25 - Ý NGHĨA CỦA QUY Y TAM BẢO

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 25 - Ý NGHĨA CỦA QUY Y TAM BẢO

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- GIỚI LUẬT LÀ BẬC THẦY THAY THẾ CHO ĐỨC PHẬT

1.1- ĐỨC PHẬT ĐỂ LẠI GIỚI LUẬT HOÀN CHỈNH TRƯỚC KHI NHẬP DIỆT

(00:00) Ở đây quý thầy phải hiểu: Phật - Pháp - Tăng là ba giới luật sống động. Vì thế Phật còn sống tại tiền thì tất cả chúng Tỳ Kheo đều nương vào Phật tu tập, Phật dạy sao họ tu tập như vậy, không có tu tập sai.

Cuộc sống của Phật là cuộc sống của giới luật nghiêm chỉnh, không sai phạm một lỗi nhỏ gì. Phật đã chế ra giới luật được nói lên gương hạnh sống giải thoát của Ngài qua hành động sống của Phật.

Cho nên phải thấy giới luật là một điều quan trọng trong việc hành trì theo đạo Phật. Vì thế Đức Phật phải quan tâm đến giới luật, cho nên Ngài phải chế giới nhiều lần để cho phù hợp với không gian và thời gian, có thời điểm và thời đại nào cũng phù hợp và thích nghi được.

Nghĩa là Ngài rất là quan trọng về cái giới luật chớ không phải là Ngài chế giới cái chuyện mà không có quan tâm đến nó. Ngài không có nông nổi mà đặt ra giới đại đâu, mà Ngài phải đắn đo, suy nghĩ rồi mới chế ra cái giới.

Và khi chế ra giới rồi Ngài còn sửa đi, sửa lại nhiều lần để cho nó phù hợp, để cho cái không gian và thời gian nó không có bị không thích hợp, và cái thời đại diễn biến từ cái thời Ngài cho đến về sau, lúc nào nó cũng thích nghi được với cái giới luật đó mà không có cần phải sửa tới, sửa lui.

Ngài quan tâm và hoàn chỉnh giới luật trước khi Ngài nhập diệt. Ngài biết rằng khi Ngài nhập diệt, không có một vị Thánh Tăng nào đệ tử của Ngài đủ tư cách làm thầy cho các vị Tỳ Kheo sau này.

Từ lâu Ngài phải có ý định ai là người thay Ngài để dẫn dắt những người tu sau này, chớ không phải lúc gần chết Ngài nông nổi di chúc “giới luật là thầy” cho chúng ta như vậy.

Nghĩa là Ngài đã nghĩ rằng giới luật là thầy của chúng ta, nó có đủ ba cái oai lực: Đại oai lực, đại thần lực và đại minh lực, thì nó phải đủ ba cái lực như vậy thì nó mới là xứng đáng là thầy.

Mà giới luật của Phật thì nó đủ ba cái oai lực đó, cho nên nó mới xứng đáng là làm thầy của người sau. Và nó không bao giờ có một sự thay đổi nào được hết, vì nó phải tròn đủ, chớ nó không thể thiếu mà nó không thể thừa.

Chúng ta nên xét: Một người như Đức Phật không thể nông nổi, bộp chộp, mà phải có sự đắn đo kỹ lưỡng, nhất là người cầm vận mệnh của tiền đồ Phật giáo sau này mà đặt sai thì quý thầy nghĩ sao?

Một công trình bốn mươi chín năm khai sáng Phật giáo, đem lại một cuộc sống an lành cho loài người trên quả đất này, Ngài lại không thấy trước sự thịnh, suy của Phật giáo hay sao?

Nghĩa là trong khi Ngài đặt cái giới luật mà làm thầy chúng ta, Ngài phải thấy được cái sự thịnh, suy của Phật giáo. Cho nên Ngài mới di chúc cho chúng ta: “Phật giáo còn là giới luật còn, mà Phật giáo mất là giới luật mất”.

(03:14) Chúng ta bây giờ thấy Phật giáo thì tu sĩ nhan nhản mà đều phá giới hết thì Phật giáo có còn không? Chắc chắn là lời Phật dạy chúng ta đã chứng minh điều đó rất rõ mà.

Mà Đức Phật còn nói: “Giới luật còn là Ta còn, mà giới luật mất là Ta mất”, nghĩa là giới luật còn tức là hiện tiền là Đức Phật còn ở tại thế, mà giới luật mất là Đức Phật đã mất. Mà bây giờ chúng ta thấy Đức Phật có còn không? Mất! Bởi vì giới luật đâu còn? Đối với tu sĩ bây giờ đâu có người nào mà giữ giới luật như thời Đức Phật đâu, cho nên giới luật mất.

Cho nên có một vị Tỳ Kheo khi mà ở xa Phật thì lúc bấy giờ đó, Ngài muốn đến để mà gần gũi bên Phật, thì Đức Phật nghe như vậy mới nhắn một người đến nói với Ngài, đến nói với vị Tỳ Kheo đó:

‘‘Khi mà ở xa Phật mà giữ gìn giới luật của Phật nghiêm chỉnh thì như Phật sống ở bên. Còn những người mà sống gần bên Ta hằng ngày mà thấy Ta, mà giới luật không nghiêm chỉnh thì cũng như xa Ta ngàn dặm’!’

Đó phải không? Ngay từ cái lúc mà thời Phật còn sống Đức Phật cũng xác định cái điều đó: Phật còn tại thế tức là giới còn, mà giới luật mất là Phật mất.

Đó, thì như vậy chúng ta đã biết hiện giờ Phật giáo của chúng ta mất hay còn, chúng ta đều xét qua những cái lời Ngài đã di chúc lại thì chúng ta biết. Mà nếu muốn còn thì chúng ta là những người đệ tử của Phật phải làm sao cho nó còn? Thì phải là giới hạnh, giới đức và giới tuệ chúng ta phải nghiêm chỉnh hẳn hòi, thì như vậy là Phật giáo sẽ còn.

Do thấy trước và hiểu biết đó, Ngài đã chuẩn bị hoàn chỉnh giới luật trước khi Ngài nhắm mắt: “Này các thầy Tỳ Kheo hãy lấy giới luật Ta làm thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc tu hành! Giới luật còn là Phật pháp còn, giới luật mất là Phật pháp mất.”

Ngài di chúc lời này tức là Ngài đã chuẩn bị cho đời sau một ông thầy như Đức Phật, như Ngài còn tại thế.

Đó Ngài chuẩn bị cho cái người mà thừa kế Ngài như là Ngài chớ không có thua kém Ngài chút nào hết.

Cũng như bây giờ Thầy có một số đệ tử, nhưng mà đệ tử của Thầy thì người nào cũng có cái sở trường của nó, làm sao Thầy dám di chúc! Ví dụ đó, thì Thầy phải di chúc một cái người nào mà phải toàn diện chớ, thì cái người toàn diện làm sao có được!

Ai cũng có sở trường, sở đoản hết, chỉ có duy nhất là Đức Phật là sở trường tròn đầy. Bởi vì Đức Phật mới có đại thần lực, đại oai lực, đại minh lực nó tròn đầy, còn mấy ông kia thì một ông thì có đại thần lực nhưng mà không có đại oai lực, không có đại minh lực, một ông thì có đại minh lực mà lại không có đại thần lực thì làm sao mà tròn được, thì làm sao mà làm người hướng dẫn cho chúng ta sau này được?

Giới luật còn là Phật còn, giới luật mất là Phật mất. Cho nên lúc Phật còn tại thế, Phật thường dạy: ‘‘Các ông sống gần bên Ta mà giới luật không nghiêm chỉnh thì như sống xa Ta ngàn dặm. Nếu các ông sống xa Ta ngàn dặm mà giới luật nghiêm túc thì như sống gần bên Ta.’’

Đó cái lời mà Đức Phật nói ở trong kinh nó còn rõ ràng như vậy mà!

Cho nên Phật còn tại thế tượng trưng giới luật toàn chân, toàn thiện, và Đức Phật nhập diệt thì giới luật là ông thầy toàn chân, toàn thiện của chúng ta.

Hôm nay không phải là Thầy ca ngợi điều đó mà chính trong kinh Phật nhắc đi, nhắc lại điều này rất là nhiều. Vì vậy mà chúng ta là người tu sĩ đạo Phật, làm sao chúng ta quên được những lời này, làm sao chúng ta sống mà không giữ gìn giới hạnh mà gọi là Phật giáo được?

1.2- CẦN XÁC ĐỊNH BẬC THẦY GIỚI LUẬT LÀ GIỚI LUẬT NÀO

(06:37) Thế có kẻ ngu si dám đem giới luật của Phật sửa tới, sửa lui, đốt phá lung tung, đốt phá tạng luật của ông Ưu Ba Ly kết tập lần đầu tiên tại hang Thất Diệp, bảo rằng: “Kết tập luật không có viết thành văn!”

Đó là Thầy nhắc lại cái lời mà ở trong kinh nói rằng trong cái lúc mà kết tập kinh điển lần đầu tiên đó, kết tập luật thì không có viết thành văn, cho nên do đó, cái lý luận đó là cái lý luận phá giới đó, cái lý luận mà đập phá giới gốc của Phật đó.

Luật thì phải có một bộ, sao lại có nhiều bộ thế? Một ông thầy thì một ông thầy, sao bây giờ lại nhiều ông thầy quá vậy? Ông thầy nào là chân, ông thầy nào là giả?

Nghĩa là nhìn những bộ luật chúng ta không biết ông thầy nào là ông thầy mình hết, đông quá chừng đông! Cho nên bây giờ luật sao thì có một bộ thôi chớ luật gì mà đủ thứ luật hết?

Mà luật thì có bộ thì nói vầy, có bộ nói khác chớ đâu phải giống nhau hết đâu, nếu giống thì tức là một bộ rồi. Cho nên nó nhiều bộ tức là nó phải có cái khác ở trong đó rồi, chớ không phải là giống hết được.

Cho nên bây giờ chúng ta thấy rằng chúng ta hiện hành bây giờ, Phật giáo chúng ta có sáu cái bộ luật chớ không phải là ít bộ, có cái thì giống có cái thì khác, nhưng mà toàn những cái bộ này đều có những cái dị biệt khác nhau chớ không phải là giống hết.

Các thầy Tỳ Kheo sợ giới luật của Phật, chạy theo dục lạc thế gian, tham đắm sắc, danh, lợi, thực, thùy, cho nên mới đặt ra giới luật mới làm khác đi để chạy theo cái dục lạc của cuộc đời, làm đảo lộn Phật pháp. Hiện giờ thì người tu sĩ không biết ông thầy giới luật của mình là cái ông thầy nào!

Nghĩa là bây giờ đứng trước sáu cái bộ luật này thì chúng ta chẳng biết là cái bộ luật nào là ông thầy của mình hết! Đó thì như vậy là mình thấy quá khó khăn chớ đâu phải dễ.

Phật giáo chia ra làm hai mươi bộ phái, mỗi bộ phái có một bộ luật, vậy đạo Phật hiện giờ có hai mươi ông thầy. Vậy bây giờ biết chọn ông thầy nào như lời Phật đã dạy, đã di chúc?

Ông thầy được kết tập lần đầu tiên thì bị phế rồi, còn hai chục ông thầy mới này, biết ai là thầy của mình?

Hai mươi bộ luật này có những điểm tương đồng, có những điểm khác biệt. Do thế người sau mới lấy các điểm đồng và dị biệt mà kết tập lại thành sáu bộ luật:

(09:12) Đây quý thầy nghe cái tên của sáu bộ luật đặt ra đây:

1. Thập tụng luật;

2. Tứ phần luật;

3. Tăng kỳ luật;

4. Ngũ phần luật;

5. Giải thoát giới bổn kinh;

6. Nhất thiết hữu bộ luật.

Từ hai mươi ông thầy luật này còn lại sáu ông, thì thử hỏi biết ai là thầy của chính mình?

Như vừa rồi chúng ta đã học trong giới kinh có phân chia làm ba loại giới:

1. Giới hạnh;

2. Giới đức;

3. Giới tuệ.

Ba giới kinh này gọi chung là Giới - Định - Tuệ. Giới - Định - Tuệ không phải ngoài giáo pháp của Phật. Giáo pháp của Phật là pháp thiện: Sơ Thiện, Trung Thiện và Hậu Thiện. Vậy Giới - Định - Tuệ là pháp thiện của đạo Phật.

Pháp thiện của đạo Phật là giới hạnh, giới đức, giới tuệ, ba giới này là giới luật của Phật, còn gọi là giáo pháp của Phật.

Riêng giới bổn chỉ là những oai nghi tế hạnh ly dục, ly ác pháp của phần giới hạnh trong giới kinh mà thôi.

Nghĩa là cái giới bổn mà hiện giờ mà chia ra làm sáu cái bộ luật này thì nó thuộc về nằm ở trong giới bổn chớ không phải thuộc về giới kinh. Cho nên cái giới bổn này nó chỉ là chỉ cho chúng ta biết những oai nghi tế hạnh để giữ gìn ly dục, ly ác pháp ở trong cái phần giới hạnh mà chúng ta học ở trong cái phần giới kinh.

Giới kinh thì nó có chia ra làm ba cái giới rất rõ ràng: giới hạnh, giới đức và giới tuệ. Nhưng mà cái phần giới bổn thì nó chỉ là oai nghi tế hạnh li ti để giúp cho chúng ta ly dục, ly ác pháp trong cái phần giới hạnh, chớ nó không được nằm ở trong phần giới đức, nó không được nằm ở trong phần giới tuệ, nó chỉ là nằm ở trong cái phần của giới hạnh mà thôi, tức là trong giới kinh mà thôi.

Cho nên giới bổn dù có thay đổi một trăm ngàn bộ thì nó chỉ là một phần nhỏ trong giới kinh mà thôi.

Bây giờ có chia ra một ngàn, một trăm, một triệu bộ luật đi nữa, chúng ta vẫn xem nó là những cái phần nhỏ của cái trong giới hạnh, chớ nó đâu được toàn diện là giới luật của Phật! Cho nên chúng ta đâu có ngán nó.

Nó chưa đủ sức làm thầy của chúng Tỳ Kheo.

Nghĩa là cái giới bổn chưa có đủ sức làm thầy của chúng ta đâu. Bởi vì nó chỉ mới giới hạnh mà thôi, cho nên nó đâu có đủ sức làm thầy? Nó chưa đủ ba thần lực của nó mà, cho nên nó đâu có làm thầy chúng ta được!

Chỉ có giới kinh mới chính là thầy của các vị Tỳ Kheo sau này.

Đó, thì hôm nay Thầy phân cho để thấy được cái giới nào là thầy của chúng ta. Chớ không khéo họ cứ lấy giới bổn ra làm thầy thì chắc chắn là ông thầy này chỉ chắc chắn là đem chúng ta đi đến cái chỗ chết chớ không có còn cái chỗ sống nữa mà tới nói chuyện về giải thoát.

(12:16) Có một bài kinh nói về khi Phật còn tại thế, có người Bà La Môn hỏi Đức Phật: “Sau này ai là người thừa kế Đức Phật lái con thuyền đạo Phật?” Thì Đức Phật trả lời: “Người thừa kế Phật là người phải có đại oai lực, đại thần lực, đại minh lực!”

Nghĩa là ông Phật ổng xác định cái người mà thừa kế ổng là phải có những cái đại oai lực, đại thần lực như vậy.

Cho nên Thầy có nhắc lại với quý thầy là đại oai lực là như thế nào, mà đại thần lực như thế nào, thì Thầy có nhắc là đại hạnh lực, đại thần lực và đại huệ lực đó, đó là nó ứng vào trong cái đại minh lực, và cái đại thần lực và cái đại hạnh lực của nó.

Vậy đại hạnh lực là gì? Là giới hạnh. Mà đại thần lực là gì? Là giới đức. Đại oai lực là gì? Là giới tuệ, hay hoặc là đại minh lực là giới tuệ. Vậy giới hạnh, giới đức và giới tuệ gọi chung là giới luật của đạo Phật.

Cho nên trong kinh Di Giáo, Phật di chúc: “Này các thầy Tỳ Kheo, khi Ta diệt độ các thầy hãy lấy giới luật Ta mà làm thầy, làm chỗ nương tựa tu hành!”

Đó, trong cái kinh Di Giáo thì Phật chỉ nói như vậy, nhưng mà trong kinh A Hàm hay hoặc là trong kinh Nguyên Thủy thì lại có nói thêm cái chỗ này thêm, để Thầy - cũng là cái lời di chúc của Phật khi mà sắp sửa nhập Niết Bàn, thì Phật bảo hãy lấy giới luật Ta và giáo pháp Ta. Thành ra cái giáo pháp với giới luật nó chia làm hai, cho nên nó không có đúng đâu.

Đó là những cái người sau, người ta lấy cái giới luật đó, để lấy cái tên giới luật đó làm cái giới bổn. Chớ sự thật ra trong giáo pháp của Phật thì nó là giới luật, chớ nó đâu có cái gì khác hơn?

Bởi vì trong những cái Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo là tất cả những cái giới hành, đó là cái hành động để mà chúng ta thực hiện cái giới, chớ đâu phải là nó là pháp gì!

Cho nên họ tưởng Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo đó là giáo pháp, còn cái giới luật là những cái điều mà kê ra cũng như pháp luật đó, là giới luật. Cho nên cái người sau người ta không có hiểu, vì vậy mà người ta đem cái giáo pháp của Phật người ta chia ra làm có giới luật rồi có giáo pháp, thành ra hai cái.

Cho nên cái lời di chúc đó là họ cũng chỉ thêm vô mà thôi. Cho nên trong kinh Di Giáo thì cái lời này Thầy thấy rất đúng, là vì chỉ Đức Phật nói bảo lấy giới luật mà trong giới luật đó thì nó có giới hành.

Giới hành thì tức là Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo chớ còn cái gì nữa? Đâu có cái gì mà ngoài ra? Mà lấy Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo làm cái giáo pháp thì nó là cái người không hiểu. Trong cái giới thì nó phải có giới hành rồi, không thể nào mà nói trật được.

Bởi vậy trong giới kinh có đầy đủ pháp hành…​

Pháp hành tức là giới hành đó.

…​ tức là Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo, chớ không phải Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo ngoài giới luật mà có. Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo là giới hành của đạo Phật.

Cho nên có kinh ghi lời di chúc: “Hãy lấy giới luật và giáo pháp của Ta làm thầy”, điều này thừa.

Nghĩa là cái lời nói đó là lời nói thừa không có trọn, không có đúng cái nghĩa, mà tức là không có hiểu giới luật của Phật là cái pháp thiện.

Cái người mà ghi lại cái lời di giáo đó là…​ mặc dù là những cái bài kinh đó là những cái bài kinh trong kinh Nguyên Thủy đó, trong bộ kinh Nikaya đó, nhưng mà sự thật ra Thầy cũng vẫn thấy nó là cái sai không đúng.

(15:35) Bởi vì cái đó là hiểu không đúng. Bởi vì giáo pháp thì nó toàn diện ở trong đó, nó có giới và nó có giới hành và giới đức, giới tuệ, giới hạnh của nó đủ, chớ không phải là!

Bởi vì đạo Phật đứng trên nhân quả xây dựng thì nó là thiện pháp, thì thiện pháp nó có Sơ Thiện, Trung Thiện, Hậu Thiện, chớ đâu phải là ngoài cái đó ra mà có được?

Giáo pháp của Đức Phật được xây dựng trên nền tảng nhân quả, cho nên nó phải toàn là thiện pháp, không phải là ác pháp. Mà thiện pháp là giới luật, trong giới luật phải có giới hành, có giới hành mới gọi là giáo pháp.

Bởi vì có cái hành động tu nó mới gọi là giáo pháp, chớ còn nếu mà không có cái giới hành thì toàn giới đó tức là cái kỷ luật rồi, mà là cái pháp luật rồi. Nó không có giới hành thì tức là nó không có tu, bắt buộc người ta phải giữ gìn nó thôi, chớ nó không có - còn cái này người ta có giới hành cho nên nó thuộc về pháp rồi. Quý thầy thấy rất rõ không?

Cho nên muốn làm cho mình được thiện thì mình phải có cái sự trau dồi hành động, cho nên có sự tu tập. Còn cái pháp luật người ta đặt ra người ta có bắt mình trau dồi mình như thế nào không?

Tui bắt buộc anh là không có được ăn trộm là anh không có được ăn trộm, anh ăn trộm tui bỏ tù chớ không có biểu anh phải làm vậy, tập vậy, luyện vậy hay hoặc trau dồi vậy là không ăn trộm.

Còn cái này, cái Phật pháp - cái giới luật của Phật pháp nó có những cái giới hành, cho nên từ cái chỗ bây giờ mình không tham lam, mình không giết hại chúng sanh thì phải tu tập như thế nào, trau dồi như thế nào, thì đó nó có cái giới hành của nó rồi, cho nên nó trau dồi tuần tự, cho nên từng đó mình trở thành thiện pháp.

Đó quý thầy thấy Phật pháp nó hay cái chỗ đó đó, cái giới luật của Phật nó hay cái chỗ đó, nó có cái pháp hành, chớ nó không phải là khô cằn khô cỗi như cái pháp luật.

Mà người ta đưa ra cái giới bổn nó thành ra cái pháp luật, cho nên vì vậy mà bắt chúng ta theo cái pháp luật mà tu hành, chắc chắn là cái đời sống của chúng ta cũng như là chúng ta gò bó ở trong cái pháp luật của một nhà nước nào mà độc tài đi, chắc chắn là người dân trong nước đó đều tiêu hết chớ không sống nổi đâu.

Giáo pháp của Đức Phật được xây dựng trên nền tảng nhân quả, cho nên nó phải toàn là thiện pháp không phải là ác pháp, mà thiện pháp là giới luật. Trong giới luật phải có giới hành, có giới hành mới gọi là giáo pháp. Mà giáo pháp thì không phải là giáo điều, mà không phải là giáo điều thì không phải là pháp luật.

Pháp luật thì có sự bắt buộc, bắt ép, gò bó trong khuôn khổ kỷ luật, pháp luật thì không có pháp hành. Còn ngược lại thì giới luật của Phật có giới hành, nên một điều giới nào đưa ra làm việc lành, tránh việc ác thì có giới hành rèn luyện, tu tập, trau dồi thân tâm con người cho đến khi thuần hóa điều lành đó…​

(18:16) Đó, thí dụ như cái giới luật đưa ra, thì mình có những cái giới hành mình tu tập, mình rèn luyện theo cái hành động, để cho tới chừng mình thuần hóa được cái điều lành đó, làm cho thân tâm của mình ở trong cái pháp lành hoàn toàn là không có sai phạm nữa, chớ không phải nói suông mà bắt trói mình.

Vì vậy mà người mà người ta học giới luật mà người ta có cái giới hành, người ta thấy được cuộc sống người ta nó thoải mái, nó dễ chịu, nó thanh thản, nó an lạc, nó giải thoát thật sự.

Cho nên Phật nói thiết thực, cụ thể không có thời gian, đến với đạo Phật thì ngay đó là chúng ta đã thấy liền. Mà đến với đạo Phật là đến gì? Đến với pháp luật, mà pháp luật có pháp hành chớ không phải pháp luật thiếu pháp hành.

Đó thì chúng ta thấy được cái đạo Phật nó hay là hay cái chỗ này này. Nó đưa con người đến cái thiện, mà nó phải rèn luyện cái thiện cho con người chớ không phải nói miệng suông, hoặc là đưa ra một cái giáo điều nào đó bắt ép người ta.

…​ chớ không có bó buộc, bắt ép ai hết.

Cho nên thí dụ như một người mà đi vào cái lộ trình của người tu sĩ ly gia cắt ái, mà người ta chưa có đủ cái trình độ đó mà ép người ta vào đó sao được?

Cho nên người ta vẫn đứng ở trong cái lộ trình của người cư sĩ, mà người ta vẫn có những cái pháp hành thiện của người ta, thì cũng đem lại cái đời sống hạnh phúc an vui cho người ta, cho xã hội, cho đất nước, cho nên nó vẫn là đem lại cái tốt cho mọi người, chớ đâu phải là chờ cho chúng ta tu hành như cái lộ trình của người tu sĩ mới là giải thoát được đâu!

Nếu người nào biết lấy giới luật của Phật mà làm thầy tu tập thì thoải mái, dễ chịu, an lạc, yên vui và hạnh phúc.

Từng giới luật một, hễ tu được giới nào là có sự an lạc của giới nấy.

Nghĩa là mình chấp nhận cái giới nào là mình tu, mình trau dồi mình trong một cái thời gian thì mình thấy an lạc.

Cũng như bây giờ mình chấp nhận ăn ngày một bữa, mình chấp nhận, rồi mình trui luyện mình, mình tập luyện, rồi mình hướng tâm mình nhắc nhở, cho đến khi cuối cùng thì mình thấy thoải mái, dễ chịu ăn ngày một bữa.

Ở đây không ai bắt ép ai hết à, giới luật của Phật không buộc ai hết à. Bây giờ anh chưa ăn một bữa được thì anh nên ở trong cái giới cư sĩ đi, cái lộ trình thứ nhất đi, anh ăn ba bữa đi, rồi anh sẽ tu những cái - anh trau dồi những cái giới luật khác trong cái tầm vóc của anh, thì anh cũng được giải thoát à. Chớ không phải bắt ép anh vô đây ăn ngày một bữa để làm khổ anh.

Cho nên do cái đạo Phật nó vi diệu, nó hay như vậy, ở từng cái cấp độ của người mà muốn giải thoát, cao thì chúng ta phải giải thoát ở cái chỗ cao để mà chúng ta thoát ra các ác pháp, và cái người thấp thì cũng có những cái pháp để chúng ta rèn luyện ở trong cái thiện pháp thấp, mà cũng đem lại cái sự an vui hạnh phúc của chúng ta.

Chớ Phật đâu có bắt ai cũng ăn một bữa đâu? Nghĩa là xã hội này ai cũng ăn một bữa đâu, đâu có bắt buộc cái điều đó đâu! Chỉ có giới tu sĩ của chúng ta là ly gia cắt ái thì chúng ta mới ăn một bữa. Còn cái giới cư sĩ thì bây giờ Đức Phật đâu có khuyên mấy ông một ngày ăn bốn, năm bữa đâu, nhưng Đức Phật khuyên là ăn uống điều độ.

(21:03) Vì vậy mà chúng ta chọn ăn ngày ba bữa, hay hoặc hai bữa, hay hoặc là bốn bữa, hay năm bữa thì phải ăn điều độ thôi, chứ giới cư sĩ không có bắt ép người ta ăn một bữa, cũng không bắt ép người ta ăn hai bữa, mà cũng không bắt ép người ta ăn ba bữa.

Tùy người ta có của cải, người ta ăn bao nhiêu người ta ăn, nhưng mà ăn điều độ, ăn lung tung, ăn bữa nay ăn hai bữa, bữa kia ăn một bữa, bữa nọ ăn năm bữa thì nó không có điều độ, thì cái thân của họ dễ bị bệnh. Đức Phật khuyên như vậy, chớ đâu có bắt người ta phải ăn một bữa đâu!

Cho nên vì vậy chúng ta thấy cái giới luật của Phật nó rộng rãi, và nó là một cái pháp môn tu hành để đưa chúng ta từng cái sống, từng cuộc sống của chúng ta ăn, ngủ nó cũng có cái sự giải thoát ở trong đó.

Học Phật pháp mà chúng ta hiểu được như vậy thì chúng ta thấy rất là thích thú, vì mỗi cái bước đi, mỗi cái giai đoạn của cuộc đời người, chúng ta đều có cái pháp hành và có cái giới luật thiện pháp của nó kèm theo cái đời sống của chúng ta, làm cho chúng ta hân hoan, an lạc.

Tâm hồn họ hân hoan, luôn luôn vui tươi chẳng biết buồn giận, thương ghét ai, chẳng biết lo toan, sợ hãi ai, dù bất cứ điều gì. Chỉ có một sự trầm lặng bao la khắp cùng, tình thương yêu tất cả muôn loài, sống hòa tan cùng vạn hữu.

Sau khi được nghe lời giảng này, quý thầy đã biết giới luật nào là thầy của quý thầy, chớ không phải sáu bộ luật hiện hành của Phật giáo bây giờ mà quý thầy đã học và đã đọc nó, đã hiểu nó.

Sáu bộ giới luật không có đủ hạnh lực, thần lực và oai lực thì làm sao mà làm thầy của quý vị được?

Những bộ giới luật này nó chỉ là một phần lượm lặt trong giới hạnh của kinh giới và viết ra, lại còn thêm thắt làm lệch lạc oai nghi tế hạnh của người tu sĩ Phật giáo.

Cho nên thí dụ như họ viết ra họ thêm thắt, họ bảo rằng mình phải ăn thịt chúng sanh bằng cách là không thấy, không nghe này kia, rồi họ tự nhau họ xúm nhau họ ăn thịt chúng sanh bằng cách là không thấy, không nghe, không nghi.

Do đó nó mới có những cái điều kiện sai lệch, làm cho cái người tu sĩ Phật giáo mà nuôi cái tà mạng bằng cái xương máu của chúng sanh ở trong người của mình.

Đó là chạy theo những cái dục lạc mà bằng cách là lấy giới che đậy mình, lấy cái giới mà đặt ra để che đậy mình, tưởng là mình không có phạm giới, nhưng chính đó là cái phạm giới rất lớn và rất nặng.

…​ oai nghi tế hạnh của người tu sĩ Phật giáo.

Cho nên bây giờ tu sĩ Phật giáo ngang nhiên ăn thịt chúng sanh như cọp ăn. Thế mà giới hành Tứ Vô Lượng Tâm của các ngài từng học trong giáo lý của nhà Phật mà họ để đâu?

Họ ném trong sọt rác để ngang nhiên chạy theo dục lạc thế gian bằng sự thêm bớt giới bổn: “Phật cho ăn thịt chúng sanh không thấy, không nghe, không nghi” để thỏa thích khẩu vị nuôi tà mạng.

(24:11) Những người tu sĩ này mượn giới luật phá hủy đạo Phật giữa ban ngày.

Nghĩa là bây giờ họ ngang nhiên họ ăn thịt chớ không có ăn lén đâu.

Chẳng có vị tu sĩ nào nhập định được cả, và chẳng bao giờ có được Tam Minh.

Nghĩa là cái giới tu sĩ mà ăn thịt chúng sanh như vậy, thử hỏi họ làm sao họ có nhập định được, mà làm sao họ có Tam Minh được?

Họ lý luận đời mạt pháp chẳng có người tu chứng quả A La Hán.

Đó bắt đầu mấy cái lão tu sĩ này họ nói như thế nào? Họ nói cái đời mạt pháp của mình rồi thì không có người nào mà chứng quả A La Hán hết đâu, đừng có mong mà nhập định, chỉ ngồi có hưởng lạc đó làm chút đó là may lắm rồi. Ngồi mà nó không có vọng tưởng nó được yên lạc, nó thích thú đó là đã thiền định của cái thời đại này rồi, là phước lắm rồi, chớ còn không có tới nữa được đâu.

Không nương vào ông thầy giới luật chân chính của mình thì tu hành làm sao chứng được?

Nghĩa là ông thầy giới luật của mình không chân chính thì thân tâm mình làm sao thanh tịnh? Mà không thanh tịnh thì làm sao mình nhập được định, mình làm sao mà có được Tam Minh?

Đó là cái mà chứng nghiệm cho chúng ta thấy là các pháp của đạo Phật nó để chứng minh cho chúng ta đi vào con đường thiền định là phải ly dục, ly bất thiện pháp.

Để một lúc nữa Thầy sẽ nhắc lại: Ly dục, ly bất thiện pháp nó có nhiều cấp độ, để quý thầy biết rằng, khi mà chúng ta nhập vào bào thai, mà cái chỗ ly dục, ly bất thiện pháp nào mà chúng ta biết chúng ta nhập bào thai, còn cái chỗ nào chúng ta sẽ không biết nhập vào bào thai.

Thầy sẽ đọc lại cái bài kinh đó, để cho các thầy thấy rằng Đức Phật đã chỉ cho chúng ta thấy rõ: Nó có nhiều cái giai đoạn ly dục, ly bất thiện pháp, chớ không phải là ly dục, ly bất thiện pháp là hoàn toàn là chúng ta sạch hết đâu, không phải!

Hầu hết tu sĩ Phật giáo không có thầy dẫn đạo…​

Nghĩa là bây giờ chúng ta không có ông thầy dẫn đạo.

…​ nên chẳng biết đường tu, tất cả đều tu hành đường lối của đạo Phật theo kiểu tưởng giải của học giả.

Nghĩa là theo cái tưởng giải của cái nhà học giả họ tưởng ra thôi, rồi họ soạn kinh họ viết ra cái kiểu này, kiểu kia, rồi chúng ta chạy theo đó mà chúng ta tu tập, chớ chúng ta chẳng có ông thầy mà dẫn đạo cho chúng ta tu tập.

Còn giới luật là giới bổn thì làm sao có giới hành mà tu? Giới bổn là một loại pháp luật khô cằn như cây khô không nhựa, đụng tới giới luật vị nào cũng le lưỡi. Người nào cũng ráng lắm giữ gìn thì cũng như người tu khổ hạnh của ngoại đạo, cũng chẳng ra gì, cũng chẳng đi tới đâu.

(26:53) Nghĩa là mình có ráng giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh cách gì đi nữa mà theo cái giới bổn thì trở thành là một người khổ hạnh, mà khổ hạnh của ngoại đạo chớ chưa phải là khổ hạnh đúng của đạo Phật nữa đâu.

Cho nên do đó thì cái sự tu hành nó cũng chẳng đi tới đâu, cuối cùng thì cũng chết quỵ ở trên cái sự khổ hạnh đó mà cũng chẳng ra ôn gì hết, cũng chẳng làm chủ sanh tử gì hết.

Bằng chứng như chúng ta đã thấy có một số tu sĩ bên khất sĩ, họ cũng chấp hành giới luật nghiêm chỉnh, họ đi chân không, đi khất thực xin ăn, họ cũng ở trong hang, trong núi, mà họ không có biết cái giới hành, cho nên họ không thực hiện được, họ chỉ ôm chặt cái giới bổn, rồi họ tu tập họ khép mình ở trong những khổ hạnh như vậy, cuối cùng họ cũng chết mòn ở trong hang, trong hốc chớ họ cũng chẳng có giải thoát được gì.

Bởi vậy Phật mới nói khi mà chúng ta khổ hạnh như con bò thì chúng ta sẽ thành con bò, mà khổ hạnh giống như con chó thì sẽ thành con chó chớ nó cũng không thành ông Phật hay hoặc là thành tiên được.

Cho nên chúng ta khổ hạnh ăn rau, thì nữa chúng ta ăn rau riết thì cũng thành rau, thành cải chớ cũng không thành gì! Đó là những cái điều mà chúng ta không có pháp hành, cho nên nó không thành gì hết. Nói bây giờ tui ăn rau cải là tui thiện pháp rồi, tui không có giết hại chúng sanh, nhưng cuối cùng thì mình cũng thành rau cải thì có ra cái gì?

Đó là cái hiểu sai Phật pháp. Bởi vì Phật nói mình hướng tâm về cái nào thì mình sẽ tái sanh về cái hướng đó, cho nên những cái tu hành sai là cái sự hướng tâm sai, cho nên nói “Tui tu vầy, vậy rồi nhiều đời tui sẽ đạt được.” Mình hướng trật, mình hướng phá giới thì làm sao mình hướng đúng giới được? Còn mình hướng đúng giới thì nó sẽ đúng giới.

Cho nên từ ngay bước đầu mình đi đúng là cái lộ trình đó nó sẽ đúng, mà cái bước đầu mình đi trật đường thì cái đường đó nó sẽ dẫn mình đi cái chỗ trật chớ không thể nào mà đi đúng được.

2- Ý NGHĨA CỦA QUY Y TAM BẢO

2.1- QUY Y LÀ QUAY VỀ NƯƠNG TỰA BA NƠI VỮNG CHẮC

(28:39) Bây giờ chúng ta trở về quy y Tam Bảo là ba cái giới sống động đầu tiên của giới luật Phật giáo.

Như chúng ta đã được nghe Thầy giảng, thọ quy y Phật - Pháp - Tăng là quay về nương tựa Đức Phật, vâng theo lời dạy của Ngài, và theo gương hạnh của các bậc Thánh Tăng đệ tử của Ngài mà tu tập.

Ví như cháu bé còn nhỏ sà vào lòng mẹ của nó, nương tựa mẹ nó, tin cậy mẹ nó, vì thế nó có cảm giác an toàn. Sự sinh ra của cảm giác an toàn này xuất phát từ sự bảo bọc thương yêu của người mẹ. Vì thế mà trở về nương tựa với Phật - Pháp - Tăng cũng là sự bảo bọc thương yêu vững chắc hơn sự bảo bọc thương yêu của người mẹ.

Phàm do nơi hành vi hướng về, tin cậy, đặt trọn lòng tin, đáng tin cậy có sự bảo bọc an toàn nhất thì gọi là quy y.

Nghĩa là chữ quy y đó là khi mà chúng ta quay nó về thì tức là phải có một cái sự tin tưởng ở trong cái sự bảo bọc của cái đó, thì chúng ta mới gọi là quy y.

Ở đời chúng ta cũng từng thấy ở cha mẹ…​

Nghĩa là mình ở đời thì mình sanh ra mình có cha mẹ thì mình nương cậy cha mẹ rồi.

…​ học sinh thì tin cậy ở thầy giáo; xí nghiệp thì tin cậy ở dự toán; thuộc hạ thì tin cậy ở trưởng quan. Có người thì tin cậy ở túc mạng, tin cậy ở vận mạng - người ta tin theo túc mạng thì tin cậy ở vận mạng. Người bạo ngược độc tài thì tin theo ở vũ lực, chính khách thì tin cậy vào mưu lược, người tham lam thì tin cậy vào tài sản v.v…​

Ở đây không được gọi là quy y…​

Nghĩa là mình tin cậy vào cái sự đó đó, là không được dùng cái danh từ quy y.

…​ vì sự nương tựa này không có bảo đảm vững chắc.

Nghĩa là mình nương tựa những cái hạng người đó không bảo đảm, như nương tựa cha mẹ mình cũng không bảo đảm vững chắc đâu.

Ví như bị tai nạn, nước lụt lớn, người ta có thể trèo lên một ngọn cây, trèo lên nóc nhà, chạy nên gò nhỏ, nhưng có thể nước và sóng gió to, nước dâng cao làm cho cây ngả, nhà sập, gò nhỏ bị ngập, vì thế mà nương tựa như vậy không có vững chắc, nên không thể được gọi là quy y.

(31:13) Nghĩa là bây giờ mình bị nước ngập đi, mình trèo lên nóc nhà mình ngồi, nhưng mà nước cứ dâng lên thì cái nóc nhà cũng ngập rồi mình cũng tiêu luôn chớ làm sao mình sống được!

Còn cây mình cũng trèo lên đó đặng mình tránh nước, nhưng mà gió nó to quá, nước nó chảy riết, cái cây nó ngả xuống thì mình cũng nhào xuống nước, mình uống nước cũng tiêu luôn. Thành ra mình nương tựa nó đỡ đó chớ còn sự thật ra nó chưa chắc.

Vì vậy cũng như mình nương tựa cha mẹ mình vậy, nương tự như vậy nó đỡ chớ còn thật sự ra nó không có bảo đảm cho cái đời sống của chúng ta là hết khổ, mà nhiều khi nó còn khổ nhiều hơn nữa. Bởi vì ngồi ở trên cây tránh nước chớ trong lòng nó run bần bật, nó tưởng là sắp chết chớ nó đâu có còn sung sướng gì được!

Cho nên mình nương vào cha mẹ chớ mình thấy trước cái chết, cái bệnh tật của mình, cái đau khổ của mình, cha mẹ có đau thế được không? Cho nên nương tựa, chớ nương tựa chỉ an ổn cơm ăn, áo mặc ông ta thôi, chứ ông ta lo cho mình, bà ta lo cho mình đi học đồ vậy thôi, chớ còn sự thật ra sự đau khổ của mình thì ông bà cũng không có gánh cho chúng ta được cái gì hết, cho nên đó không thể gọi là quy y.

Còn ở đây chúng ta quy y ba ngôi Tam Bảo này, nó gánh hết cho chúng ta tất cả những sự đau khổ hết, từ cái sống chết của chúng ta nó đều gánh hết, tức là nó làm hết.

Cho nên có nhiều người hiểu lệch lạc đó mới gọi là Tam Bảo gia hộ đó, đó là hiểu cái lệch lạc. Cho nên mỗi mỗi chúng ta làm gì thì chúng ta nói: “Tôi làm được cái này cũng nhờ Tam Bảo gia hộ”, chớ không ngờ là chính mình làm thiện mà nó được cái đó chớ không phải là chính Tam Bảo gia hộ!

Người ta không hiểu cái nhân quả, cho nên người ta mở miệng ra là nói là trật nhân quả hết rồi, do vì vậy đó, làm lệch lạc cái thiện pháp của đạo Phật mất đi.

Trong hoàn cảnh ấy, nếu gần đó có một trái núi cao, mọi người có thể chạy lên, trèo trên cái núi cao đó. Chỉ có những kẻ ngu si thì mới không có trèo trên đó mà thôi!

Mới bỏ sót cái cơ hội sống sót đó mà thôi, chớ không có điên gì mà có cái núi cao mà trèo trên cái cây hay là trèo trên nóc nhà mà chịu ở trên đó mà để cho chờ chết đâu, không có đâu! Chúng ta biết được như vậy.

Nghĩa là ở đây Phật ví dụ như là trong cái cuộc ngập lụt nó như vậy, thiên tai, thủy hoạn như vậy đó, mà có một cái hòn núi cao, thì trong khi mà nước sắp sửa ngập thì người ta lo người ta chạy trên cái núi cao chớ không ai dại gì trèo nóc nhà mà ngồi mà chờ nước ngập cho chết! Phải không?

(33:27) Chúng ta biết là ba ngôi Tam Bảo là cái chỗ mà chúng ta nương tựa vững chắc, thì chúng ta phải chạy đến ba ngôi Tam Bảo. Chớ bây giờ mình nương cha mẹ mình, mai mốt mình đau cha mẹ mình có chịu được không? Đâu có thay thế được!

Mà mình biết mình nương ba ngôi Tam Bảo, ba cái giới hạnh này, ba cái giới thiện này, thì nó sẽ giúp cho chúng ta thoát ra khỏi sự sanh, già, bệnh, chết, đau khổ, thì như vậy là chúng ta đã nương tựa cái chỗ rất là vững chắc!

Đó thì như vậy là Thầy ví dụ như một cái - bây giờ giữa một cái cơn thủy nạn như vậy đó, thì mọi người sống ở trong cái khu này, họ phải trèo trên cái núi cao, họ lùa trâu, lùa bò lên trên cái núi cao hết chớ họ đâu có điên gì mà họ trèo trên cái nóc nhà họ ngồi trên đó, phải không? Hay hoặc họ trèo trên cái cây, họ đâu có điên!

Cho nên do chúng ta không có phải là người điên, chỉ có người ngu mới trèo nóc nhà mà ngồi chờ chết chớ còn cái người mà người ta có trí một chút không ai dại gì mà trèo hết. Người ta lùa trâu, lùa bò người ta lên trên núi đó mà người ta ở, làm sao mà nước ngập cái núi được, phải không? Các thầy thấy!

Mà Tam Bảo là cái núi cao để bảo vệ cái sự sống của chúng ta, cho nên chúng ta không có điên đâu. Và cái người mà hiểu biết được Tam Bảo như vậy thì không có bao giờ mà ai mà không quy y Tam Bảo! Còn chúng ta không hiểu cho nên chúng ta thấy “Tam Bảo thường thôi, có cái gì đâu!”

Mà cái người mà mê tín thì quy y Tam Bảo để cho Tam Bảo gia hộ, thì cái đó là biến ông Phật thành ông thần rồi, biến Tam Bảo thành ba ông thần phù hộ rồi, thành ra cũng là lệch mất đi.

Có nhiều người biến ba Tam Bảo này nó thành là khoa học mất nữa rồi. Bởi vì ông nghiên cứu cái nào, cái tưởng giải của ông, ông nghiên cứu cái nào rồi ông ảnh hưởng cái đó cái ổng đem Phật pháp ra ổng xen vô đó à! Ổng muốn làm sao là ổng làm theo cái kiểu tưởng của ổng đó.

Thành ra Phật pháp bây giờ nó xiên xẹo, nó đủ cách hết, làm cho con người ta không biết đường đâu mà tu hết. Hồi thì Phật giáo thì như ông thần, hồi thì Phật giáo như con quỷ, hồi thì Phật giáo nó như là khoa học, hồi thì Phật giáo nói như nhà tâm lý vậy, nói cái tâm của mình nó chia chẻ ra cũng như sợi tóc vậy.

Thật sự ra thì cái chuyện làm của các nhà gợi được cái thị hiếu của con người chứ chẳng đưa con người đi đến chỗ nào mà gọi là thiện pháp, là đem lại an lành hạnh phúc cho con người được hết.

Bởi vì núi cao đem đến sự bảo bọc an toàn vững chắc hơn những chỗ khác. Nó cao chẳng phải như ngọn cây, nóc nhà, gò nhỏ mà có thể sánh nó được.

Người nào nhận thức được thế sự là vô thường…​

Nhận thức được cái thế gian này vô thường, các pháp đều vô thường.

…​ tất cả tướng thế gian đều do nhân duyên đối đãi với nhau mà thành, mà khổ, mà vô ngã.

Đó, người nào mà nhận được như vậy thì người ta mới nhào vô ba ngôi Tam Bảo này người ta mới nương tựa. Cũng như người ta nhận được là nước sẽ tràn dâng lên thì người ta mau mau trèo lên núi cao, còn cái người mà không nhận được:

Người ấy có thể hiểu rõ ràng sự nương tựa về cha mẹ, thầy giáo, dự toán, trưởng quan, vận mệnh, vũ lực, tài sản v.v…​ nó chỉ là bảo bọc an ổn tạm thời, nhưng rốt cuộc những chỗ đó không bảo bọc an toàn vững chắc tuyệt đối.

(36:30) Cha mẹ sẽ chết và không thay thế sanh, lão, bệnh, tử của mình được; tri thức của thầy giáo sẽ lạc hậu; dự toán sẽ siêu ngạch; trưởng quan sẽ bị điều động đổi đi chỗ khác; vận mệnh dựa vào không chắc; vũ lực, mưu lược cùng tài sản cũng không bảo đảm được gì: Hôm nay làm vua, ngày mai thì làm tù nhân; hôm nay thì làm phú ông trăm vạn, ngày mai có thể là kẻ ăn mày đầu đường, xó chợ.

Tín ngưỡng của các tôn giáo khác có thể sanh lên trời, song hẳn do nơi tín ngưỡng mà quyết định được sanh lên cõi trời. Cõi trời ở trong Phật giáo vẫn còn sanh, tử, luân hồi; thọ mạng của trời tuy dài hơn người thế gian song cũng có giới hạn. Phước trời hưởng hết sau khi chết đọa xuống trần gian, do thế cõi trời chưa phải là chỗ nương tựa, bảo bọc vững chắc.

Đó, Đức Phật ví dụ các tôn giáo khác thì xây cõi cực lạc hay hoặc là thiên đàng, hay hoặc cõi trời thế này, thế khác, thì cõi trời nó vẫn là có một cái tuổi thọ nó dài hơn thế gian chúng ta thôi. Mà hưởng hết cái phước báu đó rồi thì nó cũng rơi xuống à, nó cũng còn tái sanh luân hồi, nó đâu có hết được, cho nên nó đâu có vững chắc!

Còn ba ngôi Tam Bảo của Phật thì nó vững chắc, nó chấm dứt sanh, tử, luân hồi, hoàn toàn vĩnh viễn nó không còn có tái sanh luân hồi, không còn có khổ đau nữa.

Còn bây giờ có sanh lên cõi nào rồi chúng ta cũng phải trở về. Nó hết phước rồi nó cũng trở về. Bởi vì nó còn nằm ở trong cái phước của nó mà phước hữu lậu, chớ chưa phải là vô lậu, cho nên hoàn toàn nó phải trở về.

Vì vậy mà đứng ở trên góc độ của Phật giáo chúng ta thấy ba ngôi Tam Bảo tức là ba cái giới mà chúng ta nương vào đầu tiên, nó tuyệt diệu, nó đưa chúng ta đi đến cái mà chỗ chấm dứt sanh tử luân hồi.

Từ ba cái giới này mà nó sanh ra bao nhiêu giới khác để mà chúng ta biết mà chúng ta trau dồi, chớ không phải riêng ba giới này mà nó có.

Cho nên ở trong kinh, mà thường thường ở trong kinh thiền thì các tổ luận: Ba cái giới gốc của nó là tham, sân, si; không tham, không sân, không si đó, thì nhưng mà không phải đâu.

Ba cái giới gốc đó nó đâu có phải nó sanh ra các giới được? Đó các con thấy không? Do đó mà nó chính là Phật - Pháp - Tăng nó mới sanh ra, nếu mà không có Phật thì làm sao có giới này? Chúng ta thấy rõ ông Phật ổng chế giới chớ đâu phải là tham, sân, si, chế giới! Tham, sân, si, nó biết cái gì nó chế giới? Nó là ba cái độc mà, chớ làm sao!

Cho nên mấy ông tổ luận sai hết. Cho nên Thầy thấy đọc ở trong sáu cửa vào động Thiếu Thất đó, Bồ Đề Đạt Ma luận đó, luận là tham, sân, si, là ba giới gốc, Thầy nói mấy ông tổ này cũng bày đặt ra nữa. Cho nên trong cái về mà đọc kinh giới rồi Thầy mới thấy thiệt cái sự bịa đặt của họ quá nhiều, mà họ làm lệch lạc.

Cũng như Bồ Tát giới, các thầy biết là Phật - bởi vì các cư sĩ mà có thọ Bồ Tát giới rồi biết rồi, khỏi cần - chưa có thọ Tam Quy mà vẫn thọ Bồ Tát giới được, có phải không? Người chưa thọ Tam Quy vẫn thọ Bồ Tát giới được.

(39:36) Bởi vì thọ Tam Quy rồi mới thọ Ngũ Giới, mới thọ Thập Giới Sa Di, mới lần lượt mới đi tới ba trăm bốn mươi tám giới Tỳ Kheo Ni. Còn cái này chưa có thọ Tam Quy mà vẫn thọ Bồ Tát giới được, thì cái đó đọc lại cái giới Bồ Tát giới Thầy thấy, cho nên giới Bồ Tát giới là giới của các tổ đặt sau này, cho nên nó ngoài Tam Quy ra.

Tam Quy mới đẻ nó ra chớ? Phật - Pháp - Tăng mới đẻ giới ra chớ? Còn cái này không có Phật - Pháp - Tăng thì ở đâu trên trời nó đẻ ra? Cho nên chưa có thọ Tam Quy mà thọ Bồ Tát giới được thì đó là một cái để cho chúng ta biết rằng cái kẽ hở của các vị tổ làm ra cái này đã là sai rồi.

Mà đọc vô Bồ Tát giới thì rất là cấm không có cho người cư sĩ đi đọc giới luật, thậm chí như cũng ngăn cản không có cho đọc kinh sách Tiểu Thừa nữa là khác!

Đó, chớ tất cả những cái mà nó đã làm lệch lạc thế này, thế khác. Cho nên khi mà nghiên cứu giới luật rồi mới biết được cái sai của các người xưa, mới biết được các ông tổ mình bày đủ thứ hết để làm cho cái Phật pháp bây giờ nó chới với, nó không biết đường đâu mà đi hết.

Từ cái chỗ sai này chúng ta thấy đến cái chỗ sai khác, nếu mà không vạch ra thì không có ai mà còn biết cái Phật pháp nó ra làm sao hết à. Nghĩa là Thầy không vạch ra thì người ta cũng nói Bồ Tát giới đó Phật chế đó, thì mấy ổng cũng viết rồi mấy ổng cũng nói Phật chế.

Nhưng mà không ngờ là cái kẽ hở của mấy ổng nói không có cần thọ Tam Quy mà thọ Bồ Tát giới vẫn được như thường, thì Thầy thấy thiệt là cái kẽ hở để cho chúng ta biết rằng những cái người mà gian xảo nó phải có cái kẽ hở.

Bởi vì cái người dối là làm sao không giấu ai được hết, mà cái người thật thì bao giờ nó cũng phải là không có kẽ hở đó đâu. Người thật là nói sao nó cũng thật, mà cái người dối rồi, giả rồi thì bao giờ cũng còn cái kẽ hở để chúng ta tìm thấy kẽ hở của người đó ra.

Cho nên ở đây, nếu một người mà người ta sáng suốt một chút thì bao nhiêu kẽ hở của các tổ để lộ ra hết, không có che giấu được ta. Bởi vì người gian là không bao giờ mà che giấu ai được hết.

Nhất là Phật pháp là những cái pháp thiện, cái pháp chân thật, cho nên tất cả những người mà làm gian ở trong đó đều là chúng ta vạch mặt được hết, không có cái chỗ nào mà chúng ta không thấy.

Chỉ chúng ta còn phàm phu, do cái tâm ly dục chúng ta chưa hết, cho nên chúng ta còn bị mê mờ, còn bị vô minh ở trong cái màn Ngũ Triền Cái nó làm chúng ta mê mờ, chúng ta không thấy được, cho nên cứ nghe các ông nói làm sao chúng ta tin vậy chứ chúng ta chưa biết.

Nhưng mà khi mà chúng ta quét sạch Ngũ Triền Cái rồi, tham, sân, si, mạn, nghi ra rồi, chúng ta nhìn thấy cái miệng của mấy ông chúng ta biết rằng cái miệng của mấy ông như thế nào chúng ta biết hết, chớ không có bao giờ mà chúng ta không rõ đâu.

(42:10) Cho nên ở đây thì xác định có cõi trời nó cũng không phải cái cõi trời mà có cái chỗ nương tựa vững chắc cho chúng ta. Cho nên các tôn giáo khác mà xây dựng cái thế giới siêu hình của họ, mà cõi trời này, cõi trời kia thì nó không phải là chỗ nương tựa vững chắc.

Cho nên chúng ta thấy tiên nó cứ bị đọa xuống hoài à! Nó xuống dưới trần gian của mình hoài. Ở trển cái nó nhìn xuống đây nó thấy ở dưới này mấy ông này nào là có tivi, video đồ…​ coi sướng quá, cho nên ở trển nó nhào xuống nó đầu thai xuống dưới thế gian chúng ta! Thậm chí như coi chừng Bắc Đẩu, Nam Tào cũng khoái rồi cũng nhảy xuống nữa chớ đừng nói!

Thật sự mà, Thầy nói thật. Bởi vì ở thế gian bây giờ nó khoa học quá chừng, thành ra nó cám dỗ mấy ông tiên ở trển lắc đầu hết: “Trời, tụi nó còn hơn mình! Nó ngồi đây mà nó nói bên Mỹ nghe được, còn mình phải dùng Thiên Nhãn rồi mới được, thành ra bây giờ nó hay hơn mình!”

Phải không? Các thầy thấy rất rõ mà, bây giờ mình ngồi đây mình nói chuyện ở bên Mỹ được. Đó thì, có thua mấy ông trời đó không?

Tụi nó còn hay hơn, nó dùng máy móc, còn mình phải tu tập thấy mẹ, cực gần chết mới làm được! Còn nó giờ nó có gì đâu, nó chế ra hàng loạt, thằng nào nó cũng nói chuyện với nhau được hết, còn mình có thằng nói được, có thằng nói không được, có thằng thấy được, có thằng thấy không được. Đó thí dụ như Thiên Nhĩ, Thiên Nhãn, hai cái thằng quỷ này nó thấy được, còn mình có luyện cái thứ đó đâu mình thấy được, phải không?

Cho nên còn bây giờ tụi nó, nó ở đây mà nó nói chuyện mà nó thấy được hình ảnh ở bên Mỹ bên Pháp á. Cho nên thằng ở dưới thế gian bây giờ nó hay hơn, mình xuống dưới chơi với tụi nó còn ngon hơn! Ở đây cõi trời giờ thua, dục lạc ở trển đâu có bằng?

Nhưng mà sánh với Phật pháp thì tụi nó đâu - bởi vì Phật pháp là cái chỗ mà nó hết dục lạc, còn cõi trời nó còn dục lạc mà, nó còn dục lạc tưởng của nó mà! Đó thì do đó nó đâu có là phải vĩnh viễn đâu, cho nên sanh lên cõi trời các con còn phải thấy.

Cho nên thường thường là những câu chuyện mà người ta nói tiên bị đọa đó. Ở trên trời không có nước tắm, đi xuống dưới mấy cái dòng suối của mình, bây giờ mới có chỗ Suối Tiên đồ đó, mới tắm: “Trời đất ơi! cảnh của mình đẹp hơn ở trển!” Phải không? Thầy nói bởi vậy cho nên đất nước của mình cũng có chỗ tiên tắm chớ bộ không à?

Đó, nó bằng chứng nó cụ thể như vậy đó chớ không phải là Thầy nói thừa đâu. Cho nên đó là những cái mà tiên nó còn dục, mà dục tưởng. Còn chúng ta nó về sắc dục, nó dục thân sắc, nó dục về cái tướng, tướng dục.

Đó cho nên cảnh trên trời nó không có cái chỗ nương tựa vững chắc. Chỉ có ba ngôi Tam Bảo là nơi vững chắc nhất cho chúng ta, tới đó là chấm dứt không còn dục nữa. Cho nên Phật - đạo Phật nói ly dục, ly bất thiện pháp mà, ly hết, cho nên nó không còn dục. Thì không còn dục tức là chúng ta không còn tái sanh luân hồi, chớ không có gì hết.

Chỉ có Phật giáo mới dám dùng chữ “quy y”. Nghĩa là Phật giáo là chỗ nương tựa vững chắc, bảo bọc an toàn, giải thoát mọi nơi, mọi nỗi đau khổ của kiếp người.

Nghĩa là chỉ có Phật giáo mới dám dùng chữ “quy y”, không có bao giờ mà Cao Đài nó nói “quy y Cao Đài Thiên Tôn” đâu, phải không? Các con thấy, “Nam Mô Cao Đài Thiên Ông” thôi chớ nó đâu có dám nói quy y Thiên Ông bao giờ! Hay hoặc là nó có thể nói rằng - Thiên Chúa nói rằng “Quy y Thiên Chúa” bao giờ?

(45:11) Phải không? Các con thấy đâu có dám dùng chữ “quy y” đâu, còn mình dùng chữ “quy y” tức là vững chắc, vào đó là chấm dứt sự đau khổ, không còn tái sanh luân hồi nữa.

Còn tụi nó thì nó còn lên, còn xuống dưới thế gian mình, đi lên, đi xuống, chơi lên, chơi xuống với cái cõi này, vì nó còn thích. Còn Phật giáo thì không còn thích, bởi vì ly dục hết rồi còn cái gì thích, tiêu hết!

Cho nên cái người nào mà còn dục thì chúng ta ở lộ trình thứ nhất mà tu tập thì nó cũng đem đến hạnh phúc cho mình ở trong cái cảnh - coi như là mình hướng thiện thì tức là mình sẽ sanh lên cõi trời, mà mình có ở trên cõi trời mình xuống thì mình cũng cố gắng mình giữ thiện nữa, thì ở cõi thế gian mình cũng vua chúa chứ có thua gì ai! Cũng là sung sướng, cũng đầy đủ cơm ăn, áo mặc.

Thì cái pháp của Phật cái lộ trình thứ nhất là đem cái cuộc đời chúng ta toàn là những người sướng không chớ không có người khổ. Chúng ta có ác pháp đâu mà chúng ta khổ? Mà sanh lên cõi trời thì chúng ta cũng hưởng sung sướng thôi.

Cho nên cái hướng của Phật là cái lộ trình thứ nhất thì đem lại cái đời người cũng được hưởng được hạnh phúc, thì nó cũng tương đương với các tôn giáo khác là sanh lên cõi trời rồi trở xuống hưởng cái cõi thế gian chớ cũng có gì đâu.

Nhưng mà họ lầm lạc, họ xuống đây họ hưởng họ khoái quá họ làm ác cái tiêu họ luôn. Còn chúng ta lại biết thiện, cho nên chúng ta hưởng nó vừa đủ, vì vậy chúng ta không có làm ác, cho nên chúng ta lại trở về cõi trời nữa. Phải không?

Cho nên cái đường của đạo Phật dạy chúng ta không có bao giờ mà trở về cái cảnh địa ngục. Còn thiên hạ không biết, hưởng hết cõi trời cái xuống dưới thế gian này, thấy máy móc này kia đồ, Honda đồ, hay hoặc xe cộ ngon quá lái chạy bậy bạ cán đụng rớt bể đầu chết cái đi xuống địa ngục luôn! Bởi vì ham dục thì phải địa ngục luôn chớ sao!

Đó thì đó là những cái cảnh cám dỗ của thế gian mà tạo họ thành dục, thành ác, cho nên từ đó họ bị rơi địa ngục. Còn chúng ta là những người mà theo Phật pháp trong cái lộ trình thứ nhất thì chúng ta biết thiện pháp cho nên chúng ta không có ham, cái gì có thì chúng ta xài, không có thì thôi, cho nên từng đó chúng ta ở trong thiện pháp rồi chúng ta lại sanh lên cõi trời nữa.

Hết phước cõi trời thì chúng ta trở về cõi thế gian thì chúng ta cũng giữ thiện pháp mà tu nữa, cho nên ở toàn bộ trong cõi thế gian chúng ta cũng hưởng hạnh phúc. Chúng ta đâu có hăng máu anh hùng bất tử mà ra xa lộ mà chạy đua với nhau ngoài đó. Phải không? Cho nên đâu có chết bậy!

Đó là cái thiện pháp mà, Phật dạy đâu có làm cái chuyện đó được! Cho nên người cư sĩ chúng ta vẫn hoàn toàn thanh tịnh tốt.

Tổng thể giới luật của Phật giáo không ngoài ba ngôi Tam Bảo.

Các con thấy, tổng thể của nó mà gồm chung thì chúng ta - giới luật của Phật giáo thì đâu có ngoài ba ngôi Tam Bảo đâu! Đó, hôm nay Thầy vạch ra, các con, các thầy thấy rất rõ.

Cho nên cái giới luật của Phật thì không ngoài ba ngôi Tam Bảo, mà cái giới luật nào mà đặt ngoài ba ngôi Tam Bảo thì coi như là giới của ngoại đạo. Cho nên Bồ Tát giới Thầy được xem như là ngoại đạo chớ không phải là giới luật của Phật.

Bởi vì chưa thọ Tam Quy mà dám thọ Bồ Tát giới thì Bồ Tát giới nó ở ngoài rồi chớ nó đâu ở trong Tam Quy mà ra! Đó, phải thấy được cái chỗ đó.

2.2- CÁCH THỨC QUY Y TAM BẢO

(47:53) Trên thực tế khuynh hướng của quy y trước tiên phải là bắt đầu từ quy y Tam Bảo.

Nghĩa là cái khuynh hướng mà chúng ta theo đạo Phật thì bắt đầu chúng ta phải quy y Tam Bảo chớ không thể nào - thọ Tam Quy chớ không thể nào mà thọ Ngũ Giới trước. Chưa thọ Tam Quy mà thọ Ngũ Giới thì trật đường rồi.

Bởi vì nó có từng cấp bậc của nó mà, từ như thế nào, thế nào. Bởi vì bảy thứ chúng - ở trong đạo Phật nó bảy thứ chúng chớ không phải là ba chúng hay là bốn chúng đâu, nó bảy cái loại đệ tử của Phật ở trong đó, gọi là bảy loại chúng đó. Thì bảy loại chúng đó nó phân ở trong cái giới luật của Phật ra chớ đâu phải là ngoài cái bảy loại chúng đó.

Thí dụ như Tỳ Kheo phải giới nào, mà Sa Di giới nào, Thức Xoa nó ở chỗ nào, và cư sĩ nó ở cái giới nào, cho nên nó phải nằm ở trong cái giới đó mà người ta phân ra bảy cái chúng của Phật.

Chúng ta thấy rõ mà, đâu có phải là - nó có từng cái phần, nó rất rõ là do cái giới luật đó, mà do cái thiện pháp đó, mà cái cấp độ tu tập cái thiện pháp đó, thì cái người đó nó phải ở cái chỗ cấp độ đó.

Đó như vậy là Thầy giải như vậy là quý thầy đã hiểu rõ được cái Phật pháp là cái chỗ đó đó, chớ không phải là cái chỗ nào khác.

Cũng như một người mà thọ Ngũ Giới thì không thể nào mà tu tập ở trong Ngũ Giới mà nó nhiều bằng cái người mà thọ hai trăm năm chục giới được, hay hoặc là bằng một chú Sa Di mười giới được, mình có Ngũ Giới còn người ta tu tập tới mười giới lận, thành ra người ta phải hơn mình rồi, tức là người ta đi gần về cái phía giải thoát hơn mình, chớ không phải là hơn ở trong cái giai cấp, mà đi gần về con đường giải thoát hơn.

Trên thực tế, khuynh hướng của quy y trước tiên là phải bắt đầu từ quy y Tam Bảo ở ngoài thân.

Nghĩa là mình bắt đầu là làm cái lễ đó, làm cái lễ quy y Tam Bảo thì nó ở bên ngoài.

Có nghĩa là hình thức, cách thức tổ chức lễ quy y…​

Nghĩa là nó ngoài thân của mình. Tức là mình phải tổ chức như bữa đó phải bông hoa hay là hương đăng trà quả hay hoặc cái này kia, tổ chức cho trang nghiêm cái cuộc lễ đó, thì nó mới có cái ý nghĩa của cái buổi quy y.

Chớ còn nếu mà mình trơ trẽn để cái bàn Phật như vậy không có bình hoa, không có gì hết, chẳng thèm đốt hương nữa, lại nói bậy bạ, lạy lạy vài ba lạy cái rồi “Tui quy y Phật - Pháp - Tăng” - thì cái điều đó không có đúng cách đâu .

(50:05) Cho nên trước khi mà ngày xưa - Thầy nhắc lại - các vị ngoại đạo cũng như là các vị cư sĩ, khi đến nghe Phật thuyết pháp xong rồi thì Ngài đứng - các vị đó mà muốn làm đệ tử Phật thì các ngài nói lên một cái lời nói.

Nghĩa là từ lâu tới giờ nghe được cái pháp mà Phật dạy rồi cái tâm các ngài nó thấy nó quá đúng, là quá - rất là tuyệt. Cho nên các ngài đứng trước Phật xin: “Con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, xin Tôn giả Gotama chấp nhận cho con là Ưu Bà Tắc hay Ưu Bà Di…​”

Thì các thầy thấy cái lời nói đó, cái lời là quy y đó, tức là quỳ xuống trước Đức Phật mà gọi Đức Phật là Tôn giả Gotama, chớ không phải gọi Đức Phật là Phật. Nhưng mà chính Đức Phật, ở trong Đức - bấy giờ Đức Phật đâu có ba ngôi Tam Bảo đâu, đâu có Phật - Pháp - Tăng đâu, có một mình Đức Phật à, mà trong Đức Phật nó đã đủ ba ngôi Tam Bảo.

Bởi vì Nhất Thể Tam Bảo mà, nó một mà nó là ba trong đó. Phật là cái sắc - cái hình sắc của Phật là Phật, là một phải không? Mà cái lời của Phật nói là Pháp phải không? Mà cái hành động sống mà không có tranh luận, hòa hợp, thì đó là Tăng. Một ông Phật nó đủ ba Phật - Pháp - Tăng ở trong đó chớ đâu phải thiếu.

Cho nên đứng trước Gotama là Gotama, nhưng mà Phật - Pháp - Tăng nhất thể là phải có một cái hình ảnh siêu việt của pháp giới của nó, cái giới luật thanh tịnh của nó trong đó.

Cho nên vì vậy đó mà do đó đứng trước tôn giả Gotama xin quy y Phật - Pháp - Tăng chớ không phải quy y tôn giả Gotama, các thầy phải hiểu cái chỗ đó!

Cho nên đọc ở trong kinh nguyên thủy Thầy thấy tuyệt quá, này là quy y Tam Bảo, mà quy y Phật - Pháp - Tăng chớ không phải quy y riêng có ông Gotama này.

Còn ông Gotama chỉ là Đức Phật Thích Ca thôi chớ gì, nhưng mà chính Đức Phật Thích Ca là Gotama, mà Gotama chỉ là một cái tên để mà đứng ra một con người thôi chứ chưa phải - chỉ là chứng minh cho cái vị cư sĩ đó mà quyết quy y Tam Bảo.

Đó các thầy thấy, Thầy giải thích như vậy là quý thầy thấy hồi xưa đơn giản lắm, không có làm lễ gì hết. Mà khi nghe một bài thuyết pháp rồi nó long trọng vô cùng lận, ngồi trang nghiêm nghe thuyết pháp mà không có hề nhúc nhích, không có hề ngủ gục trong đó, nghe nó thích thú, nghe nó làm sao như là một cái trận mưa - mưa pháp, nó làm cho toàn cả vạn vật nó tươi mát lên.

Cho nên tâm hồn của các vị nó tươi mát lên hết, vì vậy mà khi nghe cái bài pháp rồi thì ngài long trọng quỳ xuống trước mặt tôn giả Gotama mà xin quy y Phật - Pháp - Tăng.

Cái lời nói lên như vậy đó, là cái lời nói tự thâm tâm của mình thấy đúng là cái chân lý để mà đem được cho mình đến giải thoát, cho nên mới đứng ra mà phát nguyện cái lời nguyện lớn, gọi là quy y Tam Bảo.

(52:43) Thì cho nên bây giờ ở trong kinh giới mà dạy về giới đàn tăng đó - cách thức mà để quy y, thì họ không có nói hết cái đầy đủ, nhưng mà họ cũng bắt chước theo kiểu đó, là bắt đầu dạy cho cái người quy y Tam Bảo là phải nói lên Tam Quy đó, rồi tam tiết, rồi tam thệ đó.

Thiệt ra thì cái chuyện tam thệ Thầy thấy nghĩa là nó sau này họ bày đặt ra, chớ thiệt ra đã quy y Tam Bảo là mình đã tin tưởng Phật pháp rồi mình mới quy y, mà còn phải thệ! Thệ tức là không tin, bắt buộc người ta thề, thề rằng quy y Phật rồi không có quy y thiên thần, quỷ, vật gì nữa hết, có phải không? Thề mình quy y pháp rồi thì không có đọc kinh sách của ngoại đạo nữa, phải không?

Đó là những cái thề, nhưng mà ở trong cái chỗ quy y đó Thầy thấy chỗ thề nó không đúng cái tính cách của đạo Phật. Vì đạo Phật không có bắt buộc ai thề.

Thấy nó đúng, thấy nó đem lại sự giải thoát cho chính mình, thấy nó đoạn dứt được cái sự đau khổ của đời mình, thì mình tin tưởng mình theo nó là mình Tam Quy, mình nói lên cái lời nói tha thiết từ thâm tâm của mình, mình nương vào đó để thực hiện những cái đó, đem lại cái sự giải thoát cho chính mình. Đó là cái đúng.

Chớ còn cái Tam Quy rồi tam kết rồi - để kết cho người ta, để người ta sợ, người ta đừng có đi qua tôn giáo khác đó, kéo cho người ta dính vô đó rồi bắt buộc người ta thề nữa!

Cho nên hầu hết là các tôn giáo khác phải đưa tay lên thề, còn Phật giáo mình khôn hơn, bắt buộc ông phải nói ra, ông đừng có quy y thiên thần, quỷ, vật nữa, thì cũng là cái hình thức thề thôi.

Cho nên mấy ông thầy mà sau này họ không hiểu được cái lý giải thoát của đạo Phật, cái lý giới luật của đạo Phật, cái lý thiện pháp của đạo Phật, cho nên nó bày ra những cái điều này.

Chớ ngày xưa ông Phật ổng - Thầy thấy người ta đến người ta quy y Tam Bảo nghe cái dễ dàng, chỉ phát ra cái lời Tam Quy thôi, chỉ nói lên thôi, chớ còn không thấy ông Phật kết nữa.

Ông muốn vậy thì tui chấp nhận cho ông thôi. Nếu mà ông ráng ông tu được thì giải thoát cho ông, còn ông không ráng thì ông chịu chớ, tự ông làm chớ tui đâu có làm dùm ông được, tui đâu có cứu ông được! Cho nên tui đâu có kiết, trói ông vô trong này làm gì?

Nếu ông thấy được thì ông ráng, ông nỗ lực thì ông giải thoát cho ông, còn tui trói vô đây mà ông tu không được là cứ tui cực khổ với ông hoài rồi tui cũng chịu không được nữa, phải không? Cho nên ông Phật không có kiết, mà mình sau này thì mình kiết, tức là mình kết cho ông dính vô á.

2.3- TAM BẢO LÀ BÁU VẬT QUÝ GIÁ NHẤT CỦA LOÀI NGƯỜI

(55:08) Từ hôm nay, chúng ta bắt đầu quay về Tam Bảo tức là quay về thiện pháp. Chỉ có thiện pháp của Phật mới là chỗ an toàn, bảo bọc vững chắc cho chúng ta.

Tam Bảo là gì?

Ở đây Thầy sẽ…​

Tại sao gọi Phật - Pháp - Tăng là Bảo?

Đó là những cái mà để trả lời cho chúng ta biết cái chỗ.

Đây là điều rất quan trọng. Một người muốn tin Phật trước tiên cần phải quy y Tam Bảo, nhưng trước khi quy y cần phải hiểu rõ Tam Bảo, bằng không chẳng hiểu chỗ hay đẹp của Tam Bảo thì không được gọi là chân chánh quy y.

Nghĩa là mình chưa có hiểu nó mà mình quy y Tam Bảo thì nó không có được gọi là chân chánh quy y Tam Bảo. Cũng như, thí dụ như bây giờ mình chưa nghe một cái bài pháp, chưa có hiểu cái bài pháp như thế nào rồi mình vội đó mình quy y, thì cái đó là cái sai.

Cho nên hầu hết là những người mà xuất gia theo Phật cũng như là những người mà quy y làm cư sĩ đệ tử Phật đó đều là những người được nghe pháp rồi sau cái bài pháp đó mới xin quy y, xin thọ quy y, đó thì đó nó mới rõ ràng, và xin xuất gia.

Cũng như một ngoại đạo được nghe Phật thuyết giảng xong rồi, tâm - thâm tâm ổng nó thanh tịnh liền tức khắc, nó thấy đúng rất đúng rồi, nó không còn có một cái nẻo nào khác hơn là cái nẻo của Đức Phật giảng đây, cho nên từ đó xin Đức Phật xuất gia.

Mà vị ngoại đạo đó xuất gia thì Đức Phật nói bây giờ đó, phải bốn tháng chúng tăng sẽ xem xét coi như có thể những cái tà kiến mà từ lâu đã chấp ở trong các pháp của các ông, coi các ông có bỏ không, nếu bỏ thì chúng tôi sẽ chấp nhận, mà nếu không bỏ thì thôi. Thì cái vị ngoại đạo nói bốn năm chúng tôi cũng chịu nữa, chớ đừng nói chi là ba, bốn tháng!

Đó thì ở trong kinh nó hẳn hòi những cái bài kinh nó còn rất rõ ràng như vậy. Cho nên sau khi được nghe pháp rồi thì mới có quy y, mới có là xin xuất gia, chớ còn chưa nghe pháp mà xuất gia, chắc chắn là đến Đức Phật không cho đâu! Không bao giờ mà Đức Phật cho một cái người mà chưa biết pháp Phật mà như thế nào mà…​

Còn mình thấy người ta tập trung vô đông đông đến nghe thuyết giảng gì đó, rồi cái ùn nhau người nào cũng xin quy y, quy y hết chớ chẳng hiểu Phật pháp là cái chỗ nào thiện hay chỗ nào ác, chẳng biết hết, thấy người nào bu theo cái chỗ đó đông đảo thì mình cũng vô đó mà làm theo thôi, nghĩa là xu hướng theo đó, thì cái đó là cái không đúng của Phật pháp.

Cũng như chúng ta muốn thi vào trường đại học để cầu học, nếu chẳng biết tên của trường đại học ấy và trường ấy dạy môn học gì thì quả thật đáng buồn cười!

(57:47) Mình quy y Tam Bảo mà mình chẳng biết cái Tam Bảo là sao hết thì cũng như là mình muốn ghi tên vô đại học đó mà chẳng biết cái trường đại học đó dạy luật hay hoặc là dạy cái gì, mình chả biết, hay hoặc là dạy kiến trúc hay hoặc là dạy gì mình không biết hết, thì như vậy là mình ghi tên đó vô làm sao mình biết đâu mình học? Cho nên mình phải rõ, rõ rồi mình mới ghi tên vô.

Đó ở đây Thầy đem một cái ví dụ nó cụ thể như vậy để chúng ta biết.

…​ và trường ấy dạy môn học gì thì quả thật đáng buồn cười!

Đáng buồn cười cho cái người đó. Nếu mà muốn vào đại học đó mà chẳng biết như vậy thì chẳng qua là mình thấy quá là ngu si rồi, quá là si!

Hầu hết chúng ta phải xác định: Ngày nay đệ tử của Tam Bảo lúc mà thọ quy y chưa hẳn đã hiểu qua đại ý của Tam Bảo.

Nghĩa là bây giờ hầu hết là một cái số người đệ tử của Phật mà thọ quy y, họ chưa có hiểu, thấu hiểu được cái Tam Bảo.

Như nãy giờ mà Thầy dạy, hầu hết là quý thầy chưa có hiểu Tam Bảo, tưởng Phật - Pháp - Tăng là ông Phật nè, rồi pháp của Phật nè, rồi Tăng, chớ đâu hiểu nó là giới luật, phải không?

Hầu hết là bây giờ Thầy vạch ra thì mới thấy nó là giới luật, còn hồi nào tới giờ thì quý thầy tưởng là ông Phật, rồi chúng tăng, rồi pháp của Phật dạy thôi chớ các thầy có hiểu đó là giới luật không?

Đó là những cái mà quý thầy và một số nhiều người hiện bây giờ gọi là tín đồ của Phật giáo đó, họ chưa biết là ba cái này là giới luật của Phật đó, có không? Thầy nói như vậy có phải xét không? Thậm chí như bây giờ chúng ta là những người tu sĩ đi, thọ Tỳ Kheo rồi đây nè, mà chúng ta có biết là ba cái đó là giới luật chưa?

Nếu mà Thầy không nói ra thì chắc chắn là quý thầy cũng nghĩ đó là ba ngôi Tam Bảo là cái nơi mà mình đã quy y là Phật - Pháp - Tăng mà thôi, là chỉ thấy ông Phật, chỉ thấy lời của Phật dạy, chỉ thấy chư tăng mà thôi chớ còn không có thấy gì hết. Thậm chí có nhiều người lại còn không hiểu nữa, nói hiện giờ - chư tăng hiện giờ là mình quy y theo các tăng đó đó, thì còn lệch nữa.

Cái lỗi là ở các thầy truyền thọ quy y chưa chắc ắt hẳn đã khai ngộ rõ ràng về đại ý của Tam Bảo.

Nghĩa là cái lỗi thứ nhất là cái người mà truyền cái Tam Quy cho họ đó, truyền cho họ thọ Tam Quy đó, mà không có khai ngộ cho người ta hiểu cái này nữa. Họ cứ dựa vào những cái lối kinh của các tổ nói thì giống như là ông thần ngồi đó để chứng minh cho chúng ta để thọ quy y thôi chớ còn không có rõ ràng cái gì được hết.

(01:00:15) Nói ra là một điều xấu hổ của Phật giáo bây giờ. Hầu hết là quý thầy đều dựa vào giới đàn tăng mà làm lễ quy y và giải thích theo trong đó, khiến cho người Phật tử hiểu một cách lờ mờ.

Hiểu thì phải hiểu cho rõ ràng còn không hiểu thì thôi, mà hiểu lờ mờ, lờ mờ làm cho người ta chẳng biết gì hết, cho nên người ta càng ngày người ta quy y Phật pháp mà người ta biến ông Phật thành ông thần hết ráo à!

Cho nên vì vậy mà thậm chí như có những bậc tôn túc của chúng ta cũng còn nói là Tam Bảo gia hộ nữa, thì đủ biết rằng từ ông thầy lớn đến người Phật tử mà quy y Tam Bảo cũng vẫn thấy là Tam Bảo gia hộ thì không phải là ba cái ngôi này là thần sao?

Đó là những cái mà chúng ta thấy họ hiểu lệch lạc Phật pháp như vậy đó thì làm sao mà con đường của đạo Phật mà tu tới đâu? Hiểu không đúng làm sao tu cho đúng, hiểu đúng nó mới tu đúng chớ, còn hiểu không đúng làm sao tu cho đúng được!

Tam Bảo là Phật - Pháp - Tăng, bởi vì từ Phật - Pháp - Tăng là ba giới thiện cao tuyệt nên thường sanh ra công đức vô lượng phước báu, phát huy diệu dụng vô tận, hưởng thọ vô cùng, lấy đó chẳng cạn, dùng đó chẳng hết, vô cực, vô hạn, vô bến, vô bờ!

Thế gian cho vàng bạc châu báu, hột xoàn là có giá trị quý báu nhất, công dụng của nó rất lớn cho nhu cầu vật chất thế gian vì thế gọi là “bảo”.

Tức là thế gian là cho vàng bạc châu báu là nó quý báu.

Nhưng mà ngược lại thì phước báu công đức của diệu dụng của Phật - Pháp - Tăng…​

Tức là diệu dụng của cái ba cái giới này thì nó diệu dụng vô cùng lận,

…​ thì thông cả thế gian và xuất thế gian…​

Nghĩa là từ cái chỗ Phật - Pháp - Tăng này nó cả cái lộ trình thứ nhất và cái lộ trình thứ hai, cho nên nó thông cả thế gian và xuất thế gian. Thế gian là giới cư sĩ đó, mà xuất thế gian là giới tu sĩ đó. Tức là từ ở trong ba cái giới này mà nó lưu xuất ra thế gian và xuất thế gian.

…​ phước báu vô lượng vô biên. Vàng bạc của báu chỉ là một phước báu nhỏ của vật chất thế gian chẳng nhằm nhò gì với Tam Bảo.

Phước báu rộng lớn phủ trùm cả thế gian, xuất thế gian, vì thế mới đáng gọi là “bảo”.

Chữ “bảo” ở đây đáng gọi là như vậy đó, chớ còn gọi là “bảo” như cái kia thì “bảo” có chút xíu à!

Như Thầy đã nói ở trên, Tam Bảo là pháp môn thiện, nên khi đã quy y và nương pháp này thì phải được sự giáo hóa của nó, khiến cho người sống bình an, an vui hạnh phúc ở nhân gian, và làm cho con người ở nhân gian lìa khổ, được vui.

Vì thế Tam Bảo là báu vật quý nhất của loài người, cho nên Tam Bảo còn vượt hơn sự quý báu của các thứ quý báu tột đỉnh.

Đến đây Thầy xin dừng lại ở chỗ này, để rồi chúng ta sẽ tiếp tục những cái bài bổ túc thêm cái phần…​

3- LỜI ĐỨC PHẬT DI CHÚC VỀ NƯƠNG TỰA GIỚI LUẬT

(01:03:23) Trước khi mà đi sâu vào giới luật thì Thầy xin nhắc lại lời di chúc của Phật để bổ túc thêm cái phần mà giảng nãy giờ đó, để chúng ta thấy những cái lời di chúc của Phật để chúng ta thấy rõ. Bởi vì hồi nãy Thầy có nói là di chúc của Phật rất nhiều, nhưng mà nó chưa đủ đâu, cho nên Thầy bổ túc thêm cái phần này.

Và bổ túc thêm cái phần nhập thai về cái vấn đề ly dục, ly bất thiện pháp để cho các thầy thấy thấy được cái phần này thêm nữa. Bởi vì nếu mà không có bổ túc ngay chỗ này, thì sau này chúng ta bỏ qua cái này, thì làm cho quý thầy chưa thấy được cái chỗ ly dục, ly bất thiện pháp của Phật là nó tuyệt đỉnh như thế nào.

Cho nên trước khi đi sâu vào giới luật thì Thầy xin nhắc lại lời di chúc của Đức Phật. Đây là lời di chúc của Phật đây:

Này các thầy Tỳ Kheo! Các thầy hãy sống tự mình làm ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa vào một ai khác, lấy chánh pháp làm ngọn đèn, lấy chánh pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa vào một ai khác!

Lời nhắc nhủ thứ hai của Phật:

Này các thầy Tỳ Kheo! Các thầy hãy lấy mình làm hòn đảo, làm chỗ ở vững chắc, rồi các thầy hãy lấy giới luật của Ta làm rào tường bao quanh bảo vệ.

Hãy lấy giới luật của Ta làm khuôn phép, khép mình trong khuôn vàng, thước ngọc này. Hãy lấy giới luật của Ta làm kỷ luật cho chính mình, không hề vi phạm, trái phạm. Hãy lấy giới luật của Ta làm thầy chỉ đạo tu tập, đừng nương tựa vào ai, đừng lấy ai làm thầy, làm tổ của mình, mà phải chính mình lấy giới luật của Ta làm thầy, làm tổ cho chính mình.

Đó là những cái lời của Phật mà Thầy thấy ở trong kinh ghi chép, Thầy đem ra đây để mà ghi lại để cho nó rõ ràng.

Hồi nãy Thầy chỉ trích ra một phần nhỏ để chứng minh cho cái chỗ mà quy y - thọ Tam Quy đó, để thấy cái giới luật của Phật - ba ngôi Tam Bảo nó quý báu như thế nào, và giới luật của Phật mà Phật đã chỉ định cho cái người mà làm thầy cho chúng ta sau này nó như thế nào đó.

Bây giờ thì qua cái lời dạy này, nó rất là đầy đủ và cặn kẽ, thì quý thầy phải hiểu đó là những lời cuối cùng khi Đức Phật nhập Niết Bàn. Ngài rất là lo cho chúng ta đời sau không có cái ông thầy mà nhắc đi, nhắc lại những cái lời này để chúng ta nhớ mãi mà không quên, để lấy cái ông thầy đúng, cái ông thầy của chúng ta.

(01:05:55) Nhưng mà vì người sau họ làm lệch lạc mất đi, rồi chúng ta thấy giới bổn tức là giới luật, mà thấy pháp mà Phật dạy tu hành là pháp, cho nên đó là những cái họ làm cho lệch. Rồi bây giờ người ta bị lệch rồi người ta không biết là giới luật là những giới nào, mà giáo pháp của Phật là cái nào họ chẳng biết.

Cho nên bây giờ Thầy hợp lại để chúng ta thấy giới luật là giáo pháp của Phật. Mà giới luật thì nó có giới hành, cho nên nó không phải là rời ra gọi là giáo pháp mà là giới hành. Bởi vì giới hành là cái hành động giới để chúng ta đạt được những cái giới mà cái giới nó đã nêu lên, để chúng ta đạt được những cái hạnh và cái đức và cái tuệ của cái giới luật.

Đó, thì hôm nay thì quý thầy đã qua những cái lời di chúc của Phật như vậy thì quý thầy đã nắm rõ và vững vàng, trong những cái lời di chúc này thì nó nằm ở trong kinh Di Giáo hoặc là kinh Du Hành, hoặc là kinh Niết Bàn, những cái lời này đều nó còn nằm ở trong những cái bản kinh đó.

4- BỐN CÁCH NHẬP THAI DO BỐN MỨC ĐỘ TỈNH THỨC

(01:07:02) Bây giờ Thầy nhắc đến cái chỗ mà vì cái vấn đề tu tập về cái giáo pháp thiện này là cái mục đích nó ly cái tâm ham muốn của chúng ta ra, chúng ta thấy nó lìa cái tâm ham muốn của mình ra, mà nó lìa các cái ác pháp ra.

Bởi vì pháp của pháp thiện thì ác pháp nó phải không được xâm nhập vào, cho nên do cái nguyên nhân cái lòng ham muốn nó mới sanh ra ác pháp, mà cái lòng ham muốn không có thì ác pháp nó không có, cho nên phải ly dục.

Mà ly dục được thì ác pháp nó không còn có nữa thì nó toàn là thiện pháp, mà toàn thiện pháp thì nó là Phật - Pháp - Tăng. Đó chúng ta trở về cái bản gốc của nó là Phật - Pháp - Tăng.

Cho nên vì vậy mà chúng ta lấy cái chỗ ly dục, ly bất thiện pháp này chúng ta mới biết được cái chỗ tái sanh luân hồi của mình.

Bởi vì mình không ly dục, ly ác pháp thì nó luôn luôn nó phải tái sanh luân hồi à, nó không làm sao mà nó thoát khỏi được, mà mình ly dục, ly bất thiện pháp thì nó mới có cái chấm dứt được sự tái sanh luân hồi.

Nhưng bây giờ như thế nào để mà chúng ta biết nó:

Có bốn cách nhập thai:

Nghĩa là chúng ta sanh ra nó có bốn cách nhập thai chớ không phải một cách. Bởi vậy cho nên phân tích ra để mà chúng ta thấy rõ nè:

1. Người phàm phu nhập thai thì không biết mình nhập vào bụng mẹ, không biết mình trụ ở trong bụng mẹ, và không biết mình ra khỏi bụng mẹ.

Đó là loại nhập thai thứ nhất.

Đó Đức Phật - cũng như bây giờ quý thầy biết quý thầy vô bụng mẹ quý thầy đâu có biết! Mình vô mình cũng không biết, rồi mình nằm ở trong đó mình cũng chẳng biết, rồi mình đi ra mình cũng chẳng biết, họ đẻ ra, họ đẻ chớ còn mình cũng chả biết gì hết.

Rồi bắt đầu tới chừng mà mình biết được thì mình khóc thét lên đó, thì chắc chắn là có thể nó ngộp thở làm sao đó chịu không nổi mới la lên đặng cho thở cho được đó, chớ còn hồi đó chắc cũng chưa biết gì hết.

Đó, lúc đó là lúc mê muội, ngu si không có tỉnh. Cho nên vì vậy mà mình ly được cái phần nào thì mình tỉnh cái phần nấy.

Đây bây giờ Đức Phật nói cái phần thứ hai để cho người mà biết như thế nào gọi là như thế nào:

2. Lại nữa, có người tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định.

Đó bây giờ chúng ta biết cái tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định là cái gì, tỉnh thức chớ gì? Đó quý thầy thấy.

Họ có đủ sức thức tỉnh, khi chết đi họ biết mình nhập thai vào bụng mẹ.

Có sức tỉnh rồi bắt đầu chết đi nhập vào bụng mẹ, thì cũng như mấy ông Lạt Ma mà quý thầy nghe nói mấy ổng là chết đi rồi mấy ổng biết mấy ổng sanh nước này, nước kia đồ vậy đó, mấy chú nhỏ sanh ra mà biết.

Đó là mới có tỉnh thức thôi, mới có Tỉnh Giác Định thôi, chớ mấy ổng có cái gì hay ho đâu! Đó để chứng minh cho chúng ta biết cái điều đó phải không?

(01:09:22) Họ có đủ sức tỉnh thức, khi chết đi họ biết mình nhập thai vào bụng mẹ, nhưng không biết mình an trú trong bụng mẹ, và không biết mình ra khỏi bụng mẹ.

Đó là loại nhập thai thứ hai.

Phải không? Cho nên cái sức tỉnh thức nó làm cho mình cũng có ly bớt dục rồi, bởi vì người ta chửi mình cũng bớt giận. Còn cái người mà chưa có tỉnh thức, người ta chửi mình, mình ăn thua đủ, mình đâu có nhịn ai. Phải không?

Mình tỉnh thức thì mình biết nhịn rồi, tức là mình có nhẫn rồi, tức là có ly rồi đó, phải không? Ly bớt được cái tâm sân, si, phiền não của mình rồi. Đó là ly một phần nhỏ của ly dục, ly bất thiện pháp đó, cho nên nó mới có sức tỉnh đây. Đó là loại thứ hai.

3. Người tu tập Định Vô Lậu, tâm tỉnh thức rất cao và Ngũ Triền Cái xả ly nên khi chết biết mình nhập thai vào bụng mẹ.

Khi mình chết rồi, mình biết nhập vào chỗ nào mình biết. Đó là bắt đầu ông này đã được một phần tỉnh thức cao hơn, cho nên mới xả được Ngũ Triền Cái, lậu hoặc nó đã - người này là tu cái Định Vô Lậu.

Hồi nãy là cái người tu cái định Tỉnh Giác Định - Chánh Niệm Tỉnh Giác Định đó. Còn bây giờ cái ông này hơn chút là ổng tu cái Định Vô Lậu, cho nên cái tâm nhờ cái Tỉnh Giác Định đó đó, Chánh Niệm Tỉnh Giác Định đó, ổng mới xả được cái lậu hoặc của ổng, cho nên Ngũ Triền Cái này ổng xả ly. Phải không?

Cho nên khi chết thì ổng nhập thai vào bụng mẹ thì ổng biết, ổng biết rất rõ.

…​ an trú trong bụng mẹ…​

Ông cũng biết nữa.

…​ nhưng không biết mình ra khỏi bụng mẹ.

Khi mà sanh ra thì chắc bộ hồi đó ổng quay đầu, ổng điên đầu, ổng hết biết rồi, còn hồi ổng nằm ở trỏng thì ổng biết, nhưng mà khi ổng quay đầu để sanh ổng ra đó, chớ còn nếu không quay đầu thì đẻ ngược sao, còn khổ ổng nữa. Cho nên khi mà quay đầu ra chắc dộng ngược cái đầu ổng ra đó, ổng điên cái đầu, ổng giờ ổng hết biết rồi, ổng mê rồi.

Cũng như cái người chết mà lúc gần chết rồi mê man không biết gì nữa đó, thì chắc là lúc sanh ra chắc cũng mê man, thì cái ông này mới có xả được cái triền cái chút ít, cho nên vì vậy mà ổng cũng còn mê chứ chưa có hoàn toàn.

Đó, như vậy là ổng mới xả ly - mới ly dục, ly bất thiện pháp ít ít thôi chứ chưa phải được nhiều, cho nên vì vậy đó mà nó còn cái chỗ mê muội, nó chưa có hết.

4. Có người ly dục, ly bất thiện pháp, khi thân hoại mạng chung biết mình nhập thai vào bụng mẹ, biết mình an trú trong bụng mẹ, và biết mình ra khỏi bụng mẹ.

Đó là nhập thai thứ tư.

Các con thấy, chỉ có ly dục, ly bất thiện pháp không thì mình vô bụng mẹ biết nè, an trú trong đó biết, thì như vậy rõ ràng là chúng ta đi vào con đường Tứ Thiền chứ gì? Cho nên chúng ta muốn thoát sanh có khó không? Quý thầy thấy không?

Bởi vì đầu tiên mà chúng ta đi vào Tứ Thiền thì phải ly dục, ly bất thiện pháp mới nhập Sơ Thiền, phải không? Nhập Sơ Thiền, từ đó cái con đường chúng ta đi, là hoàn toàn đi tới Tứ Thiền là hoàn toàn là ly dục, ly bất thiện pháp hết, toàn thiện, sạch bóng.

(01:12:09) Cho nên cái người này phải nói bắt đầu từ cái Sơ Thiền mà họ đi vào. Họ đi vào cho nên vì vậy mà họ muốn thoát sanh chớ gì? Dễ quá, cái chuyện đó dễ quá, cho nên muốn làm chủ sanh tử nó quá dễ rồi, đâu còn khó nữa, chỉ điều khiển nó.

Bây giờ coi cái nhà nào đó dùng cái - ở trong đó mình dùng cái Thiên Nhãn Minh của mình mình nhìn chớ gì, coi cái nhà nào mà có duyên phước với mình để mình đến mình độ cái gia đình đó luôn cả cha mẹ trong đó luôn hết, anh em dòng họ đó hết, cái mình nhào vô đó cái bắt đầu mình tái sanh.

Thì vô đó mình nhập bụng người ta thì mình đi chớ ai mà - nghiệp ở đâu mà lôi mình, phải không? Mình ly hết dục rồi thì đâu có cái nghiệp nào mà lôi mình được, đâu có ác pháp nào lôi mình đâu, cho nên tự mình đi.

Cho nên ở đây Phật nói: Có người ly dục, ly bất thiện pháp, khi mà thân hoại mạng chung biết mình nhập thai vào bụng mẹ. Biết mình - ở đây Thầy nói biết chớ không phải là đâu, mình nhập thai chớ không phải biết đâu!

Đó, mình tự tại, mình ở trong bụng mình nằm đó, mình muốn nó ba năm là ba năm, mình muốn hai năm là hai năm, mình muốn một ngày nó ra nó cũng ra nữa, phải không?

Đó là cái tự tại của mình mà, chớ đâu phải là - cái quyền lực của mình, mình muốn điều khiển như thế nào, cho nên toàn bộ là khi sanh ra thì mình cũng biết, mà khi nhập vào thì mình cũng biết, khi ở trong đó mình cũng biết, mình tỉnh táo. bởi vì cái sức tỉnh táo quá cao.

Cho nên chúng ta mới thấy: Tứ Thiền mà chúng ta ngồi đây mà như ngủ gục thì làm sao gọi Tứ Thiền? Cho nên người mà nhập Tứ Thiền là người ta hoàn toàn là người ta không có ngủ, ngày đêm người ta không có ngủ, người ta nằm đặt niệm trước mặt người ta tỉnh thức đó, mà người ta ngủ, ngủ mà không mê, cho nên luôn luôn lúc nào cũng biết.

Vì vậy mà khi mình nhập vào Tứ Thiền rất là tỉnh, trời sét không nghe mà vẫn biết rõ ràng, vẫn hẳn hòi đàng hoàng, mà muốn nghe thì nghe mà không muốn nghe thì không nghe. Đó là cái chỗ siêu việt của đạo Phật là như vậy.

Cho nên khi mà chúng ta tu hành mà chúng ta được đến cái chỗ này thì cái sự tự tại sanh tử chúng ta rất dễ dàng.

Và vì vậy mà chúng ta đọc qua bốn cái nơi mà đi tái sanh này, chúng ta thấy rõ được từ cái Tam Bảo này mà nó lưu xuất ra cái thiện pháp, cho nên chúng ta từ ở trong ba cái pháp thiện này mà chúng ta ly dục.

Ly dục tức là chúng ta đi gần về cái thiện pháp rồi, càng ngày càng xa ác pháp rồi. Cho nên cái tâm dục mà càng ly thì cái ác pháp nó càng xa,cho nên nó càng ly ác pháp.

Và đến khi mà toàn thiện thì tức là ly dục, ly bất thiện pháp, cho nên tâm nó thanh tịnh. Tâm thanh tịnh từ đó chúng ta có phải ức chế tâm đâu mà chúng ta đi vào Tứ Thiền một cách rất là tự tại, vì vậy mà chúng ta rất rõ ràng.

Cũng như bây giờ quý thầy ngồi đây mà quý thầy hít thở với cái hơi thở bình thường của quý thầy, mà bắt buộc cho nó đừng có nghe, đừng có biết hơi thở để mà nhập Sơ Thiền thì quý thầy có làm được không? Đâu có được!

Bởi vì tâm quý thầy còn dục nè, tâm quý thầy còn ác pháp nè, làm sao mà thanh tịnh được! Cho nên thở nó cứ - hễ ngồi đây mà không vọng tưởng thì cứ biết hơi thở, nó không rời ra.

Mà thở nhẹ nữa thì thở không được, bởi vì thở có ba giây làm sao thở nhẹ nữa được. Chớ không phải thở mười giây, hai chục giây thì mình thở, mình không thấy hơi thở được, còn đằng này thở cứ ra vô, ra vô liên tục vầy mà biểu nó đừng nghe làm sao nó đừng nghe? Vậy mà người ta nhập Sơ Thiền người ta không nghe!

(01:15:13) Đó thì quý Thầy thấy cái phương cách và cái sự tu tập của đạo Phật nó hay là hay ở cái chỗ này nè. Cho nên chúng ta tu sai là sai mà tu đúng là đúng à. Người tu sai là thấy sai biết liền mà người tu đúng là tu đúng biết liền.

Cho nên hiện thí dụ như bây giờ - mặc dù là bây giờ Thầy nói thí dụ như ở đây, như thầy Thiện Thuận nè, thầy Minh Tông nè, mặc dù là Thầy biết rằng cái Sơ Thiền chưa nhập được, nhưng mà Thầy bảo rằng các ngài đang tập cái sức tỉnh thức đó, nghĩa là tập sao mà cho đừng ngủ, phải không?

Mà khi không có ngủ thì tức là si hết, mà si hết thì Ngũ Triền Cái thì ly dục, ly bất thiện pháp sạch thì tức là nhập Sơ Thiền được. Mà nhập Sơ Thiền được thì Tam Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền quý thầy làm cái rẹt, phải không?

Cho nên chúng ta thấy coi vậy chớ quý thầy đang phá cái si đó, đang tập cho mình tỉnh thức đó. Hàng ngày các thầy đang nỗ lực để tu tập cái gì? Phải không? Các thầy phải hiểu chỗ đó.

Còn quý thầy bây giờ chưa chắc đã làm được như Minh Tông, như Thiện Thuận đâu, phải không? Vì mình chưa có đủ cái sức của mình để mà mình tập cái tỉnh thức đó được, mình nằm xuống mình hít thở ba, bốn hơi thở thì nó đi tuốt luốt rồi, nó mất tiêu.

Còn người ta còn được một giờ, hai giờ người ta nằm - còn được sáu, bảy tiếng đồng hồ người ta nằm đó mà người ta biết hơi thở ra vô, thì đó là sức tỉnh của người ta. Cho nên người ta phá được cái chiêm bao, mà phá được chiêm bao tức là người ta ly được mười tám cái loại tưởng của người ta rồi, chớ còn không khéo thì nó cứ lọt trong chiêm bao không.

Mà bây giờ người ta đã bị những cái trạng thái đó vật tới, vật lui người ta vô cùng tận chớ đâu phải, nhưng vậy người ta đang tập luyện cái đó để mà người ta phá cái si, mà tham, sân, si, là cái si nó rất quan trọng, si không có thì tham nó không có mà sân nó hết, cho nên Ngũ Triền Cái nó quét ra hết.

Các thầy phải hiểu chỗ đó. Đó là cái mấu chốt người ta để đi vào để người ta ly dục, ly bất thiện pháp. Phải hiểu không?

Cho nên vì vậy nghe thì nói các thầy này chưa có ly dục, ly bất thiện pháp, chưa có ly. Sự thật bây giờ họ chưa ly là tại vì họ còn đang ở trong cái sức tỉnh chưa đủ, chớ mà họ tập riết một thời gian nữa thì họ đủ.

Đó, thì như vậy là quý thầy thấy cái chỗ mà tu tập của đạo Phật nó quá rõ ràng và cụ thể, chớ nó không phải mơ hồ đâu. Mà cái người tu nào Thầy thấy chỗ nào đúng chỗ nào sai Thầy biết hết.

Cho nên Thầy xác định bây giờ, như Minh Tông nè, như Thiện Thuận chưa nhập được Sơ Thiền. Bởi vì các ngài thường là tu tập hơi thở từ nào tới giờ, chứ chưa có biết là cái Định Vô Lậu hay hoặc cái định Chánh Niệm Tỉnh Thức này.

Nhưng mà chính cái Chánh Niệm Tỉnh Giác này nó giúp cho chúng ta cái sức tỉnh thức, nó làm cho chúng ta nằm ngủ mà nó không bị mê tức là phá si mê chớ gì? Quý thầy thấy rõ không?

Mà bây giờ thì những người này họ đang tập để mà phá cái ngủ của họ, tức là phá cái si. Mà phá niệm si được thì minh chớ gì? Do đó lậu hoặc tham, sân, si họ sẽ quét sạch ra. Hễ nó có cái đó rồi nó hết, nó tỉnh rồi thì cái đó nó phải ra thôi, nó phải ly thôi chớ nó không còn ở trong tâm chúng ta được nữa.

Đó. Cho nên từng đó thì bây giờ chúng ta thấy nó cụ thể và rõ ràng của đạo Phật. Cho nên nó đâu có lỗi thời, quý thầy đó tu không mất chỗ nào hết.

Cũng như quý thầy bây giờ tập luyện hơi thở cũng đâu có mất cái chỗ nào đâu. Nhưng mà phải biết cái chỗ nào là chúng ta đang đi để mà phá cái đó cho được, chớ không khéo rồi chúng ta không hiểu rồi chúng ta tu nó riết rồi nó cũng lệch mất đi.

5- KINH NGHIỆM HỌC HỎI GIÁO PHÁP CỦA NGÀI A NAN

(01:18:16) Đó những điều mà Thầy nói. Ở đây hôm nay Thầy thêm một cái đoạn này để chúng ta thấy được cái lộ trình của kinh nghiệm của các bậc Thánh Tăng ngày xưa, từ các cái vị Thánh Tăng từ ông A Nan cho đến ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên, mỗi cái vị đều có kinh nghiệm, mà hôm nay Thầy trích ra một phần kinh nghiệm của ông A Nan nói trước.

Bởi vì ông A Nan là người đa văn mà ông chưa chứng đạo cho nên phải thấy cái chỗ tu của ổng trước để mà lấy kinh nghiệm của ổng, phải không? Rồi sau đó mình mới lấy kinh nghiệm của những bậc mà người ta đã tu xong, tu chứng quả A La Hán mình mới được - mình với tới chớ.

Còn mình lấy cái ông cao quá rồi mình đem lại cứu mình thì mình nhìn lại: Mình còn xa quá làm sao mình với cho được tới những kinh nghiệm của ông này?

Đó, cho nên vì vậy mà Thầy biết cách Thầy sắp xếp cho từng bậc Thánh Tăng, những người nào mà tu ở giai đoạn nào để cho nó phù hợp với mình. Thì bắt đầu chúng ta sẽ bắt đầu cái vị Thánh Tăng thứ nhất là ông A Nan.

Ông này cuối cùng Đức Phật chết rồi ổng mới chứng đạo lận, cho nên ổng chẳng biết cái thứ gì mà nói về kinh nghiệm mà chứng đạo trước được, mà ông chỉ biết nói cái kinh nghiệm của ổng trong khi theo Phật mà thôi.

Vậy thì đầu tiên chúng ta theo Phật là phải như thế nào, thì giờ phải giống ông A Nan chớ sao, phải không? Chớ đâu thể nào mà giống ông Mục Kiền Liên được!

Vậy thì bây giờ đây là cái câu chuyện ở trong cái kinh:

Trong rừng Gosinga.

Đây là một cái bài kinh trong cái bộ kinh Trung Bộ tập một, trang 463, bài kinh số 32.

Hôm nay thì tất cả những cái bài kinh mà Thầy bổ túc thêm cho cái giáo án này, Thầy đều nói trang, nói họ, nói tên cho đầy đủ để sau khi đó quý thầy mới trích lục ra đọc lại cái bài kinh đó cho nó cụ thể và rõ ràng. Phải không, cho nên khỏi cần phải đi tìm kiếm cho nó nhiều.

Còn Thầy giảng mà như trong đó Thầy không có nói kinh nào, kinh nào - mặc dù đó là hoàn toàn là những bài kinh của Phật hết chớ không phải là của Thầy nói ra, nhưng mà vì không có chỉ cho nó ở cái chỗ cái bài kinh nào, cuốn kinh nào, thì làm như là các thầy mà đi tìm ra những cái chỗ đó là quá khó.

Cho nên ở đây Thầy muốn vạch ra chỗ này để sau này để quý thầy đi tìm lại những cái bài kinh đó.

Bài kinh này nói lên những kinh nghiệm của các vị đại đệ tử của Đức Phật. Xin quý thầy lắng nghe để rút tỉa kinh nghiệm của các Ngài rồi tu tập cho chính mình.

Bây giờ:

Tôn giả Xá Lợi Phất nói:

Này hiền giả A Nan!

Ông hỏi ông A Nan đó.

Khu rừng Gosinga đêm nay trăng rằm sáng tỏ tuyệt đẹp, cây Ta-la trổ bông cùng khắp, hương trời bay tỏa khắp nơi.

Này hiền giả A Nan, hạng Tỳ Kheo làm chói sáng khu rừng Gosinga này như thế nào?

Bây giờ, cái ông Xá Lợi Phất ổng cũng chơi cắc cớ là trong cái đêm đó chắc có lẽ là trăng sáng quá rồi mấy ổng cũng ngồi, cũng là đem những cái chuyện đạo đồ để mà họp nhau bàn bạc cái kinh nghiệm để mà tu tập đó, thì lúc bấy giờ thì ông Xá Lợi Phất mới hỏi ông A Nan trước:

“Vậy thì ông nghĩ như thế nào? Trong cái khu rừng mà đẹp như thế này, trăng sáng như thế này nè, hương của bông cây Ta-la nó bay khắp như là hương trời làm chúng ta thấy ngào ngạt mùi hương.

Vậy thì người tu sĩ chúng ta làm sao cho cái khu rừng Gosinga này nó lại sáng chói lên nữa, nó đẹp hơn nữa, cái sức tu hành của chúng ta làm sao cho nó đẹp hơn nữa!”

(01:21:38) Thì bây giờ ông A Nan ổng đã trả lời. Bây giờ quý thầy thì lắng nghe những cái kinh nghiệm mà Đức Phật khéo sắp xếp cái bài kinh này cho hợp đường lối tu tập của Phật - của đạo Phật, bắt đầu phải tu cái gì trước, đó thì ông A Nan trả lời là tức là lấy kinh nghiệm…​

Chúng ta phải hiểu cái ý đó. Vì có hiểu được như vậy chúng ta mới lắng nghe để mà chúng ta rút tỉa những cái kinh nghiệm từ của ông A Nan rồi đến những cái bậc kế đó, những cái bậc mà tu gần gần ông A Nan đó, rồi những cái bậc tu xa hơn. Đó những cái kinh nghiệm rất hay.

Mà cái bài kinh này Thầy đọc Thầy thấy ông Phật cũng khéo ổng sắp xếp cái bài kinh này để mà chỉ cho chúng ta từng cái thấp cho đến cái cao trong cái quá trình mà tu tập theo cái đạo của Ngài.

Bắt đầu phải tu cái gì? Đây ông A Nan trả lời:

Ở đây này hiền giả Xá Lợi Phất, Tỳ Kheo nghe nhiều…​

Ông A Nan bắt đầu ổng nói. Bởi vì ổng là người nghe nhiều mà, thành ra ổng lấy kinh nghiệm của ổng, ổng nghe nhiều ổng nhắc chúng ta chớ gì!

Tỳ Kheo nghe nhiều, giữ gìn những điều đã được nghe…​

Nghĩa là phải nhớ giữ gìn những cái điều mà Phật nói, mình nghe hết, đừng có bỏ cái nào hết. Ông A Nan theo kinh nghiệm ổng mà, ổng bảo mình phải nghe cho nhiều, Phật nói gì mình phải nghe, đừng có không nghe, đừng có thiếu, đừng có bỏ, mà nghe cho nhiều.

Và giữ gìn những cái gì mình được nghe, chớ đừng có nghe rồi lỗ tai bên nây nó chui qua bên kia mất đó, cho nên cái đó là cái không nên.

…​ tích trữ lại những điều đã được nghe.

Đó ông A Nan ổng khuyên, cái đầu tiên ổng khuyên mình đó. Tức là ổng lấy kinh nghiệm của ổng, ổng nói ra mà, ổng nói ra như vậy.

Thì chúng ta biết rằng, muốn làm cho cái rừng Gosinga này nó sáng chói lên thì trước tiên là chúng ta làm vị Tỳ Kheo thì chúng ta phải nghe nhiều, và giữ gìn những cái điều mà đã được nghe, và tích tụ lại những cái điều đó, điều được nghe đó.

Vậy ở đây ông A Nan muốn bảo chúng ta nghe cái gì mà phải nghe nhiều, giữ những điều gì đã được nghe, tích tụ những điều gì đã được nghe, vậy nghe cái gì đây?

Đó, mình đặt ra câu hỏi: Ông bảo mình nghe, mình phải giữ gìn và nghe cái gì đây?

Quý thầy nghe ông A Nan nói tiếp:

Những pháp…​

Đó bây giờ ông A Nan ổng nói đây. Đây là những cái bài kinh mà, chớ đâu có phải! Bởi vì ông bảo mình nghe nhiều mà nghe cái gì đây? Không lẽ rồi mình nghe nào là Tứ Thiền, nào là Tứ Niệm Xứ hay hoặc cái này kia, lung tung đủ thứ, nghe cái đó có đúng không?

(01:24:11) Cho nên ổng bảo nghe - cái kiểu mà ổng bảo nghe đây là nghe cái gì? Vì vậy đó cho nên mình phải biết nghe những cái pháp, chớ còn nếu mà không biết nghe thì biết cái gì đây?

Cho nên ông A Nan ổng nói tiếp:

Những pháp Sơ Thiện, Trung Thiện, Hậu Thiện…​

Đó là ổng xác định cho mình nghe, nghe cái pháp gì? Nghe pháp Sơ Thiện, nghe cho kỹ, nghe cho rõ ràng. Rồi nghe cái pháp Trung Thiện, nghe cho kỹ, nghe cho rõ ràng. Và Hậu Thiện cũng phải nghe cho kỹ, nghe cho rõ ràng. Và nghe rồi thì phải giữ gìn và tích tụ, những cái điều nghe đó đừng có để quên.

Đó thì ông biểu như vậy đó.

…​ văn nghĩa phải đầy đủ…​

Nghĩa là nghe phải văn, phải nghĩa cho nó đầy đủ.

…​ Phạm hạnh phải được nói lên hoàn toàn thanh tịnh.

Nghĩa là khi nghe rồi đó thì những cái Phạm hạnh đó thì mình phải được nghe, mà được nói lên những cái Phạm hạnh nó phải thanh tịnh như thế nào, làm sao cho nó được thanh tịnh ở trong những cái pháp này.

Những pháp ấy quý vị phải được nghe nhiều, giữ gìn lấy, được lặp đi, lặp lại nhiều lần, lớn tiếng…​

Ở trong này thì ông A Nan bảo mình lặp đi, lặp lại, lớn tiếng.

…​ được ý tứ, duy trì, được tri kiến khéo quan sát.

Nghĩa là nghe những cái pháp đó rồi, mình phải lặp đi, lặp lại, mà lặp lớn tiếng nữa, rồi phải ý tứ duy trì những cái tri kiến đó, những cái sự hiểu biết đó, rồi còn phải quan sát, khéo quan sát nó nữa.

Vị ấy nói pháp cho bốn hội chúng…​

Nghĩa là khi mà mình hiểu đã biết rồi như vậy đó, thì mình đem ra mình lặp lại cho bốn hội chúng người ta nghe.

…​ văn cú viên dung, lưu loát, với mục đích khiến người hiểu biết đoạn trừ mọi tùy miên.

Cái mục đích của ông đó, là khi mình nghe, mình hiểu biết vậy rồi đó, thì mình làm sao mà giúp cho người ta đoạn trừ mọi cái tùy miên. Như Thầy đã dạy cho quý thầy có bảy cái tùy miên đó mà, phải không? Chớ không phải đây thùy miên đâu nhen! Bảy cái tùy miên chớ không phải là một.

Do vì vậy đó, cái mục đích của ông A Nan ở đây là khi nghe nhiều, hiểu nhiều, là ở trong cái pháp Sơ Thiện, Trung Thiện, Hậu Thiện, tức là pháp thiện của Phật, toàn thiện đó, lấy cái pháp thiện đó mà làm sao mà cho đoạn dứt bảy cái tùy miên.

Đó là cái mục đích của ông A Nan, chớ ổng không có nói thiền, nói đạo gì hết. Nghĩa là lấy cái pháp thiện đó mà đoạn dứt tùy miên, làm cho cái tâm mình nó đừng miên man ở trong đó, nghĩa là đừng có nối tiếp.

(01:26:27) Thí dụ bây giờ mình ham ngủ tức là thùy miên rồi đó, phải không? Mình vọng tưởng gọi là trạo cử tùy miên đó, tùy miên nó liên tục, nó nghĩ lăng xăng cái này cái kia, phải dứt cái đó đi. Rồi bây giờ sân tùy miên, sân mà nó cứ kéo dài ngày này qua ngày khác, nó tùy miên đó.

Còn ham muốn cái gì đó mà không chịu dứt nó ra đó, thì nó kéo, nó làm sao mà cho đến khi mình mua sắm được cái đó đó, gọi là tùy miên đó, nó lôi mình hoài đó, gọi là tùy miên. Chẳng hạn là thèm cái đó, thèm cái bánh hay cái trái gì chưa ăn được cứ nhớ hoài đó, nó gọi là tham tùy miên đó.

Đó nó kéo dài mình hoài đó. Mình nghi người nào đó, mình cứ nghi người ta ăn trộm hoài đó, thì đó là nghi tùy miên. Còn cái ngã của mình ai đụng tới nó sừng ra đó, thì đó là ngã tùy miên, nó làm cho bự ra đó, đó là nó tùy miên, nó lôi mình hoài mà mình không chịu chấm dứt.

Cho nên bây giờ đó, mình học Sơ Thiện, Hậu Thiện, Trung Thiện này để mục đích của mình là đoạn dứt mấy cái tùy miên này.

Đoạn dứt nó có hết không? Nó chưa có hết! Ông A Nan thì ông nói đoạn dứt như vậy là ngay cái mình giận mình biết: À bây giờ nó tùy miên cái giận này, bây giờ mình đừng có giận nữa nè, không có giận nữa nè!

Giận là nó tùy miên, cho nên nó cứ làm miên mật, nó làm cho liên tục cái sự giận của mình, kéo dài ngày này, cái mặt cứ buồn buồn hoài đó là nó tùy miên ở trong đó chớ gì?

Cho nên bây giờ: “Vui lên, không có được giận nữa! Giận như vậy là tùy miên, phải đoạn dứt nó đi!” - thì như vậy nó có hết giận không? Chưa, phải không? Cái ông A Nan - cái kinh nghiệm ổng bây giờ mới có dứt sơ sơ được cái - dứt tùy miên sơ sơ thôi.

Đó quý thầy thấy ông A Nan, ổng dạy cách tu chúng ta đơn giản không? Đâu có khó gì, giận: “Thôi bây giờ đừng giận nữa! Giận khổ chớ làm gì giận!” Mình nói vậy cái nó cũng bớt giận chút chút, tức là nó bớt tùy miên chút đó! Đó là cái lối của ông A Nan dạy.

Như vậy nó cũng làm sáng chói được cái khu rừng Gosinga này, phải không? Các con thấy, nó bớt được cái đó nó làm sáng chói chớ gì, tức là có giải thoát trong đó rồi!

Đến đây Thầy xin dừng lại để quý thầy suy ngẫm. Đó, bây giờ đó mình suy ngẫm cái giai đoạn đầu đi, rồi ngày mai này mình sẽ học thêm được cái của người khác nữa, phải không? Bắt đầu để mình suy ngẫm chớ. Còn nếu mà Thầy đưa ra một lố kinh nghiệm, bắt đầu quý thầy không biết cái kinh nghiệm nào hết!

Bắt đầu mình dứt sơ sơ cho nó bớt tùy miên chút đi, thì đó là cái đầu tiên. Mà cái đó phải nghe nhiều, rồi phải tích tụ những cái sự nghe ở trong các pháp, - pháp thiện: Sơ Thiện, Hậu Thiện, Trung Thiện.

Đó, thì như vậy chúng ta thấy cái kết quả của sự tu tập chưa? Mà bây giờ Thầy nói nhiều quá thì tức là quý thầy sẽ mất đi.

6- NÊN VIẾT RA GIẤY ĐỂ THƯA HỎI KINH NGHIỆM TU TẬP

(01:28:52) Và bây giờ thì tiếp tục là quý thầy - nếu mà quý thầy không có hỏi gì thì Thầy tiếp tục ở trong cái bài giảng, mà nếu quý thầy có hỏi thì chúng ta sẽ ngưng lại đây mấy phút để mà thưa hỏi những cái điều kinh nghiệm tu tập. Bây giờ chấm dứt chút đi.

Theo Thầy thiết nghĩ thì quý thầy nên viết một cái - thí dụ như muốn hỏi Thầy trong cái kinh nghiệm tu hành nào đó, thì để cho nó có cái lợi ích chung về sau đó, thì quý thầy sẽ viết trong cái tờ giấy hỏi những câu hỏi:

“Con bữa nay hay là ngày mai, hay ngày mốt, hay là hôm qua, hôm kia gì đó, con tu tập cái trường hợp mà con thấy vậy có đúng hay sai”, hoặc “Con hiểu qua cái bài Thầy giảng đó như vậy, vừa rồi đó, thì con hiểu cái đó nó như thế nào, thế nào, có đúng hay là sai?” Vì vậy mà do đó nó sẽ làm sáng tỏ thêm trong cái giáo án của chúng ta hơn.

Và cũng là trong cái lúc mà chúng ta đang có những cái phút mà gần bên Thầy để thưa hỏi những cái kinh nghiệm tu tập, cho nên do đó mà ghi lại những cái lúc mà mình tập ở trong hơi thở ổn định, hay hoặc là nhiếp tâm ở trong cái hơi thở để cho mình giúp cái tỉnh thức của mình, để cho nó phá được cái buồn ngủ, để cho nó phá được cái si mê.

Hoặc là tu những cái Định Vô Lậu mà đặt cái niệm - cái pháp hướng đó, để mình dùng cái pháp hướng để mà quét sạch những cái lậu hoặc của chúng ta, thì có nhiều người đặt sai, mà cũng có nhiều người đúng.

Cho nên những cái đặt sai, đặt đúng này được Thầy minh xác lại để mà chỉ định cho nó đúng, sai, rồi cũng rút tỉa từ kinh nghiệm đó, thì quý thầy dễ dàng nhận ra được.

Đó, vì vậy cho nên quý thầy có thể lấy một cái tờ giấy hay hoặc là ghi lại ở trong cái tập giấy của mình, cũng là lưu lại những cái kỷ niệm tu hành của mình chớ gì, thì do đó quý thầy cứ để cái tập giấy sau khi những cái buổi giảng vầy đó, thì quý thầy có hỏi gì đó thì quý thầy cứ để cái tập giấy lên đây, thì Thầy sẽ lật ra cái trang đó, Thầy sẽ thấy hỏi thưa vậy, Thầy sẽ trả lời.

Do đó thì chúng ta lại được thu vào băng, và đồng thời cũng là cái kinh nghiệm sống để cho quý thầy tu tập, và cũng là người sau. Nó có lợi ích cho mình và cho người sau sau này rất lớn./.

HẾT BĂNG