày xưa nhìn ra sao?
(1:01:38) Trưởng lão: À thật sự bây giờ thì Thầy không xác định nhưng mà Thầy đã thấy được hình ảnh của đức Phật. Nhưng xác định một mình Thầy làm sao ai tin? Cũng như người ta đã vẽ cái hình đó người ta nói đức Phật, mọi người cũng đều tin, nhưng mà sự thật làm sao chúng ta tin được?
Cho nên bây giờ Thầy không nói, nhưng mà cái điều kiện nếu có người chứng quả A La Hán, chúng ta trở về thấy hình ảnh đức Phật chúng ta sẽ vẽ ra. Còn bây giờ một người không nên làm điều đó. Làm điều đó người ta không đủ niềm tin đâu.
Cho nên chúng ta muốn thấy được cái hình ảnh đức Phật như thế nào thì chắc chắn là chúng ta phải có nhiều người tu chứng, chứng quả A La Hán. Chúng ta thực hiện Tam Minh, chúng ta mới dám xác định điều này. Chúng ta không thực hiện Tam Minh thì chúng ta sẽ không trở về được.
Bây giờ chúng ta dùng tưởng thì cái tưởng của chúng ta chưa chắc đã là đúng, bởi vì tưởng nó cũng có năng lực, nhưng mà chưa chắc đã là đúng, bởi vì nó là tưởng.
Còn chúng ta phải dùng tâm lực của chúng ta thì cái tâm của chúng ta mới chính xác. Chính xác như ý thức của chúng ta. Nghĩa là ý thức chúng ta thấy vật này vuông, méo, tròn như thế nào thì cái tâm thức của chúng ta, tâm lực của chúng ta, sẽ thấy vật đó méo, tròn như thế nào trong cái thời gian quá khứ rất lâu dài, nó vẫn thấy đúng.
Còn cái tưởng của chúng ta nó sẽ bị ảnh hưởng. Bây giờ chúng ta nhìn thấy cái hình màu đẹp đẽ, rồi bắt đầu trong chiêm bao chúng ta cũng thấy ông Phật với hình đó chứ làm sao chúng ta thấy khác được. Cái tưởng chúng ta nó méo mó lắm, nó không có đúng đâu.
Cho nên cái người mà nói ông Phú Lâu Na vẽ, Thầy chưa từng nghe ông Phú Lâu Na là người hoạ sĩ bao giờ. Bởi vì trong kinh chưa xác định ông là một người hoạ sĩ đi vào tu mà? Ví dụ như ở trong kinh xác định ông Ưu Ba Ly là một người thợ cạo, tức là một người cạo tóc. Phải chi bây giờ ở trong kinh nói là cái ông này trước khi đi tu là một thợ vẽ thì hy vọng cái này có thể là bức tranh.
Còn cái này là không có nói, mà bây giờ mấy ông xác định cho ông này là hoạ sĩ thì Thầy đâu tin được. Làm sao Thầy tin? Bởi vì phải có chứng minh xác thực, xác thực là ở trong kinh Nguyên thuỷ có nói, còn không nói là mấy người đặt ra, phải không?
Phật tử 11: Khi Thầy tu như vậy thì kiếp trước mấy người thiếu nợ Thầy đâu có trở lại trả cho Thầy được, ví dụ như làm con Thầy, hoặc là những người Thầy nợ đâu có lại đòi Thầy được. Thầy tu rồi thì những người đó làm sao?
Trưởng lão: Bây giờ Thầy tu rồi, tức là…bây giờ các con thấy nè, bây giờ có người nợ Thầy phải không? Có người nợ Thầy. Trong cái thời gian tu Thầy đã nợ người ta nhiều lắm, Thầy ăn, Thầy nợ người ta. Tức là bây giờ mặc dù là con, hồi đó con cho Thầy vay nợ đi, bây giờ Thầy lại nợ người ta tức là Thầy ăn lại người ta.
Thì bắt đầu bây giờ con nợ Thầy phải không, để mà con trả lại Thầy chứ gì, thì tức là trong cái bước đường mà Thầy tu Thầy đã đi xin thì tức là bao nhiêu người trả lại Thầy hết rồi mà! Cho nên tới cuối cùng mà Thầy thành đạo là Thầy trả hết nợ, không có còn nợ nữa, phải không? Con hiểu không? Cho nên…bởi vì Thầy chuyển hết cái nhân quả là hết nợ đó.
Phật tử 11: Thưa Thầy vậy những người thiếu nợ trước thì trả ai?
Trưởng lão: Còn mấy người mà thiếu nợ trước là thì tức là trả người khác, đâu phải là trả Thầy. Cho nên đừng có nghĩ là khoẻ (cười). Bây giờ Thầy nhẹ thân lắm, Thầy coi như là cái nợ của Thầy, Thầy trả hết. Tức là người ta đã nợ Thầy thì Thầy xin, Thầy ăn, Thầy không có làm ra tiền, ra bạc nữa. Tất cả mọi người cúng dường Thầy đều là nợ mà trả Thầy đó, phải không?
Bây giờ những người mà họ nợ Thầy, coi như là Thầy sổ sách, xoá bỏ những cái tên nợ của họ đó, không phải đâu. Trong cái thời gian Thầy chuyển hết cái nợ của Thầy rồi, thì còn những người thiếu nợ Thầy, rõ ràng là những người đó sẽ còn trả cho những người khác đang, đang tu tập giống như Thầy.
(1:05:29) Nghĩa là bây giờ họ không có trả cho Thầy hết, phải không? Thì họ sẽ trả cho người khác, người nào tu theo Phật là họ tiếp tục họ trả. Chứ không phải họ hết sổ nợ của họ đâu, không phải đâu. Nhân quả mà đâu có chuyện không không được đâu. Con hiểu chưa? Bây giờ Thầy nợ, mấy con nợ Thầy, cho nên Thầy đi xin các con trả lại. Bây giờ hồi đó con không có trả Thầy nhưng nếu con trả cho những người khác là họ đã thay thế cho con rồi đó.
Phật tử 12: Thưa Thầy, ví dụ như hồi trước Thầy mắc nợ thì làm sao Thầy trả, Thầy đâu có đi làm. Ý con nói như vậy đó.
Trưởng lão: À bây giờ Thầy mắc nợ phải không? Thay vì hồi đó Thầy mắc nợ mấy con, còn bây giờ Thầy không có làm, Thầy mắc nợ con nè, ý như vậy phải không? Bây giờ Thầy tu hành tức là Thầy chuyển tất cả những cái nợ nần của Thầy, nợ nần của Thầy.
Bây giờ Thầy mắc nợ con thì bắt đầu con đến đây con nghe Thầy thuyết pháp là Thầy trả nợ con chứ sao? Thầy dạy con các pháp thiện mà. Bây giờ Thầy mắc nợ phải không? Tức Thầy có mắc nợ tức là có gieo duyên với mấy con. Bao nhiêu người không mắc nợ cho nên ở đây Thầy đi xin họ đâu có cần nghe Thầy đâu. Cũng như cúng dường Thầy chứ gì, tức là họ nợ Thầy, còn bây giờ Thầy mắc nợ con, cho nên hôm nay có duyên con được nghe Thầy là Thầy trả nợ con đó, phải không? Con hiểu không?
Chứ nếu mà Thầy không mắc nợ con, chắc chắn con không gặp Thầy đâu. Có mắc nợ cho nên mới gặp nhau. Hồi nãy Từ Đức hỏi Thầy một đứa con mắc nợ mình nó lại hiếu, còn đứa còn lại mình mắc nợ nó. Rõ ràng mắc nợ mới gặp nó làm con cái mình chứ. Nếu mà không mắc nợ nhau thì làm sao gặp nhau?
(1:07:05) Cho nên Thầy có mắc nợ mấy con cho nên hôm nay Thầy mới ngồi đây Thầy nói, Thầy trả nợ mấy con đó. Còn nếu mà không có nợ thì làm sao mấy con đến đây nghe Thầy nói? Hiểu không?
Thầy chỉ cần đi xin mấy con Thầy ăn thôi tức là mấy con thiếu nợ Thầy, Thầy đi xin mấy con trả Thầy. Rồi bây giờ mấy con nghe Thầy thuyết pháp tức là Thầy trả nợ mấy con. Mà Thầy trả nợ hết là Thầy mới chứng đạo, còn Thầy trả nợ chưa hết Thầy còn nói hoài à.
Cho nên mà tại sao Thầy muốn ra đi cách đây hai mươi mấy năm, mãi năm 80 là Thầy đã được ra đi ngày đó rồi. Nhưng mà thật sự ra thì cái nợ này là cái nợ của Thầy Thanh Từ thiếu nợ mấy con nhiều, cho nên Thầy nói Thầy thiếu nợ Thanh y dữ lắm. Phải không?
Cho nên Thầy không ở lại, mà Thầy còn ở lại là vì Hoà thượng yêu cầu Thầy ở lại để phụ giúp Thầy trả nợ, thì bây giờ còn cái duyên mà ở lại cho nên mấy con mới gặp Thầy. Tức là có nợ, các con có nợ của Hoà thượng Thanh Từ, Hoà thượng Thanh Từ có nợ các con mà trả chưa hết. Bây giờ Thầy là đệ tử của Hoà thượng tiếp tục trả nợ, phải không?
Cho nên hôm nay có duyên mấy con về đây Thầy đang trả nợ cho Hoà thượng chứ không phải … Nếu mà Hoà thượng cho Thầy đi rồi Thầy đâu có trả nợ mấy con, tức là Thầy không có thiếu mấy con.Mấy con hiểu luật nhân quả mà.
Mà tình nghĩa thầy trò tức là Thầy muốn Thầy chia sẻ với Hoà thượng, cho nên bây giờ mấy con là đệ tử Hoà thượng, tức là Thầy đang trả nợ mấy con nè. Mấy con có tu theo Hoà thượng không? Có, đứa nào chắc chắn là đã có nghe pháp của Hoà thượng hết rồi. Nhưng mà Hoà thượng trả chưa hết cho nên Thầy tiếp tục trả cho Hoà thượng, mà trả để giúp cho các con thực hiện được những cái điều đúng, phải không? Đó là điều kiện để thầy trò mà chấn hưng lại Phật giáo, làm sáng tỏ.
(1:09:00) Phật tử 13: Thưa Thầy, nếu mà nói về nhân quả thì gieo nhân lành mình sẽ gặt quả lành, gieo nhân ác mình sẽ gặt quả ác. Mà con thấy có những người hiền lành và hiếu thảo vô cùng nhưng khi lớn lên làm cha mẹ thì không có đứa con nào hiếu thảo hết. Con thấy con lấy làm lạ. Còn có một số người làm ác nhiều lắm nhưng con cái thì hiếu thảo, nghĩa tình.
Trưởng lão: Thầy sẽ trả lời cho cái này. Cái nhân quả nó không phải trong một đời, đời nay chúng ta thấy chúng ta ở hiền lành, rất tốt nhưng mà cái nhân đời trước chúng ta đã gieo được những cái quả lành đó cho nên đời nay chúng ta sanh ra. Nhưng mà cái quả của đời trước chúng ta trả chưa hết, cho nên những cái đứa con mà nó còn đu theo chúng ta, sau này nó trả những cái quả, thì chúng ta thấy người cha sao hiền lành mà người con thì lại bất hiếu, đứa vậy đứa khác. Nhưng không ngờ rằng cái người này còn nợ một số người khác chưa trả, nhưng mà trong cái đời trước ông đã sống, ông đã tạo được những cái thiện pháp, những cái điều thiện, cho nên ông mới sanh vào trong cái gia đình này.
Ông hoàn toàn ông đã tạo cái nhân thiện đó, cho nên cái quả của ông ta sống trong cuộc đời của ông, ông sống rất thiện lành. Bởi vì cái thói quen của ông là thiện mà! Một cái cây nó ngả hướng nào thì cái bóng nó ngả hướng đó. Ông đã sống thiện.
Nhưng mà trong cái thiện ông ta, ông có nợ người khác, có vay nợ. Cho nên những đứa con ông mới xuất hiện ra để mà đòi nợ ông.
Cho nên vì vậy luật nhân quả không thể nào tránh ra khỏi những cái nợ được. Vì vậy mà nó đến nó phá, nó còn bất hiếu, ông nói gì nó không nghe, thì tức là đức Phật nói: “Có người sanh ra trong thiện pháp mà lại sống ác pháp.” Thì như mấy đứa con này nó sống trong gia đình ông cha hiền lành mà nó sống trong ác pháp.
“Có người sống trong ác pháp mà lại thiện pháp.” Thì cái ông này trước, đời trước của ông, ông sống ở trong ác pháp, mà ông từng gieo được những cái thiện pháp. Nhưng mà trong ác pháp đó, nó tạo cho cái nhân quả ông còn nợ một số người khác, sau này ông phải trả tiếp nữa.
(1:11:11) Con hiểu chưa? Luật nhân quả mà, nó chi chít rất là đặc biệt. Nhưng các con nên nhớ rằng cái luật nhân quả của quá khứ với cái luật nhân quả hiện tại. Nó chỉ còn cái luật nhân quả của quá khứ nó chỉ còn cái nền tảng cho cái luật nhân quả của hiện tại để mà gieo trả mà thôi.
Nghĩa là cái môi trường sống của cái nhân quả đời trước nó tạo cho cái môi trường sống của cái hiện tại. Rồi từ cái nhân quả, cái hạt giống của hiện tại này chúng ta gieo tốt hay xấu là do chúng ta gieo.
Cho nên con cái nó làm xấu mà chúng ta đừng giận hờn, thì chúng ta sẽ chuyển được cái nhân quả quá khứ của chúng ta. Còn nếu mà con cái làm xấu mà chúng ta tức giận, thì ngay đó là chúng ta đã tự tạo điều xấu cho chính cái nhân quả hiện tại của mình rồi.
Đó ví dụ như con có con cái mà bất hiếu, con đừng có buồn! Con buồn, tức là con tạo cái…ở trên cái môi trường của nhân quả của đời trước, nó thành cái môi trường của nhân quả hiện tại này, cho nên con mới có những đứa con này. Có những đứa con này mà vì những cái nhân quả của đời trước, của cái môi trường đó, nó sanh ra những đứa con bất hiếu này. Mà vì cái môi trường này mà con sống bất an thì con đã tạo những cái ác pháp ở trên cái hiện tại này rồi. Cho nên cái hạt giống con nó sẽ không tốt đâu.
Còn trái lại con được an vui, con hiểu được cái nhân quả thì con sẽ được an vui trong cái hoàn cảnh ngặt nghèo, hoàn cảnh bất hiếu của con mình. Con thấy con không có buồn, giận cái đứa con này, con biết con đang trả cái nghiệp quả cho nên con an vui. Tự an vui đó là mình đã chuyển nhân quả rồi. Cho nên trên cái môi trường nó không tốt này mà lại nó trở thành thiện, nó trở thành nhân quả tốt cho cái môi trường sau này.
Nó cứ tiếp tục mãi mãi như vậy, mà mình biết sống được trên nhân quả không làm khổ mình, khổ người, thì ngay đó là nó không còn tái sanh luân hồi ở trong cái thế gian mà ác - thiện lẫn lộn như thế này, mà nó đưa con đi vào cái cảnh giới toàn thiện. Mà cảnh giới toàn thiện tức là giải thoát rồi. Các con đâu có cần gì mà ngồi thiền, chỉ cần ngăn ác, diệt ác là các con được vào Niết Bàn rồi.
(1:13:07) Nghĩa là hằng ngày, suốt ngày các con tâm hồn các con thanh thản, an lạc và vô sự. Không có một cái đối tượng, không có một cái pháp nào làm cho tâm con chướng ngại. Nơi đó là Niết Bàn. Khi con bỏ thân này thì con cũng ở trong cái trạng thái đó. Nó là trạng thái vĩnh viễn nó không tham - sân - si, chứ đâu phải cần tu cái gì nhiều đâu.
Cho nên cuối cùng chúng ta sống cũng là ở trong cảnh trời, mà chết chúng ta cũng ở trong cảnh trời. Tức là Thầy nói cảnh trời tức là cảnh thiện, nhưng mà khi chúng ta không cần nghĩ đến thiện, ác nữa thì nó là Niết Bàn. Tức là đức Phật nói “bất động tâm” mà. Khi mà bất động tâm thì nó không còn cái dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Tức là mình không nghĩ tưởng đó là phước, Trời hay là thiện, ác nữa thì lúc bấy giờ đó là bất động tâm rồi. Bất động tâm là Niết Bàn, giải thoát. Cái đó là ly tất cả tham sân si.
(1:13:53) Phật tử 14: Thưa Thầy mình tụng kinh thì có đem lại lợi ích gì không?
Trưởng lão: Bởi vì trong kinh sách Nguyên Thuỷ thầy đọc thì không thấy đức Phật dạy người ta tụng kinh mà chỉ dạy người ta niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm giới, tức là Tứ Bất Hoại Tịnh.
Nhưng mà niệm không có nghĩa là đọc thầm ở trong ý của mình mà niệm ở đây chữ “niệm” của đức Phật nghĩa là sống đúng như Phật, sống đúng như Pháp Phật dạy, sống đúng như các hạnh của các vị Thánh Tăng, sống đúng như giới luật đã dạy. Chứ không phải niệm giới, chứ không phải tụng niệm.
Vì vậy mà người ta nghe chữ “niệm” ở trong kinh Phật dạy thì người ta bảo rằng mình đem cái kinh đó ra mình tụng, mình niệm trên các pháp, mình niệm pháp Như vậy là sai, không đúng đâu. Đức Phật dạy chúng ta sống. Chẳng hạn như bây giờ sống như thế nào? Hằng ngày người ta chửi mình mà mình không giận, tức là sống theo Pháp, là niệm Pháp đó. Hằng ngày mình sống ngày một bữa tức là mình niệm Giới đó, tức là mình sống đúng giới, không phạm giới, tức là sống đúng giới.
Còn bây giờ tôi niệm Giới, tôi niệm Pháp, tôi đọc kinh, tôi đọc giới là tôi tụng niệm đó, nhưng mà cái tâm của chúng tôi hoàn toàn ăn ngày ba bữa nè, phạm giới nè. Như vậy chúng ta tụng Giới có nghĩa lý gì đâu? Cũng như bây giờ tôi niệm Phật, mà Phật, tâm Phật là không tham - sân - si mà bây giờ người ta vừa nói hơi hơi cái mình sân si lên rồi thì như vậy mình niệm Phật là sao mà tâm mình không hết sân si? Thì như vậy là không đúng.
Cho nên dù tụng kinh mà niệm Phật như vậy hoàn toàn là không có ích lợi, đây là Bà La Môn dạy chúng ta cái thế giới siêu hình để mà cầu khẩn. Tụng kinh, để mà ngày nào đó được chư Phật rước chúng ta về cõi Cực Lạc, hoặc là cái nơi nào đó, một cõi trời nào đó. Đó là cái lối của Bà La Môn, của ngoại đạo chứ không phải của Phật.
Phật dạy chúng ta sống thật, làm thật, thắp lên ngọn đuốc để mà thắp sáng lại trí tuệ của chúng ta, không tự mình làm khổ mình là đủ rồi. Đó là cách thức của đạo Phật. Thực hiện sống trong cuộc sống.
Cho nên Thầy nói sống là tu, tu là sống, chứ không phải sống riêng mà tu riêng. Còn cái này tu riêng thật sự. Bây giờ ngồi gõ mõ tụng kinh thì nó là tu rồi, hoặc là ngồi thiền là tu rồi. Còn bây giờ Thầy sống người ta chửi Thầy không giận là Thầy tu. Phải không? Thầy sống Thầy không nói lời làm người ta khổ là Thầy tu chứ gì? Đó là tu, là sống chứ gì? Như vậy cái sống chúng ta đem lại sự giải thoát rõ ràng.
Còn cái này ngồi gõ mõ tụng kinh đây thì nó không chửi ai hết, nhưng mà hết gõ mõ tụng kinh ra kia thì “Tụi bây chết à nha. Hồi nãy tao mắc tụng kinh, niệm Phật chứ không tao bẻ đầu tụi bây hết à.” Thì như vậy trong cái giờ tụng kinh ta không đánh người ta, chứ mà ngoài giờ đó ai làm cái gì ta ăn thua đủ đó.
Thì như vậy là còn hơn thế tục rồi. Thì coi như vậy là cái tu nó khác với cái sống. Còn đạo Phật sống là tu cho nên giới luật của Phật thực hiện trên cái sự sống. Cho nên chúng ta cần gì mà phải vào chùa tụng kinh? Cần gì phải lạy Phật? Mà chúng ta hằng sống.
Cho nên đức Phật nói, dạy chúng ta như thế nào? Dạy chúng ta thắp năm cây hương: giới hương, định hương, dữ huệ hương, giải thoát, giải thoát tri kiến hương.
Thắp năm cây hương này tức là hằng ngày người ta chửi mình không giận tức là mình thắp cây hương gì? Giải thoát hương chứ gì. Mà giải thoát hương tức là mình đã lạy Phật, đảnh lễ Phật rồi. Xá gì phải vào chùa lạy cái tượng cốt xi măng đó, phải không?
Cho nên mình đi như vậy tức là mình bị ngoại đạo lừa đảo rồi. Không đúng đâu. Ông Phật dạy chúng ta sống thật, làm thật để cứu mình, giải thoát, không làm khổ mình, khổ người.
Nhưng chúng ta đến chùa lạy Phật tức là chúng ta nhớ công ơn, cái hình ảnh này để chúng ta ghi nhớ công ơn mà hằng ngày chúng ta cố gắng chúng ta làm, thì cái đó có ý nghĩa. Chứ lạy Phật để cầu Phật phù hộ cho mình thì sai, không đúng đâu.
(1:17:34) Phật tử 12: Bạch Thầy, sẵn Thầy dạy luôn cho việc mang bông mang đến chùa cúng Phật thì ý nghĩa ra sao, có ích lợi gì không thưa Thầy?
Trưởng lão: À, bởi vì trong cái vấn đề mà mang bông trái thì thật ra đức Phật đã dạy chúng ta quán bất tịnh về thực phẩm rồi. Tất cả những cái thực phẩm chúng ta ăn, mà đức Phật đã ngao ngán nó, dạy chúng ta phải quán xét nó bất tịnh để chúng ta ngao ngán, không còn ham thích ăn. Thì như vậy chính đức Phật, đức Phật có hưởng không?
Bây giờ chúng ta nói chúng ta có cái lòng dâng lên những cái gì mà chúng ta thọ hưởng chúng ta làm. Nhưng mà cái lòng của chúng ta phải biết dâng đúng, cho nên đức Phật bảo chúng ta dâng cúng Phật cho đúng là dâng năm cái hương: giới hương, định hương, dữ huệ hương, giải thoát, giải thoát tri kiến hương. Dâng cúng Phật bằng cái hương tâm của chúng ta - hương giải thoát - chứ đức Phật có dạy chúng ta đem nhang đèn, hoa quả đến cúng bao giờ? Đâu có dạy chúng ta điều đó!
Giờ hỏi ông thầy chùa gạt gẫm chúng ta đó, để mà mấy ông ngồi đó mấy ông ăn những dĩa trái cây to đồ sộ đó! Có không? Thầy nói thẳng, nói thật mà. Sự thật là ông Phật không có chấp nhận cái điều này mà. Đã dạy mình phải sống như vậy mà. Đức Phật còn dạy chúng ta thừa tự Pháp chứ không nên thừa tự thực phẩm, nghĩa là không dạy chúng ta ở trên thực phẩm mà ham thích. Phải không?
Như vậy bây giờ chúng ta lại cúng những cái sai, làm những cái sai, cho nên đến đây có nhiều người phải cần thắp hương, Thầy nói: “Cần gì thắp hương? Người ta chửi Thầy không giận là Thầy đã thắp hương rồi.”. Có cần gì phải thắp hương. Phật là giải thoát, cho nên khi mà giải thoát ở đâu cũng có Phật, chứ đâu phải cần đến chùa mới có Phật sao?
Cho nên chúng ta đến chùa nghĩa là chúng ta tìm một vị thầy, một vị tăng, Thánh Tăng, chúng ta hỏi cách thức để mà chúng ta sống, sống như Phật, sống như Pháp của Phật, sống như chúng Thánh Tăng, sống như giới luật của Phật, tức là sống như đức hạnh của Phật. Đó thì cái này có lợi ích. Chứ không phải đến chùa để mà cầu khẩn, cúng bái, tụng kinh, niệm Phật, biến nhà chùa bây giờ trở thành cái nơi mê tính, sinh hoạt mê tín, làm những điều sai, lạc hậu, không đúng cách, không khoa học. Cho nên ở đây hoàn toàn ngôi chùa như vậy không xứng đáng là chùa Phật. Ông Phật rất thực tế và cụ thể.
Phật tử 15: Thưa Thầy, khi con dâng cúng cho một vị Thánh Tăng thì có hiệu quả gì không? Cái lòng mà dâng cúng cho một vị Thánh Tăng thì có ý nghĩa không thưa Thầy?
Trưởng lão: Cái lòng thành dâng cúng cho một vị Thánh Tăng…À, một vị Thánh Tăng để mà người ta thọ được cái thực phẩm của mình với cái sự tha thiết của Phật tử, điều đó là điều rất quý. Tại sao rất quý?
Khi mà mình đã dâng cúng vị Thánh Tăng đó, mà cái vị đó mình biết rằng cái vị đó giới đức rất là thanh tịnh, nghĩa là người ta sống đầy đủ đức hạnh, mình dâng lên cúng dường cái vị đó rồi thì lòng mình phấn khởi lắm, cho nên cái vị đó sẽ dạy cho mình. Bởi vì người mà thọ dụng cái của người khác là người đó phải nợ chứ gì? Nợ thì cái vị Thánh Tăng đó phải trả nợ chứ họ đâu có để mà họ ngậm miệng đó để rồi đời sau họ phải tái sanh để họ làm thầy để mà dạy con nữa đâu. Cho nên mau mau là họ trả liền. Họ trả nợ liền. Bởi vì nhân quả họ phải sòng phẳng để mà sau khi họ bỏ thân này rồi thì họ không tiếp tục thân khác nữa đâu. Phải không? Cho nên vì vậy ngay đó họ sẽ dạy con tu.
Bây giờ con dâng cúng cho Phật, Phật thọ dụng, như vậy con thấy ông Phật vì cái tâm tha thiết của con để mà con dâng cúng Phật cho nên con phải tha thiết nghe lời Phật giảng, phải không? Cho nên ông Phật sẽ dạy con, cái bậc Thánh Tăng đó sẽ dạy con tu những pháp gì để đem lại lợi ích cho con, cho những người xung quanh con, cho gia đình con. Mà khi đem lại cái nền đạo đức cho gia đình con, con sẽ sống an vui và hạnh phúc. Chính đó là những điều các pháp dạy, chứ không bao giờ dạy con đến chùa mà tụng kinh sám hối để cho tiêu tội, không có đâu. Họ dạy con cách sống. Bởi vì cái gương hạnh sống của họ, họ đã làm cho con quá kính phục rồi, cho nên khi mà họ dạy cho con thì con nhiệt tâm con chấp hành liền. Cái lòng cúng dường của con nó đã giúp cho con tin tưởng rất sâu, đem hết những cái mồ hôi nước mắt của mình làm để mà làm được cái món ăn này dâng lên cúng Phật, và đồng thời thì đức Phật lại ban cho con một cái pháp, chắc chắn là cái pháp đó sẽ không lìa con, sẽ thuyết phục.
Phật tử 16: Kích bạch Thầy, hôm nay con đem thức ăn, hoa trái cúng dường cho Thầy. Lí do là vì trong đời con, từ ngày con biết đạo bây giờ con chỉ biết đạo mà thôi.
Trưởng lão: Trong cái sự cúng dường Thầy, đúng là đúng ngọ thì con cứ sớt cho Thầy một phần vừa đủ mà Thầy ăn ngày một bữa thôi. Đó như vậy là đúng hạnh của Thầy, và đồng thời cũng đúng cái sự cúng dường. Còn lại bởi vì con không lý nào con nấu mà có một dĩa thực phẩm của Thầy đi đâu thì con hãy sớt bát cho chúng sanh để từ đó họ ăn mà họ ráng nỗ lực, họ thực hiện được như Thầy để họ không có nợ của con nữa. Còn nếu mà họ không thực hiện được thì họ sẽ nợ con đó. Thầy nói thẳng. Bởi vì ở đây hoàn toàn là quý thầy, Thầy không mong quý thầy làm một cái thao tác nào hết mà chỉ lo tu thôi. Mà nếu không lo tu thì phải nợ đàn na thí chủ. Mình ngồi không thì mình không thể nào làm gánh nặng cho người ta được mà mình phải thực hiện đúng. Còn nếu mà thực hiện không đúng thì mình rời khỏi nơi đây. Bởi vì nơi đây là nơi tu hành. Cho nên vì vậy mà tất cả những cái điều cúng dường của con thì con sẽ sớt cho Thầy một phần, Thầy sẽ chấp nhận cái lòng cúng dường của con. Và đồng thời còn lại con sớt cho chúng sanh để ước mong cho họ sớm được giải thoát. Con còn hỏi Thầy thêm gì nữa không?
Phật tử 17: Dạ hết rồi Thầy.
(1:23:42) Trưởng lão: Bởi vì con đường tu của đạo Phật theo Thầy suy nghĩ nó không khó mấy con. Đơn giản. Rất đơn giản. Nghĩa là hằng ngày mình sống trong cuộc sống của mình, mình tư duy, quan sát lại mình. Cái nào ác pháp tức là nó sẽ có chướng ngại, nó làm cho mình khổ, làm cho người khác khổ thì nhất định mình phải diệt trừ nó, không có được để trong tâm của mình, thì nhất định mình không làm cái lỗi lầm lần thứ hai của cái pháp đó.
Cứ như vậy mà các con thực hiện thì chắc chắn một ngày nào đó các con sẽ thấy các con hoàn toàn giải thoát. Các con dù bất kỳ, các con không cần phải mặc chiếc áo tu sĩ như Thầy đâu. Các con sẽ mặc chiếc áo cư sĩ của các con. Các con sẽ thực hiện cái pháp ngăn ác diệt ác. Luôn luôn lúc nào cũng sanh thiện tăng trưởng thiện. Chắc chắn cuộc đời của mấy con sẽ…
Các con đừng có đến chùa, mất công lắm. Nhưng mà mỗi ngày, mỗi tháng, các con nên nhớ kỹ, ít ra các con cũng chọn một ngày ở trong gia đình của mình, lấy một ngày để mình sống như Phật. Tức là ngày thọ Bát Quan Trai các con, Thầy nhắc nhở.
Ngày xưa đức Phật cũng dạy các cư sĩ các con thọ Bát Quan Trai. Ngày ấy chúng ta học làm các hạnh như Phật, sống như Phật. Tám giới, chúng ta giữ gìn cho trọn vẹn. Chúng ta chỉ một ngày thôi, để mà gieo duyên. Chứ đời nay chúng ta chưa có đủ cái duyên mà làm chủ hoàn toàn sự sống chết. Chúng ta còn tiếp tục tái sanh luân hồi. Cái duyên đó không mất mấy con, mấy con sẽ đi đúng vào cái Chánh pháp, không bị tà pháp lừa đảo.
Bởi vì, đức Phật nói “Được thân người là khó, mà được Phật pháp còn khó hơn”. Tại sao vậy? Bởi vì thân người mà đúng tiêu chuẩn thì các con thấy, nhìn trong cái thế gian, khó được cái người nào mà năm cái tiêu chuẩn này hết. Khó được làm người như vậy lắm. Bây giờ mà chúng ta được làm người mà được nghe Thầy dạy sống đúng năm giới. Mà sống đúng năm giới tức là nó sẽ có tám giới.
Mà trong một ngày các con đã tập làm người được rồi mà. Mà tập làm người tức là các con thọ Bát Quan Trai đó. Để các con hoàn toàn làm người, để thoát ra cái bản năng của loài động vật. Chúng ta còn mang bản chất của loài động vật. Ngày hôm ấy chúng ta quyết định là chúng ta sẽ làm giống như Phật. Tức là chúng ta sẽ trở thành người thật sự người.
Đó thì trong cái ngày thọ Bát Quan Trai vì vậy mà chúng ta tập làm một ngày trong một tháng thôi. Rồi hai ngày, ba ngày hay là một tuần lễ trong một tháng. Các con hạnh phúc biết bao! Phải không? Một ngày mà mình được sống như Phật
(1:25:51) Mình sống mà làm người thật sự có đạo đức, không làm khổ mình, khổ người thì trong cái ngày đó các con sống hạnh phúc. Thực sự hạnh phúc.
Mà có pháp các con sẽ tu tập. Chứ đâu phải là sống để mà ức chế mình chịu đựng đâu. Trong cái ngày đó mình tập như thế nào cho thanh thản. Tâm hồn thanh thản, an lạc, vô sự. Và các pháp nó khởi lên. Bởi vì mình ngồi một mình mình chứ cái ý nó vẫn phóng đủ thứ pháp trong đó chứ đâu phải khi không mà nó không có pháp đâu.
Do đó mình biết ngăn chặn từng pháp, từng pháp và diệt xả từng cái pháp một trong tâm của mình. Từ đó, trong suốt ngày đó mình thấy thanh thản, an lạc, vô sự vô cùng. Đó là những cái trạng thái tâm.
Cho nên, trong cái ngày thọ Bát Quan Trai là cái ngày duy nhất cho cái người đã đi theo con đường của đạo Phật, để giải thoát. Bởi vì, trong tám giới thì nó có năm giới rồi. Còn ba giới nữa. Ba giới nữa là mình sống cái hạnh thôi chứ có cái gì! Hạnh ăn, hạnh ngủ và không nghe ca hát, không trang điểm thôi chứ không có gì!
Các con thấy, năm cái giới kia là giới làm người rồi. Thì như vậy là các con sẽ thực hiện được một cái cuộc sống mà trong một ngày, trong cuộc sống các con thì trong một ngày, thì các con thấy hạnh phúc vô cùng! Mình đã làm người được trong cái tiêu chuẩn năm, mà còn lại gieo được cái duyên làm thánh ở trong cái phần ba giới kia.
Đó thì các con nghĩ rằng, dù như thế nào thì các con cũng vẫn… đâu có gì. Ngày hôm đó giao cho gia đình, ai nấu cơm làm gì làm. Còn bây giờ, tôi chỉ ngày đó tôi đến tôi xin một bữa cơm thôi. Trưa tôi đến tôi xin đồ ăn. Phải không? Các con ăn bữa cơm đó xong các con lên trên gác của các con. Các con ở trên đó yên tịnh, để mà giữ thân tâm của mình. Để mà sống như Phật, giữ thân tâm thanh thản an lạc, vô sự.
Có mỗi tâm niệm gì, suy tư lo lắng thì mình dùng các pháp quán, mình đẩy lui nó ra. Tác ý đẩy lui làm cho tâm hồn mình trở về thanh thản. Sau khi một ngày đó các con xả Bát Quan Trai, xả tám giới, các con sống bình thường. Sống bình thường có nghĩa là trong những cái hình ảnh của những cái ảnh hưởng của cái ngày mình tu tập đó, nó còn lại của mình đó chứ không phải là tôi xả ra rồi tôi…luông tuồng đâu.
(1:27:52) Trong những cái ngày tu tập đó, tôi trong những cái ngày mà thọ Bát Quan Trai nó còn ảnh hưởng rất tốt của nó. Khi mình sống, mình vẫn ngăn ác, diệt ác. Người ta chửi mình vẫn không có phiền não, mình cũng biết cách chứ.
Do đó, mình vẫn đem lợi ích cho cuộc sống. Chứ không phải nói tôi tu, ngày thọ Bát Quan Trai đó. Tôi thanh tịnh, tới chừng ra ngoài, tôi đụng ai cũng đánh lộn hết, thì cái chuyện đó không phải đâu! Thực hiện ở trong thọ Bát Quan Trai để cho nó thấm nhuần. Khi mà ra, người ta chửi mình, mình im lặng, mình không có giận hờn, không có thù oán họ mà mình thương lại họ.
Đó là cách thức của mình tu theo đạo Phật. Giúp cho cuộc sống của mình càng ngày nó càng hòa thuận. Càng ngày nó càng đem lại cái cuộc sống lợi ích cho mình cho người.
Phật tử: Bạch Thầy, xin Thầy đọc cho tụi con cái bài kệ mà, khi thọ thực ăn ngọ đó Thầy. Cái bài đó, con có một lần được nghe trong 61 cuộn băng thì con không biết nó ở đâu? Xin Thầy đọc lại. Bài đó nó rất là hay!
Trưởng lão: Cái bài mà trước khi thọ thực để mà.
Phật tử: Cái bài mà có câu “Người nông phu khó khổ” đó Thầy. Thầy đọc chung với cái giọng Thầy nghe hay quá.
Trưởng lão: Thôi, bây giờ Thầy không có đọc thơ nữa. Để rồi Thầy sẽ cho cái bài đó, nó nằm ở trong cái thời khóa tu tập của đức Phật. Thì tất cả những cái bài đó đều được ghi chép ở trong đó. Thầy sẽ cho mấy con về mấy con đọc.
Chứ bây giờ bắt Thầy đọc, chắc mệt Thầy. Coi như là trong cái thời, trong cái khi mà Thầy giảng, Thầy có đọc cái bài này.
(1:29:22) Phật tử: Bạch Thầy! Có một câu hỏi lúc nãy nhân cái vụ mà nói về các vị La Hán, thì chúng con thắc mắc là theo cái thấy của Thầy hiện nay trên thế giới có vị nào chứng quả A La Hán hay không? Còn nếu chưa có hay không có thì làm thế nào biết bao giờ mới có được 10 người như Thầy nói để mà xác chứng lại những gì mà đức Phật nói là đúng và kinh điển như vậy nó là đúng?
Trưởng lão: Bây giờ ở trên thế gian này, ở trên thế gian này có bậc A La Hán, nhưng mà họ… hệ phái tôn giáo khác, họ ẩn bóng. Nghĩa là có người tu chứng quả A La Hán, họ đã thấy biết rất rõ, và họ biết cái người nào ở đâu, ở đâu…Họ cũng biết cái người tu chứng người không tu chứng họ cũng biết. Nhưng mà số đó ít, 3 4 người.
(1:30:09) Nhưng mà khi mà Phật giáo được cái nền đạo đức được chấn hưng hẳn hòi. Nghĩa là có cái nền đạo đức của Phật rồi thì ngay đó những bậc A La Hán đó họ xuất hiện liền. Họ sẽ ra họ chấn hưng Phật giáo. Bởi vì có cái nền đạo đức tức là có cái duyên của chúng sanh.
Còn chúng sinh không có nền đạo đức là họ không dám. Họ ra họ bị đấu tranh với các hệ phái tôn giáo khác. Cho nên họ là những người tu sĩ đạo Phật, là không bao giờ đấu tranh.
Cho nên, Thầy là vì có cái duyên với Hòa Thượng, cho nên các con thấy Thầy hoàn toàn là Thầy giảng về giáo lý Nguyên Thuỷ, mà Thầy không mặc chiếc áo nguyên thủy, mà Thầy mặc chiếc áo Đại thừa. Là tại vì Thầy mặc chiếc áo Đại thừa là để chỉnh đốn lại Đại thừa, làm cho tốt lại Đại thừa chứ không phải là Thầy là một hệ phái khác chống lại hệ phái khác. Các con hiểu không?
Nếu mà Thầy mặc chiếc áo Nguyên thủy thì đương nhiên là Thầy Nguyên thủy chống lại Đại thừa. Đọc sách Thầy thì các con thấy, hoàn toàn là Thầy bác tất cả những cái điều kiện của Đại thừa. Thầy không có dung thông với Đại thừa chỗ nào hết. Nghĩa là Thầy không có hòa hợp với Đại thừa chỗ nào hết. Tất cả những cái Đại thừa đều là Thầy bài bác sạch.
Cho nên vì vậy mà Thầy mặc chiếc áo Nguyên thủy thì đương nhiên là người ta sẽ nói là Thầy là Nguyên thủy chống lại Đại thừa. Thành ra nó có những cái chống đối nhau ở trong Phật giáo. Trái lại Thầy mặc chiếc áo của Đại thừa, Thầy chỉnh đốn lại Đại thừa. Bây giờ Thầy nói những cái sai, sau này Thầy nói những cái đúng của Đại thừa để cho quý vị thấy.
Bởi vì Đại thừa từ cái chỗ mà lấy những kinh sách, những cái giáo án Nguyên thủy mà triển khai ra bằng tưởng của mình, làm cho lệch Phật giáo. Đưa Phật giáo đi đến chỗ chết. Cho nên Phật giáo vẫn còn, Đại thừa vẫn còn cái gốc của Nguyên thủy chứ chưa phải mất cái gốc.
(1:31:41) Cho nên bây giờ chỉ nói cái sai của nó là cái ngọn của nó thôi. Nhưng mà sau khi mà chúng ta thấy được cái sai của nó hết rồi. Bây giờ người ta đã chấp nhận nó rồi. Cái nền đạo đức của Phật giáo mà ra đời rồi, người ta đã chấp nhận nó rồi, thì nó không còn mà tranh đấu nữa. Thầy mới đem những cái đúng của Đại thừa ra để chúng ta thấy từ cái gốc này mà nó đi.
Phật tử: Bạch Thầy, theo con nghĩ thì nếu được thì Thầy cho các Phật tử cũng biết luôn. Chứ nếu bây giờ Thầy chỉ nói những cái sai không thì hóa ra ta nói Thầy chỉ là công kích. Thầy chỉ đả phá và công kích thôi. Đó là cái lý luận mà những người bên Đại thừa. Và những người cư sĩ nói chung người ta nhìn vô, người ta thấy rõ ràng là Thầy chỉ công kích và đả phá, và Thầy không có nhìn thấy được cái chỗ mặt nào tốt của bên Đại thừa hết. Thì con xin Thầy từ bi chỉ dạy.
(01:32:28) Trưởng lão: Bởi vì cái mặt tốt của Đại thừa. Ví dụ như bây giờ trong Đại thừa, nó nói cũng Bát Chánh Đạo, nó cũng Tứ Chánh Cần, cũng Tứ Niệm Xứ. Phải không? Nó nói, là cái danh từ nó nói là nó không có rời Nguyên thủy. Nhưng mà cái giải thích của nó ra thì nó giải thích sai tất cả toàn bộ.
Cho nên bây giờ Thầy đưa cái gốc này ra thì coi như nó, thay vì các thầy Đại thừa họ vẫn dựa vào chỗ này họ nói đây cũng là cái gốc của Phật. Cho nên Đại thừa cái chỗ này là của các tổ, người ta tu chứng rồi người ta,… những lời Thầy nói cứ suy nghĩ cái nào đúng, mà cái nào không đúng. Vì vậy thí dụ như Thầy nói ngày báo hiếu, ngày Vu Lan bồn là Thầy nói phi đạo đức. Các vị cứ suy nghĩ nó coi cái đúng như thế nào, và cái sai của nó như thế nào.
Cũng như nói về Quan Âm Thị Kính, thì Thầy nói cái này là phi đạo đức, không có đúng. Thì các vị cứ suy ngẫm nó đúng hay là không đúng. Là do cái sự suy ngẫm của các vị, Thầy để cho các vị suy ngẫm, chứ Thầy không thể nói đây là đúng được. Cho nên vì vậy mà Thầy không nói cái đúng.
(1:33:26) Nhưng cái đúng nó chỉ là cái gốc của nó thôi, chứ không thể nào là cái diễn tả ra được. Cái nghĩ tưởng người ta diễn ra cái nghĩa để cho chúng ta hiểu những cái từ gốc này ra nó đã sai bét ra hết rồi. Cho nên cái gốc nó đúng, bây giờ Thầy nói rằng, Đại thừa nó chỉ nương vào cái gốc đúng, thì người ta dựa vào cái chỗ đó, thì người ta nói Đại thừa vẫn còn đúng, chứ chưa phải…
Cho nên bây giờ, hoàn toàn là Đại thừa sai, không đúng đâu. Nó chỉ mượn cái danh từ của Phật giáo mà nó làm lũng đoạn Phật giáo, thành ra nó sai hết. Như bây giờ nó nói, ví dụ như chẳng hạn câu kinh của Phật, nó nói như thế này, đức Phật nói:
“Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành”
Phải không? Thì nó chia cái bài kinh này làm hai vế, cái bài kệ này làm hai vế. Thì cái bài kệ này bốn câu kệ thì nó chia làm hai vế. Vế thứ nhất là
“Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo”
Phải không? Nó chia làm hai vế. Nó nói khi mà
“Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành”
Thì mình bị kẹt ở trong cái thiện pháp rồi, phải không? Nó luận mình bị kẹt trong thiện pháp. Cho nên “Tự tịnh kỳ ý” này thì nó không hiểu là tự tịnh kỳ ý, mà nó nói muốn làm cho thanh tịnh này, thì tức là nó còn có một cái pháp khác. Vì vậy bây giờ nó ngăn ác, diệt ác. Nó không có cho niệm thiện, niệm ác khởi ra trong cái niệm này, mà bằng cách là nó thấy các pháp nó không dính mắc thôi.
Thì ngay đó là nó sẽ làm cho thanh tịnh được cái ý của nó, chứ không phải là do cái chỗ mà ngăn ác, diệt ác, cái chỗ mà “Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành”. Nó chia làm như vậy. Thật sự bây giờ, trong cái bài kinh này nó cũng lấy trong cái bài kinh Pháp Cú, nó cũng nói ra, nhưng mà nó chia làm hai vế.
(1:35:01) Vậy bây giờ Thầy nói nó đúng, thì nó sẽ nói cái này nó kiến giải đúng, nó đâu có trật được. Nhưng mà bây giờ cái đúng cái sai, chúng ta còn suy ngẫm. Bây giờ Thầy không nói đúng, mà Thầy nói toàn bộ cái nghĩ này là sai. Nghĩ theo cái kinh kệ của Phật như thế là sai, không đúng.
Cho nên, vì vậy nó toàn là sai. Tại sao? Tại vì nó chia cái bài kệ của người ta. Như các con sẽ thấy, nó chia cái bài kệ này ra. Bài kệ, khi mà đức Phật đã chứng đạo, đức Phật đã thể hiện được một cái lời nói chứ không phải chỉ tay trên trời, dưới đất mà nói đâu như tưởng tượng.
Cho nên khi đức Phật chứng đạo, đức Phật nói: “trên trời, dưới trời, ta là người duy nhất vượt qua sanh, già, bệnh, chết”. Phải không?
“Thiên thượng, thiên hạ
Duy ngã độc tôn
Nhất thiết thế gian
Sanh, lão, bệnh, tử”
Thì Đại thừa nó chia bài kệ ra làm hai vế, vế thứ nhất là chỉ cho Phật tánh. Phải không? Thành ra nó chỉ lấy hai câu thôi, nó bỏ hai câu sau, nó cắt bỏ hai câu sau. “Nhất thiết thế gian. Sanh, lão, bệnh, tử”. Nó bỏ hai câu sau, nó không nói đâu.
Còn bây giờ, bài kinh, bài kệ mà để chúng ta thực hiện được thiện pháp để cho chúng ta đi vào thiền định, thì nó bỏ, nó nói “Tự tịnh kỳ ý” này thì nó sẽ nằm ở trong cái vế của định, chứ không phải trong cái chỗ của thiện pháp nữa.
Cho nên, vì vậy mà chúng ta bị kẹt ở trong thiện pháp không giải thoát được. Nó phân chia làm như vậy, làm cho người ta tu hoài mà người ta không thấy giải thoát được. Các con thấy, như vậy bây giờ bảo Thầy là nói, bây giờ ở bên Đại thừa nó nói cái bài kệ này đúng. Không được, không thể được.
Cho nên vì vậy nó mượn, để nó giải cái nghĩa của nó qua một cái giáo pháp khác của ngoại đạo, chứ không phải chính của nó. Bởi vì, cái ảnh hưởng của nó, khi nó đến với đạo Phật nó chưa phải là người tu chứng. Những vị tổ này, họ đến với đạo Phật, họ theo đạo Phật họ là những người tu chưa chứng.
(1:36:53) Cho nên, họ là ngoại đạo, họ mang đầy ắp những cái kinh ba, cái tư tưởng của ngoại đạo. Họ hiểu những cái ngoại đạo. Cho nên, vào đó khi đó đối với Phật giáo lúc bấy giờ, không có những cái người tu chứng rồi. Cho nên, khi mà nó vào đây, nó đọc kinh sách Phật thì nó thấy, nó chia từng vế ra. Nó làm cái này ra. Nó chia cái giáo pháp của Phật tan nát ra đi. Rồi bắt đầu nó lượm theo cái kiến giải của nó, nó làm lệch hết.
Vì vậy, bây giờ, không thể nói nó có phần đúng được, chẳng hạn bây giờ, ví dụ như bây giờ nó như thế này. Nói bây giờ, chúng ta ngồi đây, mà chúng ta giữ chẳng niệm thiện niệm ác như trong pháp Bảo Đàn kinh Phật dạy, mà Lục tổ Huệ Năng dạy.
(1:37:32) Chẳng niệm thiện niệm ác thì cái tâm không khởi niệm, thì nó sẽ không phóng dật. Phải không?
Còn đức Phật nói: “Ta thành Chánh giác được, là nhờ tâm không phóng dật”. Bây giờ cái tâm mà không phóng một niệm nào ra nữa hết thì nó không phóng dật. Hai cái này nếu mà Thầy giảng để dung hòa. Thầy thấy thiền Đông Độ với Phật nói tâm không phóng dật giống nhau. Phải không?
Rõ ràng là cái người mà ngồi giữ cái tâm không niệm thiện, niệm ác như trong kinh Đại thừa nói rằng, một vị Bồ tát độ hết chúng sanh thì thành Phật. Tức là không có một vọng tưởng nào là thành Phật chứ gì? Thì như vậy là rõ ràng là Thầy dung hợp với cái câu mà đức Phật đã dạy trong kinh Nguyên thủy là: “Ta thành Chánh giác là nhờ tâm không phóng dật”.
Thì hai cái này, Thầy dung hợp như vậy. Bây giờ Đại thừa nó giống, nó cũng y như vậy thì chúng ta sẽ lầm lạc mất đi. Không phải đâu. Bởi vì muốn mà được tâm không phóng dật thì phải ngăn ác, diệt ác. Phải ly dục ly ác pháp mới không phóng dật.
Còn đằng này anh ngồi anh ức chế cái niệm của anh không phóng dật. Thực sự anh không phóng dật, bị rơi vào tưởng, chứ anh đâu có ly dục, ly ác pháp? Cho nên vì vậy, nói “tâm không phóng dật” với “chẳng niệm thiện, niệm ác” giống nhau, thì như vậy là chúng ta quá vội vàng, quá nông nổi rồi. Thành nó lạc hướng rồi. Bây giờ làm sao mà dung hòa được cái này được đâu.
(1:38:44) Thầy biết nói tới những cái danh từ, và cái nghĩa của nó có thể giải thích hòa hợp được. Nhưng mà nó làm sai cái pháp tu người ta. Phải không? Cho nên vì vậy mà Thầy bác sạch cái tụi này đi. Nó luận bậy rồi, mặc dù nó nói có cái ý, có những cái từ…
Bởi vì nhiều tôn giáo nó có cái mục đích riêng của nó. Và nó có những cái giống nhau của các tôn giáo khác. Chúng ta đừng lấy cái giống nhau, mà chúng ta hợp nhau lại rồi nói rằng Phật giáo giống Thiên chúa. Thiên chúa giống Phật giáo. Không giống đâu. Chúng ta phải thấy được cái đích của nó đi đến chỗ nào? Và cái đích của Thiên chúa đến chỗ nào.
Chứ đừng có lấy… Thí dụ như chúng ta lấy Cao Đài, nó có cái đích của nó. Cái mục đích của nó, thành lập cái tôn giáo đó nó sẽ đạt đến cái mục đích đó. Bây giờ, mục đích là ở bên Thiên chúa chẳng hạn. Bây giờ nó làm những cái điều lành, điều thiện thì nó sẽ trở về với Chúa trời chứ gì? Cái mục đích của người ta vậy mà.
Mục đích của đạo Phật, mục đích của nó là ngăn ác, diệt ác, để chúng ta trở thành cái sự giải thoát, nơi cái nền đạo đức của chúng ta. Chúng ta sống không làm khổ mình, khổ người mà, để trở thành cái tâm bất động của chúng ta mà.
Thế mà bây giờ người ta không thấy được cái mục đích của nó. Mà chúng ta cứ lấy những cái mà nó, cái danh từ mà nó gọi nhau, nó hòa hợp nhau đó, để mà nó giống giống nhau, là chúng ta kết hợp. Thiên chúa giống Phật giáo như vậy. Chúa với Phật đều đến đỉnh cao đều y như nhau hết. Thì cái đó là điều sai. Không có đúng đâu!
(1:40:00) Ông Phật không có xây dựng cái thế giới siêu hình. Toàn bộ những cái thế giới siêu hình đều bị đức Phật phá bỏ hết. Trái lại, đức Phật nhắm vào xây dựng một cái nền đạo đức con người để cho chúng ta sống không làm khổ mình, khổ người.
Như vậy là chúng ta không đi đúng vào cái con đường của đạo Phật mà chúng ta xây dựng những cái thế giới siêu hình. Rồi chúng ta cũng cho là cái đích cao của nó, cũng đạt tới chỗ đó. Cái đích cao của đạo Phật không cao gì hết. Chỉ là chúng ta sống không làm khổ ai hết, không làm khổ mình, thì chính là cái chỗ giải quyết của đức Phật, là cứu con người ra thoát ra cảnh khổ của thế gian.
(1:40:30) Đó thì các con thấy được cái đường lối của đạo Phật. Nếu mà đạo Phật giống như các tôn giáo khác thì ông Phật nói: “Nếu mà ta nhai lại cái đờm dãi, nhai lại cái bã mía của người khác, thì đạo Phật ra đời để làm gì?” đi giẫm lại cái lối mòn. Cũng như bây giờ, chúng ta kết hợp tất cả những cái tư tưởng, cái kinh ba của tôn giáo này, của tôn giáo khác, chúng ta gọi là hòa đồng tôn giáo.
Sai lầm rồi… Chúng ta đều nhai lại những cái tư tưởng này, chúng ta cho Phật, thần, thánh, tiên… đều là giống nhau. Đâu giống được. Mỗi một cái người mà xuất hiện trong thế gian này là một cái vai trò, một cái vai trò trong cái giai đoạn đó, người ta khổ đến cái mức độ nào đó.
Thì cái người này, trong cái cảnh khổ đó, người ta mới xuất hiện cái tư tưởng đó, để người ta giúp cho những người đó thoát khổ. Chứ chưa chắc đã là toàn thiện. Chưa chắc đã là đem con người giải thoát được. Như Khổng Tử xuất hiện ra trong cái vai trò của ông, để mà lãnh đạo, đưa cái đạo đức của ông để mà tề gia, trị nước, bình thiên hạ.
Là cái mục đích đó, là Đông Chu Liệt Quốc nó rối ren ở trong cái nước Trung Quốc như vậy thì phải đưa vào cái nền đạo đức đó. Chứ áp dụng vào cái thời đại khác làm sao phù hợp được. Nhưng chính đức Phật ra đời để giúp chúng ta thoát bốn cái nỗi khổ. Con người ai cũng có bốn cái nỗi khổ.
Bây giờ một ngàn triệu năm sau, chúng ta cũng bốn nỗi khổ này. Có con người là có bốn nỗi khổ này. Cho nên nó không có mai mọt. Pháp Phật nó vĩnh hằng, nó đối với cái pháp Phật nó thường với con người. Bởi vì Thầy nói cái pháp của Phật, nó mới áp dụng vào con người.
Còn tất cả các tôn giáo khác, nó sẽ có thế giới trừu tượng, là áp dụng vào thế giới khác chứ không phải là thế giới này. Ở đây mà chúng ta không xây dựng cái cuộc sống của chúng ta là Thiên đàng, mà chờ cho Thiên đàng, Cực Lạc ở chỗ nào là sai hết.
(1:42:09) Tu để mà đi vào cái cảnh giới Thiên đàng, Cực Lạc nơi khác là không đúng. Mà con người mà đem lại cái sự sống cho con người như thế nào, để cho người ta sống không làm khổ nhau, thì đây mới thật sự là Phật giáo. Bởi vì cái mục đích của Phật giáo là như vậy.
Bây giờ cái nhà triết học đó, họ đưa ra cái này. Một nhà khoa học đó, họ đưa ra cái kia, vốn mục đích để phục vụ con người. Nhưng mà khi mà đưa đi đến, nó không phù hợp với con người. Nó làm cho con người khổ sở, thì cái tư tưởng đó, cái triết học đó nó sẽ bị đào thải liền. Nó không chấp nhận được. Con người không chấp nhận được nó.
Thì cái tôn giáo của chúng ta hiện giờ mà nó còn sống được, là như Đại thừa hoặc như các tôn giáo khác còn xây dựng được cái thế giới siêu hình, thì lúc bấy giờ con người chúng ta có cái niềm tin ở đó. Vì chưa có hiểu được cái thế giới đó, còn nếu khi mà hiểu được nó không có rồi, thì bây giờ tôn giáo sẽ bị hoại diệt.
Một ngày nào đó, khoa học, con người nó đâu có dừng, nó đâu có dừng sự tiến hóa của nó đâu. Buộc lòng nó phải tiến tới. Mà khi nó tiến tới thì cái gì mà không đúng nó phải, nó phải từ giã hết, nó không còn bao giờ… nó không tin nữa đâu.
Còn trái lại, chúng ta xây dựng một cái nền đạo đức như đạo Phật, chắc chắn đạo Phật sẽ không bị mất. Bởi vì con người là phải có cái nền đạo đức của nó. Mà cái nền đạo đức của nó, nó giúp cho con người không làm khổ mình, khổ người. Cái nền đạo đức này thật sự là quá tuyệt vời.
Vì vậy mà cái luật nhân quả không thể nào tha thứ cho mỗi người, làm cái điều ác mà họ lại hưởng được phước thì không bao giờ có. Cái luật này rất công bằng. Cho nên đức Phật dựa vào cái luật nhân quả mà chuyển hóa được nhân quả, để mà xây dựng được cái nền đạo đức của con người, gọi là đạo đức nhân bản.
(1:43:42) Thì chúng ta thấy cái này cái thực mà. Còn những cái kia là cái ảo, cái mơ tưởng. Nhưng mà người ta không truy ra được cái thế giới siêu hình, thế giới cõi trời, hoặc là thế giới chư Thiên như thế nào. Người ta không truy ra được nên người ta sống trong tưởng. Nhưng mà một ngày nào đó khoa học sẽ đi dần tới.
Thì chúng ta thấy rằng cái sự tiến bộ của khoa học hôm nay thì chúng ta thấy nó cũng tiến xúc, chứ không phải không đâu. Rồi nó còn sẽ tiến nữa. Đầu óc con người nó sẽ không dừng ở chỗ này đâu. Nó sẽ đi tới và đi tới nữa. Quý Phật tử sẽ thấy rằng, tôn giáo sẽ bị hoại diệt trên hành tinh này.
(1:44:18) Bởi vì tôn giáo cũng mục đích sanh ra để mà phục vụ cho con người, đem lại hạnh phúc cho nhau. Nhưng mà đem lại hạnh phúc ảo, thành ra nó sẽ bị diệt. Vì vậy mà hôm nay nếu mà không có đủ duyên mà Thầy thực hiện, không nhìn thấy, một cái nền đạo đức không còn có nữa thì ngày mai tôn giáo sẽ hoại diệt. Và đồng thời trong những nhà khoa học, người ta sẽ nghĩ ra một cái nền đạo đức cho con người, chứ không phải là người ta để cho con người bị khoa học làm đảo lộn lần nữa.
Bây giờ, chính bây giờ khoa học nó đã sản xuất, nó làm đảo lộn đời sống con người. Người ta đam mê vật chất cho nên người ta coi thường cái sự sống của con người. Người ta tạo dựng cho nó có cái sự sống tiện nghi và hạnh phúc. Nhưng mà sự thật càng bước vào chúng ta thấy càng khổ.
Ngày xưa chúng ta không có xe cộ mà tốc độ mà nhanh như vậy, cho nên tai nạn giao thông không có, không để lại cho chúng ta một sự đau khổ hàng ngày ở khắp vùng trên ở trên hành tinh này. Bây giờ, cái tốc độ của xe cộ như vậy thì hàng ngày để lại sự đau thương cho con người chúng ta. Vừa rồi con mình vừa cưỡi xe ra kia, cái nghe tin nó bị tai nạn giao thông, thì ôi thôi, ra đó thì đem xác nó về chôn. Là một nỗi đau đớn nhất. Là vì nó đang mạnh khỏe chứ không phải nó là người đau ốm. Ai mà có người mà trong gia đình bị tai nạn giao thông, chúng ta mới thấy sự khổ đau. Mà lúc bây giờ là lúc nào chúng ta cũng thấy hoàn toàn là ngày nào cũng có chuyện đó. Cho nên ngày xưa chúng ta thấy, nó không phục vụ chúng ta nhanh chóng. Nhưng mà bây giờ nó phục vụ chúng ta nhanh chóng, thì nó lại đem chúng ta cái sự đau khổ.
Cho nên khoa học phục vụ con người nhiều hơn. Nhưng đem đến cho chúng ta đau khổ nhiều hơn. Phải không? Các con thấy rất rõ. Vì vậy chúng ta nếu không có một cái nền đạo đức ổn định được khoa học, thì chắc chắn là con người sẽ bị hoại diệt. Đó là cái điều chắc chắn mà thôi.
(1:45:58) Phật tử: Bạch Thầy, xin Thầy cho biết ý kiến, cái nhìn của Thầy về tương lai của Phật giáo Việt Nam trong những năm sắp tới. Ví dụ bây giờ, hiện tại thì Hòa thượng Thanh Từ được mọi người kính nể. Khi mà đi ra nước ngoài, nếu mà Hòa thượng đặc trưng nguyên thủy, nó là cả một vấn đề vì cái lực lượng bên đó nó chống đối. Nó nói rằng Hòa thượng đi hoạt động cho chính quyền, cho chế độ này kia.
(1:46:32) Trong khi đó ở trong nước thì lực lượng khác. Nếu bây giờ gặp phải như trường hợp của Thầy, mà bây giờ đây thì Thầy chỉ vô giáo lý Nguyên thủy, thì nó đâm ra nó giống như tình trạng mà có một sự chống đối qua lại, rồi duyên bên thầy Chân Quang nói tới, nói lui này kia. Thành ra, nhiều Phật tử đâm ra hoang mang. Không biết bây giờ nên tin ai, tu hành như thế nào?
Cái thấy của Thầy, tương lai của Phật giáo Việt Nam có tốt hơn không hay là tệ đi.
Trưởng lão: Về tương lai của Phật giáo Việt Nam, trong một cái giai đoạn mà để nó đi đến cái tốt thì nó phải có hiện tượng để mà người ta nhận xét. Bây giờ quý thầy chống đối nhau thì người ta đã nhìn thấy được cái sai của nó rồi. Cho nên người ta bắt đầu dao động. Từ lâu tới giờ người ta tưởng chứ gì? Nhưng mà người ta thấy rõ ràng ông thầy này nói ông thầy kia, ông thầy kia nói ông thầy nọ.
Thì tức là người ta đã thấy rõ rồi. Người ta thấy rõ được người ta không theo ai hết. Người ta ngán quá mà. Bây giờ ông nào cũng tranh đấu với nhau bằng miệng lưỡi, coi như là bằng gươm miệng rồi, lưỡi dao rồi. Rõ ràng bây giờ là ông này cũng nói xấu ông kia, ông kia cũng nói xấu ông nọ rồi. Hoàn toàn là bây giờ ai theo?
Bây giờ Thầy nói như thế này này. Bên Thiền Tông thì có Hòa thượng Duy Luật, Hòa thượng Thanh Từ. Mà bây giờ hai khối này đã choảng nhau mà chúng ta đã thấy rồi. Ai mà đọc lại hai bức thơ đấy lại không thấy? Phải không?
Rồi bây giờ người ta lại thấy thầy Chơn Quang rồi với một số quý thầy choảng nhau rồi. Bây giờ mình lại thấy thầy Chơn Quang lại choảng Thầy rồi. Rõ ràng là các con sẽ nghe băng thầy Chơn Quang nói như thế này, thế khác, không có thể nào mà không rồi.
(1:48:15) Bây giờ Thầy lại để cho đám đệ tử của Thầy nói này nói kia với thầy Chơn Quang. Cái này là cái sai thứ hai nữa rồi. Thì bây giờ Phật tử còn tin ai bây giờ? Phật giáo sẽ đi đến hoại diệt. Cho nên Thầy đã biết được điều này. Thầy đã biết rõ điều này. Tương lai Phật giáo sẽ tốt đẹp.
Vì vậy mà cái điều mà Thầy làm, không phải cái vấn đề mà tranh cãi hơn thiệt, cái đúng cái sai, mà làm sao đem lại cái nền đạo đức nhân bản cho người ta. Người ta không làm khổ mình, khổ người, thì dạy cách thức người ta sống như thế nào để mà không làm khổ mình, khổ người. Cái nền đạo đức của đạo Phật sẽ còn mãi mãi.
Nghĩa là sau khi nó hoại diệt với cái sự mà tranh danh lợi của họ mà chống đối nhau bằng cách này, bằng cách khác. Để mà chúng ta thấy cái sự hoại diệt của, cái sai của Phật giáo. Để rồi nó sẽ vĩnh viễn.
(1:48:59) Cho nên tại sao hôm nay Thầy không viết cái bộ sách đạo đức hôm nay. Thầy để tất cả những cái hư hoại của Phật giáo nó lộ tướng ra hết. Phải không? Nếu mà Thầy không để thì chúng ta chưa có biết ông Thầy nào mà tu đúng đâu? Bây giờ để cho nó lộ ra, nó chống đối nhau hết mọi mặt.
Bây giờ Thầy đứng trung gian, cái gì Thầy cũng nói. Bác Đại thừa, thiền Đông Độ hết, Thầy chỉ nhắc đến Nguyên thủy là đúng thôi. Để sau này làm cái mấu chốt đó mà Thầy nói Nguyên thủy là cái nền đạo đức chúng ta không làm khổ mình, khổ người thôi. Các con hiểu chưa?
Thầy để cho nó chống đối nhau, nó tùm lum, nó chửi mắng nhau đủ thứ. Thầy âm thầm Thầy để cho họ chửi. Cuối cùng thì nó hoại diệt nhau. Phật tử đã thấy rõ hết mà. Chửi nhau thì ai cũng thấy chứ gì? Tại sao mấy ông tu mà mấy ông chửi lộn nhau vậy? Phải không?
Cuối cùng thì quý Phật tử dao động không biết theo ai nữa hết. Phải không? Cuối cùng thì bắt đầu đạo đức ra đời thì các vị sẽ theo đạo đức. Phải cái đúng của Thầy không? Cái nhìn của Thầy mà.
(1:49:55) Thầy nói tương lai Phật giáo sẽ tốt. Trước khi hoại diệt nó phải có cái sự chà đạp lên nhau. Nghĩa là bây giờ mình muốn ổn định đất nước của mình thì tức là phải diệt những cái mầm sai này đi. Mà cái mầm sai này để cho mọi người người ta thấy được. Chứ còn nếu mà cứ che khuất làm sao người ta thấy! Để cho nó lộ hết cái sai đi để cho quý vị thấy cái sai.
Thí dụ, bây giờ thầy Chơn Quang nói vậy. Đâu phải là người ta tin thầy Chơn Quang toàn bộ đâu. Người ta vẫn thấy thầy Chơn Quang là cái gì chứ.
Cho nên các con bình tĩnh, rồi các con sẽ thấy, Thầy đã dự định, Thầy biết được cái thời gian rồi, chứ không phải không biết. Cho nên tại sao bây giờ cái hướng đạo của bộ sách đạo đức làm người Thầy không cho ra bây giờ. Thầy để cho thấy toàn bộ cái bộ sách mà Đường Về Xứ Phật nó ra, rồi cái Giáo Án Tu Tập Cho Người Cư Sĩ, để cho những người cư sĩ họ nói ra cái thấy nghe của họ. Phải không? Nhưng mà hoàn toàn không được chống đối ai hết. Thấy cái thấy của mình như thế nào?
Phật tử: Thưa hỏi.
Trưởng lão: Đó, thì đó là cái để cho mà người ta lại nghiệm thấy thì cái này là của người cư sĩ nói. Chứ bây giờ mà Thầy nói không, thì coi như là Thầy hoàn toàn là Thầy. Nhưng mà Thầy chỉ gợi ý cho cái Đường Về Xứ Phật, là cái sai để cho quý vị suy ngẫm đúng hay sai của Đại thừa, chứ không nói một vị thầy nào sai hết.
Phật tử: Con nhận được một cái bức thư của một vị Hòa thượng tên là… hòa thượng ở bên Úc viết thư, chống lại thầy Chơn Quang. Cái lời lẽ mạt sát còn tệ hơn người bình thường ngoài đời. Thì con không biết cái quả báo nó đến như thế nào nếu người tu hành xuất gia như vậy, thì sẽ ra làm sao?
Trưởng lão: Thầy sẽ xác định cho con. Bởi vì, ma dương nó xử ma dương. Bởi vì cái ông này, phải chi ông sống đời sống ông đúng là một vị tu sĩ, tức là giới luật nghiêm chỉnh thì chắc chắn ông không chửi đâu.
Theo Thầy biết, một số Phật tử báo cho Thầy biết thì cái vị tu sĩ, hòa thượng này, họ sống chưa đúng giới luật. Cho nên ông này chửi thầy, mắng thầy Chơn Quang như vậy, họ chẳng bao giờ tin. Bởi vì ông phải sống đúng, mà ông nói thì người ta tin. Đằng này ông sống không đúng, mà ông nói như vậy người ta không tin ông.
Thì do đó mà Thầy nói rằng ma nó sẽ chửi ma rồi, không phải là Phật đâu. Vì vậy bây giờ thầy Chơn Quang thầy làm thinh, thầy đừng có nói ai hết thì người ta vẫn thấy thầy phải. Mà thầy nói người này người kia, tức là thầy muốn bảo vệ cái nồi cơm của thầy, thầy muốn bảo vệ cái danh, cái lợi của thầy, thầy mới nói chứ.
(1:52:30) Chứ nếu mà thầy không bảo vệ cái danh lợi của thầy, thầy cần gì phải nói. Ai làm gì làm! Phải không? Cho nên các con đọc sách Thầy, Thầy ngăn cản bởi vì các con có lòng tức khi Thầy mình bị người ta nói, mình phải tức chứ! Phải không? Cho nên các con sẽ nói. Các con là người cư sĩ có quyền tức đó. Chứ còn vị thầy tức không được.
Cho nên, do đó Thầy cấm các con không được nói ai hết. Để cho họ tức, họ nói gì họ nói. Bởi vì người ta có trí tuệ. Con người người ta có trí tuệ người ta sẽ hiểu. Nhưng mình đừng có luận, mình đừng có che đậy, mình đừng có bưng bít. Mình đừng có nói cái này. Mình đừng có ca ngợi thêm. Mình cứ để cho người ta cư xử.
Cho nên, trong khi mà viết những cuốn sách mà Giáo Án Tu Tập Cho Người Cư Sĩ thì hầu hết là quý Phật tử mèo khen mèo dài đuôi. Tức là khen Thầy nhiều quá. Thầy thấy không đúng. Ngày xưa, người cư sĩ khen Phật như thế nào các con biết không? Nghĩa là khen rất ngắn gọn mà rất hay: “Những gì người ta ném bỏ, Sa môn Gotama đã dựng lại.”
(1:53:28) Có bây nhiêu đó, Thầy thấy nó thấm thía. Chính Thầy hôm nay là dựng lại nền đạo đức của đạo Phật là tại vì người ta đã ném bỏ. Người ta đã ném bỏ giới luật của Phật. Người ta đã ném bỏ những đức hạnh Thánh của các vị Thánh Tăng. Người ta không còn sống nữa.
Cho nên những cái này, Thầy dựng lại, chứ không phải Thầy làm cái gì mới. Thì sa môn Gotama ngày xưa đã dựng lại chứ không phải là có cái gì mới đâu. Mà người ta khen như vậy đúng. Đừng có nghĩ là Thầy A La Hán, Thầy là bậc Chân sư, Thầy là bậc này bậc kia. Điều đó là chúng ta dùng danh từ, chúng ta ca ngợi hơi quá đáng.
Thầy cũng là một người phàm phu như các con thôi. Nhưng mà cái đúng, cái sai Thầy dựng lại để cho các con thấy cái đúng là đem đến hạnh phúc cho các con. Cái sai là nó đem đến các con cái hao tài, tốn của, vô ích. Đó là thầy dựng lại cái đúng.
Phật tử: Bạch Thầy, chúng con từ khi biết pháp, nghe thâu băng của thầy Chơn Quang thì cũng quý mến thầy. Thấy thầy cũng có nhiệt tâm mà nhiệt tâm hướng về đạo đức cho con người. Cái ý đó là ý định của Thầy.
Thì trong cái cuộn băng mà thầy Chơn Quang nói về Thầy thì thầy Chơn Quang cũng nhắc Hòa thượng Trúc Lâm. Thầy (Chơn Quang) nói Thầy(Chơn Quang) ở cái thế chẳng đặng đừng. Khi mà thầy(Chơn Quang) nói ra giống như là Thầy(Chơn Quang) là cái người phản Thầy (Thầy Thông Lạc).
Thầy (Chơn Quang) vừa chỉ trích hòa thượng Trúc Lâm, mà vừa chỉ trích Hòa thượng Chơn Như. Nhưng mà theo cái ý nghĩ mà thầy Chơn Quang thầy nói, là Thầy muốn về với lại hòa thượng Trúc Lâm. Còn ở đây thì đối với Hòa thượng Chơn Như thì rất quý mến, rất mang ơn, nhưng cái đường lối tu của thầy, nó không có đúng.
Thầy không có chấp nhận. Tự nhiên thầy Chơn Quang đặt ra cái ý nghĩ là ở đây Thầy tu là Thầy khép kín, không có tiếp xúc với đời. Thầy Chơn Quang nói là tu hành như vậy nó không có lợi cho đời.
(1:55:43) Hôm nay Thầy Chơn Quang nói có đúng… Thầy không tiếp xúc với đời. Thật sự ra Thầy không đi bán Pháp bằng một cách cầu danh. Nghĩa là Thầy không đi thuyết giảng. Nhưng mà ai đến đây Thầy không có bỏ người nào không. Phải không?
Người ta tha thiết người ta đến đây thì sẵn sàng mình giúp đỡ. Nhưng mà Thầy có bao giờ mà Thầy trốn tránh đâu. Phải không? Nhưng mà những người nào đến đây mà tìm cách vấn nạn, tìm cách mà hơn thua thì Thầy không cần. Tại sao vậy? Tránh được sự tranh chấp nhau. Phải không?
Còn cái mà người ta đến, người ta tha thiết mà tu hành, có người nào mà Thầy bỏ đâu. Dù họ đến đây một ngày, họ tu họ phóng, họ ra đi Thầy cũng chấp nhận. Thầy biết rằng họ tu không nổi đó. Mặc dù họ đến Thầy biết rằng họ cao lắm đến ba tháng, cao lắm đến một tuần lễ, không tu nổi. Nhưng mà Thầy vẫn chấp nhận cho họ ở. Không bỏ người nào.
Như vậy Thầy có bỏ đời không? Không bỏ đời! Thật sự ra Thầy không bỏ ai hết. Nhưng mà có cái điều kiện là Thầy không làm cái người kép hát đi hát. Bởi vì Thầy biết rằng Thầy giảng cho nhiều người nghe là tạo cái danh của Thầy. Nhưng mà trong cái số người nghe đó, chưa chắc họ đã tu được.
Cho nên, Thầy biết rằng, giới luật là khó, đạo đức là khó chứ không phải dễ. Còn cái mà tu hình tướng như các giáo pháp khác thì dễ đó. Tu có hình tướng tu thôi. Như gõ mõ, tụng kinh thì dễ rồi, như niệm Phật thì dễ rồi. Nhưng mà đi đến đâu. Phải không?
(1:57:15) Bây giờ ngồi thiền một, hai giờ đồng hồ thì dễ rồi. Cái tướng ngồi thì ai cũng thấy. Nhưng mà xả thiền ra thì đời nó ra đời! Nó không có còn đạo nữa. Nó khác, không giống. Cho nên Thầy không thể nào làm theo cái này được. Phải không? Cho nên làm theo hình thức này để làm gì? Để lừa đảo người ta chứ làm gì!
Còn ở đây, Phật tu thật, làm thật nhưng không bỏ ai hết. Dù một người đó về đây, họ chỉ sống với Thầy trong một ngày, ăn một bữa thôi. Nhưng mà họ sống không nổi, họ về. Hồi nãy, có cái chú hồi nãy, họ đến đây, họ ăn ngày một bữa không nổi, họ phải xin cô Út cho ăn.
Thầy bảo phải về tập. Thì bây giờ họ về tập chứ làm sao họ ở đây được. Cho nên bây giờ Thầy cho họ ăn ba, bốn bữa ở đây, thì bao nhiêu người khác họ cũng đói bụng, họ cũng xin ăn hết. Thế thì cái chùa này nó trở thành cái gì đây? Nó không thành cái gì nữa hết.
Cho nên bắt Thầy phải rộng rãi, cũng như các chùa khác cho ăn ba, bốn bữa thì chắc thầy Chơn Quang không nói đâu. Phải không? Nhưng mà ở đây Thầy đi vào cái chỗ Phật dạy là “không thừa tự thực mà thừa tự pháp”. Tức là không vì ai mà vì pháp để giải thoát.
Đó cho nên thầy Chơn Quang nói thì cũng đúng, tại vì cái thời đại này nó không hợp với thầy thôi. Rồi, mấy con có gì hỏi Thầy không?
Phật tử: Thưa hỏi.
Trưởng lão: Bây giờ, chừng nào con về
Phật tử: Thưa hỏi.
(1:58:58) Trưởng lão: Ngày mai Thầy sẽ làm cái lễ, bây giờ Thầy sẽ quy y cho mấy con, thì các con sẽ nghe Thầy nói về Tam quy ngũ giới. Trước khi mà thọ Tam quy ngũ giới đó thì các con phải hiểu rằng trong cái vấn đề tu tập đó. Chứ không phải nói ngũ giới đó, rồi cái thọ, rồi các con về sống bừa bãi được đâu! Phải tập. Chứ không phải là mình hứa suông được trong cái vấn đề Tam quy ngũ giới. Rất quan trọng.
Cho nên khi mà hiểu được Tam quy, mình mới thọ Tam quy. Rồi thọ Tam quy rồi thì phải sống y như Tam quy chứ. Phải tập lần rồi sống y như Tam quy. Cái tâm hướng của mình hướng về cái hướng đó rồi, thì bây giờ mình sống chưa đúng nhưng mà mình vẫn có cái.
(1:59:43) Việc làm mình phải đúng, bởi vì mười phần ít ra phải có một phần chứ. Khi mình thọ Tam quy rồi phải chấp nhận hoàn toàn. Cho nên nếu mà thọ Tam quy mà Thầy đại diện ba ngôi Tam Bảo mà thọ Tam quy các con rồi mà tật nào về tật nấy thì Thầy không chấp nhận đâu!
Phải không các con? Bởi vì đã theo Phật thì phải sống như Phật, làm như Phật. Và trước khi mà Thầy giảng cho các con thấy Tam quy có xứng đáng là người để các con nương theo không? Nếu các con thấy xứng đáng thì các con mới chấp nhận thọ Tam quy.
Mà thọ Tam quy tức là ít ra Phật mười phần thì các con phải sống đáng với một phần. Thì chỉ một phần thôi cũng đem lại hạnh phúc cho mấy con rồi. Vì đạo Phật nói “Pháp ta không có thời gian”. Nếu người nào sống tu thì người đó có giải thoát liền. Phải không?
Vì vậy, khi mà thọ Tam quy các con sẽ có giải thoát liền. Chứ đâu phải không đâu? Đó là cách thức Tam Quy ngũ giới. Cho nên khi mà muốn thọ Tam quy với Thầy tức là Thầy phải làm sao cho các con có sự giải thoát. Cuộc sống các con, nghĩa là bây giờ các con chưa đủ khả năng để mà nhận được, nhẫn được.
Nhưng mà khi thọ Tam quy rồi Thầy dạy các con để mà các con sống. Người ta nói gì các con, các con có thể nhẫn được chứ không có la lên. Giúp cho các con để các con sống có giải thoát. Đó là cách thức Thầy dạy.
Thì đó là ngày mai, thì Thầy có thể buổi sáng Thầy làm lễ cho các con.
Phật tử: Bạch Thầy, có câu hỏi. Tức là từ xưa tới giờ từ khi đức Phật còn tại thế cho đến những năm sau này khi mà làm lễ quy y cho người cư sĩ mà…
Trưởng lão: Theo con hỏi thì cái người mà đã có chữ Thích rồi, đã có cái chữ Thích thì ở đây, hầu hết là người ta muốn quy y. Theo Thầy thiết nghĩ thì người ta muốn quy y. Là từ lâu tới giờ người ta chưa có chọn được một vị Thầy xứng đáng.
(2:01:42) Mặc dù là người ta đã có quy y, người ta thích Phật. Người ta muốn theo đạo Phật người ta có quy y theo một vị thầy nào đó. Nhưng cái vị thầy đó là một vị Tăng Bảo của họ đó chưa xứng đáng. Bây giờ họ quy y trở lại để tìm một vị thầy xứng đáng.
Thì do đó mà Thầy, cái ngày mà quy y Thầy mới hỏi, hỏi mấy con chọn lấy một Tăng Bảo xứng đáng mà các con phải noi theo cái gương của Tăng Bảo đó. Bởi vì các con có quy y rồi, có pháp danh rồi có Thích rồi chứ gì? Mà bây giờ các con khai, các con muốn tìm một vị thầy để vị thầy đó đại diện cho mình để quy y lại lần thứ hai chứ gì?
Ngày xưa vị đó chưa có đủ cái đức để mà quy y cho mình, coi như là mình quy y theo ngoại đạo rồi. Chắc chắn là mình đi theo Phật giáo đó, nhưng mà người ta quy y mình theo ngoại đạo rồi. Từ cái ngày mà mình quy y đến giờ mình thấy mình sống không có đúng theo Phật giáo chút nào là ngoại đạo chứ gì?
Tức là đã theo ngoại đạo. Coi như bây giờ các con tu theo Đại thừa là Thầy xem các con là ngoại đạo đó. Đối với con mắt của Thầy các con là ngoại đạo đó. Cho nên khi mà bước vào đây thì coi như là các con phải bốn tháng để mà sống được ở đây.
Khi mà các con chấp nhận bốn tháng ở đây, tức là các con phải sống ngày một bữa, độc cư, trầm lặng, không nói chuyện. Bốn tháng sau Thầy mới chấp nhận, các con mới trở thành là một người đệ tử của Thầy.
Thì ngày xưa đức Phật cho bốn tháng mà. Các vị ngoại đạo mới nói với đức Phật là con sẽ bốn năm con cũng chấp nhận nữa mà, chứ không phải bốn tháng phải không các con? Trong kinh nguyên thủy rất rõ ràng.
Vì vậy hôm nay trước khi mà các con quy y Tam Bảo thì Thầy thường thường Thầy không phải làm cái lễ đơn sơ đâu. Nó đơn sơ là cái lễ đơn sơ. Nhưng cái bài thuyết giảng của Thầy nói về Phật, Pháp, Tăng rất cụ thể để các con thấy rằng mình phải sống như thế nào, làm sao cho đúng ba cái ngôi này mới là thọ Tam quy. Phải không?
Các con đã chọn lấy nó rồi mà. Bây giờ gặp Thầy là một người sống từng giới đức hạnh của Phật mà, nó không sai chạy mà. Do đó, các con đến đây nương Thầy là phải sống như Thầy, tập sống như Thầy. Bây giờ các con mười phần như Thầy thì các con không sống được rồi. Thì các con ít ra các con phải được một phần mười của Thầy.
(2:03:45) Là đệ tử của Thầy mà, đâu phải sống như hồi nào giờ, quy y sao các con vẫn sống vậy đâu. Ở đây không có tụng niệm. Hoàn toàn các con sống đúng cái pháp của Phật. Do đó Thầy truyền cho các con năm cái giới, thọ ngũ giới.
Ngày xưa đức Phật không có làm cái lễ này đâu. Một cái người cư sĩ mà muốn xin, họ sẽ nói. Bây giờ nghe cái bài thuyết pháp rồi con sẽ xin đức Phật làm đệ tử cư sĩ của đức Phật. Đức Phật chấp tay hoặc là đức Phật chấp nhận là đức Phật gật đầu, coi như là Phật không có làm lễ. Coi như là quý con đã tin tưởng nơi Phật rồi vì vậy mà đức Phật lúc bấy giờ trong cái người của đức Phật nhất thể Tam bảo.
Nhất thể Tam bảo như thế nào? Trong con người của Phật, Phật là Phật rồi chứ gì? Phật bảo rồi chứ gì? Bây giờ lời của đức Phật nói là pháp bảo chứ gì? Mà đời sống của đức Phật là không bao giờ mà thiếu sự hòa thuận cho nên nó hòa hợp vì vậy mà gọi là Tăng.
Cho nên trong một con người đã đủ Tam Bảo rồi. Phải không các con? Cho nên vì vậy mà trong cái thời đức Phật chưa có đủ người để mà thọ giới mà đức Phật vẫn đứng ra Tam quy ngũ giới người ta được. Thì trong giới luật đức Phật, giới bổn có nhắc lại cái điều này. Ngày xưa đức Phật có mình đức Phật tại sao mà thọ Tam quy ngũ giới được? Còn bây giờ chúng ta phải Tam quy thất chứng mới được.
Rõ ràng là ngày xưa, tại vì trong đức Phật đã đủ Tam quy ngũ giới rồi. Cho nên chúng ta thọ là thọ ngay đức Phật. Vì vậy mà đức Phật chỉ cần chấp nhận là chúng ta đã thọ. Còn bây giờ Thầy là một người mà tu theo Phật, giữ gìn đúng giới hạnh của Phật. Đại diện cho ba ngôi này chứ không phải là Thầy.
Vì Phật là một đấng giáo chủ đã đưa lại cái giáo pháp này lập cái đạo Phật. Còn Thầy không phải là đấng giáo chủ. Cho nên đâu phải gọi Thầy là Phật được. Thầy chỉ là một người đệ tử sau mấy ngàn năm đây là một người đã đi trên con đường của Phật để làm chủ sự sống chết này.
(2:05:36) Cho nên Thầy là người đệ tử, 2540 năm. Thầy là đệ tử, khoảng cách đức Phật xa như vậy. Cho nên bây giờ Thầy quy y các con là Thầy chỉ đại diện thôi. Mà Thầy không sống đúng với đức Phật thì Thầy quy y các con là Thầy dẫn các con đi vào ngoại đạo Bà La Môn.
Cho nên, ví dụ bây giờ các con được dưới đôi mắt Thầy các con không quy y trở lại, không theo con đường của Phật tu, đương nhiên các con đang tu ở trên pháp của ngoại đạo. Các con cúng bái, tụng niệm, cầu siêu, cầu an. Đó là các con làm theo Bà La Môn.
Bà La Môn nó cúng tế mà. Nó cầu siêu, cầu an hẳn hòi đàng hoàng. Bây giờ chúng ta làm là làm theo Bà La Môn. Còn ông Phật ông đâu có dạy chúng ta cầu an, cầu siêu đâu. Các con tự thắp đuốc lên đi mà. Mình khổ là do nhân quả của mình thì mình chuyển quả khổ đó bằng cách mình không làm ác nữa. Thì nó sẽ hết khổ mình chứ sao. Nó là cái mục đích của đạo Phật.
Cho nên, đâu có cần cầu ai được đâu. Cho nên chúng ta tu đúng là đúng, tu sai là sai. Và bây giờ coi như các con đang sống, bây giờ các con, người ta nói các con là Thích Nữ gì hoặc là Tâm gì… Đều là hoàn toàn Thầy xem các con là ngoại đạo. Đối với Thầy là ngoại đạo. Bởi vì các con làm những cái sai, không đúng Phật giáo thì các con ngoại đạo.
Các con nói tôi theo Phật giáo. Theo thì theo chứ sự thật là với cái danh từ Phật giáo chứ cái hành tích các con là ngoại đạo. Các con ngồi thiền, thiền có đúng đâu. Đức Phật nói muốn thiền thì phải ly dục, ly ác pháp mới là thiền. Mà giờ các con không ly dục, ly ác pháp mà con thiền, các con ngồi một, hai tiếng đồng hồ đó là thiền sao?
Phải không? Các con thấy không? Vì vậy mà các con thấy rằng những cái sai đó là những cái sai rất lớn chứ không phải là không. Mặc dù bây giờ các con nói Phật giáo gì thì nói, nhưng hành động của các con sai không đúng giáo lý, chân lý của đạo Phật.
Ngày mai, cuối năm các con chuẩn bị, khi mà Thầy nói các con thấy đúng, mình thấy đúng. Thầy không ép buộc đâu. Thầy giảng cho các con thấy ba ngôi Tam Bảo nó lợi ích như vậy đó. Thì các con thấy bây giờ quyết định là mình phải theo Phật giáo rồi. Thì tâm thành của các con sẽ hướng đến tượng Phật, và hướng đến Thầy mà phát nguyện. Phát nguyện mình hướng đến ba ngôi Tam Bảo này. Thọ ba ngôi Tam Bảo, quyết định sống giống như Phật, như Pháp, như Tăng.
(2:07:56) Lúc bấy giờ là các con đã tự nguyện chứ Thầy không ép buộc đâu. Nhưng mà Thầy chỉ giải thích cho các con hiểu ba ngôi Tam Bảo. Rồi Thầy sẽ giải thích cho các con năm cái giới, là năm cái đức hạnh của một bậc Thánh Tăng, của một bậc Thánh.
Cho nên các con hiểu được cái đức hạnh này. Các con thấy hiểu được chứ không phải sống được đâu! Rồi đồng thời, các con sẽ tu tập dần dần để các con phải sống cho được những cái đức hạnh đó. Đó thì cách thức Thầy chỉ cho các con trong cái Tam quy, ngũ giới thì tức là các con mới trở thành một người đệ tử cư sĩ của Phật chứ.
Phật tử: Không biết sắp tới Thầy có làm lễ quy y cho người nào nữa hay không để…
Trưởng lão: Thì ngày mai, ngày mai, Thầy sẽ quy y Thầy sẽ giảng. Những cái nào mà thiếu thì các con thêm. Rồi cái nào mà nó chưa có giảng ra. Tùy cái duyên cái ngày hôm đó thì qua cái tâm thành của các con mà khi quy y thì Thầy xuất hiện trên những tâm thành đó mà Thầy giao cảm Thầy sẽ thuyết giảng.
Bởi vì cái lòng thành của các con. Mà nếu cái lòng thành của các con ít Thầy giảng nó đơn giản hơn, nó ngắn gọn hơn. Mà lòng thành của các con tha thiết, tức là chừng đó mà Thầy giảng các con sẽ thấy nó linh động do cái tâm thành của các con.
Phật tử: Thưa hỏi
Trưởng lão: Thôi, được rồi. Ngày mai Thầy quy y cho. Bữa đó Thầy tuỳ duyên các con đến. Được rồi. Có gì thì mình phải giữ nhân duyên thôi. Có gì. Không có sao đâu, các con đừng có nghĩ. Sức khỏe của Thầy. Sức khỏe vô biên. Coi vậy chứ Thầy già chứ, sức khỏe của Thầy. Nếu mà Thầy, đã sức khỏe mà Thầy không phục hồi được nó, không sử dụng được nó thì giờ chắc Thầy làm việc không có nổi đâu, Thầy không có nói chuyện nổi đâu.
Cho nên vì vậy, các con yên tâm đi. Bởi vì mỗi người đều có một cái nhân duyên mấy con.
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian: 11/08/2001
(00:00) Cô Diệu Hảo: Kính Bạch Thầy! Con đi Đà Lạt con ở trên Đại Ninh trong thời gian 40 ngày, mà trong 20 ngày sau con độc cư giai đoạn 1, mà trong 20 ngày đó nó có cái phương tiện là không có ai hết, chỉ có một mình con ở nhà thôi. Thành ra con độc cư được 2 - 3 ngày con thấy tâm rất thanh tịnh khi ngồi tu nó không còn chướng ngại gì hết, và Tứ Niệm Xứ nếu nó có thì con cũng quán, còn nó không có thì con cũng không quán, nhưng mà luôn luôn lúc nào con cũng vẫn nhắc nhở hoài không để quên. Và lại với con tu, con đi từ khoảng Thầy dạy là phải diệt ngã, con phải áp dụng cái phương pháp mà xả tâm là nhiều nhất. Hai nữa là với cái Sơ Thiền của con, thì hiện bây giờ nó đã rất là trầm lặng, con ngồi tu nó rất trầm lặng, con mới tác ý nhắc về cái Nhị Thiền.
Mà trong khi con nhắc về Nhị Thiền thì cái tâm nó rất thanh thản nên nó muốn như là cái hơi thở nó muốn nín vậy đó. Nhưng mà con cũng thấy trong người thì rất khỏe khoắn, nó không có cái chướng ngại như mọi lần trước, nhưng con tu rất là nhẹ nhàng. Nhưng mà cuối cùng con tới chừng con nhắc cái tâm bất động thì nó chưa được Thầy. Như vậy là tại sao vậy Thầy?
Trưởng lão: Hôm nay, trên cái vấn đề tu tập các con phải xác định được cái sự tu tập của mình về cái Sơ Thiền và cái Nhị Thiền. Phải xác định được cái phương pháp về cách thức tu của cái Sơ Thiền như thế nào và cái Nhị Thiền như thế nào, và cái trạng thái đạt được Nhị Thiền nó ở mức độ nào gọi là sung mãn, và ở mức độ nào nó chưa sung mãn.
Nghĩa là mình tu mình phải biết được cái trạng thái của Sơ Thiền nó sung mãn ở chỗ mức độ nào gọi là cái Sơ Thiền nó đã hoàn tất được cái Sơ Thiền. Chứ nhiều khi chúng ta chỉ trong vòng 1 phút hay 1 giây hoặc là một tiếng đồng hồ, hai tiếng đồng hồ mà chúng ta đạt được một cái trạng thái Sơ Thiền chưa hẳn đã sung mãn.
Cho nên Đức Phật nói 7 ngày, 7 tháng, 7 năm. Bây giờ trong 7 ngày mà chúng ta tu tập trong 7 ngày mà chúng ta tu tập nó sung mãn được cái Sơ Thiền của nó tức là nó tròn đầy được cái Sơ Thiền thì cái trạng thái của Sơ Thiền nó ở chỗ nào? Nó ở chỗ cái tâm không phóng dật, tự nó không phóng dật chứ không phải chúng ta bắt ép nó vào một cái đối tượng nào mà nó không phóng dật.
(02:56) Thí dụ như bây giờ mình biết rõ ràng là Đức Phật đã xác định cái tâm nó sẽ định trên cái thân của nó, mà hiện bây giờ cái thân nó đang thở ra và thở vô, thì nó phải định ở trên cái hơi thở ra, hơi thở vô của nó, chứ nó không thể định ở trên một cái thân mà bất động, bởi vì cái thân nó đang thở chứ không phải là cái thân nó không thở, cho nên nó phải định ở trên cái thân nó là định trên cái thở, cái động của nó, cái động của thân.
Mà cái thân nó không có động thì nó định trên cái không động của thân nó, nhưng bây giờ cái thân của chúng ta nó chưa phải tới cái Tứ Thiền cho nên cái thân của nó, nó còn thở, vì vậy cho nên nó không thể nào mất hơi thở được. Cho nên cái Sơ Thiền nó luôn luôn nó phải biết cái hơi thở của nó. Nhưng mà biết cái hơi thở mà không phải bắt buộc nó tu tập cái hơi thở mà bắt lấy cái hơi thở để ép buộc nó phải biết hơi thở thì như vậy chúng ta bị ức chế cái tâm chúng ta biết hơi thở chứ không phải là chỗ nó tự nó biết hơi thở.
Cho nên cái mục đích của Đạo Phật dạy chúng ta cách thức tu là ly dục, ly ác pháp để cho cái tâm chúng ta nó lìa những cái tâm tham, sân, si đó mà nó trở về nó định trên hơi thở gọi là tâm không phóng dật. Cho nên Đức Phật mới nói: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật”. Muốn thành một bậc giải thoát như Đức Phật thì chỉ có duy nhất là tâm không phóng dật, mà chỉ duy nhất tâm không dật tức là cái Sơ Thiền. Cho nên muốn sung mãn được cái Sơ Thiền này thì nó có cái sự xác định của Đức Phật rất rõ ràng: từ 1 ngày 1 đêm cho đến 7 ngày 7 đêm.
Mà Thầy xác định cho mấy con là từ 24 tiếng đồng hồ, một ngày, một đêm mà cái tâm nó quay vô nó định, thì con người mà cái tâm nó ly dục, ly ác pháp như vậy, nó xác định cho nó là cái si nó phải lìa. Bởi vì tham, sân, si mạn nghi nó phải lìa, thì như vậy nó không có buồn ngủ. Nó không buồn ngủ cho nên suốt 24 tiếng đồng hồ từ sáng mà cho tới tối ngày mai, đúng sáng ngày mai nó vẫn y như vậy, nó vẫn an lạc, nó vẫn khỏe, con người không có mệt nhọc không có một chút xíu nào buồn ngủ. Thì như vậy rõ ràng nó mới ly tham, sân, si.
Hồi nãy như Thầy nói nếu chúng ta còn si tức là còn buồn ngủ thì cái tham sân chúng ta chưa ly. Bởi vì chúng ta nhìn thấy cái si còn thì cái tham phải còn, mà cái tham còn thì cái sân phải còn, mà cái si còn thì cái sân cũng phải còn. Cho nên nếu mà cái si hết thì tham, sân nó sẽ hết. Vì vậy mà cái si nó hết mà 24 tiếng đồng hồ mà chúng ta ngồi tỉnh bơ nó không buồn ngủ chút nào hết, như vậy là rõ ràng chúng ta đã đạt được Sơ Thiền.
(05:10) Nhưng Đức Phật xác định chúng ta 7 ngày đêm kia mà, vậy 7 ngày đêm mà thức như vậy ai chịu nổi không? Thế mà cái người nhập Sơ Thiền người ta không ngủ. Người ta tỉnh bơ như thế này nè, người ta suốt ngày đêm, nó luôn luôn cái tâm nó luôn luôn nó biết hơi thở mấy con. Tự động nó, ai bây giờ chửi lộn thì nó không có để ý đâu, nghĩa là bây giờ ai nói gì sát bên tai của mình nó không để ý. Lúc bấy giờ cái người mà cái tâm nó ly dục, ly ác pháp nó nhập Sơ Thiền đó, cái tâm đó đó, bây giờ mà đem cái tivi, đem cái rađio để đây, nó bao giờ con mắt nó cũng thấy đó mà nó không có nhìn đâu, nó không có nhìn, nó quay vô luôn luôn nó biết hơi thở nó không có nhìn trên cái tivi mà nó xem hình ảnh đó đâu, mà cái giọng ca hát cách gì nó cũng không lưu ý, nó không có lưu ý, nó nghe mà nó không có lưu ý, nó chỉ duy nhất nó biết cái hơi thở của nó tức là nó đã quay vô, gọi là tâm không phóng dật.
Còn bây giờ các con lấy một cái máy ghi âm, đem một cái băng nhạc gì đó mà mở hát cái tâm nó sẽ quay ra liền tức khắc nó không có quay vô được đâu. Đó là cái chỗ chúng ta biết rằng nó đã sung mãn được cái Sơ Thiền, gọi là nó quay vô nó định.
Cho nên bây giờ khi mà nó sung mãn như vậy rồi thì cái Nhị Thiền nó rất dễ mấy con, nó dễ như trở bàn tay. Thầy nói như là mình nhập Nhị Thiền, như là cái bàn tay của mình ngửa vầy mình sẽ úp lại như thế này nó dễ như vậy nó không khó cái Nhị Thiền. Mặc dù chúng ta bây giờ, chúng ta muốn nó tịnh chỉ tầm tứ nó ngưng cái ý thức của chúng ta, điều đó chúng ta thấy khó. Bây giờ chúng ta muốn cái hơi thở tịnh chỉ chúng ta thấy khó, mà tới chừng mà cái tâm chúng ta sung mãn được cái Sơ Thiền rồi, thì cái hơi thở chúng ta rất dễ, muốn nó là nó tịnh chỉ liền cho chúng ta thấy, nó không khó đâu.
Cho nên bây giờ chúng ta phải xác định cho được cái vị trí của chúng ta đứng đang tu, đang tu cái pháp gì? Như con, con phải xét thấy, bây giờ cái Sơ Thiền của mình chưa sung mãn đâu, nó có Sơ Thiền. Thầy đồng ý là các con, người nào vào tu chắc con cũng có cái trạng thái mà các con nhận ra được, nhận ra được cái trạng thái Sơ Thiền được liền, là người nào cũng có Thanh thản, An lạc, Vô sự, phải không? Chúng ta ai cũng có hết, nhưng mà thời gian nó để Thanh thản, An lạc, Vô sự nó không dài mấy con, nó sẽ bị mất ngay liền. Ai cũng có hết chứ không phải là người nào không có.
Cho nên một chú bé 8 tuổi như Đức Phật ngày xưa, 8 tuổi đi theo vua cha ngồi dưới cây táo, cây hồng táo mà ngồi đó để mà ly dục, ly ác pháp, thì chú bé vẫn thấy mình được cái chỗ trạng thái Thanh thản, An lạc, Vô sự đó chứ. Cho nên Đức Phật khi mà cuối cùng thì Đức Phật nhớ lại cái trạng thái đó. Mà nói nếu mà chúng ta theo cái lộ trình này có thể là giải thoát. Do đó sau khi Đức Phật ăn uống trở lại, thân thể được khỏe mạnh, thì Ngài thực hiện con đường này, cho nên cuối cùng Ngài chứng được đạo.
Thì rõ ràng là chúng ta thấy ai cũng có cái Sơ Thiền được hết, nhưng mà cái Sơ Thiền chúng ta chưa sung mãn. Chúng ta có thể kéo dài được một giờ, nhưng chúng ta kéo dài hơn không được. Cho nên chúng ta chưa ly dục, ly ác pháp hoàn toàn thì cái thời gian này chúng ta chưa có kéo dài được. Nhưng mà khi ly dục ly áp pháp hoàn toàn thì nó chứng minh cho cái si của chúng ta phải sạch, mà cái si sạch thì chúng ta không buồn ngủ nữa. Nó hết buồn ngủ, nó hết cái si, nó tỉnh bơ vì vậy mà gọi là tỉnh giác. Cho nên nó rất tỉnh, nó ngồi nó rất an ổn, nó tỉnh, nó không có chút gì buồn ngủ. Mà trong khi chúng ta ngồi chơi không làm, không lao động, vô sự hoàn toàn mà. Chứ phải chi chúng ta làm cái gì đó thì chúng ta nghe, chúng ta xem phim, chúng ta thấy đá banh hay này kia thì chúng ta không buồn ngủ. Nhưng mà trái lại chúng ta không làm gì hết mà lại không buồn ngủ, cái đó mới là cái đặc biệt của Đạo Phật. Cái tâm nó quay vô nó luôn luôn nó biết hơi thở, tự tâm nó biết hơi thở.
(08:26) Hơi thở nó có nhiều cái sự thay đổi mà cái sự thay đổi của nó là bị tưởng. Còn cái hơi thở của Sơ Thiền không thay đổi. Nó tới mức độ đó thì nó cứ thở đều đều như vậy, nó không nhẹ nữa mà nó không có mất nữa.
Còn chúng ta bị hơi thở, thí dụ nhưng cảm giác nó nhẹ coi chừng bị tưởng tức, tưởng tức nó làm cho chúng ta nhẹ, rồi nhiều khi tưởng tức nó làm chúng ta thấy mất hơi thở không thở. Cái tưởng của chúng ta nó làm chúng ta không thấy hơi thở chứ sự thật ra chúng ta không thở là chúng ta chết chứ chúng ta làm sao. Bởi vì chúng ta chưa có cái năng lực, chưa cái định lực để mà, ngưng các cái hoạt động trong thân thì chúng ta sẽ bị chết. Cho nên hoàn toàn chúng ta bị tưởng nó che khuất chúng ta không thấy nó mà thôi.
Bắt đầu chúng ta thở bình thường như thế này, bắt đầu nó cái tưởng của chúng ta nó làm cho hơi thở nhẹ chậm, nhẹ chậm chúng ta thấy nó an ổn vô cùng; tưởng là mình vào định, không phải, cái tưởng của chúng ta bị, cái tưởng tức nó đã làm cho chúng ta lệch đi rồi.
Cho nên chúng ta phải bảo hơi thở: “Hơi thở phải thở lại bình thường, không có được nhẹ chậm nữa”. Do đó chúng ta hướng tâm ý thức chúng ta thì hơi thở bắt đầu nó thở trở lại bình thường, chúng ta không để thở của chúng ta theo cái tưởng được. Vì vậy mà khi tu thì khi mà cái tâm chúng ta nó không phóng dật, nó ở trên hơi thở thì cái tưởng nó dễ nó xen vô trong đó.
Bởi vì khi mà chúng ta đi vào một cái Sơ Thiền mà nhập được cái Sơ Thiền thì bắt đầu để mà diệt tầm tứ, để đi qua cái Nhị Thiền, thì lúc bây giờ cái Sơ Thiền nó còn cái ý thức của chúng ta tức là còn tầm tứ. Cho nên khi mà nó có sự thay đổi nào đó thì do cái ý thức của chúng ta nhận biết ra được liền, chúng ta dùng cái pháp Như lý tác ý mà chúng ta giữ cái hơi thở của mình bình thường không được để cho nó theo tưởng mà nó sang, đó là ý thức.
Nhưng mà khi đến diệt tầm tứ rồi, nhập Nhị Thiền rồi thì hoàn toàn chúng ta sống trong tưởng. Cho nên bây giờ chúng ta chỉ còn duy nhất có một cái pháp, một cái pháp là Như Lý Tác Ý. Cho nên cái pháp đó luôn luôn chúng ta sử dụng nó để mà đẩy lui tất cả các cái chướng ngại pháp của tưởng thức của chúng ta, trạng thái thần thông, phép tắc, hào quang, ánh sáng, âm thanh, các Tiên, Phật nói chuyện trong lỗ tai chúng ta nghe mồn một. Tiếng kêu, tiếng thét, tiếng la, tiếng hò, tiếng hét đủ loại ở trong lỗ tai chúng ta. Rồi hương sắc thì, cái hương, nghe mùi thơm, mùi thối, mùi đủ loại nó tạo ra đủ thứ, làm chúng ta ngồi đây mà chúng ta hưởng tất cả những cái điều kiện mà cái cảm giác tưởng của chúng ta, nó đủ loại nó xuất hiện ra.
Cho nên lúc bấy giờ nó khởi ra một cái gì đó thì chúng ta ngay đó là chúng ta tác ý. Mặc dù trong tưởng của chúng ta vẫn có tác ý được, cho nên chúng ta tác ý: “Cái này là tưởng, phải lui đi, phải lìa đi, ta không chấp nhận”. Và cứ như vậy mãi mà chúng ta vượt qua một cái cơn sóng gió của tưởng, của cái thế giới tưởng này. Khi mà chúng ta ly nó hết được rồi, thì chúng ta mới nhập được Sơ Thiền. Đó là một cái điều kiện mà con người tu phải thấy được, phải vượt qua một cái biển tưởng chúng ta rất là khó khăn, không phải là dễ.
(11:03) Hầu hết là các vị tu sai đều không vượt qua được cái biển tưởng, cho nên họ bị chìm ở trong biển tưởng, cho nên họ có thần thông, họ có phép tắc. Như Thầy nói các vị sư Yoga hoặc là các đạo sư của Mật Tông, họ đều rơi vào trong cái biển tưởng mà họ không có ngoi đầu lên được, mà chết ở trong đó. Rồi họ thực hiện những thần thông, bắt đầu phải đi tái sanh, rồi nói ra cái tiền kiếp của mình bằng cách này, bằng cách khác, điều đó là đều ở trong cái thế giới tưởng tất cả hết. Nó không hay ho gì đâu, không chấm dứt được sự tái sanh của mình mà, không làm chủ được sự sống chết của mình mà. Cho nên tất cả những cái này đều là nó không đúng con đường của Phật pháp.
Cho nên ở đây con đường của Phật pháp để xác định cho chúng ta đi nó có cái lộ trình chúng ta rõ ràng, bước từng bước chúng ta đều biết sai, biết đúng. Cho nên hiện giờ như con vừa trình bày, con sắp sửa để mà con nhập Nhị Thiền. Chưa! Giai đoạn của con chưa! Hoàn toàn chưa. Bởi vì chính con còn đang còn tâm còn lo ngoài đời, con còn phải lên Đà Lạt sống trong cái thời gian đó. Làm sao con, còn lo nghĩ ngoài đời mà làm sao gọi là tâm ly dục hoàn toàn sung mãn. Đó là cái chưa có, cái giai đoạn Sơ Thiền chưa có hoàn toàn xong.
Cho nên bây giờ trở về thực hiện cho xong hoàn toàn, con thấy con hoàn toàn, con thấy con vô tâm, sống không gia đình, không nhà cửa hoàn toàn không có gì hết, thì như vậy chúng ta mới có thể hoàn toàn là ly dục ly ác pháp. Mà ly dục, ly ác pháp thì tâm hồn chúng ta trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không. Không còn một chút gì bợn ở trong đó, cho nên nó mới là sung mãn được cái Sơ Thiền, nó còn một chút Niệm mà một niệm đó nó không trắng bạch như vỏ ốc thì không thể nào gọi là sung mãn được cái Sơ Thiền, tròn đầy được cái Sơ Thiền.
Cho nên trên con đường của Đạo Phật chúng ta xác định, một cái người tu mà đến cái mức độ nào, trình ra Thầy, Thầy đều biết. Bây giờ không trình ra Thầy, Thầy nhìn qua cái cách thức đi Thầy cũng xác định được cái người đó đã ly dục, ly ác pháp hay không, bởi vì nó phải thể hiện qua cái từ trường của nó, qua cái dáng đi, qua cái lời nói của nó để thực hiện được cái tâm xả của họ hay là chưa xả của họ, sung mãn hay là không sung mãn.
Thí dụ như khi một cái người mà đi mà ngó qua ngó lại thì người đó không thể nào gọi là ly dục, ly ác pháp. Cái người ly, thì người ta phải phòng hộ sáu căn người ta nó thành một cái thói quen, bước đi thì người ta nhìn xuống người ta không ngó qua ngó lại, bởi vì luôn luôn nó giữ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của nó trong cái oai nghi tế hạnh của nó, nó đã thành một cái thói quen, một cái nếp sống của nó, nó mới thật sự nó ly.
(13:13) Trong bốn Thiền của Đạo Phật, từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền, cái Sơ Thiền là cái phương pháp khó khăn nhất, tu tập khó nhất, còn từ Nhị Thiền đến Tứ Thiền là những cái phương pháp tu rất dễ, không còn khó khăn.
Cho nên trong kinh sách Phật nói: “Tâm nhu nhuyễn dễ sử dụng, không có khó khăn, không có mệt nhọc”. Nghĩa là tâm mình nó đã bình tĩnh, nó tỉnh táo rồi, nó nhu nhuyễn, nó dễ sử dụng rồi thì mình nhập Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền không có khó khăn mệt nhọc nữa. Nhưng cái Sơ Thiền là quý vị coi như là phải vất vả, phải khổ sở hết sức với nó quý vị mới nhập được với nó chứ không phải dễ, cái Sơ Thiền là cái khó nhất.
Cho nên con đường của Đạo Phật Giới - Định - Tuệ. Giới là con đường khó nhất, và Định và Tuệ là con đường dễ nhất không khó nữa. Con đường đầu tiên mà chúng ta đạt được thì con đường sau cùng rất dễ đối với chúng ta.
Cho nên hôm nay con phải cố gắng sắp xếp yên ổn thỉnh thoảng về chùa để tập luyện trở lại, rồi tập xả, tập sống, rồi gần bên Thầy, Thầy sẽ dạy từng chút trở lại để mà tập cho đúng cách. Phá hôn trầm cho sạch rồi sống như thế nào, cách thức như thế nào để lần lượt tập cho nó đúng cách.
Hiện giờ theo Thầy thiết nghĩ thì con là con người phải tu tập trên Tứ Niệm Xứ, thì Tứ Niệm Xứ phải độc cư 100% để ngồi lại quan sát thân, thọ, tâm, pháp của mình. Nghĩa là hoàn toàn là mình không còn cái hôn trầm thùy miên nữa. Còn nếu có hôn trầm thùy miên đặt thành vấn đề nếu còn có thì con cũng nhớ rằng 5 hơi thở đi kinh hành 20 bước. Hoặc là 1 hơi thở chậm nhẹ và dài để gom tâm của mình, và 5 hơi thở bình thường để mình phá cho sạch cái hôn trầm, nếu có. Còn nếu không có thì ở trên Tứ Niệm Xứ mà thực hiện thì cuối cùng Tứ Niệm Xứ thì giúp cho con cái tâm hoàn toàn sung mãn cái Sơ Thiền của các con.
Hôm nay con đường thiền định mà đủ duyên mấy con hỏi của Đạo Phật, Thầy đã giải thích cho các con cụ thể và rõ ràng, từ cái phương pháp cho đến cách thức tu tập nhưng bây giờ còn sự luyện tập. Luyện tập cái pháp nào trước, cái pháp nào sau. Tuy rằng Thầy nói như vậy chứ các con chưa biết cách, phải không? Vì vậy khi mà muốn biết cách như vậy thì phải trực tiếp từng người, Thầy dạy từng người, hoặc là bây giờ chia ra 5 người, 3 người ở giữa cái tổ này, mỗi người đi một đường người đi bên đây, người đi bên kia và hai bên hành lang là hai người không được đi chung nhau. Vì vậy mà mỗi người phải thực hiện, phải tập luyện ngay cái sự hướng dẫn của Thầy thì may ra mấy con mới biết cách thức tu tập.
(15:34) Bây giờ Thầy dạy cái pháp đó thì phải tu một tuần lễ hay một tháng, hay là nửa tháng thì tu xong, thì phải dạy pháp khác, thuần rồi mới dạy pháp khác. Dạy pháp khác rồi, những tại pháp đó các con đã tập xong rồi, cũng như là mình học vỡ lòng xong rồi, thì đâu còn học cái bài vỡ lòng lại, mà bây giờ phải học lên cái lớp khác chứ, các con hiểu điều đó. Bây giờ các con học lớp 1 rồi thì các con lên lớp 2 thì học bài vở lớp 2. Chỉ cái bài vở lớp 1 để cho các con học được cái lớp 2 thôi chứ đâu phải bây giờ lên lớp 2 mà còn học lại bài vở lớp 1.
Cũng như bây giờ các con lên cái lớp cao, tu Tứ Niệm Xứ mà bây giờ còn đi tập 5 hơi thở, đi kinh hành một vòng thì có nghĩa lý gì, phải không? Bây giờ các con lên một cái lớp tu Tứ Niệm Xứ, mà các con của ngồi hít thở quán ly tham, quán ly sân, quán ly si này còn cái gì? Cái lớp này đã qua rồi bây giờ còn ngồi tu tập lại thì như vậy là có đúng không, phải không, các con hiểu? Không lẽ mình bây giờ mình học lớp 1 rồi lên lớp 2 cũng còn học cái bài vở lớp 1 nữa sao, phải bỏ nó chứ. Lấy cái học của lớp 1 để làm cái căn bản để học những cái bài mới của lớp 2 chứ, các con hiểu điều Thầy muốn nói.
Đó là một cái chương trình học của Đạo Phật nó như vậy, chứ không phải là lặp đi lặp lại có một pháp. Còn các con niệm Phật hoài, con niệm Phật có một pháp, mà tới cuối cùng cái pháp đó có dẫn các con đi tới chỗ nào mà hết tham, sân, si không?
Còn cái này người ta dẫn các con đi từng cái chỗ này để phá cái này, phá cái tâm tham, sân, si của các con, khi có cái tham, sân, si nó sẽ phá cái đó, nó không có đưa các con đi sai đường. Các con thấy nó lợi ích thiết thực cụ thể mà. Đó là cái phương pháp tu tập nó thật sự mà Đức Phật đã vạch chúng ta ra 37 Phẩm Trợ Đạo, chứ đâu phải một cái pháp môn đâu. Mà 37 Phẩm Trợ Đạo này áp dụng cho trên Bát Chánh Đạo, 8 cái nẻo này đều áp dụng trên những cái phương pháp. Đó thì các con thấy nó không ngoài cái phương pháp này mà chúng ta giải thoát được, nhưng phải biết cái pháp nào tu trước, pháp nào tu sau. Chứ không phải đụng pháp nào nói: tôi hợp pháp này tôi tu pháp này, tôi hợp pháp kia tôi tu pháp kia không phải đâu.
Tùy theo cái đặc tướng của mình mà người ta dạy cái pháp đó nó phù hợp với mình để cho mình xả được cái tâm của mình trong khi mình bị cái pháp đó nó nặng. Một người mà cái tâm sân nặng, có người cái sân ít, có người sân nhiều, có người tham nhiều, có người tham ít, có người ham ngủ nhiều, có người ham ngủ ít, phải không? Mà người ham ngủ nhiều phải tu về cái pháp mà đối trị cái ngủ, còn cái người sân nhiều thì phải trị cái pháp gì? Sân nhiều. Phương pháp của Phật nó nhằm vào đối trị để trị những cái bệnh đặc tướng của chúng ta, riêng biệt của mỗi người, mỗi người có mang theo cái nghiệp quả của nó, nặng do cái nghiệp quả đó mà nó thành cái nghiệp đó nó nặng. Đó vì vậy mà cái phương pháp đó nó giúp cho cái người đó thoát ra cái nghiệp đó, gọi là cái đặc tướng của họ. Cho nên nó nhiều pháp nhưng mà mỗi pháp nó đều giúp cho chúng ta một chặng đường để mà chúng ta giải quyết được cái sự tu tập giải thoát của chúng ta.
Đó bây giờ thì Thầy khuyên, Diệu Hảo thì con cũng lớn tuổi rồi, và cũng biết cách thức tu rồi thì có dịp nên về để mà tập luyện trở lại kỹ lưỡng hẳn hòi hoàn toàn để ly dục, ly ác pháp hoàn toàn là phải đạt được Sơ Thiền. Khi nào đạt được Sơ Thiền rồi bắt đầu chúng ta mới bắt đầu tiến tới vào cái Nhị Thiền.
(18:30) Cô Diệu Hảo: Con ở trên này trong 2 tuần, con về con lên 2 tuần, bởi vì con vẫn còn vướng bận cái chùa không có ai lãnh. Bây giờ con cũng sắp xếp có được hai người con sẽ giao cho họ giữ rồi con sẽ lên, con đi Đà Lạt là sở dĩ vì em con nó bệnh, chùa nó bỏ không ai săn sóc con phải lên, chứ con biết lên đó thì đâu có tu hành gì được. Mặc dù ở đó rất thanh tịnh, xung quanh đó thì cốc của những ni sư không, chứ không có người ngoài, không có lạ một người ngoài nào lớ xớ hết. Nhà ai nấy ở, đóng cổng tối ngày không ai tiếp xúc với ai, nên trong 20 ngày con rất thanh thản, rồi con thấy con tu nó rất là tốt cái Sơ Thiền. Con nhận thấy rằng con xả hết tất cả mọi sự việc cũng được.
Tới chừng em con nó về thì nó có một cái chuyện gì đó trong gia đình dưới này, lên trên ấy rồi bà cũng hơi sân, Nhưng mà con lấy cái sân của bà ấy mà con diệt thử, thì con cũng không còn vướng bận nữa, con không còn buồn phiền gì bà ấy hết. Bà ấy nói gì bởi vì bệnh quá rồi nên sinh ra bệnh hay nói, rồi nói rồi con cũng làm thinh con cười, con cười một lát rồi hết rồi con giải thích. Có khi giải thích bả không tin, bả không tin con nói con, bây giờ tôi quyết chí nói với dì rằng con quyết tâm giải thoát, tôi không còn cần cái gì nữa hết, nếu dì không tin thì tôi nói với dì một câu. Nếu tôi có lòng không tốt với dì, mà để cho dì bệnh hoạn hoài vậy đó thì tôi sẽ đời đời không thoát khỏi cảnh địa ngục. Rồi con nói một lời nói như vậy đó, con quyết chí là con tu hành mà không thể như vậy cái rồi tự nhiên bà hồi tâm trở lại.
Từ hôm nào tới nay bà xin lỗi con hoài, bà gọi điện về bà xin lỗi hoài. Con nây giờ con cũng quyết chí để cô Niệm lên trên này ở hai tuần, rồi cô về cái cốc của cô Niệm, con lên con cũng ở hai tuần. Bởi vì cái chuyện sắp xếp ở gia đình thì con không có vướng mắc nữa, con chỉ vướng mắc cái chùa không có người giữ này thôi. Hai ba chị chuyển đi con cũng trình cho Thầy đó chứ, mà nhưng mà đối chuyện đó thì con cũng nghĩ rằng họ nói tới, họ có duyên thì họ nhận, họ không duyên thì thôi.
Còn mình thì cứ để đó, dầu cho nó có hư hao mỗi lần con đi hai, ba tháng về thì nó hao biết bao nhiêu con cũng đâu có quan tâm gì tới, rồi con sẽ mần trở lại cái khác. Đó nó hư cái lớp cây này thì con sẽ trồng lớp cây khác, rồi vẫn có khi mà nó bắt đầu nó thâu hoạch, con phải đi. Tới giờ con đi là con đi, tại hồi nào tới giờ con cũng xin trình bày với Thầy vậy, chứ con không có vướng mắc gì hết trơn. Bởi vì người ta trồng cây thì tới thâu hoạch thì con phải ở nhà đặng thâu hoạch, nhưng mà tới cái ngày con đi là con đi à, con bỏ luôn.
Như năm nào cũng vậy, như năm ngoái con trồng đậu rồi này kia có trái rồi tới chừng con đi con bỏ luôn ở nhà, ai cũng lấy nhổ hết. Năm nay con về không có giống trồng lại con thôi kiếm cái khác trồng lại nữa, rồi lủi thủi con đi cũng vậy. Năm nay Thanh long đỏ có trái quá chừng con cũng đâu ở nhà thu hoạch được, rồi nó cũng hết, kệ nó hết thì hết còn thì còn, đối với con không thành vấn đề chuyện đó. Con cũng xin thưa Thầy vướng mắc có cái chùa đó thôi. Tại vì con còn bảng biểu ở đó, hai nữa là cây trái xung quanh vườn thì nó rất nhiều, mà con trồng đó mà giờ bỏ hoài thì cũng ngặt, thôi bây giờ con xin phép với Thầy. Hai nữa là tu cái pháp tu mà Thầy đã dạy rất kỹ, còn con từ 5 - 6 năm nay rồi con đã hiểu từ hồi mà Thầy chưa có dạy cái giáo án, tới Thầy dạy giáo án, rồi tới sách của Thầy ra thì con đã nắm hết, con cũng hiểu hết rồi.
Ở nhà con chỉ đọc sách thường lắm chứ không phải không. Mà tối lại thì con mắt hơi yếu thì con không dám coi chứ con cũng mở băng của Thầy ra để con nghe. Nên bây giờ con cái gì con cũng không có hỏi Thầy được nhiều nữa, bởi vì nó đã có sẵn rồi. Phiền một cái là con còn vướng mắc mình tu không được là tại vì con thôi, con cũng hiểu vậy. Chứ nhiều khi Thầy dạy Sơ Thiền con có khinh an hỷ lạc gì thì bỏ qua đi, con cũng vẫn thấy có khinh an có hỷ lạc nhưng mà con không có chấp nhận nó con cũng làm lơ.
Con mong cho nó, tới khi con nghe Thầy nói là cái Ý thức mà nó đã diệt rồi, nó lặng đi rồi thì cái Tưởng thức nó đến. Mà con không khi nào nó diệt ý thức được, con cũng vẫn nghe cái ý thức hoài trong đó. Nên cái ý thức cái ý để mà nghe cái hơi thở ra vô thì nó vẫn nghe hoài không khi nào nó không có nghe. Còn cái Tưởng thức thì chắc là nó chưa đến thôi, chứ con không có hôn trầm buồn ngủ như người ta nữa. Từ hồi nhỏ tới giờ con cũng không có ăn ngủ nhiều tùm lum như người ta nữa, nó đã quen rồi. Con cũng trình với Thầy vậy rồi con cũng về con cũng lo.
(00:23:28) Phật tử: Kính Bạch Thầy! Con nghĩ là hầu hết trong cái thiền đường này thì con nhận biết được rằng chúng con toàn là những người ở xa đến. Mặc dầu chúng con ai nấy đến đây cũng đều quyết tâm đi tìm con đường thoát khổ, nhưng mà bởi vì xưa nay chúng con đã tu tập sai rồi bây giờ mới được Thầy hướng dẫn lại. Thì vừa mới rồi đây thì con có nghe Thầy nói là, có lẽ là từ nay trở đi là Thầy phải dạy cho chúng con tập từ đầu. Thì đây cũng là một cái tâm nguyện của con, thành ra con xin là cầu thỉnh Thầy, có thể bắt đầu từ ngày mai hay ngày kia thì Thầy sắp xếp được thì con xin Thầy là tập cho chúng con từ bước 1 trở đi để chúng con tự tập ở nhà. Dù sao chăng nữa là chúng con có quyết tâm nhưng bởi vì xưa nay là học nhiều Thầy quá, bây giờ là dù sao bước đầu nó đang còn cái bỡ ngỡ, mà không có Thầy một bên thì chẳng nhẽ mà lúc nào chúng con, nghĩa là một ngày đi tìm Thầy hai ba lần thì thì cũng thấy khó, vì Thầy nhiều công việc. Dho nên chúng con rất là tha thiết cầu thỉnh Thầy, ngày mai hay ngày kia kìa thì chúng con xin Thầy sắp xếp để dạy cho chúng con từ bước 1 trở đi. Con chỉ có nguyện vọng như thế thôi ạ.
Trưởng lão: Bảy giờ sáng ngày mai, bây giờ là buổi chiều rồi, 7 giờ sáng ngày mai, mấy con đến đây được 5 người, chứ còn không hơn được, bởi vì 5 người ở giữa đây thì ba người, hai bên này hai người thôi. Rồi bắt đầu Thầy dạy cách thức ngồi, rồi tu tập 5 hơi thở, đi kinh thành một vòng, những người mà từ lâu tới giờ chưa biết cách tu. Còn những người nào Thầy đã dạy rồi thì cứ về tu, có cái gì khó hơn thì hỏi Thầy sẽ dạy về cách thức.
Chỉ cái pháp Tứ Niệm Xứ nó khó vô cùng lận, nhưng mà nó dễ, nó rất dễ. Mấy người đã dạy cách thức tu về phá hôn trầm, những cái phương pháp phá hôn trầm rồi và theo cái thời khóa biểu của Thầy mà lập thành cái lịch trình tu tập, thì từ khi mà đã được Thầy dạy thì cứ theo đó mà tu tập.
Còn những người nào mà chưa có từng dạy ngày nào hết, chưa có biết cách thức tu tập thì ngày mai 7 giờ đến đây gặp Thầy, Thầy sẽ dạy cho từng bước, bắt đầu vô tu từng bước một. Nghĩa là cách thức vào cũng như là người mới vào vỡ lòng mình phải tu tập như thế nào, Thầy sẽ dạy cách thức mới đầu. Còn những người nào đã tu xong rồi thì thôi khỏi có gì hết. Rồi cần thiết đến cái ngày nào đó thưa hỏi Thầy thêm, để mà kết thúc lại trong cái khoảng thời gian ở gần bên Thầy, để khi mà trở về nhà mình mình biết cách thức mình tu tập tới những cái pháp gì pháp gì, để cho mình biết cách thì Thầy sẽ dạy thêm những cái pháp đó cho mấy con mà sắp sửa mấy con về.
Còn Mỹ Châu thì ngày mai 7 giờ con đến đây gặp Thầy trước để rồi Thầy sẽ hỏi tất cả những cách thức của con tu tập, Thầy sẽ hướng dẫn. Tối nay con tu tập để rồi ngày mai Thầy hỏi coi nó có cái gì mà xảy ra nữa không, để rồi nó hoàn toàn nó tốt thì thôi, mà nó không tốt thì Thầy tìm mọi cách Thầy chỉnh đốn lại cho sự tu tập của con cho nó tốt, thật tốt. Bởi vì công phu con tu mà nó sai một chút thì nó uống cái công lắm, cho nên Thầy rất tiếc cái công lao của mấy con. Cho nên vì vậy mà Thầy không thể bỏ lơ mấy con được mà phải có cái sự tận tâm theo dõi từng chút để giúp cho con vượt qua những cái khó khăn.
Càng đi sâu vào trong cái nội tâm của mình về cái phần hoạt động của bộ óc của mình, mình càng đánh thức nó bao nhiêu thì cái nỗi lo lắng Thầy bấy nhiêu. Mình đánh thức đúng thì nó không điên mình, mà mình đánh thức sai nó điên mình đó, chứ không phải dễ đâu.
Các con tu vậy chứ các con đang đánh thức cái bộ óc của các con đó chứ không phải là chuyện thường ở trong đó đâu. Cho nên vì vậy mà mỗi lần các con thức khuya, dậy sớm mà tu hành, thay vì người ta không có theo dõi, chứ thật sự ra Thầy đang theo dõi, có một cái gì là Thầy phải kịp thời thời ngăn chặn liền. Nếu mà các con đánh thức đúng thì nó sẽ đưa đến lợi ích cho các con, chứ Thầy không thừa hưởng gì cái đó hết, nhưng mà nó sai thì Thầy phải chịu trách nhiệm, nó hại cuộc đời của mấy con. Cho nên trong cái sự tu tập của mấy con là sự quan tâm của Thầy rất lớn.
Thà là Thầy không hướng dẫn ai hết thì thấy an ổn, mà Thầy đã hướng dẫn là Thầy trách nhiệm đối với mấy con. Mỗi một con người là một sinh mạng đó mấy con. Lỡ mấy con mà có một cái điều gì thì cái trách nhiệm của Thầy Thầy rất là đau lòng chứ không phải là thường đâu.
(27:27) Cho nên, thí dụ như người khác ở đâu mà người ta tu, người ta đến đây mà người ta sai, Thầy cố gắng Thầy sửa Thầy giúp để cho họ thoát qua cái khổ. Coi như là Thầy làm Y vương, một cái người trị bệnh giúp cho họ thoát ra những cái bệnh do cái tham tu của họ, mà đưa đến họ cái khổ đó.
Còn bây giờ các con tu ở đây thì nó cũng là, nó lỡ mà nó sai một chút xíu chuẩn bị cho các con hoàn toàn nó không có sai, để các con đánh thức từng cái phần nào ở trong bộ óc của các con để các con điều khiển nó được, các con truyền lệnh nó được. Cái bộ óc của các con nó hoạt động theo cái lệnh của các con được để giúp cho các con làm chủ được sự sống chết của các con. Điều đó là cái điều mà có một cái vị Thầy như Thầy là phải cần thiết cho mấy con rất lớn, cho nên vì vậy mà có chút gì thì các con phải mau mau trình bày cho Thầy liền tức khắc để mà Thầy kịp thời. Bởi vì đông người quá, không thể nào mà. Phải chi mà một đứa học trò thì nó dễ, nó nhiều quá, mà nói nhiều quá thì tức là không có thể bỏ người nào được hết.
Cho nên khi mà nghe tin con có điều kiện là Thầy nói với Minh Điền bảo con lên gặp Thầy để rồi Thầy chỉnh đốn lại, đó là cái điều kiện mà con nhớ rằng ngày mai sẽ đến đây gặp trước Thầy. Nghĩa là trước 7 giờ, 6 giờ, 7 giờ kém 10 phút đi, đi con đến gặp Thầy trước, rồi sẽ trình bày cho Thầy.
(28:48) Trưởng lão: … hôn trầm thùy miên, và nó không rớt vào ở trong cái ngoan không. Đây là cái mục đích mà chúng ta thực hiện Tứ Niệm Xứ là chúng ta rất dè dặt cẩn thận trên cái thùy miên, hôn trầm và hư không. Cẩn thận những điều này, để nó rơi rớt trong đó thì chúng ta tu mất thì giờ. Cái thời gian chúng ta rất quý, mà để nó mất đi một ngày mà tu không đúng thì coi như mình hoài công cái ngày đó. Nó sai đi, nó chỉ có một chút xíu mà hôn trầm, một chút thùy miên vào, thì nó phá vỡ cái công phu chúng ta suốt một ngày một đêm, rất là uổng. Vì vậy mà chúng ta cảnh giác, khi mà tu Tứ Niệm Xứ thì chúng ta phải hoàn toàn tỉnh thức, đừng có cho nó xen vô. Mà nó không xen vô thì chúng ta mới đẩy lui được cái niệm Si của chúng ta nó sạch. Còn nếu nó có xen vô thì chúng ta tu rất lâu. Nó không hết, nó cứ tới lui tới lui hoài thì chúng ta tu rất lâu, không hết.
Vì vậy con nên lưu ý về cái phần này để cái sự tu tập của chúng ta không có hoài công, nó không có uổng. Mà nó sẽ sớm nó đạt thành được một cái tốt đẹp. Để rồi gia đình của mình, lấy cái gương hạnh của mình, để mọi người người ta cũng sẽ theo mình người ta tu tập, để được giải thoát như mình.
Phật tử: Dạ thưa Thầy, con nghe Thầy nói là canh một, canh hai, rồi canh ba là từ mấy giờ đến mấy giờ, thưa Thầy?
(30:21) Trưởng lão: Canh một nó bắt đầu từ một giờ đó con, phải không con. Canh một là từ một giờ, rồi canh hai là canh giữa đó. Rồi canh ba là nó khuya nữa, tới năm giờ là canh ba. Còn canh giữa nó một giờ, hai giờ, năm giờ nó là canh ba, ba giờ là canh hai con. Đó là cái, nó lấy cái buổi khuya, mình thì từ buổi đầu hôm tới tối, cái khoảng đó người ta không lấy nữa. Mà bắt đầu canh một thì bắt đầu nó buổi khuya, từ mình thức dậy giờ khuya đó. Từ một giờ cho đến năm giờ sáng. Cho nên đức Phật nói canh cuối, năm giờ sáng, sao Mai mọc đó, thì đức Phật đã hoàn tất được cái Tam Minh đó. Canh một thì thực hiện cái Túc Mạng Minh, canh giữa thì thực hiện Thiên Nhãn Minh, mà canh cuối, tức là canh ba đó, thì coi như là gà gáy sáng, trời sắp sửa sáng, sao Mai mọc đó, thì lúc bấy giờ đức Phật đã thực hiện Lậu Tận Minh. Cho nên cái khoảng thời gian mà đức Phật thực hiện Tam Minh thì trong khoảng giờ, bắt đầu từ canh một cho đến canh cuối, canh ba. Thì cái đó là cái buổi khuya con, buổi khuya thức dậy. Cho nên tính từ canh một, canh ba thì hết. Con hỏi cái đó để làm gì?
Phật tử: Nằm yên ngủ, rồi canh ba là phải siêng năng thức dậy sớm, thành ra con muốn biết cái thời gian để con, dạ, ở trong thời khóa tu tập. Mô Phật, còn con thấy ở trên cái tấm bảng ấy, Thấy viết là giới Patimokkha là sao Thầy, là cái nghĩa gì, giới bổn…
Trưởng lão: Giới bổn Patimokkha là cái tên, Patimokkha là cái tên của tiếng Pali đó, gọi là giới bổn Patimokkha. Là cái giới cấm, Patimokkha là cái giới luật cấm. Chứ không phải là giới đức, cũng không phải là giới kinh, nó không phải giới hành mà nó là giới cấm. Bởi vì trong giới luật của Phật nó có nhiều cái loại giới. Thí dụ như giới kinh, là toàn bộ ở trong kinh Phật dạy đó, những cái bài kinh đó, gọi là giới kinh. Còn cái giới bổn coi như là cái pháp luật của nhà nước, đặt ra cái pháp luật người ta gọi là giới bổn. Cái chứ Patimokkha là cái danh, cái tên, cái âm của tiếng Ba li nó gọi, gọi là Patimokkha. Cái âm nó vậy, nhưng mà người Tàu họ dịch là giới bổn, tức là giới cấm đó. Patimokkha có nghĩa là giới cấm.
Cái bảng kinh giới bổn, có nghĩa là cái bảng giới luật để mà cấm người ta. Thì cái Patimokkha cũng có nghĩa là cái bảng giới luật, mà cấm chúng ta không có được vi phạm cái pháp luật, cái giới luật đó. Cho nên Patimokkha có nghĩa là cái tên của giới bổn, chứ không có gì hết.
Bởi vì theo giới của Đại Thừa đó, thì nó là đối với Tỳ kheo, thì đó là 250 giới, mà đối với nữ, Ni thì nó 248 giới. Nhưng giới của bên Nguyên Thủy, thì nó ít hơn, nó không có nhiều, có hai trăm mấy à, chứ nó không có nhiều. Còn ở bên đây, bên Đại Thừa thì nó nhiều hơn, nó nhiều hơn, cái giới nó nhiều hơn. Nó có 250 giới Tỳ kheo thì bên kia nó có 48 hay bao nhiêu, nó không có được, 25, 27, 28 gì đó. Nó không có bằng như giới ở bên Đại Thừa. Đại Thừa nó có tới 250 giới Tỳ Kheo lận. Còn bên Ni thì nó tới 348 giới, đó là giới bổn ở bên Đại Thừa. À cho nên về trong cái giới nó không có thống nhất mấy con.
(34:37) Nhưng mà giới kinh thì nó đầy đủ, trọn vẹn, giới kinh nhiều lắm. Bởi vì mỗi một bài kinh đều là nó mang tính chất giới của nó ở trong đó, tức là thiện pháp. Còn cái giới hành, giới hạnh, giới đức thì đó là mỗi một cái giới, từ trong giới bổn của nó, thì nó cũng nói lên cái đức của một vị Thánh tăng, một người tu sĩ. Rồi giới kinh thì nó cũng có nói cái đức ở trong đó. Rồi giới hành, là cái hành động hàng ngày mình sống, gọi là cái giới hành. Còn cái giới hạnh, là cái hạnh của một cái, hạnh tức là hành đó, nhưng mà cái hạnh nó còn thêm nữa. Từ cái hành động ở bên ngoài mà thành hành động của tâm nữa. Cho nên nó nói là giới hạnh. Giới đức, giới hạnh, giới hành, rồi giới kinh, giới bổn, đó là toàn bộ những cái, đạo Phật nó toàn là giới luật không à.
Nhưng mà nó nói chung nó chỉ nhắm vào cái thiện pháp. Nói chung là mình phải nói rằng giới tức là thiện pháp chứ không có gì khác ở trong hết. Mỗi một bài pháp của Phật đều nhắm vào cái thiện pháp, để giúp cho chúng ta sống ở trong thiện pháp, mà không làm khổ mình khổ người, chứ không phải có một cái gì. Đó là mục đích giải thoát của đạo Phật, đó là như vậy. Con còn hỏi gì thêm nữa không? Bây giờ mấy con có hỏi gì thêm nữa không?
(36:19) Phật tử: Dạ con kính thưa Thầy, con về đây thì được 2 ngày thì con được nghe Thầy giảng về Tứ Niệm Xứ và Tứ Chánh Cần, nhưng con cũng chưa được biết là Tứ Niệm Xứ là như thế nào? Tứ Chánh Cần là như thế nào? Cho nên trong hai đêm con về đây tu cả ngày cả đêm, thì con cũng theo như trong cái sách của Thầy chỉ dẫn Đường Về Xứ Phật thì con tu như vậy. Nhưng mà trên cái bước đường tu như thế nào thì con chưa được biết ạ. Con xin Thầy chỉ cho con được biết Tứ Niệm Xứ với Tứ Chánh Cần.
Trưởng lão: Thầy giảng cho về Tứ Chánh Cần và Tứ Niệm Xứ. Cái bài Tứ Chánh Cần và Tứ Niệm Xứ thì nó rất nhiều nhưng mà Thầy tóm lược lại cho nó gọn để rồi các con sẽ, còn dạy mấy con thực hành hơn là những cái lý thuyết suông.
(37:08) Trưởng lão: Về Tứ Chánh Cần là bốn cái pháp mà phải siêng năng cần mẫn tu tập. Khi bước vào Đạo Phật mọi người đều là phải siêng năng cần tu tập cái pháp này đầu tiên, cho nên gọi là Tứ Chánh Cần. Bốn cái pháp cần phải tu tập. Phải siêng năng, phải tinh tấn không có lúc nào mà mình buông lỏng cái pháp này ra, do đó gọi là Tứ Chánh Cần.
Tứ Chánh Cần thì cái pháp đầu tiên của nó là “Ngăn ác, ngăn các ác pháp”. Nghĩa là cái pháp nào mà làm cho thân tâm mình nó bất an thì mình ngăn nó không có cho nó vào, cho cái thân tâm của mình nó không có bị chướng ngại, không bị khổ đau, mình ngăn nó.
Và nếu mà cái pháp đó nó đã xâm chiếm vào thân tâm của mình, thì mình phải mau mau diệt nó không có được để cho nó kéo dài cái thời gian từ 1 phút đến 5 phút, 10 phút, 1 giờ, đến 2 giờ, 3 giờ. Ngay khi mà nó xâm chiếm vào thì tức là mình diệt ngay liền, cố gắng đem hết sức lực ra diệt. Cho nên gọi là tinh tấn hay là tinh cần, nghĩa là phải siêng năng phải diệt liền chứ không được để.
Và cái pháp thứ ba là “Sanh thiện”. Luôn luôn lúc nào cũng tạo cho tâm hồn của mình, thân tâm của mình trong thập thiện không được trong pháp ác. Và khi mà cái thân tâm của mình nó được an ổn, được Thanh thản, An lạc, Vô sự, thì phải tăng trưởng kéo dài thời gian thiện đó ra. Tức là kéo dài được cái thời gian của tâm Thanh thản, An lạc, Vô sự đó ra, dài chừng nào tốt chừng nấy gọi là tăng trưởng hay quảng đại cái pháp đó ra. Cho nên gọi là bốn cái pháp mà cần lúc nào chúng ta cũng tu tập Ngăn, Diệt, Sanh và Tăng trưởng. Đó thì cái pháp đó gọi là Tứ Chánh Cần.
(39:07) Trưởng lão: Nhưng mà muốn ngăn thì nó có những cái phương pháp ngăn, chứ không phải nói ngăn rồi mình không biết ngăn, nó có những phương pháp. Thí dụ như một cái phương pháp độc cư cũng là phương pháp ngăn ác. Bởi vì mình sống mình không nói chuyện với ai là mình ngăn ác pháp. Còn mình nói chuyện người này, mình nói chuyện người kia là mình mở cổng để cho ác pháp xâm chiếm vào. Thí dụ như mình nói chuyện nó hợp thì không nói gì, mà người không hợp thì nó sẽ gây cho mình những phiền não. Mình nói chuyện với người khác, mình tưởng khi mà nó vô tình mình nói ra một cái điều gì đó, thì cái người đó đem lại họp với người khác, người khác mới đi tìm mình để mà chửi mắng mình. Thì từ cái chỗ đó mình không ngăn cho nên nó mới xảy ra những cái chuyện chị em, hay hoặc là những người xung quanh mới xích mích mới rầy rà nhau, đó là mình thiếu ngăn ác pháp.
Cho nên muốn ngăn thì chúng ta có những pháp, thí dụ như mình sống tập ít nói, không đem chuyện của người này nói chuyện người kia, không đem chuyện người kia nói chuyện với nọ đó là mình ngăn, cái pháp ngăn đó là độc cư. Cách thức mình sống trầm lặng, độc cư một mình mình đó cũng là cái phương pháp ngăn ác, nó nhiều phương pháp ngăn ác.
Chẳng hạn bây giờ tâm mình nó khởi lên một niệm, mà cái niệm đó nó sẽ mang cái tâm tham hoặc là cái tâm sân của mình trong đó. Do đó vì vậy mình muốn ngăn cái niệm đó thì mình phải có phương pháp để mà ngăn không có cho cái niệm đó xen vào. Vì vậy mà mình phải tu Định Niệm Hơi Thở, để mà cái tâm mình nó luôn nó tập trung ở trong cái hơi thở mà nó không khởi cái niệm tức là ngăn cái niệm ở trong đầu của mình.
Mình ngăn, hồi nãy Thầy nói ngăn các ác pháp là mình sống độc cư là mình ngăn các ác pháp. Rồi bây giờ mình ngăn cái đầu của mình nó không khởi niệm, thì mình phải tập trung nó vào trong cái hành động đi, đứng, nằm, ngồi của mình để mình ngăn các pháp ác, đó là cái phương pháp ngăn. Cũng như mình đi kinh hành mình biết mình đi kinh hành đó là ngăn, ngăn các pháp ác nó không khởi ra cái niệm.
Mà nó đã khởi ra một cái niệm thì phải diệt, tức là ngăn rồi diệt. Nếu mà bây giờ mình ngăn nó không được, bây giờ mình hít thở mà một chút xíu nó có một cái niệm xen vô, mà giờ muốn diệt thì nó phải có cái phương pháp diệt, phải không. Bây giờ nó đã xem vô rồi, nó đã khởi niệm ra rồi thì phải diệt. Đó là cách thức ngăn và diệt.
Còn cái kia nếu mà bây giờ mình sống mà mình ngăn mà mình không tiếp duyên với người khác, mình không này kia nhưng mà có người nói: cái chị đó vô tu cái làm lẽ, không có chịu nói chuyện với ai, không chơi với ai hết, coi hiu hiu tự đắc, thì ngay đó mình đã ngăn mà cái pháp đó nó lại xâm chiếm vô mình, nó làm mình cũng nghe bực, do đó từ đó bị cái âm thanh đó, cái lời nói đó nó làm tâm mình chướng ngại vì vậy cho nên mình bắt đầu mình phải quán xét mình đẩy lui cái pháp đó đi. Vì vậy mà khi mình ngăn mà nó ngăn không được mà nó xảy ra thì mình cần phải ngay diệt liền, gọi là ngăn, diệt. Mà nó nhiều cái cách thức ngăn diệt chứ không phải là có một cách thức.
(00:42:03) Thí dụ như mình bước đi, mình bước đi ra đằng trước mà mình ngăn là mình phải nhìn xuống, mình không ngó qua, ngó lại. Tức là khi ngó qua, ngó lại mình thấy một cái người đó họ đi kinh hành hoặc là họ tu sai nó cũng làm cho mình động tâm hoặc làm cho mình phải thấy ờ: cái chị này tu như vậy là sai. Thì nó làm cho mình cũng phóng dật, làm cho mình cũng có cái ác pháp ở trong tâm mình, mình không sống cho mình mà mình sống cho người khác tức là cái tâm mình nó phóng ra. Cho nên vì vậy khi đi mình nhìn xuống, mình không ngó qua ngó lại, mình không thấy thì tức là nó không xen vào được cái ác pháp trong tâm của mình, gọi là ngăn.
Cho nên tại sao người tu sĩ mà họ đi họ phải phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của họ. Họ phòng hộ bằng cách nào để họ ngăn cái ác pháp? Họ đi 5- 10 bước họ nhắc “Cái lỗ tai hãy nghe bước đi”. Chứ không khéo người ta nói ngoài đó mình đây chứ cái lỗ tai mình nó nghe những cái âm thanh, người ta chửi lộn cái nó nghe, cái nó vô đó nó nghĩ ngợi cái này kia ở trong đó rồi. Cho nên vì vậy mình muốn ngăn nó mình nhắc “Cái tai phải nghe cái bước đi, hai con mắt phải nhìn cái bước đi, đừng có nhìn đi chỗ khác”*,* mình cứ đi thỉnh thoảng mình nhắc nó, thì mình sẽ gom mắt tai của mình với bàn chân của mình tức là pháp ngăn ác, đó là tu Tứ Chánh Cần đó. Nó nhiều cái cách thức mà để chúng ta thực hiện được cái Tứ Chánh Cần để ngăn ác, diệt ác. Vì vậy mà khi mà một cái người biết cách thức tu, tu mà để phòng ngừa ngăn ngừa như vậy thì người ta sống rất là an lạc, ít có bị động. Đó là cái phương pháp tu Tứ Chánh Cần, nó nhiều.
Bây giờ nó có một cái pháp thí dụ như bây giờ trong đầu của mình nó khởi ra một cái niệm rồi, thì mình phải dùng cái Định Vô Lậu để mình diệt cái niệm đó, thì cũng là một cái phương pháp để mà diệt cái niệm đó, thì đó là cũng tu Tứ Chánh Cần, bởi vì Tứ Chánh Cần phải ngăn ác, diệt ác. Còn bây giờ cái tâm của mình nó thanh thản mà mình cứ không có chịu thiện xảo, không có chịu khéo léo để giữ gìn, tăng trưởng được cái thiện pháp đó thì một chút xíu thì nó sẽ bị mất đi, cho nên nó phải có sự thiện xảo mà tăng trưởng cái thiện pháp đó lên. Và nếu mà nó không sanh, nó không sanh ra cái trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự thì mình cố gắng mình tu tập để như thế nào để cái tâm của mình nó có cái trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự vì nó là thiện pháp.
Nó thiện pháp tức là nó không làm khổ mình, không làm khổ người, nó luôn luôn nó thanh thản thì đó là thiện pháp. Chớ không phải là thiện pháp là mình đem, mình mang gạo thóc của mình hoặc là tiền bạc của mình đến bố thí cho một cái người nghèo khổ bất hạnh nào đó mà gọi là làm thiện, không phải điều đó đâu. Cái thiện đó là cái thiện của hữu lậu, mình làm cái đó là cái phước hữu lậu chứ không phải vô lậu, còn cái tâm Thanh thản, An lạc, Vô sự của mình là cái phước vô lậu nó làm cho mình giải thoát hoàn toàn.
Mà mục đích của Đạo Phật ở đây không dạy chúng ta đem gạo bố thí cho kẻ khác, không dạy chúng ta làm điều đó. Nhưng trước cảnh đói của người khác mà mình đã thấy tức là mình có nhân quả thì mình hãy giúp họ chứ mình không thể làm ngơ. Cái lòng từ bi của mình trước cảnh đó của người ta thì mình sẵn sàng giúp, nhưng mình không đi tìm cái cảnh đói của người ta, bởi vì mình đã thấy được cá nhân quả của người ta, không tìm. Nhưng khi tai nghe, mắt thấy trước cảnh đói họ thì giúp. Nhưng chúng ta hoàn toàn chúng ta không giúp để mà chúng ta hưởng phước hữu lậu đó, mà chúng ta chỉ sống để tăng trưởng cái phước vô lậu của chúng ta thôi, để chúng ta tìm lấy cái sự giải thoát.
(45:27) Đó là Đạo Phật dạy chúng ta không phải là con người vô tình, không biết thương người. Chúng ta tâm từ bi thì chúng ta biết thương người, nhưng chúng ta không vì cái phước hữu lậu mà chúng ta đi làm cái chuyện hữu lậu này. Bởi vì chúng ta đứng ở trong góc độ nhân quả thì chúng ta biết, người ta đói cũng là do cái nhân quả nào đó người ta đói chứ đâu phải khi không mà người ta đói được, cái luật nhân quả mà. Cho nên chúng ta thấu suốt được cái lý này vì vậy mà chúng ta không phải đi làm từ thiện để cầu được cái phước báo, mà chúng ta chỉ cầu cái phước vô lậu mà thôi nghĩa là tâm Thanh thản, An lạc, Vô sự. Vì vậy mà chúng ta giữ nó, tăng trưởng nó những cái pháp này, gọi là Tứ Chánh Cần. Tứ Chánh Cần là siêng năng làm sao cái phước vô lậu của chúng ta càng ngày càng tăng trưởng, càng nhiều, càng rộng ra thì chúng ta sẽ giải thoát hoàn toàn. Đó là cách thức của tu Tứ Chánh Cần.
Tứ Chánh Cần còn có một cái tên gọi là Định Tư Cụ, cái dụng cụ để mà chúng ta thực hiện thiền định, cái phương pháp để mà chúng ta thực hiện thiền định. Chứ không phải chúng ta ngồi thiền tu Định Niệm Hơi Thở hoặc là niệm Phật hay hoặc là ngồi giữ tâm không vọng tưởng để rồi chúng ta thiền định, không phải. Đức Phật đã xác định Tứ Chánh Cần là định tư cụ. Định tư cụ là cái dụng cụ để chúng ta, cái phương pháp để chúng ta thực hiện tâm thiền định, để nhập định. Cho nên một người mà ngăn ác, diệt ác sạch hết trong tâm của họ rồi, thì tâm nơi cái chỗ mà hết ác pháp thì nơi đó là định của họ rồi, họ bước vào định rồi. Đó, thì đó là cái phương pháp mà Tứ Chánh Cần.
Còn cái phương pháp Tứ Niệm Xứ. Thì cái phương pháp Tứ Chánh Cần như hồi nãy Thầy đã nói nó cũng đều ở trên Thân, Thọ, Tâm, Pháp này mà nó thực hiện, cho nên gọi là Tứ Chánh Cần tu trên Tứ Niệm Xứ, chứ không phải tu Tứ Niệm Xứ. Mà Tứ Chánh Cần tu trên Tứ Niệm Xứ. Ngăn ác ở đâu? Ngăn ác cho Thân, Thọ, Tâm, Pháp của chúng ta chứ đâu phải ngăn ác cho gốc cây ngoài kia, hay hoặc ngăn ác cho người khác đâu. Chúng ta ngăn ác trên thân thọ tâm của chúng ta, làm cho nó được Thanh thản, An lạc, Vô sự, phải không? Chúng ta diệt ác cũng diệt từ ở trên thân, thọ, tâm của chúng ta chứ đâu phải diệt ở ngoài kia. Đâu có bịt miệng của người ta đừng chửi mình được phải không, mà mình hãy bịt miệng mình đừng có chửi người ta. Cho nên mình ngăn ác, diệt ác ở trong cái thân, thọ, tâm của mình, cho nên tu Tứ Chánh Cần trên Tứ Niệm Xứ các con hiểu chưa?
(47:50) Trưởng lão: Bây giờ chúng ta mới tới Tứ Niệm Xứ tu trên Tứ Niệm Xứ. Bởi vì Đức Phật đã nói cái pháp Tứ Niệm Xứ dạy chúng ta biết rằng, Tứ Niệm Xứ là vô thường, khổ, vô ngã. Tức là Thân, Thọ, Tâm, Pháp vô thường, khổ, vô ngã.
Bây giờ chúng ta mới đặt Tứ Niệm Xứ trên thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta tức là trên Tứ Niệm Xứ của chúng ta. Cái kia là pháp Tứ Niệm Xứ, còn cái này là Tứ Niệm Xứ thật của chúng ta. Cho nên hiện giờ chúng ta tu Tứ Niệm Xứ là trên tứ niệm xứ của chúng ta, chúng ta quan sát TỨ NIỆM XỨ của chúng ta để rồi có một cái chướng ngại nào trên đó thì ngay đó chúng ta thấy vô thường, khổ, vô ngã, phải không? Mà thấy được vô thường, khổ, vô ngã thì tức là đẩy lùi được chướng ngại pháp trên thân của chúng ta. Mà Đức Phật gọi là: “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu”. Nó không còn tham, sân, si, nó không còn ưu phiền ở trên đó nữa, phải không? Đó là chướng ngại. Cho nên trong Tứ Niệm Xứ tu Tứ Niệm Xứ.
Và cái giai đoạn nào mà tu Tứ Niệm Xứ? Là cái giai đoạn phải ngăn ác, diệt ác hết rồi mới tu Tứ Niệm Xứ. Bởi vì Tứ Niệm Xứ là quét những cái vi tế ở trên thân, thọ, tâm, pháp của nó chứ không phải còn cái thô mà quét được. Còn người ta chửi mình, còn người ta đi tới người ta nói nặng nhẹ mình, còn tham ăn, còn thích uống, còn thích cái này kia thì tu Tứ Niệm Xứ không được. Người tu Tứ Niệm Xứ là cái người hoàn toàn phải thanh tịnh, ăn uống giới luật phải nghiêm chỉnh rồi. Ngăn ác, diệt ác lúc nào tâm cũng Thanh thản, An lạc, Vô sự thì bắt đầu họ ngồi tu Tứ Niệm Xứ thì họ không bị hôn trầm, thùy miên, vô ký.
Còn bây giờ chúng ta còn ăn ba bữa là chúng ta bị hôn trầm, thùy miên, vô ký thì chúng ta ngồi tu Tứ Niệm Xứ không vô. Tại sao? Ngồi một hơi là nó buồn ngủ à. Ngồi chơi như Thầy vầy, ngồi chơi không làm gì hết mà cái tâm nó đâu có chịu đâu, nó sẽ ngủ, mà nó không ngủ thì nó không chịu ngồi không đâu, nó sẽ buồn bực, nó tuôn trào, nó nhớ cái này, nó nhớ cái kia nó động đủ thứ hết. Cho nên tu Tứ Niệm Xứ là sau khi chúng ta tu Tứ Chánh Cần đã viên mãn.
Ngăn ác, diệt ác; sanh thiện, tăng trưởng thiện. Cho nên cái trạng thái mà Thanh thản, An lạc, Vô sự của nó phải kéo dài, nó phải sống ở trong đó thường sống ở trong đó rồi. Vì chúng ta ngăn ác, diệt ác chúng ta có những cái pháp để mà thực hiện cho nên vì vậy mà nó có những cái pháp tu làm cho chúng ta không bị rơi vào hôn trầm, thùy miên, làm cho chúng ta không bị loạn tưởng.
Còn trái lại tu Tứ Niệm Xứ thì nó không có ngăn ác, diệt ác gì của nó hết, mà hoàn toàn là nó ở trên đó mà nó quét sạch những cái vi tế của nó thôi, cho nên nó phải rất tỉnh táo, chứ còn nếu mà nó còn si, nó còn ham ngủ thì không được. Nó còn tham ăn, nó ăn ngày 3, 4 bữa thì nó không tu cái này nổi, cho nên tu Tứ Niệm Xứ là phải giới luật nghiêm chỉnh, thật sự là giới luật phải sống hẳn hòi, đàng hoàng thì Tứ Niệm Xứ chúng ta sẽ thành tựu.
(50:29) Mà khi bước chân vào Tứ Niệm Xứ tu hành thì 7 ngày, 7 tháng, 7 năm chúng ta đã hoàn tất được con đường tu hành. Đức Phật đã xác định trên Tứ Niệm Xứ như vậy. Nhưng chắc chắn gì mà chúng ta bước vào Tứ Niệm Xứ nổi, khó, rất khó chứ không phải dễ. Nội Tứ Chánh Cần không mà ngăn ác, diệt ác chúng ta đi vô còn chưa thấu. Cho nên ở đây Thầy dạy các con để chuẩn bị.
Các con muốn biết mình tu Tứ Niệm Xứ nổi hay không, cũng đơn giản, cũng không khó đâu. Khi các con ngồi lại sống độc cư một tuần lễ, trong thất các con thấy các con thích thú sống độc cư là điểm thứ nhất các con thích. Nghĩa là mình không nói chuyện với ai, mà một tuần lễ mà mình không thích ra lao động, làm, quét dọn cái gì, mình cứ ngồi, mà thấy nó an ổn, nó thích thú thì các con đã thích độc cư thì các con sẽ tu Tứ Niệm Xứ được. Tức là cái Tứ Niệm Xứ nó xác định cho một cái người, một cái người mà thích trầm lặng một mình, sống cho mình thì cái người đó tu Tứ Niệm Xứ. Còn cái người mà thích vui nói chuyện, hoặc là đọc kinh sách, nghe băng hay hoặc là còn thích ăn uống rồi này kia thì cái người đó không bao giờ tu Tứ Niệm Xứ được. Bởi vì Tứ Niệm Xứ nó xác định là phải Thánh hạnh mới tu Tứ Niệm Xứ, còn cái phàm hạnh thì chưa tu Tứ Niệm Xứ được.
Cho nên chúng ta học để biết chứ chúng ta chưa phải tu mà chúng ta hãy tu Tứ Chánh Cần. Bởi vì cái phương pháp tu Tứ Chánh Cần nó phải đi trước, còn cái Tứ Niệm Xứ thì nó phải đi sau, cho nên chúng ta biết cái pháp nào tu trước, pháp nào tu sau. Và như vậy con đã hiểu rằng trên Tứ Niệm Xứ chúng ta tu những gì? Chỉ có quét những cái vi tế của thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta mà Thầy gọi chung là chướng ngại pháp trên đó, đó là cái danh từ ở trong kinh điển Phật gọi nó là chướng ngại pháp.
Cho nên khi mà tu Tứ Niệm Xứ không phải còn quán bất tịnh, còn quán cái này kia nữa mà trên Tứ Chánh Cần mới là quán đó. Bởi vì nếu không quán thì chúng ta không diệt được pháp ác, không quán thì chúng ta không đẩy lui được các pháp trên đó. Còn tu Tứ Niệm Xứ thì khác rồi, Tứ Niệm Xứ chỉ dùng pháp hướng khi có một cái niệm vừa chớm khởi là chúng ta đã thấy nó là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Kiết sử, là ái kiết sử hay là hữu tham kiết sử đều thấy ngay liền, thì ngay liền chỉ còn tác ý để mà đẩy lui chứ không bao giờ có được quán.
Quán tức là có sự suy tư, suy nghĩ ở trong đó, còn cái này thấy mặt. Ờ, đây là dục lậu hãy đi, chỉ tác ý như vậy rồi nó đi liền tức khắc, cho nên thân tâm chúng ta thanh thản, an lạc, vô sự. Còn bây giờ chúng ta phải suy tư quán thì tâm chúng ta bận công việc tư duy thì không còn an lạc. Cho nên Tứ Chánh Cần thì nó tu khác, mà Tứ Niệm Xứ thì tu khác. Cho nên nhanh chóng liền tức khắc khi có một cái niệm nào ngay đó đẩy lui liền tức khắc bằng cái phương pháp tác ý. Đó đó là cách thức tu của Tứ Niệm Xứ. Thầy đã nói như vậy thì các con đã hiểu.
Tuy rằng hiện giờ chưa có tập luyện nhưng cũng đại khái được ở trong đầu của mình là Tứ Niệm Xứ tu cách nào, và Tứ Chánh Cần tu bằng cách nào? Nó cụ thể và rõ ràng có những cái phương pháp mà nhiều khi chúng ta lầm mà chúng ta tu giống nhau nó không giống nhau đâu, nó khác nhau.
Đó thì hôm nay mấy con còn hỏi Thầy gì thêm nữa không, để rồi chúng ta bắt đầu thực tập. Vậy có ai hỏi gì thêm không, cứ hỏi.
(53:44) Phật tử: Con kính bạch Thầy, từ khi mà con về đây, được Thầy cho pháp con, dạy pháp con để tu theo pháp của Thầy. Thì mấy ngày đầu, con thấy ở trong cái sự tu tập của con thì cũng là, ba ngày đầu thì con đi theo pháp của Thầy, thì coi như là thấy tâm con thấy an an. Thế rồi sau ba bốn ngày về sau thì, khoảng gần gần là bốn ngày về sau, hai ngày về sau là sáu ngày, trong khi là mấy vị ở Hải Phòng về, thì tâm con rất là bất an lắm, tâm con thế nào nó vọng tưởng và hôn trầm nhiều. Thế thì có những sự việc như thế thì con rất là lo. Thế thì hôm qua thì thấy đông người bắt đầu hỏi Thầy, mà con ngại là Thầy yếu, thế thì con không hỏi để Thầy dạy. Thế đến hôm nay thì Thầy bố thí con, Thầy dạy cho con để con sẽ nói.
Qua những phương pháp hôm qua Thầy dạy tất cả chúng con ngồi đây về cái cách tu tập, để sống trong sự việc là quán hơi thở, xong rồi đi kinh hành 20 bước, rồi quay trở lại, 5 phút thì lại nghỉ 5 phút, thế rồi sau khi bắt đầu được nửa tiếng thì bắt đầu nghỉ. Thế thì tối hôm qua về, sau cái lúc mà ở trên giảng đường về, thì con tiếp thu ngay những lời mà thầy nói mà con vẫn văng vẳng bên tai, và con về con thực hành luôn, thì xong cái ngày hôm qua. Thì từ lúc mà trên cái giảng đường về, từ ngày hôm qua và đêm hôm qua đấy, vâng, từ đêm, quá đêm, từ buổi tối, quá sáng, canh một, canh hai, canh ba đấy, thì con thấy là tất cả các sự việc như thế này thì đúng là như Thầy nói, không sai. Thì cái hôn trầm của con thì nó, khi bắt đầu nó không còn nữa, mà con tinh tấn, tất cả các thứ con như là lời Thầy nói.
Thì khi mà xuất hiện như thế con ngồi con lắng tâm các thứ, con xem khi mà có pháp ở trong người, trong thân phát ra, xem nó ở đâu hay nó ở cái pháp nào. Thế thì con thấy là, có lúc mới đầu phát hiện ra thì, khởi lên là lúc mà hơi hôn trầm thì coi như không khởi mấy, thì con thấy văng vẳng một bên, thì con thấy con ngồi im xem là về cái pháp thùy miên, hay hôn trầm thì nó ở đâu. Thế thì con thấy là nó, như là Thầy nói hôm qua, con cũng học Thầy, thế là con về con cũng đe. Đe xong bắt đầu con, lần thứ nhất không được, lần thứ hai không được xong bắt đầu con cũng dùng cái phương pháp là bắt đầu đánh. Cuối cùng, lần thứ tư bắt đầu là, từ lúc đó trở đi bắt đầu là cái đó hết.
Xong bắt đầu là canh một canh hai, thì con thấy là thân tâm con rất là thanh thản, con không có hôn trầm một tí nào cả. Thế đến cuối canh ba ấy, con thấy con hơn văng vẳng, bắt đầu là báo lên. Bắt đầu là con quán, quán trên thân. Thế xong bắt đầu là con thấy là văng vẳng đến, con cũng là con hướng tâm, tác ý, bắt đầu là con cũng ngồi kỹ xem như thế nào. Thì đúng như là Thầy nói, thì thân con coi như là vẫn cứng như, chỉ có coi như là ở trong tâm thôi. Thế thì tâm nó xuất hiện lên thì con biết ở đây đúng là mày đã xuất hiện đây rồi, xong con tác ý là phải đi ngay…
HẾT BĂNG
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Thời gian: 15/02/2002
Phật tử: Nam Mô Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni! (3 lần)
Chúng con bốn phương đã đủ duyên lành vân tập về đây, trước là đảnh lễ Phật, sau là thăm Thầy, thăm Tu viện. Nhân dịp này chúng con xin thỉnh Thầy giảng dạy cho chúng con bài pháp đạo đức, cách sống làm sao không làm khổ mình, khổ người.
Và chúng con cũng thỉnh Thầy giảng dạy cho chúng con biết con đường tu tập của đạo Phật, con đường nào Chánh pháp, con đường nào là tà pháp. Vì trên đường tu tập giải thoát có nhiều chông gai hầm hố, chúng con không biết thì sẽ đi lọt hầm sa hố, rồi lạc vào tà pháp, uổng cuộc đời cho chúng con, kính mong Thầy từ bi chỉ dạy.
Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni!
(01:20) Trưởng lão: Hôm nay quý Phật tử được câu hữu về đây, sau được diện kiến với Thầy. Từ lâu quý Phật tử nghe một người tu làm chủ được sự sống chết, tưởng là chắc có lẽ là Thầy không có giống với người bình thường, phải không quý Phật tử?
Nhưng mà không ngờ Thầy chỉ là một con người cũng như bao con người khác, vậy mà nó có đủ cái sức mà làm chủ sự sống chết của mình. Thứ nhất là làm chủ được cái tâm tham sân si ham muốn của mình. Thứ hai, làm chủ được bệnh tật. Thứ ba, làm chủ được cái già của mình, già mà không có lụm cụm, già mà quắc thước. Rồi thứ tư là làm chủ được cái chết của mình, muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống.
(2:09) Người ta rất ngạc nhiên, bệnh đau mà tự thân của mình mình lại đẩy lui được bệnh tật, đó là một cái ai cũng mong muốn hết, không uống thuốc. Rồi đến chừng chết, thì tịnh chỉ hơi thở một cách tự tại. Thiệt ra thì người ta không ngờ rằng Phật giáo có đủ cái lực như vậy, mà từ lâu tới giờ không ai làm được. Cũng tu tập nhiều, cũng tụng kinh, cũng niệm Phật, cũng ngồi thiền, nhưng mà ít có thấy người ta làm chủ được.
Cho nên nhiều khi chúng ta thấy rất rõ bốn cái chỗ đau khổ của kiếp người mà đạo Phật đã nêu ra, đã nêu ra cho chúng ta thấy đó là bốn nỗi khổ của con người của chúng ta. Khi mà sanh ra làm người thì ai mà không đau khổ trên bốn chỗ đau khổ này.
Nhưng mà đạo Phật lại dẫn dắt chúng ta không có đau khổ, làm chủ được bốn sự đau khổ. Thế mà chúng ta là những tu sĩ, là những cư sĩ, là những tín đồ của Phật giáo lại không làm được điều này thì quá là uổng.
Nhưng giáo lý của đức Phật rất là thực tế, cụ thể, nhất là giáo lý nguyên thủy, dạy chúng ta bắt đầu sống đạo đức làm người, không làm khổ mình khổ người. Thực ra không làm khổ người thì cũng dễ, nhưng mà cũng khó chứ không phải dễ. Mình biết kham nhẫn, mình biết chịu đựng thì mình sẽ không làm khổ người khác. Nhưng đối với làm khổ mình thì còn khó gấp mấy trăm ngàn lần, rất khó.
Nhưng đạo Phật có phương pháp, có cách thức để dạy chúng ta không làm khổ mình, đó là cái nền đạo đức của Phật giáo, nền đạo đức nhân bản nhân quả không làm khổ mình khổ người.
(4:01) Hôm nay Thầy xin nói về đạo đức nhân bản nhân quả. Bởi vì chúng ta hiện giờ không thể nào mà nói Thiền Định được. Nếu chúng ta không xây dựng cho mình một nền tảng vững chắc của đạo đức thì Thiền Định chúng ta chỉ là tà thiền, không thể nào mà Thiền Chánh được.
(4:23) Cho nên đạo Phật dạy chúng ta Giới sanh Định, Định sanh Tuệ. Chúng ta hiện giờ có cái tri kiến hiểu biết chớ không phải là trí tuệ đâu, trí tuệ phải là không có không gian và thời gian tức là Tuệ Tam Minh.
Còn tuệ chúng ta gì mà quá khứ thì không biết gì hết, chuyện đã qua thì nó, ngay trong một đời nay thôi chúng ta cũng còn quên trước quên sau chưa nhớ hết, làm sao mà chúng ta nhớ được quá khứ trong nhiều đời nhiều kiếp, còn tương lai thì chúng ta mờ mịt không biết!
Thậm chí như bây giờ, hiện bây giờ Phật tử cũng chẳng biết mình chết rồi sẽ đi về đâu, có thế giới siêu hình hay không có, có linh hồn hay không có linh hồn quý vị cũng chưa biết nữa. Cũng nghe tôn giáo này cũng nói linh hồn, tôn giáo kia cũng nói rằng có cái thần thức, Phật tánh, nói vậy chứ chúng ta cũng chưa biết chắc.
Bởi vì chúng ta thấy cái thực hiện ở trong tâm chúng ta nó có những cái biết. Tại sao Thầy nói con người có những cái biết chớ không phải có một cái biết?
Cái biết thứ nhất mà chúng ta hằng ngày mà chúng ta biết, như bây giờ quý Phật tử đang ngồi nghe Thầy nói chuyện đây, đó là cái biết của ý thức của chúng ta. Nó gồm có Sắc Thức, trong kinh điển của Phật gọi là Sắc Uẩn, cho nên nó gồm có cái biết của chúng ta, cái ý thức của chúng ta, mắt thấy tai nghe, thì cái biết đó là cái biết của ý thức.
Còn cái biết trong giấc mộng của chúng ta khi mà cái ý thức của chúng ta, lúc thân chúng ta ngủ ý thức không hoạt động, thì chúng ta nằm mộng, thì trong giấc mộng của chúng ta đó, thì chúng ta có cái biết ở trong giấc mộng. Cũng nghe cũng thấy cũng tiếp xúc với mọi hình bóng ở trong giấc mộng của chúng ta, đó là cái biết ở trong giấc mộng.
Và còn cái biết của một người tu mà gọi là Tam Minh đó, cái biết đó không có không gian và thời gian, cho nên nó có Túc Mạng Minh, biết nhiều đời nhiều kiếp, Thiên Nhãn Minh, có cái biết mà không có không gian, ở chỗ này muốn thấy biết ở chỗ nào cũng được hết. Thì cái biết đó là cái biết của Tam Minh, cái biết đó là cái biết của tâm thức của chúng ta.
(6:50) Cho nên nó có 3 cái biết rất rõ ràng, vì vậy mà trong bốn cái loại Định của Phật phải sử dụng cả ba cái biết này. Cho nên vì vậy mà người mà nhập Định làm sao sử dụng được ba cái biết này mới nhập Định được, còn nếu mà sử dụng có một cái ý thức của chúng ta biết thì chúng ta không nhập Định được.
(7:01) Cái biết đầu tiên của chúng ta để mà nhập được cái Định đầu tiên đó là Sơ Thiền. Cái Thiền thứ nhất là cái Thiền mà ly dục ly ác pháp, ly dục ly ác pháp là bằng ý thức của chúng ta, thì cái người đó tu cái pháp môn gì? Tu giới luật. Bởi vì chỉ có giới luật thì chúng ta mới có ly dục ly ác pháp mà thôi.
Thế cho nên giới luật của Phật rất nhiều. Đối với Sadi, người mới vào tu thì đức Phật dạy cho chúng ta có 10 giới Thánh đức Sadi. Một vị tu sĩ theo đạo Phật mà giữ gìn được những giới luật thì đó gọi là Thánh đức, Thánh hạnh của chúng ta. Một người tu sĩ phải có hạnh chứ không thể nào mà sống bừa bãi cũng như người thế tục được.
Cho nên giới luật là một nền tảng vững chắc để cho chúng ta xây dựng mình trên cái hướng đi vào Thiền Định, nó mới vững chắc. Một vị tu sĩ, một người cư sĩ mà không giữ gìn giới luật thì chúng ta không thể nào mà đạt được Thiền Định. Ai cũng nghe Thiền Định nó rất hay nhưng chúng ta làm không được là nhập không được.
Bởi vì ý thức đầu tiên của chúng ta chỉ có nhập được cái Định của Sơ Thiền, còn Định Nhị Thiền thì nó thuộc về tưởng thức rồi. Tại sao vậy? Bởi vì khi đó chúng ta phải diệt Tầm Tứ mới nhập được Nhị Thiền, mà diệt Tầm Tứ tức là ý thức của chúng ta bị ngưng, không hoạt động, chứ không phải diệt Tầm Tứ là diệt vọng tưởng của chúng ta.
(8:52) Nghĩa là chúng ta ngồi đây mà không niệm, chúng ta cho là mình diệt Tầm Tứ, không phải, đó là hiểu sai. “Diệt”, quý vị nghe chữ “diệt” tức là không hoạt động nữa chứ không phải ly. Cũng như bây giờ Thầy nói như thế này nè. Thầy ly dục ly ác pháp, có nghĩa là Thầy chưa có diệt dục và ác pháp của Thầy, nhưng mà Thầy lìa nó ra.
Bây giờ buổi sáng Thầy đói bụng, Thầy muốn đi ăn cơm hoặc là ăn một cái bánh, thì cái muốn ăn đó đó là dục. Bây giờ Thầy mới ly nó ra, Thầy nói không được ăn. Một người tu sĩ như Thầy trưa ăn một bữa trưa mà thôi, không có ăn phi thời như vậy. Do cái ý thức của Thầy, cái tri kiến của Thầy lý luận như vậy cho nên Thầy dừng lại Thầy không ăn. Mà Thầy không ăn tức là Thầy ly dục chứ chưa phải hết dục. Con thấy ly không?
Bây giờ cái tâm của Thầy nó muốn đi ngủ, cái thân của Thầy thì nó buồn ngủ, cái tâm nó muốn đi ngủ rồi. Thầy nói ”Giờ này không phải giờ mày ngủ, nhất định là mày không được ngủ”, bắt đầu Thầy đi kinh hành. Tức là Thầy hành động như vậy Thầy ly cái si của Thầy, cái tâm si của Thầy gọi là ly dục.
Bây giờ cái tâm Thầy nó muốn đi nói chuyện, Thầy nói “Không được, mày là người tu sĩ phải sống độc cư, phải không được hội họp, không được nói chuyện, cấm đó”, mình không nên cho nó. Đức Phật làm những cái việc đó, đức Phật nói chế ngự tâm mình.
Còn trái lại chúng ta dùng một cái phương pháp, một cái câu niệm Phật như “Nam Mô A Di Đà Phật”, hoặc là một cái hơi thở mà chúng ta tập trung trong cái đối tượng đó, hoặc là chúng ta vẽ một cái điểm để mà mắt chúng ta nhìn vào cái điểm đó chúng ta tập trung để cho cái tâm của chúng ta đừng có khởi niệm, thì đó là ức chế tâm.
Còn bây giờ quý vị chưa bao giờ ăn ngày một bữa, mà quý vị chưa tập tu quán thực phẩm bất tịnh làm cho nó nhàm chán đi, mà quý vị cố gắng ôm cái giới luật ăn ngày một bữa, quý vị bị ức chế, ức chế cả thân và tâm. Vài ba hôm sau thì thân tâm của quý vị, nhất là cái thân của quý vị bị bệnh làm cho cái tâm của quý vị thối chuyển. Cho nên nếu không khéo thì chúng ta sẽ tu bị ức chế tâm và ức chế thân làm khổ cho thân tâm của chúng ta.
(11:08) Cũng như bây giờ sức chúng ta chỉ ngồi kiết già là khoảng độ chừng 15 phút, nhưng cố gắng ngồi 30 phút. Khi lúc bây giờ chân chúng ta bị tê, rồi bị đau, nó làm chúng ta rất khổ sở, nhưng chúng ta cứ ngồi đó mà ráng chịu đựng. Nếu chúng ta chịu đựng chừng 3 phút 2 phút thì đó là chúng ta chế ngự thân để làm tập cho nó quen. Nhưng mà chúng ta lại kéo dài cái thời gian chế ngự đó ra thì lúc bấy giờ chúng ta bị ức chế.
Nó quá cái sức chịu đựng của chúng ta, cho nên mồ hôi trong người chúng ta đổ ra, cho tới khi mà chân chúng ta sưng lên thì cái điều đó là cái điều làm chúng ta ức chế thân làm cho chúng ta khổ. Mà đức Phật không chấp nhận điều đó, gọi là khổ hạnh, làm chúng ta khổ. Cho nên tu theo đạo Phật phải tu đúng, đừng có tu sai. Bởi vì chúng ta phải hiểu đúng, rất đúng thì chúng ta tu mới kết quả.
(11:44) Nhưng Thầy nói như thế này để cho quý vị thấy rằng đạo Phật có 8 cái lớp để tu học, tức là lớp Chánh Kiến, lớp Chánh Tư Duy, rồi Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, rồi tới Chánh Định. Thì như vậy là 8 cái lớp mà chúng ta tu tập này, mỗi lớp phải tu tập những bài pháp nào, để tu tập cái lớp đó, mà cái lớp đó nó thực hiện ở cấp nào. Bởi vì đạo Phật có 3 cấp: cấp Giới Luật, cấp Thiền Định, và cấp Trí Tuệ, chứ không phải muốn vô học muốn tu, tu lu bù, không được.
Cho nên người cư sĩ, người ta vào mà người ta theo đạo Phật thì người ta học cái lớp đầu tiên là lớp Chánh Kiến. Người ta thực hiện Giới luật của người ta đó là bát giới, tám cái giới. Nhưng mà 8 giới gồm có 9 giới Sadi ở trong đó rồi, cho nên gọi là Thọ Bát Quan Trai, có phải không?
Cho nên người cư sĩ mỗi tháng họ phải dành cho họ trong một ngày hoặc hai ngày để Thọ Bát Quan Trai, họ sống như đời sống của người tu sĩ, họ tu tập đúng pháp để ngăn ác diệt ác, lúc nào cũng tăng trưởng sanh thiện để họ sống cho đúng cách, rồi họ áp dụng vào trong những ngày mà họ tiếp duyên với nhau, họ làm công việc để sống, họ tiếp duyên để họ xả tâm họ.
(13:32) Thì khi một người cư sĩ mà họ tập tu như vậy, đó là họ tập tu đạo đức nhân bản nhân quả không làm khổ mình khổ người, đó là cái đạo đức của đạo Phật. Cho nên chúng ta học Chánh Kiến như thế nào, khi nhìn mọi vật, mọi đối tượng, mọi pháp xảy ra trước mắt họ, họ phải thấy như thế nào gọi là Chánh Kiến?
Nếu mà thấy làm cho chúng ta giận hờn, phiền não, đau khổ thì đó là tà kiến chứ không thể nói gọi là Chánh Kiến được. Do đó nếu mà chúng ta có tà kiến thì sẽ đem đến cho chúng ta những nỗi đau khổ cho mình và còn cho người khác nữa. Thì như vậy chúng ta là người thiếu đạo đức với mình và thiếu đạo đức với người khác.
Cho nên quý Phật tử là những người chưa xuất gia phải học cái lớp Chánh Kiến. Còn hiện bây giờ tu sĩ chúng ta cũng chưa có người nào biết Chánh Kiến. Nói thì chúng ta nói được, tôi nói tôi Chánh Kiến, nhưng mà hở ra chút thì giận hờn phiền não đau khổ tham muốn đủ thứ trong này, nhìn cái vật gì cũng thấy cũng muốn. Nhìn người ta nói một tiếng hơi nặng một chút xíu trái ý mình thì lại phiền não, lại tức giận, thì như vậy rõ ràng là mình tà kiến hết.
Nghe, thấy những cái điều đó mà làm cho tâm mình bất an, thì người đó tà kiến chứ không thẻ nào là Chánh Kiến. Bởi vì đối với Chánh Kiến của đạo Phật là đạo Phật là đạo đức, thấy một cái sự vật, đúng một sự vật làm cho chúng ta cởi mở, không phiền não đó là Chánh Kiến.
Cho nên khi chúng ta học cái lớp Chánh Kiến phải một năm, vừa trong những cái bài mà chúng ta học để thấm nhuần được những cái lý mà của Phật dạy chúng ta. Rồi chúng ta lại tu tập rèn luyện chứ không phải học suông không để mà hiểu, rồi gọi là Chánh Kiến, không phải. Phải có sự tu tập nữa, phải rèn luyện mình ở trong những cái phương pháp mà đức Phật đã dạy chúng ta.
(15:23) Bây giờ nhìn, mà nhìn như thế nào để biết nó là nhân quả, nó là thiện hay là ác? Thì khi mà người ta chửi mình, mình phải nghe cái ngôn ngữ đó, lời nói đó nó làm cho mình bất an ở trong lòng của mình, bất toại nguyện trong lòng của mình, nhưng cái hiểu biết khi nghe cái lời nói đó, nó làm chúng ta cởi mở mà không có giận hờn, phiền toái trong lòng của mình, thì đó mới là Chánh Kiến.
Còn cái lớp Chánh Tư Duy là chúng ta phải có sự suy tư, có sự nghĩ tưởng, thì đây là những cái tâm niệm của chúng ta, khi khởi lên một cái niệm thì chúng ta đưa một cái niệm đó thành một cái đề tài, một cái đề tài quán xét, quán xét tức là tư duy. Khi mà mình Chánh Tư Duy thì tất cả mọi ác pháp đều bị hóa giải ra hết, nó không còn làm cho tâm chúng ta đau khổ nữa.
Cũng như bây giờ nói về ác pháp thì chúng ta thấy cái thân bệnh, thân mà đau nhức cũng là ác pháp đó. Cho nên trong Tứ Niệm Xứ thì đức Phật dạy, trên thân quán thân để khắc phục tham ưu. Bây giờ trên thân chúng ta quán thân mà thấy cái thân nó bệnh đau, vậy thì chúng ta bằng cách nào mà chúng ta khắc phục được cái bệnh đau ra khỏi, thì như vậy có phải là chúng ta đã làm chủ được bệnh không?
Thế rồi Tứ Niệm Xứ nó dạy như vậy mà chúng ta không biết cách nào hết, ngồi đó mà quán, nào là quán thế này thế khác thế nọ, tất cả mọi cái cuối cùng bệnh đau thì chỉ đi bác sĩ, đi nhà thương thì cái này coi như chúng ta tu không kết quả, tu sai pháp. Còn một người tu đúng pháp thì người ta làm chủ được cái này.
Bởi vì trong tâm lực của chúng ta nó có những cái lực, mà cái năng lực của nó nó có 7 cái năng lực gọi là 7 cái năng lực Giác Chi. Giác Chi tức là Thất Bồ Đề đó, 7 cái trạng thái giải thoát, 7 cái năng lực giải thoát nó giúp chúng ta được giải thoát. Vì khi mà chúng ta tu Tứ Niệm Xứ thì 7 cái năng lực này nó hiện ra.
Cho nên đức Phật nói Thất Giác Chi, thực phẩm món ăn của Thất Giác Chi là cái gì, là Tứ Niệm Xứ mấy con. Món ăn là cái gì, hằng ngày chúng ta phải tu tập cái đó cũng như mình ăn hằng ngày, ngày nào mình cũng phải ăn thì Tứ Niệm Xứ là món ăn của Thất Giác Chi, có phải không?
(17:40) Quý vị đọc trong kinh quý vị thấy, trong kinh nguyên thủy xác định được cái điều kiện mà chúng ta thấy rất rõ. Nhưng mà 7 cái Giác Chi đó nó lại là món ăn cho Tứ Thiền, cho Tam Minh. Nếu mà không có 7 cái năng lực Giác Chi này thì chúng ta không nhập Tứ Thiền mà không bao giờ mà có Tam Minh được hết.
Đó, cho nên từ ở chỗ cái Tứ Niệm Xứ chúng ta mới thấy được cái năng lực, cái năng lực tự thân của chúng ta. Cho nên từ cái năng lực đó, bệnh đau trên thân chúng ta chúng ta đẩy lui được hết. Chúng ta có một cái lệnh, cái lệnh đó gọi là pháp Như Lý Tác Ý, như cái lý giải thoát mà tác ý.
Bây giờ thân chúng ta đau chứ gì, tức là ác pháp chứ gì, như cái lý giải thoát mà chúng ta tác ý thì cái thân của chúng ta sẽ hết đau. Phật đã dạy như vậy, như lý tác ý, như cái lý giải thoát mà tác ý. Bây giờ thân đau bảo “Thân không đau”, thì không đau với đau nó có khác nhau, có phải không? Cho nên chúng ta, cái lý của nó nó đi ngược trở lại với cái ác pháp của nó.
Cũng như tâm chúng ta có tham, thì chúng ta bảo “Không tham, dừng lại, giờ này không phải ăn”, cho nên cái lệnh của chúng ta, cái lệnh mà chúng ta tác ý ra nó mạnh lắm.
Cũng như bây giờ cái thân của quý vị đau thì cái tâm của quý vị sẽ bị dao động. Cho nên muốn cho cái tâm mình đừng dao động thì quý vị phải tác ý: “Thọ là vô thường, cái đau này là không có thật, cho nên tâm đừng sợ, ngồi đây bất động”, thì do đó chúng ta ngồi thẳng lưng lên, và nương vào trong một cái phương pháp mà Phật đã dạy gọi là Định Niệm Hơi Thở.
Khi mà chúng ta nương vào cái Định Niệm Hơi Thở thì chúng ta nhắc như thế này. Bởi vì trong 16 và 18 cái đề mục, 16 cái đề mục trong Định Niệm Hơi Thở và trong cái pháp Thân Hành Niệm thì có thêm 2 cái đề mục nửa của về hơi thở nên cộng lại là 18 cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở để cho nó đủ trọn vẹn về cái hơi thở. Và cái phương pháp Định Niệm Hơi Thở nó giúp cho chúng ta đẩy lui được những cái chướng ngại pháp ở trên thân và tâm của chúng ta.
(19:44) Thí dụ như thân bị bệnh đau thì lúc bấy giờ chúng ta tác ý, như cái lý đạo mà chúng ta tác ý: “Thọ là vô thường, tâm không có dao động, không có sợ hãi, hãy ngồi thẳng lưng lên, hãy nhiếp tâm trong hơi thở”. Thì lúc bây giờ chúng ta tác ý “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” để cho tâm bám vào trong hơi thở, tức là an trú trong hơi thở.
Khi mà tâm an trú trong hơi thở thì chúng ta lại tiếp tục chúng ta nhắc: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Nhưng lúc bây giờ thân chúng ta đang bị đau, nó đâu có an được, phải không? Nhưng bây giờ chúng ta lại tác ý: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”.
Có phải cái câu kinh như vậy để nhắc cho chúng ta, để khi mà cái tâm nó an trú thật sự trong hơi thở rồi thì nó có một trạng thái an ổn của thân của chúng ta, là lúc bây giờ bệnh đau biến mất rồi. Hễ nó an thì thân chúng ta hết đau. Đó là một cái phương pháp để khắc phục tham ưu trên thân của chúng ta, làm chúng ta không còn ưu phiền nữa.
Các Phật tử thấy một người mà bệnh đau, thì cái người đó họ có an ổn không, họ có ưu phiền không? Có, lo lắng, ưu phiền, không biết mình có thể chết, chết rồi sự nghiệp mình để đó cho ai, hoặc là con cái mình còn nhỏ, hoặc là như thế này thế khác, nó làm cho chúng ta rất ưu phiền. Cho nên khi trên thân quán thân mà gặp cái trường hợp mà ác pháp như vậy, thì chúng ta đẩy lui ác pháp đó ra, không cần phải uống thuốc đâu.
Đây là cái phương pháp thực tế, cụ thể, mà tâm chúng ta mà không an ổn thì chúng ta cũng có những cái phương pháp để đẩy lui những cái (không) an ổn của cái tâm. Cho nên trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu ở trên đó. Như vậy Tứ Niệm Xứ dạy chúng ta những cái phương pháp để mà chúng ta khắc phục được những sự đau khổ ở trên thân tâm.
(21:33) Và cuối cùng khi thân tâm chúng ta đã khắc phục được, tâm đã ly dục ly ác pháp được, nó không còn tác động được, bởi vì ác pháp không tác động được nó thì nó an ổn chứ gì, nó sẽ thanh tịnh chứ gì? Thì lúc bây giờ Bảy Giác Chi xuất hiện. Bảy cái năng lực giải thoát xuất hiện, tức là bảy cái trạng thái Bồ Đề đó, nó xuất hiện ra chúng ta, chừng đó chúng ta sử dụng sẽ nhập Định.
Như vậy là cái lớp Giới luật chúng ta phải ly dục ly ác pháp hoàn toàn thì chúng ta mới đủ sức để rồi chúng ta mới bước qua cái lớp Định. Cho nên chúng ta thấy, cái Chánh Niệm là cái Tứ Niệm Xứ, Tứ Niệm Xứ để giúp chúng ta thực hiện được cái tâm ly dục ly ác pháp hoàn toàn, giúp cho tâm chúng ta bất động, thanh tịnh, để rồi chúng ta có đủ lực chúng ta mới bước qua cái lớp, cái cấp 2 là cái cấp Định, chúng ta mới bước vào cái lớp Chánh định.
Cho nên pháp của Phật nó thực tế cụ thể như những cái môn học ở trong các trường học, nó không khác gì hết. Vì vậy mà ước ao ngày mai này Phật giáo của chúng ta có những cái trường học để dạy chúng ta từ lớp Chánh Kiến cho đến Chánh Định để thực hiện Tam Minh, thì cái kết quả của nó để giúp chúng ta chứng quả A La Hán vô lậu hoàn toàn, làm chúng ta được giải thoát.
Nghĩa là 10 người mà vào được những cái lớp học này, được những vị chứng quả A La Hán đứng lớp mà dạy, thì 10 người sẽ chứng quả A La Hán tiếp tục 10 người, không có người nào rớt hết. Bởi vì học đúng, hành đúng, có người dạy đúng thì không uổng công của chúng ta chút nào hết.
Cũng như bây giờ mình cố gắng mình học tập, mình học tập đúng, có thầy dạy đúng, có trường lớp hẳn hòi, có bài vở hẳn hòi từ lớp thấp đến lớp cao, thì cuối cùng mình phải tốt nghiệp, phải có chứng chỉ, phải có cấp bằng.
Thí dụ như học bác sĩ thì phải đỗ ra thành bác sĩ, phải học tiến sĩ về môn học nào đó thì cũng sẽ đỗ ra thành tiến sĩ, bởi vì mình siêng năng mình cố gắng mình học. Cũng như quý Phật tử siêng năng tu tập nhưng mà tu sai học sai thì cuối cùng mình không tốt nghiệp được gì hết, uổng phí công của mình, còn học đúng thì mình sẽ đạt được.
(23:41) Nhưng điều kiện mà Thầy khuyên quý Phật tử, thứ nhất là chúng ta phải học đạo đức nhân quả, biết từng hành động nào thiện, hành động nào ác. Nhiều khi chúng ta có những cái hành động mà chúng ta không biết thiện, cứ ngỡ rằng mình thiện nhưng mà sự thật không thiện.
Thiện thì có hai phần: một phần hữu lậu và một phần vô lậu. Như quý Phật tử đi làm việc từ thiện, giúp đỡ cho đồng bào bị lũ lụt, bị hỏa hoạn, thiên tai, hoặc là giúp cho những người bệnh tật trong nhà thương không có cơm ăn, không có tiền bạc để trả tiền cho bệnh viện, để giúp đỡ cho những người bất hạnh đó, thì đó là thiện hữu lậu chứ không thể nào là thiện vô lậu.
Nhưng mục đích của đạo Phật ở đây, ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện, thì cái thiện này là thiện vô lậu chứ không thể nào là thiện hữu lậu được. Bởi vì hữu lậu còn đau khổ, gọi là hữu lậu còn vô lậu là không còn đau khổ trong tâm khảm của người đó nữa. Cho nên tăng trưởng cái vô lậu chứ không phải tăng trưởng cái thiện hữu lậu, nhưng đức Phật không cấm chúng ta làm cái việc thiện hữu lậu.
Nghĩa là chúng ta có khả năng giúp đỡ cho những người bất hạnh từ con người cho đến con vật chúng ta đều là một nguồn an ủi sự đau khổ chúng, đó là thuộc về Tứ Vô Lượng Tâm, tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả. Thì đức Phật đã có dạy chúng ta điều này, cho nên không cấm chúng ta làm việc hữu lậu, làm cái phước thiện hữu lậu.
Nhưng cái phước thiện vô lậu thì rất cần cho đạo Phật. Cho nên trong Tứ Chánh Cần ngăn ác diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện, thì cái thiện trong Tứ Chánh Cần này không phải thiện hữu lậu mà thiện vô lậu. Khi mà chúng ta ở trong một cái thất, giam mình ở trong thất để tu tập, thì chúng ta còn làm việc gì bên ngoài nữa được mà gọi là thiện hữu lậu. Phải không?
(25:45) Chúng ta luôn luôn để làm cái việc thiện cho chính bản thân của mình, khi mà chúng ta làm cái việc thiện mà chúng ta hoàn toàn được giải thoát, thì lúc bấy giờ chúng ta mới ra khỏi thất, mới làm cái thiện hữu lậu. Cũng như hôm nay Thầy ngồi đây Thầy thuyết giảng cho quý Phật tử nghe cái con đường tu tập chánh đáng của đạo Phật bằng con đường đạo đức, bằng con đường giới luật, thì đó là Thầy đang làm cái việc thiện hữu lậu chớ không phải thiện vô lậu.
Còn bây giờ Thầy ngồi ở trong thất, mỗi tâm niệm ác, mỗi tâm niệm khởi lên trong tâm của Thầy, Thầy biến nó thành một cái đề mục ngăn và diệt, không làm cho tâm Thầy đau khổ, bất an, mà làm cho tâm Thầy luôn luôn thanh thản, an lạc, vô sự, thì đó là Thầy đã sanh thiện và tăng trưởng thiện vô lậu.
Quý Phật tử thấy, cái này có lợi ích cho bản thân của người đó rất lớn, là vì người đó không còn đau khổ nữa. Và cuối cùng người thực hiện được như vậy, cho nên khi mà đụng mọi pháp bên ngoài, khi mà ra tiếp xúc với mọi người thì không có pháp nào, ác pháp bên ngoài mà tác động tâm họ được, cho nên tâm họ bất động hoàn toàn, họ làm chủ được sự sống của họ, cuộc sống của họ.
Cho nên hôm nay quý Phật tử, thứ nhất là Thầy khuyên nhắc, thứ nhất là phải học đạo đức nhân quả, để biết được đạo đức nhân quả. Để làm gì? Để khi mà chúng ta nhìn mọi vật đừng thấy đúng sai phải trái mà hãy thấy thiện và ác. Một lời người đó chửi mắng mình, mình hãy nhìn đó là nhân quả, đời trước mình chửi người ta đời nay người ta chửi mình, tại sao mình lại giận? Vay phải trả chớ, tức là thấy bằng nhân quả.
(27:25) Còn thấy tui đúng mà tại sao anh chửi tui dữ vậy, thì như vậy rõ ràng là mình sẽ có sân, mình sẽ có tức giận trong lòng mình. Cho nên cái nhìn thấy đúng pháp là làm chúng ta xả được tâm liền, ly được dục liền, ly được ác pháp liền. Còn nếu mà chúng ta nhìn thấy không đúng, thì ngay đó chúng ta có đau khổ.
Thì đạo Phật bắt đầu, chúng ta giải quyết được tâm của chúng ta trước tiên cho nên chúng ta phải làm chủ được cái tâm của mình trước cái tham, sân, si.
(27:53) Bây giờ Thầy xin nhắc thêm để thấy được cái tham sân si của chúng ta. Tham sân si là cái nghiệp lực, hằng ngày chúng ta cứ bị người ta chọc ghẹo mình, lúc nào cũng sân, lúc nào cũng thấy cái này kia ham muốn cho nên chúng ta huân cái ham muốn, huân cái sân thành ra một cái lực, thành ra một cái thói quen. Cái thói quen nó nằm trong tâm của quý vị hay hoặc là nằm ở ngoài?
Có người nói khi mà chúng ta huân như vậy nó nằm ở trong tâm. Sự thật ra, thân tâm của chúng ta, nó với cái nghiệp lực nó không có một mà nó hai. Cho nên một người chết rồi thì không còn một cái vật gì hết thì như vậy là rõ ràng nó nằm ở đâu mà đi đầu thai đây? Quý vị suy nghĩ kĩ cái chỗ này, khó, rất khó hiểu.
Bây giờ theo đức Phật nói thân Ngũ Uẩn của chúng ta nó diệt là diệt hết, không còn một cái vật gì hết. Nghĩa là thân Ngũ Uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức chứ gì. Thì người nào ở trong thân chúng ta, người nào có cái thân này thì cũng có Ngũ Uẩn hết. Nhưng mà khi chết rồi nó không còn có một vật gì trong đó hết, tan hoại hết. Tan hoại hết không còn có một vật gì, vậy thì cái gì mà còn tiếp tục luân hồi tái sanh đây? Thì cái đó là cái nghiệp lực của chúng ta.
Khi một hành động, Thầy đưa ra như thế này, Thầy dùng một cái danh từ để dễ hiểu, đó là cái từ trường, một hành động Thầy đưa cánh tay ra Thầy đánh người ta, thì cái hành động đó là hành động ác. Một lời nói của Thầy nói ra một lời nói làm cho người ta đau khổ phiền não trong lòng người ta, thì cái từ trường đó vẫn còn, nó thảy ra, nó thành một cái lực. Cái lực nó thành một cái từ trường nó bao vây xung quanh một cái người ác, cũng như một người nói thiện làm hiện, nó cũng bao vây.
(29:31) Cho nên trong kinh Pháp cú nói, những cái hành động thiện, những hành động ác nó theo chúng ta, nghĩa là như bánh xe mà theo chân con vật kéo xe. Có phải không? Những cái hành động thiện nó theo chúng ta như hình với bóng. Có đúng trong cái bài kinh Pháp cú đó Phật nói vậy mà.
Vậy thì nó theo chúng ta chớ đâu phải nó ở trong thân tâm của chúng ta. Nếu mà thân tâm của chúng ta, mà trong thân Ngũ Uẩn mà nó ở trong đó, tâm chúng ta là nghiệp, thì chúng ta chết thì cái nghiệp nó cũng chết mất, nó cũng tan hoại hết phải không? Cho nên nó theo là nó ở ngoài nó theo. Như vậy quý vị không có nhìn thấy được cái ác của quý vị nó đang theo quý vị và cái thiện nó đang theo.
Bây giờ quý vị làm ác, với cái đôi mắt của cái người có Tam Minh, người ta thấy cái từ trường quý vị ác quá, người ta biết. Quý vị không thấy biết quý vị đâu. Nhưng mà quý vị biết được của quý vị là quý vị thấy được tai nạn, bệnh tật, đau khổ, đó là nó tác động vào cái thân tâm của quý vị để cho quý vị phải trả những cái quả đó mà thôi, chứ còn thân Ngũ Uẩn của quý vị nó không có dính với cái này đâu, nhưng mà ở ngoài nó có tác động vô.
Nghĩa là nó bao vây quý vị thì cho nên thọ khổ thọ lạc đều là do những cái sự bao vây của cái nghiệp lực của quý vị, cho nên khi mà cái thân quý vị mất rồi, hoại rồi thì cái nghiệp lực này nó còn. Bây giờ nó còn, nó để làm sao mà nó tái sanh đây?
Nếu nó tham sân si, nó phải giống với những người tham sân si xung quanh nó đây, nó giống ai thì những cái người đó làm cha mẹ nó đó, còn cái thân của quý vị Ngũ Uẩn đây nó hoại mất rồi. Có phải nó tái sanh luân hồi bằng cái nghiệp lực ác, thiện của nó không, có đúng không?
Quý vị làm ác, cái nghiệp lực đó nó nhiều nó dày nó mới đi tìm, nó tương ưng với những người mà nghèo khổ đói khát, nhất là những người bỏn xẻn ích kỷ. Cái nghiệp lực mà bỏn xẻn nó cũng thành một cái bao vây của quý vị, cho nên nó tương ưng với những cái người mà nghèo đói nhất ở trong cái xã hội này. Cho nên có những người sanh ra không có áo mặc, không có cơm ăn, đó là những cái ác pháp.
(31:48) Còn chúng ta hung dữ, chúng ta chửi mắng, chúng ta giết hại loài vật, chúng ta luôn luôn ăn thua đủ với mọi người thì cái từ trường đó nó cũng thành cái nghiệp lực đó nó tiếp tục tương ưng với những cái hạng người mà như vậy, sẽ làm cha mẹ nó tiếp tục.
Cho nên quý vị đừng nghĩ rằng cái thân của quý vị là cái tham sân si, nó không có tham sân si. Cho nên Thầy ngồi đây nè, Thầy bảo tâm thanh thản an lạc vô sự, tâm Thầy thanh thản an lạc vô sự, nhưng cái từ trường ác của Thầy nó vẫn còn đây nè, cho nên nói sao mà tôi cố gắng tôi ly mà sao ly không hết.
Tôi hãy ly cái từ trường của tôi nè, bắt đầu Thầy làm những điều thiện, Thầy giữ tâm thanh thản nó thảy ra cái từ trường thiện đó, nó mới đánh át những cái từ trường ác kia đi. Cái này càng lớn lên, mạnh lên thì cái từ trường ác kia nó bị dẹp xuống. Mỗi một niệm thiện hiện ra thì một niệm ác dừng lại mấy con, có đúng không?
Người ta chửi mình, mình vui vẻ thì cái niệm ác nó phải dừng, thì cái từ trường đó nó phải thảy ra, cái nghiệp đó nó tăng lên cái thiện, thì cái thiện ác, cái từ trường cái nghiệp ác nó phải giảm đi. Và cuối cùng nó giảm sạch xuống thì chúng ta hoàn toàn ngồi đây tâm không vọng tưởng.
Còn quý vị ngồi đây mà ức chế nó, thì nó lại còn mạnh hơn nữa, nó nằm đây chứ nó đâu có mất đâu. Còn cái này Thầy cứ tăng trưởng cái thiện, Thầy tăng trưởng cái thiện vô lậu của Thầy, tức là cái tâm thanh thản an lạc vô sự.
Cho nên đức Phật nói cái tâm mà thanh thản an lạc vô sự nó tương ưng với chư Phật, bởi vì nó có tham sân si đâu, mà tâm của Thầy đâu có tham sân si, tại vì cái từ trường tham sân si của Thầy, hằng ngày Thầy làm Thầy thảy ra cả đống đây, nó bao vây Thầy, phải không? Thầy đem ví dụ.
(33:36) Cho nên đức Phật nói thân Ngũ Uẩn này chết rồi không còn vật gì hết, vậy mà anh tái sanh luân hồi. Còn nếu mà nói tâm của chúng ta có tham sân si ở trong này, thì vậy thì khi mà chết đi thì cái tâm chúng ta nó còn nó mới tham sân si, nó mang cái tham sân si này nó đi đầu thai. Thì như vậy là thân Ngũ Uẩn đâu có mất, có phải không?
Tức là còn có cái thế giới linh hồn, còn cái linh hồn. Cái tâm của chúng ta, cho nó cái tên là linh hồn đi, hay là cái tâm của chúng ta, mà bây giờ chúng ta tham sân si thì cái tâm này nó tham sân si nó ở trong này hết, thì như vậy là chết thì cái thân của chúng ta hoại diệt đi, mà cái tâm của chúng ta nó còn chứ gì?
Cho nên hầu hết là các tôn giáo khác không hiểu điều này, không hiểu được cái từ trường mà bao vây, cái nghiệp lực bao vây xung quanh, mà cái tâm chúng ta rất thanh tịnh. Bây giờ, tới bây giờ người ta cũng không hiểu cái này.
Bởi vậy cho nên Thầy, khi mà tu xong Thầy mới nhìn lại Thầy thấy đúng, ông Phật nói đúng, thân Ngũ Uẩn hoại là không còn gì hết. Bởi vì nó đâu có cái gì đâu, nhưng mà vì cái lực mà tham sân si, cái nghiệp lực nó thúc đẩy, cho nên mỗi đời của chúng ta mà mang cái thân này, bị nó thúc đẩy mà nó tạo ra những cái ác, nó tăng thêm cái nghiệp lực của nó. Hoặc là nó tăng lên cái thiện của nó, nó giảm bớt đi cái ác của nó thôi.
Cho nên vì vậy đức Phật nói phải ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện, do đó mới có cái phương pháp dạy chúng ta để giải thoát. Chớ còn nếu mà đức Phật nói nó còn có một cái vật mà thường hằng, cái biết thường hằng như cái linh hồn của chúng ta, thì đạo Phật ra đời không có làm sao giải quyết được đau khổ của người ta.
Bởi vì chính nó nó thường hằng nó phải mang theo cái nghiệp của nó dính liền với nó rồi. Cái nghiệp của nó là chính nó rồi, thì làm sao mà mình cắt ra được. Còn cái này cái nghiệp là cái từ trường nó ở hoài, còn cái tâm của chúng ta nó rời ra, nhưng mà nó có lực mạnh nó đẩy chúng ta.
Mỗi lần nó gặp ác pháp thì nó đẩy chúng ta giận hờn tức giận, tạo thành những các cái nghiệp lực ác nữa, tăng trưởng lên thêm nó nữa. Cho nên vì vậy mà chúng ta, mỗi lần mà chúng ta giận là chúng ta tăng thêm cái vòng của chúng ta.
(35:43) Thay vì cái hào quang của Phật là cái từ trường thiện, phải không? Bây giờ cái hào quang của chúng ta là cái hào quang đen thui à, nó là từ trường ác. Nếu mà chúng ta mà thể hiện ra cái ánh sáng mà như một cái hào quang của Phật, thì chắc chắn cái hào quang chúng ta đen cũng như là mực tàu. Nó bao vây chúng ta đen thui, bởi vì nó là ác pháp.
Còn hào quang của Phật thì nó sáng trưng, nó thiện. Thầy đem một cái ví dụ để mà chúng ta thấy, người nào cũng có mang theo cái hào quang này hết, phải không. Nó từ ở trong thân của chúng ta, chứ nó không phải trong thân chúng ta, mà từ trong thân chúng ta tạo ra nó để cho nó xung quanh chúng ta. Còn ông Phật ổng thanh tịnh, ổng tạo ra cái hào quang rất sáng là tại vì cái từ trường ổng sáng.
Các con hiểu chỗ này, Thầy, quý Phật tử hiểu chỗ này, chứ không hiểu cái chỗ này là quý vị không biết làm sao mà cứ nghĩ rằng cái linh hồn mình đi tái sanh chứ không gì. Cho nên các tôn giáo đều lầm hết, chỉ có ông Phật là, đạo Phật là không lầm.
Bởi vì khi mà chết rồi ba cái biết này đều là bị hoại hết. Cái biết thứ nhất là Sắc Thức, là ý thức của chúng ta, cái biết thứ hai là Tưởng Thức, là Tưởng Uẩn, là cái biết trong giấc mộng, cái biết thứ ba là Tam Minh. Vẫn ba cái này, khi mà chưa tu thì ba cái này chết là hoại hết, còn cái mà còn lại cũng là cái nghiệp, mà nghiệp không tham sân si.
(36:56) Nghĩa là bây giờ Thầy tu rồi, khi cái thân này Thầy chết rồi thì nó cũng hoại, nó cũng hoại hết, nhưng mà cái nghiệp không tham sân si của Thầy còn. Mà cái nghiệp không tham sân si còn nó tương ưng chư Phật thì ở nơi đó chứ không đi đâu được hết.
Còn bây giờ quý vị có tham, có thiện có ác, mà thiện thì lại thiện hữu lậu chứ có phải thiện vô lậu đâu mà tương ưng chư Phật, phải không? Cho nên cái thiện của quý vị, cái từ trường này nó vẫn còn, nó vẫn còn nó tiếp tục nó tương ưng, giống đâu nó nằm đó, mà nếu nó tương ưng nó thiện hơn một chút xíu.
Cho nên đức Phật nói nếu mà nó ly được năm hạ phần kiết sử, hay diệt năm hạ phần kiết sử, thì nó không giống ai dưới thế gian được hết, nó không làm con họ được, thì nó phải ở trong cái từ trường đó. Khi nó ở trong cái từ trường đó, tại vì thiện, cho nên nó ở trong từ trường đó mà đức Phật nói là 33 cõi trời.
Nó có cõi không? Nó có từ trường chứ nó đâu có cõi đâu, nhưng mà gọi là 33 cõi trời cho nên 33 cõi trời là cõi tưởng. Phải không, cái từ trường gọi là tưởng. Phải không. Bây giờ Thầy nằm chiêm bao cũng là cõi tưởng. Bây giờ ở trong cái thế giới mà chúng ta hiện có thân, có cây cỏ nhà cửa này đức Phật cũng nói thế giới tưởng nữa.
Tại vì chúng ta tưởng nó là có thật, nó là duyên hợp, nó không có thật mà chúng ta tưởng nó có thật cho nên ai cũng cho rằng thân mình có, cho nên hở một chút là người ta chửi mình mình giận. Mình cho cái nhà này thật của mình cho nên mình chấp nó, ai mà xâm phạm tới là không được.
Cho nên vì vậy đó là mình bị sống trong tưởng, phải không. Đây là một trong cái tưởng, rồi bắt đầu chúng ta, cái hình dáng của chúng ta nó thành cái bóng của chúng ta, thì chúng ta lại cho đó là cái thế giới siêu hình, lại là một lúc tưởng nữa.
Cho nên vì vậy 33 cõi trời là khi nào mà chúng ta còn ở trong cái từ trường mà chúng ta chưa có thân hình, trong cái tưởng mà nó duyên hợp, còn cái tưởng này là cái tưởng bóng dáng, cho nên cái tưởng này là còn ở trong cái từ trường thiện mà thôi. Khi mà nó ở trong từ trường thiện mà nó không biết cách thức nó tu, thì nó không tiến tới đến vô lậu thì nó sẽ bị trở lại, nó tái sanh làm người, nó hết cái phước thiện của nó rồi.
Cho nên đức Phật nói ở trên cõi trời còn phải tái sanh trở lại, phải không, đâu có vĩnh viễn được. Trừ ra khi nào mà chúng ta vô lậu hoàn toàn thì chúng ta không còn tái sanh trở lại đây nữa.
Cho nên khi mà chúng ta hiểu được cái lý, rõ được, biết được thì chúng ta hằng ngày mà nếu chúng ta cứ làm ác thì chúng ta tăng thêm cái từ trường ác này, thì muôn đời ngàn kiếp chúng ta phải luôn luôn tái sanh luân hồi làm loài vật, làm con người ác, làm con người thiện, đều là do cái từ trường của chúng ta mà thôi.
(39:19) Còn nếu mà chúng ta biết hằng ngày chúng ta ngăn ác, diệt ác sanh thiện tăng trưởng thiện thì cái từ trường thiện chúng ta càng ngày càng tăng, tăng cho đến khi nó vô lậu hoàn toàn thì lúc bây giờ thân chúng ta bỏ thì cái từ trường này còn, chúng ta luôn luôn đâu có mất.
Cho nên đức Phật nói như cái cây kia, chúng ta vạt bỏ vỏ, bỏ giác, còn lại cái lõi chứ. Nghĩa là từ cái chỗ mà chúng ta còn để mà đi tái sanh luân hồi, cái mà luôn luôn tiếp tục tái sanh luân hồi, đó là cái từ trường thiện và ác, chúng ta thiện hữu lậu và cái ác của chúng ta cho nên luôn luôn nó tiếp tục tái sanh luân hồi trong một cái môi trường sống này.
Nếu chúng ta cố gắng tu tập thì tâm chúng ta không còn tham sân si. Không còn tham sân si thì cái từ trường không tham sân si này vĩnh viễn còn mãi. Trong khi đó cái từ trường này nó có đủ 7 cái năng lực gọi là Thất Giác Chi, 7 cái trạng thái Bồ Đề gọi là Thất Bồ Đề.
Do đó nó sử dụng được tất cả những điều kiện cần thiết của nó, nó muốn gì được nấy, nó đâu có mất. Bởi vì cái từ trường thiện nó vậy. Khi mà tâm chúng ta ly dục ly ác pháp sạch rồi, nó bất động tâm rồi thì nó có 7 cái từ trường nó, 7 cái lực của nó, 7 cái lực của cái từ trường, của cái nghiệp thiện này, của cái nghiệp mà không tham sân si này.
Bây giờ Thầy cho cái nghiệp này là nghiệp tham sân si, cái nghiệp này là nghiệp không tham sân si. Một khi mà chúng ta chưa tu thì cái nghiệp không tham sân si chưa có, nó còn tham sân si thì đâu nó có không tham sân si. Cho nên hằng ngày chúng ta huân nó thành một cái nghiệp không tham sân si. Phải không.
Cũng như cái cây kia hồi nhỏ nó không có lõi, nhưng lớn dần lớn dần nó có lõi, do sự tu tập chúng ta lớn dần, chúng ta có cái nghiệp không tham sân si. Thì khi mà cái thân tứ đại chúng ta là do duyên hợp nó phải hoại, 5 cái uẩn này nó phải hoại, phải không?
Nó hoại rồi thì cái nghiệp không tham sân si này vẫn còn, mà cái nghiệp không tham sân si này nó sẽ tương ưng nơi giải thoát, nó sẽ ở nơi giải thoát, nó ở cái chỗ giải thoát, không ở chỗ mà làm sanh ra làm con người con vật nữa, rất đau khổ. Vì mỗi lần chúng ta mang cái thân này rất đau khổ, đủ thứ đau khổ.
(41:29) Cho nên làm người, cho nên đức Phật nói, 4 cái chân lý của đức Phật nói: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trong cái thân chúng ta nó huân tập tất cả những cái sự đau khổ, mà hở một chút là đau khổ. Mà do cái nguyên nhân nào mà đau khổ, cái Tập Đế đó, là cái nơi mà sanh ra đau khổ, là lòng ham muốn của chúng ta.
Có ham muốn mới có tham có sân có si có này kia có đủ thứ, còn không ham muốn thì làm sao? Cho nên mình ly dục, ly được cái này. Thì trong khi đó ly được dục thì hoàn toàn chúng ta sẽ vô lậu hoàn toàn.
Cho nên trong, có một cái bài pháp Thầy nói rằng chúng ta tu vô lậu chỉ trong một giây mà thôi, tại sao chúng ta biết được cái điều này? Tại vì đức Phật nói “Pháp ta không có thời gian đến để mà thấy”, thấy cái gì? Thấy cái quả, kết quả của sự tu tập của nó.
Nghĩa là chúng ta không tu thôi, tu là thấy. Bây giờ Thầy ngồi đây nè, Thầy nói “Tâm thanh thản, an lạc, vô sự”, rồi Thầy ngồi Thầy nghiệm xét coi phải nó có thanh thản không. Mà nếu nó có thanh thản trong một giây tức là Thầy chứng quả A La Hán một giây, bởi vì nó vô lậu ở trong đó mà, nó có bị tác động của cái tham sân si của nó không? Đâu phải tự nó nó có tham sân si trong này sao.
Cho nên Thầy ngồi thanh thản nó tự nhiên thanh thản rồi, có phải không. Mà bây giờ quý vị thấy, bây giờ thanh thản mà nghe nó hỷ lạc, bởi vậy mừng quá bữa nay tui nhập, tui bữa nay là tui đúng. Không phải hỷ lạc, đức Phật nói cái trạng thái mà có lạc đức Phật cũng không có chấp nhận. Vì nó có 3 cái cảm thọ: thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ, không có chấp nhận mấy cái này.
Nhưng mà Thầy ngồi đây Thầy nghiệm được cái tâm của Thầy có lậu hoặc hay không có lậu hoặc Thầy biết. Lậu hoặc là khổ đau chứ gì, mà bây giờ Thầy ngồi đây thanh thản an lạc vô sự là không lậu hoặc chứ gì, phải không?
(43:12) Nhưng mà bên ngoài, cái nghiệp lực ác của Thầy nó còn bao vây Thầy cho nên ai động tới Thầy một cái là nó thúc đẩy liền, tâm Thầy sân lên liền, có đúng không. Nhưng mà vì vậy mà Thầy thấy rằng “Pháp ta không có thời gian đến để mà thấy”, tức là khi mà Thầy ôm vào cái pháp Thầy tu, Thầy nhắc “Tâm thanh thản an lạc vô sự” thì ngay đó là chứng quả A La Hán liền ngay đó, một giây liền tức khắc.
Rồi tới một phút, Thầy kéo dài trong một phút, hai phút, rồi ba phút, rồi một giờ hai giờ, rồi 7 ngày, nếu mà 7 ngày kéo dài cái thời gian mà 7 ngày, Thầy chứng quả A La Hán luôn, đủ thần thông. Cho nên đừng nghĩ rằng đạo Phật phải tu cho tới có thần thông mới là chứng quả A La Hán, không phải. Ngay một giây chúng ta vẫn là thanh tịnh tâm vô lạ thì đó là A La Hán rồi.
Quả A La Hán là gì? Là quả vô lậu, chớ đâu phải đức Phật nói quả thần thông? Tại sao chúng ta nghe nó chứng quả A La Hán là người đó phải có thần thông, phải có Tam Minh này kia đâu. Nhưng mà quả A La Hán, cái mục đích của quả A La Hán chúng ta phải hiểu là vô lậu.
Cho nên cái lực, cái nghiệp lực của chúng ta nó còn, ác pháp bên ngoài nó còn nhiều, cho nên vì vậy mà chúng ta giữ được cái tâm của chúng ta, khắc phục được những tham ưu ở trên Tứ Niệm Xứ của chúng ta, làm cho ác pháp này không tác động được nữa, cái nghiệp ác này không tác động được tâm chúng ta, thì hoàn toàn chúng ta bảo vệ được cái quả vị A La Hán chúng ta. Cuối cùng 7 ngày 7 tháng hoặc 7 năm thì chúng ta hoàn tất con đường tu của chúng ta.
Xác định được cái thời gian tu của đạo Phật, khi mà tu Tứ Niệm Xứ đức Phật đã xác định 7 ngày. Nếu một người mà chuyên cần siêng năng 7 ngày, thì cái nghiệp lực này bị tan đi, nó không còn có nữa thì người này chứng quả A La Hán luôn. Nếu mà 7 ngày chưa xong thì 7 tháng, 7 tháng chưa xong 7 năm, cái giá chót cuối cùng của một người tu là 7 năm.
Còn người nào nhanh thì 7 tháng, người nào nhanh hơn, 7 ngày. Nghĩa là 7 ngày mà chúng ta không có kẽ hở, chúng ta ngồi đó tâm thanh thản an lạc vô sự liên tục như vậy 7 ngày thì người đó sẽ chứng đạo. Có khó gì đâu!
(45:24) Theo Thầy thấy đâu có khó. Tại vì mình còn ham ăn ham ngủ còn thích cái này cái kia còn… Bỏ! Dẹp! Dẹp sạch xuống đi, đừng có thèm cái thứ này nữa. Cái này dù có ham ăn ham ngủ đi nữa nó cũng là dục lạc của thế gian mà thôi. Pháp của thế gian là pháp khổ, có gì đâu mà ham.
Quý vị cứ nghĩ đi. Ăn là ăn đồ bất tịnh, món ăn của mình có ngon cái gì đâu. Sáng quý vị ăn cũng mất công là lục đục nấu nướng rồi ăn, ăn rồi trưa ăn nữa, rồi chiều ăn nữa. Ăn ba bữa vậy khổ không? Có sung sướng gì đâu? Ăn rồi còn phải nhai phải nuốt nữa, mà cái đồ dơ chứ có phải đồ sạch đâu. Để bữa nay thấy nó ngon chứ để ba bốn bữa thì sao, quý vị có dám nuốt không?
Nó thiu nó thúi nó chua nó chát, rồi nó, nó cái mùi của nó bất tịnh vô cùng. Nhất là cái thực phẩm của chúng ta lại còn hôi thúi ghê gớm lắm. Rồi ăn vô tiêu hóa quý vị thấy như thế nào, nó thành phân thành phẩn nó có ra cái gì không? Vậy mà ai cũng ham ăn hết à.
Cho nên ông Phật ăn là chỉ để sống, cho nên ăn một bữa ăn mà người ta còn nhàm chán. Cho nên khi mà tu tập không có bị ức chế về vấn đề ăn, về cái giới luật này thì các vị phải quán thực phẩm bất tịnh, quán nó thiu nó thúi nó hôi nó bẩn làm cho quý vị nhàm chán, vì vậy mà quý vị ăn để sống chứ quý vị hết muốn ăn.
Còn bây giờ hở ra, cho tui ly sữa nha, để cho nó bổ. Nó bổ cái gì? Cái thân này là thân bất tịnh mà bổ cái bất tịnh để làm gì đây. Nó hôi thúi gần chết, thế mà người tu được người ta muốn bỏ cái thân này người ta đi liền, bởi vì nó là cái ổ bệnh, nay không bệnh chứ mai nó bệnh. Trời trưa thì nực chịu không nổi, sáng nó lạnh như thế này chịu không nổi phải mặc hai ba áo.
Thì quý vị thấy như vậy mà quý vị còn cứ ôm ấp cái thân này hoài, thương nó quá. Cho nên nó đem đến cái sự đau khổ cho mình. Nó là cái thứ duyên hợp của cái môi trường, của các duyên ở trong không gian, cái môi trường sống này nó hợp lại nó thành, mà mình cứ tưởng nó là thật cho nên cứ tiếc thương nó, cưng niu nâng niu chiều chuộng nó đủ loại hết.
(47:28) Nhưng mà nó hành hạ mình đủ thứ hết mà không thấy. Hễ hở hở chút cái đòi ăn, hở hở chút cái nhức đầu, hở hở chút thì nhức chân, hở hở chút thì cái này, hở hở chút cái kia. Rồi lại còn tham muốn cái này cái kia nữa chớ. Nhà cho đẹp, chùa cho tốt, có phải không? Giường nằm cho êm, chứ còn nằm ở dưới đất này không nằm đâu, có phải đúng không.
Thầy nói, bởi vậy nó hành hạ, nó sai bảo chúng ta đủ loại, vậy mà chúng ta không dẹp nó cho rồi. Dẹp nó như thế nào quý vị, không lẽ đem nó mà đem giết nó giờ sao? Dẹp nó như thế này nè. Nghĩa là tao phải làm chủ mày bắt mày ngồi sừng sững nè, giữ cái tâm thanh thản an lạc vô sự, mày mà hở ra chút nào là tao đẩy lui hết, tao không cho mày.
Bây giờ nó đau quý vị, cái thân quý vị đau quý vị cứ dựng lên ngồi đi, “thọ là vô thường tao không sợ đâu, chết bỏ, không có đi bác sĩ, không có đi nhà thương cho cái nhà thương bác sĩ nó ế đi”, phải không? Thì mình ngồi đây nè, mình cứ nhắc nó vậy nó không có chết đâu, nhân quả mà.
Cho nên Thầy nói rằng tu theo đạo Phật là bệnh viện dẹp, bác sĩ là coi như hết nghề, không ai còn đi trị đâu, đạo Phật mà, làm chủ bệnh mà. Thực sự ra quý vị mà theo đạo Phật, quý vị phải học như vậy mới được, chứ quý vị đừng có đi nhà thương đi bác sĩ.
Nghĩa là mình uống viên thuốc này thì bây giờ nó giảm cơn đau này chớ mai mốt nó có cơn đau khác, không bao giờ hết đâu. Cho nên cha ông bác sĩ vẫn phải chết, phải không, ông bác sĩ vẫn phải đau, chứ ông bác sĩ nào không đau đâu. Nhưng mà ổng có thuốc ổng uống giảm vậy thôi chứ sự thật ra bệnh này hết, bệnh kia tới à.
Nó là cái ổ bệnh chớ đâu có phải là, cái thân của mình là cái ổ bệnh chứ đâu phải là cái ổ không bệnh. Vậy thì bây giờ mình cố gắng mình dựng thân mình lên để biến cái ổ bệnh này nó trở thành cái ổ không bệnh, thì như vậy sau này không bệnh chứ gì.
(49:16) Quý Phật tử thấy Thầy ốm, Thầy gầy phải không? Thầy làm việc nhiều, cho nên Thầy làm việc bằng đầu óc của Thầy, viết ra những cái lời dạy của đức Phật thực tế cụ thể giúp cho quý vị biết được cái đạo đức của Phật giáo, làm cho quý vị biết được đạo Phật có 8 lớp tu học, làm cho quý vị biết được đạo Phật có 3 cấp tu học, cho quý vị biết rất rõ để cuối cùng sau này quý vị có cái giáo trình tu học cho nó cụ thể từng lớp, chứ không phải như kết tập kinh sách hiện giờ xô bồ.
Bây giờ đọc bài kinh nào mình cũng không biết nó ở cái lớp nào đây, Chánh Kiến ở chỗ nào mà Chánh Tư Duy chỗ nào cũng không biết nữa, nói lung tung không biết cái chỗ nào mà tu. Thiền Định cũng chẳng biết, mình bây giờ ngồi Thiền nhập Định nhập làm sao cũng chẳng biết nữa. Mình biết cái sức của mình ở chỗ nào chưa mà mình muốn ngồi Thiền nhập Định.
Cho nên từng cái chỗ mà bước đầu vào tu tập phải tu tập những cái gì, phải làm những cái gì, đây là phải theo từng cái căn cơ của chúng ta, theo từng cái lớp mới vào phải học tu như thế nào, thì như vậy nó mới đúng, nó mới có kết quả. Cũng như bây giờ một đứa bé mới vào học lớp 1 mà xách nó lên học lớp 12 nó học được không?
Như mấy con, như quý Phật tử bây giờ chưa có giới luật chưa có nghiêm chỉnh mà xách vô ngồi thiền thì chẳng hạn như một đứa bé mà mới học lớp 1 mà xách nó lên lớp 12 nó ngồi nó học thì nó học được không? Thì quý vị tu có Thiền Định được không? Như vậy là cái công việc của quý vị làm cái việc hoài công, không có ích lợi. Cho nên trong cái vấn đề mà tu tập, tu tập đúng đừng tu tập sai!
(50:52) Vì vậy mà cái lớp đạo đức, cái lớp giới luật quý vị cần phải học. Thay vì thì người ta cấm Phật tử không được đọc giới luật, đọc giới luật là bị đọa địa ngục, có phải Đại Thừa cấm vậy không? Bởi vì cấm như vậy để cho quý Phật tử không biết giới luật của một người tu sĩ như thế nào, cho nên quý thầy sai không ai nói gì hết. Để dễ dàng sai chứ gì, để dễ dàng chạy theo dục lạc chứ gì?
Theo Thầy thì giới luật cho quý Phật tử học hết. Nghĩa là giới như thế nào học hết, đem ra những giới đức Thánh cho họ đọc hết. Để làm gì? Tu sĩ chúng ta sai họ nói cô này sai nè, thầy này sai nè, phải sữa lại nè, phải không? Do đó chúng ta mới không sai, chúng ta mới trở thành một con người tốt, một con người giới luật, một con người đức hạnh.
Thà rằng là mình thấy ngán quá, thôi tui không dám tu đâu, tu vô đây ba ông cư sĩ họ thấy tui làm bậy họ cười tui chết, phải không, họ chỉ trích tui. Còn bây giờ không cho người ta đọc kinh sách, người ta không biết đâu mà người ta sửa mình nhờ những người xung quanh người ta nói.
Cho nên đức Phật nói khi mình có lỗi lầm thì mình phải phát lồ, mình phát lồ. Bây giờ mình học mình, những cái giới luật của mình mình không có cho người ta biết, thì làm sao mà người ta chỉ cho mình biết cái sai của mình, cái lầm lạc của mình để cho mình khắc phục mình thì cái lỗi này quá lỗi.
Cho nên sau này Thầy viết cái bộ giới đức Thánh, 10 giới đức Thánh Sadi Thầy cho tất cả cư sĩ đọc hết, để một người Sadi vào tu họ biết, cái ông này tu đúng hay tu sai họ biết rồi. Ông sống giới luật như vầy thì không có được, ông phải sửa lại chứ còn ông không sửa tôi không cúng dường cho ông ăn nữa đâu, thì cái ông Sadi này ổng hoảng rồi.
Ổng nói nếu mà kiểu mấy ông cư sĩ này mà không cúng dường mình, thì chắc chắn là mình vô chùa ở đây gõ mõ tụng kinh ông Phật không có cho cơm mình ăn đâu, phải không? Có mấy ông cư sĩ đó cho cơm. Do vì vậy đó cho nên cái ông tu sĩ này, ông Sadi này ổng phải cố gắng giữ gìn giới.
Nhưng mà không ngờ ổng giữ gìn giới ổng lại ly dục ly ác pháp, ổng lại thành tựu sự giải thoát. Mà ổng giữ gìn giới ổng lại là gương hạnh cho người cư sĩ để cho người ta nương vào đó mà người ta Thọ Bát Quan Trai, có thấy lợi không?
Rồi bây giờ bắt đầu Thầy sẽ soạn thảo Thầy viết cái bộ giới đức Thánh Tỳ kheo tăng và Tỳ kheo ni. Đức Thánh mà, cho nên mọi cư sĩ đều đọc hết. Ông mà Thánh tăng mà ông mặc áo, đắp áo cà sa, ông mặc như vậy, mà ông làm không có đúng thì tui nói ông phải sửa, chứ nếu ông không sửa tui không có cúng dường ông đâu.
(53:14) Thánh Tăng là tui phải kính trọng, tui tôn trọng ông, tui làm cực khổ tui đem đến cúng dường cho ông, ông phải sống cho đúng chớ sao lại những cái giới luật Thánh như thế này mà ông sống không đúng? Một vị Hòa thượng mà ngồi ăn 3 bữa thì các quý vị thấy như thế nào, có đúng Thánh Tăng không? Phải không?
Người cư sĩ người ta ăn 3 bữa là đúng rồi, còn mình là tu sĩ tại sao mình lại giống người ta? Đó thì như vậy mình có xấu hổ không. Mặc y áo giống như Phật, thế mà ăn 3 bữa, sáng còn uống thêm ly sữa rồi ăn mấy cái bánh, rồi trưa ăn cơm, rồi chiều nói, thôi đói thôi bây giờ mình uống ly nước thôi, nước ngọt!
Thôi vậy thôi ăn luôn đi cho rồi chứ uống chi cái ly nước ngọt. Còn không thì thôi sáng mà uống ly sữa, thôi làm tô phở luôn đi, chứ để ăn làm chi cho mắc công. Cũng ăn cũng uống mà không thấy rằng những thực phẩm đó là bất tịnh.
Trong khi đức Phật dạy chúng ta quán thực phẩm bất tịnh chứ gì. Quán thân bất tịnh, quán thực phẩm bất tịnh, thế mà chúng ta quán cái chỗ nào mà nuốt hoài ngày nào cũng nuốt mà cũng không ớn, có ớn không? Như vậy là rõ ràng là không tu, mà chạy theo dục lạc. Giới luật của Phật, giới đó giới Sadi chứ không phải là giới Tỳ kheo đâu.
Đó, thì tất cả những cái sai này là chúng ta từ cái bắt đầu mà vị tu sĩ của chúng ta sai, là chúng ta sai suốt. Cho nên khi mình sai rồi mình hay che đậy. Mình che đậy cho nên mới đẻ ra cái kinh sách Đại Thừa. Cho nên mới nói ai mà nói quý thầy mà nói sai là tội đọa địa ngục, làm cho cư sĩ không dám nói. Do đó mình thả cửa mà chạy theo dục lạc không ai dám nói mình.
Cho nên bây giờ chùa thì cũng có quý thầy nhiều nhưng mà giới luật thì lỏng lẻo. Chỉ bây giờ thấy người ta ham thích phong trào Thiền Định thì nói Thiền nói Định này kia nói cho nhiều, nhưng mà sự thật ra ăn uống nhìn vào chỗ đó Thầy nói, thật sự ra không thanh tịnh, trên một cái nền tảng không thanh tịnh.
(55:22) Cho nên trong cái bài kinh Ước nguyện đức Phật có dạy, muốn ước nguyện một điều gì mà đạt được kết quả cái ước nguyện đó đó, thì giới luật phải nghiêm chỉnh thì ước nguyện chúng ta mới đạt được. Cũng như bây giờ Thầy ước nguyện rằng Thầy tu hành để chứng quả A La Hán, mà giới luật Thầy không được, Thầy không nghiêm chỉnh thì cái ước nguyện đó được không?
Bây giờ Thầy ước nguyện rằng Thầy sẽ nhập được Thiền Định mà trong khi đó giới luật không đúng thì sao, thì làm sao chúng ta có Thiền Định? Chỉ là thiền lừa đảo người ta mà thôi. Thầy nói thiền lừa đảo là tại làm sao, bởi vì cái nền tảng giới luật nó không nghiêm chỉnh thì làm sao cái ước nguyện này làm sao đạt được?
Cho nên cái này chỉ lừa người ta thôi. Nhập vào những cái định tưởng, rồi thấy ma thấy quỷ thấy thần thông thấy thầy thấy tổ gì trong đó, nói tùm lum ra. Do đó chúng ta cứ ngỡ tưởng rằng đó là đúng sao? Đạo Phật đâu có tu tập cái kì vậy, đâu có trạng thái này kia nọ, đâu có nói cái chuyện mà trên trời dưới đất vậy.
Thực tế là hôm nay tâm tôi có tham tui biết tôi có tham, tâm tui không tham tui biết tui không tham, mà tâm có tham thì tui biết nó là ác pháp tui ngăn, tui diệt tui không có cho nó tham nữa, thì nó sẽ hết tham, đó là một cái thực tế của đạo Phật.
Cho nên khi đức Phật nói: “Pháp ta không có thời gian đến để mà thấy”, thì đức Phật giải thích cái chỗ đó cho chúng ta nghe, thì: “Tâm tôi có tham tôi biết tâm tôi có tham, tâm tôi không tham tôi biết tâm tôi không tham. Tâm có sân tôi biết tâm tôi có sân, tâm không sân tôi biết tâm tôi không sân.”
Tâm không sân là tâm thanh thản, tâm an ổn chứ gì, là tui cứ sống ở đó thôi. Còn bây giờ tâm có sân thì tôi biết là ác pháp, tui ngăn tui diệt. Thì như vậy pháp của Phật có thực không? Mà khi mà tui ngăn diệt thì tui lại vô lậu, thì tui là A La Hán chứ gì? Chứ đâu phải là cái gì khác hết?
Cho nên tất cả giới luật nó xác định cho hành động của chúng ta có ly dục ly ác pháp hay không, có vô lậu hay không. Nhưng mà chúng ta phải biết rằng đạo Phật thì có chế ngự chứ không được ức chế. Là do vì vậy mà chúng ta muốn giữ giới cho nghiêm chỉnh, thì chúng ta phải có Giới Hành. Giới Hành tức là cái pháp để mà hành để cho giới luật được nghiêm chỉnh mà không bị ức chế thân tâm của chúng ta.
(57:29) Đó thì quý vị phải học từng đầu, phải học về những cái kinh giới cho thông suốt những kinh giới, rồi học về cái pháp hành, về giới luật. Bây giờ muốn ăn ngày một bữa thì phải quán bất tịnh chớ, phải quán thực phẩm bất tịnh chớ, không lẽ bây giờ muốn ăn một bữa cái tui cũng nhào vô tui ăn ngày một bữa. Rồi bắt đầu ăn không được, rồi nó đói rồi bắt đầu đi ăn lén, lại thêm một cái tội nữa, cái tội ăn lén ăn lút, có đúng không?
Bởi vì đói quá mà giờ không có pháp hành, mà đồ ăn thì thấy ngon. Tết nay sao mà bánh trái đồ nhiều, sữa bơ đồ nhiều, đồ ăn ngon quá, mà giờ để đó chịu hổng được, cái bụng nó cứ đói. Bây giờ nó mới lén mới lấy ăn, thêm một cái tội ăn vụng. Xấu xa quá, giữ giới không tròn mà còn thêm cái tội nữa!
Không Thầy nói quý thầy coi chừng, quý vị giữ giới mà không trọn thuộc về loại ăn vụng, ăn lén chứ không còn cái gì nữa hết. Bởi vì có Phật tử hổng dám ăn, sau đó Phật tử về hết rồi, ba bốn ông mới rủ ra sau vô trong cái buồng nè, mới ngồi ăn lén mà không dám đốt đèn nữa, ăn như quỷ vậy đó, quỷ đói.
Thầy nói thật mà, bởi vì mình làm cái chuyện gì gian xảo là mình phải giấu diếm, mà giấu diếm mà không thấy được cái lỗi nhỏ nhặt đó của mình, không thấy những cái lỗi quá tệ của mình. Cho nên thà không ăn một bữa, mà hễ ăn một bữa nhất định là phải giữ đúng, trước mặt cũng như sau lưng.
Đức Phật nói: “Ta giới luật trước mặt cũng như sau lưng”, thì mình phải thực hiện giống như Phật chứ, tại sao mình? Mình không biết cái pháp hành thì mình hỏi cái người mà người ta có kinh nghiệm người ta dạy cho mình.
Bây giờ giới ăn ngày một bữa thì bắt đầu mình không biết, mình thấy sao nó khó khăn quá, thì mình hỏi người ta, thì người ta dạy cho mình cách thức để khắc phục được, chế ngự được tâm mình, khắc phục được tâm mình, rồi từng đó nó thành một cái thói quen ăn ngày một bữa, nó đâu có thèm ăn nữa. Nó đã biết quá rõ rồi, ăn sáng cực nè, rồi chiều cực nè, chỉ trưa ráng ăn đó để mà sống thôi, nó cũng không thích nữa.
(59:22) Cho nên thậm chí khi mà người ta giữ được cái tâm thanh thản, 7 ngày đêm người ta không ăn mà nó vẫn khỏe mạnh. Bởi vì trong khi đó cái từ trường nó phóng ra, và người ta tu tập về Tứ Niệm Xứ người ta không có dụng công.
Mình ngồi dụng công mình tập trung trong hơi thở mình ra vô vầy, mình dụng công. Còn cái này người ta ngồi chơi, cho nên cái năng lượng ở trong người của người ta, tự cái tâm thanh thản an ổn nó phát triển cái năng lượng ra, nó làm cho người ta không còn thấy đói thấy mệt. Cho nên người ta không thấy đói, thấy mệt, nó không ham ngủ. Mình tại vì cái năng lượng của mình bị hao hụt cho nên nó buồn ngủ.
Bởi vì quý vị tu ngồi thiền giờ này đến giờ kia, sao bây giờ nó ngủ gục tới gục lui, mấy bửa đầu tôi tu không thấy vậy mà sao nay nó gục như vậy? Tại vì nó tiêu hao năng lượng của quý vị do quý vị dụng công, dụng công sai, cho nên quý vị phải buồn ngủ. Rồi nó lại sanh ra đói bụng. Tui tu sao hồi mới đầu tui tu sao nó ít đói mà bây giờ tui tu sao đói? Bởi vì tui dụng công nhiều, cũng như các ông nông dân ra cuốc đất nhiều phải đói bụng chứ sao.
Còn người ta tu như người chơi, cho nên vì vậy mà người ta ngồi cái tâm nó thanh thản, người ta không dụng công nhiều, người ta không cần dụng công nữa. Do đó cái năng lượng ở trong người của chúng ta nó dồi dào nó sung mãn, cho nên nó không đói nó không buồn ngủ. Ngồi suốt đêm nó tỉnh táo. Còn quý vị mà ăn nhiều ngủ nhiều, mà không ngủ nó lại mệt nhọc, đó là một cái tu sai.
(1:00:49) Cho nên đạo Phật dạy chúng ta tu đúng là chúng ta sẽ thấy sự giải thoát của nó cụ thể. Đó hôm nay Thầy nói như vậy, bây giờ nói là nói, nhưng mà tu phải có lớp, có thầy dạy, chớ không phải về muốn tu giới là ôm giới đại vô đó mà chết với giới, gọi là dùng giới ức chế, thì coi chừng nó sanh ra những cái tội lỗi khác. Như hồi nãy Thầy nói ăn lén ăn lút đó. Đó cho nên trong cái vấn đề này là cái vấn đề khó chứ không phải vấn đề…
(1:01:18) Xung quanh chúng ta nó có những cái từ trường ác, nó có những cái dòng ác của nó, cho nên chúng ta hở một chút nào thì nó tác động, nó làm cho chúng ta đau khổ đấy. Ức chế nó quá nó sanh bệnh, nó làm chúng ta còn đau khổ nữa.
Cho nên tuần tự mà cách thức tu học là phải được thân cận thiện hữu tri thức, người ta sẽ hướng dẫn cho mình. Khi mà sai thì người ta giúp đỡ cho mình biết cách để mình gỡ những cái sai đó, để cái từ trường của mình nó không tác động vô, chứ không khéo sai nó sẽ tác động. Nó tác động thành ra mình ráng cố gắng tu thì nó lạc vô thiền tưởng, cho đến khi mà nó làm cho rối loạn thần kinh chúng ta, nó trở thành điên khùng.
Cho nên nhiều người đã tu, mà cái trường hợp chúng ta quá tích cực, quá hăng say, quá ham tu, quá nhiệt tâm với cái sự tu tập, đi đến khi mà chúng ta bệnh đau rồi thì chừng đó thì ôi thôi, còn gì nữa. Chúng ta chỉ có cái bộ óc, bộ óc là bộ óc thông minh, loài người chỉ hơn loài vật là ở chỗ cái bộ óc của nó, mà không khéo chúng ta đã làm lệch bộ óc chúng ta một chút thôi, thì chúng ta cũng khó mà sửa lắm.
Bởi vì hầu hết là chúng ta thấy những người điên mà được bình thường trở lại là rất khó chớ không phải dễ. Đau cái tay chúng ta, hoặc đau cái chân chúng ta, hoặc là đau phổi đau gan nó dễ, chớ còn đau cái bộ óc là rất khó.
Cho nên vì vậy mà chúng ta đừng có sử dụng cái bộ óc chúng ta sai, mà nó lệch đi. Chúng ta ham tu là một điều tốt, nhưng tu phải có thầy, có sách vở hẳn hòi, đừng có dựa vào những kinh sách của mấy ông nhà học giả mà viết đó, nó không có tu hành được gì đâu.
Chỉ có cái tài mà lý luận, khéo lý luận tưởng, lý luận riết rồi chúng ta bắt đầu chúng ta tu mà chúng ta cứ tin tưởng vào đó là chúng ta sẽ đưa cả cái đời của mình vào cái chỗ chết mà mình không thấy. Bao nhiêu thế hệ chúng ta đi qua theo con đường của đạo Phật đã nhìn thấy ai đã làm chủ được sự sống chết này chưa?
Mà chưa thì chúng ta biết rằng trong đó có những người điên khùng chớ không phải. Thầy tổ chúng ta có những người điên khùng chứ không phải không, chứ không phải là người nào cũng là giải thoát. May mắn cái phước báo nó còn, cho nên nó không điên, và tu nó chưa, cái người đó chưa nhiệt tâm.
(1:03:10) Những cái người mà tu nhiệt tâm mới là dễ bị bệnh, còn cái người mà tu thường thường tu chơi chơi đó, tu thường thường thôi thì không có bệnh, nhưng mà nó không tới đâu. Còn cái người nhiệt tâm mới thấy trạng thái này thấy trạng thái kia, rồi mới thấy ma thấy quỷ thấy tổ thấy tiên gì đủ thứ nó hiện ra, đó là mấy người nhiệt tâm. Nhiệt tâm cho nên đến khi cái tưởng chúng ta nó hoạt động. Cho nên cái thế giới tưởng nó rất là nguy hiểm.
(1:03:32) Cho nên khi mà người ta nhập vào Nhị Thiền là nhập vào cái thế giới tưởng, cái thế giới chiêm bao đó, như trong giấc mộng của chúng ta, nó 18 cái loại hỷ tưởng ở trong đó. Cho nên khi mà cái người nhập vào cái này, người ta sẽ có những thần thông đó, chớ không phải không đâu.
Cái Nhị Thiền coi vậy chớ nó diệt Tầm Tứ, nó độc đáo lắm. Còn cái Tam Thiền thì nó chỉ ly hỷ trú xả, nó trú ở trong cái xả của nó thôi, tức là nó ly cái trạng thái của Nhị Thiền. Cái Tam Thiền nó ly, chỉ ly cái trạng thái của Nhị Thiền thôi, nó ly hết 18 cái loại tưởng này thì nó sẽ vào được cái Tam Thiền, hiểu chưa?
Cho nên khi mà nó ở trong Tam Thiền nó tiếp tục nó ly, nó ly cái, nó xả lạc xả khổ tức là nó xả cái lạc cái khổ, nó xả cái cảm thọ của nó. Thì khi mà nó xả cái hơi thở của nó thì nó nhập Tứ Thiền. Nó ở cái chỗ Tam Thiền, nó bắt đầu, nó đầu tiên thì nó ly hết 18 cái loại hỷ tưởng của Nhị Thiền, bởi vì cái trạng thái của Nhị Thiền nó có 18 cái loại hỷ tưởng.
Sau khi nó ở đó nó ly ra được rồi cái Nhị Thiền thì nó tiếp tục nó xả, nó xả lạc xả khổ xả niệm thanh tịnh, nó mới nhập Tứ Thiền. Phải hiểu được cái phương pháp, cái Tam Thiền nó quan trọng lắm. Nó đứng ở vị trí đó nó không phải là cái vị trí xả của nó, cái vị trí ly của nó thôi. Đâu tiên nó ly, sau đó nó xả.
Nó xả để nó nhập Tứ Thiền. Còn cái Tứ Thiền nó quan trọng lắm, nó ở Tứ Thiền nó thực hiện Tam Minh. Còn cái Tam Thiền nó không thực hiện được Tam Minh, nó chỉ có nhiệm vụ nó ở đó để nó ly nó xả.
(1:05:04) Còn cái Sơ Thiền là ly dục ly ác pháp ,nó tạo thành 7 cái năng lực của Giác Chi cho nên nó mới diệt Tầm Tứ, nó diệt ý thức, 6 cái thức của nó, mắt tai mũi miệng thân ý, nó dừng lại hết nó mới vào được cái Nhị Thiền.
Quý vị thấy cái Tứ Thánh Định của Phật, bốn cái Thiền của Phật rất độc đáo, mỗi một cái Thiền nó có một cái vị trí của nó, chứ không phải là nó giống nhau hết đâu, không phải đâu. Cái vị trí của nó làm cái nhiệm vụ gì thì ở cái Thiền đó nó sẽ làm cái nhiệm vụ đó.
Còn nếu quý vị mà thực hiện cái Sơ Thiền không được thì không bao giờ quý vị rớ tới cái Nhị Thiền chứ đừng nói tui ngồi đây hết vọng tưởng rồi, tui nhập Nhị Thiền. Thiền đó Thiền tưởng của quý vị tưởng ea chứ nó quý vị chưa có nhập đâu.
Nó diệt Tầm Tứ mà, nó diệt, tức là nó diệt cái ý thức của quý vị không có hoạt động. Mà nó diệt ý thức tức là nó phải diệt cái nhóm sáu thức của nó, sáu thức của nó là mắt tai mũi miệng thân ý thức, sáu cái chớ không phải một cái đâu. Mà nó diệt cái ý thức là nó phải diệt hết cái nhóm của nó, chớ nó đâu phải diệt một cái.
Cho nên khi nó diệt rồi, lỗ tai quý vị không nghe, tiếng sét cũng không nghe nữa. Cái Nhị Thiền nó cao lắm chớ không phải không, nó diệt mà. Trong bốn Thiền của đạo Phật chỉ có cái Nhị Thiền là diệt thôi chứ còn tất cả các cái khác nó không có diệt, nó chỉ ly xả thôi. Tứ Thiền nó cũng xả chứ nó đâu có diệt. Phải không?
Chí có cái Nhị Thiền nó diệt. Cho nên nó độc lắm. Cho nên nó phải có một cái lực của cái Sơ Thiền, nó phải có đủ lực nó mới diệt nổi. Cho nên khi mà Đức Phật mà nhập Nhị Thiền đó, thì trời sét gần đó mà hai con bò chết. phải không? Có cái câu chuyện đó mà, ông Phật không nghe tiếng. Đó Nhị Thiền đó.
Nếu mà Thầy không nói không biết ông Phật nhập cái Định nào mà không nghe trời sét, chà quá hay chứ gì? Nhưng mà không ngờ Nhị Thiền của người ta chứ đâu có gì đâu, nó diệt Tầm Tứ mà. Thấy rõ chưa?
Cho nên trong khi chúng ta biết rằng bốn Tứ Thánh Định của Phật nó không phải Thiền phàm phu đâu, nhưng mà mấy ông Đại Thừa cho nó là Thiền phàm phu, phàm phu mới tu Thiền này. Trời đất ơi! Sơ Thiền người ta ly dục ly ác pháp người ta nhập vào dòng Thánh rồi, Tu Đà Hoàn rồi, thế mà dòng Thánh mà lại còn phàm phu được sao?
(1:07:26) Trời, làm sao mà gọi là thiền phàm phu, mà khi mà ly dục ly ác pháp mà phàm phu được, phàm phu đâu có được? Phải không? Quý vị thấy rất rõ. Cho nên ở đây người ta chê cái Thiền, 4 Thiền của Phật là Thiền phàm phu, nhưng mà nó sự thật làm chủ được sự sống chết của chúng ta đó, có thấy đúng không?
(1:07:45) Cho nên ở đây mình phải đi vào con đường nguyên thủy của Phật, mình phải tu cái Thiền nào để nhắm vào cái chỗ mà làm chủ sanh tử. Chúng ta đối mặt với mặt trận sanh tử của chúng ta, nó đánh chúng ta gắt lắm.
Các vị tu tập rồi các vị thấy. Mở mặt trận mà chúng ta đánh nó, tức là ở trên Tứ Niệm Xứ là mở mặt trận đánh với giặc sanh tử đó, nó đánh chúng ta như thế nào? Nếu nó đánh chúng ta những cơn đau, nếu mà chúng ta không đủ một cái sức lực, không đủ nghị lực là chúng ta đầu hàng nó liền, đau quá chúng ta chịu sao nổi. Nhưng mà nó đánh chúng ta, bởi vì mặt trận sanh tử mà, nó đánh chúng ta cái mặt này.
Nó đánh chúng ta, rồi nó đánh tâm lý, nó tự nó lý luận nó đối chọi, cho nên trong người chúng ta nó có hai cái tư tưởng, bắt đầu nó đánh chiến tranh tâm lý. Nếu mà tâm lý của chúng ta thắng thì nó rút lui nó đi, mà nó bại thì nó xách chén nó đi múc cơm nó ăn.
Nó luận mà, ăn để cho mập, ăn cho nó có sức khỏe chứ nếu mà mình cứ khổ hạnh như thế này chắc nó chết tiêu lấy đâu mà tu. Nghe lý luận cũng tâm lý cũng đúng rồi, bắt đầu nó đi xách nó đi ăn, có phải không? Tức là thua trận rồi.
Mặt trận tâm lý của nó nó đánh mình ghê lắm. Giờ này nó buồn ngủ rồi, nó thôi đi ngủ lát nữa mình dậy mình tu chứ gì? Ôi nó đánh nghe nó ngọt ngào quá, cái đi ngủ, có phải không? Thua trận rồi đó.
Cho nên ở đây chúng ta biết được cái mặt trận nội tâm của chúng ta rất rõ, nó đánh về cái mặt, nó đánh kêu là đánh rát là nó đánh thọ. Ôi thôi nó đau, nó đau, cách gì nó đau muốn bứt gan bứt ruột rồi, đau bò càng bò nĩa. Thế mà cái người tu người ta gan dạ lắm, người ta ngồi sững thân lên, người ta không bao giờ mà người ta nằm xuống đâu.
(1:09:25) Nằm là đầu hàng nó rồi, ngồi sững lên, không lấy thuốc uống, ngồi đây. “Thọ là vô thường, rời khỏi thân ta, tao không sợ đâu, nhất định là tâm bất động đừng có dao động, đừng sợ nó”, cái nghị lực của chúng ta kiên cường, tận cùng nó nó đi mất. Đó là một cái người mà chiến đấu chiến thắng.
Bởi vì nghe người chiến thắng, Đức Phật đã nói mà, thắng trăm trận không bằng thắng mình một trận, phải không? Mà thắng được nó một trận rồi, có kinh nghiệm rồi, sau này mày đến mày đau là tao đánh mày bay đầu hết. Phải không?
Quý vị Phật tử mình là con cháu của Trưng Vương, Triệu Ẩu, là con cháu của Trần Hưng Đạo, Quang Trung, thế mà chúng ta đầu hàng giặc à? Nhất định là chúng ta có những anh hùng, đất nước chúng ta có những anh hùng, thế là chúng ta cũng là anh hùng trong mặt trận sanh tử chớ! Đầu hàng trước, giặc chưa đánh mà lo cuốn gói chạy rồi, thì như vậy là chúng ta dở.
Vì vậy mà từ đây về sau, các con là đệ tử, quý Phật tử là đệ tử của Thầy là phải những người chiến thắng như Thầy, không được thua, chết bỏ. Bởi vì bây giờ quý vị không chết mai mốt cũng chết, thà là mình chết ở trên bồ đoàn, chết trong giới luật hơn là chết để phạm giới, chết ở dưới bồ đoàn.
Người chiến sĩ ở ngoài mặt trận người ta chết trên lưng ngựa chứ người ta không chịu chết dưới lưng ngựa đâu! Còn mình luôn luôn chết cứ nằm, không chịu ngồi, dở quá dở.! Mà đệ tử của Thầy dở như vậy thì đừng có làm đệ tử của Thầy. Hễ làm đệ tử của Thầy là phải anh hùng! Nhớ chưa?
Nhớ rồi phải không? Người nào mà đau bệnh mà nằm xuống là nói “tui không phải đệ tử của Thầy Thông Lạc đâu nên bây giờ tui phải nằm”. Còn mà nếu đệ tử của Thầy Thông Lạc, nhứt định là ngồi thiền liền, tức khắc là không sợ, thì người này sẽ là chứng quả A La Hán. Thầy nói người nào mà gan dạ như vậy là chứng quả, không có thua đâu.
Đây là mặt trận sanh tử, mặt trận luân hồi, nếu mà chúng ta thắng được thì chúng ta không luân hồi, mà chúng ta thắng được là chúng ta làm chủ sanh già bệnh chết, nghĩa là chúng ta làm chủ bốn nỗi khổ của chúng ta. Chỉ có bấy nhiêu đó thôi không có gì hết.
(1:11:25) Cho nên đầu tiên quý vị đã nắm được, đã hiểu được là tâm thanh thản an lạc vô sự là không có tham sân si trong đó. Đây là cái lực mà không tham sân si, đây là tương ưng với chư Phật. Do khi mà chúng ta giữ tâm không dao động, bất động được thì chúng ta tương ưng với cái từ trường của chư Phật đang thanh thản an lạc sẽ tiếp viện cho chúng ta.
Cho nên khi mà chúng ta, thí dụ bây giờ cái thân này đau mà Thầy ngồi sừng sững vầy tâm không dao động, thì lúc mà tâm Thầy không dao động rồi, thì cái từ trường mà nó không dao động ở bên ngoài của chư Phật, của Thầy nó sẽ tiếp viện vô, cho nên lúc bây giờ chúng ta nghe không đau nữa, chứ một mình sức lực chúng ta sao chịu nổi. Nó nhờ có sự giao cảm, sự nương tựa vào nhau để vượt qua.
Cho nên “Đạo cảm ứng giao nan tư nghì”, giao cảm được cái sự khó khăn của đạo, cho nên giúp cho chúng ta vượt qua những cái khó khăn đó. Cho nên chúng ta phải giữ tâm tương ưng, cho nên mình biết rằng chư Phật sẽ hỗ trợ mình, cho nên mình giữ cho tương ưng với chư Phật thì sẽ được hỗ trợ.
Mà tâm mình dao động, không tương ưng thì mất luôn, không có làm sao mà tiếp nhận được, tức là mình tiếp viện quân không được, cho nên mình chịu thua. Còn cái này có quân tiếp viện rồi, bắt đầu mình giải thoát, giải phóng quê hương luôn! Phải không? Làm chủ. Cho nên tu hành như vậy mới tu chứ.
Sắp sửa rồi quý vị ở đây cũng có nhiều người sắp già sắp chết rồi, còn ngày hôm nay còn sống, ngày mai chết chúng ta không chừng. Hôm nay là đầu xuân năm nay, nhưng mà cuối xuân năm nay, trong cái số người chúng ta sẽ có người mất người còn, vậy thì chúng ta hãy mất ở trong cái chỗ nào cho xứng đáng làm cái người đệ tử của Phật, phải không.
Các bác các cụ lớn tuổi rồi phải lo, thứ nhất là Thầy khuyên cố gắng thường xuyên nhắc tâm Như Lý Tác Ý: “Tâm thanh thản an lạc vô sự.” Trước ác pháp nhắc: “Tâm thanh thản an lạc vô sự; tất cả đều là vô thường không có giận hờn, không có phiền não.” Con cái lớn khôn mặc tình không được rầy rà nó nữa, phải không? Rầy tức là có giận hờn mới rầy.
(1:13:28) Cho nên vì vậy mà không giận hờn, dạy bảo khuyên lơn, “con hãy làm cái điều này thế này” thôi, còn nghe không nghe quyền nó. Còn mình có bổn phận mình nói thôi, đừng có để cho tâm mình phiền não mà giận hờn mới rầy la nó thì không được. Đó là tự làm khổ lấy mình.
Cho nên luôn luôn giữ tâm thanh thản an lạc vô sự. Lúc nào các bác các chú các cụ lớn tuổi rồi, phải giữ gìn cái tâm này thì sẽ tương ưng với Phật, và đồng thời sẽ không tái sanh luân hồi nữa. Bởi vì từ trường này nó, khi mà cái tâm này nó thanh thản nó không tác động được, thì coi như nó bị hóa, nó bị chuyển hóa hết.
Còn nếu mà để nó tác động chúng ta đau khổ, thì coi như là khi mà thân chúng ta bỏ rồi thì nó có duyên nó tác động nó đi tái sanh luân hồi, nó tiếp tục nữa. Cho nên nó tác động mình không được thì nó bị chuyển hóa hết, nó không còn tác động được, cho nên tâm bất động.
Bây giờ thân Thầy đau nè, phải không, nó tác động Thầy đó, nó tác động cái tâm Thầy, nó làm cho Thầy quá sợ đó. Thầy vẫn giữ tâm không sợ, không dao động, nó tác động không được. Nó tác động không được thì nó không tái sanh đâu.
Cho nên cái tâm của Thầy bất động rồi, thì cái từ trường của Thầy hoàn toàn nó rất thiện, nó vô lậu rồi, cho nên Thầy tương ưng chư Phật rồi. Hết! Thầy chấm dứt một cuộc đời của Thầy không còn tái sanh nữa, vì tái sanh rất khổ, làm thân nhiều kiếp nhiều đời quá khổ.
Cho nên các bác các cụ lớn tuổi rồi hãy cố gắng nhớ lời Thầy, Thầy trao cái pháp Như Lý Tác Ý này để cứu các bác các cụ. Mặc dù tu chưa xong nhưng vẫn giữ tâm bất động cho Thầy, thì chừng đó sẽ gặp Thầy Thầy sẽ cứu độ cho. Bởi vì tương ưng với Thầy, dù muốn dù không thì cái lực của Thầy cũng phải trợ à.
Còn không tương ưng với Thầy bây giờ Thầy có muốn cứu cũng không được nữa. Nghĩa là một người chết chìm mà không chịu đưa tày thì không bao giờ ai cứu họ được. Mà mình đang bị chết chìm nhưng đưa cánh tay lên thì cánh tay đó là bất động tâm đó các con, sẽ có cái lực khác người ta lôi mình lên.
(1:15:22) Bởi vì mình có cái hướng đi, mình có cái hướng đó rồi, còn mình không đưa tay là mình chìm, chịu chết ở trong những cái dục lạc thế gian rồi, thì không ai mà cứu mình được hết, người ta đành bỏ. Thương thì thương nhưng không thể cứu được, bởi vì cứu được mấy con mang cái tâm tham sân si lên cái từ trường thiện đó chắc là tiêu tan của người ta hết, phải không?
Mang cái tham sân si lên đó là tiêu tan sự nghiệp tới đó hết rồi, ai mà dám mang. Trừ ra mấy con phải bất động thì người ta mới dám mang mấy con chớ! Phải hiểu chỗ đó chớ. Đó thì phải nhớ nghe.
(1:15:52) Các cụ lớn tuổi rồi, còn trẻ trẻ, đừng nói rằng mấy cụ già chết chứ tụi tui không chết đâu, không có đâu. Đi ra kia xe đụng cái là bể đầu liền chết tức khắc đó, đừng có nói chuyện không chết đâu! Cho nên vì vậy mà cũng phải chuẩn bị cho mình, phải tu tập cho rốt ráo, có 7 ngày 7 tháng 7 năm thôi, đâu có nhiều.
Mà sau khi tu rồi mình làm chủ rồi thì đâu còn lo nữa, hết lo rồi. Đâu còn phải tu hoài, đâu còn phải tui vô chùa tui gõ mõ tụng kinh hoài! Nghĩa là tôi tu xong rồi không gõ mõ tụng kinh nữa, có phải đúng không?
Còn bây giờ theo Thầy thấy, một ông thầy già tới cuối cùng, nếu mà không có chúng tụng kinh ổng cũng lên gõ mõ tụng kinh, nếu không để cái chùa vắng hoe thì cũng không được. Cho nên vì cái vấn đề này nó không phải. Đạo Phật tu tới cái giai đoạn mà làm chủ rồi nghỉ không tu nữa, chơi. Ngồi chơi không có làm gì hết à, Thầy nói vô sự rồi mà đâu có hữu sự nữa.
Cho nên trong khi tu nỗ lực phải tận cùng, bởi vì cái thời gian, có cái thời gian nhất định cho sự tu tập chúng ta, đừng có chểnh mảng, đừng có dễ dãi. Mà bữa nay sống ngày mai chết không chừng, bữa nay mạnh ngày mai đau không chừng. Đau khó tu lắm không phải dễ đâu.
Thầy nói là nói, chứ quý vị mà khi đau rồi quý vị mà ngồi giữ cái thân mà sừng sững để mà chiến đấu nó là một cái người phải có nghị lực lớn, là một cái người phải gan dạ, phải là những cái bậc gọi là Thầy nói, phi thường, chứ còn cái bậc mà không phi thường thì chịu không nổi đâu.Nó khó, khó vô cùng chứ không phải dễ đâu. Ở trong bụng mà nó ung thư trong đó nó đau nó nhức, gồng mình lên mà chịu chứ đừng có nói!
Vậy cho nên vì vậy, trước khi mà chuẩn bị cho cái sự chiến đấu này thì quý vị phải tập luyện, phải tập luyện về 18 cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở, mỗi đề mục của nó để giúp cho chúng ta những cái điều kiện cần thiết sau khi gặp những cái chướng ngại pháp, cái ác pháp tác động trong thân tâm của chúng ta, để mà chúng ta có cái phương pháp đẩy lui. Chứ nếu mà không tập luyện những cái này thì chúng ta đẩy lui không có được đâu. Nhớ chưa? Nhớ kỹ chưa?
(1:17:42) Lần lượt thì Thầy cố gắng Thầy soạn thảo cái giáo trình tu học lớp Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, sau đó có những người mà chứng quả A La Hán, họ sẽ đứng từng lớp họ dạy trong cái này.
Bây giờ giáo trình giáo án có rồi mà giáo sư không có thì lấy gì dạy, phải không? Không lẽ Thầy dạy từ lớp thứ 1 này cho tới lớp thứ 8 này, chạy lên chạy xuống chắc là Thầy dạy không nổi đâu, sức của Thầy dạy không nổi đâu! Cho nên phải có 8 người.
Còn bây giờ cái nhiệm vụ của Thầy là soạn cái giáo trình, nghĩa là đọc hết cái tạng kinh Nguyên Thủy của Phật, cái bài kinh nào thuộc về cái lớp Chánh Kiến để ra cái lớp Chánh Kiến, cái bài kinh nào thuộc về lớp Chánh Tư Duy thi để qua cái lớp Chánh Tư Duy, để rồi kết hợp nó lại thành một cái cái giáo trình cho một cái lớp tu học thứ nhứt, thứ nhì, thứ ba, tư cho đến thứ tám của nó, đó là Bát Chánh Đạo đó.
Đó thì sau khi mà có lớp học thì Thầy nghĩ rằng cái lớp mấy con chắc chết hết rồi, tới cái lớp con cháu mới được tu! Chứ bây giờ làm sao Thầy làm kịp, mình Thầy làm đâu có kịp. Cho nên cái lớp con cháu mình có phước hơn.
Bây giờ thì cả những cái mê tín những cái sai ở trong Phật giáo thì Thầy đã dẹp nó xuống hết, để dựng lại những cái đúng của Phật giáo, phải không? Bây giờ con cháu chúng ta sau này, hiện giờ thì mấy con thì dao động, đọc sách Thầy nghe nói dao động quá, nó làm cho không biết đường nào mà tu.
Hồi nào tới giờ tôi tin tưởng kinh sách Đại Thừa, tui tu Thiền dữ tợn, tui niệm Phật cũng luôn, nhưng bây giờ Thầy nói như vậy, trời ơi như vậy là sai hết rồi, chết rồi, không biết làm sao? Dao động không biết thế nào!
(1:19:16) Thì cái lớp của mấy con là lớp dao động, nhưng lớp con cháu chúng ta nó vững vàng. Bởi vì nó biết, bởi vì sau khi dao động đó thì nó sẽ hết dao động, phải không? Cho nên cái lớp con cháu chúng ta sau này đi theo đạo Phật, và đạo Phật không phải là một tôn giáo, Thầy xác định điều này.
Cho nên trong kinh Pháp cú đức Phật thường ca ngợi Bà La Môn, một Bà La Môn đúng và một Bà La Môn sai. Cái mục đích của đạo Phật ca ngợi Bà La Môn, cái mục đích của đạo Phật có xây dựng Phật giáo không? Không xây dựng Phật giáo mới ca ngợi Bà La Môn chứ, các con hiểu điều đó!
Nhưng mà các tổ chúng ta sau này vì tham vọng mới đưa ra lấy cái danh hiệu của Phật, gọi là Phật đó, mới đặt ra là Phật giáo, để làm cho có một cái tôn giáo. Mà hễ tôn giáo, có tôn giáo thì chia chẻ với các tôn giáo khác, nó phân ra.
Nhưng mà cái nền đạo đức, cái chơn lý của đạo Phật là chơn lý của loài người chứ đâu phải là chơn lý của một tôn giáo, có phải không? Khổ, Tập, Diệt, Đạo đó, là cái chơn lý của loài người. Cho nên cái giáo pháp của Phật là cái giáo pháp của con người chứ không phải là giáo pháp của tôn giáo! Do như vậy nó là cái nền đạo đức của loài người, vì vậy nó không còn ranh giới.
Cái người có Thiên Chúa, có tôn giáo khác vẫn thực hiện cái đạo đức này được, người không theo tôn giáo nào hết cũng thực hiện được, chứ không khéo người ta nói đạo đức này là đạo đức của Phật giáo, Phật giáo tu chứ mình không có rớ tới cái này. Cái này của Phật giáo, nếu mình rớ tới nó mình bị tôn giáo thì sao? Mình phải theo Phật giáo chứ gì, cho nên Phật giáo không có rớ tới đâu!
Sau này các tổ mình vì tham vọng mới đưa nó thành một cái tôn giáo để cho mình làm giáo chủ. Ông Phật ổng đâu có ham làm giáo chủ, mình phải hiểu được cái ý của đức Phật.
Cho nên trong kinh Pháp cú đức Phật, những cái bài kinh ngắn, mà đức Phật xác định Bà La Môn đúng và Bà La Môn sai, nói cái tâm vô lậu là Bà La Môn chứ không có gì hết. Nnghĩa là ca ngợi một Bà La Môn đúng, một Bà La Môn gõ mõ tụng kinh thì đức Phật chê, có phải không? Chỗ mà chú thuật tụng kinh, rồi dòng họ 7 đời, rồi đẹp trai, đức Phật bác hết, mà chỉ có giới luật với trí tuệ mà thôi.
(1:21:19) Có đúng bài kinh Sonanda đó, phải không? Thì các con thấy rõ ràng là đức Phật dựng lại cái đúng, mà dẹp cái sai của Bà La Môn để trở thành Bà La Môn đúng, chứ đâu có nói rằng Phật dâu? Đâu có nói ông Phật này giới luật hay hoặc là trí tuệ đâu, mà nói Bà La Môn. Có đúng không?
Như vậy bây giờ chúng ta phải tu giới luật thì tức là chúng ta Bà La Môn chứ sao. Nhưng mà Bà La Môn đúng, nhưng mà Bà La Môn đúng là mọi con người chớ không phải Bà La Môn nữa! Chúng ta phải hiểu.
Đâu ông Phật ông đâu có dựng cái Bà La Môn làm cái chi nữa, ổng bác Bà La Môn người ta muốn sập hết rồi. Ổng dựng lại những cái đúng cho loài người để mà chúng ta thực hiện được cái sự giải thoát cho chúng ta. Cho nên mọi người đều thực hiện được.
Thầy ước ao rằng 8 cái lớp học này và ba cái cấp bậc học này là của loài người chớ không phải của Phật giáo nữa. Của chung hét, hễ người nào đến với cái đạo đức, hễ có mặt là con người thì phải học, nếu không học đạo đức này là một con thú vật, có phải đúng không?
Chúng ta là một loài động vật chứ gì, nhưng không đạo đức là con vật chứ gì? Con vật có đạo đức không? Không! Cho nên vì vậy chúng ta là con người phải có đạo đức, đạo đức làm người. Rồi chúng ta bước qua một cái giai đoạn để vào dòng Thánh thì chúng ta đạo đức làm Thánh, thì như thế nào?
Nếu mà Thánh thì phải nhập được Thiền Định, làm chủ được sự sống chết, phải không? Thì mới là Thánh. Còn con người thì chúng ta chỉ cần giữ cái đạo đức không làm khổ mình khổ người, mọi người xung quanh chúng ta, đừng làm khổ ai hết đừng làm khổ mình thì cái cuộc đời chúng ta hạnh phúc lắm rồi, có đúng không? Đó là cái đạo đức làm người.
(1:22:52) Bây giờ đạo đức làm Thánh tăng thêm một bậc nữa, là bây giờ bệnh đau đuổi đi khỏi uống thuốc, phải không? Chết, muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống, kéo dài tuổi thọ thêm bao lâu cũng được, phải không?
Còn sanh thì không có sanh vào ở chỗ mà thai sanh, thấp sanh, noãn sanh mà sanh vào chỗ hóa sanh, hợp duyên lại, tạo thành một con người thiện hoàn toàn đẹp đẽ, phải không? Như vậy là hóa sanh chứ không phải biến hóa đâu. Các con đừng có hiểu rằng hóa sanh là biến hóa, không phải. Mà hóa sanh bằng cách thức tâm lực.
(1:23:25) Hồi nãy Thầy có nói 7 cái Giác Chi chứ gì, 7 cái năng lực chứ gì? Các con không có ngờ phải không, để Thầy nói cái lực của nó. Khi mà chúng ta thực hiện pháp Thân Hành Niệm thì nó có 10 cái Như Lai Lực, 10 cái thần lực của nó.
Thì cái lực đầu tiên nó xuất hiện ra mà cái Tinh Tấn Giác Chi xuất hiện ra, thì khi mà chúng ta giở chân bước lên, thì có cái lực đẩy cái chân chúng ta lên. Khi chúng ta đưa cái chân tới, có cái lực tự đẩy chân chúng ta tới. Để xuống, nó có sức hút xuống. Các con thấy cái lực của nó có rồi. Bây giờ một cái người đó mà sử dụng cái lực đó đi trên mặt nước được không mấy con?
Cho nên nói sao mà có ông Phật ổng đi trên mặt nước được, khi mà ổng lôi đầu ông Ca Diếp ra ngoài sông, các con nhớ cái chỗ đó không? Ông có nói gì về thần thông không, tôi lôi ổng ra đây, nếu mà không thực hiện thần thông được tui nhận ông uống nước chết đó. Thì ông Phật ổng đi trên mặt nước chứ gì, ổng dùng cái thần lực đó đó, ổng đi trên mặt nước.
Cho nên chúng ta tu tập, chúng ta muốn thử, chúng ta đi ở trên mặt đất này, chúng ta bảo “cái lực hãy đưa cái thân nhẹ lên, đi trên khỏi mặt đất” thì chúng ta thấy nó bước vầy nè, nó bước ở trên mặt, ở trên nền nhà mà bước khơi trên nó giống y như ma như quỷ vậy đó! Không, cái lực của nó nó đẩy mà. Cho nên đi trên mặt nước nó không chìm là tại vì nó đi khơi ở trên mặt nước, nhưng mà nó vẫn bước, cái lực nó đẩy đưa chân tới đưa chân lui.
Nó rõ ràng ơ trong, đọc lại cái bài pháp Thân Hành Niệm ở trong kinh nguyên thủy của Phật đó, Trường Bộ có mà Trung Bộ cũng có cái bài pháp Thân Hành Niệm. Thầy đọc lại thấy khi mà chúng ta tu tập nó kiên cố như cổ xe rồi thì cái thần lực nó hiện ra, tức là Tinh Tấn Giác Chi chứ không có gì hết.
Nó làm cho cái thân của chúng ta rất tinh tấn, nó nhịp nhàng nó đi nhẹ nhàng uyển chuyển ở trên cái mặt nước, ở trên cái mặt đất rất là nhẹ nhàng. Đã đủ biết rằng Phật giáo nó có thần thông chứ không phải không, nhưng mà ông Phật không có chấp nhận.
Ổng nói cái chuyện này không phải, mà cái chuyện vô lậu mới đúng, cái chuyện tâm bất động mới đúng. Nghĩa là người ta chửi không giận, tâm có tham biết tham, đuổi cái tham ra đi đừng có để chấp nhận nó, thì cái này là cái đúng, còn cái này là chỉ chơi thôi. Mình thấy nó hay nhưng mà ông Phật chỉ chơi thôi.
Còn cái Định mà làm chủ được sự sống chết qua hơi thở, tịnh chỉ hơi thở, ông Phật ổng ví dụ như thế nào? Như cái dao mà đâm vô ngực mình. Các con đọc bài kinh Sonada chưa, cái bài kinh cái ông gì mà ổng nói ổng đau quá đó, thì ổng lấy cái dao ổng xin phép Phật ổng đâm ổng, thì đức Phật đem cái bài kinh đó so sánh với Tứ Thiền đó mấy con, dám đem cái bài kinh mà so sánh Tứ Thiền.
(1:25:51) Tứ Thiền là một cái lực tịnh chỉ hơi thở, tâm rất là an lạc. Các con có nghe nói cái trạng thái Tứ Thiền không, rất là an lạc. Nó hơn cả Nhị Thiền, hơn cả Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, cái trạng thái nó rất là an lạc. Thế mà ông Phật dám so sánh với cái mũi dao mà đâm vào ngực thì đủ biết.
Khi một người mà nhập diệt người ta bỏ thân người ta, người ta nhập vào Tứ Thiền người ta tịnh chỉ hơi thở, rồi người ta xả cái trạng thái của Tứ Thiền ra thì người ta mới vào Niết bàn.
Cho nên vì vậy mà nhập vào cái Tứ Thiền thì cái hơi thở nó ngưng rồi, nó không còn thở nữa, cho nên cái thân này như chết rồi. Bây giờ người ta xả cái trạng thái, cái Tứ Thiền thôi thì cái thân nó đâu có thở đâu, người ta mới vào Niết Bàn luôn thì cái thân này nó mới chết.
Cho nên các con đọc lại trong cái bài kinh Niết Bàn chứ gì. Các con thấy khi mà đức Phật nhập ba lần từ Sơ Thiền đến, ở trong kinh thì thường nói nói đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, rồi nhập xuôi nhập ngược chứ gì, nhưng mà sự thật nhập có Tứ thứ Thiền thôi, nhập xuôi nhập ngược.
Bởi vì những cái Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ với Diệt Thọ Tưởng Định, Không Vô Biên Xứ đức Phật đã nhập, đã bỏ nó lâu rồi. Hồi mới đầu tu đức Phật đã nhập những cái điều này đức Phật đâu, bây giờ mấy ông tổ mình mới kết vô, lấy của ngoại đạo kết vô làm cái con đường tu tập như vậy đó, đó là cái sai.
Cho nên khi mà nhập đến Tứ Thiền rồi thì đức Phật mới xả bỏ báo thân của mình mới nhập Niết Bàn đó. Các con có nhớ chỗ đó chưa, chỉ có Tứ Thiền mới tịnh chỉ hơi thở.
Bởi vì cái phương pháp của Phật nó cụ thể nó rõ ràng để giúp chúng ta thấy rất rõ con đường tu của chúng ta mà. Chứ còn nếu mà bây giờ chúng ta nói Thiền nói Định mà nói tui cũng tự tại sanh tử, nhưng mà người ta đâu có rõ ràng như vậy.
(1:27:40) Các con nghe Thiền Tông như gia đình ông Bàng Uẩn chứ gì, họ tự tại trong sanh tử chứ gì? Cô con gái thì gạt ông già mình, chạy ra xem mặt trời coi, phải không, thì cô trèo lên sàn thiền cô tịch liền. Nhưng mà tịch bằng cái thiền định nào đây? Không nói. Như vậy là không thật rồi.
Ông Bàng Uẩn chết cũng tự tại, bà Bàng Uẩn chết cũng tự tại, đứa con trai cày ở ruộng cũng chết tự tại, phải không? Các con thấy rõ ràng cái gia đình này là gia đình Thiền Định, nhưng mà Thiền Định nào đây, mà làm sao tự tại này? Không nói ra.
Nhưng mà ông Phật nói ra rõ, ba lần nhập chứ không phải một lần nhập, trong từ Sơ Thiền tới Tứ Thiền mà ba lần, để nhắc nhở chúng ta rõ ràng phải không. Cho đến Tứ Thiền, tại Tứ Thiền thì đức Phật ngưng tại chỗ đó, mới xả Tứ Thiền mới nhập vào Niết Bàn.
Chứ không phải Nhị Thiền, không phải Tam Thiền mà Tứ Thiền, có đúng không? Nếu Tam Thiền, nó còn thở làm sao mà xả được, phải không? Mà Nhị Thiền thì nó diệt ý thức, nó diệt 6 thức nó thôi, chứ nó đâu có diệt hơi thở nó đâu, cho nên nó còn thở, làm sao được. Chỉ có Tứ Thiền mà thôi. Con thấy đúng không?
(1:28:30) Cho nên do cái sự tu tập của chúng ta phải biết được cái pháp đúng pháp sai. Còn nếu pháp sai thì người ta nói suông suông không à, rồi người ta huyền thoại cái câu chuyện nghe rất hay nhưng mà sự thật ra không biết cách, không có nắm được ở trong tầm tay của mình.
Còn đạo Phật nói chứng quả A La Hán đâu phải nói ngoài tầm tay của chúng ta. Chúng ta nghĩ quả A La Hán là phải có thần thông, phải có Tam Minh, phải biết chuyện quá khứ vị lai, đó là ngoài tầm tay của chúng ta. Còn quả A La Hán mà đức Phật nói ở trong tầm tay chúng ta nắm được, là tâm tôi có tham tôi biết tôi có tham, tâm không tham tôi biết tôi không tham.
Mà tâm không tham tức là quả A La Hán tại chỗ này chứ đâu, tôi nắm trong tầm tay tôi được nè! Mà bây giờ nó có tham tôi biết tôi ngăn diệt nó, tui biết cái cách thức tôi xả nó rồi thì tôi không tham chứ sao? Thì quả A La Hán ngay ở chỗ bàn tay tôi nắm được rồi, đâu có cái gì khó đâu.
(1:29:18) Cho nên Thầy nói quả A La Hán một giây, một phút, có đúng không? Mà trong một giây một phút đó cho đến khi nó đủ thần thông thì nó hoàn thành được cái quả A La Hán. Nhưng mà cái thần thông này đức Phật có cần không? Chỉ cần cái tâm không tham sân si thôi. Như vậy là rõ ràng là cái chỗ A La Hán chúng ta làm được mà!
Bây giờ tâm quý vị có tham bây giờ không? Có sân bây giờ không? Có đói bụng muốn ăn bây giờ không? Chưa, không có nè. Thì như vậy là nó đâu có tham sân đâu, thì quả A La Hán ngay chỗ đó chớ. Ông A La Hán ông cũng giống mình như vậy à, nhưng mà ông không có lát nữa đòi ăn, còn mình thì khác, chút đói thành ra đòi ăn, còn ổng thì khác.
Cho nên do cái chỗ vô lậu chúng ta thấy rõ, mà hữu lậu chúng ta thấy rõ. Có phải không? Cho nên trong cái con đường tu của đạo Phật rất thực. Nhưng mà chúng ta phải nỗ lực, phải giữ gìn, phải bảo vệ cái tâm thanh thản an lạc vô sự chúng ta, thì mới hoàn toàn, mới hoàn thành được con đường mà chúng ta đi, mới hoàn thành được sự làm chủ chúng ta muốn.
Chớ còn nếu mà không chúng ta chỉ có một giây vậy, chúng ta nói tui chứng quả A La Hán một giây rồi thôi, ba bốn giây sau nó thành ra Ngạ Quỷ, nó đi ăn đi uống nó đi chửi lộn người ta! Trời đất ơi bây giờ A La Hán gì mà nó dữ thế này? Các con hiểu chỗ đó chưa? Nó dữ quá như vậy.
Cho nên do cái chỗ mà tu tập của chúng ta phải biết từ một giây đó mà chúng ta huân. Cho nên đức Phật mới xác định Nhất Dạ Hiền là một đêm chứ gì? Theo bài kinh Nhất Dạ Hiền chứ gì. Rồi bày ngày chứ gì, rồi bảy tháng chứ gì, rồi bảy năm.
Nếu mà tui giữ cái tâm tui thanh thản an lạc vô sự trong một đêm, 12 tiếng đồng hồ mà chưa hoàn thành thì tui tiếp tục giữ nữa. Cho đến bảy ngày, bảy ngày hoàn thành thôi, mà không hoàn thành tui tiếp tục bảy tháng. Bảy tháng không hoàn thành tui tiếp tục bảy năm. Nhất định là bảy năm là cái giá chót của thời gian của chúng ta. Có phải đúng không?
Cho nên vì vậy mà nó đâu phải là khó đâu, tầm tay chúng ta nắm được cái quả vị đó chớ! Chúng ta biết rất rõ mà. Cho nên đức Phật ổng mới xác định “Pháp ta không có thời gian đến để mà thấy”, thấy kết quả ngay liền. Cái câu nói đó, Thầy nói hay hoặc đức Phật nói? Đức Phật nói.
Cho nên rõ ràng là Thầy chỉ giải thích cho mấy con thấy cái quả vị A La Hán không phải đợi chúng ta có Tam Minh mới là A La Hán, mà ngay bây giờ vô lậu là chúng ta có A La Hán ngay trong một giây rồi.
Nhưng một giây này nối tiếp giây khác, nối cho tới cuối cùng là bảy năm, chừng nào mà chúng ta đủ thần lực mà chúng ta làm chủ được sự sống chết, chiến thắng được giặc sanh tử, thì lúc bấy giờ mới thôi. Còn chưa làm chủ, nhất định là phải giữ cái quả này, cái quả vô lậu này cuối cùng. Nhớ chưa, mấy con thấy chưa?
Như vậy mới là thật là người tu, chứ còn nếu mà nó dễ quá, bây giờ tui vô tui nắm được nó rồi bắt đầu tui chứng. Trời đất ơi, thế gian này A La Hán hết ráo rồi đâu còn, phải không? Như vậy là A La Hán quá dễ, đâu phải dễ đâu!
Chúng ta đã từng bao nhiêu đời huân cái tham sân si, bây giờ chỉ một giây mà chúng ta biết được cái quả của nó là may lắm rồi, có người chỉ điểm, chứ không khéo chúng ta chưa biết cái giây A La Hán này đâu!
Cái giây mà chứng quả A La Hán này các con chưa từng bao giờ biết. Thế mà chúng ta biết rồi chúng ta nắm giữ nó từ một giây đến hai giây có thể được, ba giây có thể được, bốn giây có thể được. Rồi một giờ, hai giờ, một ngày, hai ngày có thể được chớ! Từ một cái nắm được thì phải nỗ lực nắm, chứ đừng có thấy đau rồi nằm xuống đó thì không được.
Phải không? Cho nên vì vậy mấy con phải nỗ lực tận cùng. Làm con người mà, chúng ta phải vượt lên chứ đừng có để mà đầu hàng trước cái giặc sanh tử này. Con người phải có trí tuệ, loài người là phải hơn loài vật ở chỗ chúng ta phải biết.
Mà đã biết cái đời là khổ rồi, có cái gì đâu mà thật. Thử nghĩ giàu có làm vua, cuối cùng chết có mang được cái gì không? Toàn là còn lại, để lại những cái nghiệp ác nghiệp thiện để tiếp tục tái sanh mà thôi.
Một cái đời nay chúng ta làm tổng thống đi, chết đi biết bao nhiêu mà thân xác người chết, thì cái người này nọ sẽ sanh cái gì? Đâu phải làm tổng thống nữa đâu! Quý vị cứ hiểu rằng đừng có nghĩ rằng họ làm tổng thống đời nay mà đời sau họ làm tổng thống đâu, họ phải trả biết bao nhiêu nghiệp.
Một anh hùng mà chúng ta ca ngợi, thì cái vị anh hùng này phải trả biết bao xương máu của người ta không? Mình thắng trận được mình giết bao nhiêu người không? Mình còn ác nữa, hồi đó nó bắt mình nó đánh đập, bây giờ đó thắng trận rồi giết sạch nó xuống hết.
(1:33:40) Thì các con biết những cái người mà làm tướng họ đâu phải là thiện pháp hết đâu. Cho nên vì vậy mà họ phải thọ cái quả của họ. Họ đâu có phải luôn luôn lúc nào cũng làm tướng đâu, họ phải chịu biết bao nhiêu cái thân mạng khác để mà trả cái quả đó. Vay một phải trả mười chứ không phải ít.
Cũng như bây giờ chúng ta chỉ ăn một con cá lòng tong thôi, ngày mai chúng ta phải sanh ra mười con cá để chúng ăn mười lần, chúng ta phải chết mười lần, có khổ không? Hồi đó có một con cá nó khổ có một cái thôi, chúng ta bỏ trong miệng nhai nuốt, sau này chúng ta làm mười con cá chúng nhai mười lần, có phải đúng không? Đừng có nghĩ rằng một trả một đâu.
Cho nên mình, thí dụ như, cái thân của chúng ta nó trở thành cái mồ chôn xác của chúng sanh, thì muôn đời ngàn kiếp chúng sanh sẽ ăn chúng ta cũng trở thành như vậy đó, nó không có sai đâu. Cái luật nhân quả nó công minh, nó công bằng lắm, nó không tha thứ người nào hết. Trừ ra người đó vô lậu là nó không tác động được, tức là chúng ta chuyển hóa nhân quả, nhân quả không làm chủ chúng ta được.
Cho nên cái tu tập của các con là cái tu tập làm chủ nhân quả. Làm chủ nhân quả tức làm chủ sự sống chết. Bởi vì nhân quả nó làm chủ sống chết, nó muốn các con chết là các con nói bảo cho tôi sống thêm nó không cho đâu! Nó bảo thân con bệnh là con phải bệnh, nó bảo bệnh nhẹ là nhẹ nó bảo bệnh nặng là nặng con không có từ chối được nó.
Bây giờ đương ngồi như vầy, nó bảo là đứt mạch máu não nè, liệt nửa thân là liệt nửa thân, không có chạy đi đâu được, nằm đó có người đỡ, ăn uống có người đút. Chứ nó đã đến cái lúc đó là nó bảo như vậy là như vậy chứ không cãi được. Nhưng cái người tu theo đạo Phật thì không được, anh nhân quả này không được làm chủ cái điều này!
(1:35:25) Đó thì các con biết. Bởi vì mình làm chủ nhân quả. Mà nhân quả là một cái môi trường sống của chúng ta trong vũ trụ, cho nên cái quy luật của nó nó giữ gìn những cái trật tự của nó ở trên hành tinh chúng ta. Mọi hành tinh, mọi ngôi sao trên này nó có cái quy luật của nhân quả, cho nên nó không bị đảo lộn, nó ghê gớm lắm. Vậy mà có người chúng ta làm được như vậy.
Cho nên đức Phật nói: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn.” Phải không? Chỉ có con người mới làm được như vậy, chứ không phải là ông Phật. Mà ổng nói loài người chúng ta, con người là làm được điều này, mà ổng là tượng trưng cho một người đã làm được điều này. Trên trời, dưới trời nghĩa là khắp cùng chứ gì, duy có con người là duy nhất mới làm được điều này.
Cho nên ông Phật làm được, Thầy làm được, các con cũng sẽ làm được, không ai không làm được. Ông Phật ổng đã tuyên bố rồi, có phải cái ngày mà đức Phật tuyên bố trong bài kệ đó không: “Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn, Nhất thiết … Sanh lão bệnh tử.” Có phải không?
Ông Phật đã tuyên bố cái câu đó mà, cũng như là tuyên bố cái tuyên ngôn vậy, cho Phật giáo đó. Cái lời đó là lời, cái bài tuyên ngôn của Phật giáo đó. Cũng như Bác Hồ mà tuyên ngôn độc lập đất nước vậy đó., thì ông Phật cũng tuyên ngôn độc lập của mặt trận sinh tử đó, con người là sẽ chiến đấu được giặc sinh tử!
Đó là cái bài tuyên ngôn của đức Phật đó, chớ không phải là thường đâu. Bốn cái câu kệ tuy ngắn chớ mà nói lên cái vấn đề mà của loài người chúng ta sẽ chiến đấu được giặc sinh tử đó. Chớ không phải ông Phật ổng vỗ ngực ông xưng tên chỉ có ta, không phải đâu! Ông chỉ nói là con người, nhưng mà tại chúng ta dịch không sát nghĩa, không đúng. Con hiểu như vậy.
Cho nên, nếu mà ông Phật ổng nói có một mình ổng thì Thầy làm sao Thầy làm được? Rồi các vị khác người ta làm được sao? Phải không? Làm sao có ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên ông làm được đâu. Đâu có nghĩa, mình hiểu cái nghĩa đó là mình hiểu cạn. Con người làm chớ! Thì cho nên vì vậy cái niềm tin, tuyên ngôn như vậy là cái niềm tin cho tất cả mọi người ai cũng làm được, chỉ là con người làm.
(1:37:25) Hiểu rồi phải không? Thôi bây giờ chúng ta nghỉ. Được không, hay còn, bây giờ đủ rồi, ngày mai thì Thầy sẽ mở những cái lớp học, về đây mà học lớp Chánh Kiến, rồi về đây mà học lớp Chánh Tư Duy, phải không? Phải học, rồi tu, rồi luyện, rồi tập thì nó mới thành chứ.
(1:37:42) Phật tử 1: Bạch Thầy, lúc nãy Thầy có giảng là trong gia đình, con cái mà nó làm gì, mình dạy nó mà nó không nghe thì phải làm gì bây giờ? Thôi thì việc của nó nó còn mình lo việc của mình, cứ như vậy đó. Nhưng mà trong này nó vẫn đau, nó vẫn hư, Bạch Thầy. Cái điểm thứ hai nữa, là nếu như mà nó làm gì kệ nó, mình lo phần việc của mình thì có phải là mình thiếu từ bi và mình thiếu tình thương không?
Trưởng lão: Không phải, thiếu đạo đức, chớ không phải thiếu từ bi. Bởi vì nó con của mình mà mình mặc kệ nó đâu có được, phải không? Cái này là cần phải học hỏi thêm chớ còn không có nói ngang như vậy được.
Bởi vì đây là một cái đạo đức gia đình, con của mình, mình sanh nó ra, mình có bổn phận, nhưng mà không được áp đặt nó. Con áp đặt nó bảo nó “mày phải làm vậy làm vậy, mẹ nói sao phải nghe” thì đó là áp đặt, không được.
Đó như vậy là phải học đạo đức làm người đối với gia đình. Chừng, chắc có lẽ là cuối năm nay, nếu mà cuốn sách “Đạo đức gia đình” mà Thầy ra thì con sẽ học cái đạo đức này, thì con sẽ biết cách đối xử với mấy con, cách thức của người mẹ, người cha phải làm sao, phải dạy con như thế nào. Không được quyền áp đặt chớ. Rồi con cái thì dạy như thế nào, đó là đạo đức gia đình.
Bây giờ Thầy nói nó dài quá, nói không hết đâu. Thôi để rồi chừng đó Thầy viết rồi học, đọc rồi những cái mà cần hiểu biết thì cái gì mà bây giờ, ngay bây giờ trong gia đình có những cái khó khăn đó, viết bức thơ, “Thầy làm ơn Thầy trả lời cho” rồi coi theo thơ đó mà giải quyết.
Còn để sau này nó có những cái bộ sách đạo đức để dạy chung hết chớ. Con có nỗi khổ, mấy người kia người ta cũng có con cái người ta cũng khổ y như con vậy chớ không hai đâu. Cho nên Thầy phải lo chung chớ không lẽ mà lo từng cá nhân.
(1:39:27) Bây giờ cá nhân là như thế này. Con viết bức thơ hỏi Thầy, Thầy trả lời, bây giờ con phải dạy con như thế này, dạy nó như thế này nó không nghe, mình phải cách thức này cách thức kia thì nó sẽ nghe. Mình biết mình là một người có trí tuệ mà. Mình hướng dẫn nó mà, nó đâu khôn hơn mình đâu.
Cho nên cuối cùng nó phải thuần phục mình, mà không áp đặt nó chút nào hết, tự nó nó tự tâm nó phát hiện, tự tâm nó thấy rằng cái điều nó sai. Mình làm giúp cho nó thấy, làm cho nó cởi mở nó thấy được cái sai của nó, thì nó sẽ nghe lời con. Còn cái này con bảo nó làm vầy vầy mà con áp đặt nó, con rầy mắng nó, nó càng làm sai luôn, nó chống lại con, phải không.
Phật tử 2: Mô Phật… (Không nghe rõ).
Trưởng lão: Rồi con, nếu ở đây tu thì coi như là Thọ Bát Quan Trai, Thầy sẽ giúp đỡ cho, cô Út sẽ giúp đỡ. Con ở lại phải không, rồi. Đi cho mệt chứ làm gì con. Ở đây trong một tuần lễ mà mình giữ gìn tâm thanh thản an lạc, biết đâu chừng mình chứng quả A La Hán luôn rồi sao? Cũng sướng chớ!
Không, một tuần lễ đức Phật nói mà, mà nếu mà mình nỗ lực mình tu mà. Con thấy con sắp sửa chết rồi còn cái gì nữa mà ở đó không lo? Cho nên luôn lúc nào cũng giữ tâm mình thanh thản an lạc vô sự, ba cái thằng giặc này vô là tao đuổi ra hết. Tao không sợ, bệnh đau tao không sợ này, tâm tham sân si không sợ, đuổi ra hết. Thì trong một tuần lễ xong à.
(…)
(1:41:01) Trưởng lão: Cái sự tu tập như thế này này. Con ngồi xuống đi con, con đừng có quỳ, mỏi chân! Già rồi mà bắt con hành mà ngồi vậy, quỳ như vậy là tội lắm! Thầy ngồi mà con quỳ vậy chắc chắn là Thầy làm giống như quan tòa bắt tội lỗi đó, không được. Con ngồi xuống đi.
Trong cái sự tu tập thì phải được sự hướng dẫn đúng, chớ không có nghĩa là các con nghe Thầy nói là một lý đó. Bởi vì thuyết giảng là một cái lẽ nói thôi. Bây giờ trong cái cơn đau, cái thân mình đau mà muốn chiến thắng được nó thì người ta sẽ trang bị cho mình những cái cách thức để cho mình tập cho đúng cách.
(1:41:37) Rồi khi mà mình gặp cái thọ thì mình sử dụng đúng cách đó mình mới đẩy lui nó được, chớ còn mấy con mà gan dạ mấy con nằm đó chết queo luôn á. Nó đánh mấy con mà mấy con không có pháp mà để mà đỡ nó, không có cái cách thức nó, thì con chịu đau, tức là mình chịu đựng đó. Mình chịu đựng đến cái mức độ cuối cùng mình không chịu nổi nữa thì nó sẽ hoại diệt thân con. Bởi vì mình ức chế nó quá độ, ức chế cái cảm thọ chớ không phải gì.
Cho nên trong khi tu tập mà mấy con, thí dụ như bây giờ mấy con ở đây một tuần lễ thì những cái tu tập Thầy phải kiểm tra Thầy phải hướng dẫn. Bởi vì hồi nãy Thầy có nói mà, từ cái lớp Chánh Kiến, Chánh Tư Duy đều phải có một người đứng lớp để mà dạy cho mấy con học, rồi dạy cho mấy con tu. Chớ không phải là mấy con muốn, nói suông rồi về đó tu hay hoặc này kia, không phải được đâu.
Cho nên khi mà đến đây học, phần nhiều là Thầy luôn luôn Thầy muốn tiếp xúc với mấy con nhiều lắm. Để làm gì, để hướng dẫn cho mấy con từng hành động tu tập cho đúng.
Đi kinh hành, nhiều khi cái lúc đi kinh hành đó, bình thường thì nó phải như thế nào, mà khi bị hôn trầm thùy miên nó phải như thế nào. Nó phải biết thay đổi để mà phá cho được, chớ còn nếu mà mấy con đi thường thường nó cũng ngủ à, nó không có dễ đâu!
Rồi cái cơn đau của mình cũng vậy, rồi từng cái tâm niệm của mình, nhớ gia đình này kia nọ. Cũng như bay giờ con, cả một cái gia đình con bỏ con vào đây, thì khi mà ngồi không một mình mình, mình sống coi như độc cư một mình mình, thì nó sẽ hiện ra những cái niệm, nó làm cho cái tâm con nó xao động, nó làm cái tâm con nó bất an.
Cho nên do như vậy đó, khi mà gần thì con mới được hỏi, “bây giờ tâm con nó hiện ra những cái niệm đó, con khắc phục như thế nào, xin Thầy giảng!”.
Mặc dù trong kinh nói trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu, cái danh từ nó suông, nhưng mà khi nó khởi ra cái niệm thì nó có mang theo những cái ưu phiền, lo lắng, thương nhớ gia đình của mình, con cái của mình, thì lúc bấy giờ đó mình phải khắc phục nó bằng cách nào? Thì chỉ có ông Thầy người ta biết được cái tâm niệm đó.
(1:43:36) Con mới trình cho Thầy, bây giờ con bị kiết sử, ái kiết sử, nhớ gia đình như thế nào, hoặc là con bị những cái hồi ức, những cái chuyện nó xảy ra tranh chấp gì đó mà họ chửi mắng con quá thậm tệ, những cái lời nói đó nó hiện ra, nó làm cho con đau nhói lòng của con.
Thì lúc bấy giờ con đến con trình Thầy, bây giờ trong cái giờ đó con tu, cái niệm đó nó khởi ra, mong Thầy chỉ cho con cách thức để nhiếp phục nó, để khắc phục nó. Thì lúc bấy giờ, Thầy bảo con bây giờ phải ôm cái pháp này này, con phải làm như thế này này. Rồi bắt đầu con làm cho Thầy xem coi.
Nếu mà con làm đúng, rồi Thầy nói bây giờ con vô thất đi, nó cứ hiện ra là con cứ đập cho nó một đòn, thì nó bay mất à. Thì như vậy là con sẽ có cách thức, có thầy hướng dẫn, có cách thức như vậy để trực tiếp trên mặt trận tham sân si của mình, để mà đấu, để mà đánh nó thì như vậy mới được.
Cho nên mấy con, thí dụ như mấy con về đây nhập thất có một tuần lễ, Thầy sẽ luôn luôn, chớ không phải là, bây giờ trong cái bài kinh Thầy dạy là pháp tu đi kinh hành như vậy, làm như vậy, hít thở như vậy, mấy con cũng làm y như vậy.
Nhưng mà cuối cùng mấy con áp dụng không đúng cách. Áp dụng không có đúng cái cách thức để cho mình thực hiện được cái sự giải thoát, thực sự đẩy lui, khắc phục được tham ưu luôn trên đó, thì cuối cùng mấy con tu nó cũng dậm chân tại chỗ mất! Các con hiểu điều đó.
Cho nên một ông Thầy mà dạy người ta tu giải thoát rất là vất vả. Bởi vì cái mặt trận sanh tử nó đương đầu với họ, ông Thầy phải biết cách đánh, còn mình chưa có biết cách, cho nên nó đánh mình mặt này, nó đánh mình mặt kia, mình không biết đâu mình đỡ. cho nên cuối cùng thì mình thua trận. Còn không khéo thì mình chịu đựng, mình chịu đựng cuối cùng thì coi như là ức chế nó trong đó, nó bung ra còn mạnh hơn.
(1:45:20) Cho nên trong khi tu tập là luôn luôn mấy con phải biết rằng, Thầy tuy nói rằng, ông Phật đã nói rằng 7 ngày, 7 tháng, 7 năm, nhưng mà sự thật phải được cái sự tận tình, tận tình như ông Xá Lợi Phất ngày xưa mà giúp Phật để giúp cho chúng Tỳ kheo tu tập. Ông Xá Lợi Phất là người tận tình nhất, luôn luôn sống sát bên chúng.
Ông Phật thì giảng ít thôi, nhưng mà ông thì sống sát bên chúng, có hở chút nào thì ông nhắc nhở chúng phải tu tập cái này đúng, cái kia sai. Cho nên Thầy thấy rằng trong cuộc đời của đức Phật, là cái người mà cực khổ nhất dưới đức Phật đó là ông Xá Lợi Phật. Ông Xá Lợi Phất là một người mà đức Phật gọi là đại trí tuệ đó, nghĩa là lúc nào ổng cũng có sáng suốt để nhận định được cái hướng đi, cái hướng tu tập của chúng Tỳ kheo trong thời đó.
Thầy thì bây giờ chưa có, cho nên Thầy sẽ gánh vác hết. Mà gánh vác hết thì cũng không sao, miễn là chết sớm chừng nào, tốt chừng nấy! Tại sao? Tại vì Thầy đi sớm Thầy không cực khổ, còn bây giờ tiếp tục sống dài nó khổ. Cho nên mấy con còn thấy Thầy còn sống là mau mau tìm đến gặp Thầy, mai mốt Thầy ẩn bóng tìm không ra. Phải không.
Cho nên vì vậy mà hôm nay con không có đi chơi là hay đó. Đi chơi lên Đà Lạt, đi du ngoạn trên đó, đi về mệt xác. Cho nên bây giờ vậy, ở đây thất ngồi nghỉ ngơi khỏe, và có những gì thì hỏi thưa Thầy. Phải không? Tu thì biết rồi, biết những cái pháp con đọc trên đĩa rồi, nhưng mà để mà ứng dụng đẩy lui được giặc thì cái này phải hỏi Thầy.
Cũng như mà ra mặt trận con đánh mà con thấy không thể thắng giặc được thì phải trở về hỏi bộ tham mưu chớ! Bộ tham mưu mới chỉ đạo, bây giờ phải đánh cái mặt này thì nó sẽ thắng chứ gì? Thì lúc bấy giờ nó mới đặt ra cái bộ tham mưu, chứ còn nếu mà không có bộ tham mưu thì con biết gì, đánh sao được, tan hết binh đội đó, tan hết lính của con à. Phải không? Tan xác nữa chớ ở đó.
(1:47:13) Cho nên vì vậy khi mà về tu thì phải một tuần lễ, nó không nhiều nhưng mà nó quan trọng. Bởi vì làm sao cho mấy con tập cho đúng, thực hiện cho đúng, áp dụng cho đúng, và trước cái mặt trận đối phó cho được, thì cái đó là cái quan trọng. Học suông không được đâu, mà phải tập luyện và phải ứng phó cho đúng lúc, đúng thời thì nó mới thắng được giặc. Chứ còn không khéo không thắng nó đâu.
Rồi bắt đầu bây giờ con yên tâm đi, bữa nay mấy người này đi Đà Lạt chơi đi, lên trển cho biết, cho mệt, trèo núi trèo non cho mệt, còn con ở lại đây tu tập cho nó, người nào sướng cho biết! Ăn ngày một bữa sướng hơn là đi chơi. Rồi yên tâm đi. Thôi rồi bây giờ nghỉ heng! Phải không mấy con, bây giờ nghỉ.
Phật tử: Bạch Thầy có một số người Phật tử quy y đó Thầy.
Trưởng lão: À có một số Phật tử quy y thì một lát nữa Thầy gởi cho một cái điệp phái cho thầy Chân Giác ghi tên của mấy con vào trong đó heng, rồi chiều Thầy làm lễ quy y cho. Sẵn Thầy làm lễ quy y cho quý Phật tử ở Hà Nội luôn.
Chớ bây giờ Thầy không có thì giờ mà ghi cái điệp phái cho mấy con nữa, mà Thầy chỉ ký tên trong đó, Thầy đóng dấu ký tên thôi, có vậy thôi chớ còn Thầy không có thì giờ. Bởi vì còn biết bao nhiêu công chuyện Thầy làm mấy con. Hở đây rồi đó thì Thầy trở lại công việc khác rồi, phải không. Có gì không con?
(1:48:40) Phật tử: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! Kính bạch đức Trưởng lão! Nam Mô Bổn Sư Thích Thông Lạc Như Lai Phật! Hôm nay con xin đại diện cho đại chúng nghe pháp xin chân thành biết ơn đức ngài đã chỉ dạy cho chúng con. Và kính bạch đức Trưởng lão đặt cho cái tên của bài pháp hôm nay là tên như thế nào, chúng con tiện?
(1:49:14) Trưởng lão: Bài pháp hôm nay mấy con cứ lấy tên “Đạo đức làm người”! Hiểu chưa? Và đạo Phật thì chỉ có học đạo đức thôi, không có gì khác hơn hết. Bởi vì đức Phật có xác định cho mấy con nghe đạo đức không làm khổ mình khổ người là mục đích của đạo Phật. Người nào mà không làm khổ mình khổ người là người đó vô lậu.
Các con đọc lại cái bài kinh của Phật ở trong kinh nguyên thủy các con sẽ thấy cái lời đức Phật nói. Cái bài kinh chỗ cái người mà không làm khổ mình, không làm khổ người, không chuyên làm khổ mình, không chuyên làm khổ người, đó là mục đích của đạo Phật. Cái đường lối mà Thầy triển khai cái bài đó để cho nó trở thành cái nền đạo đức. Vì vậy cho nên hôm nay lấy cái tên đó là “Đạo đức làm người”.
Phật tử: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! Kính bạch đức Trưởng lão chứng minh cho chúng con làm đảnh lễ đức Trưởng lão, và chúng con nguyện mùa xuân này để ghi nhớ những lời dạy của đức Trưởng lão. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Trưởng lão: Thôi mấy con xá Thầy thôi, Thầy không có làm hoàng đế, đừng có lạy! Xá được rồi con… (Không nghe rõ) này mấy con tôn Thầy lên làm, chắc là hoàng đế!
Phật tử:… (Không nghe rõ)
Trưởng lão: Thầy không bỏ mấy con đâu. Miễn là mấy con ráng tập.
Phật tử 1: Vậy là con vẫn mang cái pháp danh Diệu Ngọc hả Thầy?
Trưởng lão: Được rồi, Diệu Ngọc tốt quá rồi. Ngọc mà mài dũa nó thì nó sáng, nó đẹp chứ sao. Con không có thay đổi gì hết.
Phật tử 2: Bạch Thầy con… đảnh lễ Thầy… (Không nghe rõ) sau rồi Thầy truyền cho bài pháp nhũ, chúng con xin đa tạ Thầy. Nguyện cầu Thầy trong năm mới được mọi chuyện an lành… (Không nghe rõ)
Trưởng lão: Thầy cám ơn mấy con. Nhưng mà ráng nghe, nhớ, khi nghe Thầy rồi thì coi như là đệ tử của Thầy rồi, phải ráng tu tập, sống cho đúng đạo đức không làm khổ mình. Mai mốt ai có chửi con đừng có giận. Giận là không phải đệ tử của Thầy Thông Lạc luôn! Như vậy là mấy con giải thoát chứ gì? Nhớ chưa? Nhớ rồi phải không. Rồi, từ nay về sau Thầy có một đám học trò ở Đà Lạt rồi đó. Hãy cố gắng nha! Rồi thôi Thầy ra nghe.
HẾT BĂNG
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Phật tử
Ngày giảng: 23/02/2002
Thời lượng: [52:00]
(00:00) Trưởng lão: Mà được chánh pháp rồi mà không nỗ lực tu, thì rất uổng phí một đời, chỉ một đời nay mà thôi. Cho nên phương pháp Phật dạy chúng ta, chúng ta làm người, mà chúng ta gặp được chánh pháp của Phật chứ gì? Chỉ có 7 tháng mấy con. 7 ngày, 7 tháng, 7 năm xác định được thời gian, chứ không phải tu vô lượng kiếp. Chứ không phải nhiều đời huân tập đâu. Mà chỉ trong một cái thời gian nhất định là chúng ta sẽ huân tập khi mà chúng ta nỗ lực. Nỗ lực như thế nào các con biết không?
Nỗ lực mà đức Phật nói Nhất Dạ Hiền mấy con. Nghĩa là 7 năm mà các con tu như một đêm mà các con Nhất Dạ Hiền. Một đêm mà làm Thánh. Nghĩa là ngày thứ nhất Thầy tu tập. Thầy nỗ lực, năng nổ, siêng năng như cái ngày mà Nhất Dạ Hiền một đêm, để mà sáng hôm sau chúng ta trở thành bậc A La Hán, bậc Thánh Tăng, phải không?
Cho nên chúng ta phải tu, nỗ lực tu. Bởi vì trong cái bài kệ Nhất Dạ Hiền, hồi sáng có một cô nào mà hỏi Thầy nói về cái bài kệ Nhất Dạ Hiền đó. Thì bài kệ Nhất Dạ Hiền, đức Phật nói: “Chúng ta không điều đình được tử thần, cho nên hôm nay phải nhiệt tâm làm, không được biếng trễ”. Cho nên phải nhiệt tâm. Cũng như bây giờ chúng ta còn sống, một lát nữa chúng ta chết. Làm sao chúng ta điều đình để mà chúng ta tu cho xong?
Mà chỉ có 12 tiếng đồng hồ thôi. Do đó chúng ta phải năng nổ, siêng năng, ngày hôm nay, đêm hôm nay, 12 tiếng đồng hồ chúng ta năng nổ như vậy. Đêm mai chúng ta cũng năng nỗ như vậy, y như cái ngày Nhất Dạ Hiền như vậy. Mà 7 năm như vậy thì các con thấy chứng đạo không? Huân như vậy là chứng đạo!
Còn các con mà tu chơi lơ mơ, mà tu cầm chừng, tu có hình thức đó, ngồi cho tới giờ, tới 7 giờ tôi ngồi tiếng rồi xả nghỉ. Ngủ cho đã rồi bao giờ dậy ngồi tu lại tiếng nữa, rồi ngày mai rồi tu nữa. Tu như vậy Thầy nói vô lượng đời mấy con cũng chưa chứng được. Còn người ta nhiệt tâm người ta tu tập đúng, ôm chặt cái pháp. Nghĩa là ôm chặt pháp như là người ôm phao đi biển. Như vậy người ta mới thấy 7 năm người ta chứng đạo, chứ không phải.
Mà cái thời gian Thầy thấy mấy con đèn sách. Mà hai mươi mấy năm mới lên Đại học, mới tốt nghiệp, mới thành một cái tay nghề thông thạo của Đại học mà đi ra, phải không?
Như vậy là mấy con phải đèn sách thức khuya dậy sớm, mà hai mươi mấy năm trời chứ đâu phải ít. Thế mà chúng ta tu tập mà làm chủ được sinh tử mà chỉ có 7 năm, mà chúng ta lại nản chí sao?
Nó đâu có thời gian dài đâu? Có 7 năm à. Như vậy đâu phải là vô lượng kiếp mấy con? Đã được thân người thì Thầy tin rằng người nào cũng làm được, chứ không phải riêng Thầy!
(02:19) Nhưng mà chúng ta có cái nhân quả tốt là tại vì chúng ta chưa gặp chánh pháp, có nhân quả tốt nó thúc đẩy chúng ta lần lượt để gặp chánh pháp mấy con. Chứ không phải, nếu mà chúng ta không có gieo duyên với chánh pháp thì nó thúc đẩy chúng ta đi vào cái chỗ mà tà pháp, thì bao nhiêu đời mà chúng ta thực hiện được?
Chúng ta có duyên chánh pháp. Cho nên vì vậy lần lượt mà như hồi nãy Thầy nói, từ cái chiến tranh nó xảy ra mà nó đưa Thầy đi dần dần, đi đến cái chánh pháp để mà tu tập. Thì mấy con thấy nó phải có cái nhân duyên chứ. Nếu không có nhân duyên, cỡ bây giờ Thầy sanh ra trong cái thời mà hòa bình đất nước thống nhất như thế này, Thầy cũng vào chùa; Thầy cũng học tập; Thầy cũng tu như thế này. Rồi rốt cuộc rồi Thầy cũng ở trong cái vị trí làm Hòa thượng, Thượng tọa như thế này. Cuối cùng thì Thầy không thực hiện một cách rốt ráo như trong cái thời mà chiến tranh như vậy, thì chắc chắn là Thầy có đạt được như thế này không? Chắc không bao giờ có được như vậy!
(03:20) Cho nên ở đây các con sử dụng qua những cái điều kiện. Mà các con nên nhớ rằng một cái vị mà gọi là có đủ cái chứng mà quả A La Hán đó, họ có cái trí tuệ vô hạn của họ. Họ nói ra những cái điều mà mình không ngờ được, mình không ngờ được những cái điều đó. Thì tức là mình phải xét qua cái điều đó và qua cái đức hạnh thì khó có ai làm được như cái đức hạnh của họ. Nghĩa là các con sẽ cần sống gần họ thì các con sẽ biết.
Như đức Phật đã dạy, nếu mà muốn biết một bậc A La Hán thì chúng ta sẽ gần vị đó, để mà thấy cái lối sống của vị đó thôi, họ có sống đúng phạm hạnh hay không?
Đó thì chúng ta sẽ thấy ai cũng mặc y áo như các Sư cô như thế này thì chúng ta đâu có biết đó là vị A La Hán, vị Sa môn như thế nào? Có đúng là bậc A La Hán hay không?
Chúng ta ở gần, thời gian sống chúng ta biết. Mỗi mỗi chút mà cái vị này la hét, mắng chửi thì như vậy là rõ ràng là cái vị này chưa có A La Hán đâu. Đó là chúng ta phải thấy được qua cái hành động của cái vị A La Hán, của cái người đó. Đó là một cái thực tế mà chúng ta nhận xét người tu chứng.
(04:32) Còn bây giờ trên cái lý luận mà nói về tu nhiều kiếp thì không đúng đâu, đó là Đại Thừa. Để mà chúng ta có cái sự dễ dãi với chúng ta trên con đường tu, tu từ từ. Bởi vì tu phải nhiều đời nhiều kiếp. Cái thứ hai nói tu mà còn thấy mình chứng tức là chưa chứng. Sự thật ra tui biết. Sự thật đây là một cái lối lý luận mà thôi, chứ không thể nào những người tu chứng mà không biết.
Trừ ra một cái người tu chưa chứng mà dám nói rằng mình chứng, đó là cái đại vọng ngữ. Cái điều này chúng ta hoàn toàn, ngoài vấn đề này chúng ta không bàn.
Còn Thầy khuyên các con trong cái vấn đề, khi mà người ta chấp vào cái phương pháp Đại Thừa thì chúng ta đừng có nên đốn phá họ. Đừng có nên nói cái gì cả hết, mà chúng ta hãy tùy thuận với họ. Bởi vì cái kiến chấp mà đức Phật nói Kiến Kiết Sử. Cái kiến chấp của người đó rồi. Mà bây giờ mình muốn cởi bỏ cái đó, điều đó là phải tự lực họ. Chứ mình muốn cởi bỏ là có sự tranh chấp và có sự không hay cho mình. Là vì họ, mình biết con đường ngăn ác, diệt ác thì mình không làm điều gì tồi tệ. Nhưng mà những cái người mà người ta kiến chấp, có thể người ta vì cuồng tín, mà có thể người ta hại mình. Và người ta tạo cho người ta có cái tội lỗi đó, chứ mình không có tội. Cho nên, tốt hơn hết là các con thấy người ta đã có kiến chấp ở trong Đại Thừa thì chúng ta đừng có nên đưa kinh sách Nguyên Thủy cho họ. Mà chúng ta hãy tránh những cái điều kiện đó để cho họ được an ổn và chúng ta mới được an ổn.
Đó là cái đường và cách thức mà Thầy đã khuyên các con như ngày hôm nay. Đừng có chọc ghẹo các nhà Đại Thừa, đừng có chọc ghẹo Giáo hội mà chúng ta sẽ gặp nguy hiểm đấy. Đừng có chọc ghẹo những người mà kiến chấp, mà chúng ta lý luận, chúng ta không có đủ cái khả năng.
Dù là đức Phật ngày xưa còn chưa khắc phục được cái ngoại đạo kia mà. Nghĩa là trong cái thời đức Phật, có những cái người đức Phật đã khắc phục, nhưng có một số người không khắc phục. Không khắc phục mới cái trạng thái của đạo Phật, mà khi đức Phật nhập diệt rồi thì bắt đầu các ngoại đạo, các cái giáo sĩ của ngoại đạo nó luồn vào trong Phật giáo, nó lật ngược Phật giáo lại hết. Nó đưa ra cái giáo pháp của Đại Thừa liền tức khắc, nó lật đổ đức Phật liền tức khắc. Cái giáo đoàn chia làm 20 bộ phái liền. Phật giáo mà chia ra như vậy, phân chia ra như vậy thì còn có nghĩa lý gì nữa? Mỗi người ôm một cái kiến giải của họ, để rồi thành lập một hệ phái như vậy. Trong khi đạo Phật rõ ràng là không có đất đứng rồi, mất tiêu rồi.
Nghĩa là chúng ta đừng có chọc ghẹo chúng. Mà trong khi đó cái giới luật của chúng ta quá nghiêm chỉnh như thế này, con người sống không có được đâu. Cho nên vì vậy chỉ có người tha thiết tu giải thoát thì mới sống được. Cho nên chúng ta nếu mà đập nó phá nó nhiều… Cho nên trong cái thời đức Phật đập phá rất nhiều những cái tư tưởng, những cái lý luận của ngoại đạo. 62 cái lý luận của ngoại đạo đức Phật đập dẹp, đập xẹp của nó lôi xuống hết. Khi đức Phật còn sống thì nó không dám làm một cái điều gì hết. Nhưng mà khi đức Phật vừa nhắm mắt xuống rồi thì bắt đầu nó luồn vào đó, nó quậy lên toàn bộ.
Còn bây giờ các con biết như thế nào?
(07:16) Thầy còn sống đây thì nó vẫn còn làm như thường chứ đâu phải là không làm đâu. Cho nên vì vậy mà Thầy có quyền lực gì? Thầy là người tu sĩ giới luật thanh tịnh, nghiêm chỉnh như thế này thôi. Thì bắt đầu bây giờ có cái điều gì Thầy cũng chịu, hoàn toàn là chắp tay mà đầu hàng, chứ Thầy không bao giờ mà Thầy chống đối cái điều gì. Bây giờ nó bỏ tù Thầy cũng đi ở tù, nó làm gì Thầy cũng làm theo nấy. Chứ các con đừng có nghĩ Thầy sẽ dùng thần thông để Thầy khắc phục nó. Thầy đâu có phải làm như ngoại đạo cái điều đó đâu. Cho nên vì vậy mà Thầy vì cái lợi ích của chúng sanh mà Thầy làm; mà Thầy vì cái lợi ích cho mọi người mà Thầy làm, chứ không phải là vì cái chuyện đấu tranh. Thà là mình chịu thua họ hơn hết. Cho nên đức Phật bảo mình nhẫn nhục, tức là mình nhịn thua người ta là hơn hết.
Cho nên đối với cái con đường mà tu tập theo Thầy, thì Thầy hướng dẫn. Mấy con muốn đi tìm con đường này thì cái tâm mình tha thiết thì mình hãy sống đúng những cái lời Thầy dạy để chứng minh cụ thể cho mình thấy được cái năng lực làm chủ được sự sống chết của mình. Còn hoàn toàn nếu mà không thôi. Thấy cái tư tưởng cái người đó họ đã cứ kiến chấp vào cái giáo pháp đó thôi.
Bây giờ Thiền Tông, họ chấp Thiền Tông thì thôi mình tránh xa đừng nói gì hết, đừng có động gì họ nữa hết. Rồi thấy cái người đó họ chấp Tịnh Độ, nhất định là mình thôi, cũng đừng có chọc ghẹo. Để cho người ta an ổn trên cái phương pháp mà người ta Niệm Phật, cái đó là cái tốt. Bởi vì cái kiến chấp của người ta đang chấp, cái duyên người ta tới đó thì người ta tu tới đó, thì người ta hưởng tới đó thôi không níu kéo, lôi kéo.
Còn riêng mình, mình hãy lo cứu mình đi. chứ đừng có nghĩ đến mà đem cả cái thế giới này trở về đạo Phật đâu. Một ngày nào đó, chúng sanh ở trong cái thế gian này có đủ duyên, chúng ta không muốn đem, nó cũng đem đến cho nó nữa. Còn bây giờ nó không đủ duyên mà chúng ta đem đến nó cũng không. Đem đến gõ cửa, đem sách, chúng ta đưa vô nó quăng, nó đốt hết đó, nó không có bao giờ nó thèm đọc đâu. Thầy nói thật sự, nó chưa có đủ duyên, bây giờ các con cứ đưa đi, nó sẽ đốt hết. Nó không thèm đọc đâu, nó quăng xuống hết đó. Nó nói đây là ngoại đạo đó, chứ nó không phải nói đây là chánh pháp. Thầy nói thật mà, mấy con sẽ suy ngẫm coi. Nếu mà nói không đúng, các con cứ đưa sách Thầy vô đi. Thì bắt đầu nó đem nó ném ra ngoài sân, nó ném vô cái thùng rác, chứ nó không có thèm đọc đâu.
Cho nên chúng ta nên nhớ rằng những cái mồ hôi, nước mắt của Phật tử đóng góp vô mà có cuốn sách này. Chúng ta không nên để cho những người khác họ liệng, ném như vậy, quá uổng phí cái mồ hôi nước mắt của Phật tử. Chúng ta phải thấy cái duyên. Có cái duyên thì chúng ta đưa cho họ đọc, mà không duyên thì thôi. Chứ hoàn toàn chúng ta không có đưa cho những người không duyên. Cho nên cái kiến chấp của người ta thì mình phải tôn trọng cái kiến chấp của họ. Chứ đừng có bác cái kiến chấp như đức Phật mà bác để rồi nó sẽ hại cái đạo Phật, tiêu diệt. Cho đến hôm nay các con thấy toàn bộ là kinh sách Đại Thừa. Chứ còn kinh sách Nguyên Thủy may là Hòa thượng Minh Châu dịch ra được chứ còn không khéo thì chúng ta đâu còn bao nhiêu kinh sách Nguyên Thủy để học nữa.
(09:56) Đó thì chúng ta biết được, vì cái con đường của Phật giáo đã để lại chúng ta có những bài học rất thực tế rồi. Cho nên chúng ta phải học cái thực tế này, cái kinh nghiệm này. Cho nên chúng ta đừng có làm cái điều gì mà trái ý hết. Mà vả lại thì Thầy tổ của chúng ta tức là những người mà Đại Thừa, cho nên chúng ta không có nên động chạm Thầy tổ của chúng ta. Thầy tổ của chúng ta là những bậc Tôn túc của chúng ta không nên động chạm. Cho nên chúng ta tu là chúng ta đi tìm cái sự giải thoát mà thôi, đừng có nói.
(10:24) Còn tất cả những cái điều mà các con nói. Thì Thầy nói thì các con nghe, các con tin, thì các con sẽ nỗ lực. Bởi vì đạo Phật, những cái bài pháp mà đức Phật đã xác định như Tứ Niệm Xứ, thì đức Phật xác định 7 ngày, 7 tháng, 7 năm tu chứng. Và cái bài Nhất Dạ Hiền thì một đêm làm Thánh Hiền. Thì đạo Phật cũng có xác định được cái thời gian dài nhất là 7 năm và cái thời gian mà ngắn nhất là 7 ngày. Và đồng thời cái sự tu tập của chúng ta phải năng nổ, nhiệt tâm tu tập thì như là cái bài kinh Nhất Dạ Hiền, thì đó là một đêm làm Thánh Hiền.
Thì cái sự năng nổ của chúng ta tu ngày nào cũng năng nổ như vậy, như cái Nhất Dạ Hiền thì như vậy là 7 năm. Xác định 7 năm chúng ta sẽ chứng đạo, dù cái người dở nhất cũng chứng đạo. Mà cái người hay nhất là 7 ngày, cái người vừa vừa là 7 tháng. Còn cái người hay nhất là 7 ngày, người ta chứng đạo. Người ta tu năng nổ như vậy thì trong 7 ngày người ta sẽ chứng đạo, cái người đó là cái người giỏi nhất. Còn cái người mà dở vừa vừa đó thì họ sẽ 7 tháng. Còn cái người dở nhất, tệ nhất ở trong cái con đường tu theo đạo Phật, thì họ mà năng nổ, mà siêng năng như bài Nhất Dạ Hiền dạy đó thì họ sẽ 7 năm. Đó là cách thức của Phật giáo đã phân cho chúng ta biết được cái pháp môn tu theo đạo Phật là nó có cái thời gian nhất định rõ ràng. Và phương pháp cách thức tu nó phải cụ thể rõ ràng.
Cho nên chúng ta biết rõ rồi, vì vậy mà hiện giờ chúng ta phải nỗ lực như thế nào để đúng, để cứu mình thôi. Ai biết được, ai có duyên, mình thấy thích hợp với cái pháp này thì mình hãy tu, mà không thích hợp thì thôi. thì mình, thí dụ như mình ăn ngày ba bữa, tu những pháp kia mình làm lành, mình biết bố thí cũng ích lợi cho xã hội, cũng được tốt, cũng lợi cho mình rồi. Chứ đâu có cần gì mà phải bắt mình phải khổ, đi vào con đường này mà khổ quá như vậy? Cho nên ở đây không có ép buộc ai hết. Mà tùy cái nhân duyên, tùy cái sở thích của mọi người, tùy cái đặc tướng mà mình sẽ đi vào con đường tu này cho nó có kết quả tốt. Đó thì hôm nay Thầy nói như vậy. Cho nên hầu hết là mình.
Cái tâm nguyện của các con là tâm nguyện tốt. Muốn đem cái chánh pháp của mình, muốn đem cái lợi ích của mình, mình đã tu tập, mình thấy lợi ích, muốn cho mọi người được như mình. Cái lòng tốt của mấy con là Thầy rất tán thán và ca ngợi. Nhưng cái duyên của họ không đủ đâu. cho nên mấy con muốn là một lẽ, nhưng mà đem lại cái lợi ích cho họ thì không phải dễ đâu. Cho nên vì vậy chờ cái duyên của họ tốt được thì chừng đó họ sẽ tìm đến những cái chánh pháp của Phật. Chứ bây giờ chúng ta đừng có nên. Vì vậy mà chúng ta im lặng mà lo cứu mình trước cái đã.
Các con mà tu được giải thoát, các con mà được an ổn, được chứng quả A La Hán được. Thì ở nơi các con được năm, mười người chứng quả A La Hán, thì nó là cái ngọn đuốc sáng cho những người mà kiến chấp đó, họ phải quy tụ về theo đó. Mà các con làm chưa được, các con nói lời nói không thì không ai quy tụ theo các con đâu. Đây là một cái lời nói thật của Thầy mà. Cho nên các con đừng có lý luận ai hết, hoàn toàn đừng có tranh luận gì hết. Khi mà nói ra cái điều đó thì người ta đưa ra những cái bài kinh mà của Đại Thừa mà nói ra, tức là người ta có kiến chấp ở trên cái Đại Thừa rồi. Thì mình chấp nhận, mình không có điều gì nữa hết, đó là cái hay nhất các con. Đây là kinh nghiệm của Thầy đó.
(13:25) Trưởng lão: Các con có hỏi gì?
Phật tử:… Thầy nói rồi, thì trong bài kinh đó thì có phải trọng tâm ở trong cái câu là: “Tuệ quán chính ở đây, không động, không rung chuyển”, con xin Thầy khai thị cho con với cái chỗ “Tuệ quán” để cho con có thể nương theo đó con tu tập, để có được nhiều lợi ích.
Trưởng lão: Nếu mà con thực hiện cái giới luật, đời sống giới luật con nghiêm chỉnh thì con sẽ thực hiện cái bài Thân Hành Niệm là cái: “Tuệ quán chính là đây”. Tức là: “Quá khứ không truy tìm, vị lai không ước vọng rồi chỉ có pháp hiện tại là đây thôi”. Thì do đó con phải, hiện tại, cái pháp hiện tại là cái thân hành của con. Cái thân hành của con nó chứng minh cho con là cái đó là cái hiện tại. Cho nên vì vậy mà con quán trên cái hiện tại của con, tức là tỉnh thức trên hiện tại của con. Mà con tu tập như thế nào con tạo nó thành như cái cỗ xe. Nghĩa là cái phương pháp đó phải tạo thành cái cỗ xe.
Chẳng hạn bây giờ con tu cái Thân Hành Niệm là cái hành động con làm cái gì biết làm cái nấy, làm cái gì biết cái nấy, nó không thành cái cỗ xe đâu mấy con. Bây giờ thành cái cỗ xe nè, thành cái bánh xe như thế nào để gắn thành cây căm mới thành cái cỗ xe.
Cho nên vì vậy mà Thầy kết hợp nó thành cái cỗ xe cho các con thấy. Bây giờ Thầy ngồi lại đây Thầy hít năm hơi thở, phải không? Năm hơi thở nè, bắt đầu cái tay Thầy để như thế này, Thầy hít thở chứ gì? Thầy ngồi xếp bằng chứ gì? Phải không? Bây giờ Thầy mới khi đó Thầy 5 hơi thở rồi, Thầy dừng lại nè Thầy mới ra lệnh,
Thầy dùng cái phương pháp tác ý, mà Thầy tác ý. Thầy bảo: “Tay trái để lên trên đầu gối” thì tay trái Thầy bung ra, Thầy để lên đầu gối Thầy. “Tay mặt để lên đầu gối” Thầy để tay mặt lên đầu gối. Tức là Thầy tác ý, cái lệnh của Thầy truyền nó để mà nó làm theo cái lệnh truyền của nó chứ gì?
Đó là Thầy bảo đâu, cái tay Thầy làm đó.
Bây giờ Thầy bảo cái chân Thầy bung ra, thì do đó cái chân của Thầy nó bung ra.
Rồi Thầy bảo cái chân Thầy đứng dậy, thì hai chân Thầy đứng dậy.
Rồi Thầy bảo: “Cái chân trái bước đi” thì cái chân trái dở bước lên.
Thầy bảo: “Chân mặt bước đi” thì bước đi.
Thầy bảo bước thì chân trái Thầy bước, Thầy bảo bước thì chân mặt bước. Và cứ như vậy đó, thì đến khoảng độ từ đây đến đó 20 bước, tới đến cửa đó là 20 bước thì Thầy bảo Thầy đứng lại.
Thì khi đó Thầy bảo: “Đứng lại” thì cái chân Thầy đứng lại, hai cái bàn chân Thầy nó bằng nhau, Thầy đứng lại.
Thầy mới bảo: “Ngồi xuống” thì hai cái chân Thầy co, Thầy ngồi xuống.
Thầy ngồi xuống rồi, Thầy mới bảo: “Cái tay trái để lên trên đùi, tay mặt để lên tay trái” hai cái tay Thầy để lên, “cái lưng thẳng, hai con mắt nhìn chóp mũi”.
Thầy bảo: “Thở” thì bắt đầu bây giờ Thầy Thở.
Thầy thở rồi, rồi xong rồi Thầy đứng dậy, Thầy đi kinh hành 20 bước. Rồi Thầy ngồi lại Thầy thở 5 hơi thở, rồi đứng dậy đi kinh hành 20 bước.
Đây bây giờ nó thành cái bánh xe rồi mấy con, thành cái xe rồi đó. Cái bánh xe bây giờ nó quay cái vòng quay của nó qua cái thân hành của nó.
Thân hành của nó, thì nó có cái thân hành ngoại và thân hành nội, phải không? Cái thân hành ngoại là cái hành động co tay, ngồi lên, đứng xuống, đi, phải không? Còn thân hành nội của nó là cái hơi thở, thấy không?
(16:38) Thầy kết hợp được thân hành, hai cái thân hành, thân hành nội và thân hành ngoại. Do đó Thầy kết hợp nó thành cái bánh xe.
Vậy thì cái người ôm bánh xe này mà lăn, thì đức Phật có nói năm cái điều kiện lợi ích của nó.
Điều kiện thứ nhất là nó nhiếp phục thọ lạc và thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ. Khi mà chúng ta có cái lạc, chúng ta cũng không lưu ý nó đâu, mà chúng ta chỉ có lưu ý trên cái thân hành nó thôi. Mà khi có thọ khổ đến, cái thân chúng ta đau nhức thì chúng ta chỉ cần có lưu ý trên cái thân hành thôi. Do đó thì chúng ta không có còn lưu ý cái đau. Cho nên vì vậy mà gọi là nhiếp phục thọ lạc và thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ. Cho nên cái đầu tiên là chúng ta nhiếp phục.
Bây giờ chúng ta tu tập đến cái sức mà định tỉnh của chúng ta, nó có ở trên cái Thân Hành Niệm của nó rồi. Thì qua cái hành động mà đứng tới, đứng lên, ngồi xuống như vậy. Thì lúc bây giờ đó chúng ta nỗ lực, chúng ta tu tập nó thành cái cỗ xe, nó trở thành căn cứ địa. Con muỗi cắn ở đây á, chúng ta không có đuổi con muỗi đâu. Nếu mà đuổi con muỗi thì nó có cái kẽ hở, nó không thành cái cỗ xe nữa rồi, nó bị cái vấp rồi, nó bị cái cục đá rồi. Cho nên vì vậy mà con muỗi nó cắn, thây kệ nó, chúng ta không có quan trọng nó đâu. Chúng ta chỉ biết cái ngồi, đứng, đi thôi, chứ chúng ta không có lưu ý nó.
Bây giờ cái thân mà đau điếng, đức Phật nói khi mà ôm cái Thân Hành Niệm này, cái đau điếng chúng ta cũng nhiếp phục luôn, nó không bao giờ. Con rắn, con rết, cái con vật gì, con muỗi, con mòng, con gì cắn, chúng ta đều nhiếp phục được muỗi, mòng… tất cả hết. Chúng ta không còn mà để ý những cái con vật đó nữa đâu. Đó là cái phương pháp mà đức Phật đã dạy trong cái phương pháp Thân Hành Niệm. Chúng ta biết kết hợp thành cái cỗ xe rồi. Cho nên vì vậy mà một đêm mà tu tập Nhất Dạ Hiền thì chúng ta sẽ chứng đạt đạo quả. Đó là cái phương pháp rốt ráo cuối cùng.
Nhưng mà các con nên nhớ rằng tập tu, chứ không phải là Nhất Dạ Hiền một đêm làm Thánh Hiền ngay được đâu. Phải tu! Nếu mà chúng ta muốn nhanh, coi chừng nó sẽ phản ứng lại mà chúng ta bại trận đó, nó không có kết quả đâu.
Đó! Thầy nhắc nhở như vậy, đủ biết là phương pháp của Phật nó có những cái phương pháp để mà chúng ta tu rốt ráo. Nhưng mà tu tập chứ không phải là, chúng ta biết được cái sức của mình, nó sẽ ở trên cái phương pháp này, có thể một đêm mà chứng quả. Và ở trên cái pháp này chỉ mới tu tập trong 5 phút, 10 phút, 1 giờ mà thôi, chứ không được tăng lên. Phải biết được cái đặc tướng, biết được cái khả năng của mình. Chứ nếu cái pháp này mà không biết thì coi như mình tu, là mình sẽ gặp cái khó khăn.
(19:08) Trưởng lão: Con muốn hỏi gì?
Phật tử: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Kính bạch Thầy và quý sư, cùng một số Phật tử!
Con có duyên là năm đó Thầy về cho đọc cái Trường Bộ Kinh với lại Trung Bộ Kinh đó bạch Thầy. Nên có lúc là vị A La Hán cũng xét biết. Vậy khi mà họ mất niềm tin đó thì một vị chứng quả cũng xét biết là Tam Minh ta chứng được, lời Phật dạy làm xong.
Tức là có lúc các vị A La Hán cũng xét biết mình là chứng quả để mà cho có niềm tin với lại trong hội pháp đó Thầy.
Con nghĩ cái đó là lời Thầy nói là tại cái thế giới vô hình mà Thầy giảng biết bao nhiêu trong cuốn 3, rồi cuốn 6, cuốn 7 mà bây giờ cũng vẫn còn hỏi. Nhưng lúc đó Thầy phải xét biết, chứ còn như con thì vẫn còn vô minh, con xin Thầy giảng dạy cho con biết, dạ!
Trưởng lão: Thật sự ra thì ở trong kinh sách Phật cũng đã dạy, khi một người tu chứng, người ta biết phạm hạnh đã xong. Những cái điều kiện người ta làm thì người ta cần làm hết rồi. Bây giờ người ta không có làm nữa. Người ta biết rằng người ta sẽ có một kiếp này thôi, chứ người ta không còn có kiếp khác nữa, người ta biết rất rõ mà. Cho nên rõ ràng là trong kinh Phật thường nhắc đi nhắc lại những cái lời này rất nhiều. Một vị tu chứng quả A La Hán là người nào họ cũng xác định được cái điều mà họ đã thấy. Cho nên ở đây đúng là kinh sách Nguyên Thủy nó xác định chúng ta biết rất rõ.
Thì do đó kinh sách Đại Thừa thì không có được. Người mà thấy mình chứng quả A La Hán là chưa chứng quả A La Hán, là tại vì kinh sách Đại Thừa nó có cái bưng bít thôi. Nó mới dựng những cái điều kiện đó mà nó nói ra thôi. Cho nên ở đây tại vì những người đó, những người Phật tử đó, hoặc là quý thầy đó, người ta không có chịu nghiên cứu về kinh sách Nguyên Thủy. Chứ người ta chịu nghiên cứu về kinh sách Nguyên Thủy, khi đức Phật mà tu chứng rồi, đức Phật phải biết đức Phật tu chứng. Cho nên đức Phật khi chứng rồi, đức Phật mới quỳ xuống mà đảnh lễ cái giáo pháp mà mình đã truy tìm ra được, mình tu chứng. Cho nên đức Phật đã đảnh lễ cái pháp đó, biết là nhờ cái pháp đó mà mình được chứng đạo. Cho nên rõ ràng là cái người tu chứng họ biết rất rõ.
(21:22) Tại vì những người cư sĩ đó họ chịu ảnh hưởng Đại Thừa, cho nên họ không có chịu nghiên cứu về kinh sách Nguyên Thủy, họ coi nó là kinh sách Tiểu Thừa. Và đồng thời thì các Tổ chúng ta chế ra cái Bồ Tát Giới đó, cấm không có cho người cư sĩ và người tu sĩ chúng ta học và tu cái pháp của Thanh văn, Tiểu Thừa coi như là ngoại Đạo.
Cho nên bây giờ trong cái đời chúng ta may mắn là chúng ta có được cái bộ kinh sách Nguyên Thủy mà Hòa thượng Minh Châu đã dịch. Và Người lại là đứng đầu ở trong cái giáo dục Tăng Ni. Cho nên Ngài đã hướng dẫn cho chúng ta trên cái sự học về Tăng Ni, học về giáo lý của Nguyên Thủy, của Phật. Cho nên Ngài có công rất lớn với chúng ta.
Cho nên cái công của Ngài mà đối với tu tập của Thầy, Thầy không bao giờ Thầy quên cái ơn của Ngài đâu!
Cho nên bây giờ mà các con nghe những cái lời mà Thầy giảng, các con chưa đủ niềm tin thì các con hãy lật lại cái bộ kinh sách Hòa thượng Minh Châu đã dịch. Cái bộ kinh Nikaya đó thì các con sẽ thấy lời Phật dạy với lời Thầy là các con sẽ hiểu rất rõ, không sai. Cho nên chúng ta phải có cái duyên phước, chúng ta mới gặp được chánh pháp của Phật.
Vì vậy mà hôm nay lại còn có cái duyên phước là các con gặp được cái kinh nghiệm của Thầy nữa. Đã gặp được chánh pháp mà không có kinh nghiệm cũng khó tu đó. Mà gặp được cái kinh nghiệm nữa thì các con đã được chánh pháp của Phật, gặp được cái kinh nghiệm trên cái chánh pháp nữa thì cái con đường các con tu không còn khó nữa, các con!
Được thân người là khó, mà được Phật pháp còn khó hơn. Bây giờ chúng ta gặp được chánh pháp, mà gặp được cái người tu chánh pháp có kinh nghiệm dạy nữa thì cũng như là chúng ta đã gặp Phật rồi, thời đức Phật rồi. Cho nên Thầy thấy rằng trong cái thời nay mấy con đủ cái phước mà các con không nỗ lực tu thì thiệt là uổng mấy con, phải ráng tu. Đã là tu thì phải tu cho tới nơi tới chốn đừng có dễ duôi. Vì cái thời gian chúng ta phí cũng nhiều lắm rồi. Cho nên phải ráng nỗ lực thật sự tu tập.
(23:26) Trưởng lão: Rồi! Bây giờ các con còn hỏi gì thêm nữa không? Con hỏi đi con!
Phật tử: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Kính bạch Hòa thượng!
Con là một cư sĩ tu ở nhà, rất là hâm mộ Phật pháp tại vì con cũng biết Phật pháp là pháp đưa con người đến giải thoát. Và giải thoát cao đỉnh là ra khỏi được sinh tử luân hồi, tự tại trong sinh tử luân hồi. Cho nên con rất hâm mộ, tuy nhiên hâm mộ nhất là pháp môn thiền; thành ra mấy năm trước đây con cũng có thỉnh thoảng con có đến Trúc Lâm đó. Bạch Hòa thượng!
Con lên Trúc Lâm đó, con cũng có tập tu với Ni chúng trên đó thì đại khái là con cũng tu theo cái pháp mà tri vọng, biết vọng đó. Bạch Hòa thượng!
Nhưng mà con tu thì cũng có lúc con thấy là tâm có khi cũng rất là thanh tịnh, cũng có cái an vui. Nhưng mà sao con thấy con tu một thời gian rồi cái hình như là nó đi thụt lùi, chứ cái thứ nhất là cái tâm sân thì nó không có hết đó. Bạch Thầy!
Sân nó, rõ ràng là cái tham, sân, si có khi nó cũng hết. Nhưng mà riêng cái sân thì có khi thì nó lặng thiệt lặng; mà có khi thì nó nổi lên thì đùng đùng đùng đùng.
Thành ra là con cũng được một cái phước duyên, được thầy Chơn Giác mà dẫn về đây để giới thiệu Hòa thượng cho con, để con nương mà tu học thì đó là một cái duyên rất lành mà con, con không thể nói ra lòng trả ơn đối với thầy Chơn Giác.
Và thứ hai nữa là trước khi con đi đến đây thì một số huynh đệ cũng có cho con nghe một ít cuộn băng do Thầy giảng, rồi cũng có một ít quyển sách mỏng mỏng. Ví dụ: Như là giáo án tu tập sơ lược đó, Thầy ạ! Thì con cũng có biết sơ sơ một chút. Con thấy là cái chủ trương mà Thầy đề ra cho quý Phật tử, tu sĩ cũng như là cư sĩ chúng con là cái mục tiêu đó là phải giải thoát và ra khỏi sinh tử. Cho nên là con thấy từ khi con hiểu biết Phật pháp thì cái đó cũng là điều mong ước của con.
(26:54) Nhưng mà con tu lâu ngày cái pháp Thiền đó mà sao con thấy tham, sân, si nó không bớt. Thành ra con rất mong ước, hôm nay con đến đây cũng là một phước duyên chúng con thì cũng như Thầy dạy là làm người đã khó, rồi gặp được chánh pháp, chánh Phật pháp càng khó hơn nữa. Và cái khó hơn ở cái thời buổi này là gặp được một vị mà đã đắc đạo và đã có cái kinh nghiệm về cái sự giải thoát đó. Kinh nghiệm bản thân của vị đó mà truyền dạy là một điều vô cùng quý báu, điều này là càng khó gặp. Cho nên hôm nay con đến đây, tuy là lần đầu tiên con được thầy Chơn Giác hướng dẫn đến đây. Nhưng mà con rất sung sướng và con cũng đã quyết tâm là con đến đây để con cầu được Hòa thượng vô cùng hoan hỷ tiếp nhận con ở lại đây để con được vào tu tập trong chánh Phật pháp, và được tu tập, thực hành, tu học và thực hành đường lối của Hòa thượng. Để cho con, đúng như lời Hòa thượng nói là người Phật tử phải tu cho tới nơi tới chốn đó, thành ra là con cũng quyết tâm ở chỗ đó.
Cho nên lần đầu tiên con đến, con xin Hòa thượng, đảnh lễ Hòa thượng! Cho phép con được ở lại để được Hòa thượng hướng dẫn tu tập cho rõ ràng cụ thể. Đương nhiên là Hòa thượng hoặc là những vị thiện hữu tri thức mà được Hòa thượng tin cậy đó, thì cũng dạ! Thì chứ không phải là con nói là Hòa thượng không, mà những vị thiện hữu tri thức mà được Hòa thượng tin cậy thì con vẫn cũng có thể học được. Nhưng mà ở đây đương nhiên là con cũng được gặp Hòa thượng hằng ngày rồi, cái đó là phước duyên của con.
Con rất kính mong Hòa thượng hoan hỷ chấp nhận cho con cái điều con ước muốn này ạ!
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
(29:18) Trưởng lão: Trong cái sự ước muốn của con như vậy thì Thầy rất là hoan hỷ chấp nhận cho con để mà con thực tập từng cái bước một, từng cái tập luyện, cái sơ khởi ban đầu, để mình tập cho nó quen. Dù sao đi nữa con tu cái pháp tri vọng nó, tuy rằng nó không kết quả trọn vẹn như ý muốn của mình, nhưng nó cũng có cái cơ sở để cho mình tiến tới để mình tập tỉnh thức, nó cũng dễ dàng hơn, không có mất đi đâu hết mà sợ.
Cho nên bây giờ thì theo Thầy thiết nghĩ đó: Con có chuẩn bị sẵn để mà ở lại chưa, hay hoặc là cái thời gian nào đó!?
Con sẽ sắp xếp gia đình của mình cho nó ổn định ở trong gia đình của mình. để khi mình ngồi tu, cái tâm của mình nó không còn phóng ra, nó không còn lo lắng cho gia đình của mình nữa.
Bởi vì mình phải chuẩn bị trước trong cái thời gian cho gia đình mình biết rằng mình sẽ đến đây trong một tuần lễ, hoặc một tháng, hoặc nửa tháng, rồi mình ở lại đây để rồi từng cái bước tu tập. Thầy sẽ dạy cho các pháp hành, bắt đầu trở về với cái căn bản mình tu tập cái gì trước, cái gì sau. Rồi phải trình lại cho Thầy nghe trong cái quá trình mà tu tập, mình tu tập những cái pháp gì? Tập trung cái tâm mình như thế nào? Và cách thức mình hàng phục được cái tâm của mình qua cái tri kiến hiểu biết của mình như thế nào? Để rồi Thầy nắm vững được những cái tri kiến giải thoát mà con đã tu tập theo đạo Phật từ lâu tới giờ, thì Thầy sẽ biết rõ được để mà con không mất thì giờ. Vì vậy mà có thể nâng lên trên cái giai đoạn mà tu tập kế tiếp cao hơn để cho con không có mất thì giờ mà phải trở lại học như là cái lớp A, B, C đầu tiên.
Vậy rõ ràng là khi mà con chuẩn bị cho gia đình của mình sẵn sàng, con cái ở trong nhà của mình như thế nào? Để rồi đến đây thì bắt đầu thì con sẽ ở lại, cho chúng nó ở ngoài đó biết nó cụ thể, chứ đừng có lo lắng. Tức là mình phải sắp xếp được cái hoàn cảnh thuận tiện.
Thì con muốn tu thì chắc chắn là Thầy chấp nhận cho, bởi vì muốn tìm sự giải thoát mà. Không bao giờ mà Thầy bỏ các con đâu! Chỉ các con quyết tâm là nhất định Thầy sẽ chịu khó mà Thầy dẫn dắt các con.
Cho nên các con biết không? Tuy rằng, tuy Thầy bận công chuyện, nhiều việc, nhưng mỗi buổi sáng 7 giờ đều là Thầy có mặt ở đây để Thầy dẫn dắt từng người, mặc dù có một người Thầy cũng dẫn dắt cho họ tỉ mỉ để sự tu tập, để cho họ có kết quả được tốt.
Cho nên vì vậy mà khi các con về tu cũng vậy. Cho nên đầu tiên Thầy khuyên các con phải sắp xếp cái nhân quả của gia đình của mình đâu đó để cho nó an ổn, nó không có còn bị động. Vì vậy mà về đây chỉ còn lo tu không. Chứ còn bây giờ con tu, rồi con nhớ, rồi mình chưa có sắp xếp gia đình, mà chưa có báo cho nó biết, bây giờ mình ở lại nó sẽ như thế nào không? Đó là những cái rất khó!
Phật tử: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Con xin Bạch Hòa thượng!
(32:29) Là khi con đi vô đây, là con đã chuẩn bị gia đình sẵn hết rồi ạ! Con có nói gia đình là con đi một tháng, mà nếu mà con tu tập chưa xong thì có thể hơn, là nếu mà đủ nhân duyên con có thể mà con, Hòa thượng mà hướng dẫn cho con, mà con đạt đến một kết quả của con mong muốn, và cũng như là đáp ứng đúng như nguyện vọng của Hòa thượng dạy, khi dạy dỗ đệ tử thì con cũng có thể con xuất gia luôn cũng được. Thì đó là con cũng đã sắp xếp gia đình rồi, nó không có gì vướng bận. Tại vì con của con thì nó cũng lớn hết rồi, có đứa có gia đình, ở nhà con cũng lo hết rồi. Còn thằng lớn ở trong này nó đang công tác ở trường Đại học Bách Khoa thì nó ước gì, nó ở đây, nó chạy xe ra đây nó cũng dễ không có gì.
Bạch Hòa thượng!
Con chỉ có một điều mong ước là tại vì con từ nhỏ sinh ra là con thấy đến mãi cuộc đời mà tới bấy nhiêu đây tuổi rồi, mà con thấy con vui ít lắm, mà khổ nhiều lắm, cho nên là đệ nhất là khổ tâm. Cho nên con cảm nhận rất rõ ràng cái Khổ đế đó, Thầy ạ! Cho nên rồi, nếu mà không có quyết tâm tu tập là không thể nào ra khỏi cái mạng lưới nhân quả đó được. Như Thầy dạy là con người thì từ nhân quả đến, rồi cũng từ nhân quả mà đi, rồi cũng từ nhân quả mà đến, rồi đi về đâu? Rồi cũng đi về nhân quả! Thì làm sao chấm dứt cái đó? Thì cái đây cũng là ý nghĩ của Hòa thượng chứ gì? Nên Hòa thượng dạy chúng con cũng là chỉ là tự tại trong sanh tử, chấm dứt sanh tử và chấm hết nghiệp.
Cho nên là con cũng xin đảnh lễ mà hứa với Hòa thượng một câu rằng, chắc với lòng con, rằng con sẽ cố gắng tu tập, dưới sự hướng dẫn rất là đại từ bi hỷ xả của Hòa thượng thương chúng con như với tấm lòng từ bi vô lượng như thế đó. Chúng con cũng sẽ hứa tu học.
Khi con ra đi cũng đã chuẩn bị hết rồi!
Bạch Hòa thượng con xin thưa vậy!
Trưởng lão: Được rồi! Bây giờ thì con đã chuẩn bị được. Thì như vậy sắp xếp cho mấy cháu nó được yên vui trong gia đình, nó không còn lo lắng thì Thầy sẽ chấp nhận cho con ở lại. Và đồng thời thì huynh đệ con thì về. Thì con ở lại, cô Út sắp xếp cho con một cái thất, rồi con sẽ được cái sự hướng dẫn của Thầy. Trong ngày mai khi mà đoàn các con về thì con ở lại tu tập. Nếu mà chưa sắp xếp thì con hãy về với đoàn để con sắp xếp.
(35:16) Phật tử: Dạ không! Con đã sắp xếp hết rồi, con có thưa thầy Chơn Giác ở đây. Con cũng vô cùng biết ơn thầy Chơn Giác đã tiến dẫn con, dạ!
Trưởng lão: Như vậy thì tốt quá. Do đó thì bây giờ đã sắp xếp xong được cái chuyện gia đình rồi, nó không có. Các con nó đều đồng ý, nó đều vui vẻ, đều được hết thì điều đó là đã đủ duyên rồi, còn gì nữa mà không tu tập?
Phật tử: Dạ!
Trưởng lão: Còn gì nữa mà không tu tập, để cho phí cuộc đời mình sống. Đời nó đã dạy cho mình những cái bài học quá cay đắng, mà mình còn đắm đuối, còn ham mê gì nữa?
Phật tử: Dạ! Chính chỗ đó, dạ!
Trưởng lão: Cố gắng! Thầy chỉ mong mấy con cố gắng, vì con đường tu nó có những cái khó, chứ nó không phải dễ. Do cái sự tu tập, ráng rèn luyện, tập dần nó sẽ thành thói quen. Bởi vì chính đức Phật đã thấy, con người của mình nó tập thành thói quen mà nó được giải thoát, chứ nó không có gì. Mà chính những cái huân tập những cái ác pháp đó nó cũng thành thói quen ác pháp. Cho nên từ cái ác pháp của mình dễ sân; dễ phiền não; dễ tham đắm thì nó cũng thành thói quen được.
Thầy đem cái thí dụ cho các con, để cho con thấy, một người mình chưa hút thuốc mà mình cứ hút thuốc hoài, cái bây giờ nó nhiễm bỏ thuốc không được, không phải đó thành thói quen sao? Đó! Do đó con người mình dễ nhiễm. Mà nó nhiễm cái xấu, cái ác pháp thì nó làm cho mình đau khổ. Mà nó nhiễm cái thiện pháp, nó làm cho mình hạnh phúc, mấy con! Làm cho mình giải thoát.
Thì đạo Phật vốn mình tập tu, để cho mình nhiễm cái tốt chứ có gì? Các con hiểu không? Cho nên vì vậy mình dễ nhiễm mà, nhiễm xấu thì nó tai hại, mà nhiễm tốt nó tốt chứ gì? Đó! Cho nên bây giờ về đây thì các con nên tập, tập để nhiễm cái tốt, chứ không có cái gì khác hết. Mà hằng ngày mình tập nhiễm tốt thì nó sẽ huân được cái tốt, chứ có gì.
(37:08) Phật tử: Dạ! Bạch Hòa thượng!
Con Xin Hòa thượng cho con thưa hỏi một chút xíu nữa ạ. Hồi nãy giờ Thầy giảng cũng nhiều, mà nhiều vị cũng hỏi về cái chỗ tưởng, về cái chỗ tưởng uẩn đó, nên con cũng xin thưa hỏi Hòa thượng. Sẵn con hỏi để quý huynh đệ, cư sĩ rồi nghe cho rõ để hiểu thêm chút xíu nữa. Chứ đối với các vị mà tu sĩ thì chắc quý vị chắc rành rồi. Nhưng con không dám nói tu sĩ, mà con hỏi đây để cho chúng con cư sĩ nghe luôn.
Tại vì có một lần con coi ở trong cái cuốn, cái “Khóa Hư Lục” đó. Bạch Hòa thượng!
Có câu chuyện như vầy nè: Có một người Sa di đó đem lòng yêu một cô nữ Phật tử. Mà chú Sa di đó, chú yêu lắm. Chú yêu, nhưng mà cô Phật tử đó thì không có yêu lại đâu. Thành ra chú yêu đơn phương á, thành ra chú đau khổ lắm, chú đau khổ kinh khủng lắm. Mà chú không biết làm sao mà chú dứt ra khỏi cái tâm ái dục này. Tại vì các cái thứ này là nó nặng nề lắm, thành ra chú dứt không được. Cái ngày đêm chú quán, tại vì chú yêu mà đơn phương, chứ cô kia không có đáp lại, thành ra làm sao chú dứt cho được. Thì chú cứ ngày đêm chú quán, chú quán thế nào cho cái cô này mà quán cô đẹp như vậy đó, mà chú quán xấu không à. Chú quán, cái cô kia mũi dọc dừa, mà chú Sa di thì quán thành mũi tẹt, mà cái miệng người ta trái tim, mà chú quán thành cái miệng rộng. Chú quán cho thật xấu như vậy để cho chú hết yêu mà. Thì cái hôm đó chú quán sao mà đến nổi, mà chú thấy cái cô đó thành cái mặt rỗ tổ ong luôn. Chú quán đến cái khi mà chú thấy cái cô đó là mặt rỗ tổ ong luôn thì tình yêu ái dục trong lòng chú là tiêu hết. Thì cách đó là 5 năm sau, sau khi cô, cái cô Phật tử có gia đình rồi đó. Bạch Hòa thượng!
Có gia đình rồi, cái cô đó, cô dắt đứa con lên thăm Thầy cũ. Thăm Thầy cũ tức là vị trụ trì ở cái chùa đó đó. Thì cô lên, cô thăm đó, thì chú Sa di này mất hồn ra, té ra, cái cô này, từ hồi xưa cô gái đẹp, bây giờ mặt rỗ thiệt, rỗ rỗ chằng chịt.
Là bây giờ, cái chú Sa di hỏi: “Sao vậy?”
Thì cái cô này nói: “Tui mới vừa bị trái trời, mới hết mấy tháng nay à, buồn quá bây giờ lên thăm Thầy.”
Bây giờ xin Thầy giải thích cho chúng con biết làm sao cái tưởng tri như vậy? Mà lại cái thế giới của tưởng tri, mà nó lại có cái sự tương ưng với cái tưởng tri của cái chú Sa di này ạ. Dạ! Tại vì cái bên ngoài con không dám nói là thiệt hay là nó ảo làm sao, con không dám nói chỗ này. Nhưng mà con thấy là có cái sự tương ưng giữa cái quán mấy năm về trước, mà mấy năm về sau, cái cô Phật tử này mặt rỗ thiệt, dạ! Bạch Hòa thượng ạ!
(40:15) Trưởng lão: Để Thầy giải thích cái chỗ này. Trong cái phương pháp của Phật giáo đó, thường dạy chúng ta đối trị với tâm ái dục, tâm sắc dục của mình đó mà, thì thường thường là quán thân bất tịnh. Đó. Cho nên có những cái, hầu hết là tuổi trẻ, mà thanh niên mà còn tuổi trẻ đó, dù nam dù nữ thì đến đây, đều là Thầy có dạy về cái phương pháp ở trên Tứ Niệm Xứ. Thì đức Phật có dạy cái phương pháp quán thân bất tịnh. Ờ! Bắt đầu quán ở trong thân của mình những đờm nhớt, những cái thứ bất tịnh như mồ hôi, nước mắt hay hoặc ghèn, cháo, hay hoặc là tất cả mọi cái thứ bất tịnh ở trong thân của mình. Đây là một sự thật là cái thân bất tịnh, đó là một cái. Rồi bây giờ quán cái thân nó sình, nó thành ra cái thây ma nó sình lên, nó nứt nẻ, nó chảy nước vàng. Đó là một cái thân để chứng tỏ nó bất tịnh. Rồi quán về cái xương trắng nữa. Cho nên khi mà, như vậy là mình nghe nói thì mình chưa biết.
Khi mà cái sự tu tập về cái phương pháp quán này đó thì cái người mới vào tu đó, thì người ta quán tưởng, người ta dùng biết điều tưởng đó mấy con. Trước mặt người ta không có thấy cái thân mà nó chết, nó nám đen, nám đỏ. Mà người ta sẽ tưởng ra cái thân, rồi tưởng ra cái thân nó nứt nẻ. Cho nên trước khi mà người ta tu về quán cái thân bất tịnh này, thì người ta phải nhìn. Người ta đến, người ta nhìn cái thây ma. Người ta nhìn cái thây ma rồi, về rồi người ta mới ngồi, người ta tưởng ra.
Cho đến khi mà cái người phụ nữ mà đi ngang qua vậy đó, người ta không có tưởng thì cái người phụ nữ đi ngang qua, người ta thấy bình thường không có gì hết. Nhưng mà cái người đó tưởng ra một cái thì ngay đó là người ta thấy cái thây ma nó đang đi, mà nước vàng nó chảy ra cả, cả thấm. Cả khi mà đón cái người mà tưởng, cái hương tưởng đó, nó sẽ người ta nghe cái mùi thúi mấy con. Cái người đó, người ta dùng, người ta nghe mùi thúi, cho nên nó gọi là quán tưởng. Thì cái chú Sa di này á, không biết là chú được ông Thầy chú có dạy không? Nhưng mà chú đã đúng là cái chỗ mà chú quán tưởng.
Bây giờ đó, chú dùng tưởng ra. Thay vì cô này rất đẹp chú mới có sinh cái tình cảm. Nó mới có đeo đẳng trong cái tình ái, nó mới đeo đẳng trong lòng của chú. Cho nên từ đó, chú không biết làm sao mà khắc phục được cái tâm này? Cho nên chú mới quán cái cô này ra mũi tẹt, cái miệng hô hay hoặc là này kia để làm cho cô này xấu đi, cho cái tình cảm của chú nó sẽ bị dứt đi. Nhưng mà chú quán tưởng đến thâm sâu đó, cái tưởng nó hiện ra. Nó thấy cô này thật sự nó bị mặt rỗ hay hoặc là mũi tẹt hay này kia, nó không có còn như ngày xưa đẹp nữa. Chừng đó chú thấy cái cô này, chú thấy cái tình cảm nó chấm dứt, nó không còn nữa. Đó tức là cái phương pháp mà đức Phật đã dạy trong Tứ Niệm Xứ, phương pháp quán thân bất tịnh đó con. Con hiểu chỗ đó chưa?
Do đó thì bây giờ con muốn hỏi Thầy về vấn đề này, tại sao khi mà cô này về thăm chùa, lại là cô lại mặt rỗ? Nó lại tương ưng như vậy?
(43:30) Nó thật sự ra thì cái chú này chỉ đối trị tâm mình qua cái tưởng thôi. Chứ không phải là chú ước ao cho cái cô kia rỗ mặt để cho cô ta xấu thật. Nếu mà vậy thì chú này quá ác. Người ta ở ngoài đời, mà mình quán tưởng để cho người ta xấu thật thì thiệt là mình giết người ta chết. Nhất là mấy cô gái mà người ta xấu như vậy là quá người ta khổ. Chẳng hạn bây giờ mình đang đẹp như thế này mà người ta lấy dao, người ta rạch mặt mình để thành cái thẹo thì mình thấy khổ. Hay hoặc người ta đem axit, người ta tạt cái mặt của mình, nó trở thành sần sùi hết thì sẽ quá khổ. Cái người đó, cái tâm họ thà là chết hơn là cái mặt họ như vậy, các con hiểu không?
Cho nên cái tâm trạng đó là cái tâm trạng rất là đau khổ. Mà cái chú này, chú quán cái người mà chú yêu mà cho nó xấu như vậy đó, là chú quán tưởng như vậy để đối trị cái tâm chú thôi. Chứ sự thật ra mà cái người chú yêu, mà quán tưởng như vậy, mà cái người yêu mà chú, mà đau khổ cái mặt xấu thật như vậy, thiệt là chú ác, quá ác, không có tốt được lên đâu. Cho nên ở đây thật sự ra, đây là cái trường hợp cái nhân quả thôi, nhân quả của cô này thôi. Nghĩa là cô này, cô không phải là tạo cái nhân quả cho chú này, mà chú này cũng không phải là quán để cho cô kia xấu như vậy đâu.
Nhưng mà nó tương ưng là tại vì cái nhân quả của cô này. Là sau khi cô có chồng, có con rồi, cái nghiệp quả cô đến lúc mà cô phải đau bệnh trái mùa. Cái mặt cô phải rỗ chằng, rỗ chịt đó, thì cái đó là cái nhân quả của cô, là cô gieo cái nhân, cái thời của cô. Thí dụ như sanh lên cái gương mặt cô tốt đẹp, sau đó thì cái thời gian cái tốt đẹp đó nó bị tàn lụi đi. Qua một cái trận bệnh nào đó nó làm cho cái gương mặt cô bị hư hại đi. Thì con thấy cái trường hợp này xảy ra rất nhiều cái trường hợp. Thí dụ như mình sinh lên rất đẹp đẽ, gương mặt mình rất đẹp đẽ, nhưng mà có tai nạn xảy ra, thí dụ như phỏng nước sôi hay hoặc cái tai nạn nó xảy ra như nhà cháy, nó làm cho cái gương mặt cái đứa con gái đó nó bị ảnh hưởng nó không tốt nữa, đó là một trường hợp.
(45:11) Rồi xảy ra, nếu mà có chồng ghen tuông rồi tạt axit này kia, nó làm cho cái gương mặt nó cũng xấu xí. Nó cũng có những cái điều kiện xảy ra trong xã hội. Chúng ta cũng nghe báo chí đăng những cái vấn đề này, đó là cái nhân quả mà thôi, cái hình ảnh nhân quả mà thôi. Còn cái cô này chẳng qua là cái nhân quả của cô thôi. Nhưng mà nó tương ưng làm cho chú này ngạc nhiên vậy thôi. Đây là cái câu chuyện người ta đặt ra như vậy, chứ sự thật nó không có tương ưng kỳ cục cái kiểu đó, không có đâu. Mình quán tưởng mà cái mặt người ta nó mũi tẹt ra thì đâu có chuyện đó đâu. Cái nhân quả người ta, mà quán cho cái mũi người ta nó đẹp đẽ như thế này, bây giờ nó hình lên, nó như hai cái máng xối vậy thì không có được. Nó không có cái điều đó đâu. Không có làm sao mình quán tưởng. Bộ mình vẽ bùa, vẽ chú mình yếm người ta sao mà làm cho người ta xấu được, phải không? Chỉ có bùa chú thôi! Còn cái này nó không phải đâu mấy con.
Cho nên cái câu chuyện ở trong cái “Khóa Hư Lục” chỉ là người ta muốn nói cái pháp quán tưởng để mà đối trị cái tâm sắc dục đó mà thôi, các con hiểu không? Nhưng mà cái trường hợp nó tương ưng, mình đọc nghe tới đó cái cô này nó cũng cái mặt nó rỗ chằng, nó cũng y như vậy, thì người ta tưởng ông này quán sao mà linh quá. Lẽ ra nếu mà sự thật mà linh như vậy thì chỉ có bùa chú mà yếm người ta thôi, chứ không cách nào khác đâu, không hết đâu. Phải không? Nhưng mà ở đây cái mục đích của mình đối trị cái tâm của mình thôi, để cho mình thoát ra khỏi những cái khổ não của tâm thôi. Cho nên nó không có thật đâu con! Cái đó là cái câu chuyện huyền thoại người ta đặt ra như vậy, để nó thấy nó tương ưng, cái ông này quán sao mà linh quá… (nghe không rõ)
(46:50) Phật tử: Mô Phật! Kính bạch Thầy!
Hôm nay chúng con cũng được cái duyên lành, được về thăm Thầy cũng như Tu viện Chơn Như thì được Thầy sắp xếp cái thời gian vào buổi sáng và buổi chiều để chúng con được trình lên Thầy những cái gì mà trong quá trình tu học và cũng như những ray rứt trong vấn đề học Phật, và cũng được Thầy chỉ dạy.
Thì thời gian cũng có hạn, cũng như chúng con không muốn phải làm mất thì giờ trong đại chúng ở Tu viện Chơn Như. Thành ra con xin thay mặt tất cả quý sư ở đây, quý sư cô, quý Phật tử của đoàn xin Thầy nhận nơi đây chúng con một lòng thành kính và luôn nhớ ơn Thầy chỉ giáo. Cũng như cá nhân con hôm nay về thăm Thầy lần chót, để chuẩn bị khoảng hai tuần nữa là con đã rời Việt Nam để về lại bên Mỹ. Thì con xin cố gắng những thời gian mà nhập thất ở đây. Và về quê hương, những công việc, nếu mà… thì cũng như khi con qua bên đó cố gắng. Cũng y như những lời Thầy chỉ dạy để cố gắng tu học, để cho xứng đáng là một người tu sĩ đi đúng chánh Phật pháp.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
(48:40) Trưởng lão: Và bây giờ thì mấy con hãy chuẩn bị đi, mấy con sẽ chuẩn bị, sẽ về ngay liền bây giờ hả các con, hay là nghỉ chút xíu nữa rồi mới đi?
Phật tử: (Không nghe rõ)
TRưởng lão: Thì bây giờ, coi như là tối rồi, các con còn hỏi thêm gì nữa, hay thôi chấm dứt con?
Phật tử: (Không nghe rõ)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Kính bạch Thầy!
Từ sáng đến giờ trong đại chúng hỏi rất là nhiều và Thầy đã giải bài cho chúng con. Chắc con nghĩ Thầy cũng mệt mỏi nhiều. Cũng vì thương tất cả chúng sinh mà Thầy đã trả lời những câu hỏi.
Kính bạch Thầy!
Con nghe cũng rất nhiều băng và được trực tiếp nghe quý thầy, quý sư cô thuyết pháp, nhưng mà không có ai nói lên được sự thật của chánh pháp. Hôm nay con được Thầy đã chỉ dạy cái nào là tà pháp và cái nào là chính pháp. Dù bản thân con có thể thực hành được hoặc có thể chưa thực hành được, nhưng lòng con vẫn cảm thấy an ổn, phân biệt đâu là chánh và đâu là tà. Thì lời cuối cùng, con dâng lên Thầy một tấm lòng tri ân!
(51:09) Kính bạch Thầy!
Thầy dạy, chúng con rất là xúc động, biết để mà tu chứ chúng con không thể nói lên được sự thực. Bởi vì mình nói lên được sự thực, nói lên sự thực chung quanh của chúng ta đều bị phủ nhận. Như vừa qua con cũng có đọc báo Giác ngộ trong đó có một đoạn là phủ nhận về cuốn sách “Đường Về Xứ Phật” của Thầy. Trong đó nói là cái cuốn sách này không được Giáo hội công nhận mà đã được in ấn để lưu hành. Thì con đọc cái đoạn đó và con nghĩ rằng, cái sự thực mà hiển bày, nếu chúng ta không có duyên, thì chúng ta vẫn không gặp.
Cả một Giáo hội trong đất nước Việt Nam chúng ta mà không nói lên được sự thật của chánh pháp, đó là một điều mà con nghĩ rằng là chúng con vẫn chưa được hạnh phúc. Những bậc Tôn túc đã đi trước chúng con bao nhiêu thế hệ vẫn không nói lên được sự thực, vậy chúng con là hàng hậu học thừa kế thì chúng con vẫn không thừa hưởng được cái hạnh phúc đó. Tuy nhiên bên cạnh ấy, chúng con vẫn cảm thấy vững lòng khi biết đâu là chánh; biết đâu là tà. Để chúng con quay về trụ xứ mình làm những cái gì luôn luôn nhớ đến những lời của Thầy chỉ dạy qua kinh tạng mà đức Phật đã để lại.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Con thành kính tri ân và đảnh lễ Thầy!
Nam Mô!
HẾT BĂNG