49 - PHÁP HÀNH THÂN NIỆM PHẬT

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 49 - PHÁP HÀNH THÂN NIỆM PHẬT

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- THÂN NIỆM PHẬT PHÒNG HỘ SÁU CĂN

1.1- CHỌN NƠI AN TRÚ THANH VẮNG ĐỂ TU HÀNH

(00:00) Bây giờ trở lại vấn đề thứ nhất là thân niệm Phật. Vậy thì thân niệm Phật như thế nào?

Giới hành hộ trì sáu căn.

Như hồi nãy Thầy có nói giới thiệu rồi đó, chúng ta phải hộ trì sáu căn chúng ta trước.

Bắt đầu người tu sĩ muốn thân hành niệm Phật thì phải chọn nơi tâm chuyên nhất cảnh.

Mình muốn tu tập mà, mình muốn hành cái pháp chớ không phải là muốn nghe cái lý suông không. Muốn nghe cái lý suông không thì mình cần gì phải chọn cái cảnh? Cho nên trước tiên mình muốn hành cái pháp này, mình muốn trau dồi được cái thân tâm mình, sống cái thân của mình như Phật, giống như Phật thì mình phải chọn một cái cảnh, một cái nơi tâm chuyên nhất cảnh.

Vậy thì tâm chuyên nhất cảnh như thế nào?

Này, quý thầy, quý thầy phải lựa chọn một chỗ an trú thanh vắng.

Mình tu hành là luôn luôn phải cái tìm chỗ thanh vắng, chớ không thể nào mà thiếu cái chỗ thanh vắng mà chúng ta tu tập được. Chúng ta phải nhớ như vậy thì chúng ta mới có thể thực hiện được.

Một khu rừng, một gốc cây, một ngọn núi, một bãi tha ma, một hang đá, một sơn lâm giữa trời không mông quạnh, một đống rơm, một chòi lá bên ghềnh suối, đó là nơi lý tưởng để chúng ta thân hành niệm Phật.

Nghĩa là lấy cái thân của chúng ta mà niệm Phật đó. Chúng ta phải chọn cái nơi đó, gọi là chọn cái cảnh mà gọi là “tâm chuyên nhất cảnh”. Cái tâm của mình muốn tu hành được thì tức là cái cảnh nó phải hợp.

Mà cái cảnh nó không hợp, như mình sống ở trong gia đình của mình, vợ con này kia rồi đủ thứ, hay anh em dòng họ của mình, thử hỏi mình tu được cái này không, mình trau dồi được không? Chắc chắn là không được đâu. Cho nên chúng ta phải chọn một cái nơi nó yên tịnh, thanh vắng, rồi từng đó chúng ta mới nỗ lực mà trau dồi cái thân của mình thì mình mới sống đúng như Phật được.

1.2- HIỂU VỀ PHÒNG HỘ SÁU CĂN

(01:56) Vậy thì đầu tiên chúng ta - thân Phật thì thườn phòng hộ sáu căn, vậy thì bây giờ mình cũng muốn phòng hộ sáu căn của mình như Phật để cho mình cũng đi mà mình ngó nhìn xuống, mình cũng như Phật thì mình phải làm sao? Mình phải tập như thế nào? Mình phải hướng tâm mình nhắc như thế nào để cho mình đạt được? Đó là cái hành động tu tập của chúng ta gọi là pháp hành, hay là giới hành.

Vậy phòng hộ sáu căn như thế nào?

1- Loại sắc nào do mắt phân biệt…​

Đây bây giờ đó, đây là giải thích thêm để cho chúng ta thấy.

1- Loại sắc nào do mắt phân biệt, khi ta thân cận mà bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm, thì loại sắc do mắt phân biệt đó ta nên tránh xa.

Nghĩa là bây giờ, một cái vật gì có hình tướng, có sắc tướng mà khi mà chúng ta thân cận nó, chúng ta ở gần nó, như máy móc, cái này cái nọ cái kia…​ tất cả mọi cái mà trước mặt Thầy đây, từ cái ca, từ cuộn băng, từ cái đồng hồ, tất cả mọi vật trước mặt Thầy đây, đó là sắc đó, mà khi Thầy thân cận thì bất thiện pháp nó tăng trưởng mà các thiện pháp nó suy giảm.

Tại sao vậy? Tại vì bây giờ có những vật này thì có những người họ thèm muốn, họ sẽ tìm cách trộm cắp lấy, thì như vậy là ác pháp hay thiện pháp? Rồi bây giờ Thầy mất các vật này đi, tâm Thầy có buồn không? Như vậy là có buồn, có phiền não. Hoặc là có người họ lỡ họ làm hư đi, thì tức giận đi, thì như vậy là ác pháp nó tăng trưởng. Những vật này mà gần gũi, thân cận Thầy, ác pháp nó tăng trưởng và thiện pháp nó làm cho Thầy suy giảm đi, như vậy là Thầy có thân cận nó không?

Cho nên vì vậy mà khi suy nghĩ như vậy, muốn phòng hộ sáu căn của chúng ta thì lúc bấy giờ con mắt mà thấy mọi vật - chúng ta phải thấy thân cận nó mà thiện pháp tăng trưởng thì chúng ta thân cận, mà thiện pháp không tăng trưởng, ác pháp tăng trưởng thì chúng ta xa lìa nó đi.

(04:02) Chẳng hạn bây giờ quý thầy sau cái mùa an cư kiết hạ này quý thầy về lãnh cái chùa, do đó quý thầy ở làm trụ trì, vậy mà làm công chuyện này công chuyện kia đủ loại hết, do đó các pháp ác nó đến, nào là chuyện phải xử hay phạt, nào là phải lo xây dựng chùa chiền tất cả mọi cái này, rồi phải đi kêu gọi Phật tử đóng góp đủ thứ hết, đủ loại hết.

Như vậy là các thầy sẽ thấy đó là ác pháp hay là thiện pháp? Nó có giải thoát được cho quý thầy không? Hay là quý thầy chịu đau khổ ở trong các pháp đó? Đó như vậy là quý thầy thấy rõ đó là ác pháp, cho nên tăng trưởng thì chúng ta không nên thân cận, vì vậy là nên giao chùa cho họ, họ làm gì đó làm. Tại vì đó là bất thiện pháp rồi, chớ không phải là - ác pháp.

1- Loại sắc nào do mắt phân biệt, khi ta thân cận mà bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng…​

Như vậy bây giờ như thế nào? Bây giờ chúng ta bỏ hết, bỏ hết, chúng ta chỉ còn…​ (Mất tiếng) quý thầy có thấy các thiện pháp tăng trưởng không?

Nó tăng trưởng rất nhiều, nó làm chúng ta thấy nó không còn bận tâm, lo lắng, không còn sợ hãi, không còn sợ trộm cướp, không còn gì hết, như vậy là chúng ta thấy an ổn không? Quá an ổn, cho nên thiện pháp tăng trưởng, làm chúng ta không còn mất mát gì hết, chúng ta thấy an vui, ngủ rất yên mà không sợ cái gì hết.

Còn bây giờ chúng ta - các cái pháp này, các cái sắc này nó làm chúng ta quá lo lắng, cũng như bây giờ quý thầy giữ một cái chùa, mà cái chùa để cho người ta phá hoặc người ta vô người ta rinh Phật, người ta rinh mấy cái chuông đồng hết rồi thì quý thầy thấy có khổ không? Khổ quá, khổ quá! Cho nên mình làm trụ trì mà để mất như vậy, Phật tử họ đến họ nói này nói kia chịu không nổi rồi. Đó không phải là ác pháp sao?

Ở trong chùa lại có cái tượng bằng vàng nữa, cái ông Phật Thích Ca bằng vàng mà cỡ độ chừng 3 ký lô mà để ngồi chong ngóc đó, chắc chắn là không thể nào mà chúng không lấy được hết. Cho nên phải đem ông Phật này giấu ở trong rương hay hoặc đem…​ chớ không dám để trên bàn Phật thờ đâu. Như vậy là phải sợ sệt đủ thứ hết, cho nên do đó những cái pháp đó là những cái pháp gì? Pháp ác.

(06:02) Cho nên vì vậy thôi đem cái ông Phật này ra cái tiệm thợ kim hoàn nào đó: “Làm ơn ông chẻ nó ra, ông nấu nó ra làm đồ nữ trang bán đi, chớ để tui ở trong chùa cực quá đi. Tui giữ ổng cũng mệt tui!” Đó như vậy là chúng ta đã xa lìa các ác pháp, các sắc pháp đó. Nó không có những thiện pháp được, cho nên dù là ông Phật đẹp tốt nhất chúng ta cũng rất sợ hãi.

Cho nên chúng ta nghe ở những nơi chùa mà có những cái ông Phật bằng những cái loại quý giá, bằng những ngọc, bằng những vàng, bạc, châu báu, bằng những cái loại quý thì hầu như cái ông thầy ở đó ông quá lo lắng, hở ra là sợ người ta rinh ông Phật đó mất đi.

Cho nên ở đây - Thầy nói chỉ ở trên cái tượng Phật thôi, mà người ta chỉ gắn cái hột xoàn ở giữa cái trán của ông Phật thôi, mà ông Phật để đó người ta cũng lo nữa. Cái hột xoàn quá lớn rồi, nó chói sáng ra, nó nhiều màu sắc nó chói sáng ra, thì do đó người ta cũng cạy cái đó người ta lấy nó ra.

Vì vậy mà hầu hết là trong những cái chùa mà có những ông Phật bằng những cái vật báu là cái tai họa lớn cho cái ông thầy đó chớ không phải sung sướng gì hết. Còn cái chùa mà bằng tranh, bằng vách, bằng lá, ông thầy ngủ ngon lắm, không có lo gì hết. Mà tượng Phật bằng đất đồ đó thì chắc không ai rinh đâu, cho nên càng sung sướng chúng ta bằng mấy.

Còn trái lại, cái chùa mà nó càng sang càng đẹp, nào là gạch ốp lát đồ này kia thì coi chừng chúng ta cứ tối ngày phải chùi rửa, không có chùi rửa thiên hạ họ nói này nói kia: “Ông thầy ở dơ quá trời! Cái chùa mà gạch ốp lát như vầy, bóng như vầy mà ổng không chùi rửa.” Người ta nói này nói kia mình khổ lắm.

Cho nên cái chùa mà nền đất thì khỏe lắm, không có cực khổ gì nhiều, do đó là cái thiện pháp, nó không phải là ác pháp. Còn tất cả những cái sang đẹp của thế gian nó cũng không phải vĩnh viễn trường tồn, nhưng nó làm cho chúng ta phải khổ sở với nó tức là ác pháp.

2- Loại tiếng nào do tai phân biệt…​

Như vậy là bây giờ đó, chúng ta thấy hồi nãy là sắc, loại sắc nào, bây giờ nó do cái tiếng nào mà nó đem đến cho chúng ta những cái thiện pháp tăng trưởng và ác pháp suy giảm thì cái tiếng đó chúng ta nên…​

Cũng như bây giờ quý thầy nghe cái âm thanh Thầy thuyết giảng mà đem đến cái lòng thiện, đem đến cái sự tu tập của quý thầy, thì cái tiếng đó là cái tiếng tốt.

Còn cái tiếng mà nghe nó rỉ ra rỉ rả làm cho chúng ta nghe nó thương vay khóc mướn, làm cho chúng ta đau sầu khổ muộn, nghe nó thương nhớ cái này thương nhớ cái kia, thì những cái tiếng đó nó có tốt không? Nó không có tốt đâu. Những tiếng chửi lộn, đánh mắng cũng không tốt đâu.

Cho nên vì vậy mà chúng ta nên xa lìa những cái âm thanh đó, mà hãy gần gũi với những cái âm thanh dạy đúng chánh pháp để chúng ta ly tất cả những cái thế giới vô thường, hoại diệt này, ly tất cả cái thế giới vô hộ vô chủ này, ly tất cả cái thế giới tham ái này, khao khát này không bao giờ cùng tận đó, thì chúng ta phải ly nó ra, thì tức là chúng ta phải chọn lấy những cái tiếng nào đúng mà cái tiếng nào sai.

(09:02) Rồi đến cái:

3- Loại hương nào do mũi phân biệt…​

Cái hương nào mà là cái hương giải thoát, còn cái hương nào là cái hương làm cho chúng ta đam mê, chúng ta nghe mùi hoa, mùi này kia mê quá, thơm quá, sự thật nó làm cho chúng ta đam mê.

Cái mùi hương đạo đức, cái mùi hương nhân quả, cái mùi hương đó nó làm cho chúng ta giải thoát. Cái mùi hương đó nó đi ngược gió, nó đi bốn phương được. Còn cái mùi hương mà của loài hoa nó chỉ đi theo cái chiều gió xuống thôi, nó không có thể đi ngược gió trở lên. Còn cái mùi hương của đạo đức nhân quả nó sẽ đi ngược gió, nó làm nên những cái mùi hương rất tốt.

Cho nên chúng ta nên chọn lấy những cái mùi hương tốt, nó sanh ra thiện pháp, nó làm chúng ta không làm những cái hành động ác, do đó chúng ta nên chọn lấy những cái mùi hương tốt đó.

4- Loại vị nào do lưỡi phân biệt…​

Ở đây những cái loại vị mà phân biệt ngon, dở, ngọt bùi của thế gian, loại vị đó là loại vị bất tịnh, ảo giác, chúng ta hãy xa lìa đi. Còn cái loại vị mà ly dục li bất thiện pháp, nó sanh ra những cái hỷ lạc của cái ly dục ly bất thiện pháp thì chúng ta hãy chọn cái đó đi.

Như vậy thì ở trong Bốn Thiền chúng ta thấy, từ cái thiền thứ nhất mà cho đến thiền thứ tư, nó do chúng ta ly những cái vị thế gian, nó làm chúng ta ly ra hết, do đó chúng ta mới thọ hưởng được những cái vị xuất thế gian, những cái vị đó nó làm chúng ta liên tục, mãi mãi có cái sự kéo dài mãi, cái sự hỷ lạc của nó mãi.

Còn cái loại vị mà hiện bây giờ chúng ta đang thọ hưởng của thế gian thì bỏ vô miệng thì thấy ngon, còn nuốt vô cổ rồi thì hết ngon rồi, nó chỉ chớp mắt à, nhai nhai có một chút cái rồi nuốt vô cái sạch, không còn thấy ngọt nữa, thì cái loại vị đó chúng ta nên lìa nó đi, bỏ nó đi.

5- Loại xúc chạm nào do thân phân biệt…​

Cái loại xúc chạm thí dụ như xúc chạm gây cái sự cảm xúc khoái lạc thế này thế kia, gây sự êm ấm như nệm mút, như là chăn lông, như cái này kia làm chúng ta thấy êm ấm thân của chúng ta bằng cách này, bằng cách kia, thì từ đó chúng ta phải xa lìa nó đi. Đó là những cái nó cám dỗ, nó quyến rũ chúng ta khao khát mà không bao giờ hết được.

Do đó chúng ta hãy tìm lại những sự xúc chạm bằng cái tâm thanh tịnh của chúng ta, bằng cái thân thanh tịnh của chúng ta đang ở trong những cái sự thiền định, thì cái sự xúc chạm đó là cái xúc chạm làm tâm chúng ta bất động, bất dao động, thì lúc bấy giờ đó là những cái pháp mà chúng ta cần phải đi theo cái đường đó mà các thiện pháp tăng trưởng và ác pháp nó suy giảm.

(11:36) 6- Loại pháp nào do ý phân biệt, khi thân ta thân cận mà bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm, thì loại pháp ấy nên xa lánh.

Bây giờ có những cái lời dạy, mà cái lời dạy đó nó đem cho chúng ta đến cái ác pháp thì tức là chúng ta không đến. Cũng như bây giờ người ta nói cái câu nói đó là rất hay, nhưng mà chúng ta gần gũi nó, chúng ta thường hay lấy câu đó hay hoặc lấy cái ý đó mà chúng ta tranh cãi thiên hạ cho mình hơn thua thiên hạ, thì cái đó có phải là pháp đúng không? Không phải pháp đúng đâu, pháp đó nó sanh ra ác pháp tăng trưởng mà thiện pháp suy giảm.

Còn cái pháp nào mà chúng ta biết nhẫn, biết nhịn, biết nhường người ta, người ta muốn tranh luận thì thôi mình làm thinh, chẳng hơn tranh luận gì với ai thì những cái pháp đó là những cái pháp để cho mình được giải thoát và người khác cũng không thù hận mình. Vì vậy cho nên khi mà có những cái pháp như vậy thì chúng ta thân cận để cho cái tâm của chúng ta được giải thoát và người khác cũng giải thoát.

Cho nên khi mà đến gần với cái người nào mà họ muốn tranh hơn tranh thua với mình thì mình luôn luôn nhẫn nhịn họ, không có tranh hơn tranh thua họ, thì những cái pháp đó là những cái pháp mà thiện pháp tăng trưởng, vì vậy mà chúng ta biết tu tập như vậy thì đó là những cái pháp đúng.

Còn những cái pháp mà rống họng tranh nhau hơn thua thì những cái pháp đó là những cái không đúng, đó thì như vậy là ác pháp nó tăng trưởng mà thiện pháp nó suy giảm.

1.3- PHÁP HƯỚNG NHƯ LÝ TÁC Ý ĐỂ PHÒNG HỘ SÁU CĂN

(13:02) Giới hạnh hộ trì các căn như thế nào?

Bây giờ đó thì chúng ta đã học qua cái phòng hộ sáu căn rồi, thì bây giờ tới cái giới hành, nó hộ trì các căn của chúng ta như thế nào?

Khi tìm được nơi yên tĩnh, vắng vẻ, ta ngồi kiết già, thẳng lưng, đặt niệm phòng hộ sáu căn trước mắt, ta dùng trạch pháp, chọn lấy một câu rồi dùng câu đó làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Phật đi không ngó qua ngó lại…​

Đây là cái câu pháp hướng đây.

“Phật đi không ngó qua ngó lại, chỉ nhìn xuống đất, quan sát từng bước đi của mình để tránh vô tình làm đau khổ chúng sanh. Thân ta niệm Phật phải thực hiện đi giống như Phật”.

Đó là mình dùng cái pháp hướng này mình nhắc, mỗi lần khi mình bước đi thì mình nhắc trước. Tức là cái câu thứ nhất mà pháp hướng đó, đây là cái pháp hành của chúng ta rồi.

Cho nên trước khi mà chúng ta đi hoặc là chúng ta đặt một cái niệm phòng hộ sáu căn thì chúng ta ngồi thẳng lưng, kiết già, rồi chúng ta nhắc như vậy để sau khi mà chúng ta bước đi là chúng ta nhớ liền, chúng ta không quên.

Cho nên khi mà chúng ta bước đi thì cái thân hành của chúng ta nó nhìn xuống, mắt chúng ta nhìn xuống, nó giữ gìn sáu căn của chúng ta - mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chúng ta không ngó qua ngó lại, không nhìn lên nhìn xuống, tập trung ở dưới bước chân chúng ta đi.

Mà hằng ngày chúng ta phải đặt niệm - trong những cái buổi yên tĩnh chúng ta ngồi chúng ta đặt niệm, chúng ta dùng cái pháp hướng chúng ta nhắc tâm mình. Cho đến khi mà thân chúng ta bước đi là chúng ta đã nhớ liền, hoặc là chúng ta không nhớ thì chúng ta lại dùng pháp hướng đó nhắc một lần nữa rồi chúng ta lại bước đi.

Cho nên những cái câu này thì quý thầy phải thuộc lòng, phải nhớ thuộc để thành ra một cái trạch pháp để nhắc chúng ta.

Ở đây Thầy xin nhắc lại câu này:

“Phật đi không ngó qua ngó lại, chỉ nhìn xuống đất, quan sát từng bước đi của mình để tránh vô tình làm đau khổ chúng sanh. Thân ta niệm Phật cũng vậy, phải thực hiện đi giống như Phật”.

(15:05) Đó là mình phải nhớ câu nói đó. Đó là khi ngồi thì mình đặt cái niệm này trước mặt, dùng trạch pháp này mà nhắc mình, đó là cái pháp để phòng hộ sáu căn của chúng ta. Khi bước đi, khi làm những việc gì thì chúng ta cũng nhớ những cái điều đó.

Câu thứ 2:

“*Sáu căn tiếp xúc với sáu trần, dính mắc các pháp, tạo biết bao nhiêu điều khổ cho kiếp người. Thân ta niệm Phật thì phải giống như thân Phật, phòng hộ sáu căn, đi, đứng, nằm, ngồi, ý tứ từng hành động, nhẹ nhàng, thanh thản, không mong cầu, không ước muốn, chỉ biết khoan thai bước đi mà thôi”.*

Đó là câu thứ 2 để mà chúng ta hướng tâm nhắc nó. Thí dụ như bây giờ chúng ta ngồi kiết già, lưng thẳng, chúng ta nhắc câu thứ nhất để cho mỗi ngày chúng ta làm cho thân tâm chúng ta thấm nhuần cái chỗ thân hành, cái chỗ mà hộ trì sáu căn của chúng ta. Tiếp tục câu thứ 2 chúng ta nhắc lại lần nữa.

Và câu thứ 3, đây là câu thứ 3:

“Thong thả mà đi, thanh thản mà đi, mắt nhìn xuống bước đi, tai lắng nghe bước đi, không nhìn ngó đôi bên”.

Đó là chúng ta nhắc nó, chúng ta hướng tâm chúng ta nhắc nó, nhắc cái thân của chúng ta để cho giống Phật đó, để làm y như Phật đó.

Đó thì quý thầy - đây là pháp hành đó chớ không phải là một cái chuyện…​ Siêng năng tập thì quý thầy sẽ đạt được kết quả đó, mà quý thầy không siêng năng thì quý thầy chịu lấy. Ở đây Thầy trạch pháp sẵn những cái câu này để giúp cho quý thầy tu tập mang được cái kết quả tốt là phòng hộ được sáu căn của mình không dính mắc sáu trần.

Câu thứ tư:

“Các pháp xung quanh ta là vô thường, là khổ, là tai hại, ta hãy nhìn và nghe từng bước đi của ta”.

Nghĩa là bây giờ mình ngó bên nây bên kia, pháp này pháp kia nó đều dính vào trong mắt của chúng ta, nó dính vào lỗ tai chúng ta thì nó làm cho chúng ta khổ. Mà nó toàn là - các pháp đều là vô thường hết, các cái sắc pháp, các cái tướng của nó đều là vô thường hết, tại sao chúng ta lại nhìn nó làm gì?

Cho nên chúng ta hãy nhìn cái bước đi của chúng ta, mà nghe và nhìn bước đi của chúng ta, từng bước đi ủa chúng ta, thì do đó chúng ta có cần để ý chúng nữa không? Mà không cần để ý chúng thì tức là chúng ta đã phòng hộ sáu căn của chúng ta chớ gì?

Đó, đó là câu trạch pháp thứ tư. Các thầy nhớ chưa? Nhớ kỹ như vậy, khi mà chúng ta không có đi thì chúng ta ngồi chúng ta cũng nhắc cái tâm của mình. Hướng tâm là nhắc tâm của mình. Hằng ngày nhắc như vậy tức là chúng ta sẽ thấm nhuần được sự phòng hộ sáu căn.

Mà phòng hộ được sáu căn tức là chúng ta đã thoát ra khỏi biết bao nhiêu pháp, nó luôn luôn nó trói buộc, nó dính mắc ở trong tâm ta. Cho nên muốn phòng hộ được sáu căn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình không dính các pháp thì phải hằng ngày siêng năng mà tu tập, tinh tấn mà tu tập chớ không thể biếng trễ mà được.

Muốn giải thoát mà, muốn ra khỏi sanh tử luân hồi mà, muốn thoát ra bốn cái cảnh giới thế giới nó vô thường, nó hoại diệt này mà, nó vô chủ, nó vô hộ này, nó vô sở hữu này, nó tham đắm, nó không bao giờ cùng, mà muốn ra khỏi nó thì những cái pháp đầu tiên này mà chúng ta không tu tập thì chúng ta tu tập pháp nào giờ? Mà không phòng hộ nó thì làm sao chúng ta không dính mắc?

Cho nên phải nhắc đi nhắc lại để thấm nhuần được. Vì vậy mà chúng ta đã phòng hộ được sáu căn, mà sáu căn không dính mắc thì chúng ta sẽ thấy được sự giải thoát của chúng ta tức thời, ngay đây, nó không còn phải đợi một cái thời gian nào nữa hết. Nghĩa là tu tập đúng cách thì quý thầy thấy cái thời gian nó không mất đâu.

(18:38) Câu thứ 5:

“Các pháp luôn luôn có sự lôi cuốn, cám dỗ, thu hút, dễ khiến ta dính mắc khả hỷ, khả lạc, khả ái. Tâm ta phải bất động trước các pháp, mắt ta nhìn xuống, tai nghe tiếng bước chân đi”.

Đó, mình phải trạch cái pháp ra để thấy rằng, các cái pháp xung quanh của mình nó dễ cám dỗ, nó thu hút mình lắm, cho nên vì vậy đó mình phải nhìn xuống cái bước đi của mình, vì nó làm cho chúng ta thấy thích lắm, khả ái, khả lạc, khả hỷ, nó làm chúng ta thích thú, đắm mê lắm.

Cho nên tâm ta phải bất động trước các pháp đó, mắt ta phải nhìn xuống, tai ta phải nghe cái tiếng bước chân chúng ta đi, đừng có nghe cái tiếng ở bên ngoài, đừng có thấy những cái sắc ở bên ngoài. Đó là pháp hướng nhắc cho chúng ta hộ trì, giữ gìn, phòng hộ sáu căn của chúng ta đó.

Đó là những cái câu pháp hướng mà quý thầy cần phải thuộc để hàng ngày đặt niệm trước mặt mà quý thầy nhớ, chớ nếu quý thầy không nhớ thì không có pháp mà quý thầy tu đâu. Đó, nhớ kỹ như vậy thì càng ngày quý thầy mới thấy được thế gian này vô thường, các pháp là vô thường, là khổ.

Câu 6:

“Các pháp thế gian vô thường, khổ, vô ngã, có nhiều tai ương, có nhiều nguy hiểm. Ta phải buông xuống hết, không để sáu căn dính mắc sáu trần”.

Đó là một cái câu để nhắc cho chúng ta, để mà chúng ta xả xuống, không có để cho nó dính mắc với chúng ta. Chúng ta nhìn các pháp thế gian là khổ, là vô ngã, nó có nhiều tai ương, nó nguy hiểm lắm.

Thí dụ như bây giờ các thầy thấy: Mình không có tiền chớ mình có tiền rồi thì nó sẽ xảy ra những cái tai họa cho mình. Mình không có chùa to, mình không có tháp lớn thì nó chưa có tai họa đâu, mà mình có chùa to tháp lớn nó có những cái sự kiện tai họa đến cho mình, nó xảy ra chuyện này chuyện kia, Phật tử thì kiện thưa đầu này đầu kia. Còn cái chùa lá không ai mà tranh giành hết, còn cái chùa tốt người ta tranh giành qua lại, mình làm ông thầy ở giữa, trời, xử không có được, nói gì họ cũng không nghe hết!

Đó thì quý thầy thấy. Đây mình là những người tu sĩ, mình cứ lấy ở trong cái chùa của mình, mình dễ hiểu hơn hết. Còn cái ở ngoài đời thì những bao nhiêu thứ chuyện khác nó nguy hiểm lắm, nó tai họa lắm. Do đó mình lấy những cái câu này để mình nhắc nhở mình, mình xa lìa nó.

7:

“Sáu căn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý phải tập trung dưới bước đi, không được phóng dật theo sáu trần sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.”

Đó là cái câu thứ 7. “Sáu căn” tức là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chúng ta, “phải tập trung dưới bước đi, không được phóng dật theo sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp” - nghĩa là không được ngó qua ngó lại ở bên ngoài, tức là không chạy theo sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp nữa.

Đó là nhắc nhở chúng ta đừng có để mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chúng ta…​ mà luôn luôn nó phải tập trung dưới bước đi, nó không cho nó phóng dật ra ngoài. Nhắc nhở như vậy thì may ra mới phòng hộ được nó.

1.4- PHÒNG HỘ LÀ ĐIỀU KIỆN ĐẦU TIÊN KHI BƯỚC VÀO ĐẠO PHẬT

(21:33) Bây giờ chúng ta tiếp tục cái bài học.

Các thầy phải nhớ rằng những cái pháp hướng này phải nhớ cho kỹ, và hằng ngày phải siêng năng mà tu tập. Trong khi buổi tối chúng ta không phải ngồi mà hít thở hơi thở không mà nhiều khi chúng ta phải dành những cái thời gian mà chúng ta dùng cái pháp hướng này nhắc đi nhắc lại cái tâm chúng ta rất nhiều để phòng hộ sáu căn của chúng ta tu tập, chớ không khéo thì quý thầy sẽ không có đạt được cái kết quả tốt của nó đâu.

Đầu tiên bao giờ mà bước vào đạo Phật thì chúng ta cũng phải nhớ rằng là chúng ta phải phòng hộ sáu căn, giữ gìn mắt, tai…​ của mình. Bởi vì vốn cái tâm của mình nó dễ dính mắc với sáu trần, cái thân tâm của mình nó dễ dính mắc lắm, cho nên vì vậy hở chút chút nào nó cũng dính mắc. Ngay bước đầu mà chúng ta không phòng hộ nó thì chúng ta khó mà có thể có thể đạt được cái sự giải thoát được.

Cho nên muốn tu tập thiền định của đạo Phật thì cái sự phòng hộ là cái điều kiện kiên quyết đầu tiên. Cho nên ở đây chúng ta lấy ba cái giới đầu tiên là Phật, Pháp, Tăng là lấy những cái gương hạnh giải thoát mà chúng ta lấy đó chúng ta nương vào để mà chúng ta sống một cuộc sống cho đúng cách.

Mà muốn sống đúng cách như vậy thì cái pháp hướng phòng hộ này là phải siêng năng mà chuyên cần tu tập, mà nếu không siêng năng, chuyên cần tu tập thì chắc chắn quý thầy sẽ khó mà đạt được.

Những lời mà Thầy tâm huyết hôm nay Thầy nói đến cái giai đoạn mà giới hành này là rất quan trọng, vì chúng ta sống trong thiện pháp mà không có cái pháp hành thì không thể nào mà chúng ta sống được.

Nói chúng ta phòng hộ sáu căn mà chúng ta không có pháp hành thì chúng ta chỉ giữ nó có một lúc thôi, chúng ta đi nhìn nó xuống đất có một lúc thôi mà không bao giờ chúng ta có thể giữ gìn nó mãi được đâu.

Còn hằng ngày chúng ta mà chuyên cần, siêng năng dùng pháp hướng nhắc tâm chúng ta mãi như vậy, nó thấm cái lý thì khi đi ra tự nó nó đã nhìn xuống đất, nó không còn nhìn…​ Nó đã thấy được cái thế gian này, cái thế giới này là vô thường, là khổ, là hoại diệt, cho nên nó chẳng còn ham muốn một cái vật gì nữa hết. Do cái sự nhắc này nó làm cho chúng ta giữ gìn thân tâm của chúng ta, mắt, tai, mũi, miệng chúng ta rất là thanh tịnh, nó không còn bị đắm nhiễm nữa.

Đó nhớ như vậy thì quý thầy phải siêng năng, phải siêng năng hết sức mà tu tập, vì rồi đây Thầy cũng không còn nhắc nhở quý thầy nữa, do vì vậy thì chỉ còn quý thầy lấy những cái bài này mà nghe những cái lời của Thầy nhắc nhở ở trong băng.

(24:07) Lời của Thầy nói ở trong băng vẫn còn nhắc nhở, vẫn còn. Nhưng trực tiếp mà như ngày hôm nay, một vị thầy bằng xương bằng thịt mà nhắc nhở quý thầy thì chắc chắn là không còn nữa, chỉ còn cái lời của Thầy ghi ở trong băng này nhắc nhở quý thầy mà thôi. Dù bất kỳ ở đâu lời nói này vẫn còn, nhưng các thầy sẽ không thấy Thầy được.

Do vì vậy cho nên các thầy phải nhớ kỹ, phải nỗ lực, phải siêng năng, những cái lời này là những cái lời tâm huyết, là những cái lời kinh nghiệm trên bản thân tu tập của Thầy mà Thầy nói ra để cho quý thầy biết.

Mà chính Đức Phật dạy chúng ta ở trong kinh điển của Phật cũng là những lời mà Thầy biết rằng những lời tâm huyết của Phật. Phật nói Như Lý Tác Ý - như cái lý giải thoát đó mà chúng ta nhắc nhở, chúng ta tác ý thì chúng ta mới phòng hộ được sáu căn, như cái lý mà tác ý thì chúng ta mới nhập được định, như cái lý mà tác ý chúng ta mới thực hiện các cái oai lực đại thần lực, đại oai lực, đại minh lực mới được. Còn không có Như Lý Tác Ý làm sao có được những cái đại thần lực, đại oai lực, đại minh lực được!

Nên cái Như Lý Tác Ý này là cái pháp tuyệt vời, quý thầy phải nhớ kỹ, đừng có để quên mà hằng ngày phải trau dồi thân tâm của mình liên tục, không được gián đoạn, lúc nào chúng ta cũng phải cần mẫn. Vì con đường sanh tử không thể chờ quý thầy đâu, nó đến là nó đến chớ không thể nào nói nó phải hoãn lại cho quý thầy một giây lát được.

Cho nên phải siêng năng, khi chúng ta còn một chút hơi là chúng ta phải nỗ lực thực hiện, chớ đừng có để tới chừng mà giờ co tay giật chân rồi thì tu không có kịp nữa đâu. Nhớ như vậy thì quý thầy mới có thể thực hiện được con đường này.

Trên đây là trạch pháp để phòng hộ sáu căn. Nhờ giới hành phòng hộ sáu căn nên oai nghi chánh hạnh của người tu sĩ hiện lên rất rõ nét. Và xét về quả tu, từ bắt đầu vào đạo đã được dạy thân niệm Phật là pháp phòng hộ sáu căn đầu tiên này, thì ngay đây, trong hiện tại, vị tu sĩ ấy cảm thấy mình không còn dính mắc sáu trần, nên tâm lúc nào cũng quay hướng vào trong và nhận ra có một trạng thái ly dục ly ác pháp qua sự hành trì này.

Đó quý thầy thấy chưa? Khi mà quý thầy phòng hộ được sáu căn thì ngay đó quý thầy đã thấy được một trạng thái tâm của quý thầy là ly dục ly ác pháp. Phòng hộ thôi, chưa tu gì hết, chưa có một cái gì cả hết, chỉ giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình thôi mà đã ly dục ly ác pháp rồi.

Mà ly dục ly ác pháp rồi, nó có một cái gì mà để chứng minh cho chúng ta biết? Nó có một cái sự giải thoát thật sự, tâm hồn chúng ta thanh tịnh, thanh thản trước mọi pháp làm chúng ta có một cái niềm hân hoan.

Hân hoan đây không có nghĩa là vui theo thế gian, mà hân hoan đây làm cho chúng ta trở thành một người vô sự, vô sự hoàn toàn đối với các pháp thế gian này, vô sự hoàn toàn không còn dính mắc ở trong các pháp thế gian này, cho nên gọi là vô sự, với một tâm hồn vô sự.

(27:13) Quý thầy chỉ mới tu có bấy nhiêu đó thôi mà cũng đủ quý thầy đã được ly dục ly ác pháp rồi, còn đòi hỏi gì nữa! Nếu quý thầy siêng năng tu tập, kết quả này càng ngày càng sâu hơn, ly dục ly ác pháp càng tiến tới, và quý thầy sẽ nhập Sơ Thiền, rồi Nhị Thiền, rồi Tam Thiền, rồi Tứ Thiền, rồi làm chủ sự sống chết của thân này, rồi kết quả của nó quý thầy sẽ chấm dứt được luân hồi tái sanh.

Bởi vậy Phật pháp kết quả hiện tại không có thời gian.

Nghĩa là đạo Phật đã dạy chúng ta khi tu đúng thì chúng ta không có thời gian mà gọi rằng phải 5 ngày, 10 ngày, mà ngay trong hiện tại là có giải thoát.

Tại sao vậy? Tại vì lúc bấy giờ quý thầy chỉ dùng pháp hướng nhắc tâm mình, có gò bó thân tâm mình đâu, có làm cho nó mệt mỏi đâu, có ức chế nó chỗ nào đâu, cho nên nó đâu có gì mà rối loạn cơ thể của quý thầy mà thấy nhức cái vai, đau cái lưng, tức cái ngực, đâu có cái gì!

Ở đây quý thầy chỉ hải nhắc nó phòng hộ sáu căn, khi đi phải nhẹ nhàng, khoan thai, thư thả, không có gì hết, làm sao quý thầy có cái trạng thái gì mà khổ đau trong thân đâu? Làm sao có những cái gì mà dính mắc trong tâm của quý thầy đâu mà làm cho quý thầy phải giận hờn, buồn phiền, đau khổ?

Cho nên ngay khi phòng hộ sáu căn là quý thầy đã thấy được cái sự giải thoát thật sự của nó rồi. Ngay khi ngồi thẳng lưng kiết già cũng đâu phải ngồi cho đến khi mà hai chân quý thầy tê, đau nhức, khổ sở, để rồi quý thầy nói: “Sao tui ngồi thiền đau nhức!”

Đâu có ai bảo quý thầy ngồi dữ vậy? Quý thầy ngồi trong 5 phút, 10 phút, quý thầy đặt cái niệm trước mặt của quý thầy, rồi quý thầy dùng pháp hướng mà nhắc cái tâm phòng hộ sáu căn của mình, chớ đâu có bắt quý thầy ngồi 1 giờ, 2 giờ, 3 giờ để quý thầy chịu đau chịu khổ với cái thân của quý thầy đâu, mà quý thầy nói rằng là khổ là sở?

Đạo Phật dạy cho quý thầy ngồi có sự an lạc của ngồi, đi có sự an lạc của đi. Đó là sự giải thoát. Cho nên vì vậy mà quý thầy dùng pháp hướng để nhắc tâm mình thấm nhuần được đạo lý, được giải thoát của nó.

Cho nên quý thầy tu hành mà nghe bất an trong thân và tâm của quý thầy, đó là quý thầy tu sai pháp của Phật, tu đó là pháp của ngoại đạo, cho nên làm thân của quý thầy nhọc nhằn, khổ sở, mệt mỏi, hôn trầm, thùy miên, vô ký, đó là quý thầy tu sai.

Còn quý thầy tu đúng thì không hôn trầm, thùy miên, mệt nhọc gì cả, lúc nào cũng thấy giải thoát, an vui và tỉnh táo, rất là tỉnh táo. Đây là mới bước đầu vào quý thầy đã tu pháp phòng hộ sáu căn, thì quý thầy đã thấy quá rõ ràng, sự giải thoát cụ thể, không thể nào mà chối cãi được!

Điều này chứng minh hùng hồn, không thể phủ nhận được, do thế mới gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh, là Tín Lực, nghĩa là sức lực của niềm tin mạnh mẽ.

Nghĩa là khi mà chúng ta vào thực hiện sự phòng hộ sáu căn rồi thì chúng ta tin rằng đúng là chúng ta đã giải thoát thật sự rồi, thì từ cái chỗ kết quả đó, cái lòng tin của chúng ta nó mạnh mẽ vì gọi là Tín Lực. Tín Lực là cái lòng tin mạnh mẽ.

Mà có sự giải thoát, có kết quả giải thoát, có sự an lạc, có sự thích thú ở trong cái sự tu tập đó, có sự thanh tịnh ở trong tu tập đó thì chúng ta mới có lòng tin. Mà cái lòng tin đó làm sao mà chúng ta rời với Phật được, rời được Pháp, rời Tăng được, cho nên lòng tin đó gọi là Tín Lực. Đó quý thầy thấy rất rõ.

Cho nên Tứ Bất Hoại Tịnh nó làm cho thân tâm chúng ta thanh tịnh mà trở thành một cái lòng tin rất là mạnh, đó là cái sức lực tin tưởng mạnh mẽ của chúng ta.

2- THÂN NIỆM PHẬT ĐI KHẤT THỰC

(30:54) Cái phần thứ hai:

2. Thân Phật thường đi ăn xin…​

Đó, bây giờ tới cái thân Phật mà đi ăn xin đó, thì chúng ta phải tu như thế nào để mà chúng ta sống đúng như Phật?

…​ thân ta niệm Phật cũng vậy.

Bây giờ mình lấy thân mình niệm Phật mà, cho nên bây giờ thân Phật hay đi xin, đi khất thực, đi xin ăn, thì thân ta niệm Phật cũng vậy.

Không làm tất cả mọi nghề nghiệp, chỉ lấy nghề đi xin làm chánh nghiệp mà nuôi chánh mạng mà thôi.

Đó chúng ta lấy cái nghề đó mà chúng ta quyết tâm tu hành. Nghĩa là chúng ta khéo léo tổ chức như thế nào mà chúng ta hằng ngày có một bữa cơm đi xin ăn mà thôi. Khéo léo, khéo léo!

Chớ còn hiện giờ mà chúng ta không khéo léo mà mang bình bát đi ra xóm xin thì không khéo léo, cái đó là vụng về, nó không phải như đất nước Ấn Độ, cũng không phải như đất nước mà của Phật giáo Nam Tông người ta có sẵn sàng những người Phật tử cúng dường, còn ở đây chúng ta phải khéo léo. Khéo léo để cho tự người ta nấu cơm, người ta cho mình cái gì đó mình ăn cái nấy.

Cũng như ở đây Thầy khéo léo tổ chức cho quý thầy, quý thầy chỉ đến giờ là người ta cho gì đó, mình ra mình nhận cái thực phẩm đó mình ăn một ngày một bữa. Ở bên phái nữ người ta cực khổ người ta nấu nướng cái gì đó, người ta cho mình cái gì đó mình chẳng biết, tới giờ ăn đó mình chỉ nhận ăn. Đó là khéo léo để khất thực.

Còn nếu mà mình chỉ vụng và mình chấp nhận cái đi khất thực bằng cách như thời đức Phật thì đất nước chúng ta chưa cho phép, do đó chúng ta không khéo léo.

Mà không khéo léo thì dân tộc chúng ta sau chiến tranh thì có kẻ nghèo, người giàu. Người giàu thì cho chúng ta không nói gì, nhưng người nghèo mà hiểu Phật pháp họ phải nhịn bụng để cúng dường cho chúng ta bát cơm thì họ lại nghèo khổ nữa, thì chúng ta đâu nỡ tâm làm cái điều đó!

Đó cho nên vì vậy đó mà chúng ta phải thấy và chấp nhận như thế nào để mà chúng ta đi xin ăn mà không làm khổ người khác, không làm nghèo người khác. Do vì vậy mà chúng ta khéo tổ chức.

Chẳng hạn thí dụ như bây giờ muốn đi xin, sống như Phật thì mình phải tổ chức những người cư sĩ họ có tiền bạc, họ vì Phật pháp mà họ hộ trì cho chúng ta tu tập, 1 người hay 5 người, 3 người, bây giờ các vị hợp lại, các vị mở cái câu lạc bộ hoặc là một cái tiệm cơm chay ở tại đâu đó. Rồi số tu sĩ chúng tôi sẽ ở gần đó, mỗi ngày chúng tôi chỉ đến xin một bữa cơm thôi, quý vị cho ăn cái gì thì chúng tôi ăn cái nấy, chúng tôi không đòi hỏi gì hết.

(33:21) Do đó các cư sĩ đó họ sẵn sàng họ giúp đỡ mình. Rồi tới đúng giờ là 11 giờ hay là 10 giờ, mình ôm bát mình đến đó mình xin một bữa cơm, rồi mình trở về cái khu rừng hay cái vị trí tu hành của mình, mình thọ thực rồi mình tu hành.

Có như vậy thôi, tức là đời sống của chúng ta chỉ lấy cái nghề đó thôi, mà nó không làm cho ai đau khổ hết, mà nó không làm cho cái xã hội nghèo đói nữa. Và cái hình ảnh đi khất thực như vậy, tổ chức như vậy là đúng cách, đúng xã hội, đúng cái thời điểm.

Còn nếu mà không tổ chức được như vậy mà ôm bình bát đi lang thang xin thì không được, chúng ta làm như vậy sai. Đó chúng ta phải hiểu được những cái này mà chúng ta mới có cái khéo léo mà tổ chức để chúng ta thực hiện được cái nghề đi xin để nuôi chánh mạng của chúng ta.

Bây giờ đó, thân Phật thường đi xin ăn, vậy thì chúng ta cũng muốn cho mình được đi xin ăn như vậy thì chúng ta cũng phải dùng cái pháp hướng để nhắc nhở. Chứ nhiều khi chúng ta đi xin mà chúng ta còn ngại ngùng, còn này kia nọ, nó chưa thấm nhuần thì chúng ta cũng khó mà có thể đi xin được.

Vậy muốn đi xin thì thường ngày chúng ta phải ngồi chúng ta tu như thế nào để mà chúng ta dạn dĩ để mà chúng ta đi xin một cách rất tự nhiên.

Câu 1:

Hằng ngày ta nên đặt niệm đi xin trước mắt, dùng pháp hướng:

Bây giờ mình đặt cái niệm đi xin trước mắt, mình ngồi kiết già hẳn hòi, mình muốn hành động giống cái hành động của Phật đi xin ăn đó thì mình phải đặt cái niệm đi xin trước mặt của mình, rồi mình dùng cái pháp hướng. Mình hướng như thế nào đây?

“Đi xin là một nghề chân chính. Người tu hành ta phải đi xin như thế nào không làm khổ mình, khổ người”.

Đó, mình đặt cái câu hỏi, cái câu pháp hướng để cho mình hướng tâm cho đúng cách. Bây giờ đó mình muốn đi xin thì mình nói: Đi xin là một nghề chân chính mà từ xưa đến giờ Đức Phật đã chấp nhận cái nghề đó để nuôi cái chánh mạng của mình, không có đòi hỏi cái ngon, cái dở, không có đòi hỏi bằng cái này cái kia.

Thì do cái dục lạc về cái ăn nó tạo cho chúng ta khó mà có thể giải thoát được, cho nên chỉ có đi xin nó mới có thể tạo cho chúng ta xa lìa được cái dục lạc của cái ăn.

Vì vậy mà: “Đi xin như thế nào mà không làm khổ mình, khổ người” Nghĩa là đi xin như thế nào không làm khổ mình, khổ người, để chúng ta đặt cái niệm đó như thế nào? Như vậy là để gì? Để chúng ta có cái sự quán xét, khi mà đặt cái niệm đi xin trước mặt, rồi đem cái pháp hướng này ra đặt ở trước mặt, rồi chúng ta dùng cái pháp quán mà chúng ta suy xét.

(36:01) Bây giờ mình ngồi tu đây mà mình muốn trở thành một cái người đi xin ăn, xin ăn như thế nào mà hợp lý, mà không hợp lý, đi xin như thế nào mà không làm khổ mình, khổ người? Đó như vậy, mình mới đặt ra một cái pháp như vậy.

Bắt đầu mình đặt ra như vậy, mình trạch pháp này ra mình nhắc mình rồi, rồi bắt đầu mình ngồi yên. Mình ngồi yên thì nó bắt đầu nó suy tư: Bây giờ mình phải tổ chức như thế nào đây để cho cái đời sống tu hành của mình nè, đi xin nè, nó có cái phong cách của đi xin nè, mà nó không làm khổ ai hết?

Vậy thì bây giờ mình có mấy người Phật tử thương mình, giúp mình tu hành nè: Bây giờ tui chỉ xin nhờ mấy vị giúp đỡ tui tu hành nè, 5 năm hay là 10 năm, tui sẽ ở trong thất tui tu hành 3 năm nè, quý vị mỗi ngày giúp đỡ cho chúng tôi, cho chúng tôi một bữa ăn thôi. Quý vị nấu sao chúng tôi ăn cũng được vậy, chúng tôi không đòi ngon đòi dở gì hết.

Nghĩa là tới giờ đó chúng tôi sẽ bưng cái bát đến cái nhà của quý vị, thì quý vị vui lòng - giờ đó là quý vị nấu cơm cho cả gia đình rồi thì quý vị nấu thêm cho chúng tôi được một ít, một bữa cơm thôi, rồi hằng ngày chúng tôi đến đây chúng tôi xin quý vị, thì quý vị giúp đỡ cho chúng tôi.

Và mình biết rõ ràng là người cư sĩ này họ không phải là người nghèo, họ không phải là người đói mà họ là người làm ăn có tiền bạc, cho nên họ chỉ nuôi thêm mình họ không đến đỗi mà họ khổ, do đó chúng ta xin họ. Vì vậy mà họ bằng lòng giúp đỡ chúng ta rồi thì bắt đầu từ đó chúng ta đã trở thành một người đi xin ăn đúng cách.

Cho nên đặt cái niệm này ra rồi chúng ta đi tìm cái người nào giúp đỡ cho chúng mình để mình thực hiện cái chánh nghiệp, cái nghề nghiệp chân chánh của người tu sĩ.

Đây là cái câu mà Thầy muốn nhắc nhở quý thầy để sau khi quý thầy rời khỏi Thầy mà không được nương tựa nơi Thầy nữa mà quý thầy muốn tu hành đúng chánh pháp:

Thứ nhất là quý thầy đã phòng hộ sáu căn của mình. Cái thứ hai là quý thầy phải tổ chức như thế nào để cho mình đi xin ăn chớ không phải là về tui trồng ruộng, trồng lúa, trồng khoai, trồng củ, rồi tui làm cái này cái kia rồi tui tự lấy cái đó tui nấu cơm tui ăn, tui cất cái thất ra rồi xung quanh đó tui trồng một đám thanh long đi, tui lấy tiền đó tui mua gạo hay để dành tui ăn suốt năm tui tu, không được đâu. Quý thầy đừng có làm cái điều đó. Cái điều đó là điều sai hết.

Quý thầy phải tính một cái như thế nào để hằng ngày có cái người, tự người ta nấu cho quý thầy ăn thôi, rồi người ta nấu ngon nấu dở mặc người ta, quý thầy chẳng biết, miễn là mình ăn bữa đó mình no bụng thôi.

Chớ còn quý thầy đừng có để tiền để bạc hoặc là thế này thế khác, quý thầy tự sắm lấy đồ ăn đồ uống cho quý thầy đó, thì cái đó là cái chết của quý thầy, càng lúc là các thầy sẽ xa lìa Phật pháp đó, nó không phải là chánh nghiệp nữa đâu.

Hay hoặc là quý thầy về làm một đám ruộng, lấy lúa 5 chục, 10 chục giạ lúa để dành, cứ hàng ngày mình nấu cơm rồi mình ăn với muối cũng được, chỉ có gạo ăn được rồi, thì do đó quý thầy cũng tiêu, không có bao giờ mà quý thầy có thể giải thoát được đâu.

Cho nên quý thầy phải tổ chức là mình đi xin cà, nó mới diệt cái ngã của quý thầy. Chớ quý thầy có một bồ lúa mà quý thầy ngồi ăn, cái ngã của quý thầy nó càng lớn, nó không có giải thoát được đâu.

Đó là những cái mà Thầy đặt ở đây để cho quý thầy thấy rằng: Khi bắt đầu mà chúng ta lấy cái thân niệm Phật mà đi ăn xin thì thân ta cũng phải đi ăn xin như vậy đó, thì cái ăn xin của chúng ta bây giờ nó phải có một cái sự tổ chức hẳn hòi, có cái sự làm cho đúng cách, chớ không phải là đi ăn xin như thời Đức Phật được.

Vì Đức Phật ngày xưa là tại vì ở Ấn Độ cái phong tục nó đã quen rồi, cho nên người ta quen, người ta cho những cái người tu hành ăn xin như vậy. Còn ở đây mình không có được như vậy đâu, cho nên quý thầy phải tự tổ chức.

Tránh đừng có làm cái nghề này nghề kia, hay hoặc là về mình cất cái thất ở trong cái vườn cây chôm chôm hay sầu riêng hay măng cụt gì đó, tới cái mùa đó mình đi hái trái cây đó mình bán, mình để dành một số tiền, rồi do đó mình ở trong cái khu vườn đó mình ăn mình tu.

Hay hoặc là trồng một đám dừa, do đó hằng ngày cứ lôi dừa đem đi bán lấy tiền mua gạo ăn, thì quý thầy làm riết cái này, thành ra quý thầy tu riết chắc có lẽ quý thầy thành dừa hết! Kêu là thành dừa chớ cũng không phải là thành Phật được đâu.

(39:49) Cho nên làm cái gì là nó sẽ thú hướng cái đó, nó sẽ thành cái đó, nó không có kết quả được. Cho nên ở đây đừng có nghĩ một cái việc gì, một cái nghề gì mà quý thầy làm hết.

Cho nên người ta nói rằng mình ăn không ngồi rồi. Không phải đâu! Tôi không phải ăn không ngồi rồi đâu. Hằng ngày tui nỗ lực tui thật sự tui giải thoát, thân tâm tui không có phút nào mà tui ngồi không được. Còn quý vị có thể ngồi không, quý vị mới đi làm nghề này, trồng trỉa đồ, chớ còn tui không có thì giờ mà tui ngồi không được.

Cho nên cái mà chúng ta tu, chúng ta phải biết rằng những cái pháp trạch pháp ra như thế này nó không còn cái thì giờ mà chúng ta đi trồng đi trỉa, đi nhổ cỏ, đi trồng rau trồng cải đâu.

Còn quý thầy nói thôi bây giờ người ta cho cơm mình, bây giờ mình cũng trồng bí trồng bầu hay gì đó đặng mình hái về mình luộc để mình ăn phụ thêm, nó cũng đỡ đi. Do đó quý thầy đừng có làm cái điều đó đâu!

Người ta cho cơm với muối, ăn cơm với muối chớ đừng có nghĩ rằng: “Tui ra tui hái nắm rau lang vô, tui luộc tui ăn với nó thì cũng đỡ hơn, không có rau chắc bệnh.” Nhất định bệnh chết chớ không trồng cái cọng rau nữa, đừng có nói chuyện! Phải hiểu được như vậy. Đi xin ăn mà, mà mình còn chấp hành một cái - không đi xin ăn mà lại còn cái của mình, mình có mình hái ra mình ăn, thì cái chuyện đó không được.

Thí dụ như chẳng hạn trong cái thất của quý vị đó, có một cây cam hay cây bưởi hay hoặc là cây nhãn hay hoặc cái gì mà có trái, thì cái người mà người ta thường cúng dường cho quý vị đó, gạo, đồ ăn, đồ này kia, cơm hàng ngày cho quý vị đó, khi cây đó có trái thì quý vị đừng hái mà ăn, đừng có hái mà đem bán để dành tiền nữa, những cái điều đó là cái sai.

Cho nên vì vậy quý vị kêu cái người cư sĩ mà hằng cúng dường cho quý vị đó: “Ở đây bây giờ chỗ tui ở đó có một cây mận, cây nhãn, hay hoặc là cây xoài gì đó bây giờ có trái, xin nhờ cư sĩ bán cái này đi, coi ai không có thì giúp đỡ họ”, hoặc là: “Cư sĩ hằng ngày đã giúp đỡ cho tui cái bữa ăn như vậy, thì những cái này tui không có ăn phi thời được, tui không có lấy cái trái cây này mà tui ăn phi thời”

Hay hoặc là quý thầy nói: “Tui không ăn phi thời nhưng mà bây giờ xoài của mình chín, thôi để hái 5, 10 trái, trưa mình ăn cơm rồi cái bắt đầu mình để 5,10 trái rồi mình ăn thêm nữa” thì cái đó cũng sai nữa. Tất cả những cái này đều là do cái tâm tham dục của mình ra hết. Cho nên bây giờ cái cây đó là của mình, trong thất của mình, nhưng mà quý thầy đừng có lấy cái trái cây đó mà quý thầy bỏ thêm vào trong cái bữa ăn của mình. Người ta cho mình cái gì đó mình ăn.

Thầy không thấy ông Phật ở trong cái vườn xoài mà lượm xoài để ăn thêm đâu, không có đâu. Thường thường Đức Phật ở trong những cái vườn xoài, người ta tu hành đó, trong khi đi khất thực về rồi ngồi ở dưới bóng xoài ăn: “Bây giờ có trái xoài chín, thôi để mình hái trái xoài đó mình ăn thêm đi!” Không có bao giờ mà nghe nói! Có người ta cho mình ăn cái gì thì ăn chớ không bao giờ hái cái trái cây.

(42:15) Còn mình nhiều khi có cái trái cây rồi bắt đầu - bây giờ mình cũng ăn trưa, mình đâu có ăn phi thời đâu, bây giờ thôi tốt hơn là mình hái mấy cái trái xoài này để mình ăn thêm. Hay hoặc là có vài cây mãng cầu, hôm nay chín rồi, để hái đây, trưa đây mình xin cơm về cái bắt đầu mình để mấy trái này ra mình ăn phụ. Không! Cái này không phải của người ta cho mình, mà chính của mình, nhưng mà mình không có được quyền hưởng cái điều đó, nó làm cho mình chạy theo cái dục lạc, thích ăn cái này cái nọ.

Cho nên mình kêu những cái người cư sĩ mà họ từng cúng dường mình, từng sớt bát cho mình đó, giao họ những cái cây này. Mặc dù là mình ở cái thất của mình có những cây xung quanh đó, nó có trái thì mình giao lại họ, họ bán họ buôn, họ ăn, họ làm gì họ làm, rồi họ có cho mình thì mình ăn, mà không cho thì thôi.

Nghĩa là tới cái bữa ăn đó, họ có cho mình một cái trái mãng cầu hay hoặc là cái trái xoài thì mình ăn cơm rồi mình ăn, còn họ không cho thì thôi. Như vậy là mình giữ đúng cái hạnh đi xin đó. Chớ còn không khéo mình nói đi xin chớ hình thức mình còn giữ những cái vật gì của mình đó mình ăn, thì cái đó nó không đúng.

Các thầy nhớ kỹ, chúng ta tổ chức đi xin là phải đúng đi xin. Người ta cho mình ăn cái gì thì mình ăn cái nấy chớ không có thể mà ăn hơn cái chỗ mình đi xin nữa. Còn nếu mình thấy ở trong nhà mình có rồi mình muốn ăn gì đó mình ăn thì nó không phải đâu, mình chạy theo dục lạc rồi, nó chưa ly đâu.

Đó là các thầy phải nhớ những cái điều mà bắt đầu vào cái thân mà đi xin như thân Phật thì phải làm cho đúng cách.

Ngày xưa Đức Phật thì đi xin từ nhà này đến nhà khác, còn mình bây giờ mình tổ chức có một cái nhà của cư sĩ giúp đỡ cho mình, hằng ngày mình đến mình xin, người ta có thể nuôi mình 1 năm cho đến 3 năm, hay hoặc là đến 10 năm trong cái sự tu tập của mình, rồi sau 5 năm, 10 năm mình tu xong. Mà người ta không giúp đỡ được mình thì mình nên đi chỗ khác, và mình đi tìm những người khác để cho mình xin ăn cho đúng cách.

Câu thứ hai:

“Chỉ có đi xin ăn mới giải thoát được sự ăn uống, ta phải chấp nhận nghề đi xin.”

Đó là câu trạch pháp để chúng ta có cái sự quyết tâm, không có ăn thừa, ăn bớt ở chỗ mà chúng ta ăn.

Như vậy là câu thứ hai: “Chỉ có đi xin mới giải thoát được sự ăn uống” - chỉ có mình đi xin mới được giải thoát. Còn bây giờ mình có trái xoài, trái bưởi, trái mít của mình lấy ra ăn phụ thêm, thì như vậy là có phải - mình nói của mình , mình ăn mà, chớ mình đâu có ăn trộm ăn cắp của ai, nhưng chính chỗ đó mình cũng vẫn chạy theo dục lạc rồi, nó không đúng rồi.

“Ta phải chấp nhận nghề đi xin”, đó tức là mình dùng pháp hướng mình nhắc nó.

Câu 3:

“Đi xin ăn không có quyền đòi hỏi món ngon vật lạ, vì thế chúng ta ly dục ly ác pháp thế gian”.

Đó là câu thứ ba trạch pháp ra để nhắc cho chúng ta biết rằng cái nghề đi xin nó làm chúng ta ly dục ly bất thiện pháp.

Câu 4:

“Đi xin ăn là một pháp môn ly dục ly ác pháp, tất cả ly dục ly ác pháp tốt nhất, ta hãy chấp nhận đời sống đi xin”.

Đó là câu thứ bốn.

(45:05) Hằng ngày chúng ta đặt niệm tu tập như vậy, mặc dù bây giờ chưa làm được, nhưng nó giúp ta lìa xa những sự thọ dụng thực phẩm hằng ngày mà chúng ta đang có.

Nghĩa là hằng ngày bây giờ chúng ta chưa đi xin, nhưng mà chúng ta vẫn thấy - như quý thầy ở đây đương nhiên là quý thầy xem như mình đã đi xin ở nhà bếp, đi xin ở đằng trước của người khác cho mình ăn. Cho nên, mình đã chấp nhận được cái nghề đi xin của mình rồi. Và đồng thời thì mình luôn luôn, mình phải nhớ là cố gắng mình thực hiện cho bằng được cái nghề đi xin này.

Chớ nếu mình không thực hiện cái nghề đi xin này thì chắc chắn là chánh nghiệp của mình không có. Mà chánh nghiệp không có thì chắc chắn là mình không bao giờ mình giữ giới luật của Phật nghiêm chỉnh được, mà mình không có bao giờ mình thực hiện cái sự giải thoát của mình được.

Cái ăn coi vậy chớ khó lắm quý thầy, không đơn giản đâu, một chút là nó sẽ bị nhiễm đó, một chút nó là nó sẽ luận đó, nó làm cho chúng ta dễ say mê ở trong dục lạc lắm. Cho nên chúng ta phải sáng suốt, phải cẩn thận, phải nỗ lực, phải suy tư, phải quán xét để thực hiện một đời sống đúng cách là chúng ta đi xin ăn.

Đó, cho nó được rốt ráo, cho được giải thoát. Bởi vì muốn giải thoát như Phật thì phải làm sao giống như Phật, phải làm sao tính như thế nào, suy tư như thế nào, tư duy như thế nào để đời sống chúng ta thực hiện đúng những cái oai nghi tế hạnh của một Đức Phật.

3- THÂN NIỆM PHẬT TU THIỀN ĐỊNH

3. Thân Phật thường hay ngồi thiền…​

Bây giờ chúng ta thấy ông Phật thì ổng hay ngồi thiền rồi ổng đi kinh hành đồ, chớ ổng đâu có nằm ngủ, buông xuôi đâu!

…​thân ta niệm Phật cũng thường hay ngồi thiền như vậy.

Nghĩa là bây giờ cái thân của mình niệm Phật thì mình cũng phải bắt chước, mình phải sống như Phật, như thân Phật, mình cũng phải ngồi thiền như vậy.

1. Ngồi kiết già, lưng thẳng đứng, đặt niệm trước mặt.

Đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai:

2. Tu Định Vô Lậu

Tức là chúng ta phải đặt cái niệm, như đặt niệm thân, như niệm thực phẩm để mà tu cái Định Vô Lậu, quán xét nó vô thường, khổ, không, vô ngã như thế nào, quán từ trên xuống dưới coi nó bất tịnh như thế nào, coi nó hôi thúi như thế nào, coi nó thế nào. Đó là chúng tu Định Vô Lậu.

3. Tu Định Chói Sáng

Giữ gìn cái tâm của mình như thế nào để cho nó sáng suốt, để cho nó thanh thản, để cho nó tự nhiên, đó là tu Định Sáng Suốt.

4. Tu Định Niệm Hơi Thở

Chúng ta tu niệm hơi thở

5. Tu Định Hiện Tại An Lạc Trú

6. Tu Tứ Niệm Xứ.

Đó chúng ta - thường thường Phật đặt niệm trước mặt của mình là do cái chỗ ngồi thẳng lưng kiết già rồi tu định này định kia định nọ, tất cả các loại định, cho đến thậm chí như tu Tứ Niệm Xứ Phật cũng đặt niệm ở trước mặt của mình, cũng ngồi kiết già rồi tu Tứ Niệm Xứ.

Ở đây tất cả những cái định mà quý thầy đã có sự tu tập rồi cho nên Thầy không có nhắc lại, như Định Vô Lậu nè, Định Sáng Suốt nè, Định Hơi Thở nè, Định Hiện Tại An Lạc Trú.

Bây giờ Thầy nhắc thêm cái định thứ sáu này là tu Tứ Niệm Xứ để cho quý thầy đại khái, nhưng sau này Thầy sẽ dạy rõ về Tứ Niệm Xứ phải tu như thế nào. Mà cái định này bây giờ chỉ nói Đức Phật phải ngồi thiền tu Tứ Niệm Xứ, thì Thầy cũng nói sơ để quý thầy biết thôi, sau này dạy về Tứ Niệm Xứ thì tức là dạy rõ hơn để quý thầy biết cách thức tu tập Tứ Niệm Xứ.

(48:35) Ở đây Đức Phật đặt niệm Tứ Niệm Xứ thì Đức Phật quán thân trên thân nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

Nghĩa là không có còn tham muốn, không có còn phiền não ở đời nữa.

Nhờ sống quán thân trên nội thân, được chánh định và chánh an tịnh, do đó tri kiến giải thoát được sanh khởi đối với các thân khác ngoài tự thân. Thọ, tâm, pháp cũng quán như vậy.

Nghĩa là người tu Tứ Niệm Xứ thì trên thân quán thân, luôn lúc nào cũng tập cho nó tỉnh giác và nó ở trong cái chánh niệm để nó khắc phục, nó chế ngự cái lòng tham muốn, cái lòng ưu phiền, cái lòng giận hờn, cái lòng si mê của mình, để cho mình không có còn tham muốn, si mê nữa, mình không còn giận hờn nữa. Nhờ sống quán thân trên nội thân như vậy thì cái chánh định nó mới được, và cái sự an tịnh - chánh an tịnh nó mới có.

Do đó cái tri kiến giải thoát nó được sanh khởi, vì vậy mà lúc nào chúng ta ở trên thân quán thân thì chúng ta thấy rõ là thân bất tịnh, thấy rõ là thân vô thường, thấy rõ là thân khổ, thấy rõ là thân nó không có mà do duyên hợp mà thành. Đó thì, tất cả những cái tri kiến giải thoát mà sanh khởi thì chúng ta thấy rất rõ, rồi thấy trong thân mình, rồi thấy thân người, thấy mọi thân cũng đều như vậy.

Và chúng ta tiếp tục, thọ, tâm, pháp chúng ta cũng quán như vậy. Cũng như trên thọ quán thọ, trên tâm quán tâm, trên pháp quán pháp, rồi chúng ta cũng quán xét cũng như hồi nãy chúng ta trên thân quán thân, rồi cũng nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm nó ở trên đó, mà cũng chế ngự ở trên cái thọ, tâm, pháp của chúng ta, không có cho nó tham ưu.

(50:25) Thân chúng ta đã quán trên thân rồi, bây giờ bắt đầu chúng ta quán thọ, quán tâm, quán pháp cũng như hồi nãy chúng ta ở trên thân quán thân như vậy.

Mỗi loại định đều có trạch pháp dùng để hướng tâm, dùng để tịnh chỉ, dùng để quán xét, dùng để chế ngự, dùng để ly, dùng để từ bỏ, dùng để dứt đoạn, dùng để an trú.

Đó thì, ở đây quý thầy thấy rằng khi mà tu Tứ Niệm Xứ thì chúng ta bắt đầu từ thân rồi tới thọ, tâm, pháp, nhưng luôn lúc nào chúng ta cũng phải dùng trạch pháp hết.

Dùng trạch pháp để chúng ta dùng những cái câu để mà hướng tâm. Hướng tâm chúng ta để làm gì? Dùng để tịnh chỉ, dùng để cho nó ngưng, dùng để nó dứt đoạn.

Rồi dùng cái pháp hướng để làm gì? Để nhắc chúng ta rồi quán xét, tức là chúng ta quán, suy tư để tìm ra những cái chưa hiểu, để thấu rõ những cái mà chưa thông rõ. Đó là chúng ta quán xét.

Dùng để chế ngự - dùng để mà chúng ta chế ngự cái lòng ham muốn của chúng ta, chế ngự cái tham ưu của chúng ta, giữ vững cái tâm, không có cho nó khởi lên những cái sân hận, cái hận thù, cái phiền não, cái đau khổ nữa.

Dùng để ly - dùng để lìa ra tất cả những cái mà nó không cần thiết, những cái làm cho chúng ta đau khổ. Dùng để từ bỏ, để dứt đoạn, dùng để an trú - và chúng ta dùng cái pháp hướng để chúng ta an trú, có khi thì dùng để dứt đoạn, có khi dùng để từ bỏ.

Cho nên tất cả những cái này, khi mà chúng ta ở trên Tứ Niệm Xứ, chúng ta cũng đều là dùng những cái pháp hướng, mà pháp hướng đó nó dùng để chúng ta quán xét, dùng để chúng ta ly, dùng để chúng ta từ bỏ, dùng để chúng ta dứt đoạn, dùng để chúng ta an trú được ở trong những cái tâm thanh thản, cái tâm giải thoát, nên lúc bấy giờ chúng ta an trú được ở trong những cái tâm thanh tịnh.

Đó thì quý thầy thấy một cái pháp mà chúng ta đã hiểu biết mà tu tập thì nó mang đến kết quả rất lớn, chúng ta muốn làm sao thì nó sẽ làm y như vậy, nó có kết quả giải thoát rất cụ thể, rõ ràng.

4- THÂN NIỆM PHẬT ĐI KINH HÀNH

(52:24) 4. Thân Phật thường đi kinh hành, thân ta niệm Phật cũng vậy, phải thường đi kinh hành như Phật.

Bây giờ ở đây quý thầy nghe nói đi kinh hành, từ lâu thì quý thầy cũng biết đi kinh hành nhưng Thầy xem thấy sự đi kinh hành của quý thầy nó chưa đúng cách, nhưng mà hầu hết là quý thầy không có hỏi.

Cho nên do đó hôm nay vì giảng trạch cái này cho nên Thầy mới giảng ra cái này để cho quý thầy biết: Đi kinh hành như thế nào đúng mà đi kinh hành như thế nào sai, lúc nào đi kinh hành bằng một cái trạng thái gì, mà lúc nào đi kinh hành bằng những cái trạng thái gì. Quý thầy chưa có hiểu lúc nào mà phải đi kinh hành, mà đi kinh hành lúc đó để làm gì.

Bây giờ thứ nhất là thân ta niệm Phật thì Phật cũng thường hay đi kinh hành, nhưng cái tiếng chung gọi là đi kinh hành như vậy, nhưng trong kinh hành đó nó có nhiều cái.

Người ta đi kinh hành để phá hôn trầm, buồn ngủ nó khác, người đi kinh hành sau khi ngồi tu mỏi mệt bằng cách ức chế tâm, bằng cách là chế ngự tâm mình thế này thế khác, nó mỏi mệt, thì cái người đó đi kinh hành để thư giãn nó khác, nó không phải giống như cái người đi kinh hành thường, hoặc là đi kinh hành trong chánh niệm tỉnh thức, hay hoặc là đi kinh hành ở trong cái sự hôn trầm, thùy miên.

Quý thầy không biết, cứ nghe đi kinh hành là cứ đi kinh hành thôi chớ cũng chẳng biết phân biệt cái đi kinh hành nào, tu tập cái nào cho đúng cách. Mà Thầy chưa có nghe một cái người nào hỏi Thầy hết. Do không hỏi nhưng mà đến khi giảng thì Thầy phải giảng trạch cho quý thầy hiểu. Nó khó là khó cái chỗ tu sao cho đúng, đi kinh hành sao cho đúng đây?

4.1- ĐI KINH HÀNH THƯ GIÃN

(53:58) Cho nên ở đây, thứ nhất là chúng ta phải tu tập đi kinh hành thư giãn. Đi kinh hành thư giản là làm cho tâm của chúng ta nó trở về, nó không còn mệt nhọc, nó trở về, nó không còn có cái sự khổ, không còn có cái sự khó khăn, không có sự mệt nhọc, không có sự lười biếng ở trong thân của chúng ta nữa.

Khi đã tu tập mệt nhọc, ta trạch pháp một câu dùng làm pháp hướng để nhắc tâm mình:

“Ta đi kinh hành thư giãn thân tâm. Thân tâm phải thanh thản, nhẹ nhàng, vô sự, không được ức chế tâm, không được ghìm tâm, không được tập trung tâm, mà hãy vô sự, tự nhiên như người nhàn du.”

Đó là chúng ta phải nhắc cái câu đó để mà chúng ta thư giãn cái thân tâm của chúng ta khi chúng ta bước đi, mà tâm của chúng ta không có tập trung mạnh ở dưới bàn chân của chúng ta đâu.

Đó phải nhớ, đi kinh hành có lúc chúng ta phải tập trung dữ lắm. Tập trung để làm gì? Chúng ta phải hiểu được ý nghĩa của nó chớ! Còn nếu quý thầy lúc nào cũng khơi khơi, khơi khơi đi kinh hành, đi mà thiếu điều muốn té, buồn ngủ muốn té mà cũng đi kinh hành cái kiểu đó thì làm sao mà tu được! Đó, không biết.

Cho nên đi kinh hành thư giãn thì chúng ta phải đặt cái pháp hướng để mà nhắc cái tâm của mình.

Vậy thì Thầy nhắc lại cái câu này, để cho quý thầy thấy rằng khi đi kinh hành mà thư giãn thân tâm chúng ta sau cái thời chúng ta tu cái Định Vô Lậu, chúng ta ngồi chúng ta quán xét phá cái tâm lậu hoặc của mình, rồi bắt đầu chúng ta ngồi chúng ta tu cái Định Hiện Tại An Lạc Trú, chúng ta nương vào hơi thở, sau 30 phút, một giờ chúng ta có cái sự mỏi mệt thì chúng ta bắt đầu chúng ta đi kinh hành để thư giãn cái sự mỏi mệt đó.

Thì như vậy là phải như thế nào? Vậy thì chúng ta phải nhắc cái tâm chớ không khéo nó quen cái thói tập trung của nó trong hơi thở, đi mà cứ hít thở, hít thở, hít thở hoài thì nó còn mỏi mệt hơn là chúng ta không đi nữa. Đó, còn hễ ngồi lại, nó mệt quá rồi bắt đầu quý thầy mới ngồi lim dim, lim dim rồi ngủ gật ở trong đó nữa, thì khi xả nghỉ chúng ta mới thấy rất sợ hãi, nó đâu có tỉnh táo được.

Cho nên lúc bấy giờ chúng ta đi kinh hành để thư giãn, để làm cho tâm chúng ta tỉnh táo, mà nó thanh thản, nó nhẹ nhàng, nó không có bị mệt nhọc.

Do như vậy, lúc nào mà chúng ta biết lúc đó chúng ta đi kinh hành cái đúng cái sai, chớ không khéo là chúng ta đâu có biết được.

Vậy thì chúng ta phải dùng pháp hướng đây:

“Ta đi kinh hành thư giãn thân tâm…​

Nghĩa là bây giờ mình đi kinh hành thư giãn thân tâm đó, mình nhắc đó.

…​thân tâm ta phải thanh thản, nhẹ nhàng, vô sự, không được ghìm tâm, ức chế tâm, không được tập trung tâm, mà hãy vô sự, tự nhiên như người nhàn du.”

Đó chúng ta nhắc như vậy đó. Nhắc như vậy rồi chúng ta bước đi, luôn luôn lúc nào chúng ta cũng thanh thản, nhẹ nhàng, không bị ức chế tâm mình ở sự tập trung của cái bước đi hoặc là của hơi thở.

Đó là cái thứ nhất, quý thầy có hiểu chưa?

4.2- ĐI KINH HÀNH CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC

(56:50) Bây giờ cái phần thứ hai:

2. Đi kinh hành tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác

Hay là tỉnh thức. Bây giờ cái đi kinh hành này tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác đây, nó khác hơn cái kia chớ, nó làm sao mà giống như cái kia được.

Ta trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng:

“Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành.”

Đó, là bây giờ mình đi kinh hành để chánh niệm tỉnh thức là mình phải đi nhắc, cứ mình đi chừng khoảng độ 3 thước, 5 thước gì đó hay 10 thước thì mình nhắc một lần: “Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành” rồi bắt đầu mình lại đi. Đi rồi mình tập trung ở dưới chân của mình, rất tỉnh táo ở bước chân đi của mình.

Do đó, mình lại nhắc nữa: “Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành” Thường xuyên mình cứ nhắc vậy để cho mình biết mình đi mà nó không quên, tức là chánh niệm tỉnh giác ở trong cái bước đi kinh hành của mình.

Còn hồi nãy thì như thế nào? Đi thanh thản, nhẹ nhàng chớ không phải Chánh Niệm Tỉnh Giác, làm cho thân tâm của mình nó thư giãn, nó không còn mệt nhọc nữa.

Quý thầy phải hiểu cái chỗ đi kinh hành chớ. Cái gì đi kinh hành cho đúng cách thì chúng ta sẽ thấy con người chúng ta sẽ có giải thoát, có an lạc, có an ổn cho thân tâm nó mới đúng cách, còn nếu mà không đúng cách thì quý vị đã sai.

Cho nên khi đi kinh hành mà tu Chánh Niệm Tỉnh Thức thì quý vị phải nhắc, phải thường xuyên nhắc: “Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành.” Rồi một chút nữa thì chúng ta lại nhắc nữa: “Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành”. Đó, nhắc hoài. Nhắc cho đến khi mà chúng ta đi hết giờ rồi chúng ta trở vào chúng ta ngồi nghỉ. Đó thì đó là đi kinh hành Chánh Niệm Tỉnh Thức.

Bây giờ đi - câu thứ hai của cái trạch pháp mà đi kinh hành Chánh Niệm Tỉnh Thức, hồi nãy câu: “Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành” đó, bây giờ câu kế nữa:

“Ta đi kinh hành, ta phải tỉnh thức mỗi bước chân ta đi”.

Đó là mình nhắc nó nữa đó. Thay vì bây giờ mình nhắc cái câu thứ nhất nè, mình đi từ đây ra ngoài kia, bắt đầu mình nhắc: “Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành.” Rồi bây giờ đó, mình nhắc nó câu kế nữa, mình đi một hơi cái mình nhắc câu kế nữa: “Ta đi kinh hành, ta phải tỉnh thức mỗi bước chân ta đi.” Đó, nhắc cho nó đặng nó tỉnh thức ở dưới bước chân, nó không có quên, nó nhớ đó.

Rồi một lát nữa, mình đi tới một đoạn nữa mình nhắc: “Ta đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành.” Đó, rồi mình đi lúc nữa thì mình lại nhắc: “Ta đi kinh hành, ta phải thức tỉnh mỗi bước chân ta đi”.

Đó, như vậy là chúng ta dùng hai cái câu này mà làm cái pháp hướng để tu tập Chánh Niệm Tỉnh Thức. Đó, thì như vậy là đi kinh hành mà tu tập Chánh Niệm Tỉnh Thức.

4.3- ĐI KINH HÀNH TRAU DỒI LÒNG TỪ

(59:22) 3. Đi kinh hành trau dồi lòng từ

Ở đây là đi kinh hành mà trau dồi lòng từ đây. Đó, thì quý thầy thấy là cái 2, 3, 3 rồi đó, cái thứ 3 này là đi kinh hành trau dồi lòng từ đây.

Ta trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng mà nhắc tâm ta:

Đây là câu pháp hướng để đi kinh hành mà trau dồi lòng từ:

“Dưới chân ta bước đi có nhiều côn trùng nhỏ nhít, ta hãy thương yêu chúng nên phải ý tứ từng bước đi, tránh không làm đau khổ và chết chóc chúng sanh”.

Đó là chúng ta dùng cái câu pháp hướng này, bắt đầu chúng ta đi, chúng ta nhìn ở dưới đường của chúng ta đi, chúng ta tránh không có đạp chúng sanh đó. Đó là cái câu pháp hướng đi kinh hành trau dồi lòng từ.

Chúng ta phải phân biệt được cái pháp nào mà chúng ta - cái đi kinh hành nào ở trong cái vị trí nào chớ! Còn bây giờ chúng ta đi kinh hành ở trong Chánh Niệm Tỉnh Thức mà chúng ta lại tu tập trau dồi lòng từ thì nó cũng tỉnh thức, nhưng mà nó ở trong lòng từ thì nó chưa hẳn là ở Chánh Niệm Tỉnh Thức, đó phải biết rõ như vậy.

Cho nên những cái này đều giúp cho chúng ta được tỉnh thức hết, nhưng cuối cùng thì cái kinh hành thư giản làm cho thân tâm chúng ta bớt mỏi mệt, bớt nhọc nhằn thì nó cũng là giúp cho sức tỉnh thức của chúng ta ở trên cái mức độ cao mà lại thư giãn được thân tâm không mệt mỏi.

4.4- ĐI KINH HÀNH PHÁ HÔN TRẦM

(01:00:45) Số 4:

4. Đi kinh hành phá hôn trầm…​

Đó, ở đây đi kinh hành mà phá hôn trầm đây, chớ không phải là đi kinh hành nào nó cũng phá hôn trầm hết đâu, mà đi kinh hành phá hôn trầm thì nó phải có cái câu như thế nào để mà chúng ta trạch pháp ra mà chúng ta phá hôn trầm.

Đi kinh hành phá hôn trầm, thùy miên.

Cho nên có nhiều người nói tui đi mà sao hôn trầm nó cũng còn hoài, nó chưa hết, là tại vì chúng ta chưa có biết cái đi kinh hành phá hôn trầm thùy miên như thế nào.

Vì vậy mà chúng ta phải trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng mà nhắc tâm chúng ta:

Bây giờ chúng ta dùng pháp hướng nó như thế nào:

“Tâm phải tỉnh thức, thân phải tỉnh táo!”

Đó chúng ta nhắc nó. Bởi vì bây giờ nó lờ mờ, lờ mờ, nó lừ đừ, lừ đừ, nó muốn ngủ rồi, cho nên do đó mà chúng ta phải nhắc nó trước: “Tâm phải tỉnh thức, thân phải tỉnh táo! Không có được lừ đừ nữa!”

Đó là chúng ta nhắc như vậy. Nhưng mà nhắc là nhắc chớ nó chưa có nghe đâu, cho nên lúc bấy giờ chúng ta muốn đi kinh hành chưa phải là chúng ta bước đi một cách tự nhiên được đâu.

Do đó muốn bắt đầu đi kinh hành để cho phá được hôn trầm thì bắt đầu chúng ta chạy lúp xúp, chạy bộ, chạy lúp xúp, hoặc là chạy một chỗ, hoặc là chúng ta chạy đường dài. Chạy một chỗ - chúng ta cứ chạy nhảy lên nhảy xuống, chạy lúp xúp, lúp xúp như vậy đó.

Nghĩa là chạy chừng nào mà chúng ta thấy đổ mồ hôi thôi, thì chúng ta dừng lại, thì lúc bấy giờ mới tỉnh, cái thân của chúng ta mới tỉnh, cái tâm chúng ta mới tỉnh. Chớ bây giờ nó lừ đừ, lừ đừ muốn ngủ, chỉ còn nước mà chúng ta chạy, chạy lúp xúp, lúp xúp như vậy đó thì nó mới có thể hết.

Đó là trước khi muốn đi kinh hành để mà phá hôn trầm thì chúng ta phải vận động cái cơ thể chúng ta và cái tâm của chúng ta cho nó tỉnh thức. Nhưng mà trước khi chạy lúp xúp như vậy thì chúng ta phải nhắc: “Tâm phải tỉnh thức, thân phải tỉnh táo, không được buồn ngủ nữa!” Ra lệnh nó như vậy, rồi bắt đầu chúng ta mới chạy, chạy bộ lúp xúp.

Hai chân kéo lên…​

Nghĩa là chân kéo lên cao đó, chớ đừng có mà sợ nó mỏi chân, cũng như mấy người mà chạy đá banh, họ chạy theo kiểu mà họ tập luyện, chân họ kéo lên cao đó

…​rồi thả xuống rất mạnh, chạy một chỗ hay chạy đường dài.

Nghĩa là chúng ta đứng một chỗ mà chúng ta chạy lên chạy xuống như thế này, để một hơi mồ hôi nó đổ ra rồi thì chúng ta tỉnh lại liền.

Tắm xong, nghĩa là sau khi mà mồ hôi chảy ra rồi, chúng ta đi tắm, đi tắm rồi bắt đầu chúng ta vô chúng ta đi kinh hành thì chúng ta nhắc:

“Thân tâm phải tỉnh thức trong bước đi rõ ràng!”

Đó chúng ta nhắc nó. Bây giờ nó là tỉnh rồi đó, nó không còn buồn ngủ nữa. Nhưng mà coi chừng! Con ma buồn ngủ nó không phải nhường chúng ta đâu, nó cũng có thể chụp cổ chúng ta nữa.

Cho nên chúng ta đi kinh hành - bây giờ nó giảm bớt cái cường độ hôn trầm, thùy miên của chúng ta nhiều rồi, do vì vậy bây giờ chúng ta mới đi kinh hành mà hướng tâm nhắc: “Thân tâm phải tỉnh thức trong bước đi rõ ràng”. Đó.

Nếu còn hơi buồn ngủ thì ra lệnh: “Chân mặt bước! Chân trái bước!”

Mình cứ ra lệnh: “Chân mặt bước” thì mình bước, “Chân trái bước” thì mình bước, mà mình cứ ra lệnh liên tục, mà ra lệnh một cách rất là - dùng cái lực tinh thần của mình nhắc nó, để làm cho mình càng lúc càng tỉnh.

(01:03:54) Đó là cách thức đi kinh hành để mà phá cái buồn ngủ, cái hôn trầm của chúng ta. Đó, quý thầy nhớ chưa? Bởi vậy, nếu mà không có cái kinh hành như vậy thì chúng ta khó mà phá cái hôn trầm, thùy miên của chúng ta lắm, khó lắm!

Cho nên có nhiều người nói: “Tui bị hôn trầm, tui ngồi lại tui hít thở một hơi thở dài cái nó hết.” Nhưng mà hít thở một hơi thở dài, nó hết rồi một lát nữa nó cũng lại lại à, mà mình hít hoài 5, 10 hơi thở mình hoài thì mệt, do đó nó cũng đuối sức mình đi, do vì vậy mà nó lại làm cho rối loạn cơ thể mình thêm mà nó cũng chưa hết buồn ngủ.

Trái lại thì quý thầy biết cách khéo léo đi kinh hành như thế này thì nó sẽ hết buồn ngủ, và vì vậy mà chúng ta vượt qua cái giờ của nó đi, mà vượt qua cái giờ của nó thì nó sẽ tỉnh táo lắm.

Còn quý thầy lấy kinh, lấy sách đồ đọc thì chẳng qua là mượn nó để mà làm cho nó tỉnh táo, nhưng rồi quý thầy không có kinh sách đọc nữa thì quý thầy cũng sẽ bị nó đánh gục nữa, cũng sẽ bị hôn trầm đánh gục nữa. Còn ở đây quý thầy đần cho nó, bắt nó phải chạy, bắt nó phải thế này thế khác, làm riết nó, nó hoảng, nó sợ.

Còn mình ngồi không, mình im im để cái đầu óc mình sử dụng cái trí của mình duyên theo những câu kinh, tiếng sách thì nó cũng tỉnh, nhưng mà nó tỉnh chớ cái cơ thể nó chưa hẳn đã là tỉnh lắm đâu. Vậy cho nên khi đó thì nó cũng vẫn còn có những cái điều kiện chưa có tỉnh táo cả thân và tâm.

Còn cái này, chúng ta dùng pháp hướng, rồi cả đó là dùng pháp hướng để cho tâm tỉnh, rồi cả dùng cái thân động để cho thân tỉnh, cả hai cái này nó đều giúp cho tỉnh hết.

Còn mình ngồi yên, cái tâm của mình nó hoạt động, nó đọc kinh sách thì nó hoạt động, còn cái thân của mình thì đâu hoạt động, cho nên nó vẫn còn cái trạng thái yên lặng của thân. Do đó tuy rằng cái tâm nó tỉnh thì cái thân nó cũng theo đó mà nó tỉnh nhưng mà nó chưa hẳn, nó có cái sự tập luyện nó chưa phá hẳn của cái thân. Còn chúng ta tập luyện như vậy là nó vừa phá hẳn cái thân mà cũng vừa phá hẳn cái tâm làm cho tỉnh, rất tỉnh. Sau đó nó mới sạch cái hôn trầm, thùy miên.

Còn có người dạy chúng ta bị hôn trầm, thùy miên thì treo chân, treo giò lên, ngồi suốt đêm để cho có hôn trầm, thùy miên đến, rồi từng đó nó sẽ hết đi. Sự thật ra không phải, chúng ta đừng có nên hành hạ thân của chúng ta quá khổ, mà chúng ta hãy tập cho nó có những cái vận động như vậy, rồi nó sẽ làm cho chúng ta hết hôn trầm thùy miên và phá đi.

Rồi lần lượt chúng ta còn tu tập những cái sức tỉnh thức ở trong giấc ngủ nữa. Chúng ta nương vào hơi thở để tập cho nó lần lượt thì chúng ta sẽ phá sạch ra hết, hoàn toàn là chúng ta sẽ làm chủ được cái sức tỉnh thức của chúng ta.

5- THÂN NIỆM PHẬT THƯỜNG THƯƠNG XÓT CHÚNG SANH

(01:06:36) Đó thì, bây giờ cái phần thứ 5:

5. Thân Phật không làm hại chúng sanh, thường thương xót chúng sanh…​

Nghĩa là cái thân của Phật là không bao giờ làm cho chúng sanh đau khổ, từ cây cỏ Đức Phật cũng không có đạp cho nó héo úa nữa. Thường thường là cái thân Phật luôn luôn bao giờ cũng làm cho chúng sanh, thương xót chúng sanh chớ không bao giờ làm cho con vật nào đau khổ hết.

…​thì thân ta niệm Phật cũng vậy.

Nghĩa là thân của mình niệm Phật cũng luôn luôn không có làm cho chúng sanh đau khổ, mà cũng luôn luôn phải biết thương xót chúng sanh. Cho nên mình niệm Phật thì tức là mình phải bắt chước y như Phật, Phật làm cái gì thì mình làm cái nấy.

Cho nên ở đây mình trạch pháp cái câu này ra để thường nhắc tâm của mình để cho mình không có làm đau khổ chúng sanh:

“Thân ta niệm Phật phải giống thân Phật, bắt đầu từ đây về sau không làm hại chúng sanh, không ăn thịt chúng sanh, hằng ngày phải thương xót chúng sanh như con mình”.

Đó là cái câu trạch pháp nhắc. Bây giờ chúng ta còn ăn thịt chúng sanh, nhưng mà khi nhắc mãi, nhắc riết rồi chúng ta thấm nhuần rồi, chúng ta thấy hết muốn ăn thịt chúng sanh rồi, vì không thể nào mà…​ Thân mình niệm Phật như thân Phật mà thân Phật thì không ăn thịt chúng sanh, Phật ăn thực phẩm thì Phật biến mãn tâm từ của mình khắp cùng đối với tất cả chúng sanh, thì thân của mình, mình niệm Phật thì mình cũng phải làm y như vậy, chớ tại sao là thân của mình lại ăn thịt chúng sanh, làm đau khổ chúng sanh?

Cho nên do cái câu trạch pháp này làm cho hằng ngày, hằng ngày thấm nhuần thân tâm của chúng ta thấu suốt được cái lý mà không làm đau khổ chúng sanh, cho nên từ đó chúng ta không còn muốn ăn thịt chúng sanh nữa.

Và không còn muốn ăn thịt chúng sanh nữa thì chúng ta thấy mình đã thoát ra được cái nghiệp đau khổ của chúng sanh. Từ đây, cả gia đình của quý vị đều là ăn rau cải, tương dưa mà không cần ăn thịt chúng sanh nữa. Thịt chúng sanh có ngon gì cũng là có cái sự đau khổ, có cái tội ác ở trong đó, nó không phải thiện.

Cho nên từng cái câu trạch pháp này để giúp cho quý vị thân niệm Phật đã trở thành như thân Phật, đã trở thành lòng thương xót chúng sanh.

6- THÂN NIỆM PHẬT KHÔNG LÀM KHỔ CHÚNG SANH

(01:09:00) 6. Thân Phật không làm khổ chúng sanh, thân ta niệm Phật cũng không được làm khổ ai hết.

Trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Thân ta niệm Phật, từ đây về sau ai có chửi mắng, mạ lị, mình không được chửi mắng lại, không được giận hờn, thù oán họ, phải thương yêu họ, hết sức thương yêu họ, vì họ là người đã thọ khổ, vì họ sân hận.”

Đó thì, bắt đầu chúng ta trạch pháp câu này ra để chúng ta tu, thân chúng ta niệm Phật. Thân Phật không có sân hận, không có thù oán ai thì thân mình cũng như vậy, không có sân hận, không có thù oán người khác.

Cho nên mình nhớ, mình nhắc, mình ám thị, mình nhắc mình hoài, do đó mình không có còn sân hận, thù oán ai hết, mình không còn ghét ai hết. Chớ thậm chí người ta chửi mình, người ta mạ lị mình, người ta mắng mỏ mình, người ta sỉ nhục mình, mình hoàn toàn mình không còn có đau khổ nữa. Nghĩa là mình không có giận hờn nữa, mình được giải thoát. Đó là mình đã niệm Phật, thân mình niệm Phật, thân mình đã được giải thoát.

Đó thì, quý thầy thấy mỗi cái mà chúng ta niệm Phật nó đều đem đến cái sự giải thoát thật sự cho thân mình, chớ không phải là thiếu cái sự giải thoát.

Nhớ những cái câu trạch pháp này, quý thầy sẽ hằng đêm, hằng ngày ngồi lại thì quý thầy nhắc cái câu đó để cho chúng ta hằng ngày, hằng đêm thấm nhuần được cái lý này mà đứng trước các pháp, người ta mắng chửi mình, người ta mạ lị mình, người ta sỉ nhục mình, mình không có hờn giận họ nữa.

Bởi vì cái câu này nó thấm nhuần vào tâm hồn của mình, cho nên bây giờ nghe người ta mắng mình, người ta chửi mình, sỉ nhục mình thì mình vẫn thản nhiên, mình không có còn buồn giận ai hết, mà mình biết họ đang khổ, họ sống trong nhân quả.

7- THÂN NIỆM PHẬT KHÔNG TRỘM CẮP

(01:10:50) 7. Thân Phật không bao giờ lấy trộm của ai, thân ta niệm Phật cũng vậy, không bao giờ lấy trộm của ai.

Trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý hằng ngày:

“Người mất của đau khổ, thân ta niệm Phật giống như thân Phật, há mà ta lấy của người không cho để làm cho người đau khổ!”

Đó mình trạch pháp cái câu này ra để nhắc mình, mình không bao giờ lấy của, dù vật lớn, vật nhỏ mình không lấy của ai hết. Vì lấy của người, người mất của người ta khổ sở, người ta mất của người ta tiếc, người ta khổ.

Cho nên thân mình niệm Phật, Phật không bao giờ lấy trộm của ai hết, của không cho nhất định là không lấy. Do vì vậy ta niệm Phật, thân ta niệm Phật, ta cũng như vậy, không lấy của ai hết, hoàn toàn là vật lớn, vật nhỏ, trái cây, cục đường gì cũng không ăn trộm, ăn cắp của ai hết, nghĩa là hoàn toàn.

8- THÂN NIỆM PHẬT TRÁNH XA DÂM DỤC

(01:11:45) 8. Thân Phật đã tuyệt đường dâm dục, thân ta niệm Phật cũng vậy, ta cũng phải tuyệt đường dâm dục. Vì con đường dâm dục là con đường tái sanh luân hồi, là con đường đau khổ, là con đường bất tịnh.

Cho nên chúng ta biết như vậy, Phật thì tuyệt đường dâm dục, cho nên từ khi đi tu cho đến khi về gia đình thì hoàn toàn Đức Phật không bao giờ gần gũi cái người vợ thân yêu của mình nữa, coi như là xa lạ, không có còn cái gần gũi nữa.

Thân Phật đã tuyệt đường dâm dục, nên thân Phật thanh tịnh, trong sáng, thân ta niệm Phật cũng vậy, phải tuyệt đường dâm dục để cho thân tâm ta được thanh tịnh mới có hy vọng nhập được thiền định, làm chủ được sanh tử, luân hồi.

Ta nên trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng nhắc nhở thân tâm ta sống đúng thanh tịnh, tuyệt trừ dâm dục:

“Thân ta niệm Phật phải tránh xa đường dâm dục, xem dâm dục là hôi thối, dơ bẩn, hãy xa lìa như xa lìa hầm phẩn.”

Đó là cái câu trạch pháp của chúng ta, nhắc nhở chúng ta để chúng ta hằng ngày chúng ta sợ hãi trước cái sự dâm dục. Bây giờ đó Thầy nhắc lại câu này:

“Thân ta niệm Phật phải tránh xa đường dâm dục, xem dâm dục là thứ hôi thối, dơ bẩn, hãy xa lìa như xa lìa hầm phẩn”.

Đó, chúng ta phải tránh xa nó đi chớ đừng có ham thích nó. Nó là con đường sanh tử làm cho con người khổ đau, mọi người đều nơi đó mà sanh ra mà chịu khổ đau từ người này đến người khác, từ tổ tiên ông bà của chúng ta sanh chúng ta ra cho đến bây giờ con cháu của chúng ta cũng đều thọ lấy những cái sự khổ đau này không bao giờ dứt. Cho nên chúng ta phải xa lánh nó như xa lánh cái nơi dơ bẩn nhất, cái nơi hầm hố nhất, cái nơi mà khổ đau nhất.

9- THÂN NIỆM PHẬT KHÔNG ĂN UỐNG PHI THỜI

(01:13:51) 9. Thân Phật không ăn uống phi thời, thân ta niệm Phật cũng vậy, phải ăn uống không phi thời.

Trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý nhắc nhở thân tâm ta:

“Món ăn là bất tịnh, hôi thối, không có gì ngon dở, chỉ là một ảo giác của dục lạc tầm thường vị giác mà thôi. Ta hãy thấu suốt lý bất tịnh của thực phẩm mà xa lìa, từ bỏ, xem ăn uống là thứ thuốc trị bệnh đói mà thôi”.

Đó là chúng ta trạch pháp cái câu này ra để hằng ngày chúng ta ngồi thiền, chúng ta nhắc nhở, đặt cái câu này trước để rồi chúng ta có thì ăn mà không có thì thôi, không thèm không khát nữa. Có như vậy thì chúng ta mới thấy được sự giải thoát của mình, còn nếu không được vậy thì khó mà có thể giải thoát được.

10- THÂN NIỆM PHẬT THƯỜNG TỈNH THỨC

(01:14:49) 10. Thân Phật thường tỉnh thức không ngủ, không bao giờ có hôn trầm, thùy miên, thân ta niệm Phật cũng vậy, phải thường tu tập tỉnh thức trong giấc ngủ.

Muốn được vậy ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Thân ngủ đi, tâm tỉnh thức trong hơi thở, không được quên!”

Đó chúng ta nhắc nó đó. Bắt đầu chúng ta nằm xuống phải không, chúng ta nhắc, nằm xuống ngủ chúng ta nhắc: “Thân ngủ đi, tâm tỉnh thức trong hơi thở, không được quên nha!” Nhắc nó như vậy để cho mình thở ra, thở vô nó luôn luôn nó biết, mà cái thân thì nó ngủ.

Có như vậy là chúng ta mới thấy rằng tập đúng như Phật, Phật nằm kiết tường, rồi Phật đặt cái hơi thở trước mặt, rồi Phật cũng nhắc nó như vậy, rồi Phật nằm đó suốt đêm, coi như cái thân ngủ mà cái tâm Phật không ngủ, mình cũng bắt chước làm như vậy. Bởi vì thân ông Phật làm sao thì mình niệm Phật thì thân mình cũng phải làm vậy cho nó giống. Cho nên ở đây câu pháp hướng nghe ngắn, gọn mà nó rất đầy đủ cái ý nghĩa.

Thầy nhắc lại: “Thân ngủ đi” - mình ra lệnh nó đi. “Thân ngủ đi” - bảo cái thân nó ngủ đi - “tâm tỉnh thức ở trong hơi thở, không được quên nha!”Mình nhắc nó như vậy thì cái tâm mình nó luôn luôn nó biết hơi thở ra vô.

Khi nằm xuống ta đặt niệm trước mắt, thường hướng tâm như vậy, tu tập từ từ cho đến khi thân ngủ mà tâm tỉnh thức.

Đó là chúng ta tu tập tỉnh thức như vậy đó. Hồi nãy chúng ta tỉnh thức ở trong những cái hành động đi, đứng, nằm, ngồi, bây giờ chúng ta tỉnh thức ở trong khi ngủ nữa.

11- THÂN NIỆM PHẬT KHÔNG NẰM GIƯỜNG CAO, RỘNG LỚN

(01:16:24) 11. Thân Phật không nằm giường cao, rộng lớn, thường ở chòi tranh, vách lá, giường tre, trên tảng đá hoặc trên đất…​

Đó thân của Đức Phật thì không có chấp nhận mà nằm ở trên cái giường cao, rộng lớn, cho nên Phật chế giới ra không có cho mình nằm giường cao, rộng lớn, thì chắc chắn là ông Phật cũng không bao giờ mà chấp nhận nằm giường cao, rộng lớn đâu.

…​thân ta niệm Phật cũng vậy, không nằm giường cao, rộng lớn, gỗ quý, bất kỳ nằm chỗ nào cũng được, miễn là ở chỗ ấy không có sang đẹp để tránh khỏi thân đắm nhiễm.

Trạch pháp câu này ta dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý để nhắc nhở tâm ta xa lìa những nơi sang đẹp, êm ái của dục lạc thế gian:

“Thân nằm trên giường cao, rộng lớn, êm ấm là tâm dễ đắm nhiễm, sanh dục lạc ưa mến, ta phải xa lìa, không được bén mảng tới”.

Đó, mình dùng cái câu pháp hướng đó mình nhắc để cho cái tâm mình đừng có ham thích nằm giường cao, rộng lớn, nằm mền, niệm êm, nằm những cái cảm giác làm cho thích thú như kiểu thế gian, nó sanh ra cái tâm không giải thoát, cái tâm không ly dục, ly ác pháp.

12- THÂN NIỆM PHẬT KHÔNG TRANG SỨC, LÀM ĐẸP

(01:17:37) 12. Thân Phật không trang sức vòng hoa, chuỗi hạt, thân ta niệm Phật cũng vậy, không trang sức vòng hoa, chuỗi hạt.

Trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý nhắc nhở thân ta:

“Thân là vô thường, thân là bất tịnh hôi thúi, nay còn mai mất, có gì tốt đẹp mà trang sức vòng hoa, chuỗi hạt? Ta hãy từ bỏ, xa lìa nó đi!”

Đó, đây là cái câu pháp hướng để nhắc cho chúng ta xa lìa cái thân mà trang sức của chúng ta. Niệm Phật thì chúng ta phải xa lìa sự làm đẹp, làm tốt, làm cho nó thơm tho, nhưng cái thân là cái thân vô thường, cái thân bất tịnh, nó không có thơm tho gì hết.

13- THÂN NIỆM PHẬT KHÔNG CẤT GIỮ TIỀN BẠC, CỦA BÁU

(01:18:25) 13. Thân Phật không cất giữ tiền bạc, của báu, thân ta niệm Phật cũng vậy, không cất giữ tiền bạc, của báu.

Trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng nhắc nhở tâm ta Như Lý Tác Ý:

“Tiền bạc, của báu là rắn độc sẽ giết chết chúng ta, sẽ làm chúng ta đau khổ”.

Đó là cái câu mà chúng ta trạch ra để chúng ta thấy tiền bạc, của báu là những cái thứ độc, là những cái thứ mà có thể làm cho chúng ta đau khổ, cho nên chúng ta xa lìa nó đi. Đừng có nghĩ rằng chúng ta muốn cái này muốn cái kia, đó tức là chúng ta nô lệ cho nó. Còn chúng ta không có thì chúng ta đâu bị nó sai khiến, cho nên chúng ta giải thoát, còn có gì chúng ta khởi muốn là chúng ta bị nó hết.

Đó là những cái câu nhắc cho chúng ta để chúng ta cảnh giác, để chúng ta thấm nhuần, để chúng ta đừng có bị tiền bạc sai mình nữa.

Câu 2:

“Tiền bạc, của báu là vật nguy hiểm, nếu ta cất giữ nó, ta sẽ trở thành nô lệ, đầy tớ trung thành cho nó.”

Nghĩa là tiền bạc, của báu rất là nguy hiểm, nó là ông chủ của mình, nếu mình cất giữ nó, nó sai mình thế này thế khác, biến mình trở thành cái tên nô lệ trung thành cho nó. Cho nên vì vậy đó, coi như vậy chớ nó có quyền lực lắm mà chúng ta không ngờ được, cho nên nó là ông chủ của chúng ta đó.

Bây giờ, chúng ta muốn mình không có trở thành nô lệ, tên nô lệ, tên đầy tớ nó thì chúng ta hãy ném nó đi xuống dưới sông dưới biển hết đi, thì nó không còn sai mình được nữa, nó không còn thành ông chủ của mình được nữa.

Đó, cho nên cái câu trạch pháp này - chúng ta nhớ câu trạch pháp này:

“Tiền bạc, của báu là vật nguy hiểm lắm, là ông chủ. Nếu chúng ta cất giữ nó, chúng ta sẽ trở thành một tên nô lệ, tên đầy tớ trung thành cho nó.”

Vì vậy mà chúng ta nhớ nhắc những cái câu này để rồi chúng ta sẽ không có còn thích thú cất giữ tiền bạc nữa.

14- THÂN NIỆM PHẬT NẰM KIẾT TƯỜNG

(01:20:34) 14. Thân Phật nằm nghiêng theo kiểu kiết tường, thân ta niệm Phật cũng nằm theo kiểu kiết tường như Phật.

Trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng nhắc nhở:

“Thân ta hằng ngày cũng nên nằm kiết tường để tâm dễ tỉnh thức, không bị mê muội, dễ đặt niệm hơi thở nhiếp tâm tỉnh thức trong lúc ngủ, không bị chiêm bao”.

Đó thì, chúng ta biết rằng khi mà nằm kiết tường - nằm ngửa, nằm như thế này thế khác thì nó dễ mê muội lắm, mà nằm kiết tường thì nó ít mê muội. Và nằm kiết tường mà lại đặt niệm cái hơi thở của chúng ta ở trước thì chúng ta phá được cái chiêm bao, chúng ta làm chủ được cái giấc ngủ của chúng ta nữa.

Cho nên đặt cái câu trạch pháp này để chúng ta dùng làm cái pháp hướng nhắc nhở chúng ta, thì quý thầy sẽ đọc lại cái câu này:

“Nằm kiết tường, tâm dễ tỉnh thức, không bị mê muội, dễ đặt niệm hơi thở nhiếp tâm tỉnh thức trong lúc ngủ, không bị chiêm bao”.

Đó là cái nhắc nhở chúng ta luôn luôn phải nằm ở trong cái kiểu kiết tường, và luôn luôn đặt cái niệm hơi thở, nhiếp phục cái tâm mình, không có cho nó chiêm bao. Đó thì nhớ cái câu này là nhắc cho chúng ta để chúng ta luôn luôn chúng ta nằm kiết tường, là chúng ta phải đặt niệm hơi thở để làm chủ giấc ngủ, để phá cái chiêm bao chiêm mị của chúng ta.

Đó là thuộc về cái phần thân niệm Phật. Đến đây là cái phần thân niệm Phật đã hết rồi, bây giờ tới cái thọ niệm Phật. Chúng ta nghỉ một chút./.

HẾT BĂNG